"
Tuyển Tập Tô Hoài full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết - Hồi ký - Truyện ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Tô Hoài full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết - Hồi ký - Truyện ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
Chương1:
Chương2:
Chương3:
Chương4:
Chương5:
Chương6:
Chương7:
BA NGƯỜI KHÁC
Tô Hoài
www.dtv-ebook.com
Chương 1:
Các đội công tác vùng đồng bằng hạ lưu sông Hồng kéo về tổng kết đợt ở huyện lỵ, đông có đến cả nghìn con người. Suốt tháng triền miên nghe kể thành tích và những anh những chị rễ, chuỗi ở xã lấy lên nay đã thành cán bộ đội vừa khóc vừa nói về cuộc đời bị đày đoạ xưa kia.
Một việc tôi nhớ mãi. Có một cố nông quê huyện Nga Sơn được lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt. Anh kể lại đời anh, cả hội trường hàng nghìn người ai cũng ngậm ngùi, các chị khóc sướt mướt. Sổ tay tôi đặt trên mặt túi dết kê đầu gối mà không ghi được chữ nào. Tôi đã nghe bao nhiêu chuyện kể khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuỗi, nhưng chưa khi nào nghe choáng váng ghê rợn đến thế. Ban ngày anh đi cày, tối tắm rửa sạch sẽ rồi vào giừơng cả đêm phải ngậm bởi thằng địa. Thằng địa bị bệnh tim la, mút đến nửa đêm cũng không hết được mủ tanh nhức óc. Cả hội trường ào ào đả đảo địa chủ… gian ác… Đả đảo… Còn anh ấy nghẹn ngào nức lên không nói tiếp được nữa.
Thế nào mà anh ấy bị lây cái máu dê của thằng địa đến tận giờ. Cơm hội nghị có thịt bò, thịt lợn, lại chắm chép đâm rửng mỡ, lúc nào cũng cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau háu nhìn cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đâu đớn. Rồi bị thải hồi trả về cơ quan
huyện. Cả mấy chị cũng bị đuổi về xã. Tôi không qan tâm đến họ mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của thằng chó kia truyền sang mày, gớm cái giống chó má chết tiệt.
Tổng kết xong các đội lại đi đợt mới. Cuộc ra quân rầm rộ có xếp hàng nghe mệnh lệnh xuất kích như chiến dịch thời kháng chiến. Đợt này khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải cách thẳng, không qua giảm tô. Nhiều huyện quanh Hải phòng, ba năm trước là vùng “hai trăm ngày”, tàu hoả xuống qua ga Phú Thái đã vào sào huyệt địch còn lại, từ các nơi dồn về hàng nghìn người di cư cuối cùng chen nhau xuống tàu há mồm đi Nam.
Chúng tôi được đưa từ Thanh Hoá ra hỗ trợ chỗ khó. Công tác ở vùng thế này chắc là lôi thôi đây. Nhưng mà ở Nông Cống trong kia đội tôi đã được cờ thành tích đánh địch. Có thế mới được ra đây. Tôi cũng chẳng áy náy sao. Làm gì rồi cũng làm được thôi. Tôi đã làm hai đợt công tác, trải việc ngót một năm rồi.
Các đội ở hội nghị tổng kết ra, chia tay nhau giữa chợ huyện, đông thành mít tinh. Không đợi ô tô tải, không cần ô tô. Đội trưởng Cự đếm được đủ đầu chúng tôi mười hai người, thêm hai rễ nữa mới vào cán bộ đội, rồi Cự bắc hai bàn tay làm loa, hét to: “Lập công ngay từ lúc xuất phát. Chúng ta tranh thủ đi luôn. Ở dưới xã nông dân đang nóng lòng đội về”.
Mọi người đứng xếp hàng đôi, lưng đeo ba lô. Chúng tôi vẫn được nguyên đội ở Thanh Hoá thành tổ học tập rồi đến bây giờ đi. Đội trưởng Cự bên bộ đội sang - nghe nói là đại đội trưởng, tính quyết đoán nóng như lửa, gắt gao kỷ luật với mọi người. Cái khăn mặt bông trắng được phát từ ngày ra tập kết ở Sầm Sơn, đã cáu xỉn, mặc dầu đội trưởng rửa mặt chỉ lau chùi bằng ống quần. Tuy vậy cũng thuộc tính nhau, cứ lựa lúc người cứng thì ta mềm, dù sao cũng phải hơn phải đổi một đội lạ lẫm khác.
Thế là mười hai cái xe đạp - hai đội viên khác không có xe, không biết đi bằng cách nào. Tôi đạp xe lúc đường nhựa, lúc bờ đê, lù rù mò suốt đêm. Bóng tối có phần dịu. Đến lúc trăng lặn, nhấp nháy ánh sao đằng trước, tôi phanh khuy áo ngực, căng mắt dấn phăng phăng. Gần sáng, mắt như quáng gà. Đã sang đến đường 5, lổn nhổn dấu hầm hố của du kích đào đường. Có nơi còn lại cả mìn - nghe nói thế. Không biết có phải vì tinh thần hăng hái đã làm nhãng ngay cái vất vả, xe với người chẳng xây xát gì cả. Chỉ sái một bên tay. Cũng nhờ đau mà đâm ra tỉnh nhủ đến sáng bạch.
Vừa sớm, lọt đọt kẻ trước người sau đến chỗ đoàn uỷ miền. Chưa ô tô tải đưa đội nào tới. Đội trưởng Cự khoái chí, quay ra giơ hai tay: “Chúng ta đến trước tất cả!”
Cơ quan đóng ở một ngôi đền bên trong đã san phẳng hết các bệ thờ. Hai bên tả hữu vu ngăn cót thành buồng. Tiếng máy chữ đổ rào rào như vẫn đập thế thâu đêm, văn phòng đoàn cũng tranh thủ làm như chúng tôi đã đi suốt sáng. Trong sân sau tường đền còn sót lại cây mộc mùi hoa sớm thanh khiết thơm thoang thoảng. Trước một gian phên bên kia che kín đáo, ngoài hiên đặt một dãy những giá gỗ tạp mới trên có thau men trắng vắt chiếc khăn mặt hoa. Chắc đoàn uỷ hay đoàn cố ngủ trong ấy.
Một người nhỏ nhắn, bộ quần áo nâu non mới sáng sủa. mặt trắng trẻo đeo kính trắng như học sinh mắt cận thị. Người ấy đạp xe từ ngoài cổng vào.
- Bên Quỳnh Côi sang phải không?
- Vâng, chúng tôi tranh thủ, không đợi xe.
- Tinh thần lắm, hoan nghênh. Tôi thường trực đoàn uỷ đây. Chúng ta vào văn phòng làm việc ngay. Đội số mấy, đội trưởng đâu?
Làm việc ngay, khẩn trương sao. Chỉ đôi ba câu đối đáp khét lẹt công việc, lập tức ai cũng tan cơn ngủ, quên cả rửa mặt, không nhớ vừa ỳ ạch đi cả đêm. Một lúc sau, cuộc trao đổi công tác, giao nhiệm vụ đã xong. Thật thì chỉ có đội trưởng Cự hỏi đi hỏi lại, còn cả hơn mười người ngồi im, thỉnh thoảng ai dấm dớ hỏi một câu về cái xã sắp đến thì được trả lời mấy lần giống nhau “tài liệu đây, tài liệu có hết”. Rồi người đoàn uỷ đứng dậy, xoa tay nở nụ cười như thói quen cười nhạt nước ốc và xoa tay thế, nói lấy lệ “Các đồng chí thông cả rồi chứ”.
Chúng tôi đã ra cả ngoài sân đền.
- Tài liệu mang về xã thế là sắp sẵn đủ cả. Chúc công tác thắng lợi. Bắt tay cái nào! Mọi người lồm cồm dắt xe ra đường. Sắp nhảy lên yên, có tiếng đằng sau giật giọng: Này! Này!
Quay lại, vẫn chỉ thấy người thường trực đoàn uỷ còn đứng đấy.
- Vào cả đây, vào đây.
Tôi háu đói, đã tưởng ra niềm vui có lẽ được vào nghỉ và ăn sáng. Cả đội đứng thành bọn trước cái cót che cửa văn phòng lúc nẫy. Người đoàn uỷ bước lên thềm, dõng dạc:
- Các đồng chí, bắt đầu từ hôm nay, đội đã vào cuộc đấu tranh công tác ba cùng. Ở dưới xã, bà con nông dân khổ cực lắm. Chỉ có bọn bóc lột mới có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát ăn bát vàng. Chúng ta về với nông dân không thể đồng sàng dị mộng. Không được đi xe đạp xuống xã.
Cái ông đoàn uỷ mặt mày học trò bé loắt choắt mà hắc thế. Tôi chưa bị đoàn uỷ nào bắt không cho đi xe đạp xuống xã. Dễ chừng vùng tạm chiếm cũ lại làm cải cách không qua giảm tô thì phải khác cũng nên. Thế là mất tất cả tiếng đồng hồ, người tìm tước bẹ chuối, người ra chặt cây dương bóc vỏ bện thừng. Mười hai cái xe đạp được trói gọn thành một bó, khiêng vào trong đền, lênh khênh như đống xương trâu. Điều bất ngờ ấy, cả đội trưởng Cự cũng không tưởng ra trước được. Tuy nhiên lúc ghé vai cõng lô xe, đội trưởng vẫn mặt đỏ găng hăm hở. Không hiểu đội trưởng nghĩ gì. Chỉ khoái hai anh rễ đội viên mới không phải chạy theo như cả đên, tự dưng được đi cùng.
Qua chợ huyện, ai nấy đói lả. Nhưng bụng mình mình biết thế thôi. Trông vào cái chợ mùa đói, nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán. Sướng chưa, đội trưởng Cự bỗng nói: “Ta vào chợ kiếm cái ăn đã”. Cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau Cự. Dường như sợ đội trưởng thay đổi ý kiến, phải cố làm ra vể hiền lành thế. Chúng tôi đều quần áo nâu bàng bạc, dép râu, mũ lá, có người mặt bạc phếch như mới ốm dậy. Đội trưởng Cự thì lúc nào cũng phừng phừng, lúc nhếch mép cười, lúc cáu kỉnh, cũng thế.
Chợ sớm dần đông. Đương mùa khô kiệt, những mạt cám bày la liệt khắp nơi. Lác đác, người đem trẻ con đi bán như trảy quả mít, một bên đứa trẻ ngồi nhấp nhổm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân. Chúng tôi, anh mặc lành, anh mặc tã, dị dạng, người trong làng về chợ nhìn tránh ra chiều e dè. Đã hai năm, đoàn uỷ đóng ở cái đền này. Hàng chợ đã thấy nhiều cán bộ đi về, áo cánh, áo vét khác nhau, nhưng biết đấy là những “anh đội” xuống xã hét ra lửa. Chẳng bận đến người ta cũng ngại, lẩn đi, bước né bên đường. Đội trưởng Cự đột nhiên đứng lại: “Chúng ta ăn bánh đúc!” Cả bọn lập tức xà vào hàng bánh đúc ngô. Mụ hàng hớt hải sang bên các lều bán nộm chuối, đu đủ xanh, nước chè tươi mượn mấy mảnh tre mới đủ ghế khách ngồi.
Chợ đã nhiều người nhưng chợ sớm chưa ai lê la hàng quà. Bọn người lạ mà ai cũng biết là các anh đội,
khiến những mụ ăn quà như mỏ khoét và cả đám ăn mày cũng không dám lảng vảng. Từng chiếc bánh ngô lưỡi mèo vàng hây, giữa rốn mỗi chiếc đặt mảnh cháy vàng rộm. Một bát đàn tương mặn chát. Có anh đội bưng hẳn bát tương lên để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và ngồm ngoàm hay là cứ nuốt chửng cả cái không ai trông thấy. Anh đội cũng đói như mọi ai. Có người hỏi bâng quơ: “Bánh ngô chấm tương à?”
Mụ hàng trả lời ngẩn ngơ như nói giữa trời: “Thời buổi khó khăn lắm, hạt vừng cũng là hạt vàng đấy”. Chẳng biết khó khăn thế nào, cái bánh ngô xay bùi bùi, ngọt ngọt, vả lai đương đói móp bụng.
Năm ấy tôi ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò “Sáp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến, không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình là Việt Minh, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc. Những chuyện tôi đi được cũng là gian nan. Tản cư, vợ tôi và con gái mới ba tuổi chạy lên Nủa trên Sơn Tây. Tất cả trai tráng phố tôi lại vào tự vệ. Phố tôi bị Tây trong thành tràn ra vây phải dồn vào liên khu Một giữa thành phố. Ta điều đình được với Tây để cho người già, trẻ con được ra ngoài. Lối ra trên đê làng Yên Phụ. Có lãnh sự Anh và lãnh sự Tàu đứng ra chứng kiến.
Tôi trốn đội tự vệ trà trộn trong đám người lố nhố ra. Trời lạnh, tôi chít xùm xụp cái khăn vuông mỏ quạ, giả làm bà già, đi qua ngay trước mặt các ông lãnh sự trong trạm kiểm soát nhòm ra. Tôi thoát được lên Nủa tìm vợ con. Hỏi thăm cả làng, cả cái chợ giời tản cư, về sau gặp lại người biết, đã bảo mẹ con cô ấy theo người ta vào Hà nội rồi.
Tôi chưa biết đi đâu, cũng không dám “dinh tê”, sợ Tây biết tôi là tự vệ, tôi mò lên Thái Nguyên, rồi sang Tuyên Quang, lên thị xã Bắc Cạn, quanh quẩn ở những vùng đông người tản cư dưới xuôi lên. Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. Vào cơ quan bấy giờ dễ, cứ đến xin việc là được nhận ngay. Hàng ngày mấy chục quang gánh sách báo Cứu Quốc và sách nhà Sự Thật quảy xuống khu Ba, khu Tư - như những đoàn người thồ muối lên miền ngược. Không ai biết tôi trước kia làm loong toong, làm cu-li giữ cửa và đã trốn tự vệ. Chỉ biết tôi là người trong Hà nội ra có đôi ba chữ nên anh em cho giữ sổ sách văn phòng và kho. Ở trong rừng, cơ quan chỉ có quyển sổ cái ghi các thứ trong kho, xà phòng đường ta, quần áo khi nâu, khi nhuộm thâm trên phát về.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ rời Hà nội được giải phóng, tôi trở lại thành phố.
Về đến Thái Nguyên cả cơ quan đàn ông đàn bà làm việc ở các cơ quan đều được may được phát một bộ quần áo một kiểu như nhau. Giày vải nâu, quần áo kaki xám nhạt. Và mọi người theo đúng điều lệnh tiếp quản: không về nhà, không mua bán, không ăn quà ngoài đường. Tối tối tôi vẫn lẩn đi chén phở, không ai biết. Một hôm được phép về nhà và ai có người quen được tới cơ quan thăm. Bố mẹ tôi mất đã lâu, tôi chỉ nhớ vợ con. Tôi hồi hộp về chỗ nhà cũ ở Tám Mái. Nhưng hàng xóm kể cho biết cô ấy đã lấy chồng làm cu-lít cho Tây, tháng trước họ kéo nhau đi Hải phòng, vào Nam cả rồi.
Tôi như đuổi theo cái bóng. Cũng chẳng buồn, chẳng ngán ngẩm. Chỉ đôi lúc phảng phất nhớ mụm con
gái mà thôi. Cái năm xa cách nó mới ráo máu đầu, chẳng biết rồi nhớn nhao thế nào. Tôi bây giờ mà hoá ra quan trọng, tôi giữ ba sổ chi thu- chẳng học nghề bao giờ cũng được lên chức kế toán trưởng. Năm sau tôi lấy vợ. Cũng dễ ợt. Cô ấy làm cấp dưỡng, theo cơ quan trên Thái về, chúng tôi biết nhau đã lâu. Rồi vợ tôi sinh một thằng con trai. Bây giờ “phóng tay phát động quần chúng”, công tác cải cách ruộng đất là quan trọng nhất. Mọi người chúng tôi ở cơ quan, rừ cấp dưỡng đến cán bộ chuyên có biết đồng ruộng hay không nhất loạt đều phải đi làm “thổ cải”. Thế là tôi đi. Tôi đi công tác cải cách, cu ngầu nhà tôi đã được sáu tuổi. Khi còn ở Việt Bắc mấy năm gần về Hà nội, ai cũng đều đi làm giảm tô, có người giảm tô xong sang công tác cải cách. Tôi chẳng biết mặt mũi đồng ruộng bao giờ, tôi tìm cách lẩn. Bờy giờ không khó, bởi chỉ có mỗi mình tôi giữ sổ sách, không thể mỗi chốc đi đâu. Nhưng về thành phố thì chỉ có trơ ra có tôi chưa được rèn luyện lập trường cách mạng. Ông giám đốc cũng chưa đi giảm tô, đi cải cách lần nào. Nhưng không ai dám nhắc ông ấy. Lại nói nịnh “bộ tư lệnh phải ở vị trí chỉ huy”, bên trong thì ghé tai xì xào ông ấy sợ đứng dậy thì có người ngồi mất ghế. Chiều thứ bảy nào cũng họp kiểm điểm trong tuần, thủ trưởng lại đập bàn nói choang choác: “Giải phóng nông dân lao động khỏi ách địa chủ phong kiến, mọi người đều có nhiệm vụ tham gia…”
Tôi cũng khéo lèo lái, lẩn lút tránh được tới khi về Hà nội vẫn chưa đi. Tưởng chiến thắng về Hà nội giải phóng thế là đã hết mọi việc xóm làng, hoá ra vẫn còn. Không thể thoát, bây giờ chỉ mới hết giảm tô, còn cải cách. Cơ quan đã đi cạn kiệt cả, lần ày đích tôi có tên trong danh sách đi rồi không còn ngõ ngách
nào lẩn nữa. Thế là phải đeo ba lô đạp xe đi. Tôi vào Thanh Hoá dự tổng kết các bước công tác của các đội vừa qua dưới xã. Lúc đầu tôi lo cứ rối tinh. Nhưng rồi cả tháng vừa nghe vừa hỏi thì cảm như mọi việc khuôn phép dần đâu vào đấy, công tác này cũng thế thôi. Có gì khó hơn cái sổ sách kế toán, mình chẳng học mà cũng thành nghề cộng trừ nhân chia, thế ra đi cải cách không đáng sợ như những đứa đã đi về đồn thổi, doạ dẫm.
Mụ hàng bánh đúc chỉ đường cho chúng tôi về xã. Áng chừng mươi cây số, hễ sắp hỏi thăm là có người mách lối đi, như là ai cũng biết mình về đấy rồi. Cái ba lô đeo trên lưng đã thấm đen mồ hôi. Đoàn người nhấp nhô đi quá buổi trưa. Đội trưởng vẫn thoăn thoắt dẫn đầu cho nên không ai dám ể oải. Gió mát hây hẩy mà mồ hôi đổ ra dính lưng nham nháp. Mặt trời lờ mờ nghiêng trước mặt, người đi trên đê trỏ xuống cánh bãi bảo kia kìa, làng ấy đấy. Những khoanh tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đe qua. Từng khúc đầm nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới. Chắc xưa kia chỗ này vỡ đê hay dòng sông cũ còn lại hõm loáng thoáng thành những đầm nước. Giữa cánh đồng, một mỏm núi đá chơ vơ. Bên cạnh, còn trông thấy cái lô cốt xi măng tháp canh của bốt hương dũng.
Chúng tôi xuống, vào ngôi đền đầu thôn. Lại cái đền hoang, hai d\bên tường đổ trống huếch nhưng vẫn còn bệ gạch chưa ai ăn trộm. Đội trưởng Cự nhìn quanh, thấy người đi trên đê qua lại, chưa yên tâm đã được bảo mật. Cả bọn chui vào cái sân cỏ mọc lưng ống chân cho được kín đáo chặt chẽ. Những con chuột thấy động chạy rào rào vào hậu cung đã mất cả cánh cửa ẩm ướt, tối om. Chúng tôi lại ngồi dưới mái hiên. Chỗ này, trên đe hay ngoài cửa không ai thấy. Kể ra cứ cẩn thận, thế mà lúc nãy còn lác đác người bây giờ trên đê đã vắng ngắt.
Đội trưởng Cự kéo mấy cái ba lô, kê lên, trải ra tấm bản đồ xã kẻ bằng tay lúc sáng nhận ở đoàn uỷ. Chúng tôi xúm quanh chăm chú. Cự nói một mạch:
- Một là, từ giờ phút này đội ta chịu trách nhiệm mọi mặt của xã. Xã đây ở vùng hai trăm ngày địch đóng lại, địa chủ thì gian ác, tổ chức của địch để lại đã khéo lồng vào tổ chức của ta, chúng nó đã làm cải cách và giảm tô giả. Công tác của chúng ta thật nặng nề. Hai là xã có chín thôn, mỗi chúng ta phụ trách một thôn. Tôi đọc tên từng người đây. Tôi phụ trách thôn Đìa với văn thư của đội, thôn Đìa cũng là trọng điểm, vì có nhà thằng bí thư chi bộ. Các đồng chí xem bẩn đồ rồi tự tìm đường về xóm. Không được hỏi han lung tung. Coi chừng tay sai địa chủ và tổ chức cũ sẽ đưa vào người nó bố trí sẵn. Kể từ bây giờ các đồng chí về vị trí chiến đấu dưới thôn cẩn thận cảnh giác không được liên lạc với tổ chức cũ, cứ chọn nhà thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi. Chiều thứ bảy, đúng giờ này - đội trưởng Cự cúi xem đồng hồ đeo tay, toàn đội về đây phản ánh tình hình và duyệt rễ. Ba là tuyệt đối bí mật, tuyệt đối bí mật.
Tôi đói quá. Không biết có bệnh giun sán hay sao, hễ quá bữa thì bụng réo rong róc, mắt nảy đom đóm, hai bàn tay toát mồ hôi lạnh. Cứ từng cơn thế, người lả dần.
Tôi duỗi chân đụng vào cái đít ba lô trước mặt để đặt bản đồ. Ngón chân hình như vướng vào mảnh lá chuối. Tôi lé con mắt đương hoa vàng mờ, cũng nhận ra cái lá chuối lòi ở goác mảnh bạt nắp ba lô. Bấm thấy mềm mềm. Tôi quờ tay. Ôi chao, tôi nhậ ra cái lá bánh đúc ngô ở chợ. Tôi ngước mắt. Đội trưởng đang nói đến đoạn hăng, băm bổ bàn tay liên liến, hai con mắt trợn trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào túi sách của tôi, lsị vờ lơ láo nhìn mọi người. Ai nấy vẫn đăm đăm. Người hý hoáy ghi sổ tay. Người vừa chăm chú vừa thờ ơ nhìn đội trưởng. Người vẫn cắm cúi xem tờ bản đồ mở che kín trên mấy cái ba lô. Lúc ấy tôi mới bình tĩnh nhận ra thật cái ba lô ấy của đội trưởng Cự. Đúng rồi, ba lô bộ đội gờ nếp viền quai kỹ lưỡng, chắc chắn hơn những cái ba lô con cóc khâu túm mua ở cửa hàng bách hoá. Tôi sững sờ, nhưng rồi lại yên trí dần. Kỷ luật là ba cùng dưới xóm. Mà đội trưởng mua lén bánh đúc ở chợ. Bố bảo cũng không dám kêu mất. Và trông mọi người đương chăm chú thế kia thì chẳng ai nhìn thấy tôi vừa làm gì. Cho thằng đạo đức giả tối nay đói giã họng.
Mọi người đứng dậy, xốc ba lô lên vai,. Hai anh đội cán bộ cơ sở ở xã lên, nách kẹp mo nang tài liệu, xắm nắm đi ngay. Họ háo hức như được về xã nhà. Mà họ tự nhiên thế cũng chẳng lạ, chỉ có tôi mới phải lo lắng loăng quăng chẳng biết chốc nữa vào nhà ai, có bắt được trúng rễ hay không. Đội trưởng Cự một tay xua xua không biết là cản lại hay bảo đi, một tay nắm đấm, hô: “Vì giai cấp nông dân, quyết chiến,
quyết thắng!”. Tôi thấy đội trưởng xch ba lô lên, sờ vào mép. Rồi nắn lại lần nữa. Mất mẹ nó rồi. Nhưng mặt vẫn bừng bừng như lúc đương nói, không khác. Đội trưởng đến trước mặt tôi. Tôi khúm núm co người túm miệng túi xách sợ lộ cái lá chuối, rồi nghiêng người đeo quai ba lô lên vai. Không phải đội trưởng tò mò gì về tôi mà Cự đến bắt tay từng người. Tôi kẹp chặt cái túi trong có gói bánh đúc ăn trộm rồi mới giơ bàn tay ra.
Đội trưởng bảo:
- Đồng chí đợt này được trên cử làm đội phó phụ trách toà án, cố gắng nhé.
Tôi nhẹ nhõm nắm tay Cự. Mỗi người vào xóm một ngả. Chỉ có Đình rảo bước theo tôi. Tôi hỏi: - Cậu về cùng lối với mình à?
Lúc chỉ có hai ba người, chúng tôi thường cậu cậu tớ tớ - chỉ có mấy anh ở xã lên vẫn nghiêm túc “đồng chí” như khi họp. Riêng với đội trưởng tác phong quân sự thì không mấy khi dám cợt nhả, lúc nào cũng “đồng chí” cẩn thận.
Đình đáp:
- Mình phụ trách xóm Chuôm láng giềng cậu. Về Chuôm đi xuống lối bờ đầm đằng kia gần hơn. - Thế tại sao đi lối này?
Đình cười hếch cái mũi đỏ.
- Đi vài bước cho nó vui mà.
Tôi ừ hữ nhạt nhẽo. Đình ghé tai tôi, nói nho nhỏ:
- Này chia cho tớ bánh đúc với. Ông nhanh tay quá đấy. Tớ nhìn thấy trước đằng ấy cơ.
Tôi ơ mặt như đứa ăn cắp bị bắt tạt trận - mà thật thế, còn như nỗi gì. Gói bánh có bốn chiếc, tôi lẳng lặng lấy ra đưa Đình hai cái. Nhìn theo hút lúc ấy đội trưởng Cự đã đi khuất vào bờ tre. Bỏ bánh lên túi ba lô rồi Đình cũng tất tả về phía ấy. Ôi trời, nó đi báo cáo thì mình toi mạng! Nó nói ra thì nó mất bánh. Mà đội trưởng đã định ăn vụng, đội trưởng trù cho thì cũng chết dở.
Tôi lững thững vào thôn Am. Đi bắt rễ khác nào đi câu. Còn chưa tối, mới choạng vạng mà trước mặt, sau lưng vắng tanh. Chiều chiều thông thường lúc này cổng đồng có người đi làm về, những con trâu bước thonng dong, đàn vịt rúc bờ ruộng chân tre, tẻ con đương vác sào ra dồn về. Thế mà đường vào xóm quạnh quẽ, tưởng như không cả con chuồn chuồn chập chờn, con nhện nước loăng quăng. Ít ngày sau, tôi mới biết
cả mấy thôn này đã đội biết tin đội về từ lúc đội còn ngồi ăn bánh đúc trên chợ huyện. Thế là gà qué, chó má, trâu bò người ta tất tả nhốt chặt. Cả người cũng không dám ló mặt ra ngõ.
Có thể nhận biết một làng mới thoát khỏi vùng tề tiêu điều khác hẳn các làng hậu phương um tùm cây cối xanh mát trong Thanh Hoá. Ở đây, cây đa, cây si ngã ba xóm, những luỹ tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như những cái đầu trọc long lốc. Đồn bốt Tây bắt triệt thế nào cho du kích mất chỗ ẩn náp, đem đén cả các chòi gác bốt hương đũng giữa làng rọi đèn pha phía nào cũng được.
Tôi nhòm ngó một vòng xuống cuối xóm rồi quay lại. Cả đến những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương
rồng cũng xơ xác như tóc cạo rối chẳng còn mấy. Trên những mái rạ mục đen xẫm không vẩn vơ một sợi khói bếp. Các cổng tán, cánh liếp mở há ngoác mồm. tôi không biết người ta cốt làm thế để đội về khỏi nghi giấu diếm cái gì trong nhà.
Tôi cứ toan vào bừa một nhà nào đó nghỉ ngơi cái đã. Nhà ấy không dựa được thì mai đi nhà khác. Tôi đã mấy đợt qua cái bỡ ngỡ lần đầu tiên ngày đi bắt rễ rồi. Chợt trông thấy sau mấy cây duối quăn queo một người đàn ông cởi trần gày nhom, quần xắn móng heo. Người ấy vừa đi vừa quay mặt vào trong cái sân đất, như nói với ai trong ấy: “Ông đã chặt cổ cả thằng Tây, ông đếch sợ anh đội”. Ngẩng lên thấy tôi, người ấy thoáng bối rối rồi nhìn trân trân: “A anh đội! Mời anh đội vào nhà em xơi bát nước!”. Cái mặt người này dại dại, mắt trơ tráo, không biết nó dở người hay là thằng địch trắng trợn cài bẫy. Giả vờ thế nào được với tôi, tôi không đáp. Tôi đâm cảnh giác, không dám vào bừa nhà ai như đã định thế, rồi cứ lúng túng, vẩn vơ…
Một quãng gặp một đóng rạ. Trong kia, thoáng bóng người quần nâu bạc đã tuông cả gấu, leo kheo rút rơm. Tôi khấp khểnh lẩm nhẩm: đây rồi… Đây rồi… rễ đây chứ rễ đâu… tôi xăm xăm tạt vào, Người đàn ông đứng lại dưới mái rạ, hai tay luống cuống như vụng trộm thế nào. Khuôn mặt rỗ hoa xám nhợt đã luống tuổi. Người ấy phờ phạc ngẩng lên:
- Lạy anh đội…
Gian nhà lợp rạ nát xám xịt như mặt người ấy. Tôi bước vào còn máy người trong nhà, chốc mới nhận ra dần dần. Một người đàn bà ngồi xổm trong xó, luồn tay chống lên mảnh gỗ con. Một chú nhóc đóng khố, một cởi trần tựa cột. Ở trái bếp bước vào một cô gái áo nâu lành lặn. Có lẽ có người lạ vào, cái áo vừa được mặc vội, một chiếc khuy đỏ chưa cài hở mảnh đuôi yếm cũn cỡn.
- Anh đội vào chơi. Nhà chẳng có chỗ nào ra hồn…
Tôi ngồi xuống một mảnh vầu úp và nói:
- Tôi tên là Bối. Cả nhà cứ gọi tôi là Bối, anh Bối.
Rồi trong bụng thoải mái yên chí chưa thăm nghèo hỏi khổ mà đã trúng phóc ngay. Tôi lại nói: _ Tôi là cán bộ đội về công tác. Ta đây là xóm Am, phải không?
- Vâng ạ, xóm Am.
Cô gái lại vào trong bếp lấy ra một cái bát đàn. Nhưng không có nước. Cô bối rối đứng. Bố cô rụt rè nói: “Nhà chẳng còn nồi chè xanh nào”. Tôi cười: “Vẫn uống nước mưa ngoài vại chứ gì. Vẽ, tôi cũng thế”. Nói rồi tôi cầm chiếc bát ở tay cô gái ra cái vại bên gốc cau có buộc cái mo cau hứng nước mưa. Tôi múc đày bát nước, bưng vào, ừng ực làm một hơi hết tiệt. Quả là tôi đương khát se họng. Và mấy lâu nay ở và làng xóm tôi cũng quen ăn uống lôm lam, sống xít. Quả nhiên, chỉ cạn bát nước lã tôi lại cảm thấy công
tác ba cùng đã đưa tôi gần gũi mọi người rồi. Đã chiều hẳn, phía bờ đần nước, đôi chim chích choè bay rỡn nhau hót những tiếng dàu ngắn gọi bạn vào hoang hôn. Trong nhà nhoè nhoẹt xâm xẩm, chỉ còn khuôn mặt cô gái trăng trắng.
