"Tuyển Tập Truyện Ngắn Miêng - Miêng full mobi pdf epub azw3 [Văn Học Việt Nam] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Miêng - Miêng full mobi pdf epub azw3 [Văn Học Việt Nam] Ebooks Nhóm Zalo TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN Tác giả: Miêng Ebook: @nguyenthanh-cuibap Nguồn text:Internet N TỰA ếu chỉ cho xe theo xa lộ Bắc ra hướng phi trường, quẹo phải nhiều lần để đến căn nhà nhỏ xinh xắn ẩn sau hàng giậu giây leo, có ánh đèn dịu dàng và những bữa cơm gia đình ấm cúng... thì tôi sẽ không bao giờ hiểu hết thế giới của Miêng. Thế giới đích thực chị diễn đạt trên mặt giấy ấy, tôi mới có cái may mắn khám phá khi đã ở cách Paris trên mười ngàn cây số. Ở đây, chỗ tôi làm việc, nào có phải cuối đất cùng trời, vẫn là kinh thành hoa lệ, với những toà nhà chọc trời giữa nhịp sống cơ giới dồn dập, vũ bão... Nhưng vì những dịp nói tiếng Việt hầu như trở thành trò độc thoại, họa hoằn qua cốc rượu với dăm người bạn cũ một chiều cuối năm mà tôi thấm thía với những bài viết của Miêng, nó đã đưa tôi trở lại một miền đời cũ, tưởng đã mất nhưng vẫn còn quanh quẩn đâu đây... Miêng viết đã lâu và viết nhiều nữa kia, từ những ngày chị còn ở Sài gòn. Ra nước ngoài, chị vẫn tiếp tục cầm bút, đăng tải đó đây trên sách báo người Việt ở Âu Mỹ. Nhưng nếu chỉ có dịp đọc rời rạc như thế, ta khó nắm được cái toàn thể và đồng nhất của thế giới hành trang mà tác giả đã gắn bó với nó từ mấy thập niên. Qua văn chương, tôi thấy chị như hiện ra bằng xương bằng thịt, với tất cả cái tươi tắn, hóm hỉnh, duyên dáng... với cách trình bày tự nhiên, lối dùng chữ đơn sơ, bình dị... " Người làm sao, chiêm bao làm vậy " như Việt Nam ta vẫn nói. Tuy nhiên, đừng thấy chỉ có thế. Phải nhìn xa hơn qua những trang giấy hằn vết bể dâu thời thế mới thấy hết chiều sâu của tác phẩm. Nó ghi lại bao nỗi thăng trầm của những đời người trong đó có bạn, có tôi. Chúng mình vẫn là những kẻ sống sót của một thời máu lửa, và vẫn còn là nhân chứng của một thời hỗn mang, đến nay mỗi ngày vẫn còn như đi trên giây xiếc để giữ một thế quân bình cho tâm hồn. Nói văn vẻ một chút thì không cần nước trà và bánh quả bàng, Miêng vẫn có thể đưa chúng ta về thăm lại căn nhà dĩ vãng. Ai mà chẳng mang đi từ ngày lên đường hình ảnh nào đó về miền đất quê hương, nhưng tất cả cần một chất xúc tác để bừng bừng sống dậy... Trong tâm tưởng tôi, ngoài những ánh chớp về miền Trung loáng lên từ Những Ngày Cửa Ðại của Nguyễn Tuân, qua cái chị Bốn Thôi hay ông Ba Thê trong Võ Phiến, những giọt Tháp Chàm rớt xuống Qui Nhơn và thơ Văn Cao, bát canh cá trầu nấu khế cho Chế Lan Viên lúc cuối đời... giờ sẽ có thêm Cụ Chắc, mợ cháu O Hậu, như những con người sống thực, lững thững bước ra từ trang sách của Miêng. Tôi nhìn thấy họ ở đâu nhỉ ? Trong một mảnh vườn xanh rất Huế, trong một căn nhà cổ mái nặng rêu của Phố Hội hay dọc đường quốc lộ bụi mù ? Tôi có cảm tưởng nhân vật của Miêng, phần lớn như mang một vết thương chưa lành hay chưa biết bao giờ lên sẹo. Từ Ðiêu Thuyền, Nghịch Cảnh, qua Cái Giếng, Cu Bợm, Hy Sinh, Biển... xa hơn nữa là Lạc, Hiếu Thảo... những quãng đời Việt Nam như được vẽ ra, không hề gián đoạn, vì nó chỉ là lớp lang của một tấn kịch dài. Những " âm thanh và cuồng nộ " của một miền Nam trong văn chị, tôi không biết đã bắt được ở đâu (có phải là cái không khí ngột ngạt nghi kỵ, hận thù của miền Nam nước Mỹ trong Faulkner, Tennessee Williams, Steinbeck... hay của Âu Châu thời hậu chiến. Dù sự so sánh có thể không cân đối nhưng chắc chắn không khí đó đang gắn bó vào da vào thịt, vào mỗi tế bào và còn đang song hành với những người cùng thời đại với tác giả). Yêu, ghét, đam mê, phản bội, thoái hoá, biến chất... hay lẩn trốn vào trong cơn điên dại như lẩn trốn vào cõi tĩnh lặng của con mắt một trận bão. Ðiên dại, hôn mê, khắc khoải là bầu không khí bao trùm lên một nỗi đau thời thế. Ðiên dại như một phương pháp lành mạnh nhất để gạn đục, khơi trong. Nữ nghệ sĩ Diệu Lan-Ðiêu Thuyền, người mẹ mất con trên bờ biển trong Lạc... đều muốn thoát đi bằng cánh cửa cấp cứu này. Nếu không, họ chắc phải biến dạng dưới một hình thức xa rời nhân tính tượng trưng bằng tiếng tru quái đản giữa trưa của con Mực hay lưỡi dao loáng máu của con khỉ Chi Chi. May thay, bối cảnh của truyện ngắn Miêng còn được tiếp nối trên miền đất chị đang sống nên văn chương của chị không chỉ là tiếc nuối và hoài niệm. Cảm động với Hiếu Thảo, Biển... ta cũng còn cười được với Miêng, tiếng cười giòn dã, hồn nhiên của Quan Phu, Ai Thương, Ỡm Ờ... trước khi bước vào thế giới lãng mạn để Hải Nữ rù quyến. Nếu nỗi buồn ở chị dịu nhẹ, day dứt, nụ cười ở chị là tha thứ, bao dung. Cuộc sống dù buồn hay vui vẫn tiếp diễn ở trên miền đất mới, và những bài viết về nó mở ra một chân trời rộng hơn, thanh thản hơn dù không phải chỉ một màu hồng. Ðọc văn Miêng là khám phá phong cách đa dạng của ngòi bút tác giả. Từ không khí ngột ngạt, đặc quánh của Cu Bợm ta bước vào xốn xang, lo âu của Song Sinh, rồi thoát đến cái nhí nhảnh hồn nhiên trong Ỡm Ờ, chất thơ của Hải Nữ. Ta bở ngỡ tự hỏi tất cả chừng ấy là do cùng một người viết ? Miêng có cái khéo léo lôi cuốn ta đi gần đến cuối truyện để kết luận một cách đột ngột, phần lớn trái với dự tưởng của người đọc (Biển, Ai Thương, Quá Khứ...) Ðâu đây, ta như thấy chị đang nheo mắt cười vì đã đưa thêm một độc giả vào tròng. Ðây là tập truyện đầu tiên của Miêng được in ra ở nước ngoài, tôi tiếc không được đọc nó sớm hơn. Hơn hẳn nhiều người, chị đã thu xếp thời giờ giữa những bận bịu gia đình, việc làm và đời sống xã hội để cho đứa con tinh thần này được ra đời. Chúng ta cám ơn Miêng về những gắn bó của chị với cuộc sống, với người chung quanh, về phong cách dịu dàng nhưng hóm hỉnh, dạn dĩ. Quí hơn hết là sự đồng cảm với bao đau thương, mất mát của một thời đã qua, nó sẽ làm phong phú ta một mai khi phải đối phó với muôn vạn cảnh ngộ mới. Có phải chăng, đó là ý nghĩa sâu xa của câu nói " Không phải người viết, mà chính độc giả mới là kẻ hoàn thành tác phẩm " ? NGUYỄN NAM TRÂN Tokyo, 21-01-1999 BIÊN N gười đàn bà theo cô y tá vào phòng. Trên giường, người đàn ông nằm nhìn trần nhà, mắt thao láo. Ánh đèn lạnh nhạt rọi khuôn mặt bạc nhược vô hồn. Cô y tá lay nhẹ vai anh, nói bằng tiếng Pháp : - Ông Nguyễn, ông Nguyễn, đoán xem ai đây ? ... Nhìn kỹ đi, vợ ông tới thăm ông nè. Người đàn bà đưa tay muốn nói gì, vừa lúc người đàn ông hướng ánh mắt về phía chị. Anh kêu lên thều thào nhưng hớn hở : - Em ! Trời ơi ! Anh loạng quạng chìa bàn tay khẳng khiu, chị ngần ngại một giây rồi nắm lấy, cầm nhẹ nhàng trong hai tay mình. Anh mỉm nụ cười héo hon : - Lạnh không ? Bám, chặt vào ! Chị khẽ khàng đặt tay lên ngực anh. Rồi bỗng bạo dạn hơn, chị choàng qua, siết vòng tay lại. Nụ cười ngây ngô trên môi anh kéo dài như vô cùng : - Con đâu, em ? - Con… đang ngủ. Anh cũng ráng ngủ một chút đi cho khoẻ. Giọng anh bỗng thất thanh : - Sát lại. Bám chặt anh. Khéo tuột. Chị áp sát vào tấm thân gầy gò run rẩy, bận bịu. Anh gật gật đầu. Tóc lưa thưa muốn dựng ngược lên từng sợi. Chị dịu dàng vuốt những sợi tóc mùa thu của anh, âu yếm như một người mẹ. Mắt chị buồn thiu, xa vắng. - Em nè, vợ chồng, có, những lúc, cơm không, lành, canh không, ngọt, anh có, lỡ, giận la em, cái gì, em bỏ, qua, cho anh, nghe, đừng, giận, bỏ anh, tội, nghiệp, cái chính, là, biết, anh thương, em vô, cùng, nghe em, đời anh, chỉ, có em, và, con ... Chị khóc : - Anh đừng nghĩ quẩn quanh nữa. Em không giận anh đâu. Em cũng... thương anh lắm ! Chị kéo chăn ngay ngắn. Hai bàn tay hiền dịu vẫn vuốt ve anh. Ngoài đêm, trời hối hả rải tuyết... Sáng sớm hai người y tá vào phòng. Ông y tá đen to lớn dềnh dàng phủ lên người anh tấm ra trắng muốt. Cô y tá đỡ chị đứng lên lặng lẽ mở ngăn kéo lôi ra các thứ giấy tờ bọc trong bao ny lông : - Ông nhà đi như vậy đỡ khổ cho ông hơn, nhất là có bà bên cạnh. Bao nhiêu lần rồi bịnh viện cố tìm bà mà không ra. Chị hỏi, hơi tần ngần : - Lần cuối ông ấy vào đây là lúc nào ? - Thứ sáu tuần rồi. Bà coi, trời như vầy mà lại trần truồng đứng múa ở vườn Luxembourg ! - Lần này sao bịnh viện lại tìm ra tôi ? Cô y tá cười : - Cái khó là cạy răng để ông cho biết địa chỉ của bà. Khi ông nói "biển" thì giản dị thôi, cứ bấm minitel lục lọi các vùng có biển là tìm ra bà ngay ! Chị cũng cười : - Phải, giản dị thật ! Hai người y tá đẩy băng ca đi. Ngang qua cửa sổ, tấm ra pha lẫn vào vùng tuyết ngoài kia. Căn phòng trống trơn. Chị ra hành lang, lặng lẽ mở bao ny lông và đọc. Những tia nắng đầu ngày đông u ám rọi lên các thứ giấy tờ và một số thư từ cũ nhàu. Chị vừa đọc vừa khóc. Xong xếp lại vào bao, thở dài. Chị quàng lại khăn, kéo cao cổ áo măng-tô. Trời rất lạnh. Vào ca-bin, chị để cạc vào máy điện thoại, bấm số. - Anh hả ? Em đây ... Trẻ nhỏ dậy hết chưa ? ... Xà-va anh à. Một người đồng bào ... (chị thở dài) Không, dĩ nhiên là không bà con gì với mình cả. Khi em tới thì tối rồi và coi bộ ông ta lẫn lộn hết cả, tưởng em là vợ ... Ơ thì anh coi, cứ Nguyễn Thị Ngọc gì gì có vần "ương" theo sau mà chả là em. Mình đã nhận bao nhiêu thứ rồi ... Có, cô y tá đưa hết giấy má thư từ của ông ấy cho em ... Em đọc rồi, vợ con đều chết biển khi vượt biên, chỉ còn ông ta sống sót với mấy người thôi ... (chị khóc) ... Xong rồi anh ạ ... Vâng, lúc năm giờ sáng, trong tay em ... MIÊNG Paris, 23 Sept. 1994 ÐIÊU THUYỀN C hị bước đi với bước chân chơi vơi vô hồn. Cũng không phải lần đầu trong đời hai chân đong đưa chị vào nỗi u mê vô định, nhưng lần này thì quả thực chẳng khác chiếc lá khô để cơn gió mặc tình cuốn đi lơ lửng, ngập ngừng. Thỉnh thoảng một bác xích lô tấp tới gần, cô hai ơi xích lô cô hai. Chị đủ bình tĩnh mỉm cười đáp lễ. Cái mỉm cười của một Ðiêu Thuyền sắc nước hương trời nhưng chưa bao giờ làm xiêu lòng Lữ Bố - Lữ Bố của chị. A, Lữ-Bố-của-em ! Chị khựng lại giữa trời Sài gòn nắng chang chang tháng sáu, tay đưa lên đầu, vẻ sững sờ như bất chợt vừa khám phá ra điều gì. Chị nhíu mày kêu lên, mắt reo vui : - Thì ra là tại anh chớ ai ? Anh đã cướp đi mất tiếng hát của em rồi chớ còn tại sao nữa ? Tay tự động buông xách, chị ngồi bệt xuống đường bắt đầu làm điệu bộ hát. Không ai nghe gì nhưng cứ nhìn chị trong tư thế đó thì người đi đường quay lại cười, bảo điên. Phải, điên. Hồi mười sáu tuổi hát văn nghệ cho xã, bạn cũng bảo điên sao mà chịu đóng nhiều màn như vậy, mất bao nhiêu ngày giờ tập dượt. Nhưng khi khán giả ra về, người đàn ông đứng tuổi chờ chị trước cổng trường, bảo : - Cháu gái, cháu có giọng ca rất hay. Nếu gua mở gánh hát, cháu làm đào chánh chịu hông ? Chị tròn mắt nhìn, không nghĩ đến chuyện trả lời. Ðó là cái mộng vẫn nuôi từ hồi mới biết hát tập tành. Ông cười : - Ðừng lo, có cái cháu thiếu tập dợt kỹ thực thôi. Rồi gua sẽ chỉ thêm cho cháu. Chị về mừng rỡ khoe với mẹ và cười vang vang. Mẹ bảo : - Cái con này, cười gì mà cứ như con điên vậy. Bao giờ ổng lập gánh hát thiệt hẵng hay chớ chưa gì mà đã cỡn lên. Ông là nghệ sĩ già về vườn, nói là làm. Gọi gánh hát nghe cho sang chớ chỉ có ông già ôm cây đờn kìm, anh kép trẻ cũng chẳng hay ho gì hơn chị, và ông ta thôi. Tuồng Con Tấm Con Cám anh kép trẻ hoá trang thành con gái làm đứa em độc ác hành hạ chị. Tuồng Trầu Cau thì ông già dồi thật nhiều phấn lấp các rãnh nhăn nheo, làm ông anh hoài công đi tìm người yêu và em trai. Tuồng Phạm Công Cúc Hoa thì ông cạo nhẵn râu đóng vai bà mẹ, ngồi bắt chấy cho hai con trên nấm mộ chính mình. Và tuồng Thạch Sanh Lý Thông ông cố vẽ cặp mắt đã sụp cho rõ to với vẻ dữ dằn đanh ác, mặc dầu chưa ai biết Lý Thông thật có bộ mặt thế nào... Bộ bốn nương vào nhau mà sống. Hát hết đình này miễu nọ, nào có tốn tiền thuê rạp. Cảnh chiến trường thì bẻ vài nhánh cây dắt lên, cảnh khuê phòng thì dùng tấm chăn của ông già đã mòn rã tự muôn đời. Vậy mà cũng có người coi, cũng được thiên hạ vỗ tay và cuộc đời vẫn tiếp tục. Chị cũng tậu được mấy cái áo lụa nội hoá đủ màu, tạm thay đổi cho các vai chị đóng. Mà nào có ai đòi hỏi chi nhiều ! Họ đi gần hết xóm làng miền Nam để hát. Cũng vẫn chừng đó tuồng hát đi hát lại. Ðược một năm, bạn anh kép trẻ là lính ở Huế về thăm nhà. Mấy hôm đó trời mưa tầm tã, các đường làng lầy lội nên gánh hát tạm nghỉ vì không ai đi xem. Nhưng nếu có khán giả, diễn viên cũng không đủ hơi sức gào thi với gió. Anh kép trẻ rủ bạn lính đến tán gẫu. Chuyện lính có gì để kể ngoài đời sống phong trần quân nhân và các trận đánh nhau. Và làm sao chuyện tày trời như Tết Mậu Thân ở Huế mà một người lính từ đó trở về lại không lấy làm cái tin sốt dẻo nhất. Kể nhiều chuyện xong, anh lính bảo : - Ðu mẹ, tui có kể tới tháng sau thì cũng hổng tả hết cái ác độc, cái rùng rợn của tụi nó được. Mấy ông bà là nghệ sĩ thì diễn tả mới hết ý chớ tui nói thì nhằm nhò gì. Nhai đi nhai lại chi hoài ba cái tuồng cũ chán thấy mẹ ! Phải ! Phải ! Hai ông kép hì hục hơn tuần lễ soạn ra tuồng mới. Ông kép già chỉ vào mặt anh kép trẻ : - Thằng sĩ guan ngụy ác ôn kia, mày đã tới ngày đền nợ máu nhân dân rồi. - Ðồ Việt cộng khát máu... Nhưng ông đâu để anh nói hết lời rủa sả quân miền Bắc, ông bắn anh kép trẻ sĩ quan. Gọi "sĩ quan" cho cái chết của anh xứng đáng với viên đạn bộ đội mà tiếng nổ là do ông đờn kìm tạo ra, chớ trên cổ áo bộ đồ lính anh bạn cho, đâu có lon lá gì. Sau đó thì xác chết lăn vào trong, đội lên đầu cái mũ bộ đội đan bằng tre sơn xanh chạy ra, và cùng với người vừa giết mình xăng xái đào hố chôn tập thể hàng loạt người. Ðêm đó chị bận nhiều áo, mỗi lần chạy vô là cởi bớt một lớp rồi chạy ra, như thể người đàn bà khác đang kêu gào cảnh thân nhân bị nạn. Cuối cùng tóc xoã tung, ràn rụa nước mắt, chị chạy hẳn xuống đám khán giả, chạy tuốt ra khỏi cổng đình. