"Tượng Thần Sụp Đổ - C. S. Harris full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tượng Thần Sụp Đổ - C. S. Harris full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo TƯỢNG THẦN SỤP ĐỔ Tác giả: C.S. Harris Dịch giả: Đào Diệu Linh Phát hành: Bách Việt Nhà xuất bản: Lao Động Thể loại: Văn Học Ebook: nguyenthanh-cuibap Nguồn text: Waka LỜI CẢM ƠN M ột nhà văn luôn mang ơn rất nhiều người và điều này đặc biệt đúng với tôi và cuốn sách này, một cuốn sách mà trước khi được phát hành đã phải trải qua một khoảng thời gian vô cùng khó khăn sau khi cơn bão Katrina càn quét và phá hủy mảnh đất quê hương tôi - New Orleans. Tôi vô cùng cảm kích: Biên tập viên của tôi, Ellen Edwards, người đã hết lòng thông cảm và luôn cố gắng hết sức để có thể hợp tác làm việc với tôi bất chấp những gián đoạn vì bão, di tản và tái xây dựng, cũng như đã luôn đưa ra những lời khuyên sáng suốt và sâu sắc. Cuốn sách sẽ không thể đủ đầy được như hôm nay nếu không có chị. Cảm ơn chị. Con gái tôi, Samantha, người đã không ngại ngần đón cả một gia đình ba thế hệ với năm con mèo về căn hộ sinh viên Baton Rouge bé xíu của mình và con gái Danielle của tôi, người đã ngủ trên một chiếc ghế gỗ nhiều tuần mà không một lời phàn nàn. Hai đứa đều là những chiến binh kiên cường. Mẹ tôi, bà Bernadine Wegmann Proctor, người đã cho phép chúng tôi đến chiếm cứ căn nhà gỗ một tầng may mắn thoát khỏi lũ quét của bà vô thời hạn và chị gái tôi, Penelope Williamson, vì đã ở bên lúc chúng tôi cần chị nhất. Cảm ơn hai người. Emily và Bruce Toth (và Beauregard và Ngài Fussy), những người đã hào phóng mở rộng cánh cửa ngôi nhà Baton Gouge của họ cho rất nhiều thành viên gia đình chúng tôi cùng hai chú mèo và người đại diện của tôi, Helen Breitwiezer. Những người bạn như Ed và Lynn Lindahl, Paula và Adriel Woodman đã cho chúng tôi mượn nhà của họ từ Beverly Hills cho tới Arizona và cả Alabama. Tấm lòng hào phóng của các bạn làm tôi vô cùng cảm động. Cảm ơn các bạn. Tất cả những người bạn và gia đình thân thích đã liên lạc với tôi trong những ngày tối tăm điên rồ sau trận đại hồng thủy để bày tỏ tình cảm và tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho tôi. Đặc biệt cảm ơn những người bạn cũ Tom Hudson, Nick Fielder và Tony Lutfi, những người bạn từ nước Úc xa xôi Virginia Taylor, Trish Mullin và Gill Cooper và cả anh họ tôi, Greg Whitlock. Mọi người đã giúp tôi nhiều hơn những gì mọi người tưởng tượng. Ben Woodman, người đã bỏ ngang kì nghỉ Giáng sinh của mình để gỡ lớp cách nhiệt cùng những tấm ván gỗ đã mốc meo và Jon Stebbins, người không chỉ dành hết thời gian rảnh của mình hết tuần này đến tuần khác để giúp chúng tôi xây lại ngôi nhà mà còn vực tinh thần của chúng tôi dậy lúc chúng tôi chán nản nhất. Những người bạn như vậy thật sự là hiếm có khó tìm. Các thành viên của hội Nhà văn Wordsmiths họp mặt thứ Hai hàng tuần, Kathleen Davis, Elora Fink, Charles Gramlich, Laura Joh Rowland và Emily Toth, những người vẫn cố giữ liên lạc, dù cho ban đầu chỉ có thể thực hiện qua e-mail. Tôi thực lòng cảm kích trước tấm lòng, những