" Tuyển Tập Truyện Ngắn Stefan Zweig - Stefan Zweig full prc pdf epub azw3 [Truyện Ngắn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Stefan Zweig - Stefan Zweig full prc pdf epub azw3 [Truyện Ngắn] Ebooks Nhóm Zalo Tuyển tập truyện ngắn Stefan Zweig Dịch giả: PHÙNG ĐỆ - LÊ THI Đánh máy: MT84 - vnthuquan. Tạo ebook: 4DHN Mục Lục LỜI GIỚI THIỆU AMOK HAY LÀ BỆNH ĐIÊN XỨ MALAIXIA BỘ SƯU TẬP VÔ HÌNH NGƯỜI NỮ GIA SƯ NGÕ HẺM DƯỚI ÁNH TRĂNG MENĐEN, NGƯỜI BÁN SÁCH CŨ MỘT TRÁI TIM TAN NÁT THIÊN TÀI CỦA MỘT ĐÊM CHINH PHỤC NAM CỰC BẢN BI CA MARIENBAT KHÁM PHÁ ENĐÔRAĐÔ CON ĐƯỜNG ĐI CALIPHOOCNIA ĐẤT HENVÊXI MỚI NHÁT CUỐC RỦI RO ĐỔ XÔ ĐẾN VỤ KIỆN KẾT CỤC GIÂY PHÚT MANG TẦM THẾ GIỚI CỦA TRẬN OATECLÔ LỜI GIỚI THIỆU Xtêfan Xvaig (Stefan Zweig) là một trong những ngôi sao chói lọi trên nền trời văn học thế giới nửa đầu thế kỷ 20, người mà Rômanh Rôlăng gọi là “một nghệ sĩ bẩm sinh”, và là tác giả của những tác phẩm thấm sâu “lòng nhân ái kỳ diệu đối với con người” (M. Gorki). Ông sinh ngày 18-11-1881 tại Viên, trong một gia đình trí thức Áo. Viên, lúc bấy giờ là thủ đô của đế quốc Áo Hung, một trong những trung tâm “nghệ thuật mới” ở châu Âu. Tập thơ đầu Những sợi dây đàn bằng bạc (1901) của ông thuộc dòng văn học “chủ nghĩa hiện đại”, miêu tả sự cô đơn và tình yêu khắc nghiệt pha trộn lòng tôn sùng cái đẹp “thuần tuý”. Ngoài ra, Xvaig còn dịch nhiều tác phẩm văn học. Trong thời gian này, say mê du lịch, ông đã sang nhiều nước Tây Âu, Ấn Độ, chăm chú xem xét đời sống văn hoá các dân tộc. Việc làm quen với những tác phẩm văn học lớn dần dần giúp ông thoát khỏi ảnh hưởng của “Nghệ thuật mới”. Thoạt đầu, ông say mê thơ của Emin Vêraren, nhà thơ lớn người Bỉ. Sau, ông tiếp xúc với nền văn học Nga, và từ đó đánh dấu một cái mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nhà văn Nga có ảnh hưởng lớn nhất đối với ông là Đôxtôeipxki. Ông tìm thấy ở Đôxtôeipxki những giá trị tinh thần và tư tưởng thân thiết với ông. Đồng thời ông rất cảm phục nhân cách của Đôxtôeipxki, xúc động về số phận của nhà văn Nga vĩ đại. Năm 1917, tập truyện ngắn Những cảm xúc đầu tiên ra đời gồm những truyện ông viết trong thời gian mười năm. Vấn đề chủ yếu ông đề cập là vấn đề đạo đức (Người nữ gia sư, Điều bí mật day dứt...). Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ khiến Xvaig bàng hoàng. Không muốn là một nhân chứng thụ động trước những biến cố tàn khốc, ông viết nhiều bài cổ vũ tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc châu Âu và cùng với R. Rôlăng, ông kêu gọi nhân dân các nước đứng lên chống lại chiến tranh đế quốc. Năm 1916, ông viết vở bi kịch “Jêrêmya”, biểu lộ lòng căm ghét của ông đối với chiến tranh. Ông chào mừng tác phẩm “Lửa” của H. Bacbuyt, coi đó chẳng những là một bản tuyên ngôn của tư tưởng tự do và tinh thần phản chiến, mà còn là một sự đổi mới về mặt nghệ thuật. Năm 1919, khi H. Bacbuyt tổ chức nhóm “Ánh sang” với mục đích tuyên truyền cho chủ nghĩa quốc tế và đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, Xvaig, lập tức gia nhập. Trong tổ chức này có những nhà văn Cộng sản tiến bộ như R.Rôlăng, H. Wenxơ, P. Vayăng Cutuyriê và nhiều nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng khác... Trong những năm 20, ông viết một số truyện ngắn xuất sắc và một loạt truyện ký tiểu sử - lịch sử. Năm 1938, những truyện ký quan trọng nhất thuộc loại này được tập hợp thành một bộ riêng, mang tên là Những người kiến tạo thế giới. Trong những truyện ký loại này, cũng như trong những truyện danh nhân viết dưới hình thức tiểu thuyết, Xvaig quan tâm đến Thế giới nội tại của các nhân vật xuất sắc nhiều hơn là đến hoàn cảnh xã hội lịch sử của họ. Điều đó đôi khi dẫn ông đến chỗ phóng đại vai trò của cá nhân trong lịch sử. Sau khi Hitle chiếm chính quyền, ở Đức, các tác phẩm của Xvaig, nhà nhân đạo chủ nghĩa chống chiến tranh và phát xít, bị cấm lưu hành. Khi nước Áo bị chiếm đóng, sau vụ Angsơlutsơ, Xvaig phải rời bỏ tổ quốc sang Braxin lánh nạn. Năm 1938, ông viết cuốn Magienlăng ca ngợi hành vi dũng cảm của những con người thám hiểm. Thời gian lưu vong, ông còn viết cuốn “Braxin, đất nước của tương lai”. Năm 1941, tác phẩm hồi ký Thế giới ngày hôm qua ra đời. Đối với Liên Xô, Xtêfan Xvaig chào mừng Cách mạng tháng Mười, cho đó là một sự kiện lịch sử cực kỳ vĩ đại, nhưng do nhận thức hạn chế, ông coi đó là một hiện tượng dân tộc. Năm 1928, ông sang thăm Liên Xô và gặp Maxim Gorki. Ông mến phục Gorki, coi Gorki là niềm tự hào của giai cấp vô sản và là vinh dự của châu Âu. Giữa hai nhà văn đã có sự trao đổi thư từ thân mật. Khi Đức tấn công Liên Xô, Xvaig chăm chú theo dõi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Xô Viết và trong hồi ký của mình, ông thuật lại chuyến sang thăm Liên Xô của ông với tình cảm nồng hậu, thắm thiết. Ngày 22-2-1942, dằn vặt trong nỗi đau tha hương, sống xa tổ quốc, ông đã tự sát. Trong thư tuyệt mệnh, ông viết: “Ở tuổi sáu mươi mà làm lại cuộc đời cần phải có những sức lực đặc biệt. Tôi đã sức cùng lực kiệt sau bao năm dài đằng đẵng sống phiêu bạt tha hương. Bởi thế tôi cho rằng tốt nhất là tôi nên từ giã cõi đời này một cách xứng đáng; đối với tôi, hạnh phúc cao nhất trên đời là tự do và lao động trí óc, cái đem lại cho tôi niềm vui sướng lớn lao. Tôi gửi lời chào tất cả các bè bạn. Có thể là các bạn sẽ nhìn thấy bình minh sau đêm dài tăm tối. Tôi là kẻ nôn nóng nhất, tôi xin ra đi trước”. Ra đi, ông vẫn tin chắc rằng chủ nghĩa phát xít sẽ thất bại và tương lai sẽ thuộc về một chủ nghĩa nhân đạo mới. Xvaig sáng tác thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện ký danh nhân và lịch sử, viết khảo luận, phê bình văn học... Tuy nhiên, thành công lớn nhất của ông là trong loại truyện ngắn và truyện ký danh nhân hoặc lịch sử. Tập truyện này chọn lọc một số truyện ngắn xuất sắc của ông về hai thể loại nói trên. Là một nghệ sĩ tin tưởng ở chủ nghĩa nhân đạo, mang một tâm hồn nhạy cảm, cởi mở và dịu dàng, sống và sáng tác trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào chủ nghĩa đế quốc, Xvaig đã nhận ra được tính vô nhân đạo của xã hội tư bản và dĩ nhiên ông đã tố cáo cái xã hội đó trong các truyện của mình. Trước hết, Xvaig lên án xã hội tư bản về mặt tinh thần đạo đức. Dưới mắt Xvaig, đạo đức tư sản là thứ đạo đức giả dối, hai mặt, chỉ dùng để che giấu sự thật tàn nhẫn, đồi bại của đời sống thực. Trong Người nữ gia sư và Điều bí mật day dứt, qua cái nhìn hồn nhiên, ngay thật, nhân hậu của trẻ thơ, cuộc sống gia đình tư sản bề ngoài, tưởng như êm đẹp, mực thước nhưng thực chất là ngầm chứa những cái giả dối, bất công. Hai em bé gái tình cờ biết được câu chuyện thương tâm về cô gia sư mà người lớn tìm hết cách giấu chúng. Chúng phẫn nộ về cách xử sự tàn nhẫn của cha mẹ chúng đối với cô giáo, chúng mất hết lòng tin vào người lớn, ghê sợ cuộc đời mà từ nay chúng hình dung như một khu rừng tối tăm, ghê rợn. Chú bé Etga khiếp sợ khi khám phá ra rằng người mà chú yêu quý nhất đời, tin tưởng vô hạn - người mẹ thân yêu của chú - hóa ra cũng có thể làm những trò lừa dối thấp hèn. Sự khác biệt giữa những chuẩn mực đạo đức của xã hội tư sản với những gì diễn ra thực tế hàng ngày là một khía cạnh đáng ghê tởm, nó phá hoại ghê gớm tâm hồn con người, khiến con người hoặc sẽ trở nên thù địch với xã hội, hoặc chính mình cũng phải xử sự giả dối nếu muốn thích nghi với cái xã hội đó. Với con mắt quan sát sắc sảo, Xvaig nhìn thấy rõ xã hội tư sản là một xã hội chia rẽ con người và cả lớp người. Thói ích kỷ làm cho con người đâm ra nhẫn tâm, quên cả nghĩa vụ. Trong Amôk, ta thấy diễn ra một trận quyết đấu về tinh thần giữa một người đàn bà giàu sang và một viên bác sĩ ở xứ thuộc địa. Người đàn bà kia coi viên bác sĩ như mọi thứ mà bà ta có thể “mua” được. Ngược lại, lòng tự ái và sự thèm muốn đã khiến viên bác sĩ mưu toan lợi dụng thế bí của bà ta để làm nhục lòng kiêu hãnh của người đàn bà. Mỗi người trong hai nhân vật đó đều mang trong mình cả cái ác và cái thiện, hoàn cảnh xã hội đã làm cho cái ác chiến thắng. Song, trong thiên truyện “đượm mùi máu, cơn sốt và bệnh điên xứ Malaixia” này (R.Rôlăng), vẫn có một điều làm cho tấn bi kịch nặng nề mang chút ánh sáng: lương tâm làm cho con người vẫn còn là con người, ngay cả trong khi nó lâm vào một tình cảnh không lối thoát, và con người đã hành động theo tiếng nói của lương tâm, dù không xoay chuyển nổi tình thế, nhưng vẫn không để hoàn cảnh nô dịch mình. Thói sùng bái đồng tiền, coi đồng tiền là giá trị cao nhất của vạn vật đã giết chết những tình cảm thiêng liêng của con người, đã khiến người chồng trong Ngõ hẻm dưới ánh trăng vô tình làm nhục phẩm giá người vợ, đẩy người vợ của mình xuống vực thẳm của thảm họa. Xalômôxôn trong Một trái tim tan nát suốt đời lo kiếm tiền để vợ con sống trong cảnh giàu sang, nhưng rút cuộc cái hạnh phúc mà ông ta săn đuổi chỉ là điều hão huyền. Vợ con khinh rẻ ông, chỉ coi ông như một cái máy kiếm tiền vì ông thiếu học vấn, kém hào hoa phong nhã. Ông sống một mình cô đơn giữa cái “tổ ấm gia đình” và chết vì cõi lòng tan nát. Giàu sang và hạnh phúc không phải là hai khái niệm đồng nhất, mà nhiều khi chống đối nhau. Trong cái xã hội mà mỗi người là một hòn đảo biệt lập, ngay cả trong tình yêu nam nữ, thứ tình cảm mãnh liệt gắn bó hai con người với nhau nhiều khi cũng không thể đem lại sự đồng cảm về tâm hồn mà chỉ để lại sự luyến tiếc hoặc nỗi thất vọng đắng cay (“Một trò chơi nguy hiểm”, “Lá thư của người đàn bà không quen biết”). Lối sống phù phiếm của những kẻ thuộc tầng lớp có của làm cho con người mất cả nhân tính. Nhân vật trong “Một đêm kỳ quái” không hề phải lo đến miếng ăn hàng ngày, cũng không có một trách nhiệm xã hội nào, anh ta sống không mục đích, dửng dưng với số phận của mọi người. Chỉ trong một đêm, tiếp xúc với những người ở dưới đáy xã hội, thấy được những bất công ghê gớm, anh ta mới hiểu rằng toàn bộ cuộc sống trước đó của anh ta thật là trỗng rỗng và nghèo nàn một cách thảm hại. Qua các truyện ngắn, Xvaig đã phê phán xã hội tư sản một cách sâu sắc. Nhưng do quan điểm chính trị hạn chế của ông, sự phê phán đó vẫn chỉ xuất phát từ một thứ chủ nghĩa nhân đạo còn mang tính chất chung chung, trừu tượng. Các mối xung đột giữa con người với xã hội được miêu tả tinh tế, sống động, có bề sâu, nhưng mũi nhọn sự phê phán thường tập trung vào mặt tinh thần đạo đức nhiều hơn là vạch ra những mâu thuẫn xã hội. Nói cách khác, ông phê phán cái tinh thần của xã hội tư sản hơn là phê phán chính bản thân xã hội tư sản. Hành động của các nhân vật được lý giải rất tinh vi về mặt cảm xúc - tâm lý, nhưng không phải bao giờ chúng cũng được đặt trong sự gắn bó hữu cơ với những mối dây quan hệ xã hội đã sản sinh ra chúng. Điều đó phần nào đã làm yếu chủ nghĩa hiện thực của Xvaig, mặc dù ông có tài quan sát chính xác. Nghệ thuật điển hình hóa trong việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật sinh động, mang những đặc trưng rõ rệt của hoàn cảnh, chứng tỏ rằng ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Xvaig quan niệm con đường cải tạo xã hội không phải kinh qua những biện pháp cách mạng, mà bằng cách tu dưỡng đạo đức, khơi gợi lòng trắc ẩn, tình thương, từ tâm đối với con người. Truyện Nỗi kinh sợ là một truyện biểu hiện nổi bật khuynh hướng hiện thực đồng thời cũng cho thấy khuynh hướng thỏa hiệp của ông: một nữ nhân vật đã đi ngoại tình vì chán ngán cuộc sống phong lưu nhưng tẻ nhạt, làm mất bản sắc con người. Nhưng thái độ kiên nhẫn, rộng lượng của người chồng đã đưa người vợ trở lại với đời sống gia đình êm ấm. Sự ca ngợi lòng nhân ái, coi đó là cái cứu vãn mối quan hệ ghẻ lạnh giữa người và người được thể hiện trong truyện Hai mươi tư giờ trong đời một người đàn bà. Sự hy sinh của nữ nhân vật dám vượt qua mọi khuôn khổ đạo đức, để cứu một gã trai tuyệt vọng sắp liều đời chỉ là một biểu hiện của lòng thiện, nhưng Xvaig coi đó là một liều thuốc có thể làm dịu những mâu thuẫn gay gắt của xã hội tư bản. Nhìn chung, các truyện của Xvaig đều vẽ nên một bức tranh với nhiều màu sắc u ám, chết chóc, nhiều đau thương. Đó cũng là bức tranh thực của xã hội tư sản đang thời kỳ bế tắc. Trong cảnh bế tắc ấy, những con người chính trực, có tấm lòng hồn nhiên đôn hậu, có tình cảm chân thành đều được Xvaig miêu tả bằng một ngòi bút thiết tha, trìu mến (các nhân vật trẻ em trong “Người nữ gia sư”, Menđen, trong truyện ngắn cùng tên...). Đặc biệt, Xvaig có thái độ hết sức trân trọng và thương cảm đối với “thân phận người đàn bà” trong cái xã hội mà phụ nữ vốn rất bị coi rẻ. Nữ nhân vật trong Ngõ hẻm dưới ánh trăng tuy phải đi làm cái nghề nhục nhã, nhưng về mặt tinh thần, nàng đứng cao hơn kẻ đã đẩy nàng xuống vực thẳm: nàng vẫn là con người biết tự trọng, kiêu hãnh giàu tình cảm, khao khát tự do cá nhân. Nhân vật nữ trong Lá thư của người đàn bà không quen biết cũng là một hình tượng đẹp, làm người đọc cảm động. Trong lời tựa cho bản dịch tuyển tập tác phẩm của Xvaig sang tiếng Nga, M.Gorki viết về truyện này như sau: “Tôi chưa từng biết một nghệ sĩ nào có thể viết về phụ nữ với tấm lòng trân trọng và trìu mến đến như thế”. Trong thư riêng gửi Xvaig, đề ngày 18- 9-1923, Gorki viết rằng khi đọc truyện này ông “cười lớn vì vui mừng: anh viết hay quá chừng” và “khóc không hề biết hổ thẹn vì thương xót người đàn bà trong truyện”. Quả thực, tình yêu của người phụ nữ ấy là một tình yêu say đắm, trọn vẹn, trong trắng - không vì tiền, không vì tình dục, một tình yêu đầy hy sinh. Nàng vẫn giữ tâm hồn trinh bạch ngay cả khi phải bán mình để nuôi con, trái tim trước sau vẫn chỉ dành cho một người. Tính đam mê của tình yêu không làm mất đi cái vẻ đẹp tình cảm chung thuỷ của nàng. Số phận bi thảm của nàng càng làm nổi bật sức mạnh của tình yêu và của lòng tự trọng. Một số truyện ký danh nhân và lịch sử ở đây rút ra từ tập Những giờ hồng phúc của nhân loại. Tác phẩm này gồm một loạt những bức họa nhỏ, tái hiện những khoảnh khắc hiếm hoi, trọng đại trong sự sáng tạo của các cá nhân lỗi lạc, hoặc trong tiến trình của lịch sử. Quả là “tất cả những gì chân chính, bất diệt mà người nghệ sĩ sáng tạo được đều chỉ diễn ra trong những khoảnh khắc ngắn ngủi và hiếm hoi” (Thiên tài của một đêm, Bản bi ca Marienbat). Một khoảng thời gian cực ngắn có thể dồn chứa cơ man nào là sự kiện bình thường xảy ra trước đó và nó là sự đột biến về chất của những tích lũy về lượng. Trong công cuộc tìm kiếm sáng tạo, đôi khi thất bại của những cá nhân kiệt xuất cũng có giá trị như những thành tựu, vì nó kích thích tinh thần dũng cảm và sáng tạo của cả một dân tộc hay của toàn nhân loại (Đấu tranh giành Nam cực). Mỗi khám phá của cá nhân lỗi lạc hay của lịch sử bao giờ cũng phải trả giá bằng những đau khổ và hy sinh. Cái giá ấy như thế nào là tùy ở hoàn cảnh thuận lợi nhiều hay ít. Một số truyện về lịch sử chinh phục các vùng đất mới cũng cho thấy rõ “Tư bản ra đời đầm đìa những máu và bùn nhơ ở khắp mọi lỗ chân lông của nó” (C. Mac). Trong những kỳ tích hay sai lầm của cá nhân mà Xvaig miêu tả ở đây, hành động của cá nhân bao giờ cũng gắn liền với hoàn cảnh cụ thể, thường là ở những bước ngoặt lịch sử. (Thiên tài của một đêm, Giây phút mang tầm cỡ thế giới). Hoàn cảnh ngặt nghèo có khi lại thúc đẩy con người phát huy hết khả năng tiềm tàng trong bản thân, hướng những năng lực đang ngủ yên hoặc bị dùng chệch hướng vào con đường thực hiện những khám phá có tầm quan trọng lịch sử. Trong những truyện kể loại này, Xvaig tôn trọng tính chân thực trong việc trình bày các sự kiện, nhưng ông không làm công việc của nhà viết sử, mà tập trung chủ yếu vào việc miêu tả tính cách, ý chí, tài năng, diễn biến nội tâm các nhân vật. Điều đó làm câu chuyện trở nên hấp dẫn. Đồng thời, qua những truyện này, ta có thể thấy rõ thái độ quý trọng sâu sắc của tác giả đối với những giá trị văn hóa và những thành tựu tinh thần của con người. Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Xvaig bộc lộ ở đây cũng có phần chưa đúng. Ông có phần nào phóng đại vai trò của cá nhân quan trọng dẫn đến thất bại của Napôlêông trong trận Oateclô, nhưg dù sao đấy vẫn không phải là nguyên nhân quyết định vận mệnh của châu Âu. * * * Rômanh Rôlăng nhận xét về Xtêfan Xvaig: “Xvaig yêu bằng trí tuệ và hiểu bằng trái tim”. Hai đặc điểm này kết hợp một cách nhuần nhuyễn trong từng tác phẩm của ông. Về mặt nghệ thuật, điều trước tiên là tài kết cấu truyện của ông thật điêu luyện, bất cứ truyện nào của ông cũng có một sức lôi cuốn lạ lùng. Người đọc hồi hộp theo dõi sự phát triển tình tiết một cách căng thẳng; kịch tính trong số phận của các nhân vật mỗi lúc một tăng, cho đến khi câu chuyện kết thúc một cách bất ngờ mà vẫn hợp lý. Nhưng sức hấp dẫn đó không phải là do đề tài mới lạ, tình huống dị kỳ, mẫu người hiếm có. Trái lại, đề tài phần nhiều khá quen thuộc, cốt truyện chẳng mấy ly kỳ (Người nữ gia sư, Lá thư của người đàn bà không quen biết..., Hai mươi tư giờ trong đời một người đàn bà). Vậy thì sức hấp dẫn đó là do đâu? Trước hết là vì trong cái bình thường hàng ngày, Xvaig biết phát hiện ra những xung đột ngấm ngầm đầy kịch tính. Sự hấp dẫn trong câu chuyện về cô gia sư chính là ở những diễn biến bí ẩn trong tâm hồn hai đứa trẻ dẫn đến sự xung đột không thể hòa giải giữa chúng với cha mẹ chúng và với thế giới của người lớn, nhưng những xung đột ấy lại không bộc lộ một cách công khai. Các truyện của Xvaig triển khai không dựa vào các biến cố, mà chủ yếu là theo sự diễn biến tâm lý, những giao động nội tâm, sự bùng nổ của dục vọng. Xvaig là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lý của nhân vật. Ông nhìn thấy và đã phơi bày ra những sợi dây tâm lý tinh vi nhất trong tâm hồn các nhân vật và cho ta thấy sự đan kết phức tạp giữa những tình cảm trái ngược diễn ra cùng một lúc trong một con người (chẳng hạn, cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà Anh và viên bác sĩ tại nhà ông ta). Thủ pháp miêu tả tâm lý của Xvaig luôn luôn thay đổi, nhiều hình nhiều vẻ: sự miêu tả trực tiếp của tác giả, cử động của nhân vật, ngữ điệu của nhân vật phản ánh qua những thay đổi ngấm ngầm trong tâm hồn của họ, nhận xét của người thứ ba được nghe kể lại hoặc chứng kiến sự việc... Vì vậy cách miêu tả và phân tích tâm lý của Xvaig có sức thể hiện tình cảm rất mạnh và đạt hiệu quả thẫm mỹ rất lớn. Có thể nói ông có sự đóng góp mới mẻ, quan trọng cho văn học về mặt này. Tuy nhiên, việc quá say mê phân tích tâm lý, nghiên cứu tỉ mỉ và tái hiện những cảm xúc hết sức khó nắm bắt của nhân vật đôi khi cũng làm thiệt hại đến sự miêu tả tính cách nhân vật. Nhưng dù sao, mỗi truyện của Xvaig đều là một cấu tạo hài hòa, cân đối, trong đó mỗi chi tiết đều gắn bó với các chi tiết khác một cách hữu cơ. Sự nghiệp sáng tác của Xtêfan Xvaig, phong phú và đa dạng. Lần này, bước đầu, chúng tôi chỉ mới giới thiệu một truyện vừa (Amok) một ít truyện ngắn và ký của ông và hy vọng trong thời gian tới sẽ có thể giới thiệu các tác phẩm của ông nhiều hơn nữa. PHẠM MẠNH HÙNG AMOK HAY LÀ BỆNH ĐIÊN XỨ MALAIXIA Tháng 3 năm 1912 ở cảng Naplơ, trong lúc bốc dỡ hàng của một chiếc tàu lớn xuyên Đại tây dương, đã xảy ra một tai nạn lạ lùng mà báo chí đưa tin rộng rãi, nhưng vẽ rắn thêm chân cũng nhiều. Tuy là hành khách của chiếc tàu Oxênia đó, bản thân tôi cũng không chứng kiến gì nhiều hơn các hành khách khác về sự kiện lạ lùng này, bởi vì sự kiện xảy ra vào ban đêm, khi tàu ăn than và dỡ hàng hóa. Hơn nữa, để tránh sự ồn ào, tất cả chúng tôi đều lên bộ tiêu khiển thời giờ trong các quán cà phê hay các rạp hát. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, một số giả thiết mà ngày ấy tôi không đưa ra công khai, chứa đựng sự giải thích chân thực câu chuyện cảm động này; và bây giờ, đã nhiều năm trôi qua, vì vậy hẳn là tôi được phép sử dụng một câu chuyện tâm tình mà tôi được nghe ngay trước khi xảy ra biến cố lạ lùng đó. * * * Khi ở hãng hàng hải Canquýtta, tôi muốn mua vé dành trước một chỗ trên tàu Ôxênia để trở về châu Âu, người nhân viên nhún vai, tỏ ý rất tiếc: ông ta không dám chắc có thể giữ cho tôi một buồng, bởi vì vào thời gian đó, tức là sắp đến mùa mưa, thường thường tàu đã chật ních từ khi rời Ôxtralia (Australia).Và ông ta phải chờ một điện tín từ Xanhgapo cho biết rõ tình hình rồi mới trả lời tôi được. Hôm sau, ông ta báo cho tôi tin mừng là có thể dành cho tôi một chỗ, thực ra đấy chỉ là một căn buồng chẳng tiện lợi mấy, ở dưới boong tàu, vào khoang giữa. Vì nôn nóng muốn trở về nước, tôi không đắn đo lâu và nhận lấy căn buồng. Người nhân viên không nói dối, tàu chở quá nặng và căn buồng thật là tồi tệ: đó là một cái hộp vuông chật hẹp nằm chẹt bên cạnh đầu máy và chỉ được hưởng chút ánh sáng lờ mờ lọt qua khung cửa tròn bên hông tàu. Không khí đặc sệt tù hãm, nồng nặc mùi dầu và mùi mốc: người ta không thể, dù chỉ trong một phút, thoát khỏi tiếng ù ù của chiếc quạt điện như một con dơi bằng thép phát điên phát cuồng quay tít ngay trên đầu. Bên dưới, máy tàu thở phì phò, rên rỉ như một người vác tải than thở hổn hển không ngừng lên xuống mãi một cầu thang. Và ở bên trên, liên tiếp có tiếng chân người dạo chơi đi đi lại lại trên boong. Bởi vậy, liền sau khi đã mang chiếc rương đặt vào cái thứ nhà mồ nồng nặc đó, có vách ghép bằng những thanh ngang màu xám, là tôi chạy trốn ngay lên boong. Vừa lên khỏi hầm sâu, tôi hít thở ngọn gió từ đất liền thổi tới trên các làn sóng. Nhưng boong tàu cũng khó chịu và ồn ào không kém: đám người đi dạo chơi chen chúc, nhộn nhạo, bồn chồn nóng nảy vì bị giam hãm, bị đẩy vào tình trạng “nhàn cư”, họ hết đi lên lại đi xuống, tán gẫu không ngớt. Tiếng cười đùa ríu rít của phụ nữ, cái cảnh người đi lại không dứt trên hành lang hẹp của boong tàu, ở đó hành khách đổ dồn đến trước những chiếc ghế bành trong tiếng trò chuyện ầm ĩ, ai nói người ấy nghe - tất cả những điều đó không hiểu sao khiến tôi bứt rứt trong người. Tôi vừa chu du qua một thế giới mới lạ đối với tôi và còn giữ lại trong tâm trí một loạt hình ảnh chen lấn nhau trong một nhịp điệu điên cuồng. Lúc này tôi muốn suy nghĩ lại tất cả những gì đã nhìn thấy, gạn lọc và sắp xếp lại cho có thứ tự, định hình cho cái thế giới huyên náo đã ồ ạt tràn vào mắt tôi; nhưng ở đây, trên cái đại lộ đông nghịt những người là người này, không sao có một phút nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nếu cầm sách đọc thì những dòng chữ sẽ nhòa đi bởi những bóng đen chuyển động hỗn độn mà đám người đang say chuyện, luôn luôn qua lại hắt xuống trang sách. Khó có thể tĩnh tâm được một chút trên cái hành lang đó của con tàu, một thứ đường phố không bóng rợp, tấp nập người qua lại. Suốt ba ngày, tôi cố tìm một chút vắng vẻ và nhẫn nại nhìn ngắm đám người và biển cả. Nhưng biển lúc nào cũng vẫn thế, xanh ngắt và hoang vắng, chỉ trừ lúc mặt trời lặn, mặt nước đột nhiên ngời lên những màu sắc sặc sỡ như ánh lửa pháo hoa; còn về con người thì tôi nhẵn mặt tất cả sau 3 lần 24 tiếng đồng hồ. Mỗi khuôn mặt đối với tôi đều trở nên quen thuộc đến chán ngấy; cả tiếng cười ré lên của phụ nữ cũng như cuộc tranh cãi ồn ào của hai viên sĩ quan Hà Lan ở cạnh tôi đều không làm tôi chú ý. Tôi chỉ còn cách trốn biệt đi chỗ khác, nhưng căn phòng của tôi thì nóng bức và ngột ngạt, còn trong phòng khách, mấy thiếu nữ người Anh không ngừng dạo dương cầm, những bài nhạc làm tội lỗ tai người khác, đệm cho những điệu vanxơ ngang phè. Cuối cùng, tôi cương quyết đảo lộn cách sắp xếp thời gian, và xuống buồng ngay từ lúc xế chiều, sau khi đã làm vài cốc bia cho chuếch choáng để có thể ngủ được trong khi mọi người đi ăn và khiêu vũ. Khi tôi thức giấc, tất cả đều tối om và ẩm ướt trong chiếc quan tài nhỏ, tức là căn buồng của tôi. Vì tôi đã tắt quạt, không khí đặc sệt và ẩm ướt làm thái dương tôi nóng bừng. Các giác quan tôi như còn ngái ngủ: phải mất nhiều phút sau tôi mới nhận biết bấy giờ là lúc nào và tôi đang ở đâu. Chắc chắn là đã quá nửa đêm, bởi vì không còn nghe thấy tiếng nhạc lẫn tiếng chân người bước liên tục nữa. Chỉ có chiếc đầu máy, trái tim hụt hơi của con quái vật khổng lồ vẫn hổn hển không ngừng, đẩy thân tàu tiến lên đè lướt sóng, dấn mình vào khoảng xa xăm mờ mịt. Tôi dò dẫm bước lên boong tàu. Ở đây vắng tanh. Và khi tôi ngước mắt nhìn cái trụ đang nhả khói của ống khói con tàu và các cột buồm thẳng đứng như những bóng ma, một làn ánh sáng lộng lẫy đột nhiên tràn ngập mắt tôi. Bầu trời sáng lấp lánh. Quanh những vì sao nhấp nháy những tia sáng trắng, vẫn là bóng đêm, nhưng dẫu sao bầu trời vẫn sáng chói. Có thể nói rằng một tấm màn nhung được căng ra chặn lấy luồng ánh sáng khủng khiếp, còn những vì sao chẳng qua chỉ là những vết nứt và những lỗ thủng của tấm màn nhung đã để cho ánh sáng chói không bút nào tả xiết ấy lọt qua. