"Tuyến Hỏa Xa Ngầm - Colson Whitehead & Nguyễn Bích Lan (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyến Hỏa Xa Ngầm - Colson Whitehead & Nguyễn Bích Lan (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo [ebook©vctvegroup] TUYẾN HỎA XA NGẦM —★— Tác giả: Colson Whitehead Người dịch: Nguyễn Bích Lan Phát hành: NXB Phụ Nữ 2019 Dành tặng Julie AJARRY L ần đầu tiên Caesar rủ Cora bỏ trốn lên miền Bắc, cô nói không. Đó là lời bà của cô truyền lại. Trước cái buổi trưa nắng chói chang ấy ở cảng Ouidah, bà của Cora chưa từng nhìn thấy biển và sau một thời gian ở trong hầm ngục của pháo đài, đại dương mênh mông khiến bà hoa mắt. Cái hầm ngục ấy đã giam giữ họ cho tới khi những con tàu tới. Những kẻ tấn công người Dahomey[1] bắt cóc đàn ông trước, sau đó vào tuần trăng tiếp theo, quay trở lại làng của bà bắt phụ nữ và trẻ con, xích họ lại và buộc họ đi thành hàng dài, hai người một, ra biển. Nhìn ra phía cửa tối om, Ajarry cứ nghĩ bà sẽ được đoàn tụ với cha mình ở dưới đó, trong bóng tối. Những người cùng làng còn sống nói cho bà biết rằng, khi cha bà không thể theo kịp đoàn người, những kẻ buôn bán nô lệ đã đánh vỡ đầu cụ và vứt xác cụ bên đường. Mẹ của bà đã qua đời từ nhiều năm trước. Trên đường tới pháo đài, bà của Cora đã bị những kẻ buôn nô lệ đổi đi bán lại vài lần để lấy vỏ ốc và chuỗi hạt thủy tinh. Khó mà biết được ở Ouidah người ta đã trả bao nhiêu để mua bà khi mà bà chỉ là một phần nhỏ của số đông nô lệ được mua bán theo mẻ, tám mươi tám con người được bán với giá sáu mươi thùng rượu rum và thuốc súng, một cái giá được ấn định sau cuộc mặc cả thông thường bằng thứ tiếng Anh của dân miền duyên hải. Đàn ông vạm vỡ và phụ nữ mang thai có giá hơn trẻ vị thành niên, bởi vậy việc tính giá của từng nô lệ trở nên khó khăn. Tàu Nanny ở ngoài khơi Liverpool và trước đó đã dừng tại hai điểm dọc bờ biển Vàng. Viên thuyền trưởng mải sắp xếp các món hàng tậu được, không nhận ra mình đang điều khiển một con tàu chở văn hóa và khuynh hướng lạ lùng. Ai mà biết được đám người bị bắt giữ này có thể nung nấu kiểu nổi loạn gì nếu họ nói cùng một ngôn ngữ. Đây là cảng cuối con tàu ghé vào trước khi họ vượt Đại Tây Dương. Hai thủy thủ tóc vàng chèo thuyền đưa Ajarry từ bờ ra chỗ con tàu đang đậu kêu xình xịch. Da họ trắng nhởn như xương. Không khí độc hại của pháo đài, nỗi u uất của tình trạng bị giam cầm, và những tiếng kêu gào của những người bị xích chung khiến Ajarry phát điên. Vì khi đó bà còn ít tuổi, những kẻ bắt giữ Ajarry không ép buộc bà ngay tức thì, nhưng cuối cùng một số người dày dạn hơn ở cùng buồng giam đã kéo bà từ cuộc giam giữ sáu tuần vào chuyến hải hành đó. Trên đường sang Mỹ bà đã cố tự tử hai lần, một lần bằng cách tuyệt thực và một lần - trầm mình xuống biển. Trong cả hai lần, các thủy thủ vốn rất giỏi phát hiện những mưu đồ hoặc cảm xúc của nô lệ, đều ngăn chặn được bà. Khi định nhảy xuống biển, thậm chí Ajarry còn không kịp di chuyển ra thành tàu. Dáng điệu ngờ nghệch và vẻ ngoài đáng thương không lẫn với hàng nghìn nô lệ khác bị bắt đi trước bà đã phản bội ý định của bà. Bà bị xích từ đầu đến chân, từ chân lên đầu, với nỗi khổ sở nhân lên gấp nhiều lần. Mặc dù đã cố gắng để không ly tán trong cuộc bán đấu giá ở Ouidah, những người thân trong gia đình bà vẫn bị bán cho cánh buôn nô lệ người Bồ Đào Nha - từ tàu Vivilia, bốn tháng sau đó nó lênh đênh ngoài khơi cách Bermuda mười dặm. Bệnh dịch đã kết liễu mọi người trên tàu. Nhà chức trách cho đốt tàu, theo dõi nó kêu răng rắc rồi chìm nghỉm. Bà của Cora không biết gì về số phận của con tàu ấy. Từ đó đến hết cuộc đời, bà cứ tưởng tượng rằng các anh chị em họ vẫn đang phục vụ những ông chủ hào phóng và tốt bụng ở miền Bắc, sau những cuộc buôn bán nô lệ dễ chịu hơn của bà, họ dệt vải và quay sợi, không phải làm việc vất vả ngoài đồng. Trong những câu chuyện bà kể, Isay, Sidoo và những anh chị em khác bằng cách nào đó đã thoát khỏi kiếp nô lệ, sống như người tự do ở thành phố Pennsylvania - một nơi bà đã nghe lỏm được hai người trắng nhắc đến. Ảo cảnh ấy mang đến cho Ajarry cảm giác nhẹ nhõm bởi gánh nặng của bà cứ chực làm bà vỡ vụn ra thành nghìn mảnh. Lần tiếp theo bà của Cora bị bán là sau một tháng nằm nhà thương tại đảo Sullivan, khi các bác sĩ xác nhận bà và những nô lệ khác trên tàu Nanny đã khỏi bệnh. Lại một ngày bận rộn ở điểm đấu giá. Một phiên đấu giá lớn luôn thu hút đám đông với đủ màu da. Những gã con buôn và lũ dắt gái từ phía Bắc và phía Nam vùng duyên hải đổ về Charleston, kiểm tra mắt, khớp, xương sống của các món hàng, đồng thời tỏ ra dè chừng bệnh hoa liễu cùng những bệnh tật khác. Đám đông xem đấu giá nhai sò tươi, ngô nóng trong lúc cánh rao bán nói oang oang. Các nô lệ trần truồng đứng trên bục đấu giá. Cuộc chiến mặc cả đã nổ ra vì một nhóm trẻ Ashanti, giống người Phi nổi tiếng là chăm chỉ và khỏe mạnh; thế rồi lão đốc công của mỏ đá vôi đã mua được cả mớ sau trận mặc cả đầy sửng sốt. Bà của Cora nhìn thấy một đứa con trai trong đám trẻ nhút nhát ấy ăn kẹo pha lê và tự hỏi không biết cậu ta đang bỏ cái gì vào miệng. Ngay trước hoàng hôn một tay đại lý mua Ajarry với giá hai trăm hai mươi sáu đô la. Đáng lẽ bà được mua với giá cao hơn nhưng vì mùa đó đang thừa mứa những đứa con gái nhỏ tuổi. Bộ com-lê của gã đàn ông đó được may bằng thứ vải trắng nhất mà Ajarry từng thấy. Những chiếc nhẫn đá quý lấp lánh trên tay ông ta. Khi ông ta véo vú Ajarry để kiểm tra xem đứa con gái ông ta định mua đã dậy thì hay chưa, bà cảm thấy mặt kim loại lạnh lẽo trên da mình. Ajarry bị dán nhãn, không phải lần đầu tiên hay lần cuối cùng, và bị xích chung với đám nô lệ ông ta mua được trong ngày. Tối hôm ấy đàn nô lệ bị xích giằng vào nhau thành hàng dài lảo đảo lê bước về phía Nam sau chiếc xe độc mã của gã buôn nô lệ. Lúc đó tàu Nanny, đầy ắp đường và thuốc lá sợi, đang trong hành trình quay về Liverpool. Tiếng kêu thét dưới hầm tàu vơi bớt. Có thể bạn nghĩ rằng bà của Cora bị nguyền, bà bị bán nhiều lần, bị đổi chác, rồi lại bị bán trong suốt những năm sau đó. Chủ của bà cứ thế lâm vào cảnh lụn bại, thường xuyên đến mức đáng ngạc nhiên. Người chủ đầu tiên bị một kẻ bịp bợm lừa bán cho một cái máy làm sạch bông nhanh gấp hai lần máy Whitney. Nếu cứ dựa trên lý thuyết thì máy hoạt động tốt lắm, vậy mà rốt cuộc Ajarry là một món tài sản khác bị đem đi thanh toán nợ theo lệnh của quan tòa. Giá bán bà là hai trăm mười tám đô la - cuộc trao đổi diễn ra chóng vánh, và bà rớt giá do tình hình thực tế ở chợ địa phương. Một người chủ khác của Ajarry chết vì chứng phù thũng, bà vợ góa của ông ta liền đem bán tài sản để gom tiền trở về quê hương châu Âu - nơi không nhiễm bệnh dịch. Ajarry lại thuộc sở hữu một chủ nô xứ Wales trong ba tháng, rồi ông ta đã cược bà, ba nô lệ khác cùng hai con lợn thiến trong một lần chơi bài Uýt. Và chuyện tiếp tục như vậy. Giá của bà lên xuống thất thường. Khi bị mua đi bán lại nhiều lần đến vậy, đời dạy bạn phải chú ý. Bà học cách thích nghi nhanh chóng với các đồn điền mới, nhận biết những kẻ đánh đập người da đen trong số đám người tàn ác đơn thuần, phân biệt kẻ vô công rồi nghề với người chăm chỉ, kẻ chỉ điểm với người biết giữ bí mật. Các ông chủ, bà chủ độc ác muôn màu vẻ, những lãnh địa chứa đựng đống của cải và tham vọng khác nhau. Đôi khi chủ đồn điền chẳng muốn gì hơn ngoài một đời sống tàm tạm, thế nhưng cũng có những quý ông quý bà muốn sở hữu cả thế giới, làm như chỉ cần một diện tích đất đủ rộng là sở hữu được cả thế giới vậy. Hai trăm bốn mươi tám, hai trăm sáu mươi, hai trăm bảy mươi đô la. Hễ bà bị bán đi đâu thì y như rằng đó là nơi trồng mía, trồng tràm, trừ một lần bà bị bán làm nô lệ cuộn thuốc lá để rồi tuần sau lại bị bán tiếp. Một gã buôn nô lệ đến đồn điền trồng thuốc lá ấy tìm nữ nô lệ đang ở tuổi sinh đẻ, thích họ còn nguyên vẹn hàm răng và dỗ bảo. Ajarry bấy giờ đã là thiếu nữ nên bà bị bán đi. Bà biết rằng các nhà khoa học của người da trắng thường quan sát kỹ sự vật để hiểu cơ chế hoạt động. Những ngôi sao chuyển dịch trong đêm, các thể dịch kết hợp trong máu. Họ nghiên cứu cả điều kiện nhiệt độ để có vụ bông bội thu. Ajarry cũng tự “nghiên cứu khoa học” về cơ thể da đen của bà, từ đó nắm được một số quy luật. Mỗi điều đều có một giá trị và khi giá trị ấy thay đổi, mọi thứ khác cũng thay đổi. Một quả bầu vỡ làm sao giá trị bằng một quả bầu đựng được nước, một lưỡi câu với con cá trê mắc vào thì có giá hơn một lưỡi câu thả mồi. Ở Mỹ mỉa mai thay con người chính là đồ vật. Tốt nhất bạn đừng chuốc lấy thiệt hại khi mua một ông già không sống nổi qua cuộc hành trình vượt đại dương. Một thằng bé trai trẻ xuất thân từ bộ lạc khỏe mạnh mới thu hút được khách hàng. Một đứa con gái nô lệ có thể sinh nở là nguồn thu vô tận, thứ tài sản đẻ ra tiền. Nếu bạn là đồ vật - xe ngựa, ngựa hoặc một nô lệ - giá trị của bạn sẽ định nghĩa những tiềm năng của bạn. Ajarry biết thân biết phận mà. Cuối cùng bà đến Georgia. Một đại diện của đồn điền Randall đã mua Ajarry với giá hai trăm chín mươi hai đô la, dù đôi mắt mới trở nên trống rỗng kia khiến bà trông có vẻ ngớ ngẩn. Từ đó cho đến hết đời, bà chưa bao giờ hít thở dù chỉ một hơi bên ngoài lãnh địa Randall. Bà đã ở nhà, trên hòn đảo này, chẳng thấy gì ngoài nó. Bà của Cora lấy chồng ba lần. Bà thích đàn ông có đôi vai rộng và đôi tay lớn, giống như ông già Randall, mặc dù chủ nô và nô lệ của ông ta có quan niệm về lao động thật khác nhau. Hai đồn điền đầy ắp nô lệ, chín mươi nô lệ da đen ở nửa phía bắc, tám mươi lăm nô lệ ở nửa phía nam. Thường thì Ajarry tự chọn lấy. Khi không thể lựa chọn, bà kiên nhẫn chờ. Người chồng đầu tiên của bà nghiện rượu whiskey nấu từ ngô và dùng chính đôi tay to bản để tung những quả đấm ra trò. Ajarry chẳng lấy làm buồn khi nhìn ông chồng khuất dạng ở cuối con đường - khi họ bán ông ta cho một đồn điền trồng mía ở Florida. Sau đó bà lấy một trong những chàng trai dễ thương ở nửa phía nam. Trước khi qua đời vì dịch tả, ông thích chia sẻ những câu chuyện trong Kinh Thánh, phải nói rằng người chủ cũ của ông có suy nghĩ phóng khoáng hơn về tôn giáo và nô lệ. Ajarry thích những câu chuyện ấy, rồi thì truyện ngụ ngôn, và cho rằng người da trắng có một quan điểm đúng đắn: Được nói về sự cứu rỗi có thể gợi cho người Phi - lũ con trai tội nghiệp của Ham[2]- lắm ý tưởng. Người chồng cuối cùng của bà bị khoan thủng tai vì tội ăn cắp mật ong. Vết thương nhiễm trùng rồi ông lìa đời. Ajarry sinh năm con với ba người đàn ông đó, tất cả đều chào đời trên những tấm ván gỗ của căn lều, chỗ mà bà thường chỉ tay vào khi con bà mắc lỗi. Mày sinh ra từ chỗ đó và mẹ sẽ đặt mày trở lại nếu mày không nghe lời. Bà dạy các con biết nghe lời mẹ, và có thể chúng sẽ nghe lời tất cả những chủ nô sau này và nhờ vậy chúng mới sống sót. Hai con của bà chết khổ sở vì dịch sốt. Một đứa con trai đứt chân vì chơi trên cái cày gỉ sét khiến vết thương bị nhiễm trùng. Đứa con út vĩnh viễn không tỉnh lại sau khi bị ông chủ lấy một thanh gỗ đánh vào đầu. Hết đứa này đến đứa kia chết. Chí ít thì chúng sẽ không bao giờ bị bán nữa, một phụ nữ lớn tuổi hơn đã bảo Ajarry như vậy. Đúng thế thật - hồi ấy Randall hiếm khi bán lũ con nít. Vậy là bà còn biết lũ con của mình chết ở đâu, chết như thế nào. Đứa sống sót qua tuổi lên mười là Mabel, mẹ Cora. Ajarry chết trên ruộng bông, những quả nang bông nhấp nhô quanh bà như sóng bạc đầu trên đại dương vần vũ. Hình ảnh cuối cùng về ngôi làng của bà, đổ nhào giữa những hàng bông từ một chỗ bị tắc nghẽn trong não, máu chảy ra từ mũi bà, bọt trắng trào trên môi bà. Cứ như thể đó là một nơi nào khác. Tự do được dành cho người khác, cho những công dân của thành phố Pennsylvania hối hả cách xa cả nghìn dặm về phía bắc. Kể từ cái đêm bị bắt cóc bà đã bị định giá đi định giá lại, mỗi ngày đều thức dậy trong tiếng gõ búa chốt giá mới. Biết giá của bản thân, bạn sẽ biết chỗ của bạn theo thứ tự. Thoát khỏi ranh giới của đồn điền là nằm ngoài những nguyên lý tồn tại cơ bản của bạn: thật bất khả thi. Cora vẫn nhớ lời bà dạy, vào buổi tối Chủ nhật đó - khi Caesar bảo cô về tuyến hỏa xa ngầm và cô đã nói không. Ba tuần sau thì cô đồng ý. Lần này là mẹ cô truyền lại. GEORGIA Treo thưởng ba mươi đô la Ngày mùng 5 tháng này một đứa con gái da đen tên là LIZZIE đã bỏ trốn khỏi người ký tên dưới đây hiện đang sống ở Salisbury. Ả được cho là đang lảng vảng gần đồn điền của bà Steel. Tôi sẽ thưởng số tiền nói trên cho ai giao nộp đứa con gái đó, hoặc cho bất cứ ai cung cấp thông tin ả đang ở nhà ngục nào thuộc bang này. Mọi người đã được cảnh báo rằng hành vi che giấu đứa con gái đó sẽ phải chịu sự trừng phạt của pháp luật hiện hành. W.M. DIXON Ngày 18 tháng Bảy 1820 M ỗi năm sinh nhật của Jockey chỉ diễn ra một hoặc hai lần. Họ cố gắng mừng sự kiện đó thật rôm rả. Đó luôn là ngày Chủ nhật, đúng hơn là nửa ngày của họ. Vào lúc ba giờ chiều, các đốc công báo hiệu kết thúc công việc và nửa phía bắc nhộn nhịp chuẩn bị, hối hả làm những việc lặt vặt. Sửa chữa, quét rêu, vá những chỗ dột trên mái nhà. Buổi liên hoan được ưu tiên, trừ khi bạn có giấy phép vào thị trấn để bán đồ thủ công hoặc đã được thuê làm việc theo ngày. Ừ thì bạn có thể từ bỏ món tiền làm thêm cũng được - mà chẳng ai có ý như vậy - nhưng không có chuyện một nô lệ đủ hỗn xược để nói với một người da trắng rằng anh ta không làm việc vì hôm đó là ngày sinh nhật của một nô lệ khác. Ai cũng biết “mọi” làm gì có sinh nhật. Cora ngồi trên khúc gỗ thích bên rìa miếng đất của cô, cạy đất dưới móng tay. Khi có thể, Cora góp củ cải hoặc rau xanh cho các bữa liên hoan mừng sinh nhật, nhưng hôm nay cô chẳng có gì cả. Ai đó, có lẽ là một trong những đứa con trai mới đến, đang kêu la ở ngoài con đường nhỏ, tiếng kêu chưa bị Connelly dập tắt hoàn toàn, và những tiếng hét oang oang cho thấy một cuộc tranh cãi. Những giọng nói nghe nhấm nhẳn hơn là giận dữ, nhưng ồn ĩ. Nếu chưa gì mọi người đã huyên náo thế này thì sinh nhật sẽ đáng nhớ lắm đây. “Nếu cậu có thể chọn sinh nhật của mình thì đó sẽ là ngày nào?” Lovey hỏi. Cora không nhìn rõ khuôn mặt của Lovey bởi mặt trời lóa gắt nằm sau lưng cô, nhưng cô biết vẻ mặt của bạn mình lúc đó. Lovey là con người đơn giản, vả lại tối hôm đó sẽ có một buổi liên hoan mừng sinh nhật. Lovey hãnh diện về những dịp giải trí hiếm hoi này, dù đó là sinh nhật của Jockey, lễ Giáng sinh, hay một đêm của vụ thu hoạch - khi tất cả những ai có hai tay đều thức để hái bông, và Randall sai các đốc công phân rượu whiskey ngô cho họ để họ thêm hăng hái. Vẫn là lao động thôi, nhưng trăng sáng khiến công việc được thuận lợi. Lovey là người đầu tiên bảo tay kéo đàn vĩ cầm hãy chơi nhạc thật nhộn và là người đầu tiên nhảy múa. Cô cố kéo Cora bấy giờ đứng bên rìa vào nhảy múa, thậm chí phớt lờ khi Cora phản đối. Như thể họ sẽ xoay tít, tay trong tay, và trong mỗi vòng xoay Lovey lại thoáng gặp ánh mắt của một anh chàng, và Cora sẽ bắt chước cô. Nhưng Cora không bao giờ nhảy cùng Lovey mà giật tay ra. Cô chỉ xem thôi. “Tớ đã nói cho cậu biết tớ sinh ngày nào rồi mà”, Cora nói. Cô chào đời vào mùa đông. Mẹ của cô, bà Mabel, đã thở than đủ nhiều về lần sinh nở khó khăn ấy, về cái buổi sáng hiếm hoi ngợp sương giá ấy, về tiếng gió hú lùa vào căn lều chắp vá. Rằng bà bị rong huyết nhiều ngày mà Connelly chẳng buồn gọi bác sĩ cho tới khi trông bà như ma rồi. Thỉnh thoảng đầu óc Cora chơi khăm cô và cô biến câu chuyện đó thành một trong những ký ức của mình, lồng vào đó khuôn mặt của những con ma, của tất cả những nô lệ đã chết - những người nhìn xuống cô đầy yêu thương, trìu mến. Thậm chí cả những người cô ghét, những người đã đá cô hoặc cướp miếng ăn của cô khi mẹ cô vắng mặt. “Nếu cậu có thể chọn”, Lovey nói. “Tớ không thể chọn”, Cora nói. “Điều đó đã được quyết định cho chúng ta rồi.” “Tốt nhất cậu nên tự cải thiện tâm trạng đi”, Lovey nói. Rồi cô chạy khỏi đó. Cora xoa xoa bắp chân, cảm thấy biết ơn vì khoảng thời gian chân cô được nghỉ ngơi. Có liên hoan hay không, đây vẫn là nơi Cora tìm đến mỗi Chủ nhật khi nửa ngày làm việc kết thúc: ngồi trên “cái ghế” quen thuộc của cô, tìm kiếm những thứ để mà sửa sang. Mỗi tuần cô được làm chủ bản thân trong vài giờ, để nhổ cỏ, bắt sâu bướm cho đám rau chua, và nhìn