"
Tuyển Tập Truyện Ngắn Hay Việt Nam Dành Cho Thiếu Nhi Tập 1 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tuổi Hồng]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Hay Việt Nam Dành Cho Thiếu Nhi Tập 1 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tuổi Hồng]
Ebooks
Nhóm Zalo
1
Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTH TP.HCM
Tuyển tập truyện ngắn hay thế giới dành cho thiếu nhi. T.1 / Nhiều tác giả ; Trần Hoài Dương, Nguyễn Trí Công tuyển chọn. - Tái bản lần thứ 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2008. 268tr. ; 21cm.
Nội dung : Nàng tiên cá / H. Candersen. Mây và sóng / Rabindranath Tagore. Buổi học cuối cùng / Alphonse Daudet…
1. Truyện ngắn. 2. Truyện thiếu nhi. 3. Văn học thiếu nhi. I. Trần Hoài Dương s.t. II. Nguyễn Trí Công s.t.
808.83 -- dc 22
T968
Nhiều tác giả
Trần Hoài Dương tuyển chọn
Nhà xuất bản Trẻ
4
Lời nói đầu
Quý vị phụ huynh và các em thiếu nhi thân mến,
Nhằm đem lại những giờ phút giải trí thoải mái và bổ ích cho bạn đọc nhỏ tuổi, NXB Trẻ sẽ tuyển chọn những truyện ngắn đặc sắc của các nhà văn thiếu nhi nổi tiếng trên cả nước để in thành bộ “Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam dành cho thiếu nhi”.
Đây là một quyển sách được các nhà văn có tâm huyết với tuổi thơ trân trọng và tự giới thiệu rõ nét về bản thân mình. Thiết nghĩ, đây cũng là dịp để bạn đọc nhỏ tuổi hiểu rõ hơn về các tác giả mà mình từng đọc và yêu thích. Quyển sách tập trung nhiều thế hệ nhà văn, có người đã nghỉ hưu, có người đang công tác, nhưng tựu trung, đó là những nhà văn đã cống hiến cả đời mình cho thế hệ mai sau. Và, qua việc giới thiệu các tác giả, chúng tôi muốn cung cấp cho các em một bộ sưu tập tương đối hoàn chỉnh về các nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Từ các tác giả đó, hy vọng tạo được sự kích thích ở thế hệ trẻ để rồi sẽ xuất hiện những cây bút tương lai tiếp tục sự nghiệp sáng tác và tạo ra được những tác phẩm có giá trị cho nền văn học của nước nhà. Hy vọng bộ “Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam dành cho thiếu nhi” sẽ được quý vị phụ huynh, các thầy cô giáo và các em đón nhận nồng nhiệt.
Xin chân thành cảm tạ.
Nhà xuất bản TrẺ
5
6
Thùy An
Nhà văn Thùy An tên thật là Nguyễn Thị Ái,
sinh ngày 7-12-1944 tại Huế. Bà tốt nghiệp cử nhân Đại học khoa học Sài Gòn. Hiện là cộng tác viên của các báo Khăn Quàng Đỏ, Nhi Đồng, Thiếu Niên Tiền Phong...
Bà là hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 1975, viết cho Tủ sách Tuổi Hoa.
Từ năm 1990, viết cho Tủ sách Áo Trắng, Tủ sách Tuổi Hồng (Nhà xuất bản Trẻ), Tủ sách Hoa Niên (Nhà xuất bản Đồng Nai), Tủ sách Thiếu Nhi
(Nhà xuất bản Kim Đồng)...
Các tác phẩm chính đã in:
● Hoa bâng khuâng ● Con đường lá me
● Như nắng xuân phai ● Chân dung hạnh phúc
● Vườn cau nước dâng ● Tiếng dương cầm
● Đầu bến mây đưa ● Mùa hè êm ả ● Một thời
áo trắng ● Vùng biển lặng ● Mây trên đỉnh núi
● Hoa nắng ● Cung đàn tuổi thơ ● Dưới mái trường ● Viên kẹo thần kỳ ● Con búp bê thùy mị
● Về lại chốn thương yêu...
● Bà đã được Giải ba trong cuộc Vận động sáng tác cho thiếu nhi năm 1999-2000 của Nhà xuất bản Kim Đồng với tác phẩm Mây mùa hạ,
và một số giải thưởng, tặng thưởng khác.
7
Đêm thơm
Tôi cắm bàn ủi. Ánh đèn trong nhà chợt yếu lại. Tiếng
bà nội trong phòng vọng ra:
- Đứa mô làm chi rứa?
- Cháu ủi đồ, mệ ơi!
- Mi có điên không? Giờ cao điểm mà ủi chi, lỡ đứt cầu chì, ai sửa?
Tôi im thin thít nhưng vẫn bướng bỉnh mở tủ lấy chiếc áo dài mới quăng ra giường, chờ bàn ủi nóng. Thiêu thân từ ngoài vườn bay vào bám đầy bức tường có ngọn đèn néon sáng đục, một vài con rơi lả tả xuống tấm mền, nằm bất động. Tôi đưa tay phủi phủi, rồi trải chiếc áo mới ra, say sưa ngắm nghía. Mình hàng đẹp quá, mịn và mát, lung linh những đóa cúc trắng ẩn hiện theo từng sớ dệt thật sinh động. Một làn ủi nóng lướt
8
qua, những cánh hoa như tỏa ánh hào quang làm tôi ngây ngất. Bà nội lại la:
- Thôi Ti ơi, làm ơn nhổ bàn ủi ra, đèn lên không muốn nổi đây này.
Chị Thảo đi may về, dẫn xe đạp vô nhà:
- Mi làm chi mà mệ la ỏm tỏi rứa?
Tôi dẹp bàn ủi, vùng vằng:
- Mệ chướng ghê. Từ sáng đến chừ mới có điện, ủi cái áo cũng không cho.
- Để khuya rồi ủi.
- Biết khuya nhà đèn có tha cho không.
- Chi mà gấp rứa?
- Em ủi áo dài mai đi học chớ bộ.
Như chợt nhớ ra “tác phẩm” của mình, chị Thảo lăng xăng.
- Đúng rồi đó, ủi xong bận thử tao coi nghe. Chiếc áo này là do “công sức” của hai chị em tôi làm ra. Hôm thi đậu vào lớp 10, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng là khỏi bị học hệ B, vừa tốn tiền, vừa không có bạn để ganh đua. Còn lo thì cũng chính đáng thôi. Bởi đây là năm đầu tiên tôi phải mặc áo dài đi học, mà tiền sắm bộ áo dài đâu phải là ít đối với một gia đình nghèo. Tôi cảm thấy cần phải tìm một việc làm để kiếm tiền may áo, đỡ bớt gánh nặng cho ba mẹ. Tình cờ, chị Điệp hàng xóm đang làm việc cho một tiệm uốn tóc biết được tâm nguyện của tôi nên dạy tôi làm móng tay chân rồi
9
cho tôi theo phụ chị. “Thông minh vốn sẵn tính trời”, tôi tiếp thu nghề thật chớp nhoáng. Ngày đầu tiên, tôi kiếm được tám ngàn.
Sau gần một tháng, tôi đã đủ tiền mua một cái quần trắng và sấp vải may áo dài hết ý. Vừa đúng lúc chị Thảo mới học xong một khóa cắt may áo dài, tôi bèn trổ tài năn nỉ. Chị bằng lòng với điều kiện phải bao chị một chầu bánh bèo bà Đỏ.
- Ti, mặc áo vô thử coi!
- Chị coi rồi!
- Nhưng khi nớ chưa ủi, chưa đẹp.
- Thôi, để lên trường mặc luôn.
Tôi chạy ra vườn. Ánh trắng đầu thu như dòng sữa ngọt ngào mơn man làm tóc rối. Gió mát hôn lên môi, tâm hồn tôi chợt sảng khoái lạ lùng. Tôi hít sâu vào lồng ngực mùi thơm vương vấn khắp nơi. Hương hoa đào, hoa bưởi, hoa ngâu... và khóm lài bên hòn non bộ cũng vừa hé nở những bông trắng nõn nà.
Tôi ngồi xuống ghế đá, đưa tay nâng niu đài lá xanh ôm ấp nụ hoa đầu. Trong đêm, sắc lá trở nên tím thẫm như màu mực tôi dùng để trang hoàng những tập vở chuẩn bị bước vào năm học mới. Vậy là tôi đã bước vào cấp 3. Hành trình cũng khá vất vả vì tôi học không giỏi lắm. Nhà tôi nghèo, ba mẹ là công nhân viên, lương không đủ sống, phải làm thêm những công việc ngoài giờ, phụ vào kinh tế gia đình. Việc chị Thảo bị nghỉ học
10
từ năm lớp 9 để đi may thuê đã làm ba mẹ ân hận nên ba mẹ bắt tôi phải cố gắng học hành cho đến nơi đến chốn. Số điểm tôi đạt được vượt xa điểm chuẩn đã làm tôi sung sướng và ba mẹ cũng hãnh diện theo. Ba hứa sẽ cho tôi một món quà đặc biệt dù tôi không đòi hỏi một sự ban thưởng nào hết. Học hành thi cử là bổn phận của mình, phải làm tròn thôi.
Tôi đứng dậy, đi thơ thẩn khắp vườn. Không gian tràn ngập ánh trăng. Trăng soi bàng bạc trên hàng dừa rủ bóng, trăng dọi xuống vai tôi ngàn đốm lá lung linh. Trăng đưa hương hoa nâng cõi lòng tôi bay bổng... Tôi yêu mảnh vườn nhà tôi biết bao. Khoảng đất nhỏ trồng hoa và cây ăn trái theo tuổi thơ tôi lớn lên từng ngày. Gia đình tôi chỉ có khoảng vườn này là đáng giá. Nhiều lúc túng thiếu quá, ba định treo bảng bán. Nhưng mẹ cản, mẹ bảo đây là đất thừa tự của ông bà để lại, bán là mang tội với tổ tiên. Thôi thì ăn rau, ăn mắm qua ngày, rồi trời cũng sẽ ngó xuống. “Sông có khúc, người có lúc”, không lẽ cứ nghèo mãi sao? Vậy là tôi vẫn được dịp lang thang khắp vườn những lúc rảnh rỗi, làm bạn với cây trái và hoa thơm. Thích nhất là vào những đêm trăng như đêm nay, ngôi vườn thân yêu của tôi tỏa ánh hào quang thơm ngát, hương hoa vương vấn tràn lan, dìu dịu len vào hồn người cảm giác lâng lâng.
Điện trong nhà bỗng tắt phụt. Tiếng bà nội càu nhàu: - Đã nói mà. Đứt cầu chì rồi chắc?
Tiếng chị Thảo:
11
- Chờ ba cháu về coi thử.
- Ba mẹ tụi bây đi mô mà lâu rứa?
- Ba me cháu đi giao hàng. Mệ cứ dùng cơm trước đi. - Thôi, để mệ chờ! Thắp ngọn đèn dầu đi cháu.
Trăng như càng sáng hơn. Tôi trở về bên hòn non bộ, ngồi xuống ngắt một nụ lài hàm tiếu, lát nữa đem về phòng cho hoa hé nở mang hương thơm đi vào giấc ngủ của tôi. Ngày mai, tôi sẽ gặp lại bạn bè, thầy cô, trường lớp... tôi sẽ tung tăng trong sân ngôi trường mới, dưới bóng phượng xanh um. Chẳng biết còn cánh hoa đỏ dễ thương nào sót lại trên cành khi mùa hè đã qua không nhỉ?
- Ti!
Ba đã về, đang bước lại gần tôi.
- Ba ơi, đêm nay hoa nở nhiều lắm. Thơm ơi là thơm! Trăng đi vào đám mây. Ngôi vườn trở nên tối thui. Ba hỏi:
- Điện cúp hồi nào vậy con?
- Vừa mới thôi ba! Bà nội bảo đứt cầu chì. - Đâu có, suốt cả con đường bị hết mà! – Ba ngồi xuống bên tôi – Ti à, mai trường con khai giảng phải không?
- Dạ!
- Hay quá, ba vừa kịp có quà cho con đây!
12
Ba lấy trong túi ra một gói nhỏ:
- Đáng lý ba me phải may áo dài cho con, nhưng chưa kịp có tiền thì con đã tự sắm cho mình được rồi. Tính tự lập của con đã làm cho ba me rất vui. Chiều nay, me giao được hàng nên đã cùng ba tìm mua cho con một cái đồng hồ để đi học khỏi bị trễ nải. Con cầm lấy đi!
Tôi cảm động nép vào ngực ba:
- Ba me hy sinh cho con nhiều quá!
Ba vuốt tóc tôi:
- Đó là bổn phận của ba me. Dù cực khổ cách mấy, ba me vẫn sẵn sàng vượt qua, miễn sao con chăm chỉ học hành.
- Con hứa sẽ không phụ lòng ba me!
Gió mát rượi. Tôi ngước lên cao. Đám mây mỏng đang loãng tan vào vầng hào quang rạng rỡ, cho dòng sữa trắng ngần rót xuống trần gian.
Ba hát nho nhỏ: “Đêm thơm như một dòng sữa, lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà. Hiu hiu, hương từ ngàn xa, bỗng quay về, dạt dào bên hè, ngoài trời khuya...”. Giọng ba trầm ấm. Trong một phút giây mơ mộng, hẳn ba đã quên tất cả những nhọc nhằn bon chen của đời sống khó khăn.
- Vườn nhà mình thật tuyệt, phải không con? - Dạ!
- Trăng sáng quá!
- Hôm nay rằm mà ba! Ý quên, để con đi xem những
13
nụ hoa ban chiều đã nở hết chưa?
Bước chân tôi rón rén len giữa những khóm lài, sợ làm lay động giấc mơ tiên của những cánh mỏng dịu dàng vừa xòe nụ thả hương cho gió. Hoa trắng ngần như màu áo dài đầu tiên tôi mặc trong đời, thanh cao và kỳ diệu. Mong sao đêm chóng qua.
Tôi theo ba bước vào nhà. Dòng sông trăng vẫn ngọt ngào rót sữa trên những hàng cây.
14
Nguyễn Nhật Ánh
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (tên khai sinh đồng thời là bút danh), sinh ngày 7-5-1955 tại xã Bình Quế, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Hiện là phóng viên báo Sài Gòn Giải Phóng. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính đã in:
● Thành phố tháng tư (in chung) ● Trước vòng chung kết ● Cú phạt đền ● Đầu xuân ra sông giặt áo ● Truyện cổ tích dành cho người lớn ● Trò chơi lãng mạn của tình yêu
● Bàn có năm chỗ ngồi ● Còn chút gì để nhớ ● Thơ tình ● Bí mật của một võ sĩ ● Cô gái đến từ hôm qua
● Chú bé rắc rối ● Nữ sinh ● Thiên thần nhỏ của tôi ● Phòng trọ ba người ● Mắt biếc ● Thằng quỷ nhỏ ● Hoa hồng xứ khác ● Hạ đỏ ● Bong bóng lên trời
● Bồ câu không đưa thư ● Những chàng trai xấu tính ● Tứ tuyệt cho nàng ● Lễ hội của đêm đen
● Trại hoa vàng ● Út Quyên và tôi ● Đi qua hoa cúc ● Buổi chiều Windows ● Kính vạn hoa (Bộ truyện dài 45 tập) ● Chuyện xứ Lang Biang (Bộ truyện dài 4 tập)...