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một bầu trời như đêm hôm ấy, một màu xanh ánh thép nhưng lại hết sức rực rỡ, chói lọi, đầy tiếng xôn xao và tràn ngập ánh sáng, một thứ ánh sáng mờ ảo từ mặt trăng và các vì tinh tú rớt xuống và có thể nói là như được đốt lên từ một chiếc lò bí ẩn nào vậy. Tựa như một thứ sơn mài trắng, tất cả mọi đường nét của con tàu lấp lánh, lồ lộ dưới ánh trăng, trên nền nhung sẫm tối của mặt biển; thừng chão, trục buồm, mọi dụng cụ trên tàu, tất cả những đường viền đều biến mất trong khung cảnh huy hoàng lung linh đó: ánh sáng đèn trên những cột buồm và cao hơn nữa, bầu đèn tròn của chòi canh như treo lơ lửng trong khoảng không, như những ngôi sao nhợt nhạt của thế gian giữa những ngôi sao chói lọi của bầu trời. Ngay trên đỉnh đầu tôi, chòm sao chữ Thập phương Nam kỳ ảo bị đóng chặt vào cõi vô cùng bằng những chiếc đinh kim cương chói lòa, và hình như nó di chuyển, tuy thực ra chỉ có con tàu cho ta ảo giác vận động, con tàu nhẹ nhàng đu đưa, ngực thở hổn hển như một nhà bơi lội khổng lồ mở đường đi tới, lướt lên lướt xuống theo đà những ngọn sóng tối thẫm. Tôi đứng nhìn lên không trung, cảm thấy như mình đang tắm, nước nóng từ trên cao chảy xuống người, có điều là ở đây ánh sáng chảy trên hai bàn tay tôi, ánh sáng trắng và ấm, êm ái bao phủ lấy đôi vai và đầu và như muốn thấm vào cơ thể tôi, bởi vì bỗng nhiên tôi như tỉnh cơn mê. Tôi hít thở, cảm thấy được giải thoát và hoàn toàn thanh thản. Với một khoái cảm mới mẻ, tôi thưởng thức trên môi, như nếm một thứ nước uống trong veo, cái không khí êm dịu, trong vắt, ngây ngất men say vì thấm đượm hơi thở của trái cây và hương thơm từ những đảo xa đưa lại. Lúc này, lần đầu tiên từ khi tôi xuống tàu, một ước muốn thánh thiện xâm chiếm lấy tôi, ước muốn được mơ mộng - và một ham muốn khác, nhục dục hơn, làm cho tôi khao khát như một người đàn bà, được thả mình theo cái thú đê mê nó đang gò ép tôi từ bốn phía. Tôi muốn nằm dài ra, tầm mắt hướng về những tượng hình sáng trắng kia, nhưng những chiếc ghế bành ngồi nghỉ, những chiếc ghế tựa trên boong đã được cất đi hết cả, không có chỗ nào trên boong tàu vắng vẻ này để có thể thả hồn theo một mộng ước êm đềm. Vì vậy, vừa đi vừa dò dẫm tôi men dần đến mũi tàu, lóa mắt bởi thứ ánh sáng hình như từ những vật thể tỏa xuống mỗi lúc một thêm rực rỡ, để xâm nhập cơ thể tôi. Thứ ánh sáng đó của các vì tinh tú, trắng lạnh và chói lọi, đã làm cho tôi gần như đau đớn; nhưng tôi vẫn muốn ẩn mình vào chỗ nào trong bóng tối, nằm dài trên một chiếc chiếu, không còn cảm thấy bản thân mình, mà chỉ thấy bên trên thân thể mình, những tia phản quang ấy từ các vật thể, giống như người ta ngắm nhìn phong cảnh từ một căn phòng chìm trong bóng tối. Sau cùng, vừa đi vừa vấp vào thùng chão, vượt qua các dây sắt chằng cột buồm, tôi tới được thành tàu, đứng ngắm mũi con tàu tiến lên trong bóng tối, và ngắm ánh trăng như nước vọt lên và sủi bọt từ hai bên mũi nhọn con tàu. Chiếc cầy biển này không ngừng chồm lên rồi lại cắm sâu xuống lớp đất đen cuộn sóng, và trong cái trò chơi lấp lánh tia sáng này, tôi cảm thấy tất cả nỗi đau đớn của thiên nhiên bị chinh phục, tôi cảm thấy tất cả sự vui mừng của sức mạnh trần gian. Mải mê nhìn ngắm, tôi mất ý niệm về thời gian: tôi đứng tựa bao lơn tàu như thế đã một giờ hay chỉ mới trong vài phút? Con tàu lắc lư theo nhịp sóng, như chiếc nôi khổng lồ ru tôi và cuốn tôi vượt ra ngoài thời gian. Tôi chỉ còn cảm thấy một điều: sự mệt mỏi đến với tôi, cái mệt mỏi giống như niềm khoái lạc. Tôi muốn ngủ, muốn mơ màng, nhưng không muốn xa lánh cái hấp dẫn ma quái này, không muốn xuống chiếc quan tài của tôi. Bất giác chân tôi đụng phải một cuộn thừng. Tôi ngồi xuống đó, mắt nhắm nghiền, mà cũng không tràn đầy bóng tối, bởi vì ánh sáng trắng bạc vẫn tỏa xuống mắt tôi, xuống người tôi. Tôi cảm thấy ở phía dưới, nước róc rách dịu dàng, và phía trên tôi sự lướt trôi của thế gian này, sự lướt trôi chan hòa ánh sáng trắng bạc cùng với tiếng âm vang khó nhận thấy. Dần dà tiếng thầm thì đó len lỏi vào mạch máu làm tôi mất ý niệm về hiện hữu: tôi không còn biết hơi thở này của tôi hay đó là tiếng đập của trái tim con tàu: tôi bị cuốn đi và tan ra trong tiếng rì rào không ngừng của thế giới ban đêm. * * * Một tiếng ho khan khe khẽ vang ngay bên cạnh tôi làm tôi giật nảy mình. Tôi hốt hoảng choàng khỏi giấc mơ khiến tôi gần như say. Lóa mắt bởi thứ ánh sáng trắng chiếu rọi trên cặp mi vẫn nhắm nghiền từ lâu, tôi phải chớp chớp để cố nhìn vào nơi đó: ngay trước mặt tôi, trong bóng tối trên bao lơn tàu, lóng lánh như ánh phản chiếu của đôi tròng kính, tôi thấy một đốm lửa dầy đặc và tròn xoe lóe ra từ chiếc tẩu thuốc. Trước đây khi ngồi chăm chú nhìn mũi con tàu đầy bọt phía dưới hay chòm sao Thập tự trên đầu, rõ ràng là tôi đã không nhận ra sự có mặt của người bên cạnh vẫn ngồi không nhúc nhích ở đấy từ lâu. Trong lúc đầu óc còn mơ màng, bất giác tôi nói với anh ta: “Xin lỗi”. - “Không hề gì”, tiếng đáp thốt lên trong bóng đêm. Tôi không biết diễn tả cái tình trạng của chúng tôi ở cạnh nhau trong bóng tối, như chạm vào nhau mà không trông thấy nhau, nó vừa lạ kỳ lại vừa ghê rợn đến thế nào. Tự dưng tôi có cảm giác là người đàn ông đó đang nhìn tôi chằm chằm, cũng như mắt tôi đang nhìn anh ta chằm chằm, nhưng cái ánh sáng ở trên đầu chúng tôi, làn ánh sáng rập rờn trắng chói lọi ấy, nó mạnh đến nỗi chúng tôi nhìn nhau chỉ thấy người bên cạnh mình không khác gì một bóng đen lờ mờ trong đêm tối. Hình như tôi chỉ nghe thấy tiếng thở của anh ta và tiếng rít tẩu thuốc sè sè. Sự im lặng nặng nề không sao chịu đựng nổi khiến tôi định bỏ đi, nhưng tôi thấy làm như vậy đột ngột quá, sỗ sàng quá. Trong lúc lúng túng tôi rút một điếu thuốc lá. Diêm xòe lên và trong giât lát, ánh lửa lung linh rọi sáng khoảng không gian chật hẹp. Ngay lúc ấy tôi nhận ra, sau tròng kính, một khuôn mặt mà tôi chưa hề trông thấy trên tàu, cả trong bữa ăn, cả trong những lúc dạo chơi. Có thể ngọn lửa bất chợt làm lóa mắt, cũng có thể chỉ là một ảo giác, tôi cảm thấy khuôn mặt đó cực kỳ hoảng loạn, sầu thảm và như mặt một con quỷ dị hình. Nhưng trước khi tôi kịp nhận rõ chi tiết, bóng đêm lại nuốt chửng tất cả những đường nét mà ánh sáng đã soi tỏ trong một thoáng và tôi chỉ còn trông thấy một dáng hình rũ xuống trong đêm, và chốc chốc đốm lửa đỏ của tẩu thuốc lại lóe lên trong khoảng không. Chúng tôi ngồi đó, im lặng, cái im lặng nặng nề và bức bối như không khí vùng nhiệt đới vậy. Cuối cùng, không chịu nổi nữa, tôi đứng dậy và lễ phép nói: “Chúc anh ngủ ngon”. - “Chúc anh ngủ ngon”. Từ trong bóng tối có tiếng trả lời, giọng cứng rắn, khan lại, rè rè như bị han gỉ. Tôi bước đi một cách nặng nhọc, chốc chốc lại vấp vào những dụng cụ trên tàu và những tấm ván dầy. Nhưng sau lưng tôi có tiếng bước chân nặng nề, nhanh nhưng ngập ngừng. Đó chính là người đàn ông vừa rồi. Bất giác tôi đứng lại. Người đó không đến sát hẳn tôi, và trong bóng tối, tôi cảm thấy trong bước đi của anh ta hình như có một nỗi khắc khoải, đau buồn gì không rõ. - “Xin tha thứ cho tôi” - anh ta nói giọng dồn dập - “nếu tôi cầu xin ngài một điều, tôi... tôi...” - anh ta ấp úng và đành ngừng lời vì quá bối rối - “tôi, tôi có những lý do... riêng, hoàn toàn riêng tư, để lánh ra đây... Một cái tang... Tôi lẩn tránh sự giao tiếp trên tàu..., tôi không nói để ngài, không, không, tôi chỉ muốn cầu xin ngài... ngài. Tôi sẽ rất hàm ơn ngài nếu ngài không nói với ai trên tàu là ngài đã trông thấy tôi ở đây. Là vì... có những lý do riêng nó bắt buộc tôi lúc này... không được giao tiếp với người khác. Phải, lúc này... lúc này... sẽ rất rầy rà cho tôi nếu ngài nói rằng có một người ở đây, ban đêm, rằng tôi...” Anh ta lại nghẹn lời. Tôi vội vàng cam đoan với anh ta rằng tôi sẽ làm đúng như anh ta mong muốn, để anh ta hết bối rối. Chúng tôi bắt tay nhau. Rồi tôi trở lại căn phòng, lăn ra ngủ, một giấc ngủ nặng nề, thắc thỏm lạ kỳ và đầy rẫy những ảo ảnh hỗn độn. * * * Tôi giữ lời hứa, không hé môi với ai trên tàu về cuộc gặp gỡ kỳ lạ đó, mặc dầu tôi rất muốn nói ra, bởi vì trong một chuyến đi biển, việc nhỏ nhặt nhất cũng trở thành một biến cố: một cánh buồm ở chân trời, một chuyện trăng hoa vừa bị phát hiện, một câu bông phèng. Đồng thời tính tò mò hành hạ tôi: tôi muốn biết rõ hơn về con người hơi khác thường đó: tôi lục lọi danh sách hành khách để tìm cho ra một cái tên có thể là tên người đó; tôi điểm mặt hành khách như tuồng họ có thể quan hệ gì với anh ta. Suốt cả ngày, tôi bồn chồn sốt ruột, mong chóng đến tối để xem có gặp lại anh ta nữa không. Những bí ẩn tâm lý có một uy quyền đáng lo ngại đối với tôi; con người tôi bừng bừng nôn nóng muốn khám phá ra mối liên hệ giữa các sự vật, và chỉ riêng sự có mặt của những con người kỳ dị cũng làm nổi dậy trong tôi một thứ say mê tìm hiểu, không kém mãnh liệt so với thú nhục dục nơi người đàn bà... Ngày đối với tôi rất dài, nó tan biến ra giữa các ngón tay tôi, chẳng để lại chút gì ngoài sự trống rỗng. Tôi đi nằm sớm: biết mình sẽ thức dậy vào nửa đêm, cái chuyện lạ đó sẽ lôi tôi ra khỏi giấc ngủ. Và quả nhiên tôi tỉnh giấc đúng vào giờ hôm trước. Trên mặt chiếc đồng hồ dạ quang, hai chiếc kim chập lên nhau chỉ còn là một gạch sáng. Tôi vội vã bước ra khỏi căn buồng ngột ngạt để đến với một đêm tối còn ngột ngạt hơn. Những ngôi sao vẫn lấp lánh như đêm hôm trước và tỏa ánh sáng bàng bạc trên con tàu lắc lư. Rất cao trên bầu trời, chòm sao Thập tự phương Nam sáng chói. Tất cả đều như đêm hôm qua, bởi vì ở miền nhiệt đới, ngày và đêm đối nghịch nhau chừng mực hơn ở miền chúng ta; duy có cảm giác đu đưa, bồng bềnh và mơ màng như đêm trước là không còn trong tôi nữa. Có cái gì lôi cuốn tôi, làm cho tôi bối rối và tôi biết mình bị cuốn hút tới đâu: tới chỗ kia, chỗ chằng chịt một đám dây nhợ đen thui ở mạn tàu, để xem con người bí ẩn đó có còn ngồi bất động ở đó hay không. Phía trên vang lên tiếng chuông của con tàu; lúc đó tôi để mặc cho mình bị lôi cuốn đi. Bước từng bước một, bị giằng xé giữa sự chống cưỡng và lòng ham muốn, chân tôi cứ bước hoài. Chưa tới mũi tàu, bỗng nhiên tôi thấy xuất hiện cái gì như một con mắt đỏ lừ. Đó là chiếc tẩu thuốc lá. Vậy là anh ta ở đó rồi. Bất giác tôi rùng mình hoảng sợ và dừng lại. Thiếu chút nữa tôi đã bỏ đi. Nhưng kìa, trong bóng tối, có cái gì động đậy, đứng lên, bước hai bước, và đột nhiên, tôi nghe tiếng anh ta trước mặt tôi, vừa lễ độ, vừa buồn nản: “Xin lỗi” - anh ta nói - “Tôi thấy hình như ngài muốn đến chỗ hôm trước ngài đã đến và tôi có cảm tưởng rằng vừa nhận ra tôi, ngài định lảng tránh... xin ngài cứ yên tâm ngồi đây, tôi sẽ đi nơi khác”. Tôi khẩn thiết nài anh ta ở lại: tôi đứng ở phía sau là chỉ để khỏi làm phiền anh ta. “Ngài không hề làm phiền tôi”, - anh ta nói, giọng pha chút đắng cay, - “ngược lại, tôi sung sướng vì ít ra cũng được một lần không bị cô đơn. Từ mười ngày nay tôi chưa nói một câu nào. Thực tình, từ nhiều năm nay... và nếu cứ giữ mãi tất cả trong lòng thì thật là đau khổ, có lẽ chính điều đó nó làm nghẹt thở... Tôi không thể ở lại trong buồng, trong chiếc... quan tài đó... Tôi không chịu nổi nữa và tôi cũng không thể chịu đựng được đám đông, vì họ cười suốt ngày... Cái đó bây giờ, tôi không chịu nổi nữa. Ở tận trong buồng mà còn nghe thấy tiếng họ và tôi phải bịt tai lại. Rõ ràng họ không biết... Không, họ không biết... Vả lại, điều đó có nghĩa lý gì đối với những người ngoài cuộc...”. Anh ta dừng lại lần nữa và bỗng nhiên vội vã nói thêm: “Nhưng tôi không muốn quấy rầy ngài... xin ngài tha lỗi về câu chuyện phiếm của tôi.” Anh ta nghiêng mình và định bỏ đi. Nhưng tôi năn nỉ giữ anh ta lại. “Ông không hề quấy rầy tôi chứ. Tôi cũng vậy, tôi rất sung sướng được nói chuyện với ông ở đây, trong khung cảnh yên tĩnh... Ông hút với tôi điếu thuốc?”. Tôi châm lửa cho anh ta. Khuôn mặt anh ta lại hiện rõ trong bóng tối, lung linh trên cái nền đen của mạn tàu, nhưng lúc này anh ta quay hẳn về phía tôi: sau cặp kính, mắt anh ta háo hức dò xét khuôn mặt tôi, cặp mắt như bị kích động trong cơn mê sảng. Tôi rùng mình. Tôi biết rằng con người này muốn nói, anh ta phải được nói ra. Và tôi thấy mình cần lặng im để giúp anh ta nói ra. Còn một chiếc ghế tựa thứ hai trên boong; anh ta mời tôi ngồi. Chúng tôi ngồi xuống. Điếu thuốc của chúng tôi lấp loé. Cứ nhìn cái chấm sáng ở điếu thuốc của anh ta nhảy nhót cuồng loạn trong bóng tối, tôi biết là tay anh ta run. Nhưng tôi im lặng và anh ta cũng lặng im. Rồi bỗng nhiên anh hạ giọng hỏi tôi: “- Ngài mệt lắm phải không?” “- Không, tôi không mệt tí nào.” Giọng nói trong bóng tối lại ngập ngừng: “- Tôi cầu xin ngài một điều. Nghĩa là tôi... Giọng nói trong bóng tối lại ngập ngừng: “Tôi cầu xin ngài một điều. Nghĩa là tôi muốn kể cho ngài nghe... Tôi biết, về phần tôi... tôi biết, về phần tôi... thật là vô lý khi ngỏ lời như vậy với một người mới thoạt gặp... Nhưng mà tôi... tôi đang ở trong một trạng thái tâm thần khủng khiếp... đến mức mà nhất thiết tôi phải nói với một người nào đó, nếu không, tôi chết mất... Ngài sẽ hiểu tôi khi, vâng, khi tôi đã kể cho ngài nghe... Tôi biết rằng ngài sẽ không thể giúp đỡ tôi được, nhưng sự câm lặng này, làm cho tôi phát ốm... và người ốm thì bao giờ cũng lố bịch trước con mắt mọi người...” Tôi ngắt lời anh ta và xin anh ta đừng tự dày vò mình. Nếu anh ta rất muốn kể cho tôi nghe... Tất nhiên tôi không thể hứa với anh ta điều gì, nhưng ít ra tôi cũng có bổn phận bày tỏ thiện chí ít nhiều. Khi ta thấy một người nào lâm vào cảnh khốn quẫn, tất nhiên là ta phải giúp đỡ... “Bổn phận... bày tỏ ít nhiều thiện chí... nghĩa là bổn phận phải có... Vậy thì ngài cũng thế, ngài cũng nghĩ rằng người ta có một bổn phận nào đó, có bổn phận, có thiện chí giúp người khác mà”. Ba lần anh ta nhắc lại câu đó. Cái lối nhắc lại một cách mập mờ và ngớ ngẩn như vậy làm tôi sởn gai ốc. Người này điên chăng? Hay là say rượu? Nhưng, như thể điều ước đoán đó đã buột ra khỏi miệng tôi và anh ta đã nghe thấy, anh ta bỗng nói bằng một giọng khác hẳn. “Ngài cho rằng có thể là tôi say hoặc tôi điên chăng? Không, không phải thế. Tôi chưa đến nỗi thế... Có điều những lời ngài nói làm tôi xúc động lạ lùng... Rất lạ lùng, bởi vì chính điều đó đang dày vò tôi; tôi muốn biết rằng người ta có nghĩa vụ gì không?... Cái nghĩa vụ... Anh ta hãy còn ấp úng. Rồi anh ta ngừng bặt. Và lại nói tiếp: “- Ngài nên biết rằng tôi là thầy thuốc. Và đối với người thầy thuốc thường có những trường hợp như vậy, những trường hợp đến kinh khủng... phải nói là những trường hợp cấp bách mà ta không hiểu ta có nghĩa vụ hay không... Thực ra thì không phải chỉ là một nghĩa vụ duy nhất - nghĩa vụ đối với người khác - nhưng còn có nghĩa vụ đối với bản thân mình, nghĩa vụ đối với Nhà nước và một nghĩa vụ khác đối với khoa học... Phải sẵn sàng giúp đỡ người khác, nhất định là như vậy, đấy chính là nghĩa vụ của người thầy thuốc. Nhưng câu châm ngôn đó mãi mãi vẫn là lý thuyết... Quả vậy, ta phải sẵn lòng cứu giúp đến mức độ nào? Ngài là người ngoài cuộc, và đối với ngài, tôi là người xa lạ, và tôi xin ngài đừng nói với ai là đã gặp tôi: được, ngài im lặng; ngài đã làm tròn nghĩa vụ đó... Tôi cầu xin ngài nói chuyện với tôi, bởi lẽ tôi đang muốn chết vì phải nín lặng... Ngài sẵn lòng nghe tôi... Được, đó là việc dễ làm. Nhưng nếu tôi cầu xin ngài túm lấy tôi và ném tôi xuống biển... Đến đây, chắc chắn là nhã ý cũng như sự sẵn lòng giúp đỡ sẽ ngừng lại. Chắc chắn là phải có một giới hạn nào đó... giới hạn ấy nằm ở chỗ có liên quan đến sự sống còn của bản thân ngài, đến trách nhiệm của ngài bị thử thách... Dứt khoát là phải có cái giới hạn này... Nhất định nghĩa vụ cũng phải có giới hạn. Hay có lẽ, đối với người thầy thuốc, nghĩa vụ không dừng lại ở chỗ nào cả? Lẽ nào thầy thuốc phải là cứu tinh, là ân nhân của cả thiên hạ, duy nhất chỉ vì người đó có mảnh bằng với mấy chữ La Tinh? Phải chăng thực sự người thầy thuốc có bổn phận hy sinh đời mình và lo sợ thất thần khi có một người đàn bà... ờ, khi một người đến nài xin anh ta tỏ ra cao thượng, sẵn lòng cứu giúp và có lòng từ thiện? Phải, nghĩa vụ sẽ phải dừng lại ở một chỗ nào đó... khi người ta không còn khả năng hoàn thành nghĩa vụ nữa, đúng là ở chỗ...” Anh ta lại ngừng bặt và đột nhiên đứng dậy. “Xin lỗi... hiện tôi đang bị kích động... nhưng không phải là tôi say... tôi chưa say... Đấy là điều giờ đây thường xảy đến với tôi trong hoàn cảnh cô đơn quái đản này, tôi xin thẳng thắn thú thật với ngài như vậy. Ngài thử nghĩ xem, đã bảy năm nay, tôi hầu như chỉ sống giữa những người bản xứ và bầy súc vật... lâu rồi người ta quên mất cách nói năng ung dung đĩnh đạc. Và đến khi bắt đầu thổ lộ tâm tình thì lập tức lại nói lia lịa... Nhưng xin ngài hãy khoan... vâng, bâygiờ tôi biết rồi... tôi muốn hỏi ngài, tôi muốn trình bày với ngài một trường hợp trong đó cần phải biết người ta có nghĩa vụ giúp đỡ hay không... giúp đỡ với tấm lòng chân thành của một thiên thần, người ta... Tuy nhiên, tôi sợ câu chuyện kéo dài... Quả thực là ngài không mệt chứ?”. “- Không, không mệt chút nào”. “- Tôi... tôi cảm ơn ngài. Ngài uống cái này một chút?”. Anh ta sờ soạng trong bóng tối phía sau. Tôi nghe thấy tiếng cốc thủy tinh, tiếng chai va chạm, hai, ba, nhiều cái chai để ngay cạnh. Anh ta mời tôi một cốc Uytky, tôi chỉ nhấp môi tí chút trong khi anh ta cầm cốc nốc liền một hơi. Trong giây lát, giữa chúng tôi im lặng. Tiếng chuông vang lên: đã 12 giờ rưỡi khuya. * * * “Bây giờ, tôi muốn kể ngài nghe câu chuyện dưới đây. Giả dụ rằng có một người thầy thuốc ở một... tỉnh nhỏ... hoặc hơn nữa ở nông thôn... một thầy thuốc, anh ta... một thầy thuốc, anh ta...”