Tôi đã thuộc tên mọi người. Bố tên là Diệc. Mẹ bị tàn tật ngồi trong vách đấy. Con gái là cô Đơm và mấy em, những thằng Vó, cái Lưới, thằng Cò… Nhà cò nhà diệc, những ao ước cầu mong hàng ngày đơm đó sông nước chỉ có vậy. Nghèo đến thế chứ nghèo sao nữa, những cái tên cũng đã khiến tôi gối đầu ngủ yên được. Chưa trông rõ hết, cũng đoán ngay ra cái nhà tranh vách tuyềnh toàng ẩm mùi rêu đất, đừng cuối sân, một chiếc hũ sứt hay cái chĩnh đội chiếc nón mê. Người đi làm đồng về được con cáy, cái tép thì ném vào cái hũ đã trộn lưng muối, vài tháng kại chắt ra làm nước mắm, thức chấm. Người ta đương tìm đây rồi. Thật cũng có may rủi.
Tôi bắt đầu mở bài lục vấn con số.
- Nhà ta cấy được bao nhiêu?
- Chưa được hai miếng ạ.
- Ruộng nhà a?
- Thưa, cấy giẽ thôi.
Tôi nghĩ sắp đặt ngay: “Bố con, thế là nhà này đã được một rễ, một chuỗi. Bố làm trưởng thôn, con thì tổ trong dân quân. Hay!”. Trong nhà tối om. Một thằng cu vào bếp thổi đống trấu châm một que đóm. Phao đèn hoa kỳ không bóng sáng lung lay chẳng khác sợi lửa đóm. Tôi hỏi:
- Nhà chưa cơm chiều à?
- Có… có… chưa… chưa…
- Chưa thì cho tôi ăn với. Tôi có phiếu gạo đấy. Mai cô Đơm lem lên đong gạo trên cửa hàng huyện.
Người ta ở đâu cũng đã biết lề lối đội cải cách đén thì ăn, thì ở ra sao. Những đồn thổi, những tiếu lâm, bao nhiêu vhuyện buồn cười và chuyện rùng rợn về những anh đội. Năm trước, khi còn cái bốt hương dũng tề nguỵ giữa làng, thế mà những chuyện giảm tô, cải cách đã bay từ ngoài kia vào. Có người tò mò lẻn đi xem đấu địa chủ tận “hậu phương” bên kia sông. Nhiều nhà khá giả sợ xanh mắt, đã xuống Hải Phòng đi Nam. Người ở lại cũng mỗi người nói một cách khác, người ngóng đợi, người lo vu vơ.
- Cũng sẵn rồi nhưng cơm chẳng ra cơm đâu, mời anh đội ăn tạm.
Cô đơm bưng bày xuống mặt đát giữa nhà, lần lượt một nồi cơm, một cái chảo trông nhờ nhờ như muối. Đơm xới một bát cơm gắp ram ấy cọng rau sam đựt lên bát rồi đem vào xó nhà cho mẹ ngồi bốc ăn trong
ấy.
Tôi hỏi vui:
- Cơm trộn kê hay sao mà vàng ngon thế?
- Vâng. Cám đấy ạ.
Rồi bác Điệc nhẩn nha kể: “Cả vùng này mùa vừa rồi nhốn nháo vì người các nơi qua lại đổ về Hải Phòng. Các cụ đạo vào tận đây rủ người ta đi, chả dưới xóm Đìa có người theo đạo mà. Ai đi đau thì cứ đi, chỉ chết con nhà nông chúng tôi đi vay không thì cũng rối tinh lên chẳng cấy hái ra gì. Của ăn được thì còn chơi vơi ngoài đồng. không biết rồi nhặt nhạnh thế nào, bây giờ may lắm còn moi móc ra cái cám ăn cứu người”.
Hồi dự tổng kết trong Thanh rồi tôi về huyện Thiệu Hoá thực tập, ở nhà rễ, ngày hai bữa toàn cám, bấy giờ được ăn cám còn phúc bảy mươi đời. Thanh Hoá đã kiệt lực, đói to. Cả một vùng các huyện trên xưa nay ỷ vào đạp nước Bái Thượng chỉ quen làm một vụ lúa, không biết làm mầu. Máy bay Pháp bỏ bom phá vỡ đạp Bái Thượng. Người ta nói thằng Pháp chỉ đánh dấn một năm nữa thì cả tỉnh chết đói hết. Ngoài chợ tỉnh cũng bày bán trẻ con nhan nhản như bán chó. Tôi dự một cuộc đấu địa chủ. Có người rễ bị đói đã lâu quá, đứng lảo đảo, hét một tiếng rồi lăn ra chết. Những đơn vị trong Nam tập kết đóng quân dọc sông Mã. May được các chiến sĩ khu Năm đem ra kinh nghiệm và giúp dân trông khoai, rau muống chống đói. Các mảnh vườn, các cánh ruộng khô nẻ được cuốc lên, đánh luống chỉ hơn một tháng đã được hái lá ăn. Rau muống luộc, rau lang rau muống phơi làm lương khô và muối dưa, nấu lẫn cám nuốt tạm đợi mùa.
Tôi còn đem ra đây cái nhớ khủng khiếp về những bữa ăn cám. Có đến cả phiên, mấy phiên chợ không đi ỉa được. Mình mẩy ngứa nổi mần da cóc. Suốt đem bứt rứt, không tài nào chợp mắt. Sợ quá phải về bệnh viện tỉnh xin thụt. Xuống đến chợ Rừng Thông, người ta mách ăn đu đủ xanh cũng rửa ruột được. Thế mà hiệu nghiệm có lẽ như thụt. Bây giờ cơm lẫn cám chắc ăn đỡ hơn dạo ấy. Cũng chưa biết thế nào, chỉ thấy từ ngày trận táo bón tắc ruột, bụng tôi như chắc lại, thỉnh thoảng mới phải tào tháo đuổi. Mà tối nay cũng chỉ nhấm nháp qua loa. Còn hai cái bánh đúc trong túi cơ mà.
Tôi ngồi xổm, cầm bát, định lùa luôn mấy đũa. Nhưng miếng cơm nguội ngắt, răn như vôi vữa. Rồi từ từ nhai, tôi cũng tọng được hét bát rồi kiêu là ăn trên chợ huyện còn lửng bụng.
Một nhoáng, cả nhà đã xong bữa.
Dần dà tôi được biết bác Diệc năm nay bốn mươi mốt. Cả đời chỉ quanh quẩn trong làng chưa khi nào bước chân lên con đường cái bên kia sông. Phải năm trời làm bệnh tả, bố mẹ chết cả. Còn trơ trụi có Diệc. Rồi bệnh đạu mùa để lại cho bác Diệc những lỗ chỗ vết rõ hoa khắp mặt. lăn;óc nhà này qua nhà khác. Diệc không thể nhớ được thuở tấm bé đứa trẻ chỉbb gào khóc đòi ăn thì như thế nào, nhưng đến khi biết đi biết chạy, cũng là lúc làm quen với cái thừng con trâu, cái liềm cắt cỏ, chiếc đòn gánh quảy nước rồi chẳng
bao lâu đã thông thạo mọi việc đồng áng. Những trận đi làm thuê bị đòn đánh và cái đói; cái khổ nhục tháng ngày, làm sao nhớ được bao nhiêu khiêng. Tôi còn muốn hỏi Diệc lấy vợ bao giờ, tại sao vợ lại ốm đau thế. Nhưng chưa biết lựa lời thế nào.
Bác Diệc nói:
- Anh đội đi cả ngày, nhọc rồi, đi ngủ thôi.
Quả là hai mắt tôi đã cứng đơ. Tai nghe câu chẳng câu chuộc. Chốc chốc ngật cổ một cái, lại choàng tỉnh.
- Ừ, ừ…
- Anh đội nằm ở cái chõng kia. Chõng vẫn bỏ không, thỉnh thoảng mới đem ra ngồi hóng mát ngoài sân. Cả nhà tôi nằm đất đã quen, mùa rét thì lót lá chuối khô, ấm lắm.
Cũng chẳng đợi chủ nhà giục lần nữa, tôi nói: “Tắt đèn nhé”- đốm đèn tắt phụt. Tôi ngả lưng xuống chõng, gối đầu lên ba lô. Thèm ngủ thế, nhưng vẫn nhớ trong túi dết có gói bánh đúc.
Hôm sau, tôi thức dậy, trong nhà im phăng phắc. Cái chống liếp cửa trước đã được dựng lên từ bao giờ - hai bàn tay ếch đặt lên hai mảnh gỗ. Con mắt ngước trắng dã như hai mảnh sành.
Tôi hỏi:
- Cả nhà đi làm rồi a?
Cái bóng rũ rượi im lìm. Người tàn tật này có lẽ còn mắc các chứng câm điếc và thong manh nữa. Tôi xếp cái ba lô vào góc chõng rồi bước ra cổng. Đường xóm buổi sáng không đến nỗi vắng tanh như chiều hôm qua. Ngoài đồng lúi húi người cào cỏ. Đuôi lúa con gái ngậm đòng rập rờn phe phẩy mơn man trong làn gió nhẹ như sắp trông thấy hạt thóc mẩy về đuổi đi bát cám trộn. Một đám trẻ con trần truồng mình mảy lấm như trâu đằm đứng rụi mắt nhìn tôi lững thững qua.
Vào liền mấy nhà đều im ắng như nhà hoang. Tôi đã biết một làng bình thường chẳng mấy khi có người ở nhà buổi sáng. Ai cũng còn đi moi móc đào bới, đơm đó lấy cái ăn. Nhất là các xóm trong ngoài luỹ tre phờ phạc, bên những chân tre còn sót lại, trồi ra những mái dạ như cây rơm, như chuồng trâu khác các chòm nhà giữa làng. Những nhà có máu mặt tụ họi ở xóm trong, xóm giữa, dần dà mới ra các xóm trẽ, xóm đồng, xóm bãi. Ngày trước hẳn ở đây là cổng đồng rồi người trong làng nhà đông san ra ở, người bơ vơ ở đâu tới ngụ cư lập nên xóm đuôi, xóm trại. Xóm này chắc cũng mới thành nơi ăn chốn ở vài mươi năm nay, nhiều chỗ nền nhà chưa hoàn thổ, đất tảng mốc rêu. Những vườn xoan cây chỉ nhỉnh cao bằng sào nứa.
Tôi qua lại bụi cây duối rậm rịt buông xuống những nắm dây tơ hồng vàng rượi. Cái thằng quần xắn móng lợn vẫn như hôm qua. Chòm râu quai nón tua tủa. Như nó vẫn đứng đay rình tôi.
- Chào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được thằng chuỗi nào hơn em. Hôm qua mà anh vào nhà em thì em đã được là rễ rồi, rễ cái chứ chẳng chơi, nói thật đấy.
Tôi lặng lẽ theo hắn. Không để tâm những câu nói lẩn thẩn, lảm nhảm. Không phải nó say rượu, cũng không phải nó dở người, vẻ nó táo tợ nhưng nó nói khôn như người ta. Có thể nghe nó mà biết tình hình, mà kiểm tra được việc cũng nên. Nhà này còn tồi tàn hơn nhà Diệp. Ba phía vách tuông ra, huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bìm leo chăng chịt lên cả cột nhà như cái cọc tre. Một người đàn bà lúi húi trong bếp đương sàng sảy cái gì không biết. Tiếng lạt xạt khe khẽ như gà con bới đống dấm ủ bếp.
- Anh ngồi xuống. Nhà tôi ngồi chỗ nào cũng như nhau. Tôi là tiên chỉ cái làng này, tiên chỉ bần cố nông chứ chẳng vừa đâu. Những tôi không kể khổ với anh. Tôi chán ngấy cái khổ, cái kể khổ rồi. Tôi nói với đội việc khác.
“Lúc kháng chiến ấy mà. Ở trong này tôi là du kích tập trung huyện. Tôi không báo công đâu, công tôi thì không đếm xuể, mà công bao nhiêu cũng hoá công cốc rồi. Tôi chỉ kể những chuyện ân oán thân tôi. Đêm ấy tôi thình lình lẻn về cái nhà này. Tôi nhòm liếp, đèn còn sáng, thằng xếp bốt hương dũng đương nằm với vợ tôi đúng chỗ cái cột này. con vợ tôi kia, cái đứa làm chứng sống còn đấy. Tôi xông vào. Cũng ghê lắm. Thằng xếp bốt cứ trần truồng lăn xả vào tôi. Tôi mà không ghì lại nổi, nó chỉ lùi được mươi bước quơ được súng thì tôi ăn băng đạn tôi chết toi rồi. Những tôi cũng bị nó quật mấy hòn gạch tưởng vỡ đầu. Bây giờ phải khi giở giời đầu tôi cứ buốt từ óc xuống xương sống. Thằng bệnh viện bảo tôi đứt một dây thần kinh. Thì điên à? Đứa nào bảo ông điên? Ông điên mà ông nhớ được chuyện cổ tích a, nhớ được công lao kháng chiến của ông a?”
Người đàn bà trong bếp nghe láng máng tiếng người trên nhà cũng thò đầu lên hóng chuyện. Cái mặt mụ nhăn nheo, xám ngoét, miệng há hốc trơ ra, lợi hàm dưới đỏ hỏn, đã mất hết răng. Như là nghe nói ai ở đâu chứ không phải chuyện về cái thằng xếp bốt năm ấy ngủ với mụ ta. Dáng ngơ ngơ, mụ ấy mới lẩn thẩn.
“Bấy giờ tôi khoẻ như hùm ấy chứ. Tôi lôi thằng dê xồm ra chỗ góc duối kia. Tôi hoa mã tấu lên. Cái đàu nó nhảy nhốp nhốp dưới đát như con cóc phun nước. Tôi xách cái đàu lâu nó về huyện đội. Ấy thế mà rồi sau tôi xin huân chương, chúng nó bảo tôi báo thù thằng ngủ với vợ chư không phải là thành tích. Báo thù thì tao phải pheng cổ cả vợ tao chứ, có phải không mẹ mày?”.
Người đàn bà quay mặt vào, không ừ hữ một câu. Lại nghe tiếng sảy hạy tấm hay mày ngô rào rào như mưa thưa. “Anh đội tính cho tôi thế nào? Công tôi to thế phải không?”
Tôi ậm ừ:
- Được rồi.
- Ối, anh đã bảo được đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho tôi làm trường thôn, phế thằng tư Nhỡ đi.
Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra hàng đàn địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít mặc kệ, có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có phải không anh đội?
- Được, cứ để đội xét.
- Cái gì cũng bảo xét, trên huyện cũng nói đẻ xét, rồi mất hút con mẹ hàng lươn. Để xét thì ăn mẹ gì! Thôi mời các anh cút, cút đi.
- Nóng tính thế. Tên là gì?
- Anh là Tây đồn lục vấn tao đẻ bắt bỏ tù à?
- Không phải. Tây nó về nhà Tây rồi, đội hỏi để biết.
- Thế thì báo cáo với đội tôi là bần cố, tên tôi là bần cố Vách. Cả huyện này ai cũng biết Vách đồ tể. Ngày trước mổ Tây, bây giờ mổ lợn. Hôm nào được cỗ lòng lợn ngon anh đội đến đánh chén sớm nhé. Không, không được. Đội đương phải ăn cháo cám với dân mà. Cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm. Cùng hai thứ thôi nhé, đừng ngủ với con cái Đơm nhé. Khớ! Khớ!
Vách rụt cổ cười rũ rĩ. Về nhà tôi hỏi bác Diệc:
- Cái thằng Vách ấy là thế nào?
Trước kia nó là du kích huyện, bị Tây bắt được, bị đem rập đầu vào tường một ngày rồi sau đâm rồi lẩn thẩn. Nhưng mổ lợn thuê khéo lại nhanh mà cũng lắm lúc nói khôn đáo để.
Có hôm tôi hỏi thì cô Đơm lại nói khác:
- Chú Vách đi du kích thoát ly, nửa đem về bắt được ông xếp bốt hương dũng nằm với thím ấy, chú áy dong xếp bốt ra đem trôi sông, từ đấy bị cái ma oán đâm ra dở người.
Buổi trưa Đơm đi đâu chưa về. Ban ngày tôi mới trông rõ bát cơm màu vàng cám, lổ đổ vài hạt gạo còn sống nhăn. Tôi lại sợ tắc ruột, chỉ và nhếu nháo vài miếng rồi ra ngoài vại chiêu bát nước lã. Tôi bảo bác Diệc:
- Sáng nay làm gì?
- Chẳng làm gì cả.
- Mai có đi làm rủ tôi đi với.
- Tôi đi cả buổi, nhưng anh… anh ở nhà…
- Tại sao, đi cả buổi à?
- Đi đào lỗ rắn thôi, anh không làm được, mà cũng không, anh không được làm. Mùa này rắn bắt đầu vào ngủ hang. Đi bắt vài con làm thức ăn.
Cái đòi đi làm của tôi cũng chết ngấm. Bắt rắn! Tôi sợ rợn gai người. Tôi im lặng không nói gì nữa. Bác Diệc cười gượng, rồi chép miệng:
- Nhà có khách mà chẳng có gì ăn. Thằng bé đi câu ếch ngoài ruộng cũng về không. Mai ba bố con đi bắt rắn, bắt chuột. Cũng là còn sớm chưa có hạt lúa chưa chắc chuột nhà đã ra ngoài đồng. Nhưng mà trông anh…
Không thấy rủ tôi đi bắt chuột, tôi nhẹ người. Tôi hỏi:
- Đồng áng thế nào mà hết rắn lại chuột…
- Tháng ba ngày tám, chỉ còn ngồi trông ngọn lúa. Thỉnh thoảng cào cỏ. Nhà tôi có mỗi miếng ruộng, quơ nửa buổi đã sạch trơn. Chẳng đào đâu ra việc cả.
Bác Diệc lại hoe hoe cười như không:
- Trông anh nhai cám tôi ái ngại lắm.
Tôi ngượng, kiến bò rần rần trên mặt.
- Tạng tôi cơm nước thế nào cũng đểnh đoảng vậy thôi.
- Hay là mai đi với tôi. Anh đứng trông rọ thôi. Tôi đã thấy một hang đất đùn, không phải vết lườn bụng rắn, chân chuộtnhìn rõ ghê.
Tôi chối khéo:
- Sáng mai tôi phải lên hội ý đội.
Rồi tránh quanh quẩn chuột với rắn, tôi sang việc khác:
- Nhà nào có bát ăn nhất thôn này?
- Nhà trưởng thôn này tư Nhỡ.
- Chỗ nào?
- Bên kia cái ao có mấy cây dừa.
Tôi toan giở ngón lười, vặn vẹo thêm bác Diệc mấy câu nữa để lấy con số. Nhưng lại nghĩ: bước một của ta thê là thắng lợi trông thấy rồi, mai đi báo cáo thì ta nhất đội chứ ai. Nhưng cứ điều tra tình hình tường tận mọi mặt rộng ra, chẳng mất gì. Mấy lỵ chịu khó bây giờ, bước hai sẽ được thong thả.
Nghĩ thế tôi đi đén nhà trong thôn này tư Nhỡ. Diệc đứng dậy nói: “Anh đừng…” rồi không nói thêm. Tôi cũng chẳng để ý, tôi bước ra ngõ.
Những cây dừa xanh bên ao kia tôi đã trông thấy từ chiều hôm trước, những không biết đằng sau vườn dừa còn có nhà. Vào quá mép bờ nước, trước mặt trải ra một con đường lát ba hàng gạch nghiêng, đi phía ngoài không nhìn thấy. Hai bờ dậu, hàng dâu xanh mướt. Những cây dừa lửa mùa này lúc líu chùm quả vàng xẫm. Trong kia, như trổ vào giữa luỹ tre, một chiếc cổng tán buông kín khít giữa hai cột đực, trên nóc cổng tán lòng vòng mấy hàng chông dây thép gai. Cái cổng ngõ chống cướp, chống càn của thời nhiễu nhương vừa qua. Bên trong, ẩn một ngôi nhà ngói mái phủ trĩu rêu ẩm xanh xẫm, hai đầu mái nhô đàu chuôi vồ ngất nghểu.
Đàn chó xông ra sủa râm ran. Nhưng không phải chó dữ, chỉ là mấy con chó giữ nhà đánh tiếng. Một ông lão áo cánh năm thân nhuộm vỏ dà, bộ râu dài đen mướt như tóc buông. Hai con mắt còn nhung nháu thế kia, tôi đoán không thể lão đã lên ngôi cụ mà lão chỉ là người chơi nuôi râu. Ông ta cúi, rút chốt nhấc cổng tán, suỵt đuổi những con vện, con vá lốc nhốc chạy quay vsfo dưới nhà ngang.
- Mời anh đội vào chơi.
Trên một cánh cửa treo một tấm gỗ mộc ở giữa sơn đen một dòng chữ to: Hutte censt ans * (Lều cô đơn trăm năm). Tôi đánh vần bập bõm, nhưng không biết chữ nghĩa. Trong nhà đúng kiểu cách nhà phong lưu đông quê, phản gỗ mít, giừng thờ hương án sơn then, đôi giải y môn màu koa hiên đã úa.
Chủ và khách ngồi trên chiếc tràng kỷ mây đan, giữa bàn đặt một bát điếu mộc và cái ấm rỏ. Chủ rót mời chén tống nước chè nụ âm ấm.
- Bác là bác tư Nhỡ trưởng thôn?
- Thưa, tôi là tư Nhỡ. Còn trưởng thôn thì tuỳ đội bây giờ thương để cho thì được. - Nhà ta đi vắng cả?
- Mẹ nó, với các cháu lên chợ huyện. Chả là ngoài vườn có buồng chuối, buồng cau đem bán, nhân thể mua mắm muối. Ấy làng xa chợ vất vả thế, mỗi việc đi mất cả buổi. Thế anh đội về ở nhà ai?
- Nhà bác Diệc.
- À, nhà Diệc…
- Nhà ta năm nay…
- Cám ơn anh thăm hỏi nghèo khổ. Tôi xin kể sự tích tôi về cái xóm Am này cho anh nghe. Năm trước tôi học trên huyện. Thời Tây, trên huyện mới có trường mà. Rồi bố mẹ tôi mất cả. Tôi phải bỏ học về trông nom cửa nhà. Nhà tôi được đinh, tôi là con một. Ruộng nương có một ít, lại xâm canh bên kia sông.
- Sao con cả lại là tư?
- Tư Nhỡ vuốt râu cười:
- Ấy, tư là tư văn. Mua cái tư văn, được ra văn chỉ điếu đóm các cụ, khỏi bị xách nhiễu phu phen tạp dịch.
- Bao nhiêu tuổi thì được vào tư văn?
- Không lệ tuổi, chỉ biện mâm xôi con gà với khoản tiền khoán. Tôi năm nay ngoài ba mươi. - Ba mươi bao nhiêu?
- Ba mươi tư ạ.
- Thế mà để râu dài đến rốn!
- Ấy bộ râu cũng có tổ chức sự của bộ râu ạ. Quê chúng tôi gọi râu này là râu chống càn. Chả là mỗi lần Tây các bốt quang vùng kéo qua đây, khi lấy phu vác đạn, khuân đồ, khi bắt lính, bắt người ta đẩy ra đường 5 hứng mìn. Râu tôi dài thế này, già nua thế này, tôi lại chỉ lên cái biển có hàng chữ Tây “Cái lều một trăm năm” kia, thế là chúng nó cười hô hố, xuống lục trứng chuồng gà, ra vườn đẵn chuối, lấy đu đủ rồi cút. Lần nào tôi cũng thoát. anh ạ.
- Bây giờ thì cắt râu được rồi.
- Dạ.
- Tôi ngồi một lúc, không còn gì hỏi nữa, đứng dậy. Tính nhẩm đã vào cái nhàn trong xóm, mấy người… mấy nhà… Tối nay họp rễ chuỗi, chiều mai ra ssan đền họp đội. Nhất định mình bơi một loạt, thoạt đầu đã trúng rễ, lại chuỗi, mấy chuỗi. có thể cả tư Nhỡ, ruộng vài ba miếng, lại xâm canh đồng khác thì chưa phải địa, phú mà lại có tinh thần chống càn. nhưng mà trưởng thôn, lúc nãy quên mất chưa cắt chức trưởng thôn tư Nhỡ, vì tổ chức cũ phải giải tán, có cử lại anh ta thì cũng là tổ chức mới. Sắp sẵn người khác, hay là Vách, Vách khùng có được không, còn Đơm thì đội du kích rồi… Trông Đơm lam lũ, rách rưới, nhưng cái vai cái lưng mây mẩy và hai con mắt thì ngon như củ khoai lùi ăm được. Trạnh lòng nhớ cái câu trắng trợn của thằng Vách nói “ba cùng nhưng không được cùng ngủ với con Đơm”. Là đùa, cũng là thật, thằng khùng mà ma xó.
Về đến nhà bác Diệc. Cũng như chiều hôm trước Đơm đương lúi húi trong bếp. Ở góc buồng ngoài, hai con mắt trắng rợn của người tàn tật nhìn lên. Đơm ra rút rạ.
- Anh đã về.
- Trưa nay Đơm đi đâu?
- Em xuống chợ mua cái này.
- Chợ huyện à?
Đơm không trả lời mà lấy trong yếm ngực ra một gói lá chuối. Mảnh lá chuối cong cong, thò hai chiếc bánh đúc ngô vàng hây, cả miếng cháy ở giữa đen ròn. Đơm đưa bánh cho tôi.
- Ô hay, sao thế này?
- Em thấy anh thích ăn bánh ngô.
- Sao em biết?
- Em nhặt cái lá gần chõng, còn dính bánh…
Chết tôi rồi. Đơm cười, nét mặt cô gái dậy thì xanh xao bỗng đỏ hồng, xinh hẳn. Có lẽ cô cười cái mặt nhăn nhó, méo mó khó hiểu của tôi. Nhưng tôi cầm ngay gói bánh. Vừa thấy cái bánh, cơn đói đã bồn chồn lên rồi. Tôi chẳng ngại. Năm ngoái ở Quảng Xương, ở Thiệu Hoá, ở Nông Cống, không ở đau tôi chịu đói.
Tôi vẫn ăn vụng. Mỗi hôm đi họp đội, tôi lại tạt vào chợ, vào quán, mua kẹo, bánh đa ướt, có khi lùa vội bát bánh đúc chan canh cua. Chỉ cốt trông trước trông sau, không để ai nhìn thấy thôi. Mà biết đâu, suy bụng ta ra bụng người, có lẽ cả đội cũng thế, cũng ăn vụng.
Tôi bỏ gói bánh vào cái túi đeo vai. Nhung tôi vẫn nắm tay Đơm. Trong mảnh áo rách vai, cái chân vú nần nẫn. “Em ngoan quá”. Tôi lấy trong khe quyển sổ ghi chép hai tờ giấy bạc một đồng kẹp trong đấy.
- Cầm lấy, thỉnh thoảng mua bánh đúc cho anh. Đừng để ai trông thấy nhá. Anh đương phải ba cùng. - Em biết rồi.
Đơm cầm tiền, đút vào mép yếm.
- Em có cái túi hay nhỉ?
Tôi thò tay lách vào ngực Đơm.
Đơm đẩy tay tôi ra.
- Rõ cái anh!
- Anh xem cái chỗ để tiền.
- Ngoài này kia mà, lại đi sờ vào trong.
- Anh nhầm.
Tôi lại thọc vào ngực Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi vân vê.
Chập tối tôi nói với bác Diệc: “Đi bảo cậu Vách xem còn người nào trong xóm cũng nghèo như cậu ấy thì rủ vào đây tối nay họp rễ chuỗi”. Một lúc, mấy người lục tục đến, cả Đơm cũng được họp. Mỗi người tìm một cái cột dựa vào. Im lặng, chờ tooi nói. Tối mịt, chẳng ai nhìn thấy mặt ai. Đến lúc bác Diệc thấy tôi mở quyển sổ túi xách mới vào bếp mới cầm ra cái đèn đom đóm như đêm trước.
Một bóng người cao lớn lù lù vào cửa. Ánh đèn vừa loé thấy tư Nhỡ. Vẫn tấm áo năm thân lụng thụng, nhưng bộ râu ria đã cạo nhẵn, mặt trơ khấc, lơ láo trông khác hẳn.
- Chào các đồng chí!
Vách đứng dậy ngay, sừng sộ.
- Ai đồng chí đồng chuột với mày! Mày là thằng trưởng thôn của đế quốc, ai bảo thằng tổ chức cũ đến đây. Anh đội cho thằng này họp với chúng tôi à?
Tôi bước ra nói nhỏ với tư Nhỡ:
- Hôm nay chưa họp xóm, tối mai.
Tư Nhỡ tiu ngỉu quay ra, mất hút vào bóng tối.
Vách còn đay đi đay lại hỏi người nào gọi thằng tư Nhỡ đi họp rễ chuỗi. Ai cũng im thin thít, không ai nói và cũng bởi vì không ai biết. Chỉ tại tôi, lúc chiều ở nhà tư Nhỡ ra, tư Nhỡ theo nằn nì: “Tối nay họp à? - Không hiểu sao, tư Nhỡ đã biết- Anh cho đàn em họp với”. Tôi cũng ừ ào, thế là nó cạo râu, đến.
Tôi mở sổ tay, mặc dầu ánh đèn không thể nhìn ra chữ, tôi cúi xuống làm như nhìn tờ giấy rồi ngẩng lên nói một thôi một hồi:… phóng tay phát động--- giai cấp nông dân đánh đổ giai cấp địa chủ… Tối mai họp xóm tôi công bố… tôi chỉ định đồng chí Diệc ra làm trưởng thôn xóm Am…
Vách hỏi:
- Thay thằng tư Nhỡ à?
- Giai cấp nông dân ta từ nay làm chủ.
Một mình Vách vỗ tay.
- Thế thì được.
Tôi tuyên bố giải tán cuộc họp.
Vách sửng sốt hỏi:
- Còn cụng đầu tố khổ kia mà. Trong tài liệu bảo thế.
Tôi gạt đi.
- Vừa rồi thế cũng là tố khổ. Chúng ta làm việc phải hết sức khẩn trương.
Tôi nói và đứng dậy. Phải, họp cũng là tố khổ chứ còn gì. Cái thằng Vách nửa điên nửa tỉnh này có thể rầy rà đây. Mọi người về rồi, tôi lại nằm lên cái chõng. Tôi lần túi lấy hai chiếc bánh đúc ngô của Đơm, ăn xong chỉ kịp quờ tay bỏ mảnh lá chuối vào túi dết rồi ngáy khò khò.
Sáng hôm sau, bố con bác Diệc đã biến đi từ bao giờ. Không biết Đơm đi đào chuột vẫn bố hay lại lên chợ huyện mua bánh đúc. Dác Diệc không rủ tôi như hôm qua nói. Và bác tưởng tôi phải đi họp. Thôi thế cũng may, bắt chuột cũng khiếp như bắt rắn, những cái nợ đời gớm ghiếc ấy mà. Mà tôi biết bụng người ta chẳng ai dám thật lòng rủ đi làm. Anh đội bảo thì phải rủ thôi. Ở Nông Cống tôi cũng vác cuốc ra đồng, rồi quảy đất đắp đê, sưng tấy cả bên bả vai. Thấy tôi lớ ngớ ngứa cả mắt, lại đau vai, hôm sau anh rễ xin tôi cứ ở nhà nghiên cứu tài liệu, trông đỡ trẻ con và quét nhà. Thì ở đây cũng thế.
Tôi mở sổ tay ra, kê lên ba-lô. Người mẹ ốm như cái cọc bếp, có cũng bằng không, tôi cũng chẳng để ý đến. Thực tôi cũng chẳng có việc phải nghiền ngẫm sổ tay. Tôi ngồi rình xem Đơm có về. Tôi nhớ cái vú nây nây. Con mèo đợi vồ chuột. Đêm ngủ say quá chứ thèm từ chiều hôm qua. Khác nào thỉnh thoảng được cái bánh đúc, nuốt hết rồi mà môi vẫn tóp tép. Nhưng không thấy Đơm về.