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã được nhận tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Kính vạn hoa, và một số giải thưởng, tặng thưởng khác. Ông là một nhà văn có sức
làm việc đáng nể với khối lượng tác phẩm nhiều vào loại nhất nhì nước ta hiện nay. Các tác phẩm của ông rất được bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích.
15
Mẹ đừng sợ
Không biết thằng Tin đào ở đâu ra một chiếc còi oai
thật oai. Chiếc còi bằng đồng, sáng chóe, lại có dây đeo choàng qua cổ, trông hệt như còi trọng tài bóng đá. Mỗi lần nó đưa còi lên miệng thổi “toe” một cái, ai nấy đều giật thót người.
Mẹ tôi bảo:
- Con muốn thổi thì đi chỗ khác mà thổi! Đừng có làm điếc cả tai như thế!
Ba nói:
- Con để yên cho nội ngủ chứ! Con cứ “toe toe” suốt như thế thì ai mà nghỉ ngơi được!
Chị Hai cằn nhằn:
16
- Em có thôi cái trò đó đi không! Chị mà tóm được chiếc còi chết tiệt đó, chị vứt ngay vào thùng rác cho mà xem!
Trong nhà chỉ có tôi là không rầy Tin. Tôi gạ nó: - Mày đưa tao thổi một cái coi nào!
Nhưng Tin là một thằng em dễ ghét. Bất chấp việc tôi đứng về phe nó, nó chẳng động lòng mảy may trước vẻ mặt thèm thuồng của tôi. Tôi bỏ tọt chiếc còi vào túi quần:
- Em chả dại gì đưa còi cho anh đâu!
Tôi liếm mép:
- Tôi chỉ thổi một cái thôi mà! Thổi xong, tao trả lại liền!
Tin vẫn lắc đầu nguầy nguậy. Thậm chí nó còn thọc tay vào túi quần như muốn nhấn chiếc còi lún sâu vào các lớp vải. Tôi là anh nó mà nó xem như kẻ cướp không bằng! Thật là một thằng em chẳng ra gì!
Sau khi từ chối tôi, Tin cầm chiếc còi ra đứng trước sân thổi “toe toe”. Nghe tiếng còi lanh lảnh và dõng dạc vang lên, tôi tức sôi gan. Nhưng tôi chẳng làm gì được Tin. Tin là út trong nhà, đụng vào nó như đụng vào đồ gia bảo.
Tiếng còi của Tin chẳng mấy chốc đã khiến tụi con nít trong hẻm bu lại. Nhìn cái cảnh nó đứng oai vệ như một ông tướng giữa một đám nhí nhố đang trầm trồ chỉ trỏ, tôi bắt ngứa con mắt. Tôi đứng trong cửa sổ nhìn
17
ra, ngoác mồm nói:
- Còi gì mà kêu như thùng thiếc bể!
Tin chẳng buồn đáp lại lời chê bai của tôi. Nó đưa chiếc còi lên miệng thổi “toe” một cái, như để trả lời. Tụi con nít xúm xít chung quanh thấy vậy liền cười rộ.
Tôi nghe máu nóng dồn lên mặt, bèn quắc mắt nhìn bọn nhóc:
- Tụi mày cười gì! Chiếc còi gỉ đó có cho tao cũng chả thèm!
Lần này thì Tin quay lại:
- Lêu lêu! – Vừa nói nó vừa quệt ngón tay vào hai bên má – Mới vừa năn nỉ người ta mà bây giờ lại bảo là không thèm!
- Xì! – Tôi bĩu môi – Khi nãy là tao nói đùa chứ bộ! Dĩ nhiên Tin biết thừa là tôi chỉ chống chế. Vì vậy lúc nào nó cũng khư khư giữ chiếc còi bên mình, sợ tôi đánh thó.
Mãi đến hôm Tin về quê ăn giỗ, sau một hồi lục lọi đồ đạc của nó, tôi mới tìm thấy chiếc còi nằm trong một hộp giấy nhét dưới đáy cặp.
Không kềm nổi sự mừng rỡ, tôi khoái chí thổi “toe toe” vang nhà. May mà ba mẹ tôi đi vắng. Chỉ có chị Hai ở trong bếp. Nghe inh ỏi, chị tức tốc chạy ra, tay dứ dứ chiếc que cời than:
- Thật khổ! Hết thằng Tin lại tới em! Em có muốn chị gõ cho một cái vào đầu không?
18
Không kịp nghe đến câu thứ hai, tôi nhét vội chiếc còi vào túi áo và biến ngay ra khỏi nhà. Tôi đứng trước cổng thổi “toe toe” vài tiếng đã thấy bọn trẻ hôm trước xô đẩy nhau chạy lại.
Chiều đó, tôi đem chiếc còi vào lớp.
Đến giờ chơi, tôi lôi chiếc còi trong cặp ra tròng vào cổ rồi khều thằng Tường ngồi cạnh:
- Xem nè!
- Gì vậy? – Tường quay lại.
Bắt chước thằng Tin, tôi không trả lời mà đưa còi lên miệng thổi “toe” một cái.
Hệt như cảnh ở nhà, nghe tiếng còi hùng dũng đột ngột vang lên, tụi bạn trong lớp lập tức đổ xô lại. Sau một hồi ngắm nghía, đứa nào cũng tò mò đòi thổi thử.
Tường khoái lắm. Nó thổi một hơi ba tiếng “toe-toe toe” rồi quay sang tôi.
- Chiếc còi ở đâu ra vậy?
Tôi hếch mặt:
- Chú tao cho tao.
Nó ngập ngừng một lát rồi chớp mắt đề nghị: - Đổi cho tao đi!
- Đổi cho mày? – Tôi nhún vai – Không đời nào! Một chiếc còi như thế này không ai dại gì đem đổi? Trước thái độ cương quyết của tôi, Tường chẳng tỏ vẻ gì nhụt chí. Nó ưỡn ngực quảng cáo, giọng tự tin
19
không thua gì các xướng ngôn viên trên truyền hình: - Đồ chơi của tao tuyệt lắm! Mày thấy là lé mắt liền! Rồi không đợi tôi giục, Tường thò tay vào ngăn bàn lôi ra một... con tắc kè.
Con tắc kè vừa thò đầu ra khỏi ngăn bàn, tôi đã giật bắn người kêu “ối” một tiếng và xanh mặt lùi tuốt ra xa. Thấy tôi nhát cáy, Tường cười hì hì và lấy tay hất con tắc kè bắn về phía tôi.
- Đừng, đừng!
Tôi hốt hoảng kêu lên và co chân phóng tuốt ra khỏi bàn.
- Ha, ha! Đây là con tắc kè bằng cao su! Có phải là tắc kè thật đâu!
Nghe Tường nói vậy, tôi mới hoàn hồn và ngạc nhiên quay đầu dòm. Con tắc kè vẫn nằm trên băng ghế, cổ ngóc cao như sắp sửa phóng lên người tôi. Cái tư thế sống động và đầy đe dọa của nó khiến tôi dù biết nó là con tắc kè giả vẫn cảm thấy rờn rợn.
Một đứa nói:
- Để tao đem lại đằng kia nhát bọn con gái! Và nó chồm tới định tóm lấy đuôi con tắc kè nhưng Tường đã cản lại:
- Để yên nào!
Rồi huơ qua huơ lại món đồ chơi quyến rũ đó trước mặt tôi, Tường hắng giọng:
- Sao? Đổi chứ?
- Ừ, thì đổi! – Tôi nói, không hề phân vân, mắt vẫn láo
20
liên nhìn theo con tắc kè đang đong đưa trên tay Tường. Chiều, tôi về tới cổng, chưa kịp bước vào sân, đã gặp ngay bộ mặt mếu máo của thằng Tin.
- Chiếc còi của em đâu? Trả đây! – Nó níu chặt tay tôi, tru tréo.
- Suît! – Tôi liếc mắt vào trong nhà và hạ giọng bảo Tin. – Mày đừng có làm ầm lên như thế! Để tao cho mày xem cái này, hay lắm!
Vừa nói tôi vừa mở cặp lôi con tắc kè ra.
- Ối! Con gì vậy? – Tin vốn bạo gan hơn tôi nhưng nó vẫn phải thụt lui một bước và trố mắt nhìn chằm chằm vào tay tôi.
Tôi đắc ý:
- Con tắc kè đấy! Tuyệt không?
Tin có vẻ bị con tắc kè mê hoặc. Nó liếm môi: - Anh kiếm ở đâu ra vậy?
Tôi đưa tay lên gãi đầu:
- Tao đổi! – Rồi nhìn thoáng qua mặt Tin, tôi ngập ngừng nói thêm – Tao đổi bằng chiếc còi của mày đấy! Nãy giờ mải chú ý đến con tắc kè, Tin quên bẵng vụ chiếc còi. Bây giờ nghe nhắc tới, nó sực nhớ ra, liền giãy nảy:
- Em không biết! Trả chiếc còi cho em!
- Mày ngốc quá! – Tôi hừ mữi – Chiếc còi thổi “toe toe” chỉ tổ điếc tai! Con tắc kè này hay hơn nhiều! Chỉ nhìn thấy bộ tịch của nó thôi, mọi người đã phát khiếp!
21
Cứ hệt như con tắc kè sống!
Rồi sợ Tin vẫn nằng nặc đòi chiếc còi, tôi xúi: - Mày thử đem đặt nó vào trong bếp xem! Mẹ và chị Hai mà không hãi đến khóc thét, tao sẽ đi đầu xuống đất ngay!
Tin chớp chớp mắt, vẻ bùi tay. Nó không ngoác mồm đòi chiếc còi nữa mà cầm lấy con tắc kè chạy tọt vào nhà. Tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm và lẽo đẽo đi theo. Vừa vào đến nhà, chưa kịp cất cặp, tôi đã nghe tiếng chị Hai ở trong bếp thét lên the thé và tiếng chân chạy huỳnh huîch.
Thoáng một cái, Tin và chị Hai kẻ trước người sau rượt đuổi nhau ra tới phòng ngoài.
Tin vọt trước, tay vẫn nắm chặt con tắc kè, vừa chạy vừa phân bua:
- Đây có phải là con tắc kè thật đâu! Tại chị nhát gan chứ bộ!
- Thậy hay không thật ai mà biết! – Chị Hai hậm hực – Trông thấy nó là muốn sởn tóc gáy lên rồi! May mà hôm nay mẹ đi vắng. Mẹ yếu tim, nếu em nhát mẹ như thế, mẹ ngất xỉu còn gì!
Câu nói của chị Hai khiến Tin cụt hứng. Do đó, khi tôi đuổi theo nó ra tới cửa và hí hửng nói: - Thấy chưa! Tao đã bảo mà! Nhìn thấy con tắc kè này, mọi người cứ gọi là chết khiếp!
Tin liền nhét con tắc kè vào tay tôi:
22
- Em trả lại anh nè!
- Sao vậy? - Tôi chưng hửng - Mày không thích nữa hả?
- Ừ, em không thích nữa! Anh đòi chiếc còi lại cho em đi!
- Đòi sao được mà đòi! – Thấy thằng em tự dưng giở quẻ, tôi nổi sùng, gắt – Đồ đã đổi rồi, ai lại đưa trả cho mày bao giờ!
Tôi nói chưa dứt câu, Tin đã bắt đầu sụt sịt. Biết nó sắp sửa ăn vạ, tôi vội vã phóng vù ra cổng và biến mất trong nháy mắt.
Rong chơi ngoài phố mãi tới khi trời chập choạng, tôi mới mò về nhà. Dòm dáo dác không thấy Tin đâu, tôi rón rén bước chân qua cửa. Ba tôi đang lục đục gì đấy trong phòng. Tôi vào trong bếp, thấy chị Hai đang lau bát đũa chuẩn bị dọn cơm. Mẹ tôi vẫn chưa về, còn Tin không biết chạy chơi đâu.
Khi trở ra phòng ngoài, lúc đi ngang qua cành mai ba tôi mới xin về để chưng Tết, tôi chợt nhìn thấy con tắc kè đang nằm ngóc cổ giữa các cành nhánh, giương mắt ngó ra. Lủng lẳng trên cổ nó là một mảnh giấy nhỏ, buộc bằng chỉ mềm.
Trên mảnh giấy nguệch ngoạc một hàng chữ – tôi nhận ngay ra là chữ của Tin: “Mẹ đừng sợ! Đây chỉ là con tắc kè bằng cao su thôi!”.
23
Đoàn Thạch Biền
Nhà văn Đoàn Thạch Biền tên thật là Phạm Đức Thịnh, sinh ngày 10-5-1948. Nguyên quán tỉnh Nam Định.
Ông là hội viên Hội Nhà vănViệt Nam, hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính đã xuất bản gồm 4 tập truyện ngắn và hai tập truyện dài, tiêu biểu như các tập:
Ví dụ ta yêu nhau, Những ngày tươi đẹp, Tình nhỏ làm sao quên, Mây bay trong đầu, Tôi thương mà em đâu có hay... Một số tác phẩm của nhà văn đã được dựng thành phim.
Hiện nay nhà văn công tác tại báo Người lao động; là một cây bút xông xáo, năng nổ, có nhiều bài viết để lại trong tâm trí bạn đọc những ấn tượng tốt đẹp. Nhà văn còn là một thành viên trụ cột trong Ban biên tập tập san Áo Trắng, một tập san có uy tín trong
giới trẻ, rất được bạn đọc trẻ tuổi mến mộ.
Đoàn Thạch Biền viết nhiều về lớp trẻ. Ông có một vốn sống phong phú về lứa tuổi này. Ông lại có tài nắm bắt được những khoảnh khắc tâm lý rất tinh tế, rất phức tạp cùng những diễn biến đa dạng trong tâm hồn con người. Bút pháp của ông thật linh hoạt, đầy hóm hỉnh, nghịch ngợm và cũng thật duyên dáng, đáng yêu. Lớp trẻ tìm thấy ở ông những sự đồng cảm thật gần gũi với họ.
Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu với các em
một truyện tiêu biểu cho phong cách của nhà văn rất được các bạn trẻ mến mộ này.
24
Đâu phải thứ gì
cũng mua được
Chú Thuận đi làm về, dắt xe đạp vào nhà. Không
thấy Thăng chạy ra đón như mọi ngày, chú hỏi vợ đang ngồi ôm rá gạo lui cui nhặt thóc.
- Thằng nhỏ đi đâu rồi em?
Thím Thuận hất đầu vô trong nói:
- Nó nằm trong buồng đó.
- Bịnh hả?
- Không biết nó giận lẫy chuyện chi, đi học về cứ nín thinh.
Chú Thuận cười:
- Chắc cu cậu bị cô giáo phạt chuyện chi rồi.
25
Chú Thuận mở túi vải đeo vai lấy cái bánh da lợn cầm nơi tay. Chú bước vào phòng ngủ. Thăng đang ôm gối nằm chèo queo trên giường, mặt quay vào vách. Chú Thuận nói:
- Ba mua bánh cho con nè!
Thằng nhỏ quay mặt ra.
- Con không ăn đâu!
- Con đau bụng hả?
Thăng lắc đầu. Chú cúi xuống đỡ Thăng ngồi dậy. Chú đặt tay lên trán Thăng thấy nhiệt độ bình thường. Chỉ có đôi mắt nó đỏ hoe và còn ngấn nước mắt. Chú Thuận hỏi:
- Con không thuộc bài bị cô giáo phạt?
Thăng lắc đầu:
- Con tức thằng Tín học cùng lớp.
- Nó đánh con hả? Sao con không thưa cô giáo? - Chuyện này thưa không được.
- Vậy con kể cho ba nghe.