. Anh ta dừng lại ngừng lời. Rồi đột nhiên anh ta xích ghế lại gần tôi: “Không, không phải như vậy. Tôi phải kể hết với ngài, từ đầu chí cuối, nếu không, ngài không hiểu nổi... Một câu chuyện như vậy, một câu chuyện tương tự, không thể trình bày coi như ví dụ, như một lý thuyết... Tôi phải kể với ngài câu chuyện về chính bản thân tôi. Ở đấy không có gì đáng hổ thẹn, không có gì phải giấu giếm. Trước mặt tôi người ta cũng từng đã cởi truồng phơi bày với tôi chấy rận, nước tiểu và phân của họ kia mà... Đã cầu xin người ta cứu giúp thì không nên quanh co, phải nói hết. Vậy thì tôi sắp kể với ngài không phải là trường hợp của một thầy thuốc tưởng tượng. Tôi tự phơi trần thân thể tôi ra và tôi nói: Tôi... Tôi đã quên không còn biết hổ thẹn là gì trong cuộc sống cô đơn ghê rợn ấy, trong cái xứ chết tiệt, nó gặm nhấm tâm hồn ta, nó hút tuỷ sống của ta...” Hẳn tôi đã có một cử chỉ gì đó bởi vì anh ta ngừng lời. “À, ngài phản đối... tôi hiểu điều đó. Ngài mang trong lòng tình cảm nhiệt thành với đất nước Ấn Độ, đối với những đền thờ và những cây cọ - tất cả những gì là lãng mạn của một cuộc du lịch hai tháng trời - Phải, nó có sức cám dỗ ghê gớm lắm, nhưng miền nhiệt đới ấy, khi ta nhìn nó từ đường xe lửa, từ ô tô hay từ xe tay; và tôi, khi lần đầu tiên cách đây bảy năm tới xứ này, cảm tưởng của tôi cũng như thế. Khi ấy còn thiếu điều gì tôi không mơ ước? Tôi muốn học ngoại ngữ, muốn đọc sách kinh trong nguyên bản; muốn nghiên cứu tâm hồn người dân bản xứ - vâng, trong tiếng lóng Âu châu người ta gọi như vậy - nói vắn tắt là muốn trở thành một sứ giả truyền bá lòng nhân đạo và truyền bá văn minh, tất cả những người đến với nguyện vọng đó, đều mơ mộng như vậy cả. Nhưng, trong cái lồng ấp nghẹt thở ấy mà du khách không nhìn thấy, người ta bị mất sức rất nhanh: bệnh sốt rét - dù có nuốt bao nhiêu kháng sinh cũng vẫn cứ mắc bệnh như thường, bệnh sốt rét phá huỷ thân thể người ta; người ta trở nên uể oải và lười biếng, người ta trở thành một con gà mái bị nhúng vào nước, một loài nhuyễn thể thực sự. Người Âu châu có thể nói không còn là mình nữa; một khi từ những thành phố lớn, họ đi đến một trong những chốn đáng nguyền rủa mất hút giữa đầm lầy ấy; sớm hay muộn người nào cũng phải chịu một đòn chí mạng: người thì hóa ra nghiện rượu, kẻ nghiện thuốc phiện, lại có kẻ chỉ nghĩ đến đánh đập người khác và trở thành hung bạo, tóm lại, người nào cũng nhiễm cái bệnh điên của mình. Người ta nhớ châu Âu, người ta mơ đến một ngày nào đó lại được đi ngoài đường phố, ngồi trong một căn phòng sáng sủa bằng đá, giữa những người da trắng. Suốt nhiều năm trời, người ta ước mơ điều đó, và rồi đến lúc được nghỉ phép thì người ta đã trở nên quá lười biếng đến không còn buồn đi nữa. Họ biết rằng ở châu Âu họ đã bị lãng quên không còn ai biết tới họ và họ chỉ như con sò trong biển cả, một con sò mà mỗi người đều xéo dưới chân! Chính vì vậy mà người ta ở lại, người ta trở nên đần độn và hư hỏng trong vùng rừng rú nóng bức và ẩm thấp đó. Thật đáng nguyền rủa cái ngày mà tôi tự bán mình cho nơi khỉ ho cò gáy đáng kinh tởm này... “Vả lại, cũng không phải là tôi hoàn toàn tự nguyện. Tôi đã theo học ở Đức, đã trở thành bác sĩ y khoa, một thầy thuốc lành nghề nữa là đằng khác và được giữ một chức vụ khá trong một bệnh viện ở Lai-xích; và thời kỳ đó, trong một tờ báo Y học (Medizinische Blactter) mà tôi không còn nhớ là số nào nữa, người ta đã bàn tán nhiều xung quanh một loại thuốc tiêm mới mà tôi là người đầu tiên đem dùng. “Rồi xảy đến một câu chuyện đàn bà: một cô gái mà tôi quen ở bệnh viện đã làm cho người tình của cô ta phát điên đến nỗi anh ta bắn cho cô một phát súng lục, và chẳng bao lâu, tôi cũng phát điên như anh ta luôn. Cô ta tỏ vẻ kiêu kỳ và lạnh lùng đến nỗi làm tôi nổi khùng; tôi vốn bị hành hạ bởi những người phụ nữ kiêu kỳ và táo tợn, nhưng cô này đày đọa tôi, bắt tôi phải cúi mình quá thấp. Tôi làm theo tất cả những ý muốn của cô ta... tôi... “Mà này! Tại sao tôi không thú thật đi, khi việc đó xảy ra cách đây đã tám năm rồi? Vì cô ta, tôi đã tiêu thụt tiền quỹ của bệnh viện, và khi sự việc vỡ lở, giông bão mới nổi lên. Một ông chú tôi đã đền bù đủ số thâm thụt, nhưng sự nghiệp của tôi thế là đi đời. Chính lúc ấy tôi được tin chính phủ Hà Lan tuyển mộ thầy thuốc cho xứ thuộc địa và họ cho ứng tiền trước. Tôi nghĩ ngay đây hẳn là một công việc chẳng béo bở gì nên người ta... người ta mới ứng tiền trước như vậy. Tôi biết rằng trong những đồn điền nơi bệnh sốt rét tác oai tác quái, số cây thập ác trên mộ tăng nhanh hơn ở đất nước chúng tôi gấp ba lần. Nhưng khi người ta còn trẻ, người ta cho rằng bệnh sốt rét và sự chết chóc bao giờ cũng chỉ giáng lên đầu kẻ khác. Tóm lại, tôi không hề lựa chọn, tôi đi Rốttécđam và ký hợp đồng mười năm, tôi lĩnh một xấp bạc dầy và gửi cho chú tôi một nửa, còn nửa kia làm mồi cho một trong những cô gái gặp trong xóm cảng và cô ta đã bòn tôi bằng hết, chỉ là vì cô ta giống con mèo cái trời đánh trước kia. Sau đó, không tiền, không đồng hồ, không ảo mộng, tôi quay lưng lại với châu Âu, và tôi không mảy may buồn rầu khi tàu rời khỏi cảng. “Tôi ngồi trên boong tàu, đúng như ngài lúc này đây, như mọi người khác, và một hôm, tôi chợt thấy chòm sao Thập tự phương Nam và những cây cọ, và lòng tôi hớn hở. Chà, những khu rừng, nỗi cô đơn, sự trầm mặc khiến lòng tôi tràn đầy mộng ước. “Ồ! Gì chứ, sự cô đơn thì tôi sẽ không thiếu... Người ta không cử tôi đi Batavia hay Sôerabaya, một thành phố có những con người, những câu lạc bộ, trò chơi gôn, sách vở, báo chí - nhưng tên gọi nào có quan trọng gì - người ta điều tôi đến một trạm hẻo lánh phải đi mất hai ngày trời mới tới thành phố gần nhất. Vài viên công chức buồn tẻ và gầy đét, hai kẻ “dở ông dở thằng”, đấy là tất cả cái xã hội của tôi, ngoài ra, xung quanh tôi chỉ là rừng rú, đồn điền, đồng hoang, bụi rậm và đầm lầy. “Trong khi còn chịu đựng được. Tôi lao vào nghiên cứu đủ thứ. Một hôm, ông phó sứ, trong lúc đi kinh lý, bị gãy chân vì ô tô đổ, một mình tôi làm phẫu thuật, việc này làm người ta nói đến khá nhiều. Tôi sưu tập các thứ thuốc độc và vũ khí của người bản xứ, làm hàng trăm việc vặt để giữ vững tinh thần. “Nhưng cũng chỉ duy trì được tinh thần chừng nào, nghị lực tôi mang từ châu Âu tới vẫn còn; sau đó tôi cằn cỗi đi. Mấy người Âu hiếm hoi mà tôi gặp chỉ làm cho tôi buồn chán; tôi cắt đứt mọi quan hệ với họ và bắt đầu uống rượu, đắm mình trong những mộng tưởng cô đơn. “Tôi chỉ còn phải kiên gan chờ đợi 2 năm nữa: sau đó, tôi sẽ được tự do và sẽ có một khoản tiền trợ cấp; tôi sẽ có thể trở về châu Âu để làm lại cuộc đời. Nói thật ra, tôi chỉ còn có việc chờ đợi, tôi ung dung nằm chờ, và tôi sẽ còn cứ chờ đợi như vậy nếu bà ta..., nếu điều đó không xảy đến”. Tiếng nói trong bóng tối ngừng bặt, chiếc tẩu không cháy nữa. Xung quanh yên ắng đến nỗi đột nhiên tôi lại nghe thấy tiếng nước réo ngầu bọt đập vào bên mạn tàu, và cả tiếng con tim máy tàu đập nghe trầm trầm và xa xa. Tôi rất muốn châm một điếu thuốc, nhưng lại sợ cái ánh sáng chói của que diêm và ánh phản chiếu của nó trên khuôn mặt con người không quen này. Anh ta im bặt, vẫn im bặt. Tôi không biết anh đã kể hết chưa, hay anh đang mơ màng hay là đã ngủ, anh ta hoàn toàn im bặt. Lúc đó chuông tàu vang lên một tiếng khô khan và mạnh mẽ: Đã một giờ sáng. Anh ta đứng lên đột ngột, tôi lại nghe thấy tiếng cốc va chạm. Rõ ràng là tay anh sờ soạng tìm chai Uytki. Tôi nghe tiếng lọc ọc rồi bỗng nhiên anh ta lại cất tiếng nói nhưng lúc này có thể nói là căng thẳng hơn, tha thiết hơn: “Vậy thì... xin ngài đợi một chút... Vâng, tôi nhớ ra rồi... Tôi ở đấy, trong cái hang chết tiệt của tôi, tôi ở đấy như một con nhện trong tấm lưới của nó, bất động, đã hàng mấy tháng trời. Lúc đó, đúng là ngay sau mùa mưa: Suốt tuần lễ này đến tuần lễ khác nước mưa quất đập trên mái nhà. Không có một người khách, không một người Âu nào. Hàng ngày tôi ngồi lỳ ở nhà với những người đàn bà da vàng và những chai rượu Uytki hảo hạng. Lúc ấy tôi hoàn toàn bạc nhược; tôi nhớ châu Âu, nhớ da diết, khi đọc một cuốn truyện nói về những phố xá sáng sủa và những phụ nữ da trắng, ngón tay tôi bắt đầu run lên. Tôi không thể tả lại thực đúng cái tâm trạng của tôi lúc ấy với ngài, đó là một thứ bệnh vùng nhiệt đới, một nỗi nhớ điên cuồng nhưng lại làm ta suy nhược đôi khi xâm chiếm ta. Thế là, một hôm tôi cúi xuống một tập bản đồ, tôi nhớ rõ là như vậy và mơ tới những cuộc du lịch. Đột nhiên có tiếng gõ cửa, anh bồi của tôi ở bên ngoài cùng với một trong những người đàn bà; cả hai đều trố mắt ra vì ngạc nhiên. Họ khua chân múa tay: có một bà, một lady[1], một phụ nữ da trắng. “Tôi đứng phắt dậy. Tôi không nghe thấy tiếng xe ngựa, cũng không nghe thấy tiếng ô tô. Một phụ nữ da trắng đến đây, giữa nơi hoang vu này? “Tôi đã toan bước xuống cầu thang, nhưng vội quay trở lại. Tôi thoáng nhìn vào gương và vội vàng sửa sang lại quần áo đôi chút. Tôi bồn chồn, lo ngại như bị dằn vặt bởi một linh tính chẳng lành, vì tôi không quen ai trên đời này có thể đến với tôi vì tình bạn. Cuối cùng, tôi xuống nhà. “Trong phòng ngoài, người đàn bà đang chờ; bà ta hấp tấp tiến đến trước mặt tôi. Một tấm khăn choàng của người đi ô tô che kín mặt bà ta. Tôi định chào nhưng bà ta đã mau miệng cướp lời: “- Chào bác sĩ”, bà ta nói bằng thứ tiếng Anh lưu loát (hơi quá lưu loát là đằng khác và như đã nhẩm thuộc từ trước). “Xin thứ lỗi nếu tôi đến có hơi đường đột. Chúng tôi ở ngoài trạm, xe hơi của chúng tôi dừng lại đấy” - Tại sao bà ta lại không đi ô tô đến tại đây, ý nghĩ đó thoáng qua trong óc tôi như một tia chớp. “Tôi chợt nhớ rằng ông ở đây. Tôi đã nghe nói nhiều về ông. Ông quả là đã làm một phép lạ giúp ông phó sứ, chân ông ấy đã hoàn toàn trở lại bình thường và ông ta đã chơi gôn được như trước. Ồ vâng, bọn chúng tôi vẫn còn nhắc đến chuyện đó, và tất cả chúng tôi đều sẵn lòng hê đi ông y sĩ ngoại khoa hay càu nhàu của chúng tôi và luôn cả hai người nữa, nếu như ông đến với chúng tôi. À này, tại sao người ta không thấy ông đến đấy bao giờ? Ông sống thật như một nhà đạo sĩ Yôga. Và bà ta tiếp tục nói huyên thuyên như vậy, mỗi lúc một nhanh, không để tôi chen vào câu nào. Cái lối nói ồn ào, dông dài ấy bộc lộ một cái gì nôn nóng và lo lắng khiến bản thân tôi cũng cảm thấy hơi bối rối. Tôi tự hỏi, tại sao bà ta nói nhiều thế? Tại sao bà ta không tự giới thiệu? Tại sao bà ta không bỏ tấm voan che mặt ra? Bà ta lên cơn sốt chăng? Bà ta có ốm không? Bà ta có điên hay không? Mỗi lúc tôi càng sốt ruột vì tự thấy mình lố bịch khi đứng như thế trước mặt bà ta, bị chìm ngập trong những lời thao thao bất tuyệt của bà ta. Cuối cùng, bà ta ngừng lại một tí và tôi mời được bà ta lên lầu. Bà ta ra hiệu cho người bồi ở lại và bà ta đi trước tôi lên cầu thang. “Ở đây thanh nhã quá”, bà ta vừa nói vừa đưa mắt nhìn căn phòng của tôi. “Ồ, những cuốn sách đẹp quá! Tôi muốn đọc hết tất cả”. Bà ta tiến về phía giá sách và nhìn lướt tên các cuốn sách. Từ lúc bước chân đến đây, lần đầu tiên bà ta im tiếng được một phút. “- Tôi có thể mời bà một chút trà được không? “Tôi hỏi.” - Không, cảm ơn bác sĩ “bà ta nói, không quay lại, cứ tiếp tục xem tên các cuốn sách – “Chúng tôi phải đi ngay, tôi không có nhiều thời giờ... chúng tôi chỉ làm một cuộc du ngoạn rất ngắn. À, ông có cả Flôbe. Tôi thích đọc nhà văn này lắm! Thật đáng khâm phục... khâm phục hết chỗ nói. Cuốn “Giáo dục tình cảm”[2]... Tôi thấy rằng ông còn đọc cả tiếng Pháp nữa, kiến thức của ông rộng thật. Ở nhà trường, người Đức được học mọi thứ. Biết nhiều ngoại ngữ như thế thật tuyệt vời! Ông phó sứ chỉ phục có ông thôi; với ai, ông ấy cũng nói rằng ông là người độc nhất cầm dao mổ mà ông ấy dám phó thác sinh mạng của mình. Ông bác sĩ của khỉ của chúng tôi ở đằng ấy thì chỉ giỏi đánh bài tây. Nhưng này, bác sĩ ạ” - và ngay cả khi nói câu nói này bà ta cũng vẫn không quay về phía tôi - “Hôm nay tôi nảy ra ý nghĩ muốn nhờ ông khám, mà cũng vì nhân đúng lúc đi qua trước cửa nhà ông, tôi nghĩ là... Nhưng có lẽ lúc này ông đang bận nhiều việc, có lẽ khi khác tôi quay trở lại thì hơn”. “Vậy là cô mình đã lật con bài của cô mình ra rồi đó”... lập tức tôi nghĩ bụng như vậy, nhưng tôi không tỏ ý gì hết, chỉ nói với bà ta là lúc nào tôi cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ bà ta, ngay bây giờ hoặc là lúc nào bà ta cần đến. “Không có gì nghiêm trọng cả đâu”, bà ta vừa nói vừa quay nửa người lại, vừa lật vài trang cuốn sách bà ta lấy trên ngăn xuống - “không có gì nghiêm trọng... chuyện vặt vãnh thôi mà... những cái vặt vãnh của đàn bà... những cơn chóng mặt mệt mỏi... Sáng nay, khi xe chúng tôi quành một đường vòng, bỗng nhiên tôi gục xuống và ngất đi... Người bồi đã phải đỡ tôi trong xe và đi tìm nước... Có lẽ tại tài xế lái quá nhanh... Ông có nghĩ như vậy không, thưa bác sĩ?” “- Tôi chưa thể kết luận ngay được. Bà có hay bị mệt mỏi như vậy bao giờ không?” “- Không... à có, thời gian gần đây thôi... vâng, rất gần đây thôi... đúng như vậy... nhiều lúc thấy mệt mỏi và buồn nôn”. Bà ta lại đứng sững trước tủ sách, đặt một cuốn sách lại chỗ cũ, lấy một cuốn sách khác và bắt đầu lật các trang sách. Thật lạ kỳ. Vì sao bà ta cứ lật đi lật lại các trang sách... với vẻ bồn chồn nóng nảy như vậy? Vì sao bà ta không ngước mắt lên dưới tấm khăn choàng che mặt? Tôi cố tình không nói gì. Tôi thích thú bắt bà ta phải chờ đợi. Cuối cùng, bà ta lại bắt đầu nói, vẫn cái lối nói vừa uể oải vừa huyên thuyên của bà ta. “- Có phải không, thưa bác sĩ, không có gì nghiêm trọng chứ? Không dính dáng gì đến thứ bệnh nhiệt đới... không có gì nguy hiểm cả...” “- Trước hết tôi cần xem bà có bị sốt hay không đã. Tôi có thể xem mạch cho bà chứ?” Tôi tiến về phía bà ta, nhưng bà ta nhẹ nhàng lách ra “Không, không, tôi không bị sốt... chắc chắn là như vậy, chắc chắn là tôi không bị... Tôi vẫn cặp nhiệt hàng ngày từ... từ khi xảy ra có những cơn mệt mỏi đó... chưa bao giờ tôi bị sốt, lúc nào cũng đúng 3604 trên vạch nhiệt kế. Dạ dày của tôi cũng hoàn toàn tốt”. “Tôi ngần ngừ một lát. Từ nãy đến giờ tôi đã thấy ngờ vực; tôi cảm thấy người đàn bà này muốn cầu xin tôi điều gì. Không ai đến chốn hoang vu này để nói chuyện về Flôbe cả. Tôi để bà ta chờ đợi một phút, rồi một phút nữa. “- Xin lỗi bà - tôi nói một cách dứt khoát - bà cho phép tôi tự do hỏi bà vài câu được không ạ? “- Được chứ, thưa bác sĩ... Ông là thấy thuốc cơ mà, - bà ta trả lời. Nhưng bà ta đã quay lưng lại và bắt đầu giở xem những cuốn sách. “- Bà đã có con chưa?” “- Có, một cháu trai”. “- Và bà có... trước kia, tôi muốn nói lúc ấy... bà đã có những cơn rối loạn tương tự như vậy không?” “- Thưa có.” Giọng nói của bà bây giờ khác hẳn. Rành rọt, cả quyết không dài dòng chút nào, không một chút nỏng nảy. “- Và liệu có thể là bà... xin thứ lỗi cho câu hỏi này... liệu có phải giờ đây bà cũng đang ở trạng thái như vậy không?” “- Vâng”. Lời nói đó buột ra từ miệng bà ta, dứt khoát và sắc bén như lưỡi dao. Không một nét nào thay đổi trên khuôn mặt mà bà ta quay ngoắt đi chỗ khác. “Tốt nhất có lẽ là, thưa bà, để tôi xem xét toàn diện cho bà... Có thể mời bà... chịu khó sang phòng bên?” Đột nhiên bà ta quay lại phía tôi. Tôi cảm thấy qua tấm mạng che mặt một cái nhìn lạnh lùng và quả quyết, hướng thẳng vào mặt tôi. “- Không... không cần thiết... Tôi hoàn toàn biết chắc tình trạng của tôi”. * * * Giọng nói của người kể chuyện ngập ngừng một lát. Cốc rượu đầy lại lóng lánh trong đêm tối: “Vâng, xin ngài nghe tôi kể tiếp, nhưng trước hết ngài hãy thử hình dung một lát cái tình thế này: một người đàn bà đến với một người đàn ông héo mòn trong cảnh cô đơn; từ bao nhiêu năm nay, đó là người đàn bà da trắng đầu tiên bước vào chỗ ở của anh ta... Và bỗng nhiên tôi cảm thấy trong căn phòng có cái gì như là định mệnh ác nghiệt, một mối nguy hiểm thực sự. Tôi linh cảm thấy điều đó, một cảm giác về thể chất. Tôi cảm thấy sợ hãi trước sự nhất quyết của người đàn bà này, lúc đầu đến bất thần với những lời lẽ huyên thuyên, bây giờ đột ngột đưa ra yêu sách như giơ một con dao tuốt trần. Bởi vì, điều bà ta muốn tôi giúp, tôi biết lắm, tôi đã biết ngay lập tức. Đây không phải là lần đầu tiên có những người đàn bà đến nhờ tôi làm một việc tương tự. Nhưng những lần trước họ đến với vẻ hoàn toàn khác hẳn, họ xấu hổ và van xin, họ đến với những giọt nước mắt và những lời oán trách. Nhưng ở đây có một... vâng, một quyết tâm mạnh mẽ, một quyết tâm sắc đá. Từ giây phút đầu tiên tôi đã cảm thấy người đàn bà này mạnh hơn tôi... bà ta có thể bắt tôi phải làm theo ý muốn của bà ta... nhưng... nhưng... trong tôi cũng có ý đồ xấu... Tôi như một người đàn ông đang tự bảo vệ và nổi giận, bởi vì... như tôi đã nói, ngay từ đầu, phải, ngay từ trước khi trông thấy bà ta, tôi đã cảm thấy người đàn bà này là một kẻ thù. “Lúc đầu tôi còn lặng thinh, lặng thinh vì bướng bỉnh và tức giận. Tôi cảm thấy bà ta nhìn tôi sau tấm mạng, cái nhìn khiêu khích và hách dịch, bà ta muốn buộc tôi phải nói. Nhưng tôi không nhượng bộ dễ dàng. Tôi cũng bắt đầu nói nhưng... nói lơ lửng... vâng, vô tình tôi bắt chước cách nói dài dòng và lạnh lùng của bà ta. Tôi làm như không hiểu bà ta, bởi vì, không biết ngài có thể hiểu ý tôi không, tôi muốn buột bà ta phải nói ra rõ ràng; tôi không muốn nói trước, mà... muốn bà ta phải năn nỉ tôi... đúng vậy, tôi muốn người đàn bà đã đến với thái độ ngang nhiên như thế phải năn nỉ tôi... và cũng vì tôi biết rằng với phụ nữ không có gì khiến tôi dễ nhân nhượng cho bằng cái thái độ lạnh lùng kiêu hãnh đó. “Thế là tôi bắt đầu nói với bà ta, bằng những lời lẽ chẳng giúp ích gì, rằng không có gì nghiêm trọng cả, rằng những cơn mệt mỏi như thế là chuyện thường, và còn ngược lại, điều đó hầu như là sự đảm bảo cho một sức khỏe bình thường. Tôi dẫn chứng những ca rút từ các nhật ký chữa bệnh... Tôi nói, tôi nói với vẻ lơ là và dễ dãi, luôn coi đó là chuyện tầm phào, và... luôn chờ đợi bà ta ngắt lời tôi, bởi vì tôi biết rằng bà ta không chịu nổi cách xử sự ấy của tôi. Bà ta lập tức ngắt lời tôi, giơ tay như để ngăn lại tất cả những lời an ủi chung chung ấy. “- Đó không phải là điều làm tôi lo ngại, thưa bác sĩ. Hồi tôi sinh cháu, sau đó sức khỏe của tôi khá hơn... nhưng bây giờ tôi không được “allright”[3], tôi bị đau tim”. “- À, những cơn đau tim, - tôi nhắc lại, giọng lo ngại - tôi phải xem ngay cho bà”. Và tôi có một cử chỉ như muốn đứng dậy tìm ống nghe, nhưng đột nhiên bà ta nói ngay, giọng lúc này đanh thép và rành rọt như người ở vị trí chỉ huy: “- Tôi có những cơn đau tim, thưa bác sĩ, và xin đừng tin điều tôi nói. Tôi không muốn mất thì giờ thăm bệnh. Thiết tưởng bác sĩ có thể tin ở tôi hơn nữa. Ít ra là về phần tôi, tôi cũng đã bày tỏ đủ rõ lòng tin cậy của tôi đối với bác sĩ”. Lúc này đã bước vào cuộc đấu tranh đây, đó là một lời thách thức công khai. Và tôi chấp nhận: “- Sự tin cậy đòi hỏi lòng trung thực, một lòng trung thực hoàn toàn. Bà hãy nói cho rõ, tôi là thầy thuốc. Và trước hết bà hãy bỏ tấm mạng che mặt ra và xin mời bà ngồi xuống, bà hãy bỏ những cuốn sách xuống và bỏ cả cái lối nói quanh co ấy đi. Khi đến nhà thầy thuốc không ai lại đeo mạng che mặt”. Bà ta kiêu hãnh nhìn thẳng vào mắt tôi. Lưỡng lự một chút rồi bà ta ngồi xuống, bỏ cái mạng che mặt đi. Tôi thấy một khuôn mặt khó hiểu, cứng cỏi, ngượng ngùng, với một vẻ đẹp không tàn phai theo năm tháng, khuôn mặt với cặp mắt màu tro, cặp mắt của những người Anh, trong cặp mắt đó hiện ra tất cả vẻ bình thản, tuy nhiên nhìn thật sâu vào trong, người ta có thể mơ tưởng đến mọi nỗi đắm say; cái miệng mỏng dính và đôi môi mím chặt không để lộ một chút bí mật nào nếu bà ta chưa muốn nói ra. Chúng tôi nhìn nhau một lát. Cái nhìn của bà ta vừa độc đoán, vừa dò hỏi, mang một vẻ khắc nghiệt lạnh lùng và giá buốt đến nỗi tôi không chịu nổi, phải miễn cưỡng quay mặt đi. Bà ta khẽ gõ ngón tay lên bàn. Như vậy là bà ta cũng đang nóng ruột. Rồi bà ta nói nhanh, đột ngột: “- Thưa bác sĩ, ông có biết tôi chờ mong gì ở ông không? Hay là ông không biết?” “- Tôi cho là tôi có biết, nhưng ta không nên nói quanh co thì tốt hơn. Bà muốn chấm dứt tình trạng hiện nay của bà... bà muốn tôi loại bỏ cho bà những hiện tượng mệt nhọc, những cơn buồn nôn bằng cách xóa bỏ nguyên nhân của nó, đúng thế không?”. “Phải!” Tiếng đó buông xuống như lưỡi dao máy chém. “- Bà có biết rằng những dự định như vậy nguy hiểm cho cả hai bên?” “- Có”. “- Bà có biết là pháp luật cấm tôi làm chuyện đó?” “- Có những trường hợp không cấm, trái lại còn được phép”. “- Nhưng những trường hợp đó phải có sự chỉ định của thầy thuốc”. “- Ông sẽ tìm thấy chỉ định đó. Ông là thầy thuốc”. Khi nói những lời ấy, bà ta nhìn tôi chằm chặp, rõ ràng và không chớp mắt. Đó là một mệnh lệnh. Và tôi, vốn yếu mềm, tôi run lên vì khâm phục sức mạnh quỷ quái của ý chí bà ta, nhưng tôi vẫn chưa chịu hạ mình, không muốn tỏ ra là mình đã bị đánh bại. “Không nhanh như vậy được, phải làm khó dễ đã, phải buộc bà ta phải “van xin”. - Trong thâm tâm, tôi gần như thích thú với ý nghĩ đó. “- Điều đó không phải lúc nào cũng tùy thuộc vào ý muốn của thầy thuốc. Nhưng tôi sẵn sàng, với một trong những đồng nghiệp của tôi ở bệnh viện”. “- Tôi không muốn bạn đồng nghiệp nào của ông can dự vào chuyện này. Tôi đến để nhờ chính ông” “- Tôi có thể hỏi bà, tại sao bà lại chọn đúng tôi?” Bà ta lạnh lùng nhìn tôi: “- Tôi không có gì phải ngại ngùng nói cho ông biết điều đó, tôi đến nhờ chính ông vì ông sống ẩn dật, vì ông không quen biết tôi, vì ông là một thầy thuốc giỏi, và bởi vì - đấy là lần đầu tiên bà ta ngập ngừng - bởi vì ông sẽ không còn ở xứ này lâu nữa, nhất là ông có thể trở về nước với một số tiền lớn”. “Những lời nói đó làm tôi lạnh toát cả người. Tôi sững sờ trước thái độ lạnh lùng con buôn đó, trước sự tính toàn rành rọt đó. Cho đến lúc ấy, bà ta chưa hé ra một lời van xin nào, trái lại, tất cả đều đã được cân nhắc từ lâu; trước tiên, bà ta rình tôi, để rồi tiếp đó đâm bổ thẳng vào tôi. Tôi bàng hoàng trước sức mạnh ma quái của cái ý chí đó, nhưng tôi chống lại với tất cả cơn điên tiết của tôi. Một lần nữa, tôi buộc lòng phải tỏ ra có đầu óc thực tế, thậm chí hơi mỉa mai: “- Và số tiền lớn đó, bà... bà sẽ cấp cho tôi?” “- Vâng, để đền đáp lại sự giúp đỡ của ông và để ông rời khỏi nơi đây ngay tức khắc”. “- Bà có biết rằng nếu như vậy thì tôi sẽ mất khoản tiền phụ cấp?” “- Tôi sẽ đền bù cho ông”. “- Bà tính toán thật phân minh. Nhưng tôi còn muốn rõ ràng hơn nữa. Bà đã dự liệu số tiền công là bao nhiêu chưa?” “- Mười hai ngàn Phlorinh, trả bằng séc, ở Amxtécđam”. “Tôi... run lên... run lên vì tức giận và... cả vì khâm phục. Bà ta đã tính toán hết số tiền và cách trả tiền, nó buộc tôi phải ra đi; bà ta đã định giá và mua tôi mà không cần biết tôi; bà ta đã sai khiến tôi theo dự cảm của ý chí bà ta. Tôi rất muốn cho bà ta... một cái tát... Nhưng khi tôi đứng lên, run rẩy - bà ta cũng đứng lên, - đúng lúc đó, tôi nhìn vào mắt bà ta, trước cái miệng mím chặt không chịu hé lời van xin này, trước cái trán kiêu hãnh không muốn cúi xuống này... tôi bỗng cảm thấy lòng tràn ngập một thứ ham muốn mãnh liệt. Hẳn bà ta cũng nhận ra điều đó, bởi vì bà ta cau mày lại, như khi người ta muốn xua đuổi một kẻ quấy rầy: sự thù ghét giữa chúng tôi bỗng bị phơi trần. Tôi biết bà ta căm giận tôi vì bà ta cần tôi, còn tôi căm giận bà ta vì bà ta đã không chịu hạ mình van xin. Trong giây lát im lặng đó, giây lát duy nhất đó, lần đầu tiên chúng tôi đã tự bộc lộ với nhau một cách hoàn toàn thành thực. Rồi, đột nhiên, một ý nghĩ len lỏi trong tôi như một loài bò sát, và tôi bảo bà ta... “Nhưng, xin ngài chờ chút đã, ngài có thể hiểu sai điều tôi đã làm, lời tôi đã nói... trước hết tôi phải giải thích cho ngài rõ cái ý nghĩ rồ dại đó đã đến với tôi như thế nào”. * * * Tiếng cốc lại lách cách khe khẽ trong bóng tối; rồi tiếng nói trở nên linh hoạt hơn: “Không phải tôi muốn tự bào chữa, tự biện bạch là mình vô tội... nhưng nếu không, ngài sẽ không hiểu. Tôi không biết tôi có phải là người mà thiên hạ gọi là hạng người tử tế hay không. Nhưng tôi cho rằng tôi đã luôn luôn cứu giúp mọi người. Trong cuộc sống khốn khổ ở đấy, niềm vui duy nhất có thể có được là cứu sống mạng người nhờ chút ít kiến thức đã tích cóp được. Đó là một niềm vui thần tiên. Thực vậy, những giờ đẹp nhất là khi một gã thanh niên da vàng, nhợt nhạt, xanh xám vì sợ hãi, chân sưng vù vì vết rắn cắn, chạy đến chỗ tôi, gào lên xin đừng cưa chân hắn. Và tôi đã cứu được hắn ta. Tôi đã đi hàng bao nhiêu dặm đường khi có người phụ nữ nằm đó ốm liệt giường, bị cơn sốt giày vò; đồng thời, tôi cũng đã làm cái việc mà người đàn bà ngoại quốc này vừa yêu cầu, ngay từ khi còn ở Âu châu, tại bệnh viện của Khoa. Nhưng ở đấy ít ra tôi cũng cảm thấy là họ cần đến tôi, ở đấy tôi biết là mình đã cứu được ai thoát chết hoặc thoát khỏi sự tuyệt vọng