cuộc trò chuyện và sự cổ vũ của các bạn nữa. Cảm ơn. Và cuối cùng, là chồng tôi, Steve Harris, người không chỉ là một cặp bài trùng trong việc dựng cốt truyện với tôi mà còn là một vị phù thủy tài ba với máy móc. Có lẽ em đã không sống nổi qua cơn bão Katrina lẫn những ngày sau đó nếu không có anh bên mình. Cảm ơn anh. CHƯƠNG 1 C ung điện Hoàng gia, Brighton, Anh quốc. Thứ Tư, ngày 12 tháng 6 năm 1811. Ngài biết nàng sẽ tìm tới. Bọn họ vẫn luôn thế. Hoàng tử George, Hoàng tử xứ Wales, cũng là người mà bốn tháng trước chính thức trở thành Hoàng thân Nhiếp chính của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland, đưa tay khép lại cánh cửa sau lưng. Ngài hạ tầm mắt trùm lên những đường cong lên xuống và phần da thịt lộ ra khỏi tấm áo của người phụ nữ trước mặt. “Vậy là nàng đã đổi ý rồi sao, phu nhân? Đã suy xét cẩn thận lại lời từ chối vội vã trước thiện chí làm thân của ta?” Nàng chỉ im lặng, ánh nến yếu ớt trong phòng khiến ngài không nhìn ra được vẻ mặt nàng. Nàng nằm trên chiếc ghế dựa dài cạnh lò sưởi, cổ tay tai tái đặt hờ lên thành ghế chạm trổ, đầy khiêu khích. Người ta vẫn hay phàn nàn về nhiệt độ quá cao của các phòng trong nhà George, kể cả vào những đêm hè mát mẻ như đêm nay. Nhưng người phụ này dường như rất tận hưởng cái nóng, chiếc áo choàng buông xuống từ bờ vai như một nét vẽ, đôi chân để trần quyến rũ. George liếm môi. Từ phía bên kia cánh cửa, vọng vào chuỗi âm điệu trong bản giao hưởng của Bach, hòa lẫn tiếng trò chuyện rù rì của những vị khách thuộc tầng lớp thượng lưu mà George đã mời đến và từ một nơi xa xôi nào đó, có cả tiếng cười phụ nữ cao vút. Tiếng cười ấy bỗng khiến lòng George nghẹn lại một nỗi lo lắng mơ hồ. Bữa tiệc tối nay khiến người ta đặc biệt thích thú, bởi khách mời danh dự không phải ai khác mà chính là vị vua đã bị truất ngôi của nước Pháp - Louis Mười Tám. Bọn họ vẫn đến đây hằng đêm, tất cả những quý bà vẻ mặt khinh khỉnh, chỉ biết có cạnh khóe và cả những quý ông toàn thân vận phục trang thời thượng. Họ uống rượu của ngài, ăn thức ăn của ngài và nghe nhạc của ngài, nhưng ngài thừa biết suy nghĩ thật lòng của bọn họ về mình. Bọn họ vẫn luôn cười nhạo ngài, gọi ngài là một thằng hề. Thầm thì với nhau rằng ngài cũng là một thằng điên như cha ngài. Bọn họ đinh ninh rằng ngài chẳng biết đâu, ấy thế nhưng ngài vẫn rõ. Cũng như ngài vẫn rõ chuyện bọn họ sẽ càng có thêm cớ để cười nếu ngài lại một lần nữa để mặc cho người phụ nữ này biến mình thành kẻ ngốc. Sao nàng vẫn không nói lời nào? George thận trọng vươn thẳng người, ngực ưỡn lên phập phồng. “Chuyện này là sao đây, thưa quý phu nhân? Nàng dụ ta đến nơi này chỉ để đùa giỡn ta thôi ư? Để biến ta thành thằng ngốc?” Bước về phía người phụ nữ, ngài bỗng chốc loạng choạng ngã nhào, một bàn tay mập mạp vung lên nắm lấy lưng chiếc ghế bên cạnh. Đều là do cổ chân ngài thôi, hẳn là thế. Cái thứ vô dụng ấy vẫn luôn phản bội ngài như vậy. Tửu lượng của ngài rất khá. Khá hơn hầu hết đám trai tráng chỉ bằng nửa tuổi ngài. Mọi người đều nói vậy. Những cây nến trong giá cắm chạm trổ trên tường bùng lên vàng