- Hồi chiều, thằng Tín mang tới lớp một chiếc xe hơi “điện tử”, có thể điều khiển xe quẹo phải quẹo trái nhờ một cái hộp nhỏ. Con xin nó cho con lái thử nhưng nó không cho.
- Nó không cho thì thôi, có chi mà tức?
Thăng nhăn mặt.
- Đâu phải vậy? Nó không cho mượn, con nói không
26
cần. Con sẽ về nói ba mua cho con một chiếc giống vậy. Thằng Tín nhăn mũi cười, rồi nó nói sao ba biết không? Chú Thuận lắc đầu cười.
- Ai biết nó nói sao?
- Nó nói: “Đồ chơi này bên Mỹ gửi về, ba mày là công nhân, sức mấy có tiền mà mua”. Lúc đó, con muốn oánh nó quá nhưng không hiểu sao con oánh không được. Nó đâu có khỏe hơn con. Thằng đó ốm nhách.
Chú Thuận muốn bật cười chuyện con nít nhưng tự nhiên chú cười không nổi. Ôm chặt con trong tay, chú nói:
- Thôi bỏ qua chuyện đó đi!
- Nhưng ba hứa chiều mai đi làm về ba mua cho con một chiếc xe hơi điện tử, giống y xe của nó nghe ba! Chú Thuận định gật đầu cho qua chuyện nhưng ngày mai đi làm về không có món đồ chơi đó, thằng nhỏ sẽ nghĩ sao về lời hứa của ba nó? Chú Thuận vuốt tóc con thú nhận:
- Thằng Tín nói đúng con à! Ba không có tiền mua cho con chiếc xe giống như nó đâu.
- Vậy con chịu thua thằng Tín sao?
Chú Thuận suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Được rồi. Tối nay ba sẽ làm cho con một đồ chơi độc đáo. Bảo đảm thằng Tín sẽ chạy theo con năn nỉ cho nó mượn.
- Sức mấy mà nó năn nỉ con. Nó sẽ về nói ba nó mua
27
cho nó. Nhà nó giàu lắm ba à!
- Con tin ba đi. Đâu phải thứ gì cũng mua được! - Chắc không ba?
- Chắc! Bây giờ con ăn bánh đi.
Thăng cầm chiếc bánh da lợn cắn một miếng lớn và nhai ngon lành.
Tới 1 giờ chiều, học sinh lớp 4A mới vào lớp, nhưng hơn 12 giờ tụi nhỏ đã tụ tập trước hiên xem thằng Tín biểu diễn lái xe hơi “điện tử”.
Chiếc xe sơn màu vàng óng ánh trông thật đẹp. Hai cái đèn pha phía trước luôn chớp chớp. Thằng Tín cầm cái hộp nhỏ điều khiển. Nó bật công tắc hình mũi tên qua trái, chiếc xe quẹo trái. Bật công tắc xuống dưới, chiếc xe chạy lui. Nó ấn chiếc nút đỏ, còi xe kêu tin tin. Cả bọn trẻ vỗ tay reo hò thích thú. Có đứa gạ cho nó một cây cà rem để được lái xe một vòng. Nó bĩu môi không thèm. Có đứa gạ cho nó hòn bi nhôm đã chà giấy láng coóng, nó cũng lắc đầu.
Đột nhiên, có tiếng gì như chim kêu làm bọn trẻ đang ồn ào liền im lặng lắng nghe. Một đứa nói: - Tiếng chim sáo, tụi bay ơi!
Một đứa khác quả quyết:
- Đó là tiếng cu cườm. Chú tao có nuôi một con kêu y hệt vậy.
Một đứa - chắc là giỏi môn văn - nói:
- Đó là tiếng hót “lảnh lót” của chim họa mi.
28
Thấy các bạn không chú ý đến chiếc xe điện tử nữa, thằng Tín nhấn nút đỏ cho còi xe kêu liên hồi. Tụi nhỏ nhao nhao phản đối.
- Đừng nhận còi làm chim bay mất!
- Mày làm nó bay, tao oánh mày liền!
- Dẹp cái xe của mày đi! Để nó kêu rè rè con chim bay mất, tao đập bẹp cái xe.
Thằng Tín sợ hãi tắt công tắc. Chiếc xe nằm im trên thềm xi măng, hai cái đèn hết chớp. Cả bọn lại im lặng nghe tiếng chim kêu. Một đứa nói:
- Hình như con chim ở trong lớp mình, tụi bây ơi! - Vào bắt đi!
- Từ từ, không nó bay!
Cả bọn nhẹ bước vào lớp học. Thằng Tín cũng ôm chiếc xe vào theo. Thăng đang ngồi trên thành cửa sổ thổi một ống sáo dài chừng gang tay. Nó bịt mở các lỗ trên ống sáo làm phát ra những tiếng kêu khác nhau. Chiếc sáo đó, ba Thăng đã thức suốt đêm để làm. Chú Thuận đã nhớ lại những ngày nhỏ ở miệt quê đi bẫy chim. Thay vì dùng miệng huýt gió giả làm tiếng chim kêu mệt hơi, ông Hai Tú - một người bẫy chim giỏi trong làng - đã bày chú Thuận cách làm ống sáo để thổi dụ chim vào lưới.
Cả bọn trẻ đều đứng trố mắt nhìn Thăng. Một đứa xuýt xoa:
- Chiếc sáo ngộ quá ta!
29
Một đứa khác quả quyết:
- Đó là ống tiêu. Bác Năm tao cũng có một ống giống y vậy.
Một đứa khác - chắc là đứa giỏi văn - nói: - Đó là ống dịch “thần thông”
Thằng Tín cũng say mê ngó Thăng. Nó cầm chiếc xe hơi đến gạ:
- Mày cho tao mượn ống sáo, tao cho mày mượn chiếc xe “điện tử”.
Thăng lắc đầu, miệng vẫn thổi sáo. Thằng Tín nói: - Mày bán bao nhiêu, tao mua!
Thăng nhảy xuống khỏi thành cửa sổ. Nó cầm ống sáo đứng chống nạnh nhìn Tín. Rồi bắt chước ba, Thăng nói lớn:
- Đâu phải thứ gì cũng mua được!
30
Hoàng Văn Bổn
Nhà văn Hoàng Văn Bổn tên thật là Hoàng Văn Bản, sinh ngày 7.5.1930 tại xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
ngay từ khi Hội mới được thành lập (1957).
Hoàng Văn Bổn tham gia Cách mạng tháng Tám, hoạt động thanh niên ở địa phương. Từ năm 1946 đến năm 1962, ông là Trưởng ban Giáo dục huyện Tân Uyên (Đồng Nai). Trong suốt 30 năm, từ năm 1962,ông từng phục vụ
trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm giáo viên văn hóa, cán bộ trung đội, đạo diễn, biên kịch, trưởng ban biên tập Xưởng phim Quân đội. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn Nghệ, giám đốc
Nhà xuất bản, ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đồng Nai, ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ông mất năm 2006.
Ông là một nhà văn viết rất sung sức, cho đến nay đã xuất bản trên 50 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện dài, tập truyện ngắn, tiêu biểu là các tập: ● Vỡ đất (tiểu thuyết, 1952) ● Bông hường bông cúc (tiểu thuyết, 1957)
● Mùa mưa (tiểu thuyết, 1960) ● Trên mảnh đất này (tiểu thuyết, 1962) ● Bầu trời mặt đất (tiểu thuyết, 1981) ● Lũ chúng tôi (tiểu thuyết, 1981) ● Sóng bạc đầu (tiểu thuyết, 1982) ● Miền đất ven sông (tiểu thuyết
3 tập, 1984) ● Khắc nghiệt (tiểu thuyết 4 tập, 1990) ● Tuổi thơ ngọt ngào (tiểu thuyết, 1994) ● Nước mắt giã biệt (tiểu thuyết 4 tập, 1994) ● Tuyển tập
Hoàng Văn Bổn (3 tập, 1996)...
31
Ngoài ra, ông đã viết 25 kịch bản phim, tất cả đã được dựng thành phim.
Nhà văn đã được nhận các giải thưởng:
● Giải nhất Hội Văn nghệ và Ủy ban KCHC Nam Bộ cho tiểu thuyết Vỡ đất (1952) ● Giải Hội đồng Văn học Thiếu nhi của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho tác phẩm Lũ chúng tôi (1982) ● Giải thưởng Văn học Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai cho các tác phẩm Vỡ đất, Bông hường bông cúc, Mùa mưa và Lũ chúng tôi (1985), Giải nhất - Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Bộ Quốc phòng cho những kịch bản phim về đề tài chiến tranh cách mạng (1985) ● Giải khuyến khích Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tập truyện ngắn Người điên kể chuyện người điên (1992) ● Giải B của Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tác phẩm Tuổi thơ ngọt ngào (1994) ● Giải Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn cho tác phẩm Tuổi thơ ngọt ngào (1994) ● Tặng thưởng Bộ Quốc phòng cho các tác phẩm Vũ Trụ, Nước mắt giã biệt, Một ánh sao đêm (1994) ● Giải Bông sen bạc cho kịch bản Trên tuyến đầu miền Tây Tổ quốc ● Giải Bông sen vàng cho kịch bản phim Chiến đấu giữ đảo quê hương ● Giải Bông sen bạc cho kịch bản phim Trận địa bên sông Gấm ● Giải Bông sen vàng, giải Joris Ivens (1968) cho kịch bản phim
Hàm Rồng ● Giải Bông sen vàng, giải Liên hoan phim Quốc tế Lai Xích cho phim Những cô gái C3 Quân
Giải Phóng ● Giải Liên hoan phim Quốc tế Lai Xích cho kịch bản phim Lịch sử không lặp lại ● Giải Bông sen vàng cho kịch bản Chiến thắng xuân 1975 lịch sử (viết chung)
● Năm 2007, nhà văn đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu với các em
một truyện ngắn tiêu biểu của ông viết cho thiếu nhi.
32
Mùa thu rồi...
Những ngày ấy, thành phố Biên Hòa không lúc nào
ngớt tiếng súng. Quân Pháp núp bóng quân Đồng minh Anh-Ấn tràn khắp hang cùng ngõ hẻm, lập đồn canh, tổ chức nhiều đội tuần tra. Chúng đã đặt một chính quyền cấp tỉnh tại dinh Tòa bố gần bờ sông, canh gác cẩn mật.
Đêm xuống, thành phố vắng tanh, tiếng giày đinh nện rầm rập khắp nơi, tiếng súng truy đuổi bóng người lẩn khuất, tiếng súng hành hình Việt Minh ngoài bờ sông Đồng Nai, ở cầu Gành, cầu Rạch Cát, cù lao Phố, trước cổng nhà máy cưa BIF. Ngày nào, đêm nào cũng có lựu đạn nổ trên xe tuần tra, ngay trạm gác của chúng. Và ngày nào, đêm nào, chúng cũng bịt mắt, trói quặt cánh tay năm bảy thanh niên, phụ nữ, người già đem ra
33
bờ sông... Tiếng nguyền rủa, tiếng kêu thét của người bị giết báo hiệu cho dân thành phố biết: cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp đã bắt đầu, thành phố tuy đã bị chiếm đóng nhưng không khuất phục. Thành phố vẫn kháng chiến. Những cái chết trong giây phút ấy đã biến thành lời hiệu triệu, lời tuyên bố rằng xứ sở này quyết không chịu trở lại kiếp sống nô lệ. Cái sức mạnh tuyên truyền bằng cái chết như thế rất lớn, lan nhanh như tia chớp. Kẻ giết người muốn mọi người đến chứng kiến những cuộc hành hình ấy để khiếp sợ, khuất phục. Nhưng chúng không ngờ: Bằng nước mắt và lòng căm hờn, những người bị buộc phải chứng kiến ấy đã đi khắp nơi, khóc thương người ngã xuống, biến cái chết ấy thành bất tử.
Trong đám trẻ đầu đường xó chợ, lang thang thường phải chứng kiến nhiều cuộc hành hình người kháng chiến, có thằng nhỏ Kỳ Lô.
Cái đêm làng nó ở ngoại ô đỏ trời trong biển lửa “tiêu thổ kháng chiến”, nó hay tin người bạn thân và cũng là người anh của nó bị thương. Thương bạn, nhớ các chú, các bác đã cùng nó chiến đấu nhiều ngày đêm ở mặt trận Cầu Bông - Thị Nghè, nó không thể không ra đi tìm bạn. Vả lại, nó đã hứa với chị Hường, chị Loan. “Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy” - ông già chèo đò nó coi như ông nội đã dạy nó điều ấy.
- Ông nội ơi, đã kết nghĩa anh em mà bỏ nhau lúc hoạn nạn là tiểu nhơn phải không ông?
34
Ông già đang mài dao sau hè nhà ngạc nhiên nhìn nó từ đầu tới chân:
- Ai nói với cháu như vậy?
- Ông tướng cướp Bảy Lì.
Ông già hiểu ra. Thằng nhỏ giận Bảy Lì đã rút chạy một mình khiến anh Bình nó bị thương, chị Hương, chị Loan nó đau khổ.
- Bỏ bạn, phản bạn là tiểu nhơn, thua con chó. Đã một lời thề, một lời hứa cùng nhau. “Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy”. Lời hứa của kẻ trượng phu, bốn ngựa không thể đuổi kịp...
Ông còn đang muốn giảng giải thấu đáo ngọn ngành, nó đã chui vô buồng lục cơm nguội, nhai nhồm nhoàm. No bụng, nó đến bên vách tre rút từng con dao đưa ngang mắt săm soi, bứt một cọng tóc đặt lên từng lưỡi dao thổi phù phù. Con dao nào đứt cọng tóc khi nó thổi, nó âu yếm khắc vào chuôi dao hai chữ “Bảy Lì”, gói giữa mớ giẻ rách, giấu dọc sống lưng.
Ông già nhấc cái chân thọt vào bếp vét hết cơm nguội, gói gọn bằng lá chuối héo trao tay nó: - Cháu đi lần này dữ nhiều lành ít. Nhưng ông không thể cấm cản cháu! Người xưa có dạy: “Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Thấy người khác bị nạn mà khoanh tay làm ngơ thì đâu phải anh hùng. Gặp được bạn, nhớ bảo tụi nó: “Làng mình sẵn sàng nghênh chiến. Ở dưới đó, anh em tụi nó muốn đánh chác bao lâu, mặc sức. Phía
35
sau tụi nó có cái làng của mình, có con sông Đồng Nai của tụi mình”.
Vậy là cái đêm cháy đỏ hôm đó, thằng nhỏ xách dao, đùm cơm nắm, gói thêm một cái quần xà lỏn rách bằng vải bao bột mì, cầm tay một cây tầm vông vạt nhọn rám lửa, ra đi mà lúc nào trong đầu cũng hừng hực câu: “Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Càng xuống gần chợ Biên Hòa, người tản cư càng đông, những đám cháy “tiêu thổ kháng chiến” dọc đường càng nhiều, tiếng súng hướng Thủ Đức, chợ Đồn, cầu Gành càng nổ dữ dội hơn. Nhớ những ngày được ở trong đội quân chân đất của Bình, Bảy Lì đi cứu Sài Gòn, nó càng rảo bước. Ngang những trạm tiếp tế, cứu nạn dọc đường do dân quân, thanh niên, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc tổ chức, nó được mời ăn xôi nếp với thịt gà kho, thịt chó kho, uống nước dừa xiêm. Thịt chó hàng chục chảo đầy. Đó là những ngày có lệnh “giết chó”, chuẩn bị hoạt động bí mật, những trận đánh du kích, đi lại hoàn toàn bí mật.