và đúng thế, muốn giúp đỡ người khác thì bản thân mình phải có cảm giác là người khác cần đến mình. “Nhưng người đàn bà này, không biết tôi có thể tả cho ngài rõ điều đó không, bà ta làm tôi điên tiết, bà ta làm tôi lo ngại từ lúc bà ta đến nhà tôi như một người khách bình thường; thái độ kiêu hãnh của bà ta đã khiến tôi chống lại bà ta, bà ta khơi gợi - tôi diễn tả điều này thế nào nhỉ? - Bà ta làm cho tất cả những gì dồn nén, ngấm ngầm và xấu xa trong tôi đều bật lên chống lại bà ta. Tôi phát điên lên khi thấy bà ta làm bộ quý phái và khi bà ta mặc cả với vẻ điềm tĩnh, kiêu kỳ trong một việc có liên quan đến sự sống và cái chết... và rồi... rồi... cuối cùng thì không ai chơi gôn với nhau mà mang bầu được... Tôi biết... nghĩa là bỗng nhiên tôi buộc phải hình dung ra - đó là cái ý nghĩ điên rồ mà tôi vừa nói đến khi nãy - hình dung ra một cách rõ ràng kinh khủng rằng người đàn bà lạnh lùng, đầy kiêu hãnh và lãnh đạm này, người đàn bà đã nghiêm nghị cau đôi lông mày trên cặp mắt xanh màu thép khi tôi nhìn bà ta lòng đầy lo ngại... hoặc gần như là giữ thế với bà ta... tôi đã buộc phải hình dung rằng, hai ba tháng trước đây, bà ta đã lăn trên một chiếc giường trong vòng tay một người đàn ông, trần truồng như nhộng, hai thân mình xiết chặt lấy nhau như đôi môi. Đó là ý nghĩ nóng bỏng trong tâm trí tôi khi bà ta nhìn tôi một cách ngạo mạn, với vẻ lạnh lùng kênh kiệu, hệt như là một sĩ quan người Anh... và lúc đó, cả con người tôi chỉ có một ham muốn... và tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ làm nhục bà ta... Từ lúc đó trở đi, tôi nhìn thấy thân thể lõa lồ của bà ta xuyên qua chiếc áo bà ta mặc... từ lúc đó trở đi, tôi chỉ còn có ý nghĩ chiếm đoạt bà ta, ép môi tôi lên cặp môi cứng rắn rên rỉ của bà ta, để cảm giác được cái con người kiêu hãnh đó, cái tâm hồn băng giá đó bị chinh phục bởi khoái lạc, cũng như người đàn ông kia đã cảm thấy bà ta bị chinh phục, cái người đàn ông mà tôi không hề quen biết. Đó... Đó chính là điều tôi muốn giải thích với ngài. Đấy là lần duy nhất, mặc dù tình trạng thất thế của tôi, tôi đã tìm cách lợi dụng danh nghĩa thầy thuốc của mình... và đó không phải là háo sắc, dâm đãng, tình dục, không, hoàn toàn không phải như vậy... nếu không tôi đã thổ lộ dễ dàng... đấy chỉ là ý muốn chế ngự cái tính kiêu hãnh đó... chế ngự với tư cách tôi là một người đàn ông... Tôi đã kể với ngài, hình như những người phụ nữ bề ngoài kiêu hãnh và lạnh lùng bao giờ cũng có uy lực đối với tôi, nhưng lúc ấy, lại thêm một nỗi là trong suốt bảy năm trời tôi sống ở đây, chưa hề có lần nào ăn nằm với một phụ nữ da trắng và cũng chưa hề gặp phải sự chống cự nào... bởi vì phụ nữ ở đây, những con thú bé nhỏ duyên dáng và thỏ thẻ ấy, họ run lên vì kính trọng khi một người da trắng, « một ông lớn » đụng đến họ... họ trở nên quá hạ mình; bao giờ họ cũng ân cần chiều chuộng, sẵn sàng dâng hiến, với tiếng cười hiền hậu giống như tiếng cục - cục của con gà mái... chính sự phục tùng đó, tính nô lệ đó làm cho ta mất hứng. Bây giờ chắc ngài hiểu điều đó đã có tác động quái lạ như thế nào đối với tôi khi đột nhiên tôi thấy xuất hiện một người đàn bà đầy kiêu hãnh và căm thù, che đậy từ đầu đến chân, đồng thời lại khêu gợi, vì chứa đựng điều bí mật và vẫn còn mang trong mình niềm đam mê cách đây chưa lâu... Khi một người đàn bà như thế kiêu kỳ bước vào cái cũi của một người đàn ông như thế, một gã đàn ông nửa người nửa thú cô đơn đến như thế, thèm khát như thế bị tách rời khỏi toàn thế giới như thế... Điều đó, điều đó tôi nói với ngài chỉ cốt để ngài hiểu cho phần còn lại... những gì sẽ xảy ra sau đó. Vậy là... lòng tràn đầy... tôi không rõ là lòng ham muốn xấu xa nào, bị đầu độc bởi ý tưởng muốn nhìn thấy thân thể lõa lồ khêu gợi của bà ta, thả mình đi theo tiếng gọi của dục tình, tôi thu hết nghị lực và làm ra vẻ thờ ơ: “Mười hai ngàn phlorinh? - Tôi lạnh lùng nói, - không, tôi không làm vì số tiền đó”. Bà ta nhìn tôi, hơi tái mặt. Bà ta đoán rằng lòng tham tiền không có vai trò gì trong sự chống đối này. Mặc dầu vậy, bà ta nói thêm: “- Vậy ông đòi hỏi gì?” Tôi bỏ qua giọng nói lạnh lùng đó và nói: “- Chúng ta hãy chơi ván bài công khai. Tôi không phải là một con buôn... tôi không phải là người bào chế khốn nạn trong “Rômêô Juyliet “bán thuốc độc để lấy đồng tiền vàng ô uế. Tôi là cái gì trái ngược với thứ con buôn... Không phải bằng cách đó mà bà đạt được ý muốn của bà đâu”. “- Vậy ông không ưng thuận?” “- Không phải để lấy tiền!” Một giây lát im lặng tuyệt đối trùm lên hai chúng tôi. Im lặng hoàn toàn đến nỗi lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng thở của bà ta. “- Vậy ông còn muốn điều gì khác nữa?” Lúc này tôi nói tuột ra không e dè gì hết: “- Trước hết tôi muốn rằng bà... bà nói với tôi không như nói với một chủ hiệu tạp hóa, mà như nói với một người đàn ông, rằng nếu như bà cần cứu giúp, bà không... bà không được đặt ngay đồng tiền nhơ nhuốc của bà lên hàng đầu... mà là phải cầu xin... người đàn ông là tôi giúp đỡ bà; bà cũng là một con người... Tôi không phải chỉ là thầy thuốc, tôi không phải chỉ có những giờ thăm bệnh... tôi cũng còn dành cho tôi những giờ khác, có lẽ bà đã đến vào một trong những giờ đó”. Bà ta im lặng một lát. Rồi bà ta hơi cong môi, rùng mình và nói rất nhanh: “- Vậy, nếu tôi cầu xin ông... ông sẽ làm gì?” “- Bà vẫn còn muốn mặc cả: Bà chỉ muốn cầu xin sau khi tôi đã hứa trước. Trước hết bà phải van xin tôi, rồi tôi sẽ trả lời”. Bà ta ngẩng đầu lên như con ngựa bất kham và giận dữ nhìn tôi: “- Không, tôi sẽ không cầu xin ông. Thà chết còn hơn! “Lúc đó tôi nổi giận, giận chín người, một cơn giận vô lý. “- Được! Vì bà đã không muốn cầu xin tôi, thì chính tôi sẽ đòi hỏi. Tôi nghĩ rằng tôi không cần phải nói rõ hơn. Bà biết tôi muốn gì ở bà. Sau đó, sau đó, tôi sẽ giúp bà”. Bà ta nhìn tôi chằm chằm trong giây lát. Rồi - Ồ! Tôi không thể, tôi không thể nói sự thể khốc liệt đến mức nào - rồi nét mặt bà ta căng thẳng và rồi... bà ta phá lên cười... bà ta cười vào mặt tôi với một vẻ khinh miệt khó tả, vẻ khinh miệt có thể nói là như sét đánh xuống người tôi... làm tôi choáng váng... Tiếng cười khinh mạn ấy như tiếng nổ đột ngột, dữ dội phát ra từ một sức mạnh ma quái, đến nỗi tôi... tôi sẵn lòng phủ phục xuống đất và hôn chân bà ta. Tình trạng này thoáng hiện trong tôi chỉ trong khoảnh khắc... như một lằn chớp và khắp cơ thể tôi bốc lửa... Bà ta đã quay đi và bước nhanh ra cửa. “Bất giác, tôi chực chạy theo bà ta... để mà xin lỗi... để mà van xin... sức tôi chưa kiệt hẳn... nhưng bà ta còn quay lại lần nữa nói với tôi, hay đúng hơn ra lệnh cho tôi: “- Ông đừng có mà chạy theo tôi hoặc để tâm đến tôi nữa... Ông sẽ hối tiếc về việc làm của mình đấy...” Và cánh cửa đã đóng sầm lại sau lưng bà ta. * * * Lại một lúc ngập ngừng... Lại im lặng... Lại chỉ còn nghe thấy tiếng ì ào bất tận của biển, như thể ánh trăng chạy trên ngọn sóng. Cuối cùng tiếng nói lại cất lên: “Cửa đóng sầm lại... Nhưng tôi, tôi đứng trơ tại chỗ... lệnh của bà ta như thôi miên tôi... Tôi nghe tiếng chân bà ta xuống cầu thang, tiếng đóng cửa... Tôi nghe thấy tất cả và toàn bộ ý chí của tôi hướng tới bà ta... để mà... tôi không biết thế nào... để mà gọi bà ta trở lại, đánh bà ta một trận hoặc bóp cổ bà ta, nhưng dẫu sao tâm trí tôi vẫn cứ bám lấy bà ta... chạy theo sau bà ta... và tuy vậy tôi không thể... chân tay tôi như tê liệt, như bị điện giật... ánh mắt nghiêm nghị đó khiến tôi... tôi như bị đánh, bị một trận đòn nhừ tử... Tôi biết đó là điều không thể giải thích được, không mang ra thuật lại được... kể thì có vẻ lố bịch, nhưng sự thật là tôi bị chôn chân tại chỗ... phải mất hàng mấy phút, có lẽ năm hay mười phút, tôi mới có thể cử động, rời khỏi chỗ tôi đứng... “Nhưng vừa cất được chân lên là tôi đã trở nên hăm hở và nhanh nhẹn... trong nháy mắt, tôi đã ở dưới chân cầu thang... Bà ta chỉ có thể đi theo con đường tới huyện lỵ... Tôi chạy bổ ra nhà xe lấy chiếc xe đạp của tôi, nhưng tôi thấy là tôi đã quên chìa khóa, tôi bèn phá vách ngăn, những mảnh tre văng ra kêu răng rắc... Tôi nhảy lên xe đạp và lao theo vết tích bà ta... tôi phải... tôi phải đuổi kịp trước khi bà ta tới chỗ ôtô đỗ... tôi phải nói với bà ta. “Bụi đường bốc lên xung quanh tôi... chỉ đến lúc này tôi mới nhận thấy ban nãy tôi đã đờ ra trên phòng tôi bao nhiêu lâu. Đằng kia, ở chỗ rẽ của khu rừng, ngay trước chỗ xe đậu, tôi thấy bà ta đang vội vã, dáng đi cứng cỏi và thẳng băng, theo sau là người bồi... Nhưng bà ta chắc cũng nhìn thấy tôi, vì bà quay lại nói gì với người bồi, tên này ở lại sau và bà ta tiếp tục đi một mình. Bà ta muốn làm gì vậy? Vì sao bà ta lại thích đi một mình?... Hay là bà ta muốn nói chuyện riêng với tôi không cho người bồi nghe thấy?... Tôi đạp như điên như cuồng... “Đột nhiên có cái gì chặn đường tôi... tên bồi... Tôi định quành xe tránh nhưng... tôi đã ngã sóng soài xuống đất. “Tôi đứng dậy, buông lời chửi rủa... Bất giác tôi giơ nắm đấm định đánh cái gã lỗ mãng đó, nhưng hắn tránh được... Tôi dựng xe để nhảy lên... nhưng con người kỳ quặc đó tiến ra phía trước tôi, nắm lấy bánh xe và kêu lên bằng thứ tiếng Anh thảm hại “You remain here”[4]. “Ngài chưa sống ở vùng nhiệt đới... Ngài không biết như vậy là xấc xược đến mức nào: khi một người da vàng, một tên vô lại loại đó nắm lấy chiếc xe đạp của một người da trắng, của một “ông lớn “và ra lệnh cho “ông lớn “phải ở lại đó. Không thèm đáp lời, tôi tống cho hắn một quả vào mặt... Hắn loạng choạng nhưng vẫn nắm chắc chiếc xe của tôi... Cặp mắt hắn, cặp mắt ti hí và sợ sệt giương to lên đầy vẻ lo âu của tên nô lệ... nhưng hắn vẫn giữ riệt lấy chiếc xe của tôi, thái độ cương quyết kỳ lạ “You remain here”, hắn còn lắp bắp một lần nữa... May sao tôi không mang theo súng lục, nếu không tôi đã bắn chết hắn liền. “Xéo khỏi đây, tên khốn khiếp! “Tôi chỉ quát lên với hắn có thế. Hắn nhìn tôi kính cẩn, nhưng vẫn không buông chiếc xe đạp... tôi bồi thêm cho hắn một quả đấm vào sọ, nhưng hắn vẫn không buông. Lúc đó tôi nổi điên... tôi thấy bà ta đã đi xa, có lẽ bà ta đã rời nơi đây và tôi móc cho tên da vàng ngay dưới cằm một cú bốc nhà nghề, mạnh đến nỗi hắn ta lộn đi bốn bước. Lúc này, chiếc xe đạp đã rời khỏi tay hắn... nhưng khốn nỗi khi tôi ngồi lên, xe không đi được... trong lúc giằng co ghi đông xe đã hỏng... Tay tôi lật bật tìm cách chữa... nhưng không chữa được. Thế là tôi quẳng xe sang bên đường, ngay bên cạnh tên vô lại đang nhổm dậy, đầy máu me và lủi tránh... Và rồi, không, ngài không thể biết được cảnh tượng đó ở nơi ấy khôi hài đến mức nào dưới con mắt mọi người, một người Âu... Nhưng lúc đó tôi không còn biết mình đang làm gì nữa... tôi chỉ còn một ý nghĩ: chạy theo bà ta và đuổi kịp bà ta... Tôi bèn chạy, chạy như một thằng điên suốt dọc đường, qua phía trước những túp lều, ở đó, đám người da vàng thô bỉ xúm xít lại ngạc nhiên trước cảnh tượng như thế: nhìn thấy một người da trắng, nhìn thấy ông bác sĩ đang chạy. “Tôi tới huyện lỵ, ướt đẫm mồ hôi... Câu hỏi đầu tiên của tôi là: “ôtô đâu rồi? “Xe vừa nổ máy... Mọi người nhìn tôi kinh ngạc; hình như họ cho rằng tôi đã mất trí khi thấy tôi chạy tới, người ướt đẫm và nhếch nhác, gào ầm lên, hỏi ngay cả trước khi đứng lại... Phía đằng kia, trên đường cái, tôi nhìn thấy làn khói trắng ôtô cuộn lên... Bà ta đã thành công... thành công như tất cả mọi việc phải thành công, nhờ tính cương quyết sắt đá trong những tính toán của bà ta. “Nhưng nguyền rủa cũng chẳng ích gì. Ở vùng nhiệt đới không có gì giữ được bí mật giữa những người Âu châu; họ quen biết nhau từ người này qua người khác; bất cứ chuyện gì cũng có thể trở thành một biến cố. Không phải không có lý do mà người lái xe của bà ta đã ở lại tại nhà ông quan cai trị một tiếng đồng hồ. Chỉ sau mấy phút tôi biết hết, tôi biết bà ta là ai, biết rõ bà ta ở trên ấy, ở thủ đô, cách đây tám giờ xe lửa, rằng bà ta là... cứ cho là vợ của một thương gia lớn, rằng bà ta rất giàu có, sang trọng, một người đàn bà Anh... tôi biết rằng chồng bà ta sang Hoa Kỳ đã năm tháng nay và sắp trở lại trong mấy ngày sắp tới đón bà ta về châu Âu. “Tôi biết - ý nghĩ này đốt cháy tâm can tôi như một thứ thuốc độc - bà ta có mang hai, ba tháng là cùng...” * * * “Đến tận lúc này, tôi còn có thể làm cho ngài hiểu được... có lẽ chẳng qua vì cho đến lúc đó tôi vẫn còn hiểu được tôi... và vì là thầy thuốc, lúc nào tôi cũng có thể chẩn đoán cho tình trạng của chính mình. Nhưng kể từ lúc đó trở đi, tôi như người bị sốt... tôi không còn tự kiểm soát được mình nữa... hay đúng hơn, tôi biết rõ tất cả những gì tôi làm đều rồ dại, nhưng tôi không còn một chút quyền lực nào đối với bản thân mình nữa... không còn hiểu nổi bản thân mình... Tôi chỉ còn một ý nghĩ đinh ninh: đạt tới đích của tôi... Vả lại, khoan đã, dù thế nào mặc lòng, tôi vẫn có thể làm ngài hiểu được... Ngài có biết Amok là gì không đã? “- Amok?... Tôi nhớ mang máng... đó là một thứ say sưa của người Malaixia”. - Còn hơn là say sưa nữa... đó là bệnh điên, một thứ bệnh dại của người, nói trắng ra... là một cơn độc cuồng loạn trí khốc hại mà không có thứ ngộ độc nào do rượu có thể so sánh được. Bản thân tôi, trong thời gian sống ở đó, tôi đã nghiên cứu vài trường hợp - khi là vấn đề của người khác thì bao giờ người ta cũng sáng suốt và thực tế - nhưng tôi vẫn chưa thể khám phá ra nguồn gốc bí mật khủng khiếp của nó. Nguyên nhân của chứng đó chắc chắn là do khí hậu, do bầu không khí dày đặc và ngột ngạt đè nặng lên thần kinh như một cơn giông tố, cho đến khi rốt cuộc thần kinh phải bùng nổ... Vậy thì Amok... vâng, Amok là như thế này: Một người Mã Lai, có thể bất cứ người đàn ông tử tế hiền lành nào, đang yên lành ngồi uống một thứ đồ uống của mình... anh ta ngồi đó... thờ ơ, thản nhiên và uể oải hệt như tôi ngồi trong căn phòng của mình vậy... và bỗng nhiên anh ta nhảy nhồm lên, cầm lấy con dao găm và lao ra ngoài phố... anh ta chạy thẳng về phía trước, lúc nào cũng về phía trước, không biết đi đâu... Bất cứ người hay vật gặp trên đường đi, anh ta đều dùng dao găm đâm chết và mùi máu càng làm cho anh ta hung dữ hơn... Trong khi anh ta chạy, bọt mép sùi ra, anh ta rú lên như người bị quỷ ám... nhưng anh ta chạy, chạy miết, không trông thấy gì xảy ra ở bên phải cũng như ở bên trái, cứ chạy mãi, vừa chạy vừa kêu lên những tiếng xé tai, trong cuộc chạy miết đáng sợ ấy, tay lăm lăm con dao đẫm máu... Dân các làng biết rằng không có sức mạnh nào trên đời có thể chặn lại được con người đang bị dày vò bởi cơn điên khát máu đó... và khi họ trông thấy anh ta chạy tới, mãi tận đằng xa, họ đã la lên báo tin dữ: “Amok! Amok!”. Thế là tất cả đều chạy trốn... Còn anh ta, không nghe thấy gì, cứ tiếp tục chạy; anh ta chạy không trông thấy gì hết, và tiếp tục đâm chém tất cả những gì gặp ngang đường... cho đến khi anh ta bị hạ gục như người ta giết một con chó dại hoặc đến khi anh ta ngã gục xuống, kiệt sức và miệng sùi đầy bọt... “Một hôm tôi đã trông thấy cảnh đó từ cửa sổ gian nhà sàn mới xây gạch của tôi... thật là khủng khiếp... và bởi vì tôi đã trông thấy nên tôi đã hiểu được bản thân tôi trong những giờ phút đó... bởi vì, đúng như vậy, với cái nhìn khủng khiếp nhằm thẳng về phía trước, không trông thấy gì xảy ra ở bên phải cũng như ở bên trái, bị chi phối bởi cơn điên ấy, tôi chạy bổ theo... người đàn bà nọ... Bây giờ tôi không biết lúc đó tôi đã hành động như thế nào; tất cả diễn ra cực kỳ dữ dội, nhanh chóng, điên cuồng... mười phút sau, không, năm phút thôi, không, chỉ hai phút sau... tôi đã biết hết về bà ta, tên bà ta, chỗ ở của bà ta, hoàn cảnh bà ta, và tôi hối hả lao ngay về nhà, phóng thật lực bằng chiếc xe đạp mượn được, ném bộ quần áo vào một chiếc rương, lấy tiền và đáp xe ra ga xe lửa... tôi chuồn, không báo cho ông trưởng khu biết, không có người thay, bỏ mặc hết, nhà cửa mở toang toàng... Bọn đầy tớ xúm quanh tôi, những người đàn bà ngạc nhiên hỏi tôi, tôi không trả lời, tôi không quay lại... Tôi ra ga và đáp chuyến xe lửa đầu tiên về thành phố. Tất cả vẻn vẹn chỉ có một giờ sau khi người đàn bà ấy vào nhà tôi, tôi đã vứt bỏ tất cả quá khứ của mình... và đâm bổ vào khoảng không, như một Amok... “Tôi chạy thẳng về phía trước, đầu va vào vách ngăn của toa tàu... sáu giờ tôi đến nơi... sáu giờ mười phút, tôi đã tới nhà bà ta và xin gặp mặt... Ngài hiểu chứ, đó là hành động ngu ngốc nhất mà tôi đã phạm phải. Nhưng Amok có những con mắt mê loạn, hắn không nhìn thấy hắn lao vào đâu. Sau mấy phút, người hầu trở ra... nói với giọng lễ phép và lạnh lùng rằng bà chủ của hắn khó ở, không thể tiếp tôi được... “Tôi lảo đảo đi ra... Suốt một tiếng đồng hồ tôi đi quanh khu nhà, bị ám ảnh bởi hy vọng ngu ngốc là bà ta có thể sẽ ra tìm tôi... Rồi tôi thuê một buồng ở “Khách sạn bên bờ “và gọi hai chai Uytki... Mấy chai rượu này và một liều Vêrônan gấp đôi đã cứu tôi... Cuối cùng, tôi ngủ, một giấc ngủ chập chờn và xao động, một cuộc tạm nghỉ duy nhất trong cuộc chạy đua giữa cái sống và cái chết. * * * Tiếng chuông tàu ngân lên. Hai tiếng khô khan, đầy đặn mà nhịp rung kéo dài trong cái ao không khí êm ả và gần như bất động, rồi dồn xuống phía dưới sống tàu để hòa với tiếng rì rào không dứt và nhè nhẹ hòa với lời kể chuyện say sưa của người đàn ông ngồi trong bóng tối trước mặt tôi. Chắc anh ta khiếp sợ, tiếng anh ta im bặt. Tôi lại nghe thấy bàn tay anh ta sờ soạng tìm chai rượu cùng tiếng lọc ọc nhẹ. Rồi, như trấn tĩnh lại, anh ta nói tiếp bằng một giọng quả quyết hơn. “Tôi khó có thể kể lại cho ngài về thời gian tiếp sau đó. Hôm nay, tôi cho rằng lúc đó tôi bị sốt, dẫu sao đi nữa, tôi cũng lâm vào trạng thái bị kích động quá mức, gần với trạng thái điên. Tôi đã là một Amok như đã nói với ngài. Nhưng ngài đừng quên rằng tôi tới nơi vào chiều thứ ba, được biết là chồng bà ta đáp tàu xuyên Đại tây dương từ Yôkôhama sẽ về tới nơi vào ngày thứ bảy. Vậy là chỉ còn có ba ngày, ba ngày khốn khổ để đi đến một quyết định và để cứu bà ta. Ngãi hãy hiểu kỹ điều này; tôi biết bà ta cần sự giúp đỡ tức khắc của tôi, vậy mà tôi không có cách nào nói được một tiếng với bà ta. Hơn nữa, tôi cần xin lỗi về cách xử sự lố bịch của tôi, về cơn điên cuồng hung dữ của tôi, điều đó làm tôi càng thêm nóng lòng sốt ruột. Tôi biết rằng một phút qua đi lúc này quý giá ngần nào, không phải là tôi không biết đây là vấn đề sống chết đối với bà ta, và tôi không có cách nào đến gần bà ta được, hoặc nói nhỏ với bà ta một lời, bằng cách nào đó ra hiệu cho bà ta, bởi vì chính cách xử sự vụng về cũng như rồ dại của tôi đã làm cho bà ta khiếp sợ. Điều đó... vâng, hãy gượm... điều đó chẳng khác gì ta lao theo một người nào đó để báo cho người ấy đề phòng một tên giết người thì người ấy lại coi ta chính là kẻ giết người, và càng co cẳng chạy thục mạng đến với cái chết... Bà ta chỉ thấy tôi là một người điên hung dữ chạy theo với ý định làm nhục bà ta, nhưng tôi... đó là điều phi lý tàn nhẫn của sự đời... tôi không còn nghĩ gì đến điều ấy nữa... tôi chỉ muốn giúp đỡ bà ta, phục vụ bà ta... Để giúp đỡ bà ta, tôi có thể phạm tội, có thể giết một sinh mạng... Nhưng bà ta không hiểu điều đó... Buổi sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, tôi chạy ngay đến nhà bà ta, tên bồi đã đứng trước cửa, cái gã mà tôi đã đấm vào mặt ấy. Trông thấy tôi từ xa, - chắc là hắn đã chờ tôi - hắn quay ngay vào nhà. Có thể là chỉ để kín đáo báo tin tôi đến... có thể là... Ôi chao! Điều ngờ vực đó cho đến hôm nay còn làm tôi đau đớn biết bao... có thể là họ đã chuẩn bị sẵn sàng cả để tiếp đón tôi... nhưng lúc bấy giờ, khi trông thấy người bồi, nhớ lại nỗi nhục nhã của tôi, tôi chùn bước không dám vác mặt đến thăm lần nữa... Đầu gối tôi run lên. Đến đúng trước ngưỡng cửa thì tôi quay lại và đi ra. Tôi đi ra trong khi có thể là bà ta đang đợi tôi, cũng dằn vặt như tôi... “Lúc này tôi không còn biết làm gì trong cái thành phố xa lạ đó, nơi mà đất như lửa đốt cháy gót chân tôi. Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ gọi xe đưa tôi đến nhà ông phó sứ, vẫn cái ông mà hồi nọ tôi đã chăm sóc ở trạm. Tôi bảo người nhà báo là có tôi đến... vẻ ngoài của tôi chắc là kỳ quặc lắm, bởi vì ông ta nhìn tôi xem ra có ý sợ hãi và thái độ lễ phép của ông ta biểu lộ một mối lo ngại nào đó... cũng có thể ông ta đã nhận ra tôi là một Amok... tôi nói với ông ta, bỗng nhiên tôi đâm ra cả quyết, rằng tôi đến xin ông bổ dụng tôi ở thành phố của ông ra, rằng tôi không thể sống lâu hơn nữa ở nơi kia, ở trạm của tôi... rằng tôi phải được đổi đi ngay tức khắc... Ông ta nhìn tôi... Tôi không thể nói với ngài là ông ta nhìn tôi như thế nào, cũng tương tự như cách một người thầy thuốc xem xét một bệnh nhân... đoạn ông ta nói: “- Đấy là một chứng suy nhược thần kinh, thưa bác sĩ - và tôi hiểu rõ điều đó quá. Chúng tôi sẽ tìm cách bổ khuyết lại nhưng xin ông chờ cho, cứ nói là bốn tuần lễ nữa, trước hết, tôi phải tìm cho ông một người thay thế”. “- Tôi không thể chờ được dù chỉ một ngày” - tôi trả lời - “cái nhìn ngạc nhiên của ông ta lại đè nặng lên tôi. “- Đành phải vậy thôi, bác sĩ ạ, không thể để trạm không có thầy thuốc. Nhưng tôi hứa với ông là ngay hôm nay tôi sẽ làm mọi việc cần thiết”. “Tôi đứng lại đó, răng nghiến chặt: đây là lần đầu tiên tôi có ý thức rõ ràng mình là một món hàng bị đem bán, một kẻ nô lệ. Tôi đã co người lại với một thái độ thách thức, nhưng ông ta lại khôn khéo và ân cần bảo tôi: “- Ông sống không giao tiếp với người đồng chủng, và lâu dần điều đó suy biến thành một thứ bệnh. Chúng tôi, tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên là không thấy ông ra thành phố bao giờ, không nghỉ phép bao giờ. Ông cần giao du, cần giải trí. Vậy tối nay mời ông tới dự buổi tiếp tân ở nhà ông thống đốc, ông sẽ gặp mọi nhân viên thuộc địa ở đấy, nhiều người trong bọn họ rất muốn được làm quen với ông từ lâu, họ thường hỏi thăm ông và ước mong được gặp ông ở đây”. “Mấy lời sau cùng này mở cho tôi một chân trời mới. Người ta thăm hỏi tôi. Có phải bà ta chăng? Tôi bỗng trở thành con người khác hẳn. Hết sức lễ phép, tôi cảm ơn ông ta về lời mời và cam đoan với ông ta là tôi sẽ đến đúng giờ. Và quả thực tôi đã đến đúng giờ, trước giờ là khác. “Liệu tôi có phải nói với ngài là sự nôn nóng khiến tôi là người đầu tiên đến phòng đại lễ của dinh thống đốc hay không? Trong một khắc đồng hồ, tôi đã ngồi đó im lặng, xung quanh là những gia nhân người da vàng chân đất đi lại nhanh nhẹn, toàn thân lắc lư và trong lúc tâm thần rối loạn, tôi tưởng tượng là họ chế nhạo tôi ở phía sau lưng. Tôi là người Âu châu duy nhất ở giữa những công việc chuẩn bị kín đáo này. Tôi trơ trọi đến nỗi nghe thấy cả tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ trong túi áo gilê của mình. Sau cùng, một vài viên chức chính quyền và gia đình họ đến; rồi ông thống đốc cũng đến, ông ta lôi cuốn tôi vào một cuộc trò chuyện dài, suốt trong cuộc trò chuyện đó tôi trả lời ông ta thoải mái và đâu ra đấy, tôi nghĩ vậy, cho đến lúc... đến lúc bất chợt một cơn xúc động huyền bí làm tôi mất hẳn bình tĩnh và bắt đầu ấp úng. Mặc dầu lưng tôi quay về phía cửa phòng, tôi bỗng cảm thấy đúng là bà ta đã bước vào, bà ta nhất định phải có mặt; tôi không thể nói với ngài sự tin chắc đột ngột đó đã mơ hồ xâm chiếm lấy tôi như thế nào. Tuy nhiên, tôi vẫn nói chuyện với ông thống đốc, tiếng nói của ông ta còn vang trong tai tôi mà tôi đã dự đoán được sự có mặt của bà ta đâu đó phía sau tôi. May sao người đối thoại của tôi kết thúc câu chuyện, nếu không chắc chắn tôi đã quay phắt lại, não cân tôi bị dày vò xiết bao bởi sức hấp dẫn huyền bí đó và lòng mong muốn của tôi cuối cùng sẽ được gặp bà ta mãnh liệt biết chừng nào! “Và quả thực, tôi vừa quay đầu lại đã trông thấy bà ta ở đúng chỗ mà tôi bất giác đã cảm thấy. Bà ta mặc bộ y phục vũ hội màu vàng làm cho đôi vai mảnh mai với đường nét thanh tú nhuốm màu ngà voi, bà ta đang nói chuyện giữa một nhóm người. Bà ta mỉm cười, tuy vậy, tôi thấy hình như nét mặt bà có vẻ hơi căng thẳng. Tôi đến gần - bà ta không thể không trông thấy tôi hoặc không muốn thấy tôi - và tôi ngắm nhìn nụ cười niềm nở và xinh tươi trên làn môi mỏng hơi rung động. Nụ cười đó lại làm tôi ngây ngất bởi vì... bởi vì, tôi biết lắm, đó chỉ là sự dối trá đạt tới mức hoàn hảo nghệ thuật hay khoa học về cách thức giả tảng. Tôi nghĩ: hôm nay là thứ tư và thứ bảy chồng bà ta về cùng với chuyến tàu biển... Làm sao bà ta có thể mỉm cười như vậy, có thể tự tin đến thế, điềm tĩnh đến thế và bàn tay mân mê chiếc quạt một cách vô tư lự đến thế, chứ không xé tan nó ra trong một cơn lo âu quằn quại? Tôi, một kẻ xa lạ, từ hai hôm nay, tôi run lên khi nghĩ đến chuyện chồng bà ta trở về; tôi, một kẻ xa lạ, tôi sống trong nỗi lo âu khắc khoải của bà ta, tôi cảm thấy mình đang chịu nỗi khủng khiếp của bà ta dày vò đến cực độ... Vậy mà bà ta đến đây dự dạ hội nhưng vẫn mỉm cười, mỉm cười, mỉm cười... “Phía sau, nhạc bắt đầu nổi lên, cuộc khiêu vũ mở màn. Một sĩ quan già mời bà ta; bà ngỏ lời xin lỗi các vị đang tiếp chuyện với mình và, dựa vào cánh tay của bạn khiêu vũ, lướt qua ngay cạnh tôi để sang phòng bên. Khi bà ta chợt nhận ra tôi, mặt bà ta bỗng căng thẳng dữ dội - chỉ lâu chừng một giây thôi - rồi lễ phép nghiêng đầu như người ta vẫn xử sự khi gặp một người ngẫu nhiên quen biết, (và ngay cả trước khi tôi kịp quyết định chào hay không chào bà ta) bà ta đã nói: “Chào bác sĩ “và đi khỏi. Không ai có thể đoán được điều bí ẩn giấu bên trong đôi mắt màu xanh xám đó, và bản thân tôi, tôi cũng không hiểu nổi. Tại sao bà ta lại chào tôi?... Tại sao đột nhiên bà ta nhận ra tôi?... Đó là cách đối phó hay cách làm thân, hay chỉ là sự xúc động vì bất ngờ? Tôi không thể tả được với ngài tôi bàng hoàng đến mức nào, tất cả trong tôi đều đảo lộn, đều bị nén chặt, đều sẵn sàng nổ bùng, và thấy bà ta điềm nhiên khiêu vũ trong tay viên sĩ quan, vẻ vô tư bình thản ngời ngợi trên vầng trán, trong khi tôi biết rằng bà ta... bà ta cũng như tôi chỉ nghĩ đến chuyện đó... đến chuyện đó... rằng chỉ có hai chúng tôi ở giữa chốn này biết chuyện bí mật khủng khiếp ấy mà thôi... Nhìn bà ta khiêu vũ... trong vài giây, sự lo âu, lòng ham muốn, nỗi kinh ngạc của tôi làm cho niềm say đắm của tôi mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Tôi không biết có ai để ý tôi không, nhưng chắc chắn rằng qua điệu bộ của tôi, tôi tự tiết lộ còn nhiều hơn cả mức độ bà ta che giấu - tôi không thể nhìn đi chỗ nào khác ngoài chỗ có bà ta. Tôi phải... vâng... tôi phải nhìn thấy bà ta; tôi tập trung toàn lực, từ xa kéo về phía mình chiếc mặt nạ che lấp khuôn mặt kín đáo của bà ta, xem có thể kéo rơi nó xuống được dù chỉ một giây đồng hồ hay không? Cái nhìn chằm chằm của tôi nhất định gây cho bà ta một cảm giác khó chịu. Lúc bà ta trở lại đi qua gần tôi cùng với ông bạn nhảy, bà ta nhìn tôi nhanh như chớp, cái nhìn quả quyết và hách dịch như ra lệnh cho tôi hãy rời khỏi nơi đây; trên vầng trán đã trở nên dữ dằn của bà ta lại hằn rõ một nếp nhăn nhỏ, cái nếp nhăn giận dữ và kiêu hãnh mà tôi đã nhìn thấy hôm trước. “Nhưng mà... nhưng mà... tôi đã nói với ngài... tôi đã bị nhiễm bệnh Amok và tôi chạy, không nhìn sang bên phải, không nhìn sang bên trái... tôi hiểu ngay ý bà ta, cái nhìn đó nói rằng: “Đừng có làm người ta để ý đến ông, ông hãy tự kiềm chế”. Tôi biết rằng bà ta..., nói thế nào đây?... Bà ra đòi hỏi ở tôi một cách xử sự kín đáo ở nơi công cộng này... Tôi cảm thấy rằng nếu đúng lúc ấy tôi về ngay thì ngày hôm sau tôi có thể chắc chắn được bà ta tiếp... rằng lúc này, chỉ lúc này thôi, bà ta không muốn bị bêu giếu trước mắt thiên hạ bởi thái độ suồng sã kỳ quái của tôi, bà ta lo sợ - và lo sợ thật chí lý - là sự vụng về của tôi có thể gây ra chuyện rắc rối. “Ngài xem... tôi hiểu hết, tôi hiểu mệnh lệnh của cặp mắt màu xám của bà ta, nhưng... nhưng trong tôi, một sức mạnh mà tôi không làm chủ được đã thúc đẩy tôi phải nói với bà ta. Và tôi lảo đảo tiến về phía nhóm người đang nghe bà ta nói, tôi nhập bọn một cách tự nhiên (mặc dầu tôi chỉ quen vài người có mặt ở đó): thì tôi chỉ cốt được nghe tiếng nói của bà ta thôi mà; tuy nhiên, giống như một con chó bị đánh, tôi sợ hãi cúi đầu xuống trước luồng mắt của bà ta mỗi khi ánh mắt đó lướt qua tôi một cách lạnh lùng, làm như tôi chỉ là tấm vải che cửa mà tôi đang đứng sát vào đó, hay chỉ là làn gió nhẹ lay động tấm màn ấy. Nhưng tôi không hề nhúc nhích, khao khát được bà ta nói với mình một tiếng, chờ đợi ở bà ta một dấu hiệu đồng tình; tôi đứng đó như một khối cẩm thạch, mắt chăm chăm nhìn vào giữa đám người đang trò chuyện. Chắc hẳn thái độ của tôi đã làm mọi người ngạc nhiên, đúng thế, bởi vì không ai nói với tôi, và sự có mặt lố bịch của tôi hẳn phải làm bà ta khổ tâm. “Tôi không biết mình sẽ còn đứng như thế bao lâu nữa... có lẽ là mãi mãi... tôi không thể bứt mình ra khỏi cơn mê trói buộc ý chí tôi. Cơn hăm hở quả đã làm cho tôi tê liệt hoàn toàn... Nhưng bà ta không chịu đựng nổi điều đó lâu hơn nữa... Bỗng nhiên bà ta quay về phía đám người xung quanh với cái vẻ thanh nhã mê hồn vốn có và nói:” - Tôi thấy hơi mệt trong người... hôm nay tôi muốn đi ngủ sớm hơn mọi ngày... xin tạm biệt các vị! “Bà ta đã đi qua gần tôi, gật đầu chào tôi với vẻ lễ phép lạnh lùng... Tôi còn kịp nhìn thấy nếp nhăn trên trán, và rồi chỉ còn tấm lưng, tấm lưng để trần, tươi mát, trắng trẻo. Một giây sau tôi mới hiểu rõ rằng bà ta đã đi hẳn... rằng tôi sẽ không gặp bà ta, không thể nói gì với bà ta tối hôm đó nữa, buổi tối cuối cùng còn hy vọng cứu được bà ta... Thế là phải mất đến một lúc, tôi còn đứng ngẩn người trước khi hiểu ra sự thực... Lúc ấy... Lúc ấy... “Nhưng khoan đã... khoan đã... nếu không ngài sẽ không hiểu tất cả cái ngu ngốc, cái vô lý trong hành động của tôi... Trước hết tôi phải tả chính xác để ngài hình dung rõ quang cảnh phòng tiếp tân... Chúng tôi ở trong phòng đại lễ của dinh thống đốc; trong căn phòng rộng mênh mông đó chỗ nào cũng sáng trưng và gần như trống không... Những đôi nam nữ đã sang phòng khiêu vũ, những người đàn ông đánh bài... chỉ có một vài nhóm đang trò chuyện trong các góc phòng... Như vậy gian phòng hầu như trống không... Mỗi cử động đều khiến người ta chú ý, đều lồ lộ dưới ánh đèn... Bà ta đi xuyên qua chính gian phòng to lớn, rộng rãi đó, bước đi thong thả và nhẹ nhàng, hai vai nhướn cao, chào đáp lễ ở chỗ này, chỗ khác với phong thái tuyệt vời khôn xiết tả... vẫn cái vẻ bình thản kiêu kỳ và vẻ tự chủ lạnh lùng nó đã thu hết hồn tôi... tôi... tôi đã không rời khỏi chỗ, như vừa nói với ngài, tôi như bị tê liệt trước khi biết là bà ta đã đi xa... Khi tôi hiểu ra điều đó, bà ta đã ở đầu đằng kia gian phòng, ngay trước cửa... Lúc ấy... Ồ! Bây giờ nghĩ lại tôi thấy còn đỏ mặt... một sức mạnh đột ngột xâm chiếm lấy tôi và tôi chạy theo, ngài có nghe ra không, tôi không đi mà tôi chạy, tôi chạy theo sau bà ta, ngang qua gian phòng, tiếng giày cao cổ nặng nề của tôi âm lên. Tôi nghe thấy tiếng chân tôi, tôi trông thấy mọi con mắt ngạc nhiên đổ dồn theo tôi... Tôi tưởng có thể chết đi vì xấu hổ được... Tôi vẫn chạy trong khi đã ý thức được cơn điên rồ của mình... nhưng tôi không thể quay trở lại được nữa... Tôi đuổi kịp bà ta ở cửa... Bà ta quay lại... Tia mắt màu xám của bà ta xuyên qua người tôi như lưỡi dao thép, cánh mũi bà rung lên phập phồng vì tức giận... Tôi vừa ấp úng chực nói thì... lúc ấy... đúng lúc ấy... đột nhiên bà ta phá lên cười... tiếng cười ròn rã tự nhiên, thành thực... rồi rành rẽ từng tiếng... rành rẽ đến nỗi mọi người đều nghe thấy... Bà ta nói:” - A! Bác sĩ, đến bây giờ ông mới tìm ra phương thuốc cho con tôi à?... Thật đúng là những nhà khoa học! “Mấy người gần đấy thả sức cười... Tôi hiểu... cách xử trí tài tình của bà ta để gỡ thoát tình huống nguy hiểm khiến cho tôi rối trí... Tôi lục trong ví và xé một tờ giấy trắng ở cuốn sổ tay đưa cho bà; bà ta thờ ơ cầm lấy... và không quên nở nụ cười điềm đạm cảm ơn... trước khi đi... Lúc đầu, tôi cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm... tôi thấy hành động điên cuồng của tôi đã được sửa chửa, tình thế được cứu vãn nhờ sự bình tĩnh khác thường của bà ta, nhưng tôi hiểu ngay rằng, đối với tôi, thế là mất hết, sự điên khùng hung dữ của tôi bây giờ đáng cho người đàn bà này thù ghét, một sự thù ghét mạnh hơn cái chết... bây giờ tôi có gõ cửa nhà bà ta đến một trăm lần thì bà ta cũng tống khứ tôi đi như một con chó... “Tôi bước đi lảo đảo trong gian phòng... nhận thấy mọi người nhìn tôi chằm chằm, chắc là trông tôi có vẻ kỳ dị... Tôi đi đến bàn để đồ uống, uống hai ba, bốn cốc cô-nhắc liên tiếp... nhờ đó tôi khỏi bị ngất đi... thần kinh tôi không chịu nổi nữa, như muốn đứt tung ra. Sau đó, như một kẻ phạm tội tôi lẻn ra qua cánh cửa ngách. Các gì trên đời này tôi cũng không đi xuyên qua gian phòng lần nữa, nơi dư âm chuỗi cười ròn tan của bà ta như còn đọng lại trên các bức tường... Tôi bỏ đi... tới một vài quán rượu và lại uống... uống như một người muốn tìm quên lãng trong cơn say... Tuy nhiên, giác quan tôi không bị rối loạn... tiếng cười, tiếng cười xé tai và độc ác vẫn còn trong tôi... tiếng cười đáng nguyền rủa, tôi không sao dập tắt nó được... rồi tôi lang thang trên bến cảng... khẩu súng lục tôi để ở nhà, nếu không tôi đã tự sát. Không còn ý nghĩ nào khác, tôi trở về khách sạn..., vừa đi vừa nghĩ đến ngăn bên trái chiếc rương là nơi để vũ khí... chỉ một ý nghĩ ấy thôi. “Tại sao tôi không tự sát? Tôi thề với ngài không phải vì tôi hèn nhát... đối với tôi, bóp cò súng thép lạnh buốt là một giải thoát... nhưng giải thích với ngài điều đó như thế nào?... Tôi cảm thấy tôi vẫn còn một nghĩa vụ phải hoàn thành... vâng, cái nghĩa vụ giúp đỡ, cái nghĩa vụ đáng ghét đó... tôi nghĩ rằng bà ta có thể cần đến tôi, bà ta cần đến tôi, cái ý nghĩ đó làm tôi phát điên... Tôi đến đây sáng thứ năm và ngày thứ bảy... như tôi đã nói với ngài... thứ bảy tàu cập bến và tôi biết rằng người đàn bà ngạo nghễ, kiêu kỳ đó thà chết còn hơn thú nhận với chồng và thiên hạ sự ô nhục của mình. À! Tôi đã đau khổ biết bao khi nghĩ đến thời gian quý báu bị phung phí vì thiếu suy nghĩ, đến sự hấp tấp rồ dại của tôi làm lỡ mất mọi sự giúp đỡ kịp thời... Trong nhiều giờ, vâng, suốt nhiều giờ, tôi thề với ngài như vậy, tôi đã đi đi lại lại trong căn phòng tôi ở, suy nghĩ nát óc tìm cách làm thế nào đến gần được bà ta, sửa chữa sai lầm của mình, cứu bà ta... bởi vì, tôi chắc là bà ta sẽ không để tôi bước chân vào nhà bà ta nữa. Tiếng cười của bà ta vẫn còn làm rung chuyển cân não tôi và lúc nào tôi cũng hình dung thấy cơn giận làm cánh mũi bà ta phập phồng... Suốt trong nhiều giờ, tôi bước những bước dài khắp căn phòng hẹp vẻn vẹn ba mét... ngày đã rạng... buổi sáng đến nơi rồi... “Đột nhiên, tôi đâm nhào đến bên bàn, rút ra một tập giấy viết thư và bắt đầu viết cho bà ta... viết cho bà ta một bức thư ai oán như tiếng rên của con chó, trong đó tôi van xin bà ta tha thứ cho tôi, nói với bà ta rằng tôi là một thằng điên, một tên tội phạm..., trong đó tôi cầu xin bà ta hãy tin cậy ở tôi... Tôi thề với bà ta là tôi sẽ đi ngay sau đó, rời khỏi thành phố, khỏi xứ thuộc địa và nếu bà ta muốn thì tôi sẵn sàng lìa bỏ cả cõi đời này... Điều cần thiết là bà ta phải ban cho tôi sự tha thứ và lòng tin cậy, phải để tôi giúp đỡ, lúc này vẫn còn kịp, còn vừa kịp. Tôi viết liền hai mươi trang... Hẳn là một bức thư điên rồ, huyễn hoặc, mê sảng, bởi vì khi tôi đứng dậy, người tôi ướt đẫm mồ hôi... Mọi vật quay cuồng xung quanh tôi, khiến tôi phải uống một cốc nước. Rồi tôi muốn đọc lại bức thư, nhưng mới được mấy chữ đầu tiên tôi đã run lên... Tôi gập thư lại, vừa gập vừa run, tôi đã lấy một chiếc phong bì... vừa lúc ấy chân tôi bỗng sởn gai ốc. Lời nói chân thực, lời nói quyết định thốt nhiên đến với tôi: Tôi lại cầm bút và viết lên tờ cuối cùng: “Tôi chờ sự tha thứ của bà ở đây, tại “Khách sạn bên bờ”. Nếu đến bảy giờ không có trả lời, tôi sẽ tự cho tôi một viên đạn vào đầu”. “Tôi cầm bức thư, bấm chuông gọi người hầu, đưa cho anh ta và ra lệnh phải mang gửi ngay lập tức. Cuối cùng, tôi đã nói hết mọi điều phải nói, tất cả!” * * * Bên cạnh chúng tôi có tiếng va chạm của một cái cốc, rồi tiếng ọc ọc. Do một cử động nóng nảy, anh ta đã làm đổ chai Uytki, tôi nghe tiếng tay anh ta rờ rẫm dưới sàn tìm chai, tóm lấy và ném vèo chiếc vỏ chai xuống biển. Tiếng nói của anh ta ngừng vài phút; rồi, do cảm kích mạnh, anh ta nói tiếp, càng kích động hơn, hăm hở hơn bao giờ hết: “Tôi không tin ở thượng đế... theo tôi, không có thiên đường, cũng không có địa ngục... Và nếu có địa ngục, tôi cũng không khiếp sợ, vì địa ngục cũng không thể kinh khủng hơn những giờ tôi đã sống lúc đó, từ quá trưa đến tận chiều tối... Ngài cứ hình dung một căn buồng nhỏ, bị hun nóng dưới ánh mặt trời, càng về trưa càng hừng hực như chiếc lò... một căn buồng hẹp kê một chiếc giường, một chiếc ghế và một cái bàn. Trên bàn chỉ có một chiếc đồng hồ quả quít và một khẩu súng lục; trước mặt bàn một người đàn ông... một người đàn ông chỉ có mỗi việc là nhìn cái bàn và kim đồng hồ... một người đàn ông không ăn, không uống, không hút thuốc, không động đậy... một người đàn ông lúc nào cũng... suốt ba tiếng đồng hồ... mắt đóng đinh vào cái hình tròn màu trắng của mặt đồng hồ và chiếc kim nhỏ quay xung quanh hình tròn đó, vừa quay vừa kêu tích tắc. Tôi đã trải qua cái ngày đó như vậy, tôi đã chờ đợi như vậy, chờ đợi, chờ đợi... như một Amok, không suy nghĩ, trong tình trạng thú vật, với sự bướng bỉnh điên cuồng, chỉ nhìn thẳng phía trước mặt mình do một cơn ám ảnh. “Tôi sẽ không tả cho ông nghe về những giờ đó... không thể nào tả được... bản thân tôi cũng không hiểu nổi vì sao có thể sống những giờ phút như thế mà không... không hóa điên... Vậy là... đến hai giờ hai mươi phút... đúng hai giờ hai mươi phút... mắt tôi đang nhìn đồng hồ... bỗng có tiếng gõ cửa... tôi lao ra... như một con hổ vồ mồi; nhảy phắt một bước qua gian phòng, tới cửa và hối hả mở cửa ra... một thằng bé người Trung Hoa đứng lấp ló bên ngoài, tay cầm một mẩu giấy, tôi háo hức vồ lấy mảnh giấy; vừa lúc thằng bé nhảy phốc một cái và biến ngay. “Tôi cuống quít giở mảnh giấy ra, muốn đọc... nhưng không đọc được. Tất cả đều rung rinh, tất cả đều đỏ lòm trước mắt tôi... Ngài hãy tưởng tượng nỗi đau đớn của tôi, cuối cùng, cuối cùng, tôi đã có trong tay những lời mà tôi chờ đợi ở bà ta..., vậy mà giờ đây mọi vật rung rinh và nhảy nhót trước mắt tôi... Tôi nhúng đầu vào nước... Lúc này tôi nhìn rõ hơn... Tôi cầm lấy mẩu thư và đọc:” - Chậm quá rồi. Nhưng ông cứ chờ ở nhà, có thể tôi sẽ còn nhờ đến ông”. “Không có chữ ký trên mảnh giấy nhàu nát xé từ một tờ quảng cáo cũ nào đó... những nét gạch nhanh nguệch ngoạc bằng bút chì thuộc loại chữ viết vững hơn vào lúc bình thường... Không biết vì sao tôi cảm thấy xúc động đến thế trước mẩu thư... Nó có cái gì huyền bí và khủng khiếp, hình như được viết trong khi chạy trốn, người viết đứng trên bậu cửa sổ hay trên xe... Một cái gì không thể tả nổi, tạo nên bởi nỗi lo âu, sự hối hả, nỗi khiếp sợ toát ra từ mảnh giấy ấy khiến tâm hồn tôi lạnh giá... tuy vậy... tuy vậy, tôi vẫn thấy sung sướng; bà ta đã viết cho tôi, tôi chưa được chết, tôi còn có thể giúp bà ta... có lẽ... tôi có thể... “Ôi! Tôi hoàn toàn chìm đắm trong những điều phỏng đoán và những hy vọng điên cuồng nhất... tôi đã đọc lại mẩu thư hàng trăm, hàng ngàn lần... tôi áp nó lên môi... tôi đã xem xét nó, cố tìm một tiếng bị bỏ quên, bỏ sót... mộng tưởng của tôi mỗi lúc một sâu sắc hơn, rắc rối hơn, có hình thái hoang tưởng của giấc ngủ mở mắt... một thứ bệnh tê liệt, một trạng thái nửa tỉnh, nửa mê kéo dài có lẽ nhiều khắc, có thể nhiều giờ... “Đột nhiên, tôi giật mình hoảng hốt... Phải chăng có tiếng gõ cửa? Tôi nín thở..., một phút, hai phút im lặng tuyệt đối... Lại nghe thấy rất khẽ như tiếng gặm của một con chuột nhắt, một tiếng nhỏ nhẹ nhưng nhanh gấp... Đầu óc vẫn còn mụ mẫm, tôi lao ra cửa và mở giật ra... Bên ngoài, tôi thấy người bồi, người bồi của bà ta, người mà tôi đã đấm cho tối tăm mặt mũi... bộ mặt nâu sạm của hắn ngả màu tro xám, cái nhìn bối rối của hắn báo hiệu điều bất hạnh... Lập tức tôi linh cảm thấy tấm thảm kịch khủng khiếp...: “Gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra? “Tôi lắp bắp một cách khó nhọc.” - Come quickly[5]”. Hắn nói. Không thêm một tiếng... Tức thì tôi lao xuống cầu thang bốn bậc một, người bồi theo sau... Một chiếc xe con, chiếc sađô chờ sẵn, chúng tôi lên xe... “Có chuyện gì xảy ra? “Tôi hỏi hắn. Hắn run rẩy nhìn tôi và lặng im, môi mím chặt... Tôi hỏi lại lần nữa - hắn không trả lời... Tôi sẵn sàng lại giáng một cú đấm vào mặt hắn, nhưng... lòng trung thành của hắn đối với bà ấy như chó đối với chủ làm tôi cảm động... và tôi không hỏi hắn thêm câu nào nữa... chiếc xe con lao vội vã qua phố xá đông đúc làm mọi người vừa tránh dạt ra vừa chửi rủa; xe lao như chớp từ dãy phố người Âu ở ven biển vào khu đô thị thấp và xa hơn, rất xa lọt vào quang cảnh hỗn độn ồn ào của khu phố người Hoa... Cuối cùng, chúng tôi đi theo một ngõ hẻm hoàn toàn biệt lập... chiếc sađô dừng lại trước một căn nhà lụp sụp... căn nhà bẩn thỉu và như co quắp lại. Phía trước là một cửa hàng thắp nến sáng... một trong những tiệm chứa chấp những ổ hút thuốc phiện hay nhà thổ, ổ quân trộm cắp hoặc oa trữ... Người bồi gõ cửa liên hồi... có tiếng thì thào hỏi đi hỏi lại từ phía trong lọt qua khe cửa. Tôi không kiên nhẫn được nữa, tôi nhảy ra khỏi xe, đẩy mạnh cánh cửa còn hé mở... Một bà già người Hoa vừa bỏ chạy vừa lẩm bẩm... người bồi theo tôi, dẫn tôi qua hành lang... mở một chiếc cửa khác... thông vào một gian phòng tối om đầy mùi cồn và mùi máu đông... Có tiếng rên rỉ vọng lên trong đó... tôi dò dẫm tiến về phía trước. * * * Tiếng kể chuyện lại ngừng. Và điều tôi nghe thấy sau đó giống như tiếng thổn thức hơn là lời nói: “Tôi dò dẫm tiến về phía trước... và ở đó... trên một chiếc chiếu bẩn thỉu... ở đó, một cái gì như thân người nằm rên rỉ quằn quại đau đớn... bà ta nằm đó... Tôi không thể nhìn rõ mặt bà ta trong bóng tối... mắt tôi chưa quen... vậy là tôi chỉ rờ rẫm... tôi chạm vào bàn tay bà ta... nóng rừng rực... đang cơn sốt, sốt cao... và tôi bủn rủn cả người... Ngay tức khắc, tôi biết hết... bà ta trốn tôi tới đây... để cho một mụ người Hoa kinh tởm nào đó hủy hoại thân thể mình, chẳng qua là bà ta cho rằng ở đây kín đáo hơn... bà ta thà để cho một mụ phù thủy của quỷ dữ giết hại còn hơn là nhờ cậy tôi... bởi vì, tôi... Lúc ấy đã rồ dại quá..., tôi đã không nương nhẹ tính kiêu hãnh của bà ta, đã không giúp đỡ bà ta ngay tức khắc... bởi vì bà ta còn sợ tôi hơn cả thần chết... “Tôi lớn tiếng gọi lấy đèn, người bồi chạy vội đến: mụ người Hoa ghê tởm, tay run run mang ra một chiếc đèn dầu khói um... Tôi phải nén lòng để khỏi nhảy xổ lên bóp cổ con mụ khốn nạn ấy... Họ đặt đèn trên bàn. Một làn ánh sáng vàng vọt tỏa xuống, tấm thân bị đày đọa... Đột nhiên... đột nhiên bao nhiêu bối rối, bao nhiêu tức giận, tất cả những cặn bã dơ bẩn của dục vọng dồn ứ lại từ trước... tất cả đều biến mất... tôi chỉ còn là một người thầy thuốc, một người của nghĩa vụ, của tư tưởng, của khoa học... tôi quên hẳn bản thân mình... với tất cả sự sáng suốt của các giác quan và của trí tuệ, tôi đấu tranh chống lại “điều đáng ghê sợ đó”. Tấm thân trần truồng mà tôi đã ao ước thèm muốn lúc ấy chỉ còn là... diễn đạt điều này thế nào nhỉ?... Chỉ còn là vật chất và cơ thể... lúc ấy, không phải là bà ta ở trước mặt tôi, mà là sự sống đang chống cự với cái chết, một con người đang quằn quại giữa những cơn đau thập tử nhất sinh... Máu của bà ta, những giọt máu nóng và cao quý của bà ta ngập ngụa tay tôi, nhưng điều đó không khêu gợi trong tôi sự thèm muốn hay kinh hãi... tôi chỉ là một người thầy thuốc... tôi chỉ thấy sự đau đớn... và tôi thấy... “Tôi thấy ngay rằng không còn hy vọng gì nữa nếu không có một phép lạ nào diễn ra... bàn tay vụng về và tội lỗi đã làm bà ta thương tổn và bà ta đã mất đến một nửa khối lượng máu, thế mà trong cái lỗ hôi thối này tôi không có một thứ gì để cầm máu, kể cả nước sạch... tất cả những gì tôi sờ đến đều cáu bẩn... “- Ta phải đưa vào bệnh viện ngay lập tức », tôi nói. Nhưng tôi vừa thốt lên những tiếng đó thì cái thân hình bị dày vò đau đớn vùng ngay dậy trong cơn co quắp:” - Không... không... thà chết... không ai được biết việc này... Không ai... Về ngay nhà tôi... nhà tôi...” “Tôi hiểu bà ta không muốn đấu tranh để bảo tồn sự sống nữa, mà để giữ bí mật, cứu vớt danh dự của mình... Và tôi tuân theo... Người bồi mang ra một chiếc băng ca, chúng tôi đặt bà ta nằm lên đó... và như vậy... đã giống một xác chết, kiệt sức và mê sảng... chúng tôi khiêng bà ta đi trong đêm... về nhà bà... tránh những gia nhân tò mò và hoảng hốt... cứ như những tên ăn cắp, chúng tôi mang bà ta vào phòng và đóng cửa lại... Rồi... rồi cuộc vật lộn bắt đầu, cuộc vật lộn lâu dài chống chọi với cái chết...”