trừng trừng bất cứ ai định xâm phạm địa phận của cô. Chăm sóc luống rau là vì cô cần rau ăn, nhưng đó cũng là thông điệp cho thấy lòng quyết tâm nơi cô không suy chuyển kể từ hôm xảy ra vụ bổ rìu. Đất dưới chân cô hàm chứa một câu chuyện, câu chuyện xa xưa nhất mà Cora biết. Lúc Ajarry bắt đầu trồng trọt ở đó, ngay sau khi cuốc bộ đến đồn điền, miếng đất này chỉ toàn đất đá với cây bụi nằm sau căn lều của bà ở cuối khu nô lệ. Phía bên kia là những cánh đồng, rồi là đầm lầy. Bỗng một đêm Randall mơ về biển trắng xóa trải dài ngút tầm mắt và ông ta chuyển từ trồng tràm sang trồng giống bông Sea Island. Ông ta đã bắt mối làm ăn mới ở New Orleans, bắt tay với những kẻ đầu cơ được Ngân hàng Anh quốc hậu thuẫn. Chưa bao giờ tiền chảy về nhiều đến thế. Châu Âu đang đói bông và cần được thỏa cơn đói bằng hết kiện bông này đến kiện bông khác. Một hôm, cánh đàn ông phát quang cây cối và buổi tối - khi đi làm đồng về bọn họ đẵn gỗ để dựng những dãy lều mới. Bây giờ nhìn mọi người chạy ra chạy vào chuẩn bị cho bữa liên hoan, Cora khó có thể hình dung cái thời mười bốn căn lều chưa mọc lên. Vì vẻ cũ kỹ, vì những lời thở than thấm vào tận thớ gỗ của mỗi bậc lên xuống, những căn lều mang đặc điểm cố hữu của những ngọn đồi ở phía tây, của những con lạch cắt đôi lãnh địa. Những căn lều lâu năm nên thường khơi gợi cảm giác muôn thuở của đám người từng sinh sống, từng lìa đời ở đó: nỗi đố kỵ và oán hận. Nếu họ chừa nhiều khoảng trống hơn giữa những căn lều cũ và mới thì qua năm tháng đau khổ sẽ bớt đi nhiều. Người da trắng tranh cãi ầm ĩ trước mặt thẩm phán để giành quyền sở hữu vùng đất này vùng đất kia, những mảnh đất trải dài hàng trăm dặm đã được chia nhỏ trên bản đồ. Còn các nô lệ cãi nhau hăng chẳng kém vì khoanh đất nhỏ xíu dưới chân họ. Miếng đất xen giữa những căn lều là chỗ để buộc một con dê, dựng một chuồng gà, trồng cây lương thực bổ sung thức ăn cho cái dạ dày của bạn ngoài món cháo khoai tây được nhà bếp bố thí vào mỗi sáng. Ấy là trong trường hợp bạn đến trước nhé. Còn khi Randall, sau đó là các con trai ông ta, tính bán bạn đi, thì hợp đồng chưa ráo mực đã có người cướp miếng đất của bạn rồi. Nhìn bạn đứng đó trong buổi tối yên tĩnh, tủm tỉm cười hoặc ngâm nga hát, hàng xóm của bạn có thể bất chợt muốn ép bạn từ bỏ miếng đất nhỏ xíu ấy bằng đủ kiểu hăm dọa, khiêu khích. Ai sẽ nghe bạn kêu van nào? Chẳng có quan tòa nào ở đây hết. “Nhưng bà ngoại con còn lâu mới cho phép họ động vào ruộng của bà”, Mabel nói với con gái. Nói vui là ruộng vậy thôi, chứ miếng đất của Ajarry chỉ chưa đầy ba thước vuông. “Bà đe bà sẽ đập búa vào đầu họ nếu họ dám nhòm ngó nó”. Hình ảnh bà ngoại tấn công một nô lệ khác không giống dòng hồi tưởng của cô về bà, nhưng khi Cora bắt đầu trông nom miếng đất, cô hiểu đó là sự thật. Ajarry canh giữ mảnh vườn của bà qua nhiều đời thịnh vượng. Gia đình Randall mua phần đất trải dải về phía bắc của nhà Spencer, khi nhà này quyết định đến miền tây thử vận may. Họ mua tiếp một đồn điền nữa ở phía nam và chuyển từ trồng lúa sang trồng bông, dựng thêm ở mỗi dãy hai căn lều, nhưng miếng đất của Ajarry vẫn nằm giữa, không xê dịch, giống như một gốc cây đã cắm rễ quá sâu. Sau khi Ajarry qua đời, Mabel là người chăm sóc đám khoai lang cùng mướp tây, và bất cứ giống cây gì bà thích. Rắc rối bắt đầu khi Cora thừa hưởng miếng đất đó. Mabel biến mất, Cora trở thành đứa trẻ bơ vơ. Mười một tuổi, mười tuổi, tầm đó - không ai có thể nói chính xác bấy giờ cô bao nhiêu tuổi. Cora bị sốc đến mức thế giới chỉ còn những ấn tượng xam xám. Sắc màu đầu tiên dội lại là màu nâu đỏ trên miếng đất của gia đình cô. Nó làm cô nhớ đến những người và vật, cô quyết định giữ đất dù còn ít tuổi, bé nhỏ, và chẳng biết nương tựa vào ai nữa. Mabel quá kiệm lời và cứng đầu nên ít ai quý mến mẹ cô, nhưng mọi người đều kính nể Ajarry. Cái bóng của bà ngoại che chở cho cô. Hầu hết nô lệ của ông già Randall đều đã nằm dưới mồ hoặc bị bán đi, một số người thì bỏ trốn. Liệu còn ai trung thành với bà của cô không? Cora đi tìm quanh làng: Không còn ai. Họ chết cả rồi. Cô đấu tranh cho miếng đất. Có vài con sâu nhỏ, chẳng đáng để bắt. Cora đuổi lũ bọ bé xíu đang thám hiểm những mầm cây của cô đi, mắng chúng vì dám rúc vào mầm khoai lang của cô, dùng chính cái giọng khi cô dồn bọn trẻ vào các cuộc thi chạy và trò chơi ở những bữa tiệc của Jockey. Cô đối xử với chúng bằng lòng tốt. Thế rồi những kẻ đòi hỏi không chính đáng xuất hiện. Ava. Mẹ của Cora và Ava cùng lớn lên trên đồn điền này. Họ đều được ông già Randall đối xử tử tế, những trò đùa nhại diễn ra thường xuyên và quen thuộc như thời tiết vậy, và con người thật giàu trí tưởng tượng trong cái xấu xa của họ đến mức tâm trí không chịu điều chỉnh nữa. Đôi khi một trải nghiệm như vậy gắn kết người này với người kia; cũng như nỗi xấu hổ về sự bất lực của một người lại biến tất cả những nhân chứng thành kẻ thù. Ava và Mabel không hợp nhau. Ava khỏe mạnh, dẻo dai với đôi bàn tay nhanh như rắn hổ mang. Sự nhanh nhẹn đó giúp bà ta hái bông và vả vào mặt lũ con vì lười biếng và những tội khác. Bà ta nâng niu đàn gà con hơn cả mấy đứa con đẻ, và thèm muốn miếng đất của Cora để mở rộng chuồng gà nọ. “Thật phí hoài”, Ava chép miệng nói, “cô ta được hưởng cả”. Đêm nào Ava và Cora cũng nằm ngủ cạnh nhau trên gác xép, mặc dù họ nằm chen chúc ở đó với tám người khác, Cora vẫn có thể nhận ra mọi nỗi thất vọng của Ava truyền qua tấm ván gỗ. Hơi thở của người đàn bà đó thấm đẫm nỗi tức giận, cay cú. Bà ta nhất thiết phải va đụng vào Cora bất cứ khi nào cô thức dậy đi tiểu. “Bây giờ mày ra chỗ lều Hob mà ở”, một buổi trưa Moses ra lệnh cho Cora khi cô đi đóng kiện bông về. Moses đã thỏa thuận với Ava, hẳn là nhờ tiền. Từ khi Connelly đưa gã đàn ông chuyên làm việc ngoài đồng ấy lên làm đốc công, Moses đã trở thành kẻ môi giới cho những mưu đồ ở khu nô lệ. Trật tự ở các dãy lều, như vốn thế, phải được duy trì, và có những điều mà người da trắng không thể làm. Moses hăng hái nhận vai đó. Cora nghĩ gã có khuôn mặt hèn hạ, như một đoạn thắt nút nhoi từ một thân hình béo lùn, đẫm mồ hôi. Cô không ngạc nhiên khi tâm tính gã tự bộc lộ ra - nếu đợi đủ lâu thì bạn sẽ thấy điều đó, bởi thực tế luôn là như vậy. Như bình minh. Cora lặng lẽ tới lều Hob, nơi ở của đám người bị hắt hủi. Ở đây ta chẳng biết trông cậy vào ai, chẳng có luật lệ gì, chỉ có những điều được viết lại hằng ngày. Ai đó đã chuyển đồ đạc của cô đến trước. Chẳng ai còn nhớ tên của kẻ khốn khổ bị đặt cho căn lều. Hẳn người đó đã sống đủ lâu để trở thành hiện thân của những phẩm chất trước khi bị hắt hủi. Đến Hob với những người tàn phế vì những hình phạt của đốc công, với những người mang thương tật khi lao động - trong những tình huống ta có thể và không thể hiểu nổi, đến Hob với những người mất trí. Đến Hob với những kẻ bơ vơ. Những người đàn ông tàn tật, người chẳng ra người, sống ở Hob trước tiên. Sau đó những người đàn bà bắt đầu đến sống ở đó. Người da trắng và cả người da màu đã thô bạo sử dụng thân xác của những người đàn bà ấy, con cái họ ra đời còi cọc, teo tóp, những cú đánh làm trí khôn rớt khỏi đầu họ, và họ nhắc đi nhắc lại tên những đứa con đã lìa đời trong đêm sâu: Eva, Elizabeth, N’thaniel, Tom. Cora nằm co quắp trên sàn gian lều chính, khiếp sợ phải ngủ ở đó với bọn họ, những sinh thể khốn khổ. Dù bất lực, cô vẫn tự nguyền rủa bản thân vì hèn hạ. Cô nhìn đăm đăm những cái bóng đen ngòm. Lò sưởi, thanh xà đỡ gác xép, đống dụng cụ treo lủng lẳng trên những cái đinh trên tường. Lần đầu tiên cô ngủ qua đêm bên ngoài căn lều nơi cô sinh ra. Căn lều chỉ cách đây một trăm bước chân mà như cách xa bao dặm. Chẳng chóng thì chày Ava sẽ tiếp tục mưu đồ của cô ta thôi. Nhưng ở đó có Già Abraham biết đấu tranh cơ đấy. Già Abraham, thực ra chưa già đến thế, song đã cư xử như một ông lão yếm thế ngay từ lần đầu biết ngồi. Ông không có dự tính gì đâu, chẳng qua ông muốn miếng đất đó được phân chia cho đúng nguyên tắc. Tại sao ông và mọi người lại nên tôn trọng quyền của con bé ấy chỉ vì bà ngoại nó từng cuốc xới miếng đất chứ? Già Abraham không phải là người theo truyền thống. Ông đã bị mua đi bán lại nhiều lần đến nỗi việc theo truyền thống không còn quan trọng nữa. Nhiều lần đi làm qua, Cora nghe lỏm thấy ông đòi phân chia lại miếng đất của cô. “Con bé được hưởng cả là sao”. Vâng, vỏn vẹn ba thước đất. ✻ Thế rồi Blake xuất hiện. Mùa hè năm đó, cậu Terrance Randall trẻ tuổi bắt đầu chuẩn bị cho cái ngày cậu và anh trai tiếp quản đồn điền. Cậu mua một mớ nô lệ da đen ở Carolina. Sáu người cả thảy, gồm Fanti và Mandingo - nếu đúng như người môi giới nói - có cơ thể và tính khí vốn dành cho lao động. Blake, Pot, Edward và người còn lại hợp thành một bộ lạc riêng trên lãnh địa của Randall, tự tiện can dự vào những việc không phải của họ. Terrance Randall tuyên bố họ là đám nô lệ mới mà cậu ta thích, và Connelly liền bảo đảm rằng tất cả mọi người đều phải ghi nhớ. Bạn phải học cách nép sang một bên khi lũ đàn ông đó cáu kỉnh, hoặc lánh đi vào tối thứ Bảy khi chúng nốc hết sạch rượu táo. Blake lừng lững như cây sồi lớn, gã ăn tốn gấp đôi người bình thường, và mau chóng chứng minh rằng Terrance Randall đầu tư cho gã là đúng đắn. Chỉ tính đến đám con của giống nô lệ đó đã đáng giá lắm rồi. Blake có thể vật ngoéo những thằng bạn hay bất cứ kẻ thách thức nào khác xuất hiện trong tầm nhìn của gã, gã hay gây sự và khoái đi chinh phạt. Khi lao động, giọng hát của gã oang oang khắp các hàng bông, ngay cả những người chả ưa gì gã cũng hát theo gã. Blake có nhân cách tồi tàn, nhưng tiếng hát của gã khiến việc lao động bớt cực nhọc đi. Sau vài tuần thám thính và đánh giá nửa phía bắc, Blake quyết định rằng miếng đất của Cora là chỗ thích hợp để buộc con chó của gã. Chỗ ấy có nắng gió vừa phải, lại gần cận. Trong một lần vào thị trấn, Blake đã dụ được một con chó lai đi theo mình. Con chó ở lại với gã, lởn vởn quanh nhà hun khói trong khi Blake lao động và sủa nhặng xị vì mỗi tiếng động vang lên trong đêm Georgia bận rộn. Blake biết chút nghề mộc - té ra tay buôn nô lệ không bịp bợm để nâng giá nô lệ như thường thấy. Gã đã dựng một cái chuồng nhỏ cho con chó và những mong được tán dương. Người ta khen gã thật lòng bởi vì cái chuồng chó đó trông thật đẹp mắt, cân đối, vuông thành sắc cạnh. Có một cánh cửa được gắn bản lề hẳn hoi, và ánh nắng, ánh trăng có thể soi rọi vào. “Dinh thự này đẹp chứ hả?” Blake hỏi Già Abraham. Kể từ khi tới đó, Blake đã coi trọng tính thật thà được chăng hay chớ của ông ta. “Đẹp gớm. Trong đó hẳn có giường?” Blake đã khâu một cái vỏ gối rồi nhồi rêu vào. Gã quyết định rằng miếng đất bên ngoài lều của gã là chỗ thích hợp nhất để làm chuồng cho con chó. Trong mắt gã, Cora không tồn tại, nhưng giờ đây gã tìm kiếm ánh mắt cô khi cô ở gần, để báo trước cô không còn là vô hình nữa. Cora cố đòi vài món nợ mà người ta nợ mẹ cô, những món nợ mà cô biết. Người ta chối phắt. Như Beau chẳng hạn, người thợ may có lần bị sốt đã được Mabel chăm sóc đến khi bình phục. Mabel đã nhường cho chị ta suất ăn tối của bà, đút từng thìa nước thuốc sắc từ lá và rễ cây qua đôi môi run bần bật tới khi chị ta lại có thể mở mắt ra. Beau nói rằng chị ta đã trả món nợ rồi, và bảo Cora hãy quay về lều Hob mà ở. Cora nhớ mẹ cô từng làm chứng rằng Calvin không ăn cắp dụng cụ trồng trọt. Connelly, kẻ thích dùng chiếc roi chín đuôi, ắt đã đánh tướp xác Calvin nếu như Mabel không tạo ra bằng chứng bảo vệ ông ta. Mabel cũng sẽ bị đánh tướp xác nếu Connelly phát hiện ra bà nói dối. Sau bữa tối, Cora lặng lẽ đến gặp Calvin: Cháu cần ông giúp đỡ. Ông ta phẩy tay đuổi cô đi. Mabel nói rằng bà chưa bao giờ khám phá ra ông ta dùng những nông cụ đó vào mục đích gì. Chẳng bao lâu sau khi Blake lộ rõ ý đồ, một buổi sáng nọ Cora thức dậy vì những tiếng động. Cô rời khỏi lều Hob để kiểm tra mảnh vườn của mình. Đó là buổi bình minh mát mẻ. Hơi ẩm bốc lên là là trên mặt đất như những dải sương. Cô nhìn thấy cảnh đó - những gì sót lại của luống bắp cải đầu tiên trên mảnh vườn. Chất đống bên những bậc lên xuống lều của Blake, những đoạn dây leo héo rũ. Đất bị lật lên rồi lèn xuống thành nền móng phẳng nhẵn cho cái chuồng chó nằm chính giữa như một dinh thự đồ sộ giữa đồn điền. Con chó thò đầu ra cửa chuồng như thể biết đó từng là đất của cô và muốn cô biết rằng nó chẳng thèm quan tâm. Blake bước ra khỏi lều, đứng khoanh tay. Gã nhổ nước bọt. Từ khóe mắt Cora cũng nhìn được đám người tiến đến: những cái bóng đang xì xào, mắng mỏ. Họ nhìn cô. Mẹ của cô đã đi rồi. Cô đã đến sống ở căn lều dành cho những kẻ bị hắt hủi và không ai tới giúp cô. Giờ đây gã đàn ông cao lớn gấp ba lần cô, một võ sĩ nhà nghề, đã cướp mất miếng đất của cô. Cora tính toán trong đầu. Sau này cô có thể được những người đàn bà ở Hob, hoặc Lovey, trợ giúp - nhưng đó là sau này. Bà ngoại cô đã cảnh báo rằng bà sẽ đập vỡ đầu bất cứ kẻ nào dám nhòm ngó miếng đất của bà. Đối với Cora như thế thì hơi quá. Một lát sau, cô quay về Hob, đoạn lấy cái rìu nhỏ treo trên tường xuống, chiếc rìu mà cô thường nhìn đăm đăm mỗi khi mất ngủ. Một nô lệ nào đó qua đời, vì bệnh phổi hoặc bị đánh tướp xác, hoặc bị bệnh tiêu hóa, đã để lại nó. Giờ thì ai cũng biết, đám người hiếu kỳ lảng vảng bên ngoài những căn lều, đầu ngó nghiêng đầy tò mò. Cora đi đều bước qua đám người đó, cúi lom khom như đang đi trong cơn bão. Không ai ngăn cô lại, cảnh đó thật lạ lùng. Nhát rìu đầu tiên cô bổ xuống mái chuồng chó khiến con chó suýt bị đứt đuôi kêu ăng ẳng. Nó trườn vào chỗ ẩn nấp bên dưới căn lều của chủ. Nhát rìu thứ hai làm nửa bên trái chuồng liêu xiêu và nhát rìu cuối làm nó sập hẳn. Cô đứng đó, thở hổn hển. Hai tay cô cầm chắc cán rìu. Chiếc rìu vung lên giữa không trung, như bị giằng co với một bóng ma, nhưng cô không chùn bước. Blake siết tay thành nắm đấm, bước về phía Cora. Đồng đảng của gã theo sau, tình hình trở nên căng thẳng. Thế rồi gã dừng lại. Chuyện xảy ra giữa hai người vào lúc ấy - một gã trai vạm vỡ và một cô gái mảnh dẻ mặc áo trắng - nhìn chung nằm ở lợi thế. Đám người hóng chuyện ở dãy lều thứ nhất thấy khuôn mặt Blake biến dạng vì ngạc nhiên và lo lắng, có lẽ gã đã đụng phải vương quốc của ong bắp cày. Còn đám người ở những căn lều mới thấy mắt Cora đảo qua đảo lại như đánh giá một đám đông, chứ không phải một gã đàn ông, đang tiến tới. Một đội quân mà cô chưa được chuẩn bị đương đầu gì hết. Dù ai có nghĩ gì chăng nữa, cái quan trọng là đối thủ hiểu thông điệp mà họ phát ra qua cử chỉ cũng như biểu cảm: Mày có thể đánh bại tao, nhưng mày sẽ phải trả giá đắt đấy. Họ đứng đó trong vài phút, tới khi Alice nghe thấy tiếng chuông báo giờ ăn sáng. Không ai chịu bỏ suất cháo khoai tây của mình cả. Khi đoàn nô lệ từ ngoài đồng trở về, Cora đã dọn xong đống lộn xộn trên miếng đất. Cô lăn khúc gỗ thích - thứ đồ thừa từ công trình xây dựng của một ai đó - ra rìa miếng đất, và nó trở thành chỗ ngồi nghỉ mỗi khi cô rảnh rỗi. Trước cuộc vận động ngầm của Ava, Cora không thuộc về lều Hob nhưng bây giờ cô đã thuộc về nó. Kẻ lưu trú khét tiếng nhất, và cũng là kẻ lưu trú dài hạn nhất. Rồi thì lao động cũng đánh gục những người tàn tật - luôn luôn như vậy - còn những người điên điên dại dại bị bán rẻ đi, hoặc tự cứa cổ. Chỗ trống chẳng mấy được lấp đầy. Cora vẫn trụ lại đó. Hob trở thành nhà cô. Cô vứt gỗ từ cái chuồng chó vào lò sưởi. Cô và những người khác ở Hob được sưởi ấm một đêm, nhưng huyền thoại gắn vào cô suốt từ bấy cho đến hết cuộc đời ở đồn điền Randall. Blake cùng đám bạn gã bắt đầu thêu dệt câu chuyện. Blake kể gã đang ngủ gà ngủ gật phía sau chuồng ngựa thì choàng tỉnh, bắt gặp Cora đang đứng với chiếc rìu trong tay, khóc bù lu bù loa. Gã quả có tài bắt chước bẩm sinh và điệu bộ của gã khiến người ta tin. Khi ngực Cora bắt đầu đội áo lên, Edward, kẻ đê tiện nhất trong nhóm của Blake, khoác lác rằng Cora đã vừa hất váy vào hắn vừa lả lơi dâm dật như thế nào, và dọa sẽ lột da đầu hắn khi hắn từ chối cô. Đám con gái thì rỉ tai nhau đã nhìn thấy cô lẻn ra khỏi lều trong mùa trăng, mò vào rừng thông dâm với lũ vượn và bầy dê. Ngay cả những người thấy lời đồn thổi là vô lý, vớ vẩn cũng công nhận rằng họ chả thiệt gì khi coi thường cô gái kì lạ ấy. Ít lâu sau