Gần đến trưa thì bác Diệc lùi lũi vào cổng. Những vết bùn xám xì lấm lên tận mặt. Không được con rắn con chuột nào. Chuột làng chỉ mới đánh hơi tìm hang mà chưa ra đồng ở. Về qua cái vũng trâu đầm, be lên, bắt được mấy con tép. Mọi khi thì ném vào cái chĩnh làm nước cáy. Nhưng nhà có khách, đem nướng cho bữa có mùi thịt cá. Không thấy Đơm cùng về. Đơm đi đâu? Hay bởi nồi cơm cám nuốt khé cổ buồn như chấu, chỉ có người mẹ không lạch đi được đành ngồi nhai nghẹn từng miếng. Chưa ai kiếm được cái ăn chỗ nào cứ việc đi, chẳng cần bữa ở nhà. Vắng cả những thằng cu con. Tôi với bác Diệc ngồi ăn bát cám có mùi gạo tấm, mùi tanh con tép, cũng dễ nuốt, hơi khác mọi khi.
Ngủ trưa dậy bác Diệc đã lại đi rồi. Tôi vào goác bếp, cầm một cái cào cỏ. Tôi vác cào lên, một bên đeo túi dết. Cá xóm biết anh đội đóng bộ đi làm đòng đấy. Ai chả biết anh đội làm trò, tôi mặc họ và thản
nhiên. Tôi xắn quần, đi từ xứ đồng cao trong chân tre ra con ngòi sâurồi lại lội qua mấy khoảnh ruộng trũng. Đương khi nông nhàn, đồng áng lơ thơ xa xa mấy người lúi húi cào cỏ. Thấy người lội đồng mũ, quần xoe trên gối, người ta ngẩng lên rồi lại cúi xuống quờ tay gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng đấy mà.
Tôi có thăm hỏi đồng áng gì đâu. Đi guốc vào bụng những anh đội mắt trố như mắt chó giấy, cái gì cũng lạ lại làm ra vẻ ta đã thạo. Nhưng tôi còn láu cá hơn những người có thể biết tôi vờ vẫn. Tôi cốt vác cào cỏ, sục mấy cái cho răng cào dính bùn và hai ống quần thì lâm tâm cỏ may. Tôi ra cửa đền ngoài chân đê hội ý đội. Làm bộ như tôi vừa đi làm đồng về chưa kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp.
Tôi bước lên đường cái. Có người trong xóm chạy ra hớt hải gọi:
- Anh đội! anh đội!
Tôi quay lại nhìn. Lại thằng Vách. Tay Vách lăm lăm con dao bầu sáng loáng. Tôi chợt hoảng. Thằng này nổi cơn điên hay sao. Nhưng nhớ ra cái nghề mổ lợn của Vách, tôi bình tĩnh lại.
- Gì thế?
- Tôi bảo anh đội hai câu này nhé, hai câu thôi. Có nghe tôi mới nói.
- Nói đi.
- Tối hôm qua anh không cho tôi tố thằng tư Nhỡ, tối nay họp xóm tôi tố nó. Anh bảo phóng tay kia mà…- Còn câu thứ hai, nói nốt đi. Đương vội đây.
- Anh ra đền họp bí mật với đội chứ vội cái quái gì.
Rồi Vách cười khành khạch, giơ dao:
- Này tôi mách anh: cái thằng Diệc làm rễ của anh là rễ thối đấy. Con cái nhà địa, anh biết chưa? Tôi đứng nhìn Vách, không biết nó lỡm hay thực.
- Tôi chỉ nói thế, anh đi hỏi cả làng này xem.
Rồi Vách múa con dao quăng quả đi. Tôi có cảm tưởng câu nói của nó vừa rồi có lẽ là tỉnh, bây giờ hoa dao lên mới là điên. Tôi lặng một giây, rồi tiếp tục đi. Cũng chưa nghĩ ra thế nào.
Tưởng đến sớm hoá ra đội trưởng Cự và mấy anh đội bần cố nông ở xã lên chưa có tiền sắm đồng hồ thế mà đúng giờ ngồi trong đền. Hai anh đội này sợ Cự một phép, việc gì nặng nhọc cũng xung phong. Cả cán bộ Đình ở xóm bên cũng đã đến. Lại ngỡ chỉ có một mình mình cầm cái cào cỏ có vết bùn. Không, xem ra
người nào cũng khoe ngầm ta vừa chân ướt chân ráo ở nơi bán lưng trời, bán mặt cho đất về đây. người thì cái rỏ đeo đít, người cái cuốc trên vai hạ xuống, có người quang gánh lõng thõng để ngoài thềm, cái thừng và chiếc nõ xỏ mũi trâu lăn lóc trong đám cỏ làm như đương đi đuổi trâu. Nhưng ai đấy có khôn mà chẳng ngoan. Sợi thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy nhau cả. Mọi người nhìn nhau chỉ nhớn nhác một cái và lặng lẽ quay mặt đi.
Trong chân tường, chuột đùn lên từng đống đất. Ồ, mai bảo bác Diệc ra đây mà hun chuột. Mọi người tới đông đủ. Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận, kéo ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh. Hoặc như ngày xưa, cách cướp tụ bạ một chỗ đợi đêm tới bật hồng lên xông vào làng. Vẻ mặt người nào cũng ra chiều đăm chiêu, quan trọng.
Chúng tôi đương làm thay đổi cái làng này, xã này. Cả nước đã đứng lên. Các tất cả sẽ bị đánh đổ, bao nhiêu địa chủ và bon bóc lột phải đạp xuống đất đen, chúng tôi phóng tay đưa bần cố nông lên vị trí và địa vị người làm chủ thực sự của đồng ruộng. Tôi đương làm thế, tôi đã làm thế, tôi đương làm tưng ngày, từng ngày theo kế hoạch…
Tôi mở sổ tay ra nhẩm việc. Đã bắt được rễ, rễ cái chắc chắn. Đã họp rễ chuỗi. Chắc là cái thằng rễ chuỗi điên dèm pha bác Diệc thôi. Ta phải quyết chứ. Tối mai họp xóm, giúp cho bác Diệc đứng vị trí trưởng thôn. Nguyên tắc: làm kỹ nhưng không được làm thay. Các bước sau còn dồn dập, còn nhiều cái khó. Đã nắm được tình hình xóm và tất cả cũ. Cứ báo cáo cách ăn nói của Vách và cuộc thăm dò nhà tư
Nhỡ, đi sâu đi sát đến thế chứ thế nào. Có ba hôm làm những ngần ấy việc.
Nhưng tôi vẫn còn lờ khờ. Ai cũng trình bày sôi sùng sục. Chưa đến lượt tôi, nhưng thoáng so sánh việc mình làm đâm ra chỉ bằng con muỗi mắt. Họ giỏi thế thật hay sao? Đội trưởng Cự đứng băm cả hai bàn tay, mắt đỏ đòng đọc. Lợi dụng lúc đó tôi đá ngầm cái đít túi dết. Quả là chỉ vấp cái mép bìa sổ cứng.
-… Liền hai đêm đội họp rễ chuỗi. Cụng đầu tố khổ luôn, bộc lộ tức khắc tình hình. Tinh thần nông dân lên, chặn đứng mọi thủ đoạn âm mưa địa chủ. Đêm qua họp tố khổ suốt sáng, phải cản lại chứ nhiều người cầm dao vừa chạy vừa khóc đi tìm địa chủ (Tôi nghĩ bụng: - Ờ mình đụt thật. Tưởng chưa đến bước ấy. Không sao. Sẽ báo cáo là đã tó khổ sut đêm, suốt hai đêm). Đến sáng, tất cả đầm đìa nước mắt. Cái khổ như núi đè xuống, phải cứu giai cấp nông dân. Không đợi họp xóm, chưa đưa rễ làm đội trưởng thôn mới, cứ tập thể rễ chuỗi là trụ cột rồi. Tôi đã xin được lệnh đoàn uỷ cho bắt bí thư chi bộ xã, thằng bí thư hai mang. Hai tên khác có nhiều tội ác đã cho canh gác khống chế tại nhà. Xóm nào cũng phải phóng tay lên. Lấn bước sau, để có thì giờ dự trữ làm kỹ. Thế là đội ta đã chiếm lĩnh trận địa, dựng một đàu cầu vững chắc ở thôn Đìa. Các xóm khác cho biết tình hình thế nào?
Đình còn hăng hơn đội trưởng:
- Tôi đến đây họp thì ở nhà rễ chuỗi còn đang cụng đầu tố khổ, quên cả cơm trưa. Trưởng thôn cũ nghe mong manh đã chạy trốn, tôi cho đuổi giải về cũi vào chuồng trâu rồi.
Lúc đội trưởng Cự bắt bí thư và cho du kích canh gác nhà địa thì tôi câm như hến. Nhưng nghe cán bộ Đình nói thế, tôi đứng phắt lên:
- Phải có biên bản, tôi ký đề nghị bắt đã chứ. Tôi đội phó phụ trách toà án. Phóng tay nhưng đúng luật pháp mới được.
Đội trưởng Cự nói như quát:
- Địa chủ Bối phát biểu đứng.
Tôi phổng mũi nhưng lại xẹp liên tiếp khi đội trưởng vẫn nói:
- Song không thể lề mề, lối bàn giấy nhưng địa chủ Bối, thế thì xổng bu, xổng chuồng, chúng nó chạy ráo. Cứ như địa chủ Đình, đến khi bác Diệc bước hai đội đặt văn phòng cố định bấy giờ bày biện giấy tờ ra cũng vừa. Bây giờ cứ miệng nói tay làm, nhanh nhanh lên, nhanh lên.
Tôi chưa đinh thần thì đội trưởng trỏ tay, đến lượt tôi báo cáo. Đã nghe mất thôn rồi, tôi biết cách thêm chi tiết dấm ớt, hơn hẳn những dự tính lúc mới đến. Riêng việc thằng Vách đón đường mách Diệc có liên quan địa chủ thì tôi dấu. Nói ra chỉ rắc rối, mà còn phải kiểm tra cái đã. Báo cáo tình hình thôn Am…
- Không được thì thào nói chuyện riêng. Nghe thôn Am…
Tôi thao thao dõng dạc, mạch lạc, tự tin, như thật. Không dữ dội bắt bớ, nhưng đúng phăm phắp bài bản hôm xuống xã.
- Các chí góp ý kiến với thôn Am nào. Mau lên, tối nay còn họp xóm cho kịp lịch công tác. Bên kia đê, mặt trời đã xuống vàng khé. Bỗng nhiên đội trưởng Cự choảng tôi chan chát:
- Đồng chí Bối bắt ngay được rễ, lại xâu chuỗi, cụng đầu tố khổ rồi nắm tình hình xóm và đi xem xét đồng ruộng, thế là ưu điểm. Nhưng mà ưu điểm ấy chỉ để thằng biết võ đánh nhau với thằng biết võ. Kẻ thù không cần như thế, đồng chí còn đương múa tay ra võ, nó đã thò tay bóp dái đồng chí ngã lăn đùng ra rồi. Nó phá ngay trước mắt mà đồng chí không biết gì cả. Cái thằng khiêu khích, thằng Vách ấy phải gô cổ nó lại, sao lại để cho nó họp chuỗi. Không được, cho về bắt ngay. Phải gác nhà tư Nhỡ, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thằng này vờ vẫn mua chuộc cán bộ đấy.
o O o
Tháng ba năm ấy, làng vào hội lệ.
Xưa nay, làng này chẳng có hội bao giờ. Chẳng phải vì sự tích ông thần hoàng, vì có cái hèm kiêng kỵ, mà bởi vì làng nghèo không đủ người có tiền giắt lưng đóng góp được xuất việc làng. Đến ngày kỵ thánh
hàng năm cũng chỉ có mâm xôi, con gà, thẻ hương của hội tư văn biện lễ. Rồi thì gặp năm phong hoa đăng hoà cốc, được vẻ no ấm mới gọi phường xứ Đông sang hai ba đem chèo hát. Thế thôi, mọi thứ chỉ thèm mà không có rồi đi xem hội, đi xem rước làng khác. Con trai con gái nô nức đi nhòm cái vui của người ta. Có lẽ bởi thế mà con gái làng, như cái Duyên, nhiều đứa lấy chồng thiên hạ.
Trong nhà vắng người, những con mối đuổi nhau vờn nhau trên vách kêu roèn roẹt, rồi lại im như tờ. Dưới nhà ngang - ngày mùa vào vụ chiêm tháng mười, thợ cày thợ cấy, thợ gặt đến ở, kẻ ăn người làm tấp nập ngày đem như phiên chợ. Cả khi vãn vụ vẫn còn lại masy người ở mướn quanh năm trông nom vườn ruộng.
Đã gần nửa đêm. Bên kia những khoanh tre, tiếng trống, tiếng gõ beng beng sắp tan trò cứ sôi lên rồi lại phẳng lặng. Ngay từ sau cơm chiều với mấy chén rượu, lão phó Thìn đã ngủ được một giấc, bây giờ trở dậy. Lão ra sân, bước thong thả. không ra đi dạo, không đi canh nhà. Mà thói quen như đi tuần, như đốc phu, lúc nào cũng từ lúc ấy đến sang canh, tay cầm cái gậy tre, lão rà rà trên sân gạch xuống sân đất ra ngõ cổng tán rồi ngoài bờ luỹ. Cho đến lúc nghe tiếng can vạc đi ăn đêm về bay qua ngọn cây dừa, lão mới vào nhà, lại ngủ cho đến sáng bạch.
Những đêm chèo hát thế này, lão phó Thìn còn thức đợi bọn người làm đi xem về, soát lại chúng nó có đóng cửa cẩn thận không, thường khi cứ phải chốt lại. Phó Thìn đứng ở cổng trong, cạnh bụi chuối, ánh trăng nhạt thấp thoáng nhưng người đi chơi về mà không trông thấy, mà có nhìn thấy chắc cũng biết lão hay đứng như ma xó, chẳng phải rình mò gì. Nhưng phó Thìn đã đếm từng người vào. Lão lẩn thẩn đếm chơi, mà cũng thử xem thừa thiếu thế nào, ngộ có đứa phản chủ dắt đất đem cướp vào thì sao.
Người đã về cả, lão ra mó máy những cái then, cái chốt đã cài, đã nêm kỹ chưa. Những tối thường ngày cũng làm thế, có vậy lão mới vào ngủ lại được.
Diệc về sau cùng. Lão trông thấy bóng thường Diệc cởi trần, đi lênh khênh. Diệc ở nhà ông phó đã lâu. Diệc mồ côi cha mẹ, Diệc đã đến ở làm nhà này từ năm Diệc còn để chỏm, chưa nhấc nổi cái cày, chỉ xách nước và đi cắt cỏ suốt ngày. Lão phó Thìn nổi cơn tò mò. Quái sao thằng Diệc lại đi sang phía bếp, chúng nó ở bên nhà ngang cơ mà.
Bếp có một gian, gian bên đựng củi, thùng rơm và chạn bát. Bên trong, con Khoèo ở. Nó không nói, không đi được. Để ở nhà trên không tiện cơm nước và mọi thứ. Lão cho vẩy thêm một trái làm cái ổ cho con Khoèo.
Nghĩ đến con, lão phó Thìn khi nào cũng rầu rĩ trong lòng. Như là thói quen đi rà rà trong nhà ra vườn ra luỹ rồi mới về chợp mắt lại được. Nhưng ở đây không phải giấc ngủ mà là nỗi lo, là sự đăm chiêu cả đời. Vợ chồng lão đông con, đủ nếp tẻ, đều đã nên người dẫu lấy vợ lấy chồng làng này hay ở xa thì cũng cơ ngơi đày đủ cả. Chỉ còn một cái khốn khổ này. Sao mà lại sinh ra cái quái, cái nợ thế. Không khi nào lão dám nghĩ hơn nữa.
Thằng Diệc kia đi vào trong bếp làm gì. Lão chỉ nghĩ thấy lạ thế thôi, chứ lão không dám sinh nghi. Thằng đó hiền như đất, không phải đứa trộm cắp. Mà trong bếp cũng chẳng của nả để lấy và lão cũng không mảy may ngờ nó có tìmh ý ra sao với cái con Khoèo bộ xương ngồi xương nằm. Mà trời ơi, con Khoèo cũng ngoài hai mươi tuổi đầu, nhưng mà nó có phải là người đâu, nó là cái phúc cái tội của nhà này thế nào đây.
Nhưng lão thấy Diệc đi tới, lão phó lý chợt nảy ra một ý khác, lão phó chưa nghĩ ra thế bao giờ.
Diệc đã trông thấy ông phó trong bụi chối ra. Diệc chẳng lạ cái tính ông phó hay rà rẫm đem hôm các xó xỉnh như thế.
Diệc chấp tay:
- Ông chưa đi nghỉ. Con đã chốt cẩn thận cổng tán, cổng trong rồi.
Lão Thìn vẫy cái gậy.
- Đứng lại, cho tao hỏi. Mày vào bếp làm gì?
- Con không vào bếp. Con đứng đái trước nồi nước thiếc ở ngoài.
Lão Thìn sừng sộ:
- Đừng có chối. Ông đã trông thấy, ông đã biết, ông đã đi guốc vào đầu mày rồi.
Nói thế ông phó Thìn lại dịu giụong, rẽ rọt buộc mở từng câu:
- Mày vào trong bếp với con Khoèo. Thôi tao cũng cho phép, đừng lén lút mà tội nghiệp, tao cũng thương. Tao cho mảnh đất đầu đồng làm cái nhà, vợ chồng đem nhau ra đấy ở. Rồi làm hai miếng ruộng ở đồn cao ấy, tao cho. Tao cho không, nghe chưa?
Diệc dạ nhịp. Diệc đã ngoài ba mươi, nhưng biết là cái kiếp đi ở nợ cả đời rồi. Chưa bao giờ dám có ý nghĩ lấy vợ. Chẳng cơn cớ nào nào có thể để cho dám thế được.
Ông phó đã nói thế, thế là thế nào. Thoạt đầu câu nói lạ, khiến Diệc thảng thốt, Diệc nghe chưa thủng, đến lúc Diệc nghe ra rõ ràng thế rồi thì lại thấy êm êm.
Một hôm, Diệc khiêng mấy cây tre ngâm trong ao ra, rồi dỡ cây rơm quảy mấy gánh. Diệc lội ao vét bùn lên trộn trấu, ai hỏi bảo để trét bức vách. Chẳng mấy lâu, người đi qua đã trông thấy một túp nhà mái rơm mới.
Đêm kia, trăng sáng nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên. Diệc vẫn cởi trần như đêm xem hát. Diệc cõng cái Khoèo ra nhà mới - cái nhà vẫn ở đến tận
bây giờ.
BA NGƯỜI KHÁC
Tô Hoài
www.dtv-ebook.com
Chương 2:
Trời nóng ong ong đã mấy hôm, như sắp bão. Thôn Am rúc tù và từng hồi thúc người đi đắp đê quai phòng lũ. Người ra đồng cứ cung cúc như chạy mưa. Mọi khi chả việc công ích nào được nhanh nhẹn như thế. Chính quyền xoá hết rồi, chưa có đến cả trưởng thôn. Vậy mà trên huyện vẫn có công văn thúc mọi việc. Thế là đội, các anh đội phụ trách xóm cáng hết. Ai cũng lội bì bõm như trâu đằm, cả các anh đội xung phong ra chuyển đất, bùn ánh lên mặt tôi nóng rát. Hò lơ…hó lơ… hò lờ… Lại hò hát. Kể ra mọi người cũng hăng thật, không việc công thì đi kiếm miếng ăn, cứ biền biệt từ mờ đất, trưa về lại ngồi học chữ.
Ấy là chỉ có ở thôn tôi mở lớp. Đợt công tác nào tôi cũng giở môn võ lớp i-tờ xoá mù chữ. Chưa nơi nào ê a nhai hết quyển vỡ lòng đã vỡ lớp bởi cải cách ở xã đã xong, hết đợt.
Nhưng mỗi cuộc tổng kết tôi đều được biểu dương thành tích về văn hoá hơn cái thôn khác. Chỉ có Đình cười nháy cái ve mắt. Chắc thằng này chửi thầm tôi úm phép mấy em. Quả là ở đâu cũng có cái nàng dân quân đến lớp rồi đông. Tối họp khuya, rồi đi gác rồi như ai dựng gáy lên từ tờ mờ sáng. Không một lúc ngớt đầu tắt mặt tối. Hò lơ… hó lơ…
Ngoài đe về, tôi vừa rửa ráy chân tay xong dưới cầu ao, thấy đi vào một những người, thoạt loáng thoáng, đến lúc ra khỏi bụi ruối mới nhìn tường mặt một cô gái bước nhanh nhẹn, áo vải phin nâu, cổ tay tròn, mũi súng trường nhấp nhô bên mái tóc chít khăn đầu ngôi rẽ lệch. Không quen mặt, tôi đoán là dân quân thôn khác. Cô này gọn gàng, mắt sắc long lanh, cứng cỏi. Mấy hôm đầu mới về nhìn đâu nhìn ai cũng chỉ thấy lam lũ. Cái áo tấc của Đơm về vệt bùn, bong mất cái khuy ngay giữa bụng. Ngửi người lúc nào cũng mùi cỏ khô. Nhưng lâu lâu, trông các cô cũng cứ hay mắt dần lên.
Từ hôm tôi đánh vỡ cái ang quẩy nước, bác Diệc bảo; “Anh đừng kín nước, cũng đừng ra đồng nữa, cứ ở nhà. Chẳng ai nói gì đâu”. Tôi bảo: “Anh mặc tôi, tôi phải cọ xát với bà con”. Nhưng nói thế, bây giờ tôi định vào đánh giấc. Cả buổi sáng đắp đập be bờ vẹo xương rồi.
Tôi ngồi xuống chõng. Bác Diệp gái in lìm trong xó tối, như con cóc rình đớp muỗi. Nhà không có ai. Cô gái nọ bước vào.
- Em là chuỗi, em là dân quân bên thôm Chuôm.
- À… vâng…
- Đồng chí Đình…
- Đình bên thôn Chuôm, tôi biết.
- Báo cáo đồng chí Đình phạm kỷ luật.
- Sao?
- Đồng chí ấy dám hủ hoá.
- Tôi không phải đội trưởng. Cái này đồng chí lên văn phòng đội.
- Em chỉ muốn nói riêng với anh thôi.
Ơ mà lạ, ai cũng gọi nhau là đồng chí, cô này lại “anh” dám thế à. Nhưng lại thấy dìu dịu. Tôi nhìn đôi mắt cô lư đừ, chẳng có vẻ đi báo cáo việc đứng đắn, nghiêm trọng. Đình à, Đình thế nào. Tôi vẫn vừa biết, vừa kiềng tay Đình. Thằng này gớm, đã đi với nhau hai đợt, chẳng lạ. Không phải nó chỉ tinh quái trông thấy tôi thón cái bánh đúc của đội trưởng. Gĩ cũng vậy, nó tính đếm và lật mặt phăng phăng. Cách bắt rễ của Đình cũng khác người. Thoạt đầu, Đình sục khắp xóm một lúc, vào nhà nào cũng kê tiêu chuẩn ra hỏi ngay: - Mấy nhân khẩu? - Thưa năm ạ! - Cấy bao nhiêu? - Một mẫu hai. - Năm khẩu, mẫu hai. Trung nông rồi. - Tôi bị thằng Thìn đánh nhét cứt trâu vào mồm… - Không, cứ trung nông cái đã, còn cái ấy để tố khổ. Chào cả nhà nhé. Thế là Đình xách ba lô sang nhà khác. Cứ lần lượt cho đến lúc nhà nào người ta nói con số đói rách nhất, thì Đình đặt ba lô xuống, ở lại. Chỉ một buổi đã xong rễ chuỗi cả thôn. “Thăm nghèo hỏi khổ thế mới quán triệt. Hà, hà…” Đình nói nói cười cười.
Bây giờ cô này tố cáo Đình. Đình hủ hoá, tôi đã gạt đi. Chẳng dây vào thằng Đình. Nhưng thấy cô con gái mà nói chữ hủ hoá ngon như nói công tác, tôi cũng thấy hay hay. Tôi hỏi:
- Hủ hoá thế nào?
- Hủ hoá em ạ.
Rồi tôi không kịp ngạc nhiên hay gật lắc thế nào, cô ấy kể vanh vách:
- Tên em là Duyên. Đồng chí Đình về bắt rễ vào anh cả Cối em, rồi xâu chuỗi sang em và bố em. Thế, nhà em cả thảy ba rễ chuỗi. Đồng chí ấy bảo: thôn này có địa chủ Thìn, cả hàng huyện đã biết tội ác nó, nó đã bị bắt, mai kia sẽ đem xử bắn. Thế là tôi xung phong bước hai nhất đội, hết công tác rồi. Cả ngày đồng chí ấy chỉ nằm nhà. Em đi làm về đồng chí ấy lại lôi em xuống bếp. Em cào cho một cái vào mặt chảy máu ra đấy, anh có trông thấy một vết quào ở bên mũi đồng chí Đình không?
- Việc này phải lên…
- Tệ lắm, em không chịu được.
- Cán bộ Đình công tác giỏi, đã lôi ra được ổ phản động xui đồng bào bỏ quê vào Nam, khi địch còn ở đây hai trăm ngày.
- Anh không tin em sao?
- Nhưng mà, chẳng lẽ…
- Thử thì biết ngay thôi.
- Thử thế nào?
- Tối nay, anh ra nấp sau trụ cửa đền thế nào cũng tháy đồng chí ấy vào nhà em, bắt quả tang được. - Tối nào chả họp!
- Ấy, tan họp chứ. Nhà em không có rào, có cửa, đến tận chỗ em nằm cũng như không. - Nhưng cán bộ Đình ở nhà đồng chí ấy kia mà.
- Không, ở nhà anh cả Cối em ngoài bãi cổng đồng, em ở với bố em trong xóm.
- Tối nào cũng thế à?
- Cô gái cười mỉm khó hiểu:
- Vâng ạ. Em phải trốn chứ!
- Được rồi.
- Tối nay nhá, nhanh lên đấy.
Câu nói trống không thật hỗn mà lại êm tai rớt lại với cái đuôi mắt ỡm ờ, cái tiếng “anh” nghe thánh thót. Người ta chỉ thấy cứt ở chân kẻ khác, tự dưng tôi cũng đâm ra tò mò hơn.
Chứ quả thật bận đâu đến tôi. Mà cái thằng Đình cũng ác ôn ra trò, phét lác một tấc đến trời, lại tỏ vẻ lý sự, đạo đức, phải phết nó một đòn bịt mồm. Nhưng tôi lại nghĩ đến cô dân quân thôn Chuôm ấy nhiều hơn, người đi rồi mà vẫn như còn đâu đây. Cái vai lẳn, cái cười tít mắt lá dăm- khác hẳn Đơm, ôm trói lại rồi mà mặt cứ đực ra.
Trăng mùng mười lơ lửng xuống sau rặng tre bên kia. Dòng sông cạn đã bị lấp cửa, mùa mưa mới có nước, bây giờ chỉ lác đác những ao chuôm, lúc này như những con mắt thao láo dưới ánh trăng. Thế mà vẫn có người mò hến, tiếng lội lõm bõm qua, lại thanh vắng như không. Dần dần khuya, làng xóm bàng bạc
như trăng suông. Những lùm nhãn nhấp nhô lù lù, những khoanh tre lởm nhởm và cái cột trụ ngôi đền hoang cắt bóng trên nền trời sao. Tôi đứng nép một bên tường hoa, quần áo nâu nhoà vào mầu rêu tường, không ai có thể nhìn thấy.
Chắc đã muộn, những con giun con dế vừa kêu ti tỉ, đã lặng ngắt. Tôi nghĩ các chuyện lăng quăng. Rồi đâm trợn. Không phải sợ ma, mà có điều vớ vẩn bây giờ mới nghĩ ra. Có thật con bé ấy người bên Chuôm, là chuỗi, là dân quân. Hay đấy là địa chủ quăng lưới? Có thể lắm, đang lúc mới vào bước hai, công việc rối canh hẹ, bọn phản động, bọn mật thám trá hình, cả ban chi uỷ đội trưởng Cự đã phát hiện là tề nguỵ cài lại đội lốt và chi uỷ giả đã mưu mô làm cải cách vờ trước khi đội về, chúng nó sắp sẵn cả rễ chuỗi cho đội dựa. Chúng còn bày vẽ dấu dối nữa. Đấu tố phường chèo thế nào mà thằng địa chủ lại bảo nông dân: “Anh làm chức gì mà được lên vạch mặt tôi những bốn lần, nhiều quá”. Bố con địa chủ đi cày bừa đêm, dân quân hỏi, chúng nó trả lời ngông nghênh; “Nhà địa chủ đây. Các ông các bà nông dân ăn thịt hết trâu, chúng tôi phải đi làm trâu thôi”. Thôn Am này còn chưa moi được ra địa chủ, thế mà tôi mất cảnh giác, đi rình mò bơ vơ, thăng thiên. Chỉ bởi lời xúi bẩy của một con bé cha căng chú kiết. Khéo không thì bị nó cất vó cũng nên, không xong rồi.
Tôi thu mình, cúi xuống, co chân định nhảy ra chạy về. Những tôi đứng sững ngay lại. Vừa thấy thoáng một bóng người. Chỉ nhác một cái cũng nhận ra dáng thằng Đình cao lêu đêu. Tôi áp tới, giơ đèn hai pin dọi vào mặt Đình. Tôi trông thấy một vết xước ở mũi nó thật, tôi quát:
- Ai?
Đình xoè tay che mắt bị chói, hỏi lại:
- Thằng nào thế?
- Tao.
- À, thằng Bối.
Tôi đút đèn vào túi, đặt một tay lên vai Đình, thân mật.
- Đi đâu đấy?
Đình thản nhiên:
- Đi chơi.
- Đi chơi là thế nào?
-… là đi chơi…
- Biết tỏng rồi, mày đi chơi gái.
Đình hỏi tôi một câu đột ngột:
- Cậu đã biết chiến thắng của tôi bên thôn Chuôm chưa?
- Chiến thắng?
- Tớ rình năm tối, tóm được hai thằng hãi ranh ném đất làm ma đẻ không ai dám đi họp. Truy ra là âm mưau của địa chủ Thìn. Tớ sắp được biểu dương toàn đội, lại báo cáo lên đoàn nữa. Biết không?
Rồi Đình lạnh lùng, thong thả buông từng tiếng như từng phát súng:
- Này mày hãy lo cái thân mày đã nhé. Mày chưa moi được thằng địa nào. Rễ chuỗi mày liên quan tới nhà địa, thối um lên, không ngửi thấy à? Lão Cự sắp làm thịt mày. Khôn hồn thì cút mẹ mày đi.
Tôi lại hoá ra đứa bị đóng đinh vào mặt, lúng búng không mở được miệng. Đình ung dung đi vào phiá bờ tre nhà bố cả Cối. Tôi đứng trơ ra một lúc thật lâu. Những lời ghê rợn của Đình vừa đe đã làm cho tôi bủn rủn, lú lấp cả moi mưu chước.
Từ nách sau tường đền, cô Duyên chạy thoắt ra, vẫn khoác khẩu súng đeo sau vai. - Sao anh không bắt lại? Quả tang thế rồi mà.
- Quả tang quả táo cái con khỉ!
- Rõ anh này. Đêm mai đồng chí nó lại sang, em biết đi ngủ ở đâu?
Bỗng Duyên táo tợn tht lực ôm chầm lấy tôi, lúc lắc cái mũi súng sau lưng, cười hinh hích. Thân hình nóng ra ưỡn lên, tôi gồng người dằn xuống. Chẳng còn biết ra thế nào, mày dẫn xác đến, ông đương bực mình đây. Đồng chí cơi khẩu súng dựng vào chân cột sau lưng. Hai đứa lăn xuống bãi cỏ, chẳng còn biết trời đất ở đâu nữa. Tôi thở dốc, ngoi lên hớp từng hơi. Những đến lúc thằng đàn ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra.