Đến ngã ba Cây Chàm, lắng nghe tiếng súng, tiếng la thét từ hướng chợ Đồn, nó quẹo xuống xóm Lò Heo sát bờ sông Đồng Nai.
Ngang đình Tân Lân, nó bị bốn năm thằng nhỏ cùng trang lứa từ đình Tân Lân xông ra cướp gói xôi, bọc quần áo và con dao phát mía bén ngọt của nó. Mấy ông nhỏ này còn rách rưới, khỏe mạnh, hung dữ hơn nó nhiều. Ngỡ bị Tây phục kích, nó vung gậy thét lớn:
36
- Đả đảo thực dân xâm lược Pháp! Tụi mày bắn tao đi...
Thằng đầu trọc to nhất đám xông vào bịt miệng nó: - Im miệng, thằng quỉ! Tụi tao không phải Tây. La lớn, tụi Việt gian nghe được, chết cả đám. - Không phải Tây, vậy là Đàng mình?
Thằng đầu trọc xô mấy đứa khác dang ra, đáp: - Đàng mình.
- Đàng mình mà chơi cái kiểu này, chết mẹ người ta! Trong bọn bây, thằng nào chỉ huy?
Mấy thằng nhỏ khoái trá.
- Tao! - Thằng đầu trọc vỗ ngực - Còn mày, thuộc phe nào hả?
Kỳ Lô ngứa tay ngứa chân nhưng cố ghìm: - Phe tướng cướp Bảy Lì.
Mấy thằng nhỏ thụt lùi mấy bước, tưởng nghe nhầm. Và chúng đi vòng tròn, nhìn chằm chằm từ đầu đến chân thằng Kỳ Lô. Thằng đầu trọc lấy con dao của Kỳ Lô xem rất kỹ. Khi phát hiện hai chữ “Bảy Lì” ở chuôi dao, mấy thằng nhỏ trao trả gói xôi, bọc quần áo và con dao lại cho Kỳ Lô, giọng buồn buồn:
- Ông Bảy Lì, ông Bình đang sa lầy bên cù lao Phố, ở cầu Gành. Mấy thằng Tây xỏ lá ỷ quân đông, súng đạn nhiều. Có giỏi sao không một đánh một với ông Bảy Lì, ngon hơn không?
37
Kỳ Lô cho lũ trẻ gói xôi, dợm bước đi. Thằng đầu trọc liền hỏi:
- Mày định đi đâu?
- Đi cứu Bảy Lì, cứu anh Bình. “Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Thấy người bị nạn mà khoanh tay ngó lơ đâu phải người anh hùng?
- Một mình mày cứu cái khỉ khô. Lớ mớ, tụi nó nhai xương mày. Mày ở đây với tụi tao. Tụi tao sẽ tìm cách giúp mày. “Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng” mà...
- Nhưng, anh Bình của tao bị thương nặng lắm... - Ông Bình chỉ huy trưởng à?
Kỳ Lô gật đầu.
- Được rồi. Ông Bình, ông Bảy Lì thuộc phe tụi tao. Mấy ngày trước, tụi tao có tìm cách tiếp tế cơm nước, đạn dược cho mấy ổng. Vô đây bàn mưu kế. Dạo này, ở đây Việt gian lu bù, Tây, Ăng-lê, Chà Và chóp, Nhật lùn... phục kích lung tung. Lơ là, sa bẫy tức khắc, chết không kịp ngáp.
Kỳ Lô theo lũ trẻ xóm Lò Heo chui vô đình Tân Lân tối om, hôi hám. Quanh co, luồn lách giữa các điện thờ một lúc, chúng chui xuống cái hầm tối om, lạnh ngắt. Thằng đầu trọc châm ngọn đèn dầu mỡ heo bằng cái đĩa. Ngoài một khẩu súng trường Pháp, một khẩu súng trường Nhật, hai trái lựu đạn chày, lựu đạn OF có khía như trái mãng cầu, chúng còn treo nhiều mặt nạ đủ hạng người trung, nịnh, hiền, dữ... và một chiếc đầu lân râu
38
bạc... Một con khỉ từ trong góc hầm khệnh khạng bước tới trước mặt Kỳ Lô. Kỳ Lô vùng đứng dậy thủ thế. Con khỉ nhảy lùi, đưa tay gỡ chiếc mặt nạ. Trước mặt Kỳ Lô hiện ra một khuôn mặt bánh đúc, mái tóc bánh bèo, hàm răng sún nhe ra cười. Con gái. Kỳ Lô cười toét miệng:
- Khỉ cái!
Cô bé gái nguýt dài Kỳ Lô:
- Tôi là khỉ cái thì anh là khỉ đột!
Thằng đầu trọc đấm mạnh tay vào bụng pho tượng Quan Công mặt đỏ, la lớn:
- Dẹp. Khỉ cái có gì đem ra cho khỉ đột lai rai? Con bé sún răng kéo cái mặt khỉ che kín mặt, khoọc khẹc mấy tiếng mới chịu đi.
Thấy Kỳ Lô nhìn chiếc đầu lân một cách thích thú, thằng đầu trọc khoe:
- Tụi tao là đội lân râu bạc xóm Lò Heo. Khi nào yên giặc, tụi tao sẽ cho mày một chiếc đầu lân số dzách. Hai đứa ngoéo tay nhau. “Nhất ngôn ký xuất”... Nói lời phải giữ lấy lời.
Hai thằng nhỏ nhất ra đi. Lát sau, chúng mang về bánh mì nhân thịt heo quay, có vài cọng hành, một tép tỏi. Thằng đầu trọc đem chia đều cho mọi đứa, kể cả thằng Kỳ Lô. Từ ngày đánh nhau ở mặt trận Sài Gòn đến nay, Kỳ Lô mới được ăn lại bánh mì với thịt heo quay.
Ăn uống xong xuôi, thằng đầu trọc nói:
39
- Tụi bây ở nhà kiếm cái ăn, canh gác sào huyệt. Tao với thằng Kỳ Lô đi cứu ông Bảy Lì, ông Bình. Xong là tụi tao về. Tụi bây không được đi tìm. Hứa đi! “Nhất ngôn ký xuất”...
Thế là hai đứa ra đi.
Men theo bờ sông qua chợ cá vắng teo, đến dinh Tòa bố... Thằng đầu trọc đi trước. Thằng Kỳ Lô theo sau. Phố xá, chợ búa chỉ còn lại ăn mày, trẻ cầu bơ, du đãng. Lác đác một vài tiệm hủ tiếu, bún bò còn lén mở cửa. Trong các ngõ hẻm và dọc bờ sông, gái điếm môi son má phấn cười cợt, lượn lờ, õng ẹo cùng lính Tây, lính Chà Và.
Xuống đến gần sở Nước, hai đứa bị một tốp Tây trắng rượt bắt lại. Chúng quẹo vô xóm, nhảy qua vườn chuối um tùm.
Suốt ngày hôm đó, hai đứa bị Tây trắng, Tây mặt gạch rượt bắt hụt nhiều lần. Một lần, thằng Kỳ Lô nổi khùng toan rút chốt lựu đạn. Thằng đầu trọc cản lại:
- Tụi nó cho tao với mày là đồ con nít. Kệ cha nó! Con nít mới cứu được ông Bảy Lì, ông Bình. Mày chọi lựu đạn một cái, coi như tao với mày hết đường lang thang tìm kiếm.
Đến tối mịt, hai đứa mới mò về đình Tân Lân, chui tuột xuống hầm. Nhai chưa hết chiếc bánh mì cứng như củi khô, thằng Kỳ Lô đã ngoẹo đầu ngủ say. Con nhỏ sún răng lấy kim chỉ vá lại chiếc áo bành tô rách hàng chục lỗ, đắp lên người thằng Kỳ Lô. Mấy đứa nhỏ
40
bó gối thở dài. Chúng bày cách: Ngày mai, chia thành nhiều tốp thành trẻ ăn mày, móc túi lần sang cầu Gành, cù lao Phố...
Đêm hôm đó súng nổ nhiều hơn. Lửa cháy khắp nơi. Chúng bò ra sân đình nhìn những đám cháy bên kia sông, lắng nghe tiếng súng, tiếng thét từ hướng núi Châu Thới, chợ Đồn, cù lao Phố... Thằng Kỳ Lô thở dài. Tìm không được anh Bình, Bảy Lì, nó biết ăn nói làm sao với chị Hường, chị Loan, ông già chèo đò?
Có một con thuyền trôi ngang. Thằng Kỳ Lô thò tay lôi vô, nhảy xuống. Thằng đầu trọc vội nắm lái thuyền kéo lại:
- Trở lại. Mày qua bên đó, tụi nó bắn chết. Mày nhìn cái lái ghe kia thì biết?
Kỳ Lô nhìn tấm ván sau lái ghe: Tấm ván đỏ lòm máu, có nhiều vết đạn. Nó tái xanh, xòe hai bàn tay trước mặt. Hai bàn tay đỏ máu. Thủy triều đang lên. Chiếc ghe này từ hướng cầu Gành, cù lao Phố trôi tới đây. Lại nhìn hai bàn tay dính máu, nó rùng mình nghĩ đến anh Bình, ông Bảy Lì. Nhưng mọi người đều máu đỏ, làm sao phân biệt được máu này là máu của ai?
Sáng hôm đó, hai đứa lại ra đi. Thằng Kỳ Lô mặc chiếc áo bành tô rách thùng thình. Nghe cộm ở túi bên phải, nó thò tay, móc ra một gói xôi. Con Sún. Bữa nay mình phải kiếm cho nó một chiếc áo lành, một khúc bánh mì. Con gái mà cái áo của nó rách te tua.
Lang thang xuống đến gần sở Nước, thằng đầu trọc
41
chụp tay Kỳ Lô giữ lại. Có tiếng vật lộn uỳnh uîch, tiếng người gầm gừ. Trong vườn chuối sát mé sông, hai thằng Tây trắng tay đang cầm dao, đè gối lên ngực một thanh niên.
- Nó cắt cổ người ta. - Kỳ Lô kêu nhỏ vào tai thằng đầu trọc - Mày chạy trước đi, tao chạy theo sau... Chưa kịp hiểu gì, thằng đầu trọc nghe tiếng cục đá xanh bay đánh bốp vào đầu ai đó trong vườn chuối. Anh thanh niên vùng dậy đánh bổ vào đầu thằng Tây cao lớn đang cứa lưỡi dao găm vào cổ anh. Anh nhảy bay qua hàng rào gai xương rồng, lao xuống sông Đồng Nai... Chiều tối hôm đó, Kỳ Lô đã tung một trái lựu đạn lên chiếc xe deép gần sở Nước. Nó định tung một trái nữa lên chiếc xe đi đầu. Nhưng có ai đó đã nhanh tay hơn nó. Làm sao nó và thằng đầu trọc bạn nó hiểu được: chính anh Bình của nó và Sáu Diệp đã quăng lựu đạn đốt chiếc xe còn lại.
Sau trận đánh ấy, Kỳ Lô càng được lũ trẻ trong đình phục lăn. Lũ trẻ ở các khu phố khác biết tin, gởi lời bái phục, tôn Kỳ Lô lên hàng thủ lĩnh, đại ca. Lực lượng tự vệ thành, cán bộ lãnh đạo bí mật của thị xã ủy Biên Hòa liên tiếp nhận được báo cáo về “một đội thiếu niên cứu quốc bí mật” nào đó hoạt động rất khá nhưng không sao tìm ra tung tích chúng. Thỉnh thoảng, trong lúc nguy hiểm họ được vài đứa trẻ giải vây bằng cái cách trẻ con của chúng. Chúng kêu làng kêu nước, lu loa lao vào bọn giặc để người của họ chạy thoát. Nhiều lần họ
42
bị bọn giặc rình mò bao vây chỗ họ đang họp kín, bỗng có mấy đứa trẻ rượt đánh nhau, kêu la chí chóe. Thế là họ giải tán kịp thời.
Một đêm khuya, thằng đầu trọc thao thức mãi, bảo nhỏ vào tai Kỳ Lô, vẻ bí mật và tự ái: “Tao nghe có một người trẻ tuổi, cỡ tụi mình, xuất quỉ nhập thần ở khu chợ Biên Hòa này, khiến bọn Tây khiếp sợ... Người trẻ tuổi này còn giỏi hơn các anh hùng thảo khấu Lương Sơn Bạc... Mày có biết anh hùng Lương Sơn Bạc không?"
Kỳ Lô lắc đầu:
- Không. Cỡ như ông Bảy Lì tướng cướp vùng rừng bên kia sông kia chớ gì? Nè, hay mình tìm cách móc với người trẻ tuổi này coi sao? Người trẻ tuổi này tên là gì?
- Nghe nói là Lữ Mành. Nếu Lữ Mành là đó thì tao có biết, nhà ở bên kia hông chợ, gần Tòa bố... Chẳng lẽ... Thế rồi hai đứa nhìn các bạn trẻ tuổi đang ngủ say, quần áo rách rưới, bụng xẹp lép.
Thằng đầu trọc không thích dùng súng, lựu đạn. Nó với thằng Kỳ Lô đã cãi nhau nhiều trận nảy lửa. - Đi tay không, dùng mưu mẹo, la lối như vầy được việc hơn. Tụi Tây, Việt gian ít nghi ngờ. - Nó bảo Kỳ Lô thế - Phần mày, tìm được ông Bình, ông Bảy Lì Lương Sơn Bạc là mày rút theo mấy ổng lên rừng, xuống biển, dọc ngang trời đất. Còn tao? Tao đi đâu? Sống chết gì tụi tao cũng ở đây, hiểu chưa? Mày bảo tao theo mày chớ gì? Còn cái đám con Sún với một bầy em út mồ côi của tụi tao, ai nuôi?
43
Thằng Kỳ Lô gật đầu. Thương bạn, hiểu bạn nhưng nó không thể không bắn, không chọi lựu đạn khi gặp mặt cái bọn giết người, cướp nước ấy. Nó hứa cùng bạn là sẽ giảm bớt việc hạ sát bọn giặc bằng súng. Nó than thở cùng con Sún khi hai đứa ngồi bồi lại cái đầu lân bị chuột khoét.
- Hứa vậy thôi nhưng hễ gặp cái bộ mặt khỉ của lũ Tây là tao nổi khùng.
- Tại sao anh ghét Tây dữ vậy?
- Không biết. Nó không phải là mình. Trước cách mạng thành công, mấy thằng Tây chủ sở cao su, thằng Cố-nhan có trốn ở làng tao... Làm phách chó, ức hiếp thiên hạ. Cũng vì tụi nó mà... chị Hồng Loan phải nhảy xuống sông Đồng Nai tự tử. May mà có chú từ Khâm với ông nội chèo đò cứu được. Nhưng thôi, có nói, mày cũng không hiểu được đâu...
Một buổi chiều, Kỳ Lô và thằng đầu trọc nháy mắt làm hiệu. Hai đứa lặng lẽ ra đi. Thằng Kỳ Lô mặc chiếc áo bành tô thùng thình, mặt mũi lấm lem, tay chân đen thui. Hai đứa lang thang xuống cầu Rạch Cát. Cách đầu cầu chừng trăm thước, chúng bị lính gác chặn lại. Bị dồn tại đó, có hàng chục trẻ con lang thang như chúng, hai cỗ xe ngựa, bốn năm cô gái làm tiền.
