" Tuyển Tập Tác Phẩm Yasunari Kawabata full prc pdf epub azw3 [Tuyển Tập] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Tác Phẩm Yasunari Kawabata full prc pdf epub azw3 [Tuyển Tập] Ebooks Nhóm Zalo MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU TRUYỆN NGẮN VŨ NỮ IZU VỀ CHIM VÀ THÚ TRĂNG SOI ĐÁY NƯỚC TIẾNG GIEO XÚC XẮC BAN KHUYA CÁNH TAY VỊNH CÁNH CUNG TRUYỆN NGẮN TRONG LÒNG BÀN TAY CỐT MIỀN ÁNH SÁNG CON CHÂU CHẤU VÀ CON DẾ ĐEO CHUÔNG BẾN TÀU BÌNH DỄ VỠ NGƯỜI ĐÀN BÀ HÓA THÂN VÀO LỬA CHIẾC NHẪN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT OSHIN GƯƠNG MẶT KHI NGỦ SẮC MÀU GƯƠNG MẶT NGƯỜI CHẾT TẠ ƠN TÊN TRỘM HỒ ĐÀO TIA NẮNG RẠNG ĐÔNG HIỆN HỮU THẦN LINH ĐÔI GIÀY MÙA HẠ LỜI NGUYỆN CẦU CỦA XỬ NỮ YURIKO ĐÔI MẮT CỦA MẸ SẤM MÙA THU GIA ĐÌNH NGƯỜI ĐÀN ÔNG KHÔNG CƯỜI GÀ TRỐNG VÀ VŨ NỮ TRANG ĐIỂM MƯA PHÙN GƯƠNG MẶT CÂY LỰU CÂY HOA TRÀ CÂY MẬN CHIM DẺ CÙI MÙA HÈ VÀ MÙA ĐÔNG THUYỀN LÁ TRE NHỮNG QUẢ TRỨNG NHỮNG CON RẮN TIẾNG TRE, HOA ĐÀO BỘ ĐỒ CƯỠI NGỰA CAO XANH LỘNG GIÓ TRÁI ĐẤT HOA QUỲNH BẤT TỬ TUYẾT TÍNH NỮ TÌNH YÊU ĐÁNG SỢ TỪ HÀNG LÔNG MÀY CỐ HƯƠNG NƯỚC CÁNH RỪNG TRONG GƯƠNG GƯƠNG MẶT TẤM ẢNH TRANG ĐIỂM TIỂU THUYẾT TIẾNG RỀN CỦA NÚI CHƯƠNG I: TIẾNG RỀN CỦA NÚI CHƯƠNG II: TIẾNG VE KÊU CHƯƠNG III: VỪNG HỒNG Ở CHÂN MÂY CHƯƠNG IV: QUẢ HẠT DẺ CHƯƠNG V: GIẤC MƠ VỀ ĐẢO VẮNG CHƯƠNG VI: ANH ĐÀO MÙA ĐÔNG CHƯƠNG VII: NƯỚC BUỔI SỚM CHƯƠNG VIII: TIẾNG GỌI TRONG ĐÊM CHƯƠNG IX: TIẾNG CHUÔNG MÙA XUÂN CHƯƠNG X: NHÀ CỦA CHIM Ó CHƯƠNG XI: CÔNG VIÊN THỦ ĐÔ CHƯƠNG XII: VẾT SẸO CHIẾN THƯƠNG CHƯƠNG XIII: TRONG MƯA CHƯƠNG XIV: ĐÀN MUỖI CHƯƠNG XV: CÁI TRỨNG RẮN CHƯƠNG XVI: CÁ MÙA THU NGÀN CÁNH HẠC NGÀN CÁNH HẠC VÒM CÂY TRONG NẮNG CHIỀU CHIẾC BÌNH SHINO THỎI SÁP MÔI CỦA MẸ NÀNG NGÔI SAO KÉP ĐẸP VÀ BUỒN Tiểu sử tác giả Chuông chùa cuối năm Mùa xuân sớm Hội trăng rằm Ngày mưa Vườn đá Bông sen trong lửa Món tóc huyền Những hư hao mùa hè Cái hồ CỐ ĐÔ I. HOA MÙA XUÂN II. NI VIỆN VÀ HÀNG RÀO GỖ III. THÀNH PHỐ KIMONO IV. LOÀI THÔNG LIỄU TRÊN BẮC SƠN V. LỄ GHION VI. NHỮNG CÀNH THÔNG XANH VII. THU MUỘN. HAI CHỊ EM VIII. HOA MÙA ĐÔNG NGƯỜI ĐẸP NGỦ MÊ Lời giới thiệu Một Hai Ba PHỤ LỤC 1: NHẬN ĐỊNH - PHÊ BÌNH TỪ MURASAKI ĐẾN KAWABATA KAWABATA - CON MẮT NHÌN THẤU CÁI ĐẸP VỀ XỨ TUYẾT YASUNARI KAWABATA - NGƯỜI CỨU RỖI CÁI ĐẸP ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRUYỆN TRONG LÒNG BÀN TAY CỦA YASUNARI KAWABATA YASUNARI KAWABATA GIỮA DÒNG CHẢY ĐÔNG - TÂY NIÊN BIỂU YASUNARI KAWABATA THƯ MỤC TÁC PHẨM KAWABATA PHỤ LỤC 2 ĐẤT PHÙ TANG, CÁI ĐẸP VÀ TÔI LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN ĐẤT PHÙ TANG, CÁI ĐẸP VÀ TÔI PHỤ LỤC 3 FIRST SNOW ON FUJI Translator's note This country, that country A row of tree Nature Raindrops Chrysanthemum in the Rock First Snow on Fuji Silence Her Husband Didn’t Yumiura The Boat-Women: A Dance-Drama THE MASTER OF GO LỜI GIỚI THIỆU Năm 1968, nước Nhật đón mừng một sự kiện văn hóa có ý nghĩa lớn: nhà văn Yasunari Kawabata, người Nhật Bản đầu tiên đoạt giải Nobel văn học. Sự kiện này đã tác động sâu sắc đến cách nhìn nhận của phương Tây đối với văn chương Nhật Bản nói riêng và văn chương châu Á nói chung. Cũng từ đó, thế giới có thêm một nhà văn với sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật độc đáo được tôn vinh và khẳng định bằng tiêu chuẩn cao quý: bậc thầy. Năm 1899, Kawabata chào đời tại một ngôi làng nhỏ, gần thành phố Osaka, trong một gia đình trí thức. Tuy nhiên, cuộc đời ông gặp nhiều bất hạnh ngay từ khi còn là một đứa trẻ: cha mất khi mới hai tuổi, một năm sau thì mẹ mất, Kawabata phải về sống với ông bà nội. Nhưng đến năm 1906, Kawabata lên bảy tuổi thì bà mất. Hai năm sau, người chị duy nhất cũng qua đời. Năm Kawabata mười lăm tuổi, người thân cuối cùng là ông nội cũng ra đi. Với vô vàn mất mát này, Kawabata được nhiều nhà nghiên cứu, trong các phần viết về tiểu sử của ông, đặt cho biệt danh là Soshiki no meijin - Chuyên gia tang lễ. Cuộc sống gia đình thời thơ ấu đã tác động mạnh đến tính cách và tác phẩm của Kawabata. Công chúng luôn biết đến Kawabata như một nhà văn kín đáo, trầm lặng, sống tách biệt khỏi những bon chen lợi ích đời thường, và các tác phẩm của ông, từ những truyện ngắn đầu tiên như Vũ nữ Izu, Lễ chiêu hồn... cho tới những tiểu thuyết cuối đời như Tiếng rền của núi, Người đẹp ngủ mê... hay các Truyện trong lòng bàn tay đều toát lên âm hưởng u buồn của một lữ khách “lang thang đi tìm cái Đẹp”. Sự nghiệp sáng tác của Kawabata khá phong phú và hầu như thành công ở tất cả các thể loại mà ông thử nghiệm. Truyện ngắn của ông cũng được đánh giá cao và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Mảng truyện cực ngắn, hay còn gọi là truyện-trong-lòng-bàn-tay (Tanagokoro no shosetsu) mà bản thân ông từng nói “Đó là những truyện tôi hài lòng nhất”, là một trong những thể nghiệm độc đáo khi nhà văn bắt chước lối viết của thơ Haiku một thể thơ truyền thống Nhật Bản chỉ có ba câu, mười bảy âm tiết). Còn tiểu thuyết tiêu biểu là Xứ tuyết, Cố đô, Ngàn cánh hạc, chính là những bậc thang vững chắc đưa ông tới đỉnh cao của sự nghiệp văn chương. Chịu ảnh hưởng bởi dòng văn học nữ lưu thời Heian (từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XII), lối viết của Kawabata mềm mại, dung dị, điềm đạm và đầy chất thơ. Ông đánh giá Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki Shikibu sáng tác vào thế kỷ XI là “Đỉnh cao của văn chương Nhật Bản, cho đến ngày nay không có một tác phẩm hư cấu nào sánh được.” Đọc tác phẩm của ông, độc giả dễ dàng cảm nhận được chất cô đọng, hàm súc, ý tại ngôn ngoại của thơ Haiku, truyền thống yêu cái Đẹp, tôn thờ cái Đẹp tới mức duy mỹ của người Nhật. Mỗi trang văn của Kawabata vừa giống một bức tranh đẹp, lại vừa giống như một bài thơ chan chứa tình người. Kawabata được đề cao chính bởi ông đã góp phần mở cánh cửa tâm hồn của người Nhật ra với thế giới. Ông được trao tặng giải thưởng Nobel vì “Văn chương của ông tiêu biểu cho cái đẹp truyền thông và thể hiện được cách tư duy của người Nhật Bản”. Tuy nhiên, Kawabata là nhà văn không phải dễ đọc đối với nhiều độc giả, ngay cả với dân chúng Nhật Bản. Khi nghe tin nhà văn đoạt giải Nobel, cảm xúc của họ là vui sướng trộn lẫn với ngạc nhiên. Bởi theo họ, tác phẩm của Kawabata thường khó hiểu. Văn của ông đầy rẫy sự mơ hồ. Người đọc khó lòng xác định rõ ràng các lớp nghĩa ngay cả khi văn bản được viết bằng một thứ tiếng Nhật trong sáng, ngắn gọn, súc tích nhất. Kawabata thường viết về cái đẹp - nhưng không dễ gì nắm bắt, bởi cái đẹp ấy trinh trắng, mong manh, nên không thể tồn tại lâu dài. Trong chủ trương chung của Trung Tâm Đông Tây lần lượt tổ chức các bộ sách Tuyển tập tác phẩm của các nhà văn lớn trên thế giới bằng tiếng Việt, trong mấy năm qua Trung Tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đã phối hợp với các nhà xuất bản ra được các tuyển tập của A. Puskin, F. Dostoevski, Dino Buzzati, Franz Kafka, R. Tagor, I. Bunin, v.v...) Tuyển tập tác phẩm Yasunari Kawabata ra mắt lần này nhằm gửi tới bạn đọc một cái nhìn tổng quát về cuộc đời sự nghiệp sáng tác, cũng như những nhận định (bằng các bài nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước) về phong cách của Kawabata qua các tiểu thuyết, truyện ngắn tiêu biểu nhất của ông, và qua mảng truyện- trong-lòng-bàn-tay lần đầu tiên được dịch tương đối đầy đủ ở Việt Nam. Hi vọng cuốn sách sẽ là món quà bổ ích đối với những ai yêu mến Kawabata nói chung và văn học Nhật Bản nói chung. Đây cũng là một trong những cuốn sách đầu tiên của Tủ sách Nobel mà Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đang tổ chức ra mắt bạn đọc. Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2004 ĐÀO THỊ THU HẰNG TRUYỆN NGẮN Yasunari Kawabata Nhiều người dịch MỤC LỤC VŨ NỮ IZU VỀ CHIM VÀ THÚ TRĂNG SOI ĐÁY NƯỚC TIẾNG GIEO XÚC XẮC BAN KHUYA CÁNH TAY VỊNH CÁNH CUNG VŨ NỮ IZU 1 Với tốc độ báo động, cơn mưa rào quét về phía tôi từ chân núi, chạm đến rừng tuyết tùng trắng khi con đường bắt đầu lượn qua đèo. Tôi mười chín và đang đi du lịch một mình qua bán đảo Izu. Quần áo tôi thuộc kiểu sinh viên mặc, kimono đen, guốc gỗ cao, mũ nhà trường, túi sách vắt qua vai. Tôi đã ở qua ba đêm tại suối nước nóng gần trung tâm bán đảo, và lúc này đã là ngày thứ tư tôi rời khỏi Tokyo, đang leo lên đèo Amagi và đi về phía Nam Izu. Quang cảnh mùa thu thật dễ chịu, núi mọc chồng lên nhau, những cánh rừng bạt ngàn, những thung lũng sâu, nhưng khung cảnh đó chẳng làm tôi háo hức bằng một hi vọng thầm kín. Mưa nặng hạt bắt đầu rơi. Tôi chạy trên đường, lúc này dốc và lượn vòng; ở ngay cửa đèo, tôi bước vào quán trà. Tôi dừng một lát ở ngưỡng cửa. Gần như là quá may mắn: các vũ nữ đang nghỉ bên trong. Cô gái lật cái đệm đang ngồi, lịch sự đẩy về phía tôi. “Vâng”, tôi lẩm bẩm ngu ngốc khi ngồi xuống. Ngạc nhiên và hổn hển thở, tôi nhận thấy lời cảm ơn đơn giản nhất ngắc ngứ trong cổ họng. Nàng ngồi gần tôi, chúng tôi đối diện nhau. Tôi lóng ngóng cầm thuốc lá và nàng đưa cho tôi cái gạt tàn trước mặt một trong những phụ nữ khác. Tôi vẫn không nói gì. Nàng có lẽ mười sáu. Tóc nàng được chải cao theo kiểu cũ mà tôi không biết. Khuôn mặt hình ô van nghiêm nghị của nàng bị làm nhỏ lại dưới mái tóc nhưng khuôn mặt và mái tóc lại rất hợp nhau, khá giống trong tranh, bức tranh vẽ các thiếu nữ xinh xắn thời xưa với những lọn tóc xoăn tít. Hai thiếu nữ khác ngồi cùng nàng, một thanh niên vào khoảng hai lăm vận đồng phục của nhà trọ Nagaoka. Một phụ nữ ở vào độ tuổi bốn mươi quản lí nhóm. Tôi từng thấy cô vũ nữ bé nhỏ này hai lần trước. Một lần, tôi vượt qua nàng và các phụ nữ khác cạnh cây cầu dài ở giữa đường bán đảo. Nàng đang đeo một chiếc trống to. Tôi ngoái nhìn lại và cứ ngoái nhìn mãi, tự tán dương mình vì đã đến đây, cuối cùng, tôi đã bắt được hương vị của chuyến du lịch. Rồi sau đó, vào tối thứ ba, tôi thấy nàng múa. Nàng múa ngay bên trong cổng nhà trọ của tôi. Tôi ngồi trên bậc thềm, tâm trạng vui vẻ. Trên cầu vào hôm qua, ở đây tối nay, tôi tự nhủ, ngày mai trên đèo đến Yugano và chắc chắn ở đâu đó trên mười lăm dặm đường này mình sẽ lại gặp họ. Đây là hi vọng đã khiến tôi leo vội lên đường núi. Nhưng cuộc gặp gỡ tại quán trà quá đột ngột. Tôi bị tước mất sự tự chủ. Vài phút sau, bà lão trông quán trà đưa tôi sang phòng khác, căn phòng rõ là đã không được thường xuyên sử dụng. Nó hướng ra phía thung lũng sâu đến nỗi đáy mất hút khỏi tầm nhìn. Răng tôi đang đánh cầm cập, cánh tay tôi rợn gai ốc. Tôi hơi lạnh, tôi nói với bà lão khi bà trở lại với tách trà. - Nhưng cậu đã ướt sũng rồi kìa! Lại đây hong khô đi. - Bà ta dẫn tôi vào phòng khách. Hơi nóng từ bếp lò để ngỏ phả mạnh vào tôi khi bà lão mở cửa. Tôi lưỡng lự trên ngưỡng cửa. Một ông lão trắng nhợt và húp híp như thể cái xác chết trôi đang ngồi vắt chéo chân bên cạnh lò lửa. Ông ta hướng đôi mắt nặng nề, uể oải nhìn về phía tôi. Ngay cả lòng đen cũng ngả màu vàng, như thể đang thối rữa. Xung quanh ông ta là cả một núi túi báo cũ và các mẩu báo. Tôi cho rằng ông lão bị vùi dưới một ngọn núi. Tôi chăm chú nhìn con người kì dị mà không thể nào tin rằng đây là một sinh thể sống. - Tôi tiếc là không kịp ngăn để cậu đừng nhìn thấy ông ấy, người đàn bà nói. - Nhưng ông thuộc về nơi này và sẽ chẳng làm gì hại cậu đâu. Ôngấy không thể cử động. Làm ơn cố chịu đựng cho dù bộ dạng ông rất khó nhìn. Đoạn, bà kể cho tôi nghe về ông ta. Ông ta phải chịu đựng bệnh bại liệt bây lâu nay và hoàn toàn mất khả năng di chuyển. Ngọn núi xung quanh ông ta là những lời khuyên ông ta nhận được từ khắp mọi miền trên đất nước về cách điều trị bệnh bại liệt, đống túi kia thì đựng thuốc, chúng cũng được gởi đến từ khắp mọi nơi. Ông ta chắc đã nghe được chuyện chữa bệnh bại liệt từ những người vượt đèo và hẳn ông ta cũng đã đọc quảng cáo, nên không bao giờ bỏ qua bất cứ lời khuyên hay bất cứ loại thuốc nào. Suốt ngày đêm, ông ta sống giữa những túi giấy tờ và lời khuyên. Vậy nên đống giấy tờ mục nát cứ cao lên mãi. Không thể nghĩ ra được bất kì điều gì để nói, tôi ngồi khom bên bếp lửa. Một chiếc ô tô leo lên đèo làm rung chuyển quán trà. Với cái lạnh này, trời đã sang thu, rồi chẳng mấy nữa tuyết sẽ rơi. Tôi thầm hỏi tại sao ông lão lại ở trên này. Hơi nước tỏa ra từ kimono của tôi và ngọn lửa ấm đến mức đầu tôi bắt đầu đau. Bà lão bước ra nói chuyện với khách: - Chà. Vậy ra đây là cô bé đi cùng các vị trước đây, đã lớn quá rồi. Thực sự ra dáng một thiếu nữ. Dễ thương quá. Lại xinh đẹp nữa chứ. Con gái lớn nhanh quá, nhanh quá. Khoảng chừng một giờ sau, tôi nghe tiếng họ chuẩn bị lên đường. Tim tôi đập mạnh, ngực tôi thắt lại, nhưng không tìm đủ can đảm để đứng dậy đi cùng họ. Tôi bồn chồn bên bếp lửa. Nhưng dẫu sao thì họ cũng là phái yếu; cứ cho là họ quen đi bộ thì tôi cũng sẽ chẳng khó gì để vượt qua họ ngay cả khi tôi bị tụt lại nửa dặm hoặc cả dặm phía sau. Đầu óc tôi cứ quay cuồng hết cả lên vì họ như thể việc ra đi của họ cho phép nó hành động như thế. - Tối nay họ sẽ nghỉ lại đâu? - Tôi hỏi bà lão khi bà quay lại. - Đám người ấy thì có trời mới biết nơi họ sẽ nghỉ lại. Nếu họ gặp được người trả tiền, thì đấy sẽ là nơi nghỉ. Cậu nghĩ liệu họ có biết trước được không? Lời lẽ khinh miệt thẳng thừng của bà ta lại làm tôi phấn chấn. Nếu quả như thế thì tối nay, tôi thầm nhủ, cô vũ nữ sẽ ở với tôi. Mưa dịu ngớt chỉ còn lắc rắc, con đèo quang đãng. Tôi thấy tôi không thể đợi lâu thêm nữa, mặc dù bà lão đảm bảo trong vòng mười phút nữa mặt trờisẽ ló rạng. - Ông hãy giữ gìn cẩn thận, - tôi nói với ông lão khi đứng dậy, - ý tôi là chẳng mấy nữa trờisẽ rét. Đôi mắt vàng di chuyển nặng nề về phía tôi và ông lão khẽ gật đầu. - Chàng trai! Chàng trai! - Bà lão chạy đuổi theo tôi trên đường. - Chỗ này quá nhiều. Tôi thực sự không thể nhận. Bà ta níu chặt túi sách của tôi, cố nhét lại số tiền mà tôi đã trả cho bà ta và khi tôi từ chối, bà ta cứ khập khễnh đi theo tôi. Chí ít thì bà ta cũng phải đưa tiễn tôi một quãng đường, bà ta khăng khăng: - Chỗ tiền này thực sự nhiều quá. Tôi thì chẳng làm gì cho cậu. Nhưng tôi sẽ nhớ và tôi sẽ có cái gì đó dành cho cậu khi cậu lại qua lối này. Cậu sẽ trở lại chứ, đúng không? Tôisẽ không quên cậu. Lòng thành của bà lão đối với đồng năm mươi xen thật cảm động. Nhưng tôi đang ở trong cơn sốt muốn đuổi kịp cô vũ nữ bé nhỏ trong lúc những bước chân tập tễnh của bà lão cứ giữ tôi lại. Khi chúng tôi đến chỗ đường hầm, tôi bắt tay tạm biệt. - Cám ơn bà. Ông đang ở một mình. Bà nên quay lại với ông ấy. Cuối cùng bà lão buông tay khỏi túisách của tôi. Những giọt nước lạnh đang rơi xuống trong đường hầm tối. Lối ra để đến Nam Izu hẹp và rực sáng ở xa kia. 2 Một bên được kẻ bởi hàng rào trắng, con đường ngoằn ngoèo chạy xuống từ cửa hầm tựa một tia chớp. Gần đáy của rặng núi lởm chởm ấy là cô vũ nữ và đoàn của cô. Nửa dặm nữa là tôi đuổi kịp họ. Bởi vì dường như không lịch sự khi lập tức bước chậm lại để đi cùng họ, tôi tiếp tục vượt qua cánh phụ nữ với điệu bộ thản nhiên. Người đàn ông, đi trước chừng mười mét, quay lại khi nghe tiếng chân tôi bước đến. - Cậu đi cừ thật, - đoạn, sau khi ngừng lại: - may quá, mưa đã tạnh. Nhẹ nhõm, tôi đi bên cạnh anh ta. Anh ta bắt đầu hỏi chuyện, và cánh đàn bà, nhìn từ chúng tôi chuyện trò, rảo bước đi ngay sau chúng tôi. Người đàn ông đeo cái hòm mây lớn sau lưng. Người đàn bà lớn tuổi ôm con chó con. Hai phụ nữ trẻ hơn mang những túi đồ lớn, một cô đeo giỏ mây, còn cô kia thì đeo tay nải. Cô vũ nữ mang trống và giá đỡ. Người đàn bà lớn tuổi thỉnh thoảng góp chuyện. - Cậu ấy là học sinh trung học, - người lớn tuổi hơn trong hai cô gái trẻ thì thầm với cô vũ nữ bé nhỏ, đang khúc khích cười khi tôi liếc nhìn lại. - Rõ rồi, thậm chí em còn biết rõ nữa là đằng khác, - cô gái đáp. - Học sinh thường đến đảo ta. Họ đến từ Oshima, một trong những hòn đảo của cụm đảo Izu, người đàn ông nói với tôi. Vào mùa xuân, họ rời đảo đi lang thang khắp bán đảo, nhưng bây giờ, trời đang trở lạnh và họ không mang theo quần áo mùa đông. Sau mươi hôm hoặc trong khoảng thời gian ấy, từ Shimoda ở phía Nam họ sẽ lại quay về miền Bắc, rồi từ đó họ sẽ đi thuyền về đảo nhà. Tôi lại liếc nhìn những lọn tóc dày, nhìn hình dáng bé nhỏ, mọi thứ lãng mạn hơn vì đã đến từ Oshima. Tôi hỏi họ về những hòn đảo - Rất nhiều học sinh đến bơi ở Oshima, - cô vũ nữ nói với người đàn bà bên cạnh. - Tôi chắc là vào mùa hè, - tôi nhìn lại. - Kể cả mùa đông, - nàng trả lời bằng giọng hầu như không thể nghe được. - Ngay cả trong mùa đông? Nàng nhìn người đàn bà khác và cười bí ẩn. - Họ có thể bơi ngay trong mùa đông sao? - tôi lại hỏi. Nàng đỏ mặt và khẽ gật đầu, nét mặt biểu lộ sự nghiêm túc. - Đứa trẻ con đã ra khỏi đầu nó rồi đấy, - người đàn bà lớn tuổi cười vang. Cách Yugano khoảng sáu, bảy dặm, con đường men theo dòng sông. Những rặng núi và thậm chí cả bầu trời như hướng về phương Nam khi chúng tôi xuống đèo. Người đàn ông và tôi bây giờ đã là bạn bè. Chúng tôi đi men qua rìa của một hoặc hai thôn làng và khi những mái nhà tranh của Yugano ở bên dưới hiện lên trong tầm mắt, tôi lấy hết can đảm để nói rằng tôi muốn tiếp tục đi cùng họ đến Shimoda. Anh ta hài lòng. Phía trước một quán trọ tồi tàn, người đàn bà lớn tuổi nhất liếc nhìn tôi với vẻ dò hỏi như thể sao tôi không để họ một mình. - Nhưng quý cậu đây muốn tiếp tục đi cùng chúng ta, - người đàn ông nói. - Ồ, ra thế, - bà ta vui vẻ nói. - Tục ngữ dạy: Thêm bạn đường, thêm sự chia sẻ trong đời. Tôi cho là ngay cả những kẻ thấp hèn như chúng tôi cũng có thể làm cho chuyến đi thêm phần vui vẻ. Hãy vào đi. Chúng ta cùng uống trà và nghỉ ngơi. Những phụ nữ trẻ hơn im lặng nhìn tôi và có phần rụt rè, như thể việc quyết định không liên quan đến họ. Chúng tôi lên gác và đặt hành lý xuống. Đệm rơm và cửa đã mòn vẹt, bẩn thỉu. Cô vũ nữ bưng trà từ tầng dưới lên. Khi nàng đến chỗ tôi, tách trà kêu leng keng trên đĩa. Nàng cố đặt tách trà xuống gọn ghẽ bằng nỗ lực lớn của bản thân, nhưng lại làm tách trà nghiêng đổ. Tôi đã không chuẩn bị tâm thế trước sự lúng túng tột độ ấy. - Xin cậu thứ lỗi. Con bé đến tuổi thừa tay thừa chân, - người đàn bà lớn tuổi nói, cau mày và đẩy miếng giẻ lau đến chỗ cô bé đang lo lắng lau chỗ trà đổ. Lời nhắc nhở kì quặc này khiến tôi phân vân. Tôi cảm thấy niềm háo hức dâng lên bởi lời bình luận của bà lão trong quán trà bên kia đèo dịu xuống. - Cái ấy làm bằng chất liệu tốt đấy, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc xem xét phần trang trí trên áo kimono của tôi. - Nó giống hệt như của Tamiji, giống thật. Rất giống của Tamiji. - Bà ta nhắc đi nhắc lại câu nói nhiều lần, đoạn lại nói với tôi. - Chúng tôi gởi thằng bé ở trường. Cậu làm tôi nhớ nó. Cũng cùng kiểu trang in ấy. Dạo này chúng đắt lắm. - Nó học lớp mấy? - Lớp năm. - Thằng bé ở tận Kofu, trong vùng núi. Chúng tôi chuyển đến Oshima lâu rồi nhưng quê thì ở Kofu. Khoảng một giờ sau, người đàn ông đưa tôi sang quán trọ khác. Tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ ở cùng họ. Chúng tôi leo xuống qua các tảng đá, các bậc cấp lát đá cao chừng một trăm mét trên con đường nhỏ. Có một nhà tắm công cộng trên bờ con sông nhỏ. Chỉ ngay sau nhà tắm là cây cầu dẫn đến khu vườn nhà trọ của tôi. Chúng tôi đi tắm cùng nhau. Anh ta hai mươi ba tuổi, anh ta kể, vợ anh ta đã hai lần sẩy thai. Bởi vì anh ta mặc đồng phục Nagaoka nên tôi đoán anh ta sinh trưởng ở Nagaoka, khu vực phía Bắc bán đảo. Khuôn mặt và cách nói của anh ta không phải không có vẻ thông minh. Từ sự hiếu kì và ưa thích một cô trong đám phụ nữ kia, tôi đoán hẳn anh ta đi cùng để khuân vác hành lí. Tôi ăn trưa khi chúng tôi đi tắm về. Chúng tôi rời Yugashima vào lúc tám giờ và bây giờ vẫn chưa đến ba giờ. Trên đường về, anh ta chào tôi từ dưới vườn. Tôi ném xuống phong bì đựng ít tiền. - Tự mua cho mình ít hoa quả hay thứ gì đó. Thông cảm vì đã ném phong bì xuống. Anh ta định bỏ đi mà không nhặt, nhưng rồi quay lại nhặt lên. - Cậu đừng làm thế, - anh ta nói và ném trả phong bì. Phong bì rơi xuống mái tranh. Tôi lại ném xuống. Lần này anh ta nhận. Mưa nặng hạt bắt đầu rơi vào hoàng hôn. Những ngọn núi xám mờ, cảnh vật chìm nghỉm, nước sông mỗi lúc một sẫm vàng hơn, nhiều bùn hơn, nhiều tiếng ồn hơn. Tôi cảm thấy chắc chắn là các vũ nữ sẽ không ra khỏi nhà vào một tối như thế, nhưng tôi thì lại không thể ngồi yên. Hai hoặc ba lần tôi xuống tắm. Phòng tôi mờ tối. Một ngọn đèn treo trong ô hình chữ nhật, trổ bên trên những cánh cửa trượt ngăn phòng tôi với phòng bên cạnh, chiếu sáng cho cả hai phòng. Lúc ấy, xa xa trong màn mưa, tôi nghe thấy một tiếng trống. Tôi đẩy toang cửa sổ, suýt giật tung nó ra khỏi khe kéo, rồi toài người ra ngoài. Tiếng trống như thể đang đến gần hơn. Mưa, kèm theo gió mạnh, quất vào mặt tôi. Tôi nhắm mắt và cố tập trung vào tiếng trống, vào nơi nó có thể, để xem nó có tiến về phía tôi. Thoáng chốc, tôi nghe tiếng đàn Shamisen, rồi thỉnh thoảng là tiếng một phụ nữ gọi ai đó hoặc một tràng cười ha hả. Nhóm vũ nữ được mời đến dự tiệc ở nhà hàng đối diện với nhà nghỉ của họ, dường như thế. Tôi có thể phân biệt được giọng của hai, ba phụ nữ và ba, bốn