- Em cho anh…
- Bận sau, bận sau. Em đương có tháng.
- Đâu nào?
- Sờ mà xem.
Cuộc quần thảo không biết còn lồng lộn bao nhiêu lâu nữa. Đến lúc tôi chỉ còn như cho chó què, bước
xiêu vẹo, lử hử. Lần được về nhà, nằm vật xuống chõng, thiếp đi.
Mỗi buổi sáng đều có cuộc hội ý đội, sang bước hai càng khẩn trương. Cán bộ đội các thôn lên báo cáo, nhận công tác mới từng ngày. Họp xong, Đình và tôi về cùng đường. Câu chuyện ma quái đêm trước dường như mỗi người coi tựa không có. Chúng tôi đối đáp bâng quơ, không đầu đuôi. Đình hỏi tôi đã giảng hết tiêu chuẩn trung nông chưa. Tôi bảo xong từ lâu. Nói vằng mạng thế chứ ai đâu vặn vẹo khám sổ tay của nhau. Má các tiêu chuẩn bần, cố, trung, phú, địa đến công thương dân nghèo, dân chài lưới, đến thế nào là phản động, gian ác tôi đã ghi kỹ, tôi đã thuộc đã giảng từ trong Thanh, cứ vậy mà tương ra, màu mè vơ thêm mấy cái liên hệ mới nhặt được, chứ khó khăn gì. Tôi nói thật vậy, Đình khen tôi láu. Thì Đình, Cự cũng chắc rứa, xóm nào ở đâu và đợt nào cũng tương tự, dần dần chúng tôi tự hào có kinh nghiệm nắm tình hình nhanh. Như về đay chưa hết bước một đã tỏ ngọn ngành cả cái xóm xưa và nay. Ở đâu thì nhà giàu, quan lại, địa chủ cũng ăn trên ngồi trốc. Nhà có máu mặt con cái chỉ mới mười năm, mười bẩy đã đút tiền hộ lại chữa sổ khai sinh tăng tuổi lên để sớm ra làm chưởng bạ, làm thư ký hội đồng kỳ mục, rồi dần dần lên phó lý, lý trưởng, chánh phó hương hội chánh phó hàng phủ hàng huyện. Như ở đây, khi Tây chiếm làng mấy năm trước thì ra làm xã uỷ, hương chủ, trưởng đồn, xếp bốt hương dũng, tiên chỉ, tổng uỷ… Đã thuộc cả, moi đâu trúng đấy. Có thế công tác mới chạy nhanh như trâu bồn, bằng khen, giấy khen bay về tới tấp.
Lại các thứ chuyện. Biết nhau tới tận củ tỷ, cũng dễ ba hoa.
Đình nói:
- Đội trưởng Cự sắp cho cấy lúa thần kỳ ở trọng điểm xóm Đìa.
- Đương vội thế này, lúa má gì?
- Còn lạ đâu, lão ấy đã định làm thì sắt thép lắm.
Đình hỏi tôi:
- Cậu biết lúa thần kỳ thế nào không?
- Chưa.
- Cái ruộng lúa thần kỳ đến lúc sắp được gặt, người ra bước trên mặt thóc chắc chân như đi cầu qua sông. Mà chỉ một tháng thôi, thóc đã mẩy hạt.
- Ở đâu thế?
- Trên thế giới khắp nơi. Cái khi lúa thần kỳ mới bí mật đem về trại thóc giống bên nước Manila, thế mà tình báo của ta lẻn vào lấy trộm được một vốc hạt. Cậu biết làm thế nào không khách tham quan thón một vốc hạt, nhét vào trong giầy. Thế đã khiếp ta chưa.
- Giỏi nhỉ. Ta làm ở trọng điểm xóm đìa rồi cấy lan ra cả xã chứ.
- Chắc sẽ vậy.
Rồi Đình bĩu dài môi:
- Không nói phét. Tớ ấy a, giá còn cái trại đại đồng của tớ thì lúa thần nông, thần kỳ đã có từ lâu rồi. Đình sôi nổi kể:
- Cậu còn nhớ không, cái hôm đội ta được thành lập sau hội nghị tổng kết ở Quỳnh Côi (Tôi nhớ rồi, hôm ấy có hai người được trên giới thiệu bổ xung xuống đội). Không biết vui miệng hay họ cốt khoe: người này thì thời Tây đã đỗ tú tài, người kia thời ta đạu kỹ sư bằng đỏ bên Liên Xô. Đội trưởng Cự cười nhăn mũi, hôm sau gửi lên trả đoàn cả hai người. Báo cáo là đội đã đủ khung rồi. Đội trưởng vẫn nói chỉ cần “người chữ nghĩa èng èng, học nhiều thì tài nói không tài làm, xuống xã tổ vướng chân”. Có lần Cự hỏi học lớp mấy, tôi nói: học lớp ba thời thực dân, đến độc lập thì là cán bộ rồi, không học nữa. Cự cười: “Tớ còn kém cậu một lớp. Thế mà hay, học lắm thì chỉ lý sự cùn. Chúng mình đã giới thiệu lý lịch với nhau khi thành lập đội, hôm ấy tớ mới nói sau khi khởi nghĩa tham gia cướp chính quyền huyện chưa kể thành tích công tác. Thằng Đình đã lập một trại sản xuất, cả huyện có một trại ấy. Tớ đặt tên là trại “đại đồng”, đại đồng thế giới ấy mà. Còn hay hơn lúa thần kỳ nhiều. Nếu bây giờ uỷ ban tỉnh mà nghe theo kế hoạch của tớ thì bây giờ cả tỉnh, cả nước đã thành trại đại đồng rồi.
Suốt dọc đường, rồi Đình còn theo về tận nhà kể chuyện đại đồng. Đình thao thao nói, ve mắt nháy lia lịa, sùi cả mọt mép. Cái vết con Duyên cào cạnhmũi đã bong vảy, chỉ còn hơi đỏ. Tôi lại nghĩ lắt léo hay là lúc ấy sướng quá, nó bấu vào mặt thằng này. Đình đương hăng. Khi ấy, Đình làm tuyên truyền trên huyện. Khắp nơi tiêu thổ kháng chiến, nhà cao cửa rộng phá hết, đốt hết. Các làng, các thị trấn, thị xã dựng lên những cây tre cao như chân gầu sòng, giữa buộc thanh sắt đường ray, ngày đêm dân quân đâm đổ hết tường, sụp nhà cả dãy phố. Người đường xuôi từ các làng quanh Hà nội lũ lượt chạy ngược dọc sông Hồng lên trung du. Người tản cư được chia vào ở các nhà trong làng. Đất rộng người thưa, dân cũng sẵn cái ăn, lá sắn ngắt về nấu canh, muối dưa, sắn trựa bỏ đấy cả năm chưa đào, quả đu đủ chỉ để cho lợn thì bây giờ người ăn ngon. Chả mấy lúc người tản cư ai quyết tâm ở lại cũng ổn cả, mặc dầu là tạm bợ nhưng tin tưởng.
Đình đã nghĩ ra được cái trại đại đồng cho mọi người vào ở tập trung quy củ, trật tự sản xuất. Huyện đã cử Đình đi báo cáo điển hình trại đại đồng ở nhiều nơi. nghe cũng hay, nhưng không đâu làm nổi vì các huyện ở sâu vắng người tản cư, không được trên cấp tiền. Huyện ven sông này có quỹ của tỉnh cho để trợ giúp dồng bào, bây giờ gom người ở một nơi thì phát tiền cũng dễ. Nhưng không phải Đình chỉ vì một cái tiện ấy, Đình nói ngày trước ở Hà nội, Đình làm phó nhỏ thợ xẻ đã vào ái hữu hội thợ mộc, Đình đọc sách và anh em bàn bạc đã b rồi đay loài người sẽ lên thế giới đại đồng, thì cái trại đại đồng này là một bước đúng như thế.
Năm dãy nhà dài một trăm thước, bên trong một loạt hai dãy giường nứa cho một trăm người. Nhà của phụ nữ bên kia đồi cũng to rộng thế. Chỉ đánh một tiếng kẻng điều khiển được cả nghìn con người. Kẻng dây, kẻng thể dục và hát, kẻng cơm, kẻng họp, kẻng đi sản xuất, kẻng về, kẻng ngủ… Ai nấy răm rắp miếng cơm manh áo như nhau, không có ganh tỵ vì không ai hơn ai. Ngày chủ nhật, kẻng đi chợ, tối kẻng lưẻa trại vui nhộn. Buổi sáng buổi tối, cả trại ra đứng ngoài sân hô: khoẻ vì nước, kiến thiết quốc gia, quyết tâm tiến lên thế giới đại đồng…
Tôi hỏi dớ dẩn:
- Ai cấp lương cho ăn mà lên thế giới đại đồng được?
- Đã nói từ nãy rồi mà. Quỹ trên đưa về, ai tản cư lên vào trại cũng được nuôi. Nhiều người tinh thần lắm, những thứ ở thành phố đem lên, quần áo, đỉnh nến, chén bát, đưa ra chợ bán hết lấy tiền bỏ vào quỹ trại. Nhiều quần áo sang trọng, nhưng trại đại đồng không cần những cái loè loẹt ấy của giai cấp tư sản bóc lột.
- Cậu là trại trưởng à?
- Mỗ đây chứ còn ai vào đấy!
- Có được lương không?
- Có chứ.
- Sao bảo người địa phương không được ăn trợ cấp?
- Nhưng tớ là lãnh đạo, tơ không phải địa phương, cũng không phải người tản cư. - Thế rồi sau ra sao?
- Sao à? Giá còn đến bây giờ chắc đã lên đại đồng rồi. Trồng sắn mau ăn lắm, lại chuối, lại dứa, lại trầu, lại chè…
- Thế rồi thất bại?
- Không, không thất bại. Không ai nản chí xin ra, không một người trốn. Không một vụ hủ hoá- Đình nghiêm nét mặt, nháy nháy ve mắt.
Tôi không muốn biết thêm ngọn nguồn nữa. Vì thấy Đình quả quyết “nhất định thắng lợi”. Nhưng nhẹ nhành hỏi ơ hờ:
- Thế rồi làm sao?
- Đình trợn ngược mắt.
- Làm sao ấy à? Loài người đến tận bây giờ vẫn chưa đủ sức chống thiên nhiên, phải bỏ nửa chừng vì thế chứ làm sao. Nhưng mà có tiền nhiều chắc xã vượt qua được. Tự nhiên lụt lội, sét đánh đổ nhà chết người, cả sốt rét lăn đùng ra. Mới vỡ lẽ là người xuôi lên chưa quen, ốm ngã nước sốt rét ác tính chỉ hôm trước hôm sau đa đái ra máu. Nửa tháng chết vãn cả người. Đầu tiên còn mua gỗ đóng quan tài, cả trại đi đưa đám, có điếu văn đọc lúc hạ huyệt. Sau người chết lắm quá, không kịp mua săng, phải bó nứa, hai người vác thuổng khiêng đi chôn. thế là những người còn sống sót sợ, bỏ đi hết.
- Cậu cũng chuồn?
- Đình cười hề hề, hồn nhiên:
- Ở lại dễ bị lây, chết mất ngáp à?
- Rồi cậu đi đâu?
- Tớ về huyện, lại công tác bán nói lấy ăn. Mấy năm sau được lên tỉnh, cho đến bây giờ. Chức vụ: phs phòng tuyên truyền.
- Rồi có đâu làm trại sản xuất nữa?
- Trại đại đồng chứ. Phi tay này thì thằng nào dám. Trên tỉnh cũng công nhận nếu không bị sốt rét phá hoại, trại đại đồng nhất định thành công. Tỉnh tớ -năm nào cũng đạt tiền tiến tiên phong mọi mặt công tác. Không nói phét!
Đình trợn mắt, giơ tay:
- Cả bây giờ đấy. Kể ra, nói cho công bằng, cái tỉnh này nó máu xung kích, xung phong. Trước kia, trong bóng tối, làng nào cũng có cơ sở. Khánh chiến thì đi bộ đội, đi dân công ra trò. Giảm tô, cải cách cũng lá cờ đầu. Tớ mới được thư tỉnh chúng nó báo tin tỉnh tớ được cử đi làm điểm về phúc tra. Cải cách ruộng đất xong phải qua phúc tra mới thật căn bản. Lại cùng một lúc, tỉnh tớ làm chỉnh đốn tổ chức từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, lôi ra được nhiều phản động chui vào tổ chức lắm. Đằng ấy có biết không, tỉnh tớ được chọn cán bộ đi giúp chỉnh huấn khu 5, Nam bộ, rồi giảm tô cải cách ruộng đất trong ấy. Biết đâu tớ chẳng sắp được đi. Tỉnh tớ thế mà ghê.
Đột nhiên tôi cười to:
- Ha, ha, ha…
Đình nhăn mũi, không bằng lòng, tưởng tôi chế nhạo. Hỏi xẵng:
- Thằng đểu, cười chó gì?
Rồi Đình không đợi tôi trả lời, Đình hạ thấp giọng, nhấm nháy:
- Tối hôm qua ấy, liệu hồn.
Vừa dứt cười thật tình tôi đương buồn cười về những khoe khoang tận đâu đâu của Đình, tôi vẫn đùa: - Tối hôm qua thì làm sao?
- Đình lùa thẳng tôi một quả:
- Sao ở trên trời ấy. Đằng ấy vật nhau với cái Duyên. Hì, hì…
- Đâu nào!
- Biết điều thì nghe tao dậy đây. Tớ mách cho mà biết, con ngựa cái ấy cú cáo lắm. Tớ đương theo dõi xem nó có phải quốc dân đảng chui vào lũng loạn hàng ngũ chuỗi rễ.
Tôi im, dần dần bối rối, ỉu hẳn. Thằng này ma quỷ quá. Còn đi với nó, có ngày thì mất mạng. Nhưng Đình đã nói:
- Đằng ấy ở phường phố lớ quớ chẳng hiểu mẹ gì về nông thôn. Tớ bảo cho miếng võ cảnh giác này mà phòng thân. Còn cái tối hôm qua thì tớ xuý xoá cho, không báo cáo lên lão Cự đâu. Tớ với đằng ấy về đây đã thông cảm xít xao từ cái hôm canh ty ăn trộm gói bánh đúc ngô của đội trưởng ở trong đền cơ mà.
Đình cong một ngón tay giơ ra cho tôi ngoặc. Như trẻ chơi móc xương móc xẩu bỏ lỗi cho nhau. Thế là hai thằng cười hi hi, hà hà loạn xạ cái nhà vắng. Người đàn bà tàn tật ngồi trong xó vách vẫn dửng dưng. Rồi Đình về xóm Chuôm còn dặn lại “Nhớ nhé”. Chẳng biết nhớ nhé ra làm sao.
Cũng không biết nhớ nông nỗi thế nào thật. Nhưng tưởng bấy lâu rình rập hạ nhau, bây giờ ăn cánh với nhau, thấy trong lòng nhẹ hẳn nỗi lo tính toán. Phải thôi, chẳng biết tội thằng Đình ở đâu, chứ tôi vừa dăng dện cái Đơm. lại cái Duyên. Kỷ luật cách hủ hoá thường phải ngồi chuồng trâu, phải đuổi về mà vẫn nhơn
nhơn trơ trẽn như không. Thằng đàn ông như cái đó đi đơm, thế thôi. Nhưng đây là quả cấm. Mà cũng lạ, cứ cấm thì lại hay mân mê táy máy. Mà con bé mới hớm ghê, nó là quốc dân đảng thật hay sao, nó cho mình vào tròng, hay nó hại thằng Đình, hay là thằng Đình xỏ lá chơi tôi một miếng. Chỉ biết nó đã nắm thóp hai đứa. Nó sang tận Am mách tôi về thằng Đình thì nó sẽ lên lão Cự báo cáo tôi, biết đâu là chừng. Tôi lại đâm lo.
Tối tối, xóm Am đã đụng đầu tố khổ trong rễ chuỗi và mở rộng ra tổ nông hội. Có nơi đi nhanh đã đáu địa chủ. Đội trưởng Cự nhanh nhất đã xin lệnh bắt bí thư chi bộ và một lúc sáu địa chủ có tội ác. Trong
cuộc họp đội Cự quát tháo “Phải ra tay mới phá được thế bị khống chế, bởi địch đã có tổ chức phá hoại, gây rối loạn. Ông lão loà ở xóm lội xuống ao trẫm mình, hay là địch dìm chết. Lại một đám cháy nhà. Đội trưởng nói: “Tăng cường tố khổ, mở rộng tố khổ để tìm ra đứa giết người, đứa đốt nhà”. Chúng tôi hội ý đội buổi sáng, có khi cả lúc chập tối, đứa nào bức tử, đứa nào đốt nhà cứ tố khổ rộng khắp cả thôn thì ra
thôi. Đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng lắm mới ra đường, đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh đội, người già lùi vào bờ rào ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái. Đội trưởng Cự vào đỡ tay bà lão nói: “Nông dân làm chủ không được khúm núm thế, không được mắc mưu địch hòng xoá nhoà ranh giới bạn thù. Ta đương đấu tranh, nông dân phải ngẩng mặt tự hào, còn thằng địa chủ có quỳ giữa đường lậy ta cũng mặc xác nó, bà cụ biết chưa?”
Những cuộc lên hội ý đội, lúc có đội trưởng thì rậm rịch, bối rrói tít mù, những vắng Cự thì lại uể oải, trễ tràng. Hai cậu bần cố ở xã được lên đi làm anh đội mà tôi vẫn xem khinh nửa mắt, cứ ngồi chầu hẫu, chốc lại ngáp, vừa ngáp vừa gãi nách kêu ối giời ơi rồi cuộn tròn tờ báo nội san: “Bận quá, cho em mượn về xóm đọc”- “Ừ đọc báo thì cáng thông suốt”. Tôi đoán có cậu mới biết đánh vần, ngại mở tờ báo trước mặt người khác. Một đội viên thở dài khượt một cái: “Xóm của mày ít địa, có thì giờ nằm nghiền báo, sướng thật”. Các thôn vẫn chưa lên đủ, mà Cự đi đâu không biết. Đã biết lệ, lão không về thì thôi, đã về muộn thế nào cũng nhiều việc quan trọng hay không cứ đùng đùng, tới tấp. Một lúc sau cũng chẳng thấy đội trưởng, thế là lả tả rút dần. Cũng chẳng biết bận quá hay không, nhưng đã có lịch công tác hàng ngày, rồi quá giờ phải đi làm việc khác.
Một hôm, đội trưởng Cự sang xóm Am tìm tôi. Đội trưởng đến là có việc, thằng lười tôi cũng ngại. Cự đặt bịch cái túi da bẹt đít xuống chõng. Những gì trong túi mà nặng thế, sổ sách, tài liệu và khẩu súng, hay chỉ là hòn đá bỏ vào cho oai, hay lại gói bánh đúc ngô. Anh nào cũng như ma ăn cỗ, ai biết đau. Nhưng cái dáng buông túi nặng nề tất là có chuyện. mấy hôm nay tôi đương lo sốt vó. Được phổ biến là trên đoàn uỷ nhận xét: xã này chưa đạt chỉ tiêu địa chủ. (Mà thôn tôi thì chưa tìm ra mống nào). Ở cuộc hội ý hôm trước, đội trưởng Cự nói: “Chỉ thị đoàn uỷ phải triệt để chấp hành, thực hiện bằng được. Đưa phú lên địa thì dễ thôi, một lúc cả chục thằng cũng có, nhưng làm ẩu mà bị kiểm tra thì hỏng hết. Cố lên không được đẻ cờ tuyên dương đợt này lọt vào tay đội khác”.
Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đàu cái đuôi địa chủ ở đâu. Hay là cái thôn này không có, không thể như thế, ở đâu có nông dân là ở đấy có địa chủ sách lý luận thế. Không, không khi nào chưa đấu tranh đã rút lui. Chỗ nào có
nông dân, có ruộng đất có bóc lột. Tôi lên dây cót tôi. Hay là thằng tư Nhỡ? Nhưng phải cẩn thận, chống ẩu mà. Các loại đát ruộng, đát vườn, đát thổ cư, các thứ lao động nhà nó chưa tính xong, không thể quy. mỗi tiêu chuẩn địa trên duyệt từng con số, bở hơi tai ra đấy chứ. Mà tôi nghĩ cũng chẳng nỡ. Mình thường qua lại nhà nó, hôm nào cũng chè thuốc, có hôm làm chén rượu tắc kè bổ dương, đội biết thì đi đời anh đội, nhưng mà chỉ có mình với nó thì ai biết. Ruộng nà ấy chia đầu người, lấy cả đát vườn gò chưa đủ bình quân hai miếng. Mà nó cũng cổ cày vai bừa bao năm nay. Bảo nó cái phú cũng còn non. Đêm nằm bức bối nghĩ không chợp mắt. Thì lại lần vào xó nhà vầy vò Đơm. Con bé cứ lúc mưa lúc nắng, cũng như trông nó
khuôn mặt ngơ ngơ ngẩn trẻ con, nhưng cái người nó thì nùng nục con gái. Cứ vần như khúc gỗ, nhưng lắm bận Đơm nổi cơn hung, vừa động đến đã nóng rẫy rên lên, cắn bừa vào mũi tai vào tôi đau chết điếng mà không dám kêu. Tôi chỉ tránh nó ngoạm vào mũi, sợ thành sẹo như thằng Đình thì khốn. Dù sao, ấy thế cũng tan cơn nghĩ, ra ngả vào chõng mới ngủ được.
Đội trưởng Cự ngồi xuống bên cái túi da bò vàng nghệ vững chãi như chiếc ấm rỏ. Cự không uống rượu, nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng. Trong cuộc họp. Cự lườm một cái lộn lòng trắng mắt, ai đương nói cũng phải nghẹn lời, đợi nghe Cự. Mỗi tiếng Cự văng ra cục cằn như ném gạch. Cách nói năng thô lỗ ấy cũng không giống kiểu chính trị viên đại đội mà nghệ thuật ăn nói phải hàng ngày, có khi tôi nghĩ lão này khai man, cóc phải chính trị viên cũng nên. Đợt trước hôm đầu tiên họp đội tố khổ và tự giới thiệu, cố nông Cự trình bày đã đi vệ quốc đoàn từ 1945 bây giờ chức vụ chính trị viên đại đội. Cự được quân đội điều đi cải cách ngay khi đơn vị ở khu 5 ra tập kết. nói thế thì biết thế, cũng chẳng ai hỏi lại. Cái việc lý lịch, ai cũng nơm nớp, như tôi cha mẹ họ hàng dấm dớ, nhỡ cái phải ngồi chuồng trâu thì bỏ đời. Vả chăng, Cự bẳn tính hay cáu, hay xúc động. Có hôm họp đội đọc báo, tin vụ thảm sát Hướng Điền tỉnh Quảng Trị, cả 92 người thôn Tân Lập và Tân Hiệp bị giết, còn hai người sống sót vượt tuyến ra bắc, đội trưởng Cự khoanh tay lên gối, cúi đầu khóc rưng rức.
Cự ngồi xuống hỏi tôi:
- Ở nhà à?
- Hôm nay không đi ba cùng được, tôi…
Cự cười nhếch mép - cũng là cái cười hiếm, có thể lúc ấy đương hiền từ, rồi Cự chống tay xuống mặt chõng.
- Biết rồi, thằng rễ bảo cậu ở nhà quét nhà. Quảy chưa được gánh nước đã choang vỡ cái nồi của người ta.
Tôi tái người. Chuyện kín bưng thế mà Cự biết!
Cự lại nhẹ nhàng. Tôi yên yên cơn lo. Cự thân mật, bỗ bã:
- Tối mai cậu xuống thôn Đìa dự đám cưới mình nhé.
Tôi trố mắt. Cự lại nói:
- Tớ lấy vợ.
Tôi không dám hỏi: “Anh chưa vợ a?”. Cự rủ rỉ: “Tôi ra tập kết chỉ biết lao vào công tác. Nhưng tuổi đã ngoài ba mươi, thì phải tính rồi. Vì tình thương yêu giai cấp, tôi lấy một cô cố nông ở thôn Đìa. Hôm qua họp toàn thôn, tôi ra câu hỏi: Khổ nhất thôn Đìa là ai? Cả thôn nhất trí cô ấy. Tôi tuyên bố tôi sẽ lập
gia đình với người khổ nhất. Hội nghị cười râm ran, vỗ tay hoan nghênh. Dù việc riêng cũng công khai như ban ngày, càng thuận lợi cho công tác. Cậu nhớ bài báo về kỷ luật thằng Bổn chứ?
- Nhớ.
- Lấy vợ không phải là hủ hoá, cần minh bạch.
- Đúng thế.
- Chẳng những nhớ, tôi còn cắt giữ bài báo ở tờ nội san “Cải cách ruộng đất” đăng cái nghị quyết của Đoàn uỷ. Đội trưởng Cự đã bảo tôi hai lần đọc to cho cả đội nghe để liên hệ và ngăn ngừa.
Nghiêm khắc phê phán sai lầm nghiêm trọng của Nguyễn Bổn - Đợt 5 này là đợt đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Phần lớn cán bộ đều có tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, làm tròn nhiệm vụ. Đặc biệt, một số cán bộ xuất sắc đã được tuyên dương khen thưởng xứng đáng, nhưng bên cạnh những đồng
chí tốt đó, tiếc thay có một số phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải xử trí đúng mức. Đồng chí Nguyễn Bổn là một trong số đó.
Đồng chí Nguyễn Bổn năm nay 30 tuổi, một cán bộ trao trả * (*khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1954, sau hội nghị Trung Giã, Việt Nam và Pháp, hai bên có những đợt trao trả tù binh) đã đi cải cách (đợt 4 và 5), hiện là đội viên Đào Khê. Trong đợt 4, đồng chí Bổn đã phạm lỗi nghiêm trọng: vì
hủ hoá mà phải đổi đi 4 xóm, đến xóm nào cũng lại hủ hoá ở xóm đó, hủ hoá với vợ bộ đội, vợ tử sĩ và tròng ghẹo cả đàn bà trên 50 tuổi. Điên cuồng hơn nữa, ngay trong đại hội nông dân đồng chí Bổn đã công nhiên cắn vào vào vú, vào mặt một chi chuỗi tích cực. Tổng cộng trong đợt 4, đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người và có hành động tròng ghẹo nhiều người khác. Tác hại là cả 4 xóm ấy đều lạc hậu, rễ chuỗi bị hỏng, mất tác dụng, đồng chí Bổn bị kỷ luật và cảnh cáo toàn đoàn.
Mức kỷ luật đó chứng tỏ chính sách khoan hồng mở đường cho những người sai phạm tự giác giáo dục, nhưng sang đợt 5 mới triển khai và đồng chí Bổn đã tái phạm khuyết điểm với mức độ trầm trọng hơn trước nữa.
Về xã Đào Khê mới ba ngày, đồng chí Bổn đã liên lạc với con ái, con nhà địa chủ cường hào gian ác. Cho con ái vào dân quân, đêm đến nấu chè đậu đen cho nó ăn rồi hủ hoá với nó. Lại cho mẹ con nó đi họp nông dân khiến không ai dám tố bố nó là địa chủ cường hào gian ác. Đồng chí Bổn lại đưa con Hạnh thành phần công thương vào dân quân, đen con Hạnh về hủ hoá ở nhà rễ. Bố thị Hạnh có tội đánh chết người đã bị quần chúng tố cáo, nhưng đồng chí Bổn che dấu không báo cáo với đội. Đồng chí Bổn lại hủ hoá với chị
Chắt, thiếu nhi trong xóm đã bắt được 4 lần trong bụi cây. Chồng chi ấy đi dân công vắng, mẹ chồng bị loà, tối nào đồng chí Bổn cũng vào nhà chị ấy để hủ hoá. Tác hại: Suổ bước địch không trấn áp, đồng chí cường hào gian ác lọt lưới không truy ra, quần chúng phát động không lên. Cả 3 xóm đồng chí Bổn phụ trách đều bị phân loại ba xóm lạc hậu.
Những sai lầm của đồng chí Bổn thật vô ccf nghiiem trọng. Đồng chí Bổn đã mất hết phẩm chất con người chứ không còn nói phẩm chất đảng viên và cán bộ cách mạng. Rõ ràng đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất không phải để phục vụ quần chúng mà để hủ hoá dâm ô. Đồng chí Bổn đã thành kẻ đầu hàng bao che cho địa chủ vứt bỏ hết quyền lợi nông dân, làm tổn hại đến cả sinh mạng quần chúng. Thực tế đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất mà lại đã phá hoại cải cách ruộng đất. Đoàn uỷ quyết định thi hành kỷ luật khai trừ đản ỵich, cho áp giải về cơ quan…
Học tập bản kỷ luật của đồng chí Bổn, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng không đẻ cho những tư tưởng xấu tấn công…
Ngày còn trong Thanh Hoá, khi tôi mới về đội này, đã nghe phong thanh Cự lấy một cô là “rễ cố nông” rồi Cự xin cho cô ấy đi làm cán bộ cải cách, được đưa ra công tác ngoài Thái Bình. Những người ở đội trước xì xào thế, nhưng cũng không ai tò mò hỏi. Cũng là ngủ với đàn bà, nhưng mẹo như đội trưởng Cự không ngu dại như Bổn để vi phạm điều 4 trong 10 điều kỷ luật cán bộ phát động quần chúng “không được hủ hoá trai gái với rượu chè”.
Tôi tỏ vẻ vui vui, xun xoe:
- Cưới thật à?
Cự trố mắt, mặt chững lại, trả lời không đáp vào giọng cợt nhả của tôi:
- Tối mai liên hoan giản dị nước chè xanh thôi, Đồng chí sắp sẵn mục thơ ca hò vè. Bây giờ ta làm việc…
Tôi ngồi xổm xuống vỉa hè đất nện. Tôi lấy sổ tay, mở tháp cái bút máy oerovơ.
- Sắp hết bước hai mà xóm này chưa có địa chủ. Các thôn đã lên hết, thôn Đìa dẫn đàu lên ba địa, năm phú. Thôn Am vẫn mù mờ, không mống nào. Có nơi đã mít tinh quân dân chính đảng toàn xã, xã này cũng sẵn sàng rồi mà chỉ vì thôn Am…
Cự nhác nhìn tôi rúm ró ghi chép dường như thương hại.
- Tôi phải báo cáo che quạt nan cho trên thông cảm với cậu chứ không thì cậu bị tróc về đoàn lâu rồi. Mới hôm qua họp, tôi phải dem danh dự bảo đảm với đoàn uỷ, tôi hứa đội sẽ giúp cậu.
Mồ hôi tôi chảy dài sống lưng.
Cám ơn anh.
- Ơn iếc gì, vào việc gấp thôi. cái rễ của cậu dựa chưa thối nhưng đã lung lay, vì cậu không phát động cho vùng lên được. Địa chủ Thìn đã bị bắt, thằng Diệc rễ cậ là rể của nó. cái con vợ đui què câm điếc kia
là con nhah địa chủ Thìn. Thằng tá điền Diệc phải rước của nợ đi, mà thằng đồng chí đểu cáng chỉ mượn hai miếng ruộng đầu đồng cuối đồng. Cho nên về mặt nông dân, nó không liên quan, nhưng nó cũng chưa dám vạch tội ác địa chủ. Cậu đã hiểu như tôi vừa nói chưa?
Quả tình nhiều việc Cự nói tôi chỉ mang máng rồi lại tự gạt đi, tôi nhớ cái câu thằng Vách doạ hôm trước: “địa” đấy à, thế ra… Nhưng tôi đáp lời Cự nhanh nhẹn, như đứa học trò quen nói dấu dốt:
- Tôi hiểu… tôi hiểu ạ…
Hai con mắt Cự xếch lên như mắt diều hâu. Tôi run tay. Tôi đoán có khi Cự cả cái sự tối ngày tôi mò mẫm ăn vụng như thằng Bổn. Giời ơi tôi phát sốt lên đây này.