rực, rồi lịm dần. Ngài không nhớ mình ngồi xuống lúc nào. Nhưng khi mở mắt, ngài thấy mình đang ngồi gục trên chiếc ghế cạnh lò sưởi, cằm tì lên những lớp vải xếp của chiếc cà vạt [1] trắng. Ngài còn cảm nhận được dòng nước dãi chảy ra từ khóe miệng. Đưa tay quẹt ngang cằm, George ngẩng đầu. Người phụ nữ vẫn duy trì tư thế đó, một chân trần thả xuống khỏi chiếc ghế dài bọc nhung vàng, màu xanh lục bảo lấp lánh của bộ váy chảy xuôi theo đôi vai trần gợi cảm. Nhưng nàng đang trân trân nhìn về phía ngài với một đôi mắt mở to vô hồn. Guinevere Anglessey quả thực là một người phụ nữ đẹp. Đường cong mềm mại của bộ ngực đã lộ phân nửa trắng mịn như kem Devonshire, mái tóc ánh lên màu xanh đen trong ánh nến. George trượt xuống khỏi ghế, quỳ cạnh nàng, giọng thoáng nức nở khi cầm lấy bàn tay lạnh lẽo của người đẹp. “Quý cô của ta?” George có chút hoảng loạn. Ngài không thích mấy thứ chuyện bát nháo. Nếu chẳng may nàng thực sự tức giận, thì cảnh tượng sẽ chẳng đẹp đẽ gì. Ngài dựng nàng dậy, khẽ lay đôi vai. “Nàng - ôi Chúa tôi, nàng ngã bệnh ư?” Thứ giả thiết mới và càng thêm khiếp hãi này làm ngài rùng mình. Sức đề kháng của ngài rất yếu. “Ta có nên mời bác sĩ Heberden không?” Ngài muốn rời khỏi chỗ nàng ngay lập tức, nhưng nàng nằm ở một tư thế quá sức kì cục, thân trên không một chút lực, làm ngài phải chật vật mà đỡ lấy. “Đây, chờ ta dìu nàng nằm ở một tư thế thoải mái hơn, rồi sau đó ta sẽ sai người đi...” Ngài ngưng lời, quay ngoắt lại phía sau khi hai cánh cửa bỗng mở tung. Một giọng phụ nữ hào hứng, “Có lẽ Hoàng tử đang trốn trong này.” Bị bắt gặp trong cảnh đang vụng về ôm lấy người vợ trẻ xinh đẹp nhưng bất tỉnh của Hầu tước đảo Anglessey, George điếng người. Nhận thức rõ mồn một về cái tư thế lố bịch của mình, ngài liếm đôi môi bỗng dưng khô nẻ. “Quý phu nhân đây hẳn đã ngất xỉu.” Phu nhân Jersey đứng như trời trồng, một tay nắm chặt lấy nắm đấm cửa, đôi má dưới lớp phấn hồng tái nhợt đi, đôi mắt mở to nhìn trân trân. “Ôi, lạy Chúa tôi,” cô thở gấp. Hành lang chật kín những người phụ nữ liên tục la hét và những người đàn ông mặt đanh như thép. Ngài nhận ra cậu em họ mình, Jarvis và cả gã quý tử giết người của Lãnh chúa Hendon, Tử tước Devlin. Bọn họ đều chỉ trừng trừng mà nhìn. Phải mất một khắc George mới nhận ra họ không nhìn ngài, mà là nhìn cái cán khảm ngọc của con dao găm cắm sâu vào tấm lưng trần của phu nhân Hầu tước đảo Anglessey. George thét lên, một thứ âm thanh cao vút chói tai như phụ nữ vọng lại nghe đến là kì quái, trong khi những cây nến lại một lần nữa lịm dần rồi tắt hẳn. --------------------- [1]Nguyên văn: “Cravat”, một loại khăn cài cổ, tiền thân của nơ và cà vạt hiện đại. CHƯƠNG 2 M ột làn gió mát mơn man lướt qua Steyne, mang theo vị mằn mặn của biển vào đất liền. Sebastian Alistair St. Cyr, Tử tước Devlin, dừng bước đứng lại trên con đường lát đá phiến bên ngoài Cung điện, hít vào thật sâu thứ không khí ngọt lành ấy. Quanh anh, những con đường tối om run lên với những tiếng hô hoảng hốt gọi xe ngựa, tiếng bước chân gấp gáp của những người phu kiệu chạy ra đón các