giọng đàn ông. Ngay khi họ kết thúc ở đó, tôi tự nhủ, họ sẽ đến đây. Bữa tiệc dường như đã vượt quá một cuộc vui vô hại để trở thành cuộc đập phá hỗn độn. Thỉnh thoảng giọng đàn bà lại kêu ré lên xuyên qua bóng tối như một nhát roi quất. Tôi ngồi cứng đờ, cứ căng người ra thêm trên gờ cửa sổ, mắt nhìn ra khung cửa mở rộng. Mỗi một tiếng trống tôi cảm nhận như là một sự trào dâng của niềm thư thái. “A, nàng vẫn ở đó. Nàng vẫn ở đó và chơi trống”. Cứ mỗi khi tiếng trống ngừng lại, bầu im lặng dường như không thể chịu đựng nổi. Như thể tôi đang bị nhấn chìm dưới cú đánh của cơn mưa. Có lúc vang lên những bước chân loạn xạ - họ đang chơi trò đuổi bắt hay khiêu vũ? Rồi tiếp đó là hoàn toàn im lặng. Tôi chằm chằm nhìn vào bóng tối, cố tìm hiểu xem sự im lặng có nghĩa gì. Nàng đang làm gì, có ai đó làm nàng vấy bẩn trong suốt khoảng thời gian còn lại của đêm? Tôi đóng cửa sổ và nằm xuống. Ngực tôi thắt lại đau đớn. Tôi xuống tắm lần nữa, vùng vẫy cật lực. Mưa đã dừng, vầng trăng ló ra. Bầu trời mùa thu, được nước mưa rửa sạch, ánh lên màu pha lê ở đằng xa. Tôi chợt nảy ra ý tưởng chạy chân trần đến tìm nàng. Thời gian đã quá hai giờ đêm. 3 Sáng hôm sau, vào lúc chín giờ anh bạn đồng hành qua nhà nghỉ của tôi. Vừa ra khỏi giường, tôi rủ anh ta cùng đi tắm. Bên dưới nhà tắm, dòng sông dâng đầy nước sau cơn mưa, ấm áp chảy trong ánh nắng thu của miền Nam Izu. Nỗi khổ đau đêm trước của tôi dường như không còn hiện hữu. Nhưng dẫu thế, tôi vẫn muốn nghe chuyện gì đã xảy ra. - Tối qua bọn anh tiệc tùng vui vẻ nhỉ? - Cậu có thể nghe chúng tôi à? - Tôi có nghe. - Cách địa phương. Họ ầm ĩ quá, nhưng chỉ ầm ĩ thôi. Dường như anh ta xem chuyện ấy là thường tình. Tôi chẳng nói thêm gì nữa. - Kìa. Họ đến tắm rồi kìa, bên kia sông ấy. Thế nào họ cũng trông thấy chúng ta. Nhìn họ cười kìa. - Anh ta chỉ về phía nhà tắm công cộng, nơi có bảy, tám thân hình trần mờ mờ sau làn hơi nước. Một thân hình bé nhỏ chạy ào ra dưới ánh nắng, dừng lại một lát trên mép ván nhảy, gọi to điều gì đó với chúng tôi, hai tay đưa lên như thể chuẩn bị nhảy lộn đầu xuống nước. Đấy là cô vũ nữ, cơ thể nàng trần truồng, thậm chí không quấn cả khăn tắm. Tôi nhìn nàng, nhìn đôi chân non trẻ, nhìn thân hình trắng muốt như tạc và bỗng nhiên như thể có một suối nước tinh khiết rửa sạch tim tôi. Tôi cười vang, hạnh phúc. Nàng hãy còn bé bỏng, chỉ là một cô bé, trẻ con thì mới có thể trần truồng chạy ra ngoài nắng và nhón chân đứng đó, thoải mái nhìn bạn bè. Tôi buông tiếng cười khẽ, đầy hạnh phúc. Điều đó như thể lớp bụi bẩn đã được rửa sạch khỏi đầu tôi. Tôi cứ cười mãi. Bởi vì mái tóc được búi cao nên trông nàng như thể già hơn và cũng bởi vì nàng được cho ăn vận theo kiểu một cô gái mười sáu mười bảy tuổi. Sự thực là tôi đã nhầm lẫn quá mức. Chúng tôi quay trở lại phòng tôi khi cô lớn hơn trong hai thiếu nữ đến ngắm hoa cúc trong vườn. Cô vũ nữ bé bỏng đi theo, cô ta đang qua được nửa cầu. Mắt nàng nhìn cả hai người, người đàn bà lớn tuổi đã ra tắm. Cô vũ nữ nhún vai rồi chạy lùi lại, như muốn nói nàng sẽ bị la rầy nếu đến gần hơn. Người đàn bà lớn tuổi bước lên cầu. - Sang đây đi, - bà ta gọi tôi. - Sang đây đi, - cô thiếu nữ trẻ hơn nhắc lại, rồi cả hai quay lại, đi về phía nhà nghỉ của họ. Anh bạn đồng hành ở lại trong phòng tôi cho đến chiều tối. Tối hôm ấy, lúc đang chơi cờ Go với một tay buôn giấy đi du lịch thì tôi nghe tiếng trống trong vườn. Tôi dợm bước ra hiên. - Ông không muốn xem họ à? - Cái bọn ngốc ấy. Đến lượt anh đấy. Tôi đánh đây này. - Mải mê ván cờ, tay lái buôn chúi mũi vào bàn cờ. Tôi bồn chồn, những người biểu diễn như thể sắp rời đi. - Xin chào, - anh bạn đồng hành gọi với lên. Tôi bước ra hiên và mời anh ta vào. Sau hồi thì thào bàn bạc, họ tiến vào cửa. Anh bạn đồng đi trước. Theo đúng tuổi tác họ thực hành nghi thức chào hỏi từ ngoài hiên theo kiểu geisha. Bỗng hóa ra là tôisắp thua ván cờ. - Bí quá . Tôi thua. - Ồ thôi nào. Tôi đánh tồi hơn cậu, chỉ mới bí thôi, nghĩ nước khác đi. Không buồn để ý chút nào đến những người biểu diễn, tay buôn giấy đếm những quân cờ bằng đá và chơi với sự tập trung lớn hơn. Nhạc cụ của họ xếp gọn trong góc phòng, những người biểu diễn chơi cờ trên bàn cờ khác. Đấy là kiểu chơi đơn giản hơn, chỉ xếp những quân cờ thành hàng. Tôi nhanh chóng chịu thua ván cờ mà thực tế tôisắp thắng. - Ván nữa chứ? - tay buôn giấy nói. - Ta chơi thêm ván nữa đi. Nhưng tôi chỉ cười lảng, lát sau ông ta đành chịu và ra về. Những người phụ nữ đến gần hơn. - Tối nay các bạn đã có hẹn chỗ nào chưa? - Ta định thế nào đây? - anh bạn đồng hành hỏi cánh phụ nữ. - Thế nào nhỉ? Có lẽ chúng ta nên đề xuất nghỉ một tối. - Tuyệt quá, - cô vũ nữ nói. - Mày không muốn bị mắng à? - Dẫu có cố thì chúng ta cũng không tìm được khách. Họ ở lại cho đến quá nửa đêm, thay phiên nhau đánh cờ Go. Sau khi họ ra về, tôi cảm thấy tỉnh táo và hưng phấn. Tôi không thể ngủ. Tôi gọi tay buôn giấy, người khoảng sáu mươi tuổi. Ông ta ra ngay, sẵn sàng đấu cờ. - Tối nay chúng ta sẽ đánh thâu đêm. Chúng ta sẽ đánh đến sáng. - Tôi cảm thấy mình không thể bị đánh bại. 4 Chúng tôi sẽ rời Yugano vào tám giờ sáng hôm sau. Tôi nhét cái mũ học sinh vào túi sách, đội chiếc mũ săn vừa mua trong cửa hàng không xa nhà tắm công cộng rồi đi đến nhà nghỉ của họ bằng đường cao tốc. Tôi tự tin đi lên tầng trên - cửa tầng hai đều mở rộng - nhưng tôi dừng lại một lát trên hành lang. Họ vẫn đang ngủ. Cô vũ nữ gần như nằm ngay sát chân tôi, chung đệm trải giương với cô thiếu nữ trẻ nhất. Nàng đỏ bừng mặt và vội đưa tay lên che. Vết son phấn trang điểm đậm từ tối qua vẫn còn vương lại, màu hồng trên môi và các chấm hồng quanh đuôi mắt. Dáng điệu nằm ngả người ấy như thể tuôn tràn về phía tôi cả làn sóng sắc màu và ánh sáng. Như thể bị lóa bởi ánh sáng ban mai, nàng lật người, trườn ra khỏi đệm, hai bàn tay vẫn che mặt. Đoạn nàng quỳ xuống hiên nhà và cảm ơn tôi về buổi tối hôm qua. Tôi đứng sững trước nàng, lóng ngóng. Người đàn ông và cô thiếu nữ lớn tuổi hơn đang ngủ với nhau. Chắc họ đã cưới nhau. Trước đây, tôi không nghĩ đến khả năng này. - Mong cậu thứ lỗi cho chúng tôi, - người đàn bà lớn tuổi nói lúc đang ngồi dậy trên đệm. - Chúng tôi muốn rời đi từ sáng nhưng tối nay có lẽ có một bữa tiệc nên chúng tôi nghĩ người ta sẽ mời chúng tôi. Vì vậy chúng ta có thể hẹn gặp nhau ở Shimoda nếu cậu buộc phải đi trước. Chúng tôi luôn ở lại nhà nghỉ Koshu. Cậu dễ dàng tìm ra nó. Tôi cảm thấy như bị bỏ rơi. - Hoặc cậu có thể đợi đến sáng mai, - người đàn ông nói. - Mẹ bảo chúng tôi phải ở lại thêm một ngày nữa. Nhưng nếu có bạn đồng hành thì hay biết mấy. Để mai ta cùng đi với nhau. - Ý tưởng hay đấy, - người đàn bà tán thành. - Kể từ khi quen biết cậu, hôm nay thật là xấu hổ. Ngày mai, chúng tôisẽ lên đường ngay cả khi trời đổ mưa ngăn cản. Ngày kia đã là bốn chín ngày kể từ khi đứa bé chết. Chúng tôi luôn tâm nguyện sẽ làm giỗ nó ở Shimoda để chứng tỏ chúng tôi vẫn nhớ nó và chúng tôi luôn vội để đến đó đúng ngày. Chúng tôi rất cảm kích khi có cậu đi cùng. Tôi không chắc nhưng nghĩ là có một lí do cho chuyến đi, cái chúng ta có được theo cách này là tình bằng hữu. Tôi đồng ý đợi thêm một ngày nữa. Tôi xuống tầng dưới, ngồi trong văn phòng bé nhỏ bẩn thỉu nói chuyện với tay quản lý trong lúc đợi họ mặc áo quần. Thoáng chốc, người đàn ông xuống và chúng tôi đi bộ đến cây cầu xinh xắn nằm ở phía Nam thị trấn. Anh ta tựa lưng vào lan can cầu và kể về bản thân. Ở Tokyo, anh ta là thành viên của đoàn kịch hiện đại. Thậm chí bây giờ thỉnh thoảng anh ta cũng xuất hiện trên các sàn diễn nghiệp dư ở Oshima, trong lúc tại các bữa tiệc đọc đường nếu được gọi thì anh chỉ đóng vai bắt chước các nghệ sĩ. Cái vật lồi lên nom giống một cánh tay kì lạ từ một trong các túi hành lý là thanh gươm biểu diễn, anh ta giải thích, còn cái hòm mây thì đựng cả đồ gia dụng và trang phục. - Tôi đã phạm phải sai lầm và tự làm hỏng đời mình. Anh tôi quản lý gia đình ở Kofu, còn tôi thì chẳng có ích gì nhiều ở đó. - Tôi tưởng anh là người Nagaoka. - Tôi không phải. Đó là quê vợ tôi, cô lớn tuổi hơn trong hai cô gái. Cô kém cậu một tuổi. Hè năm nay, cô bị sẩy thai đứa thứ hai trên đường. Đứa bé chỉ sống được một tuần, cô vẫn chưa bình phục hẳn. Người đàn bà lớn tuổi là mẹ cô ấy, còn cô bé là em - Anh từng nói là anh có một cô em gái - mười ba tuổi? - Con bé ấy đấy. Tôi đã cố xoay xở để không cho nó theo nghề này, nhưng lại không thể. Anh ta nói tên anh ta là Eikichi, vợ anh ta là Chiyoko, còn cô vũ nữ, em gái anh ta là Kaoru. Cô kia, Yuriko, là người giúp việc. Cô ta mười sáu tuổi và là thành viên duy nhất trong số họ quê ở Oshima. Eikichi đang xúc động về điều gì đó. Anh ta đăm đăm nhìn xuống dòng sông, có lúc tôi nghĩ anh ta suýt khóc. Trên lối về, ngay lúc vừa rời khỏi con đường, chúng tôi thấy cô vũ nữ bé bỏng đang chơi đùa với con chó. Nàng đã rửa sạch phấn trang điểm. - Đến chỗ anh đi, - tôi gọi lúc đang quay về quán trọ. - Một mình em không thể đến. - Cứ đi cùng anh trai. - Cảm ơn ông. Em sẽ đến ngay. Lát sau, Eikichi xuất hiện. - Những người khác đâu rồi? - Họ không thể rời khỏi Mẹ. Nhưng cả ba người đến, lách cách qua cầu, lên cầu thang trong lúc chúng tôi đang bên bàn cờ Go, chơi ván cờ có nước đi dễ hơn. Sau khi cúi chào theo đúng nghi lễ họ rụt rè đợi trong phòng. Chiyoko vào đầu tiên. - Làm ơn, làm ơn, - cô ta vui vẻ gọi mấy người kia. - Các người không cần phải quá nghi thức trong phòng tôi! Khoảng một giờ sau, bọn họ kéo nhau đi tắm. Họ muốn tôi phải đi cùng, họ tha thiết đề nghị, nhưng cái ý tưởng đi tắm cùng ba phụ nữ trẻ là điều gì đó khiến người ta đâm hoảng. Tôi nói tôisẽ đisau. Lát sau, cô vũ nữ bé bỏng lại trở lên gác. - Chiyoko bảo chịsẽ kì lưng ông nếu ông cùng xuống tắm. Thay vì đi tắm, nàng ngồi lại với tôi, hai đứa chơi cờ theo kiểu sắp quân cờ thành hàng. Nàng chơi giỏi kì lạ. Trong hàng loạt ván, tôi chẳng hề gặp chút khó khăn nào khi đánh với Eikichi và những phụ nữ khác. Tôi thực sự có thể đánh bại hầu hết mọi người nhưng lại gặp rắc rối với nàng. Sẽ là thoải mái khi không phải tính toán để chơi thua một ván cờ. Thoạt tiên, dáng ngồi đúng lễ nghi, lưng thẳng, tay vươn ra chơi cờ, song chẳng mấy chốc nàng quên bẵng, mê mải cúi hẳn người lên bàn cờ. Mái tóc của nàng, dày đến nỗi dường như không thực, gần chạm vào ngực tôi. Đột nhiên nàng đỏ bừng mặt. - Em xin lỗi. Em sẽ bị mắng vì việc này. Rồi nàng bỏ chạy ra khỏi phòng lúc ván cờ đang lỡ dở. Người đàn bà lớn tuổi đang đứng cạnh nhà tắm công cộng bên kia sông. Chiyoko và Yuriko lục đục ra khỏi phòng tắm tầng dưới gần như cùng lúc và rút lui qua cầu mà không chào tạm biệt tôi. Eikichi lại ở suốt ngày trong phòng trọ của tôi, mặc dù vợ tay quản lý, một phụ nữ khó tính, đã bày tỏ ý kiến rằng chỉ có phí thức ăn ngon khi mời những người như thế. Cô vũ nữ đang tập đàn Shamisen khi tôi đến nhà nghỉ của họ theo lối đường cao tốc vào tối hôm ấy. Nàng đặt đàn xuống khi nhìn thấy tôi nhưng người phụ nữ lớn tuổi bảo, nàng lại nâng đàn lên. Nàng vừa đánh đàn vừa hát. Khi nào giọng nàng hơi cao hơn một chút, người đàn bà kia liền mắng: - Mẹ đã nhắc con phải hạ giọng xuống bao nhiêu lần rồi. Chúng tôi có thể nhìn thấy Eikichi trên tầng hai của nhà hàng đối diện bên kia đường. Anh ta đang hò la điều gì đó phục vụ cho bữa tiệc tối. - Trò quái quỷ gì kia vậy? - Trò gì hả? Anh ta đang kể chi tiết một vở kịch Noh. - Thật đúng là trò kì quặc đang được thực hiện. - Ồ anh ấy có lắm tài vặt. Cậu chẳng thể nào biết được anh ta sắp giở trò gì đâu. Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đẩy rộng cửa. Ông ta thuê phòng tại nhà nghỉ ấy và nghe bảo là làm nghề buôn gia cầm. Ông ta ngỏ lời mời cánh phụ nữ đến phòng mình dùng món ăn. Các vũ nữ và Yuriko cầm đũa sang ăn nốt món gà hầm còn thừa. Khi họ quay lại, ông ta khẽ chạm tay lên vai cô vũ nữ. - Ông chớ có đụng vào nó, - người đàn bà lớn tuổi nói trong lúc cau mày giận dữ. - Chưa một ai được đụng vào nó. Xem ông ta như là bạn vong niên, cô vũ nữ đề nghị ông ta đọc cuốn Chuyện phiêu lưu của Nghị viên Mito. Ông ta phải vội về ngay. Xấu hổ về việc trực tiếp nhờ tôi, nàng nhiều lần nhắc đi nhắc lại giá mà có ai đó vui lòng nhận lời đề nghị mà đọc tiếp thì thì thú biết bao. Tôi hạnh phúc cầm quyển sách, niềm hi vọng thầm kín trỗi dậy trong tôi. Tôi đã không thất vọng. Đầu nàng gần như chạm vai tôi khi tôi bắt đầu đọc. Nàng ngước nhìn tôi với dáng vẻ háo hức nghiêm trang, mắt nàng rực sáng và không chớp. Đó dường như là tính cách nàng khi ai đó đọc cho nàng nghe. Mặt nàng chắc cũng đã từng gần chạm mặt của tay buôn gia cầm khi ông ta đọc. Tôi nghĩ đến điều đó. Đôi mắt to của nàng đen nháy, là nét ấn tượng nhất từ nàng. Nếp mi mắt thì không bút nào tả xiết. Và tiếng cười của nàng - tiếng cười của một bông hoa - phong thái nàng dường như luôn thư thái mỗi khi tôi hình dung về nàng. Tôi vừa đọc chỉ chừng vài phút thì cô giúp việc bên nhà hàng sang gọi nàng. - Em sẽ quay lại ngay, - nàng nói trong lúc chuẩn bị. - Xin đừng đi đâu cả. Em muốn nghe đoạn còn lại. Nàng quỳ xuống hiên chào theo nghi lễ trước khi rời đi. - Con nhớ là không được hát, - người đàn bà lớn tuổi nói. Cầm lấy trống, nàng khẽ gật đầu. - Nó đang ở độ tuổi dậy thì. Giọng đang vỡ. Chúng tôi có thể nhìn từ cô vũ nữ như thể cô đang ở phòng bên cạnh. Nàng quỳ gối bên trống, lưng quay về phía chúng tôi. Nhịp trống dâng ngập hồn tôi cảm xúc bồi hồi trong sáng. - Bữa tiệc sẽ luôn sôi động lên khi tiếng trống vang lên, - người đàn bà nói. Chiyoko và Yuriko cũng sang nhà hàng. Khoảng một tiếng sau, cả bốn người cùng về. - Đây là tất cả họ trả cho chúng ta, - cô vũ nữ hồn nhiên thả năm mươi xen từ bàn tay nắm chặt của mình vào tay người đàn bà. Tôi đọc tiếp câu chuyện, còn họ thì nói về đứa bé đã chết. Lúc sinh, nó trong suốt như nước. Nó không đủ sức để khóc, nhưng lại có thể sống ngót một tuần. Tôi không bị lôi cuốn bởi sự hiếu kì và tôi cũng không có thái độ cư xử trịch thượng đối với họ. Sự thật, tôi không hề nghĩ họ thuộc về đẳng cấp thấp, những nghệ sĩ rong. Họ dường như thấu hiểu và cảm động. Họ quyết định rằng tôi phải ghé thăm họ ở Oshima. - Chúng ta có thể đón cậu tại nhà ông cụ. - Họ nói to kế hoạch. - Nhà ấy mới đủ rộng và nếu ta chuyển cụ đi nơi khác thì đủ yên tĩnh để cậu ấy học lâu đến chừng nào cậu ấy có thể ở lại. - Chúng tôi có hai ngôi nhà nhỏ, chúng tôi sẽ dành cho cậu ngôi nhà trên núi. Ngôi nhà thoáng mát và xinh xắn. Họ cũng quyết định rằng tôi sẽ phụ giúp trong vở kịch họ diễn ở Oshima nhân dịp năm mới. Tôi dần hiểu ra cuộc sống của cánh nghệ sĩ rong không vất vả như tôi từng tưởng. Không hề có lo âu mà chỉ là thư thái, ngập trong hương vị của cây cỏ và núi đồi. Cả điều này nữa, nhóm nghệ sĩ còn được gắn kết bởi quan hệ tình cảm gia đình gần gũi. Duy chỉ có Yuriko, cô gái làm thuê - có lẽ đã ở vào độ tuổi biết xấu hổ - dường như không thoải mái trước sự hiện diện của tôi. Đã quá nửa đêm khi tôi rời nhà nghỉ của họ. Ba người trẻ tuổi tiễn tôi ra đến cửa. Cô vũ nữ bé bỏng xoay đôi dép để tôi có thể xỏ thẳng vào mà không cần phải xoay chân. Nàng tựa vào ngưỡng cửa và ngước nhìn lên bầu trời quang đãng. - Mặt trăng đã lên. Ngày mai chúng ta sẽ ở Shimoda. Em yêu Shimoda. Chúng ta sẽ cầu kinh cho đứa bé, và Mẹ sẽ mua cho em chiếc lược như đã hứa, rồi còn mọi công việc chúng ta có thể làm sau đó. Ông có đưa em đi xem phim không? Có điều gì đó về Shimoda mà dường như đã khiến nó trở thành mái nhà trong suốt chặng đường các nghệ sĩ rong lang thang bên những suối nước nóng vùng Izu và Sagami. 5 Hành lí được phân chia như cái dạo chúng tôi vượt đèo Amagi. Chú chó nhỏ, một du khách từng trải, nằm gác chân trước lên cánh tay của người đàn bà lớn tuổi. Rời Yugano chúng tôi lại đi vào núi. Chúng tôi nhìn ra biển vào lúc mặt trời ban mai tỏa rạng, sưởi ấm những thung lũng núi. Nơi cửa sông, một bãi cát trải rộng và trắng xóa. - Oshima kia kìa. - Rộng lớn quá, ông chắc chắn sẽ đến chứ, đúng không? - Cô vũ nữ hỏi. Vì lí do nào đó - tại sự quang đãng của bầu trời thu đã tạo nên hiện tượng ấy? - Mặt biển nơi mặt trời mọc được bao phủ trong làn sương mù tựa dòng suối. Shimoda còn cách chừng mười dặm. Có lúc núi che khuất biển. Chiyoko khẽ cất lên bài hát du dương, trầm bổng. Con đường rẽ đôi. Một lối hơi dốc nhưng ngắn hơn lối kia một dặm. Tôi sẽ chọn lối nào, con đường dốc ngắn hay con đường dài dễ đi? Tôi chọn đường ngắn. Con đường ngoằn ngoèo xuyên qua một cánh rừng, dốc đến nỗi khi leo lên như thể ta đang bước thẳng lên một bức tường. Lá rụng tạo nên lớp mùn trơn tuột. Hơi thở trở nên khó nhọc hơn. Tôi cảm nhận được sự liều lĩnh ngang ngạnh, cứ leo lên mỗi lúc một nhanh với bàn tay liên tục ấn lên đầu gối để bước đi. Những người khác rơi lại phía sau; lúc này tôi chỉ có thể nghe được tiếng nói của họ vọng qua rừng cây. Nhưng cô vũ nữ bé bỏng, váy xắn cao, bám theo tôi bằng những bước đi gọn gàng. Nàng luôn giữ khoảng cách hai mét ở phía sau, không cố đến gần hơn và cũng không chịu để bị tụt lại phía sau xa hơn. Thỉnh thoảng, nếu tôi bắt chuyện với nàng thì nàng dừng lại và trả lời với nụ cười mỉm nao lòng. Khi nàng nói, tôi dừng lại, hi vọng nàng sẽ lại gần, nhưng nàng luôn đợi cho đến khi tôi cất bước thì nàng mới đi theo với khoảng cách hai mét phía sau. Con đường trở nên dốc hơn và vòng vèo hơn. Tôi dốc sức bước nhanh hơn và vẫn cách hai mét, nàng nhẹ nhàng và háo hức leo theo. Núi rừng yên tĩnh. Tôi không còn nghe được giọng của ai khác. - Ông sống nơi nào ở Tokyo? - Trong kí túc xá. Anh không thực sự sống ở Tokyo. - Em đã từng đến Tokyo. Em đến đó để múa vào mùa hoa anh đào nở. Nhưng em hãy còn bé lắm. Em không nhớ chút gì về chuyến đi đó. Bố mẹ ông hiện vẫn còn cả chứ? - Nàng lại hỏi. Đoạn: - Ông đã từng đến Kofu chưa? - Nàng nói về những rạp phim ở Shimoda và về đứa bé đã chết. Chúng tôi lên đến đỉnh núi. Đặt cái trống lên chiếc ghế nằm giữa đám cỏ thu đã chết, nàng lau mặt bằng khăn mùi xoa. Sau đó nàng chú ý đến đôi chân, nhưng rồi nàng thay đổi ý định, cúi xuống phủi bụi bám trên gấu áo kimono của tôi. Tôi nhảy lùi lại vì ngạc nhiên, nàng ngã khuỵu một gối xuống. Khi đi tới đi lui phủi bụi khỏi vạt áo tôi nàng cúi người thấp, rồi nàng đứng dậy thả gấu váy đã được xắn lên để đi bộ. Tôi vẫn đang thở dốc. Nàng mời tôi ngồi xuống. Một đàn chim nhỏ bay ra từ bên cạnh chiếc ghế dài. Xác lá khô xào xạc khi chúng đậu xuống, bầu không khí tĩnh lặng vô cùng. - Sao ông đi nhanh thế? - Trông nàng đang nóng bức. Tôi gõ vào trống, đàn chim hoảng sợ bay vụt lên. - Anh khát. - Để em đi xem thử có tìm thấy nước không? Nhưng nàng quay về từ rặng cây úa vàng, không tìm thấy nước. - Em định làm gì ở Oshima? Nàng nhắc tên của hai, ba cô gái chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, rồi say sưa với cả chuỗi hồi ức. Dường như nàng không nói về Oshima mà về Kofu, về ngôi trường nơi nàng đã học hai năm đầu đời. Nàng hồn nhiên nói khi kí ức về bạn bè sống dậy. Khoảng mười phút sau, hai người đàn bà trẻ và Eikichi đến, còn người đàn bà lớn tuổi thì phải thêm mười phút nữa. Lúc xuống núi, tôi chủ ý lùi lại nói chuyện với Eikichi. Đi khoảng chừng một trăm mét, cô vũ nữ chạy lại. - Có dòng suối ở phía dưới. Mọi người đang đợi ông đến uống trước. Tôi chạy xuống cùng nàng. Nước tinh khiết róc rách chảy dưới bóng những tảng đá. Cánh phụ nữ đang đứng quanh dòng suối. - Mời cậu uống, - người đàn bà lớn tuổi nói. - Chúng tôi nghĩ chắc cậu sẽ không muốn uống sau khi đàn bà chúng tôi khuấy động dòng nước. Tôi uống từ hai bàn tay khum lại vốc nước. Cánh phụ nữ còn nán lại. Họ nhúng ướt khăn tay lau mồ hôi trên mặt. Dưới chân dốc, chúng tôi bước ra đường cao tốc Shimoda. Phía dưới đường, những đám mây khói đây đó tỏa cao từ những lò làm than củi. Chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ trên một cây gỗ. Cô vũ nữ dùng cái lược hồng chải bộ lông rối bù của con chó. - Con sẽ làm gãy răng lược mất, - mẹ cô cảnh báo. - Cũng chẳng sao. Con sẽ mua một cái mới ở Shimoda. Đây là chiếc lược nàng cài lên mái tóc, và ngay từ ở Yugano tôi đã dự tính khi đến Shimoda sẽ xin nàng chiếc lược đó. Tôi hơi bối rối khi thấy nàng dùng nó chải lông con chó. Xa bên lề đường là cả đống trúc. Sau khi lưu ý rằng nếu có gậy chống thì việc đi lại đỡ mệt hơn, Eikichi và tôi đi trước. Chẳng mấy chốc cô vũ nữ chạy kịp chúng tôi. Nàng cầm cây gậy trúc to, dài hơn cả người nàng. - Cái này để làm gì? - Eikichi hỏi. Thoáng bối rối, nàng dúi cây gậy trúc cho tôi. - Để làm gậy chống. Em lấy cây to nhất đấy. - Em không thể làm như thế. Họ sẽ để ý đến cây lớn nhất. Đưa trả lại đi. Nàng quay lại đống trúc rồi lập tức chạy lại. Lần này nàng đưa cho tôi cây gậy chỉ lớn bằng ngón tay giữa của tôi. Đoạn, thở hổn hển, nàng nằm vật ra con đường hẹp chạy giữa các thửa ruộng lúa, rồi cứ nằm bất động như thể bị ghim ở đó, trong lúc đợi những phụ nữ khác đến. Eikichi và tôi tiếp tục bước đi trước họ chừng năm, bảy mét. - Nhưng mọi thứ ông ấy cần làm là thay một cái răng vàng. Rồi thì chị sẽ chẳng còn chú ý đến nữa đâu, - giọng của cô vũ nữ vọng đến. - Ừ, có lẽ em nên nói điều đó với cậu ấy. Đấy là giọng của Chiyoko, hoàn toàn không nhận ra tôi đang nhìn họ. Rõ ràng họ đang bình luận về mấy cái răng vẩu của tôi. Chiyoko hẳn là người nêu vấn đề ấy ra, còn cô vũ nữ thì gợi ý về chiếc răng vàng. Tôi cảm thấy không hề giận khi bị mang ra bình luận nên chẳng cần chú ý lắng nghe thêm nữa. Cuộc đối thoại lắng lại một lát. - Ông ấy dễ thương, đúng vậy, - giọng cô vũ nữ lại vang lên. - Cậu ấy có vẻ rất dễ thương. - Ông ấy thực sự dễ thương. Cái dễ thương của những người rất dễ thương. Nàng có cách nói chuyện cởi mở, lối nói thành thật của trẻ con diễn tả chính xác những gì diễn ra trong đầu, lối nói tạo khả năng cho tôi thật sự nghĩ bản thân mình “dễ thương”. Tôi lại nhìn lên núi, rực sáng đến mức làm mắt tôi hơi đau. Phải đến mười chín tuổi tôi mới nghĩ bản thân tôi là kẻ lạc lõng, một kẻ mồ côi từ trong bản chất và nỗi phiền muộn ấy đã xui tôi thu xếp làm chuyến du ngoạn ở Izu này. Bây giờ tôi có thể nghĩ về bản thân như một người “dễ thương” theo cách diễn đạt bình thường. Tôi không tìm ra từ ngữ để diễn tả điều đó có ý nghĩa như thế nào với tôi. Những ngọn núi rực sáng hơn. Chúng tôi gần đến Shimoda và biển. Tôi vung vẩy cây gậy lên đầu đảm cỏ mùa thu. Thỉnh thoảng, khi con đường chạy qua một ngôi làng, chúng tôi có thể nhìn thấy tấm bảng: “Cấm kẻ ăn mày, biểu diễn rong”. 