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm : - Hoan hô ! Hoan hô cô Diệu ! Bẵng đi mấy năm không nghe tin tức gì của anh bạn lính. Ðùng cái, năm bảy hai anh trở về Nam. Cái hàm chỉ lính quèn mà cái mạng lại to, to hơn rất nhiều ông tá, ông úy. Trải bao truân chuyên, anh vẫn còn đủ tay chân chạy về thăm mẹ, thăm bè bạn xóm giềng. Anh lại kể về mùa hè đỏ lửa, về con đường Quốc lộ số 1 đầy xác người nằm tênh hênh cho ruồi nhặng đậu, về những thân thể nhầy nhụa máu me cố lê lết từng tấc đường, về những bàn chân còn sống chạy như qủy ám, về những đứa bé đi lang thang thất thểu chẳng khác ma Hời, về những trẻ sơ sinh ngậm hoài vú mẹ hãy còn dính trên thân thể quánh máu... Lại tuồng khác ra đời. Lại những lời đanh thép tàn mạt anh kép trẻ sĩ quan nhổ vào mặt ông kép già Việt cộng, và lần này thì anh ta bắn chết ông kép già. Nhưng ông kép già Việt cộng kiên trì với ý chí quyết giải phóng miền Nam, nếu chưa xong thì không chịu chết, ông đờn kìm phải tạo ba tiếng nổ chát chúa, ông mới chịu ngã gục thực sự ! Kết quả là ba năm sau, chính cái anh đạp xe ba gác chở hàng trong xóm, ngày nào vẫn đi xem tuồng say sưa, vẫn vỗ tay hăng hái, bây giờ dẫn công an khu vực từ Bắc vào, tới còng tay hai người kép hát. - Ði, các anh vào trại mà hát với hỏng. Người đứng xem chật ngõ. Ai đó thậm thụt nói : - Uả, họ có làm gì đâu, họ chỉ hát thôi mà ? Anh công an cười gằn, giọng vẫn đều nhưng rất lạnh : - Chỉ hát thôi chớ làm nên trò trống gì. An nhàn thế sao không muốn yên, lại hát điều bậy bạ phỉ báng cách mạng ? Ngày ấy cũng như bây giờ, chị không khóc. Ðã khóc quá nhiều trong các tuồng chị đóng. Chị đứng sững, mắt mở to nhưng không thấy gì, hai tay đưa lên rồi hạ xuống, môi mím chặt. Dưới cái nắng chói chang mùa hạ, mắt đua với ánh mặt trời túa đom đóm vì uất, vì bất lực. Nhưng chị chỉ lặng lẽ nhìn theo, quên cả khấn Trời Phật phù hộ cho họ mau về, để đứa con trong bụng khi chào đời không những có cha mà còn có ông ngoại nữa. Chị về quê với mẹ. Ngày qua ngày, túi tiền dành dụm teo đi và bụng căng ra, chị vẫn một mình. Rồi thằng con ra đời, vẫn một mình, vẫn chờ đợi, chờ đợi mỏi mòn như thiếu phụ Nam Xương. Thằng nhỏ bụ bẫm một hôm nóng sốt, bà bác sĩ trưởng trạm y tế ngoài Bắc vào, bảo nó bị lao. Bà chích hai ngày hai mũi thuốc, vào cái mông da mỏng như giấy quyến. Ba tháng sau chị tê dại thấy chân con mình cứ teo tóp ngày một ngày hai... Ông đờn kìm tới tìm chị : - Diệu à, hay là chú cháu mình ra chợ, tao đờn mày ca kiếm tiềng. Chị không hát nổi. Chị không quen hát một mình. Với lại giọng chị cứ lạc đi, không ăn nhịp nữa. Chị mua bộ bài ra ngồi ké túp lều người bạn hàng xén ngoài chợ, bói. Những ngày mưa gió không hát, ông kép già thường bày chị : - Cứ con rô là có tinh tức, tinh dui hay buồng còn tì con gì đi theo. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Con chuồng là tiềng mới dô hay sắp dô. Cứ nói sắp dô cho bà con sướng. Họ có nói dô rồi thì nói nó còn lấp ló ngoài cửa, chờ dô nữa. Còn con cơ thì do chữ Tây mà ra, là con tim, là có chiệng yêu đương tình cảm gì đây. Rồi ông cười khà khà : - Bói cho ai, tao cứ trông mặc mà bắc hình dong, mừ lần chắc mẫm hết chính. Hồi đó trong đàng, ngay cả ông bà bầu cũng tinh goẻ tao bói. Mẹ, cái thời dàng son thiệc ! Nhờ ông truyền cái "thời-dàng-son" đó, chị cũng đủ nuôi con qua ngày. Nhưng chẳng bao lâu thì công an lại cấm, bảo gieo rắc mê tín dị đoan, nếu còn tiếp tục sẽ bắt đi cải tạo, cạo rửa cho sạch cái đầu u mê nhớp nhúa đi. Chị đành gởi thằng bé nhờ bà ngoại trông nom, lên Sài gòn đất rộng mênh mông không ai kiểm soát xuể thì hy vọng có thể sống bằng nghề này được... Chị quỳ xuống trước mặt Lữ Bố. Bàn tay mặt cầm ly rượu với ngón út cong lên như cánh ngọc lan. Tay từ từ nâng ly rượu lên khỏi đầu một chút - cánh tay không được thẳng, phải giữ dáng điệu cái gì cũng cong cong, thật mềm mại, thật đàn bà, thật ỡm ờ, thật gợi cảm, thật quyến rũ và thật đài các. Tay trái theo câu hát vẽ thành nửa vòng tròn, từ dưới đưa lên rồi dừng lại kề bàn tay mặt, trong tư thế dâng rượu bằng cả hai tay, trang trọng, phục tùng. Ðôi mắt mà cách hoá trang làm cho thêm to, thêm xếch, thêm tình tứ đẩy đưa thì liếc xéo Lữ Bố, vừa lẳng lơ, vừa âu yếm, vừa ra vẻ e ấp thẹn thùng. Bao nhiêu tuồng đã diễn rồi, bao nhiêu vai tiểu thư công chúa đã thủ rồi, nhưng chỉ có màn này, màn Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền, là chị ăn ý nhất. Chị đóng vai đó nổi bật, tuyệt vời, cực kỳ thành công mãn nguyện. Chị sống trong Ðiêu Thuyền và là Ðiêu Thuyền, để chuốc rượu nồng cho Lữ Bố. Chị cũng thích tiểu thư Mỵ Nương, ẻo lả trong căn bịnh tương tư để khi gặp Trương Chi thì vỡ mộng, truyền bịnh lại cho chàng chèo đò khốn khổ ấy. Chị cũng thích công chúa Mỵ Châu, trong đêm thướt tha chạy với cái áo choàng trắng trong suốt tơ trời, với mái tóc xổ tung, khi gặp vua cha nũng nịu dỗi "Con tìm phụ vương đi nơi nơi. Vì sao cha yêu trán hoen sầu ? Phải chăng vì thành xây không...". Ô, không mê lắm. Ðã rứt hết lông ngỗng chiếc áo ngự hàn để đánh dấu đường đi, nhưng Trọng Thủy tìm không ra, vì chị không gặp... Không gặp anh ấy đâu cả, trừ ở Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền... Người đi đường bắt đầu để ý. Họ dìu chị vào ngồi dưới bóng râm nói với nhau : - Tội nghiệp, bây giờ sao lắm người quẫn trí quá ! Chị gật đầu, đưa tay sờ soạng vừa tìm vừa hỏi : - Bà coi chuyện gì ? Người ta nhìn nhau ái ngại. Nhớ rồi, cặp vợ chồng ấy sang trọng, anh chồng ít nói. Khi quẻ bài lật ra, chị nhìn họ chăm chăm chẳng biết nói gì. Vì nó lạ quá. Ai tới bói bài cũng với một ước mơ giản dị là đi xa, coi cho biết tới nơi tới chốn bình yên không. Cơn sốt đi. Ai cũng muốn, ai cũng liều, cầm bằng đánh cá mạng người. Nhiều người cũng vì đi mà sạt nghiệp trắng tay. Nhiều người cũng vì đi mà gia đình tan nát. Nhiều người cũng vì đi mà làm mồi cho cá biển. Nhiều người cũng vì đi mà đem thân nô lệ xứ người... Rồi họ lọc lừa gạt gẫm nhau, tán tận. Ban đầu gạt người dưng, rồi tới gạt người quen và cuối cùng gạt người thân. Ai vẫn thường nói Việt Nam ta không có thói quen đi xa, không bao giờ muốn rời khỏi lũy tre làng ? Nhưng cặp này không coi để đi xa. Chung quanh anh có rất nhiều bè bạn, nhưng lúc nào lật ra cũng có con xì bích. Con bích là cầm chắc trong tay chiệng rắc rối buồng phiềng. Chị nói : - Hôm nay bài không lên. Thôi mời ông bà bữa khác trở lại. Người ta lại nhìn nhau, lại bàn tán không biết có nên đưa chị đi nhà thương không. Vài người lắc đầu vẻ thương hại, bỏ đi. Cặp vợ chồng sang trọng ấy cũng bỏ đi. Họ vừa tới cửa, không biết cái gì xui giục, chị bỗng dưng cất giọng : - Ðờn kêu tích tịch tình tang, Ai đem công chúa lên thang mà dìa ! Lạ ! Chị giật mình vì cái ngân nga của chính giọng mình. Vậy mà bao lâu nay cất tiếng không lên ! Hai vợ chồng kia cùng quay lại. Rồi chị theo họ, ông bà bầu gánh hát lớn ở Sài gòn. Và từ đó, chị sống đổi đời, không thấp thỏm nay căn gác này mai căn gác nọ trốn công an vì tội gieo rắc mê tín dị đoan nữa. Chị tập dượt chăm chỉ, hết lòng. Buổi trình diễn đầu tiên run lập cập từ đầu đến chân bởi chỉ quen bầu không khí thoáng giữa trời sân đình sân miễu, với tiếng ồn ào la ó con nít. Bây giờ sân khấu thênh thang kín bưng và khán giả im phắc, nghiêm chỉnh đợi chờ. Khi tấm màn nhung đỏ sẫm trịnh trọng kéo lên, chị khép nhẹ mi, tự nhủ thầm không thể lùi lại phía sau. Trước mặt không phải nét mặt thuần hậu lo âu của bà mẹ tiểu thư Mỵ Nương, mà là khuôn mặt võ vàng mẹ già chờ từng ngày đồng bạc chị gởi về. My Nương uyển chuyển như sương khói, hờ hững trễ tràng như mây trời, mềm mại tươi thắm như nụ hoa vừa nở, ẻo lả thướt tha trong chiếc áo lụa xanh đến ngồi ở cửa sổ chờ nghe tiếng hát Trương Chi. Cô gái hầu sửa lại cái trâm trên tóc nàng và quạt nhẹ - nhẹ tới nỗi cứ như thể nếu quạt mạnh hơn sẽ làm bay mất My Nương. Mi nàng hơi sụp xuống, che dấu ánh mắt u buồn như đêm đông. Tay nàng mềm nhũn nuột nà như bún, e ấp ôm lấy vai như thể muốn níu giữ chính mình. Rồi mông lung nhìn qua cửa sổ là đám đông khán giả, nàng cất tiếng than não nùng, day dắc buồn và truyền cảm đến rợn người... Nếu quả thật nỗi buồn là vẻ đẹp sang cả nhất mà hoá công chỉ dành riêng cho đàn bà, thì rõ ràng mối u tình của My Nương đã được bộc lộ một cách cực kỳ quý phái, làm não lòng người. Tiếng vỗ tay vang lên sấm nổ. Và từ đó, tai chị quen với lời ca tụng. Từ đó, mắt quen nhìn tên mình viết trên áp phích nhan nhản khắp đường. Ông bầu vẫn ít nói. Nếu có dịp mở miệng thì luôn luôn kèm theo câu "thà chết trẻ hơn sống già vô ích". Và anh có biệt danh ông "thà chết trẻ". Ngoài lúc đóng tuồng, anh có cuộc sống khép kín hoàn toàn. Vãn hát là cùng vợ ra về ngay, có khi vội vã còn cả son phấn hoá trang. Với chị, anh giữ khoảng cách đúng mực giữa đàn ông đàn bà, giữa nữ diễn viên và ông chủ. Gặp nhau anh chỉ mỉm cười, chào thật ngắn rồi thôi, như thể họ chưa bao giờ quen nhau, chưa bao giờ chị là Ðiêu Thuyền ngồi trên đùi anh là Lữ Bố. Bà chủ bầu thì lúc nào cũng bặt thiệp, duyên dáng và tốt bụng với tất cả mọi người. Bà quán xuyến hết mọi việc, từ việc trả lương cho diễn viên, người làm, tới việc ra hầu toà như có lần anh hề làm reo đòi tăng lương không thì nghỉ. Bà thản nhiên thay thế màn hề bằng màn tân nhạc. Anh hề mất việc khơi khơi, kiện. Ra toà, bà bầu bình tĩnh nền nã đoan trang mệnh phụ, nhìn thẳng vào ông chánh án, mỉm cười : - Tôi phận đàn bà mà nếu không cứng rắn thì mạnh ai nấy làm reo, làm sao tôi điều khiển nổi gánh hát cả ba bốn chục người ? Nhưng rồi một lần, chỉ một lần thôi mà sẽ đánh dấu trong em trọn đời. Lữ Bố đưa quạt che cho quan Tư Ðồ không thấy là chàng đang âu yếm hôn Ðiêu Thuyền. Mặt anh kề sát mặt em, mắt anh mỉm cười. Em hoảng hốt tự hỏi làm sao có thể gần nhau đến vậy. Và tâm hồn em dãn ra, cái kỳ diệu ấy thấm lịm vào người. Em nhắm mắt lại, giữ hoài hình ảnh đôi mắt anh cười thật sát bên em. Mắt anh nói quá chừng làm em bối rối không hiểu hết thứ ngôn ngữ riêng tư của nó - một thứ ngôn ngữ kín đáo, đằm thắm, nồng nàn. Nó reo vui trong mắt anh làm em nín thở, chìm đắm nỗi u mê ngan ngát tuyệt vời . Anh gần em quá, gần em quá chừng. Không gì có thể gần hơn như vậy nữa. Nó vừa khiến em sợ, vừa làm em hân hoan vô tả. Môt mùi hạnh phúc tinh thuần làm em nao lòng. Hình như trái đất ngừng quay, sao em choáng váng. Hình như vũ trụ ngừng thở, nên em như chết ngộp. Lúc đó em quên hết đất trời. Em cũng quên mất hình ảnh mẹ tiều tụy vừa nhóm lửa vừa trông chừng thằng cháu ngoại lê lết dưới sàn. Em cũng quên mất là nó không bao giờ bước đi được với đôi chân tàn tật... - Lại làm bộ điệu như đang đóng tuồng. Bà con có nghe cổ hát gì không ? Sao cổ nói thì ra tiếng mà hát thì lại không ra ? Nè cô, cô muốn nói cái gì ? Em muốn nói cái gì ? Về chuyện gì kia ? Về cái đêm kinh hoàng tài xế anh hớt hải trở lại rạp, báo tin cho cả đoàn biết là anh vừa bị công an bắn hạ ? Họ nói khám phá trong nhà anh chị có vũ khí và truyền đơn chống chính quyền. Chống chính quyền ! Anh ơi, nghe ghê gớm quá. Anh có làm chuyện đó thật sao ? Nhưng anh chống cự làm gì cho họ bắn anh tức tưởi vậy chớ ? - Nè cô, nhà cô ở đâu để tui đưa cô về giùm ? A, nhớ ra rồi. Nhà chị ở rạp hát. Nhưng ngay cái đêm hãi hùng ấy thì mọi thứ đều bị niêm phong. Bà chủ vào tù. Thế là mảnh đời riêng tư của họ đã gắn liền với số phận chung của bao sinh mạng. Ðoàn hát tan rã, mỗi người một nơi, nín thở, nghe ngóng. Ðám tang của ông bầu bị cấm tổ chức rình rang, nhưng mấy ông bà nghệ sĩ mà, cứ họ chường mặt ra đường là cả khối người mê hát đi theo. Thành ra thiên hạ vì lòng ái mộ tò mò đi theo người chết đã đông, đi xem người sống còn đông hơn nữa. Nhiều kẻ sụt sùi. Xe tang nhích từng bước. Nhiều con đường tắc nghẽn. Nhân đám tang này, người ta xầm xì bàn tán về cái chết nữ nghệ sĩ Thanh Nga trước đó không lâu. Rồi bà bầu đoàn khác mời chị, đầu tiên là Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền. Cũng hay, đời chị lúc nào cũng có người mời đóng tuồng. Hai tay nâng ly rượu ngang mày, giọng chị thánh thót ngân nga : - Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu... Chữ "trước kính" chị lên thật cao, sau đó giọng xuống dần và tới chữ "hoàng" thì phải xuống thật thấp. Chữ "chấp" chị lại lên thật cao để chữ "hèn bồ" xuống thấp rồi giọng lại rướn cao lên ở chữ "liễu" với giọng rung rung kéo dài vô tận. Nhưng còn tệ hơn mấy hôm dượt thử với anh kép đoàn này, bởi dù với tất cả điêu luyện hồi giờ, giọng chị vẫn không thoát ra khỏi cổ. Chị chỉ nghe loáng thoáng vài tiếng đứt quãng. Lữ Bố và Quan Tư Ðồ đều trợn mắt nhìn, che quạt nhíu mày bảo hát to lên. Chị lại hát, vận hết sức mình. Họ lại nhăn mặt. Một tiếng huýt sáo. Rồi nhiều tiếng huýt sáo vang lên từ phía khán giả. Tấm màn nhung bàng hoàng hạ xuống. Tiếng la nho nhỏ, tiếng chân chạy tới kéo chị dậy. Chỉ còn là cái xác, chị ngẩn ngơ không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Bởi