quý bà cả người lấp lánh trang sức với các quý ông trong những chiếc quần ống túm đang túa ra từ hai cánh cửa mở toang của Cung điện, tan vào bóng đêm. Một số ném về phía Sebastian những ánh nhìn sợ hãi và nghi hoặc. Tất cả rõ ràng đều tránh anh thật xa. “Lũ ngu ngốc,” một giọng nói lạnh lùng, tức giận vang lên sau lưng anh. “Chúng nghĩ gì chứ? Rằng con đã giết người phụ nữ ấy chắc?” Sebastian quay lại, nhìn vào vẻ mặt nặng nề và khó chịu của cha mình, Alistair St. Cyr, Bá tước thứ Năm xứ Hendon. Sebastian cười gượng. “Hẳn là họ đều cảm thấy đó là một lời giải thích dễ chấp nhận hơn chuyện vị Hoàng thân Nhiếp chính của họ vừa đâm chết một người phụ nữ trẻ đẹp.” “Prinny chắc chắn không thể làm được những chuyện man rợ đến thế, con cũng thừa biết mà,” Hendon gắt. “Dù sao thì cũng có kẻ đã giết người phụ nữ đó. Và ít nhất thì con cũng biết kẻ đó không phải là mình.” “Chúng ta đi bộ đi,” Hendon nói, ra hiệu cho xe ngựa của mình chạy đi. “Ta cần chút không khí.” Hai cha con cùng đi về phía khách sạn của họ trên đường Marine Parade. Không ai nói lời nào, tiếng bước chân khe khẽ dội lại từ bóng tối. Hương vị thân quen của cát ẩm, của những mỏm đá đượm mặn đặc quánh trong không khí ấm áp buổi đêm và những con đường ngập ánh trăng đầy những ký ức mà cả hai cha con đều không muốn đối diện. Đã nhiều năm rồi, cả hai vẫn cố tránh trở lại Brighton nếu được. Nhưng với cương vị của Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh cùng chuyến thăm của hoàng gia Pháp thất thế, ngài Bá tước xứ Hendon không thể không có mặt ở Brighton. Sebastian thì chỉ trở lại nhân lễ sinh nhật thứ sáu mươi sáu của cha anh. Đứa con còn lại của ngài Bá tước, Amanda, vẫn luôn ở xa nơi này vì những lý do chúng ta sẽ không bàn đến. “Người phụ nữ đó...” Hendon mở lời, rồi lại ngừng, hàm khẽ động - một thói quen mỗi khi ông mải suy nghĩ hay đang lo lắng. Trong ánh đèn đường nhàn nhạt, gương mặt ông rất tái, mái tóc là một mảnh trắng xóa dưới ánh trăng. Ông hắng giọng và thử cất tiếng lần nữa. “Cô ấy trông giống Guinevere Anglessey đến lạ.” “Đó quả thật là phu nhân Hầu tước đảo Anglessey,” Sebastian đáp. “Lạy Chúa lòng lành.” Hendon đưa tay vuốt khuôn mặt đang trùng xuống vì thương tiếc. “Anglessey sẽ chết mất.” Trong một khắc, Sebastian chỉ giữ im lặng. Trong thế giới của họ, chuyện những người phụ nữ trẻ đẹp bước chân vào gia đình các quý ông đã luống tuổi nhưng giàu sang và có chức tước cũng chẳng phải chuyện hiếm gặp. Nhưng dù có như thế, khoảng cách tuổi tác tận bốn mươi lăm năm giữa vị Hầu tước và cô vợ trẻ của ông vẫn có phần hơi quá. “Con phải thừa nhận,” Sebastian lên tiếng, cẩn thận lựa lời cho phù hợp với sự tôn trọng anh dành cho tình bạn lâu năm giữa Hendon và Anglessey, “Con cũng không ngờ được cô ấy lại là kiểu người sẽ nhập vào dàn nhân tình nhân ngãi của Prinny.” Mắt Hendon chợt lóe lên. “Dù một khắc cũng không được nghĩ như vậy. Cô ấy không phải người dễ dãi. Không phải Guinevere.” “Vậy thì cô ấy còn làm cái quái gì trong phòng Hoàng tử?” Hendon nặng nề thở ra một hơi. “Ta không biết. Nhưng chuyện này không