6 Nhà nghỉ Koshu tồi tàn nằm ở ngoại ô phía Bắc Shimoda. Tôi đi theo đoàn lên căn phòng tựa như phòng áp mái ở tầng hai. Không có trần nhà, mái nhà xuôi đứng xuống đến nỗi muốn ngồi bên cửa sổ nhìn ra đường thì ta không thể thoải mái thẳng lưng lên. Người đàn bà lớn tuổi đang chăm sóc cô vũ nữ. - Vai con không tê cứng chứ? Cánh tay con có còn đau nữa không? Cô vũ nữ phác những động tác đánh trống duyên dáng. - Thưa mẹ không. Con không hề gì cả đâu. Chúng chẳng đau tí gì cả. - Tốt. Mẹ cứ lo. Tôi nhấc cái trống. - Nặng quá. - Nó nặng hơn ông tưởng, - nàng cười vang. - Nó nặng hơn cả túi hành lý của ông. Họ chào hỏi những khách trọ khác. Nhà nghỉ đầy ắp những người bán hàng rong và biểu diễn rong. Shimoda dường như là mái nhà cho những kiểu người chuyên di trú này. Cô vũ nữ cho đứa bé vừa chạy đến mấy xu. Khi tôi chuẩn bị đi, nàng chạy lại xoay mũi guốc cho tôi. - Ông nhớ đưa em đi xem phim, nhớ nhé? - nàng thì thào, như thể chỉ nói cho riêng mình. Eikichi và tôi, được chỉ dẫn bởi một gã trông không có vẻ lương thiện ở Koshu, đi đến nhà nghỉ, nghe nói trước đây là của viên thị trưởng cũ. Chúng tôi cùng đi tắm và ăn trưa, cá vừa mới bắt từ biển tươi rói. Tôi đưa cho anh ta ít tiền khi anh ta ra về. - Mua hộ bó hoa cho buổi cúng giỗ ngày mai, - tôi nói. Tôi giải thích rằng tôi sẽ phải quay về Tokyo bằng chuyến tàu thủy sáng mai. Thực tế là tôi đã hết tiền nhưng tôi nói với họ là tôi phải đến trường. Tôi ăn tối qua quýt sau bữa trưa ba tiếng rồi qua cầu đi đến phía Bắc thành phố. Tôi leo lên ngọn Shimoda Fuji, nhìn xuống cảng. Trên đường quay về, tôi tạt vào nhà nghỉ Koshu. Những người biểu diễn rong đang ăn món gà hầm. - Mời cậu nếm thử. Cánh đàn bà chúng tôi đã đụng đũa vào rồi, nhưng ngày nào đó biết đâu được cậu sẽ gặp may nhờ nó. - Người đàn bà lớn tuổi lấy từ chiếc hòm mây ra một cái chén, một đôi đũa và bảo Yuriko đi rửa. Họ nài nỉ tôi ở lại thêm một ngày nữa và dự đám giỗ cùng họ, nhưng tôi một mực từ chối vì lý do bận học. - Thôi được, dẫu sao thì chúng tôi cũng sẽ đón cậu vào mùa đông, - người đàn bà lớn tuổi lại nói. - Tất cả chúng tôi sẽ xuống bến tàu đón cậu. Cậu phải cho chúng tôi biết khi nào cậu đến. Bây giờ, cậu hãy ở lại cùng chúng tôi. Chúng tôi không đồng ý để cậu đến ở khách sạn. Chúng tôisẽ chờ cậu và tất cả mọi ngườisẽ đi đón cậu. Khi những người khác rời khỏi phòng, tôi mời Chiyoko và Yuriko đi xem phim cùng tôi. Nhợt nhạt và mỏi mệt, Chiyoko nằm yên, tay để lên bụng. - Tôi không thể đi được, cảm ơn cậu. Tôi không chịu nổi khi phải đi bộ nhiều đến thế. Yuriko nhìn chăm chăm xuống sàn nhà. Cô vũ nữ bé bỏng xuống tầng dưới chơi đùa với bọn trẻ trong nhà nghỉ. Khi nhìn thấy tôi, nàng chạy đến nịnh người đàn bà lớn tuổi để xin phép đi xem phim. Nàng quay lại với vẻ thất bại và chán nản. - Tôi chẳng thấy có gì sai quấy cả, - Eikichi bàn. - Sao không để nó đi xem một mình với cậu ấy? Tôi cũng thấy điều đó thực khó hiểu, nhưng người đàn bà vẫn cương quyết. Cô vũ nữ ở ngoài hành lang chơi đùa với con chó khi tôi bước ra. Tôi không thể buộc mình nói chuyện với nàng, vậy nên sự lạnh lùng là yêu cầu của nghi lễ mới này và nàng cũng đã không có đủ sức mạnh để ngước nhìn lên. Tôi đi xem phim một mình. Một phụ nữ đọc lời đối thoại bên ngọn đèn nhỏ. Tôi cảm thấy chán ngấy rồi quay về nhà nghỉ. Suốt thời gian dài, tôi ngồi chống cùi tay lên cửa sổ nhìn ra ngoài. Thành phố tối om. Tôi nghĩ tôi nghe được tiếng trống từ xa vẳng lại. Chẳng vì lí do chính đáng nào cả nhưng tôi thấy tôi đang khóc. 7 Eikichi từ dưới đường gọi với lên khi tôi đang ăn sáng vào lúc bảy giờ sáng hôm sau. Anh ta mặc bộ khuông sang trọng, dường như là vì quý trọng tôi. Cánh phụ nữ không đi cùng anh ta. Bỗng nhiên tôi thấy mình cô độc. - Mọi người đều muốn đến tiễn cậu, - anh ta giải thích khi lên phòng tôi, - nhưng tối qua chúng tôi ra ngoài quá khuya, nên họ không thể thức dậy sớm được. Họ nhờ chuyển lời xin lỗi đến cậu và họ sẽ đợi cậu vào mùa đông này. Gió thu thổi hơi lạnh qua thành phố. Trên đường đến tàu, anh ta mua cho tôi hoa quả, thuốc lá và một gói kẹo bạc hà hiệu “Kaoru”. - Bởi vì đây là tên con bé, - anh ta mỉm cười. - Cam thì không tốt khi đi tàu thủy, nhưng cậu có thể ăn hồng. Chúng sẽ trợ giúp nếu cậu hơi bịsay sóng. - Sao tôi không tặng anh cái này nhỉ? Tôi đội chiếc mũ săn lên đầu anh ta, rồi lôi chiếc mũ sinh viên ra khỏi túi, cố vuốt phẳng nếp nhăn. Cả hai chúng tôi cùng cười. Khi chúng tôi đến bến tàu, tim tôi đập mạnh khi nhìn thấy cô vũ nữ bé bỏng đang ngồi bên mép nước. Nàng không cử động khi chúng tôi đến, duy chỉ gật đầu chào im lặng. Trên mặt nàng vẫn còn vết phấn trang điểm khiến tôi thấy nàng thật duyên dáng. Vết phấn hơi đỏ gắt nơi khóe mắt tôn thêm vẻ thanh tao tươi trẻ của nàng. - Những người kia sắp đến à? - Eikichi hỏi. Nàng lắc đầu. - Họ vẫn ngủ? Nàng gật đầu. Eikichi đi mua vé tàu và vé tiễn. Tôi cố bắt chuyện nhưng nàng chỉ hướng cái nhìn vào chỗ con kênh chảy ra cảng. Thỉnh thoảng nàng khẽ gật đầu nhanh, luôn trước khi tôi dứt lời. - Tôi cho là chúng ta có thể hỏi chàng trai này. - Người đàn ông trông có vẻ là người làm công nhật đi đến chỗ tôi. - Cậu đến Tokyo à? Tôi trông thấy cậu và nghĩ mình nên thử hỏi xem. Cậu có thể đưa giúp bà cụ này đến Tokyo được chứ? Bà gặp cảnh ngộ thật đau buồn. Con trai bà làm tại mỏ bạc ở Rendaiji nhưng vì anh đã mắc bệnh cúm đang hoành hành nơi đó nên cả hai vợ chồng đều bị chết vì cúm. Một tay bà cụ phải lo cho ba đứa bé. Chúng tôi chẳng nghĩ ra được cách nào để giúp đỡ cụ. Vậy nên chúng tôi gởi cụ về quê quê cụ ở Mito. Cụ chẳng biết tí gì về Tokyo. Có lẽ khi đến bến cảng ở Reiganjima, cậu có thể giúp bà cụ lên tuyến xe điện để đến ga Ueno được chứ? Tôi biết việc này thật phiền toái nhưng hãy làm ơn giúp cụ. Xin hãy làm ơn. Chỉ trông chừng bà cụ thôi. Cậu đã thấy là tình cảnh cụ thê thảm quá rồi đó? Bà cụ đang đứng lặng câm, một đứa bé địu sau lưng, một tay dắt bé gái hai tuổi và tay kia dắt bé gái bốn tuổi. Tôi có thể nhìn thấy bữa ăn nghèo nàn qua chỗ hở của cái tay nải. Năm sáu thợ mỏ đang cố động viên cụ. Tôi vui vẻ nói tôisẽ cố hết sức để giúp cụ. - Nếu có thể, xin cậu cố giúp. Cảm ơn cậu. Lẽ ra chính chúng tôi phải đưa cụ đến Mito, nhưng chúng tôi không thể. Họ lần lượt cảm ơn tôi. Tàu tròng trành mạnh. Cô vũ nữ nhìn bất động về phía trước, môi nàng mím chặt. Khi bắt đầu leo lên thang dây để lên tàu, tôi ngoái nhìn lại. Tôi có thể thấy nàng muốn nói lời tạm biệt, nhưng nàng chỉ lặng lẽ gật đầu. Tàu bắt đầu lùi lại. Eikichi vẫy vẫy chiếc mũ săn và khi tàu đã lùi được một khoảng xa, nàng bắt đầu vẫy cái gì đó màu trắng. Tôi tựa vào lan can tàu và cứ nhìn mãi về phía Oshima cho đến khi mỏm đất phía Nam bán đảo Izu chìm khuất khỏi tầm mắt. Như thể tôi đã nói lời tạm biệt với cô vũ nữ từ lâu lắm rồi. Tôi nhìn vào buồng riêng để xem thử cụ già thế nào, nhưng cụ đã được những người tốt bụng thăm hỏi. Tôi đến buồng riêng bên cạnh. Biển dậy sóng mạnh đến nỗi ngay cả ngồi cũng khó. Một thủy thủ đoàn đi phát những chiếc chậu kim loại nhỏ. Tôi nằm gối đầu lên túisách, đầu óc tôi trống rỗng, nhẹ tênh. Tôi không còn ý thức về thời gian trôi qua. Tôi khóc lặng lẽ và khi má tôi bắt đầu thấy lạnh, tôi lật ngược chiếc túi. Một cậu bé nằm bên tôi. Cậu ta là con của một ông chủ nhà máy ở Izu, cậu ta nói, cậu ta đến Tokyo để chuẩn bị dự thi vào trường trung học. Cái mũ sinh viên của tôi đã hấp dẫn cậu ấy. - Anh có chuyện buồn à? - Cậu ta hỏisau một lúc. - Không, anh chỉ vừa mới tạm biệt một người. Tôi thấy không cần phải giấu giếm sự thật và tôi hoàn toàn không hề xấu hổ vì những giọt nước mắt. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì cả. Tâm trạng tôi như thể đang thiu thiu ngủ trong sự thanh thản tuyệt đối. Tôi không biết chiều đến lúc nào nhưng có ánh đèn khi chúng tôi đi qua Atami. Tôi đói và hơi lạnh. Cậu bé mở đồ ăn tối ra và tôi ăn như thể đây là bữa tối của mình. Rồi tôi ủ mình dưới một phần tấm áo choàng của cậu ta. Tôi bềnh bồng trong trạng thái trống rỗng kì diệu. Dường như việc tôi dựa vào lòng tốt của cậu bé là tự nhiên. Và dường như cũng hoàn toàn tự nhiên khi tôi nhận đưa bà cụ đến Ueno vào sáng sớm nay và mua cho cụ chiếc vé đến Mito. Mọi việc chìm trong sự hài hòa đan quyện. Đèn tắt, mùi biển và mùi cá trong khoang nồng hơn. Trong bóng tối, được sưởi ấm bởi cậu bé nằm bên cạnh, tôi thỏa thuê khóc. Như thể đầu tôi đã hòa thành dòng nước tinh khiết. Nó đang thanh thản rời đi, từng giọt một. Chẳng mấy chốc, sẽ chẳng còn lại gì nữa. (1925) LÊ HUY BẮC VỀ CHIM VÀ THÚ Tiếng chiêm chiếp của lũ chim đã cắt ngang giấc mơ của anh. Trên chiếc xe tải cũ xiêu vẹo là một cái lồng chim mà hẳn có thể được dùng để nhốt tội phạm trên sàn diễn kịch kabuki, mặc dù nó phải rộng hơn đến hai hay ba lần. Chiếc xe ta xi của người đàn ông dường như đã rẽ lối qua đám tang. Bên cạnh gương mặt người lái xe, con số 23 hiện lướt qua trên kính của chiếc ôtô đang chạy phía sau. Người đàn ông nhìn ra ngoài. Họ đang đi qua một ngôi chùa, tấm bia đá phía trước khắc dòng chữ: “Địa danh lịch sử: Phần mộ của Dazai Shundai”([1]). Trên cổng có dán thông báo ở đây có đám ma. Họ đang đi xuống con dốc. Dưới chân dốc, chỗ các con đường giao nhau, có một người cảnh sát điều khiển giao thông. Khoảng ba mươi chiếc xe ôm nối đuôi nhau phía trước xe của anh, đe dọa một vụ tắc đường. Anh nhìn chằm chằm vào lồng chim phóng sinh ở đám ma. Anh càng thêm sốt ruột. - Mấy giờ rồi? - Anh hỏi cô hầu, một cô gái nhỏ bé đang ngồi khép nép cạnh anh, giỏ hoa đặt cẩn thận ngay ngắn trong lòng. Người ta không chắc rằng cô có đeo đồng hồ hay không. - Bảy giờ kém mười lăm, - người lái xe trả lời thay cô gái. - Cái đồng hồ này chậm sáu, bảy phút gì đó. Hoàng hôn vẫn sáng rực trên bầu trời mùa hạ. Hương hoa hồng trong giỏ thật mạnh mẽ. Từ khu vườn chùa tỏa ra mùi nồng hắc của một loài hoa tháng sáu nào đó. - Chúng ta sẽ bị muộn. Anh không thể nhanh hơn được à? - Tôi không thể nhanh được, cho tới khi họ chưa đi qua con hẻm kia. Có việc gì ở đại sảnh Hibiya vậy? - Người lái xe có lẽ đang nghĩ về khoản tiền xe khứ hồi. - Có một buổi biểu diễn khiêu vũ. - Ồ! Anh cho rằng còn bao lâu nữa người ta sẽ thả lũ chim đó? - Tôi cho rằng trên đường đi mà gặp đám ma là điềm gở đấy. Có tiếng vỗ cánh mạnh. Chiếc xe tải đang chuyển động. - Không, gặp đám ma là điềm may chứ. Người ta nói đó là điềm may nhất trên thế gian. Như thể những từ anh vừa nói rất có giá trị, người lái xe liền lách vào con hẻm bên phải và nhanh nhẹn băng qua đám tang. - Điều đó thật lạ lùng, - người đàn ông cười. - Anh thì lại nghĩ ngược lại. - Nhưng điều đó cho thấy rằng người ta nên có thói quen nghĩ như thế. Thật lạ là trên đường đi anh cũng có những băn khoăn như vậy với buổi biểu diễn của Chikako. Nếu anh muốn tìm điềm gở thì trong thực tế họ đã để xác hai con chim được chôn cất ở nhà, còn gở hơn cả gặp một đám ma. - Những con chim ấy sẽ được giải thoát khi chúng ta về đến nhà tối nay, - anh nói, gần như là khạc ra từng từ một. - Chúng sẽ vẫn ở trong căn buồng trên gác. Đã một tuần kể từ khi cặp chim tước mào vàng chết. Anh không màng đến chuyện vứt bỏ hai cái xác ấy mà vẫn để chúng ở trong lồng, trong căn buồng đầu cầu thang. Anh và cô hầu đã từng có khá nhiều xác chim nhỏ, những cái xác mà họ cũng chẳng buồn ném đi, thậm chí họ còn lấy cả những tấm nệm ở đáy lồng bất cứ khi nào có một con chim khác cần đến. Cùng với lũ chim sẻ ngô, chim hồng tước và chèo bẻo thì đôi chim tước mào vàng là cặp chim cảnh nhỏ nhất. Màu ôliu ở phía trên và màu nâu vàng ở dưới, nó có một cái cổ hơi nâu nâu và hai sọc trắng ở cánh. Chót đuôi của những chiếc lông đầu cánh màu vàng. Cái vương miện trên đầu nó là một vòng tròn màu đen viền quanh một vòng tròn màu vàng. Khi lông xù lên, màu vàng nổi bật như bông hoa cúc đơn. Ở con đực, màu vàng đã chuyển sang màu cam sậm. Đôi mắt tròn có một vẻ quyến rũ tinh nghịch đến mê người, và có cả một nét lãng mạn trong cái cách mà con chim lượn quanh chóp lồng. Tóm lại, nó đúng là một con chim thông minh và quyến rũ. Từ khi tay lái buôn mang cặp chim đến vào buổi tối, anh đã đặt ngay chiếc lồng vào góc trong mờ tối của gian thờ. Sau đó một lát, liếc qua chiếc lồng, anh thấy hai con chim thật là đẹp khi ngủ. Đầu con này rúc vào lông con kia, hai cái đầu giống như một quả bóng bằng sợi, gần đến nỗi không thể phân biệt được cái này với cái kia. Gần bốn mươi tuổi, anh cảm thấy nhiệt tình của tuổi trẻ đã rơi rụng hết, đứng bên bàn, anh cứ mãi nhìn vào gian thờ. Anh băn khoăn tự hỏi, không biết nơi đâu ở một miền quê nào đó, có hai người trẻ tuổi, trong mối tình đầu, đang ngủ như thế không? Anh muốn chia sẻ cảnh tượng đó, nhưng anh không gọi cô hầu. Từ hôm sau, anh đặt đôi chim tước lên bàn và ngắm chúng khi anh đang ăn. Thậm chí khi có khách, anh cũng để lũ chim và thú cạnh mình. Không thực sự tập trung nghe xem khách đang nói gì, anh đặt hẳn một mẩu thức ăn lên tay và chăm chú tập ăn cho một chú chim con cổ đỏ; hoặc anh để một con chó Shiba lên đầu gối, miệt mài bắt bọ chét cho nó. “Tôi thích chó Shiba. Trông chúng có một vẻ gì đó của người theo thuyết định mệnh. Anh cứ đặt một con lên đầu gối như thế này hoặc để nó trong góc, nó sẽ ở đó mà không nhúc nhích gì cả nửa ngày”. Và anh thường không nhìn vào khách cho tới khi người khách đó đứng dậy ra về. Vào mùa hè, anh nuôi cá chép và cá tuế đỏ trong bình thủy tinh đặt trên bàn nơi phòng khách. “Có lẽ bởi vì tôi sắp già. Tôi không thích gặp gỡ đàn ông nữa. Tôi không thích đàn ông. Tôi bị chán nản ngay từ phút đầu tiên. Khi người ta đang ăn, khi đi du lịch, thì đấy phải là một người đàn bà”. “Anh nên lấy vợ”. “Hoặc cũng không nên. Tôi thích phụ nữ bình thường. Cách tốt nhất để biết cô ta là người bình thường, là đi gặp cô mà không báo trước. Đây cũng là cách mà tôi tìm cho mình một cô giúp việc”. “Và điều đó giải thích tạisao anh nuôi thú phải không?” “Với những con vật thì là là chuyện khác. Tôi muốn có một cái gì đó sống động và di chuyển bên mình”. Lẩm bẩm tự nói với mình, anh sẽ quên mất người khách khi anh chăm chú nhìn lũ cá chép nhiều màu sắc và ngắm ánh sáng lung linh trên vảy cá khi chúng bơi, trầm ngâm về một thế giới ánh sáng huyền ảo trong làn nước nhỏ này. Khi tay lái buôn có một con chim mới, anh sẽ mang nó đi loanh quanh mà không màng tới chuyện gì nữa. Con người đôi khi có tới ba mươi tâm trạng khác nhau trong suy nghĩ của mình. - Đừng thêm một con chim nào nữa! - cô giúp việc phàn nàn. - Cô nên vui mới phải. Không tốn nhiều tiền mà tôi lại được hạnh phúc bốn, năm ngày liền. - Nhưng nét mặt ông lạisuy tư và ông cứ chăm chú nhìn chúng suốt. - Điều đó làm cô khó chịu à? Cô nghĩ tôi đã mất trí rồi sao. Nơi đây quá yên tĩnh sao? Nếu không có một con chim mới đến thì cuộc sống của anh sẽ không được lấp đầy bằng sự tươi mới trẻ trung trong vài ngày. Anh cảm thấy nó mang phước lành của thế gian. Có lẽ đó là phần yếu kém trong anh, bởi lẽ anh không thể cảm nhận được bất kỳ chút nào về điều ấy trong con người. Và người ta thanh thản hơn khi ngắm nhìn những diệu kỳ của tạo hóa trong con chim uyển chuyển hơn là vẻ im lìm của lũ sò và những bông hoa. Những loài vật nhỏ, thậm chí khi đã bị nhốt lồng vẫn mang lại niềm vui cho cuộc đời. Điều đó còn đặc biệt hơn với cặp chim tước vui vẻ. Khoảng một tháng sau khi chúng đến, một con đã bay ra ngoài khi anh đang cho chúng ăn. Cô hầu lúng túng, còn con chim đã bay lên cây long não bên trên túp lều. Sương sớm phủ trên lá cây long não. Hai con chim, một trong một ngoài lồng, gọi nhau bằng những âm điệu cao và gắt. Anh để cái lồng ở nóc lều và chiếc que tẩm nhựa bẫy chim bên cạnh. Cặp chim gọi nhau ngày càng tuyệt vọng, nhưng con chim trốn ra đã bay đi hẳn vào khoảng buổi chiều. Cặp chim đã được mang đến từ dãy núi phía sau Nikko. Con chim còn lại là chim mái. Nhớ lại cảnh tượng cặp chim khi đang ngủ, anh nài nỉ tay lái buôn bán cho anh một con chim trống. Anh đi hỏi khắp đám lái buôn nhưng không gặp may. Cuối cùng tay buôn chim của anh đành mang đến một cặp chim khác từ vùng nông thôn. Anh bảo anh chỉ cần con đực. - Chúng sống thành cặp. Sẽ không ích gì khi giữ một con đơn lẻ. - Tôisẽ để cho anh con cái mà không tính tiền. - Nhưng chẳng lẽ để ba con ở cùng với nhau? - Có lẽ vậy. Đặt hai cái lồng gần nhau khoảng bốn năm ngày rồi chúng sẽ quen ngay ấy mà. Nhưng, như trẻ con có đồ chơi mới, anh không thể đợi được. Ngay khi người buôn chim vừa ra về, anh đã để ngay hai con chim mới vào với con chim cũ. Một sự rối loạn khủng khiếp hơn anh tưởng đã xảy ra. Hai con chim mới, không chịu đậu lên cây sào ngang mà đập cánh lao hết bên này sang bên kia lồng. Con chim cũ đứng bất động trên sàn lồng, nhìn hai con mới đầy khiếp đảm. Hai con mới gọi nhau, như một đôi vợ chồng đang đương đầu với một điều bất hạnh. Ba lồng ngực hoảng sợ phập phồng dữ dội. Anh đặt cái lồng vào phòng chứa đồ. Cặp chim đến với nhau, gọi nhau, còn con chim cô đơn thì vẫn tiếp tục đứng bẽn lẽn một mình. Việc này lẽ ra không được thực hiện. Nhưng anh đã tách chúng ra, vì động lòng thương xót cho con chim mái cô đơn. Anh để nó vào với con trống mới. Con chim trong hót vọng ra ngoài gọi cô bạn gái bị chia tách và không đoái hoài gì đến cô bạn gái kia; nhưng sau đó một lúc chúng cũng ngủ thiếp đi bên nhau. Tối hôm sau khi anh để con thứ ba vào, đã không có sự rối loạn như ngày hôm trước. Ba con chim nằm ngủ như một quả bóng, hai cái đầu của đôi chim mới rúc vào lông của con thứ ba. Anh đi ngủ với cái lồng để bên cạnh gối. Nhưng khi anh thức dậy vào sáng hôm sau, đôi chim kia vẫn ngủ như một quả bóng tơ ấm áp. Còn con chim thứ ba nằm chết dưới cây sào ngang, cánh nó sã ra, đôi chân cứng đờ, còn mắt thì nửa nhắm nửa mở. Vì không muốn đôi chim kia nhìn thấy xác chết ấy, anh lấy nó ra khỏi lồng, không nói gì với cô hầu, anh ném nó vao thùng rác. “Một kiểu giết người khủng khiếp”, anh nghĩ. Con nào đã chết, anh băn khoăn nhìn vào lồng. Ngược lại với điều anh dự đoán, con còn sống hình như lại là con chim mái cũ. Anh thương con chim cũ hơn. Có lẽ sự thiên vị làm anh nghĩ con chim cũ còn sống. Anh sống không gia đình và sự thiên vị làm anh bối rối. “Nếu ông có những sự phân biệt như vậy, tại sao ông lại còn sống với chim và thú? Có cách đối xử khách quan rất phù hợp cho chúng khi chúng được xem như một con người”. Những con chim tước mào vàng khi bị nhốt trở nên xuống sức và chết rất nhanh, nhưng cặp chim của anh vẫn rất khỏe. Anh mua con chim bách thanh non từ một tay săn trộm, và câu chuyện bắt đầu: mùa săn đến, lúc anh không thể đi ra ngoài để cho lũ chim con mới phía dưới núi ăn. Những cánh hoa đậu tía rụng trên mặt nước khi anh mang cái bồn ra ngoài hè để cho lũ chim tắm táp. Khi đang lắng nghe tiếng đập cánh vào nước và đang rửa mấy chiếc lồng thì anh nghe thấy tiếng trẻ con vọng lại phía bên kia hàng rào. Hình như chúng đang chờ đợi cái chết của một con thú nhỏ nào đó. Anh nhảy qua hàng rào, nghĩ rằng một trong những con chó lông cứng của mình có thể bị lạc từ vườn ra. Đó là một con chim chiền chiện nhỏ. Không thể đứng hẳn lên được, nó loạng choạng trên đống rác. Một ý nghĩ chợt đến với anh là anh có thể bắt lấy nó. - Có chuyện gì vậy? - Ngôi nhà đằng kia kìa. - Một chú nhóc chỉ tay về phía ngôi nhà màu xanh với rặng cây có vẻ cô độc trồng ở phía trước. - Họ đã ném nó ra đây. Nó sẽ chết, đúng không? - Ừ, nó sẽ chết, - anh nói hờ hững, rời hàng rào. Gia đình ở trong ngôi nhà màu xanh nuôi ba, bốn con chim chiền chiện gì đó. Có thể họ đã vứt bỏ con chim mà họ cho là sẽ không hót được. Lòng thương bốc đồng của anh nhanh chóng hạ xuống: chẳng có ích gì khi mang về nhà con chim đã bị quẳng đi như một đồ rác rưởi. Có những loài chim khi còn non không thể phân biệt được đâu là con đực đâu là con