khi người ta biết Cora đã trở thành thiếu nữ, Edward, Pot cùng hai gã từ nửa phía nam của đồn điền đã lôi cô ra phía sau nhà xông khói. Nếu có ai nghe thấy hoặc nhìn thấy thì họ cũng chẳng can thiệp. Những người đàn bà ở Hob khâu cho cô. Bấy giờ Blake đi rồi. Đã thấy vẻ mặt cô trong cái ngày cô phá chuồng chó, hẳn gã sẽ khuyên những thằng bạn chớ có trả thù: Chúng mày sẽ phải trả giá đắt đấy. Nhưng gã đi rồi. Ba năm sau khi Cora phá sập chuồng chó, gã đã bỏ trốn khỏi đồn điền, lẩn nấp trong đầm lầy nhiều tuần liền. Chính tiếng sủa của con chó mà Blake nuôi đã báo cho lũ lính tuần biết chỗ gã ẩn trốn. Cora sẽ nói rằng thật đáng đời gã lắm nếu như hình phạt dành cho gã không làm cô run như cầy sấy khi nghĩ đến. H ọ đã kéo một chiếc bàn lớn từ trong bếp ra và bày thức ăn lên đó để mừng sinh nhật Jockey. Ở một đầu bàn, người bẫy thú đã lột xong da những con ra-cun, còn ở đầu kia Florence đã lau sạch đất trên những củ khoai lang. Lửa bên dưới chiếc vạc lớn kêu lách tách, phù phù. Súp sôi cuồn cuộn trong cái nồi đen, đám bắp cải trôi quanh cái thủ lợn dập dềnh, một mắt con lợn lang thang giữa lớp bọt xám. Thằng bé Chester chạy tới cố bốc một nắm đậu đũa, nhưng Alice dùng cái muôi đuổi nó đi chỗ khác. “Hôm nay không có gì sao Cora?” Alice hỏi. “Chưa có gì ăn được”, Cora đáp. Alice thoáng tỏ vẻ thất vọng rồi trở lại với nồi súp. Lời nói dối là thế đó, Cora nghĩ, và ghi nhớ nó. Mảnh vườn không cho hoa màu vào dịp này hóa ra cũng tốt. Vào sinh nhật của Jockey lần trước, cô góp hai chiếc bắp cải, và Alice vui vẻ nhận. Cora đã phạm sai lầm vì ngoái đầu nhìn, bắt gặp Alice quẳng chúng vào thùng chứa nước thải. Cô lảo đảo bước đi trong ánh mặt trời. Người đàn bà đó nghĩ thực phẩm của cô ô uế ư? Alice vứt bỏ mọi thứ mà Cora đóng góp như thế trong năm năm nay, đối xử với từng củ cải, từng nắm rau chua của cô như vậy sao? Chỉ với Cora thôi, hay với Mabel, hay với bà ngoại cô? Đối đầu với người đàn bà đó cũng vô ích. Alice được Randall yêu mến, và giờ đây đang được lòng James Randall - vị chủ nhân đã trở nên cao lớn nhờ món thịt băm viên của bà ta. Nỗi bất hạnh cũng có lớp lang, lớp này lồng trong lớp nọ, bạn nên biết điều đó. Anh em nhà Randall. Ngày James còn nhỏ, Alice đã có thể vỗ về ông ta bằng của ngon trong nhà bếp, một quả na sẽ xoa dịu cậu chủ. Em trai ông ta, Terrance, thì khác. Bà đầu bếp vẫn còn vết sẹo gần tai nơi cậu chủ Terrance trút cơn bực dọc với món nước xuýt. Khi ấy cậu lên mười. Từ thuở cậu biết đi ai nấy đều đã nhận biết dấu hiệu rồi, và cậu mài sắc tâm tính đáng ghét đó khi bước vào tuổi trưởng thành, đảm nhận trách nhiệm cai quản đồn điền. James tựa như loài bạch tuộc, thích vùi mình vào những ham muốn cá nhân, còn Terrance thì lại áp đặt mọi ý thích, dù thoáng qua hay sôi sục, lên tất cả đám tôi tớ. Xung quanh Cora những chiếc nồi kêu lanh canh và lũ trẻ da đen ré lên trước sự kiện vui vẻ sắp diễn ra. Chứ còn ở nửa phía nam đồn điền: chẳng có gì sất. Nhiều năm trước, anh em nhà Randall từng tung đồng xu để quyết định quyền quản lý từng đồn điền và vì thế mới có ngày này. Hội hè đừng hòng diễn ra trên đất của Terrance, bởi người em keo kiệt không cho phép các nô lệ có những dịp vui. Hai quý tử nhà Randall quản lý gia sản thừa kế theo tâm tính. James tạm bằng lòng với mùa màng theo thời vụ, cứ tích lũy dần dần và chắc chắn. Đất đai và nô lệ da đen bảo đảm cho ông ta hơn những gì nhà băng làm. Terrance thì năng động hơn, luôn nghiền ngẫm phương cách làm tăng các chuyến hàng gửi đến New Orleans. Ông ta bóp nặn từng đồng đô la có thể bóp nặn được. Khi dòng máu đen là tiền, lão thương gia khôn ngoan đó biết cách mở tĩnh mạch. Thằng bé Chester và lũ bạn nó túm lấy Cora, khiến cô giật mình. Nhưng chúng chỉ là trẻ con. Đã đến giờ chạy thi. Cora sắp xếp bọn trẻ đứng vào vạch xuất phát, chỉ vào chân chúng, dỗ dành những đứa khó bảo, phân vài đứa sang nhóm trẻ lớn hơn nếu cần. Năm nay cô đá Chester, bắt nó đứng vào đúng vị trí. Nó là một đứa trẻ bơ vơ giống như cô, cha mẹ nó bị bán trước khi nó biết đi. Cora chăm sóc nó. Một thằng bé có cái đầu trọc tếu cùng đôi mắt đỏ. Sáu tháng nay nó lớn phổng, những hàng cây bông đã kích hoạt thứ gì đó bên trong thân hình gầy nhẳng của nó. Connelly nói rằng nó có tố chất của tay hái bông giỏi nhất, một lời khen hiếm hoi từ lão. “Nhóc chạy nhanh mà”, Cora nói. Nó khoanh tay, hất đầu: Chị không cần phải bảo gì em hết. Chester sắp trở thành đàn ông dù nó không biết điều đó. Cora biết năm tới nó sẽ không chạy thi nữa mà chỉ quanh quẩn ở đường biên đùa với lũ bạn, nghĩ ra những trò chơi khăm. Các nô lệ cả già lẫn trẻ tập trung bên lề con đường dành cho ngựa chạy. Những người đàn bà mất con đi vật vờ, tự hành hạ bản thân bằng những điều có thể và không thể xảy ra. Cánh đàn ông chuyền nhau những bình rượu táo, cảm thấy nỗi nhục nhã của họ trôi qua. Đám đàn bà ở lều Hob hiếm khi đi liên hoan, nhưng Nag cứ chạy qua chạy lại xăng xái tập hợp lũ trẻ nhỏ lại để chúng khỏi chạy lung tung. Lovey đứng ở vạch đích, làm trọng tài. Trừ bọn trẻ con, còn thì ai cũng biết rằng hễ có thể là cô luôn tuyên bố những đứa cô thích thắng cuộc. Jockey cũng là người cầm trịch, ngồi sát vạch đích trên chiếc ghế gỗ thích ọp ẹp của ông, chiếc ghế mà hầu như đêm nào ông cũng ngồi quan sát sao trời. Vào những lần sinh nhật mình, ông kéo nó đi lên đi xuống con đường nhỏ, khiến mọi người phải chú ý đến dịp vui được tổ chức nhân danh ông. Sau khi cán đích, lũ trẻ chạy đến chỗ Jockey, và ông thả từng chiếc bánh gừng vào tay từng đứa, dù chúng xếp thứ mấy chăng nữa. Chester thở hổn hển, hai tay chống lên đầu gối. Nó mệt lử. “Suýt nữa thì thắng”, Cora nói. “Suýt”, thằng bé đáp và tới nhận bánh gừng. Cora vỗ vỗ lên cánh tay Jockey sau khi đứa trẻ cuối cùng cán đích. Bạn không bao giờ biết được với đôi mắt mờ đục kia ông già còn nhìn thấy nhiều thứ hay không. “Già Jockey, già bao nhiêu tuổi rồi ạ?” “Ồ, để ta tính xem nào”, ông trầm ngâm. Cô dám chắc vào sinh nhật năm ngoái ông đã bảo ông một trăm linh một tuổi. Chỉ bằng nửa số tuổi đó thôi Jockey đã là nô lệ lớn tuổi nhất mà bất cứ ai ở cả hai đồn điền nhà Randall từng gặp. Khi già đến mức ấy, có thể ta đã chín mươi tám hoặc một trăm linh tám tuổi. Chẳng còn gì trên đời mà bạn chưa thấy, ngoài hiện thân mới nhất của cái ác. Mười sáu hoặc mười bảy. Cora nghĩ mình từng ấy tuổi. Đã một năm trôi qua kể từ khi Connelly ra lệnh cho cô phải kiếm chồng. Đã hai năm - từ khi Pot và đám bạn của gã làm chuyện ấy với cô. Bọn chúng không lặp lại tội ác, và sau ngày đó, xét đến cái lều mà cô gọi là nhà cũng như những câu chuyện bị thêu dệt, không một người đàn ông xứng đáng nào thèm để ý đến cô. Đã sáu năm - từ khi mẹ cô bỏ trốn. Cora nghĩ Jockey có cách tổ chức sinh nhật thật thú vị. Vào một Chủ nhật bất thình lình, Jockey thức dậy thông báo sẽ tổ chức sinh nhật, vậy thôi. Thỉnh thoảng sinh nhật của ông diễn ra giữa những đợt mưa mùa xuân, đôi khi lại vào sau mùa gặt. Ông bỏ bẵng mấy năm hoặc vì quên, hoặc vì lời phàn nàn của ai đó rằng đồn điền không có điều kiện tổ chức tiệc tùng. Chẳng ai thấy phiền vì tính khí thất thường của ông. Ông là người da màu lớn tuổi nhất họ từng gặp, ông đã chịu đựng mọi nhục hình mà người da trắng từ lớn đến bé nghĩ ra và giáng xuống, bấy nhiêu là đủ. Đôi mắt ông mờ đục, chân ông khập khiễng, bàn tay thương tật của ông co quắp vĩnh viễn như vẫn đang nắm chặt cán xẻng, nhưng ông còn sống. Giờ đây người da trắng để ông yên. Ông già Randall không nói gì về những sinh nhật của Jockey, James - khi tiếp quản đồn điền cũng vậy. Lão đốc công Connelly cứ Chủ nhật là chẳng thấy mặt đâu, khi cho gọi bất cứ đứa con gái nào mà lão biến thành vợ trong tháng đó. Người da trắng làm thinh. Như thể họ đã bỏ cuộc, hoặc quyết định rằng chút xíu tự do là hình phạt khủng khiếp nhất trong mọi hình phạt, lấy chút tự do làm thuốc giảm đau. Một ngày kia Jockey sẽ chọn đúng sinh nhật của ông. Nếu ông sống đủ lâu. Nếu điều đó xảy ra thì Cora cũng chọn một ngày là sinh nhật cho tới khi chọn đúng. Thực ra hôm nay có thể là sinh nhật cô. Làm sao biết được, làm sao bạn biết ngày bạn chào đời trong thế giới của người da trắng? Dường như đó không phải là điều để nhớ. Mà để quên. “Cora”. Hầu hết các nô lệ ở nửa đồn điền phía nam đã vào bếp ăn uống, nhưng Caesar vẫn nấn ná bên ngoài. Anh đang ở đây. Từ lúc anh đến đồn điền cô chưa có dịp nói chuyện với anh. Các nô lệ mới mau chóng được cảnh báo về đám đàn bà ở lều Hob mà. Khỏi phải mất thời gian. “Tôi có thể nói chuyện với cô được không?” Anh hỏi. James Randall đã mua anh cùng ba nô lệ khác từ một tay buôn nô lệ lưu động, sau khi có dịch sốt làm chết một số nô lệ của ông ta cách đây một năm rưỡi. Hai phụ nữ chuyên giặt giũ, còn Caesar và Prince nhập vào các nhóm nô lệ lao động ngoài đồng. Cô đã nhìn thấy anh dùng con dao cong cong đẽo gọt những khúc gỗ thông. Anh không dính đến mấy chuyện gây khó chịu ở đồn điền, và cô biết thỉnh thoảng anh đi với Frances, một hầu gái ở nhà chính. Họ còn cặp với nhau không? Có thể Lovey biết đấy. Là gái chưa chồng nhưng cô ấy hay hóng chuyện đàn ông-đàn bà, rồi những cuộc sắp đặt hôn nhân. Cora cảm thấy cần trả lời anh theo phép lịch sự. “Tôi giúp được gì cho anh, Caesar?” Anh không bận tâm nhỡ có ai nghe thấy. Anh biết chẳng có ai khác ở đó vì anh tính cả rồi. “Tôi sẽ trở lại miền bắc”, anh nói. “Sớm thôi. Tôi sẽ bỏ trốn. Tôi muốn cô trốn cùng tôi”. Cora cố nghĩ xem kẻ nào đã sắp đặt để Caesar chơi khăm cô. “Anh sẽ trở lại miền bắc, còn tôi sẽ đi ăn”. Caesar nắm lấy cánh tay cô, nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Cơ thể anh rắn chắc, như bất cứ người lao động nào ở tuổi của anh, nhưng anh dụng sức nhẹ nhàng thôi. Mặt anh tròn, mũi anh tẹt - cô thoáng nhớ đến đôi má lúm đồng tiền khi anh cười. Tại sao cô lại giữ nó trong đầu cơ chứ? “Tôi không muốn cô mách lẻo chuyện của tôi”, anh nói. “Nhưng tôi phải tin tưởng cô thôi. Tôi sẽ sớm rời khỏi đây, và tôi muốn cô đi cùng. Vì may mắn”. Cô đã hiểu ý anh. Không phải một trò chơi khăm nhằm vào cô. Đó là một trò lừa bịp nhằm vào chính anh. Chàng trai ngây thơ. Mùi của món thịt gấu mèo đưa cô trở lại với bữa liên hoan và cô giật tay ra. “Tôi không có ý định để Connelly hoặc đám tuần canh hoặc lũ rắn giết chết mình đâu”. Cora vẫn liếc nhìn con người ngây ngô ấy khi cô múc bát súp đầu tiên. Hằng ngày, người da trắng vẫn cố tình giết mi một cách từ từ và đôi khi cố tình giết mi một cách nhanh chóng. Vậy tại sao lại giúp anh ta chứ? Đó là việc mi có thể từ chối kia mà. Cô tìm Lovey, nhưng không phải để hỏi xem các cô gái xì xào chuyện gì về Caesar và Frances. Nếu anh ta nghiêm túc thực hiện kế hoạch của mình thì Frances sẽ trở thành góa phụ mất. Đó là điều quan trọng nhất mà một người đàn ông nói với cô kể từ khi cô chuyển tới lều Hob. Họ đốt đuốc cho cuộc thi đấu vật. Ai đó đã đào những bình rượu ngô, rượu táo được cất giấu lên, và rượu được chuyền một vòng, giúp đám đông khán giả thêm hào hứng. Giờ đây những người chồng sống ở các đồn điền khác đã đến thăm viếng vào tối Chủ nhật. Họ cuốc bộ nhiều dặm đường, có đủ thời gian để mà mơ tưởng. Một số cô vợ hạnh phúc hơn những người khác trước triển vọng được kết hôn. Lovey cười khúc khích. “Mình sẽ vật nhau với cậu ấy”, cô nói, đoạn gật đầu với Major. Major ngước lên nhìn như thể nghe thấy những gì cô vừa nói. Cậu đã phát triển thành một chàng trai sung sức, làm việc chăm chỉ, hiếm khi để các đốc công phải vung roi. Cậu lễ phép với Lovey vì tuổi tác của cô, nhưng cũng không đáng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó Connelly sắp đặt một cuộc hôn nhân cho họ. Người đàn ông trẻ và đối thủ đang vật nhau trên cỏ. Cứ việc trút giận lên nhau nếu bạn không thể trút giận lên kẻ đáng phải nhận. Lũ trẻ con đứng giữa những người lớn hơn để ghé mắt nhìn, đánh cược suông. Bây giờ chúng nhổ cỏ và dọn rác ở đồn điền, nhưng rồi sẽ đến ngày việc đồng áng làm chúng to lớn như những người đàn ông đang túm lấy nhau, vật lộn trên cỏ kia. Túm lấy thằng đó đi, vật đi, dạy cho nó những gì nó cần học đi. Khi nhạc nổi lên và màn nhảy múa bắt đầu, họ bày tỏ lòng biết ơn đối với Jockey. Một lần nữa, ông già đã chọn ngày thích hợp cho sinh nhật của mình. Ông hiểu được nỗi căng thẳng mà nô lệ nào cũng phải chịu đựng, một nỗi e sợ chung vượt ngoài những thực tế thường nhật của cảnh nô lệ. Nỗi căng thẳng tích tụ. Vài tiếng đồng hồ cuối ngày này đã xua đi nhiều cảm xúc tiêu cực. Họ có thể đối mặt với công việc cực nhọc của buổi sáng hôm sau, của những buổi sáng tiếp theo và những ngày dài với tinh thần đã được tưới tắm, dù chỉ theo cách giản dị, bằng một buổi tối thú vị để hồi tưởng và để mong chờ liên hoan sinh nhật sau. Nhờ vòng tròn nhảy múa, cánh nô lệ tách tinh thần bên trong họ khỏi tình trạng thoái hóa ở bên ngoài. Noble cầm một chiếc lục lạc lên và bắt đầu vỗ. Trên cánh đồng, anh hái bông nhanh thoăn thoắt, còn ở ngoài ruộng bông anh là người bày trò vui tính; anh mang cả hai tài khéo léo đó đến cuộc vui tối nay. Vỗ tay, đung đưa, lắc hông. Có nhạc cụ và có nhạc công, nhưng đôi khi phải nhờ cây vĩ cầm hoặc cái trống mà người chơi chúng mới được chú ý, và mọi người đều biến thành nô lệ của bài hát. Chuyện diễn ra đúng như vậy khi George và Wesley cầm cây vĩ cầm và cây đàn banjo của họ vào những ngày có lễ hội. Jockey ngồi trên chiếc ghế gỗ thích, giậm đôi chân trần xuống đất theo điệu nhạc. Các nô lệ bước ra nhảy múa. Cora đứng im. Cô cảnh giác trước âm nhạc, và thỉnh thoảng vì bị âm nhạc lôi kéo mà bạn bỗng nhận thấy mình đang ở bên một người đàn ông và bạn không biết anh ta sẽ làm gì. Mọi cơ thể đều chuyển động, được phép chuyển động. Bạn bị kéo đi, bị nắm tay, dù những động tác đó xuất phát từ thiện ý. Một lần vào sinh nhật của Jockey, Wesley chơi cho họ một giai điệu mà cậu ta biết từ những ngày còn ở miền bắc, một bài hát mới họ chưa từng nghe. Cora đã dám bước ra, hòa vào đám đông đang nhảy múa, nhắm mắt lại, xoay vòng và khi cô mở mắt ra Edward ở đó, mắt long lên. Cho dù Edward và Pot đã chết - Edward bị treo cổ sau khi ăn bớt sản lượng bằng cách nhét thêm đá vào bao tải của gã, còn Pot về với đất sau khi bị một con chuột cắn khiến người tím đen - cô cũng không muốn nới lỏng việc kiềm chế bản thân. George kéo vĩ cầm, những nốt nhạc cuộn xoáy vào đêm như những tia lửa bùng lên từ một đống lửa. Không ai bước tới kéo cô vào cuộc vui mê cuồng, sôi động đó. ✻ Tiếng nhạc ngừng lại. Vòng tròn vỡ ra. Đôi khi một nô lệ sẽ đắm chìm trong vòng xoáy ngắn ngủi của tự do. Trong nhịp đu đưa của cơn mộng tưởng bất chợt giữa những luống cày hoặc trong khi gỡ rối những điều bí ẩn của một giấc mơ ban sớm. Trong bài ca vào một đêm Chủ nhật ấm áp. Điều diễn ra sau đó là tiếng quát tháo của đốc công, tiếng hét giục đi làm, cái bóng của ông chủ nhắc cô ta nhớ rằng cô ta chỉ được làm người trong một khoảnh khắc ngắn ngủi suốt kiếp nô lệ vĩnh viễn. Từ nhà lớn anh em Randall xuất hiện, đứng trước đám đông nô lệ. Các nô lệ dạt sang một bên, giữ khoảng cách sao cho thể hiện được lòng sợ hãi và tôn kính. Godfrey, người hầu của James ở nhà lớn, cầm chiếc đèn lồng giơ lên cao. Theo già Abraham, James giống mẹ, thân hình đẫy đà như một cái thùng tròn, vẻ mặt cứng rắn, còn Terrance giống cha, cao ráo, có khuôn mặt cú vọ, lúc nào cũng sẵn sàng vồ mồi. Ngoài tài sản là đồn điền, họ được ông bố cho thừa hưởng một thợ may, mỗi tháng đến nhà họ một lần trên chiếc xe ngựa ọp ẹp với những mẫu vải lanh và vải bông. Khi còn nhỏ hai anh em họ mặc giống nhau và khi đã lớn cũng vậy. Những chiếc quần tây và áo sơ mi tuyền màu trắng của họ được đám hầu gái giặt sạch hết mức có thể, và ánh đèn màu vàng đỏ làm họ trông giống hai bóng ma hiện hình trong đêm tối. “Chào ông chủ James”, Jockey nói. Bàn tay to bản của ông bám lấy tay ghế dường như ông muốn đứng dậy nhưng không nhúc nhích. “Chào ông chủ Terrance”. “Đừng để chúng ta quấy rầy lão”, Terrance nói. “Anh em ta đang bàn công chuyện thì nghe thấy tiếng nhạc. Ta nói với ông anh ta đó là tiếng ồn ào tệ nhất mà ta từng nghe thấy”. Anh em nhà Randall uống rượu vang trong những chiếc ly thủy tinh có chân và có vẻ đã uống hết mấy chai. Cora tìm khuôn mặt của Caesar trong đám đông. Cô không thấy anh đâu. Lần gần đây nhất khi