ổn chút nào. Không ổn cho cả Anglessey lẫn Prinny... và cả con nữa,” ông thêm vào. “Điều cuối cùng con cần trên đời này là có thêm một người phụ nữ bị sát hại dính dáng đến tên mình.” Sebastian cau mày, ánh mắt bị thu hút bởi biểu tượng Hoàng gia trang trí trên cỗ xe ngựa đỗ lại ngay trước khách sạn của họ. “Tin con đi, lần này, con không hề có ý định cúi đầu chịu tội.” Hendon nhìn con, bất ngờ. “Sao con lại nghĩ như thế?” Chẳng nói chẳng rằng, Sebastian khẽ hất cằm về hướng một người hầu mặc chế phục đang đứng cạnh đội phu xe khẩn trương của mình. “Gì thế này?” Hendon hỏi. Tên người hầu bước tới và cúi chào. Bộ chế phục của hắn không lẫn đi đâu được - người này, cũng như cỗ xe ngựa kia, là người của Hoàng tử. “Thưa Lãnh chúa Devlin? Lãnh chúa Jarvis có đôi lời muốn trao đổi với ngài. Trong phòng của ngài ấy ở Cung điện.” Xét theo phả hệ, Lãnh chúa Jarvis cũng chỉ là một người họ hàng xa của nhà vua, một vị quý tộc giàu có, được người ta biết đến với sự khôn ngoan đáng sợ và khả năng thông suốt hết mọi chuyện nhờ vào mạng lưới điệp viên cá nhân đồ sộ. Nhưng thật ra, Jarvis lại chính là bộ óc của cả Hoàng tộc, là một kẻ quỷ quyệt hết lòng tận tụy vì Anh quốc và nền quân chủ. “Vào giờ này sao?” Sebastian hỏi. “Lãnh chúa Jarvis nói rằng đây là chuyện vô cùng quan trọng, thưa ngài.” Nếu chỉ xét đến những lần chạm mặt trước đây với Jarvis, ban đầu Sebastian định gửi trả tên hầu lại chỗ chủ hắn với một lời nhắn cụt lủn nhất có thể. Nhưng rồi anh lại nhớ đến hình ảnh Guinevere tái nhợt, không chút sự sống, nằm dài trong căn phòng thắp nến của Hoàng tử và anh thấy mình ngần ngừ. “Báo lại với chủ của ngươi rằng Lãnh chúa Devlin sẽ tiếp đón ngài ấy vào buổi sáng.” Hendon ngắt ngang, cằm khẽ động vì khó chịu. Sebastian lắc đầu. “Không, con sẽ trở về London ngay khi trời sáng.” Cảnh giác nhưng tò mò, Sebastian nhảy lên chiếc xe ngựa trước khi khi thang kịp kéo xuống. “Cha đừng thức chờ con,” anh nói với cha mình rồi ngồi trở lại chiếc ghế bọc nhung trong khi tên hầu khép chặt cánh cửa xe. CHƯƠNG 3 C harles, cũng là Lãnh chúa Jarvis, sống trong một gian đặc biệt của tòa Cung điện, nơi mà Hoàng thân Nhiếp chính đã bố trí dành riêng cho ông. Niềm yêu thích của Hoàng tử dành cho thị trấn nhỏ ven biển Brighton này có lẽ đã bắt đầu từ hơn ba mươi năm trước, từ cái thời mà ngài còn trẻ, còn bảnh trai và thậm chí, mặc dù bây giờ nhớ lại Jarvis vẫn không khỏi cảm thấy khó tin, là còn được lòng dân chúng. Vị Hoàng tử này vẫn luôn trở về đây mỗi khi có dịp để được đắm thân hình phì nộn của mình dưới làn nước biển, để chủ trì những buổi hòa nhạc lẫn các cuộc bài bạc mỗi đêm và còn để vẽ vời ra những ý tưởng cách tân và trang trí đầy hoang phí cho Cung điện của ngài nữa. Ngay lúc này đây, trong gian phòng của Lãnh chúa Jarvis là những chiếc đèn chùm khảm rồng, nội thất giả tre, với giấy dán tường màu xanh thân công làm nổi lên những họa tiết quái thú mạ vàng. Nhưng biết đâu đấy, rất có thể trước khi trời kịp sang thu thì toàn bộ nội thất trong này sẽ lại thêm một lần đổi mới, thành hậu cung tráng lệ của một vị vua