vì anh ơi, người Lữ Bố mới đó không phải là anh. Có cái gì trong em chối từ những ve vuốt ấy. Ðôi mắt anh ta cũng nhìn sát bên em nhưng không cười, nó câm nín, vô hồn, em không nghe lời nào và em dửng dưng không cảm xúc. Nhưng em đâu biết mình đón nhận cái nhìn đó nơi anh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ? Vãn tuồng, trong khi anh ra về vội vã hơn mọi ngày thì em vẫn ngồi uể oải bên cánh gà, nhìn mông lung xuống rạp vắng teo. Từng hàng lưng ghế chẳng khác những tấm bia mộ lạnh lẽo chạy dài, chạy dài ra mãi. Rạp hát thênh thang buồn như nghĩa trang. Em ngồi đó, lặng lẽ nâng niu ánh mắt cười của anh, nó mới mẻ quá làm em vẫn còn choáng váng, nó thân ái quá làm em lịm người, nó đẹp quá làm em sững sờ. Và anh ơi, nó là của anh dành cho em, cho riêng em thôi ! Chợt một nỗi phiền muộn không tên, một nỗi bồn chồn vô cớ, một cảm giác hụt hẫng ngột ngạt xen lẫn với niềm hạnh phúc đứt quãng xâm chiếm em. Em vẫn còn trong bộ áo Ðiêu Thuyền. Rồi em nghe cái tin khủng khiếp ấy. Vậy em là Ðiêu Thuyền nhận hạnh phúc và bất hạnh từ anh. Ðầu óc em ráo hoảnh, đặc cứng trước hung tin đó. Em không tin vào tai mình, em không tin chú tài xế của anh, em không tin ai cả, nhưng em biết là anh thực sự xa em nghìn trùng. Những quẻ bài sau này bói một mình cho anh, nghĩ tới anh, em thấy có chiếc quan tài... Vậy mà trong đầu óc chằng chịt buồn phiền, chưa bao giờ em nghĩ rằng ngày nào đó, trên cõi đời này lại không còn có anh, và như vậy thì cũng không còn có em nữa - bởi vì làm sao người ta sống mà không có tình yêu tiếp sức ? Thà chết trẻ... Thiên hạ rầm rập chạy tới bên em. Có người la lên giựt tóc mai cho cổ tỉnh. Ba, chạy đi lấy cho chị hộp cù là. Họ muốn lột quần áo em ra, em ráng thều thào đừng... đừng... để Ðiêu ... Ơ thì Ðiêu Thiềng điêu bè gì cũng được, mà cũng phải cởi bớt ra ở cổ cho dễ thở chớ, hổng thấy đang xỉu hay sao. Em muốn gượng ngồi dậy, muốn nói là em đâu có xỉu. Việc gì mà xỉu ? Chỉ tại trên tóc Ðiêu Thuyền đủ thứ trâm cài lược dắt làm đầu em nặng quá chao đi, chao đi... Anh ơi, đầu em nặng quá, nặng quá, em không chịu nổi sức nặng... không chịu nổi... Không biết sau khi mắc kế liên hoàn của quan Tư Ðồ, cuộc đời Lữ Bố ra sao. Còn anh thì đã bỏ em rồi, bỏ em mãi mãi. Anh thật xa, thật xa, xa em quá chừng - nhưng ánh mắt anh ở lại, vẫn còn đó, vẫn theo em ngọt ngào. Nó sẽ theo em hoài hoài, khi em cười hay khi em khóc, trên sân khấu đời cũng như sân khấu tuồng. Ôi kỳ diệu thay là cái cười của mắt ! Bây giờ thì ngồi sát lại em thêm chút nữa đi anh, và nhìn em, và cười với em nữa đi... Ðó, như vậy, để em dâng cho Lữ Bố của em một ly rượu nồng. Ðây, uống đi anh, uống cho hạnh phúc ngắn ngủi của em, uống cho nỗi buồn trầm mặc của em. Và uống đi anh, cho giọt yêu đương hiếm muộn tựa giọt cam lồ nuôi em bớt khổ ải nhọc nhằn với cuộc đời còn lại... Người tò mò đứng xem càng lúc càng đông. Xe hơi cũng dừng lại làm giao thông bị nghẽn một khúc đường. Chị mỉm cười nhìn mọi người - nụ cười của một Ðiêu Thuyền sắc nước hương trời. Và chị qùy xuống, tay phải làm như cầm ly rượu, với ngón út cong lên như cánh ngọc lan, tay trái vẽ nửa vòng tròn từ dưới đưa lên rồi tựa kề tay mặt. Mắt lim dim mơ màng liếc xéo đưa tình, chị cất tiếng - và lạ chưa, người ta nghe giọng chị ngân nga lảnh lót, truyền cảm đến rợn người : - Trước kính dâng một chén tửu hoàng, xin miễn chấp phận hèn bồ liễu... Bỗng người đứng xem kêu lên : - Trời ơi Ðiêu Thuyền chớ ai ! Nữ nghệ sĩ Diệu Lan chớ ai ! Vài người ứa nước mắt : - Trời cao đất dày ơi, sao cổ lại nên nông nỗi này trời ? Và không hẹn, mọi người đồng thanh kêu lên : - Ðiêu Thuyền ! Ðiêu Thuyền ! Chị nhìn lên ngơ ngác, thức dậy sau một cơn mơ. Nắng Sài gòn chang chang tháng sáu bỗng tối sầm lại, vài giọt thánh thót rơi, ban đầu còn ngập ngừng rồi bỗng túa ào ra. Nhưng không phải trời mưa. Mà là Ðiêu Thuyền bật khóc. MIÊNG Paris, Juillet 1994 SONG SINH N hư thường lệ, tôi đứng dang chân dang tay trên tấm ván, miệng cười thật tươi kiểu sẵn sàng đón tiếp người yêu. Nhưng đêm nay có điều gì khiến tôi xốn xang bứt rứt vô cùng. Trong tích tắc, tôi ao ước phải chi mình được nhắm mắt nghỉ ngơi chốc lát. Thói quen phải sắp nụ cười thật duyên dáng luôn luôn bắt tôi chôn mọi ưu tư khác xuống tận đáy lòng. Tất cả những gì dưới lớp da bụng trùng xuống, tan ra, còn lại trong tôi nỗi trống trải bàng hoàng, lo âu vô cớ. Miệng tôi vẫn cười, tay chân vẫn dang rộng trên tấm ván, mắt vẫn mở to nhìn xuống đám thực khách Paris dư dả đến đây ăn uống xài tiền, mà lòng thì không cảm thấy gì ngoài nỗi hoảng loạn không tả xiết. Tiếng vỗ tay rầm rộ khi ông chủ vừa bước ra, tiếng cười nói và tiếng muỗng nĩa như xé nát lòng tôi. Ông cúi chào khán giả với cái chào nghề nghiệp và bỗng dưng, tôi lạnh cả người khi tưởng tượng rằng nếu một trong những con dao mà ông sẽ ném chung quanh thân tôi như mọi lần, có một con vô tình hay cố ý đi lạc ? Ông chủ nhận con dao thứ nhất từ tay anh phụ việc, với vẻ ung dung hình như hơn thường lệ. Và ông nhìn tôi. Tôi cũng nhìn ông ta. Thời gian đọng lại và giữa hai cái nhìn, không gian vừa gần gũi vừa bao la kỳ dị. Ông lui một bước. Bằng động tác nhanh nhẹn, ngoạn mục và dẻo dai, con dao thứ nhất bay đi cắm bên cánh tay phải tôi giữa tiếng vỗ tay tán thưởng. Có tất cả mười lăm con dao và lần nào, tôi cũng tự nhủ con này đây sẽ phập vào tay mình tựa Chúa bị đóng đinh, con này đây sẽ phập vào trán mình, con này đây sẽ phập vào tim mình... Cho đến con dao cuối cùng, sẽ bay tới cắm vào kẽ hở giữa hai đùi, cái nhìn rất lạnh của ông chủ khi thấy tôi cười vui vẻ với anh nhạc công cách đây hai hôm, bỗng sắc nét hơn trong trí nhớ. Tôi biết ông ta không hài lòng mảy may. Ông không muốn tôi vui cười với ai cả, trừ với ông thôi, nhất là khi không có bà chủ bên cạnh. Và tôi mặc nhiên chấp nhận điều này, cố quên là bên trong lồng ngực còn có con tim vẫn đập, bởi vì thân thể tôi cũng cần ngày ăn hai bữa, cũng cần áo quần đẹp đẽ lên sân khấu, và cần nhiều hơn để trả tiền cho trung tâm nuôi người khuyết tật tâm thần ở miền Nam nước Pháp. Tôi chờ đợi con dao cuối cùng lao tới, tự nhủ thầm không được run, bởi cử động nào dù nhỏ trong giờ phút này cũng có thể gây ra tai nạn. Hai chân tôi không vững lắm. Tôi có cảm tưởng mình sắp khuỵu xuống, chới với, lung lay. Tôi muốn rút hai tay khỏi vòng dao, ôm ngang ngực ghì thật chặt. Tôi muốn gục đầu xuống, nhìn sâu vào lòng để tìm xem điều gì đã khiến mình bải hoải lo âu đến thế. Tôi muốn khóc một lát. Tôi muốn nói cái gì đó. Tôi muốn... Nhưng vẫn bất động, miệng vẫn giữ nụ cười không biết có méo mó lệch lạc không. Giây phút cuối này kéo dài như vô cùng. Bất giác tôi cầu nguyện, hy vọng con dao không tim, không tình người, nhưng ông chủ thì có. Và ông ta còn sự nghiệp phải bảo vệ. Nếu ông cố ý ném vào phần thân thể ấy, cội nguồn sự sống, cố gây thương tích để trừng phạt rằng ngoài ông ra, tôi không được phép làm quen với ai khác nữa, thì cuối cùng ông sẽ được gì hơn ? Mắt tôi tìm mắt ông ta với cái nhìn cầu khẩn, nhún nhường và cố tạo niềm âu yếm ngọt ngào. Nhưng không thấy, ông ta mải làm vài cử chỉ cho thêm phần hấp dẫn, cho khán giả hồi hộp hơn trước khi kết thúc. Tôi bỗng sợ hãi lạ lùng. Tiếng huýt sáo nổi lên làm tôi tê liệt, nghĩ đến những trò chơi vô đạo thời La Mã. Người ta vừa huýt sáo với ngón tay cái chĩa xuống đất, bảo hạ nó đi hạ nó đi, phải không ? Mặt mày đám thực khách trông dữ dằn đanh đá. Rồi nhiều tiếng huýt sáo, nhiều tiếng la man rợ của dân tiền sử vang vang khắp phòng. Anh đèn chớp nháy khi mờ khi tỏ ánh mắt tử thần cố tình trêu ngươi đồng loã với cảnh trạng vô tâm bạc bẽo. Một nỗi chua xót cày xới lòng tôi. Một nỗi bức xúc mãnh liệt quằn quại châm cay điếng đôi mắt. Ðầu óc tôi cuồng loạn. Tim tôi dại đi. Và kìa, con dao cuối cùng. Sao trông nó sáng quắc đến lạ lùng vậy, mũi dao nhọn hoắc đe doạ sống sượng. Và ông chủ, nụ cười trông sao mà đểu, đôi mắt rực ánh lửa quái gở khát máu, bàn tay mềm mại vẫn sờ soạng khắp thân tôi cho đê mê nhục cảm cuồng loạn dâng trào, bỗng nổi đầy gân đồ tể. Lăm le con dao cuối cùng trong tay, ông ta quay lại, và với nụ cười khó lòng định nghĩa, ông nhìn tôi rất nhanh rồi dang tay ném... Ðúng vào lúc con dao tung ra và trong cái hỉ hả điên cuồng của thực khách, bụng tôi buốt lên. Vô thức, tôi rú thất thanh, nhắm nghiền mắt lại rồi đổ xuống hệt thân cây bị chặt... x Giọng bà giám đốc trung tâm đều đều với những âm tiết đặc biệt miền Nam nước Pháp làm tôi buồn ngủ. Tôi thèm được ngủ chốc lát. Những gì dù giản dị nhất, đối với tôi sao vẫn cứ là niềm ao ước. Tôi mệt mỏi quá, cả tinh thần lẫn thể xác. Tôi nhìn mông lung ra cửa sổ, hình dung lại thân hình tiều tụy xanh xao của chị mình vẫn thường ngồi trên bãi cỏ với cái nhìn vô cảm, xa vắng. Lần cuối tôi xuống thăm cách đây bảy tháng, vào một ngày mùa thu gió hiu hiu thổi tóc chị vướng víu lên nét mặt cẩm thạch nhợt nhạt. Mặt trời buổi chiều còn rực đỏ cũng không đem lại cho chị chút sinh khí nào. Chị tôi ngồi đó, giữa những chiếc lá úa nhặt hoài không biết mỏi tay. Trên bãi cỏ cắt xén với hai bìa đầy các loại hoa, chị tôi như thứ đồ chơi nhân tạo vụng về, vô hồn chỉ làm rối mắt. Tôi đến bên cạnh gọi chị, cố nhắc nhở sự hiện diện của mình, cô em song sinh. Nhưng chị không nhìn. Tôi như một chiếc lá chị vừa nhặt, để bên cạnh, không hề quan tâm tới nữa. Mắt chị ngó đâu đâu, nhìn không thấy. Môi chị mấp máy, nói không lời. Suốt buổi chiều ngồi nhìn chị mình với những trò chơi vô nghĩa, với cái đầu không còn gì lại bên trong, tôi hiểu phải tự sắp đặt tình cảm mình khác đi. Chị có thế giới của chị mà tôi không có chìa khoá để vào. Và tôi không còn gì trong chị. Như vậy tốt hơn. - Chỉ là cơn sốt xoàng. Tối qua chị cô không chịu ăn gì, chỉ uống cốc nước. Khoảng mười giờ, nghe tiếng lục đục trong phòng, cô y tá tới xem... Mười giờ ? Giờ đó tôi đang đau nhói vì lo sợ con dao cuối cùng. Sáng nay thức dậy, tôi sờ mó khắp thân thể và ngạc nhiên thú vị không tìm thấy vết thương nào, trừ cảm giác rần rật khắp người của đàn kiến đang gặm nhấm. Người ta nói bác sĩ bảo tôi có trái tim mệt mỏi của người đứng tuổi. Bà chủ ái ngại báo tin trung tâm dành cho người khuyết tật tâm thần nhắn tôi xuống gấp. Và tôi đi - Một mình. - ... thấy chị cô đang xếp các hình puzzle. Rồi bà mỉm nụ cười trang trọng : - Cũng lạ, bao nhiêu năm nay rồi cô ấy không hề đụng tới nó, và đó là cái duy nhất cô ấy không vứt đi. A, chơi puzzle. Món quà Mẹ mua cho hai đứa trong ngày sinh nhựt lên mười. Hình puzzle với cái hoa hướng dương vàng tươi có hai nhụy. Hôm đó Mẹ hỏi một nhụy có con sâu và một nhụy không, thích mua cái nào. Chị tôi thích nhụy có sâu, tôi thì không. Mẹ bảo : - Ai cũng nói chị em sinh đôi giống nhau từng chút mà hai đứa bây lại khác nhau từng chút. Mẹ bảo tôi ra sau chị khoảng mười phút. Và khi bắt đầu biết nhìn, mắt tôi láo liên tìm kiếm trong khi chị dửng dưng không thèm nhìn tôi mãi gần cả năm trời. Không bao giờ chúng tôi đòi bú hay la khóc cùng lúc. Và từ tuổi lên ba, trong mọi cử chỉ tôi nghiễm nhiên luôn luôn là người bảo vệ chị mình. Có cái duy nhất chúng tôi cùng thích như nhau là hoa hướng dương, thì đấy, lại có cái nhụy phải khác đi. Mẹ mua cả hai. Mỗi lần tôi sắp gần xong thì chừa miếng cuối cùng cho chị lắp cái nhụy có sâu. Nếu chị sắp thì chừa chỗ cho tôi lắp cái nhụy không sâu... - Rồi lát sau chị cô ra đi nhẹ nhàng như mơ. Bà nhìn tôi, nói khẽ khàng chẳng khác lời tạ tội : - Chúng tôi vẫn giữ nguyên cái hình puzzle chị cô đã sắp đêm qua. Ngày hôm sau chị tôi vĩnh viễn nằm trong chiếc giường đất êm ái bao dung. Trước khi đặt vào quan tài món quà sinh nhựt năm hai đứa lên mười, tôi run rẩy lắp vào miếng cuối cùng mà chị luôn luôn dành lại cho tôi. Lần này, mọi miếng rời rạc đều được dán chặt với nhau bằng tất cả tình yêu và nước mắt. MIÊNG Paris, 10 Sept., 1996. AI THƯƠNG B ây giờ thì tôi thức dậy với cái đánh thức nhẹ nhàng của người đàn bà. Chị thường bảo nhìn tôi ngủ rất dễ thương nhưng chị thấy cô đơn. Chẳng như hồi xưa anh ấy thường đánh thức tôi vũ bảo : Dậy. Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày. Dậy. Anh dậy sớm mà vẫn không giàu, không say sưa mà chẳng sang chút nào. Ðược cái bảnh trai, mắt ướt môi mọng. Bà chủ thì bảo mặt anh trông điếm. Anh thức ngủ theo giờ giấc loài gà. Ðêm nào muốn thức với nhau, anh phải uống hai ly cà phê đen. Sau mỗi đêm thức, anh thường đòi làm đám cưới, bảo là đã tìm ra người đàn bà đời mình. Nhưng thỉnh thoảng vẫn nhắc đến cô bồ cũ và câu ca dao chín con chưa gọi rằng chồng, rằng anh em như tay chân vợ chồng như quần áo... làm tôi khựng. Chúng tôi sống với nhau như những cành tầm gửi, không đứa nào là thân cây chính. Nhưng xa nhau không nổỉ. Xứ này một năm thời tiết vui vẻ chỉ có ba bốn tháng. Tôi sợ một mình. Hôm tình cờ gặp nhau khu chợ Tàu, cô bồ cũ anh thản nhiên mời tôi vào tiệm ăn trưa. Thản nhiên tới nỗi tôi không dám từ chối. Tôi lúng túng với đôi đũa vì mang mặc cảm mình đang đầm ấm với người xưa của chị, trong khi chị lại thui thủi một mình. Chỉ khi xong bữa ăn, tôi mới hiểu là chị bỏ anh hay những vị đàn ông trước đó vì chán, lại bỏ thêm thằng bồ Tây sau anh cũng vì chán. Như thể chị tìm kiếm hoài mà người đàn ông đời chị cứ trốn chui trốn nhủi xó xỉnh nào hoặc dám chưa ra đời. Tôi thấy chị may mắn sung sướng quá, tha hồ cứ lựa xong lại chán bỏ. Nếu chị không chán hẳn có người mang trầu tươi rượu ngon tới thỉnh về. - Có hạnh phúc không ? Tôi không biết trả lời sao. Có cũng không hẳn đúng mà không cũng chẳng sai. - Ðều đều hai ly cà phê đen không ? Và tìm ra người đàn bà lý tưởng ? Tôi cho như vậy là ác miệng, là muốn phá thối niềm kiêu hãnh của mình, nhưng vẫn cười. Chị nhìn tôi cười thẳng thắn. Người đàn bà này có cái gì làm tôi rất thích. Chả trách anh vẫn còn lưu luyến. Tôi không kể anh nghe buổi gặp gỡ ấy với cái nháy mắt chia tay lúc ra khỏi tiệm ăn. Có cái gì đồng loã ngầm giữa hai đứa quen hơi một thằng đàn ông mà không ghen tị. Sau đó chị thường điện thoại rủ nhau ăn trưa. Không có gì phải khai ra với ai, nhưng sao cứ như lén lút. Rồi anh muốn về Việt Nam vì sở gửi đi. Anh nói sống ở Việt Nam mà ăn lương Tây thì như vua. Em về với anh đi, khỏi phải làm công, mà làm bà. Chỉ cần ở nhà lo cơm nước cho anh. Không chừng cứ ngày ngày ra tiệm kéo ghế vì rẻ, lại ngon. Em vẫn thèm như vậy mà ? Tôi ngần ngại. Chín con chưa gọi rằng chồng mà ! Lại là thời buổi Việt kiều đang có giá, ông nào về cũng được các cô mơn mởn ve vãn. Bà nào cũng bị mất chồng mất bồ dễ hơn mất ví - rồi tôi sẽ ra sao ? Bà chủ khuyên không nên cho anh về. Mà tôi thì quyền hạn gì. Vẫn cứ phân vân. Chỉ có chị là khuyên nên để lủy đi đi, cho yên thân (cứ như thể lủy phiền hà tôi lắm vậy !). Buổi chia tay cũng bịn rịn như những cặp vợ chồng chân chính. Anh hứa khi nào thu xếp xong xuôi bên ấy thì tôi về, ta về ta tắm ao ta. Sở gửi đi chỉ hai năm chớ sau đó có thể gia hạn nếu muốn. Anh hứa thỉnh thoảng trở qua Pháp thăm tôi, người đàn bà đời anh. Tự nhiên tôi thấy có gì không ổn. Chắc chỉ vì mỏi mệt. Hay do những cái mà bà ngoại vẫn gọi là "linh tính" ? Cái thứ con hoang như mày ấy mà, chẳng hy vọng gì được ăn miếng trầu héo uống miếng rượu nhạt đâu. Lớn lên cứ đứa nào nói thương thì theo nó, đừng hòng ai mang trầu rượu. Tôi thường hỏi mẹ con hoang là gì. Mẹ làm thinh giây lâu, xong chỉ tay lên trời, bảo con hoang là con của trăng. Cha tôi thỉnh thoảng mới xuất hiện và chẳng bao giờ về nhà chơi với tôi như cha lũ bạn cùng xóm. Khi tôi giới thiệu cha, tụi nó trầm trồ cha mày sáng trưng, cha mày đẹp quá, mày sung sướng quá, mà sao cha mày ở chi tuốt trên cao vậy, sao không về. Người lớn thì cười. Rồi mẹ một hôm theo cha, cũng không bao giờ về với tôi và ngoại. Tôi hỏi nếu cha là trăng, thì mẹ là cái gì, có ở cạnh cha không. Ngoại lặng người, không trả lời. Rồi ngoại cấm tôi khóc hỏi về mẹ. Và cho đến ngày mất, ngoại vẫn mang trong lòng nỗi thương khắc nghiệt và niềm hận tôi vì sự "dại dột" của mẹ. Lớn lên tôi mới hiểu là ngoại nát cả lòng. Tôi đi theo người đàn ông thứ nhất vượt biên. Tới Pháp, anh bảo em triệt sản đi, anh không muốn có con nữa. Chẳng biết anh nói gì với bịnh viện. Người ta đưa tôi lên bàn mổ rồi hai tuần sau thì thả về. Ba năm sau anh bảo lãnh vợ con qua, may là tôi tìm được chân bán hàng. Rồi tôi gặp anh khách bảnh trai mắt ướt môi mọng. Bà ngoại vẫn bảo đứa nào nói thương thì cứ theo nó, anh nói anh thương, tôi theo... Tháng đầu anh đi, chị và tôi gặp nhau tuần hai lần. Tháng thứ hai, chúng tôi gặp nhau tuần ba lần. Tháng thứ ba anh bắt đầu vắng tin tức, tôi vẫn còn khóc, (không, khóc nhiều hơn chứ, vì biết là đôi mắt ướt đã nhìn đôi mắt khác, cặp môi mọng đã hôn đôi môi khác), chị bắt đầu qua đêm trong căn phòng chật chội của tôi. Ðêm đầu tôi nhường giường cho chị. Ðêm hai chị bảo tôi cùng nằm, âu yếm vuốt tóc tôi. Ðêm ba giữa đêm tôi thức giấc, mơ hồ cảm giác tay anh sờ soạng khắp người. Ðêm tư tôi bẻn lẽn như cô dâu mới về với chồng. Ðêm năm nhớ tới lời ngoại dặn : đứa nào nói thương thì theo nó đi, đừng hòng ai mang trầu rượu... MIÊNG Paris, 02 Janv., 1999. ỠM Ờ H ồi trẻ, tương đối tôi được lắm anh vờn. Ðến nỗi có lần hết tiền xin chân chạy bàn tiệm phở, chạy được mấy vòng chưa tới đâu bà chủ bèn chi tiền rất hậu cho thôi việc, sợ anh thái thịt sẵn dao chém anh rửa chén, sợ anh rửa chén lấy mảnh sành lột da anh thái thịt. Trong vòng bạn bè vòng loại phải kể cả tá, vòng bán kết khoảng dăm anh, vòng chung kết ba. Mỗi anh có đặc điểm riêng và nói chung chung, anh nào cũng đáng yêu hết cả. Anh thứ nhất đôi mắt lẳng lơ, máu nghệ sĩ đầy mình, cầm kỳ thi hoạ đều có. Cầm thì ghi ta anh vặt ngược ra sau vẫn đàn được. Kỳ thì chiếu tướng khá bất ngờ người thua thường nóng mặt chê "cờ rình" . Hoạ thì anh vẽ gì cũng hình thù nhà cổ, ngay cả chim chuột - chẳng qua vì học kiến trúc chuyên vẽ chùa chiền đền miễu. Còn thi nói sau cùng bởi có lần, viết cho tôi lá thư tình, anh chép nguyên bài "Nguyện" của Xuân Diệu, nói hai câu " Nguyện tâm hồn như chim chắp cánh, Nguyện thân thể như cây liền cành" thống thiết quá, anh thích hai câu "Nguyện xin trời đất làm hai bản, Nguyện lúc xa nhau vẫn vẹn hình". Tôi bèn đề nghị sửa chữ "nguyện" thứ hai thành chữ "để" , kết quả lời nguyện, xa nhau mà vẫn vẹn hình không thích à. Anh bằng lòng. Dĩ nhiên tôi bảo gì anh chả vâng. Anh thứ nhì nhà hoá học, gốc gác Phan Thiết. Ăn chay trường với nước mắm, mang kính cận gọng đỏ rất nổi. Thường giảng giải nhiều thứ rất ly kỳ, ví dụ thịt có nhiều protéine, trong không khí cũng có protéine nên hít thở khí trời cũng có phần nào như... ăn thịt ! Mà loại thịt này dễ tiêu, "thịt thiệt" nặng bụng lắm. Dĩ nhiên tôi nghe chỉ với vành tai. Ví dụ nhất định lần này dây bí nhà anh sinh ít nhất phải hai mươi hai trái mới đủ biếu bạn bè mỗi người một trái, bằng cách thấy hoa cái anh vội vàng xát hoa đực vào, cho chúng gặp nhau, trao thân gửi phận cho nhau. Thế là nó đậu. Anh dặn nước mắm phải mua loại ít nhất ba mươi lăm phần trăm chất đạm mới tốt, mới có chất cá chất biển trong người. Rằng ... dài dòng nhiều thứ "phải" thế này thế nọ lắm lắm, nhớ gì hết. Còn anh thứ ba, hàng lông mi dày đặc biệt trên đôi mắt tròn vo hột nhãn, ánh mắt ngây thơ đến động lòng, chơi chơi lại hái khối tiền : đánh billard artistique. Lúc không bận bịu thi cử, tôi tháp tùng anh ngang dọc đó đây. Anh co giò lên bàn bi da là tôi muốn sụp giò van vái Trời Phât dắt trái banh đi đúng đường đi lối về. Sau hai lần thử anh không thành công tim tôi đập đến nỗi làm ồn người ngồi cạnh. Nếu nó rộn rã vì yêu thì hay biết bao ! Cũng chẳng phải sợ anh thua sẽ lượm được ít tiền - ngoài chỗ thân tình ra, cho tới bấy giờ anh là người da vàng duy nhất được tham dự trò này mức độ quốc tế. Lại thuận tay trái, mỗi lần tới phiên anh người ta phải vẽ đường đối xứng. Cái thuận trời cho này có dịp hành hạ ban tổ chức thêm một chút làm tôi chịu quá. Nên chi mỗi lần anh cầm đứng hay đặt nằm nghiêng nằm ngửa cây "cơ" , đẩy nhẹ hay thật mạnh làm sao trái banh đi đúng đường vẽ lúc cong lúc thẳng, tôi phục sát đất, cho anh là người Việt Nam tài ba lỗi lạc lắm lắm rồi. Mỗi lần ai dấm dớ không xem chương trình hay không nghe lời giới thiệu, hỏi " Japanese ? ", tôi hét lên " No, Vietnamese ! ", khoái lạc ! Hồi đó bạn bè dục chịu ai thì lựa lè lẹ, còn giải phóng bớt. Nhưng tôi đi đâu mà vội mà vàng cơ chứ, cứ chầm chậm nhặt hoa rơi, thỉnh thoảng gặp anh thứ nhất nghe chơi bản đàn, vẽ chơi cái nhà tưởng tượng cho hai đứa mai sau (cái tủ lạnh thì ra đống rác lượm về xài, nhắm rồ) ; thỉnh thoảng gặp anh thứ hai bắt địa chai mắm ngon đủ ba mươi lăm phần trăm chất đạm, mùa hè được ít nhất nửa trái bí đỏ cây nhà lá vườn, bảo đảm nuôi tự nhiên không bón hoá học (anh nửa trái, chia tôi nửa trái, theo lời anh thì vậy "cho nó tình" chớ không phải hà tiện không cho trái nguyên) ; và dại gì không chạy theo anh ba thường ngược xuôi Ðức, Tây Ban Nha coi đánh bi-da ạc-tít-tíc ? Nữ sinh độc thân cũng khá nhiều dễ chịu. Tôi đu đưa giữa ba anh, cầm chắc trong tay sinh mạng và linh hồn họ, không bị vắt ra nước là phước đức lắm rồi. Nghĩ bụng hôm nào đẹp trời sẽ cho nhà hoá học đi tìm la-bô khác, đàn ông sành sõi quá lại đo lọ nước mắm, ngắm hũ dưa hành, làm sao sống nổi, thà cứ vụng vịu cho em nhờ. Gượm đã, hãy còn cần nước mắm, chẳng vội vã gì. Một hôm sau khi gặp anh bi-da, tôi nói với bạn : - Mày à, chắc anh ấy thương tao thật. Cô bạn gắt : - Anh nào ? Mày thì lắm anh, cứ anh ấy với anh đó thì tao biết là anh nào. Tôi cười nhỏ nhẹ : - Anh Hùng ấy mà. - Anh hùng anh dũng gì tao cũng cóc nhớ. Tao chỉ nhớ thằng đạo thơ, thằng lẩm cẩm và thằng bi-da. Thằng nào ? - Thằng bi-da. Mà tội, anh bi-da. Bạn bĩu dài môi : - Anh với chả anh. (Cao giọng) Mà hồi nãy mày nói cái gì ? Làm sao mày biết nó thương mày thật ? Tôi nói lý do. Lý do gì cũng chẳng nhớ. Chỉ biết có cái gì đó chứng tỏ tấm chân tình anh làm cảm động. Bạn tôi trót một lần thất tình nên tội nghiệp quá, mất hết niềm tin, nghi ngờ hết thảy - kể cả đám đàn ông của tôi ! - ngúyt dài : - Rõ vớ vẩn. Thằng nào gặp gái chẳng nói cái điều như mình không thương là nó chết bất đắc kỳ tử ngay. Rốt rồi thằng nào cũng đùm đề thê tử trước mình cho coi. Dĩ nhiên tôi cười độ lượng ra điều "mày chưa đủ khôn để hiểu". Cô bạn coi vậy mà độc mồm. Ðùng một cái, hai tháng sau miệng tôi vẫn mở mà tiếng cười tắt ngấm khi anh nghệ sĩ vừa báo tin tiểu đăng khoa vừa rỉ rả bài "anh khóc trên vai em, anh khóc trên vai em, một lần cuối, một lần cuối cùng, để còn thấy lòng thương lần cuối, một lần cuối cùng thôi em ơi !" . Bấy giờ bắt đầu vẽ nhà và chó mèo cho cô gì gì đó (cóc cần biết). Nghe nói bên nhà hai họ đã làm đám linh đình, thằng em trai mười chín tuổi phải đóng vai chú rể, ôm con gà trống qua nhà gái, nó mắc cỡ không chịu, dỗ mãi, phải tốn bộ vó mới tinh và cái vé khứ hồi nó rong chơi Huế mười ngày. Không thể vặn tại sao bởi nghĩ cho cùng, anh ấy chỉ "nguyện" chớ có hứa hẹn gì ? Lại là ông Xuân Diệu tự nguyện với lòng hay với ai đó, anh ấy "đạo" chút đỉnh, chết con kiến nào ? Chỉ tôi dại tưởng bở, hầm lắm. Mình không cho ai đi tàu suốt thì thôi chớ sao bị "cắm sừng" như vậy được. Nuốt mãi giận cũng còn. Con chó sinh được ba ngày, mắt tôi bắt đầu hé mở. Rồi trời ơi, mùa đông năm ấy mới lạnh lẽo làm sao ! Bởi vì tấp tểnh người đi tớ cũng đi, nhà hoá học không đợi mời, cũng đi tìm la bô khác ! Hôm ấy trời mưa tầm tã như thể muốn chứng tỏ gì chớ nước trời có thừa. Anh ấy đội mưa, tội quá (dù sao !), đem cho thùng nước mắm : - Thùng mười hai chai, hy vọng em ăn được cả năm. Thứ anh vẫn thường mua, ngon và đủ ba mươi lăm độ chất đạm, bổ lắm. Rồi kể tỉnh bơ về vợ sắp cưới. Anh có tật đãng trí không nhìn rõ tấm nhan sắc cô vợ (xấu hơn "Con ma nhà họ Hứa"), không nhận thấy vẻ sững sờ thất vọng trên mặt tôi. Ô, vậy mà mình cứ tưởng... dù sao... Và tôi làm như thể chúc mừng anh thật sự. A, chó đã được sáu ngày, mắt mở to thêm một chút, tiếng ư hử rõ ràng tiếng sủa. Ngay hôm sau tôi tìm tới anh bi-da. Phải ra tay trước chớ còn vỏn vẹn một chàng, để anh ta có cơ hội dở chứng thì còn mặt mũi nào. Anh đang tập dượt. Tôi la to : tôi chán đàn ông con trai, rằng muốn thôi không liên lạc với anh nữa, rằng các anh là một lũ ba xạo... Rằng đối với anh tôi cũng chẳng thương yêu gì, chỉ chơi giải trí cho vui, rằng dù vậy tôi vẫn muốn làm trái banh đỏ, trái banh trắng vòng vo bở hơi cũng phải chạm tới nó chớ không thì vẫn cứ là hỏng... vân vân. Chẳng nhớ nói gì và cũng chẳng hiểu lắm mình muốn nói cái gì, chỉ nhớ ngúng nguẩy bỏ đi anh chạy theo nắm tay nhưng tôi giằng ra. Tối đó không trả lời điện thoại, không chịu gặp anh và tuần sau em gái anh tìm tôi ở trường, báo tin anh đang ở tù bên Thụy Ðiển. Ðã nói ở trên, đó là " hồi trẻ", nếu xem ông trời bằng cái vung đã tốt phước cho ông lắm rồi ! Thích nghe đàn ghi ta và thơ đạo tán hươu tán vượn, thích ăn nước mắm đủ ba mươi lăm độ chất đạm không phải chạy đi mua, thích du lịch đó đây chút đỉnh không tốn tiền. Ðàn bà con gái mà, cứ tự cho quyền đá thiên hạ như đá banh, mình thì phải được sùng bái như thần thành hoàng ! Tuần sau nhận thư anh bi-da từ Thụy Ðiển, bảo rất mong gặp nhau. Tôi trả lời còn hai tháng nữa thi xong sẽ qua thăm ngay, vì dù sao anh bị giam tới một năm, vội gì (lúc đó thầm cám ơn quan toà đã xử anh tới một năm, dù chần chờ, cũng còn dịp đi thăm được). Không quên nói rất tiếc lỗi anh phạm phải. Nó giản dị thôi : mỗi lần bực bội chuyện gì thì cầm trái banh ném lên trời, thường anh chạy ra sân nên ông trời chộp được ném trả lại lựa chỗ không người. Ðằng này anh còn trong phòng có khán giả mà ném, trần nhà liệng trả lại, trúng phải một bà. Thế là bị "giam lỏng" bên đó (dù lỏng cũng vẫn là bị giam) và treo giò một năm. Ðời anh không cầm gậy chọc chọc mấy trái banh trắng đỏ, không ngang dọc nay đây mai đó hơn thua giải này giải nọ thì coi như tàn. Tôi tương lai cũng tàn nếu lần này hỏng nữa. "Ðộ này kiện cáo khách hàng thưa Thấy trẻ tiêu như có vẻ thừa Kiệm ước ra đời sao chẳng kiệm Con Thầy thông cảm ý Thầy chưa ?" Lá thư lần đó Thầy tôi gửi, không mấy hiệu nghiệm. Nhưng : "Con tưởng Thầy hái ra tiền dễ lắm hả ? Cãi thắng thì phải nhắc khéo cho thân chủ trả tiền lè lẹ. Thua thì phải tìm cách dụ ngọt ngào sao cho thân chủ phải móc hầu bao mà đừng buồn. Ai đưa thiếu thì hết cãi ở toà xong lại về cãi ở nhà. Thầy khổ lắm con ơi !", thống thiết bi ai quá, tôi không thể làm ngơ. Ba tuần sau nhận được thư anh bi-da : Em thương, Anh chán phải chơi trò ú tim lắm rồi. Cũng vì bực mình em mà hôm đó anh bị thua và bị phạt. Có một gia đình