Cự nói to, dằn từng tiếng:
- Cũng không còn thì giờ để cậu loay hoay một mình. Xã vùng tề nguỵ này đặc biệt khó, nông dân bị chết mọi cách, chết đuối, treo cổ, địch giết hay thế nào. Đội ta đã giải quyết hết, chỉ còn mỗi thôn cậu. Đồng chí đã biết câu ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, tố khổ cả tháng mà không tìm ra địa chủ, cái thằng rễ không mở mồm vạch thằng bố vợ gian ác một câu thì còn ai dám nói. Thằng Diệc được bồi dưỡng thế nào mà vẫn là cái đụn rạ, họp thôn không áp úng nói đủ được câu “thưa toàn thể đồng bào”, người ta xỏ lá phản ánh lên là cốt cán ăn nói khinh nông dân. Tôi biết hết, chẳng cần báo cáo của đồng chí đâu. Việc xóm nào không qua được mắt này. Từ nay đội trưởng Cự kiêm phụ trách thôn Am.
Rồi Cự hỏi:
- Có ý kiến gì không?
Tôi nhẹ nhõm:
- Không ạ.
Cũng chẳng biết thế nào mà không với có. Nhưng cứ cung cách nói năng, vẻ mặt đội trưởng đã dịu, có lẽ tôi cũng không bị bắt lên chuồng trâu giam cảnh cáo trên đoàn. Bây giờ đội trưởng kiêm thôn này thì tôi có đoi ba chữ nghĩa tôi về làm văn phòng được chăng. Nhưng cũng không dám hỏi. Con cua nằm co quắp dưới bàn chân con ếch, nhúc nhích một cái nhỡ bị nuốt chửng thì chết ngay.
Cự nói như ra lệnh:
- Tôi điều đồng chí sang thôn Chuôm. Bên ấy địa chủ Thìn đã vào tù, rễ chuỗi đâu đấy cả rồi. Chỉ còn đợi mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã…
Tôi “à” một tiếng như vừa mới hiểu. Nhưng Cự cũng không quan tâm, Cự chỉ để ý câu mình nói.
- Cậu thấy thế nào?
Tôi nói:
- Tôi phụ trách thôn Chuôm chung với đồng chí Đình à? Bên ấy căng lắm, mới bị trận bão lốc, tôi sang…
Hôm kia thôn Chuôm bị một trận bão cạn ghê gớm. Vùng này thỉnh thoảng gặp thiên tai ấy. Tự dưng, phía chân trời cửa bể, dựng lên một cột xoáy nước trắng xoá giữa vòm trời cơn mưa đen kịt. Rồng lấy nước! Rồng lấy nước! Cả làng cuống cuồng. Cơn lốc lao vào chuyển thành gió cuốn qua làng mạc, cánh đồng. Đâu đâu cũng gõ thùng, gõ mâm, gõ nồi đuổi lốc. Người qua đường nằm rạp xuống kẻo lốc hắt lên trời. Một vệt lốc ập qua, nhà cửa, cây rơm, cả gà lợn bị hất tứ tung lên đê, xuống bãi, ra đồng. Đội đương dồn người tới cứu chữa thôn Chuôm.
Cự nhìn vào trong nhà. Hai con mắt như hai mảnh sành của người đàn bà què hau háu trợn trưng như bao giờ vẫn thế, Cự khe khẽ:
- Tôi nói riêng cho đồng chí biết. Thằng Đình bị bắt rồi.
- Bị bắt? Sao thế ạ? Vâng, vâng…
- Thằng Đình là thủ lĩonh quốc dân đảng chui vào phá hoại ta từ lâu. Địa phương làm chỉnh đốn tổ chức kết hợp phúc tra cải cách đã đấu tranh phát hiện ra. Ô tô xuống tận đây xích tay giải đi đêm qua, bí mật đến độ trong nhà cũng không biết.
Tôi lại rối ruột lên nữa, trước mọi việc xảy đến hồ như xác việc cứ diến ra ăn khớp như thế nào. Ngay hôm ấy, tôi đeo ba lô, túi xách sang Chuôm. Quả là bên này chẳng có việc đáng kể và mọi lo lắng đều như trút lại sau lưng. Sáng sớm, tôi lên hội ý đội. ra khỏi cổng đồng, thấy Đơm. Không phải gặp, mà Đơm đứng đợi tôi từ lúc nào. Như mọi khi, mảnh áo cánh rách lướp tướp. Một đám bùn khô còn dính bết trên đầu gối. Tôi trạnh nhớ trong đêm, những Đơm lúc Đơm đạp chân cuống quýt, tiếng những miếng bùn rơi lộp độp. Rách rưới không bớt được cái hơi nồng nàn của cô gái đương thì vừa ngủ dậy. quen tay, tôi mân mê đầu vú Đơm.
Đơm đứng yên như mọi khi, mặt đỏ rần. Nhưng những giọt nước mắt rơi xuống. Đơm nói nho nhỏ: - Anh bỏ em rồi.
- Đội đổi công tác anh sang Chuôm.
- Không phải. Anh sang bên ấy ngủ với con Duyên.
- Tuyên truyền của địch, láo nào!
- Ai cũng biết hết rồi.
Tôi giải thích:
- bọn phản động đương hoành hành dữ lắm. Vừa có người thắt cổ dưới xóm Đìa. Lúc hạ thừng xuống không thấy hơi trong bụng hứ ra. Đúng là bị treo cổ. Phải đề cao cảnh giác.
Đơm đẩy tay tôi ra.
- Con Duyên mặc áo của anh có mùi nước hao thơm, cả cánh đồng ngửi thấy.
Chết tôi, hôm ấy tôi phơi cái áo may ô cổ vuông ngoài sân, Duyên ướm thử lên ngực rồi chi đầu mặc luôn. “Anh trông em có đẹp không?” Từ hôm sang Chuôm, tôi ở nhà bố Duyên như thăng trước Đình đã ở. Bởi dưới nhà cả Cối lít nhít con nhỏ nằm đạp nhau chí choé cả đêm. Bố Cối nặng tai, ai nói chuyện thì thào hay nói to cứ mặc con vịt, khi nào cũng thở than một câu không ra khoe, không ra phàn nàn: “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa biết mặt đôi guốc, cái màn, chưa lên đén chợ tỉnh”. Nhiều oong già bà cả trong làng cũng tương tự, người thì chưa nhìn thấy cái xe tay, người thì mới nhìn thấy cái cột dây thép ngoài đường cái tây áp tai vào nghe u u, người mới có một đôi lần cuốc bộ lên chợ huyện.
Nhà có người già ngăn nắp đâu ra đấy, có cửa, có bờ rào. Nhưng trong nhà cũng tềnh toàng mỗi cái phản, một chõng nằm, một chõng mâm ăn cơm. nền đất nhắn thín, hạt trám đóng chi chít, thành thử mặt đất cũng phẳng như cánh phản, được nằn ngồi như nhau. Nhưng rồi không phải bọn trẻ con chỉ chí choé ở nhà bố mẹ chúng nó ngoài bãi. Tối nào chúng nó cũng san bớt nhau ra đi ngủ lang, kéo vào nhà ông nội. Có đến ba bốn đứa, đứa chạy đứa cõng vừa đến nơi đã díp mắt lăn ra giữa nhà. Mọi khi Duyên nằm giường. tôi không thể đoán thằng Đình nằm chỗ nào. Bây giờ cái giường tre nhường cho tôi. Duyên chặt mấy tàu chuối vào lót ổ góc trong. Đi họp khuya về, lũ trẻ con đã ngủ mê tơi cả. Ông lão điếc nằm xó cột nào, không trông thấy. Tôi đặt cái túi đầu giường, rồi cẩn thận cởi quần áo, chống hai tay như con ếch bò vào chỗ Duyên. Cái Đơm nói chẳng ngoa.
- Ấy…
- Lại tháng à, xem nào.
- Không.
Duyên lăn xả vào, cưỡi lên tôi. Đến lúc tôi lử cò bợ, Duyên vẫn cắp không cho rẫy ra. Duyên thì thào vào tai tôi:
- Tháng sau em về nhà chồng.
- Sao bảo đi Hà nội với anh?
- Chỉ được cái thăng thiên. Ra đấy rồi anh bỏ em bơ vơ.
- Anh thề.
- Chẳng phải thề cá trê chui ống, cứ chui vào đây này.
- Thật tháng sau em lấy chồng hả?
- Có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ không để mà chửa hoang với ai. Mai kia thằng con đầu em đặt tên nó là thằng Bối.
- Tên nó là thằng Đình.
Duyên ngoạn vào mặt tôi, lại đè tôi ra, hùng hục: “Xem con ai nào! Xem con ai nào!”
Có hôm cả nhà vắng, chúng tôi ngủ với nhau cả ban ngày. Duyên thật ra dáng con gái, lại có bộ đồ mồi, cái quần thâm, chiếc áo cánh phin, không man dại như Đơm. Hai đứa nằm đất mát lạnh trong khuya, sực nức mùi xà phòng hao lý. Tôi có một bánh bọc giấy bóng cất đáy ba lô, thỉnh thoảng mới lấy ra gội đầu, thế mà Duyên lục được.
- Xà phòng này để anh gội đầu thôi.
- Em tắm, em xoa khắp người.
- Phải dội kỹ mới hết nhờn.
- Không, để nguyên cả bọt cho thơm, sướng cả mũi.
- Rồi ghẻ ngứa đấy.
- Chẳng sợ.
Có hôm tôi bắt được Duyên mặc cái áo may ô màu lơ của tôi, không phải chỉ người ta đồn mà Đơm nói lại. Duyên mặc đi chợ, lót trong tấm áo phin nâu mà vẫn hằn lỗ cổ vuông xanh lơ. Tôi víu Duyên lại, bắt cởi ra. Duyên cười cười, cởi lộn ngược cái áo, ngực trần ra trước mặt tôi. Thế là hẵng khoan đi chợ. Nhiều lần những áo lót tôi chưa mặc đã có mùi xà phòng thơm. Tối nào tôi cũng đe cô mà mặc nữa thì tôi đi ở nhà khác. Duyên cười không nói. Nhưng ả vẫn không chừa. Duyên muốn khoe ngầm với làng xóm “ta được mặc áo anh đội”. Cái này khéo mà tôi tù chứ chẳng chơi. Nhưng cũng chỉ thoáng sợ thế lúc một mình. Những khi có Duyên ám thì cái bài báo về thằng Nguyễn Bổn hủ hoá lại là chuyện của người khác, mình không thế, mình không giống nó.
Nhìn lại đầu làng không thấy ai, tôi lôi Đơm vào bụi duối rậm rạp. Đú đởn, nhấm nhẳn, vẫn quanh quẩn.
- Cái Duyên nó lấy áo của anh nó mặc đi làm đồng.
- Thật trông thấy à?
- Không trông thasy cũng ngửi thấy mùi.
- Được, để rồi bắt nó về kiểm điểm, nó là dân quân mà.
Đơm lại sa nước mắt, lã chã. Hai con mắt ướt tình quá, quên đời. Đơm nhấm đầu ngón tay tôi, nói nhỏ: - Tối nay đấy.
BA NGƯỜI KHÁC
Tô Hoài
www.dtv-ebook.com
Chương 3:
Nhà tù của liên đoàn uỷ đoàn phúc tra là lô cốt và trại giam ở phủ lỵ thời Pháp. Dây bìm bám rêu trùm lên lù lù tựa quả đồi xanh om, bên trong là các xà lim, các buồng giam lỗi lõm như hang hốc núi đá, dân quân các xã ngày đêm đổi phiên canh gác vòng trong và bên ngoài. Người bị bắt càng đông - cái nhà cũ không đủ chỗ chứa, phải làm thêm đẵn tre để nguyên cả gióng chôn liền thành bức tường dài rộng đến hơn hai trăm thước chia thành ngăn, mái lộ thiên chống hốc. Trông giống cái chuông trâu. Các đoàn cải cách, đoàn phúc tra, đoàn chỉnh đốn tổ chức đều có nơi giam người tương tự. Có câu hù doạ “phải ngồi chuồng trâu là toi đời”, là những trại tạm giam này.
Chiếc xe commăngca Ru* (xe commăngca đít vuông của Rumani) đít vuông xóc lồng lên. Đình bị trói chặt tay chân nằm còng queo dưới sàn xe, không thể cựa được. Thế mànn bà nchân những người ngồi trên ghế còn chặn lên cho khỏi quẫy. Ô tô chạy từ đêm đến sáng sớm, những người đi chợ huyện thấy nhấp nho
trong xe hai người quần áo nâu mới, thắt lưng da to bản cầm dựng khẩu súng trường. Chỉ lạ mắt, không ai đoán được xe công việc gì đi hay về sớm thế. Sắp đến huyện, người ngồi ghế đằng trước quay lại:
- Chốc nữa đến nơi, gọi một tiểu đội ra gác rồi cơi chân cho nó đi. Vào chhõ giam, trói ngay vào cột. Thằng này nguy hiểm số một. Để xổng thì mất đầu cả nút đấy.
Nơi giam Đình ở cũi phái ngoài lô cốt. Không một lỗ cửa sổ, trên mái trống hốc mà như tối mù. Nhiều người đã bị nhốt trước ở đấy, bùn cứt thối khẳn lõng bõng ngập mắt cá chân. Đình phải trói đứng suốt ngày. Đêm ngủ lả đầu xuống, lưng cong như con tôm, hai tay vẫn treo lên cái vấu tre. Lúc lúc lại quờ quạng dật dờ ngọ ngoạy. Đình vẫn chưa hết cơn choáng váng bởi không hiểu thế nào.
Mấy ngày liền không biết. Hôm đầu Đình còn tỉnh, nghe sau các vách cũi bên cạnh, tiếng rên, tiếng ho, tiếng nôn ồng ộc, tiếng thở dài não ruột, chẳng rõ người hháp hối hay con chó vừa bị một chày vào đầu, chỉ còn ư ử mấy tiếng mơ hồ.
Một buổi sáng, nghe người quát hỏi bên ngoài: Thằng việt gian Nguyễn Văn Đình ở buồng nào, thưa lên, ở buồng nào? Đình ú ớ: Tôi… tôi… Mấy cây tre gộc được nhấc ra, đẩy Đình ngã bệt xuống trước hai mũi súng chĩa.
M cánh tay thò vào, lôi ra.
- A, nó giở trò.
Thực sự, Đình không ngồi dậy được. Những cái lưng thễ lễ máy quả lựu đạn lại cúi xuống lôi Đình đứng
lên. Nhưng người bị giam lại khuỵu xuống, không nhấc nổi hai bắp chân tụ máu. Xung quanh hét lấy lệ: đi, đi. Đình bò lồm ngồm, cũng không ai đoái hoài ngó lại. Đến bậc thềm, Đình như sực nhớ, mắt chớp chớp. Đình trông thấy cái bể nước đằng gốc cau, cái bể nước trơ trụi bên tường từ hồi Đình còn công tác dưới huyện. Hình như bây giờ để tôi vôi, thành bể trắng nhoe nhoét.
-… Đồng chí…
- Ai đồng chí với mày! Thưa các ông, mày nghe rõ chưa.
- Các ông cho tôi nước, tôi khát quá.
Một người thương hại, đem gáo dừa nước lại. Người đứng cạnh, chắc là tiểu đội trưởng, giằng gáo vất đi.
- Không được liên quan giai cấp. Phải cảng giác, cnó cầm cái cán gáo chọc vào cổ chết bị đầu mối thì sao.
Qua sân, Đình bò lên bậc thềm, vào một toà nhà ngói. Đấy là công đường cũ của quan tri phủ, rồi sau là trụ sở uỷ ban huyện, Đình đã ra vào, thuộc từng xó. Dường như vẫn thế, chỉ khác đằng cuối, những lá cót mới quây ngăn thành gian riêng, ngoài thêd\fm kê một hàng giá gỗ, trên đặt những chậu tráng men hoa và chiếc khăn mặt bông trắng vắt cạnh- nơi của các đoàn uỷ, đâu cũng giống nhau. bàn ghế lộn xộn, những người làm việc đều lạ mặt, ai cũng quần áo nâu một loạt.
Đình được dẫn tới trước một bàn làm việc.
- Thưa đồng chí, phạm nhân Nguyễn Văn Đình…
Người ngồi sau bàn, một thanh nhiên nhỏ nhắn, trắng trẻo đôi mắt kính trắng, như thày lục sự ngày trước, nhưng lại đánh bộ quần áo nâu nom mới. Không đoán ra được là cán bộ gì. Thoạt trông, hồi tưởng những hôm ở chỗ cửa phủ ngoài kia cách đây hơn mười năm, khi mới cướp chính quyền, suốt ngày trống ngũ liên gọi người đén ghi tên đầu quân. Lại phấp phỏng như hôm nào ta lên báo cáo đoàn uỷ, lại nghĩkp, lai…
Người ấy ngẩng nhìn Đình rồi hỏi nhoe nhàng, nhưng lạnh ngắt, thất Đình lúng búng “bẩm, bẩm…” - Cái gì?
- Tôi xin ngụm nước, mấy hôm rồi tôi chưa được hạt cơm hạt nước nào.
Đình run rẩy ngã xụp xuống. Đám người giải Đình tới đã lui ra ngoài từ nẫy, đứng hai bên cửa. Người ngồi bàn giấy ngẩng lên hất hàm ra phía ấy, vẫn giọng dịu dàng:
- Cho nó uống nước.
Một người ra chỗ những chậu rửa mặt, nhìn quanh quất rồi cầm cái nắp nhựa hộp xà phòng, vục vào cái chậu còn nước, bưng lại cho Đình.
Đình ừng ực uống hết nắp na quyện mùi xà phòng thơm. Vẫn khát như móc họng, nhưng không dám xin thêm. Từ hôm nọ tới giờ mới thấy được đối xử có vẻ như khác.
- Mày là Nguyễn Văn Đình?
Câu hỏi gay gắt, Đình lại buồn hẳn.
- Vâng ạ.
- Vâng ạ thế nào?
- Vâng ạ, Nguyễn Văn Đình.
- Quê quán, tuổi, nghề nghiệp.
- Tôi… tôi ba mươi tư… cán bộ phòng…tỉnh…
- Được rồi, mày mắc tội gì, biết chưa?
- Không ạ.
- Mày là thằng quốc dân đảng có rồi nhiều tội ác với nhân dân.
- Tôi không biết.
- Câm mồm. Năm ấy bọn phản động cho mày lập ra cái trại có tên là đại đồng. Chúng mày thham lắm, đại đồng là hai chữ đđ viết tắt, là tên quốc dân đảng của chúng mày. Ở trại mày giết hàng trăm người vô tội. Hiện có nhiều người dưới xuôi lên nhận mả người tản cư đã chết ở trại cùng với nông dân trong huyện tố cáo tội ác của mày. Khai ra mày theo phản động từ bao giờ, ai đưa mày chui vào Việt Minh.
Ông toà án vẫn nói nhỏ nhẹ. Nhưng Đình nghe đến đau, như từng miếng thịt sau gáy giật lên. Đình luống cuống.
- Xin toà soi xét, tôi không phải quốc dân đảng. tôi không giết người.
- 56 người bị giết, danh sách từng người chết oan đây.
- Không, tôi…
Người trẻ tuổi đứng dậy, khoan thai như thày giáo giảng bài.:
- Các đồng chí dân quân, khai khẩu cho nó nói ra.
Lập tức, tốp người trực ở ngoài ùa vào lôi Đình xuống sân. Một cái gộc tre xù xì đạp bốp vào mồm Đình con đương há hốc. Ba chiếc răng cửa Đình văng ra như những hòn cuội, máu tuôn lênh láng. Đình lăn ra thở sằng sặc. Những đầu mấu tre giáng xuống như giã giò, thình thịch, vun vút, bất kể vào đầu, vào lưng. Đình trợn ngược mắt, nhuôi ra. Chiếc gây chọc vào lưng, lay đi lay lại. Rồi gậy lại chan chát xuống, như thử biết người còn sống không. Hai bàn tay Đình ruỗi như búng con quay rồi duỗn thẳng không nhúc nhích.
Người cán bộ kính trắng đã đứng đằng sau từ lúc nào.
- Khiêng nó về nhà giam. Cho cơm nước tử tế. Nó mà chết, các người gác phải thế mạng, không giỡn đâu.
Cả ngày Đình được một nắm cơm không và một gáo dừa nước lã. Cái miệng vừa mất răng, mặt sưng vều lên đỏ rừ, nhưng Đình cũng trệu trạo nhai nắm cơm và tu sạch gáo nước. Người canh gác đứng đợi Đình nuốt hết cơm rồi lại trói Đình vào cọc xong mới cầm chiếc gáo đi. Một người khác đến ngay, cắt lượt gác canh suốt đêm ngoài dóng cũi.
Tuy đau nhưng nuốt được vào của ngọc thực. Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng khiếp sợ., có lúc muốn đập đầu chết ngay, có lúc tưởng tụe dưng cũng sắp tắt thở. làm sao đến nông nỗi này? Làm sao cái trại đại đồng lại lên trại quốc dân đảng? Những người ở xuôi tản cư không quen thung thổ đã ốm sốt rét ngã nước, cả vùng ai cũng biết. thế là thế nào, bí thư chủ tịch còn cả đấy, ở huyện, ở tỉnh à…à…
Có nhẹ trong đầu, nhưng khắp người đau như dần. Hai tay bị thít vào cột, cả đêm Đình ỉa đái tuôn xuống quần. Có lúc khát rát cổ quá, cứ ngửa mặt ngáp như cá mè úi nước. Những trai giam, chuồng giam thế này, Đình đã biết nhiều. mọi khi anh đội rảo bước qua, rồi hét dân quân giải phạm nhân lên, điều không thể tưởng rồi ra có ngay anh đội lại phải trói đứng trong cái cũi tre. Đình đau đớn, ruột xót như bào.
Hôm sau, Đình lại bị dẫn lên. Mặt tấy to tròn như cái tráp, Đình tập tễnh lạch đi. Mà không biết thế nào, không biết ai giải cứu cho được. Cố cũng cgỉ được vài bước, Đình với tay vịn người dân quân đi cạnh. Người kia chẳng nói chẳng rằng giơ báng súng tống vào mạng sườn Đình một cái, Đình bật tay ngã rụi.
Một lúc sau cũng rật rờ đến được trước bàn.
- Toà hỏi lại, trả lời cho rõ: mày vào đảng phản động bao giờ, ai đưa vào, ai tổ chức cho mày trá hình chui vào Việt Minh, ai ra lẹnh cho mày tập trung người, giết người.
- Tôi lập trại nuôi người tản cư.
- Lại chối hả? Không sợ mất nốt hàm răng?
- Bẩm có chủ tịch, có bí thư đoàn huyện làm chứng. Các anh ấy bây giờ đương còn công tác trên tỉnh.
- Hai thằng phản động ấy là trùm quốc dân đảng vùng này, đã phải đền tội trước nhân dân rồi. Chúng nó cho tiền mày lập trại giết người phá kháng chiến thế nào, khai rõ ra.
- Thưa, không…
Thế thì chết rồi, Đình hốt hoảng, run rẩy. Nhưng rồi Đình tỉnh hẳn. Những câu hỏi móc máy ấy Đình cũng đã nghe quen tai, chẳng biết Đình đã từng nói hay từng nghe hỏi thế nhiều lần. Cặp kính trắng của ông toà mặt hiền lành cúi xuống đọc tài liệu, ký giấy tờ, nhưng những câu ông hỏi, ông nói lại là con dao bầu cứ thế, nhất định mổ lôi tưng khúc ruột gan lú lấp của Đình ra, khiến cho Đình chỉ biết, chỉ nhơ mình có tội., tội nặng. Thế ra những thằng bí thư, thằng chủ tịch này ấy cũng đã là bon phản động mà “được đền tội” cả rồi.
- Tội nhân Nguyễn Văn Đình.
- Dạ, em… Thưa, con…
- Mày đã nhận thấy tội mày chưa?
- Con nhận thấy tội rồi.
- Tội thế nào?
- Con giết nhiều người.
- Mày vào quốc dân đảng phản động bao giờ?
- Đã lâu lắm, con quên…
- Không được quên. Đứa nào đưa mày vào?
- Vâng ạ, Thằng chủ tịch, thằng bí thư, còn đứa nào nữa…
- Sao mày lọt lưới đi cải cách?
- Con không biết.
- Mày lọt lưới cả phúc tra cải cách?
- Vâng, con lọt lưới.
Thôi, cho về.
Đình lại giở chứng, không muốn về cái chỗ thối ghê gớm ấy, giá cứ được đứng đây. Một báng súng đã thúc vào lưng, đun ra.
Nhưng hôm sau thêm nhiều người nữa ngồi ở hai cái bàn kê ai cũng hỏi hỏi, ghi chép, có cái máy đánh chữ tanh tách ngay cạnh. Thỉnh thoảng một tờ giấy vừa đánh chứ bật ra lại đem cho Đình ký vào cuối trang. Đình cứ ký, cứ vâng dạ trả lời. Đình đã giết người thế nào, bao nhiêu người. Có người bị chọc tiết, phải không? - Vâng ạ- Có ai bị chôn ssóng không? - Có, có - Mấy người? Một ạ- Cả thảy mười lăm người, danh sách đây. - Có người chân còn thò lên mặt đất? - Có ạ - Mày lấy cuốc chặt đi phải không? - Vâng ạ - Chặt thế nào? Tôi chặt một cái. Những chuyện ghê rợn cứ người nói người kể. Cái sợ, cái chết đến nơi, bí thư và chủ tịch huyện đã xuống suối Vàng rồi, Đình cũng đương đi… Đình tỉnh rồi lại mê.
Người thẩm vấn hỏi một câu lạ, khác lúc nãy.
- Sao mày làm nhiều tọi ác dã man thế?
- Vâng ạ.
- Tại sao, trả lời ngay!
- Chúng nó bảo tôi làm.
- Được rồi.
Ở cũi giam, là một nắm cơm, một gáo nước hàng ngày. Nhà Đình ở ngay trong làng, cuối phố huyện đây. Nhưng làm sao vợ con biết được, chúng nó có biết hay không. Mấy hôm nay thôi phải gọi lên hỏi nữa. Hay tay Đình đội cởi trói. Đình ngồi phệt trên vũng bùn cứt, như con lợn quết bụng trong chuồng. Từ chân lên mặt vẫn sưng tấy, buốt đến tận óc. Đình chẳng còn chờ đợi gì, chỉ mong được chóng chết. Nhưng mà thế nào cũng sắp chết rồi. Cứ chôn đứng chôn ngồi thế nào thì cũng chết đén nơi.
Một tháng rồi ba tháng đã qua. Đình vẫn ngắc ngoải.
Hôm ấy, Đình phải điệu ra toà xử công khai. Cũng như những phiên toà giữa trời ở các xã. Một cái bãi liền chợ, đông nghịt cả hàng huyện kéo đến trường đấu. Trên hàng người, những chiếc đòn ống vát đầu tua tủa lên như cắm chông. Dễ thường có con mẹ hĩm cu vợ Đình trong đám ấy- các cụ để lại, xưa rày nhà Đình chỉ có một miếng ruộng, hồi giảm tô, vợ Đình được là chuỗi, là tổ trưởng dân quân. Ôi, nhưng mà cũng có khi bị đấu vì tội liên quan với phản động hay là đã chết cả rồi.
Những hy vọng vừa mơ màng tới, lại tối sầm. Từng đợt hô khẩu hiệu ồn ào bốn phía làm Đình xanh xám. Đình bị trói giật cánh khuỷu, mỗi bước cứ khuỵu xuống, hai bên dân quân lại lôi xềnh xệch. Trước dãy bàn xử án, mấy tấm cót ken nối nhau, dài in hàng chữ hắc ín: Đả đảo Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình. Bên cạnh một cọc tre tươi còn cả chòm lá phơ phất được cắm xuống, đất mới loang lổ xung quanh. Đình đã trông thấy những cái cọc như thế ở các mít tinh xử án, cọc trói người đem bắn. Đình bủn rủn lai ngã gục, không gượng lên được nữa. Bởi vì Đình đã lại trông thấy khuất sau chiếc ghế dài các đại biểu ngồi, trang trí tết lá dừa lưa thưa, hai người vừa khiêng ra một chiếc quan tài gỗ gạo tươi còn lướp tướp trắng bệch.
Đình đã biết cả.
Mấy báng súng tống vào lưng, đẩy Đình ngồi tựa ngay vào cái cọc tre ấy. Một chiếc thừng luồn vào nách, buộc chéo lên cọc, giữ cho Đình khỏi ngật ngưỡng. Đình lom khom quỳ nghiêng trông ra đừng chợ, không được sấp mặt vào hàng ghế toà án, mà cũng không được chổng đít xuống đám đông mít tinh dưới kia. Từ nãy, cái vỏ ốc thằng Đình cứ bị xoay đi xoay lại mấy lần, đằng nào thì Đình cũng trông thấy quang cảnh đã biết ở đâu.
Hình như linh tính thế nào, Đình nhác mắt ra. thoáng đằng sau hàng dân quân cầm giáo mác, dưới kia, trong đám các làng còn đương kéo lên có một người đàn bà nhấp nhô. Không nghe tiếng hô khẩu hiệu, không giơ tay, chỉ thấy nhẩy nhẩy. Trông rõ cả những người ấy bồng lên cổ một cu con, mặc áo ca rô xanh. Ối giời ơi, cái áo kẻ ca rô mà tháng trước Đình được chia cho phiếu mâu ở cửa hàng mậu dịch trên thị xã rồi gửi về cho con. Thằng cu nhà Đình! Thằng cu nhà Đình! Mẹ nó xốc nó lên cho Đình trông thấy. Đình trông thấy rồi. Nhưng cái cổ Đình sái như gẫy không ngoảnh được mặt. Rồi chỗ đông nhô ra ấy, bị mấy cái đầu gậy túi bụi rúi xuống, chẳng thấy nữa. Khắp bãi lặng im nghe toà đọc cáo trạng tội Việt gian phản động Nguyễn Văn Đình chống phá kháng chiến, lập trại giam trá hình, giết chết hàng trăm những người vô tội.
Xung quanh, mỗi lúc một phẫn nộ. chốc chốc, bốc lên hàng loạt tiếng hô, đứt quãng cả tiếng người đương nói trên loa. Đả đảo Việt gian phản động… Đả đảo Việt gian… Bản cáo trạng dài lắm. Dần dần đã ta hẳn sương, trời quang. Một hàng năm người ngồi ghế sau tấm cót, hia đàn ông, ba đàn bà, áo nâu non mới. Đình không dám nhìn ai, lại lẩn thẩn nghĩ không biết toà án của đội hay trên đoàn tổ chức.
Ông nhỏ nhắn đeo kính trắng hỏi cung mọi khi hôm nay mặc đại cán màu xi măng, vai đeo túi dết, trịnh trọng đứng lên.
- Tội nhân Nguyễn Văn Đình!
Có mỗi một cái loa tiếng e é, đặt trên bàn toà án. Đình ngồi dưới chỗ cái cọc trả lời hay im lặng, chẳng biết. Chỉ có tiếng ông toà án bốn phía nghe được mà thôi.
Toà hỏi: ai xui mày lập trại giết người?
-…
- Bây giờ đồng bọn mày trốn ở đâu?
-…
- Mày đã giết bao nhiêu người?
-…
- Phải nói con số cụ thể.
-…
- Luật pháp không mớm cung, ép cung, luật pháp yêu cầu nói sự thật những việc đã làm. -…
Một câu hỏi bỗng vang xuống hàng nghìn người ngồi, đứng dưới kia.
- Có ai lên vạch mặt tội ác Nguyễn Văn Đình?
Mấy người vừa lên, vừa chạy vừa hét. Toà cho đwsng nói ở chỗ loa. Tiếng quát rít lên: “Thằng Nguyễn Văn Đình ngẩng mặt lên”, nhưng Đình không còn sức ngọ nguậy được cái cổ, cứ trơ ra. Người ấy la hét, kêu khóc kể Đình bỏ đói, suốt ngày bắt lên đồi đào sắn trựa, lấy thức ăn nuôi lợn. Hôm nbào cũng thấy xác người bị nhét trong những cây nứa tươi đạp rập đem đi vùi, có đem đốt đuốc khiêng đi.