Hồi giáo hoặc đền thờ của một vị Đại đế[2] chẳng hạn. Bản thân Jarvis không mấy hứng thú với cái phong cách đậm chất phương Đông mà Hoàng tử đặc biệt say mê này. Thế nhưng hơn ai hết, ông hiểu rằng tòa Cung điện này - cũng như Nhà Carlton, dinh thự của Hoàng tử trên London - đều chỉ là mấy thứ đồ chơi tinh xảo trong tay một đứa trẻ con béo ục ịch được nuông chiều quá mức mà thôi. Những công cuộc tân trang nhà cửa kiểu này tốn kém thì tốn kém thật, nhưng ít ra chúng khiến Hoàng tử thấy thích thú và tạo việc cho ngài bận bịu để những người thông thái hơn, trí óc bình ổn hơn điều hành đất nước. Cao hơn một mét tám và ở độ tuổi năm mươi tám, dáng người hơi đậm, Jarvis trông vẫn rất phong độ. Chỉ riêng cái ngoại hình cao lớn này cũng đã đủ ấn tượng rồi, thế nhưng chính sự tài trí của Jarvis mới là điều khiến người ta phải kiêng dè - tài trí và sự nhẫn tâm phi lý vì những cống hiến mà ông dành cho Đức Vua và đất nước này. Chỉ cần ông muốn, cái chức vị Thủ tướng luôn có thể là của ông bất kì lúc nào. Nhưng không, ông lại chẳng muốn nó. Ông thừa hiểu rằng quyền lực hiệu quả và thỏa mãn hơn rất nhiều khi ẩn mình trong bóng tối. Thủ tướng đương nhiệm, Spencer Perceval, là người hiểu chuyện và thật ra gần như cả Nội Các cũng vậy. Trong bộ máy chính phủ, chỉ có duy nhất hai người dám công khai đối đầu với Jarvis. Một là Bá tước xứ Hendon, cũng là Bộ trưởng bộ Tài chính. Người còn lại chính là người đàn ông này - Bá tước xứ Portland. Lãnh chúa Jarvis lấy từ trong túi quần ra một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng ngà được chạm trổ tinh xảo, mắt dõi theo vị quý tộc đi đi lại lại nãy giờ trên nền thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu xanh lá phối vàng. Là một người đàn ông cao lớn và linh hoạt, lúc nào cũng thấp thỏm lo lắng, Portland đã giữ cương vị Bộ trưởng Nội vụ được hai năm nay. Đây là một người thông minh. Không thông minh được bằng Jarvis, tất nhiên, những cũng đủ để không dễ mà dỗ yên. “Vì sao ngài lại làm như vậy?” Portland chất vấn, mấy ngọn nến trong chân đế treo tường lập lòe chiếu sáng mái tóc màu nâu đỏ của anh ta, những sải chân dài lại bước ngang căn phòng thêm lần nữa. “Tòa án đã tuyên Hoàng tử không liên quan gì tới vụ việc rồi. Ngài hãy để yên như vậy đi! Chuyện này càng kéo dài thì chỉ càng tổn hại đến Hoàng tử thôi. Các bác sĩ thậm chí đã phải cho Người dùng thuốc an thần rồi đấy.” Jarvis khẽ nhón lấy chút thuốc lá trong hộp, đưa lên đầu mũi và ngửi một hơi. Ngài Thủ tướng Perceval đã xuống giáo đường để cầu nguyện, sẵn lòng phó mặc chuyện ô uế này cho Jarvis giải quyết. Nhưng Portland thì không như vậy. Portland giờ không chỉ là một mối phiền toái nữa, anh ta đã trở thành một vấn đề gây trở ngại. “Gã quan tòa đó là một tên đần,” Jarvis đáp, đóng lại hộp thuốc lá kêu tách một tiếng. “Đần như bất kì kẻ nào thực sự nghĩ rằng người dân sẽ tin chuyện phu nhân Hầu tước đảo Anglessey đã tự sát bằng cách đâm dao vào lưng mình.” Portland có một nước da đặc biệt trắng, gần như da phụ nữ, với những chấm tàn nhang nhỏ màu quế lấm tấm trên gò má cao. Nước da