Thụy Ðiển rất qúi mến anh, anh sắp làm đám cưới với cô con gái nhà đó. Anh muốn yên thân để còn lo sự nghiệp lâu dài về sau hơn là cứ phải điên đầu vì em. Chúc em may mắn. MIÊNG Paris 22 Aout, 1995 CU BỢM C u Bợm vẫn chờ đợi khoảng thời gian này - lúc mà mẹ nó hãy còn đang bận bịu xắt chuối thì nó chưa có gì phải làm, và chú Thân dì Huệ đều đi vắng - để dán mũi vào chỗ rào đã vạch sẵn, nhìn lén qua nhà dì chú. Từ chỗ này, Cu Bợm có thể nhìn thấy hết mọi chuyện bên kia. Thằng Cu có lẽ vẫn còn say ngủ, con Chi Chi ngồi ở hè gãi sột soạt khắp người, gãi một cách say sưa và bỏ chấy rận gì đó vào mồm nhai. Gãi đã rồi nó ngồi thừ, một lát lại đứng bật lên lấy chổi quét sân, cứ y như có dì Huệ hét bên tai. Xong nó ném cây chổi vào xó, ngồi đờ ra lần nữa. Ðôi mắt màu hạt dẻ bỗng nhìn đảo điên. Nó vụt chạy ra sau nhà, nhìn thật lâu trầm ngâm vào cái chuồng heo đã trống. Nó nhảy tới, nhảy lui, nhắp nhắp miệng kêu chanh chách. Nó huơ tay như mỗi lần muốn nói gì với chú Thân, rồi lại quặp tay ra sau đít, miệng không ngớt phát ra những tiếng kêu chói tai. Mãi lâu sau khi nghe tiếng thằng Cu khóc, con Chi Chi chạy vụt lên nhà. Nó có cái nhìn giống thằng Tị con ông Tư, láo liên. Cu Bợm biết là chú Thân thương con Chi Chi bao nhiêu thì dì Huệ ghét con Chi Chi bấy nhiêu. Dì cứ thường cằn nhằn với mẹ là hay ho gì mà nuôi khỉ trong nhà. - Nhưng mày cũng sai nó làm được khối việc đó chớ. - Ơ thì tàm tạm, thấy mình làm sao thì nó làm vậy. Ðồ khỉ ý mà, chỉ giỏi bắt chước. Sai biểu được chút đỉnh mà sao tui cũng không ưa. Dì Huệ ghét Chi Chi ngay hôm đám cưới. Ðông người quá làm nó sợ, vào rừng trốn biệt tới tối mới về và theo thói quen, leo lên giường ngủ với chú Thân. Ðuổi mãi nó không ra, dì Huệ lấy cây roi doạ đánh. Nó vừa nhảy xuống khỏi giường vừa hậm hực. Sáng hôm sau dì Huệ mới ló mặt ra cửa buồng là đã thấy nó chờ sẵn với cây roi rồi ! Chú Thân rất ít nói, cả ngày nếu nghe thì chỉ nghe dì Huệ thôi. Dì Huệ gọi: - Chi Chi, vào quạt cho em ngủ, mày làm cái gì mà nhởn nhơ ngoài đó. Dì Huệ khoe : - Nhà ơi, mới mua cho thằng Cu cái áo ca rô đỏ vừa rẻ vừa đẹp, Tết này nó diện vào thì nhất định là bảnh nhất xóm. Dì Huệ bảo : - Nhà này, bữa hăm ba Tết, thịt con heo bán cho kịp. Bán rồi ghé chị Thạnh lấy áo mới cho nhà, may rồi. Chẳng nghe chú Thân nói gì, chỉ nghe dì Huệ gạt đi : - Nhà nói lạ chưa, năm nay mình có con, Tết nhứt phải ra gì hơn mọi năm chứ lại... Cu Bợm thuộc làu những chuyện chú Thân kể, nó nghe và hiểu được, vì nó cũng sống trong cảnh nghèo. Co ro trên ổ rơm, nó hiểu. An củ mì luộc trừ cơm, nó hiểu. Nhưng những chuyện dì Huệ nói thì nó không hiểu nổi. Dì Huệ nói nhiều chuyện về "sau này thằng Cu sẽ" lắm. Thằng Cu đi học, nó hiểu. Nhưng "học ít nhứt tới tú tài", tú tài là gì, nó không hiểu. Mỗi lần dì Huệ bàn tính, thỉnh thoảng nghe chú Thân ừ, hoặc chẳng nghe gì cả. Hễ có dịp mở miệng là chú chỉ nhắc lại những chuyện đã nói rồi, mà Cu Bợm vẫn cứ há hốc mồm ra nghe, ghiền. Chú thường kể chuyện nhà cụ Bá ăn đạn, mang luôn cả cụ theo vì lúc ấy vào khoảng giữa khuya. Cụ Bá uất hận, đêm đêm vẫn hiện về trên nền đất cháy đen, đi tới đi lui, hai tay chắp sau đít kêu to lên : - Cu Bợm đâu, về bằm chuối cho heo. Cu Bợm ! Cu Bợm giật bắn lên, một nhánh gai ở bờ rào cào tay nó. Nhưng nó tỉnh người vì nhận ra giọng mẹ nó chớ không phải cụ Bá. Nó rời hàng rào, tiếc rẻ. Mẹ nó nói to hơn : - Cả ngày cứ long nhong lêu lổng, muốn tao bỏ đói chắc. Cu Bợm ! Cu Bợm chạy về, mẹ nó la : - Bộ muốn thành bợm thiệt hay sao mà cứ rình mò nhà người ta hoài vậy ? Cu Bợm vào bếp, nơi có nong chuối xắt đang chờ nó bằm cho nhuyễn, nói có vẻ thèm thuồng : - Mẹ mẹ, hồi sáng chú Thân làm con heo đi bán Tết rồi thì chắc con Chi Chi khỏi phải bằm chuối nữa hể mẹ ? - Sao khỏi. Nhà Thân nói tính mua hai con heo con lận đó. Rồi bằm gấp đôi chớ không à. Cu Bợm thèm thuồng nói : - Cha mà bắt cho con một con khỉ như Chi Chi thì mẹ nuôi mấy con heo cũng được. Không nói gì, mẹ Cu Bợm lấy cái nón gác trên dàn bếp, vừa bước ra cửa vừa dặn con : - Bữa nay ăn cơm với còng um trong chạn. Gần Tết rồi nên nhà ông Tư xay lúa nhiều hơn, mẹ về trễ. Chiều dặn cha nấu cơm trộn củ mì nhiều hơn hôm qua, để dành gạo ăn Tết. Cu Bợm ngồi xuống bên cạnh nong chuối xắt, bắt đầu làm việc. Nó vừa bằm chuối vừa ngó qua nhà chú Thân. Nó bắt đầu cái trò rình mò này từ hồi chú đem con khỉ con về nhà. Mẹ nó bị chú bắn chết vì sương mù dày quá, chú tưởng lầm là con nai. Tiếp theo chú cưới dì Huệ và có thằng Cu, nó lại càng rình chăm hơn nữa vì mê cả con khỉ lẫn thằng Cu. Bên kia nhà, không biết con Chi Chi đang làm gì mà nghe thằng Cu cười sặc sụa. Bỗng con Chi Chi lại chạy ra sau nhà, lại nhìn cái chuồng heo trống, lại nhảy tới nhảy lui, lại nhấp môi kêu chanh chách. Trong khi đó thằng Cu không còn ai chơi, nổi lên khóc. Có lần Cu Bợm hỏi mẹ : - Trao thân gởi... cái gì đó, là gì mẹ ? - Trao thân gởi phận chớ gởi cái gì. - Là sao mẹ ? - Là ờ... là người này về ở nhà người kia. Như dì Huệ về ở với chú Thân vậy. - Con hiểu rồi. Chú Thân nói con Chi Chi trao thân gởi phận cho chú. Con biết là thằng Cu lớn lên sẽ trao thân gởi phận cho ông ngoại nó. Dì Huệ nói. Ðể nó đi học cho gần. Không nhìn chuồng heo nữa, Chi Chi vào bếp lấy con dao lớn, chạy tốc ra vườn, huơ dao lia lịa chặt nhanh mấy tàu lá chuối, bắt chước y hệt chú Thân sáng nay. Chà, nó cũng biết lựa mấy tàu nguyên vẹn. Cu Bợm kéo tấm phên cửa bếp rộng ra để vừa sáng, vừa có cái nhìn rộng hơn. Nó ngồi soải hai chân trên nong đầy chuối bằm bằm nhát gừng vì mắt mải theo dõi Chi Chi. Con Chi Chi lên nhà. Vẫn với con dao xắt chuối. Từ bếp nhìn qua nhà chú Thân thì không trông rõ như ngoài rào, Cu Bợm ráng đổi đủ kiểu ngồi cũng không thấy khá hơn. Buổi trưa ở nhà quê cực kỳ im lặng, Cu Bợm không nghe gì khác ngoài tiếng bằm phập phập của chính con dao mình. Con Mực mà chú Thân đã cột trước khi đi vì sợ nó cắn lộn với con Chi Chi cũng đang im ngủ. Trong khi chờ con Chi Chi ra sân, Cu Bợm bằm chăm chỉ. Bỗng nó nghe thằng Cu khóc ré lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Chắc thằng Cu giận lắm vì còn đói. Rồi im. Mẹ Cu Bợm thường khen thằng Cu được cái khóc to nhưng không khóc dai. Tiếng ré của thằng Cu làm con Mực bị cột ở cửa đang ngủ bỗng thức dậy, kêu toáng lên. Nó nhảy đông đổng, uất ức vì bị cột. Nó nhe nanh, mắt đảo ngược, gầm gừ sủa dữ dội, nó kêu ăng ẳng nghẹn ngào. Bốn chân cào bấu vào cửa một cách vô vọng, con Mực vặn vẹo thân mình như đang bị tra tấn. Nó quằn quại trăn trở đủ kiểu, hướng vào nhà sủa hết sức mình chửi con Chi Chi đã phá giấc ngủ trưa của nó. Rồi nó tru lên từng hơi dài. Giữa trưa im vắng, tiếng tru của con Mực gây cho Cu Bợm cảm giác ớn lạnh ở lưng. Người ta bảo chó tru vì thấy ma. Hay con Mực đang thấy ma hiện ra bên nhà chú Thân ? Nó tru lanh lảnh rợn người. Và nếu có ma, liệu con ma có qua đây không ? Trời ơi, Cu Bợm đang chỉ một mình ! Cu Bợm bằm nhanh tay hơn. Bên kia rào lặng câm. Chắc con Chi Chi đang quạt cho em ngủ. Con Mực thì cứ gầm gừ, cổ họng kêu rên, bốn chân không yên, bứt rứt. Nó không tru to nữa, mà kêu ư ử như than khóc, kiểu khóc của mẹ hôm bị cha đánh. Nhìn nong chuối, Cu Bợm hài lòng. Chuối sắp nhuyễn, cha cũng sắp về. Cả chú Thân dì Huệ nữa. Chỉ có mẹ là phải tới chiều. Mỏi nhừ, nó bằm chậm lại và phản ứng là nhìn qua rào. Bỗng nó giật bắn người : bên kia, con Chi Chi vừa bước ra sân với con dao lóng lánh ướt đỏ chói dưới ánh mặt trời. Nó đi hiên ngang, cười cười một mình vẻ hài lòng. Bộ lông màu cỏ úa của nó bê bết ướt át cái gì đỏ rực... Chú Thân thường nói chưa bao giờ thấy cụ Bá hiện về và chưa bao giờ chú sợ. Trừ có một lần, hồi hãy còn trai trẻ, một hôm đem thịt nai đi bán ở làng Hạ, chú chợt giật bắn người vì một trái bom rớt gần chợ. Ðang điếng hồn, chú thấy một thằng nhỏ ở đâu chạy ngang qua, vừa la khóc vừa chửi thề om sòm. Thằng nhỏ cháy như ngọn đuốc. Ðến góc chợ, nó ngã qụy. Không một tiếng động. Mọi người sợ hãi ngơ ngáo, quên cả cái chết của thằng nhỏ. Chú chưa kịp hoàn hồn thì một trái bom khác rơi đúng trên nóc chợ. Chú thấy tận mắt một thân hình đàn bà tung bắn lên cao rồi rơi xuống trước lều chỗ chú đang ngồi. Những chiếc xương sườn chĩa ra khỏi chiếc áo bà ba bê bết máu. Những mảng thịt nát ngấu lòi ra ở bụng. Chú lặng người đi, quẫn trí, không biết phải làm gì, quên cả chạy... Cứ mỗi lần nghe chú Thân kể chuyện đó là Cu Bợm có phản ứng nhìn xuống hông mình. Bây giờ nó cũng làm động tác đó. Không, không có cái xương sườn nào chĩa ra khỏi áo nó. Bên kia sân, con Chi Chi cười sặc sụa, ném con dao loáng đỏ xuống sân và hai tay nhớp nhuá xoa vào nhau. Cu Bợm bật lên một tiếng kêu. Vừa lúc đó nó chặt nhằm phải chân mình. Con dao Cu Bợm vừa dính một chút nước gì cũng màu đỏ... Máu chảy rỉ rả ở chân, Cu Bợm cà nhắc lao ra sân, ngóng nhìn về phía đầu làng với tất cả sôi nổi của lo âu lần thứ nhất trong đời. Trời trong vắt. Khoảng mênh mông trống trơn trải dài ra trước mặt nó ngút ngàn. Không một bóng người. Cây đa đầu làng như rũ xuống dưới cái nóng cháy da muôn đời của làng Thượng. Hơi nóng tạo một màn ảnh mù mờ lung linh làm Cu Bợm thấy choáng váng. Nó muốn chạy đi nhưng chân nó như dính chặt xuống đất, nặng nề quái đản. Ðúng lúc đó bóng dáng vợ chồng chú Thân đang tất bật bước ở khúc đường quẹo về nhà. Bên kia, con Chi Chi không có vẻ gì cà nhắc hay bị thương như Cu Bợm, đang ngồi dưới gốc cây gạo chợt chạy biến vào nhà rồi nhảy phóng ra như chớp, hai tay bê cái rổ lót lá chuối như sáng nay dì Huệ đã làm. Từng giọt nước đỏ tươi rải xuống khi nó nhảy tưng tưng vẫy tay về phía hai người. Con Mực sủa inh ỏi, chồm lên, lồng lộn như muốn bứt đứt sợi dây xiềng. Trong cái tĩnh mịch của miền quê, những âm thanh ấy tạo nên một cảm giác hoảng loạn bất an cùng cực. Cu Bợm muốn gào lên cho chú Thân dì Huệ về nhanh chân hơn chút nữa, nhưng cổ họng nó tắt nghẽn, lưỡi quíu lại, tay chân tê liệt. Trời im sững. Nắng gay gắt không hây một chút gió. Mặt mày Cu Bợm tái mét. Nó đứng bất động như trời trồng, đôi mắt ngây thơ chết câm, khô cứng. MIÊNG Paris, Avril l994 CỤ CHẮC K hông hiểu sao mấy hôm nay tôi thường nghĩ về bà Chắc - bà cụ sống bằng nghề cầm thế và cho vay lấy lãi quê tôi. So với người Việt Nam thì bà thuộc loại cao lớn, xương xẩu và ăn nói thẳng thừng ai cũng nể - lỡ cầm cái gì hay vay nợ bà thì càng nể dữ nữa ! Mà trông bà có dữ dằn gì đâu, chỉ cái có tiền làm bà tăng muôn phần uy thế. Bà có chồng Tàu. Nghe là ông Tàu này trôi dạt tới Việt Nam vào những năm bên đó người ta nhe răng cạp đất. Trong nhóm cùng đi với ông, có người vừa tới Việt Nam gặp cái ăn mừng quá, ăn lấy ăn để rồi lăn đùng ra chết. Chồng bà Chắc thì không hư ăn đến vậy, và kiếm sống ngay bằng nghề tẩm quất. Ngày cụ thân sinh bà đau nhức, ông Tàu xoa bóp thế nào mà ông cụ chịu gả con gái cho. Rồi ông Tàu xin nhận nơi này làm quê hương cho tới hết đời. Ngày cưới, ông sắm cho bà chiếc áo vải điều và chiếc xuyến vàng - gia tài trong hai năm cày sâu cuốc bẫm trên thân gầy Giao Chỉ. Ông bà có được tám người con, năm trai ba gái. Nhưng ông Tàu cho rằng năm con trai liền tù tì là không tốt, là ngũ qủy, nên ông quyết định cho thằng út về Tàu cho chú nó nuôi, ngay cả khi nó chưa đầy tháng. Còn lại bốn thằng hoá ra tứ qúy. Ông bà bắt đầu ăn nên làm ra. Ông bỏ nghề xoa bóp và tậu cửa hàng ngũ cốc. Cái ngộ là thời đó ai lấy chồng Tàu liền có biệt danh là bà Năm Tàu, bà Bốn Tàu... Riêng bà Chắc thì vẫn còn tên bà Hai Chắc. Vào những năm Nhật đốt kho lẫm cho dân mình chết đói, gia đình đông lúc nhúc của ông bà tương đối vẫn có khoai sắn nhai cầm hơi. Có dạo nghe biển trúng độc, không ai dám ăn đồ biển nên giá rẻ hơn bèo, ông tha hồ thỏa mãn cái máu Tàu truyền kiếp của mình và bà tòng phu, chẳng sợ chết độc mảy may. Cả gia đình ai cũng phát tướng phát phì từ đấy. Nhường cho cậu trai cả cửa hàng ngũ cốc, bà bắt đầu cầm đồ, cho vay. Gia đình lại càng phát lên. Ðến năm ông Diệm chết bất đắc kỳ tử thì ông Tàu cũng chết - chẳng dính dáng gì nhau, nhưng đó là điểm mốc nói về năm chết của ông cho những người thường quên ngày tháng. Và cũng không phải chết vì chất độc đồ biển dồn lại, mà chết vì bướu cổ. Phu tử thì tòng tử mà bà Chắc thì không, phu tử thì bà tòng Phật. Từ đó bà trở nên bạn chí thiết của Ðức Quan Thế Âm và miệng không ngớt kêu khẩn bạn hiền. Và cũng từ đó bà bắt đầu lẻm bẻm nhai trầu. Bà tụng kinh gỏ mõ mỗi chiều. Nếu không ai tới vào lúc đó thì những bài kinh kệ của bà hẳn là liên tục và thành khẩn lắm. Khổ cái, thiên hạ thường cần tiền bất tử nên quýnh quáng chạy tới bà - và dù đang tụng niệm, bà có cần gì đâu mà phải quýnh, nên bình tĩnh vừa tụng vừa quay đầu ra phía cửa : - Nam mô A Di Ðà Phật, đồ rách không cầm, Nam mô... Xong bà nhìn lên bàn thờ và chỉ có Phật mới biết là bà còn thành tâm trong khi tụng tiếp hay không. Bà ít khi ra đường, chỉ ở nhà lo tính toán tiền nong. Chữ nhứt bẻ làm hai cũng không ra, vậy mà tính nhẩm thì bà dám đố cả mấy ông thầy toán, thách cả cái bàn toán của ông lang thuốc bắc cạnh nhà. Khi bà tính toán thì Phật trên bàn thờ có gọi bà cũng không nghe. Bà chăm chú tuyệt đối và những con số như thu hết hồn vía bà. Bà tính toán có vẻ say sưa, nhất là tiền lãi, những lúc đó trông bà vui vẻ tươi tỉnh hơn cả những khi lầm rầm khấn vái tâm sự với "bạn