. * * * Đột nhiên, một bàn tay nắm chắc lấy cánh tay tôi đến mức tôi suýt kêu lên vì khiếp sợ và đau đớn. Trong bóng tối, khuôn mặt người đàn ông bỗng kề sát mặt tôi, nhăn nhó; thình lình tôi nhìn thấy hàm răng trắng của anh ta nhe ra, tôi nhìn thấy đôi mắt kính của anh ta lấp lánh như đôi mắt mèo to tướng trong ánh phản chiếu nhợt nhạt của mặt trăng. Và bây giờ, anh ta không nói nữa, mà gần như rú lên trong cơn thịnh nộ: “Ngài có biết không, hỡi con người xa lạ đang ngồi hoàn toàn yên tĩnh trên chiếc ghế của mình, con người đi khắp thiên hạ như nhàn du, ngài có biết cái chết của một con người diễn ra như thế nào không? Ngài đã chứng kiến cảnh tượng ấy bao giờ chưa? Ngài đã nhìn thấy một thân hình co quắp bao giờ chưa, những móng tay tím ngắt bắt chuồn chuồn, chân tay co giật, các ngón tay cứng lại cố chống cự với cái phút cuối cùng đáng sợ? Đã bao giờ ngài nghe thấy tiếng thở ra ghê rợn, nhìn thấy trong cặp mắt lồi nỗi khiếp sợ mà không lời nào lột tả được hay không? Ngài đã nhìn thấy những điều đó chưa, hỡi con người ăn không ngồi rồi, hỡi con người đi hành hương khắp thế giới, con người đã nói về sự cứu giúp như một nghĩa vụ? Làm thầy thuốc, tôi thường nhìn thấy cái chết, tôi nhìn cái chết như là... như là một ca lâm sàng, một sự kiện, có thể nói là tôi đã nghiên cứu nó - nhưng, với tư cách một con người, tôi mới nhìn thấy cái chết có một lần, chỉ đến lúc đó, đêm hôm đó tôi mới cảm nhận được cái chết, mới chia sẻ nỗi rùng rợn của cái chết lần đầu tiên... Suốt trong cái đêm khủng khiếp đó, tôi ngồi trên ghế suy nghĩ nát óc để khám phá, tìm tòi và sáng chế ra cái gì mà có thể cầm lại được dòng máu vẫn cứ đang tuôn ra, tuôn ra và đang tuôn ra, cầm cự với cái chết đang mỗi lúc một đến gần mà tôi không thể nào xua đuổi ra khỏi giường nằm của bà ta được. Ngài có hiểu thầy thuốc nghĩa là thế nào không: phải biết tất cả về đủ các loại bệnh tật, có nghĩa vụ cứu chữa, như ngài đã nói rất đúng, thế mà chịu bất lực bên đầu giường của một người đàn bà đang hấp hối, biết mà không làm gì được..., biết một điều, cái điều kinh khủng, đó là anh không thể cứu chữa gì được, ngay cả nếu như anh có khả năng bứt tất cả các mạch máu của anh ra khỏi cơ thể... nhìn thấy dòng máu tội nghiệp cứ băng ra từ một cơ thể thân yêu, nhìn thấy cái cơ thể ấy bị phó mặc cho cơn đau đớn hành hạ, cảm thấy mạch đập gấp và cùng lúc ấy ngừng hẳn lại... lặn hẳn đi dưới ngón tay anh... Là thầy thuốc và bất lực, bất lực, bất lực... ngồi đấy và lẩm bẩm một lời cầu nguyện nào đó như một mụ già sùng đạo trong nhà thờ, rồi lại nắm tay hăm dọa một Thượng đế thảm hại mà ta biết rõ là không hề có thật... Ngài có hiểu điều đó hay không? Còn tôi... chỉ có một điều duy nhất mà tôi không hiểu, làm sao... làm sao người ta không chết quách đi trong những lúc như vậy... làm sao đến sáng hôm sau người ta vẫn thức dậy, đứng lên, đi đánh răng, thắt cà vạt... làm sao người ta còn có thể sống nổi một khi đã trải qua cái mà tôi đã trải qua lúc đó, khi người ta đã nhìn thấy như tôi đã nhìn thấy hơi thở của con người đầu tiên mà ta đấu tranh và chiến đấu vì con người đó và ta muốn đem toàn bộ sức lực của tâm hồn mình ra sức giữ người đó lại..., cái hơi thở đó cứ trôi tuột qua các kẽ ngón tay mình... vào cõi hư vô, trôi mỗi lúc một nhanh, từng phút một, trong khi cái đầu óc nóng hầm hập của ta không tìm được cách gì để giữ lại sinh mạng cho con người mà mình yêu thương... “Đã thế, quái ác thay, nỗi đau khổ của tôi càng tăng lên gấp bội vì điều này nữa... Trong khi tôi còn ở đầu giường bà ta - tôi đã chích cho bà ấy một mũi moóc-phin để làm dịu cơn đau và tôi nhìn bà ta nằm nghỉ với đôi má nóng bừng, nóng bừng và tái mét - vâng... trong khi tôi ngồi như vậy, tôi cảm thấy phía sau tôi hai con mắt không ngừng nhìn tôi chằm chằm, cái nhìn chằm chằm khủng khiếp... Người bồi ngổi xổm dưới đất và lẩm bẩm cầu nguyện cái gì không rõ... Khi mắt tôi bắt gặp mắt hắn... không, không thể tả được điều đó... có cái gì thật là cầu khẩn, thật là biết ơn hiện rõ trong ánh mắt của hắn như cái nhìn của con chó trung thành và đồng thời hắn giơ tay về phía tôi như thể tôi là Thượng đế... tôi, một kẻ bất lực đáng thương đã biết rằng hết hy vọng rồi... và có ý thức rằng bản thân mình ở đây cũng vô ích như một con kiến loay hoay trên mặt đất... Ôi chao! Cái nhìn đó, nó vò xé tôi biết bao, cái hy vọng cuồng tín đó, cái hy vọng mù quáng trông đợi ở trình độ khoa học của tôi... tôi muốn chửi rủa, chà đạp con người tội nghiệp đó, hắn làm tôi đau khổ quá... vậy mà tôi lại cảm thấy hai chúng tôi gắn bó với nhau biết bao nhiêu vì tấm lòng yêu thương đối với bà ta... vì điều bí mật... Hắn ở ngay sau tôi đứng im như khúc gỗ thu mình lại như con thú rình mồi... Tôi vừa bảo hắn lấy một vật gì là hắn nhảy vội trên đôi chân đất đi lấy và run rẩy đưa cho tôi... nóng lòng chờ đợi, y như là vật đó nhất định phải chữa được... cứu chữa được bà ta... Tôi biết hắn sẵn sàng rạch các mạch máu ra để lấy máu tiếp cho bà ta... người đàn bà ấy là như vậy đó, uy lực của bà ta đối với đàn ông là như vậy đó... thế mà tôi..., không có khả năng cứu lấy dù chỉ là một chút máu cho bà ta... Ôi! Đêm ấy, cái đêm khủng khiếp ấy, cái đêm vô tận giữa sự sống và cái chết! “Đến gần sáng, bà ta còn tỉnh lại một lần nữa... bà ta mở mắt... đôi mắt không còn vẻ gì là kiêu kỳ lạnh lùng nữa, mà bây giờ bừng bừng cơn sốt... khi cặp mắt hơi mờ đi và ngỡ ngàng dò dẫm khắp gian phòng. Rồi bà ta nhìn tôi: có vẻ như suy nghĩ, cố nhận ra tôi... và bỗng... tôi nhận thấy..., bà ta nhớ ra... bởi vì sự sợ hãi, sự kháng cự..., một vẻ gì... một vẻ gì như hằn học, như hãi hùng làm nét mặt bà ta căng ra... bà cựa quậy cánh tay như muốn chạy trốn... chạy cho xa, xa, thật xa tôi... tôi thấy, bà ta nghĩ đến “điều đó”... đến cái lúc tôi chạy theo bà ta. Nhưng rồi sau khi suy nghĩ... bà ta nhìn tôi bình tĩnh hơn, thở một cách khó nhọc... tôi cảm thấy bà ta muốn nói, nói điều gì đó... bàn tay bà ta bắt đầu cứng lại... bà ta như muốn ngồi dậy nhưng không đủ sức... Tôi giúp cho bà trấn tĩnh lại và cúi xuống gần... Lúc ấy, đôi mắt đau khổ của bà nhìn trân trân vào tôi một lúc lâu... cặp môi khẽ mấp máy... tiếng nói của bà ta chỉ còn là một âm thanh cuối cùng đang lịm tắt khi bà nói: “- Sẽ không một ai biết? Không một ai? “- Vâng, sẽ không một ai” - tôi nói hết sức cả quyết. Tôi cam đoan với bà ta như vậy. Nhưng mắt bà ta vẫn lộ vẻ lo ngại... cặp môi nóng bỏng vì sốt, bà ta cố thều thào thốt lên mấy lời: “- Ông hãy thề với tôi đi... Không một ai biết cả... thề đi”. “Tôi giơ tay lên như tuyên thệ. Bà ta nhìn tôi... cái nhìn không tả nổi, dịu dàng, ấm áp, biết ơn... thực sự biết ơn... Bà còn muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng khó khăn quá. Bà ta nằm duỗi dài một lúc lâu, mắt nhắm nghiền, hoàn toàn kiệt sức sau cố gắng đó. “Rồi cái việc ghê rợn, thảm khốc bắt đầu... suốt một giờ, một giờ khủng khiếp, bà ta còn chống chọi mãi đến sáng mới chấm dứt...” * * * Anh ta ngừng kể. Tôi chỉ nhận ra điều đó khi trên boong tàu vang lên trong yên lặng một, hai, ba tiếng chuông rắn đanh: ba giờ sáng. Trăng đã mờ đi, nhưng một thứ ánh sáng khác màu vàng đã run rẩy chập chờn trong không trung và thỉnh thoảng làn gió hiu hiu thoảng qua. Nửa giờ, lại một giờ, ngày đã rạng, ánh sáng trong trẻo đã xóa nhòa bình minh xám nhạt. Tôi thấy rõ nét mặt anh ta - lúc này bóng tối tỏa xuống đã bớt dầy đặc, bớt tối đen ở góc chúng tôi ngồi - anh ta đã bỏ mũ ra, phía dưới cái đầu hói, nét mặt đau khổ của anh ta trông lại càng đáng sợ hơn nữa. Nhưng cặp kính lóe sáng đã quay lại phía tôi, người anh ta cứng lại và tiếng nói lại cất lên, chua chát và sắc sảo: “Với bà ta thế là hết, nhưng đối với tôi thì chưa xong. Tôi ở một mình bên xác chết, và hơn nữa, một mình trong ngôi nhà xa lạ, một mình trong một thành phố không một sự bí mật nào giữ nổi, mà tôi... tôi lại phải giữ kín một điều bí mật... Vâng, ngài hãy hình dung cho rõ tình thế lúc ấy: một phụ nữ thuộc xã hội thượng lưu của xứ thuộc địa, khỏe mạnh hoàn toàn, mới chiều tối hôm trước còn dự cuộc khiêu vũ ở nhà ông thống đốc và rồi bây giờ chết đột ngột trên giường nhà mình... Cạnh bà ta là một ông thầy thuốc lạ, mà cứ cho là đầy tớ của bà ta tuồng như đã mời đến đi... Không có gia nhân nào trông thấy ông ta bước vào nhà, không ai biết ông ta từ đâu đến... bà ta được khiêng về trên một chiếc cáng lúc ban đêm, rồi người ta đóng hết cửa lại... và sáng ra bà ta đã chết rồi... Mãi đến lúc ấy, người ta mới gọi gia nhân và bỗng chốc gian nhà đầy tiếng kêu la... trong nháy mắt, hàng xóm láng giềng đều rõ chuyện, cả thành phố đều biết tin... Và ở đấy chỉ có một người gánh trách nhiệm giải thích mọi sự... đấy là tôi, một người xa lạ, thầy thuốc ở một trạm xa xôi... Tình thế thú vị quá, phải không?... Tôi biết rõ mối hiểm họa đang đe dọa tôi. May mà tôi còn có người ngồi ở bên cạnh, anh chàng tốt bụng hiểu được từng cái nhìn của tôi - anh ta cũng vậy, anh chàng da màu đó, ngu ngốc như một con vật, cũng hiểu là còn phải đương đầu với một cuộc đấu tranh khác. Tôi chỉ nói với anh ta: “Bà chủ muốn không một ai được biết những gì đã xảy ra”. Mắt anh ta nhìn chòng chọc vào mắt tôi, đôi mắt ướt của con chó trung thành, nhưng lại lộ rõ sự quả quyết: “Yes, sir[6]”, anh ta chỉ nói có thế. Nhưng anh ta đi lau sạch các vết máu trên sàn nhà, cố sắp xếp mọi thứ cho thật ngăn nắp - và chính lòng quả quyết của anh ta giúp tôi lấy lại sự cương quyết của mình. “Trong đời tôi chưa bao giờ tôi tập trung được một nghị lực đến như vậy; cái nghị lực đó cũng không bao giờ trở lại với tôi nữa. Khi người ta đã mất hết, người ta đấu tranh như một kẻ tuyệt vọng để cứu vớt những cái cuối cùng còn sót lại - ở đây là lời trăn trối của bà ta, điều bí mật của bà ta. Tôi tiếp mọi người thật điềm tĩnh, kể lại cho tất cả mọi người câu chuyện bịa đặt: người bồi được bà ta bảo đi mời thầy thuốc đã ngẫu nhiên gặp tôi trên đường như thế nào. Nhưng trong khi nói chuyện, cố làm ra vẻ bình tĩnh, tôi vẫn chờ... luôn luôn chờ đợi con người mà tất cả đều tùy thuộc vào ông ta... người thầy thuốc có trách nhiệm đến khám nghiệm tử thi trước khi chúng tôi có thể đóng chặt quan tài, giữ người chết và điều bí mật của bà ta trong đó... Hôm ấy là thứ năm... ngài đừng quên điều đó, và thứ bảy chồng bà ta về. “Cuối cùng, lúc chín giờ, tôi được tin thầy thuốc của chính quyền đã đến. Tôi đã cho mời ông ta - ông ta là thượng cấp của tôi, đồng thời là địch thủ của tôi, đó chính là ông bác sĩ mà bà ta đã nói tới với thái độ rất đỗi khinh miệt, và đương nhiên, ông ta đã biết việc tôi xin thuyên chuyển. Mới thoạt nhìn tôi đã cảm thấy ngay ông ta là kẻ thù của tôi. Nhưng chính vì vậy mà sức lực tôi mạnh thêm. “Trong phòng đợi, ông ta đã hỏi tôi: “- Bà... - ông ta nói tên bà ta - chết vào lúc nào “? “- Lúc sáu giờ sáng”. “- Bà ấy cho tìm ông lúc nào?” “- Lúc mười một giờ đêm”. “- Ông có biết tôi là thầy thuốc của bà ấy không?” “- Có, nhưng thời gian gấp quá... vả lại... người quá cố cứ nhất mực cho tìm tôi. Bà ta cấm không được gọi thầy thuốc khác”. “Ông ta nhìn tôi chằm chằm: khuôn mặt xanh xao và hơi phị thoáng ửng đỏ; tôi thấy ông ta đang nổi sung. Đó chính là điều tôi cần - tất cả nghị lực của tôi được tung ra nhằm mục đích đi đến một quyết định nhanh chóng, bởi vì tôi biết rằng thần kinh của tôi không cầm cự được lâu hơn nữa. Ông ta toan trả lời với giọng hằn học, nhưng rồi lại nói bằng giọng hững hờ: “- Nếu như ông nghĩ rằng ông có thể không cần đến tôi thì dẫu sao nghĩa vụ theo pháp luật của tôi là khám nghiệm tử thi... và tìm hiểu cái chết đã xảy ra như thế nào?” “Tôi không trả lời, cứ để ông ta tiến lên. Rồi tôi lùi lại, khóa cửa và để chìa khóa lên bàn. Ông ta nhướn cao đôi lông mày tỏ vẻ ngạc nhiên: “- Như thế nghĩa là thế nào?” “Tôi thản nhiên ngồi trước mặt ông ta: “- Đây không phải là vấn đề xác định nguyên nhân cái chết... mà là... tìm một cớ khác. Người đàn bà này đã mời tôi đến chăm sóc cho bà ta... sau ca phẫu thuật tai hại... Tôi đã không cứu nổi bà ta, nhưng tôi đã hứa sẽ cứu vãn danh dự cho bà ta, tôi sẽ giữ lời hứa. Và tôi yêu cầu ông giúp đỡ tôi trong việc này. “Ông ta tròn mắt ngạc nhiên. “- Phải chăng bỗng dưng ông muốn rằng - ông ta ấp úng - tôi, một thầy thuốc của chính quyền lại đi lấp liếm ở đây một tội ác?” “- Đúng, tôi muốn như vậy, tôi buộc lòng phải mong muốn như vậy. “- Để che dấu tội ác của ông, tôi sẽ phải...” “- Tôi đã nói với ông là tôi không hề đụng đến người đàn bà này. Nếu không... nếu không tôi đã không còn ở đây trước mặt ông... nếu không tôi đã kết liễu đời tôi lâu rồi. Bà ta đã đền tội - nếu ông muốn gọi sự việc đó như vậy - mà thiên hạ không cần biết gì về điều đó. Và bây giờ tôi sẽ không tha thứ nếu như danh dự người đàn bà này bị bội nhọ một cách vô ích”. “Giọng nói cương quyết của tôi chỉ tổ làm ông ta thêm tức giận: “- Ông sẽ không dung thứ? A! Chắc là ông đã trở thành cấp trên của tôi... hay ít ra ông cũng tưởng là như vậy... vậy ông thử ra lệnh cho tôi đi... Tôi đã nghĩ ngay rằng đằng sau chuyện này hẳn phải có điều gì xấu xa bẩn thỉu người ta mới triệu được ông ra khỏi cái hang của ông... Bước khởi đầu của ông như thế thật là đẹp mặt... quả là một mẫu mực hay ho về sự lành nghề của ông... Nhưng bây giờ tôi sẽ tiến hành cuộc điều tra và ông có thể tin rằng một bản tường trình ký tên tôi sẽ đúng sự thực. Không bao giờ tôi ký tên dưới một lời dối trá”. “Tôi hoàn toàn bình tĩnh: “- Có chứ... trong trường hợp này ông sắp làm điều đó. Bởi vì nếu không, ông sẽ không thể yên ổn rời khỏi gian phòng này. Tôi thò tay vào túi - tôi không mang theo khẩu súng ngắn. Ông ta rùng mình. Tôi tiến một bước về phía ông ta và nhìn ông ta: “- Ông nghe đây, tôi sẽ nói với ông hai tiếng... để khỏi đi đến chuyện cực đoan. Đời tôi không có nghĩa lý gì hết đối với bản thân tôi... đời một kẻ khác cũng chẳng hơn gì - tôi đã đến nước này... Điều duy nhất tôi cần là: giữ lời hứa làm sao cho căn do của cái chết này mãi mãi là điều bí mật... Ông nghe đây: tôi lấy danh dự nói với ông rằng, nếu ông chứng thực là người đàn bà này... bị chết đột ngột, tôi sẽ rời bỏ thành phố và vùng Ấn Độ ngay trong tuần lễ này... rằng nếu ông yêu cầu, tôi sẽ dùng súng tự sát ngay khi quan tài đã nằm trong lòng đất, mang theo cùng với tôi sự bảo đảm chắc chắn rằng không kẻ nào... ông hiểu chứ... không kẻ nào có thể phanh phui được sự việc. Đối với ông như thế là đủ, tôi nghĩ vậy, - điều đó đối với ông phải là đủ lắm rồi”. “Giọng nói của tôi hẳn có vẻ gì dọa dẫm đáng sợ, bởi vì vừa lúc tôi bất giác tiến về phía ông ta, ông ta đột nhiên lùi lại, như bị uy hiếp bởi nỗi khủng khiếp làm mọi người chạy trốn trước một Amok lúc hắn vừa chạy vừa khoa dao găm lên một cách hung dữ... Và bỗng nhiên ông ta biến thành một con người khác... ỉu xìu và tê liệt, có thể nói như vậy... thái độ khăng khăng của ông ta biến mất hẳn. Để bày tỏ sự chống đỡ cuối cùng rất yếu ớt, ông ta thì thầm: “- Như vậy là lần đầu tiên trong đời, tôi sẽ ký một giấy xác nhận giả mạo... cuối cùng ông đã tìm ra được một cách... ông thừa biết như vậy là... Nhưng tôi không thể... ngay lúc đầu... “- Chắc chắn là ông không thể, tôi nói để ông ta yên lòng hơn - (Nhanh lên! Nhanh lên! Mạch máu hai bên thái dương tôi giần giật) - nhưng hiện giờ khi ông biết rằng ông sẽ chỉ sỉ nhục một người còn sống và phạm một điều kinh khủng đối với người đã chết, chắc chắn là ông không còn chần chừ gì nữa”. “Ông ta gật đầu ưng thuận. Ông ta và tôi lại gần chiếc bàn. Trong vài phút bản xác nhận đã làm xong (đấy chính là văn bản sau đó đã được đăng trên báo, và theo đó thì cái chết là do chứng trụy tim). Rồi ông ta đứng dậy và nhìn tôi: “- Ông đi ngay trong tuần lễ này chứ?” “- Tôi đã hứa với ông rồi mà.” “Ông ta lại nhìn tôi. Tôi nhận thấy ông ta muốn tỏ ra cương quyết và thực tế: “- Tôi cho lấy quan tài ngay đây”. - Ông ta nói để che giấu nỗi bối rối của mình. “Nhưng, ở tôi lúc ấy có một vẻ gì đáng lo ngại ghê gớm chăng? Đột nhiên, ông ta giơ tay bắt tay tôi, tỏ ra thân tình một cách bất ngờ: “- Mong ông vượt qua được cảnh ngộ này”. - Ông ta nói. “Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì. Tôi ốm chăng? Hay là tôi điên? Tôi tiễn ông ta ra cửa, tôi mở cửa, - nhưng tôi chỉ còn đủ sức đóng cửa lại sau lưng ông ta. “Tiếp đó, thái dương tôi lại giần giật, tất cả đều chập chờn quay cuồng trước mặt tôi, và tôi đổ vật xuống ngay trước giường của bà ta... như là... như là một Amok đến lúc kết thúc cuộc chạy, đã gục xuống, thần kinh rệu rã, bất tỉnh. * * * Anh ta lại ngừng tiếng. Tôi rùng mình: phải chăng đó là do làn gió sớm mai thổi nhẹ bên trên con tàu? Nhưng trên khuôn mặt đau đớn của anh ta lúc này đã hiện lên mờ mờ, dưới ánh sáng ban ngày lại lộ rõ vẻ căng thẳng. “Tôi nằm dài trên chiếc chiếu như vậy bao nhiêu lâu? Tôi không biết rõ. Sau đó, tôi cảm thấy có người chạm vào tôi. Tôi vùng trở dậy. Trước mặt tôi là người bồi, vẫn dút dát và tận tụy như mọi khi. Cặp mắt lo lắng của anh ta nhìn không chớp vào mắt tôi: “- Có người muốn vào... muốn gặp bà... anh ta nói. “- Không ai được vào cả. “- Thưa vâng... nhưng... “Cái nhìn của anh ta lộ vẻ sợ hãi. Anh ta muốn nói, nhưng lại không dám nói. Con vật trung thành đang đau khổ. “- Ai vậy? “Anh ta run run nhìn tôi như sợ bị đánh đòn. Rồi anh ta nói - không hề nêu một tên người nào... nhưng không biết từ đâu mà con người hạ đẳng loại này bỗng nhiên lại tỏ ra có ý thức đến như vậy, không biết từ đâu mà chỉ trong vài giây đồng hồ một thứ tình cảm âu yếm khó tả như thế lại làm cho con người hoàn toàn thiển cận như vậy linh lợi hẳn lên? - Anh ta nói - sợ sệt, hoàn toàn sợ sệt: “- Người ấy đấy”. “Tôi sửng sốt, hiểu ngay, và lập tức háo hức, nôn nóng muốn biết con người ấy. Bởi vì, ngài thấy không, thật kỳ lạ... ở giữa tất cả những dằn vặt đó, trong cơn sốt của những ham muốn và khắc khoải đó, trong cuộc chạy đuổi điên rồ đó... tôi đã hoàn toàn quên “người ấy”... tôi đã quên rằng một người đàn ông khác có liên quan... người đã được người đàn bà này thương yêu, người đã được bà ta đắm đuối ban cho điều mà tôi bị chối từ... Hai mươi bốn giờ, mười hai giờ đồng hồ trước đây, có lẽ tôi đã căm ghét anh ta, đã xé xác anh ta... nhưng giờ đây... tôi không thể nói với ngài là tôi đã vội vã biết chừng nào muốn được gặp anh ta, yêu mến anh ta, bởi vì bà ấy đã yêu anh ta. “Tôi chỉ nhảy một bước là ra đến tận cửa. Tôi thấy một chàng sĩ quan trẻ măng tóc vàng hoe, ngượng ngập, mảnh dẻ và xanh xao... Anh ta có dáng vẻ như một cậu bé... ở tuổi thanh niên dễ thương đến thế... và tôi cảm thấy ngay mối xúc động không thể tả được khi trông thấy anh ta cố gắng làm ra vẻ người lớn, tự tạo cho mình một phong độ và che giấu nỗi bối rối của mình. Tôi để ý thấy ngay tay anh ta run lên khi đưa lên cạnh chiếc mũ kêpi... Tôi những muốn ôm chầm lấy anh ta, bởi vì anh ta hoàn toàn đúng như tôi thầm mong: cái người đã chiếm hữu được người đàn bà này phải như vậy... Bà ta đã hiến thân không phải cho một kẻ chuyên đi quyến rũ đàn bà, một kẻ kiêu ngạo, không, mà là cho một chàng trai mới lớn, một người dịu dàng và trong trắng. Chàng trẻ tuổi đứng trước mặt tôi với thái độ hoàn toàn rụt rè. Cái nhìn tò mò của tôi, sự đón tiếp nồng nhiệt của tôi còn làm anh ta thêm bối rối: hàng ria mép nhỏ và thưa như lông tơ rung động đã để lộ rõ điều đó... Chàng trai này, người sĩ quan trẻ tuổi này, hẳn đã phải tự trấn tĩnh lắm mới khỏi òa lên khóc nức nở. “Xin ông tha lỗi cho tôi, cuối cùng anh ta nói, tôi muốn được nhìn thấy... bà ấy... một lần cuối cùng”. “Bất giác, ngoài ý định, tôi đưa bàn tay lên vai con người xa lạ đó, dìu anh ta như dìu một bệnh nhân. Anh ta nhìn tôi ngạc nhiên và trong cặp mắt anh ta, tôi đọc rõ một tình cảm yêu thương và biết ơn không bờ bến... giây lát đó, chúng tôi đã hiểu rõ giữa hai chúng tôi có một sự gắn bó... chúng tôi cùng đi về phía người quá cố... Bà ta nằm đó, trắng toát trong tấm vải liệm trắng - tôi cảm thấy sự có mặt của tôi ở bên cạnh là điều đau khổ cho anh ta... tôi lùi lại để anh ta một mình bên bà ta... Anh ta đến sát cạnh người đàn bà, chầm chậm, bước đi run rẩy và nặng nhọc... qua vai anh ta, tôi thấy sự bàng hoàng, nỗi đau xé lòng mà anh ta đang phải chịu đựng... anh ta đi như là... như là một người vừa đi vừa đối mặt với trận cuồng phong... Và bỗng nhiên, anh quỳ sụy xuống trước giường... đúng như tôi đã quỵ xuống... “Tôi lập tức lao tới, nâng anh ta dậy và đặt anh ta ngồi lên một chiếc ghế. Anh ta không e thẹn nữa và nỗi đau khổ của anh thoát ra thành những tiếng nức nở. Tôi không thể nói được gì - chỉ bất giác đưa mấy ngón tay vuốt mái tóc vàng hoe mềm mại như trẻ con của anh ta... Anh ta nắm lấy tay tôi... hết sức nhẹ nhàng, tuy nhiên vẫn để lộ nỗi lo lắng... và bỗng nhiên tôi cảm thấy anh ta tha thiết nhìn tôi: “- Bác sĩ ơi, xin ông hãy cho tôi biết sự thật, - anh ta lắp bắp, - có phải bà ấy tự sát hay không? “- Không”. Tôi trả lời. “- Vậy thì một người nào đó... tôi nghi... một người nào đó đã gây nên cái chết này? “- Không”, tôi lại trả lời, mặc dầu tôi cảm thấy cần phải gào lên với anh ta: Tôi! Tôi! Tôi! Và anh nữa! Cả hai chúng ta!... Và tính ương ngạnh của bà ta, tính ương ngạnh tai hại của bà ta! “Nhưng tôi tự kìm lại được và nhắc một lần nữa: “- Không, không ai có lỗi trong vụ này. Đó là số phận của bà ta!” “- Tôi không thể tin điều đó được, anh ta rên rỉ, tôi không thể tin điều đó. Mới ngày hôm kia bà ta còn dự khiêu vũ, còn mỉm cười với tôi, vừa nhảy vừa ra hiệu cho tôi. Sao lại có thể như thế? Sao lại có thể xảy ra như vậy được. “Tôi bịa ra một câu chuyện dài dòng. Ngay cả với anh ta, tôi cũng không tiết lộ điều bí mật. Những ngày tiếp đó, chúng tôi chuyện trò với nhau như hai anh em, nét mặt chúng tôi có thể nói là tràn ngập ánh sáng của thứ tình cảm đã gắn bó chúng tôi với nhau... mà chúng tôi không thể thú nhận với nhau; nhưng chúng tôi cũng không vì vậy mà kém phần cảm thông rằng toàn bộ cuộc đời của hai chúng tôi đều gắn bó với người đàn bà này... Đã nhiều lần lời nói ứ nghẹn ở cổ tôi, tôi thèm khát được nói hết với anh ta biết chừng nào; tuy nhiên, lúc đó tôi cắn chặt môi lại. Anh ta không hề biết bà ấy mang trong bụng đứa bé mà anh ta là người cha... rằng đứa con, đứa con thuộc về anh ta đó đáng lý ra tôi đã phải giết chết, và bây giờ bà ta đã mang nó xuống vực thẳm cùng với mình. Thế mà chúng tôi chỉ nói với nhau về bà ta suốt trong những ngày tôi