The thé tiếng một người đàn bà:
- Đêm nào thằng Việt gian cũng đi hủ hoá. Nó hủ hoá cả tôi. Hu, hu…
Ở dưới nhộn nhạo, không rõ người ta buột miệng cười ầm lên hay đả đảo, đả đảo, có lúc nghe tiếng khóc thảm thiết rồi lại rồn rập: Đả đảo Việt gian…
Một người vọt tới, xỉa tay vào trán Đình - mặt Đình.
- Ba đời mày làm cai tổng, hành hạ cả làng, có phải thế không, nhận đi.
Đình lờ đờ ngước mắt xem có ai bị trói bên cạnh. Nhưng không. Người ta đấu có mỗi một Đình, một thằng bạch đinh.
- Ông mày là cai tổng, thì ông tao chết đường, bố mày làm lý trưởng, thì bố tao phải bỏ làng đi ăn mày, đến đời tao…
- Đả đả! Đả đảo!
Ông toà án ngồi giữa đứng ra nói:
- Tội trạng Nguyễn Văn Đình đã rõ trong cáo trạng và những tố cáo của quần chúng. Bây giờ sang mục toà nghị án.
Rồi ông cất cao giọng:
- Tôi lấy ý kiến giai cấp nông dân, xin hỏi tên Nguyễn Văn Đình đáng tội gì?
- Tội chết! Tội chết!
Trong làn nước mắt lờ mờ, Đình cố trông lại cái chỗ người đàn bà bế con lên vai lúc nãy. Chẳng biết có phải thấy mẹ con nó đương nhảy hay không. Ánh mặt trời chói lói, ấm áp trong các đội sắp hàng nhốn nháo, huyên náo: Chết! Tội chết! Đả đảo mật thám! Hát lên: Hò lơ, hó lơ…- Không, không, Nông dân là quân chủ lực! Một hai ba: Nông dân là…
- A lô! A lô! Yêu cầu đồng bào im lặng.
Bỗng lặng phắc:
- Toà tuyên án: tử hình Nguyễn Văn Đình! án xử ngay tại chỗ.
Lại sôi lên:
- Hoan hô giai cấp nông dân! Kiên quyết tử hình Việt gian.
Đình bị kéo đứng thẳng, ngay cái cọc tre ấy, dân quân xúm lại thiết chiếc thừng bó giò cả chân tay, cả người. Lúc mặt đã buộc miếng vải thâm thì cái quan tài gỗ trắng nhở cũng được hai dân quân khiêng ra, mở nắp sẵn, đặt cạnh. Nhưng Đình đã li bì, không biết gì nữa.
Bài hát Nông dân là quân chủ lực vẫn vang vang. mỗi đám gào một phách, loạn xạ như vỡ chợ. Chỉ có tiểu đội dân quân trên bãi cỏ trước cái cót vẫn hí húi, hì hục, lặng lẽ. Người nện cán cuốc lèn thêm cho chặt đứng chân cọc. Người thít lại mối thừng quấn lên người phạm nhân. Đằng sao bước ra một tiểu đội dân quân khác. Tám người súng trường bồng trên vai, áo nâu, mũ lá cọ, thắt lưng da to bản bóng nhoáng cài hai quả lựu đạn có rọ đan cẩn thận. Tiểu đội ấy đứng dàn hàng ngang, trông về phía bãi trống, trước mặt người sắp bị xử bắn. Rồi hạ súng, báng dựng ngay chăm chắm, đợi lệnh.
Đột nhiên một người từ đằng sau nhô lên chỗ bàn toà án. Ông toà nhỏ nhắn đeo kính trắng cúi lom khom giơ bắt tay người mới đến. Ông cán bộ đã đứng tuổi, mép để hàng râu con kiến, cũng mặc áo nâu, áo đại cán màu hồng nhạt, đeo sắc cốt da, đừng lưng áo gồ hẳn lên chuôi khẩu súng lục to. Rõ ra cán bộ cấp trên. Cả mấy người đã đứng dậy. Có những người lóc cóc chạy đi bưng thêm ghế tựa.
Ông cán bộ nói mấy câu với các vị toà án rồi bước vào trước micrô, thong thả, vang lừng:
- Thưa toàn thể đồng bào giai cấp nông dân huyện ta, tôi bí thư đại diện đoàn uỷ khu về truyền đạt một chỉ thị quan trọng của trung ương. Tôi thông báo để tất cả đồng bào rõ, kể từ giờ phút nhận được lệnh này của khu, các đội cải cách, đội phúc tra, đội chỉnh đốn tổ chức đình chit tất cả các vụ xử bắn. Toà án phải thi hành đúng pháp luật nhà nước, yêu cầu triệt để thi hành.
Ở dưới vẫn im, không hoan hô, không đả đảo. Rồi lại nhốn nháo và cứ thế lộn xộn, xô bồ người ta kéo
về không ra hàng ngũ gì cả cũng không cản được, mà cũng không ai cản cả. Đình đã thỉu đi rồi và như bị bỏ quên vẫn bị trói đứng trơ trơ ra đấy. Cả các ông toà án cũng lúng túng, chỉ có đoàn uỷ khu về chận nhưng vẫn còn kịp, ông bình tĩnh và cẩn thận, ông đề phòng nông dân còn đương bồng bột, nhỡ đám đông xông lên đánh chết người, thì lại phạm pháp. Đình được khiêng về chỗ giam. Ông bí thư xem xét lại mọi hồ sơ của Đình, bàn bạc với các ông toà án, đến hôm sau, Đình được thả. Xoá cái án chém mà nhẹ như không, những người già bảo rằng trời còn có mắt.
Không biết đến hôm nào Đình mới lết được về nhà. Làng làng vẫn im ắng, vừa sợ vừa phấp phỏng, mặc dầu bây giờ đương bắt đầu công tác sửa sai. Nhưng đường xá có thảnh thơi hơn. Các đội sửa sai vẫn áo nâu và ba lô về làng nhưng mặt mũi tươi tỉnh, gặp ai cũng chào và đi xe đạp tới trụ sở uỷ ban xã. Sửa sai mà, sửa sai cải cách, sửa sai phúc tra cải cách, sửa sai chỉnh đốn tổ chức – sửa sai chồng đống cả loạt. Lớp cán bộ mới từ huyện, tỉnh đến trung ương lũ lượt xuống cơ sở. Cán bộ đi cải cách trở về cơ quan, đơn vị. Những chuỗi rễ đã thành cán bộ đội, không dám trở về làng, hàng trăm con người ở lỳ các trạm, chờ khắp các tỉnh, không biết rồi các địa phương giải quyết thế nào.
Để ý kỹ, quang cảnh cũng có khác. Buổi chiều một chú bé đội chiếc mũ lá vắt vẻo trên lưng con trâu nhẩn nha lên đe gặm cỏ. Bây giờ người ta mới nhớ ra có con chim chích choè hót sáng sớm. Con chim gáy báo giờ trưa chiều. Con thủ thỉ thù thì ầm ừ trong hoàng hôn bên kia sông. Con tu hú về mùa quả vải. Khi hoa gạo nở đỏ khé, hàng đàn sáo đã đén đậu trên càng cãi cọ vang vang.
Tất cả những chuyện trên tôi biết được và nhớ lại, vì cái hôn tình cờ tôi gặp lại Đình. Ai có thể tưởng tượng cuộc gặp gỡ kỳ lạ đến thế.
Có đến hơn hai mươi năm sau. không nhớ chính xác. Trên vỉa hè, các nách ngõ và quanh công viên thành phố dạo này người ta ở đâu kéo ra lắm người lang thang đên thế. Gầm cầu, chân tường vợ chồng con cái rúm ró với mọi thứ việc, không thể gọi là việc được. Mỏ rác, ăn mày, ăn cắp, cướp giật. Khi mưa khi nắng vào những kỳ gió bấc thổi, không biết người ta trốn tránh thế nào.
Bao nhiêu bệ rạc hội tụ lại, quần áo rách rưới chăng mành mành trên hai sợi dây nhựa căng đợt trên đợt dưới giữa hai gốc cây bạch đàn đầu công viên. Những mẩu gạch làm ông đầu rau ám khói đen thui. Chiếc nồi nhôm cơm lên hơi nghi ngút. Một xoong rau muống sào bốc mùi tỏi. Hai đứa bé lấm láp nghịch ngợm chơi tụt dốc trên lưng mẹ đương cúi cời than bếp. Một người con trai mặt sốt rét bủng rứ ngồi với một ông lão trên mảnh chiếu đã xạm xám mùi mồ hôi trải sát chân tường. Chai rượu trắng đặt cạnh một đĩa lạc rang ủ trong bọc giấy báo mới lấy ra. Ông lão mặt đỏ lựng ngất ngưởng chòm râu lởm nhơm không ra để, không ra lâu chưa cạo. Đôi chốc những người trai lại thò chân bới đống rác dưới gốc cây. Ngón chân cái chia gạt ra chỗ để giẻ rách, chỗ miếng nhựa, chỗ chai bia, vỏ đồ hộp, ống bơ sữa. Anh ta ưống rượu đợi cơm mà vẫn chịu khó lam làm.
Cái mặt lão này, ờ cái mặt nhữ đã gặp ở đâu. Chỉ lạ bộ râu xồm xoàm tuổi tác, còn thì quen lắm. con mắt ốc nhồi, cái mũi đỏ, cái ve đuôi mắt nhấp nháy. Trong đời, mọi giao du hàng ngày, biết đâu mà nhớ xuể,
nhưng những khuôn mặt về già mà vẫn gày gùa thì thường ít thay đổi, không như những người béo phì. Vụt một cái, như óc mở nắp, nhớ rồi: hình như thằng Đình, cán bộ Đình.
Tôi bước tới:
- Đình phải không?
- Đình cũng nhận ra ngay được tôi.
- Bối hả?
Kể ra hai con người tóc bạc da mồi, đã tả tơi cả, vừa nhận ra nhau bơi linh cảm, còn những hoàn cảnh và trường hợp đã trải với nhau thì không thể quên. Cứ ngẫm từ cái thằng tôi, vui buồn chỉ còn lại một nõôi ngậm ngùi. Nhưng Đình thì dường như không. Lũ ăn mày trôi dạt trên vỉa hè mà đình huỳnh như giữa nhà. Đình cười khớ khớ. Lại nhận ra vẫn cái cười láu tôm bất cần từ hồi ấy. Đình trỏ tay:
- Vợ tớ kia, bà hai đấy. Bà cả mất ở huyện Sông Mã, được mỗi thằng cu mhớn này từ ở làng đem theo. Rồi Đình hỏi tôi dồn đạp:
- Thế nào? Làm ăn ra sao? Quần áo người ngợm coi bộ phờ phạc thế? Bây giờ thống nhất Bắc Nam rồi, phải phóng tay chứ?
- Phóng cái con hươu!
- Còn đẽo cơm nhà nước hả?
- Bị đá đít đã lâu rồi.
- Thì xcx như tớ ngày ấy, lo đếch gì. Dạ dày, gan ruột tốt chứ, làm một tợp.
Tôi ngồi xuống mảnh chiếu. Ngỡ ngay mình cũng đương lang bạt như bọn nhà này. Đình nhìn quanh rồi chùi chiếc vung nhựa đựng muối, lật ngửa ra như cái phễu, rót cho tôi một vung rượu.
Lại chẳng đợi tôi hỏi, Đình kể một thôi một thốc, từ cái ngày đương ở Chuôm rồi bị bắt. Bao nhiêu chuyện rùng rợn và đau đớn mà cứ liến thoắng bô bô như chuyện ai ở đâu.
Đình chép miệng:
- Đến nước ấy thì chỉ còn chết chứ gì. Ba đời cùng đinh mà đấu lên ba đời cai tổng, ba đời mật thám. Toàn những bố láo, bố láo tất.
Tôi cười, chọc tức:
- Cũng bố láo đại khái cái trại đại đồng của mày. Tội giết người thì không có, tao biết mày, nhưng tội hủ hoá thì chắc là sẵn.
Đình cũng cười nhưng nói nghiêm:
- Không được nói bậy, tớ đã bỏ bao nhiêu công sức vào đấy.
Tôi lấy làm lạ vẻ cương quyết đột nhiên của Đình, trong khi Đình kể tiếp:
Được tha chết, nhưng chẳng còn ai nhìn nhọ đến mình, ở làng để chết đói hả, thôi thì chết ở đâu thì chết, không chết ở đát này, vợ chồng tớ với thằng cu này bồng bế nhau lên tận huyện Sông Mã giáp nước Lào. Mấy năm sau dần dần mới có các nơi người ta lên Tây Bắc phá rừng khai hoang, ít lâu thành làng xóm mới.
- Lại làng đại đồng!
Tôi nói câu vô ý ngỡ chạm vào chỗ đau. Nhưng Đình đã cười cười nhăn nhúm cả mặt, cả râu ria.
Đại đồng đã suýt toi mạng, chẳng chơi. Mà cũng chẳng ai cần đến mình, chân trắng dân đen mà. Cũng tự nhiên, cũng cái xóm cái làng, nhà nào nhà ấy như dưới xuôi. Tớ kỳ cựu ở lâu nhất, làm trưởng thôn rồi lên chủ tịch xã. Bây giờ miền núi đã cải cách đân chủ rồi cũng nhẹ nhàng thôi, làm chân chủ tịch chân chẳng rợn gáy nữa. Cả vùng Mường, vùng Thái huyện Sông Mã gọi tớ là cán bộ Đinh, chủ tịch Đinh, thành Nguyễn Văn Đinh rồi.
- Oai nhỉ, vẫn oai!
- Oai chứ. Nhưng miền núi ngoài này chó ăn đá, gà ăn sỏi, còn đâu moi ra lấy cái ăn, lại năm nào trời cũng ra tai, khi hạn hán, khi lũ ống, vợ tớ chết bị trận lũ lở núi. Đến khi nghe tin đã thống nhất, tiếng đồn trong Nam đất đai sướng lắm, làm chơi ăn thật, tớ mới cho vợ con…
- Vào Nam?
- Chưa. Mới vừa đến đây.
- Ở lại Hà nội.
- Không, dừng tàu dừng toa thôi chứ ở Hà nội đi ăn mày cũng không được. Trong người thằng Đình này vẫn sôi nửa trăm độ máu cán bộ. Tớ được cả làng trên Sông Mã góp tiền cho đi thăm luồng trước. Nếu làmăn được thì kéo nhau vào. Tớ tạm trú ở đây để lo xin Hà nội cho cái giấy kinh tế mới đi Lâm Đồng. Có giấy tờ chắc chân mới vùng vẫy. Ái chà chà… Kể ra đất phường phố cũng dễ kiếm gạo. Mấy mẹ con nhà nó, cả hai thằng oắt tỳ kia với thằng nhớn này, với tớ, ngày ngày bới rác cũng ra gạo, ra rượu. Nhưng không, vùng kinh tế mới mới là nơi hoạt động của cán bộ Đinh.
Đức tính ấy của Đình mà tôi không có, bây giờ tôi mới nhận ra, có thể nó bắt đầu từ cái trại đại đồng khiến anh suýt ngoẻo mà tư tưởng anh vẫn đa mang. Đình đậm trò tổ chức, khoái làm cán bộ, đến già vẫn vậy thì thành tích cả đời rồi.
Tôi ngồi chịu trận giữa bãi rác nghe Đình thia lia nói những câu tự tin và quyền hành. Không hiểu sao, mỗi lại thấy ra cả đời tôi là một thằng đụt, thằng hèn, chẳng có mảy may chí khí. Sao tôi không có được cái tư tưởng thảnh thơi như nó. Cái thằng Đình suýt chết chém đến bây giờ đầu râu tóc bạc cả rồi mà vẫn cười nhăn răng, vẫn đi chạy giấy tờ, vẫn mộng lập làng mới.
Đình hỏi tôi:
- Cái Hà nội nhiều cửa quá, mày biết có cửa nào chạy được nhanh.
- Tao chỉ biết có cửa mả thôi. Mà mày không có hộ khẩu ở đây.
- Rồi xoay cũng ra thôi.
- Tao chịu.
Tôi giở giọng trốn việc. Nhưng tôi có gì, tôi bùi ngùi trạnh nghĩ thân mình cũng đang cầu bơ cầu bất. Tôi thở dài.
- Tao chẳng biết.
Hôm sau, hôm nào lò dò qua hồ tôi tránh đi về phía ấy. Nhìn xa xa, tôi thấy ở chỗ gốc cây bạch đàn vẫn còn thấy phơi loi thoi những mảnh quần áo. Chiều chiều, khói bếp um lên. Ở các cây khác cũng thế, phải m lúc mới nhận ra chỗ lão Đình râu Trương Phi ngồi xếp bằng. Vẫn đương uống rượu với thằng con trai như mọi khi. Tôi lủi sang bên kia hè phố.
Nhưng rồi lại cứ tò mò nhìn sang phía ấy. M hôm tôi nhận ra những gốc bạch đàn trơ trọi, vòm lá leo reo. Không trông thấy dây phơi quần áo. Tôi đến tận nơi. Vẫn ba hòn gạch vua bếp trên đặt một ống bơ cơm đương sủi. Một người đàn bà tóc xoã sượi đương nằm đắp chiếu rên khừ khừ ngay bên cạnh. Người ốm thò tay run rẩy những mảnh giấy vụn vào bếp.
Nhà Đình đã đi rồi. Không biết Đình đi kinh tế mới hay đã đổi chỗ đến những xóm liều giữa bãi rác, kiếm nhanh hơn. Nhưng tôi đoán chắc Đình đi Lâm Đồng.
o O o
Thế là tôi sang thôn Chuôm thay “thằng phản động Đình”. Thôn này đã có địa chủ, địa chủ đã đi tù, yên chí anh đội. Duyên là chuỗi, tổ trưởng dân quân, Đình đã cắt đặt từ trước. Tôi vẫn không đoán được cái đêm rình thằng Đình ở cạnh đền, Duyên bẫy tôi vào lưới hay là chuyện thật thế. Đằng nào thì cũng vậy thôi.
Nhưng ông trời khoảnh ác không cho cái thằng lười tôi yên thân. Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tổ nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng. Phải soi mói cùng kiệt, không để lọt lưới. Bố mẹ nhà địa xuống âm phủ đã tám hoánh thì moi lên đấu bóng, đấu cho tăng căm thù đón ngày mít tinh xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã. Nhưng tố khổ địa chủ sống vẫn còn sôi sục hơn. Ở ngay cái sân gạch bát tràng mà xưa kia Lý thìn, đến mỗi vụ thuế hàng năm đã nọc ra đánh không biết là bao nhiêu cùng đinh chậm thuế, thiếu thuế. Đêm đêm người ta tính dổ tội. Lý Thìn cởi trần, thắt lưng lụa điều, cầm hèo, tổng cộng ngần này năm phó lý rồi lý trưởng trước khi lên làm chánh tổng đánh bao nhiêu người, hai trăm tám mươi bảy cả dần ông đàn bà, đếm được rõ ràng đén thế. Tôi buồn ngủ cứng mắt, rơi cái bút lúc đương vật vờ ghi chép. Mặc dầu, vẫn chốc lại cố cất giọng khàn khàn: “Bà con ta ai có khổ nói khổ, nông dân ta vùng lên”. Nghe gà đã eo óc gáy dồn, tôi đứng dậy, chỉ kịp nói “bế mạc”, cả đám họp đã cung cúc chạy. Vẫn chưa thoát cái vất vả nữa. Các thôn lại nháo nhác. Có hai đám tự tử, một người đâm đầu xuống giếng, một người thắt cổ. Dưới thôn Đìa- thôn trọng điểm của đội trưởng, nửa đem cháy hơn chục nóc nhà, người phải ra đồng chất đất cày như xếp ải làm vách lỗ đất hang chuột để ở tạm.
Cuộc hội ý đội sáng sớm vẫn thường ngày. Và từ tờ mờ, cái Đơm đã ra đứng đợi tôi trong bụi cây duối. Đến lúc vào họp, tôi vẫn còn thờ thẫn, nhớ lúc nãy hì hục với con Đơm.
Đội trưởng Cự đứng lên:
- Các thôn báo cáo.
Cuối bước hai thôn nào cũng dồn dập, có thôn, cả bốn địa chủ với hai phản động gian ác phá tường nhà tạm giam, trốn mất. Xóm nào cũng mất trộm gà, bốn con trâu bị giắt ra đồng bị đâm lòi ruột, kềnh đấy.
Đội trưởng Cự nói, ngay câu đầu đã gay gắt:
- Tố khổ bước một, bọn địa chủ còn nghe ngóng, bây giờ chúng nó mới mới ra mặt chống phá. Chớ quên thành tích đội ta đã giật được lá cờ đầu đánh địch nên mới được ra làm cải cách vùng đất hai trăm ngày này. Quân Pháp được rút chậm hai trăm ngày ở Hải Phòng cho nên xung quanh thành phố là cái túi đựng mọi loại phản động. Chi bộ xã này, một địa chủ cường hào gian ác đội lốt huyện uỷ viên về thành lập lúc bị tạm chiếm. Ngay khi ấy đã chi bộ hai mang, bí thư hai mang. Khi đội về, chi bộ đã có 47 đảng viên, đoàn uỷ cho ta thanh lọc đã duyệt đuổi ra 37 địa chủ, mật thám, quốc dân đảng và các thành phần linh tinh, thế mà chúng vẫn còn uy hiếp nặng nề. Tôi đã lên đoàn đề nghị xử bắn bí thư. Không thế, khí thế nông dân không lên được. Nó làm bí thư ta, lại là bí thư phản động. Tôi đã đi cải cách ba đợt, chưa lần nào gặp nhiều địch như lần này. Các đồng chí đã biết rồi, chúng nó đã chia sẵn ruộng đất trước khi đội đến. Hôm tôi vào nhà bí thư, nó khiêu khích ngay: “Ruộng đất các thôn trong xã đã được chia lại hết. mỗi chủ ruộng, mỗi người được chia đều có hỏi ý kiến của hai bên, thật công bằng. Thế là nhẹ việc cho các anh”. Có gớm không, vậy thì chúng tôi chỉ còn có việc đầu hàng giai cấp địa chủ.
Đội trưởng Cự quắc mắt từng đợt:
- Tình hình nghiêm trọng, các thôn phải tuần phòng cẩn mật suốt ngày đêm. Kế hoạch ba ngày nữa, duyệt xong hết địa chủ. Yêu cầu mỗi thôn lập hồ sơ đề nghị làm án nặng một địa chủ có tội với nông dân, có thế mới đưa được tinh thần nông dân lên.
Hôm sau, mít tinh xử bắn tên phản động đội lốt bí thư chi bộ dưới xã Đìa. tôi nhát thấy máu, lại phụ trách toà án. Nhưng tôi đã có được lý do chính đáng. Đội trưởng đã phát hiện ra bọn phản động thôn Đìa tôi chưa tìm ra cách thoái thác trốn việc thế nào đội trưởng đã nhân phụ trách toà án vụ này và phân tôi huy động dân quân toàn xã bảo vệ mít tinh xử án.
Tháng này các chuôm ngoài bãi chỉ còn xâm xấp nước. Ngoài sông, không có một người mò hến, kéo tôm, vắng cả trẻ con lau nhau đi đổ đó. Không biết chúng nó biến đâu, chẳng thấy một mống. Chúng nó đi xem hay chúng nó sợ, trốn ở nhà. Tôi dạo quanh một vòng bãi, gặp các tổ trưởng dân quân, dăn dò mấy câu kỷ luật rồi trở về, úp quyển sổ tay lên mặt, đế cái bút báy mở nắp ngang nan chõng. Tôi định ngủ một giấc, nhưng cứ trằn trọc. Những tiếng hô khẩu hiêụ từ ngoài bãi vọng lại. Tôi vẫn lo sợ vẩn vơ về một người sắp bị bắn mà tôi cũng không biết mặt.
Đến lúc nghe đoang đoàng mấy tiếng súng, tôi bật dậy. Thế là ngoài bãi mít tinh xong rồi. Tôi hí húi thảo một kế hoạch canh gác sít sao. Làm kế hoạch thì tôi quen rồi. chỗ nào cũng để mắt tới, con chim lạ bay qua cũng phải biết. tuần các ngõ, lại lập chen vào những chốt gác bí mật. Cán bộ đội các thôn đi tuần với dân quân. Tôi chạy đi gặp đội trưởng, báo cáo kế hoạch, làm như cả buổi mít tinh tôi vẫn có mặt ở đám du kích canh gác, bảo vệ.
Hôm sau lại một người thắt cổ- một nông dân. cứ có người chết, tôi được phân công viết điếu văn. tôi có tiếng là người nhiều “văn hoá” trong đội. Chết đói, chết đuối, điếu văn đều xúc động và gợi căm thù. Hương hồn anh yên nghỉ, tên anh từ đay ghi vào lịch sử đấu tranh máu và nước mắt của nông dân xã ta… Tôi đã chép được ở đây câu ấy, cứ thế, cứ thế, chạy loăng quăng, giữa những việc lút đầu.
Tối nào tôi cũng đi tuần với tổ dân quân Duyên – kế hoạch tôi vạch ra cho dân quân cả xã cơ mà. Vả lại, mấy hôm nay mới có người thắt cổ, Duyên hốt đi quãng ấy. Bây giờ Duyên đi đâu cũng mặc áo lót cổ vuông của tôi, kể cả đêm đi tuần. Tôi lại phải dạo tôi sắp đổi đi thôn khác, tôi doạ không cùng đi tuần với nữa. Con bé vẫn nhũng nhẽo nài: anh cho em mặc ở nhà, mặc tối thôi, cái áo anh có bùa mê, anh ạ. Tôi đành chịu. Mà tôi cũng quen mũi cái mùi mồ hôi cỏ, mồ hôi bùn của Duyên. Vả lại, lũ trẻ đen tối mới cõng nhau vào nhà không lên đèn. Bố Duyên thì hai mắt lông quặm, phải kẹp tre kéo mí lên từ thuở trẻ. Họp xóm, ông ngồi thụp vào một góc, tránh ánh đèn chói, tối đi ngủ từ lúc gà lên chuồng.
Đội tuần thôn chia từng tốp đi khắp. Tay gậy, tay súng, thắt lưng giắt quả lựu đạn điếc, vòng ra tận ngoài bờ tre. quá nửa đêm tụ tập về trạm đầu xóm. Lúc ấy vãn dần. Đám con trai lỉnh đi, lùa theo những con mái nào không biết. Khoảng một giờ sáng, trở lại trạm gác chỉ còn mấy cô- tối nhụ nhoạ, chẳng rõ mặt ai, các cô ngồi đứng xoã tóc gió thổi như ma đánh đu.
Anh đội và các cô dân quân rúc cả vào túp lều sàn lát mảnh hóp đá, cái giống hóp mỏng mặt nhưng chắc và mát lưng, nửa chân cột cắm xuống mặt nước ao làng. các cô đẩy nhau mnằm cạnh tôi. Duyên quát rít lên: “Tao là tổ trưởng, tao pp xít xao với anh đội “. Rồi Duyên nhảy phắt vào, xô cả tôi dạt sang bên. Duyên nằm xóng xoài ra gối cái báng súng trường lên đầu, làm như ngủ luôn. Không cô nào chen, tỵ nạnh nữa.
Chúng họ xoay sang nói kháy, trêu chọc nhau.
- Mai kia mày vác anh đội phó về Thanh Hà quê chồng mày à?
- Tao để lại cho chúng mày đấy.
- Thanh Hà chẳng đói như ở đây đâu, anh Bối cứ về. Có nước cáy lại đến mùa rươi… - Bắt rươi vất bỏ mẹ!
- Được lấy một lúc hai chồng, sướng quên chết rồi.
- Cứ doạ làm anh ấy ghê. Anh Bối ạ, chẳng đâu bằng ở đất này, tháng ba ngày tám thì gày giơ xương sườn, teo vú một tý, chứ đến ngày mùa hốc hai ba bữa cật lực thì lại tròn như con cun cút. Béo nẫn ra ấy chứ. Anh đi với cái Duyên xuống Thanh Hà hay anh ở đay với chúng em.?
Duyên quát:
- Tao sắp về Hà nội đây.
Rồi rúc mặt vào lưng tôi, cười rinh rích.
Canh khuya, tiếng thở dài thườn thượt khao khát, tiếng cù nhau cười như chuột rúc, tiếng nước bọt nhổ bèn bẹt xuống mặt ao như cá đớp. Chỉ một lát đã chập chờn. Duyên nằm đè lên tôi quẫy huỳnh huỵch, chẳng ra ngủ mê, chẳng ra thức. Tôi thấp thỏm ngạu tiếng rin rít mảnh giát hóp đương lung lay, khéo đổ cái sàn mất. Duyên rên u ử như con chó mê ngủ rồi lăn ra. Những hơi thở nồng nàn hai bên lay tôi tỉnh lại. Nhớ những cuộc tuần đêm khi còn ở trong Nông Cống. Hệt thế này. Sao những lúc mơ màng ngái ngủ thì người ta giống nhau thế. ăn nằm với nhau hẳn hoi mà như ngủ mê. Tiếng thở lẫ tiếng ngáy rờn rờn nâng cổ tôi dậy, tôi bò sang. Chốc chốc, sàn lều rập rình như thuyền. Chỗ góc ao này chắc lầy lội, con chẳng chuộc, con chẫu chàng càng khua càng uôm oạp inh tai, át cả tiếng kẽo kẹt mắt nứa, mặt hóp lẫn lộn vào đấy. Tôi lần lần… Thì ra chưa cô nào ngủ cả. Các cô nghiến răng níu áo tôi lại. Nhưng tôi như con lươn luồn đi, chẳng bao lâu lại rúc về chỗ Duyên.
Tôi như con trâu con bò, không ra sợ không ra liều. Những điều về công tác, về kỷ luật viết trên giấy trong lịch ngày, lịch tuần, lịch bước, lịch đợt. Tôi không hiểu, tôi không muốn hiểu, lỳ. Duyên nói tỉnh khô: “Anh mà ngủ với em khi ngày mùa ấy à, như nằm đệm bông. Bây giờ thiếu ăn hóp cả người thì em phải giũ,
chứ cái bánh xương chè của em mà đâm lên thì anh gãy mạng sườn mất”. Đói mà còn khoẻ thế.
Nhớ lại cái quang cảnh hôm chợ huyện. Chúng tôi húc đầu vào hàng bánh đúc thì xung quanh mênh mông đói khát. Trong chợ, những cẳng tay cẳng chân đi lại như những cành que. Một người đàn bà ở đâu đến ngồi xệp xuống, bồng đứa con gái nhỏ trên tay. Thằng con trai khoảng bốn năm tuổi mặt già cấc bò bên chân. Mỗi lần người mẹ giơ đứa bé cho người hỏi mua, đứa anh lại oà lên khóc. Người mẹ mếu máo: “Nó khóc quá, tôi không dám cho”, chốc chốc lại nói lại câu ấy. Một bà nói: “Để tôi đi mua cái kẹo nhử thằng bé thì nó mới nhẫng em nó được”. Người đàn bà vỗ vỗ lưng con, lặng im. Xung quanh đổ đến mỗi lúc một đông. Cái người tần ngần đứng hỏi mua trẻ con, người ấy cụt một tay. Có người đòi xem thẻ thương binh của anh ta. Tiếng ai kê u lên: “Ơi giời ơi, cái lúc lung tung này, thằng Ngô Đình Diệm ở trong Nam cho người đi mua trẻ con rồi ném vào bụi, đổ cho ta giết. Đã tìn ra khối đấy. Phải cẩn thận cái thằng địch đồng bào ạ. Mấy người cho mẹ con nhà nọ cái bánh đúc ngô. Hai đứa trẻ nhai nhỏm nhẻm. Người cụt tay hỏi mua trẻ đã bỏ đi từ lúc nào.