hiền". Ít ra đường nên mỗi lần bà ra khỏi nhà thì ai cũng biết. Chẳng rõ ngày xưa vua chúa đi kinh lý thì dân chúng sợ hãi đến cỡ nào, chớ bà Chắc đi kinh lý thì không những dân chúng không dám nhìn mà còn trốn nữa kia. Thấy bóng dáng bà từ xa, thiên hạ đã bắt đầu lĩnh đi chỗ khác, dặn con cái bà có hỏi thì nói ba má không có nhà nghe con. Dặn vậy là trẻ nhỏ tự nhiên biết phải trả lời với ai. Bà nghiễm nhiên trở thành "bà" của cả làng. Lớn lên tôi tự hỏi chả lẽ cả làng tôi đều thiếu nợ bà ? Chưa bao giờ thấy bà gây gổ hay to tiếng. Với ai bà cũng nhếch mép một chút, cái cười không ra cười, kiểu La Joconde, mà thiên hạ đủ trốn rồi thì đủ hiểu là tiền làm cho nụ cười của bà trở nên vô giá đến độ nào ! Mỗi lần chị em tôi tới dì Hai cách nhà bà một rào thưa, thường gặp cô con dâu cả bà Chắc. Cô hay đem đậu phộng khô qua nhà dì tôi, vừa chuyện gẫu vừa có người lột phụ cho nhanh. Chẳng biết đám con nít vô tội chúng tôi nợ nần gì, cứ mỗi lần gặp thì cô con dâu bà thường bịa ra chuyện lột thi. Thế là chúng tôi... trẻ người non dạ, cứ gồng người lên cố lột cho nhanh, chỉ để cuối cùng được tiếng khen "lột giỏi" và ngón cái với ngón trỏ hai bên sưng tấy lên ! Thỉnh thoảng chúng tôi cũng qua nhà bà Chắc chơi. Bà có vẻ thương con nít. Sẵn đậu phộng bày bán, bà rang vàng phát cho chúng tôi mỗi đứa một nhúm. Chúng tôi vừa ăn vừa lột đậu phộng và nghe bà kể chuyện. Chuyện Hoàng tử đi đánh giặc về, thấy cái vỏ dưa bèn tè vào đấy (không biết Hoàng Tử nghịch hay vì là Hoàng Tử thì phải tè vào cái gì chớ không chịu cho nước ra trực tiếp xuống đất ?). Nàng Út đi đường đói bụng, bắt gặp miếng dưa mừng quá, ăn. Sau đó Nàng Út có bầu... Chuyện ông quan sai lính đem dâng vua quả mít, vợ anh đang có bầu trông thấy mít thèm quá bèn lấy ăn. Ông vua phạt đem mổ bụng người vợ lính, thấy bên trong thai nhi đang cầm múi mít đưa lên môi, và qua làn da bụng mỏng manh của nó người ta thấy là cu cậu đã xới tái mấy múi rồi... Những chuyện ly kỳ như vậy chúng tôi biết qua tài kể chuyện của bà Chắc. Bà có cái tật rất đặc biệt tổ quốc của chồng là hay khạc nhổ. Mỗi lần đang kể chuyện, bà ho và nhổ toẹt bất kỳ vào một xó nào đó. Nhưng có một lần tôi nghe bà nhơn nhơn trong miệng rồi nuốt cái ực. Từ đó mỗi lần bà đang kể chuyện, nghe bà ho, tôi thường rúm người lại. - Có anh kia có ngải... Cả đám con nít nhao nhao : - Ngải là gì hở bà ? Một đứa làm lanh : - Ngải là nghĩa, là người có tình có nghĩa chớ là gì. - Không phải, ngải là... Tới đó thì bà ho. Tôi nhắm mắt nín thở chỉ sợ nghe bà nhai nuốt. Nhưng không, lần này hẳn cục đàm cứng lắm, bà đưa tay bốc gọn gàng và vất nghe đánh bốp vào tường. Ngày con dâu sinh lần ba, bà ẵm thằng cháu nhỏ ngôi ngoài hè chờ tin. Chừng nghe bà mụ nói còn đứa thứ hai, bà đứng vụt lên, bỏ cháu dưới đất. Bà mụ lại la lên còn đứa thứ ba, bà cụ Chắc chạy tuốt ra vườn. Tới chiều sẫm khi mọi việc xong xuôi, anh con trai ra vườn tìm mẹ. Anh kêu lên : - Trời ơi, ngồi đâu không ngồi lại vô chính giữa bụi tre. Rồi làm sao ra đây mẹ ? - Phát rụi đám gai cho mẹ ra. Tao không biết làm sao tao vô đây được. - Nó sinh ba mẹ à. Cụ la toáng lên : - Thôi thôi đừng nói nữa. Kéo tao ra cho tao xuống nhà thằng ba tao ở. Cả tuần sau cụ mới về nhà. Gặp cụ, bà mụ cười : - Có gì đâu mà sợ thím. Tụi nhỏ mạnh khỏe bình thường mà. (Hạ giọng) Thím biết không, năm ngoái cháu đi dỡ đẻ cho nhà kia ở làng dưới. Mô Phật thím ơi, cũng sinh ba mà không đứa nào có đầu hết ! - Nhà nói gì ? - Dạ, Trời Phật thương thím à. Vậy mà cháu lo chôn cất từng đứa tử tế đàng hoàng bình tĩnh lắm. Mô Phật, tới tối về nhà thì cháu mới sợ, sợ tới nỗi ói mửa mấy ngày. Cháu nghỉ cả ba tháng, mà ở nhà thì lấy gì ăn nên lại phải đi làm. Tới đó thì bà cụ Chắc như mới hiểu ra câu chuyện, cụ ré lên, khua tay bấn loạn rồi chạy vội ra sân. Cụ gập người lại, hai tay ôm ngực. Bà mụ hoảng quá chạy theo ra đỡ hai vai cụ, tự nhủ thầm là tâm sự gửi không nhằm chỗ, chỉ tưởng nói vậy cho cụ mừng, ai ngờ. Cụ ói tới mật xanh mật vàng... Ðêm đó cụ lên cơn sốt... Thiên hạ bàn tán rằng mấy đứa cháu mới ra đời tuổi không hạp với bà nội, rằng cầm tinh của tụi nhỏ là mèo mà cụ Chắc lại tuổi chuột. Thảo nào mà ba đứa hè nhau chụp bà cụ dính ngay. Rằng nhà này có mống mầm của quỷ, đã hai đứa trai rồi mà còn sinh một hơi ba thằng nữa. Rằng trước kia cụ còn khỏe mạnh và cho ngay thằng năm đi nhưng cái căn cơ vẫn còn đó nên bây giờ tụi nó trở lại hại cụ, nên cụ ra đi bất ngờ quá, chớ sức cụ còn dai, tinh thần còn minh mẫn lắm mà ! Nguồn tin khác thì nói càng về già cụ càng nghi ngờ hết con cái nên không cho đứa nào biết ai thiếu đủ bao nhiêu, cụ nói cái của đó cụ dưỡng già và cúng Phật. Mà Phật thì không thích hưởng cái của thất đức phi nghĩa đó nên cho cụ quy tiên để khỏi ... mang tiếng dính vào những đồng tiền không lấy gì làm Phật cả. Thôi thì ai cũng nói nho nhỏ, dặn nhau là đừng nói ai nghe. Dặn nhau tới nỗi không cần dặn nữa vì cả làng đều biết. Xác cụ còn nằm đó mà lời đồn đại thì đi xa tới tận bên Tàu. Nghe đâu người con trai út có gửi tiền về cúng, gửi qua tận ngã Hồng Kông hay gì gì đó. Dân làng chúng tôi bàn tán tới cái chết của bà cụ Chắc nhiều hơn cái chết của ông Diệm và ông Tàu. Ông Diệm chết thì dân làng không có gì thay đổi cả, nhưng bà cụ Chắc chết thì không nói ra chớ có lắm anh chị bỗng dưng hết thành con nợ. Bà cụ đi thình lình, chẳng kịp trối trăn gì. Hầu như cả làng ai cũng tới phúng viếng, chắc trước ánh mắt lung linh hương khói trên bàn thờ, có khối anh chị xin cụ tha thứ bỏ qua nợ nần, và không quên cầu khẩn Ðức Phật dẫn thẳng bà cụ tới Niết Bàn để dù có nhớ đường về, cũng không còn tha thiết chuyện đòi nợ nữa. Bỗng dưng cả làng cảm động. - Mẹ ơi, dì Hai nói lạ quá, đáng lẽ bà cụ Chắc phải chết đường chết sá hay chết nửa trên giường nửa dưới đất mới phải. - Sao lại mới phải ? - Vì bà cho vay cắt cổ, như vậy là ác. Tôi vẫn còn nhớ nụ cười dịu dàng của mẹ : - Bà kinh kệ nhiều vậy thì ác sao được ? Dù có ác mà thành tâm tụng niệm bấy lâu nay thì Phật nào mà không động lòng. MIÊNG Paris, 30 Sept. 1998 B GIÀ ỏ chân xuống giường, bà cụ đứng lên mò sờ cửa sổ phòng mình. Ở chân giường là cái tủ đứng ngăn với lối đi, và từ tủ cột một sợi kẽm, treo tấm màn dọc theo chiều dài giường - đó là "phòng" của cụ. Từ cửa sổ, cụ bước dọc theo tường tới cửa xuống bếp. Qua khỏi cửa bếp, cụ phải sờ thấy tay vịn cầu thang, và cách đấy vài bước cụ sờ vào góc tường phòng tắm. Rồi cụ quay gót, sờ đụng tay vịn cầu thang, bước tới cửa bếp, về "phòng", sờ vào cửa sổ, leo lên giường, sì sụp lạy bốn phương ... ngày hai bận. "Phòng" cụ thì vỏn vẹn cái bàn nhỏ để quà bánh và cái giường đôi. Vì giường thì đôi mà cụ chỉ một mình nên phần nửa giường cụ để cái quạt máy chưa bao giờ dùng (và chắc sẽ không bao giờ dùng), hai cái thau nhựa to tướng hãy còn tốt (vốn liếng còn sót sau bao nhiêu năm cụ làm thương mại) đựng lỉnh kỉnh vài chai lọ, và một hộp thiếc to đựng thuốc lá. Giang sơn của cụ ít ỏi bao nhiêu thì lộ trình sinh hoạt của cụ cũng ngắn ngủi bấy nhiêu, xa nhất chỉ là lên gác thắp nhang bàn thờ, cũng sì sụp lạy bốn phương, cũng ngày hai bận. Không ai biết được bao nhiêu cái cụ phải lạy trong ngày và cũng không biết cụ lạy cái gì. Thì giờ còn lại cụ ngồi trên chiếc ghế nhỏ sát giường, tay phe phẩy quạt. Cụ quạt không ngừng tay bởi trời Sài gòn hừng hực nóng, cụ ngồi trong căn "phòng" bưng bít mà lại mặc áo len. Có người hỏi tại sao, cụ cười : - Áo mình là kiểu xưa, hắn giặt rồi đưa cho mình áo khác. Chớ áo mình làm chi có nối ở vai phồng phồng như con gái rứa. Nên chi mình bận áo len che bớt đi, chớ không thì như bận áo nính. Những ngày trời mưa, trong bếp nước từ dưới nền xi măng ứa lên, ứa lên tràn ngập, có khi cao cả vài chục phân. Cụ cũng cứ giữ thói quen đi lại, cứ chân trần lội nước mà đi. O Hậu vừa tát nước tràn vào ngập nhà trước, vừa nói mợ ơi làm ơn ngồi một chỗ đi, chớ lỡ trợt chơn té thì làm răng. Nhưng cụ làm như không nghe thấy. Mỗi lần muốn ăn, từ cái tủ đứng ở chân giường, cụ lần mò ra tới bàn, ngồi ở ghế nhất định, không nói gì, cho tới khi O Hậu đặt trước mặt cụ một đĩa gì đó, thường là bánh xèo, bánh cuốn, bánh khọt, chả giò ... ít khi nào cụ chịu ăn cơm. - Bữa ni không có bánh xèo mợ à, mợ muốn ăn cái chi ? - Ta muốn ăn bánh xèo. - Nhưng bữa ni không có, hắn đau không đi bán. - Răng không bán, không bán hắn sống bằng cái chi. Tại mi không muốn cho ta ăn. Rồi cụ bắt đầu liệt kê tất cả tội lỗi của O Hậu mà cụ có thể tưởng tượng. Rằng mi giặt quần áo mới của ta mi đổi, mi đi chơi đêm về leo lên cửa sổ mà vào nên chi bực gạch bị bể, mi tò te chi với thầy Nhỏ, tại ta thương chồng con nên mới lụy vào mi chớ ta với mi có họ hàng chi, con cái bới cho ta thì mi hưởng hết, ai tới nhà ni cũng chỉ biết mi chớ không biết tới ta, chừ ta mù rồi thì mi muốn làm trời làm đất trong cái nhà ni ... Có khi O Hậu tức cười trước những lời vu vơ chẳng đâu vào đâu ấy, nhưng nhiều lúc cụ nói đanh thép bạc bẽo thì O Hậu buồn, thường kể lại lời trách móc của chị O, rằng răng mà mi chịu được, rằng việc chi mi đang thong thả một mình lại phải cưu mang, khi cậu mất bà có thèm để tang cho cậu mô mà mi phải tình nghĩa... Chuyện xưa, không biết cụ ông bỏ bà hay cụ bà bỏ ông, chỉ biết là cụ ông đi biệt xứ. Cụ bà cưu mang con cái nhưng nuôi với lòng thù hận chồng, giữa mẹ và các con không có lòng trìu mến nhau. Lớn lên con cái lập gia đình hay chưa thì cũng mỗi đứa một nơi. Cụ sống một mình, làm lụng có bao nhiêu thì ngày ngày quà bánh nhang đèn lên chùa. Có con dâu duy nhất từ Trung vào lo lắng săn sóc cụ, mà dạo đó cụ còn sáng nên càng khó, con dâu khóc với chị chồng nhưng vẫn cứ chiều. Vài năm rồi gia đình con trai đi Mỹ theo diện HO, năn nỉ O Hậu về ở với mẹ. Khi vợ chồng tới chào, cụ không nói không rằng, không cả một lời chúc lành. Có người từ xa tới ở thăm O Hậu ít ngày, chứng kiến sinh hoạt trong nhà và nghe O Hậu kể, hỏi : - Các chị con cụ có thường tới lui không O ? - Không cô ơi, chị Thuần thì cả năm ni không tới một lần. - Còn mấy cháu ngoại ở gần đây thì sao ? - Bà cháu có bao giờ tình nghĩa chi mô mà hắn tới. Một năm may ra tới một lần. (Cười mỉa) Hồi mợ tui còn làm ăn được, có bao nhiêu cũng ngày ngày đem cúng mấy ông sư ông sãi, mà cô coi chừ mợ tui không đi cúng kiến được nữa thì có ai ở chùa tới hỏi thăm một tiếng mô. - Cụ cúng sư sãi nên Phật gởi O tới ở với cụ đây nè. À mà O à, sao cụ chỉ có một người con trai mà cũng bỏ cụ đi Mỹ ? - Dạo nớ mợ tui còn sáng cô à, còn lành lặn nên gay lắm. Ở với ai cũng không hạp được. Với lại anh chị tui có bốn đứa con, hai đứa lớn ra trường mấy năm tìm không ra việc, vì họ chỉ mướn ai có học ở ngoại quốc về tê. Tụi hắn đi dạy Anh văn. Mà cô biết dạy ai không ? Tụi hắn dạy mấy ông giám đốc không mướn tụi hắn chớ ai ! Anh chị tui đi hai năm thì mắt mợ tui mới hư. - Vì cụ khóc nhớ con cháu à ? O Hậu bật cười dòn tan : - Mợ tui có biết thương nhớ ai mô. Mắt hư thì hư. - Cụ mù thiệt hay còn thấy ? - Còn thấy mờ mờ. - Ờ, hèn chi em tới cửa vừa lúc cụ đi vòng thứ ba, cụ hất em ra, rất mạnh. - Ờ, mợ tui còn mạnh lắm cô à. - Vậy sao không lo chạy chữa mắt cho cụ ? Chỉ là vảy cá, người già thường bị, lột ra là mắt sáng lại thôi. O Hậu nói như nói một mình : - Chị Thuần nói thôi duyên của mợ mà nợ của em, chớ chị đang lo là phải đem mợ về với chị thì không biết làm răng mà sống, em lại nhận lời ở với mợ. (Thở dài) Cũng là cái duyên của tui nữa cô à, ở nhờ nhà thằng em thì vợ con hắn cũng chẳng vui vẻ chi, mặc dù mình cũng tự túc làm ăn chớ có ăn của ai mô. Tui chừ cũng gần đất xa trời, cái là còn mạnh khoẻ hơn mợ. Rồi O buồn buồn : - Mới đầu, các chị còn lại bên ni cũng bàn tán nhau về chuyện nớ, chuyện mổ mắt cho mợ tui. Nhưng cuối cùng là đành bỏ qua, bởi vì mợ tui như rứa thì tui mới ở với mợ được. Chớ mợ tui mà sáng thì có ai ở gần cho nổi, rồi đêm hôm lỡ có chuyện chi thì làm răng. Già cả mệt lắm cô ơi ! MIENG Paris, 19 Octobre, 1997. HẢI NỮ K hi tôi trở về thì em đã chết rồi, giản dị như một cơn mơ. Tôi thấy em mỗi chiều, nằm trên các tảng đá chất chồng, nhìn ra xa, trong tư thế cô độc, kiêu sa và tự tin của loài hải nữ. Căn nhà bạn tôi cao hơn mặt biển ít nhất vài mươi thước, từ cửa sổ phòng khách nhìn xuống, chưa bao giờ tôi trông rõ mặt em. Tôi chỉ thấy lờ mờ một vùng mắt mày sâu thẳm, đen tuyền và trong đầu óc tôi, em như một bức tranh tố nữ. Trông em mảnh khảnh như con chim chìa vôi nhỏ, và vẻ xa vắng lặng lẽ cô đơn của em như một quyển truyện tình hãy còn khép kín. Hầu như chiều nào cũng vậy, nằm một lát rồi em lại bỏ đi dọc theo bờ đá. Em thường đi như thế với vẻ cô đơn lạ lùng, và chúng tôi như có cái gì gần nhau, cùng một mẫu số chung trong nỗi cô đơn cao khiết đó. Em đi, hờ hững khua nước ngấp nghé hai chân chim nhỏ nhắn, mắt dõi mông lung ra xa vẻ chờ đợi, tìm kiếm một cái gì và như biết nó sẽ không bao giờ đến. Tới một lúc nào đó thì em khuất khỏi tầm nhìn của tôi từ cửa sổ phòng mình. Chiều nay cũng vậy, em nằm đó, trên các tảng đá màu chì , thân thể nổi bật căng phồng trong chiếc áo tắm màu hổ phách. Nhưng khi tôi xuống tới nơi thì không còn thấy em đâu nữa. Tôi nhìn lên cửa sổ phòng khách ra dấu hỏi mẹ em đi đằng nào, nhưng mẹ lắc đầu, khoát tay ra cái điều không thấy. Nhiều lần như vậy liên tiếp, tôi đâm nghi ngờ bực bội mẹ. Cái cảnh