phải tạm lánh ở nhà anh ta... bởi vì - tôi bỏ sót không kể với ngài điều đó - người ta đang lùng tôi... lúc chồng bà ta về đến nơi thì quan tài đã đậy nắp... lão ta không hề tin bản xác nhận... mọi người xì xào đủ thứ chuyện... và lão ta đi lùng tôi. Nhưng tôi không thể chịu đựng nổi việc gặp gỡ người đàn ông này, con người mà tôi biết rằng vì hắn bà ta phải đau khổ... Tôi ẩn náu... trong bốn ngày, không ra ngoài, cả hai chúng tôi đều không rời khỏi nhà... Để giúp tôi trốn thoát, người tình của bà ta đã đăng ký với một tên giả lấy vé tàu cho tôi... Như một tên ăn cắp, ban đêm tôi lén xuống boong tàu để không ai nhận ra tôi... Tôi bỏ lại hết những gì tôi có... nhà cửa, công việc trong suốt bảy năm ròng, toàn bộ tài sản của tôi, mặc cho bất kỳ ai muốn lấy gì thì lấy... và nhà cầm quyền chắc chắn đã xóa tên tôi trong sổ nhân sự vì tôi đã bỏ nhiệm sở không xin phép... Nhưng tôi không thể sống thêm nữa trong ngôi nhà ấy, trong thành phố ấy, trong cái xứ sở, nơi mà mọi cái đều gợi cho tôi, nhớ đến bà ta... Như một tên ăn cắp, tôi bỏ trốn giữa ban đêm, chỉ để trốn bà ta, chỉ để quên đi... “Nhưng lúc tôi xuống tàu... ban đêm... lúc nửa đêm... anh bạn sĩ quan tiễn chân tôi... lúc ấy... lúc ấy... vừa đúng lúc họ đang dùng một cần cẩu nhỏ, kéo cái gì... hình nhữ nhật và đen... chiếc quan tài của bà ta, ông nghe rõ chứ, chiếc quan tài của bà ta... Bà ta đã đuổi theo tôi đến tận đây, như tôi đã đuổi theo bà ta... và tôi đã chứng kiến cảnh tượng đó mà ngoài mặt phải vờ làm ra vẻ thờ ơ, bởi vì chồng bà ta ở đó... Hắn sẽ theo cỗ quan tài đến tận nước Anh, tôi nghĩ vậy... Có thể về đấy hắn sẽ cho khám nghiệm tử thi... hắn đã chiếm đoạt bà ta... bây giờ thì một lần nữa, bà ta lại thuộc về hắn... bà ta không còn là của chúng tôi nữa... của hai chúng tôi... Nhưng lúc nào tôi cũng ở đấy... tôi sẽ theo bà ta đến cùng... hắn sẽ không bao giờ khám phá được điều gì, nhất định phải làm như vậy... Tôi biết cách giữ gìn bí mật của bà ta, chống lại mọi mưu toan... chống lại tên vô lại mà bà ta đã phải trốn chạy hắn, tìm đến cái chết. Hắn sẽ không biết gì hết. Không hề biết tí gì..., bí mật của bà ta thuộc về tôi, chỉ mình tôi thôi... “Ngài có hiểu được không... hiểu được vì sao lúc này tôi không thể nhìn mặt mọi người... tôi không thể nghe tiếng cười của họ... những khi họ ve vãn nhau và quấn quít với nhau từng cặp... Quan tài bà ta đặt ở kia, trong đám hàng hóa, giữa những kiện chè và những quả dừa... Tôi không thể đến đấy được vì cửa khóa... nhưng tôi biết, mọi giác quan của tôi đều gào thét đòi nó lại cho tôi, và tôi không quên nó lấy một giây... ngay cả khi dương cầm réo rắt và tôi nghe thấy họ nhảy tănggô... Thật là ngu ngốc, biển cả cuộn sóng chứa đựng hàng triệu người chết, dưới mỗi tấc đất người ta dẫm lên đều có một xác chết thối rữa..., thế mà tôi không thể... không thể chịu nổi những buổi khiêu vũ mang mặt nạ và tiếng vang của những chuỗi cười dâm dật đến thế... Người đàn bà xấu số này, tôi vẫn nhìn thấy bà ta và biết bà ta đòi hỏi gì ở tôi... tôi biết lắm, tôi còn một nghĩa vụ phải làm tròn... tôi vẫn chưa hết nợ... bí mật của bà ta còn chưa được cứu thoát... bà ta còn chưa buông tha tôi. * * * Một tiếng động vọng đến từ giữa con tàu, những bước chân kéo lê và lộp cộp: các thủy thủ bắt đầu rửa boong. Anh ta giãy nẩy lên như bị bắt quả tang: trên nét mặt căng thẳng lúc này hiện lên nỗi lo âu. Anh ta đứng lên và thầm thì: “- Tôi đi đây... tôi đi đây...” Thật đau lòng khi phải thấy cái nhìn tuyệt vọng của anh ta, cặp mắt anh ta sưng húp và đỏ ngầu do uống nhiều hay khóc nhiều: tôi cảm thấy trong vẻ hạ mình của anh ta có nỗi hổ thẹn, hổ thẹn quá chừng, vì đêm qua đã không kìm nén được mà đi thổ lộ với tôi điều bí mật mà anh ta mang trong lòng. Bất giác tôi nói với anh ta: “- Nếu anh cho phép, tôi sẽ đến thăm anh chiều nay tại căn buồng của anh...” Anh ta nhìn tôi - một cái nhếch mép nhạo báng, nghiệt ngã, trâng tráo làm môi anh ta mím lại rồi anh ta nói, có chút gì ma quái trong giọng nói của anh ta, khiến cho tiếng nào cũng sai lạc đi: “- A ha... cái nghĩa vụ cứu giúp trứ danh của ngài... a ha... với cái câu phương ngôn của ngài, ngài đã thôi thúc tôi phun ra hết. Nhưng tôi, thưa ngài, tôi xin cảm ơn ngài: Ngài đừng tưởng rằng nỗi đau khổ của tôi được nhẹ bớt khi tôi đã phơi bày hết tâm can trước mặt ngài. Đời tôi hỏng quá rồi, không ai còn có thể cứu được nữa... tôi đã phục vụ một cách vô tích sự cho chính phủ Hà Lan đáng kính... khoản phụ cấp của tôi mất trắng, tôi trở về Âu châu nghèo như con chó... một con chó rên rỉ theo sau một cỗ quan tài. Một Amok lao đầu chạy trong cơn điên không thể không bị trừng phạt. Cuối cùng, sẽ có người đánh quỵ hắn... và tôi cũng sắp đi đến điểm chót... Không, thưa ngài, tôi xin cảm ơn ngài nhã ý của ngài... Ở trong buồng, tôi còn có mấy bạn đồng hành... vài chai uytki ngon luôn luôn an ủi tôi và cả người bạn cố tri của tôi mà rủi thay tôi đã không quay trở về kịp thời với nó, đây là khẩu Brôninh chân thực của tôi; sự cứu giúp cuối cùng của nó còn công hiệu hơn mọi thứ chuyện phiếm... Tôi xin ngài, ngài đừng bận lòng... cái quyền duy nhất còn lại của con người phải chăng là được chết theo ý muốn... và hơn nữa, không phải chịu một sự giúp đỡ từ bên ngoài nó làm mình phiền muộn. Anh ta nhìn tôi một lần nữa, vẻ mỉa mai... thậm chí là khiêu khích nữa; nhưng tôi hiểu điều đó, đó chỉ là bề ngoài, cái bề ngoài che giấu sự tủi nhục, tủi nhục vô hạn. Rồi anh ta cúi đầu, quay lưng lại phía tôi, không chào, dáng đi nặng nề và rất chập chững, anh ta đi về phía các căn buồng, xuyên qua boong tàu lúc đó đã tràn ngập ánh sáng. Tôi không gặp lại anh ta nữa. Tôi đã hoài công tìm anh vào buổi chiều và ban đêm sau đó ở chỗ anh ta thường ngồi. Anh ta vẫn biệt tăm và tôi đã tưởng mình nằm mơ hay là ma quỷ hiện hình, nếu giữa lúc đó, một hành khách khác mang băng đen ở tay không làm tôi chú ý; đó là một thương gia lớn người Hà Lan có bà vợ, theo người ta nói, chết về bệnh nhiệt đới. Tôi thấy ông ta đi đi lại lại lánh xa mọi người, vẻ mặt nghiêm trang và phiền muộn; ý nghĩ rằng tôi biết rõ nỗi ưu tư, sâu kín nhất của ông ta đã gây cho tôi một nỗi sợ hãi bí hiểm; khi ông ta đi qua, tôi quay mặt đi để khỏi để lộ qua cái nhìn là tôi biết hơn ông ta về điều đang làm ông ta đau khổ. * * * Ở bến cảng Naplơ lúc ấy xảy ra một chuyện kỳ lạ mà tôi tin là phải tìm sự giải thích trong câu chuyện người khách lạ đã kể với tôi. Phần đông hành khách đã rời bến, bản thân tôi cũng đến rạp hát và sau đó tới một quán cà phê sáng trưng của Via Roma. Khi chúng tôi đi canô về tàu, tôi ngạc nhiên thấy vài chiếc thuyền đốt đuốc và đèn đất đi vòng quanh tàu tìm kiếm, trong lúc ở bên trên, trong bóng tối của mạn tàu, những người hiến binh đi đi lại lại một cách bí ẩn. Tôi hỏi thủy thủ xem chuyện gì đã xảy ra. Anh ta lảng tránh câu hỏi của tôi bằng cách làm tôi hiểu ngay là anh được lệnh im lặng, và ngay cả ngày hôm sau, khi yên tĩnh đã trở lại và không còn một dấu vết gì về sự việc lôi thôi xảy ra, con tàu tiến về Giên, người ta cũng không biết gì hơn. Chỉ mãi về sau, tôi mới được đọc trong những tờ nhật báo nước Ý bài tường thuật hoang đường về cái gọi là tai nạn xảy ra ở bến cảng Naplơ. Báo chí nói rằng đêm hôm đó người ta phải chuyển từ tàu sang canô một chiếc quan tài của một mệnh phụ ở xứ thuộc địa của Hà Lan và người ta đã chờ đến lúc trên tàu hết náo nhiệt để tránh cho hành khách phải chứng kiến cảnh tượng đó. Trong lúc, trước mặt người chồng, cỗ quan tài trượt theo chiếc thang bằng thừng, một vật nặng từ tầng trên của con tàu bỗng rơi xuống biển, kéo theo cả chiếc quan tài, cùng những người phu khiêng và ông chồng. Một tờ báo cả quyết rằng một người điên đã từ tầng cao trên lan can nhảy xổ vào chiếc thang; tờ khác nói là sợi dây thừng chịu đựng một trọng lượng quá lớn đã bị đứt; dầu sao, công ty hàng hải hình như đã tìm mọi cách để giấu giếm sự thực. Nhờ những chiếc canô và không phải là không chật vật, người ta đã vớt được những người phu khiêng và chồng người đàn bà xấu số bình an vô sự; trái lại, chiếc quan tài bằng chì đã trôi tuột xuống đáy biển thì không thể kéo lên được. Một tin ngắn gọn khác cũng đồng thời được đăng trên báo cho biết người ta đã vớt được ở bến cảng xác một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần. Tin này không hề làm dư luận quần chúng xôn xao. Không ai nghĩ rằng nó có thể liên quan với câu chuyện hoang đường về chiếc quan tài; còn về phần tôi, vừa đọc xong ghi nhanh đó, tôi thấy hình như đằng sau tờ báo của tôi hiện lên bộ mặt nhợt nhạt và cặp kính lóe sáng của một bóng ma. BỘ SƯU TẬP VÔ HÌNH Ở ga thứ hai sau Đretxđen, một người đàn ông đã đứng tuổi bước vào buồng toa xe của tôi. Ông ta lễ phép chào, đoạn ngồi xuống ngước nhìn tôi và gật đầu với tôi như với một người quen cũ. Ông mỉm cười vui vẻ nhắc lại tên mình khiến tôi nhớ lại ngay. Ông là một trong những nhà buôn đồ cổ có tiếng nhất ở Beclin. Thời bình tôi đã mua của ông ta, nhiều cuốn sách và bút tích cổ. Thoạt đầu chúng tôi trao đổi vài lời khách sáo. Bỗng nhiên, ông nói với tôi. “Tôi phải kể ông nghe tôi vừa ở đâu về. Câu chuyện tình cờ tôi sắp kể quả thật hết sức lạ kỳ, tôi chưa hề gặp suốt trong hơn ba mươi bảy năm trong nghề. “Hẳn ông cũng thừa biết hiện giờ hàng mỹ thuật bán chạy như thế nào kể từ khi đồng tiền mất hết giá trị. Bọn mới giàu nổi lên bỗng tỏ ra mê say những tranh tượng Đức Mẹ, những sách in cổ, những bức tranh cổ in tay. Bọn tôi không tài gì kiếm đủ hàng cho họ. Lại phải đề phòng không thì họ vét nhẵn cả cửa hàng. Nếu cứ để mặc họ thì có dễ họ sẽ cướp luôn cả mấy cái khuy măng xét và chiếc đèn bàn của chúng tôi. Thành thử chúng tôi thực khốn khổ vì cứ phải luôn luôn cung cấp cho họ những món hàng mới. Xin ông thứ lỗi vì đã dùng từ “món hàng “để gọi những vật mà chúng ta vẫn tôn trọng. Nhưng bọn họ đã làm chúng tôi quen nhìn nhận một cuốn sách in cổ quý báu tương đương với một món tiền bao nhiêu đô la đấy và một họa phẩm của Ghecxinô như một món tiền mấy tờ giấy bạc. Không còn cách nào chống lại nạn quấy rầy của bọn khách hàng điên cuồng đó. “Hàng bị bọn chúng lột hết nhẵn, tôi đành chỉ còn đóng cửa tiệm lại. Tôi xấu hổ khi thấy những gian hàng đã nổi danh từ thời ông nội tôi nay chỉ còn bày lăn lóc vài món đồ cũ mà không một anh bán hàng rong nào dám bày lên xe của mình. Trong lúc đang lúng túng như vậy tôi chợt nảy ra ý định duyệt lại danh sách những khách hàng cũ để cố tìm ra một vị nào mà tôi có thể mua lại của họ một vài món mà họ có hai. Những danh sách đó khi nào cũng là một thứ bãi tha ma, nhất là vào thời buổi này. Thực vậy, tôi đã chẳng tìm thấy gì đáng kể: phần lớn khách hàng cũ của chúng tôi đã qua đời hoặc đã bán hết những bộ sưu tập của họ từ lâu. Họa hoằn có người còn sống thì cũng rõ ràng là không đem lại hy vọng gì. Vừa lúc đó, tình cờ tôi đụng đến những bức thư của một khách hàng lâu đời nhất của chúng tôi. Từ hồi chiến tranh mới bùng nổ năm 1914 đến nay không thấy ông ta gửi đơn đặt hàng về nữa. Thư từ giao dịch của ông ta - điều này tôi không nói quá - đã bắt đầu từ sáu chục năm về trước. Ông đã có quan hệ với thân phụ và ông nội tôi. Tuy vậy, tôi nhớ là từ khi tôi quản lý cửa hàng này, chưa có lần nào ông ta bước vào. Tất cả những cái đó cho phép tôi có thể đoán đây là một con người kỳ dị, tính nết hơi buồn cười, cổ lỗ, một trong những người kỳ dị, độc đáo mà Menzen và Xpitvây đã khắc họa và đôi khi người ta vẫn còn gặp trong các tỉnh lẻ của chúng ta. Thư ông viết chữ nắn nót, những khoản tiền được gạch dưới bằng thước kẻ và nét mực đỏ. Để tránh mọi nhầm lẫn, mỗi con số ông ta viết hai lần và để tiết kiệm, ông đã sử dụng những tờ giấy trắng lọc ra từ các bức thư nhận được và tự tay làm lấy phong bì. Ngoài chữ ký của ông ta, những tài liệu kỳ dị đó còn mang hàng loạt những danh hiệu: cựu cố vấn kiểm lâm, trung úy dự bị, huân chương thập tự hạng nhất. Là cựu chiến binh của cuộc chiến tranh năm bảy mươi, nếu còn sống nay ông cũng phải tám mươi tuổi rồi. Mà người tiểu thị dân tằn tiện một cách kỳ cục đó có những phẩm cách khác thường của nhà sưu tập. Ông ta rất sành về tranh in nổi và tỏ ra có một khiếu thẩm mỹ tinh tế. Xem kỹ các đơn đặt hàng của ông ta, tôi nhận thấy vào cái thời buổi mà với một đồng tale người ta có thể mua được những bản tranh khắc gỗ đẹp nhất, con người tỉnh lẻ này đã góp nhặt dần và không ai ngờ ông ta đã thu thập được một bộ tranh khắc gỗ rất có thể cạnh tranh với những bộ sưu tập nổi tiếng nhất của bọn người mới giàu nổi lên. Quả thật, những bức tranh trước kia ông ta mua của chúng tôi với một số tiền rẻ rúng, vài đồng mác, giờ đây quý giá vô cùng. Hơn nữa, tứ đó có thể đoán được rằng chắc chắn ông ta cũng đã thành công như thế trong việc mua hàng ở các nhà buôn khác và đã không bỏ lỡ dịp trong những lần họ bán đấu giá. Thực ra thì từ năm 1914 chúng tôi không có tin tức gì về ông ta. Nhưng tôi quá tường tận về các cuộc giao dịch nên không thể có việc bán gộp cả một bộ sưu tập quan trọng như vậy mà tôi lại không biết. Do đó, tôi kết luận rằng nhà sưu tập kỳ lạ đó vẫn còn sống hoặc giả kho báu của ông vẫn nằm trong tay những người thừa kế. Rất bồn chồn, ngay hôm sau, tức là chiều hôm qua, tôi lên đường tới một trong những thành phố hẻo lánh nhất của xứ Xắcxông. Rời khỏi ga xép tôi uể oải đi theo đường phố chính của cái thành phố cổ. Tôi tưởng chừng trong những căn nhà lụp xụp này không thể lại có một ngôi nhà chứa đựng những bức tranh khắc đồng trác tuyệt nhất của Rămbrăng cùng những bức họa in khắc của Đurơ và Mantơnha, tất cả đều trọn bộ và được bảo quản tuyệt vời. Thật kinh ngạc xiết bao khi tại bưu cục tôi được biết rằng ngài cố vấn kiểm lâm vẫn còn sống. Thú thật, tôi rất xúc động khi quyết định đến nhà ông ta trước bữa ăn sáng. Tìm nhà không khó khăn gì. Ông ta ở tầng ba một ngôi nhà lụp xụp trong tỉnh, hẳn là tay thầu khoán đã cho xây vội vàng khoảng năm 1860. Ở tầng hai là một người thợ may. Ở tầng ba, cửa phía trái mang tấm biển để tên một nhân viên bưu điện. Cuối cùng, ở bên phải tôi thấy một tấm biển mang tên ngài cố vấn kiểm lâm. Tôi rụt rè bấm chuông. Lập tức, một bà già tóc bạc, đầu đội chiếc mũ trùm sạch sẽ xinh xắn ra mở cửa. Tôi đưa bà tấm danh thiếp của tôi và ngỏ ý muốn được gặp ngài cố vấn. Bà ta nhìn tôi vẻ ngạc nhiên và ngờ vực. Trong cái thị trấn tỉnh lẻ này và trong ngôi nhà tầm thường này, một cuộc viếng thăm hẳn phải là một sự kiện phi thường. Bà lão lễ phép xin tôi chờ cho một lát. Bà cầm tấm danh thiếp của tôi và biến vào căn phòng bên. Tôi nghe thấy tiếng bà thì thào. Đột nhiên, tiếng một người đàn ông kêu lên: - A! Ông R... ở Beclin, nhà buôn tranh cổ nổi tiếng... mời ông ấy vào. Được ông đến thăm, ta mừng lắm! Bà lão chất phát trở lại, chân bước chầm chậm, bà mời tôi vào phòng khách. Treo mũ và can xong, tôi đi theo bà. Ở giữa căn phòng là một ông già to lớn, ria mép rậm rạp, chiếc áo mặc trong nhà bận sát người như người lính mặc đồng phục, ông đứng và thân mật chìa tay cho tôi. Cái cử chỉ niềm nở tự nhiên đó tương phản một cách lạ lùng với dáng điệu cứng đờ không động đậy của ông. Ông cố vấn không bước lại đón tôi. Hơi ngạc nhiên, tôi lại gần để nắm lấy tay ông. Khi tôi muốn nắm lấy tay ông, tôi nhận thấy bàn tay đó không hướng tìm tay tôi mà chỉ giơ ra chờ đợi. Lập tức, tôi đoán ra hết: ông này mù. Từ hồi thơ ấu tôi vẫn luôn luôn cảm thấy có phần lúng túng khi đứng trước một người mù. Tôi chưa bao giờ nén được tình cảm ngượng ngập khi nghĩ rằng một người có thể còn đang sống mà lại không nhìn thấy tôi như tôi nhìn thấy họ. Bởi vậy, tôi phải cố tự trấn tĩnh khi thấy đôi mắt đã tắt ngấm nhìn chăm chú vào khoảng không dưới cặp lông mày trắng bạc dày rậm. Ngay sau đó, ông ta đã khiến tôi hết lúng túng. Ông lắc mạnh tay tôi và thân ái chào mừng tôi. - Cuộc viếng thăm thật bất ngờ - ông vừa nói vừa cười - làm thế nào có thể tưởng tượng được một trong các ngài ở Beclin lại quá bước tới cái xó tỉnh lẻ của chúng tôi... Ồ! Ồ! Coi chừng! Hẳn đây là một cuộc viếng thăm vụ lợi!... Chúng tôi thường nói rằng: “Hãy đóng cửa lại và coi chừng túi tiền của anh khi thấy đám người lang thang đến.”... Mà phải! Tôi đoán đúng vì sao ông đến thăm tôi... Công việc buôn bán tại nước Đức khốn khổ của chúng ta giờ đây gặp khó khăn. Khách mua hàng không có! Thế là các ngài nhà buôn nhớ lại khách mua hàng cũ và đi tìm họ như tìm những con cừu lạc... Nhưng đến nhà tôi e rằng ông không đạt mục đích đâu. Bọn tôi, những người đã rút lui tội nghiệp có được miếng bánh trên bàn ăn là chúng tôi hể hả rồi. Chúng tôi không còn mua nổi thứ gì nữa với cái giá mà các ông đã nâng lên khủng khiếp như hiện nay... Chúng tôi đành chịu khoanh tay vĩnh viễn thôi. Tôi trả lời ông ta rằng ông đã đoán lầm về mục đích cuộc viếng thăm của tôi. Không phải tôi đến để bán cái gì cho ông. Nhân đi qua miền này, tôi không muốn bỏ lỡ dịp để tỏ lòng kính trọng đối với một trong những khách hàng lâu năm nhất của chúng tôi và một trong những nhà sưu tập lớn nhất của nước Đức. Nghe vậy, nét mặt ông già đổi khác hẳn, biểu lộ một niềm vui lớn và một niềm tự hào bất ngờ. Ông quay về phía mà ông đồ chừng là bà vợ ông đứng đó, như để nói: “Bà nó nghe thấy chứ”. Bỏ giọng gay gắt cứng nhắc lúc đầu, ông vui vẻ và cảm động nói với tôi: - Ông thật là có nhã ý... Tuy nhiên, ông sẽ không nhọc công vô ích. Tôi sẽ đưa ông chiêm ngưỡng những thứ mà người ta không trông thấy thường ngày, ngay cả ở cái thành phố Beclin phong phú của ông, những bức họa mà người ta không thể tìm được một phiên bản nào đẹp hơn, ngay tại phòng trưng bày Hoàng gia ở Viên hay Pari. Ấy là vì sau khi sưu tập sáu chục năm ròng thì, cuối cùng, người ta cũng thu thập được những thứ không thể tìm thấy ở vỉa hè, Luidơ, bà đưa chìa khóa tủ cho tôi. Vừa lúc đó một điều bất ngờ xảy ra. Bà lão nhỏ nhắn vẫn đứng phía sau ông cụ và từ nãy vẫn nghe chúng tôi nói chuyện với nụ cười kín đáo, lúc này vẫn giơ hai tay về phía tôi, vẻ cầu khẩn. Đồng thời bà lắc đầu lia lịa. Thoạt đầu, thứ ngôn ngữ câm lặng đó khiến tôi chẳng hiểu gì. Bà lại gần ông chồng, đặt tay lên vai ông và nói: - Nhưng này, Hecvác, mình không hỏi xem ngài đây có thời giờ để xem bộ sưu tập ngay bây giờ không. Sắp trưa rồi. Mà sau bữa ăn mình còn phải nghỉ một tiếng đồng hồ, thầy thuốc bắt buộc như vậy cơ mà. Có lẽ để sau bữa ăn mình hãy đưa cho ngài đây xem bộ sưu tập thì hơn. Ta sẽ dùng ly cà phê. Lúc đó Annơ Mari sẽ có nhà. Nó sành về việc này hơn tôi. Nó có thể giúp mình. Vừa nói xong bà lão lại làm điệu bộ cần khẩn qua vai ông chồng. Thế là tôi hiểu bà muốn gì. Tôi phải từ chối việc xem bộ sưu tập ngay lúc này. Tôi liền viện cớ đã có hẹn bữa ăn sáng ở một nơi khác. Được lưu lại đây là điều thích thú và một vinh dự đối với tôi, nhưng tôi có việc bận từ đây đến ba giờ chiều. Sau đó, tôi sẽ vui vẻ quay lại. Ông cụ tỏ vẻ bực bội như một đứa trẻ bị lấy mất thứ đồ chơi. - Đương nhiên - ông lầu bầu - các ngài ở Beclin bao giờ chẳng rất bận rộn. Nhưng lần này thì hẳn là ngài thu xếp được thời gian. Không phải là xem ba hay bốn bức tranh thường mà là hai mươi bảy tập tranh, mỗi tập là của một nghệ sĩ và tất cả đều trọn bộ... Thôi được, y hẹn vào ba giờ nhé, nhưng ngài phải đến đúng giờ đấy, nếu không thì không kịp xem hết đâu. Ông cụ lại giơ bàn tay quờ quạng về phía tôi và nói: - Rồi ngài sẽ được thích thú, hay nói là ngài sẽ ghen tị với tôi thì đúng hơn! Ngài càng ghen tị tôi càng khoái. Bọn sưu tập chúng mình ai cũng vậy: chúng mình muốn có tất cả, còn người khác chẳng có gì hết. Ông thân ái lắc tay tôi. Bã lão nhỏ nhắn tiễn tôi ra tận cửa. Tôi nhận thấy bà có điều gì bứt rứt lúng túng, một nỗi lo ngại mà bà cố giấu tôi. Lúc sắp chia tay, bà lắp bắp, giọng nghẹn ngào: - Thưa, Anna-Mari, con gái tôi có thể tới khách sạn đón ngài được không?... Như vậy tiện hơn... vì nhiều lẽ... - Được chứ ạ, tôi rất vui lòng. - Tôi đáp. * * * Một giờ sau - lúc tôi vừa ăn xong tại một khách sạn nhỏ ở Khu Chợ - một cô gái đã luống tuổi ăn bận rất giản dị, bước vào phòng ăn và đưa mắt tìm tôi. Tôi đến gặp cô và nói tôi sẵn sàng theo cô về nhà để xem bộ sưu tập. Cô gái đỏ mặt và cũng lộ vẻ bối rối như bà mẹ lúc nãy, cô xin trước hết được nói chuyện với tôi. Mỗi khi toan nói, mặt cô lại đỏ ửng. Hai bàn tay cô vân vê nếp áo. Cuối cùng, cô bắt đầu ngập ngừng và càng bối rối hơn. - Mẹ tôi bảo đến tìm ngài... mẹ con chúng tôi muốn xin ngài... muốn nói để ngài biết trước khi ngài đến nhà tôi... Đương nhiên, cha tôi muốn khoe với ngài bộ sưu tập của ông cụ... Bộ sưu tập đó... không còn trọn bộ nữa... nó thiếu một số bản... chao ôi, thậm chí thiếu rất nhiều... Cô gái thở dài. Sau đó nhìn thẳng vào mặt tôi, nàng nói, giọng hổn hển. - Tôi phải thưa thật với ngài. Ngài cũng biết bây giờ thời buổi khó khăn; hẳn ngài sẽ hiểu tất cả... Hồi đầu chiến tranh, cha tôi bị mù... Trước đó, ông cụ đã bị đau mắt. Mặc dầu đã bảy mươi sáu tuổi, cụ vẫn cứ muốn ra mặt trận. Vì quân đội tiến không được nhanh như năm 1870, nên ông cụ bị xúc động mạnh và chỉ trong thời gian ngắn, sự xúc động đó đã cướp mất đôi mắt cụ... Ngoài cái tật ấy ra, cụ vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Mới gần đây thôi, ông cụ còn cuốc bộ đi xa. Nhưng, giờ đây, chấm dứt cả việc đi dạo chơi nữa. Ông cụ chỉ còn độc nhất một thú vui là bộ sưu tập. Ngày ngày, ông cụ ngắm nghía nó... hay nói đúng hơn, ông cụ không nhìn thấy nó nữa. Tuy thế mà chiều nào cũng vậy, ông cụ vẫn lấy các tập tranh ở ngăn tủ ra, đưa tay rờ rẫm từng bức, hết bức này đến bức kia, theo thứ tự ông cụ đã xếp đặt và thuộc lòng từ nhiều năm nay... Ông cụ chẳng còn quan tâm đến chuyện gì khác. Tôi phải đọc cho ông cụ nghe các tin tức bán đấu giá đăng trên báo. Giá càng lên cao, ông cụ càng sung sướng... Bởi vì, đấy mới là điều khủng khiếp: cha tôi không biết chút gì về giá cả hiện nay, cũng như thời buổi chúng tôi đang sống... Ông cụ không biết rằng chúng tôi đã mất sạch, rằng tiền lương hưu hàng tháng của ông cụ chỉ đủ cho chúng tôi sống không quá hai ngày... Than ôi, chưa hết... anh rể tôi chết trận đã để lại một vợ góa và bốn đứa con nhỏ... Cha tôi không hề biết những nỗi túng thiếu của chúng tôi. Mới đầu chúng tôi đã tằn tiện chi tiêu hơn trước. Chẳng được mấy nỗi. Rồi chúng tôi đã phải bán mấy thứ trang sức chúng tôi còn giữ lại được. Trời ơi! Khoản đó chẳng được bao nhiêu, bởi vì cha tôi đã tiêu sạch số tiền chúng tôi ki cóp dành dụm được vào việc mua tranh. Cho đến một ngày chúng