anh em ông chủ xuất hiện ở nửa phía bắc, Caesar vắng mặt. Bạn cần cố gắng ghi nhớ những bài học đa dạng trong những dịp như thế. Khi anh em nhà Randall quá bộ đến khu nhà của nô lệ thì sớm hay muộn, thế nào cũng có chuyện. Một sự việc mới xảy ra, và bạn không thể đoán trước cho tới khi nó ập đến với bạn. James để Connelly, tay đốc công của ông ta, lo liệu việc đồn điền và hiếm khi tới chỗ ở của nô lệ. Ông ta có thể dẫn một vị khách nào đó, một người hàng xóm đặc biệt hoặc một chủ đồn điền ham tìm tòi từ vùng khác tới, thăm quan khắp đồn điền, nhưng hoạ hoằn lắm điều đó xảy ra. James hiếm khi nói chuyện với đám mọi đen, những kẻ được dạy bằng roi da để cắm cúi làm việc và không biết đến sự hiện diện của ông ta. Khi Terrance xuất hiện ở đồn điền của người anh trai, ông ta thường đánh giá từng nô lệ - để mắt đến những đứa nô lệ nam được việc nhất và những đứa nô lệ nữ hấp dẫn nhất. Thích thú liếc đám đàn bà của ông anh bằng ánh mắt đểu cáng đã đành, ông ta cũng háo hức nhìn đám đàn bà ở nửa đồn điền của mình. “Tôi thích nếm những quả mận của tôi”, Terrance nói, lảng vảng giữa những dãy lều để xem có gì cuốn hút không. Ông ta can thiệp vào những mối quan hệ tình cảm, thỉnh thoảng đến thăm nô lệ vào đêm tổ chức đám cưới của họ để chỉ cho người chồng mới cách làm tròn bổn phận đàn ông. Terrance nếm “những quả mận”, tạo ra những vết rách trên da thịt họ, và để lại dấu ấn của ông ta. Phải thừa nhận rằng James có hướng đi khác. Không giống cha và em trai, James không sử dụng tài sản của mình để làm hài lòng bản thân. Thỉnh thoảng ông ta mời những phụ nữ trong hạt đến dùng bữa, và Alice luôn bảo đảm sửa soạn một bữa tối hấp dẫn, xa xỉ nhất trong khả năng. Bà Randall đã qua đời nhiều năm trước, và chính Alice nghĩ rằng có một phụ nữ hiện diện ắt sẽ khai hóa văn minh ở đồn điền. Mấy tháng James mới chiêu đãi những khách da trắng của ông ta một lần, đoàn xe độc mã màu trắng đi qua những con đường mòn lầy lội dẫn đến nhà lớn. Lũ hầu gái ở nhà bếp cười khúc khích, đoán già đoán non. Và rồi sau đó một gương mặt phụ nữ mới xuất hiện. Theo lời kể của Prideful, hầu phòng của ông ta, James thỏa mãn ham muốn tình dục trong những căn phòng “đặc biệt” tại một nhà chứa ở New Orleans. Tú bà ở đó là ả đàn bà hiện đại, có tư tưởng phóng khoáng, thông thạo các ham muốn nơi cánh đàn ông. Khó mà tin được câu chuyện của Prideful, mặc dù y khẳng định đã được người làm ở chỗ đó, người vốn thân thiết với y nhiều năm qua, kể cho biết. Loại người da trắng nào lại cam chịu đòn roi cơ chứ?[3] Terrance cào cây ba-toong của ông ta lên mặt đất. Đó là cây ba-toong được bịt cái đầu sói bằng bạc mà người cha để lại. Nhiều người còn nhớ những vết thương mà nó gây ra trên da thịt họ. “Ta nhớ James đã kể với ta về một thằng mọi mà anh ấy có ở đây”, Terrance lên tiếng, “thằng mọi có thể đọc thuộc lòng Tuyên Ngôn Độc Lập. Ta không tin. Ta nghĩ có lẽ tối nay ông anh ta có thể chứng minh điều đó là thật, bởi vì tất cả mọi người ở nửa phía nam đều đang có mặt ở đây”. “Chúng tôi sẽ thu xếp việc đó”, James nói. “Thằng mọi đâu nhỉ? Michael”. Không ai nói gì. Godfrey cầm cây đèn soi loanh quanh một cách thảm hại. Moses là gã đốc công không may đứng gần anh em nhà Randall. Gã hắng giọng. “Michael chết rồi, thưa ông chủ James”. Moses sai một đứa bé da đen đi tìm Connelly, dù điều đó có nghĩa là buổi tối của lão với nàng hầu sẽ bị gián đoạn, vẻ mặt James cho Moses biết gã phải giải thích. Michael, người nô lệ bị hỏi tới, quả thực có khả năng đọc thuộc lòng những đoạn văn dài. Connelly đã nghe tay buôn nô lệ kể lại rằng chủ cũ của Michael rất thích giống vẹt Nam Mỹ, và suy luận rằng nếu một con chim có thể học thuộc những bài thơ năm câu hài hước thì một nô lệ cũng có thể. Chỉ cần nhìn kích thước những cái đầu, bạn cũng thừa biết một người da đen sở hữu bộ não lớn hơn của con chim. Michael là con trai người đánh xe của ông chủ cậu. Cậu được đánh giá là có sự lanh lợi của loài vật mà đôi khi ta thấy ở lợn. Ông chủ cùng đứa học trò không tưởng bắt đầu học những câu thơ có vần đơn giản và những đoạn văn ngắn của các nhà thơ Anh nổi tiếng. Họ đọc đi đọc lại những từ mà người nô lệ da đen ấy không hiểu và quả thật, ông chủ cũng chỉ hiểu một nửa - chỉ tại gia sư của ông ta nguyên là một kẻ vô lại bị đuổi khỏi mọi chỗ làm tử tế, rồi lão quyết định biến chỗ làm cuối cùng thành cái đích trả thù bí mật. Họ, ông chủ đồn điền trồng cây thuốc lá và đứa con trai của người đánh xe, đã tạo nên điều kỳ diệu. Tuyên Ngôn Độc Lập là kiệt tác của họ. Một lịch sử của những thương tổn và sự tước đoạt[4]. Khả năng của Michael rốt cuộc chỉ là mánh khóe giải khuây trong phòng khách cho những vị khách, trước khi cuộc bàn luận diễn ra theo chiều hướng hạ thấp người da đen như thường lệ. Cuối cùng ông chủ phát chán và bán cậu xuống phía nam. Trước khi Michael đến đồn điền Randall, một đợt tra tấn hoặc một hình phạt nào đó đã làm hỏng các giác quan của cậu. Cậu chỉ còn là một đứa lao động tầm thường. Cậu ta thán về tiếng ồn và những lời nguyền đã xóa mất trí nhớ nơi cậu. Trong cơn tức giận, Connelly giáng đòn khiến những gì ít ỏi còn lại trong trí não cậu rơi rụng nốt. Chính bệnh ỉa chảy không muốn cho Michael sống, và căn bệnh đã thành công. “Đáng lẽ ta phải nghe việc này rồi chứ”, James nói, rõ ràng là rất khó chịu. Màn đọc thuộc lòng của Michael đã hai lần trở thành món giải trí mới lạ mà ông ta mang ra khoe khách khứa. Terrance thích trêu anh. “James”, ông ta nói, “anh phải kiểm kê tài sản chặt chẽ hơn chứ.” “Đừng xía vào việc của tôi”. “Em biết anh cho phép bọn nô lệ của anh chè chén ồn ào, nhưng em không biết bọn chúng lại ngông cuồng, phung phí như thế. Anh đang cố tình làm em mất mặt chứ gì?” “Đừng có giả vờ là chú không quan tâm xem một đứa nô lệ nghĩ về chú thế nào, Terrance ạ”. Ly của James hết sạch rượu. Ông ta chuẩn bị quay gót rời khỏi đó. “Nghe thêm một bài hát nữa đã, James. Em đâm ra khoái những âm thanh này rồi”. George và Wesley trông buồn thiu. Noble và cái lục lạc của anh ta biến đâu mất. James bặm môi. Ông ta ra hiệu, những người đàn ông bắt đầu chơi nhạc. Terrance dùng cây ba-toong. Khuôn mặt của ông ta chìm khuất khi ông ta hòa vào đám đông. “Mày không nhảy sao? Tao phải cố nài chắc. Mày, và mày nữa”. Họ không đợi hiệu lệnh từ ông chủ. Các nô lệ ở nửa phía bắc tụ lại trên con đường nhỏ, dè dặt, cố đưa mình vào nhịp điệu trước đó và bắt đầu diễn. Ava, ả đàn bà lắt léo, không mất công che giấu động cơ kể từ hôm bà ta quấy rối Cora - bà ta hú hét, giậm chân như đang trong cao trào của buổi lễ mừng Giáng sinh. Diễn cho ông chủ xem là một kỹ năng quen thuộc, những góc độ và lợi thế của chiếc mặt nạ, và họ rũ bỏ nỗi sợ hãi khi bước vào màn diễn. Ôi, cái cách họ nhảy cẫng lên, hò hét, kêu la! Dĩ nhiên đây là bài ca sôi động nhất mà họ từng nghe, dàn nhạc công là những người chơi nhạc giỏi nhất mà chủng tộc da màu có thể có. Cora cố bước vào vòng tròn nhảy múa, và giống những nô lệ khác, cứ mỗi vòng xoay cô lại để ý phản ứng của anh em nhà Randall. Jockey lật qua lật lại đôi bàn tay trong lòng ông để tính giờ. Cora đã nhìn thấy khuôn mặt Caesar. Anh đứng trong bóng tối nhà bếp với vẻ thờ ơ. Thế rồi anh biến mất. “Mày!” Đó là Terrance. Ông ta giơ tay lên trước mặt như thể nó bị nhuốm một vết bẩn vĩnh viễn mà chỉ ông ta mới nhìn thấy. Rồi Cora nhận ra vết bẩn đó - một giọt, chỉ một giọt rượu vang làm bẩn cổ tay áo của chiếc sơ mi trắng đẹp đẽ mà Terrance đang mặc. Thằng bé Chester đã va phải ông ta. Chester nở nụ cười ngớ ngẩn và cúi đầu trước người đàn ông da trắng. “Xin lỗi ông chủ! Xin lỗi ông chủ!” Chiếc ba-toong giáng xuống vai và đầu thằng bé, một lần, rồi lần nữa, lần nữa. Nó kêu thét lên, khuỵu xuống đất, khi những cú đánh tiếp tục giáng xuống. Cánh tay Terrance vung lên, hạ xuống. James trông có vẻ mệt mỏi. Chỉ một giọt rượu. Một cảm giác dâng lên trong Cora. Nhiều năm rồi, kể từ khi cô bổ rìu xuống cái chuồng chó của Blake làm những mảnh gỗ bắn tung tóe, cô không còn bị cảm giác đó khuấy động. Cô đã thấy những người đàn ông bị treo cổ trên cây và bị bỏ mặc ở đó cho lũ quạ và chim ó. Những người đàn bà bị roi da chín đuôi rạch đến tận xương. Những thân thể còn sống và đã chết bị nướng trên giàn thiêu. Những bàn chân bị chặt đứt lìa để ngăn chặn bỏ trốn, và những bàn tay bị cắt cụt để ngăn chặn trộm cắp. Cô đã chứng kiến những đứa con trai và con gái nhỏ tuổi hơn Chester bị đánh đập mà chẳng làm gì cả. Nhưng đêm nay cái cảm giác đó lại bùng lên trong tim cô. Nó điều khiển cô, và trước khi cái phần nô lệ bắt kịp phần người trong cô, Cora cúi xuống che chở cơ thể thằng bé như một tấm khiên. Cô nắm chặt cây ba-toong trong tay hệt như một người đàn ông của đầm lầy tóm một con rắn và thấy vật trang trí bịt ở đầu của nó. Chiếc đầu sói nhe hàm răng trắng nhởn bằng bạc. Thế rồi cây ba-toong tuột khỏi tay cô. Nó liên tục giáng xuống, và lần này những cái răng bằng bạc xẻ dọc mắt cô, máu của cô rơi lộp độp xuống đất. N ăm đó số đàn bà ở lều Hob cả thảy có bảy người. Mary là người lớn tuổi nhất. Bà ở Hob bởi vì bà hay lên cơn. Mỗi lần lên cơn, bà sùi bọt mép như con chó điên, quằn quại trên mặt đất với đôi mắt hoang dại. Trong nhiều năm bà mang mối thù hận với một người hái bông khác tên là Bertha, người đã nguyền rủa bà. Già Abraham phàn nàn rằng nỗi bất hạnh của Mary bắt đầu từ khi bà còn là một đứa bé da đen, nhưng không ai tin ông. Dù xét ở góc độ nào chăng nữa, những cơn động kinh hiện thời của bà cũng chẳng thấm gì so với những cơn mà bà chịu đựng hồi trẻ. Khi tỉnh lại, bà xơ xác, bơ phờ, ngơ ngác, phải chịu phạt vì bỏ bê công việc, để rồi lại phải bỏ bê công việc để phục hồi sau đòn phạt. Một khi tâm trạng của đám đốc công chống lại bạn, bất cứ ai cũng có thể bị quét vào cơn thịnh nộ. Mary chuyển đồ của bà tới lều Hob để tránh thái độ khinh bỉ của những người ở cùng lều. Bà bước chậm rề rề như thể rồi sẽ có người ngăn bà lại. Mary làm việc ở nhà vắt sữa cùng Margaret và Rida. Trước khi được James Randall mua về, hai người đó rối trí đến nỗi không thể hòa nhập với cuộc sống ở đồn điền. Margaret hay phát ra những âm thanh trong họng vào những lúc không thích hợp, nghe như tiếng kêu của thú rừng, những tiếng kêu nhói buốt thê thảm tột độ, cùng những lời chửi rủa tục tĩu. Khi ông chủ đi thị sát đồn điền, chị ta phải tự lấy tay bịt miệng mình vì sợ sẽ gây chú ý. Rida không thèm vệ sinh thân thể và chẳng ai khuyến khích hay đe dọa được chị ta. Người chị ta hôi rình. Lucy và Titania không bao giờ nói chuyện, với Lucy là bởi chị chọn không nói, còn với Titania - chị bị chủ cũ cắt lưỡi. Họ làm việc trong nhà bếp dưới quyền Alice, mụ đầu bếp chỉ ưa những phụ tá câm như hến cả ngày, và thích nghe giọng nói của chính mụ hơn. Hai người đàn bà khác tự kết liễu cuộc đời vào mùa xuân ấy, chuyện thường xảy ra, chẳng có gì đặc biệt. Khi mùa đông đến, không ai có một cái tên mà còn được nhớ đến, vậy nên người ta chỉ nhớ màu da tái xám của họ thôi. Hai người còn lại là Nag và Cora. Họ chăm sóc cây bông từ đầu đến cuối. Kết thúc ngày lao động, Cora lảo đảo bước đi và Nag vội chạy đến để dìu cô. Cô dẫn Cora trở về lều Hob. Gã đốc công trừng mắt vì họ chậm chạp quá nhưng gã không nói năng gì. Chứng điên dễ nhận thấy của Cora đã giúp cô tránh bị chửi mắng như thường lệ. Họ đi ngang qua chỗ Caesar ngồi ở gần những cái lán với một đám thợ trẻ, anh đang dùng dao đẽo gọt một khúc gỗ. Cora liếc nhìn anh, làm ra vẻ lạnh băng như mọi lần, kể từ khi anh đề nghị cô bỏ trốn. Đã hai tuần trôi qua từ hôm sinh nhật Jockey, và Cora vẫn chưa bình phục. Những cú đánh thẳng vào mặt làm một bên mắt cô sưng húp không mở ra được và thái dương cô sưng tướng. Chỗ sưng xẹp nhưng “nụ hôn” từ cái đầu sói bằng bạc giờ đây để lại một cái sẹo thảm hại hình chữ X. Vết thương đó rỉ nước vàng trong nhiều ngày. Cô đã bị đóng dấu cho cái đêm liên hoan ấy. Tệ hơn là trận đòn roi mà Connelly giáng xuống cô vào sáng hôm sau. Connelly là một trong những đốc công đầu tiên được ông già Randall thuê. Tới lượt James, ông ta giữ lão ở nguyên vị trí. Khi Cora còn nhỏ, lão đốc công đó có mái tóc đỏ của người gốc Ireland với những lọn loăn xoăn bên dưới chiếc mũ rơm giống như cánh của một con chim hồng tước. Ngày đó lão ta che chiếc ô màu đen đi tuần nhưng cuối cùng đành phải vứt bỏ, và giờ đây những chiếc sơ mi trắng tương phản gay gắt với màu da rám nắng của lão. Tóc lão đã bạc trắng, bụng lão chảy xệ xuống dưới thắt lưng, nhưng ngoài những điều đó, lão vẫn chính là đốc công đã vung roi quật bà của cô, mẹ của cô, nghênh ngang đi qua khu nô lệ với dáng đi lệch về một bên, làm cô nghĩ tới con bò đực già. Nếu lão chọn không vội vã thì không gì có thể thúc giục lão. Chỉ một lần duy nhất lão tỏ ra vội vã là khi đi lấy cây roi chín đuôi. Khi đó lão tràn trề năng lượng và tính nôn nóng của một đứa trẻ trước trò tiêu khiển mới. Lão đốc công không vui vì chuyện bị bại lộ trong chuyến thăm bất ngờ của anh em nhà Randall. Thứ nhất, Connelly đang hú hí với Gloria, người đàn bà hiện tại của lão, thì bị phá ngang. Lão vụt người báo tin rồi nhấc mình ra khỏi giường. Thứ hai, đó là chuyện về Michael. Connelly đã không thông báo cho James về cái chết của thằng Michael, vì chủ của lão chẳng bao giờ thèm bận tâm đến số nô lệ hiện có, nhưng cơn tò mò của Terrance lại khiến sự việc trở thành rắc rối. Lại còn chuyện thằng nhóc Chester hậu đậu và hành động khó hiểu của Cora nữa. Ngay sáng sớm hôm sau, Connelly đã đánh róc thịt hai đứa đó. Lão bắt đầu với thằng Chester, theo trình tự các lỗi đã xảy ra, và sai dùng nước ớt xát lên tấm lưng chảy máu của hai kẻ bị trừng phạt. Đó là lần đầu tiên Chester bị đánh đến gục xuống, và là lần đầu tiên của Cora trong vòng nửa năm. Hai sáng tiếp theo Connelly vẫn lặp lại trận đòn roi. Theo các nô lệ làm việc ở nhà lớn, ông chủ James bực mình về chuyện em trai ông đụng đến tài sản của ông trước mặt đám đông hơn là vì Chester và Cora. Vậy là cơn cuồng nộ của ông chủ đối với thằng em ruột lại trút hết xuống đám tôi tớ. Kể từ đó Chester không nói một lời nào với Cora nữa. Nag giúp Cora bước lên lều Hob. Cora đổ sập người xuống khi họ vừa mới bước vào trong lều và khuất khỏi tầm nhìn của người trong khu nô lệ. “Để tôi kiếm cho cô chút gì ăn nhé”, Nag nói. Giống như Cora, Nag phải chuyển tới Hob vì không còn “vừa mắt” lão đốc công. Trong nhiều năm chị là người đàn bà được Connelly ưa thích, đêm nào cũng ngủ trên giường lão. Là một đứa con gái da đen, với đôi mắt xám nhạt và cặp hông khêu gợi, Nag quá kiêu kỳ, thậm chí trước cả khi lão đốc công ban cho chị ta chút lòng sủng ái mong manh. Chị trở nên quá quắt. Tự mãn, hả hê vì mỗi mình mình không bị hành hạ. Mẹ của chị từng đi lại với đàn ông da trắng nên dạy chị các chiêu phóng đãng. Chị tận tụy hoàn thành phận sự ngay cả khi lão Connelly đem con của họ đi đổi chác. Nửa phía bắc và nửa phía nam của đại đồn điền nhà Randall thường đổi nô lệ cho nhau, bán tống bán tháo những nô lệ da đen kiệt sức, những kẻ hay trốn việc, những đứa trẻ tinh quái cho nhau trong một cuộc chơi chẳng có luật lệ, thể thức gì. Những đứa con của Nag là minh chứng. Connelly không thể ra mặt ủng hộ lũ con hoang lai da đen khi mà dưới ánh mặt trời, những lọn tóc quăn của chúng ánh lên sắc đỏ Ireland đích thị là của lão. Một buổi sáng nọ, Connelly nói toẹt ra rằng lão không cần Nag trên giường của lão nữa. Đó là ngày mà kẻ thù của chị ta chờ đợi. Ai cũng biết ngày đó sẽ đến, chỉ riêng Nag là không. Từ ngoài đồng trở về chị thấy đồ đạc của mình đã bị mang tới Hob, khiến cả làng đều biết chị bị thất sủng. Giống như thức ăn, nỗi nhục nhã của chị nuôi dưỡng họ. Hob làm cho chị chai điếng theo cách của nó. Căn lều đó có xu hướng tạo nên tính cách của một con người. Nag chưa bao giờ thân với mẹ của Cora, nhưng điều đó không ngăn cản chị đối tốt với cô gái khi cô trở thành trẻ bơ vơ. Sau buổi tối mừng sinh nhật ấy và trong những ngày đẫm máu sau đó, chị và Mary chăm sóc Cora, rửa nước muối, đắp thuốc lên vùng da bị tổn thương của cô, và bảo đảm rằng cô chịu ăn uống. Họ ôm đầu cô và ru cô bằng những bài hát mà họ đã hát cho những đứa con đã mất. Lovey cũng đến thăm bạn, nhưng cô gái trẻ ấy vẫn để ý tiếng xấu của Hob - cô không thoải mái khi