cái. Cánh lái buôn đem cả tổ từ trên núi xuống và ném những con chim cái đi, ngay khi họ nhận ra chúng. Những con chim cái không biết hót và cũng sẽ không bán được. Tình yêu dành cho chim và thú đến với anh từ việc tìm kiếm những con cao cấp, và nó đã bén rễ sâu đậm. Bản chất của anh là muốn có bất cứ một con vật dễ thương nào ngay khi nhìn thấy nó, nhưng bằng kinh nghiệm bản thân anh biết rằng lòng yêu thương dễ dàng như vậy trong thực tế lại là ít tình cảm và điều đó đã mang lại sự hờ hững đối với cuộc sống của anh. Và vì vậy, dù con vật có dễ thương tới mức nào, dù người ta có tha thiết đề nghị anh nuôi nó tới đâu chăng nữa, thì anh cũng sẽ từ chối nếu nó đã được một ai đó nuôi dưỡng. Luôn cô đơn, anh đi tới một kết luận dứt khoát rằng: anh không thích con người. Những người chồng và những người vợ, cha mẹ và con cái, anh em và chị em: những mối quan hệ không dễ gì cắt đứt ngay cả với sự khó chịu nhất của con người. Ai đó đã từ bỏ cuộc sống cộng đồng. Và mỗi một người đều bị ám ảnh bởi cái gọi là cái tôi. Mặt khác, lại có một sự thanh khiết u buồn nào đó trong việc tạo thành những đồ chơi của sự sống và thói quen của loài vật, và, quyết định chọn một hình mẫu lý tưởng, nuôi dưỡng cho nó theo kiểu nhân tạo và méo mó: trong nó có một sự mới mẻ thần thánh. Anh mỉm cười chua chát, bào chữa cho họ giống như những biểu tượng bi kịch của thế gian và của loài người, những kẻ yêu thú đã làm khổ thú, dù rất cố gắng đạt tới việc nuôi dưỡng ngày càng hoàn thiện hơn. Một buổi tối của tháng mười một trước, tay chủ của cơ sở nuôi chó, kẻ trông như một quả cam héo vì bị đau thận hay một bệnh gì đại loại như vậy, đến gặp anh. - Thật khủng khiếp. Tôi đã tháo xích cho nó khi tôi với nó đi vào công viên, trong sương mù, không quá một phút tôi đã lạc mất nó và một con chó chết tiệt nào đó đã phủ lên nó. Tôi kéo nó ra, đá nó liên tục cho tới khi nó không đứng lên được nữa. Tôi không biết làm thế nào mà nó lại có thể... nhưng nó có cái cách giao phối ngay khi người ta không muốn như thế. - Và ông đoán đó là một con chó giống à? - Đúng, tôi không dám kể với bất cứ ai, vì như thế chỉ tổ rắc rối. - Đồ chó cái khốn nạn - chỉ trong một vài giây nó đã làm mất toi của tôi bốn, năm trăm yên. - Cặp môi vàng ệch của ông ta giật giật. Con Doberman kiêu hãnh đang lẻn đi với cái đầu cúi xuống. Nó sợ sệt ngước nhìn ông chủ đau thận. Sương giá bắt đầu trút xuống. Cơ sở có tiếng của gã sẽ bán tống con chó đi. Điều đó sẽ làm mất uy tín của gã, gã khẳng định, vì, nếu không bán ngay, nó sẽ đẻ ra lũ chó lai; nhưng sau đó một thời gian, rõ ràng là bị thúc bách vì tiền, tay chủ cơ sở nuôi chó đó đã bán con chó mà không cho anh biết. Hai hay ba ngày sau đó, người mua mang con chó đến cho anh. Một ngày sau khi được mua, nó đẻ ra một con chó con đã chết trong bụng mẹ. “Cô hầu nghe thấy tiếng rên rỉ bèn mở cửa chớp, nó đứng dưới mái hiên, đang ăn thịt một con chó con. Không thể nhìn rõ trong bóng tối, cô ngạc nhiên và hơi sợ hãi. Chúng tôi không biết nó đẻ bao nhiêu con, nhưng cô nghĩ con mà nó đang ăn là con cuối cùng. Chúng tôi đã gọi bác sĩ thú y tới ngay, ông ta nói rằng cơ sở nuôi chó không nên bán một con chó chửa. Một con chó lai nào đó hẳn đã giao phối với nó và cái gã chủ cơ sở đã đá nó, quật sự sống ra khỏi cơ thể nó. Đây không phải là một cuộc sinh nở bình thường, ông nói, và có lẽ nó đã mắc phải thói quen ăn thịt con mình. Tôi nên lấy lại nó. Tất cả chúng ta đều cảm thấy bực mình. Thật là điều kinh khủng khi làm như thế đối với một con vật”. - Để tôi xem đã, - anh nói hờ hững, nhấc con chó lên và sờ vào những núm vú của nó. - Nó đã tha những con chó trước đó lên. Nó bắt đầu ăn chúng bởi vì chúng đã chết. - Anh nói vớisự dửng dưng, dù anh quá là giận dữ và thương xót. Đã có những con chó lai được sinh ra trong ngôi nhà của anh. Thậm chí trong khi đi du lịch, anh cũng có thể không chịu chung phòng với một người đàn ông, anh không thích có đàn ông qua đêm trong nhà mình, và anh đã không mướn đầy tớ trai, và cho dù trong thực tế chẳng có gì đáng phàn nàn về lối cư xử của đàn ông đối với anh, anh cũng chỉ nuôi những con chó cái. Trừ phi đó là một con chó đực thực sự siêu đẳng, dù nó có thể không đạt tiêu chuẩn như một con chó giống. Một con chó như vậy rất đắt và phải được quảng cáo như một minh tinh màn bạc, còn những dao động trong nghề thì quả là dữ dội. Nếu ai đó bị vướng vào cuộc cạnh tranh thương mại quyết liệt ấy thì thật chẳng khác gì trò cờ bạc. Anh đã từng đến một nơi nuôi chó để xem một con chó săn Nhật Bản nổi tiếng trong vai trò một con chó giống. Nó nằm cả ngày trên tấm mền bông ở tầng trên, và rõ ràng là ra vẻ ta đây khi được mang xuống cho một con chó cái. Nó giống như một ả điếm thạo nghề. Bởi vì lông nó ngắn, bộ phận giống đực phát triển đến tuyệt vời rất dễ nhận thấy. Thậm chí anh đã quay đi vì khó chịu. Nhưng không phải vì ghê tởm những vấn đề như vậy mà anh không nuôi các con vật đực. Niềm vui lớn nhất của anh là cứu vớt và chăm sóc những con chó nhỏ. Nó là một con chó săn Boston không bình thường. Nó có thể đào lối thoát ra dưới hàng rào hoặc gặm một lối qua hàng rào tre. Lúc nó động đực anh phải buộc nó lại, nhưng nó đã cắn đứt dây thừng và chạy mất, những con chó con sẽ là chó lai. Cô người hầu đánh thức anh dậy với phong cách của một bác sĩ chuyên nghiệp. - Mang keo và vải lại đây. Và cắt đứt sợi dây rơm. Đó là cái dây buộc quanh thùng rượu sake. Trong vườn có một chỗ mới thoải mái để nó được đưa đến tắm nắng vào đầu mùa đông. Con chó nằm dưới ánh mặt trời, một cái bọng như quả cà bắt đầu nhô lên khỏi bụng nó. Khẽ ngoe nguẩy đuôi nó len lén nhìn anh, bỗng nhiên anh cảm thấy một điều gì đó như sự day dứt của lương tâm. Đó là lần động đực đầu tiên của nó, và nó cũng chưa trưởng thành hoàn toàn. Thẳm sâu trong mắt nó vẫn không có ý thức về ý nghĩa của việc sinh nở. - Chuyện gì sắp xảy ra với tôi vậy? Tôi không biết điều ấy là gì nhưng tôi không thích nó. Tôi phải làm sao đây? Con chó dường như thẹn thùng và bối rối, nhưng ngay trong lúc ấy, vẻ ngây thơ và niềm mong muốn đổ vấy mọi thứ cho anh, cứ như thể nó không phải chịu một tí trách nhiệm nào trong việc nó làm cả. Anh nhớ đến Chikako mười năm về trước. Lần đầu tiên bán mình cho anh, vẻ mặt cô nhìn anh y hệt vẻ mặt của con chó này. “Có thực là anh đã mất hết cảm xúc khi mua bán thế này không?” “À, có chuyện đó, nhưng nếu em tìm được một người đàn ông mà em thích - thì em sẽ không thể gọi chính xác điều ấy là công việc khi em có hai, ba người đàn ông đều đặn”. “Em thích anh”. “Và cho dẫu thế thì không tốt sao?” “Không, không phải thế.” “Khi em kết hôn, anh ta sẽ biết chứ?” “Biết”. “Em nên làm việc đó thế nào đây?” “Vậy em đã làm việc ấy ra sao?” “Thế anh làm thế nào với vợ anh?” “Làm thế nào ư, anh ngạc nhiên đấy”. “Hãy nói cho em biết đi”. “Anh không có vợ”. Anh nhìn chăm chú vào gương mặt nghiêm trang của cô. “Nó đã làm mình phiền muộn bởi vì nó giống cô ấy”, anh tự nói với mình khi đem con chó đến thùng rác. Con chó đầu tiên, hãy còn bọc trong màng, được sinh ra rất nhanh. Con mẹ không hiểu điều gì đang xảy ra với nó. Anh cắt màng thai và dây rốn nó bằng kéo. Cái bọc thứ hai là một con to hơn, và cả hai con chó đều có màu lục xám sáng, gần như đã chết. Anh vội vàng gói chúng vào trong một tờ báo. Con thứ ba tiếp tục được sinh ra, tất cả đều nằm trong bọc. Con thứ bảy và con cuối cùng cũng chào đời trong những cái bọc, nhưng như thể đã quắt queo lại và yếu ớt. Anh nhìn nó, không mở bọc, anh gói luôn vào tờ báo. “Quẳng chúng đi đâu đó. Ở phương Tây người ta vẫn loại bỏ chó con, giết những con yếu. Bằng cách này người ta có được những con chó tốt hơn. Người Nhật chúng ta đa cảm, không khá lên được vì chuyện này. Mang cho nó quả trứng sống hoặc cái gì đó”. Anh rửa tay rồi đi ngủ. Một niềm hạnh phúc tươi tắn của việc khai sinh cuộc sống mới bao trùm lấy anh, và anh muốn ra ngoài đi dạo. Anh quên mất rằng anh đã giết chết một con chó con. Sáng nọ, ngay khi chúng vừa mở mắt, anh thấy một con lăn ra chết. Anh đặt nó vào trong áo kimono của mình. Anh ném nó đi khi ra ngoài đi dạo vào buổi sáng. Hai, ba ngày sau đó, một con khác lại chết: con mẹ gom rơm làm ổ cho mình và lũ chó con bị đè bên dưới. Chúng chưa đủ khỏe để thoát ra. Con mẹ lại không buồn kéo chúng lên. Quả thực là nó nằm lên ổ rơm còn ở bên dưới lũ con đã bị chôn sống. Chúng hẳn đã chết vì đêm lạnh và ngạt thở. Con chó như một bà mẹ đần độn, kẻ làm con chết ngạt trong lồng ngực của mình. “Lại một con nữa chết”. Thản nhiên thả nó vào trong áo khuông của mình và huýt sáo gọi đàn chó, anh đưa chúng đi dạo trong công viên gần đó. Con chó săn chạy vụt đi vui sướng, hoàn toàn dửng dưng với thực tế là nó vừa mới giết chết con chó con, khiến anh lại nghĩ đến Chikako. Mười tám tuổi, Chikako được đưa đến Harbin bởi một tay chơi tài tử trong những thương vụ kinh doanh đầy mạo hiểm mang tính thuộc địa, và trong khoảng ba năm cô đã học khiêu vũ ở White Russians. Kẻ phiêu lưu mạo hiểm ấy đã hoàn toàn thất bại. Còn Chikako thì làm việc cho một ban nhạc biểu diễn vòng quanh Manchuria, nhưng cũng chẳng mấy chốc họ đã phải lên đường quay trở về Nhật Bản. Không lâu sau khi định cư ở Tokyo, Chikako đã bỏ anh chàng và kết hôn với tay nhạc công đã từng biểu diễn với cô ở Manchuria. Cô đã xuất hiện trên sân khấu và có những buổi biểu diễn của riêng mình. Ngày anh như bị buộc chặt với thế giới âm nhạc; nhưng những hiểu biết về âm nhạc của anh còn ít hơn số tiền anh bỏ ra cho một tạp chí âm nhạc nào đó. Anh đi dự hòa nhạc chỉ nhằm mục đích bông đùa qua lại với người quen. Anh xem Chikako nhảy. Anh bị cuốn hút bởi cơ thể rực lửa man dại của cô. Điều đó khiến anh so sánh với Chikako của sáu, bảy năm về trước. Bí mật nào lại có thể khiến cô trở nên phóng đãng đến như vậy? Anh băn khoăn tự hỏi tạisao không cưới cô. Nhưng cái quyền năng lạ lùng dường như đã sụp đổ vào khoảng buổi biểu diễn thứ tư. Anh xông vào phòng của cô, bất chấp thực tế là, vẫn trong bộ đồ vũ nữ, nhưng cô đã lau sạch lớp phấn trang điểm, anh túm tay cô và kéo cô vào góc tối phía sau sân khấu. - Bỏ ra đi. - Cô hất tay anh ra khỏi ngực mình. - Nó bị đau ngay cả khi anh sờ vào đấy. - Thật là ngớ ngẩn. - Nhưng em luôn thích trẻ con. Em muốn có một đứa con của riêng mình. - Thế em có định nuôi nấng nó không? Em nghĩ là em có thể sống bằng nghề vũ nữ khi mà em phải đảm nhiệm những chức năng phụ nữ à? Với một đứa trẻ thì em có thể làm được gì bây giờ? Em nên cẩn thận hơn. - Không có gì mà em không thể làm được cả. - Đừng có ngớ ngẩn nữa. Em cho là mọi việc đều đơn giản với một nghệ sĩ sao? Chồng em sẽ nói gì? - Anh ấy rất hài lòng. Anh ấy rất tự hào về điều đó. Anh khịt khịt mũi. - Thật là tất nếu em có thể có một đứa con, sau những gì em đã quen làm. - Tốt hơn là em nên bỏ khiêu vũ. - Em sẽ không. Không sẵn sàng nghe cô nói bằng cái giọng quá khích , anh rơi vào yên lặng. Cô không có đứa con thứ hai. Và ngay sau khi cô sinh đứa con thứ nhất, anh không gặp cô nữa. Có lẽ vì nguyên nhân đó mà cuộc hôn nhân của cô bắt đầu rạn nứt. Anh có nghe đồn về chuyện đó. Chắc Chikako không bất cẩn như loài chó săn Boston. Anh có thể cứu sống lũ chó con, nếu anh muốn. Anh hoàn toàn biết rõ rằng anh có thể ngăn không cho những cái chết xảy ra sau đó nếu sau cái chết của con đầu tiên anh cắt rơm ngắn hơn, hay là phủ một tấm vải lên đó. Nhưng con chó cuối cùng cũng chết như cách của ba con trước. Anh không thật lòng muốn lũ chó con chết, anh cũng không thật lòng muốn giữ chúng sống. Và anh cũng chẳng quan tâm tới một thực tế rằng chúng là lũ chó lai. Đôi khi một con chó lân la đến gần anh trên phố. Anh sẽ nói chuyện với nó trên suốt cả chặng đường về nhà, anh sẽ cho nó ăn và cho nó ngủ. Việc ấy làm anh hài lòng vì một con chó cảm thấm áp khi ở với anh. Nhưng sau khi anh bắt đầu nuôi lũ chó của riêng mình thì anh chẳng còn quan tâm tí nào tới loài chó lai. Cũng nên làm thế với con người, anh tự nhủ, coi thường mọi gia đình trên thế giới này trong khi đang cười nhạo sự cô đơn của chính anh. Đó cũng là chuyện với con chim chiền chiện. Cảm giác thương xót đã khiến anh nghĩ tới việc mang nó vào, nhanh chóng biến mất. Tự nhủ rằng chẳng có ý nghĩa gì khi cứu một mẩu rác rưởi, anh đã để cho bọn trẻ tra tấn con chim đến chết. Nhưng trong lúc anh mải nhìn con chim chiền chiện thì cặp chim tước đã ở quá lâu trong bồn tắm. Trong nỗi kinh hoàng, anh nhấc cái lồng tắm ra khỏi nước. Cặp chim nằm trong sàn lồng như đám giẻ ướt. Khi anh nhấc chúng lên, chân chúng co rúm lại. Tốt. Chúng vẫn còn sống. Mỗi tay anh nắm lấy một cơ thể nhỏ bé, lạnh đến thấu xương, hai mắt nhắm nghiền, trông chúng như thể đã hoàn toàn “mất hết hy vọng sống”. Anh sưởi ấm chúng bên trên lò than, bỏ thêm than vào còn cô người hầu thì quạt lò. Hơi nước bốc lên từ đám lông. Mấy con chim đột nhiên co giật. Anh nghĩ là hơi nóng xốc thẳng vào khiến chúng có thêm sức mạnh để chiến đấu với tử thần nhưng bản thân anh thì không chịu được cái nóng . Anh trải một tấm khăn lên đáy lồng, đặt chúng vào đó rồi giữ cái lồng trên than hồng. Tấm khăn bị đốt ngả mầu nâu. Mặc dù một trong hai con chim thỉnh thoảng đập cánh và lăn tròn như thể bị bật bằng một cái lò xo thì chúng cũng không thể đứng lên được và mắt chúng vẫn nhắm nghiền. Lông chúng đã khô hẳn; nhưng khi anh lấy chiếc lồng ra khỏi lửa thì trông chúng cũng không có vẻ gì là sẽ trở về với sự sống. Cô hầu gái đến hiệu bán chim chiền chiện và được bảo rằng những con chim ốm cần được uống trà chát và ủ trong vải. Quấn chúng trong một tấm vải bông thấm nước, anh giữ chúng đứng trong tay và ấn mỏ chúng vào trà. Chúng uống. Khi anh cho ăn, chúng vươn cổ ra mổ thức ăn. “Chúng đang hồi phục”. Thật là một niềm hạnh phúc trong trẻo. Anh thấy rằng mình đã mất tới bốn tiếng đồng hồ để cứu lũ chim. Nhưng chúng đều bị ngã mỗi lần cố đậu lên cái sào ngang trong lồng. Dường như những ngón chân của chúng không duỗi ra được. Quắp chặt khít, chúng thật khổ sở và cứng đơ ra, như thể chúng sắp gãy giống những cành cây khô nhỏ xíu. - Thưa ông, ông có nghĩ rằng ông đã đốt cháy chúng không? - cô hầu gái nói. Chân chúng khô và hơi nâu. Quả thực là anh đã thiêu cháy chúng - nhưng sự thực chỉ khiến anh thêm khó chịu. - Làm thế nào mà tôi có thể thiêu cháy chúng khi mà tôi giữ chúng trong tay và quấn trong khăn tắm? Đi hỏi ông chủ hiệu xem làm thế nào nếu chúng không khá hơn vào ngày mai. Anh khóa cửa phòng làm việc của mình và sưởi ấm chân chúng trong miệng anh. Cái cảm giác chạm vào lưỡi hình như làm anh chảy nước mắt. Chẳng mấy chốc mồ hôi ở tay anh đã làm ấm lông chúng. Đắm trong hơi ấm của anh, chân chúng đã mềm mại hơn. Anh cẩn thận duỗi thẳng một ngón chân của chúng ra, trông cứ như là nó sắp gẫy và uốn cong quanh ngón tay út của anh. Sau đó anh lại đặt cả bàn chân vào miệng. Anh tháo cây sào để chim đậu ra và cho thức ăn vào một cái đĩa nhỏ đặt trong sàn lồng; nhưng lũ chim dường như vẫn khó có thể đứng lên và ăn được. - Người bán chim nói rằng có thể ông đã đốt cháy chúng, - cô hầu gái từ cửa hàng trở về, nói. - ông ta nói rằng ông nên làm ấm chân chúng bằng cách nhúng vào nước trà. Nhưng ông bảo lũ chim thường hay mổ vào chân cho tới khi chúng được chữa lành. Thật đúng vậy. Những con chim đang mổ và kéo chân của chúng bằng sức mạnh của loài gõ kiến; như thể muốn nói: “Có gì không ổn chân? Dậy đi, chân ơi”. Và chúng cố hết sức để đứng lên. Anh muốn khích lệ chúng, đó là sự thông minh trong cuộc sống của những loài vật nhỏ bé. Chúng dường như đã tim thấy sự kỳ lạ ghê gớm xảy ra đối với một bộ phận trên cơ thể chúng. Anh nhúng chân chúng vào trà nhưng dường như miệng anh còn có tác dụng hơn. Những con chim hãy còn hoang dại, và khi anh giữ một con trong tay, lông ngực nó phập phồng dữ dội; nhưng trong vòng một, hai ngày sau tai nạn, chúng đã hoàn toàn quen với anh, và quả thực là, mỗi khi anh giữ chúng cho ăn, chúng kêu chiêm chiếp đầy hạnh phúc. Sự thay đổi đó làm anh yêu mến chúng hơn. Nhưng sự chăm sóc của anh dường như đạt được rất ít hiệu quả và anh bắt đầu xao nhãng chúng; rồi vào sáng nó thứ sáu, chân chúng đã quắp chặt lấy phân, hai con chim tước nằm chết bên nhau. Có một điều gì đó đặc biệt mỏng manh và phù du về cái chết của một con chim nhỏ. Hầu hết những cái chết thường xuất hiện vào buổisáng, hoàn toàn không mong đợi. Con chim đầu tiên chết trong nhà anh là một con hồng tước. Ban đêm, một con chuột đã cắn rách đuôi của cặp hồng tước, cái lồng tung tóe đầy máu. Con chim trống chết vào ngày hôm sau, nhưng con chim mái với đoạn đuôi đỏ như đuôi khỉ đầu chó vẫn tiếp tục sống. Những con đực khi đến kết bạn với nó đều lần lượt chết. Con cái ấy cuối cùng chỉ chết vì già. “Lũ chim hồng tước dường như không thoải mái khi ở đây. Tôi không muốn giữ chúng tí nào nữa”. Anh không bao giờ thích hơn sở thích của một nữ sinh về những con chim giống như chim hồng tước. Anh ưa cái tính khắc khổ của những con chim ăn bột nhồi theo kiểu Nhật hơn là những con chim ăn thức ăn phương Tây. Trong số chim hót, anh không thích loài bạch yến, chim chích bông, chiền chiện và những con thuộc loại đó, những con chim với giọng hót chói và phô trương. Dù sao đi nữa thì anh vẫn giữ cặp chim hồng tước, nhưng chỉ bởi vì tay buôn chim mang chúng đến cho anh. Khi một con bị chết, anh sẽ có một con khác để thay thế. Với chó cũng vậy, anh không thích giữ con chó giống mà anh đã từng nuôi, đó là một con chó Coli, con nó đã chết. Người đàn ông bị cuốn hút bởi một phụ nữ giống mẹ anh ta, yêu một người giống như người yêu đầu tiên của anh ta và muốn cưới một người giống như người vợ đã chết của mình. Phải chăng điều đó không giống với loài chim và thú? Anh sống với chúng bởi vì anh muốn gặm nhấm trong cô đơn một kiểu độc lập kiêu ngạo; và anh không nuối chim hồng tước nữa. Con chim kế tiếp bị chết là một con chìa vôi vàng. Màu vàng xanh trải dài từ bụng đến đuôi, màu vàng ở bụng và ngực, và thêm vào đó những đường kẻ rõ ràng mềm mại gợi anh nhớ đến những khóm tre thanh nhã. Khi đã được thuần hóa hoàn toàn, nó sẽ vui vẻ khi được cho ăn từ tay anh, thậm chí cả khi nó không đói, suốt thời gian đó nó quạt cánh một cách vui sướng và hót theo kiểu dễ thương nhất, và bởi vì nó sẽ mổ một cách tinh nghịch vào những nốt ruồi trên mặt anh, nên anh để cho nó ra khỏi lồng. Kết quả là nó chết vì nuốt miếng bột quá to hay một cái gì đó đại loại như vậy. Anh nghĩ anh sẽ thích một con khác nhưng lại từ bỏ ý nghĩ đó và cho một con chim cổ đỏ Ryukyu, con chim mới của anh, vào cái buồng trống đó. Anh thương tiếc cặp chim tước mào vàng mãi, có lẽ vì tính lơ đễnh mà anh phải chịu trách nhiệm cả về sự phản tác dụng của việc tắm và làm tổn thương chân chúng. Ngay lập tức tay lái buôn mang tới cho anh một cặp chim khác. Mặc dù chúng nhỏ nhưng lần này anh không rời bồn tắm một phút;song sự việc như lần trước lại xẩy ra. Mắt nhắm nghiền, chúng run bần bật khi anh nhấc cái lồng tắm ra khỏi nước; nhưng bằng cách nào đó chúng đứng lên được, chúng khá hơn nhiều so với hoàn cảnh của hai con chim trước. Anh sẽ cẩn thận để không làm cháy chân chúng. - Tôi lại làm thế rồi. Đốt than lên đi. - Anh nói nhẹ nhàng, hơi bối rối. - Cách ấy sẽ làm chúng chết, đúng không ông? Lời nói đó như thể đã làm anh giật mình tỉnh giấc. - Nhưng cô nhớ cách làm lần trước đây: Tôi có thể cứu chúng mà không gặp chút rắc rối nào cả. - Ông có thể cứu chúng, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Lần trước tôi nghĩ như thế, với đôi chân theo kiểu ấy. Thà để chúng chết đói còn tốt hơn. - Nhưng tôi có thể cứu chúng nếu tôi muốn. - Tốt hơn là nên để cho chúng chết. - Hả? Anh đột nhiên cảm thấy sức lực tiêu tan, như thể sắp ngất đến nơi. Anh đi lên gác, vào phòng làm việc của mình, để cái lồng ở cửa sổ chỗ có ánh sáng mặt trời, lơ đãng nhìn hai con chim tước chết. Anh cầu mong rằng ánh mặt trời sẽ cứu được chúng. Anh buồn kỳ lạ. Nó giống như sự bất hạnh của chính anh đang trần trụi trước mắt anh. Anh không thể cứu chúng như anh đã làm với những con chim kia. Cuối cùng, khi chúng chết, anh lấy những cái xác ướt sũng ra khỏi lồng. Anh giữ chúng trong tay một lúc, rồi đặt chúng trở lại lồng và đẩy vào trong lồng. Anh đi xuống tầng dưới. - Chúng đã chết, - anh nói hờ hững với cô hầu gái. Nhỏ bé và yếu ớt, đôi chim tước mào vàng nhanh chóng chết. Nhưng những con chim nhỏ khác, như chim sẻ ngô, chim hồng tước trong nhà anh đều sống khỏe mạnh. Vậy là anh đã giết hai cặp chim trong bồn tắm - anh nghĩ đó là định mệnh, như con hồng tước chẳng hạn, đã sống khó khăn trong ngôi nhà nơi một con hồng tước đã chết. “Đó là chuyện giữa tôi và loài chim tước”, anh cười. Nằm dài trong phòng ăn, anh để cho lũ chó con giật tóc mình. Lát sau, chọn một con cú có sừng giữa mười sáu, mười bảy chiếc lồng, anh xách nó lên phòng làm việc của mình. Khi nhìn thấy anh, con cú mở to mắt giận dữ. Lắc qua lắc lại cái đầu lông lá, nó lập bập mỏ và rít gió. Nó sẽ không ăn gì khi anh đang nhìn nó. Khi anh giơ một mẩu thịt ra, nó sẽ mổ đầy tức giận, rồi ngậm lúc lắc ở mỏ. Anh tiêu phí cả đêm với nó trong một trận chiến của