- Sao họ không cho đi, chị? - Kỳ Lô hỏi một cô gái môi son má phấn, cử chỉ ngượng ngập thế nào ấy. Cô nhìn nó, thì thầm:
44
- Chúng giải Việt Minh qua đây. Nghe nói có một ông Việt Minh làm lớn lắm. - Cô gái nhìn thẳng vào mặt nó dò tìm điều gì đó nó không sao biết được. Tiền? Nó chỉ có cái áo bành tô rách te tua và trái lựu đạn giấu trước bụng. Còn chuyện kia... Nó không biết.
Nó rùng mình lo lắng. Anh Bình, ông Bảy Lì, chú Hai cũng là Việt Minh lớn, Việt Minh bự. Nó nhìn quanh quất tìm một cái gì đó, tay chân ngứa ngáy. Thằng đầu trọc nhìn nó nhiều lần. Nó gục gặc đầu. Nhưng cũng chỉ đứng im được vài phút. Nó nhìn chằm chằm vào ông già đánh xe ngựa và cô gái làm tiền đang run bần bật, thầm thì gì đó cùng các bạn của cô. Nó chợt để ý một người độ mười sáu tuổi, dong dỏng, lầm lì, ngồi sau ông già đánh xe ngựa. Nó chợt nghĩ: Lữ Mành? Hay Lữ Mành như thằng đầu trọc nói? Anh hùng Lương Sơn Bạc mà thế này sao? Khác gì mình và thằng đầu trọc? Sao bọn giặc Tây khiếp sợ?
Ông già đánh xe ngựa mặt hiền khô, ánh mắt long lanh, hai tay rọ rạy khắp túi quần, dưới thùng xe. Hình như ông già có liếc nhìn nó nhiều lần. Cái anh chàng “Lương Sơn Bạc” ngồi phía sau cứ gà gật, như đang say khướt.
- Tránh ra! Đứng sát lề đường! - Mấy tên lính áp tải dùng báng súng đẩy mọi người dạt vào lề đường, sát mé sông. Nó với thằng đầu trọc, cô gái làm tiền cũng bị báng súng dồn sát mé sông cuồn cuộn. Dưới mặt sông, nhiều chiếc thuyền buồm, thuyền chài nghiêng nghiêng chui qua gầm cầu. Hình như có một chiếc thuyền buồm
45
bị vướng vào chân cầu, loay hoay mãi không sao gỡ ra được. Mấy tên lính trên cầu quát tháo, chửi bới ầm ĩ. Từ giữa cầu, hơn chục chiến sĩ bị trói quặt, quần áo rách nát, mặt mũi tím bầm, tiến về phía Kỳ Lô. Bốn thằng lính đi kèm hai bên và phía sau. Chốc chốc, bọn lính thúc báng súng vào vai, vào lưng họ: “Lẹ lẹ lên! Tối rồi...”
Nhiều chiến sĩ trừng trừng nhìn chúng.
Khi đoàn người đã đến gần, Kỳ Lô suýt kêu to: “Anh Bình”. Nó kịp đưa cả năm ngón tay vào miệng, khắp người mọc gai, lạnh toát.
Thằng đầu trọc đứng nép sát vào nó, nắm chặt tay nó, ra ý bảo “Động đậy là chết”. Người nó nóng hầm hập, mồ hôi vã ra như tắm. Nó hít thở mạnh mấy cái liền xem xem trái lựu đạn trước bụng có còn cộm ở đấy không? Nó nhìn thấy khuôn mặt bị đánh tím bầm của anh Bình. Chắc là đau lắm. Nó bỗng như thấy rõ ràng khuôn mặt trái xoan, trắng trẻo của chị Loan, chị Hường và cái chân cà thọt của ông nội chèo đò... Anh Bình vẫn bước thẳng lưng, ngực rướn về phía trước. Hai chiến sĩ đi gần anh Bình thường dùng vai, lưng của họ đỡ nhiều cú báng súng của hai thằng Tây trắng đánh vào anh Bình... Lương Sơn Bạc... Lương Sơn Bạc là thế đấy.
Anh Bình và hai chiến sĩ nhìn người đi đường, nhìn Kỳ Lô và mỉm cười vẻ an ủi nó: “Đừng sợ, chú em. Ra đi chiến đấu cứu nước, chết sống là chuyện thường. Chú em nhớ bảo lại chị Loan, chị Hường thế đấy...” Kỳ Lô
46
bỗng dưng ứa lệ vì hình như đôi mắt sưng vù của anh Bình chưa nhận ra nó. Chết như thế, oan ức lắm. Năm đầu ngón tay của thằng đầu trọc bấu lún vào vai nó khiến nó rùng mình, chợt tỉnh, năm ngón tay nó đang luồn vào trước bụng buông xuôi. Trái lựu đạn ở đấy vẫn còn nguyên tại chỗ. Nó liếc mắt ngó chừng chàng trai “Lương Sơn Bạc” nó nghi là Lữ Mành đang ngồi trên cỗ xe ngựa, đầu gật tới gật lui như sắp lìa khỏi cổ - một con người còn sống đó nhưng coi như đã chết rồi. Hai thằng Tây trắng phun hai bãi nước bọt khinh bỉ về phía anh chàng “Lương Sơn Bạc” ấy... Anh Bình và những người bị bắt đã bước qua chỗ thằng Kỳ Lô. Nó nghẹn thở, cho tay vào bụng, nắm chặt trái lựu đạn. Bỗng cô gái có vẻ gái làm tiền đứng cạnh nó nhào ra túm chặt lấy Bình và mấy người bị bắt, la khóc thảm thiết:
- Trời ơi, chồng tôi, bớ bà con ơi! Chồng tôi đang thả câu đêm ngoài sông Đồng Nai, họ bắt trói, đánh đập tàn nhẫn thế này...
Người chiến sĩ trẻ bị cô gái trì kéo ngã xuống mặt đường, lôi anh Bình ngã theo. Con ngựa hí lồng lên, cất hai vó trước lên nền trời, bổ xuống đầu thằng Tây trắng đang giương súng về phía anh Bình. Bỗng nó kêu rú, một dòng máu từ cánh tay cầm súng của nó chảy xuống mặt đường nhựa: một con dao găm. Kỳ Lô ngoái nhìn lại chàng trai “Lương Sơn Bạc”. Chàng trai hiện lồng lộng giữa hai càng xe ngựa, vung roi đen đét trong
47
không khí. Con ngựa lồng lên. Chiếc xe lao qua đầu hai thằng Tây trắng. Hấp một cái như làm xiếc, anh chàng “Lữ Mành Lương Sơn Bạc” chồm xuống hai tay xách anh Bình và hai chiến sĩ quẳng lên giữa lòng cỗ xe. Ông già và cô gái làm tiền vung mạnh cánh tay: hai quả lựu đạn chày lao về phía hai thằng Tây trắng...
- Lữ Mành... - Thằng đầu trọc bò xuống mép sông Đồng Nai, kéo thằng Kỳ Lô lao theo, reo thích thú - Lữ Mành, chiến sĩ biệt động Lữ Mành đã xuất hiện...
Thằng đầu trọc, thằng Kỳ Lô lăn nhiều vòng xuống tận mép nước con sông Đồng Nai quen thuộc, lặn một hơi dài về hướng cầu Rạch Cát, chỗ chiếc thuyền buồm bị dây quấn vào chân cầu. Thằng đầu trọc bám vào sợi dây dừa to tướng, ra hiệu cho thằng Kỳ Lô làm như nó. Người chủ chiếc thuyền buồm la lớn như báo động, như reo mừng:
- Oánh nhau rồi bớ bà con Đồng Nai mình ơi! Dân Đồng Nai gan lì trời thần quỉ địa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Ông ta lại chồm người ra mép sông, nói như nói to cùng dòng sông nước triều đang lên, gió từ miệt Nhà Bè lộng về hướng Trị An, nhiều giề lục bình trổ bông đang đứng im bỗng cựa quậy, xoay xoay trôi ngược về hướng miệt rừng già Trị An, Mã Đà:
- Lục bình, bám cho chắc tay nghe, có gió, được nước, tao trương buồm, dọt về miệt rừng già Trị An, Mã Đà đây. Mã Đà sơn cước anh hùng tận. Thân dậu niên canh kiến thái bình...
48
Lập tức, năm sáu chiếc thuyền khác cũng kéo dây lèo, cánh buồm giũ gió ầm ầm lao chéo qua chân cầu Gành, nhắm hướng rừng già Trị An. Không hiểu những con thuyền ấy chở những gì mà khẳm lừ?
Nép sát vào thân thuyền, thằng đầu trọc bảo nhỏ vào tai thằng Kỳ Lô:
- Hình như mấy chiếc ghe chài này chở toàn súng đạn, nặng lắm... Khi nó chạy ngang chợ Biên Hòa, tao buông tay ở lại nghe. Mày thượng lộ bình an...
- Tao cũng ở lại vài ngày nắm tình hình, còn gặp anh Bình tao bàn việc. Mới lại, tao thấy nhớ nhỏ Sún, tao hứa tìm cho nó một cái áo, một cái quần lành lặn một chút...
- Cũng được! Vậy khi ngang qua khu chợ, hai thằng mình buông tay nghe. Khỏi phải chào từ biệt ông chủ ghe. Cùng cánh biệt động của Lữ Mành Lương Sơn Bạc cả... Ê, hai bên bờ sông vẫn cháy đỏ trời kìa. Hướng Bửu Long, cù lao Thạnh Hội, hướng Tân Vạn, Nhà Bè, hướng nào cũng cháy đỏ lửa “tiêu thổ kháng chiến”.
11-1996
49
Trúc Chi
Nhà văn Trúc Chi tên thật là Nguyễn Trúc Chi, ông sinh ngày 3 tháng 12 năm 1935 tại thị xã Tuy Hòa (Phú Yên).
Thuở nhỏ, nhà văn sống ở một làng biển miền Trung, lớn lên ông gia nhập quân đội. Năm 1954, ông công tác trong đoàn văn công Quân đội liên khu 5, tập kết ra Bắc làm diễn viên múa và viết kịch bản. Ông có thơ đăng báo Quân Đội Nhân Dân, Nhân Dân, Văn Nghệ từ năm 1956. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ông về công tác
tại Hải Phòng. Sau ngày miền Nam được giải phóng, ông giảng dạy tại Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, hiện ông đã nghỉ hưu.
Các tác phẩm chính đã xuất bản:
Thơ: ● Cánh chim biển ● Chú dế đàn ● Dư âm sóng ● Thành phố hoa mặt trời (trường ca)
● Miền sóng trắng tôi yêu ● Thơ tình Trúc Chi.
Truyện: ● Arú và con voi già ● Thị trấn đêm màu trắng ● Điều kỳ lạ trong vườn chim ● Làng cọp râu trắng ● Câu chuyện từ lớp học này ● Con trai người săn cá mập...
Nhà văn Trúc Chi đã được nhận nhiều giải thưởng Văn học, nhiều huân chương, huy chương cao quý như: ● Huy chương Kháng chiến hạng ba ● Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất ● Các huy chương Vì thế hệ trẻ, Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ● Giải A Hội diễn Sân khấu 1957 ● Giải A của tạp chí Văn nghệ Phú Khánh 1980
● Giải Cây bút vàng của tạp chí Văn hóa Văn nghệ Công an 1998...
50
Người vẽ mắt thuyền
Cụ Hai Sắn ở cách nhà tôi một con truông. Đứng ở
đầu truông gần giáp bãi cát nhìn vào thấy rõ từng cánh cửa liếp, mấy bức vách che bằng phên, hai mái lợp lá dừa khô của nhà cụ.
Cụ Sắn đi đâu về cũng ghé vào nhà tôi ngồi một lát. Cụ không đưa tay ra trước để sờ tìm hàng rào, cửa ngõ mà chỉ hai con mắt nhướng nhướng bắt hướng rồi đi thẳng vào. Cha tôi đưa ly nước chè đặc vào bàn tay cụ, cụ im lặng nâng ly nước đang bốc khói lên đưa qua lại để xông hai mắt. Sau đó, cụ chỉ nói một câu tôi nghe đã thành thuộc:
- Hà, chè Tam Thái thơm nóng không khác gì trầm! Uống xong, cụ Sắn để úp ly xuống đúng cái dĩa, hai bàn tay vuốt vuốt mái tóc bạc trắng hai bên tai, chào
51
ba tôi rồi ra về. Cụ đi chậm rãi thẳng ra ngõ, trong tay không gậy dò đường. Cứ nhiều lần như vậy, tôi biết hai bàn chân cụ không bao giờ vấp khúc cây, hòn đá. Tuy vậy, tôi vẫn đi theo bên cụ để rủi có gì thì cầm tay dắt cụ đi. Đi bên cụ, nhiều lúc tôi muốn nghe cụ nói một chuyện gì đó nhưng cụ vẫn im lặng, cái im lặng vắng ngắt. Mỗi lần cụ đi khuất, tôi đứng nhìn theo lại nhớ những gì cha tôi nói về cụ. Cụ Sắn mù từ ngày lọt lòng mẹ. Nhưng từ khi biết đi, cụ không bao giờ để ngã bởi một hòn sỏi nhỏ nào. Cho đến lớn, ngõ nào cụ cũng biết, cũng thuộc. Người mù từ trong bụng mẹ có con mắt bên trong mà, cha tôi thường nói như vậy. Con mắt đó đã nuôi sống cụ bằng cái nghề vẽ mắt thuyền cho cả mấy xóm biển Ô Quắn từ hồi cụ mười hai tuổi.
Biết cụ Hai Sắn vẽ mắt thuyền đã lâu nhưng tôi chưa một lần xem cụ vẽ bao giờ. Vì vậy, có lúc tôi không tin cụ Sắn vẽ được. Và nhiều lần tôi ao ước được tận mắt thấy cụ cầm bút vẽ. Ước ao ấy của tôi đã đến thật.
Hôm ấy, mới sáng sớm, cha tôi bảo trưa nay tôi đi với cụ Hai Sắn ra cồn để giúp cụ và xem cụ vẽ mắt thuyền cho mùa cá tháng bảy tới. Đến nhà, tôi thấy cụ ngồi xếp bằng tròn bên tấm ván gỗ có nhiều mọt đục lỗ đỗ. Hình như cụ vừa tắm xong nên mái tóc còn ướt sũng. Tôi đi thật nhẹ, vậy mà cụ biết, cụ bảo chờ cụ một chút rồi cụ chỉ tôi xách giúp ba lon dầu, một lon dầu trộn với vôi dẻo trắng, một lon dầu đã pha màu đỏ tươi. Cụ Sắn ôm trong tay một gói bọc bằng vải đỏ điều, tôi đoán là
52
khăn áo trong đó. Cụ đi không vịn vào vai tôi mà còn chỉ đường, chỉ ngõ cho tôi không qua eo mé núi vì có nhiều đá hàu mà đi tắt ngõ truông dâu, xuống dốc bà Quạng rồi ra thẳng cồn.
Vừa ra đến cồn, bỗng tôi lóa mắt. Khói trắng bay cuồn cuộn từ trong những đống lửa xếp theo hình trôn ốc để hun thuyền nằm rải mé bãi. Từ trong làn khói trắng, thỉnh thoảng những ngọn lửa màu vàng cam, màu vàng nghệ của loại củi hái ở Côn Đảo về cứ làm cay xé ở sống mũi. Những ánh lửa chập chờn trong nắng biển sao giống một thứ màu đậm nhạt của ngọc trai sáng láng. Cụ Sắn bảo tôi đặt ba lon dầu xuống bên chân cụ, cụ mở gói lấy ra ba cây bút lông to bằng ngón chân cái người lớn, rồi cụ mặc chiếc áo dài lỡ đã cũ thành màu lòng trứng. Đứng trước cụ là một dãy thuyền vừa đóng xong, đang hun, đặt trên giá gỗ, giá tre, tôi đếm chẵn tám chiếc. Hơi lửa, hơi nắng đã già làm nhả ra mùi dầu, mùi nhựa của tám chiếc thuyền mũi day về phía biển, phía sau là những ngọn núi nằm soải mình. Người đứng xung quanh cụ đông đặc.