tôi chẳng còn gì nữa. Chúng tôi không còn biết xoay sở ra sao. Thế rồi... mẹ con tôi đã bán bức tranh đầu tiên của bộ sưu tập. Cha tôi không bao giờ cho phép làm điều đó. Ông cụ không biết thời buổi khó khăn đến thế nào và phải xoay sở dữ lắm mới có nổi miếng ăn. Ông cụ không biết ta đã bại trận. Chúng tôi không đọc tin thời sự cho ông cụ nghe để cụ khỏi buồn bực. Bức tranh chúng tôi đã bán là một bức tranh khắc đồng rất quý của Rămbrăng. Người lái buôn trả chúng tôi mấy ngàn mác. Chúng tôi hy vọng đỡ lo trong vài năm. Nhưng ngài biết đấy, giá trị tiền bạc bây giờ. Chúng tôi gửi tiền vào nhà băng. Hai tháng sau đã hết sạch. Chúng tôi phải bán bức tranh thứ hai, rồi một bức nữa. Và bao giờ chúng tôi cũng nhận được tiền rất chậm, khi đến tay chúng tôi số tiền đã mất giá một phần. Sau đó, chúng tôi đưa ra bán đấu giá. Nhưng ở đó, họ cũng đánh lừa chúng tôi, mặc dù số tiền họ trả rất lớn. Đến lúc thu về hàng triệu bạc thì chỉ còn là những mớ giấy lộn. Cứ như vậy, tất cả các bức tranh, trừ một hai bức, đã bị hy sinh hết chỉ vừa đủ cho chúng tôi sống tùng tiệm với những nhu cầu thiết yếu nhất. Và ông cụ tội nghiệp không hề biết. Vì thế mẹ tôi mới lo sợ đến như vậy khi ngài tới... Đến khi ông cụ khoe bộ sưu tập với ngài thì ngài sẽ biết hết. Chúng tôi đã luồn vào khung tranh cũ những phiên bản hoặc những tờ giấy trắng sờ cũng na ná như những bức tranh cũ để ông cụ khỏi nghi ngờ khi sờ lên các tờ tranh. Ông cụ nhớ đích xác thứ tự do cụ sắp xếp. Miễn là ông cụ có thể sờ mó và đếm được các bức tranh là ông cụ cảm thấy vui sướng như xưa kia nhìn ngắm chúng. Vả lại, trong cái tỉnh nhỏ của chúng tôi, không có ai là người mà cha tôi cho là xứng đáng chiêm ngưỡng cái kho báu của cụ. Ông cụ mê từng bức đến mức cụ sẽ chết vì sầu muộn nếu biết rằng tất cả đã biến mất. Từ ngày ông giám đốc phòng tranh ở Đretxđen qua đời, ngài là người đầu tiên được ông cụ mời xem tranh. Bởi vậy, tôi cầu xin ngài... Nói đến đây, người phụ nữ đáng thương giơ hai cánh tay về phía tôi nhìn tôi, mắt đẫm lệ... ... Chúng tôi cầu xin ngài... ngài đừng làm cho ông cụ tôi đau khổ, ngài đừng làm mẹ con tôi đau khổ... ngài đừng phá vỡ cái ảo mộng cuối cùng của cha tôi. Ngài hãy giúp chúng tôi làm cho ông cụ tin rằng tất cả các bức tranh cụ sắp mô tả cho ngài xem vẫn thực sự còn đấy... Tôi dám chắc rằng nếu cụ mà ngờ vực thì ông cụ sẽ phiền muộn mà chết mất thôi. Có thể là mẹ con tôi đã có hành động không phải với ông cụ, nhưng chúng tôi không còn cách nào khác: trước hết, phải sống đã... và đời sống của bốn đứa trẻ mồ côi con chị tôi còn quan trọng hơn cả những tờ giấy đã bôi đen... cho đến giờ phút này chúng tôi chưa làm mất một niềm vui nào của ông cụ, chiều nào cụ cũng lần giở suốt ba tiếng đồng hồ các tờ tranh với niềm hạnh phúc trọn vẹn và nói chuyện với mỗi bức tranh như với một người bạn. Và hôm nay... có thể sẽ là ngày sung sướng nhất của ông cụ, vì từ bao nhiêu năm nay ông cụ vẫn mong đợi có dịp đưa cho một người am hiểu nghệ thuật xem ngắm cái kho báu của mình. Bởi vậy, tôi chắp tay van ngài, xin ngài đừng làm tan vỡ niềm hạnh phúc cuối cùng của ông cụ! Tất cả những điều đó cô ta nói với giọng thật xúc động đến nỗi tôi không sao diễn tả chính xác để ông thấy được. Hỡi ơi! Tôi đã gặp biết bao nhiêu người khốn khổ bị nạn lạm phát làm mất hết tài sản quý giá nhất của tổ tiên để lại. Nhưng lần này, số phận đã cho tôi gặp một trường hợp có một không hai làm tôi xúc động sâu sắc. Cố nhiên là tôi hứa giữ kín và hết sức giúp đỡ những người đàn bà tội nghiệp đó. Chúng tôi cùng đi về nhà cô ta. Trên đường, tôi sửng sốt khi được biết số tiền quá ít ỏi, người ta đã trả cho mẹ con cô ta và người ta đã lợi dụng sự ngờ nghệch của họ như thế nào. Điều đó càng làm tôi quyết tâm giúp họ. Chúng tôi lên cầu thang. Vừa tới ngưỡng cửa đã nghe thấy tiếng nói vui vẻ oang oang của ông cụ: Mời vào! Mời vào! Hẳn là đôi tai thính của người mù đã nhận ra tiếng chân chúng tôi trên cầu thang. - Ông Hecvac nhà tôi hôm nay không ngủ được. Ông lão cứ thấp thỏm đợi để đưa cho ngài xem kho báu của ông - bà lão nhỏ nhắn vừa nói vừa mỉm cười. Cô con gái nháy mắt, thế là bà mẹ đoán ngay được là tôi đã thuận lòng làm theo ý họ. Trên bàn đã bày sẵn một chồng tranh. Vừa bắt tay tôi, ông cụ đã không chút câu nệ mời ngay tôi ngồi xuống. - Thế là được rồi, ta bắt đầu! Nhiều tranh lắm mà... Các ngài ở Beclin thì chẳng khi nào có nhiều thời gian. Tập đầu tiên này là của nhà danh họa Đuyrơ, hầu như trọn bộ, rồi ông sẽ thấy đúng như vậy. Bức nào cũng đẹp, xin tự ông nhận xét. Ông cụ mở bức tranh đầu và nói: - Đây là con ngựa lớn. Hết sức thận trọng như sờ vào một vật dễ vỡ, ông cụ rút từ tập tranh ra một cái khung, trong khung là một tờ giấy trống trơn đã ố vàng. Ông cụ dè dặt lấy mấy đầu ngón tay nâng tấm khung tranh lên trước cặp mắt mù và ngắm nghía một cách hoan hỉ tuy không nhìn thấy gì. Khuôn mặt ông cụ bừng lên niềm cảm phục ngây ngất đến kỳ diệu. Đột nhiên, không rõ là phản chiếu của tờ giấy hay ánh sáng nội tậm, đôi nhãn cầu đã chết cứng của ông cụ lóe lên một tia sáng của một nhà tiên tri. - Thế nào, cụ nói - đã bao giờ ông thấy một phiên bản nào đẹp hơn không? Rõ nét đến thế, mọi chi tiết nhỏ nhất đều hiện lên rất rõ. Tôi đã so bản này với bản ở Đretxđen. Bản ấy nom nhờn nhợt và mờ. Còn gốc gác của nó. Ông hãy coi đây. Ông cụ lật tờ giấy và lấy ngón tay chỉ cho tôi một chỗ ở mặt sau đến nỗi tôi phải cố nhìn xem có dấu hiệu thật hay không. - Đây là dấu hiệu của bộ sưu tập Natlơ, đây là của bộ sưu tập của Rêmi và Exđailơ. Các nhà sưu tập trứ danh đó đâu có ngờ những bức tranh của họ có ngày lại rơi vào căn phòng nhỏ bé này. Tôi rùng mình khi thấy ông cụ tán dương một tờ giấy trắng. Và khi ông cụ dùng mấy đầu ngón tay chỉ cho tôi một cách cực kỳ chính xác những dấu hiệu của các nhà sưu tập chỉ còn lưu lại trong trí tưởng tượng của ông cụ, tôi bỗng cảm thấy như đang dự một buổi diễn trò ảo thuật. Nghẹn ngào, tôi không biết trả lời ông cụ ra sao. Giữa lúc hoảng hốt, tôi đưa mắt về phía hai người đàn bà và lại bắt gặp cử chỉ cầu xin của họ. Thế là tôi tự trấn tĩnh và đóng vai mà họ giao phó cho tôi. - A! Tôi kêu lên - một phiên bản tuyệt vời! Gương mặt ông cụ lập tức bừng sáng: - Cái đó chưa đáng kể - ông cụ đắc ý nói - tôi phải cho ông xem bức “U buồn “và bức “Say đắm”, một họa phẩm rực rỡ có một không hai. Coi thử, ông có nhìn thấy cái nét tươi mát, cái sắc điệu nồng nàn và mặt cát hoàn hảo hay không? Những ngón tay ông cụ lại lần theo những đường nét tưởng tượng: - Các nhà buôn tranh và các vị giám đốc bảo tàng ở Beclin cứ mà vàng mắt mất thôi. Ông cụ cứ thao thao bất tuyệt một cách đắc ý như vậy suốt hai giờ liền. Không, tôi không thể miêu tả với ông hiệu quả ma quái của cái trò đem khoe hàng trăm tờ giấy lộn mà ông lão khốn khổ vẫn tưởng đâu là những bức tranh thực mê ly, đến nỗi ông cụ miêu tả với tôi hết bức nọ đến bức kia không chút ngập ngừng và không thiếu một chi tiết nhỏ. Bộ sưu tập vô hình đã từ lâu tản mát khắp bốn phương trời, nhưng đối với ông lão mù lòa này, con người bị lừa vì lòng trắc ẩn, nó vẫn còn nguyên vẹn. Cảm hứng do ảo tưởng của ông cụ có cái gì dễ lây truyền khiến tôi cũng bắt đầu tin theo. Chỉ có một lần thiếu chút nữa thì lòng tin chắc chắn của một người mộng du nơi ông phải lùi bước: Cụ vừa mới khoe cái tinh vi của nét vẽ trên bức Angtiôpơ của Rămbrăng, tác phẩm trước đây phải nói là vô giá. Đầu ngón tay nhạy cảm của cụ trìu mến lần theo đường nét của bức vẽ mà xúc giác tinh tế nơi ông lại không cảm thấy vết nhám trên giấy. Vầng trán ông cụ liền sa sầm, ông cụ lẩm bẩm giọng ngập ngừng: - Đây đúng là bức Angtiôpơ cơ mà? Lập tức, trung thành với vai mình đang sắm, tôi cầm lấy tờ giấy trong khung và bắt đầu hăng hái miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ nhất bức tranh khắc đồng mà bản thân tôi vẫn nhớ như in. Lúc này nét mặt ông lão đang cau lại dãn hẳn ra. Tôi càng tán tụng kiệt tác đó thì những nét thô nhám và tàn tạ trên khuôn mặt ông cụ càng rạng lên niềm chân thành tươi tắn và niềm hoan hỉ sâu sắc. - Thế là cuối cùng cũng được gặp người hiểu biết đấy chứ, - ông cụ vừa nói vừa quay sang hai người đàn bà. - Rốt cuộc, cũng có người sành sỏi xác nhận với mình những bức tranh này là vô giá. Các người cứ trách tôi mãi là đã dốc hết tiền vào bộ sưu tập này. Tất nhiên là gay go rồi. Trong suốt sáu mươi năm trời, không bia, không rượu, không hút thuốc, không du lịch, không xem hát - chỉ có dành dụm cho bộ sưu tập! Nhưng rồi các người sẽ thấy: khi ta nằm xuống các người sẽ giàu có, giàu nhất tỉnh này, giàu ngang với những nhà giàu nhất ở Đretxđen. Lúc đó các người sẽ cảm tạ cái tính điên cuồng của ta. Chờ đến lúc đó, chừng nào ta còn sống sẽ không một bức tranh nào được lọt ra khỏi nhà này. Người ta mang ta đi trước rồi mới đến bộ sưu tập của ta. Vừa nói bàn tay nặng nề của ông cụ vừa vuốt ve những tập tranh trống trơn như vuốt ve một người thân yêu. Cảnh tượng kinh hãi và xúc động! Trong suốt những năm chiến tranh buồn thảm, chưa bao giờ tôi thấy một khuôn mặt rạng rỡ hạnh phúc lớn lao thuần khiết và trọn vẹn đến như vậy. Hai người đàn bà đứng bên ông cụ, vẻ thán phục như những thánh nữ ngất ngây trước mộ chúa phục sinh mà ta thường thấy trên những bức tranh in cổ. Niềm hạnh phúc của ông lão rọi sáng khuôn mặt nhăn nheo của họ, những cặp mắt tươi vui của họ nhòa lệ. Ông lão nghe những lời ca ngợi của tôi không biết chán. Ông không ngừng lật giở từng trang, khao khát uống từng lời tôi nói. Sau cùng, khi họ cất tập tranh giả mạo đi để bưng cà phê ra, tôi thở dài nhẹ nhõm. Còn ông cụ, niềm hân hoan bồng bột dường như làm cho ông trẻ ra đến ba chục tuổi. Ông kể cho tôi nghe nhiều giai thoại xung quanh việc mua tranh và những dịp may mắn của ông cụ. Say sưa vì hạnh phúc, chốc chốc cụ lại đứng dậy để sờ soạng cầm lấy một trong những bức tranh của mình. Cuối cùng, đến lúc tôi cáo từ, ông cụ hoảng hốt, giận dỗi và dậm chân như đứa trẻ. - Không được - ông cụ nói với tôi - ông mới chỉ được xem có một nửa kho báu của tôi. Ông cụ khăng khăng không chịu, hai người đàn bà phải khó khăn lắm mới can ngăn được, nói để ông cụ hiểu rằng không thể giữ tôi lại lâu hơn nữa, vì ở lâu thêm, tôi sẽ nhỡ chuyến tàu. Sau một cuộc kháng cự tuyệt vọng, ông cụ đành để tôi đi và nói với tôi bằng giọng hết sức xúc động. Cụ nắm lấy hai tay tôi, vuốt ve hai cánh tay tôi bằng những ngón tay nhạy cảm của người mù như muốn biết rõ về tôi hơn và muốn bày tỏ với tôi lòng yêu mến nhiều hơn mà lời nói chưa đủ. - Cuộc viếng thăm của ông mang lại cho tôi niềm vui quá lớn - ông cụ nói với giọng cảm động mà tôi không bao giờ quên được. - Được cùng với một người sành sỏi duyệt lại những bức tranh yêu quý của mình, tôi thấy là một nguồn an ủi quý báu. Nhưng ông cũng sẽ thấy, ông đến nhà một kẻ mù lòa khốn khổ không đến nỗi mất công toi. Tôi xin hứa với ông như vậy. Có bà nhà tôi đây làm chứng, tôi sẽ thêm vào chúc thư của tôi một khoản ủy quyền cho hãng buôn của ông sẽ đứng ra bán đấu giá bộ sưu tập của tôi. Chính hãng của ông được danh dự quản lý cái kho tàng chưa ai biết tới này cho tới ngày chúng sẽ tản mát đi khắp nơi. Xin ông hứa với tôi mỗi một điều là ông sẽ làm cho tôi một bảng mục lục thực đẹp. Nó sẽ là tấm bia mộ của tôi, tôi chẳng mong muốn gì khác. Tôi nhìn bà vợ và chị con gái ông cụ. Họ đứng nép chặt vào nhau. Thỉnh thoảng, cả hai cùng rùng mình như thể họ gắn liền thành một cơ thể đang run rẩy. Còn tôi, một nỗi xúc động huyền diệu khiến lòng tôi thắt lại khi ông lão tội nghiệp, không một chút ngờ vực, giao phó cho tôi việc bán một bộ sưu tập đã bay biến từ lâu. Cảm động, tôi hứa với ông cụ điều mà không bao giờ tôi thực hiện được. Cặp mắt đã tắt ngấm của ông cụ lại rạng lên. Những ngón tay ông cụ ve vuốt ép chặt tay tôi khiến tôi cảm thấy đó là tất cả linh hồn ông lão đã phó thác cho tôi. Hai người đàn bà tiễn tôi ra tận cửa. Họ không dám nói gì với tôi. Đôi tai thính nhậy của ông lão có thể nghe thấy cả những tiếng thì thào rất nhỏ. Nhưng những cặp mắt ngấn lệ của họ biểu lộ với tôi lòng biết ơn. Tôi xuống cầu thang bước lảo đảo như đi trong giấc mơ. Thâm tâm, tôi hổ thẹn. Tôi đã đến nhà mấy người nghèo khổ này như một thiên thần trong chuyện thần tiên. Tôi đã đem lại ánh sáng cho một người mù trong hai tiếng đồng hồ bằng cách chủ tâm nói dối và tôi đã góp phần vào sự gian trá một cách thành kính. Thực ra, tôi đến với ý đồ dùng mưu mua cho được vài bức tranh hiếm và quý. Nhưng cái tôi mang về được là cái này còn quý giá hơn nhiều: cái kỷ niệm về một tấm nhiệt tình sống động và thuần khiết, về một niềm hoan lạc tinh thần ngây ngất dành trọn vẹn cho nghệ thuật mà đã từ lâu người đời như không còn biết tới. Một niềm tôn kính sâu xa tràn ngập trái tim tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ mà thực tình chẳng biết vì sao. Ra tới đường phố, tôi nghe tiếng cửa sổ bật mở tung ra và có tiếng gọi tên tôi. Ông cụ cố nhìn rõi theo tôi bằng cặp mắt mù. Ông nhoài người quá mức ra phía trước đến nỗi hai người đàn bà phái níu đỡ lấy ông. Ông cụ vẫy mù xoa và kêu lên với tôi bằng giọng trong trẻo tươi vui của một đứa trẻ: “Lên đường may mắn nhé!”. Không bao giờ tôi quên được niềm hân hoan của con người ấy. Từ khung cửa sổ ông nhìn xuống đầu các khách qua đường đang bận rộn và đầy lo âu. Một thứ ảo giác đẹp đẽ giống như một đám mây mờ đã ngăn cách ông với thế giới thực tại cùng những xấu xa ô nhục của nó. Và tôi nhớ tới câu nói chí lý - hình như là của Gớt - “Những nhà sưu tập là những con người sung sướng”. NGƯỜI NỮ GIA SƯ Lúc này chỉ còn hai đứa bé gái trong phòng. Đèn đã tắt. Bóng tối vây bủa xung quanh, chỉ còn thấy lờ mờ bóng trắng của hai chiếc giường. Tiếng thở của hai đứa trẻ rất êm nhẹ, tưởng chừng chúng đã ngủ yên. - Này, - một giọng nhỏ nhẹ, gần như sợ hãi cất lên trong bóng tối. Đó là tiếng con em mười hai tuổi. - Cái gì thế? - Con chị ở giường bên hỏi lại. Nó chỉ hơn em có một tuổi. - Chị vẫn chưa ngủ, hay lắm, em có chuyện này muốn kể với chị. Không có tiếng trả lời. Chỉ thấy tiếng sột soạt trong giường. Con chị vùng dậy và tò mò nhìn sang phía em. Có thể thấy đôi mắt nó long lanh. - Chị biết không?... Em muốn nói với chị... Nhưng trước hết chị hãy trả lời em đã. Mấy ngày gần đây chị không nhận thấy ở cô giáo chúng mình có cái gì lạ lùng à? Con chị ngập ngừng ra chiều suy nghĩ. - Có chứ, nhưng không rõ là chuyện gì... Cô không nghiêm khắc như trước. Mới đây chị không làm bài tập liền trong hai ngày, thế mà cô chẳng nói gì cả. Rồi cô rất là... Chị chẳng biết nói thế nào... Chị cho rằng giờ đây cô chẳng buồn để ý đến chúng mình nữa, lúc nào cô cũng lánh riêng ra một chỗ và không chơi đùa với chị em mình như trước nữa. - Em cho rằng cô buồn mà không muốn để lộ ra. Ngay cả pianô, cô cũng không động đến. Hai chị em lại lặng yên. Con chị hỏi: - Em có chuyện gì muốn nói cơ mà? - Ừ, nhưng chị không được hở ra với bất cứ ai cơ. Đúng thế nhé, kể cả mẹ và bạn chị. - Ừ, yên trí, nhất định rồi! - Và nó sốt ruột gặng thêm: chuyện gì thế? - Thế thì được. Ban nãy chúng mình đi ngủ, em sực nhớ ra là em đã quên không chúc cô ngủ ngon. Tuy đã tháo giày nhưng em vẫn cứ đi chân không sang phòng cô, đi rất nhẹ, định làm cô bất ngờ. Em mở cửa rất khéo. Thoạt đầu tưởng cô không có trong phòng. Đèn sáng mà em không nhìn thấy cô. Bỗng nhiên em sợ quá. Em nghe thấy tiếng người nào khóc, liền đó nhìn thấy cô nằm dài trên giường, mặc nguyên cả áo quần, vùi đầu vào gối. Cô khóc nức nở đến nỗi em giật mình, lòng se lại. Cô không nhìn thấy em, thế là em khép cửa lại thật nhẹ nhàng. Em phải đứng bên ngoài một lát vì em run quá đi mất. Qua cánh cửa, tiếng thổn thức vẫn còn một lần nữa nghe rõ mồn một. Rồi em về đây liền. Cả hai đứa đều im bặt, rồi một đứa nói rất khẽ: “Tội nghiệp cô giáo!”. Tiếng nó run lên trong căn phòng như một âm thanh mơ hồ rồi chìm đi và tắt lịm trong im lặng. - Em muốn biết tại sao cô giáo khóc, con em nói tiếp. Mấy ngày vừa qua cô có xích mích gì với ai đâu? Mẹ cũng đã để cô yên ổn, không luôn luôn bẻ học cô nữa. Còn chúng mình thì chắc chắn đã chẳng làm gì để cô phiền lòng. Phải không nào? Thế thì vì sao cô khóc? - Hình như chị đoán ra rồi. - Con chị nói. - Vì sao? Chị nói em nghe. Vì sao nào? Đứa lớn ngập ngừng, cuối cùng, nó nói: - Chị cho rằng cô đang có người yêu. - Yêu à? - Con em rùng mình nói - Yêu à? Nhưng người yêu là ai? - Em không để ý gì sao? - Anh Ot-tô phải không? - Em đoán thế ư? Chắc anh ấy cũng yêu cô giáo chứ nhỉ? Không có thì vì sao trong ba năm trọ học ở nhà ta chưa bao giờ anh đi chơi với chúng ta, thế mà mấy tháng nay anh ấy luôn luôn cặp kè với bọn mình? Thử hỏi khi cô giáo chưa đến ở nhà ta, có khi nào anh ấy tỏ ra trìu mến chị em mình? Giờ đây, suốt ngày anh ấy cứ quanh quẩn với bọn mình. Chúng mình luôn luôn tình cờ gặp anh ấy. Tình cờ: ở công viên, ở vườn hoa tòa thị chính hay ở Pra tơ, bất cứ chỗ nào khi chúng mình đi cùng cô giáo. Em không bao giờ lấy làm lạ về điều đó hay sao? Con em hoảng sợ lắp bắp: - Có chứ... có chứ... Tất nhiên em có để ý, nhưng em chỉ nghĩ rằng... Nó nghẹn lời, không nói tiếp được nữa. - Thoạt đầu chị cũng tưởng như vậy. Thực vậy, bọn con gái chúng mình bao giờ cũng khờ khạo. Nhưng chị đã kịp nhận ra rằng chúng mình chỉ là cái cớ cho anh ấy mà thôi. Bây giờ cả hai đều im lặng. Câu chuyện tưởng như đến đấy là xong. Cả hai đều mải mê theo đuổi ý nghĩ riêng của mình hay đã chìm trong những giấc mơ. Lát sau, thấy vẫn chẳng hiểu gì, con em lại lẩm bẩm trong bóng tối. - Nhưng cớ gì cớ gì cô khóc mới được chứ? Anh ấy cũng yêu cô cơ mà. Em vẫn cứ tưởng yêu nhau hẳn phải là cái gì đẹp lắm chứ? - Chị không biết. - Con chị trả lời, nó đang hoàn toàn mơ mộng. - Chị cũng vậy, chị cũng nghĩ hẳn phải là cái gì rất đẹp. Rồi nhẹ nhàng như một hơi thở, từ đôi môi trĩu nặng vì buồn ngủ lại thốt lên một lần nữa với bao cảm thương ai oán: “Tội nghiệp cô giáo!” Căn phòng chìm trong im lặng. * * * Sáng hôm sau, hai chị em không nhắc lại chuyện đó, nhưng đứa nọ đoán mọi ý nghĩ của đứa kia cũng đang xoay quanh vẫn câu chuyện ấy. Đi sát cạnh nhau, chúng tránh né nhau, nhưng luồng mắt chúng vô tình vẫn gặp nhau, mỗi khi cả hai đứa cùng nhìn trộm cô gia sư. Ở bàn ăn, chúng chăm chú dò xét Ot-tô, người anh họ đã ở nhà chúng từ nhiều năm nay, như thể anh là người khách lạ. Chúng không nói chuyện với anh, nhưng dưới làn mi cụp xuống, chúng luôn luôn rình xem người anh họ có ra hiệu gì cho cô giáo hay không. Chúng khắc khoải bồn chồn. Trái với lệ thường, hôm nay chúng không chơi đùa và trong cơn nóng lòng sốt ruột muốn khám phá điều bí ẩn, chúng làm những việc vớ vẩn và không có mục đích... Buổi chiều, một đứa hỏi, nhưng giọng lạnh lùng như thể đấy là câu chuyện nó chẳng bận tâm gì cho lắm: - Em có nhận thấy thêm gì không? - Không. - Đứa kia quay đi chỗ khác, trả lời - Cả hai đứa hình như sợ trò chuyện với nhau. Mấy ngày liền, hai đứa tiếp tục quan sát thầm lặng, khéo léo theo dõi, dò tìm dấu vết, lòng thấp thỏm bồi hồi, bất giác chúng cảm thấy mình đang đến gần một bí mật kinh hoàng. Cuối cùng, trong bữa ăn một đứa nhận thấy cô đưa mắt kín đáo ra hiệu cho Ot-tô và anh ta gật đầu đáp lại. Con bé xúc động đến run lên. Nó khẽ chạm vào tay chị dưới gầm bàn. Lúc con chị quay lại, con em nhìn chị chằm chằm bằng cặp mắt long lanh. Con chị hiểu liền và cũng xúc động ghê gớm. Bọn trẻ vừa mới đứng dậy khỏi bàn ăn, cô giáo bảo chúng: - Các em về phòng mình chơi một lát. Cô nhức đầu, muốn nghỉ khoảng nửa giờ. Hai đứa cúi nhìn. Chúng chạm tay nhau kín đáo như để thông báo cho nhau. Và cô vừa đi khỏi, con em nhảy bổ đến gần chị: - Này, chị sẽ thấy Ot-tô vào buồng cô giáo ngay bây giờ! - Tất nhiên rồi, chính vì vậy cô giáo mới bảo hai chị em mình về buồng riêng. - Chúng mình phải nghe trộm ngoài cửa mới được. - Ngộ có người tới thì sao? - Ai cơ? - Mẹ. Con em sợ hãi: Ồ! Nếu thế thì... - Này nhé, chị thì chị sẽ đứng nghe ngoài cửa, còn em, em sẽ ở lại hành lang nếu có người đến em sẽ làm hiệu báo cho chị biết. Như vậy chị em mình chẳng sợ gì hết. Con em nhăn mặt: - Nhưng sau đó chị sẽ phải kể hết cho em nghe chứ? - Ừ, kể hết. - Kể thật hết, không sót tí gì cơ! - Ừ, chị thề với em. Còn em, hễ nghe tiếng người đi tới, em sẽ ho một tiếng nhé. Chúng đứng đợi trong hành lang vừa run sợ vừa háo hức. Trống ngực đập dữ dội. Chuyện gì sắp xảy ra. Hai đứa nép sát vào nhau. Có tiếng chân bước, cả hai vội chạy lẩn vào xó tối. Quả nhiên, đúng là Ot tô. Anh ta nắm lấy tay cửa và cánh cửa mở ra. Nhanh như cắt, con chị lao theo, đứng dán mình vào cửa, nín thở giỏng tai nghe. Con em nhìn theo, tiếc rẻ. Tính tò mò nung nấu ruột gan nó buộc nó rời chỗ đứng đã định. Nó rón rén lần về phía cửa, nhưng chị nó tức giận đẩy nó ra. Nó đành trở về đứng đợi trong hành lang, chỉ có vài ba phút mà nó cảm thấy dài vô tận. Nó nôn nóng, bồn chồn, hai bàn chân nhích bên phải nhích bên trái như thể đứng trên mặt đất nóng bỏng. Nó ấm ức gần như muốn khóc vì nghĩ rằng chị nó nghe hết, còn nó chẳng nghe được tí gì. Giữa lúc đó, ở bên cạnh, trong căn buồng thứ ba. Một cánh cửa khép lại. Con bé ho một tiếng và cả hai lập tức lủi về phòng mình. Chúng đứng ở đấy một lúc, nín thở, tim đập thình thịch. Rồi, háo hức muốn biết chuyện, con em giục: - Nào kể đi. Con chị có vẻ đăm chiêu. Đoạn lơ đãng như nói một mình, nó bảo: - Chị chẳng hiểu gì cả. - Sao? - Kỳ lạ quá! - Sao. Cái gì kia? - Con em hỏi, giọng hổn hển. Lúc này con chị cố nhớ lại. Con em áp sát vào chị để khỏi bỏ sót một tiếng. - Thật hết sức lạ lùng... hoàn toàn không như ta nghĩ. Chị tin rằng khi bước vào phòng, hẳn là anh ta đã muốn ôm chầm lấy cô giáo hoặc hôn cô, bởi vì cô giáo nói ngay: “Khoan, khoan, em có điều hệ trọng muốn nói với anh”. Chị không nhìn thấy gì hết vì cái chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa phía bên trong, nhưng chị nghe rất rõ từng tiếng Ot-tô hỏi lại: “Có chuyện gì vậy? “Nhưng với một cái giọng lạ hẳn đi. Em biết đấy, thông thường anh ta vẫn thích ăn nói trơ trẽn và ầm ĩ, thế nhưng lần này anh ta nói rất rụt rè, đến nỗi chị đoán ra ngay anh ta có điều gì sợ sệt. Và cô giáo cũng vậy, hẳn là cô cũng nhận thấy thái độ giả dối của anh ta, bởi vì cô đành dịu dàng nói: “Anh biết rõ quá đi chứ? ““Không, anh không biết gì hết “À ra thế! - Lúc này cô giáo nói nghe mới buồn làm sao, buồn não ruột - Thế tại sao đột nhiên anh xa lánh em. Đã tám ngày nay, anh chẳng nói với em một lời, anh tìm mọi cách lẩn """