ý chí. Nó hẳn không thèm nhìn vào thức ăn khi anh còn ở đó. Nó sẽ đứng bất động. Nhưng nó bị đói khi bình minh đến trên bầu trời. Anh hẳn sẽ nghe nó di chuyển nhẹ nhàng dọc theo cây sào ngang về hướng thức ăn. Anh nhìn quanh, và cái đầu nó sẽ chộp lấy, mỏ sừng đen, cặp mắt hẹp, vẻ ngoài như thế khiến người ta tự hỏi không biết có thể có một kẻ xấu xa và láu cá đến thế trong thế giới này không; và, rít gió một cách nham hiểm, nó giả bộ như không có chuyện gì xảy ra. Anh sẽ quay đi. Anh lại nghe thấy tiếng chân nó. Mắt họ sẽ gặp nhau và con cú sẽ lại ngoảnh đi. Chẳng mấy chốc tiếng chim bách thanh vang lên rộn rã hạnh phúc của buổi sáng. Không chút bực bội con cú, anh có được nguồn an ủi lớn nhất từ nó. “Tôi đang cố tìm một cô hầu gái như thế”. “Rất khiêm tốn với anh”. Cau mày, anh quay đi. “Kiki kiki”, anh gọi con chim bách thanh bên cạnh. “Kikikikikikikiki”, con chim bách thanh đáp lại, giọng nó lanh lảnh như thể xóa bỏ mọi thứ. Dù vậy, giống như con cú, với những thói quen xấu, nó lại thích ăn từ tay anh, và nó ăn từ tay anh giống như một cô gái nhỏ được nuông chiều. Nó sẽ hót vọng ra khi anh ho hoặc khi nó nghe thấy tiếng bước chân anh về nhà. Khi anh để cho nó ra khỏi lồng, nó sẽ bay đến đậu trên vai, trên đầu gối và đập đập cánh đầy hạnh phúc. Anh giữ nó ở ngay đầu giường như một vật thay thế cho chiếc đồng hồ báo thức. Buổi sáng nó sẽ hót mua vui khi anh trở mình, di chuyển cánh tay hay sắp xếp lại gối. Thậm chí nó cũng sẽ lên tiếng khi anh không nói. Và khi nó ồn ã đánh thức anh dậy, giọng của nó sáng chói như một tia chớp xuyên qua buổi sáng của cuộc đời. Khi lũ chim khác đáp lại vài lần gọi, anh đã hoàn toàn tỉnh táo, nó sẽ lặng lẽ hót bắt chước tất cả các con chim khác. Con chim bách thanh là con chim đầu tiên khiến anh cảm thấy hạnh phúc trong một ngày mới, và thường thường những tiếng hót khác cũng hòa chung vào đó. Yên lặng trong chiếc áo ngủ, anh sẽ đặt thức ăn lên ngón tay và con bách thanh đói bụng sẽ mổ điên cuồng. Anh thấy sự điên cuồng đó như dấu hiệu của lòng thương yêu. Anh ít khi ngủ xa nhà. Nếu anh đi một đêm như vậy anh sẽ mơ về lũ chim và thú của mình, rồi tỉnh giấc. Bởi vì những thói quen của anh khá ổn định, nên khi đi ra ngoài mua sắm một mình hoặc đi thăm một người bạn, anh sẽ trở nên buồn chán và quay về. Nếu anh không có một người phụ nữ khác để bầu bạn thì anh sẽ đưa cô hầu đi cùng. Giờ đây, trên đường đi xem Chikako nhảy, anh khó mà quay lại. Anh đã chuốc lấy rắc rối vì mang theo cô gái và một bó hoa. Buổi biểu diễn tối hôm đó được đỡ đầu bởi một tờ báo. Đấy là cuộc thi giữa mười bốn, mười lăm vũ nữ. Anh đã không xem cô nhảy từ hai năm nay. Cô nhảy khêu gợi đến mức anh phải quay mặt đi. Tất cả sự cáu kỉnh bám dai dẳng ấy là tại sự khêu gợi thô tục. Hình hài vỡ tan trong thân thể tiều tụy của cô. Anh tiếp nhận như lời bào chữa của mình, mặc dù theo quan điểm của người lái xe, thì gặp đám ma là vận rủi và cũng là vận rủi khi có những con chim chết trong nhà, rồi lại còn gửi hoa cho cô gái ở hậu trường. Chikako gửi lại một bức thư nhắn rằng cô muốn nói chuyện với anh. Vì đã xem cô nhảy nên anh không hề thích cái viễn cảnh có một cuộc trò chuyện dài với cô. Anh tranh thủ lúc tạm nghỉ để đi vào hậu trường. Anh dừng lại bất thình lình, và lẻn vào sau cánh cửa. Chikako đang được một tay thanh niên hóa trang. Trên gương mặt yên lặng, trắng bệch, hoàn toàn tập trung vào người đàn ông, đôi mắt nhắm nghiền, cái cằm bạnh khẽ nâng lên, môi, lông mày và lông mi vẫn chưa được vẽ. Trông như gương mặt của con búp bê không sinh khí, gương mặt chết. Gần mười năm trước anh đã nghĩ đến chuyện tự tử với Chikako. Họ chẳng có lý do gì đặc biệt. Anh mắc phải thói quen nói là anh muốn chết. Ý nghĩ đó như một thứ bọt váng trong cuộc đời ẩn sĩ khi anh sống với những con vật của anh; và anh quyết định rằng Chikako, kẻ bỏ quên chính bản thân mình cho những người khác cứ như thể yêu cầu một ai đó hãy mang hy vọng của cô đi, kẻ chắc chắn không thiết sống chút nào sẽ là người bạn đồng hành tốt. Những biểu hiện trên mặt Chikako là những biểu hiện bình thường, cứ như thể cô không biết ý nghĩa của việc mình sắp làm, và cứ gật đầu một cách ngớ ngẩn. Cô nhận lời kèm thêm một điều kiện. - Người ta nói anh không muốn sống nữa. Buộc chặt chân em lại. Cột chân cô bằng một sợi dây mảnh, anh lại một lần nữa ngạc nhiên vì vẻ đẹp của chúng. Anh nghĩ: “Người ta nói rằng tôi chết với một người đàn bà đẹp”. Cô nằm quay lưng lại anh, mắt khép lại điềm tĩnh, đầu ngửa lên. Rồi cô chắp tay lại cầu nguyện. Anh bịsốc mạnh như bịsét đánh, như bị trò đùa của hư vô giáng phải. - Chúng ta sẽ không chết. Tất nhiên anh không có một lý do nhất định để giết và chết. Anh không biết Chikako có nghiêm chỉnh hay không. Gương mặt cô chẳng biểu lộ điều gì cả. Hôm ấy là một buổi chiều giữa hạ. Bị đánh thức bởi sự ngạc nhiên, anh không nói mà cũng chẳng nghĩ đến chuyện tự tử nữa. Sự thấu hiểu vang lên từ sâu thẳm trái tim anh rằng, dù bất cứ chuyện gì xảy ra anh cũng phải giữ gìn người đàn bà này. Gương mặt Chikako tập trung vào người thanh niên khiến anh nghĩ đến khuôn mặt cô khi cô nằm hai tay đan vào nhau. Những ý nghĩ đến với anh kể từ khi anh lên xe taxi là một gương mặt như vậy Bất cứ khi nào nghĩ đến Chikako, thậm chí cả ban đêm, là cô đang chìm trong ánh sáng mờ giữa mùa hạ. “Nhưng tại sao mình lại lẻn vào sau cửa nhỉ?”, anh lẩm bẩm một mình khi bắt đầu quay xuống đại sảnh. Một người đàn ông thân thiện chào anh. Anh ta có thể là ai được nhỉ? Anh ta dường như rất kích động, anh ta là bất cứ ai. - Cô ấy giỏi đấy. Anh thấy cô ấy khá đến thế nào khi cô nổi bật lên bên cạnh những người khác. Anh đã nhớ ra. Đó là tay nhạc công mà Chikako đã cưới. - Và mọi việc thế nào? - Tôi đang nghĩ là nên đến gặp và chào cô ấy. Dù rằng trong thực tế chúng tôi đã li dị từ năm ngoái. Nhưng cô nhảy cừ quá. Cô ấy giỏi thật. Trong mơ hồ, anh thầm nhủ mình phải nghĩ đến điều gì đó ngọt ngào. Một ý nghĩ nào đó đã len vào đầu anh. Anh với những trang viết về một cô gái đã chết ở tuổi mười lăm. Những tháng ngày dễ chịu nhất của anh là viết về những chàng trai và các cô gái. Hình như mẹ cô đã trang điểm khuôn mặt đã chết của cô. Sau đó, trong nhật ký, vào ngày chết của cô gái, bà viết: “Trang điểm lần đầu tiên: giống một cô dâu”. (1933) ĐÀO THỊ THU HẰNG dịch từ bản tiếng Anh House of the Sleeping beauties and other stories Y.Kawabata, translated by Edward Seidensticker, Kodansha International, 1980. Chú thích: [1] Môn sinh Đạo Khổng, 1680 – 1747. TRĂNG SOI ĐÁY NƯỚC Một hôm, Kyoko bỗng nảy ra ý nghĩ: sao mình không dùng một chiếc gương tay nhỏ để giúp người chồng đau yếu đang nằm liệt giường trên gác nhìn ảnh phản chiếu của mảnh vườn rau bé bỏng trước nhà? Việc chắc hẳn sẽ mở ra trước mắt chồng cả một quãng đời mới lạ. Nhưng rồi bao chuyện khác nữa cũng đã xảy đến với chiếc gương tay bé nhỏ kia. Chiếc gương ấy là gương nào? Hóa ra đó chính là cái gương tay nhỏ vẫn nằm trong ngăn kéo chiếc bàn trang điểm mà nàng mang theo khi về nhà chồng. Một món hồi môn của nàng. Cả chiếc bàn trang điểm ấy lẫn cái vành gương đều được làm bằng gỗ dâu. Hồi mới cưới nhau, Kyoko thường dùng chiếc gương con ấy mỗi lần nàng muốn ngắm cái lọn tóc sau gáy xem đã vấn gọn ghẽ chưa. Ống tay áo kimono vẫn hay trượt lên cao, để lộ cánh tay đến tận khuỷu, và Kyoko còn nhớ rõ nàng đã đỏ mặt ngượng nghịu ra sao mỗi lần nàng soi gương để sửa lại mái tóc trên đầu. Chiếc gương mà Kyoko trao cho chồng để anh được ngắm mảnh vườn nhà chính là chiếc gương tay nhỏ này... Hồi trước, mỗi lần Kyoko soi gương trang điểm sau lúc tắm, chồng nàng thường bảo: “Em vụng quá, nào đưa gương đây - anh giữ giúp cho”. Anh giật lấy chiếc gương trên tay, rồi rọi giúp từ nhiều hướng khác nhau, để nàng nhìn rõ hơn lọn tóc ở sau gáy phản chiếu vào chiếc gương to gắn trên bàn trang điểm kia; còn chính anh thì ngây người sung sướng đứng ở sau lưng nàng. Thực ra không phải Kyoko vụng về gì. Chẳng qua nàng chỉ hơi lóng ngóng, vì thấy chồng cứ đứng ở sau lưng và chăm chú nhìn mình. Từ đó đến nay, thời gian tuy chưa xa cách là bao, cái khung bằng gỗ dâu chưa kịp long ra, nhưng chiến tranh, rồi tản cư, và căn bệnh hiểm nghèo của chồng đã dồn dập ập đến, nên khi Kyoko lần đầu tiên nghĩ đến việc giúp chồng ngắm mảnh vườn rau nhỏ, thì mặt gương đã mờ, còn chung quanh vành gương thì đã ố đen vì bụi bặm và loang lổ đầy bụi phấn mịn. Chuyện đó chẳng làm nàng lo lắng mấy, thậm chí nàng cũng chẳng để ý đến nữa. Nhưng chồng nàng, kể từ ngày cầm được chiếc gương trong tay thì anh không lúc nào rời nó ra, mà cứ giữ khư khư bên gối, và chắc vì bất đắc dĩ phải lâm vào cảnh ở dưng hoặc vì cái thói dễ cáu bẳn vốn có của người đau ốm, nên anh đã lau sạch bụi bặm bám trên khung và đánh cho mặt gương bóng lộn lên. Nhưng ít lâu sau, Kyoko thường thấy chồng hay hà hơi lên gương và cẩn thận lau chùi. Nàng thường bắt gặp mình có ý nghĩ: nếu anh ấy hay hà hơi thế, thì những thớ gỗ trên đó chắc phải dính đầy những vi trùng lao phổi vô hình... Lần nào chải tóc cho chồng, Kyoko cũng bôi lên một ít dầu hải đường rất thơm. Nhưng khi Kyoko chưa kịp chải xong, anh đã miết tay lên tóc, rồi bôi ngay lên chiếc khung gỗ, nên chiếc khung mỗi ngày một bóng lên hơn như thể đánh véc ni, trong khi đó thì gỗ chiếc bàn phấn trang điểm nằm bên xó cửa vẫn xỉn màu như cũ. Khi Kyoko đi bước nữa, nàng cũng đã mang chiếc bàn trang điểm theo, như một món hồi môn. - Nhưng chiếc gương nhỏ cầm tay thì nàng đã cho hỏa thiêu cùng với thi thể của người chồng cũ. Nàng không kể lại chuyện ấy với người chồng sau này. Nên bây giờ trên bàn trang điểm nàng lại có một chiếc gương tay khác, lồng trong chiếc khung gỗ bóng, chạm trổ theo lối trang trí Kamakura ([2]). Thi hài người chồng quá cố, lúc khâm liệm, được đặt vào áo quan với hai bàn tay buộc chặt vào nhau theo phong tục xưa nay, nằm bắt chéo ở trước ngực. Bởi thế không thể nghĩ đến chuyện trao chiếc gương con ấy vào tay chồng: thế là Kyoko đành đặt nhẹ nó lên ngực, cạnh tim chồng. Lát sau, nàng chuyển nó xuống thấp hơn, miệng thì thầm khe khẽ: - Ngực anh đã đau đớn mãi, đặt chiếc gương lên chắc càng nặng thêm ra. Lúc đầu, sở dĩ Kyoko đặt nó lên ngực, bên cạnh tim chồng, vì chiếc gương đã giữ vai trò quan trọng trong cuộc chung sống giữa hai người. Nàng không muốn họ hàng bên chồng nhận thấy chiếc gương, nên đặt một bó hoa cúc trắng đè lên trên. Ngọn lửa hỏa thiêu đã làm thủy tinh chảy ra, đông cứng thành một khúc ống sần sùi, chỗ vàng, chỗ sạm đen, vì dính phải than tro trong lúc thiêu xác. Một người bà con bên chồng ngạc nhiên cất tiếng hỏi: - Gì mà trông như thủy tinh thế này! Gì thế nhỉ? Thực ra, bên trên cái gương tay ấy, Kyoko còn để thêm một chiếc nữa - cái gương bé tí, gắn trên nắp chiếc xắc nhỏ xách tay. Đó là chiếc gương soi được cả hai mặt, hình tanzaku ([3]). Kyoko ước ao sẽ được dùng nó trong chuyến đi du lịch tân hôn, nhưng chiến tranh ập đến, và hai vợ chồng đành phải gác lại mọi dự định. Hồi người chồng trước còn sống, nàng chưa hề đem chiếc gương con ra dùng. Đến khi tái giá, Kyoko mới được hưởng chuyến đi du lịch tân hôn. Cái xắc của nàng đã sờn cả đi, thậm chí lắm chỗ bắt đầu lên mốc; vì thế, nàng phải sắm một cái mới. Cái xắc , dĩ nhiên, cũng có gắn một chiếc gương con trang điểm ở bên trong. Trong ngày đầu tiên của chuyến đi, người chồng mới vừa ôm Kyoko vào lòng, vừa thủ thỉ với nàng: - Trông em vẫn hệt như một thiếu nữ. Rõ thật tội nghiệp thân em! Giọng anh không pha vẻ châm chọc, thậm chí còn phảng phất một niềm sung sướng bất ngờ. Có lẽ trong thâm tâm, anh cảm thấy sung sướng thực tình, bởi lẽ Kyoko trông như thể chưa bao giờ lấy chồng. Nhưng câu nói ấy lại khiến nàng buồn vô hạn. Nàng khóc nấc lên, co rúm người vào. Nhưng người chồng mới thì coi cử chỉ đó chỉ là vẻ e lệ trinh nữ của nàng. Nàng không hiểu mình bật khóc là vì tủi thân hay vì thương người chồng cũ ngày nào. Nàng không thể tách bạch hai thứ. Nhưng ngay lúc đó nàng bỗng cảm thấy thế là quá bất công với người chồng mới và phải tỏ ra âu yếm với anh hơn, nên nàng đã nói, vẻ bông đùa: - Thật ư? Anh thấy thế thật sao? - Nhưng chưa dứt lời Kyoko đã hiểu ngay là mình ăn nói vụng quá, nên nàng ngượng chín mặt. Anh chồng mới, trái lại, lại rạng rỡ vì vui thích. - Chắc chỉ vì chưa có con, - anh nói tiếp, và câu nói đó lại khiến lòng Kyoko tan nát. Hễ gặp phải một sức mạnh đàn ông, khác với sức mạnh của người chồng cũ, Kyoko bao giờ cũng thấy mình bị hạ nhục tuồng như họ chỉ coi nàng là một món đồ chơi để giải khuây trong chốc lát cho vui. - Nhưng em đã bận bịu khác nào như nuôi con mọn, - Kyoko cãi lại rồi im bặt. Ngay cả sau khi chôn cất chồng cũ, nàng vẫn coi người chồng ốm nặng như là một đứa bé mà nàng phải cưu mang trong bụng. “Sao mình lại tránh gần gũi, vì lo cho sức khỏe anh ấy, nếu như mình thừa biết sớm muộn gì rồi anh ấy cũng sẽ qua đời?” - Kyoko nghĩ bụng. - Mori ([4]) thì anh chỉ được nhìn thấy loáng thoáng qua cửa toa, - ôm chặt Kyoko trong lòng, người chồng mới nhắc đến quê nàng. - Đó chắc hẳn là nột thành phố đáng yêu lắm và có rừng cây bao bọc chung quanh. Chẳng phải vô cớ mà người ta lại gọi nó bằng cái tên ấy. Em sống ở đó đến năm lên mấy? - Đến năm tốt nghiệp trung học. Còn nghĩa vụ lao động thời chiến thì em hoàn thành tại nhà máy quân khí Sanzyo. - Nghĩa là em sinh trưởng ở gần Sanzyo? Ồ, thảo nào em đẹp như tiên. Chẳng phải vô cớ mà thiên hạ vẫn thường bảo: muốn kén gái đẹp thì tìm đến Sanzyo, thuộc tỉnh Etigo. - Xinh đẹp gì cái thứ em, - Kyoko đưa tay lên che ngực. - Tay em đẹp, chân em đẹp. Thế thì những thứ khác của em làm thế nào xấu xí được? - Không, chẳng phải vậy đâu! Kyoko cảm thấy cánh tay làm nàng vướng, nên nàng bỏ tay xuống. - Dù em có con chăng nữa, anh cũng nhất quyết lấy em, - anh thì thầm vào tai nàng, - và nhận đứa bé ấy làm con, yêu thương nó như con đẻ. Nếu được là con gái, thì cố nhiên tốt nhất. Chắc vì anh ấy đã có một đứa con trai, Kyoko nghĩ bụng. Nhưng thậm chí dù đó là những lời yêu đương chăng nữa nàng vẫn cảm thấy bây giờ chưa phải là lúc nên nói ra. Rất có thể anh đã tổ chức chuyến đi du lịch tân hôn với những người hôm nay là để cố trì hoãn cuộc gặp giữa nàng và đứa con trai. Người chồng mới hiện đang dùng một cái xắc du lịch hảo hạng bằng da thật. Cái xắc của Kyoko rõ ràng là thua kém đủ đường. Nó vừa to, lại vừa bền, tuy rằng chẳng còn mới mẻ gì. Chồng nàng thường phải đi đây đi đó luôn, nhưng rõ ràng là anh hết sức giữ gìn cái xắc kia, nên lớp da bọc ngoài mới lên nước, trông thích mắt đến thế, mà chỉ những đồ vật hảo hạng dùng lâu mới có thể có được. Kyoko vụt nhớ tới cái xắc cũ của nàng - mốc meo lỗ chỗ, mặc dù nàng chưa dùng đến bao giờ. Chỉ có chiếc gương con gắn trong ấy là nàng đã gỡ ra, trao cho chồng và gửi nó sang thế giới bên kia cùng với người chồng xấu số. Chiếc gương ấy chính là chiếc nàng đã đặt vào quan tài, bên trên chiếc gương tay... Cả hai đã chảy ra, quyện chặt vào nhau trong ngọn lửa hỏa thiêu, không ai đoán được trong cái xù xì ấy có đến những hai chiếc gương nhỏ. Cũng chẳng ai nảy ra ý nghĩ: cái khối thủy tinh vón cục dị hợm ấy trước vốn là gương soi. Về phần mình, Kyoko không hề hé răng với ai về chuyện này. Nàng có cảm giác như thể nhiều thế giới khác nhau từng in bóng trong hai chiếc gương con ấy cũng đã bị ngọn lửa phũ phàng thiêu cháy mất đi. Nàng không thấy có gì khác nhau giữa sự mất mát ấy với việc thi thể chồng nàng đã biến thành một dúm tro. Hồi đầu khi muốn giúp chồng mình thấy mảnh vườn, nàng chỉ trao cho anh có chiếc gương nhỏ cầm tay, và chồng nàng không rời nó ra nữa; nhưng rồi ít lâu sau, chiếc gương tay ấy nếu cầm lâu đã trở nên quá nặng đối với đôi tay yếu ớt của người đang ốm dài ngày, nên đã bao lần Kyoko cứ phải xoa bóp mãi hai cánh tay và đôi vai cho chồng. Bởi thế, nàng đã quyết định đưa thêm cho anh một chiếc gương nữa - bé hơn và nhẹ hơn. Hồi còn sống, nhờ hai cái gương ấy, chồng nàng có thể nhìn thấy không chỉ mảnh vườn rau bé bỏng trước nhà. Trong gương, anh còn được ngắm cả bầu trời cùng những áng mây, cả cảnh tuyết rơi, và cả những rặng núi xa xa cùng dải rừng thưa gần đó. Được nhìn thấy cả vầng trăng, những đóa hoa hồng và những đàn chim di trú qua ngang trời. Trong gương còn phản chiếu cả khách bộ hành đi lại trên đường cùng bầy trẻ nô đùa trước sân. Chính Kyoko cũng đâm ra sửng sốt với cái thế giới bao la và trù phú mà chiếc gương con ấy đã mở ra. Gương soi - đó chẳng qua chỉ là thứ đồ vật giúp người ta chăm sóc nhan sắc; hơn nữa, đấy chẳng phải là gương lớn mà chỉ là một chiếc gương tay nhỏ, chuyên dùng để phản chiếu lên tấm gương cái gáy của mình . . . Nhưng với một người đang ốm thì chiếc gương kia lại mở ra trước mắt anh ta một cách mới mẻ cả thiên nhiên lẫn con người! Nhiều hôm, Kyoko ngồi xuống bên đầu giường, cùng chồng nhìn vào gương và ngẫm nghĩ về những hình ảnh họ cùng trông thấy trong gương. Dần dần nàng không phân biệt được thế giới phản chiếu trong gương. Đối với nàng, cả hai đều trở thành những thế giới tồn tại độc lập, hơn nữa, cái thế giới mới, thế giới nhìn thấy trong gương, thậm chí nàng còn cảm thấy thực hơn là cái thế giới thực. - Trong gương, bầu trời ánh lên sắc bạc - Nàng nói, rồi ngước nhìn qua cửa sổ và thêm: - Còn bầu trời ngoài cửa sổ thì xám ngoét như chì. Bầu trời trong gương không gợi lên cảm giác nặng nề. Bầu trời ấy quả thực rất sáng sủa. - Hay là vì anh thường chịu khó đánh bóng mặt gương? Chồng nàng khẽ quay đầu lại để ngước nhìn bầu trời chắc gì đã như nhau trong mắt người và mắt muông thú, như chó hoặc chim sẻ, chẳng hạn? Cho nên, đã ai dám nói chắc màu sắc thật của bầu trời là màu gì? - Thế sắc trời trong gương là màu sắc mà đôi mắt của gương nhìn thấy hay sao?... - Kyoko muốn nói: “Là màu sắc của hai người yêu nhau thắm thiết nhìn thấy hay sao”. Sắc cây in bóng trong gương cũng xanh tươi hơn, so với màu thực có. - Đây là dấu ngón tay cái em đấy. Ngón cái của bàn tay mặt - Chồng nàng chỉ vào mép gương. Tim Kyoko chẳng hiểu sao bỗng thắt lại. Nàng hà hơi vào chỗ ấy và vội vã chùi đi cái dấu tay. - Đừng chùi. Em không biết, chứ hôm đầu tiên em giúp anh nhìn thấy mảnh vườn, trên mép gương cũng có một dấu tay em. - Thế mà em chẳng để ý. - Em thì dĩ nhiên em không để ý rồi, nhưng bây giờ thậm chí anh còn biết đích xác dấu tay của ngón cái với ngón trỏ của em khác nhau ra sao. Có lẽ chỉ những ai ốm liệt giường dài ngày mới có thể ghi nhớ từng dấu tay của vợ. Chồng nàng gần như đã ốm suốt từ dạo họ mới cưới nhau. Thậm chí anh đã vắng mặt trong suốt cuộc chiến tranh. Nhà họ bị bom thiêu trụi, nên hai vợ chồng đã phải thuê tạm một căn phòng của một đôi vợ chồng mà Kyoko quen. Hồi ấy, người chồng đang còn ở trong quân ngũ. Già một tháng sống dưới mái nhà của chính mình và hai tháng ngụ trong căn phòng thuê tạm - đó là toàn bộ khoảng thời gian mà chồng nàng còn khỏe mạnh bên nàng. Khi chiến tranh sắp chấm dứt, anh mới bị gọi vào quân đội. Nhưng anh chỉ phải đào hầm đào hố đâu vài hôm trong một phi trường, rồi ngã ốm ngay và trở về nhà. Đúng hôm đó thì chiến tranh cũng chấm dứt luôn. Anh không tự đi lại được, nên Kyoko phải đưa ngay anh về nếp làng mà cha mẹ nàng đã tản cư lên. Nàng đã chuyển hầu hết đồ đạc, cả của mình lẫn của chồng, về trên ấy từ trước. Chồng nàng thuê một ngôi nhà nhỏ nằm trên một vùng đồi núi để chữa bệnh. Ngoài hai vợ chồng trong nhà còn có một gia đình tản cư, nhưng chiến tranh vừa chấm dứt, thì họ đã đưa nhau về lại dưới Tokyo. Họ để lại cho Kyoko một vườn rau nhỏ - vuông mỗi bề chừng sáu mét, đã lên luống sẵn. Sống ở đây giữa chốn thôn quê, hai vợ chồng có thể thừa sức mua đủ rau ăn của bà con dân quê quanh đây; nhưng thời buổi này mà bỏ hoang một mảnh vườn như thế thì phí phạm quá, nên Kyoko giờ đây ngày ngày vẫn cuốc xới dưới vườn và thích thú đứng ngắm những luống rau nàng trồng nảy nở tươi tốt, đơm hoa, kết trái. Nàng mê mải với mảnh vườn chẳng phải vì muốn thỉnh thoảng được thoát khỏi cái giường mà người chồng ốm đang nằm mà chỉ vì khâu vá và đan lát dễ khiến nàng buồn. Hơn nữa, việc chăm sóc mảnh vườn còn gieo vào lòng nàng những niềm hi vọng trong trẻo khả năng chồng nàng sẽ bình phục. Đó cũng là một cách kín đáo đế lộ tình yêu của nàng đối với người chồng phận hẩm. Ngoài ra, nàng đã phải quanh quẩn bên chồng quá nhiều thì giờ rồi - những lúc ngồi đọc sách cho anh nghe. Thêm một lẽ nữa; chắc hẳn vì quá mệt mỏi với việc chăm sóc người ốm, nên Kyoko bắt đầu có cảm giác là mọi thứ tuồng như đều đang ra đi mà chẳng bao giờ trở lại bởi vì, nàng hi vọng rằng việc chăm sóc mảnh vườn sẽ trả lại cho lòng nàng sự thư thái. Họ đưa nhau về đây hồi giữa tháng chín. Khi những người dân thủ đô trốn lên đây tránh nắng rồi bỏ vùng này để về lại dưới đồng bằng thì những trận mưa dầm lạnh lẽo thường có vào buổi đầu thu bắt đầu dồn dập kéo về. Nhưng một hôm, trước lúc hoàng hôn, chim chóc bỗng vui vẻ hót vang và bầu trời cao không gợn một bóng mây, Kyoko bèn xuống thăm mảnh vườn rực sáng ánh nắng chiều và ngắm những luống rau mướt xanh như ngọc. Rồi nàng ngước mắt lên, nhìn theo những đám mây hồng