Nag, Mary cũng như những người khác có mặt. Cô ở lại đó tới khi thần kinh của cô không chịu nổi nữa. Cora nằm trên sàn rên rỉ. Hai tuần sau khi bị đánh đập cô phải chịu những cơn chóng mặt và cảm giác đau nhói trong đầu. Trong hầu hết thời gian cô có thể chịu đựng được và vẫn lao động, nhưng thỉnh thoảng tất cả những gì cô có thể làm là đứng như trời trồng đến khi mặt trời lặn. Cứ mỗi tiếng đồng hồ lúc đứa bé gái mang nước đem cái môi tới, cô lại liếm sạch nó và cảm nhận kim loại trên răng. Bây giờ cô chẳng còn lại gì. Mary xuất hiện. “Lại ốm rồi”, chị nói. Chị có sẵn một mảnh vải ướt để chườm lên trán Cora. Chị vẫn là suối nguồn tình mẫu tử sau khi mất năm đứa con chị dứt ruột đẻ ra - ba đứa chết trước khi biết đi, còn hai đứa khác bị bán khi đã đủ lớn để mang nước ra đồng và nhổ cỏ quanh nhà lớn. Mary xuất thân từ nòi giống Ashanti thuần chủng, như hai ông chồng của chị. Với lũ trẻ da đen thuộc giống tốt như thế, không cần nghệ thuật bán hàng làm gì. Cora mấp máy môi nói lời cảm ơn không thoát tiếng. Những bức tường của căn lều như đang đè nặng lên cô. Trên gác xép, một người đàn bà khác - Rida hôi rình - đang lục lọi, gõ đập. Nag xoa xoa những khấc ngón tay của Cora. “Tôi không biết điều gì tồi tệ hơn”, chị nói. “Cô ốm, nằm ở đây chả ai nhìn thấy hay cô dậy được, ra ngoài kia đúng lúc ông chủ Terrance mai sẽ tới”. Nghĩ đến chuyến thị sát đồn điền của ông ta, Cora cảm thấy kiệt sức. James Randall đang ốm liệt giường. Sau chuyến đi đến New Orleans để thương thảo ủy quyền cho các đại lý thương mại tại Liverpool, đồng thời ghé thăm nơi trú chân ô nhục của mình, ông ta đổ bệnh. Trên đường về ông ta bị ngất trong chiếc xe độc mã và kể từ đó không xuất hiện. Giờ đây cánh tôi đòi trong nhà lớn rỉ tai nhau rằng Terrance sẽ cai quản toàn bộ đồn điền trong thời gian anh trai dưỡng bệnh. Vào buổi sáng Terrance sẽ đi thị sát nửa phía bắc để bảo đảm các hoạt động ở đó nhịp nhàng với công việc ở nửa phía nam. Ai cũng tin rằng đó sẽ là sự “nhịp nhàng” đẫm máu. Bàn tay của những người bạn đã lần đầu mất, những bức tường không dồn sức ép của chúng lên cô nữa, và cô mê man không biết gì nữa. Cora tỉnh dậy giữa đêm đen sâu thẳm, đầu tựa lên một tấm chăn vải bông pha len được cuộn lại. Tất cả mọi người đều đang ngủ ở trên gác xép. Cô xoa xoa vết sẹo ở thái dương. Cô có cảm giác nó đang rỉ nước. Cô biết tại sao mình lại lao ra bảo vệ Chester. Nhưng cô bối rối khi cố nhớ lại giây phút cấp bách đó, nhớ lại cảm giác đã chiếm hữu cô lúc ấy. Nó đã lùi vào một góc nhạt nhòa trong cô, nơi nó khởi phát, và cô không thể dỗ nó ra được. Để làm dịu cơn bồn chồn khó ngủ cô lần ra miếng đất của mình, ngồi trên khúc gỗ thích, ngửi mùi không khí và lắng nghe. Các sinh vật đầm lầy phát ra tiếng hú, tiếng vỗ nước, tiếng săn đuổi trong bóng tối của sự sống. Vượt qua đầm lầy vào ban đêm, hướng lên phía bắc là tới các bang tự do. Phải điên mới làm điều đó. Nhưng mẹ của cô đã làm được. ✻ Như là hiện thân của Ajarry, người không bước khỏi lãnh địa của Randall một lần nào kể từ khi đặt chân đến đó, Mabel chưa từng bước chân ra khỏi đồn điền cho đến ngày bà bỏ trốn. Bà không để lộ với bất cứ ai ý định mà bà ấp ủ, ít nhất những nô lệ bị thẩm vấn sau đó đã thừa nhận như vậy. Sẽ chẳng có kỳ tích nào, dù là khiêm tốn, trong một ngôi làng tập hợp các bản tính xảo trá, lừa lọc cùng những kẻ chỉ điểm sẵn sàng bán đứng cả người thân thiết nhất để thoát khỏi chiếc roi chín đuôi. Tối hôm ấy, Cora nằm gục đầu vào lòng mẹ ngủ và cô không bao giờ nhìn thấy mẹ nữa. Ông già Randall báo động toàn đồn điền và gọi đội tuần tra tới. Trong một giờ đồng hồ, toán người đi lùng kẻ bỏ trốn lội bì bõm trong đầm lầy, theo sau bầy chó của Nate Ketchum. Là gương mặt mới nhất trong một danh sách dài những tay trùm, tài săn nô lệ ăn vào máu Ketchum rồi. Bầy chó săn được lấy giống qua nhiều thế hệ để phát hiện mùi của người da đen trên khắp các hạt, đã nhai và cắn xé biết bao bàn tay ngang bướng. Khi lũ vật đó kéo căng sợi dây da buộc cổ và giơ chân cào cào lên không khí, tiếng sủa của chúng khiến tất cả đám người ở khu nô lệ muốn chạy nháo về lều của họ. Nhưng trên hết, ngày hái bông vẫn trải ra trước mắt các nô lệ, họ lại cúi lom khom theo trật tự, chịu đựng tiếng chó sủa kinh hồn và cảnh máu rơi. Yết thị, tờ rơi được phát khắp hạt trong phạm vi hàng trăm dặm. Đám người da đen tự do cải thiện thu nhập bằng cách bắt nô lệ bỏ trốn để lĩnh thưởng, lùng sục khắp các khu rừng, moi thông tin từ những kẻ đồng lõa. Những đội tuần tra và cảnh sát thuộc tầng lớp da trắng thấp kém liên tục quấy rối, hăm dọa. Tất cả các khu nô lệ của mọi đồn điền lân cận đều bị lục soát toàn diện, không ít nô lệ bị đánh đập. Tuy thế, bầy chó săn và chủ chúng đều trở về tay không. Randall thuê một thầy phù thủy yểm bùa tài sản của lão để không một người nào mang dòng máu châu Phi có thể trốn khỏi đó mà không ốm đến thân tàn ma dại. Mụ phù thủy chôn vật thờ ở những chỗ bí mật, lấy tiền công rồi rời đi trên chiếc xe la kéo. Cả làng tranh luận sôi nổi về linh hồn của bùa yểm. Liệu phép phù thủy chỉ phát tác với nô lệ có ý định bỏ trốn hay với tất cả những người da màu bước qua ranh giới của đồn điền? Sau một tuần các nô lệ mới lại dám đi săn và tìm cái ăn trong đầm lầy. Ở đó có cái ăn. Tuyệt nhiên không có dấu hiệu nào của Mabel. Trước đó chưa từng có ai trốn thoát khỏi đồn điền. Kẻ bỏ trốn luôn bị cào trở lại, bị bạn bè bán đứng, họ hiểu sai những ngôi sao và chạy sâu hơn vào mê hồn trận của kiếp nô lệ. Khi quay lại họ bị hành hạ cùng cực trước khi được cho phép chết, và những nô lệ ở lại bị ép phải chứng kiến cái chết khủng khiếp kia. Một tuần sau, Ridgeway, tay trùm săn nô lệ khét tiếng, xuất hiện trở lại tại đồn điền. Hắn đi ngựa đến cùng với đám tay chân, năm gã đàn ông, dẫn đầu là một gã da đỏ trông dữ tợn, đeo một chiếc vòng cổ kết từ những cái tai khô xâu lại. Ridgeway cao một mét tám, có khuôn mặt chữ điền và cái cổ chắc nịch như búa tạ. Lúc nào hắn cũng trầm lặng nhưng lại tạo ra bầu không khí đe dọa, như một đám mây tầng tầng lớp lớp xuất hiện xa xa, sau đó bất thình lình ập ngay trên đầu bạn, dữ dội kịch liệt. Cuộc tiếp kiến của Ridgeway thường kéo dài khoảng nửa giờ. Hắn ghi chép những gì cần lưu ý vào một cuốn nhật ký nhỏ và, theo như người hầu ở nhà lớn nói, đó là một gã có khả năng tập trung cao và cách nói năng hoa mỹ. Đã hai năm rồi, không lâu trước khi ông già Randall qua đời, Ridgeway mới trở lại đó, và lần ấy hắn đến để trực tiếp xin lỗi vì không bắt nổi Mabel. Gã da đỏ biến mất, nhưng có một tên trẻ tuổi với mái tóc đen dài, đeo chuỗi vòng được xâu bằng những chiến lợi phẩm giống như của gã da đỏ kia bên ngoài chiếc áo chẽn may bằng da thú sống. Ridgeway đến thăm một chủ đồn điền gần đó, giao nộp thủ cấp của hai kẻ bỏ trốn được nhét trong bao da. Ở Georgia, bước qua ranh giới của bang là cái tội vô cùng tai hại: Đôi khi một ông chủ thích được trả lại tài sản theo kiểu đó. Tên trùm săn nô lệ tiết lộ tin đồn về một nhánh của tuyến hỏa xa ngầm được cho là đang hoạt động ở phía nam của bang, nghe thật hoang đường. Ông già Randall giễu cợt. Các cảm tình viên[5] sẽ bị trừ tận gốc, bị bôi hắc ín và phủ bằng lông chim, Ridgeway quả quyết với chủ nhà. Hoặc bất cứ hình phạt nào thoả mãn tập tục của địa phương. Một lần nữa Ridgeway xin lỗi rồi cáo lui, và loáng một cái toán săn nô lệ của hắn đã xuất hiện trên đường cái quan, thi hành nhiệm vụ tiếp theo. Đám người ấy chẳng bao giờ hết việc, vì dòng sông nô lệ cần được dẫn từ những hang hốc ẩn náu và được giao nộp theo tính toán thích hợp của người da trắng. Mabel đã gói ghém cho cuộc phiêu lưu của bà. Một con dao rựa. Viên đá lửa và mớ bùi nhùi. Bà lấy trộm đôi giày tốt hơn của người bạn ở chung lều. Trong nhiều tuần mảnh vườn trống không chứng minh cho kỳ tích của bà. Trước khi đột ngột biến mất, Mabel đã đào từng củ khoai trên miếng đất, một khối hành trang cồng kềnh cho thấy suy nghĩ khờ dại đối với cuộc hành trình đòi hỏi đôi chân nhanh nhẹn. Những mô đất và cái hố trên miếng đất ấy gợi nhớ cho tất thảy những ai đi ngang qua. Thế rồi một buổi sáng miếng đất được san phẳng. Cora quỳ ở đó, bắt đầu trồng lại những cây mới. Đó là tài sản thừa kế của cô. ✻ Giờ đây dưới ánh trăng mờ, với cái đầu nhói đau, Cora đánh giá mảnh vườn nhỏ của mình, cỏ, lũ mọt ngũ cốc, những dấu chân của các sinh vật. Kể từ sau bữa tiệc kia, cô bỏ bê mảnh vườn. Đã đến lúc quay lại rồi. Chuyến thị sát của Terrance ngày hôm sau khá êm ả, trừ một lúc xáo trộn. Connelly giải thích cặn kẽ chuyện làm ăn của anh trai ông ta, như nó đã diễn ra trong vài năm từ khi Terrance bắt đầu các cuộc thị sát. Thái độ của ông ta lịch sự đến bất ngờ, tuyệt nhiên không buông những lời bình luận đầy mỉa mai như thường thấy. Họ bàn bạc về số hàng được xuất đi năm ngoái, kiểm tra sổ cái tập hợp những con số báo trọng lượng từ tháng Chín trước. Terrance tỏ ra khó chịu trước chữ viết thảm hại của gã đốc công, ngoài ra, hai người khá hòa nhã với nhau. Họ không đi kiểm tra đám nô lệ trong làng. Họ cưỡi ngựa đi một vòng qua các ruộng bông, so sánh năng suất mùa vụ ở hai nửa của đồn điền. Terrance và Connelly đi đến đâu, các nô lệ ở gần đó lại cố gắng hoạt động miệt mài gấp đôi như làn sóng. Những bàn tay đã cắt cỏ suốt nhiều tuần, rạch lưỡi cuốc xuống luống cày. Giờ đây những thân cây đã cao gần tới vai Cora, uốn cong, đung đưa, những cái lá nhú lên mỗi sáng lại lớn thêm một chút. Tháng tới những quả nang sẽ bung ra trắng xóa. Cora cầu mong sao những cây bông đủ cao để che giấu cô. Cô nhìn thấy lưng bọn họ khi những người đàn ông da trắng đi qua. Thế rồi Terrance quay đầu lại. Ông ta gật đầu dùng cây ba-toong chỉ về phía cô, rồi đi tiếp. Hai ngày sau James lìa trần. Ông ta bị bệnh thận, bác sĩ bảo vậy. Những người đã sống một thời gian dài ở đồn điền của Randall không thể không so sánh đám tang của ông bố với đám tang của người con trai. Ông già Randall là một thành viên được trọng vọng trong giới chủ đồn điền. Giờ đây đám cưỡi ngựa miền Tây đang được chú ý, nhưng chính Randall và anh em của ông mới là những người tiên phong, tạo ra sự sống trong cái địa ngục ẩm ướt này của Georgia từ những năm sơ khai ấy. Các bạn hữu là chủ đồn điền quý mến ông vì tầm nhìn xa trông rộng: ông trở thành người đầu tiên trong vùng chuyển sang trồng bông, dẫn đầu về lợi nhuận. Nhiều chủ đồn điền trẻ mắc nợ nần tìm đến Randall xin lời khuyên - lời khuyên của ông được cho không và cho rất hào phóng - về sau đều trở nên giàu có đáng ghen tị. Nô lệ nghỉ làm đến dự đám tang của ông già Randall. Họ đứng tụ thành đám đông im lặng trong khi tất cả những người đàn ông, đàn bà da trắng bày tỏ lòng kính trọng với người cha được yêu quý. Đám tôi tớ da đen làm việc trên nhà lớn hiện diện ở đó như những người hộ tang, thoạt tiên khách khứa cảm thấy chướng mắt, nhưng nghĩ sâu xa hơn sẽ thấy đó là biểu hiện của tình cảm chân thành mà họ thực sự muốn có ở các nô lệ của mình, ở người vú em có bầu vú mà họ đã bú thuở ấu thơ, hay ở người hầu đã luồn tay dưới làn nước xà phòng tắm táp cho họ. Cuối buổi tang lễ, trời bắt đầu mưa. Mưa khiến tang lễ kết thúc, nhưng mọi người đều thở phào vì hạn hán kéo dài quá lâu. Những cây bông đang khát. Trước khi James qua đời, lũ con trai của Randall đã cắt đứt quan hệ với những người đồng tuế của cha chúng cũng như những người được ông ta bảo trợ. Trên giấy tờ James có nhiều đối tác, ông ta đã gặp trực tiếp vài người trong số họ, nhưng ông ta có rất ít bạn hữu. Cho đến thời điểm ấy anh trai của Terrance chưa bao giờ nhận được một mẩu tình cảm nào của con người. Đám tang James lèo tèo, thưa thớt. Các nô lệ vẫn làm việc như thường - đâu phải vì mùa thu hoạch đang cận kề. Việc đó được giải thích rõ ràng trong di chúc của ông ta, Terrance nói vậy. James được an táng bên cạnh song thân ở một góc yên tĩnh trên vùng đất thừa thãi của gia đình bọn họ, cạnh mộ Plato và Damosthenes, hai chú chó tai cụp được tất cả mọi người, da trắng cũng như da đen, yêu quý mặc dù chúng không thể tránh xa lũ gà con. Terrance liền đi New Orleans dàn xếp các thương vụ của ông anh trai với giới buôn bán bông. Mặc dù chưa bao giờ có một thời điểm thuận lợi để bỏ trốn, việc Terrance phải quản lý cả hai đồn điền khiến kế hoạch trở nên dễ dàng hơn. Nửa phía bắc luôn được hưởng không khí dễ chịu hơn. James tàn nhẫn, hung ác như bất cứ người da trắng nào, nhưng so với em trai, ông ta vẫn là tấm gương biết tiết chế. Những câu chuyện ở nửa phía nam thì thường gây ớn lạnh. Anthony Lớn bèn chớp lấy cơ hội. Anthony Lớn đâu phải là gã trai thông minh nhất trong làng, nhưng không ai có thể nói anh ta nắm bắt cơ hội kém. Đó là người cố bỏ trốn đầu tiên - sau Mabel. Anh ta bất chấp bùa chú của mụ phù thủy nọ mà không gặp rắc rối gì, đã vượt được hai mươi sáu dặm đường trước khi bị phát hiện đang chợp mắt trong vựa cỏ khô. Cảnh sát nhốt anh ta trong lồng sắt để đưa về đồn điền. “Cứ bay như chim nhé, mày xứng với cái lồng chim đấy”. Mặt trước lồng có một cái rãnh để ghi tên đối tượng ở trong lồng, nhưng không ai buồn sử dụng. Khi họ đi, họ mang lồng theo, thế thôi. Vào buổi tối trước khi Anthony Lớn bị trừng phạt - hễ người da trắng trì hoãn hình phạt thì y như rằng có một kịch bản mới - Caesar ghé thăm lều Hob. Mary để anh ta vào. Bà không hiểu tại sao anh ta lại mò đến. Vài người đến đó để gọi ai đấy, và nếu đàn ông đến đó thì thường là một ông trùm mang tin xấu tới. Cora không kể với bất cứ ai về đề nghị của người đàn ông trẻ. Gác xép đầy những người đàn bà đang ngủ, hoặc đang lắng nghe. Cora bỏ miếng thuốc đắp xuống sàn và dẫn anh ra ngoài. ✻ Ông già Randall dựng nhà học cho lũ con trai và cho những đứa cháu nội mà ông hi vọng một ngày nào đó mình sẽ có. Khả năng cái nhà rộng lớn hiu quạnh ấy sớm được sử dụng theo đúng mục đích là rất thấp. Từ khi lũ con trai của Randall kết thúc việc học hành, nhà học chỉ được dùng cho những buổi hẹn hò và cho mọi dạng “bài học” khác. Lovey nhìn thấy Caesar và Cora bước vào trong nhà học, Cora lắc đầu khi bạn cô tỏ ra khoái chí. Cái nhà học ấy đang dần mục nát, bốc mùi khó chịu. Những con thú nhỏ lấy đó làm nơi trú ngụ thường xuyên. Bàn ghế đã được chuyển ra từ lâu, khiến cái sàn trống trơn đầy lá khô và mạng nhện. Cô tự hỏi có phải khi Caesar và Frances cặp kè với nhau anh thường đưa cô ta tới đây không, và họ đã làm gì ở đây. Caesar từng nhìn thấy Cora bị lột trần chịu đòn, đã nhìn thấy máu tứa trên da thịt cô. Caesar kiểm tra cửa sổ và nói: “Tôi rất tiếc về chuyện đã xảy ra với cô”. “Đó là những gì họ làm”, Cora đáp. Hai tuần trước, cô đánh giá anh là một gã ngốc. Còn tối nay anh chứng tỏ trí khôn ngoan vượt tuổi, như những người già thường kể cho bạn nghe một câu chuyện ẩn chứa thông điệp mà chỉ sau nhiều ngày, nhiều tuần, khi thực tế diễn ra tất yếu, bạn mới cắt nghĩa được. “Cô đồng ý đi với tôi chứ?” Caesar hỏi. “Cô đã có nhiều thời gian suy nghĩ rồi còn gì”. Cô không hiểu nổi anh. Vào những buổi sáng cô hứng đòn roi, Caesar đứng đằng trước đám đông. Việc các nô lệ chứng kiến những người anh em bị hành hạ - như bài học đạo đức - đã trở thành thông lệ. Đến một lúc nào đó mọi người phải quay mặt đi chỗ khác, chỉ vài giây thôi, bởi vì họ nghĩ đến nỗi đau đớn của người nô lệ đang chịu cực hình và nghĩ sớm hay muộn cũng sẽ tới lượt họ nếm ngọn roi. Ừ thì bây giờ không phải là bạn, song sẽ đến lúc là bạn. Nhưng Caesar không nao núng. Anh không tìm kiếm ánh mắt cô mà nhìn vào một điều gì đó nằm ngoài khả năng hiểu của cô, một điều gì đó quan trọng và khó có thể hiểu được. Cô nói. “Anh nghĩ tôi là bùa may mắn vì Mabel đã trốn thoát chứ gì. Nhưng tôi không phải bùa may mắn đâu. Anh thấy rồi đấy. Anh đã thấy những gì xảy ra khi ôm cái ý nghĩ đó trong đầu rồi đấy”. Caesar không nhúc nhích. “Tình hình sẽ trở nên tồi tệ khi lão ta về”. “Tồi tệ sẵn rồi”, Cora nói. “Từ trước đến giờ vẫn tồi tệ mà”. Cô bỏ mặc anh ở đó. Giàn thiêu mới mà Terrance đặt làm giải thích cho việc hoãn ngày xét xử Anthony Lớn. Các thợ gỗ làm việc quần quật suốt đêm để hoàn thiện những cái cùm, tô điểm những hình chạm khắc thô sơ cho chúng. Vào ngày thứ hai một đoàn khách đi xe ngựa tới, những vị khách đáng kính của tháng Tám đến từ Atlanta và Savannah. Những quý bà, quý ông ăn