một mẹ một con không bao giờ rời nhau và tôi có cảm tưởng là mẹ không muốn tôi có liên hệ với ai, gây cho tôi cảm giác mình là anh chàng Bates trong phim Psychose của Hitchcock. Người vợ mà cụ đã chọn cho tôi với tiêu chuẩn là nền nếp Việt Nam một chút, - chớ "cái thứ dở đầm" thì sẽ ăn ở không ra gì - đã đưa đến kết quả là một cuộc ly hôn sau ngày cưới chưa đầy năm. Tôi luôn luôn khoác tấm áo cô đơn vào người, kể cả khi mẹ cưới cho cô vợ. Ðối với tôi, niềm rung cảm của con tim tựa hồ như một cánh cửa kho tàng mà tôi đã đánh mất chià khoá từ khi mẹ không chấp nhận người tôi lựa chọn. Và tình yêu là cái gì còn xa lạ mơ hồ hơn nữa. Làm sao gây đổ máu cho một thân thể đã chết rồi ? Nên bây giờ thì tôi là một loại trai già gàn dở, bẵn tính, vụng về, ngoài mẹ ra là không ai chịu đựng được. Cho đến một chiều trời rắc từng hạt nước nhỏ mịn xuống trần, tôi nhìn xuống các tảng đá và thấy em vẫn nằm đó, lơ đãng như không biết dù mưa bụi cũng có thể làm em thấm lạnh. Tiếng mưa mỏng nhẹ như hơi thở, như tiếng em thì thâm bên gối, như nũng nịu gọi tôi hãy đến bên em. Một nỗi thôi thúc kỳ lạ như dồn tất cả sinh lực hối hả lên tim và chạy dài xuống chân bảo tôi phải bước đi. Một nỗi ham muốn được đối diện nhìn ngắm em mãnh liệt như dồn hết máu lên mặt làm tôi cảm thấy cả người bừng bừng thiêu đốt. Tôi lao ra cửa như bị thôi miên, như có một động lực vô hình khích lệ. Bầu trời xám xịt hạ thấp xuống. Thỉnh thoảng một vài tia sấm chớp xẹt ngang dọc chằng chịt như những lằn gân máu bao trên óc. Mặt biển lầm lì bao la và bí hiểm dâng lên, nối liền với chân trời cùng một màu và cùng một vẻ đe dọa như nhau. Thiên nhiên như đồng tình trêu ngươi chế diễu cái bé nhỏ bất lực nhân sinh. Mưa vẫn lất phất rơi, ẻo lả đẩy đưa theo từng cơn gió. Tôi chạy như lao xuống mấy dãy đá để đến chỗ em nằm. Khi gần tới thì em nhổm dậy, và với bản năng e ấp của phái yếu, bỏ chạy đi. Tôi đuổi theo. Tôi muốn bảo là mình không làm gì để em phải sợ, rằng có thể trời sẽ mưa lớn hơn và thay vì về nhà, em có thể lên trú mưa nhà tôi và nhìn biển. Nhưng tôi chỉ chạy theo, âm thầm như một cái bóng. Gió thổi thốc từ sau tới, nâng thân hình mỏng manh của em như bay bổng, gió xoắn nhẹ làm em chạy với vẻ uyển chuyển khoan thai như không chấm đất. Chúng tôi tới bãi biển cách nhà không biết bao xa. Ban nhạc địa phương hồi sáng diễu hành qua các phố nhân kỷ niệm ngày đổ bộ của quân đội đồng minh, bây giờ đang hoà tấu trên biển. Tôi không để ý là trời đã ngưng mưa tự bao giờ. Bây giờ là cái choạng vạng của ngày vừa hết chớ không phải vì thời tiết xấu. Tôi vẫn ghét nhất khoảng thời gian này, lúc mà ngày chưa đi hẳn và đêm thì chưa tới. Một thời điểm giao hợp buồn bã nản lòng. Nhưng sao lúc này tôi lại thấy vui vô tả. Các nhạc công đứng trong nước, sóng vỗ nhè nhẹ vấp váp hai chân. Một ánh đèn xanh dịu yếu ớt toát ra từ dưới nước không soi rõ mặt ai cũng cho phép tôi thấy những cặp mắt khép hờ, say sưa trong điệu nhạc. Họ đàn điêu luyện, đam mê quên mình. Thế nên không ai trông thấy tôi, dù tôi là người duy nhất giờ này còn làm khán giả. Ban nhạc đàn hay một cách mê hồn. Tiếng nước reo khe khẽ tấp vỗ vào bờ hoà nhịp một cách kỳ diệu. Cái kỳ diệu làm tôi nửa như xúc động muốn khóc, nửa như rạo rực muốn gào lên để diễn tả lòng ái mộ tận cùng. Chưa bao giờ tôi được nghe những bản đàn huyền nhiệm đến thế. Tâm hồn tôi như thoát tục, như phiêu lãng giang hồ tới nơi nào không biết chuyện trầm luân, bần hàn vụn vặt. Thân thể tôi muốn tan loãng ra hoà vào nước, quyện vào những bàn chân đang đẩy đưa theo điệu nhạc. Tôi dõi mắt tìm. Em đứng ngoài xa, trầm mình trong nước, nháy mắt cười và ngoắc đầu, rủ tôi cùng ra bơi. Em cứ bơi cách trước tôi một quãng, chốc chốc lại quay đầu như khuyến khích tôi theo em ra xa chút nữa... Và bây giờ thì em nằm đó. Trên chiếc giừơng đàn bà, em kiều diễm đến lịm người. Tôi đứng ở cửa, không dám gây tiếng động, rõ ràng là Không gian như có giây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tan. Hai mắt tôi dán vào giừơng, phần dưới thân thể em mờ mờ sau tấm màn tuyn màu hồng gợi cảm. Trông em bình yên như mơ. Môt tay luồn vào mái tóc mượt mà trải dài trên gối, cánh tay kia tròn lẵn làm dấu gọi tôi, uể oải gợi tình. Như bản năng loài rùa vừa chui ra khỏi vỏ là trườn người bò ra phía biển, tôi bước vội về phía em, nôn nao hạo hực lẫn ngần ngại vu vơ. Bên giừơng, tôi vụng về lột bỏ lớp quần áo ướt át dính chặt vào người rồi cuống qúyt trân trọng ngồi xuống mép giừơng. Khoảng mắt mày vẫn đen tuyền kín đáo, mũi miệng nhạt nhoà trong ánh đèn cùng một màu hồng thật nhạt như màn. Không biết đôi mắt thăm thẳm kia có nhìn tôi trìu mến thương yêu không mà tôi cảm thấy chơi vơi trong mắt em. Tim tôi run rẩy. Tôi muốn nói những lời gan ruột, những lời chưa một lần nào thốt với ai trong đời. Thời gian như ướp lại. Mùi hương của gối chăn và da thịt đàn bà làm tôi ngây ngất. Tôi lướt đôi môi hoảng loạn của mình lên cổ em, cái cổ của chiếc bình sứ. Trên thân thể ngọc ngà quyến rũ, mắt tôi ràn rụa hạnh phúc. Loài cỏ cây khóc trên da người. Tôi cảm thấy một nỗi đắm đuối bí ẩn, say mê rờn rợn. Da thịt em mát lạnh, nồng nàn như giải đất phì nhiêu nhuận đạt hương đêm. Một luồng hơi mơ hồ quyện lấy tôi kéo xuống người em đang lặng lẽ chờ đợi, ung dung tự tại. Tôi như một ông thầy tu trẻ say men rượu lễ. Và trước em, tôi cảm thấy mình nhỏ nhoi hèn mọn - có phải vì vụng khờ nên tôi trở thành bé nhỏ ? Tôi có cảm giác sống gấp rút mê man như lên đồng. Ðầu óc tôi điên đảo trong niềm tin và tự mãn có em trong tay. Tôi không còn cô đơn buồn phiền và khép kín như con sò nữa. Vì vậy mà tôi phải giữ em, giữ em bằng tất cả tấm lòng cô đơn bao nhiêu năm tháng, giữ em với tất cả cái ngông cuồng của một đời trai cô độc, giữ em bằng tất cả các sợi gân máu sôi nổi làm thừng, giữ em thật chặt trong đôi tay hãy còn rắn chắc của mình... Tới lúc tôi cảm thấy rằng trên đời không còn gì hiện hữu nữa cả, không còn sĩ diện hay danh thơm tiếng xấu gì, chỉ còn có em, không còn cả con người, không còn chim muông thú vật gì, chỉ còn có em, không còn sông biển hoa cỏ gì, chỉ còn có em, không còn sách vở nghiên bút báo chí gì, chỉ còn có em, và tôi không còn cả sức lực, không còn gì chung quanh để bám víu vào, tôi chơi vơi hụt hẫng như bị rơi vào khoảng không mênh mông trống vắng, chỉ còn có em ... một cái gì như vừa thoát khỏi người làm tôi tê điếng sững sờ, thì tôi càng ghì chặt em hơn nữa, và thốt ra một tiếng kêu thất thanh, mê đuối, hoang dại của loài thú trong cơn say mồi... Em - lần đầu tiên từ lúc gặp nhau tới giờ - thì thầm : - C'est bien! Tôi hé mắt nhìn. Ðôi mắt em mở to nhìn tôi chăm chú qua cặp kiếng. Tôi khép hờ mắt lại vì mệt rồi chợt nhớ, lại mở hết sức ra để nhìn. Bây giờ thì tôi thấy cả mẹ đứng bên cạnh. Mẹ mừng rỡ : - Con, con thấy trong người ra sao ? Tôi dáo dác tìm em vì chợt nhận ra người mang kiếng bận áo choàng trắng là người xa lạ. Màu trắng lạnh lẽo của căn phòng làm tôi dại cả người, em có sao không ? Tôi hấp tấp hỏi mẹ : - Cô ấy đâu rồi mẹ ? Mẹ tôi ngạc nhiên : - Cô nào ? - Cái cô vẫn thường nằm trên bãi đá đó. Mẹ tôi lắc đầu : - Rõ khổ. Con cứ nói về cô ấy mà có bao giờ mẹ trông thấy cô ấy đâu ! Tôi chán đời, chán mẹ, xoay mặt vào tường không nói gì nữa. Mẹ tôi sụt sùi : - Có cô nào đâu kia chứ. Trời thì mưa như trút nước, gió như bão vậy mà mày một mình băng mưa băng gió chạy ra biển. Rồi còn bơi nữa, sóng đập trồi lên trồi xuống. May mà tao gọi cấp cứu tới kịp lúc mày bị tấp vào đá, cái chỏm đá vẫn lòi lên mỗi lần nước rút ấy, chớ không thì giờ này chắc chết mất rồi ! (thở dài) Ba cái thứ nhà văn nhà báo rõ là khéo ! Tới đó thì tôi bực bội quay người lại, gắt : - Thế còn ban nhạc ? Con có xem ban nhạc chơi đàn ngoài bãi với cô ấy mà ! Mẹ tôi tròn mắt lên : - Ban nhạc ? Nhạc gì ? Nước dâng lên gần bờ tường không còn bãi bung gì nữa. Phố xá vắng teo ai cũng lo núp mưa núp bão chưa xong mà còn ban nhạc ! Cả nhà thương này nói mày có điên thì mới ra biển với thời tiết như vầy. Tôi im lặng. Mẹ vẫn thường lo nếu tôi có vợ thì cụ sẽ bị bỏ rơi. Tôi khăn gói trở lại Paris. Cứ mỗi lần mất một người bạn thì con đường mình sẽ bị cắt ngắn đi một khúc. Tôi biết là từ nay sẽ không bao giờ trở lại vùng biển này nữa, và vẫn sẽ tiếp tục kiếp trai già dở hơi, cô quạnh. Bởi vì bây giờ thì em đã chết rồi, giản dị như một cơn mơ. MIENG Paris, Octobre 1995. CÁI GIẾNG V ị cố đạo im lặng nhìn mông lung qua cửa sổ. Ngoài trời mới nắng tháng sáu mà đã dữ dội đẩy hơi nóng ngộp thở vào phòng. Không gian đặc quánh lại như từng mảng ny lông úp chụp xuống người ông. Ông lim dim mắt, chập chờn nửa mê nửa tỉnh. Ông quay bên phải bên trái, phất phất hai tay làm quạt, cái nóng ghì chặt làm ông ngầy ngật. Mấy con muỗi ngày vo ve như thỏ thẻ điều gì. Mồ hôi chảy ròng ở cổ, trên người. Một sự rít rắm nhớp nhúa khó chịu làm ông ước gì được đứng dưới vòi sen - hay, ờ, tắm nước giếng ! Nỗi thèm khát rất tầm thường đó khiến vị cố đạo liên tưởng đến cái giếng nhà thờ - cái giếng với vị ngọt và cảm giác mát mẻ tuyệt vời mà ông chỉ có thể hình dung qua tiếng chắc lưỡi đầy nuối tiếc của người chung quanh chứ chưa bao giờ thực sự thụ hưởng từ khi được bổ nhiệm. Ông vẫn từng sung sướng được sống ở đây, một thị trấn nhỏ và hiền. Dân làng hầu như thảy đều quen biết nhau và đối đãi với nhau thâm tình, trọng hậu. Cướp của giết người là cái gì chỉ nghe trong tiểu thuyết. Thế rồi một ngày đẹp trời kia, có tin sét đánh xảy ra : một người đàn bà bị chết đuối ở Vực Rồng - con sông vẫn hiền hoà đón tiếp dân làng tắm giặt mỗi chiều. Tương truyền vào thời nào cũng chẳng ai giải thích nổi, chỉ biết là "ngày xưa", nơi đây chỉ là một cái vịnh nhỏ chưa ăn thông ra biển. Chiều nọ một cô gái hái dâu về ngang qua đó, bỗng nghe có tiếng thở phì phò như trâu cày. Lạ lùng, cô đứng lại nhìn. Từ dưới đáy vịnh một cái đuôi to lớn đầy vảy óng ánh vàng quẫy nhè nhẹ lên khỏi mặt nước. Cô gái sững sờ. Chẳng bao lâu toàn thân một con rồng lộ lên và nói bằng tiếng người, rằng hãy về nói với dân làng khai thông cái vịnh ra khơi "cho ông thoát khỏi đây". Tới tối cả nhà đổ đi tìm thì thấy cô nằm ngất xỉu bên bờ vịnh... Người đàn bà chết đuối ấy còn rất trẻ, tên Hạnh, vợ chủ hàng vàng duy nhất của thị trấn. Người ta rầm rì bàn tán : hay là "ông rồng" năm xưa bất mãn điều gì ? Thiên hạ nhắc nhở tới chuyện này dám hơn cả tháng. Rồi dân làng cũng lấy lại thói quen ra Vực Rồng tắm giặt, chỉ khác là đàn bà không dám ra sông một mình và không ai về quá muộn. Một hôm, ông cố đạo nghe con chiên cuối cùng xưng tội. Ngồi tựa lưng vào ghế, ông tằn mằn thánh giá trước ngực. - Thưa cha, con là kẻ có tội. Ông dịu dàng nhắc lại một câu phản xạ : - Nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Con có tội gì ? Và ông làm phép thánh. - Nghe giọng con thì cha biết là ai rồi. - Lạy Chúa, đối với cha thì mọi người đều là con Chúa. Bên ngoài khung cửa lưới có vẻ ngập ngừng, im lặng. Vị cố đạo cũng im lặng, chờ đợi. - Con có tội..., con ăn năn..., con... Lại im lặng. Tiếng trẻ con nô đùa ngoài sân nhà thờ vọng vào mồn một. Ông cha đạo vẫn bình tĩnh tựa lưng vào ghế, ông nghĩ cho tới bây giờ, những cái mà dân làng này cho là tội lỗi ghê gớm để xưng, cho là nặng nề lắm để ân hận, thì cùng lắm cũng chỉ là lỡ ném chết con gà hàng xóm mà không dám thú nhận, là lỡ đánh con bé giúp việc nặng tay, là lỡ lời hỗn láo với mẹ... Ông chờ đợi giọng người đàn ông bên ngoài nói con đã tráo thứ hàng không tốt cho bà nọ bà kia. - Thưa cha..., chính con đã giết vợ con. Vị cố đạo giật bắn người. Ông chồm hẳn người về phía trước và làm dấu thánh một cách máy móc. Căn phòng như thu hẹp lại, tối đen, rung rinh. Ông nuốt cái gì nghèn nghẹn ở cổ, ấp úng tính hỏi, như trong bất kỳ tội lỗi nào thì cũng hỏi tại sao, chuyện xảy ra như thế nào... vân vân và vân vân. Giọng bên ngoài gấp rút, khẩn trương như thể sợ ai giành : - Nó ngoại tình với thằng Thạnh. Ðã vậy còn nhục mạ con. Con không kìm được. Mà con chỉ nghĩ làm nó sợ chớ không ngờ con xô mạnh quá, nó té hẳn xuống sông. Lúc đó nước đang lên... Vị cố đạo cảm thấy cái gì lành lạnh sau lưng. Nước sông dâng lên tận miệng, tận mũi làm ông ngộp thở. Ông nắm chặt lấy cây thánh giá như thể nắm tay Chúa để trồi lên, trồi lên khỏi mặt nước đen ngòm tanh tưởi. Ông cố giữ đừng run : - Sao con biết vợ con ngoại tình ? Giọng bên ngoài sôi nổi phân bua : - Thì con thấy tụi nó thập thò với nhau mấy lần rồi. Hôm đó Thằng Thạnh tới, con làm như không để ý gì chớ con thấy tụi nó nháy nhó với nhau. Thằng Thạnh ra về chừng năm phút thì vợ con nói phải chạy xuống chợ mua chút rau nấu canh. Con lẳng lặng theo sau, thấy nó vô nhà thằng Thạnh. - Chớ vợ anh Thạnh đâu ? - Hôm đó vợ nó về quê thăm bà già bịnh. - A. Rồi sao nữa ? - Con rình ở ngoài. Cả hơn tiếng sau nó mới ra, mặt mày phờ phạc mà lại có vẻ hí hửng. Ông cha lại làm dấu thánh. Bí, không biết hỏi gì, ông bóp hai tay vào nhau, thấy tay mình nhớp nháp mồ hôi, mềm nhũn như linh hồn ông lúc bấy giờ. Có cái gì trong bụng cứ chạy lên tới cổ, để lại cái vị buồn nôn rồi chạy xuống. - Họ... dan díu với nhau lâu chưa ? - Dạ, cả năm nay. - Con có tỏ gì cho vợ con và anh Thạnh biết là con nghi ngờ không ? - Thưa cha không. - Sao vậy ? - Con... con nợ nần với thằng Thạnh. - Nợ gì ? - Con... con