đang thong thả trôi xuôi trên những đỉnh núi xa xa. Mải ngắm những bóng mây trôi, nàng không nghe thấy tiếng gọi gắt gỏng của chồng từ trên lầu vọng xuống. Đến khi nghe thấy, nàng vội vàng chạy lên, thậm chí còn chưa kịp phủisạch đất cát bám trên tay. - Tôi gào đến khản cả tiếng. Thế mà cô không nghe thấy à? - Anh thứ lỗi, em đang mải nghĩ. - Vất quách cái mảnh vườn ấy đi! Kẻo không có ngày tôi đến phải tắt thở vì gọi cô. Rồi mai mốt tôi không còn biết là cô đang ở đâu và đang làm gì nữa. - Em chỉ quanh quẩn dưới vườn, chứ có đi đâu đâu. Nhưng nếu anh muốn, em sẽ không xuống dưới ấy nữa. Chồng nàng đã bình tâm lại. - Em có nghe tả tiếng chim sơn tước vừa hót không? Anh gọi nàng chẳng qua chỉ là để hỏi chuyện đó. Giữa lúc vợ chồng đang trò chuyện thì trong cánh rừng thưa cạnh nhà, chú sơn tước nọ lại cất tiếng hót lanh lảnh. Dải rừng lúc này đang cắt hình rõ nét trên nền trời chiều trong vắt. Kyoko vẫn còn nhớ như in tiếng hót của chú chim sơn tước này. - Ta sẽ sắm một cái chuông con, - để anh dễ gọi em hơn. Tạm thời em sẽ để bên đầu giường anh một món đồ gì đó. Khi nào cần đến em, anh cứ ném nó qua cửa sổ. - Em định bảo anh vứt hết cốc chén từ trên gác này xuống chứ gì? Nói dễ nghe nhỉ? Chồng nàng dẫu sao cũng không cấm nàng chăm bón mảnh vườn nhà. Mãi đến lúc mùa đông khắc nghiệt và dài lê thê của vùng rẻo cao qua đi và mùa xuân bắt đầu sang, Kyoko mới nghĩ ra cách giúp chồng nhìn thấy mảnh vườn rau bằng chiếc gương tay nhỏ. Chao ôi, nàng sung sướng biết bao khi chiếc gương con bình dị đã làm sống lại trước mắt người chồng đau yếu cả một thế giới cây cối tươi non mơn mởn trong dịp đầu xuân. Giờ đây, chồng nàng thậm chí còn nhìn thấy cả việc Kyoko lần bắt từng con sâu hại lá cho mỗi cọng rau. Nhưng dáng dấp của những con sâu ấy ra sao thì anh không nhìn rõ được, nên Kyoko thường phải mang lên tận trên gác để chỉ cho chồng xem. Về sau, anh còn được dịp ngắm vợ cuốc lật đất vườn. Trong gương, anh thấy rõ cả lũ giun, lúc em cuốc lật đất lên. - Anh đã nói thế với Kyoko khi nàng lên gác. Thường thường, khi bóng nắng đã đổ dài trên mặt đất, thình lình nàng bỗng cảm thấy có một luồng ánh sáng rực rỡ rọi thẳng vào mặt mình. Nàng ngước nhìn lên thì thấy anh đang nằm trên gác, đặt chếch mặt chiếc gương lên để phản chiếu vầng mặt trời ngả bóng, rồi rọi thẳng xuống chỗ nàng. Anh bắt nàng may một chiếc quần rộng ống bằng một mảnh vải thô còn giữ lại được từ những năm đang theo học ở đại học. Anh rất thích thú được ngắm nàng diện chiếc quần rộng ống màu xanh lơ điểm lấm tấm những nốt tròn trắng muốt ấy, để cuốc đất dưới vườn. Kyoko biết anh đang ngắm nàng trong gương, nhưng vì mải làm, nên lắm lúc nàng đã quên bẵng đi. “Mình đã thay đổi quá nhiều kể từ độ mới cưới nhau, hồi ấy, thậm chí mình còn ngượng ngập mỗi lần phô ra hai cánh tay để trần đến tận khuỷu”. - Kyoko hồi tưởng lại và tim nàng ấm áp hẳn lên. Kể từ khi nước Nhật bắt đầu nếm mùi chiến bại, nàng không còn ngó ngàng gì đến son phấn bao giờ. Tiếp đó, nàng đâm ngượng mỗi lần ngồi vào bàn trang điểm vì chồng đang ốm đau, nên mãi sau ngày đi bước nữa, nàng mới thực sự bắt đầu mó đến phấn sáp, lược gương. Nàng nhận thấy son phấn đã làm nhan sắc nàng hoàn toàn đổi khác. Nàng thực sự trở thành một giai nhân khi vừa trang điểm xong. Cho nên nàng bắt đầu tin rằng người chồng mới đã thực lòng thán phục nhan sắc nàng vào ngày đầu tiên, khi chỉ còn lại một mình hai vợ chồng. Giờ đây, Kyoko không còn e thẹn khi mỗi lần ngồi ngắm gương mặt mình trong gương sau lúc tắm gội. Nàng thấy mình xinh đẹp. Nhưng người chồng xấu số đã dạy cho nàng một cách Cảm nhận về nhan sắc được phản chiếu trong gương, vốn khác hẳn với cách cảm nhận thường có của nhiều người, và nàng vẫn gìn giữ nó cho đến tận bây giờ. Giờ đây, chẳng phải nàng ngờ vực gì vẻ đẹp mà mình nhìn thây trong gương. Nhưng dẫu sao nàng vẫn tin chắc cái được phản chiếu trong gương kia là một thế giới hoàn toàn khác. Tuy thế, khi nhìn mình, rồi sau đó ngắm kĩ bóng mình phản chiếu trong gương, dẫu sao nàng vẫn không nhận từ có một sự khác biệt nào, tương tự như sự khác biệt giữa bầu trời xám ngoét bên kia của sổ với bầu trời lấp lánh sắc bạc trong gương. Có lẽ, không thể cắt nghĩa điều đó đơn thuần bằng sự khác nhau về khoảng cách. Mà còn phải lưu ý đến một nhân tố rất hệ trọng nữa: niềm ham mê cháy bỏng và tâm trạng ngao ngán của chồng nàng vốn bị bệnh tật giữ chịt trên giường. Chắc hẳn anh đã cảm thấy nàng xinh đẹp biết dường nào khi ngắm nàng trong chiếc gương con, lúc nàng làm lụng dưới vườn? Giờ đây, Kyoko không còn cách nào để biết đích xác chuyện ấy nữa. Nhưng hồi chồng nàng còn sống, nàng vẫn chưa hiểu ra điều đó. Cả hình ảnh của chính nàng mà người chồng đau ốm từng nhìn từ trong gương, cả sắc xanh của những đóa thủy tiên, cả màu trắng mát của những bông huệ nước, cả bầy trẻ thôn quê nô đùa bên rìa ruộng, cả vầng mặt trời buổi sáng nhô lên trên những rặng núi tuyết xa xa... Hết thảy những thứ , Kyoko không những cố làm sống lại trong kí ức, mà còn nhớ nhung tha thiết đến nó, một thế giới khác hẳn, mà xưa kia vốn là của riêng nàng và người chồng xấu số của nàng. Nàng cố nén cái tình cảm ấy trong lòng, một tình cảm mà bất cứ lúc nào cũng chực bùng lên thành một nỗi khát khao mãnh liệt, vì không muốn người chồng hiện nay lo lắng thêm. Cho nên, nàng thường buộc mình phải nghĩ đến tình cảm như một cái gì rất đỗi xa xăm và chỉ chuyên dành cho một cho một thế giới khác, không phải là cái thế giới đang hiện hữu. Vào một sáng tháng năm, Kyoko bỗng được nghe trên máy thu thanh những tiếng hát của chim chóc sống trong rừng. Đó là một buổi truyền thanh trực tiếp từ một vùng rẻo cao, kế bên ngôi làng trong đó người chồng trước của nàng giã từ cuộc đời. Tiễn chồng đi làm xong, nàng liền lôi ngay trong ngăn kéo chiếc bàn trang điểm cái gương tay và bắt đầu ngắm bầu trời quang đãng trong gương. Rồi nàng ngắm cả gương mặt mình in hình trong ấy. Và thình lình nàng bỗng phát hiện ra một điều kì lạ - thì ra ai cũng chỉ có thể nhìn thấy mặt mũi của chính mình bằng cách ngắm nó trong gương; ngoài cách ấyra, không còn một cách nào nữa hết. Từ đó trở đi, ngày nào Kyoko cũng phải ngắm nghía và sờ nắn trong gương gương mặt của chính mình, để biết đích xác gương mặt in bóng trong gương kia cũng chính là gương mặt nàng nhìn từ ngày ngày, không cần đến một chiếc gương nào. Nhưng vì lẽ gì mà con người do trờisinh ra lại bị tước đoạt mất cái bản năng thiết cốt là tự nhìn thấy được gương mặt của chính mình? “Nếu có được bản năng ấy, con người chắc sẽ hoàn toàn bối rối hoặc hoàn toàn mất trí chăng?” - Nàng tự hỏi. Không, chắc hẳn ngay từ buổi sơ khai, con người đã không được trời đất ban cho cái diễm phúc được nhìn thấy gương mặt chính mình. Thế nhưng cái diễm phúc ấy có lẽ chuồn chuồn và bọ vái ([5]) lại có được. Chẳng lẽ con người cần có gương mặt chỉ để cho người khác ngắm nghía hay sao? Rõ ràng là ở đây có một cái gì đó na ná như là những nguồn khêu gợi yêu đương... Nàng gạt chiếc gương tay nhỏ ấy ra xa và bỗng bất thần nhận thấy rằng màu sắc của chiếc bàn trang điểm bằng gỗ dâu chẳng hòa hợp tí nào với những đường nét chạm trổ theo kiểu Kamakura của chiếc gương tay nhỏ. Chiếc gương ngày trước, chiếc đã bị thiêu cháy cùng với thi thể của chồng nàng, và cái bàn trang điểm này như thể hóa thành một quả phụ. Khi trao chiếc gương tay và chiếc gương con gắn trong cái xắc cho chồng, nàng đã mang đến chẳng những điều lành, mà cả điều dữ nữa. Vì ngày ngày anh cũng đã nhìn thấy trong hai chiếc gương ấy cả sắc mặt chính mình và nhận ra hết triệu chứng này đến triệu chứng khác của căn bệnh đang tiến triển hiện rõ trên khuôn mặt, và những dấu hiệu của cái chết đang đến gần. Nếu có một kiểu mưu sát bằng tâm lí nhờ sử dụng gương soi, thì cái chết của anh ấy phải chăng là do chính nàng đã gây nên? Trước đó khá lâu nàng đã nghĩ đến cái điều dữ ẩn giấu trong chiếc gương và thậm chí nàng đã toan đem cất nó đi, nhưng chồng nàng cứ khăng khăng cự tuyệt. - Em định tước đoạt của anh niềm vui được nhìn ngắm mọi thứ chung quanh, - chồng nàng bảo, - nhưng anh thì chừng nào còn sống, anh còn muốn được hưởng cái thú vui thưởng ngoạn hết thảy những gì mắt mình có quyền được nhìn thấy. Anh đã hi sinh đời mình để đem lại sự sống cho cái thế giới hiện hữu trong gương. Anh đã mê mải ngắm trong gương bóng vầng trăng in hình trong vũng nước mưa đọng lại dướisân. Và kỉ niệm về vầng trăng soi bóng dưới đáy nước - phải chăng đó chỉ là hình bóng phản chiếu trong gương? - Kyoko vẫn còn giữ mãi trong lòng cho đến tận bây giờ. Chỉ những ai khỏe mạnh mới có được một tình yêu lành mạnh, - người chồng sau của nàng thường bảo vậy, và lần nào nghe nói thế, Kyoko cũng ngượng nghịu gật đầu, nhưng ở đâu đó trong đáy lòng mình, nàng hoàn toàn không chấp nhận điều này. Lúc đầu, nàng tự trách mình: sao lại dại dột đi chối bỏ những dịp gần gũi với người chồng đau yếu? Vì dẫu có làm thế chăng nữa cũng đâu cứu sống được anh ? Nhưng những ý nghĩ dần dà đã biến thành những hoài niệm về một mối tình sầu muộn, nên về sau nàng mới nghĩ rằng: khi mà nó trở thành hoài niệm, thì lòng nàng vẫn dào dạt yêu đương như xưa, và nàng không còn tự quở trách mình. Còn về người chồng mới?... Có phải vì quá nông nổi, nên anh khó lòng thấu hiểu tình cảm yêu đương của người phụ nữ chăng?! - Tại sao một người đầy nhân đức như anh mà lại nỡ bỏ rơi người vợ cũ? - Có lần Kyoko đã ướm hỏi anh ta vậy. Anh ta nín thinh. Kyoko sở dĩ lấy anh ta chẳng qua chỉ vì nàng đã nghe theo lời khuyên ân cần của anh trai người chồng cũ. Trước ngày cưới, nàng và người anh trai đã thường xuyên gặp gỡ nhau trong suốt bốn tháng ròng. Chồng mới của nàng hơn nàng những mười lăm tuổi. Khi Kyoko bắt đầu biết mình sắp có con, nàng đã hết sức hoảng sợ. “Em sợ lắm, em sợ lắm”, - nàng vừa nhắc đi nhắc lại câu , vừa ôm ghì lấy cổ chồng. Khổ sở do những cơn buồn nôn của thời kì thai nghén hành hạ, đầu óc nàng như mụ hẳn đi. Nàng thường chạy chân trần ra sân, vơ lấy một nắm lá thông, rồi cho vào miệng nhai ngấu nghiến. Khi sắp xếp cho cậu con chồng đi học, nhiều hôm nàng đã cho vào cặp nó những hai hộp đồ ăn điểm tâm, mà chẳng hiểu sao trong cả hai hộp đều chỉ toàn cơm... Có lúc nàng bỗng nhìn chằm chằm vào cái ngăn kéo của chiếc bàn trang điểm, và nàng bất thần có cảm giác mặt bàn trở nên trong suốt, đến nỗi nàng có thể nhìn rõ được cả chiếc gương tay với cái khung chạm trổ theo lối Kamakura nằm bên trong. Có lần, đang nửa đêm nàng bỗng thức giấc, và ngồi dậy, nhìn chòng chọc hồi lâu vào khuôn mặt người chồng đang ngủ cạnh nàng. Kinh hoàng với cái kiếp phù sinh của con người, nàng cởi dải thắt lưng chiếc kimono mặc ngủ ra: có lẽ nàng định thít chặt cổ người chồng đang ngủ. Và bất thần nàng bỗng trào nước mắt. Người chồng tỉnh giấc, âu yếm dỗ dành nàng rồi buộc giúp lại dải thắt lưng. Kyoko run bắn người lên vì cảm thấy lạnh, tuy rằng đang là giữa hè và đêm, thậm chí trời vẫn còn oi bức như đang lúc giữa trưa. - Phải nghĩ đến đứa con trong bụng chứ, Kyoko, người chồng vừa lay vai vàng, vừa dỗ dành âu yếm. Thầy thuốc khuyên nên đưa ngay nàng vào bệnh viện. Kyoko từ chối, nhưng rồi cuối cùng người ta cũng đã thuyết phục được nàng. - Được, em sẽ vào, nhưng trước lúc vào, hãy để cho em về thăm lại thầy mẹ em vài hôm, - nàng bảo chồng. Người chồng đích thân đưa nàng đi. Hôm sau, nàng đã một mình lên ngay cái nơi mà nàng và người chồng cũ đã từng chung sống trước đây. Đang là đầu tháng chín - hồi vợ chồng đưa nhau lên đây, họ cũng bị trễ mất khoảng mươi hôm. Lúc ngồi lên tàu, nàng lại bị những cơn buồn nôn tai ác và những cơn nhức đầu như búa bổ làm tình làm tội. Thậm chí nàng lo sợ sẽ phải bỏ dở giữa chừng cuộc hành trình nàng từng ao ước này. Nhưng rốt cục nàng cũng đã đến nơi, và trước khi bước xuống sân ga, hít thở một hơi dài đầy lồng ngực làn không khí tươi mát ở đây, nàng vụt cảm thấy dễ chịu. Nàng bừng tỉnh lại - như thể cái bóng ma vẫn ám ảnh nàng lâu nay phút chốc đã tan biến hoàn toàn. Kyoko dừng lại và ngước nhìn những ngọn núi chung quanh, lòng dào dạt một cảm xúc khác lạ. Những rặng núi xanh thẫm cắt hình rõ rệt trên nền trời. Kyoko cảm thấy như được sống lại giữa một thế giới sinh động. Lau khô những giọt nước mắt nóng bỏng ràn rụa trên đôi mắt mình, nàng thong thả tiến về phía ngôi nhà hai vợ chồng từng chung sống bên nhau. Từ dải rừng thưa đã thẫm bóng trong bầu trời đỏ rực buổi chiều hôm, tiếng chim sơn tước ríu rít lại vọng đến tai nàng y như ngày chồng nàng còn sống. Ngôi nhà đã có người khác ở: trong khung cửa sổ trên gác đang bay phơ phất một tấm rèm bằng đăng ten trắng. Không dám đến gần, Kyoko chỉ ngước nhìn lên và bất thần buột ra một câu nói khẽ, mà hẳn chồng nàng cũng phải ngạc nhiên: Ta sẽ làm gì hả anh, nếu đứa bé em đang mang trong bụng giống anh? Và lòng thanh thản, Kyoko quay gót trở lại nhà ga. NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG dịch (Lấy từ Tập truyện nước ngoài chọn lọc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 1998) Chú thích [2] Một kiểu chạm trổ kết hợp với lối đánh bóng bằng sơn then. [3] Hình một loại giấy dài, khổ hẹp, dùng để chép những bài thơ kiểu tanka. [4] Tiếng Nhật Bản có nghĩa là "rừng thưa" [5] Bọ vái: Một loàisâu bọ sống ở các vùng phía Nam, thường hay đứng ở tư thế gục đầu, hai chân trước khoanh lại như người đang quỳ lạy trong lúc cầu nguyện. TIẾNG GIEO XÚC XẮC BAN KHUYA 1 Khi đoàn hát lưu động dừng chân tại một thành phố cảng, phòng trọ của Mizuta và của các cô vũ nữ ở kề nhau. Hai phòng chỉ cách nhau có một bức phên mỏng bằng tre. Tiếng sóng vỗ ào ào vào con đê biển - chắc chắn thủy triều đang lên - xen lẫn với tiếng lê chân lạo xạo của đám thủy thủ trên con đường rải đá dăm để trở về tàu... Tất cả những âm thanh đó đều quen thuộc, nó khiến chàng nhớ về những đêm tương tự. Duy có một thứ tiếng động khác vẫn không cho Mizuta chợp mắt. Nó vọng đến từ căn phòng kế bên. Đã hơn một tiếng đồng hồ, tai chàng cứ phải nghe mãi một thứ âm thanh đơn điệu, phát ra đều đều, cách quãng như thể ai đó cứ chốc chốc lại ném một vật gì cứng xuống chiếu. Vật đó thường là rơi đâu nằm yên đấy, nhưng có lúc cứ lăn tròn. Gì thế nhỉ? - Mizuta nghĩ thầm. Rồi chàng bỗng hiểu ra: A quân xúc xắc: Không chừng các cô vũ nữ đang gieo chơi; mà cũng có thể là họ đang sát phạt ăn tiền. Nhưng sao chẳng nghe thấy tiếng một cô nào? Từ phòng bên chỉ vọng sang tiếng thở đều đều của mấy người đang ngủ. Chắc có một cô nào còn chưa chịu ngủ, - và chính ả là kẻ đã gieo mấy quân xúc xắc kia. Phòng bên vẫn từ để đèn. Cánh đàn ông trọ cùng phòng với Mizuta đều đã ngủ lâu rồi. Tiếng gieo xúc xắc lách cách, càng lúc càng khiến Mizuta khó chịu. Chàng đã cố nhịn, thầm an ủi mình rằng ả nọ chắc là sắp sửa ngừng tay, thế nhưng mãi vẫn chẳng thấy ả chịu thôi cho! Vọng đến tai chàng chẳng phải chỉ có tiếng lách cách suông, mà còn xen lẫn cả tiếng loạt xoạt của mấy quân xúc xắc lăn tròn trên chiếu: một thứ âm thanh tẻ ngắt, nghe đến nẫu cả ruột. Khó chịu đến cùng cực, Mizuta có cảm giác như đang bị mấy quân xúc xắc ấy gieo thẳng xuống trán mình. Chàng cảm thấy không còn chịu đựng được nữa. Chàng hiểu rằng cứ thế này thì đừng hòng nói đến chuyện chợp mắt nổi đêm nay. Chàng nổi cáu thực tình, và định bụng sẽ mắng thủ phạm một mẻ nên thân. Thế mà tiếng lách cách, loạt xoạt, cách quãng đều đều vẫn cứ vọng sang hoài không thôi. Chàng ngồi dậy, dịch tấm phên sang bên cạnh. - Chà, ra cô đấy ư, Mitiko? Mitiko nằm trên giường, đầu gối lên khuỷu tay. Tấm chăn mỏng vẫn gấp ngay ngắn, đặt bên cạnh. Cô ngoảnh gương mặt ngái ngủ về phía chàng, cố mỉm cười, nhưng đôi môi bất động vẫn đờ ra. Quen tay, Mitiko vẫn quay tiếp một quân xúc xắc đang nằm giữa lòng bàn tay. - Bói à? Mizuta nhìn cô vũ nữ chằm chằm. - Bói ư?... Em có bói toán gì đâu. - Thế thì hành tội làm gì mấy quân xúc xắc kia? - Em đâu hành hạ gì nó... Chàng bước lại bên đầu giường. Mitiko đưa hai tay lên che mặt và hơi rụt cổ lại. Rồi cô vội vàng lấy mấy đầu ngón tay dụi hai mi mắt và giắt ra sau tai một món tóc lòa xòa. Tai cô xinh lạ với hai trái tai bé tẹo. - Cô không thấy cả phòng đều ngủ hết rồi à? - Mizuta khẽ hỏi. - Thấy ạ. - Thế sao còn cứ gieo? - Tay em nó quen đi rồi. - Cô không thấy thế là ngớ ngẩn hay sao? Mitiko luồn tay xuống gối, lần tìm gì đó, gom lại, rồi lặng lẽ mở tay ra. Trên lòng bàn tay là năm quân xúc xắc. - Những năm quân kia ư? - Mizuta ngạc nhiên lầu bầu và quỳ xuống bên đầu giường. Cả năm quân đều giống hệt nhau - cũ kĩ và nhẵn thín. Chàng cầm lên một quân. Mấy quân kia, Mitiko vẫn giữ yên trong lòng tay. Ngón tay cô vừa dài, vừa xinh xắn lạ thường. Mizuta bỗng nhớ tới những động tác rất uyển chuyển và giàu sức diễn tả của mấy ngón tay khi Mitiko múa trên sâu khấu. - Phải cần đến những năm quân kia à? - Chàng vừa hỏi vừa trả lại quân xúc xắc cầm trên tay. Mitiko gieo ngay quân chàng vừa đưa. Nó ngả mặt tam. - Đừng gieo nữa, hai giờ đêm rồi đấy. - Vâng, - Mitiko gật đầu, nhưng vẫn gieo thêm quân tiếp theo. Lần này quân xúc xắc ngả mặt nhất. - Cái tiếng lách cách ấy làm tôi mãi vẫn không chợp mắt được. - Chết, xin ông thứ lỗi. Thế mà em định gieo đến bao giờ được chẵn mười nghìn. . . - Đến mười nghìn?! - Vâng, đêm nay khéo chẳng kịp mất rồi. Mizuta phát hoảng. Chẳng lẽ cô định gieo cho đến lúc được chẵn mười nghìn? Nếu lần nào cũng gặp may - toàn trúng mặt lục - thì dù có gieo đến cả nghìn lần, giỏi lắm cũng chỉ được sáu nghìn điểm thôi chứ mấy! - Nếu được chẵn mười nghìn thì sẽ gặp điều lành? - Nào em có nghĩ đến chuyện đó. - Thế thì tội gì mà cứ phải thức trắng đêm? - Vâng, Mitiko đồng tình, nhưng lại tung tiếp mấy quân xúc xắc nữa ra. - Thôi, cất ngay đi! . . . Mitiko liếc nhìn chàng trai, rồi dụi mặt xuống gối, lặng im. - Cô rõ vớ vẩn, - Mizuta khẽ cằn nhằn và quay về giường. Nhưng ở phòng bên chàng vẫn thấy chong đèn. Chàng bèn lắng tai nghe: thì ra cô ta vẫn tiếp tục gieo, - có điều bây giờ đã trải thêm một chiếc khăn ra cho tiếng động khỏi lan sang phòng bên cạnh. 2 Sáng hôm sau, chàng đem câu chuyện tối qua ra kể lại với Noriko, cô vũ nữ lớn tuổi nhất đoàn. - Rõ thật dở hơi! Vì cô ấy mà suốt đêm tôi chẳng ngủ được. - Ra mãi đến tối qua ông mới biết kia à? Cô ấy nhiễm phải cái thói đam mê đó của bà mẹ lâu rồi. Thậm chí ngồisau cánh gà cũng lôi xúc xắc ra gieo mải mê. - Ra là thế. . . - Cả đoàn từ lâu đã quen đi rồi, thành thử chẳng còn ai buồn để ý làm gì. - Ừm. Dẫu sao tôi vẫn không tài nào hiểu nổi: việc gì lại phải tha theo những năm quân xúc xắc, ngay cả khi đi biểu diễn các nơi. Này, mẹ cô là ai vậy? Với lại đầu đuôi thế nào mà Mitiko nhiễm phải cái tật kia? - Mẹ Mitiko là một geisha; chuyện ấy, em chắc ông đã biết. Hiện giờ bà ấy vẫn đang còn mấy cô học trò. Nói của đáng tội, trong tay bà ta cũng chỉ có một quán trà nhỏ, hạng xoàng; hơn nữa, cũng chẳng danh tiếng gì. Noriko kể tiếp: bà ta thường mang xúc xắc vào phòng, ngay cả lúc khách đang ngồi nhấm nháp sakê. Ra với khách, lúc nào bà ta cũng giắt theo trong thắt lưng một vài quân. Khi cởi thắt lưng ra, xúc xắc liền rơi xuống đất. Bà ta cố tình làm thế để khách phải để ý nhưng vẫn vờ kêu lên một tiếng, vẻ như sửng sốt, rồi gạ gẫm khách thử chơi năm ba ván cho vui. Không một ông khách nào không xiêu lòng. Họ bèn hào hứng nhập cuộc. Tiền đặt, tuy chẳng bao lăm, nhưng mỗi năm một ít, dần dà bà ta cũng tích được một lưng vốn kha khá. Nghe đồn bà ta gieo rất cao tay, muốn ngả mặt nào được mặt nấy. Bà ta tập ngày tập đêm, lợi dụng từng phút rỗi một. Nhờ thế, mấy năm sau, tay nghề đã đạt đến mức khiến ai cũng phải lác mắt, khâm phục. Mizuta kinh ngạc: lợi dụng được những chỗ yếu của người đời một cách tinh khôn và ma quái đến thế quả chẳng phải tay vừa; mà phải là thứ geisha mạt hạng, không đếm xỉa đến liêm sỉ là gì mới dám đem cái trò đó ra thi thố với nhiều người. Nhưng chàng cũng thử nhìn việc đó từ một khía cạnh khác xem sao. Biết đâu bà ta chỉ bị cái thói đam mê thấp hèn kia thôi thúc thôi? Hay là gieo xúc xắc rất có thể là một thứ nghệ thuật nữa? Vả lại, cũng có thể giả định khi chơi như thế, bà ta còn cảm nhận được một cảm xúc khác lạ, to tát hơn là nỗi đam mê nhiều, và chính cái việc gieo xúc xắc kia đã khiến bà ta thấy buồn hoặc thấy vui. Nếu không, thì cô con gái bà ta vị tất đã bị cái thói đam mê lôi cuốn ghê gớm đến thế kia. - À này, chắc cô biết tâm trạng của Mitiko khi cô ấy gieo xúc xắc? - Không, em chả biết. Khéo cô ấy chỉ muốn bắt chước bà mẹ cũng nên. - Chắc cũng cao tay như mẹ? - Còn phải nói. -Thế cũng chơi ăn tiến? - Chứ sao! Cô gieo cao tay đến mức ai cũng phải kiềng mặt. Thành thử phải đành chơi lủi thủi một mình. - Chơi một mình... - Mizuta lẩm bẩm, không hẳn với Noriko mà cũng không hẳn với chính chàng. Mitiko vị tất đã muốn tất cả chị em trong đoàn biết những ngón nghề của chính mẹ mình? Nhưng nếu không, thì vì lẽ gì cô ấy lại công nhiên phô bày chính cái trò có thể gợi lại chuyện đó trong tâm trí mọi người? Tuy nhiên, qua lời lẽ Noriko, chàng hiểu ngay rằng cô này cũng chẳng để ý bao nhiêu đến cái thói đam mê kì dị của Mitiko. Chàng đứng dậy đi vào buồng rửa