Cụ Sắn bước tới đúng vị trí chiếc thuyền thứ nhất đầu dãy, tôi liền đứng sát bên cụ. Tôi theo dõi bàn tay cụ đặt vào be, gang ra hai ngón để đo, hai ngón tay thật dài để móng trắng được chuốt thuôn thả, ba cây bút lông cụ để chụm lại dựng thẳng. Xong đâu đó cụ vẫy bút đưa đúng vào be chỗ đã đo gang ước tính. Cứ thế, đầu ngọn lông đi thật nhẹ, hai con mắt cụ cứ hướng lên
53
trời như để nghe những nét vẽ đi êm ru của cụ. Ngòi bút lông đi tới đâu, đường cong, được thẳng, dấu chấm màu trắng, dấu phẩy màu đen hiện lên cồm cộm tới đó, trên cái nền màu đỏ hình lưỡi gươm được cách điệu. Phút chốc con mắt thuyền nổi rõ, ghếch theo hướng mũi con thuyền. Tiếng nhiều người đứng ở phía sau như nhắc nhau, chuyền đi một điệp khúc:
- Con mắt cá đao... Con mắt cá đao... Con mắt cá đao... Con mắt cá đao...
Đây là con mắt của một loài cá ở dưới biển sâu, thường trong sóng lớn gió to thì xuất hiện. Nó bay ngang, bay dọc, lao vào dùng thân mình như một cái đao lớn chém sả vào loại cá mập đang chực nuốt những đàn cá nhỏ. Trừ cá voi mà dân biển gọi là cá thần, là bạn thân luôn đi bên cạnh thì các loài cá lớn ăn tạp khác, cá đao không nể một con nào. Thỉnh thoảng cha tôi kể điều đó như một truyền thuyết về cá đao. Nay nhìn con mắt cá cụ Sắn vẽ sao mà linh lợi, vạm vỡ nhìn thẳng phía trước. Có lúc tôi như thấy con mắt cá của thuyền quay nhìn vào cụ Sắn, soi rọi vào hai mắt mù của cụ để rồi đặt vào đó cái nhấp nháy như ngọn lửa. Vẽ xong, cụ Sắn đứng đối diện với con mắt thuyền, hai con mắt cụ vẫn lặng im nhưng có một cái gì ấy đang cháy ở trong. Có lúc tôi cố nhón chân lên nhìn, hình như cụ thấy rõ hết bên trong con mắt thuyền mình vừa tạc – con mắt như mắt người hiền lành nhưng dám chém sóng, chém gió. Người đứng xung quanh cụ vẫn im lặng, tôi nghe rõ
54
mùi mồ hôi biển, cuồn cuộn những bắp tay, bắp ngực cồn lên và mắt họ nhìn như đang gặp con mắt thuyền của mình. Và phía sau lưng cụ Sắn, lửa hun thuyền vẫn thành ngọn, đôm đốm như hoa xòe rừng rực cháy làm bóng cụ Sắn lung linh. Con mắt thuyền nhìn vào lửa động đậy, nhấp nháy.
Tôi vẫn đi theo bên cụ, có lúc tôi nghe trên vai mình có bàn tay cụ Sắn đặt nhẹ thật ấm nóng. Cũng có lúc tôi nghe năm ngón tay cụ bấu mạnh như định nói với tôi một chuyện gì, nhưng rồi lại thôi. Xong chiếc thứ nhất, đến chiếc thứ hai, thứ ba... Hết hàng phía bên này cụ Sắn và dòng người rùng rùng chuyển sang phía bên kia be vẽ tiếp.
Chiều xuống, gió biển thổi vào lồng lộng làm mấy ngọn lửa hun thuyền bắt đầu nổ tí tách như pháo. Vài cơn nóng rưng rức từ trên hòn núi có tượng người đứng giăng hai tay ùa xuống làm dậy lên cái oi bức, ngột ngạt, cái oi như khều từ lửa ra rồi ném vào từng người. Cụ Sắn từng chặp rũ rũ tà áo dài như để đuổi cái oi xung quanh. Có tiếng người nói ở phía sau:
- Chúng cháu quạt cho cụ Hai mát nhá?
Cụ Sắn vẫn đưa ngòi lông của mình lướt đi, giọng cụ thật nhẹ:
- Khỏi... Khỏi. Nhờ cái oi này làm mắt thuyền hong màu, bền nét đấy!
Tôi như bị những con mắt thuyền hút lấy nên không biết gì là cái nóng cái oi bức. Những giờ tập vẽ ở trường
55
đã làm tôi mê rồi, cái mê mà cha tôi cứ bảo tôi có máu họa sĩ, nhưng nhìn bàn tay cụ Sắn vẽ lại làm tôi cứ bất ngờ, cứ tưởng là không thật. Đến khi mười sáu con mắt thuyền đã hiện hình hai bên thì tôi bắt đầu bỡ ngỡ, ngạc nhiên kỳ lạ. Mười sáu con mắt, con nào cũng như con nào không chệch một dấu, không khác một nét, cũng cùng một khuôn đúc ra, con mắt nào cũng hiền lành nhưng cũng linh lợi và táo bạo. Thú thiệt, sau khi đi một lượt hai bên be, đo từng con một, đứng ở đầu mũi dãy thuyền, ôi chao, mười sáu con mắt thuyền, một lần nữa tôi như không tin đấy là chuyện thật. Và cụ Sắn nữa, đấy có phải là cụ Sắn thật không?
Tôi đi lại đứng sát bên cụ, rụt rè cầm lấy bàn tay cụ: - Ông Hai ơi, xưa nay ông vẫn vẽ hình những con mắt thuyền này à?
Và tôi nghe bàn tay cụ Sắn thật sự để hẳn lên vai tôi, chiếc bút lông màu đỏ cụ giắt lên vành tai, mắt cụ nhướng nhướng mấy cái, cụ không nói gì. Lâu nay có nghe cụ Sắn nói gì đâu, vậy mà tôi dám hỏi cụ, tôi nghĩ mình cũng táo tợn thật. Lúc ấy thật sự, tôi hơi sợ. Nhưng... bỗng giọng cụ Sắn trầm trầm... Lần đầu tiên nghe cụ Sắn nói nên mọi người đứng vây lại, lắng tai nghe. Gió vẫn thổi lồng lộng. Sóng ồ ạt từng chặp vỗ vào bờ không dứt. Nắng chạy cuốn chiếu từng cơn trên bãi trắng.
Bàn tay cụ Sắn vẫn trên vai tôi, chiếc áo lỡ dài màu lòng trứng được gió thổi bay phần phật. Giọng cụ Sắn
56
không to nhưng át hẳn tiếng gió, tiếng sóng, tôi nghe rõ từng lời:
- Trong đời vẽ mắt thuyền, những gần mười bốn năm nay, con mắt thuyền này mới thật của ông, cháu à! Và bắt đầu một câu chuyện kể thật dài, nhiều chỗ xúc động cụ Sắn ngừng lại nhướng nhướng đôi mắt. Người đứng vây xung quanh im lặng xúc động theo. Năm đó là năm 1974, cách đây đã gần mười bốn năm rồi, cũng vào một buổi trưa như hôm nay. Buổi trưa đó có nhiều ngọn gió muối và nắng muối của tiết trời tháng chín. Ngồi trong nhà nghe nhiều ngọn dừa, ngọn phi lao cháy sém, khô rào rạo như lửa đốt. Vài mươi năm lại có những ngọn gió muối, nắng muối đến với vùng biển Vũng Tàu như vậy đấy.
Ông đang nằm trong chiếc chòi rách nghe gió tước lá khô trên mái thì một tốp lính ngụy xộc vào, dựng thẳng ông dậy bảo đi. Ông hỏi bọn chúng đi đâu, đi làm gì, bọn lính không nói chỉ lôi tay ông ra khỏi lều nhỏ. Ông rụt tay lại, mặt ngước thẳng lên trời, hai chân đứng lại, ông nói:
- Cái nghề vẽ mắt thuyền của tôi không được để cho ai nắm tay dắt. Tôi mù nhưng đi một mình được! - Ông biết đường ra cồn Quắn chớ? – Một tên trong bọn có giọng nói lơ lớ pha Bắc lẫn Nam hỏi. - Đường ngõ nào của quê tôi, tôi cũng đi được! - Ông chưa nói hết câu, hai chân đi thẳng tới để tỏ ra chúng biết ông không mù trong cái bụng của ông. Trên đường
57
đi, bọn chúng nói cho ông biết là đi ra cồn để vẽ mắt cho một chiếc thuyền. Lúc ấy đang đi ông cứ phân vân mãi. “Sao lại vẽ mắt cho một chiếc thuyền?” “Vẽ để làm gì?” “Sao bọn lính ngụy lại bắt vẽ mà không báo trước cho ông biết?”. Phân vân nhưng ông vẫn cứ đi vì bọn chúng đi kèm bên, nếu mình không chịu bọn chúng không để yên đâu. Cuối cùng ông nghĩ chắc chắn có chuyện gì đây, nhất định không có lợi cho cách mạng.
Trong lúc chưa hiểu phải làm như thế nào, ông suy nghĩ đắn đó mãi. Vẽ mắt thuyền thì dễ thôi, mắt thuyền của ông vẽ đã thành dấu riêng, thành quen thuộc của đất biển Ô Quắn này, cả Vũng Tàu này. Đó là con mắt thuyền hình cá rựa từ đời ông cố đến đời ông, đời cha, nay đến đời ông chuyên cầm bút lông vẽ không bằng hai mắt nhìn. Con mắt thuyền hình cá rựa dù có đi trăm sông nghìn bến cứ nhìn vào hai mắt bà con làm biển cũng nhận ra là thuyền Vũng Tàu của mình. Đấy là con mắt thuyền ông vẽ bằng tấm lòng thể hiện rõ sự lương thiện, sống biết làm ăn ra sóng vào gió, sống có nghĩa có tình, đi hay đậu con mắt chỉ biết nhìn về phía trước... Vậy mà bây giờ bọn lính bảo ông vẽ hai con mắt thuyền ấy, con mắt của quê hương xứ sở, con mắt của tấm lòng bao đời nay của ông sao? Và cứ thế, ông đang dùng dằng đi hay không, vẽ hay không vẽ thì có tiếng gọi từ trong ngõ đầu truông Dâu ơi ới, ơi ới nghe thật khẩn thiết:
- Ông Hai ơi, ông Hai... cháu mang cho ông mấy lon dầu sơn!
Đúng là tiếng trẻ con, nhưng không phải trẻ con ở đất
58
Ô Quắn này. Ông biết ngay tiếng đứa trẻ đang gọi đó không phải con cháu trong xóm này. Ông đang nghĩ như vậy thì có một cháu bé đi sát bên ông, từng chặp cầm tay ông như đã quen biết. Đi được một lát, bỗng cháu bé níu lấy ông như nhủ ông đi thật chậm. Ông biết hình như cháu bé đó có chuyện gì muốn nói. Ông nghiêng tai xuống chờ đợi. Không đợi ông chờ lâu, cháu bé nói nhỏ vào tai ông từng tiếng thật rành rọt:
- Ông Hai ơi, ông đừng vẽ giống những con mắt thuyền lâu nay ông vẽ... - Ông bỗng rùng mình, trong ông như lặp lại “đừng vẽ giống những con mắt thuyền lâu nay ông vẽ...”. Bàn tay ông như run run, hai bàn chân ông đi như không muốn vững nữa. Cái nghề của ông chỉ cho người ta ra sóng gió, cái sống của con người thật nhỏ nhoi đứng trước mênh mông hiểm họa nên ông hành nghề bằng tấm lòng sáng trong. Vậy mà hôm nay một chú bé ở đâu đến lại bảo ông vẽ khác đi. Vậy là như thế nào? Năm ngón tay ông bấu mạnh xuống vai đứa bé để xem có phải người thật hay không phải người. Người thật mà, da thịt cháu bé nóng ấm, xương vai cháu bé non nớt mà. Trong khi có tiếng chân bọn lính nghe cách xa ông một chút ở phía sau thì cháu bé nói thật nhanh để ông biết:
- Các chú bảo chiếc thuyền mà bọn chúng bắt ông vẽ sẽ bơi vào cơ sở của ta đấy, chúng đánh lừa các chú đấy, ông à! Ông có nghe cháu nói không?
Như biết ông phân vân, ngần ngại, cháu bé cầm chặt tay ông.
59
- Ông ơi, ông phải vẽ hai con mắt thuyền hình cá đao, hình cá đao để các chú dễ nhận ra. Ông nghe cháu nói chứ? Đấy là dấu hiệu riêng của các chú ông à!
Bao nhiêu đời nay, ông chỉ vẽ mắt thuyền hình cá rựa, bây giờ vẽ hình cá đao là như thế nào. Trong đầu ông lúc này như một câu đố, một bí mật mà ông không thể giải nổi. Giọng cháu bé lại thủ thỉ bên tai ông:
- Ông ơi, ngòi lông của ông chỉ kéo dài hai đường vòng ở góc là thành đuôi mắt tròn thôi ông à! Ông đừng lo, có cháu đứng bên ông mà!
Chỉ một câu nói mà như cháu bé thật thạo nghề? Lại một câu hỏi trong ông nữa. Thôi được, chỉ cần tin ở các chú đã báo là tin được điều cháu bé đã nói. Cháu bé vẫn đi bên ông, và lúc này ông cảm thấy rất cần cháu ấy ở bên ông.
Cồn Quắn hôm đó vắng tanh, không nghe thuyền về, không nghe tiếng người như mọi ngày mà sao sóng vỗ vào bãi nghe cũng nặng tiếng hơn, gió muối đi qua trên đầu cồn Dâu nghe vi vút. Cồn Quắn trong mắt ông cháy bỏng mênh mông. Hai con mắt ông nhìn lên nhướng nhướng bắt hướng và đi thẳng đến một chiếc thuyền đặt trên giá những cây sắt, những thanh tà vẹt. Ông chưa vội lấy ba cây bút ra mà trong ý nghĩ cứ day dứt khó chịu, thuyền mà đặt trên cây sắt, cây thép thì khác nào đặt trên cây súng trái bom.