này thường phản bội anh ta, giống như ngay lúc này đây - cả khuôn mặt đỏ bừng vì bực mình. “Trên lý thuyết thì vẫn có khả năng đó. Nếu cô ta dựng sẵn con dao rồi ngã nằm xuống...” “Ôi, làm ơn đi,” Jarvis đáp trả, “Phân nửa dân chúng đều tin chắc rằng Hoàng tử là thủ phạm giết chết người phụ nữ đó rồi. Giờ nếu ta để Tòa tuyên bố như thế thì chỉ khiến nửa còn lại tin nốt mà thôi.” “Sao mà như vậy được chứ? Làm gì có ai lại thực sự tin rằng Hoàng thân Nhiếp chính có khả năng làm ra cái loại chuyện...” Mắt Portland đột nhiên giãn lớn như chợt nhớ ra chuyện gì, giọng nhỏ dần. “Chính xác,” Jarvis nói. “Tất cả đều sẽ liên tưởng tới vụ tên người hầu của Cumberland. Nếu ngài vẫn còn nhớ thì kết quả điều tra của vụ án đó cũng đưa ra kết luận là tự sát. Thật lòng thì ngài nghĩ có bao nhiêu người thực sự tin rằng tên đó đã tự tay cứa cổ mình cơ chứ? Lại còn một nhát từ trái sang phải, trong khi tên đó rõ ràng thuận tay trái.” “Cumberland là một người nguy hiểm và có máu bạo lực. Chẳng ai phủ nhận được chuyện đó cả. Nhưng nói gì thì nói, Prinny không hề giống anh trai mình.” Jarvis nhướng mày vẻ hoài nghi. Lại một lần nữa, cái tông đỏ phơn phớt ấy xuất hiện dưới làn da tái của Portland. “Tốt thôi. Ta hiểu ý ngài rồi. Nhưng sao ngài còn mời cả Devlin đến? Ngài ấy đã được xử trắng án trong những vụ án mạng rùng rợn hồi mùa đông năm ngoái rồi mà.” “Trên danh nghĩa thì thế,” Jarvis đáp, quay ra phía cửa khi tên hầu xuất hiện và cúi người chào. “Tử tước Devlin đã đến, thưa ngài.” Jarvis đã nhìn thấy anh: một chàng trai trẻ cao gầy với mái tóc sẫm màu và một đôi mắt kì lạ, tựa như đôi mắt của một loài động vật nhìn rõ được trong bóng tối với ánh nhìn như xuyên thấu vạn vật của loài mèo. Jarvis thầm tận hưởng một khắc thỏa mãn. Ngài vốn nghĩ rằng Devlin có lẽ sẽ không tới. Đây hẳn là một trong những người khó đoán nhất, chàng Tử tước này, ngông cuồng, nguy hiểm và tài giỏi đến mức làm người ta thích thú. Jarvis đưa mắt ra hiệu cho vị Bộ trưởng Nội vụ. “Nếu ngài không phiền, Lãnh chúa Portland?” Portland ngần ngừ, dường như muốn ở lại. Thế nhưng anh ta vẫn cúi người chào, cụt lủn đáp, “Tất nhiên rồi.” Anh ta sải bước về phía cửa, môi mím lại thành một đường thẳng. Nhưng Jarvis đã kịp bắt lấy một tia dò xét đánh giá khá bất ngờ trong mắt người này trước khi ông cộc lốc gật đầu chào, “Lãnh chúa Devlin.” ----------------------- [2] Nguyên văn ‘maharaja”: Một từ tiếng Phạn dùng để gọi hoàng đế. CHƯƠNG 4 "L ãnh chúa Devlin, mời vào,” Jarvis nói, tay khoát một đường rộng. Ông vốn được ban phước cho một nụ cười rất đẹp, có thể làm người ta không phòng bị và gần như lúc nào cũng hiệu quả đến không ngờ. Và giờ đây ông cũng đang trưng ra nụ cười ấy khi vị Tử tước dừng ở ngay cửa phòng. “Chắc hẳn là ngài đã rất bất ngờ bởi lời mời của tôi. Nếu tôi nhớ không nhầm, lần gần đây nhất chúng ta gặp nhau, ngài đã chĩa súng vào đầu tôi. Và còn bắt cóc con gái tôi nữa.” Devlin vẫn đứng yên, gương mặt không lộ chút cảm xúc nào. “Tôi tin rằng tiểu thư đã không phải chịu di chứng gì lâu dài.” “Hero ư? Đúng là cũng không có gì. Nhưng