mặt, bỏ lại ngoài hành lang đôi dép mang trong nhà. Khi xỏ chân vào đôi guốc mộc chuyên dùng trong phòng rửa mặt, chàng bỗng nghe có tiếng chân ai đó bên ngoài. Chàng ngoảnh ra thì nhác thấy bóng Mitiko: cô gái dừng lại bên đôi dép chàng vừa bỏ ra, cầm lên, quay ngược mũi đi, để lúc bước trở ra, chàng khỏi phải xoay người mới xỏ chân được. Chàng bất giác nghĩ bụng: những điều nhỏ nhặt thế mà cô gái cũng để mắt đến thì kể cũng lạ... Mizuta thấy đám vũ nữ đang ngồi chơi trên một phiến đá chồm xa ra mặt biển. Vọng đến căn phòng chàng đang nằm trên gác, tiếng một cô gái: - Nóng thật! Bây giờ mà trời trở rét ngọt thì tuyệt biết bao! Vẫn chưa đến mùa anh đào nở hoa, nhưng trời biển đã bàng bạc hơi sương, như lúc đang mãn khai. Những con nhạn bể trắng muốt tựa như đang chơi vơi trong làn sương mỏng. Mizuta xuống với đám vũ nữ. Chàng lặng lẽ chìa tay ra cho Mitiko. Cô gái hẳn là hiểu ngay ý chàng: nàng lôi trong túi ra mấy quân xúc xắc, trao hết cho chàng. Mizuta tung ngay cả năm quân xuống phiến đá cheo leo. Hai quân lăn tòm xuống biển. Chàng nhặt lên mấy quân còn lại, thản nhiên vứt nốt xuống đợt sóng dập dờn. - Ôi, - Mitiko thốt lên. Cô lần ngay ra tận mép phiến đá, nghiêng người nhìn xuống: mặt biển cồn sóng. Nhưng chẳng hề nói năng gì. Mizuta sửng sốt: chàng tưởng cô sẽ giận sôi lên hoặc sẽ buột miệng xuýt xoa. Tốp vũ nữ lục tục kéo đến thăm rạp hát mà họ sẽ diễn tối nay. Riêng Mizuta, chàng quay về phòng và đưa mắt nhìn ra chỗ mấy quân xúc xắc vừa bị quăng xuống. Đoàn chàng chuyến này lưu diễn lâu hơn mọi lần. Chàng bỗng thấy man mác nhớ nhà. Chàng bắt đầu nghĩ vẩn vơ: không biết mai kia, khi về lại Tokyo, có nên đến gặp bà mẹ Mitiko không, bà geisha chơi xúc xắc rất cao tay ấy? Những con tàu neo ngoài cảng lần lượt lên đèn. 3 Chuyến lưu diễn lần này kéo dài đã hơn một tháng rồi. Hôm đoàn dừng chân tại một thành phố, Mizuta đã đưa đám vũ nữ đến thăm một ngọn đồi nổi tiếng, với cái tên Siroyama ([6]). Đang mùa anh đào trổ hoa. Thế mà vừa đến nơi, đám vũ nữ đã sà ngay vào mấy hàng bánh canh và bún ốc đỏ ối ớt bột. Họ xử sự suồng sã đến mức khiến Mizuta phát ngượng. Cách xử sự đó lại còn khó coi, vì trong số du khách lên đây ngắm hoa chắc chắn thế nào cũng có những người đến xem đoàn biểu diễn tối nay. Cánh hoa rụng lả tả đây đó, trên cành chỉ còn trơ có nhụy, vả lại, cũng đều sắp úa cả rồi. Du khách xét nét nhìn đám vũ nữ. Thế nhưng họ vẫn thản nhiên, chẳng buồn đếm xỉa đến, ra cách như muốn chọc tức mọi người. Ăn chán chê rồi, cả đám bèn liếm môi và lôi sáp ra tô ngay trước mặt những du khách lên ngắm hoa. Mitiko cũng lấy ra một thỏi sáp môi. Nhưng trước lúc tô, nàng mím chặt hai môi, rồi mới từ từ trề ra. Đôi môi chưa tô tươi tắn và duyên dáng lạ. Mizuta thong thả bước lại bên nàng. Chàng nhìn cô vũ nữ bằng đôi mắt như thể vừa mới khám phá được một bí mật mà chàng chưa ngờ tới bao giờ. Cái mũi nhỏ xấu xí của cô gái, trông gần, bỗng hóa rất dễ thương, chẳng khác nào một vật trang trí tinh xảo, do một bàn tay tình tứ gọt đẽo một cách hết sức trìu mến làm nên. Quen trang điểm trước đám đông, Mitiko chẳng bối rối chút nào. Nhưng đối với Mizuta, nàng bỗng hóa thành thiếu nữ hoàn toàn khác lạ - đứng tô son cho đôi môi xinh tươi ngay giữa những cành anh đào đầy hoa, ở một tư thế hệt như nàng vẫn thường làm trong buồng hóa trang. Đôi môi , cái mũi ấy, gương con tròn ấy, đôi mắt đang liếc nhìn vào chiếc gương con ấy bỗng dấy lên trong lòng chàng những mộng tưởng ngọt ngào. Mizuta nghĩ bụng: tuy không được mặn mà như lúc lên sân khấu, nhưng ở ngoài đời, nàng trông vẫn đẹp hơn mình tưởng rất nhiều. Chàng buột miệng thốt ra một câu mà chính chàng cũng không thể ngờ: - Cô là người thế nào, đến tận bây giờ tôi vẫn không sao hiểu nổi, Mitiko ạ. - Sao thế? - Mitiko hỏi, ngước nhìn chàng một thoáng. - Cô kín đáo quá. Hỏi, mới mở miệng; còn không thì cứ lặng thinh… - Thật ư? Em chắc ông nhầm. - Ít ra là đối với riêng tôi: cô chỉ trò chuyện khi tôi hỏi đến, thế thôi. Cô thật đến lạ. Mitiko trông như đang ngẫm nghĩ rất nhiều những điều chàng vừa nói, nhưng chẳng đáp gì. Nàng tiếp tục tô nốt đôi môi bằng thứ son hóa trang: nó thắm hơn sáp thường và lấp loáng ánh nước. Mizuta sực nhớ ở Asakusa ([7]) có một cửa hiệu nhỏ chuyên bán phấn sáp hóa trang khi lên sân khấu. Trước hôm lên đường, các cô vũ nữ đều ghé đến sắm sanh. Riêng Mitiko thì chẳng chút bận tâm. Bây giờ cô đang phải bôi nhờ của các bạn. Nhiều cô rất ghét chuyện đó. - Đằng kia có một cánh đồng súp lơ Trung Hoa - Mizuta nói, mắt nhìn dải bờ đối diện một dòng sông, mà đứng ở đây chỉ trông rõ một đoạn thuộc hạ lưu. - Súp lơ Trung Hoa mà trổ bông thì tuyệt đẹp. - Sao cô biết? Cô ở thành thị, làm sao hiểu được vẻ đẹp của giống súp lơ kia? - Nó rất hợp sở thích của em. Đẹp cả khi trồng trong chậu cảnh.Để nhiều quá thì chẳng nên, nhưng nếu chỉ lơ thơ vài chiếc thì trông thích mắt lắm... - Cô nghĩ thế thật chứ? Hay là ta đến đằng ấy xem đi, nếu cô thích ngắm hoa. Mitiko gật đầu. Mizuta định bụng sẽ ghé vào một hiệu tạp hóa dọc đường để mua cho Mitiko một ít phấn son. Nếu ở đó không bán loại dùng để hóa trang, thì ít ra cũng mua tạm loại thường, còn hơn là cứ để cô ấy phải đi bôi nhờ của chị em bạn. - Tôi với Mitiko đi dạo chơi một lát đây. - Coi chừng kẻo lạc đây, - các cô đáp, giọng bông đùa. - Ông tính đi đâu thế? Cho em đi với. - Một cô toan bước đến bên Mizuta, nhưng rồi quay ngay, lại chỗ đám bạn, và đưa mắt nhìn Mitiko vẻ ganh tị. Mitiko đỏ bừng mặt. Nàng luống cuống cúi đầu. Bỏ ngoài tai những lời bông đùa, Mizuta bắt đầu bước dọc theo triền đồi, đi xuống mé sông. - Em với ông cùng đi phải không? - Mitiko hỏi khi đuổi kịp Mizuta. Hơi ngẩng đầu lên, nàng bước theo Mizuta, vẻ lưỡng lự. - Này, ra cô vẫn định nín thinh cho đến lúc tôi gợi chuyện đây hả? - Ồ, đâu…đâu ạ - Mitiko bối rối đáp, giọng kéo dài. Rồi nàng nở một nụ cười sung sướng, nụ cười làm cho gương mặt nàng rạng rỡ hẳn lên. Thấy một cửa hiệu, Mizuta liền bảo Mitiko: - Vào mua lấy một thỏisáp môi với vài ba thứ gì đó ngay đi... Mitiko sợ hãi ngước nhìn chàng. Mặt nàng lộ rõ vẻ ngần ngại, chưa biết có nên nghe theo lời khuyên không. - Bôi nhờ mãi, chị em người ta còn coi cô ra gì. Mitiko gật đầu, rồi vào hẳn trong quầy mua sắm, vẻ rất bình thản. Để cô gái thêm phấn chấn, Mizuta bèn bảo: - Kìa, Mitiko! Họ bán cả xúc xắc nữa đấy! - Ôi đúng thế thật! - Cô gái thốt lên, gương mặt rạng rỡ trong giây lát - Cho tôi năm quân giống những quân kia đi ông! - Cô nói với người chủ hiệu. - Những năm kia ư? Rất tiếc chúng tôi chỉ còn có hai, - ông chủ hiệu đáp, rồi bước lại bên chiếc tủ kính có bày bán mấy quân xúc xắc xinh xinh. - Thì hai cũng được... Họ rời cửa hiệu, đi về phía con đê ven sông. Chênh chếch trên triền đê là một lối đi nhỏ, rải nhựa, trông như là đường đi dạo. Hai bên đường chạy dài hai hàng phong thẳng tắp mới trồng. Trên bờ sông xanh mượt cỏ non, mấy đôi trai gái trẻ măng đang nằm ngả nghiêng. - Một cô hầu phòng ở khách sạn có bảo với tôi là từ độ con đường kia được rải nhựa đến nay, thuần phong mỹ tục trong thành phố đâm sa sút hẳn, - Mizuta cười nói, rồi bắt đầu đi thẳng xuống mép nước. Lòng sông vốn rộng thênh thang giờ đây trơ cả sỏi; cỏ lác mọc dày, xanh rì. Mãi tận giữa dòng mới uốn khúc một dải nước hẹp. Mizuta ngồi ghé xuống một phiến đá rộng, sát bên làn nước trong. Mitiko khép nép ngồi xuống cạnh chàng, rồi là ngay mấy quân xúc xắc ra gieo. Mặt sông lấp lánh như bạc dưới ánh nắng chênh chếch của vầng mặt trời xuân sắp lặn. Nhìn Mitiko gieo xúc xắc, Mizuta ướm hỏi: - Cô biết bói chứ, Mitiko? - Biết, nhưng bói gì ạ? - Gì cũng được! - Thế chả nên đâu. Thích bói điều gì, ông cứ bảo em. Em sẽ cố gieo đúng điều ông ước. - Được, ta thử xem nhé.Nếu ngả mặt nhất thì giữa hai chúng mình sẽ nảy nở một mối tình. - Ồ không, không, em chẳng thích thế đâu! - Mitiko lắc đầu quầy quậy và cất tiếng cười trong trẻo. - Chuyện đó sau sẽ hay. . . Nếu em muốn mặt nhất, thì nhất định nó sẽ đổ mặt nhất. - Thì cứ thử xem nào. - Em chả thích, - Mitiko nói, giọng cứng cỏi, nhưng vẫn cúi thấp người, thổi sạch bụi đất bám trên phiến đá. Rồi cô nghiêm trang dùng lòng bàn tay xoa đi xoa lại hồi lâu, như thể muốn san phẳng hết những chỗ mấp mô. - Em chỉ quen gieo lên chiếu, chứ chưa gieo trên nền đá bao giờ, sợ hỏng mất. Lần này để em thử liệu cách khác xem sao, - Mitiko lẩm bẩm. Mấy tiếng “liệu cách khác” khiến chàng phì cười. Nhưng chàng nghiêm ngay nét mặt, vì thấy Mitiko cung kính nhìn mấy quân xúc xắc với ánh mắt đầy vẻ siêu thoát. Nàng lấy lại nhịp thở cho thật đều, rồi gieo hai quân xúc xắc đó ra. - Đây nhé! - Mitiko thốt lên và ngước cặp mắt long lanh nhìn Mizuta. Cả hai quân đều ngả mặt nhất. - Ừ cô cao tay thật đấy! Mitiko bỗng cảm thấy toàn thân tràn ngập một niềm hân hoan thần thánh, không tài nào lí giải nổi. - Giỏi đấy! Nào, thử lại bận nữa xem. - Thử thêm bận nữa ư? - Mitiko hỏi lại, giọng trầm hẳn đi. - Xem có được không ư? Ồ, không, em không thử đâu. - Nàng vừa nói, vừa di di mấy đầu ngón tay trên mặt phiến đá. Đôi trái tai bé tí lấp lánh ánh chiều sắp tắt. Chú thích: [6] Tên chung, chỉ những ngọn đồi cao, trên dựng những đồn lũy để chống giặc. Tại nhiều đô thị Nhật Bản, hiện còn những phế tích của các kiến trúc kiểu đó. Nơi danh tiếng nhất là ngọn đồi mang tên Siroyama, ở ngoại ô thành phố Kagosima. [7] Một khu phố ở Tokyo, nổi tiếng bởi nhiều rạp hát và phòng diễn xướng bình dân. 4 Khi đoàn đến diễn tại thành phố khác, Mizuta lại thử liếc mắt vào phòng trọ dành cho các cô. Mitiko vẫn gieo xúc xắc như mọi khi. Chỉ khác là lần này trong tay nàng lại đủ cả năm quân như trước. - Này, thế cả năm quân đều ngả mặt nhất, cô có gieo được không? - Em chẳng thích thế đâu! Chẳng lẽ chỉ vì mỗi chuyện ấy mà ông bắt em gieo đi gieo lại mãisao?... Cô áp sát chiếc gối vào bụng, rồi quay người lại, nằm đè lên, mặt cúi gằm xuống chiếu. - Chả chắc năm quân đều ngả đúng mặt nhất... - Vâng, chả chắc. - Nàng hờ hững nắm chặt mấy quân xúc xắc trong lòng tay, rồi gieo bừa ra. Năm quân văng đi năm ngả, mỗi quân đổ một số, chẳng mặt nào giống mặt nào; Mitiko không chịu gửi gắm vào đó cả ý thích lẫn mong ước của nàng. Thậm chí nàng cũng chẳng buồn ngó ngàng gì đến. - Em buồn ngủ quá, - cô lầu bầu rồi gục hẳn lên hai cánh tay khoanh tròn trước mặt. Chân nàng để trần. Dưới gấu váy cũ kĩ, dường như đã phải dãi dầu nhiều sau bao lần bôn ba đây đó dài ngày, lộ ra đôi gan bàn chân không đi tất xinh xắn. Cả hai xem ra rất rắn rỏi và rất dẻo dai. Mười đầu ngón chân đều méo mó cả vì thường bị bó rọ trong giầy khiêu vũ. Từ xa văng vẳng vọng tới tiếng trống đình. Mizuta nhặt mấy quân xúc xắc lên, thử gieo. Mitiko ngẩng cao đầu, lơ đãng nhìn chàng. Rồi nàng cầm lên một quân, gieo bừa. Quân xúc xắc ngả ngay mặt nhất. Nàng gieo thêm quân nữa. Vẫn thế. Rồi nàng lần lượt gieo tiếp ba quân còn lại. Quân nào cũng ngả mặt nhất, hệt như những quân vừa mới gieo. Nàng gom tất cả lại, xếp thành một dãy dài, quân nọ sát quân kia, mặt nhất hướng lên trên. Vẻ mặt nàng bình thản tựa như trẻ em chơi trò xếp khối vuông ở nhà trẻ. * - Hôm nay trời đẹp quá! Hay là ta đi tắm giặt hả các cậu? - Một cô vũ nữ tên là Totiko nói, mắt trầm ngâm nhìn sang mái nhà mấy gia đình gần kề. - Ông Mizuta, ông có cần em giặt giúp gì không? Ông cứ đưa cả các thứ mặc trong luôn cho em. - Cô tính giặt giúp chứ gì? - Thích thì em chả thích mấy , nhưng nếu ông nhờ thì em sẽ giúp ông. Ông cứ mang cả ra đây. - Cảm ơn, có điều tôi chẳng còn gì để giặt nữa đâu! - Càng tốt. Thế mà em cứ tưởng đàn ông độc thân bao giờ cũng để tồn quần áo thay ra. Totiko mở chiếc va li đặt trong góc phòng, rồi ngoái lại, nói khẽ: - Ông Mizuta, ông làm ơn sang bên kia một lát nhé! Cả Mitiko cũng định đi tắm giặt. Nàng ngồi dậy, lặng lẽ chìa tay ra cho Mizuta. Chàng lắc đầu: - Tôi chẳng còn gì để giặt thật mà. Theo thói quen của đàn ông độc thân, chàng hay gói quần áo bẩn vào một tờ báo cũ, rồi giao ngay cho khách sạn mới, khi vừa đặt chân đến nơi. Chàng lấy làm lạ với chuyện sao hôm nay cô vũ nữ nọ bỗng dưng bảo chàng trao quần áo để nàng giặt hộ. Lúc này, các cô gái khác cũng theo gương Mitiko. Lát sau, từ phía nhà tắm, mà cũng có thể là từ phía bể bơi, bắt đầu vọng lại tiếng hát khẽ của các cô. Mizuta ngả lưng xuống sàn nhà, bên phía có ánh nắng hắt vào, nhắm mắt lại. Lắng tai nghe bản hợp ca giọng nữ, chàng bỗng có cảm tưởng như đã được về lại với khu Asakusa. Chắc hẳn chuyến này, đoàn chàng đi quá lâu ngày. Ngay tối hôm ấy, tuy đã quá giờ mở màn rồi, nhưng trong phòng hóa trang vẫn chẳng thấy Noriko đâu. Một cậu diễn viên trẻ cũng biến mất theo. Mizuta và tốp diễn viên phải trình diễn tối nay đưa mắt nhìn nhau, bối rối. Người ta phái ngay người về khách sạn. Đồ đạc của Noriko cũng biến đâu mất cả rồi. Lần lượt gạn hỏi từng người trong đoàn, nhưng chẳng ai nhận thấy Noriko và anh chàng diễn viên trẻ họ nảy nở một mối quan hệ đặc biệt gì. Chồng Noriko sống ở Asakusa. Tính nết, tuy chẳng mấy ai chịu nổi, nhưng anh ta vẫn là một diễn viên rất nổi danh. Noriko, tuy cũng là một thiếu phụ khác người, vị tất đã dám đoạn tuyệt với chàng chóng vánh đến thế. Có lẽ là chồng nàng đã kí được hợp đồng với nơi khác, nên bắt vợ phải bỏ đoàn, quay ngay về nhà. Còn cậu diễn viên kia thì Noriko chỉ lôi theo cho có bạn đồng hành. Mà cũng có thể là nàng đã rắp tâm từ giã hẳn ông chồng; nàng lợi dụng dịp may hiếm có này, để trốn về Kansai ([8]), nơi mà dù muốn săn tìm ông cũng đừng hòng tìm thấy. Dẫu sao Noriko cũng đã biệt tăm. Vì lẽ gì thì chắc những diễn viên chủ chốt trong đoàn đều biết cả nhưng họ còn chưa muốn nói toạc ra, mà thích giữ im lặng. Điều khiến ai n ấy lo sốt vó là chưa biết xoay xở thế nào với buổi diễn tối nay. Đám diễn viên cuống quýt cả lên, cố tìm người thay chân Noriko. Rốt cục, ông trưởng đoàn Tomomatsu đành phải đến xin lỗi gã chủ thầu chuyên đứng ra thu xếp các đêm diễn tại đây, và tuyên bố bãi bỏ buổi diễn. Gã chủ thầu hồ hởi chấp thuận ngay; nhưng thay vào đó gã bắt đoàn phải đưa các cô vũ nữ đến giúp vui trong buổi chiêu đãi do các vị tai mắt ở địa phương, những nhân vật mà gã ta đang cần nhờ vả, đứng ra tổ chức tại khách sạn tối nay. Ông Tomomatsu đưa thẳng đám vũ nữ từ nhà hát tới chỗ chiêu đãi. Khi Mizuta tạt xuống buồng hóa trang thì đã chẳng còn ai, ngoài ông già trông coi đạo cụ của đoàn. Ông già đang uể oải thu dọn áo xống, giày dép dùng để hóa trang, hiện đang bị vứt lỏng chỏng trong phòng. - Toàn là đồ ăn hại! Người khôn ngoan chắc họ đã bỏ đi từ đời nảo đời nào. Còn tôi, ông thấy đây, cứ phải nai lưng ra hầu, - ông ca cẩm với Mizuta. - Bọn họ mà ở bẩn thế này thì mai kia không khéo giun nó còn làm tổ cả trong giầy nữa chứ chả chơi... - ông gom hết giày dép lại, rồi ôm cả đống, vất bừa vào một góc phòng. Trước lúc đến buổi chiêu đãi, Mitiko hẳn đã thay áo quần; chàng nhận từ chiếc áo jaket của nàng giữa đống kimono thường mặc lúc lên sân khấu đang treo trên vách. Mizuta thò tay vào túi áo, lục tìm. Mấy quân xúc xắc vẫn nằm yên dưới đáy túi. Chàng vừa lẩm bẩm một mình, vừa gieo cả năm quân xúc xắc ra: Nàng đã quên noi gương mẹ, nên không mang theo mấy quân xúc xắc đến buổi chiêu đãi tối nay... Chiếc chiếu trên sàn bẩn khiếp lên được. Chàng nhìn quanh gian buồng hóa trang bằng cặp mắt của người ngoài cuộc: những chiếc kimono màu sắc lòe loẹt, nhưng từ lâu đã chẳng còn mới mẻ gì, bỗng dưng trông chẳng khác nào những cái vỏ trứng rỗng không. Mizuta gieo những mấy lần liền. - Một thứ trò chơi vớ vẩn, lại vừa tẻ nhạt nữa, - anh chàng diễn viên Hanaoka hiện ra trước cửa, buông thõng một câu. - Tẻ nhạt ư? - Đại để là thế. Ta chơi vài ván chứ? - Thì chơi. Nhưng ăn gì? - Thì cứ tạm lấy Mitiko ra làm giải vậy. Mizuta ngẩng phắt đầu lên. Lòng bỗng trào dậy một niềm vui đột ngột, chàng reo to: - Được nhưng người gieo phải chính là cô ấy kia. - Thôi...thôi đi, thế thì lại phải chờ dịp khác. Nếu thắng cứ thết tôi chén rượu là hay nhất. Tiếc một nỗi tôi sinh ra lại là đàn ông, thành thử không được mời đi chiêu đãi. Mà được nhấm nháp vài chén giữa một đêm xuân như thế này, thử hỏi còn gì thú bằng? Mizuta bỏ mây quân xúc xắc vào túi, rồi đứng lên. Chú thích: [8] Một đơn vị hành chính lớn, bao gồm cả Osaka và Kyoto cùng các quận huyện phụ cận. 5 Suốt thời gian ngồi trong quán, Hanaoka toàn kiếm chuyện để cãi vã cho sướng mồm. Lúc đã khá say, anh ta bèn quay sang lục vấn Mizuta: - Cậu thử nói tớ nghe đi: c... cậu nghĩ thế nào về Mitiko? - Nhưng nghĩ thế nào là thế nào mới được chứ? - Thế nào ấy à?...Cậu không thấy là cô ấy rất khác người? - Có, nhưng chỉ tí đỉnh thôi... - Ấy thế nhưng tớ thì tớ thấy rất đáng ngờ: không biết đã có ai bỡn cợt gì chưa, khi cô ả hãy còn là một đứa bé, sống bên cạnh mẹ ở nhà? - Không thể có chuyện đó được! - Mizuta cuống quýt ngước nhìn Hanaoka. - Tớ rất thích cô bé ấy…Nên tớ đã ngấm ngầm theo dõisuốt, - Hanaoka tự tố cáo. - Sao, cậu bảo: “Theo dõi” suốt ư? Nói nhảm! - Không, chả nhảm đâu. Chuyện này từ trước đến giờ tớ chưa hề hé răng với ai. Hôm nay là lần đầu tiên tớ quyết định chia sẻ cùng cậu những mối nghi ngờ vẫn ám ảnh tớ. Thế nào, cậu có vén nổi tấm màn bí mật không, Mizuta? - Nhưng cô ấy thì làm gì có chuyện gì bí mật nào! - Không à? - Hanaoka nhìn Mizuta chằm chặp, cặp mắt đục ngầu. Rồi anh ta chồm hẳn người sang phía Mizuta bắt đầu lay mạnh hai vai. - Thôi được, cứ coi như không có gì... Nhưng tớ yêu cầu cậu một điều, một điều cực kì to tát: cậu phải bắt cô phơi bày hết ruột gan ra, dù chỉ một lần thôi! - Bằng cách nào? - Cho cô ấy đóng một vai thú vị, chẳng hạn... Thế là cô ấy tức thì sẽ phơi bày hết. Tớ tin chắc: lúc ấy ả sẽ lộ hết chân tướng mình ra. Đề nghị đó của Hanaoka, Mizuta cảm thấy hết sức quyến rũ, nhưng chàng vẫn nín thinh. - Thế nào, gật chứ? - Hanaoka cố ép chàng nhận lời. - Có thể là cậu đúng, - Mizuta tán thành. - Cậu nên nhớ là chuyện ấy tớ đã tính liệu đâu vào đấy cả rồi. Mizuta nghĩ bụng: xem thế đủ biết anh chàng quả đang yêu Mitiko và đã tìm hiểu nàng cặn kẽ biết bao. Cho nên, không thể không đếm xỉa đến những điều anh ta nhận thấy. Năm nay Mitiko vừa tròn mười bảy tuổi. Nhưng mãi năm mười lăm nàng mới đến với đoàn. Vậy thì những năm trước đó nàng đã làm gì, khi còn ở nhà? Chật vật lắm Mizuta mới lôi được Hanaoka ra ngoài. Nhưng chỉ lát sau, anh ta đã lăn kềnh ra ngay giữa đường, vừa nhìn trời, vừa lầu bầu trong cổ họng. - Trăng kìa, chà, trăng tuyệt quá! Đường phố đã hẹp, lại dài; hai bên lòng đường dựng đứng toàn những ngọn núi tối mò đầy đe dọa. Trước mắt Mizuta bỗng chập chờn đôi trái tai trong vắt, đôi môi, cái mũi, hai bàn tay, đôi gan bàn chân của Mitiko... Chàng bỗng cảm từ người nôn nao dữ dội, đành ngồi bệt xuống cạnh Hanaoka đang say bí tỉ. Từ xa vọng tới tiếng hát ngân nga của đám vũ nữ đang ra về. - Ô hê-hê! - Hanaoka gân cổ lên gào to. - Ô-hê-hê! - Mizuta phụ họa theo. Núi non không vọng lại tiếng họ. Họ làm thinh. Tiếng hát của toán vũ nữ mỗi lúc một gần thêm. Họ nắm tay nhau, bước đi trên quãng phố tối. Thấy hai người nằm ườn ra giữa lòng đường, các cô gái vui vẻ reo lên: - Họ say túy lúy, các cậu ạ! Hãy chờ một tí, rồi chúng em sẽ dìu về. - Ông Mizuta, ông có thấy Mitiko đâu không? - Một cô cất tiếng hỏi. - Mitiko à? Tôi tưởng cô ấy đi cùng với các cô? - Chỉ lúc đầu thôi; về sau, cô ấy bảo với bọn em là ra ngoài một lát, nhưng trốn biệt, không thấy quay lại. - Không quay lại nữa?! - Hanaoka hét tướng lên. Anh đứng dậy, lảo đảo trên đôi chân khó bảo, và giơ cao hai tay lên trời, ra cách như muốn cầu nguyện. Thế là hai năm rõ mười, chẳng còn lầm vào đâu được nữa rồi. - Mizuta thầm nghĩ, lòng hết sức bồn chồn. Nhưng khi về đến khách sạn, họ đã thấy Mitiko nằm dài trên cái giường con. - Sao mày chuồn về sớm thế? - Mày quả là đứa tinh ranh. - Đám vũ nữ gieo người xuống bên giường Mitiko, uể oải duỗi thẳng đôi chân đờ đẫn ra. - Xin nhiệt liệt đón mừng, - Mitiko tươi cười cất tiếng chào. Mizuta tự nhủ: ghê thật! Đã khôn khéo lẩn trốn đám khách say, lại còn dám một mình băng qua thành phố giữa đêm hôm khuya khoắt. Lối cư xử đó của Mitiko chỉ càng làm tăng thêm mối ngờ vực mà Hanaoka vừa mới gieo vào lòng chàng. Chàng ngồi ghé xuống mép giường, sát bên cô gái, phả vào mặt nàng những hơi thở nồng nặc mùi rượu, trong khi hai tay cứ ôm chặt lấy đầu. - Ông nhức đầu lắm sao? Chắc vì hơi men đấy. - Mitiko chau mày hỏi, giọng đầy thông cảm. -Ừm, - Mizuta cho tay vào túi, lôi mấy quân xúc xắc ra. Đám vũ nữ tức thì cười ré lên, bắt Mitiko phải gieo chơi. Mitiko cúi thấp đầu, xếp năm quân xúc xắc lại thành một hàng dài trên lòng bàn tay phải. Nằm chính giữa là quân xúc xắc ngả mặt nhất, sát hai bên - hai quân mặt nhị; còn cuối cùng thì đều ngả mặt tứ. Thế trận bài bố như thế này: Nàng chìa tay ra trước, như thể cầu trời rủ lòng thương, rồi thong thả quay, nhưng vẫn cố giữ cho thứ tự của năm quân xúc xắc kia khỏi bị xáo trộn lung tung. Vẻ mặt nàng vừa đăm chiêu, vừa siêu thoát, đến nỗi đám vũ nữ bất giác phải nín thở. Nàng quay mỗi lúc một nhanh thêm, rồi thình lình tung năm quân xúc xắc ra. - Ồ! Ồ, đúng nhé, đúng nhé! - Chính nàng thốt lên