Lúc bấy giờ bọn lính đứng vây sát vào ông, ông nghe rõ nồng nặc mùi rượu, mùi la-de thở phả vào mình. Cái
60
khó chịu làm ông cảm giác như mùi tanh của thú rừng. Bên ông, vẫn cháu bé nhỏ nhoi tay xách ba lon dầu, bàn tay thỉnh thoảng cạ cạ vào chân ông. Ông hiểu cái cạ cạ và im lặng của cháu như một cái ngòi nổ đợi châm lửa. Ông đưa hai bàn tay vào be, gang ra hai ngón để đo, rồi thật nhanh ông rút tay lại, mặt vẫn ngước lên trời nhưng giọng nói thì như để nói cho bọn lính nghe:
- Hà, thuyền cỡ một trăm tay chèo... Nặng đấy... Mắt thuyền vẽ phải to (ông tránh nói phải vẽ khác). Ông nghe rõ tiếng bọn lính xầm xì: “Chà, ông già mù mà đo thật đúng”. Có một thằng trong bọn lên tiếng: - Vẽ to thì to nhưng không vẽ khác chớ ông già? - Đã là to thì hình phải to, nét phải lớn, sao các ông không biết gì nghề nghiệp? – Nghe ông nói, bọn lính cũng im re, ông nghĩ “bọn này cũng chẳng biết gì”. Ông nghe bàn tay cháu bé cạ cạ vào chân, ông hiểu ý nhưng vẫn im lặng. Ông lấy trong túi ra chiếc bút lông chấm vào lon dầu pha vôi trắng dẻo rồi đưa lên ngay chỗ ngang hai ngón tay đã đo, đưa qua đưa lại mấy cái để “điểm nhãn”. Độ một chút, mặt ông ngẩng lên trời, giọng ông thong thả, chắc nịch:
- Khi tôi vẽ, các ông lui ra, chỉ cháu bé ở lại với tôi thôi.
Bọn lính miễn cưỡng lui ra rồi đứng tản mát nhưng mắt vẫn nhìn chăm chăm vào mũi chiếc thuyền điểm ông già sắp vẽ. Cháu bé lại đứng dưới cánh tay ông, hai mắt hướng lên cây bút lông cứ ngập ngừng, chậm chạp của ông Hai Sắn.
61
Trên đỉnh ngọn núi Lớn nhiều cơn chớp trắng kéo dài ra tận biển, nếu tính thời gian thì cũng đã lâu, vậy mà bút lông của ông vẫn chưa chấm xuống be thuyền. Hình mắt cá đao sao cứ chập chờn, ảo ảnh không rõ ràng trong tâm trí ông. Trong đời làm nghề vẽ mắt thuyền, cùng một lúc ông vẽ hằng mươi con mắt mà ông vẽ thì chỉ điểm nhãn một lần. Vậy mà hôm nay sao bàn tay như run rẩy, níu kéo, chập chà chập chờn – phải chăng một cái gì lớn quá, mới quá đang chờ đợi ở ông, tin cậy ở ông. Mắt cá đao... Mắt cá đao, như nhắc trong ông, và cứ thế trong mắt ông thật sâu như nhìn thấy được một điểm sáng mới vừa lóe. Thế là ngọn bút lông của ông chấm xuống điểm của đôi mắt thuyền và định kéo dài thành một vệt ngang... Bỗng dưới cánh tay ông tiếng cháu bé chậm rãi nhắc:
- Ông Hai, vệt cong cứ đi tới ba lóng tay rồi mở ra tròn dần...
Ngọn bút lông của ông lướt nhẹ thành một nét thật nhanh, thật nhẹ đi như một kẻ chỉ. Lại tiếng cháu bé nhắc tiếp:
- Ông Hai, đuôi phía mũi hình tròn chén, ba nét chồng lên nhau thật đậm, thật mạnh, phía dưới có đường mi bằng nửa lóng tay...
Ngọn bút lông của ông như được mở ra, bàn tay ông như được có con mắt nhìn thấy từng nét đậm nhạt, từng đường cong thẳng, từng dấu ngang dọc. Hai con mắt ông vẫn hướng lên trời nhướng nhướng bắt cái “thần”
62
trong lời cháu bé nhắc. Đến khi ngọn bút lông của ông về khép góc thì toàn bộ những đường nét dựng lên hình con mắt thuyền sắc sảo, linh lợi nổi dợn thật rõ ràng. Lúc này trong mắt ông, hình con cá đao cồm cộm cựa quậy sống như thật. Cây bút vẫn còn trong tay ông chưa muốn giắt vào vành tai, người ông cứ bàng hoàng vì không tin mình vẽ. Không, cháu bé cầm tay ông để vẽ đấy chớ. Không, tất cả đường nét và hình dạng đều của cháu bé mà. Đến khi cháu bé dưới cánh tay ông nói: “Ông Hai, ông vẽ tài lắm, đúng là mắt cá đao, các chú sẽ nhận ra ngay...” thì ông như chợt tỉnh, giọng ông nói thật rõ ràng:
- Cháu cầm tay ông để vẽ đấy chớ!
- Ông nói gì vậy, ông Hai?
- Cháu cầm tay ông để vẽ mà! Ôi, đúng là mắt cá đao...
Ông cứ đứng như vậy, mặt ngẩng lên trời, hai con mắt đã bắt hướng ý nghĩ bên trong cứ lóe sáng, “mắt cá đao phải là con mắt của biển, không có con mắt cá nào thay được. Vậy mà lâu nay mình không nghĩ tới...”. Năm ngón tay ông bỗng bấu mạnh vào vai, một giọt nước mắt trong veo từ trong mắt ứa ra, giọng ông như muốn khóc:
- Mắt cá đao... Mắt cá đao... Ôi, cảm ơn cháu... Trong khi đi lần qua bên kia be để vẽ con mắt thứ hai thì ông bằng năm ngón tay nhạy cảm đã dò biết chiếc áo mỏng vá vai của cháu bé, mặt cháu bé tròn trĩnh, trán dồ, tai to thòng, mồm rộng, môi trên hình trái tim. Ôi chao, một chú bé quí tướng, quí nhân. Đứng bên kia be,
63
biết bọn lính đứng lấp hẳn chiếc thuyền, ông nghiêng tai xuống hỏi nhỏ:
- Cháu tên là gì?
- Cháu là Út Ba.
- Ba má cháu?
- Ba cháu mất sớm, cháu mồ côi từ nhỏ.
- Cháu sống với ai?
- Các chú nuôi cháu từ nhỏ.
- Quê cháu không phải ở Vũng Tàu chớ?
- Cháu ở Rạch Ông Sài Gòn... Nay cháu đi theo các chú hoạt động ở Vũng Tàu.
Hiện lên trong ông một Rạch Ông bến tấp nập thuyền, tàu, hàng trăm loại mắt thuyền của tứ xứ anh chị, một Rạch Ông có thuyền chiến của vua Quang Trung về đậu, thuyền buôn Tây, Tàu cập bến. Và bây giờ có những tàu, thuyền của ta từ “ngoài kia” về nằm lẫn với vạn thuyền...
- Sao cháu biết ông mà tìm đến?
- Cháu có công việc ông à!
- Vẽ xong mắt chiếc thuyền, chúng sẽ vào đâu cháu? - Chúng sẽ vào eo biển Lương Sơn, ông à! - Lương Sơn... Lương Sơn... Ông hiểu cháu à! Con mắt thuyền thứ hai đã nhập vào ông, ông vẽ khá
nhanh, không đầy nửa điếu thuốc hút. Vẽ xong hai con mắt ông vẫn nhướng nhướng lên trời để nghe hai con
64
mắt thuyền mà bàn tay ông cầm bút còn cái “thần” là của cháu bé có tướng quí nhân đang nhấp nháy, linh lợi nhìn về phía eo núi biển... Ông vừa giắt chiếc bút lông lên vành tai thì bọn lính đã áp vào nói như thét:
- Ông già có cần bọn tôi đưa về không?
- Khỏi, khỏi... đã có cháu bé đi với tôi rồi! - Ông nói giọng tỉnh khô, mặt vẫn ngẩng lên trời, hai bàn chân ông bấm xuống cát, tai ông lắng nghe có hai bàn chân thật nhỏ bước trong cát thật êm đi bên ông.
Chiều hôm sau, hôm sau nữa, ông ngồi trong chòi lắng nghe chiếc thuyền có hai con mắt hình cá đao đang đi vào một chiếc lạch có độ sâu, hai bên rặng mắm lưu niên bạt ngàn gió, bạt ngàn loại chim cò làm tổ. Qua khỏi lạch, qua khỏi khe nước chảy ngược ra biển đến chỗ núi khúc khuỷu co thắt, sóng vỗ hai bên, gió lộng thổi như huýt gió trên đầu qua những đỉnh nhọn chơm chởm. Đường vào eo như ruột heo. Ngồi ở đây ông vẫn nghe rõ ràng trong nhiều đoàn thuyền có con mắt hình cá rựa đi qua có một chiếc thuyền mắt hình cá đao đang lầm lũi lì lợm đi sâu vào theo cái “điểm đỏ” đã định. Từ trong phía Lương Sơn, “các chú” ấy đã bắt được hai con mắt thuyền hình cá đao đang nhấp nháy và trên thuyền một trăm tay chèo cũng là một trăm thám báo biệt kích mặc ngoài quần áo bà ba đen của người Vũng Tàu đi làm biển mà bên trong là bộ quần áo rằn ri vện rằn, cọp rằn. Và ông nghe rất rõ người ngồi trước mũi thuyền thi hành lệnh chỉ đường là chú bé Út Ba. Cứ từng chập, ông vừa
65
nghe vừa như nín thở, hai mắt thuyền hình cá đao cứ nhấp nháy cháy sáng trong ông, ba cây bút lông ở trong bàn tay ông như ba ngọn tầm vông năm nào trong tay hòa vào trong đoàn người cách mạng tháng Tám. Buổi chiều hôm đó, ông cứ ngồi thật lâu để nghe, hai con mắt cứ nhướng nhướng không nhìn lên trời mà nhìn ra phía trước để bắt hướng gió, bắt nguồn tin.
Đến chạng vạng, gió muối vẫn xao xác, nhiều cánh dơi biển bay về đập cánh vào cửa phên như có bàn tay gõ cửa không dứt. Ông cũng chưa cơm nước gì, vì ông biết chiều nay ông có tin... Và có tin gọi cửa, tim ông như ngừng đập; chiếc thuyền có hai con mắt hình cá đao đã bị các chú chôn trong lòng xoáy của thủy triều lên... Và Út Ba vĩnh viễn không trở lại với ông như nó đã hẹn.
Ba cây bút lông đã gãy làm đôi trong bàn tay ông lúc nào không biết. Cứ thế ông ngồi lặng lẽ và nhiều dòng nước mắt cũng lặng lẽ từ trong hai hốc mắt sâu thẳm chảy ra. Trong mắt ông cứ từng lúc hình ảnh một cháu bé cầm bút lông thành người thợ vẽ mắt thuyền, cứ từng lúc hình ảnh một cháu bé hai bên vai có gắn hai mắt hình cá đao sáng rực trên biển ẩn hiện chập chờn. Cuối cùng, một khuôn mặt ngây thơ, tròn trĩnh, trán dô, tai to thòng, mồm rộng, môi trên hình trái tim áp trong bàn tay ông. Trong chiếc lều rách, tiếng chào ông ra đi của nó đã thành mờ ảo, ẩn kín tận trong đáy tâm trí cùng với tiếng gọi của ông “Út Ba, Út Ba” mới dứt.
Trong câu chuyện ông kể, tôi nhớ mãi giọng ông như
66
có tiếng khóc bên trong. Còn người đứng vây quanh ông thì im lặng, đến khi hai bàn tay ông ôm bọc gói vải đỏ điều thì có tiếng nhiều người như bỡ ngỡ hỏi ông:
- Ông Hai, mắt thuyền ông vẽ lâu nay là mắt hình cá đao đấy chớ?
- Chỉ có con mắt cá đao mới ra sóng, ra gió, con mắt nhìn thấy chiến công, nhìn thấy mùa cá lớn... - Giọng cụ Hai Sắn trầm trầm xúc động.
Trong lúc mọi người quay nhìn lại mười sáu con mắt thuyền mới tinh để nghĩ đến mùa cá lớn vụ tới vẫy gọi ngoài biển xa thì trong tôi hiện lên hình ảnh Út Ba – người bạn đã ngã xuống bằng lứa tuổi mười ba của tôi bây giờ. Bỗng nhiên mười sáu con mắt thuyền thành mười sáu vầng sáng rung rinh sống động.
Năm ngày sau, mặt trời lên khỏi biển như một đóa hoa. Trên mé bãi, tám chiếc thuyền xếp hàng ngang đợi lệnh. Bà con xóm Ô Quắn của tôi đã ra đứng chật cồn để tiễn đoàn thuyền.
Dứt hồi trống và một hồi ốc biển tu... tu... tám người trai lực lưỡng đưa rập mái chèo xô sóng về phía sau như nghiêng biển. Một chốc sau, máy của tám chiếc thuyền xịch xịch nhả khói. Mười sáu con mắt thuyền hình cá đao phóng ánh sáng từng luồng về phía trước.
Đứng bên cha tôi tiễn đoàn thuyền ra khơi, nhìn thấy mắt người nào cũng có niềm vui, tôi lại nghĩ đến cụ Hai Sắn ở nhà cũng đang nghe đoàn thuyền đi trong
67
mùa đầu vụ. Tối hôm qua sang nhà, thấy cụ uống ngụm rượu Nàng Hương, hai mắt hướng lên trần nhà để nghe những trận gió mùa lật ồ ạt từng đám lá dừa, sao giống như lúc cụ đang đứng vẽ mười sáu con mắt thuyền. Hình như lúc nào hai mắt cụ cũng để lên bầu trời tìm hướng sóng, hướng gió, hướng đi cho đoàn thuyền... Sáng nay cụ Hai Sắn không ra cồn nhưng hai mắt cụ ở nhà vẫn tìm hướng... Vì vậy đoàn thuyền đã đi xa rồi mà tôi vẫn như nhìn thấy mười sáu con mắt thuyền nhấp nháy, sáng trưng. Nắng lên vàng hết dãy đảo, thỉnh thoảng vài cơn chớp trắng như có ai lia ánh sáng phía chân trời biển. Chốc chốc mười sáu con mắt thuyền được tia chớp lóe lên sáng rực. Tôi bất chợt hiểu ra một điều: Đôi mắt của cụ Hai Sắn chính là những con mắt thuyền, những con mắt dám vượt qua sóng gió tìm đến những nơi có nhiều tôm cá. Và giữa mênh mông sóng nước, những con mắt đó biết tìm đường trở về.
68
Nguyễn Trí Công
Nhà văn Nguyễn Trí Công (tên khai sinh cũng là bút danh), sinh ngày 7-2-1954 tại Mỹ Phước, Châu Thành,
Long Xuyên. Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm và Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Sau một thời gian dài trực tiếp đứng lớp ở Nhà Bè, ông chuyển về làm công tác biên tập cho Nhà xuất bản Măng Non (nay là Nhà xuất bản Trẻ).
Hiện nay ông là Trưởng ban biên tập Sách tham khảo của NXB Trẻ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính đã xuất bản:
● Cầu thủ bị treo giò (in chung) ● Ông thần đất
(in chung) ● Vai chính một vở kịch (in chung)
● Cô giáo Thủy ● Miếu âm hồn ● Cô bé khéo tay ● Sự tích lông nhím ● Cầu vồng (kịch bản hoạt hình) ● Bí mật khu rừng cấm ● Nhật ký buồn cho Hải Âu ● Dũng Sài Gòn ● Như truyện cổ tích
● Nước mắt muộn màng ● Quà tặng của Hà Bá
● Người nông dân mưu trí ● Xóm lò heo
● Ván cờ đầu xuân ● Chiếc túi hạnh phúc...
Ngoài viết văn xuôi, truyện tranh ông còn là
một tác giả chuyên viết kịch bản phim truyện
cho thiếu nhi có uy tín.
69
Ông đã được tặng thưởng:
● Giải B Văn học thiếu nhi do Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng năm 1991-1992 với tác phẩm Dũng Sài Gòn. ● Giải khuyến khích cuộc thi Sáng tác văn học cho trẻ em do Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam - Unicef (Hà Nội) và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức năm 1994. ● Giải B Tác phẩm tuổi xanh do Tạp chí Tuổi Xanh trao tặng năm 1994.