mặc sang trọng mà Terrance đã gặp trong các chuyến đi của lão, cùng một phóng viên London đến để viết bài mô tả phong cảnh nước Mỹ. Họ dùng bữa tại một chiếc bàn được đặt trên bãi cỏ, nhấm nháp món súp thịt rùa và món thịt cừu của Alice, nghĩ ra lời khen dành cho mụ đầu bếp, người sẽ chẳng bao giờ nhận lời khen. Anthony Lớn bị đánh bằng roi trong suốt thời gian những người đó ăn uống, mà họ thì ăn rất chậm. Vừa ăn tay phóng viên vừa tranh thủ viết nguệch ngoạc lên giấy. Món tráng miệng được mang ra, và những người tham dự cuộc chè chén chuyển vào trong nhà để tránh muỗi trong khi trận đòn trừng phạt Anthony vẫn tiếp diễn. Vào ngày thứ ba, ngay sau bữa trưa, người lao động bị gọi từ cánh đồng vào, những phụ nữ rửa bát đĩa và người làm bếp và người dọn tàu ngựa tạm dừng công việc, cả những người hầu ở nhà lớn nữa. Họ tập trung trên bãi cỏ trước nhà, khách khứa của Randall uống từng ngụm rượu rum pha gia vị trong khi Anthony Lớn bị tưới dầu và bị thiêu. Đám người chứng kiến hình phạt đó được miễn nghe tiếng gào thét của anh ta, bởi vì trong ngày đầu tiên chịu cực hình bộ phận đàn ông của anh ta đã bị cắt và nhét vào miệng chính anh ta, sau đó cái miệng bị khâu lại. Giàn thiêu bốc khói, rụi thành than và những hình nhân khắc trên gỗ cũng quằn quại trong lửa như người sống. Terrance tập trung các nô lệ từ nửa phía bắc và nửa phía nam lại. Bây giờ hai nửa đã trở thành một đồn điền, thống nhất về mục đích và phương pháp, hắn nói. Hắn bày tỏ nỗi đau buồn trước cái chết của người anh trai và niềm an ủi khi biết rằng James đang ở trên thiên đường đoàn tụ với song thân. Hắn rảo bước giữa các nô lệ trong khi nói, gõ gõ cây ba-toong, xoa đầu những đứa trẻ và vuốt ve những nô lệ nổi bật lớn tuổi hơn ở nửa phía nam. Hắn kiểm tra răng của một nô lệ trẻ mà hắn chưa từng gặp, nắm lấy hàm của cậu ta giật mạnh để nhìn cho rõ, rồi gật đầu vẻ hài lòng. Để đáp ứng nhu cầu khổng lồ về mặt hàng bông của thế giới, sản lượng của mỗi người hái bông đều sẽ phải tăng một phần trăm so với vụ thu hoạch trước. Những cánh đồng sẽ được bổ sung thêm số hàng bông sao cho đạt năng suất cao hơn. Hắn rảo bước. Hắn tát lệch mặt một người đàn ông dám khóc trước cảnh bạn mình quằn quại trên giàn thiêu. Khi Terrance đi đến chỗ Cora, hắn luồn tay vào trong áo sơ mi của cô, bóp vú cô. Hắn bóp. Cô đứng yên. Từ lúc hắn cho tập trung các nô lệ ở đây, không ai nhúc nhích, thậm chí không dám bịt mũi để ngăn mùi da thịt Anthony Lớn đang cháy xộc vào mũi. Ngoài Giáng sinh và lễ Phục sinh sẽ không có thêm bất cứ lễ hội, tiệc tùng nào nữa, hắn tuyên bố. Hắn sẽ đích thân sắp xếp mọi cuộc hôn phối để bảo đảm các cặp vợ chồng nô lệ hợp nhau và triển vọng sinh con đẻ cái. Một loại thuế mới sẽ được áp khi nô lệ nghỉ làm vào Chủ nhật. Hắn nhìn Cora gật đầu và tiếp tục đi dạo giữa đám người da đen, vừa đi vừa ban bố những phương án cải cách của mình. Terrance kết thúc bài diễn văn. Có thể hiểu rằng các nô lệ vẫn sẽ tiếp tục ăn đời ở kiếp tại đó cho đến khi Connelly thải bỏ họ. Các quý bà đến từ Savannah giải khát bằng thứ đồ uống đựng trong bình. Tay nhà báo mở một cuốn sổ nhật ký mới ra ghi ghi chép chép. Ông chủ Terrance đến với các vị khách của hắn và họ bắt đầu thăm quan một vòng khu trồng bông. Trước đây cô không phải là của hắn, và bây giờ cô là của hắn. Hoặc cô đã luôn là của hắn và chỉ đến bây giờ cô mới biết điều đó. Tâm trí Cora tự tách ra. Nó trôi đến một nơi nào đó qua chỗ người nô lệ bị thiêu, qua nhà lớn, qua đường ranh giới của đồn điền Randall. Cô cố bổ sung các chi tiết từ các câu chuyện, sàng lọc những thông tin từ lời kể của các nô lệ đã từng thấy nơi ấy. Mỗi lần cô nắm bắt được điều gì đó - những tòa nhà bằng đá trắng bóng loáng, một đại dương mênh mông không có một bóng cây trong tầm nhìn, tiệm thợ rèn của người da màu không phục vụ bất cứ ông chủ nào, ngoài bản thân anh ta - nó lại luồn lách tự do như một con cá và phóng vụt ra xa. Cô sẽ thấy nó cho bản thân nếu cô giữ lấy nó. Cô có thể nói chuyện này với ai đây? Lovey và Nag sẽ giữ bí mật cho cô, nhưng cô sợ Terrance trả thù. Tốt hơn hết là không để họ biết. Không, người duy nhất cô có thể bàn bạc là người đã nghĩ ra kế hoạch này. Cô gặp Caesar vào buổi tối hôm Terrance nói chuyện trước toàn thể nô lệ và anh làm như cô đã đồng ý từ lâu. Caesar không giống bất cứ người đàn ông da màu nào cô từng gặp. Anh sinh ra tại một trang trại nhỏ ở Virginia, do một góa phụ lớn tuổi có vóc người nhỏ nhắn sở hữu. Bà Garner thích nướng bánh, thích người ta ngợi khen luống hoa của bà, và ít quan tâm đến những chuyện khác. Caesar và cha anh chăm sóc cây cối, đàn ngựa, còn mẹ anh lo việc nội trợ. Họ trồng những vụ rau màu khiêm tốn để bán trong thị trấn. Gia đình anh sống trong căn nhà riêng hai phòng ở rìa của trang trại. Họ sơn nhà màu trắng, trang trí những hình trứng chim cổ đỏ, giống y như nhà của một người da trắng mà mẹ anh từng nhìn thấy. Bà Garner chẳng mong muốn gì hơn là sống những năm cuối đời trong an nhàn. Bà không tán thành những lý lẽ phổ biến biện hộ cho chế độ nô lệ, nhưng bà coi đó là hiện trạng xấu xa tất yếu dành cho bộ lạc châu Phi vốn thiếu trí tuệ hiển nhiên. Giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ ngay tức khắc sẽ rất tai hại - họ xoay sở như thế nào để tồn tại nếu không có con mắt kiên nhẫn và cẩn trọng hướng dẫn họ? Bà Garner giúp ích theo cách riêng của bà, dạy các nô lệ học chữ để họ có thể tiếp nhận lời Chúa bằng chính con mắt họ. Bà hào phóng cấp giấy phép, cho phép Caesar và gia đình anh đi khắp hạt khi họ muốn. Điều đó khiến hàng xóm của bà bứt rứt. Trong khả năng có thể, bà giúp họ chuẩn bị cho ngày giải phóng đang đợi họ, vì bà đã hứa sẽ để họ được tự do khi bà qua đời. Khi bà Garner qua đời, Caesar và gia đình anh thực lòng thương tiếc bà và muốn gắn bó với trang trại, đợi được giải phóng chính thức bằng giấy tờ. Bà không để lại di chúc. Người thân duy nhất của bà, cô cháu gái gọi bà bằng cô ở Boston, đã sắp xếp cho một luật sư ở địa phương thanh lý tài sản. Đó là một ngày tồi tệ khi ông ta đến cùng mấy tay cảnh sát, thông báo rằng Caesar và cha mẹ anh sẽ bị bán đi. Tệ hơn - sẽ bị bán xuống miền nam, vùng đất đầy rẫy những huyền thoại đáng sợ về thói tàn ác và tởm lợm. Caesar cùng gia đình anh ở trong hàng dài những nô lệ bị trói giằng vào nhau và bị đưa đi, cha anh đi một đường, mẹ anh đi một ngả, còn Caesar đi theo định mệnh của mình. Cuộc chia ly của họ buồn thống thiết, nhưng buộc phải diễn ra chóng vánh bởi cây roi của gã chủ buôn. Trước đó đã chứng kiến một cuộc chia ly ngốn không biết bao nhiêu thời gian, gã phát ớn đến nỗi chỉ đánh đập gia đình đang quẫn trí của Caesar với một nửa lòng hăng hái. Về phần mình, Caesar ngỡ tưởng những nhát vụt yếu ớt là dấu hiệu báo trước rằng anh có thể vượt qua tai họa sắp ập đến. Một cuộc bán đấu giá ở Savannah đã đẩy anh tới đồn điền nhà Randall, buộc anh phải kinh hoàng thức tỉnh. “Anh biết đọc phải không?” Cora hỏi. “Phải”. Tất nhiên, Caesar không thể thể hiện khả năng đó được, nhưng nếu trốn khỏi đồn điền thì họ sẽ phải phụ thuộc vào khả năng hiếm hoi đó. Bất cứ lúc nào có thể, họ lại gặp nhau tại nhà học bên cạnh nhà vắt sữa - sau khi công việc ở đó kết thúc. Bây giờ khi đã là người cùng hội cùng thuyền với anh, đã tham gia kế hoạch của anh, cô có cơ man các ý kiến. Cora gợi ý rằng họ nên đợi tới ngày trăng tròn. Caesar tính rằng sau cuộc bỏ trốn của Anthony Lớn các đốc công và ông chủ đã tăng cường kiểm soát và sẽ cảnh giác hơn vào ngày trăng tròn, bởi mặt trăng - chiếc đèn hiệu trắng - thường kích động các nô lệ có ý định bỏ trốn. Không, anh nói. Anh muốn đi càng sớm càng tốt. Ngay đêm mai. Trăng khuyết cũng đủ. Các trưởng ga của tuyến hỏa xa ngầm đang đợi. Tuyến hỏa xa ngầm - Caesar luôn rất bận. Liệu nó có thực sự hoạt động ở cái xó khỉ ho cò gáy này của Georgia không? Ý nghĩ bỏ trốn lấn át cô. Ngoài việc tự chuẩn bị, làm thế nào họ báo kịp cho nhà hỏa xa? Caesar chẳng có lý do gì để vắng mặt cho tới Chủ nhật. Anh giải thích với cô rằng cuộc bỏ trốn của họ sẽ gây náo loạn đến mức không cần báo trước cho người “đằng mình”. Bà Garner đã gieo mầm cho cuộc bỏ trốn của Caesar bằng nhiều cách, nhưng có một chỉ dẫn đặc biệt đã khiến anh chú ý đến tuyến hỏa xa ngầm. Đó là một buổi trưa thứ Bảy, khi họ ngồi ở cổng trước nhà bà. Trên đường cái quan cảnh tượng ngày cuối tuần diễn ra trước mắt họ. Các thương gia đi xe ngựa, các gia đình rảo bước đến chợ. Những nô lệ đáng thương bị xích cổ vào nhau lê bước trên đường. Khi Caesar bóp chân cho bà, góa phụ ấy đã khuyến khích anh trau dồi một kỹ năng sẽ giúp ích cho anh trở thành người tự do. Anh trở thành thợ mộc, học nghề tại một cửa hàng ở gần đó, thuộc sở hữu của một ông chủ theo giáo phái Nhất Thể Luận. Cuối cùng anh đã bán được những chiếc bát gỗ xinh xinh tại quảng trường. Theo nhận xét của bà Garner, anh khéo tay lắm. Tại đồn điền Randall anh tiếp tục nghề mộc, gia nhập đoàn lữ hành kéo vào thị trấn cùng đám người bán rêu, thợ may, và người lao động công nhật. Anh bán được chút ít, nhưng chuyến đi hằng tuần ấy lại nhắc nhở anh, nếu không muốn nói là gợi nhắc một cách cay đắng, đến cuộc sống ở miền bắc. Nó tra tấn anh lúc mặt trời lặn, giật mất cảnh tượng rực rỡ trước mắt anh, vũ điệu thôi miên giữa cảnh buôn bán và niềm khao khát. Vào một ngày Chủ nhật, một người đàn ông da trắng đến gặp anh, mời anh đến cửa hiệu của ông. Có lẽ ông sẽ bán các sản phẩm thủ công của Caesar trong tuần, ông đề nghị, và cả hai cùng hưởng lợi. Trước đó Caesar đã nhìn thấy người ấy khi ông rảo bước giữa đám đông bán dạo da màu và dừng lại trước những món đồ thủ công của anh với vẻ tò mò. Khi đó anh không chú ý đến ông nhưng giờ đây lời đề nghị khiến anh không khỏi hoài nghi. Bi kịch bị bán xuống miền nam đã làm thay đổi mạnh mẽ thái độ của anh đối với người da trắng. Anh cảnh giác. Người đàn ông đó bán thực phẩm dự trữ, đồ khô và dụng cụ nông nghiệp. Cửa hàng vắng khách. Ông hạ giọng, hỏi: “Cậu biết đọc phải không?” “Sao ạ?” Cậu nói như cánh con trai ở Georgia thường nói. “Tôi đã thấy cậu đọc các biển hiệu ở quảng trường. Đọc báo. Cậu phải cảnh giác đấy. Tôi không phải là người duy nhất có thể bắt gặp cảnh đó đâu”. Ông Fletcher là người Pennsylvania. Ông chuyển tới Georgia vì muộn mằn nhận ra rằng vợ ông không chịu sống ở bất cứ nơi nào khác. Bà có một niềm tin dành cho không khí ở đây và những ảnh hưởng tích cực của nó đối với hệ tuần hoàn. Về phương diện đó thì ông thừa nhận vợ mình đúng, nhưng xét theo mọi cách khác thì nơi này chỉ là một chốn khốn khổ. Ông Fletcher ghê tởm chế độ nô lệ, coi đó là hiện trạng lăng nhục trước Chúa. Ông chưa từng hoạt động trong các nhóm bãi nô ở miền bắc, nhưng việc quan sát cái hệ thống khổng lồ này đã trực tiếp mang đến cho ông những ý nghĩ mà ông chưa nhận ra. Những ý nghĩ có thể khiến ông chạy khỏi thị trấn hoặc tệ hơn. Ông tin Caesar, bất chấp rủi ro rằng người nô lệ này có thể trình báo về ông để lĩnh thưởng. Đáp lại, Caesar cũng tin tưởng ông. Trước đây anh đã từng gặp kiểu người da trắng đó rồi, đứng đắn và tin những điều từ miệng mình thốt ra. Lời họ nói có chính xác không là chuyện khác, nhưng ít ra họ cũng tin vào lời mình nói. Còn đàn ông da trắng ở miền nam là con của quỷ dữ và không có cách nào đoán trước được hành động độc ác tiếp theo của bọn họ. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên Fletcher lấy ba cái bát của Caesar và bảo anh hãy trở lại vào tuần tới. Những chiếc bát đó không bán được, nhưng kế hoạch táo bạo thực sự của họ phát triển nhanh chóng - khi những lần bàn bạc giữa họ tạo cơ hội cho nó hình thành. Ý tưởng giống như một khúc gỗ, Caesar nghĩ, cần đẽo gọt và cần tài khéo léo của con người để bộc lộ hình hài mới ở bên trong. Những Chủ nhật là dịp thích hợp nhất. Vào Chủ nhật vợ ông thường đi thăm anh chị em họ. Fletcher chưa bao giờ có thiện cảm với cái nhánh họ hàng đó, và họ đối với ông cũng vậy, bởi tính khí lập dị nơi ông. Đa số người tin rằng tuyến hỏa xa ngầm không hoạt động ở nơi khỉ ho cò gáy này của miền nam, Fletcher nói với anh như thế. Caesar đã biết điều này rồi. Ở Virginia, bạn có thể lần xuống Delaware hoặc lên Chesapeake bằng xuồng, tránh đám tuần tra và lũ săn tiền thưởng, bằng tài xoay xở của bản thân và nhờ bàn tay vô hình của Chúa. Hoặc tuyến hỏa xa ngầm cũng có thể giúp bạn, với những tuyến đường và lộ trình bí mật. Ở phần lãnh thổ này của quốc gia, tài liệu in ấn chống chế độ nô lệ là bất hợp pháp. Những người theo chủ nghĩa bãi nô và các cảm tình viên ở Georgia và Florida buộc phải bỏ trốn, bị các đám đông quá khích hành hạ, đánh đập và làm nhục. Những người theo hội Giám lý và hành động ngớ ngẩn của họ không có chỗ trong lòng vương quốc bông. Các chủ đồn điền không chịu nổi ảnh hưởng xấu đó. Dù sao một ga tàu cũng được mở rồi. Nếu Caesar có thể vượt qua ba mươi dặm đường tới nhà Fletcher thì ông chủ cửa hàng hứa sẽ chở anh tới tuyến hỏa xa ngầm. “Có bao nhiêu nô lệ được giúp rồi?” Cora hỏi. “Chưa có một ai”, Caesar đáp. Giọng anh không vương chút ngập ngừng, để củng cố lòng can đảm của Cora cũng như của chính bản thân. Anh nói với cô rằng trước đây Fletcher từng liên lạc với một nô lệ nhưng anh ta không đến chỗ hẹn như kế hoạch. Tuần sau đó, báo đăng tin anh ta đã bị bắt và miêu tả tỉ mỉ hình phạt dành cho kẻ bỏ trốn. “Làm thế nào chúng ta biết ông ấy không lừa ta?” “Ông ấy không làm vậy đâu”. Caesar nghĩ về điều đó rồi. Chỉ riêng việc anh nói chuyện với Fletch trong cửa hàng ông đã là bằng chứng đủ để ông bị treo cổ. Không cần xét đến các kế hoạch tỉ mỉ. Caesar và Cora lắng nghe tiếng côn trùng, giờ đây họ đã hiểu kế hoạch của họ thực sự có nghĩa gì và nó lớn lao, nguy hiểm đến mức nào. “Ông ấy sẽ giúp chúng ta”, Cora nói. “Ông ấy phải giúp”. Caesar nắm tay cô để rồi sau đó cử chỉ ấy khiến anh lúng túng. Anh buông tay cô ra. “Đêm mai”, anh nói. Đêm cuối cùng của cô ở khu nô lệ là một đêm thức trắng, mặc dù cô cần giữ sức khỏe. Những người đàn bà khác ở Hob ngáy bên cạnh cô trên gác xép. Cô lắng nghe tiếng thở của họ: đó là Nag; là Rida với cái kiểu thở ra ngắt quãng. Vào giờ này ngày mai cô sẽ tự do trong màn đêm. Khi quyết định bỏ trốn mẹ của cô cũng cảm thấy như thế này chăng? Ký ức về mẹ của Cora thật xa xăm. Điều cô nhớ nhất về mẹ là nét buồn nơi bà. Mẹ cô trở thành một người đàn bà Hob thậm chí trước khi có Hob. Cũng với thái độ miễn cưỡng hòa nhập, cũng với gánh nặng lúc nào cũng dồn về bà và tách bà khỏi những người khác. Cora không thể hình dung ra toàn bộ con người Mabel. Mẹ cô là ai? Bây giờ bà đang ở đâu? Tại sao bà lại bỏ cô? Tuyệt đối không có một cái hôn để nói: “Mai sau, khi con nhớ đến phút giây này con sẽ hiểu rằng mẹ đang tạm biệt con cho dù con không hay biết điều đó”. Ngày cuối cùng của Cora trên cánh đồng, cô xới đất hối hả như thể đang đào hầm. Qua lớp đất đó, ở phía bên kia là sự cứu rỗi. Cô nói lời tạ từ trong tâm khảm. Hôm trước cô ngồi với Lovey sau bữa tối và họ nói chuyện theo cách mà kể từ buổi sinh nhật Jockey họ không nói. Cora cố gài những lời dịu dàng về người bạn vào cuộc trò chuyện, một món quà mà sau này bạn cô có thể giữ làm kỷ niệm. Tất nhiên cậu làm điều đó vì chị ấy, cậu là người tốt mà. Tất nhiên Major thích cậu, cậu ta có thể thấy những gì tớ thấy ở cậu. Cora để dành bữa tối của cô cho những người đàn bà ở Hob. Thật hiếm có dịp họ dùng thời gian rảnh rỗi với nhau nhưng tối hôm đó cô đã đi gọi và tập trung họ lại. Điều gì sẽ xảy ra với họ? Họ là những kẻ bị hắt hủi, đọa đầy, nhưng Hob đã che chở họ khi họ bước chân vào đó. Bằng cách khoác lên mình chiếc áo kì quặc - cười ngờ nghệch và giả vờ ngớ ngẩn để thoát đòn - họ đã tránh được những rắc rối ở khu nô lệ. Có những đêm các bức vách của Hob tạo nên một pháo đài cứu họ khỏi những mối thù truyền kiếp và âm mưu. Đàn ông da trắng ăn sống nuốt tươi bạn, nhưng đôi khi người da màu cũng làm điều tương tự với bạn. Cô để lại một đống đồ ở gần cửa: một chiếc lược, một miếng bạc hình vuông sáng loáng mà Ajarry kiếm được từ nhiều năm trước, một đống cuội màu xanh dương mà Nag gọi là “Những viên đá India”. Lời từ biệt của cô. Cô cầm chiếc rìu nhỏ lên. Cô lấy đá lửa và bùi nhùi. Và giống như mẹ, cô đi đào khoai lang. Cô nghĩ đêm hôm sau