trước nhất. Nàng ngẩng phắt đầu lên, rồi ngồi thẳng dậy. Tất cả những người ngồi chung quanh đều lặng người kinh ngạc. Cả năm quân đều ngả cùng một số: mặt nhất! Chúng xòe thành hình quạt, cách quãng đều nhau, trông tựa một chiếc ô đã giương ra. Đám vũ nữ vỗ tay reo, vẻ mặt hân hoan. Mizuta thở phào nhẹ nhõm. Chàng nhìn hai đầu gối để trần của Mitiko đang ngồi bất động trên giường. Dưới chiếc kimono mặc ngủ của khách sạn, lộ rõ góc áo chẽn mặc trong, trắng muốt như tuyết mới rơi. Chàng nhìn hai đầu gối Mitiko, và càng lúc càng hiểu rõ thêm những mối ngờ vực của Hanaoka là hoàn toàn vớ vẩn. - Ngủ ngon nhé, - chàng nói, tay vuốt nhẹ mái đầu nàng. - Cảm ơn, - Mitiko gật đầu, rồi vừa nhìn theo, vừa nhỏ nhẹ thêm: - nếu chưa thấy đỡ, ông cứ gọi em. Còn lâu em mới ngủ. Mizuta trở về phòng mình. Từ căn phòng Mitiko tiếng xúc xắc lách cách vọng sang đều đều. Nhưng thứ âm thanh đó giờ đây không còn khiến chàng bực tức như xưa, hồi còn trọ lại trong ngôi khách sạn của thành phố cảng. Nếu muốn cả năm quân xúc xắc đều ngả mặt nhất, thì quân nằm chính giữa phải quay quanh mình nó tám vòng, hai quân hai bên - bảy vòng, còn hai quân ở ngoài cùng - năm vòng. Nghĩa là Mitiko vẫn không quên lời chàng nói trên phiến đá bên sông. Nhưng nàng phải mất bao công phu mới gieo được thế. Những quân xúc xắc của đám dân cờ bạc, quân nào cũng ngả mặt nhất, bỗng sáng lên trước mặt Mizuta những sắc màu kì diệu của pháo hoa. “Phơi bày hết ruột gan ra... dù chỉ một lần!...” - trong óc chàng bỗng hiện lại những lời Hanaoka vừa tâm sự. 6 Chuyện này xảy ra vào cái thời các chàng trai có học, bị mê hoặc bởi cái không khí ngự trị trong khu Asakusa, nên đã đua nhau đến tìm chốn nương thân trong các nhà hát ở đấy, và có đến phân nửa đã lấy việc biên kịch, viết bình luận, vẽ quảng cáo làm nguồn vui. Mizuta chính là một chàng trai trong số đó. Nhưng rồi những ấn tượng mới lạ dần đã hóa thành nhàm chán, và lúc này, Mizuta bắt đầu tự hỏi: liệu đã đến lúc phải nói toạc ra lời “từ giã” cuối cùng - dù không phải theo cái cách Noriko đã làm - với tất cả những thứ đó hay chưa? Rất có thể là chàng sẽ ra đi cùng Mitiko để đón lấy những gì chưa từng hay biết? Ý nghĩ khiến chàng trằn trọc mãi, không sao chợp mắt. Từ phòng Mitiko, tiếng gieo xúc xắc vẫn vọng tới đều đều. NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG dịch. CÁNH TAY Em có thể cho anh mượn một cánh tay của em suốt đêm. Nói xong, nàng lấy cánh tay phải từ bờ vai ra, và đặt lên đầu gối tôi bằng bàn tay trái. - Cám ơn em. Tôi nhìn xuống đầu gối. Hơi ấm của cánh tay lan sang. - Em sẽ đeo nhẫn. Để anh nhớ đó là bàn tay em. Nàng mỉm cười và nâng cánh tay trái lên ngực tôi. - Anh tháo hộ em đi. Chỉ còn một tay, nàng khó có thể tự mình tháo nhẫn. - Nhẫn hứa hôn à? - Không, chỉ là vật kỉ niệm thôi. Mẹ em để lại. Đấy là chiếc nhẫn bạc, có nạm kim cương nhỏ. - Có lẽ nó trông giống nhẫn hứa hôn, nhưng không sao. Em vẫn đeo nó, khi em tháo nó ra thì như thể em đang xa mẹ. Nhặt cánh tay trên đầu gối mình lên, tôi lấy nhẫn đeo vào ngón tay áp út của nó. - Đúng ngón này chứ? - Vâng, - nàng gật đầu, - nó trông giống như tay giả nếu khuỷu tay và các ngón cứ duỗi thẳng đơ. Anh sẽ không ưa. Để em làm cho cong hơn. Nàng nhặt cánh tay phải của nàng từ trên đầu gối tôi và hôn nó dịu dàng. Rồi nàng hôn lên các khớp ngón tay. - Sẽ động đậy ngay đấy mà. - Cám ơn em. Tôi lấy cánh tay lại. - Nó sẽ nói chứ em? Sẽ nói chuyện với anh chứ? - Nó chỉ làm điều gì mà một cánh tay có thể làm được. Nếu như nó nói chuyện thì em phải đòi lại thôi. Nhưng cứ thử xem, ít ra nó sẽ lắng nghe anh nói, nếu anh tử tế với nó. - Anh sẽ tử tế mà. - Thôi chào mi, - nàng đưa bàn tay trái sờ vào cánh tay rời như truyền có nó linh hồn của chính nó. - Mi thuộc về anh ấy, nhưng chỉ đêm thôi. Khi nàng nhìn tôi, dường như nàng cố ngăn nước mắt. - Em không nghĩ là anh muốn đổi cánh tay anh với nó, - nàng nói. - Rồi cũng tốt thôi. Muốn thì anh cứ làm. - Cảm ơn em. Tôi đặt cánh tay nàng vào trong áo mưa và bước ra đường phố sương mù. Tôi sợ nếu đi taxi hay xe điện thì có thể bị xem là kì chướng, Sẽ lôi thôi to nếu cánh tay rời của cô gái bỗng dưng kêu to hay khóc lóc. Tôi ôm nó bên ngực mình, dọc bên lườn, bàn tay phải đặt lên bờ tròn từ bên bắp tay. Nó nằm giấu trong áo mưa, và thỉnh thoảng tôi phải lấy bàn tay trái sờ xem cánh tay nàng còn không. Có lẽ tôi không lo về sự còn mất của cánh tay mà lo cho hạnh phúc của mình. Nàng đã lấy cánh tay ra ngay tại điểm mà tôi yêu thích. Nó rất đầy đặn nở nang, - ở trên cùng cánh tay hay ở chỗ nối vào bờ vai? Vẻ tròn trịa này thường gặp ở một người đẹp phương Tây, chứ hiếm thấy ở Nhật. Một vẻ tròn đầy thanh tao trong sạch có ở bản thân cô gái tựa như một bầu khí tỏa ra ánh sáng dìu dịu tươi mát. Khi cô gái không còn trong sạch thì vẻ tròn đầy dịu dàng sẽ tàn tạ,trở nên mềm nhẽo. Có một điều gì đó tồn tại trong khoảnh khắc của đời một cô gái đẹp. Vẻ tròn đầy nơi cánh tay làm tôi cảm thấy vẻ đầy đặn của thân mình nàng. Ngực nàng không lớn, chỉ đủ đựng trong lòng bàn tay, nhưng lại mềm dẻo và mạnh mẽ. Và qua sự tròn đầy của cánh tay tôi có thể cảm thấy đôi chân nàng khi nàng đang bước đi. Đôi chân nàng đưa đi nhẹ nhàng tựa như một con nhím nhỏ, hay một cánh bướm lượn từ hoa này sang hoa khác. Cũng cùng một giai điệu tinh tế ấy rung trên đầu lưỡi nàng khi nàng hôn. Đã đến mùa những chiếc áo không tay. Bờ vai cô gái, mới để trần, có màu sắc của làn da chưa quen với khí trời. Nó có vẻ hây hây của một nụ hoa còn ướt át mùa xuân chưa chịu được phũ phàng mùa hạ. Sáng hôm đó tôi có mua một nụ hoa mộc lan cắm vào lọ thủy tinh, và vẻ tròn đầy của cánh tay cô gái cũng tựa như nụ hoa lớn trắng ngời. Áo nàng khoét sâu hơn hầu hết các áo không tay khác. Hầu như cả bờ vai để trần. Chiếc áo lụa xanh nhung, gần đen nhung, toát ra một vẻ lộng lẫy êm đềm. Triền dốc trên bờ vai cô gái nhẹ nhàng lượn sóng xuống lưng. Nhìn chếch từ phía sau, sẽ thấy làn da từ bờ vai tròn xuống chiếc cổ cao mảnh đến cuối mái tóc buông xõa. Và làn tóc huyền dường như hắt một chiếc bóng lung linh trên bờ vai đầy. Nàng nhận biết rằng tôi thấy nàng xinh đẹp, nên để cho tôi mượn cánh tay phải của nàng đầy đặn ở chỗ nối vai. Giấu kĩ trong áo mưa, cánh tay cô gái mát lạnh hơn bàn tay tôi. Tôi cảm thấy choáng váng vì tim đập nhanh hơn và tôi biết rằng bàn tay mình sẽ nóng lên. Tôi muốn hơi ấm còn mãi, hơi ấm của chính cô gái và sự mát lạnh nơi bàn tay tôi truyền cho tôisự thú vị của cánh tay nàng… Sương mù nhiều hơn, đêm chuyển mưa và mái tóc trần của tôi ướt át .Tôi nghe tiếng đài phát ra từ một hiệu thuốc tây đóng cửa có báo tin có ba chiếc máy bay không thể hạ cánh trong sương mù bao phủ phi cảng đã nửa giờ rồi. Nó còn lưu ý người nghe đài rằng vào đêm ẩm ướt thế này, đồng hồ rất dễ sai lạc, và dây diều sẽ đứt nếu lên quá căng. Tôi đưa mắt tìm ánh đèn của mấy chiếc máy bay lượn vòng, nhưng chẳng thấy gì. Không có bầu trời. Hơi ấm nặng nề tràn ngập vai tôi, gây một âm thanh ướt át, tựa như tiếng quằn quại của vô số con giun đất. Tôi đứng trước hiệu thuốc tây để nghe thêm tin tức. Tôi biết được vào những đêm như thế này thú dữ trong vườn bách thú, sư tử và hổ báo gầm thét cuồng nộ trước khí hậu ẩm ướt, và hãy nghe đấy. Có tiếng gầm như tiếng gầm của đất. Tôi lại biết thêm rằng người đàn bà có thai và người ưu phiền nên đi nghỉ sớm vào những đêm hôm thế này, và phụ nữ nào bôi nước hoa lên làn da của mình thì sau đó sẽ khó mà khử nó đi. Tôi khử được tiếng gầm gừ của thú, còn lời nhắn nhủ về mùi hương thì cứ theo tôi hoài. Tiếng gầm giận dữ đã quấy rối tôi, và tôi bỏ đi vì e rằng nỗi xao xuyến của mình sẽ thấm vào cánh tay cô gái. Cô gái không có thai cũng không ưu phiền, nhưng tôi cảm thấy rằng đêm nay, chỉ còn lại một cánh tay, nàng sẽ nghe lời khuyên của đài mà lặng lẽ lên giường. Mong rằng nàng sẽ ngủ yên. Khi bắt đầu băng qua đường, tôi áp bàn tay lên áo mưa. Một tiếng còi vang lên. Vật gì đó chạm vào hông tôi, và tôi lách mình đi. Có lẽ cánh tay sợ hãi tiếng còi. Các ngón tay đã nắm lại. - Đừng lo, - tôi nói. - Nó còn đằng xa. Nó không thấy đường đi. Cho nên nó kêu inh ỏi. Bởi lẽ đang giữ một vật thiết thân, tôi nhìn cả hai chiều. Tiếng còi xa đến nỗi tôi cho rằng nó dành cho ai khác. Tôi nhìn về hướng nó kêu, nhưng không thây gì. Tôi chỉ thấy ánh đèn pha mà thôi. Khi qua đường rồi tôi đứng lại bên lề nhìn chiếc xe hơi bấm còi lướt qua. Ngồi bên tay lái là một thiếu phụ áo đỏ. Dường như nàng nhìn về phía tôi và gật đầu chào. Tôi muốn chạy đi, sợ rằng chính cô gái đã đến đòi lại cánh tay. Rồi tôi nhớ ra rằng nàng khó có thể lái xe bằng một cánh tay. Nhưng người thiếu phụ trong xe có nhìn thấy tôi đang mang giữ gì không? Nàng không cảm nhận được bằng trực giác phụ nữ hay sao? Tôi cần thận trọng, không để người khác phải gặp mình trước khi về tới nhà. Đèn sau cũng đỏ mờ. Tôi vẫn không nhìn thấy chiếc xe. Trong sương mù xám tro, một vệt mờ màu hoa cà nổi lên và lướt đi. “Cô ta lái xe chẳng để làm gì, tuyệt chẳng để làm gì, chỉ để được lái xe mà thôi. Và trong khi lái cô nàng sẽ tự nhiên tan biến”, - tôi tự nhủ. “Và băng sau có chở gì?” Không có gì cả, rõ ràng thế, chỉ vì tôi mang giữ cánh tay cô gái đi quanh mà tôi cảm thây một sự trống rỗng đè nặng? Chiếc xe cô nàng lái mang theo sương mù của đêm lạnh ẩm. Và cái gì đó nơi nàng đã biến sương đêm thành màu hoa cà trong ánh đèn pha. Nếu không thấy thân hình nàng thì ở đâu phát ra ánh sáng đỏ mờ đó? Có thể cánh tay mà tôi giấu cũng khoác lấy nỗi trống rỗng như một người đàn bà lái xe một mình vào một đêm như thế này? Phải chăng từ trên xe nàng đã gật đầu chào cánh tay cô gái? Có lẽ vào những đêm thế này các thiên thần và hồn ma đang bảo vệ phụ nữ khắp nơi. Có lẽ nàng không lái trên một chiếc xe nhưng trong ánh sáng hoa cà, cuộc lái xe của nàng đã không trống rỗng. Bí ẩn của tôi nàng đã phát hiện ra. Tôi đi thẳng về nhà mà không gặp ai khác. Tôi đứng ngoài cửa lắng nghe. Ánh sáng của một con đom đóm lướt qua đầu tôi và biến mất. Một con đom đóm mà như thế thì quá lớn và quá sáng. Tôi thu mình lại. Nhiều ánh sáng như đom đóm lướt qua. Chúng biến mất ngay cả trước khi sương mù dày đặc cuốn lấy chúng. Phải chăng lửa ma trơi hay một thứ lửa chết chóc nào đang nhảy múa trước tôi, đang chờ tôi về đây? Nhưng rồi tôi thấy rõ đó là một lũ bướm đêm nhỏ. Phản chiếu ánh sáng bên cửa, những cánh bướm nhấp nháy như đom đóm. Chúng lớn hơn đom đóm nhiều, tuy nhiên so với những con bướm đêm khác thì chúng vẫn nhỏ nên cũng dễ lầm. Tránh thang máy, tôi thầm lén đi lên cầu thang hẹp đến tầng ba. Không thuận tay trái, tôi mở cửa khó khăn. Càng cố gắng, bàn tay tôi càng run, - như thể kinh hoàng sau một tội ác. Điều gì sẽ đợi chờ tôi trong phòng, một căn phòng là nơi cô đơn, tôi sống; và cô đơn không là một hiện diện hay sao? Với cánh tay cô gái không còn cô thân nữa. Và vì thế có thể là nỗi cô đơn của tôi đang chờ đợi ở đó để mà dọa dẫm tôi. - Tiến lên, - tôi nói, lấy cánh tay cô gái ra khi cuối cùng đã mở được cửa. - Mời em vào phòng tôi. Tôisẽ bật đèn lên. - Có phải anh đang sợ một điều gì đó? - Cánh tay dường như nói. - Ở đây có gì thế? - Em cho là có gì à? - Em ngửi thấy gì đó. - Mùi à? Chắc là chính tôi mà em ngửi thấy. Em không nhìn thấy dấu vết của bóng tôi, đang ở kia trong bóng tối? Hãy nhìn cho kĩ. Có lẽ bóng tối đang chờ tôi trở lại. - Một mùi dịu ngọt kia. - À, hoa mộc lan, - tôi hân hoan đáp. Tôi mừng rằng đó không phải là cái mùi mốc meo của nỗi cô đơn. Một nụ hoa mộc lan thích hợp với người khách rạng rỡ của tôi. Tôi đã quen với bóng tối. Ngay cả trong bóng tối hun hút tôi cũng nhận biết mọi vật. - Để em bật đèn cho - cánh tay đưa ra một nhận xét kì lạ. - Em chưa vào phòng anh bao giờ. - Cám ơn em. Tôi vui lắm. Chưa có ai ngoài tôi bật đèn ở đây tù trước đến nay. Tôi nâng cánh tay nàng lên chỗ ngắt điện gần cửa phòng. Cả năm ngọn đèn sáng lên lập tức: trên trần, trên bàn, bên giường trong bếp và trong buồng tắm. Tôi không ngờ chúng sáng đến thế. Hoa mộc lan đang nở lớn. Sáng nó còn là nụ. Có thể nó chỉ vừa mới nở, vậy mà đã có nhị rơi trên bàn. Lấy làm lạ, tôi nhìn kĩ nhị rơi hơn là nhìn đóa hoa trắng. Khi tôi nhặt một hai nhị hoa lên mà nhìn thì cánh tay cô gái đang nằm trên bàn bắt đầu động đậy, các ngón nhích tới như sâu đo và gom nhị hoa vào lòng bàn tay mình. Tôi ném các nhị hoa rơi khác vào giỏ rác. - Mùi gắt quá. Nó thấm qua làn da em. Giúp em với. - Hẳn là em mệt rồi. Có phải là chuyến đi thoải mái đâu. Em phải nghỉ ngơi một lát. Tôi đặt cánh tay lên giường và ngồi cạnh nó. Tôi mơn trớn dịu dàng. - Đẹp thật. Em thích nó. Chắc là cánh tay đang khen khăn trải giường. Những bông hoa in ba màu trên nền xanh da trời, có vẻ sinh động đối với một người đàn ông sống một mình. - Vậy đây là nơi chúng ta qua đêm. Em sẽ thật lặng lẽ mới được. - Sao thế? - Em sẽ ở bên anh và không ở bên anh. Bàn tay ấy nắm bàn tay tôi dịu dàng. Các móng được tô một màu hồng nhạt rất khéo. Đầu móng dài hơn ngón tay một cách vừa phải. Bên các móng tay dày và ngắn ngủn của tôi, các móng của nàng có một vẻ đẹp kì lạ như không phải thuộc về con người. Với các đầu ngón tay như thế, một người đàn bà có thể vượt qua nhân tính. Hay là nàng theo đuổi chính nữ tính? Một vỏ ốc sáng ngời từ trong lòng, một cánh hoa đẫm sương, - cũng tựa như thế. Tuy nhiên không có vỏ ốc hay cánh hoa nào mà màu sắc và hình dáng lại giống hệt chúng. Chúng là các móng tay cô gái, không gì sánh được. Trong mượt hơn một vỏ ốc mảnh mai, một cánh mỏng mịn, chúng dường như đang đọng một giọt sương của bi kịch. Đêm ngày, năng lực đổ dồn vào việc tô chuốt vẻ đẹp bi đát này. Nó thấm suốt nỗi cô đơn của tôi. Có lẽ là khát vọng và cô đơn của tôi đã biến hình chúng thành sương. Tôi đặt ngón út của nàng lên ngón trỏ bàn tay còn lại của tôi mà nhìn chiếc móng hẹp dài khi tôi xoa nó bằng ngón tay cái của mình. Ngón tay tôi sờ vào đầu ngón tay nàng ở dưới móng che. Ngón tay nàng cong lại, và cả khuỷu tay cũng thế. - Nhột ư? - Tôi hỏi. - Làm sao mà không nhột được. Tôi nói năng vô ý vô tứ: Biết là đầu ngón tay của đàn bà khi để móng tay dài thường rất nhạy cảm. Như thế là thừa nhận với cánh tay của cô gái rằng tôi đã biết những người đàn bà khác. Từ người đàn bà khác, lớn tuổi hơn và từng trải hơn cô gái có cánh tay này, tôi nghe rằng đầu ngón tay để móng dài thường rất nhạy cảm. Vì như thế chỉ chạm vào đồ vật bằng móng chứ không phải bằng đầu ngón, cho nên đầu ngón dễ nhột khi bị chạm. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên thì người đàn bà tiếp: - Chẳng hạn như khi nấu nướng hoặc ăn uống, có vật gì chạm vào ngón tay thì tức khắc rùng mình như nó bẩn lắm vậy. Vậy là thức ăn bẩn hay đầu móng tay? Cái gì chạm vào ngón tay cũng khiến nàng rùng mình sợ bẩn. Sự sạch sẽ của nàng sẽ để lại một giọt sương bi đát ngay dưới chiếc bóng dài của móng tay. Không thể cho rằng mỗi ngón trên đôi bàn tay đều có cả một giọt sương riêng. Tất nhiên là tôi rất muốn sờ vào các đầu ngón tay , nhưng cố kiềm chế. Nỗi cô đơn kiềm chế tôi. Nàng là một người đàn bà mà thân thể vẫn còn mong giữ lại một vài điểm dịu dàng. Và trên thân thể của cô gái cho tôi mượn cánh tay những điểm ấy còn vô số. Có lẽ, chơi đùa với đầu ngón tay của một cô gái như thế tôi sẽ không cảm thấy tội lỗi mà chỉ thấy trìu mến. Nhưng nàng đâu cho tôi mượn cánh tay để mà nghịch ngợm. Tôi không được giễu cợt thiện ý của nàng. - Cửa sổ. Tôi quên rằng cửa sổ đang mở mà màn thì chưa được kéo che. - Sợ bị nhìn ngó à? - Cánh tay cô gái hỏi. - Biết đâu chẳng có người đàn ông hay đàn bà nào đấy. Chứ có sợ điều gì khác đâu. - Không có người nào sẽ thấy tôi. Họa chăng chỉ có bản ngã mà thôi. Bản ngã của anh đấy. - Bản ngã? Đó là cái gì? Nó ở đâu? - Ở xa. - Cánh tay nói, như thể hát ru. - Con người đi quanh tìm kiếm bản ngã, ở xa. - Và sẽ gặp chứ? - Ở xa. - Cánh tay nhắc lại. Tôi thấy dường như cánh tay và cô gái đang xa cách vô tận. Làm sao cánh tay có thể trở lại với cô gái trong xa xôi thế? Làm sao tôi đưa nó trở về, trong xa xôi thế? Cánh tay tin yêu tôi nằm lặng lẽ, nhưng mà cô gái có ngủ trong cùng niềm tin lặng lẽ không? Sẽ không khó ngủ hay ác mộng chứ? Nàng đã không nuốt lệ khi chia tay sao? Cánh tay đang ở phòng tôi, mà cô gái thì chẳng ai thăm. Hơi ẩm che mờ cửa sổ, như làn da bụng của một con ếch đã căng che khung cửa. Sương mù dường như đã ôm giữ mưa giữa trời, và bóng đêm ngoài cửa không còn chứa một khoảng cách nào, dù nó đang vùi mình trong một khoảng cách vô biên. Chẳng thấy mái nhà nào, chẳng nghe tiếng còi nào. - Tôi che cửa sổ đây. - Tôi nói, với tay tới màn cửa. Trời quá ẩm thấp. Gương mặt tôi hiện lên trên kính cửa, trẻ hơn tôi đang tuổi ba mươi ba. Tuy vậy, tôi vẫn kéo màn che. Gương mặt của tôi biến mất. Một khung cửa sổ bất chợt mở ra trong trí nhớ. Trên tầng chín của một khách sạn, hai cô bé mặc váy đỏ rộng đang chơi đùa bên cửa. Hai đứa trẻ giống y nhau mặc quần áo như nhau, có lẽ sinh đôi người phương Tây. Chúng nện kính cửa, húc vai vào và xô đẩy nhau. Mẹ chúng đang khâu, lưng đưa về cửa sổ. Nếu như khung kính lớn vỡ toang hay tuột ra, chúng sẽ rơi từ lầu chín xuống đất. Chỉ có tôi là lo lắng. Mẹ chúng thì chẳng mảy may quan tâm. Thật ra kính rất dày, không có gì phải lo. - Đẹp lắm, - cánh tay trên giường cất tiếng khi tôi từ bên cửa sổ quay về. Có lẽ nàng đang khen chiếc màn cửa, cùng kiểu hoa như khăn trải giường. - Thế à? Nhưng nó bạc màu vì nắng và đã muốn tả tơi. Tôi ngồi xuống giường và lấy cánh tay đặt lên đầu gối của mình. - Đây mới thật là đẹp. Đẹp hơn bất cứ điều gì. Tôi đưa tay phải nắm lấy bàn tay trái của nàng và đưa tay trái đỡ lấy chỗ nối vai. Rồi tôi gập duỗi cánh tay của nàng. - Nghiêm trang đấy nhé, - cánh tay nói, dường như mỉm cười dịu dàng. - Thích chứ? - Không đâu. Một nụ cười lướt trên cánh tay, như ánh sáng hắt qua nó. Y như nụ cười tươi mát trên bờ môi của cô gái. Tôi quen nụ cười . Tì khuỷu tay trên bàn, nàng sẽ tựa má hay cầm lên đôi bàn tay đang đắp điếm nhau. Dáng dấp dường như thiếu trang nhã ở một cô gái trẻ - nhưng nó lại phảng phất một vẻ thu hút. Thành ngữ “tì khuỷu tay trên bàn” chẳng còn đáng kể nữa. Vẻ tròn đầy của bờ vai, ngón tay, cằm, đôi má, đôi tay, chiếc cổ cao, mái tóc, tất cả hòa hợp nhịp nhàng. Dao nĩa trong các ngón tay nàng lướt nhẹ thuần thục. Thức ăn đi qua bờ môi nhỏ ấy và nàng nuốt nhẹ - như không phải một người đang ăn mà là một nhạc điệu quyến rũ của đôi bàn tay, gương mặt và cổ đang ngâm nga. Ánh sáng và nụ cười của nàng trôi thoáng qua làn da cánh tay. Cánh tay có vẻ mỉm cười là do khi tôi gập lại, các làn sóng nhẹ gợn trên bắp thịt mềm dẻo làm rung ánh sáng và bóng tối trên làn da mịn màng. Mới đây, khi tôisờ lên các đầu ngón dưới những móng tay để dài, ánh sáng lướt qua cánh tay lúc khuỷu tay gập lại đã chiếu hắt vào mắt tôi. Chính vì thế mà tôi đã gập duỗi cánh tay nàng chứ chẳng có ý xấu gì. Ngừng lại, tôi nhìn cánh tay nằm dài trên đầu gối mình. Ánh sáng và bóng tối mát mẻ vẫn còn lướt trên đấy. - Em hỏi tôi có thích không. Chắc em biết là tôi được phép đổi cánh tay tôi cho em? - Biết. - Tôi vẫn sợ. - Thế à? - Tôi đổi nhé. - Vâng. Tôi nghe lời chấp thuận ấy, và tự hỏi có nên không. - Hãy nhắc lại. Nói “vâng” nữa đi. - Vâng, vâng. Tôi nhớ rồi. Đó là giọng của một người đàn bà đã quyết định hiến thân cho tôi. Nàng không đẹp như cô gái đã cho tôi mượn cánh tay nàng. Dường như nàng có một vẻ gì là lạ. - Vâng, nàng nhìn tôi đăm đắm mà nói. Tôi đưa các ngón tay lên khép đôi mắt nàng lại. Giọng nàng run rẩy. - “Jesu khóc. Rồi các người Do Thái nói: Hãy nhìn xem ông ta yêu nàng biết bao!” “'Nàng” thay vì “hắn”. Đó là câu chuyện người chết Lazarus. Có thể vì là đàn bà, nàng nhớ lầm, có thể nàng cố ý đổi chữ. Lời nói dù không ăn nhập với tình cảnh này đã làm tôi xúc động. Tôi nhìn nàng không biết lệ có trào ra từ đôi mắt khép không? Nàng mở mắt và định ngồi dậy. Tôi đẩy nàng nằm xuống. - Anh làm em bị xước da rồi! - Nàng đưa tay sờ phía sau đầu. Có một vết máu nhỏ trên nền gối trắng. Vạch tóc nàng, tôi kề môi vào giọt máu còn đọng nơi vết xước. “Không sao đâu!” Nàng gỡ hết tất cả kim cài tóc ra. “Em dễ chảy máu. Chỉ cần xước nhẹ”. Một chiếc kim cài tóc đã chạm da nàng. Vai nàng dường như khẽ rung nhưng nàng cố trấn tĩnh. Dù tôi tưởng mình hiểu được cảm giác một người đàn bà lúc hiến thân, vẫn có gì bất ngờ trong hành động của nàng. Chuyện gì xảy ra với nàng? Tại sao nàng lại muốn làm thế, tại sao nàng lại chủ động? Tôi không thể chấp nhận hoàn toàn sự hàng phục, cả khi biết rằng thân thể mọi người đàn bà sinh ra là để hàng phục. Ngay cả bây giờ, dù tôi già rồi, chuyện vẫn có vẻ lạ lùng. Và các phương cách mà nhiều người đàn bà khác nhau đã thực hiện: cứ cho là mỗi người một phách, hay tương tự nhau, hay thậm chí là đồng nhất. Không lạ lùng sao? Có thể sự kì lạ mà tôi cảm thấy của một người nhiều tuổi hơn. Hay có thể là sự suy nhược tinh thần nào đó tôi đã lâm vào. Nỗi xao xuyến của nàng không giống như những người đàn bà khác khi hàng phục. Mà nỗi xao xuyến cũng chỉ xảy ra với nàng một lần duy nhất. Sợi chỉ bạc đứt rồi, chén vàng đã vỡ. """