Nguyễn Trí Công là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi khá thành công. Ông có một vốn hiểu biết phong phú về miền đất phương Nam và về tâm sinh lý của trẻ em Nam Bộ. Văn phong của ông giản dị, mộc mạc nhưng không kém phần sâu lắng. Các tác phẩm của ông rất được trẻ em yêu thích.
70
Nhà thiện xạ lớp 6B
Thi chuyển cấp từ cấp một lên cấp hai, thằng Hoàng
đạt điểm 20, một số điểm cao tuyệt đối khiến cha mẹ và cô chủ nhiệm lớp 5 của nó rất hài lòng. Thằng Hoàng được ba má nó thưởng một chuyến nghỉ hè ở Vũng Tàu đầy thú vị ở nhà chú ruột là chú Thanh, chả là gia đình chú Thanh đang sinh sống ở Vũng Tàu mà.
Bước vào năm học mới, thằng Hoàng được học lớp 6B, đó là một lớp toàn những học sinh thi đạt loại giỏi nên mới được Ban giám hiệu xếp học chung nhau. Với quyết tâm đi nghỉ hè ở Vũng Tàu một lần nữa nên thằng Hoàng cố gắng học ghê gớm. Và có sự cố gắng nào mà không đem lại kết quả bao giờ, cho nên thằng Hoàng nghiễm nhiên đứng nhứt lớp. Lại một thành tích học tập tốt khiến thằng Hoàng được ba má nó hết lời khen
71
ngợi và ông bà rất hãnh diện với bạn bè, người thân về con của mình.
Trong lớp 6B của thằng Hoàng có một cậu bé khá lạ lùng. Cậu bé tên Toàn. Thằng Toàn học vào loại “thường thường bậc trung”, chả có gì xuất sắc cả nhưng không hiểu tại sao lại lọt vào cái lớp 6B toàn những tinh hoa học tập cả. Chết một cái là thằng Toàn lại được xếp ngồi chung với thằng Hoàng và chỉ vài tháng sau thằng Hoàng bỗng được các bạn trong lớp tặng cho cái biệt danh hết sức lạ lùng: “Nhà thiệt xạ lớp 6B”. Và cũng vì cái biệt danh đó, từ hạng nhứt, hằng Hoàng nhảy xuống hạng bét khiến ba má nó và thầy cô hết sức bàng hoàng...
Số là như thế này, thằng Toàn là một cậu ấm, quí tử của một gia đình rất giàu có cho nên nó luôn luôn có tiền rủng rỉnh trong túi khi đi học. Và mỗi khi tan trường, chẳng bao giờ thằng Toàn về nhà ngay mà cu cậu rẽ vào một căn nhà gần đó. Căn nhà này luôn luôn có mặt những đứa học trò học dốt nhưng lại mê chơi trò chơi điện tử. Ở đó, tất cả các “tay chơi” có thể cho Rambo uýnh nhau thoải mái, thụt bi-da tưng bừng và hàng tá những trò chơi khác. Các tay chơi có thể chơi bao lâu tùy thích, miễn là trả tiền giờ đủ cho ông bà chủ là được. Thằng Toàn là một trong những khách hàng quen thuộc của tụ điểm chơi trò điện tử này. Nó có thể ngồi lì trước ti vi hàng mấy giờ liền để cho Rambo uýnh nhau mà không chán. Có lẽ vì mắc lo làm ăn nên ba má
72
thằng Toàn cũng chả quan tâm gì tới chuyện đi sớm về trễ của con nên thằng Toàn cứ chơi thả cửa, chơi cho khi nào chán thì thôi.
Thế đấy, vì là một “đệ tử” trung thành với trò chơi điện tử nên thằng Toàn cũng muốn có bạn chơi chung cho vui. Thụt bi-da mà thụt một mình thì buồn chết, phải có hai người cùng “bấm máy” thì mới có ăn thua, có thú chớ. Thế là thằng Toàn bèn rỉ tai thằng Hoàng:
- Mầy biết chơi trò chơi điện tử hông?
- Trò chơi điện tử hả? Tao thấy ở xóm tao tụi nó cũng hay chơi lắm. Nhưng tao còn mắc học!
- Học quái gì! Cho mày hay, chơi trò chơi là một cách “rèn luyện” tay chưn, còn phải “động não” nữa đó. - Ai nói với mày vậy? – Thằng Hoàng thắc mắc. - Xời! Ba má tao nói chớ ai. Thế giới người ta cho trẻ em như mình chơi rầm rầm. – Thằng Hoàng bốc phét. - Vậy à? Vậy mà tao hổng biết! Tao sợ chơi nó rồi ảnh hưởng tới việc học.
- Mày chơi thử đi thì mày mê ngay! Lát nữa tan học tao mới mầy đi chơi nhé. Tao bao cho, có mấy ngàn bạc, nhằm nhò gì. Chơi thử nghen!
- Ờ! Thử thì thử!
Thế là sau buổi học ngày hôm đó, thằng Toàn đưa thằng Hoàng ghé vô tụ điểm trò chơi điện tử quen thuộc. Và quả thật, trò chơi điện tử có sức hút còn mạnh hơn nam châm mạnh nhứt, có ma lực quyến rũ còn mạnh
73
hơn cả phép tắc của mụ phù thủy trong truyện cổ mà thằng Hoàng từng đọc. Nó mê man với Rambo, thụt bi-da tính điểm với thằng Toàn không chán và cái trò chơi mà nó khoái nhứt là bắn vịt trời, bắn đĩa.
Trời ơi! Trên màn hình hiện ra một chú chó vừa đi vừa ngửi, rồi chú chó nhảy xổ vào bụi và từng con vịt trời bay lên. Ngồi ở trước màn hình, thằng Hoàng thủ sẵn khẩu súng điện tử và hễ chút vịt vừa xuất hiện trên màn hình là nó bóp cò. Mỗi chú vịt như thế người chơi chỉ được bắn ba phát, hụt thì chó hiện lên cười chế giễu. Trúng thì chó hiện lên, tay (chân) giơ cao con vịt báo cho người chơi là đã bắn trúng. Bắn đĩa cũng thế. Từng cái đĩa vọt lên không trung trong màn hình cho người chơi bắn. Nhưng bắn đĩa khó hơn bắn vịt, vì khó trúng hơn. Thoạt đầu thằng Hoàng bắn vịt trật lất. Nó nổ liền tù tì ba phát mà con vịt trên màn hình cứ bay nhơn nhởn rồi biến mất để chú chó săn hiện ra cười ngạo nghễ, chọc quê nó. Thằng Hoàng tức lắm nên cứ mỗi lần “ráp” vô trò chơi điện tử là nó đòi ông chủ cho nó cuốn băng bắn vịt trời.
Thoạt đầu, thằng Hoàng còn sợ ba má biết nó chơi trò chơi điện tử nên nó không dám chơi lâu. Nhưng riết rồi quá mê chơi, nó cũng bắt chước thằng Toàn ngồi lì trước ti vi hàng hai ba tiếng đồng hồ. Khi về tới nhà, thằng Hoàng luôn có cớ để nói dối má nó: “Bữa nay con phải ở lại trường học phụ đạo!”, “Bữa nay dợt văn nghệ...”. Dĩ nhiên là ba má thằng Hoàng rất tin con. Trời! Cu cậu học giỏi đến thế kia mà!
74
Và rồi tài bắn vịt của thằng Hoàng ngày một ác liệt hơn. Chú vịt trời vừa bay ra là nó chỉ cần bấm cò mà không cần nhắm, vậy mà chú vịt trời cũng rơi tõm xuống vì phát đạn “thiện xạ” đó. Tài bắn vịt trời của thằng Hoàng ngày càng hết xảy thì điểm số các môn của nó cũng ngày càng xuống dốc thảm hại. Bài làm của nó bắt đầu xuất hiện những con số 3,5 mà ngày nào chưa bắn vịt trời nó còn chưa hề biết tới. Và kết quả cuối cùng là từ hạng nhứt nó bay vèo xuống hạng 40 trên 44 học sinh. Cô chủ nhiệm lớp 6B hoàn toàn bất ngờ trước cái thứ hạng “đột biến” kỳ quặc của đứa học sinh giỏi nhứt lớp nên lập tức thông báo cho ba má thằng Hoàng về thành tích học tập hạng bét của nó. Ba má thằng Hoàng cũng hết sức bất ngờ trước sự tụt hạng khó hiểu ấy bèn ra sức tìm hiểu nguyên nhân. Và rồi ba má thằng Hoàng, cô chủ nhiệm lớp 6B đã tìm được nguyên nhân khiến đứa con cưng, đứa học trò cưng học tập tồi như thế.
Sự việc đã rõ ràng, thằng Hoàng học tệ như vậy là do mải lo bắn vịt trời, bắn đĩa mà không chịu làm bài, học bài gì ráo. Học sinh lớp 6B cũng biết chuyện đó. Lớp trưởng lớp 6B là thằng Tuấn hỏi thằng Hoàng:
- Bắn vịt trời thì hay ho gì mà mầy mê vậy? Giờ thì lo mà học “chạy” với người ta chứ không thì học kì I này mầy còn đội sổ nữa.
- Đội sổ là thế nào? Cho mầy hay, giờ tao đã trở thành tay thiện xạ bắn vịt trời rồi đó. Giơ súng lên, “đoàng” một phát, vịt rơi ngay. Đố mày bắn được như tao?! - Lại còn “ngoan cố” nữa chứ! – Thằng Tuấn cự nự
75
– Nhà thiện xạ bắn vịt hay quá nên nhận toàn điểm 0, điểm 1. Mày mà không dẹp cái vụ bắn vịt trời thì ở lại lớp đấy. Đừng tưởng bở!
Thế là lớp 6B bèn tặng cho thằng Hoàng cái biệt danh “Nhà thiện xạ” nhưng là nhà thiện xạ chuyên săn trứng ngỗng trời, vịt trời.
Ba má thằng Hoàng thì không nói suông với nó như thằng Tuấn lớp trưởng. Ông bà cứ hết giờ học của nó là thay phiên đi rước “nhà thiện xạ” về nhà và bắt nó ngồi vào bàn học học kỳ được mới thôi. Cô chủ nhiệm cũng lập tức “cách ly” nhà thiện xạ với “Người hùng Rambo” là thằng Toàn đồng thời phân công các bạn trong lớp kèm cặp hai thằng để tụi nó theo kịp bài vở của lớp.
Nhờ những biện pháp “cứng rắn” như thế mà chả mấy chốc “nhà thiện xạ” Hoàng đã học tiến bộ thấy rõ, nhưng cái hạng nhứt ngày nào thì vẫn còn xa quá tầm tay và hãy đợi đấy.
Bây giờ thằng Hoàng đã an tâm đến lớp vì đã học bài, làm bài đàng hoàng. Và bây giờ thì nó đã hiểu rằng nó phải là nhà thiện xạ đi săn điểm 10 chớ không phải là nhà thiện xạ đi săn vịt trời. Ba má nó đã không còn phải đi rước nó mỗi ngày nữa nhưng mỗi lần cu cậu đi ngang qua tụ điểm trò chơi điện tử là cu cậu chạy như bị ma đuổi. Thế đấy, trò chơi điện tử cũng có ma lực quyến rũ lắm chớ. Không khéo rồi ra sẽ còn nhiều chú bé nữa trở thành “nhà thiện xạ” mất.
76
Trần Hoài Dương
Nhà văn Trần Hoài Dương tên thật là Trần Bắc Quỳ, sinh ngày 8-11-1943 tại Thị Cầu, tỉnh Bắc Ninh.
Quê gốc ở Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nhưng từ thuở nhỏ sống ở Bắc Giang và Hà Nội. Ông tốt nghiệp loại ưu Trường Báo chí Trung ương
khóa I, được phân công về công tác ở Tạp chí Cộng Sản từ tháng 2-1961 đến năm 1968 thì xin đi thực tế ở Trường Cải tạo trẻ em phạm pháp (Hà Bắc). Tháng 1-1970 chuyển về Tuần báo Văn Nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, là Trưởng ban Văn xuôi của tuần báo. Năm 1981, chuyển vào TP.Hồ Chí Minh, là Trưởng ban biên tập
Sách văn học của Nhà xuất bản Măng Non (sau này là Nhà xuất bản Trẻ). Ông chuyên sáng tác cho thiếu nhi.
Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên
Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính đã xuất bản:
● Em bé và bông hồng ● Đến những nơi xa ● Cây lá đỏ ● Cuộc phiêu lưu của những con chữ ● Những con đường nhỏ ● Hoa của biển ● Người tù vượt ngục
và em nhỏ trên đảo ● Lá non ● Áng mây
● Bên ngoài mái trường ● Những ngôi sao trong mưa ● Nhớ một mùa hoa thạch thảo ● Mầm đước
● Cô bé mảnh khảnh ● Nắng phương Nam
● Cỏ hoa thì thầm ● Huyền thoại hoa và chim
77
● Miền xanh thẳm ● Truyện chọn lọc Trần Hoài Dương ● Tuyển tập Trần Hoài Dương (gồm 5 tập)...
Ngoài ra còn có 5 kịch bản phim hoạt hình
đã được dựng thành phim.
Nhà văn Trần Hoài Dương đã được nhiều giải thưởng văn học: ● Giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam và Ủy ban Thiếu niên Nhi đồng Trung ương trong cuộc Vận động sáng tác cho thiếu nhi năm 1968 với tác phẩm Cuộc phiêu lưu của những con chữ
● Giải nhất về kịch bản phim cho thiếu nhi trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6 (1983) với kịch bản Bé Rơm ● Giải nhì trong cuộc Vận động sáng tác cho thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam và Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam - Unicef (Hà Nội) tổ chức năm 1994 với tác phẩm Một thoáng heo may phương Nam
● Giải A Tác phẩm Tuổi xanh do Tạp chí Tuổi Xanh trao tặng ● Giải B (không có giải A) cuộc vận động sáng tác kịch bản múa rối do Đoàn nghệ thuật múa rối TP. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2000 với kịch bản
Huyền thoại Cửu Long Giang ● Giải nhì cuộc Vận động sáng tác cho thiếu nhi của Nhà xuất bản Kim Đồng năm 1999-2000 với tác phẩm Miền xanh thẳm
● Giải B (không có giải A) Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 với tác phẩm Miền xanh thẳm.
78
Một thoáng heo may phương Nam
Kỷ niệm ngày sinh năm nay của tôi rơi đúng vào ngày
chủ nhật. Hơn nữa, lại là một ngày trở lạnh. Ở Sài Gòn này, có được một ngày lạnh như thế thật hiếm lắm. Trời nắng rất dịu. Gió phơi phới tạo cảm giác lâng lâng thư thái, chỉ muốn khe khẽ hát thầm một mình. Cứ y như là gió heo may ngoài Bắc. Phải rồi, đây chính là gió heo may phương Nam! Ai không công nhận, mặc kệ! Riêng tôi, tôi cứ gọi thứ gió đặc biệt này là gió heo may phương Nam! Lát nữa, tôi sẽ đạp xe lòng vòng qua những con đường nhỏ vắng vẻ. Tôi sẽ khoác thêm chiếc áo gió màu xanh ô-liu mà tôi rất yêu. Ngày ở Hà Nội, tôi thường mặc nó những hôm chớm lạnh. Nhưng chuyển vào đây gần một năm, chiếc áo vẫn cất kín trong tủ. Tôi
79
"""