sẽ có người tuyên bố chủ quyền với miếng đất ấy, vừa đào đất cô vừa nghĩ. Người đó sẽ dựng hàng rào để ngăn lũ gà vào phá. Dựng một cái chuồng chó. Hoặc bà ta sẽ giữ nó làm vườn. Một nơi neo đậu bên dòng sông đầy ác độc, khắc nghiệt của đồn điền để giữ cho bà ta không bị cuốn đi. Cho đến khi bà ta lựa chọn để bị cuốn đi. Khi ngôi làng đã trở nên yên ắng, họ gặp nhau gần cánh đồng bông. Caesar tỏ vẻ buồn cười trước túi khoai căng phồng mà cô mang theo nhưng không nói lời nào. Họ di chuyển qua những cây bông cao mà lòng bối rối đến nỗi quên chạy, cho tới khi đi được nửa đường ra khỏi đồn điền. Tốc độ di chuyển khiến họ chóng mặt. Một tốc độ không tưởng. Mặc dù không ai gọi tên họ, nỗi sợ hãi réo gọi họ ở phía sau. Họ có sáu tiếng đồng hồ trước khi bị phát giác, thêm một hoặc hai tiếng nữa để cảnh sát đến được chỗ họ đang ở bây giờ. Nhưng ngay lúc này nỗi sợ hãi đang đuổi theo bắt họ, như ngày nào nó cũng đuổi bắt họ ở đồn điền, và nó sánh kịp tốc độ của họ. Họ chạy băng qua đồng cỏ, nơi có lớp đất quá mỏng để trồng trọt và đi vào đầm lầy. Đã nhiều năm kể từ khi Cora chơi trong vùng nước đen với lũ trẻ da đen, dọa nhau bằng những câu chuyện về gấu, về bầy cá sấu ẩn mình, lũ rắn hổ mang nước bơi nhanh như tên bắn. Những người đàn ông săn rái cá, hải ly trong đầm lầy và những người bán rêu sục sạo trên cây, mò tới những chỗ thật xa nhưng không bao giờ đi quá xa, bị sợi xích vô hình kéo giật trở lại đồn điền. Nhiều tháng trời Caesar đã từng theo cánh bẫy thú trong các chuyến đi săn và thám hiểm, học cách bước trên bãi than bùn và phù sa, cách chống cây gậy vào điểm nào gần đám lau sậy, và cách tìm những hòn đảo có nền đất vững chắc. Anh dò bóng tối trước mặt cả hai bằng cây gậy chống. Theo kế hoạch, họ sẽ cố gắng đi về phía tây đến khi gặp một dãy đảo mà một người bẫy thú từng có lần chỉ cho anh thấy, sau đó sẽ hướng về phía đông bắc tới chỗ đầm lầy khô cạn. Cái nền đất hết sức vững chắc biến nó trở thành con đường nhanh nhất để đi phía bắc, dù đi như thế hơi chệch hướng một chút. Họ mới chỉ đi được vài chặng ngắn thì chợt nghe thấy tiếng người nói và dừng lại. Cora nhìn Caesar, đợi anh ra hiệu. Anh xòe hai bàn tay ra, lắng nghe. Đó không phải là giọng nói giận dữ. Cũng chẳng phải giọng đàn ông. Caesar lắc đầu khi nhận ra người phát ra tiếng nói ấy là ai. “Lovey - suỵt!” Một khi đã phát hiện ra họ, Lovey có đủ ý thức để giữ im lặng. “Tôi biết cậu sắp sửa làm chuyện gì đó”, cô ấy thì thầm khi đã đuổi kịp họ. “Lén lút gặp anh ta nhưng chẳng kể gì. Rồi cậu đào hết khoai lên khi chưa đến độ thu hoạch!” Cô ấy dùng một tấm vải cũ làm tay nải đeo trên vai. “Cô nên quay về trước khi cô làm chúng tôi tiêu đời”, Caesar nói. “Các người đi đâu tôi sẽ đi đó”, Lovey nói. Cora chau mày. Nếu họ đuổi Lovey về thì có thể cô bạn sẽ bị bắt gặp lúc đang lén chui vào lều. Lovey không phải là người biết giữ mồm giữ miệng. Đây không còn là một khởi đầu thuận lợi nữa. Cô không muốn chịu trách nhiệm về cô gái này, nhưng cô không thể lường trước được tình huống này. “Ông ấy sẽ không nhận ba chúng ta”, Caesar nói. “Ông ấy có biết tôi đi cùng anh không?” Cora hỏi. Anh lắc đầu. “Vậy hai điều ngạc nhiên cũng như một mà thôi”, cô nói. Cô nhấc cái bao của mình lên. “Dù sao chúng ta cũng có đủ cái ăn”. Anh có cả đêm để làm quen với ý nghĩ đó. Một lúc lâu sau họ mới ngủ. Cuối cùng Lovey cũng thôi kêu ré lên trước âm thanh mà các sinh vật ban đêm tạo ra, hoặc khi cô ấy phải bước sâu và nước ngập đến tận thắt lưng. Cora đã quen với tính khí dễ buồn chán của Lovey, nhưng cô không nhận ra mặt khác của bạn mình, không biết cơ sự gì đã bất thình lình xảy ra với Lovey, khiến cô ấy bỏ trốn. Nhưng mọi nô lệ đều nghĩ đến chuyện bỏ trốn kia mà. Sáng nghĩ, trưa nghĩ, đêm nghĩ. Luôn mơ tới. Mọi giấc mơ đều là giấc mơ bỏ trốn ngay cả khi có vẻ không phải vậy. Thậm chí khi là giấc mơ có giày mới. Cơ hội xuất hiện, Lovey tận dụng nó, quên cả đòn roi. Ba người bọn họ đi về phía tây, lội bì bõm trong vùng nước đen. Cora không thể dẫn đầu. Cô không biết làm thế nào Caesar có thể đảm nhận vai trò đó. Nhưng anh luôn làm cô ngạc nhiên. Tất nhiên anh có một tấm bản đồ trong đầu và có thể đọc được các ngôi sao như đọc chữ. Những tiếng thở dài và lời nguyền rủa của Lovey khi cô ấy cần nghỉ ngăn Cora mở miệng hỏi. Khi họ đòi xem cái tay nải bằng vải gai thô của Lovey, họ thấy trong đó chẳng một thứ gì hữu dụng, chỉ có vài vật lưu niệm trông lạ mắt mà cô ấy đã cóp nhặt được, chẳng hạn một con vịt gỗ nhỏ xíu, mấy cái lọ thủy tinh màu xanh da trời. Trên thực tế, Caesar là một hoa tiêu có năng lực tìm ra các hòn đảo. Cora không biết anh có thể đi đúng lộ trình đã vạch ra hay không. Họ bắt đầu di chuyển về phía đông bắc, trước khi trời sáng họ đã ra khỏi đầm lầy. “Bây giờ thì họ biết rồi”, Lovey bình luận khi vầng mặt trời màu cam nhô lên ở đằng đông. Bộ ba nghỉ chân lần nữa, cắt một củ khoai lang ra thành những miếng nhỏ. Ruồi muỗi quấy rầy họ. Trong ánh sáng ban ngày họ trông thật nhếch nhác, bẩn thỉu, bùn bắn lên tận cổ, người dính dầy lông gai và tua thực vật. Cora không thấy phiền gì. Đây là nơi xa nhất cô từng đặt chân tới. Cho dù bây giờ bị lôi đi và bị đẩy vào cảnh xiềng xích, cô cũng đã đạt được thành quả này, những dặm đường này. Caesar quẳng chiếc gậy xuống đất, họ lại lên đường. Trong lần tiếp theo họ dừng lại, anh nói với họ rằng anh phải đi tìm đường cái quan của hạt. Anh hứa sẽ sớm quay lại, nhưng anh cần xác định cả ba đã tiến được đến đâu. Lovey đủ hiểu chuyện để không hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu anh không quay lại. Để làm họ yên tâm, anh đặt cái bao bố cùng túi da đựng nước của mình cạnh một cây bách. Hoặc anh đặt chúng ở đó để họ dùng nếu anh không quay lại. “Tớ biết mà”, Lovey nói, vẫn muốn lải nhải dù đang mệt lử. Hai cô gái ngồi tựa vào gốc cây, cảm thấy biết ơn vì họ đã ở trên nền đất vững và khô ráo. Cora kể cho Lovey những chi tiết còn lại, về hôm sinh nhật Jockey. “Tớ biết mà”, Lovey nhắc lại. “Anh ta nghĩ tớ là bùa may mắn, bởi vì mẹ tớ là người duy nhất từng trốn thoát khỏi đồn điền”. “Nếu cậu muốn gặp may thì hãy cắt một cái chân thỏ”, Lovey tiết lộ. “Mẹ cậu sẽ làm gì?” Cora hỏi. Lovey và mẹ đến đồn điền Randall khi cô ấy năm tuổi. Chủ nhân trước kia của cô không cho lũ trẻ da đen mặc quần áo, vậy nên đó là lần đầu tiên Lovey có thứ gì đó khoác lên người. Bà Jeer, mẹ của cô ấy, chào đời ở châu Phi và thích kể cho con gái cùng bạn bè nghe những câu chuyện thời thơ ấu của bà tại một ngôi làng nhỏ ven sống và tất cả những con vật sống gần đó. Hái bông đã tàn phá thân xác bà. Các khớp xương của bà sưng tướng, cứng quèo, lưng bà còng rạp, đau đớn mỗi khi cất bước. Khi Jeer không thể lao động được nữa, bà trông trẻ trong khi mẹ của chúng đi làm đồng. Bất chấp những đau đớn, khổ sở, bà rất dịu dàng với con gái mình, mặc dù lúc Lovey bỏ đi nụ cười lớn từ cái miệng móm của bà trông giống hệt một cây rìu. “Mẹ tớ sẽ hãnh diện về tớ”, Lovey trả lời. Cô bạn nằm xuống, xoay lưng lại phía bạn Cora. Caesar quay lại sớm hơn họ nghĩ. Họ đang ở quá gần đường cái quan, anh nói, nhưng cần phải quý thời gian. Bọn họ phải đi thật khẩn trương, tiến xa hết mức có thể trước khi toán người cưỡi ngựa bắt đầu cuộc truy lùng. Toán người cưỡi ngựa sẽ nhanh chóng chặn đứng họ. “Khi nào chúng ta ngủ?” Cora hỏi. “Hãy tránh xa đường cái quan đã, sau đó ta sẽ tính”, Caesar nói. Qua cách ứng xử của anh, có thể thấy anh cũng thấm mệt. Chẳng bao lâu sau họ đặt những cái bao xuống. Khi Caesar đánh thức Cora dậy, mặt trời sắp lặn. Cô không cựa quậy ngay lập tức, dù cô nằm trên đám rễ của một cây sồi già. Lovey đã thức dậy rồi. Sẩm tối, họ tới một khoảng đất đã được khai hoang, một ruộng ngô phía sau một trang trại gia đình. Chủ ruộng ngô đã về nhà, bận làm việc vặt, đi ra đi vào một căn nhà nhỏ. Ba người bỏ trốn thu mình lại đợi cho tới khi gia đình đó tắt đèn. Đường thẳng nhất từ đó tới trang trại của Fletcher xuyên qua đất của dân cư, nhưng đi như thế cực kì nguy hiểm. Họ quyết định bám rừng, đi đường vòng. Cuối cùng lũ lợn đã lừa họ. Họ đang lần theo vết chân của một con lợn thì toán đàn ông da trắng từ sau lùm cây chạy bổ ra. Bốn gã. Bả được đặt trên vết chân lợn, toán săn lợn đợi con mồi trở lại vào ban đêm trong thời tiết nóng nực. Nô lệ bỏ trốn là một loài vật khác đấy, nhưng mang lại món tiền thưởng hậu hĩnh hơn. Theo miêu tả trên những tờ yết thị, nhân dạng của bộ ba này không thể lẫn được. Hai trong số những tay săn lợn túm lấy người nhỏ nhất trong bọn họ, vật cô ấy lăn quay ra đất. Sau một thời gian dài nín thở im lặng - ba nô lệ nhằm tránh bị toán thợ săn phát hiện, còn toán thợ săn tránh để con mồi phát hiện - tất cả đều la hét thỏa sức. Caesar vật nhau với một gã to béo râu đen dài. Anh trẻ khỏe hơn, nhưng gã đàn ông kia dẻo dai ra trò, hắn túm lấy thắt lưng Caesar. Caesar vật lộn như thể đang đánh nhau với cả toán đàn ông da trắng - chuyện không thể xảy ra hoặc anh đã ở dưới mồ từ lâu rồi. Đó là nấm mồ mà nô lệ bỏ trốn đấu tranh chống lại, bởi vì nó sẽ là định mệnh của họ nếu toán đàn ông này giành phần thắng và nộp họ cho chủ nhân. Lovey hú lên khi hai gã đàn ông lôi cô vào chỗ tối. Kẻ tấn công Cora trông như trẻ con, mảnh khảnh, có lẽ là con trai của một trong những gã thợ săn. Thoạt đầu cô bị bất ngờ, nhưng khi cậu ta đặt tay lên người cô, cô sôi máu. Cô bị đưa trở lại cái đêm ở sau nhà hun khói - khi Edward, Pot và đồng bọn cưỡng hiếp cô. Cô chiến đấu. Sức mạnh tràn xuống tứ chi Cora, cô cắn, tát và đánh mạnh, bây giờ cô chiến đấu vì lúc ở sau nhà hun khói cô không thể. Cô hiểu rằng cô mới bổ chiếc rìu xuống. Cô muốn làm thế. Edward đã nằm dưới đất, và thằng con trai này sẽ chịu chung số phận với hắn, trước khi cô bất lực. Đứa trai kéo mạnh Cora xuống đất. Cô lăn mình, đập đầu vào một gốc cây. Nó trườn tới chỗ cô, quay tròn cô. Máu nóng bốc lên - cô vươn tay ra, chộp một hòn đá đập thẳng vào đầu nó. Nó lảo đảo, cô đập tiếp. Tiếng rên của nó ngừng bặt. Thời gian là huyễn tưởng. Caesar gọi tên cô, kéo cô dậy. Bóng tối chỉ cho phép cô thấy một điều, đó là gã đàn ông để râu bỏ chạy rồi. “Lối này!” Cora khóc thương bạn mình. Không có dấu hiệu nào của Lovey, không có cách gì để biết bọn họ biến đâu mất. Cora lưỡng lự, rồi anh kéo mạnh cô về phía trước. Cô để mặc anh dắt mình đi. Họ ngừng chạy khi hiểu ra rằng họ không biết mình đang chạy tới đâu. Cora chẳng nhìn thấy gì vì trời tối và vì nước mắt. Caesar giữ được túi da đựng nước của anh nhưng họ đã để mất tất cả những thứ khác. Họ đã để mất Lovey. Anh xác định được phương hướng nhờ các chòm sao, họ ngã dúi ngã dụi và bị đẩy vào màn đêm. Trong suốt nhiều giờ, họ không nói năng gì. Từ kế hoạch ban đầu, những lựa chọn và quyết định mọc ra tua tủa như cành nhánh và chổi búp trên thân cây. Giá như lúc ở đầm lầy họ buộc Lovey phải quay lại. Giá như họ đi theo lối hẻo lánh hơn, tránh xa các trang trại. Giá như Cora đi ở phía ngoài cùng và là người bị hai gã đàn ông kia tóm được. Giá như họ không bỏ trốn. C aesar tìm được một chỗ an toàn, họ trèo lên cây, ngủ như gấu trúc. Khi cô thức giấc, mặt trời đã mọc và Caesar đang bước đi giữa hai cây thông, lẩm bẩm. Cô leo xuống khỏi chỗ ngủ, chân tay tê bại vì bị mắc giữa đám cành cây xù xì, thô ráp. Vẻ mặt Caesar rất nghiêm trọng. Bây giờ tin tức về cuộc chạm trán tối qua chắc chắn đã lan truyền. Cánh tuần tra đã biết hướng di chuyển của họ. “Cô đã nói cho cô ấy biết về tuyến hỏa xa ngầm rồi chứ?”. “Tôi không nghĩ vậy”. “Còn tôi, tôi không nghĩ mình đã nói. Chúng ta thật ngốc không nghĩ đến chuyện này”. Con lạch mà họ lội qua ban trưa là một dấu mốc. Họ sắp tới nơi rồi, Caesar nói. Đi khỏi con lạch khoảng một dặm, anh bỏ cô lại để đi dò đường. Khi anh trở về, họ lần theo một lối mòn xuyên rừng cho phép quan sát những ngôi nhà qua lùm cây. “Nó đấy”, Caesar nói. Đó là căn nhà một tầng khá lớn nhìn ra đồng cỏ. Đất quanh nhà được phát quang nhưng bị bỏ hoang. Chiếc chong chóng gió màu đỏ là dấu hiệu để Caesar nhận biết, những tấm rèm màu vàng nhạt được kéo phía sau ô cửa sổ màu đen cho thấy Fletcher có ở nhà nhưng vợ ông đi vắng. “Nếu Lovey nói cho họ biết”, Cora lên tiếng. Từ chỗ đang đứng họ không thấy một ngôi nhà nào khác, không thấy một bóng người. Cora cùng Caesar chạy nhanh qua đám cỏ dại, lần đầu tiên lộ mình kể từ khi ở đầm lầy. Đó là việc khó chịu và đáng sợ giữa thanh thiên bạch nhật. Cô cảm thấy như bị ném vào một trong những chiếc chảo rán lớn đen xì của Alice và lưỡi lửa đang liếm dưới đáy chảo. Họ đợi Fletcher đáp lại tiếng gõ lên cửa hậu. Cora mường tượng ra cảnh đám cảnh sát đang tập trung trong rừng, chuẩn bị lao ra cánh đồng. Hoặc có lẽ bọn họ đang nằm đợi sẵn trong nhà. Nếu như Lovey khai. Cuối cùng Fletcher cũng dẫn họ vào trong bếp. Căn bếp nhỏ nhưng tiện lợi. Trên các móc treo, những chiếc nồi được ưa dùng phô cái đáy đen xì và những bông hoa mang sắc màu tươi tắn từ đồng cỏ nghiêng nghiêng trên miệng chiếc lọ thủy tinh mỏng mảnh. Một chú chó săn già mắt đỏ sọng nằm trong góc bếp không cựa quậy, hoàn toàn dửng dưng trước hai vị khách. Cora và Caesar uống ừng ực nước trong chiếc bình Fletcher đưa cho. Chủ nhà không vui khi thấy một khách không mời, nhưng ngay từ đầu nhiều chuyện đã chẳng theo kế hoạch rồi. Ông chủ cửa hàng thông báo tin tức cho họ biết. Đầu tiên, Jeer, mẹ của Lovey, phát hiện ra đứa con gái vắng mặt và lặng lẽ rời khỏi lều để tìm cô. Đám con trai thích Lovey, và cô ấy thích bọn họ. Một trong những lão trùm chặn bà Jeer lại và bắt bà ta phải khai chuyện gì đang xảy ra. Cora và Caesar nhìn nhau. Sáu tiếng khởi đầu của họ quả là hoang đường. Ngay từ khi ấy, những tay tuần tra đã lùng sục, săn đuổi. Fletcher kể rằng đến giữa buổi sáng thì tất cả đám người nhàn rỗi trong hạt và vùng lân cận đã túa đi săn tìm. Mức thưởng của Terrance cao chưa từng thấy. Những tờ yết thị được treo ở mọi nơi công cộng. Lũ vô lại khốn khiếp nhất bắt đầu sục sạo. Đám nát rượu, những kẻ hư hỏng, những kẻ da trắng nghèo túng đến mức không có giày để đi, vui mừng trước cơ hội trừng phạt dân da màu. Các đội tuần tra lùng sục khắp các làng nô lệ và lục soát nhà của những người tự do, cướp bóc, hành hung. Thượng Đế đã mỉm cười với họ: toán thợ săn tin rằng họ đang ẩn nấp trong đầm lầy - với hai đứa con gái trẻ như thế, hẳn họ không thể làm gì to gan hơn nữa. Hầu hết nô lệ bỏ trốn đều men theo hướng đầm lầy bởi vì ở vùng phía nam hẻo lánh này chẳng đào đâu ra những người da trắng có lòng giúp đỡ, không có tuyến hỏa xa ngầm đợi sẵn để cứu một tên mọi đen ương ngạnh. Phán đoán sai lầm đó của toán săn bắt nô lệ cho phép bộ ba tiến xa về phía bắc nhất có thể. Cho tới khi toán thợ săn lợn chạm trán họ. Lovey đã trở lại đồn điền Randall. Cảnh sát ghé tới nhà Fletcher hai lần để loan tin về vụ bỏ trốn và để ngó nghiêng. Nhưng tin xấu nhất là tên trẻ nhất trong toán thợ săn - một đứa con trai mười hai tuổi - bất tỉnh nhân sự vì bị thương. Trong con mắt của cả hạt, Caesar và Cora là lũ giết người. Người da trắng muốn máu phải được trả bằng máu. Caesar lấy tay bưng mặt, Fletcher đặt tay lên vai anh nhằm trấn an. Rất dễ nhận thấy Cora đang chết lặng. Hai người đàn ông im lặng chờ đợi. Cô xé một mẩu bánh mỳ. Nỗi tủi nhục của Caesar đủ cho cả hai người bọn họ. Kế hoạch bỏ trốn cùng lời kể của họ về cuộc đụng độ với toán thợ săn lợn trong rừng làm dịu bớt nỗi lo lắng nơi Fletcher. Ba người bọn họ đang ở trong bếp nhà ông - nghĩa là Lovey không biết gì về tuyến hỏa xa ngầm, và họ không hé cho cô ấy biết tên ông. Họ sẽ tiếp tục kế hoạch. Khi Caesar và Cora ăn ngấu nghiến ổ bánh mỳ làm bằng bột lúa mạch đen và những lát thịt giăm-bông, hai người đàn ông tranh luận với nhau xem lên đường bây giờ hay đợi đến khi đêm xuống thì thuận lợi hơn. Cora nghĩ tốt hơn cô nên góp bàn. Đây là lần đầu tiên trên đời cô lên tiếng góp bàn và có nhiều điều cô không biết. Ý cô là hãy lên đường càng sớm càng tốt. Mỗi dặm đường giữa cô và đồn điền là một chiến thắng. Cô sẽ bổ sung vào bộ sưu tập của mình. Hai người đàn ông quyết định lên đường ngay, hai nô lệ ẩn dưới tấm chăn Hessian ở sau xe ngựa của Fletcher là khôn ngoan nhất. Việc đó sẽ tránh cho họ rơi vào hiểm nguy khi trốn dưới hầm nhà Fletcher, tránh phải ứng phó