phạm điều răn thứ sáu với em dâu thằng Thạnh. Nó bắt gặp mà không nói gì, chỉ bảo con không nên nữa. - ... - Con đã tính nói phải trái với nó. Nhưng tối đó về nhà con không kìm lòng nổi, phải cãi nhau với vợ con mới được. Mà sợ mẹ con và trẻ nhỏ nghe, con rủ nó ra Vực Rồng. (Ngừng một lát lấy hơi) Tụi con cãi nhau to tiếng. Con nghĩ là nếu nó nhỏ nhẹ xin lỗi và hứa thôi thì con cũng sẽ bỏ qua. Không ngờ nó la còn to hơn con, còn chửi mẹ con, còn hạ nhục con... - Nó chửi mẹ con cái gì ? - Nó nói mẹ con cái gì cũng muốn xía vào. Nó nói thấy nó vui vẻ ăn diện mẹ con vì là nhà quê nên ganh tị không muốn, gì gì nữa con quên rồi. - Nó hạ nhục con cái gì ? - Nó nói... con chỉ được cái ghen bậy chớ... chớ... ngủ với con chẳng ra trò trống gì. Im lặng một lát từ hai phía. Rồi bên ngoài lại nói, giọng đầy nước mắt : - Con buồn phát bịnh. Con không tính giết vợ con. Tiếng nấc dồn dập. Ông cha xứ khép hờ mắt lại, mỏi mệt. Một lát, giọng ông ngọt ngào như dỗ dành : - Con biết là lúc đó nước đang lên mà... Con có nghĩ tới việc nhảy xuống cứu nó không ? Lại im lặng. Và bên ngoài thở dài : - Thưa cha... không ! Lần đầu tiên trong đời tu hành, ông cha đạo khuyên nhủ những lời không như thường lệ. Lâu lắm, rồi ông nhè nhẹ làm dấu thánh : - Và con ra về bình an ! Khi thấy bên kia cửa lưới người xưng tội đã bỏ đi, ông cha thở dài nhiều lần. Ông nhắm mắt lại, để mặc sóng biển cuốn trôi đi bềnh bồng, chao lượn... xxx Ông cha đạo mệt mỏi tiều tụy hẳn đi và như ngần ngại trước mọi tấm thạnh tình. Bây giờ mỗi lần làm lễ, ông thường nhìn xuống đám con chiên, nhìn để tự nghĩ là những gương mặt đó, những gương mặt mộ đạo ngoan hiền đó chắc cũng có cái gì giấu giếm bên trong mà chỉ khi nào có dịp biết thì đối với ông là sét đánh. Cái bà cụ ngày nào cũng tới nhà thờ đọc kinh ấy, lúc nào cũng ngọt ngào và quý trọng kẻ tu hành ấy, có thực lòng không ? Cái anh chàng vẫn giúp một tay vào những chuyện nặng nhọc của nhà thờ ấy, có ý đồ gì không ? Cái cô rất tân thời mà có vẻ ngoan đạo ấy, có che giấu một cuộc sống thứ hai không ? Nhưng thôi cha ơi, sao cha lại nghi ngờ hết mọi người như vậy để làm gì ? Người ta không hại cha là tốt rồi, còn chuyện ai sao mặc họ chớ. Nhưng tao muốn cư xử với nhau thẳng thắn chân thật,,, thà là họ cứ nói thật là họ có tội gì, ngay cả nói rằng họ không yêu kính Chúa. Ðể làm gì ? Ðể Cha hoảng hốt bỏ trốn thế gian à ? Ông bắt đầu giảm bớt những hẹn hò gặp gỡ riêng tư, bắt đầu giới hạn cái ý nghĩ ban đầu ông đã gieo cho dân đạo rằng ngày của ông là ngày của họ. Ông tránh các bà các cô muốn gặp ông sau những buổi lễ. Ông tránh đề nghị của cánh đàn ông muốn đưa ông tới chỗ nọ chỗ kia. Ông thu người nhỏ lại. Ông tự tạo cho mình một cái vỏ, trong suốt không ai thấy nhưng chắc chắn. Và tận cùng thâm tâm thì ông buồn vô hạn. Ông cha đạo ăn uống ít đi và cầu nguyện thường xuyên hơn. Nhưng những bài kinh bằng tiếng La Tinh mà ông đọc với giọng van nài tha thiết cũng không đem lại cho ông bình yên là mấy. Cứ nhìn xuống đám con chiên là ông nghĩ rằng họ có cái gì không thật nữa. Và họ không chịu xưng tội, không chịu xưng hết tội họ phạm đâu. Em dâu thằng Thạnh có xưng tội ngoại tình đâu, con Hạnh có xưng tội ngoại tình đâu, thằng Thạnh có xưng tội ngoại tình đâu, và thằng hàng vàng, nếu không lỡ tay giết vợ rồi lo âu buồn rầu phát bịnh, liệu nó có xưng tội ra không ? Rồi còn ai nữa, còn gì nữa trong cái đám lầm rầm kinh kệ dưới kia ? Ông cha đạo có vẻ buồn bã và ốm đi trông thấy. Cứ mỗi lần ông để hết tâm trí cầu nguyện, bên trong ông tiếng nói mơ hồ lại vang lên, vang lên. Cha ơi buồn làm chi, hơi nào mà lo nghĩ những chuyện mình chưa tai nghe mắt thấy,,, con người không phạm tội này thì cũng phạm tội kia là chuyện bình thường, việc gì cha lại lấy đó làm đau lòng ? Cha không nhớ người đàn bà ngoại tình, Chúa đã phán là nếu ai cảm thấy chưa bao giờ phạm một tội lỗi gì thì hãy ném đá vào bà ta,,, rốt cuộc là mọi người bỏ đi không ném đá, tức là ai cũng có tội,,, vậy thì thời buổi này việc gì mà cha lấy đó làm chuyện quan trọng dữ vậy ? Ừ mặc kệ tao, tao thấy như bị thiên hạ đánh lừa,,, trong khi tao nghĩ ai cũng hiền lành tử tế thì... Nhưng cha quan niệm thế nào là người tử tế ? Ai cũng có một đời sống công và một đời sống tư,,, trong đời sống tư lại có phần công khai và phần bí mật riêng. Nhưng tao, phần đời tư của tao chỉ là công khai, là cho họ. Tiếng nói kia chỉ trả lời bằng tiếng cười. Và vị cố đạo lại thấy héo lòng, là chẳng ai hiểu mình. Nhiều tuần lễ như vậy trôi qua. Một đêm cuối tháng tư, trời tối đen như mực, vị cha xứ không ngủ được, ông khoác áo ra ngoài. Bước chân buồn rầu chầm chậm dẫn ông đi về phía giếng. Cái giếng này nằm giữa nhà thờ giáo xứ và dãy nhà cạnh Vực Rồng. Trước kia, dân các khu ở gần thường tới đây gánh nước vì cho là nước nó trong và ngọt hơn các giếng khác ở thị trấn. Với thời gian, Vực Rồng cứ bị sụt lở, sụt lở đi phía bên này sông. Dân di tản vào phía trong thị trấn. Những nhà khó khăn hơn thì cư ngụ phía bên kia sông, nơi đất cứ bồi lên, bồi lên và rất tốt cho việc trồng dưa hấu. Bãi sông bên đó chẳng bao lâu mà thành rộng thênh thang. Lèo tèo mấy gia đình tha hồ cắm cây định ranh lãnh thổ. Mùa dưa chín, người thị trấn thường bơi qua tận bờ bên kia chơi. Họ dạo ra bãi dưa lựa trái nào ưng ý nhất, trả tiền, rồi ngồi xổm trên cát, dưới ánh sáng chan hoà của nắng, bổ dưa ra ngốn ngấu nhồm nhoàm say sưa thú vị. Cát sông mịn màng màu mỡ gà ôm ấp những quả dưa xanh mướt căng tròn, đầy hứa hẹn cho mùa hái quả. Và thịt của nó chắc và ngọt. Người thị trấn khi mua thường cứ đòi phải là thứ "dưa Vực Rồng". Ngược lại bãi bên này chỉ còn trơ trụi cái giếng không ai bén mảng, trừ người nhà xứ. Có lúc giáo xứ đã bàn tính chuyện kiếm đất để xây nhà thờ nơi khác nếu cần. Rồi trong một thời gian lâu, bờ sông bỗng ngừng ở đó, thôi không sụt nữa. Nhưng cái mạch giếng thì đã hỏng, nước lúc có lúc không mà lại tanh tanh. Ðời vốn mau quên, chẳng ai buồn nhắc đến nó nữa. Ông cha đạo ra giếng. Cái giếng đã được che lại bằng miếng tôn dày. Vì không ai lui tới, rêu đã mọc xanh mướt chung quanh. Và bởi ông cha đạo chỉ tới vào ban đêm mịt mùng để chuyện trò với nó, nên trong tưởng tượng của ông nước giếng luôn luôn đầy và ngọt lịm như xưa. Trời tối đen sâu thăm thẳm. Ánh sáng dãy nhà sau nhà thờ nằm sâu trong phố, xa lắc, lung linh. Tiếng vỗ nhè nhẹ từ dưới lòng Vực Rồng vang lên như tiếng thì thào của Hạnh đang phân bua, cầu khẩn điều gì. Như lần trước khi nghe tin Mẹ đã mất khi ông đau nặng không về được, ông dỡ tấm tôn ra cúi đầu vào lòng giếng và khóc. Lần này cũng vậy, ông khóc gập người. Nếu lần trước ông gào lên "Mẹ ơi !" thảm thiết, thì lần này ông để thoát ra từ cổ họng những ý nghĩ vẫn dằn vặt ông từ khi nghe một người đàn ông xưng tội. Ông hét to vào lòng giếng : - Dân xứ này ghê quá. Ðứa nào cũng phạm vào điều răn thứ sáu. Thằng Quế vì ghen xô té chết con Hạnh... Ông khóc thật lâu và còn kể lể nhiều thứ, cho hả. Rồi ông ra về, lòng nhẹ nhàng hơn. Ờ cứ nên thế. Cái giếng trung thành và kín miệng, sẽ giữ mãi mãi những lời tâm sự của ông. Ông về nhà, vừa nằm xuống là hai mắt díu lại. Ông thấy nước giếng từ từ dâng lên, dâng lên, trong suốt và mát mẻ như thuở nào... xxx Ông cố đạo cố mở mắt ra nhưng không nổi. Ông có cảm tưởng có người lay vai ông : - Này bác, thức dậy. Ông công an trưởng muốn hỏi cung bác đấy. Vị cố đạo tỉnh dần. Ông nhìn chung quanh và nhớ ra rồi, mình đang ở phòng tạm giam của quận. Cái nóng lại ập xuống, u uất. Ông theo người công an trẻ ra văn phòng, tim dồn dập đau nhói. Viên công an trưởng đang ngồi ở bàn, mặt dửng dưng. Hình như làm công an không ai biết cười : - Mời bác ngồi. Anh ta vừa nói vừa đưa tay chỉ ghế đối diện. A, thế ra họ cũng lịch sự, cũng gọi mình bằng "bác" chớ đâu chỉ một mình bác Hồ mới có "vinh dự" này như cái chú công an ở trại vẫn quắc mắt gầm gừ phán ? Lại còn mời ngồi ! - chứ cứ như ở trại thì họ đã nhơn nhơn mặt lên và gọi mình bằng anh, có khi bằng thằng, và chỉ cho mình đứng xớ rớ mà chờ lệnh... Viên công an trưởng lật đi lật lại hồ sơ, như năm nào ở trại cải tạo tên trưởng trại cứ gọi giật ông dậy lúc ba giờ sáng để nhìn hắn ta lật đi lật lại hồ sơ và hỏi những điều nhảm nhí mà ông đã lặp đi lặp lại không biết bao lần rồi. Cuối màn ấy hắn luôn luôn quát : - Mỗi lần anh cung khai là có một chi tiết khác. Hắn không cho biết cái khác đó là cái gì, nhưng cứ tiếp tục dựng đầu ông dậy giữa khuya để gọi là phải khai ra sự thật. Mà sự thật nào thì ông cũng mù tịt. Một lần như vậy, sáng hôm sau trong giờ nghỉ tay dẫy đất trồng khoai, một thanh niên ở lán khác xán tới nhìn ông cha đạo cười cười, dọ dẫm : - Cha có biết đứa chơi cha con mình vào tù không ? Ông cha giật mình lức láo nhìn quanh : - Lạy Chúa, họ mà nghe anh gọi tôi bằng cha là anh và tôi cùng bị tội. Gọi bằng anh, bằng chú gì đó đi anh Ðoàn à. - Vậy thì cha cũng dẹp tiếng lạy Chúa đi chớ. Bây giờ là lạy bác, hiểu chưa ? Chứ lạy Chúa mà cũng vào tù thì lạy làm quái gì tới sói đầu vậy ! Ông cha đạo cúi đầu xuống kín đáo làm dấu thánh. Anh thanh niên bẻ cho ông nửa trái chuối, thân mật : - Cha biết không thì bảo ? - Chúa muốn thử thách chúng ta. Ðoàn phì cười văng cả chuối ra : - Cái con c... cầy ! (Hạ giọng như vỗ về) Dẹp ông Chúa yêu quý của cha lại một bên nghe. Coi bộ ổng không nên cơm cháo gì đâu. -... - Cha muốn biết là ai không ? - Quỷ dữ muốn ám hại chúng ta. Ðoàn vung tay trong không : - Bố ơi, Chúa hay Quỷ gì thì cũng đại loại như nhau. .. Nè, Cha không thấy là thằng Quế thâm độc sao ? - Quế nào ? - Thì còn Quế nào nữa. Thằng Quế hàng vàng giết vợ đó ! Ông cha đạo giật bắn người, lại lấm lét nhìn quanh ấp úng hỏi : - Anh... anh Quế nói với anh như vậy à ? - Kệ con. Nhưng cha, cha có biết chuyện đó không ? Ông cha vội vàng làm dấu thánh, quên cả nhìn trước nhìn sau tránh những đôi mắt cú vọ của bọn cai tù. Không nói gì, ông cha đạo đứng lên như muốn trở lại làm việc. Ðoàn nắm tay kéo giật ông ngồi xuống, nhìn thẳng vào mắt ông, dỗ dành : - Nói thiệt đi mà. Tâm sự với con thì cũng kín đáo như với cái giế... cái mộ vậy mà. Vẻ ngơ ngác bối rối của vị cố đạo làm Ðoàn nhớ lại nét mặt lúng túng của Quế hôm nào... Hôm đó cơm tối xong, Ðoàn nổ xe chạy lên nhà Quế. Ở cái thị trấn này chẳng ai chạy cái xe nổ ầm ĩ như Ðoàn. Cậu ta đi xa, năm năm sau về lại thị trấn với bộ mặt mới, ngang tàng, có vẻ sành đời, bất cần, không tin vào ai, trừ bà mẹ già. Và theo nhận xét các bà các cô thì trông cậu rất bảnh, rất "thủ đô", rất đàn ông. Tóc tai cậu dài, túm lại bằng sợi thun hoặc thả bay bay như con gái. Cái quần din bạc thếch rách ở đầu gối không mạng không vá với cái sơ mi rằn ri tay xăn lưng lửng, hai hột nút trên không cài, ngực hở hang. Luôn luôn cũng bận chỉ bấy nhiêu, không biết giặt giũ bao giờ mà lúc nào trông cũng duyên dáng, sạch sẽ. Ăn nói giản dị, cụt ngủn. Nhưng rỉ rả bài "Tình cho không biếu không" thì dài, quên thôi. Ði đâu với cậu ta thì yên bụng như đi với thần bổn mạng. Mà lạ, cậu ta có đánh đấm gì ai, có chọc ghẹo gì ai đâu kia chứ. Vậy mà tự nhiên thiên hạ cứ ngan ngán, nê nể thế nào. Con gái thì nheo nhẻo vừa gọi chú vừa liếc ỡm ờ. Lúc đó Quế đang ở phòng khách chỉ bài cho các con. Nghe tiếng xe máy ngừng trước nhà, không ngẩng đầu lên, Quế cũng biết là ai. Và dù không kém ngạc nhiên bởi vì giữa hai người ít có liên hệ thân mật thì tới thăm nhau giờ này để làm gì, nhưng cũng vồn vã lớn giọng : - Tui trong này, chú Ðoàn vào đây chơi. Họ uống trà với nhau và nói chuyện trời trăng tầm phào. Quế vẫn không thấy lý do gì khiến Ðoàn phá rối lúc mình đang chỉ bài cho con. Chỉ khi ăn hết đĩa kẹo mè, uống hết bình trà và tưởng Ðoàn muốn ra về, thì Ðoàn đột ngột hỏi : - Chị mất bao lâu rồi hả anh Quế ? - Hơn hai tháng rồi. Ðoàn chỉ kêu "a" lên một tiếng. Im lặng. Cái im lặng tự nhiên nặng nề kỳ cục. Rồi Ðoàn đứng lên như muốn chào về, nhìn Quế cười tủm tỉm : - Nghe như là đâu phải chị trượt chân té. Hình như có ai xô. Rồi gật đầu chào mà không đợi Quế chào lại, Ðoàn bỏ ra về... - Nè cha, tu hành thì không được nói dối nghe. Cha phải biết chuyện đó vì thằng Quế phải xưng tội với cha chớ ? Ông cha vẫn không trả lời, lặp lại câu hỏi : - Anh Quế kể cho anh nghe à ? Ðoàn đứng lên vươn vai mấy cái không trả lời. Hai người vừa dợm bước đi làm lại, trong khi ông cha có vẻ bứt rứt muốn hỏi Ðoàn cái gì thì thình lình Ðoàn nói : - Nè cha, cái giếng bị nước xoi mòn cha biết không ? - Giếng nào ? - Cái giếng nhà xứ chứ giếng nào. - (Ngơ ngác) Uả,... từ bao giờ ? - Từ lâu rồi... Trước khi cha đến. Bởi vậy mới đậy tấm tôn lên, vì giếng đâu có nước ! - Có khi nó có nước mà... - Nước sông dâng lên thôi. Khi nước rút thì cái giếng rỗng tuếch dưới đáy. Cha không biết sao ? - Không. Ông cha lửng lơ với ý nghĩ riêng, không chú ý mấy đến cái giếng. Quan trọng gì, không có cái nọ thì có cái kia, thị trấn thiếu gì giếng. Quan trọng là sao cái nhà anh Quế này lại đi kể cho một người như cậu Ðoàn nghe cái chuyện tày trời như vậy ? Hay là họ lại có "nợ nần" gì nhau, có gì đồng loã với nhau chăng ? Nhìn ông cha đạo tần ngần trước cái tin giếng rỗng, Ðoàn bỗng thấy vừa tức cười vừa tội nghiệp. Bật cái nón cời ra khỏi đầu, cậu bước tới gần, nhỏ nhẹ : - Cha biết dân thị trấn nói cha sao không ? - Nói sao ? """