Giấc ngủ mê mệt của tôi rối loạn những chuyện đói: Hết cả hơi, tôi cũng đương đói bụng dốc bụng. Tiếng vành bánh xe bò người kéo lộc cộc, các làng đi chợ sớm đã lẹt quẹt gồng gánh ngoài kia. Tôi uể oải mở mắt. Các cô dân quân đã đi hết, chỉ còn mf tôi nằm trơ giữa cái lều. Tôi lồm cồm, vơ cái xắc cốt, đứng dậy vươn vai, oằn lưng bẻ khục răng rắc mấy cái rồi về xóm Am hội ý đội… Tôi tránh qua chỗ bụi cây duối, sợ cái Đơm ngồi rình trong ấy. Tôi bước nhấp nhô trên cánh đồng cày ải, đất xám bàng bạc. Đổ ải những guồng nước kĩu kịt, người tát nước nhịp đôi, nhịp ba, nhịp bốn lên đồng cao. Chỉ mấy hôm nữa, đất ngấm nước tươi màu dần, đường bừa ào qua váng nước trắng mặt ruộng. Mạ đx đến tuổi, nhưng chưa biết thế nào. Năm nay chạy đói mới cấy cưỡng, đồng đất vùng này vốn chỉ ăn được một vụ mùa.
Vào họp, đội trưởng Cự tuyên bố:
- Thảo luận công tác thôn Am, thôn Chuôm.
Thường lệ, các xóm “mọi việc đều tốt”, cả cái hồi tôi bối rối ở bên Am, chưa mò ra địa chủ, tôi cũng “thưa các đồng chí… tôi đương lên phương án”. Ai nấy hí hoáy sổ tay, tôi tẩn mẩn vòng móc xích những chữ o liền nhau. Mới sáng mà mắt tôi mờ như quáng gà, tôi ngủ gật, ngòi bút rụi xuống xuống giấy, nhoét mực. Nhọc quá, từ đêm chưa được một hột vào bụng.
Nghe tiếng “thôn Am… thôn Chuôm…” mắt tôi bỗng ráo hoảnh, cơn ngủ biến mất, tôi ngẩn người nghe đội trưởng nói:
- Về tình hình thôn Am trước. Khuyết điểm, đồng chí Bối sẽ kiểm điểm sau về việc hai tuần lễ không phát hiện ra địa chủ. Tôi về thay, tôi đọc tài liệu rồi để nửa buổi thăm nghèo hỏi khổ đã lòi ngay ra một thằng địa, đem hồ sơ lên Đoàn được duyệt tức khắc. Suýt nữa con cá chuối lọt lưới. Cái thằng Tư nhỡ lù lù đấy chứ đâu. Thằng ấy bảo là học trò trên huyện, về chân lấm tay bùn đã lâu, nói láo. Cái cây tre buộc sợi thép lủng lẳng nó bảo là hộp galen để nghe tin tức của đài ta, đồng chí Bối tin thế hả? Không, tôi ở quân
đội tôi biết, nó là cái bắt tin, đánh tin đấy. Thằng Tây đã cho nó lặn lại thì phải cho nó thông tin liên lạc. Mà rõ ràng đấy, cửa nhà nó có cái bảng đề chữ Tây treo to bằng cái hoành phi sơn son thiếp vàng trên bàn thờ bố nó. Rễ chuỗi đã lôi nó ra đấu một đêm, nó gục. Địa chủ Tư Nhỡ đã phải ký biên bản nhận tội tay sai phản động rồi. Tôi đã cho dân quân gác không cho nó ra khỏi cửa, đọi lệnh của đoàn. Còn sang đến mục không có lao động, thì nhà Tư Nhỡ đã thuê người từ cấy hái đến đánh cây rơm. Người làn nhà nó đã tố hết. Bây giờ nói về rễ chuỗi thôn Am, anh Diệc vốn là cố nông, đồng chí Bối đã bắt rễ đúng. Nhưng khuyết điểm là anh Diệc không được bồi dưỡng, chuỗi rễ là cô Đơm con anh Diệc cũng chỉ có tên thế thôi, rễ và chuỗi đều chưa có tác dụng. Địa chủ Thìn thật độc ác, vợ anh Diệc què gẫy mù loà thế mà địa chủ Thìn bắt anh Diệc lấy rồi lại phải cày cấy trả nợ. tôi đã chỉ định đồng chí Diệc làm trưởng thôn, đồng chí đơm làm tôt trưởng dân quân. tôi sẽ phát động đồng chí Diệc, đồng chí Đơm lên ngang mặt đấu địa chủ Thìn hôm toà án xử.
Tội ác địa chủ Thìn thì tôi đã nghe bác Diệc và thằng Vách kể, họp đội tôi vẫn báo cáo, nhưng đến lúc đội trưởng Cự nói thì những việc đội trưởng vừa phát hiện mới đúng. Không hiểu sao, nghe Cự nói tôi lại nghĩ rồi một chuyện nhảm khác: thằng này đã ngủ với con Đởm. Tôi càng đinh ninh thế khi cách đây mấy hôm độị trưởng Cự đưa vợ ở Đìa lên chào đội, nói vợ đồng chí sắp đi công tác. Cô “rễ” ấy đã được Cự lên đoàn uỷ xin cho đi thoát ly. Cô bé ngơ ngác hôm nào, đã thành người cán bộ áo nâu quần thâm mới, vai đeo túi vải kaki, nhanh nhẹn hoạt bát. Cái ám ảnh mấy đợt cải cách đội trưởng đã chế tạo ra không biết mấy cái rễ vợ như thế lại lẩn quẩn trong tôi. Vợ mà đi công tác thì cái thằng “Nguyễn Bổn” ấy lại ngủ ngay với người khác thôi. Cái thằng mắt lúc nào cũng đỏ cá chày thế kia chịu sao được tối nằm không. Ờ mà mấy sớm nay không thấy đơm đón đường kéo tôi vào bụi duối. Mọi khi Đơm vẫn liều lĩnh như con cún đói ngồi rình chụp mồi trong but. Đơm núp trong ấy từ lúc chưa tỏ mặt người. Có hôm, tôi chui được ra thì áo toác chỉ lung tung, một bên má bị cắn rớ m máu. Đến họp đội, tôi nói bịa vô ý đâm vào cái cọc chạn bát.
Mà Cự đã phân công anh đội khác về Đìa. Cự đã lên ở nhà bác Diệc, văn phòng đội, họp đội cũng lên đây. Tôi mang máng đoán ra. Tôi chẳng ghen tức nỗi gì, tôi chỉ phân tích ra thế. Đi họp, tôi chi nghĩ quanh quẩn vẩn vơ.
Nhưng vài hôm không gần gũi Đơm cũng lại nổi cơn thèm. Cái ngây ngô của Đơm đáng yêu làm cho mình có cái đàn ông hơn trước những thành thạo ngỗ ngược của Duyên. Trời đương mua lăn phăn. Tôi vác cái cào như đi đánh cỏ, tôi loạng quạng ra đồng. Xem ngỡ may có gặp Đơm. Cánh đồng và gò đồng xa vang trong mưa mù. Nghe tiếng cả bước chân người rào rạo trên cỏ. Giá ban ngay nắng ráo mà được lăn lộn ở đây, vật nhau có rống lên như bò cũng không có đứa nào nghe tiếng. Đương nghĩ thích thú, thấy bóng người trong bịi mưa đi tới. Tôi ngỡ là đội trưởng Cự. Cự thật, Trong trước thấy cái sắc cốt thâm xì nước mưa
- Bội đấy a! Làm gì thế?
- Tôi đi cào cỏ
- Thôi, về đã! Có việc quan trọng. Nghe hai tiếng quan trọng, tôi đã thấy đắng miệng. Tự dưng nghĩ ngay đến cái lúc Cự thì thào thằng Đình bị trói nửa đêm đem di.
Tôi bước theo Cự, chẳng nói chẳng rằng. Cự cũng im. Tôi càng rờn rợn. Vào nhà bác Diệc đã thấy cả hơn mười anh đội các thôn về ngồi đây.
Đội trưởng Cự đứng dưới mái tranh, cất tiếng như hô khẩu hiệu:
- Báo cáo các đồng chí, trên đã duyệt án tử hình địa chủ Thìn.
Những người ngồi quanh vỗ tay độp độp như đập mẹt, tôi còn tìm chỗ gác cái cào cỏ và chưa hết cơn hốt hoảng vừa rồi, chưa hiểu thế nào, đến lúc nghe thấy thế lại sợ tiếp. Địa chủ Thìn xóm Chuôm, lại bậnn bịu lôi thôi đến tôi rồi. Chỗ giam lão ta cũng tại ngay nhà lão, tôi thường đi qua kiểm soát dân quân canh gác. Một lão già tám mươi tuổi heo hắt như cái dây khoai, mắt thong manh mù dở, khoèo chân không duỗi ra được. Chẳng có ăn thì cũng chi dăm hôm nữa lão ngoẻo thôi.
- Tôi phân công đồng chí Bội đội phó phụ trách toà án chịu trách nhiệm hôm tổ chức xử địa chủ Thìn. Các thôn khác huy động triệt để quần chúng đi dự.
Lần nay, tôi không thể lùi đi, đổ việc cho ai. Thế là, cũng đột nhiên tôi cứng cáp, nhanh nhảu, phát biểu và ghi chep nhoay nhoáy nhanh như máy.
Tôi ra họp tổ dân quân. Bọn con gái vừa trông thấy tôi, đã nói to như mách nước cho tôi biết phải theo thế: “Các đồng chí nam vào bắt thằng tù. Chúng em đứng ngoài canh gác. Cả tổ trưởng Duyên cũng vào hùa với chúng nó và tôi đã cắt đặt theo như thế. Sớm hôm sau, bốn người đeo súng trường vào chỗ giam địa chủ Thìn. Người nào cũng hăng hái, sững sờ khác thường như vừa có chén rượu. Tôi đứng giữa nhà, nhìn bao quát. Hai người mở chốt cũi. Đũng quần lão già đầy kẹp cứt, cả gian âm u ẩm ướt thối không chịu được. Mấy người nhà xúm lại khóc rưng rức, đỡ lão Thìn.
Tôi hét:
- Cút ra đằng kia!
Một dân quân vào bếp lấy ra cái đòn ống. Trưởng thôn Cối ở đâu xồng xộc chạy vào, cúi xuống, lột cái áo vét đã đen địa chủ Thìn đương mặc, ngẩng lên cười hê hê: “Để cho mày khỏi vướng rồi Coi xỏ fay vào mặc áo luôn. Lão tự bị buộc tay buộc chân, hai người khoác súng xỏ đòn ống, khiêng boông beêng đi. Cái lưng áo dạ với hai vai nhấp nhô của Côi, tôi ngờ đây là lão Thìn đã lộn kiếp, nhập sang người thằng kia.
Bãi mít tinh đông nghịt người. Giữa đám, lại những túm là móc diều, những tàu dừa kết thành mm hàng rào xanh trang trí sau bàn toà án.
Cuộc đấu lên nổ liên tiếp, khi địa chủ Thìn vừa được đặt xuống ngồi tựa vào cái cọc. Người chạy lên
chạy xuống, tới tấp.
- Mày có biết tao là ai không?
Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:
- Thưa bà nông dân… tôi không biết…
- Tao đi ở cho cháu mày.
- Thế thì tôi không biết thật ạ.
- Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ!
Rồi hớt hải chạy xuống giữa tiếng đả đảo cuồn cuộn trong đám người.
Cái bãi lau chen chúc lôi thôi, đần nước trắng đằng cuối. Những con chim hét đen tuyền, những đàn cò trắng không dám đậu xuống, lượn quanh trên trời với mấy con diều hầu. Thường ngày, trẻ con chăn bò trên bờ cỏ lác đằng kia. Cái sa chắn cá trong hõm xâu vào lạch ruộng, xưa kia đây chỉ toàn bãi rậm. Xa xa, dưới bồng gò đất chơ vơ giữa đồng, những xóm mới, xóm trại nhích lại dần. Tôi vẫn hay đi qua đây, sáng chiều nước ánh lên bóng người tha thui ngoài sông ngoài đồng về lúc chặp tối, đã bao nhiêu đời buồn bã thế.
Lát nữa lão Thìn sẽ chết ở cái bãi mà mới năm trước, lão thuê cả lính bốt, hương dũng đốt cỏ lác cày vỡ hoang.
Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi đồng văn tự, giấy tờ, sổ sách chữ Tây chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói urn lên, tàn than lả tả bay như đàn bướm đen. Những tiếng quát xô lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi! Bắt nó đứng! Bắt nó… Địa chủ Thìn bị xốc lên, trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẵn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái quần đã tụt võng hẳn xuống hai đốt chân bằng cái ống nứa.
Tôi ở ghế chủ toạ đứng lên đọc một bản cáo trạng tội ác lão Thìn. Nhà nó đã mấy đời bóc lột, càng ngày càng giầu, càng ác. Nó thu thoc ta cho Phap, cho Nhật, khi kháng chiến đội lốt làm chủ tịch xã, dến hồi Tây về nó ra làm tổng uỷ - nó là con chó săn của hai, ba đế quốc. Con gái nó đui què, câm điếc, nó bắt nông dân phải lấy, rồi lại phải phải cấy rẽ giả nợ… Đả đảo địa chủ, cường hào ác bá…
Giữa những tiếng láo nháo hô đả đảo, bác Diệc run run bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng ngang. Đơm khoác súng đứng hàng đầu. Duyên thắt lưng, đeo lựu đạn, vẻ quắc thước quân sự. Đôi lúc, Duyên mặt đỏ hây, cặp mắt nhìn xuống hai đâu vú đương cương cong tớn. Thấy thế, tôi mới nhớ vẫn Duyên ấy. Đơm thì nước mắt ròng ròng nhìn lên tôi. Có phải những giọt nước mắt nói: ông em ngay trước đây.
Bác Diệc chỉ tay vào địa chủ Thìn:
- Tao thù mày! Tao thù…
Rồi khóc rong lên, chạy xuống. Đội trưởng Cự Cự xô ngay ra trước loa, quát to:
- Hôm nay là ngày thắng lợi của giai cấp nông dân chúng ta, cấm không ai được khóc.
Ở đám các làng ngồi chen chúc, một bà lão gày rạc, da mặt đọng từng vũng nhăn nhúm. Bà lão nói choang choác: “Đận đói năm trước, nhà tôi một tháng chết mất ba người. Đến đận này ruộng kiệt nước, đói dài hai năm mà không ai chết. May được bộ đội về đây giồng rau muống, rau lang an trợ thời. Cái khi thằng Thìn làm phó lý, chồng tôi chậm thuế thân, thằng Thìn cho tuần vào bắt cái nồi tư, tôi đương kéo vó bè, nó rỡ cả vó. Nhờ các ông các ba lên kê khổ hộ tôi.
Lại nghe loác choác, bô bô tiếng lão Côi điếc:
- Bố thằng Tư Nhỡ làm hương kiểm, một đêm, nó sai tôi đi úp trộm cá ngoài ao làng. Khán thủ bắt được trói đánh đau quá, tôi phun ra hương kiểm sai. Khán thủ cũng phải sợ thế lực hương kiểm, nhưng từ bấy giờ hương kiểm thù tôi làm nó bẽ mat, cứ gặp tôi đâu là đánh. Một đêm có lệnh canh đê trên phủ từ về gấp. Khán thủ cho tôi đem giấy vào hương kiểm. Hương kiểm nhà giầu sợ cướp đã có hiệu trước, không cho tuần đinh gọi cửa đêm, hễ có việc quân chỉ được đứng ngoài thổi tù và gọi. Tôi đứng bờ ao, rúc từ và từ nửa đêm đến gà gáy sáng, phồng rát cả hai má, long oc, ret run cầm cập vẫn không thấy ai ở nhà hương kiểm ra. Sau trong xóm nghe tù và điếcc tai quá, phải chạy vào gọi hộ. Hương kiểm vác hèo ra njt: “Sao mày không thổi giục chứ thổi như đi tuần thế thì bố mày càng không biết. “Rồi quật tôi ba hèo bắn máu đít. Tôi đã ghi cả vào óc rồi. Cha làm con chịu, cái thằng từ Nhỡ bây giờ phải đền tội cho thằng bố, thằng cụ, thằng kỵ nhà nó.
Một người nói:
- Hôm nay mới đấu thằng Thìn, chưa đến lượt tư Nhỡ.
- Ấy chết, tôi cứ tưởng hôm nay đến thằng tư Nhỡ?
Chẳng ai trả lời lão điếc lại say rượu. Không biết có phải vì cái khổ đã đau đớnlắm rồi, lại nghe nhiều rồi, chẳng mấy người muốn nói nữa. Một lát, cái bà lão lúc nãy lại hỏi: “Nó lắm vợ quá, năm vợ, mười bốn con, đã ai lên đấu nó cái tôi bóc lột ấy chưa?” Cũng không ai trả lời cau hoii ngu ngơ. Một người dáng như tổ trưởng, xách cái gậy lảng vảng đến. “Đây không phải cái chợ. Ai xì xào nữa người ta cắt lưỡi đấy.
Cả nghìn con người lại im như tờ. Khi một loạt tiếng súng toả khói xanh um lên, đám đông ở dưới đẩy nhau chạy. Ai cũng khiếp tiếng nó. Người hãi máu, bịt mắt lại. Người nhốn nháo ra các ngả. Tiếng trống cả rung của đội thiếu nhi nói lên khua rầm rầm, vang vạng. thế là địa chủ Thìn chết, chết trước khi phục, chẳng biết địa chủ mà bị xử chậm lại gặp đội sửa sai thì có được tha không, nhưng dẫu có may mắn thế,
chắc lão cũng ốm chết trước đấy lâu rồi.
Thế mà ngay tôi ấy lại có họp - một tổ cán bộ đoàn uỷ xuống huyện vận động sản xuất và hô hào đóng thuế nông nghiệp. Việc hoả tốc phải quán triệt ý nghĩa quan trọng vụ mùa tới và định mức thuế tạm thu. Mọi đêm, cuộc họp nào cũng chật cứng ra cả ngoài sân đền. Tối nay mỗi xóm có tổ vài người gom lại. Hơn mấy chục đầu lố nhố, đi mít tinh cả ngay lại xem bắn người, khiếp quá chưa lại sức, hay tan tác đâu chưa hoàn hồn về, hay sợ lại phải họp oqr gần cái bãi tha ma ban trưa, người ta hốt hoá ỳ ra. Những việc cấp bách không thể hoãn, tối mai tổ cán bộ huyện đã sang làng khác.
Cuộc họp lèo tèo mà vẫn hỗn dộn triền miên như mọi khi. Một cán bộ đọc to thư của liên khu kêu gọi đóng thuế nông nghiệp, sau phổ biến bốn câu hỏi để lần lượt thảo luận. Vài người - có những người đã thành thói quen ở cuộc họp nào cũng hay nói, nói nhiều, đã quen mặt và nhàm tai, cả đám người khác rúc đầu vào canh tay, làm con vịt ngủ.
Rồi cán bộ trịnh trọng phổ biến mức thuế của xã cho xóm: vụ này tạm thu năm tấn. Cán bộ xoè hai bàn tay làm loa nói to kêu gọi mọi người thi đua đóng thuế. Hai tổ trưởng nông hội ngủ từ lúc nào, có người đằng sau đẩy vào đít, bật dậy, ú ớ giơ tay:
- Tôi thi đua!
- Tôi, tôi nữa!
- Đề nghị cho tổ tôi…
Lại một người kêu to:
- Đồng ý, đồng ý.
Ai cũng hô theo: đồng ý…
Vẫn chưa họp xong. Con việc bình cho một nông dân lên huyện học bảy ngày để về làm công tác vệ sinh viên. Có người nói:
- Còn có cụ Cối rỗi việc, lại thành phần rễ chuỗi, cho cụ ấy đi học vệ sinh viên.
Một người ghé tai cụ Cối, hét lại thế. Cụ Cối cười: “Cấp tiền cho tôi thì tôi đi ngay” - rồi cười giơ hàm răng móm, lão già tai lành tai điếc mà khôn lòi tù và. Cả làng au rau muống khô cứu đói lại đòi người ta đóng tiền cho lên huyện ăn cơm.
Cán bộ cả tiếng hô hào tương thân tương ái, ủng hộ người đi học vệ sinh là tiến lên văn hoá mới. Chẳng ai để tai. Nghe tiếng lão Cối ngáp to: “Gà gáy rồi, giải tán thôi, có gì mai họp nốt. Mới người ù té về. Cũng chưa ngã ngũ ai lên huyện bảy ngày học vệ sinh viên.
Tôi mệt bã người. Vẫn còn ám ảnh mùi máu, mùi hôi thối bắn ngay. Cổ khan lại, tôi bỏ không nuốt được bát rau muống khô của lão Cối để phần. Vùng này đương vào vụ giáp hạt, nhà nào cũng cơm lẫn cám, với rau lang, rau muống khô trộn muối. Thế mà lại kêu gọi sản xuất, trong khi cây mạ vàng óng mới cắm xuống ruộng, chưa biết thế nào. Lại còn sắp sẵn thuế tạm thu, bổ đầu từng xóm. Tôi không hiểu ra sao, lại nghĩ bài bây ra sao thi ra. “Cũng như trong buổi họp, bảo thi đua, người ta giơ tay thi đua bạt mạng. Duyên vẫn cầm tiền của tôi, thấy tôi không ăn cơm được thì mai lại lên chợ mua bánh đúc ngô, cái ngô nướng, chiếc bánh khoai, đem về cho tôi ăn vụng như cái Đơm mấy hôm trước vẫn đi mua thế.
Tôi lăn vào giường góc nhà nằm gối đầu lên cái túi. Bụng đói cồn cào rỗng không. Những việc bắn ngay dữ dội, việc bắn tối hội họp đến kiệt cùng kẻ ra cũng đã quen qua mấy đợt, chỉ mệt mệt rũ. Chắc Duyên đã đi canh gác. Tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Mơ màng như có còn mối hay còn chuột đụng vào chân. Tôi mở mắt, quờ lên cái túi. Không biết đã khuya thế nào, ngoài sân tối om. Trong lô thủng trên mái lá nhà dột, nhấp nhánh ánh sao như những còn đom đóm bay. Sau trận mưa rào cuối mùa còn sót lại, ngoài chuôm, ễnh ương đối đáp nhau inh tai. Thình lình tôi nhìn có bóng người lù lù trước mắt. Nhưng không phải Duyên. Là Duyên thì đã đi xộc vào, không lom khom ngồi xổm thế. Hay là ma, ma lão Thìn, hay là, thằng Cối mặc cái áo vét đến bị hồn địa chủ nhập vào ma đương về trêu tôi.
Tiếng thì thào:
- Anh Bối! Anh Bối ơi!
- Hừ!
- Em là Nhỡ, tư Nhỡ đây. Anh sang đây, anh bỏ em rồi. Ern sắp phải chết bắn như địa chủ Thìn a?
Tôi ngồi dậy, nguôi cơn hốt. Cái thằng tư Nhỡ bên xóm Am. Nó bị câu lưu tại nhà rồi mà. Chắc nó leo tường lội tắt ao sang đây, quần áo ướt sột soạt. Tôi rít khe khẽ trong bóng tối:
- Cút ngay! Bỏ mẹ cả lũ bây giờ! Cút!
- Anh bắn em thật ư?
Tư Nhỏ lại lắp bắp. Bỗng có tiếng lên đạn lạch xạch khô khốc lạnh rợn ngay sau lưng. Tổ trưởng dân quân Duyên hiện ra, thúc mũi súng vào cái bóng ngồi dưới đất.
- Bước! Cho ăn một phát đạn này.
Cái bóng rúm lại, chạy ra, tan vào sương đêm. Duyên cất súng trong xó, lôi ngay tôi xuống đất. Đàn bà, đàn ông ở đây ăn nằm đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được. Tôi thấy hợp với tính tôi. Mặt đất đóng hạt trám lổn nhổn mát lạnh như lát gạch mà tôi không cảm thấy. Gian bên, lão Cối ngay pho pho
lẫn tiếng nghiến răng, tiếng mê ngủ những đứa trẻ đạp nhau.
Duyên dúi vào tay tôi, chiéc bánh dầy nhân đậu.
- Chiều nay nhịn cơm a?
- ăn sợ mửa, còn tanh quá.
Duyên đút bánh vào miệng tôi, rồi đưa cắn một nửa, vừa nhai vừa lè đổi cho nhau ăn chung, giữa những cấu lào thào rì rấm.
- Anh chết nhé, liên quan rồi, đêm địa chủ mò tới, dân quân bắt được.
- Nó dẫn xác đến chứ.
Duyên lại đe câu khác:
- Từ giờ cấm không được đi tuần đêm.
- Sao?
- Sao trên giời, sao ở ngoài lều canh ấy. Cứ ư ử như chó lẹo nhau bên cạnh người ta, điếc cả tai. Nói cho mà biết, bận sau thì con nay thiến đấy.
Tôi hãi cứng đơ cả hàm, không nuốt nổi miếng bánh. Duyên lại nói rành rọt.
- Vài thưa che mắt thánh a? Lại cái con Đơm ở bụi duối. Cắn cho một cái đứt lưỡi chết tươi này. Chừa chưa?
- Chừa rồi.
- Thật không?
- Thật.
- Thế đi…
Tôi chưa kịpíu ớ đã bị Duyên vật bằng mấy thằng đàn ông lăn ra. Cái mệt thật êm đềm. Lại kể đàn bà con gái vùng này rõ thật ngỗ ngược, lên cơn cứ rằn ngửa người ta ra, khiếp quá. Đói toát mồ hôi lạnh thì càng dữ.
Khuya khuya, Duyên thủ thỉ:
- Em sắp được kết nạp, có phải không?
- Không biết.
- Cả bố em nữa.
- Không biết thật mà.
- Kết nạp em, anh phải đứng tuyên bố.
- Đã bảo không biết thật mà.
- Cái lão đội trưởng mắt cá ngão đỏ ngầu, trông đã thấy gớm. Anh không tuyên bố cho em thì em đét vào đâu.
Rồi hai cái môi Duyên lại nóng rực lên. Tôi không kịp nói tôi chưa phải đảng viên. Tôi nghĩ thế thôi, chứ cũng không ở đâu tôi nói vậy. Không phải đảng viên mà tôi đã mấy đợt tổ chức kết nạp cả chục rễ chuỗi vào đảng. Không biết trên có biết không, chẳng có ý kiến gì cả. Tôi làm việc kết nạp đảng cho rễ chuỗi cũng như đi họp, đi làm đồng.
Tôi cũng có ý đợi xem việc kết nạp Duyên thế nào, có thật không, nhưng đội trưởng Cự chưa nói, rồi công việc lôi cuốn, vả lại, còn đương đói vàng mắt, chắc hãy khoan. Tháng ba ngày tám dần dần lắm nhà thiếu quá. Mấy xã trên, nhiều cốt cán rạc người, thiếu sức, có mấy nơi người chết lăn ra ở những cuộc đấu địa chủ suốt đêm. Hàng ngày quen mat, nhưng tôi cũng hốc hác, nhìn lại cả thôn nay cũng đói vêu vao cả rồi. Tôi để ý cái xương bánh chè hai bên hông Duyên trồi lên thật, mỗi khi ấy Duyên cứ phải co bụng lại cho tôi đỡ đau. Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt, đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những cái bóng. Có ai vừa nói vừa khóc: biết còn sống được mà đấu tranh, mà trông thấy hạt lúa không.
Một xóm nổi bệnh tả. Mấy ngày thôi mà chết mất mười người. Đoàn uỷ có lệnh cho ngừng công tác cải cách. Yêu cầu các đội cùng nhân dân phòng bệnh, cứu đói. Ở trên cho về mấy xe vôi bột rắc khắp xóm, trắng lốp như chỗ nào cũng có đám ma. Cũng chẳng biết làm thế nào, ai chết thì chết thôi. Tôi cho người xuống thôn Đìa quẩy thêm mấy gánh dây rau muống. Cái mảnh ruộng cao quanh chân tre đất rắn như sỏi được cuốc ngay lên trồng rau muống vườn. Lại gây dây mồng tơi, chỗ nào cũng cấy rau sam, rau dền cơm, dền đất, mặt ao thì thả rau rệu – những rau có ấy chỉ nửa tháng đã được, người ăn như con dê nhai lá.
Cả xóm quảy nước, xách nước tưới những vạt ruộng còi cọc, phờ phạc.
BA NGƯỜI KHÁC
Tô Hoài
www.dtv-ebook.com
Chương 4:
Dai dẳng, ngắc ngoải, thoi thóp, rồi nạn đói cũng qua.
Buổi chiều không còn rào rạc gió ngoài đồng mùa hạ. Mây trắng lờ đờ từng tảng vần vũ trong nắng nhạt. Mấy chân lúa ba giăng đã lác đác được gặt. Lúa một vụ, mùa trên đồng cao, chiêm dưới đồng trũng với vài miếng ba giăng hiếm hoi. Lúa của nhà ai, nhưng mà thế đã trông thấy sống người rồi. Tiếng liềm cắt xoèn xoẹt và tiếng cười phảng phất ở đâu. Trẻ con từng đám ra chân ruộng đã quang nhấc gốc ra tìm cua, bắt chuột.
Những tôi vẫn chưa nguôi cơn hốt hôm xử băn địa chủ Thìn. Tôi là đội phó phụ trách toà án cho nên cái sợ ấy có lẽ chỉ tôi biết thôi. Không thể biết tại sao đợt trước tôi lại được thăng chức đội phó. Có le tôi biết làm biên bản và tính toán. Phải đâu tôi thạo con số mà làm được toà án. Thật tôi cũng đoánmò. May gặp cái tính hiếu thắng của đội trưởng Cự, đội trưởng nay nhảy ra làm thay tôi ngay giữa mít tinh xử toà án. Có khi Cự làm luôn, tôi khỏi phải tìm cớ lờ, cứ ngồi nguyên.
Sang bước chia ruộng đất, lên phương án xong phải ra đồng lãnh đạo cắm thẻ nhận ruộng. Ôi chao, lại đấu tranh, lại trở lại tính nợ địa chủ, nợ quỵt công, nợ lừa đảo, nợ tội ác, trăm thứ nợ chẳng biết đằng mù nào. Mà phải có những con số cụ thể mới khỏi lọt lưới, mới chia ruộng được. Nhưng tôi thường nghĩ ra những con số tam toạng, số liều. Không thế không xong, mà thế cũng được. Bởi cả đội không ai biết, mà họp thôn, họp tổ nông hội thì chẳng ai dám nói khác anh đội - “Thông qua được chứ?”, thế là giơ tay, giơ tay khắp lượt. Cải cách ruộng đất ở đâu cũng đồng loạt có năm đợt, tôi đã được đi ba đợt mà tôi ra cánh đồng vẫn như nhìn vào bức vách. Chỉ thuộc cái tên, tôi không áng chừng thế nào một miếng, một sào, đồng cao đồng sâu, đợt đầu còn chưa trong rõ cay lau, cay ngô, cây mía. Đội trưởng Cự thì không can mở sổ tay, cứ đọc vanh vách. Tôi khen nịnh, đội trưởng Cự nói tớ là con nhà bần cố, mấy đời thèm ruộng như mèo thấy miệng thịt, mà trong nam ngoài bắc, cả trên thế giới đâu chẳng là ruộng cấy lúa, làm gì không nhớ. Lão nói thế, tôi giời ơi đất hỡi, tôi sao dịu nỗi lo được.
Những tôi khéo lựa, tôi láu cá, chịu khó để ý cho nên ở đội có lẽ chẳng ai biết thực hư tôi giỏi hay dốt thế nào, không ai biết tôi cũng chỉ như một anh ở đội nào đã bị đăng lên bài báo chế diễu: đến bước chia ruộng, chia quả thực, nông hội cái nhau mấy đêm không xong, anh đội chắp tay quỳ xuống giữa cuộc họp: “Em lạy đội, em lạy các ông các bà nông dân, thế này thì em xin về, em chịu không làm được”. Không, tôi
đàng hoàng, không bấn đến thế.