với bà Fletcher. “Nếu hai người cũng nghĩ vậy thì được thôi”, Cora nói. Chú chó săn ợ hơi. Trên con đường yên ắng, Caesar và Cora nép mình giữa đống sọt của Fletcher. Ánh mặt trời chiếu lấp lánh qua tấm chăn giữa những bóng cây nhô ra, trong khi Fletcher trò chuyện với lũ ngựa kéo xe. Cora nhắm mắt, nhưng hình ảnh đứa con trai nằm trên giường, đầu quấn băng và người đàn ông để râu đứng bên giường cứ chặn trước giấc ngủ của cô. Cậu ta ít tuổi hơn cô nghĩ. Nhưng đáng lẽ cậu ta không nên chạm vào người cô. Đáng lẽ cậu ta nên chọn thú tiêu khiển khác thay vì đi săn lợn ban đêm. Cô quyết định không quan tâm xem cậu ta có bình phục hay không. Dù cậu ta có tỉnh lại hay không thì họ vẫn sẽ bị giết. Âm thanh ồn ào của thị trấn khuấy động cô. Cô chỉ có thể tưởng tượng cảnh quan trông như thế nào, đám người chạy việc vặt, những cửa hiệu bận rộn, những cỗ xe độc mã và xe song, tam mã len lỏi đi qua nhau. Những giọng nói nghe rất gần, âm thanh hỗn loạn của đám đông bị giải tán. Caesar siết tay cô. Chỗ náu ẩn của họ giữa đống sọt khiến cô không nhìn thấy mặt anh nhưng cô biết vẻ mặt anh thế nào. Rồi Fletcher dừng xe. Cora nghĩ trong phút tiếp theo tấm chăn sẽ bị giật xuống và hình dung ra cảnh náo loạn xảy ra sau đó. Nắng gắt. Fletcher bị đánh tới tấp và bị bắt, bị hành hình dã man hơn cả kiểu lin-sơ[6] vì không chỉ che giấu các nô lệ bình thường mà là lũ giết người. Cora và Caesar bị đám đông đánh đập trong lúc sắp sửa bị giải đi trao trả cho Terrance, sắp phải hứng chịu bất cứ cực hình nào mà ông chủ nghĩ ra để nó vượt trên cả cực hình dành cho Anthony. Và những gì lão ta đã ban phát cho Lovey, nếu lão ta không thèm đợi ba kẻ bỏ trốn được đoàn tụ. Cô nín thở. Fletcher dừng xe vì tiếng gọi của một người bạn. Cora bật ra tiếng kêu khi người đàn ông đó dựa vào thành xe, làm nó lắc lư, nhưng ông ta không nghe thấy. Ông ta chào Fletcher, nói cho ông biết tin tức mới nhất về cảnh sát và cuộc tìm kiếm của họ - lũ giết người đã bị bắt! Fletcher tạ ơn Chúa. Một giọng khác xen vào bác bỏ tin đồn này. Các nô lệ bỏ trốn vẫn quanh quẩn ở vùng này, bắt trộm gà của một nông dân vào buổi sáng, nhưng lũ chó săn đã đánh hơi thấy. Fletcher lặp lại lời tạ ơn Chúa vì đã dõi theo một người đàn ông da trắng cũng như mối quan tâm của người ấy. Không có tin gì về cậu bé kia. Thật đáng tiếc, Fletcher bình luận. Ngay sau đó, chiếc xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh trên con đường yên ắng của hạt. Fletcher nói: “Các bạn đã biến bọn họ thành một lũ dã tràng xe cát rồi”. Không rõ ông đang nói với hai người nô lệ hay với lũ ngựa. Cora lại chìm vào trạng thái lơ mơ, những cơn rùng mình sau khi bỏ trốn vẫn đòi họ phải trả giá. Giấc ngủ có thể ngăn ý nghĩ về Lovey. Lần tiếp theo cô mở mắt ra, trời đã tối. Caesar vỗ vai cô trấn an. Có tiếng động mạnh, tiếng leng keng và tiếng mở chốt khóa. Fletcher bỏ tấm chăn ra, hai người bỏ trốn duỗi chân tay tê mỏi khi vào trong một nhà kho. Cô nhìn thấy những cái xích đầu tiên. Hàng nghìn cái lủng lẳng trên những dãy đinh trên tường trong đám hàng hóa tồn kho rùng rợn gồm xiềng, cùm, còng tay, còng chân và xích cổ muôn kiểu dáng, được kết hợp theo đủ kiểu. Cùm để ngăn một con người bỏ trốn, không cho người ta cử động đôi tay, hoặc treo một thân thể lên cao để đánh đập. Nguyên một dãy xích để xích trẻ con, những cái xiềng nhỏ xíu và những sợi xích nối chúng lại. Một dãy khác là còng sắt dày đến mức không lưỡi cưa nào có thể cưa nổi, và những chiếc còng mỏng đến mức chỉ ý nghĩ về hình phạt thôi cũng đủ ngăn người đeo làm nứt chúng. Rọ mõm có hoa văn chiếm hẳn một góc riêng, và có cả một đống xích hòn sắt ở góc nhà. Những hòn sắt được xếp thành kim tự tháp, những sợi xích quét đất theo hình chữ S. Vài chiếc cùm han gỉ, vài chiếc bị vỡ, và những chiếc khác trông như thể sáng nào cũng được rèn. Cora bước tới gần một phần của bộ sưu tập, chạm vào một cái thòng lọng bằng kim loại có những đinh nhọn chĩa vào chính giữa. Cô hiểu rằng nó được dùng để đeo quanh cổ. “Một sự trưng bày đáng sợ”, một người đàn ông cất tiếng. “Tôi nhặt chúng ở chỗ này, chỗ kia, mỗi chỗ một vài thứ”. Họ không nghe thấy tiếng người đàn ông ấy bước vào; ông luôn ở đó chăng? Ông mặc quần màu xám và chiếc sơ mi may bằng vải xốp không giấu được vóc người gầy trơ xương của ông. Cora đã từng thấy những nô lệ sắp chết đói trông còn có da có thịt hơn ông. “Một vài cái là vật kỷ niệm từ những chuyến đi của tôi", người đàn ông da trắng nói. Ông có cách nói kỳ cục, du dương lạ lùng khiến Cora nhớ đến cái kiểu những người ở đồn điền phát ra tiếng kêu khi họ hóa điên. Fletcher giới thiệu ông là Lumbly. Ông bắt tay họ một cách yếu ớt. “Ông là trưởng tàu ư?” Caesar hỏi. “Tôi không thạo về tàu hỏa”, Lumbly nói. “Tôi là một trưởng ga thì đúng hơn”. Ông nói khi không lo việc liên quan đến tuyến hỏa xa ngầm, ông sống lặng lẽ trong trang trại của mình. Đây là đất của ông. Cora và Caesar cần phải trùm chăn để lên tàu hoặc là phải bịt mắt lại, ông giải thích. Tốt nhất họ không nên biết nơi họ lên tàu. “Tôi tưởng hôm nay sẽ có ba hành khách cơ”, ông nói. “Hai người sẽ có đủ chỗ để duỗi chân, duỗi tay”. Họ chưa kịp hiểu lời ông nói thì Fletcher đã thông báo với họ rằng đã đến lúc ông phải về với vợ. “Phần việc của tôi đã xong, các bạn ạ”. Ông ôm những người bỏ trốn với tình cảm nồng nhiệt. Cora không thể không lùi lại. Trong hai ngày, hai người đàn ông da trắng đã ôm cô. Đây là một điều kiện của tự do đối với cô chăng? Caesar lặng lẽ nhìn người chủ cửa hiệu và chiếc xe của ông rời khỏi đó. Fletcher nói gì đó với lũ ngựa của mình, rồi giọng ông nhỏ dần, nhỏ dần. Lo lắng hiện rõ trên gương mặt người bạn đồng hành của Cora. Fletcher đã chấp nhận rủi ro lớn vì họ, ngay cả khi tình hình trở nên phức tạp hơn ông dự liệu. Cách trả nợ duy nhất hiện thời là sự sống sót của họ và giúp đỡ những người khác khi điều kiện cho phép. Ít nhất, đó là theo suy nghĩ của cô. Caesar nợ người đàn ông đó nhiều hơn vì trong những tháng trước khi họ bỏ trốn ông đã đưa anh tới cửa hiệu của mình. Đó là những gì cô thấy trên gương mặt anh - không phải là nỗi lo lắng mà là trách nhiệm. Lumbly đóng cửa nhà kho lại, và những sợi xích kêu leng keng do chấn động. Lumbly không hề yếu đuối. Ông thắp một ngọn đèn xách lên và đưa nó cho Caesar trong khi đá đám cỏ khô và nhấc một cánh cửa lật trên sàn nhà ra. Trước vẻ bối rối của họ ông nói: “Nếu các bạn muốn, tôi sẽ đi trước”. Chỗ dành cho bậc thang được viền bởi những hòn đá và mùi chua từ phía dưới bốc lên. Nó không dẫn tới một cái hầm mà tiếp tục dẫn sâu xuống bên dưới. Cora đánh giá cao sức lao động đã được bỏ ra để xây dựng nó. Những cái bậc dốc, nhưng những hòn đá được xếp thành hàng bằng phẳng khiến cho việc đi xuống khá dễ dàng. Sau đó họ tới đường hầm, và “cảm kích” trở thành từ quá nhẹ để bao hàm cảm xúc của họ trước những gì nằm trước mặt họ. Những bậc thang ấy dẫn tới một ga tàu nhỏ. Những cái miệng đen ngòm của đường hầm khổng lồ mở ra ở đầu này, đầu kia. Nó chắc phải cao tới sáu mét, các bức tường được ốp đá sáng và tối màu xen kẽ. Tinh thần cần cù tột bậc đã biến một dự án như vậy thành hiện thực. Cora và Caesar nhận ra những thanh ray. Hai thanh ray bằng thép chạy suốt chiều dài của đường hầm, được cố định xuống đất nhờ những chân chống xà bằng gỗ. Có lẽ đường sắt này chạy xuống phía nam và lên phía bắc, xuất phát từ một điểm kỳ lạ nào đó và dẫn tới ga cuối huyền diệu. Có con người chu đáo nào đó đã bố trí một ghế băng nhỏ trên thềm ga. Cora cảm thấy chóng mặt, bèn ngồi xuống. Caesar bây giờ mới có thể mở miệng nói. “Đường hầm này chạy dài tới đâu ạ?” Lumbly nhún vai. “Đủ xa cho cậu đấy”. “Chắc phải mất nhiều năm”. “Nhiều hơn cậu biết. Chỉ riêng việc xử lý thông khí cũng tốn thời gian rồi”. “Ai đã xây dựng nó vậy?” “Ai đã xây dựng bất cứ thứ gì trên đất nước này?” Cora nhận thấy rằng Lumbly thích thú trước nỗi kinh ngạc của họ. Đây không phải là lần đầu ông thể hiện thái độ này. Caesar nói, “Nhưng bằng cách nào ạ?” “Bằng tay, chứ còn bằng cách nào khác? Chúng ta cần bàn xem các bạn nên khởi hành ra làm sao”. Lumbly lấy từ trong túi áo ra một tờ giấy màu vàng nhạt và nheo mắt. “Các bạn có hai lựa chọn. Một tiếng nữa có một chuyến tàu rời khỏi đây và sáu tiếng sau có một chuyến khác. Đây không phải là bảng giờ tàu thuận tiện nhất đâu. Hành khách của chúng tôi có thể tính thời gian để đến vào giờ thích hợp hơn, nhưng chúng tôi buộc phải hoạt động như thế”. “Chuyến tới”, Cora nói. Chắc chắn vậy. “Điều trớ trêu là các chuyến tàu sẽ không đến cùng một nơi”, Lumbly nói. “Tàu thì đi hướng này, tàu thì…” “Đi đâu ạ?” Cora hỏi. “Đi khỏi đây, đó là tất cả những gì tôi có thể nói với các bạn. Các bạn hiểu mà, không dễ gì để báo cho nhau mọi thay đổi trên tuyến đường. Các địa phương, các chuyến xe lửa, nhà ga nào đã ngừng hoạt động, các tuyến kéo dài được tới đâu. Vấn đề nằm ở chỗ có thể các bạn sẽ thích điểm đến này hơn điểm đến kia. Rồi thì các nhà ga bị phát hiện, các tuyến liền bị gián đoạn. Các bạn sẽ không biết điều gì đợi ở trên kia đâu, tới khi các bạn dừng lại." Hai người bỏ trốn không hiểu. Theo lời trưởng ga, đi một tuyến thì không gián đoạn nhưng lại nguy hiểm hơn. Phải chăng ông đang nói đi một tuyến thì lâu hơn? Lumbly không giải thích thêm. Ông đã nói với họ tất cả những gì ông biết, ông xác nhận. Rốt cuộc, hai nô lệ đang phải lựa chọn thôi: bất cứ nơi đâu, trừ nơi họ bỏ trốn. Sau khi bàn với bạn đồng hành Caesar nói: “Chúng tôi sẽ đi chuyến tới”. “Tùy các bạn thôi”, Lumbly chỉ tay về phía chiếc ghế băng. Họ đợi. Theo đề nghị của Caesar, trưởng ga kể cho họ nghe duyên cớ nào đã khiến ông làm việc cho tuyến hỏa xa ngầm. Cora không thể chú ý vào câu chuyện. Đường hầm thu hút cô. Cần bao nhiêu nhân công để kiến tạo nơi này? Các đường hầm khác, ở bất cứ đâu, thì kéo dài bao xa? Cô nghĩ tới việc hái bông, từng nhóm người da đen đổ dồn xuống những luống bông vào vụ thu hoạch, lao động như một khối thống nhất, nhanh hết mức. Những cánh đồng mênh mông nở bung hàng trăm ngàn quả nang bông trắng muốt tựa sao trên trời ở những chỗ quang đãng nhất, của những đêm quang đãng nhất. Khi các nô lệ hái bông xong, họ lột đi sắc màu của những cánh đồng. Từ lúc gieo hạt đến lúc đóng kiện bông là một quá trình hoạt động tuyệt diệu, nhưng không ai trong số họ có thể tự hào về thành quả lao động của mình. Họ đã bị cướp đoạt điều đó. Máu của họ. Đường hầm này, những đường ray, những con người bất chấp rủi ro đã tìm thấy cứu rỗi trong công việc bố trí các nhà ga và giờ tàu chạy - đây là một điều tuyệt diệu đáng tự hào. Cô băn khoăn không biết những người xây dựng công trình này có được thưởng công xứng đáng hay không. “Mỗi bang mỗi khác”, Lumbly nói. “Mỗi bang lại có một tiềm năng, với tập quán và cách làm của riêng mình. Đi qua các bang đó, rồi các bạn sẽ thấy đất nước rộng lớn nhường nào trước khi đến trạm cuối”. Đúng lúc đó chiếc ghế rung rung. Họ im lặng, tiếng rung nghe rất rõ. Lumbly dẫn họ tới rìa thềm ga. Con tàu tiến đến với dáng vẻ nặng nề lạ lùng. Caesar từng nhìn thấy tàu hỏa ở Virginia; Cora thì mới chỉ nghe kể về loại máy móc đó. Nó không giống những gì cô hình dung. Đầu máy đen xì, một cỗ máy thô kệch được lắp tấm “hốt bò”[7] mặc dù nơi con tàu đến chẳng có bò mấy. Tiếp đến là bầu ống khói phủ đầy bồ hóng. Thân tàu được hợp thành từ cái hộp to màu đen với phần đầu là buồng lái. Bên dưới đó, những pít-tông và trụ hòa vào một vũ điệu liên tục với mười bánh xe, hai cặp bánh nhỏ ở đằng trước và ba cặp đằng sau. Đầu tàu chỉ kéo duy nhất một toa xe ọp ẹp đã bị mất vô số tấm ván ghép trên vách. Từ trong buồng lái người lái tàu da màu vẫy tay đáp lại họ, cười phô cái miệng móm. “Tất cả lên tàu nào”, ông ta hô. Để cắt bớt cuộc chất vấn gây khó chịu của Caesar, Lumbly nhanh chóng mở chốt cửa toa tàu và đẩy cánh cửa mở rộng. “Chúng ta xuất phát chứ?” Cora cùng Caesar leo vào trong toa tàu, Lumbly bèn đóng sập cửa lại. Ông ngó vào trong toa qua kẽ hở giữa những miếng ván ghép. “Nếu muốn thấy đất nước này dài rộng đến đâu, các bạn phải đi tàu hỏa. Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi nhé, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Ông vỗ vào thành tàu làm hiệu lệnh. Con tàu lắc lư tiến về phía trước. Hai người bỏ trốn bị mất thăng bằng, lảo đảo, ngã vào những kiện cỏ khô được dùng làm chỗ ngồi. Toa tàu rùng rình, phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Nó đâu phải là mẫu tàu mới, có biết bao lần trong chuyến đi Cora sợ tàu sập đến nơi. Toa tàu trống không, trừ những kiện cỏ khô, chuột chết, và những chiếc đinh cong queo. Sau đó, cô phát hiện thêm một đống tro than nơi ai đó đã đốt lửa. Caesar đờ người vì hàng loạt sự kiện lạ lùng và anh nằm co trên sàn tàu. Theo chỉ dẫn cuối cùng của Lumbly, Cora nhìn qua kẽ hở. Chỉ có bóng tối, hết dặm này đến dặm khác. Lần tiếp theo bước ra ánh mặt trời, họ đã ở Nam Carolina. Cô ngước lên nhìn tòa nhà chọc trời, cảm thấy chóng mặt và tự hỏi mình đã đi bao xa. RIDGEWAY C ha của Arnold Ridgeway là thợ rèn. Ánh sáng hoàng hôn của kim loại nóng chảy mê hoặc ông, hãy nhìn sắc màu đó hiện lên trong chiếc đe chầm chậm rồi nhanh dần, tràn qua đe như luồng cảm xúc, hãy ngắm nghía độ mềm dẻo khôn lường và cảnh quằn quại triền miên của kim loại trong lúc đợi nên hình nên dạng. Xưởng rèn của ông là một cửa sổ hướng vào những nguồn năng lượng nguyên thủy của thế giới. Ông có một bạn rượu tên là Tom Bird, một người lai thường trở nên đa cảm khi bị rượu whiskey làm cho ngà ngà say. Vào những đêm Tom Bird cảm thấy không vướng bận với cuộc sống thường ngày, ông này liền chia sẻ những câu chuyện về Thần Linh Vĩ Đại. Thần Linh Vĩ Đại sống trong vạn vật - trái đất, bầu trời, động vật, rừng cây - chảy qua và kết nối chúng bằng một sợi dây thiêng liêng. Mặc dù cha của Ridgeway dè bỉu các cuộc nói chuyện về tôn giáo, song nhận thức của Tom Bird về Thần Linh Vĩ Đại khiến ông nhớ mình đã cảm nhận như thế nào về sắt. Ông không hướng tới vị thần nào ngoài thứ sắt đỏ mà ông quan tâm trong xưởng rèn. Ông đọc về núi lửa phun trào khủng khiếp, về thành phố Pompeii bị lửa từ những ngọn núi sâu bên dưới lòng đất phá hủy. Lửa lỏng là máu của trái đất. Nhiệm vụ của ông là trộn, nghiền và rèn kim loại thành vật dụng hữu ích cho xã hội: đinh, móng ngựa, lưỡi cày, dao, súng. Xích. Ông gọi nghề của mình là gia công tinh thần. Khi được cho phép, Ridgeway đứng ở một góc xưởng trong khi người cha gia công loại sắt Pennsylvania. Nung chảy, gõ búa, nhún nhảy xung quanh cái đe. Mồ hôi chảy trên khuôn mặt ông, bụi than phủ khắp người ông từ chân đến đầu, đen hơn cả quỷ châu Phi. “Con phải gia công tinh thần này, nhóc ạ”. Ông nói rằng rồi một ngày nào đó hắn sẽ tìm thấy tinh thần của hắn. Đó là lời khích lệ. Ridgeway mang một gánh nặng riêng. Hắn chẳng có hình mẫu nào để trở thành. Hắn không thể hướng vào cái đe bởi vì làm sao vượt trên tài năng của cha hắn được. Trong thị trấn, hắn chăm chú quan sát những khuôn mặt đàn ông theo đúng cách mà cha hắn kiểm tra tạp chất trong kim loại. Ở đâu đàn ông cũng đều bận rộn với những nghề vô nghĩa, phù phiếm. Nông dân chờ mưa như kẻ đần, người bán hàng mất công sắp xếp những mặt hàng thiết yếu nhưng lại ế sưng, hết dãy này đến dãy khác. Thợ thủ công và nghệ nhân tạo ra sản phẩm chẳng khác gì tin đồn mong manh so với thực tế bằng sắt rắn chắc của cha hắn. Ngay cả lớp người giàu nhất, có ảnh hưởng tới tận thị trường chứng khoán London và nền thương mại địa phương cũng chẳng truyền cảm hứng cho Ridgeway. Hắn biết vị trí của họ trong hệ thống, họ xây những căn nhà lớn dựa trên một quỹ gồm nhiều con số, nhưng hắn không nể trọng họ. Nếu vào cuối ngày bạn không dơ dáy, bẩn thỉu một chút thì bạn chẳng thật sự là người lắm đâu. Hằng sáng, tiếng cha hắn đập kim loại là những bước đầu tiên của một định mệnh chẳng bao giờ tiến lại gần. Mười bốn tuổi Ridgeway bắt đầu gia nhập nhóm tuần tra. Hắn là đứa con trai mười bốn tuổi to lớn vụng về, cao hơn một mét tám, vạm vỡ và cương quyết. Thân hình hắn không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào về nỗi bối rối bên trong cả. Hắn đánh những thằng bạn khi đánh hơi thấy nỗi yếu đuối. Ridgeway còn quá nhỏ để trở thành tuần tra viên nhưng quy luật luôn """