Bấn nhất những lúc loạn xạ chồng chéo việc. Vạch thành phần xong rồi, có người được mọi người giơ tay biểu quyết cho làm trung nông, cả tổ nông hội còn ngồi đấy, chẳng đợi điểm danh lần lượt đến, đã hớn
hở chạy xuống bãi giắt con bò bị tịch thu hôm ioj về. Vừa đi lại vừa kêu: “Tôi là bần nông, tôi là bần nông mới đúng”. Mấy người được làm trung nông líu ríu chuyện. Cái thằng chủ tịch bây giờ thành thằng phản động ấy tao đốt nhà mày rồi đếm hết hạt bụi gio cũng chưa cạn tội. Mới năm kia, tôi thiếu thuế, nó bắt mất con bò, lại còn cho du kích đến khuân đi cái tủ, còn cái vại nữa. Tôi phải tìm cho ra những thứ ấy. Tôi chẳng thèm quả thực của đứa nào, tôi chỉ đòi của nhà tôi.
Tịch thu, trưng thu, trưng mua để đống rồi chia. Ngoài kia trẻ con đánỏntosng, rong cờ, tôi càng rối cả ruột. Các nhà địa chủ đứng ngồi rúm vào một xó, mấy người còn đến xỉa xói kể tội. Một lát, người ta đi lùng khắp nhà, lấy vôi vạch sẵn đánh dấu cái tủ, cái chum “những đồ này của nhà tôi, tôi đánh dấu sẵn kẻo mang đi đâu nữa thì lẫn mất”. Người gánh, người khiêng, ai cũng gầy đói hom hem, nhợt nhạt, mới chỉ đem lên cho tập trung tạm, chẳng biết còn đưa đi đâu nữa mà đã ham hố như đương khuân về nhà mình.
Một ba lão nhặt được trong đống đồ đạc và quần áo bề bộn một cái cối đồng giã trầu, lấy ra nghiền xong một miệng trầu bỏm bẻm nhai, như còn trâu già đêm đêm trong chuồng trệu trạo nhai lại. Rồi lại xăm xăm đi. Bà lão nay khôn vặt cứ la liếm nhặt những cái yếm, cái thắt lưng, cái ống đũa, chẳng ai để ý.
Ấy là quang cảnh những hôm các thôn rộn rịch lần lượt mít tinh tuyên bố xoá giai cấp địa chủ. Công tác lại tuần tự: chiều gọi loa, hô khẩu hiệu, tối họp xóm xong từng nhà về còn mạn đàm trao đổi ngày mai là ngày sung sướng nhất của nông dân, ngay mai giai cấp địa chủ bị tiêu diệt hềan toàn ở xã ta và trên cả nước nữa. Mỗi thôn thành lập bốn tổ: tổ đem gia đình địa chủ ra đấu, phân hoá tại chỗ. Tổ sục sạo xem đồ đạc còn dấu diếm ở đâu và tịch thu sổ sách, giấy tờ trong nhà. Tổ vận chuyển quả thực ra để ngoài sân đền. Tổ làm trật tự kiêm ghi chép phân minh. Cuộc mít tinh xử án toàn bộ giai cấp địa chủ làm ở thôn Đìa, các thôn khác đến tham quan rồi về cứ theo thế mà làm hôm sau.
Ở Chuôm, tôi làm trưởng ban, họp đến ba giờ sáng rồi thành lập xong ban tịch, trưng, mua. Hội nghị đã nhất trí phương án mua những gì, cái gì tịch thu, cái gì không mua. Không mua lặt vặt cái thớt, bó đũa, cái vai cầy. Những tấm ván áo quan thì tịch thu. Địa chủ chết được nằm hòm sang trọng a? Tao nhắm mắt chưa biết bó chiếu hay bó cốt đây. Tịch thu cái cũi đựng bát đĩa chứ cái chậu đựng cám lợn thì mua làm thèm vào. Phải làm mọi cái to nhỏ đúng chính sách đã bàn.
Vừa họp xong, gà đã gáy dồn. Thế là lại đi luôn. Từ lúc mờ sáng, trống ngũ liên đã đánh dồn ba tiếng một, như trống hộ đê, trống chữa cháy, trống cướp. Cho đến sáng bạch thì hầu khắp trong thôn có cái gì gõ được thì người ta cũng đem gõ, loạn xạ như khi gấu ăn trăng, đập nồi đập chậu cho gấu sợ phải nhả mặt trăng ra. Trống cái, phèng phèng, thanh la, kẻng thanh sắt, vỏ đại bác, vỏ bom… vang vang bốn phía, những đám người đùn đùn ở các ngõ xóm ra.
Trước tôi còn ở bên Am, tôi đã tổ chức gác nhà thằng Vách để đợi lệnh đoan uỷ cho bắt, nhưng đội trưởng Cự lại về thôn ấy lại cho nó làm chuỗi. Lúc ấy không biết thằng Vách ở đâu chui lên vừa nhớn nhác vừa hung hăng. Vách mặc cái áo nâu bạc, đồng cái khố đuôi lươn, đít hóp lại, hai đầu gối nhô ra như hai hòn cuội, tay cầm chiếc đòn xóc chốc chốc lại hoa lên múa. Trong bộ râu quai nón, phùn phụt ra những
tiếng hét: hoan hô… hoan hô… Có người hỏi: Đi mít tinh mà lại đóng khố à? - Ấy, ra đây kiếm cái quần địa chủ để mặc, phải cởi truồng sẵn cho đỡ vướng.
Tôi trèo đứng lên cái bàn giữa bãi cỏ đọc một bài diễn văen đã có mẫu in sẵn từ trên đoàn gửi xuống, sau cũng tôi giơ cái loa giấy, nói chõ ra bốn phía “Tôi tuyên bố từ giờ phút này toàn bộ giai cấp địa chủ ở xã nhà đã bị tiêu diệt. Giai cấp nông dân muôn năm!”. Phất cờ lên! Phất cờ lên! Trống lên! Cờ phất và trống ếch rùng rùng nổi từng hồi. Đội sục sạo, đội trật tự, đội ghi chép, đội tịch, trưng mua và cả đám mít tinh nhốn nháo kéo vào nhà địa chủ Thìn. Vách chạy trong đám, vẫn múa cái đòn xóc, la to: “Cha mẹ để của cho cũng sướng đến thế này thôi, giời đất ơi!” Cái khố đuôi lươn tháp thoáng rồi lẩn mất.
Trong sân nhà địa chủ, tôi đứng lên trên thành bể, ra lệnh các phía. Thiếu nhi đánh trống sôi nổi nào! Ban trật tự làm việc! Đội khuân vác, đội tố khổ hay sẵn sàng! ở gian bên còn có mấy người nhà ngồi bó gối, đứng ngơ ngác. Ba lão Thìn liệt giường đã nhiều năm, nằm đắp chiếu. Người con dâu và lũ cháu, áo xống lấm như vùi - đấy là người ta chát bùn làm áo đã cũ, mặc cả vào người, xúm lại quanh giường người ốm. Ban trật tự lật chiếu lên: “Xem có dấu cái gì trong chiếu không?”. Mùi thối khẳm xông lên, lại phải buông xuống.
Trưởng thôn Cối làm tổ trưởng tịch, trưng, mua nhưng lại mù chữ, lúc đội sục sạo đến báo cáo, tôi phải ghi ngoáy con số vào sổ tay rồi tôi lại trèo lên thành bể, nói to:
- Địa chủ cường hào gian ác Đoàn Văn Thìn có: ruộng 5 mẫu, 1 nhà ngói năm gian, 1 nhà gỗ ba gian, 1 trâu, một nghé, 10 chum, 15 vại, 4 giường, 2 phản, 1 yến gạo, 2 yến thóc, 7 cái nồi năm, nồi tám, nồi mười, mâm đồng 2 chiếc, mâm gỗ 8 chiếc… Tổ tịch, trưng, mua quyết định tịch thu toàn bộ nhà ngói, nhà gỗ và diện tích ao vườn. Để lại cho nhà nó ở cái bếp đầu bờ rào. Tịch thu tất cả nồi đồng, xanh đồng, mâm đồng, cũi bát đĩa a, hương án đồ thờ. Trưng mua các phản gỗ, bàn toạ, ghế tràng kỷ, ván áo quan. Không mua thóc gạo đương có, không mua quần áo chăn chiếu đương mặc, đương đắp, không mua nồi niêu ang đất, tôn trọng tín ngưỡng không đụng đến đồ thờ, bát hương. Tôi yêu cầu đội khuân vác làm việc, đem các đồ đạc tịch trưng thu kể trên lên bãi quả thực.
Rồi người ta khiêng đồ lên bãi quả thực trên xã hay đã vác trộm về, tôi nào phân biệt được. Tuyên bố xong, tôi nhảy xuống giữa những lộn xộn. Chẳng biết tổ trật tự lẫn lộn vào đâu cũng chẳng biết ai đội khuân vác, ai hôi của. Có người đội ra cái thớt to như cái nón Chuông trên đầu.
Vách chưa lấy được cái gì, lon ton chạy. “Đứa nào kiếm cho tao cái quần, chọn cái mới ấy. Tao đã đóng khố sẵn để đợi mặc quần mới đây”. Nhưng chẳng khỉ nào còn để mắt đến Vách. Có người bê ra cái chĩnh, hét vào mặt tôi: “Em xin về đựng nước cáy. Bao nhiều đời bây giờ mới được cái chĩnh”. Nhiều người chạy ra vườn thúc cái thuốn vào gốc xoan, vào bụi hoa nhai nghi ngo có chôn của. Trong nháy mắt, đống quả thực chỉ còn lại cái hương án, cái tràng kỷ và cỗ áo quan phải khiêng vác, không ai lôi đi được.
Chợt nhớ còn quên mất một việc, tôi nói to:
- Ai có khổ thì ra vạch tội địa chủ. Dân quân dắt các con dâu nhà nó ra một nơi, đem trẻ con đứng chỗ khác, phân hoá chúng nó, giải thích, yêu cầu chúng nó hàng phục nông dân thì có con đường sống.
Chẳng ai nghe tôi nói, người vẫn đùng đùng khuân vác chạy qua. Chẳng biết làm thế nào, mà thôi. thế cũng là xong việc ở đấy, tôi ra hét người sang tham gia “mít tinh xoá địa chủ” tư Nhỡ bên thôn Am. Những người bơ vơ chưa vớ được cái gì ngẩn ra nghe nói còn chỗ địa chủ nữa. Thế là rùng rùng sang bên Am, hàng ngũ trống ếch và cả đám ồ ạt chạy.
Bên kia ao dừa không còn tiếng đàn chó ra sủa như mọi khi. Cả nhà Tư Nhỡ đã trốn đi từ bao giờ. Có lẽ đã lâu rồi, cứt giun đùn về vệt lên đầu hè từng đống. Ngoài bờ ao, rặng dừa đã bị chặt cả ngọn không còn lấy một quả. Cái cổng tán vẫn buông sùm sụp, bùng nhùng đống đây thép gai và cánh cửa nhà trên nhà dưới cài then trong, giả như vẫn có người trong nhà.
Một người tổ sục sạo nhặt được chỗ xó cột một mảnh giấy đưa cho tôi:
Gửi cậu mợ, các chị, các em Hương, Hiền, Vinh, Phú, Quý
Máu gà lại thấm xương gà
Em đi nam bắc hoàn cầu
Nếu em còn sống ngày sau em về
Tôi bảo: “Truyền đơn này là của mật thám đế quốc bỏ lại” rồi tôi xé vụn tờ giấy. Trong bụng tôi nghĩ: Chắc một đứa con tư Nhỡ trốn đi, để lại thư kích động. Những tôi ỉm không nói với ai. Cho khỏi lôi thôi.
Chẳng ai ngơ ngác, trước cả nhà địa chủ bỏ trốn mà nhà cũng sạch trơn, chẳng còn đồ đạc lấy được, người ta nhảo ra ngay, chạy theo đồ thô các nhà địa chủ đương được khiêng lên mãi cửa đền. Xa xa, lại tiếng trong ngũ liên trống ếch lẫn tiếng reo à à. Trong khoảnh tre các làng, khói đốt các sách vở và giấy tờ của nhà địa chủ bốc lên đen ngòm như các đám thui bò.
Các thôn đã lần lượt mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ, tiếp theo tịch thu, trưng thu, trưng mua đúng như kế hoạch. Đội trưởng Cự đi kiểm tra, đến thôn Am, thôn Chuôm thấy mít tinh đã xong ngay buổi sáng bây giờ chỉ còn một đám ở thôn khác chạy đến hôi của và mấy người đứng lẩn quẩn ngắm cái hương
án có về tiếc rẻ giá đem về bổ làm củi, nhưng nặng không ai dám khiêng. Đội trưởng Cự đi tìm tôi. Tôi nằm ngủ trên chõng nhà lão Cối, úp quyển sổ tay lên mặt. Đội trưởng Cự vào dựng tôi dậy, mắng như tát nước. Mặt Cự đỏ tía, mà chắc mặt tôi tím lạnh. Tôi đã học tập làm điểm ở thôn Đìa rồi mà vẫn quá ẩu. ẩu nhất là vừa xong đã về lăn ra ngủ. Phúc mà tôi không bị làm lại, phải lên xa tham quan để “đợt sau làm cho đúng”. Tôi sợ cuống quýt thế chứ còn gì đâu mà làm lại. Tôi cũng không dám nói đã sang định hỗ trợ cho thôn Am. Đội trưởng Cự phụ trách thôn Am, tôi hãi lão lại đổ cho tôi mưu mô cho cả nhà tư Nhỡ bỏ đi, tẩu tán hết của, nông dân không còn nói cái bát cái nồi để chia quả thực. Tôi cũng không hỏi xem tư Nhỡ vẫn
bị giam hay nó đã trốn theo gia đình, tất nhiên không dám hỏi. Đội trưởng Cự nổi lôi đình một lúc rồi bảo tôi lên mít tinh xã kết thúc đấu tranh thắng lợi xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã.
Hơn ba mươi gia đình nhà địa chủ ngồi một phía đen ngòm bãi như quạ đậu. Các nhà phú nông đại diện được đến tham quan thì ngồi hàng ngoài. Người suốt chín thôn cơm nắm cơm đùm từ tinh mơ kéo đến bạt ngàn trong tiếng chiêng, trống, tù và inh ỏi. Đã đốt hết dưới thôn rồi thế mà trên xã không biết còn khiêng ở đâu ra những cái tủ đựng sách báo chữ Nho chữ ta chất cao như cây rơm, mồi lửa đã châm đốt cháy rừng rực như những cây đình liệu.
Các thôn lên chưa đủ. Có thôn cả buổi sáng còn đấu chưa dứt - Còn thì giờ đợi, đội trưởng Cự vẫn mắng tôi: “Phải khơi gợi căm thù đã, chứ để quần chúng đâm đầu vào mấy cái... quả thực à!”
Cuộc mít tinh xử án. Người ta sán đến chỗ các nhà địa chủ, im lặng nhìn như xem những con vật lạ, con gà mới mua hay cái rọ chuột. Anh đội nói: Mặc kệ, không cần trật tự, cho quần chúng thoả lòng căm thù”. Một đám vây lại cho một bà lão địa, hai mắt cùi nhãn đã loà hẳn. Bà lão mặc lồng hai cặp áo nâu da bò, khăn vuông láng thâm mới, nhai trầu thong thả, không biết điếc thật hay giả điếc, dửng dưng không để ý xung quanh. Đằng kia, một lão địa - lão này không có tội ác, không bị giam, lão chít khăn, áo bông dài sa tanh mới, hai tay chắp trước bụng áo như đứng hầu quan. Tiếng ai như tiếng thằng Vách quát: “A ha! Chúng nó mặc tất cả quần áo vào người để khỏi phải tịch thu đây. Lột ra, lột hết ra. Tao có quần rồi, tao cấn thêm một cái áo, đứa nào lấy cho tao”. Một người hất tay trật cái khăn vố của lão địa. Nhưng cũng không ai lột váy, cởi áo lão địa ông, địa ba ấy. Cái khăn bị lệch mà lão địa cũng không dám giơ tay sửa lại, mồ hôi đậu từng nốt trên mũi lão. Chốc chốc, lão lại măm môi ưỡn người đảo mắt nhìn xuống, ngước lên như cố nhịn đái hay nhịn ỉa chẳng biết.
Các thôn vẫn đương kéo lên cả thôn Am, thôn Chuôm, mà tôi không biết, vì tôi quên không cho lệnh lên. Chỉ là còn ngửi thấy hôi của, người ta gọi nhau đi. Trên bờ tường, trẻ con leo ngồi đánh trống. Dưới kia, loa trõ xuống đầu đồng: A lô, A lô. Nắng đã hầng, người đi ồn ào, tiếng tù và ánh ỏi.
Đội trưởng Cự phân công tôi ra kiểm soát các tổ dân quân, đặc biệt gác chỗ bọn địa chủ. Cho đến chiều, liên tiếp người đến kể khổ. Rồi thì đuốc đốt lên, mãi đến nửa đêm đội trưởng Cự mới đứng ra tuyên bố xoá bỏ toàn bộ tiêu diệt giai cấp địa chủ toàn xã.
Tôi về, mệt phờ người. Trông lên trời sao long lạnh bập bỗng thẫn thờ nghĩ đến công việc ngày mai, ngày kia, chỉ những lo là lo. Còn rắc rối đây, sang bước cắm thẻ nhận ruộng, lại bước chia quả thực. Hai bước này ở trong Thanh, tôi đều tránh được. Bây giờ mà phải làm thì nguy vì chưa biết đầu cua tai nheo
những gì. Những lần ấy tôi hay khoe khéo nghề kế toán của tôi. Công tác bước cuối dồn mọi việc, mọi ngành gấp rút cộng trừ bảng A, bảng B, chuẩn bị mừng chiến thắng tổng kết. Thế là tôi được gọi lên đoàn ngồi vắt óc nặn các con số, nhân chia bạt tử, rồi cũng xong cả. Nhưng ra đây tôi chưa đánh tiếng được với trên đoàn rằng tôi là cán bộ tài vụ. Bây giờ không rõ còn kịp chào hàng không, khốn nỗi tôi cũng chưa quen ai ở trên. Đến phải vùi đầu vào hai bước rắc rối này, thôi thì có người có ta.
Thôn Chuôm có thể nặng nhất bước này. Địa chủ Thìn nhiều ruộng đất, tôi cũng chưa đếm được nhiều bao nhiêu, ruộng nhà địa rải rác các xứ đồng, lại ruộng xâm canh bên kia sông. Trong thôn lại có bốn thằng phú, sáu trung nông cũng có thể vào diện vậ động san xẻ ruộng cho nông dân. Mà ở đâu, ruộng chia thế nào
thì cũng thiếu. Công lao người ta cả tháng hội họp, tố khổ đấu tranh rồi, cái cây đợi ngày hái quả, bao nhiêu quả. Đương lúc ấy Duyên lại ỡm ờ bảo tôi: “Cắm thẻ nhận ruộng xong rồi em mới về nhà chồng chứ không thì để chúng nó cướp không công em đấu tranh à? Sao im thế? Hay là anh muốn truất phần em để anh chia cho con Đơm cháu địa ác ác? Thề đi, anh không thể chia cho em cho ruộng nhất đồng điền thì từ giờ đừng có đụng vào em mà chết gẫy xương đấy”.
Những buổi họp bàn chia ruộng, quả thực, chưa đâu vào đâu, ai cũng té tát, hằm hè tím tái vặc nhau. Ruộng đồng cạn, đồng sâu, và quả thực, cái nhà đầu hồi hay ở gian giữa, cả cái cối đá, cái bắp cày trên gác bếp cũng tranh nhau không ai nhường ai. Hôm sau mới chia thử đã loạn xạ. Chỉ có cái cối đã mà mấy người hét: Vần đi, vần đi. Người khác đá lại. Một người ở đâu tới, thủ sẵn cái thừng, đánh thòng lọng xuống lưng cối, khoác thừng vào vai, kéo xềnh xệch cái cối đá. Tôi chặn lại:
- Không được, chưa chia.
- Em chỉ ra xem thử để lúc em được chia thì mang đi cho dễ, em thử thôi mà. Rồi cười khà khà, đi vào. Trong này còn khối thứ, bỏ vào ngồi họp thì đứa khác ra cướp mất. Cứ đứng đây, tôi cái này, cái này. Ôi trời, còn biết đằng nào mà lần. Hai tai nghe quang quác, khoành khoạch, át cả tiếng anh đội cổ đã khản đặc nhìn những người nhà có đám phải rặn ra khóc.
Cuộc họp đối đáp chan chát.
- Ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng mặn, ruộng chua, lấy ráo. Bần cố chúng tôi đã mấy đời đói ruộng như con đói sữa mẹ.
- Cho tôi cái xướng mạ, tôi chỉ xin một thứ thế thôi.
- Cả lũ địa còn đánh đổ được nữa là chia cái ruộng đã có trong tay, khoan đã, rồi đâu vào đấy. - Tôi không có màn. Anh đội ơi! Cho tôi một cái màn mới là thoả mãn bần cố nông. - Đấy là sang mực quả thực. Mấy hôm nữa.
- Mấy hôm nữa thì bàn bây giờ làm mẹ gì cho tốn nước bọt.
Rồi lại nói ngay:
- Nhưng mà tôi cứ nói trước, tôi phải được cái áo ấm. Đáng nhẽ tôi khiêng địa chủ Thìn thì tôi được cái áo bành tô của nó, thế mà trưởng thôn Cối đã nẫng tay trên của con tôi. Cả đời mới trông thấy cải cách mà không được cái áo thì rét lắm. Mà tôi là cố nông, cố nông ba đời, bố tôi cần cái hòrn đến nơi rồi. Cái hòm
ở nhà địa chủ Thìn là phần tôi, chưa dùng đến thì mùa hè để ông cụ được nằm cho mát cái lưng. Hề, hề, hề…
- Nhà tôi chỉ rặt giống nồi đất, đội về mà kiểm tra. Tien nhan đứa nào bảo bà có cái nồi tư đem giấu đi! Rồi cuộc họp lại lái về ruộng đất, lại lung tung.
- Trung nông nhận ruộng giao canh của địa chủ thì hoa mầu tính sao? Tôi chỉ có hai miếng chó ỉa ấy, đổi nước mạ, nước khoai lấy ruộng có được không? Tôi là trung nông yếu, các ông các bà ạ.
- Yếu hay khoẻ thì cũng là trung nông, ai cho trung nông đổi chác mà đòi.
- Nói như cái nhà chị thì mấy tháng nay tôi đi đấu công toi à?
- Nguyên canh là thế nào, cào bằng đi, chia lại.
- Ruộng tôi cấy, động chệ đến mồ mả nhà ai mà chia lại!
- Báo cáo đầy đủ này. Tôi chưa có đất vườn, tôi chưa có cái chum, cái vại tử tể đựng nước cáy. Tôi xin nhận chỗ ao dừa nhà tư Nhỡ.
- Tôi phải được chia cái áo bông của thằng Thìn mới là đoàn kết bần cố, thằng Thìn còn cái áo bông dài năm ngoái vẫn thấy nó mặc rét.
- Các người ơi, để mắt đến thằng trung nông ọp ẹp này một tý. Nhà toàn ruộng nuôi giang sếu, bồ nông đồng chua, phải cho lên cắm thẻ đồng cao chứ.
- Đã bảo trung nông thì đợi ngõ ngoài nữa.
- Hay là nông hội tư túi chia cả ruộng cho con mẹ công thương bán bánh đúc chợ huyện? - Đứa nào bảo ông tư túi, ông gang họng ra!
- Tôi như con chó hóng cứt, từ chặp tối điếc cả tai mà chưa được cục cứt nào đây.
Mới thử một ngã ba ngã tư đã rối tinh. Thì giờ vun vút, mỗi buổi sáng hội ý đội về lại tơi bời tất tả. Thêm khó một nỗi, sổ sách địa bạ đã chất đống đốt sạch sành sanh cho “hết tàn tích địa chủ phong kiến” mất rồi. Bây giờ lần hỏi từng nhà địa, nhà phú. Chỉ có những nhà có ruộng mới thuộc đích xác ruộng nhà
mình. Thế nhưng hôm xử bắn địa chủ Thìn, cả các nhà địa nhà phú nào cũng bị điệu lên bãi ngồi cho trông thấy, rồi về người thì ốm chết, liệt giường, có người phát điên, có người trốn biệt. Chẳng hỏi được ai.
Lão tư Nhỡ thì biệt tăm. Đêm ấy, tư Nhỡ đội mái nhà giam của xã chui ra. Dân quân đổi nhau gác suốt sáng dưới tường mà không biết. Yên trí tường cọc tre nhẵn sạch vấu, cao hơn hai thước, không thể leo trèo
được. Sáng ra, nghe tin bảo, đội trưởng Cự đến đứng chắp tay sau lưng, mắm môi nghiền ngẫm, rồi đi quanh mấy vòng, đứng lại, giơ tay phân tích: “Tôi đã biết nó còn trẻ, nó nguy hiểm nhất nên cho biệt giam đợi án. Ở xã này, chân tay nó đã bị tôi chặt hết, không thể nghi ngờ giai cấp nông dân giúp nó trốn được. Có ai nhớ không, nhà nó gài cái máy galen trên cột tre, cao bằng cây cau, nó liên lạc với địch miền Nam được mà. Bọn phản động các nơi còn nhiều lắm. Nhất định địch ở trong Nam đã ra cứu nó. “Nhưng người làng đến xern, thì thào: “Thằng này sợ quá lòi cả cứt, thế là hoá ra nhẹ bụng, nhảy bật lên nóc nhà. Ở đây rồi cũng chết, đằng nào cũng chết, nó liều. Đứa liều thì cái gì chẳng làm được”. Chỗ lỗ hổng cót mái, máu chảy ròng ròng xuống chân tường, vết giỏ giọt dài ra đến chỗ cột trụ. Dân quân sục vào trong đền nhưng không thấy dấu vết người ẩn nấp. Nhưng Cự đã bảo là “có địch trong Nam ra cứu nó” thì không ai nói thêmthế nào nữa.
Theo lịch, ngày mai phải xong phương án chia. Mà con số và các loại ruộng vẫn mù mờ gạch xoá trên giấy. Bí thật, nhưng tôi không hỏi ai một câu. Hỏi thì hoá ra lòi đuôi. Khi còn ở bên xóm Am, tôi rối quá thì lại vào nằm với cái Đơm cho nhẹ đầu. Duyên ở đây không thế, suốt ngày Duyên đi nhổ mạ thuê rồi lại quanh quẩn ra ngắm ruộng, đi mặc cả chia ruộng chỗ ấy tối đến thì đi tuần. Có hôm sáng bạch, tôi bừng
mắt, thấy Duyên nằm ngủ vục đầu xuống ngực tôi, đêm qua ngủ với nhau lúc nào cũng không biết nữa.
Thoáng bóng đội trưởng Cự ngoài ngõ. Tôi đương ườn mình lơ mơ, chập chờn trên chõng. Thực sự, lo luẩn quẩn không thể chợp hẳn mắt. Tôi nhỏm dậy, kéo cái ba lô lên đầu gối, mở sổ tay, đẩy mấy tờ giấy kẻ lung tung ra, như đương làm việc. Cái chỏm mũi đội trưởng tái lịm như quả cà tím ló vào. Có lẽ mọi khi mũi Cự vẫn tím đỏ thế, tôi không để ý. Không hiểu sao, mỗi lần đương cái lo, y như rằng, đội trưởng Cự hiện ra như một ông thần, có khi ông ác tác quái, có khi ông thiện ban cho sự nhàn hạ. Tôi hồi hộp không biết lần này thế nào.
Cự cười nhếch mép:
- Anh đội làm gì đấy?
Chưa nghe Cự nói rỡn “anh đội” thế bao giờ. Có thể việc tốt lành đến nhưng tôi vẫn y tứ, giữ gìn. - Tôi viết nốt phương án.
- Số liệu những đâu mà nhanh thế?
- Đương lấy, vừa viết vừa lấy mới kịp được.
- Xong rồi cũng phải làm lại. Thôn Am, thôn Chuôm chẳng còn một mống nao có nhiều ruộng mà bắt nó khai. Chỉ có họp xóm đấu tranh tố khổ mới ra con số ruộng được, cậu đã làm chưa? Chưa phải không? Rồi còn phát động phú nông, trung nông lớp trên nhường ruộng, hiến ruộng. Vẫn chưa làm chứ gì?
Mỗi khi Cự nói lại lòi chuôi cái tôi chưa biết, chưa làm nhưng tôi lại vỡ ra được nhiều cái khác không
nghĩ được. Tôi ngớ ngẩn hỏi:
- Bây giờ phải làm lại a, còn lịch công tác…
Đội trưởng Cự ngồi xuống, nhắc cái quai sắc cốt rồi xua tay.
- Không kịp rồi, tớ lại phải ra tay mới được. Nếu không thì vì cậu mà cả đội chạy bét. Tôi lại cảm tưởng nhẹ mình. Cầu được ước thấy, lúc nguy nan lại được phù trợ, có mả cứu bấn, hay thật. - Tối hôm nay, cậu ra ở nhà trưởng thôn Cối, tớ lên đây ốp việc. Có thế mới kịp.
Tôi đã đánh hơi được một mùi, cái mùi nồng nồng ở đũng quần Duyên. Nhờ thế mà tôi thoát vất vả. Thằng dê cụ này đến chỉ vì cái mùi đũng quần đàn bà mà thoi. Con vợ dưới xóm Đìa tống đi cán bộ rồi, lên xóm Am nằm với cái Đơm, bây giờ lại sang tòm tem cái Duyên. Chỉ the, chẳng ba cùng ba càng, chẳng tổng kết, bồ kếp giời hỡi gì ở đây. Chắc thế, họ hàng nhà ma, đi guốc vào bụng nhau cả.
Nhưng vậy cũng lợi cho tôi, nghĩ thế, tôi tủm tỉm cười. Đội trưởng Cự tinh lắm, như đoán được cái cười láu tôm chế giễu của địch thủ. Bất chợt, Cự sừng sộ quát tôi:
- Này này báo cho mà biết tớ lên đây để cứu cậu khỏi phải đi tù đấy, biết chưa. Chẳng tội Việt gian như thằng Đình, tội tù hủ hoá cũng tù ngang thế. Còn nhớ bài báo thằng Bổn Đào Khê chứ. Đi cải cách mà hủ hoá phải ghi lý lịch bị đuổi về cơ quan còn nhục hơn thằng đeo gông. Cái con Duyên chung chạ quần áo với cậu, cả làng chửi rầm lên, cậu vờ điếc à?
Tôi bầm mặt, câm như hến. Bị băm bổ đào đến tận ngóc ngách âm ti thế còn biết chống chế thế nào. Những điều tôi nghĩ về Cự chỉ là những vu vơ mờ nhạt mà tội của tôi thì sờ sờ ra đấy rồi.
Cự vẫn chưa buông tôi, nhưng đã dịu.
Cậu là tiểu tư sản có công giúp giai cấp nông dân đi cải cách mấy đợt rồi, tớ thông cảm. Tớ con biết cả chuyện cậu lằng nhằng với cái Đơm, lại mấy đứa dân quân gai đi gác đêm đều phải chết với cậu. Nhưng tớ xuý xoá cho, biết không.
Tay tôi tỳ lên cái ba lô, run bần bật. Mỗi tiếng của đội trưởng Cự như một cái bóp cổ, nếu nó không nới tay thì cầm chắc đứt hơi. Cự ngừng gườm con mắt lòng trắng đỏ ngầu nhìn tôi dò ý.
Rồi bỗng lại nhẹ nhàng sang chuyện khác, tôi mới được nguôi ngoai theo.
- Bàn với cậu nhé.
Tôi lóng ngóng cầm bút lên, mở vu vơ trang sổ tay.
"""