đứa hầu gái thì kể từ lần đó đã không còn như trước được nữa.” Jarvis nâng một bình rượu pha lê lên, “Brandy?” Devlin nhíu mày. Anh có một đôi mắt không phải của con người, màu vàng và hoang dã như mắt sói. “Tôi nghĩ chúng ta có thể bỏ qua những thứ nghi thức xã giao này.” Jarvis đặt bình rượu qua một bên. “Được thôi. Vậy tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. Chúng tôi cho mời ngài đến đây vì Hoàng thân Nhiếp chính cần đến sự giúp đỡ của ngài.” “Sự giúp đỡ của tôi.” “Đúng vậy. Hoàng tử muốn ngài tìm hiểu xem chính xác chuyện gì đã xảy ra trong Cung điện đêm nay.” Chàng Tử tước bật cười, một tiếng cười ngắn, cao và có chút cay đắng. Jarvis giữ giọng bình thản. “Chúng tôi không hề có ý định quy kết ngài là thủ phạm trong vụ án này, nếu đó là điều ngài lo lắng.” “Nghe mới an tâm làm sao. Nhưng ngài biết đấy, chuyện này thật khó mà thực hiện được khi mà cả buổi tối, tôi còn chưa một lần rời khỏi phòng hòa tấu.” “Thế nhưng vẫn có những lời thầm thì to nhỏ cho rằng sự hiện diện của ngài trong buổi dạ hội đêm nay... Nói như thế nào nhỉ, làm người ta không khỏi cảm thấy ngờ vực?” “À, ra thế. Tôi cần phải tìm ra thủ phạm thật sự để tự bảo vệ chính mình - ý ngài là thế?” “Đại ý là như vậy.” Chàng Tử tước bước quanh căn phòng, ngừng lại một chút để nhìn kĩ hơn một trong mấy con quái thú mạ vàng trên giấy dán tường. “Nếu tôi thực sự để tâm đến những gì người ta nghĩ về mình thì chắc tôi cũng sẽ cân nhắc đấy,” anh nói, mắt nhìn thẳng. “Nhưng rất may là tôi chẳng quan tâm.” Jarvis uyển chuyển thay đổi chiến lược, nụ cười phai đi, giọng dõng dạc và trang nghiêm. “Tôi e rằng sự kiện này xảy đến vào thời điểm khủng hoảng trong lịch sử đất nước. Quân đội của chúng ta đang chiến đấu không được như kì vọng trong cuộc chiến tại Bán đảo[3] và có nhiều dấu hiệu xấu dự báo rằng năm nay có lẽ sẽ mất mùa. Dân chúng đang bồn chồn không yên. Ngài có hiểu một vụ việc như thế này có thể gây tổn hại đến mức nào cho cả quốc gia không?” Devlin xoay người lại, đôi mắt màu vàng ánh lên nét gì đó làm người ta lúng túng. “Cá nhân tôi cũng có chút hiểu biết về cái cách mà chuyện này sẽ ảnh hưởng đến lòng tín nhiệm vốn cũng đang lung lay sẵn của dân chúng dành cho Prinny thôi.” Jarvis lại đưa tay nâng chai rượu lên, lần này tự rót cho mình một ly Brandy rồi hớp một ngụm lớn, đầy suy tư. “Ta e rằng chuyện này sẽ không chỉ ảnh hưởng đến một mình Hoàng tử thôi đâu. Ngài đã nghe những lời bàn tán chưa? Rằng không phải chỉ có mỗi mình Đức Vua phát điên ấy? Họ nói rằng toàn bộ Nhà Hanover2 đều đã mục ruỗng cả rồi.” Tất nhiên, Jarvis không định nói ra nhưng chuyện này còn phức tạp hơn. Gần đây có rất nhiều tin báo đáng lo ngại về những lời xì xầm nguy hiểm và những câu chuyện người ta len lén rỉ tai nhau. Có những người cho rằng Nhà Hanover không chỉ đơn giản là đã phát điên, mà họ còn bị nguyền rủa và rằng nước Anh cũng sẽ bị nguyền rủa theo, chừng nào Nhà Hanover còn ngồi trên ngai vàng của vương quốc này. Chàng Tử tước bắt đầu cảm thấy có chút nhàm chán. “Nếu đã vậy, tôi nghĩ ngài nên chỉ đạo quan tòa địa phương gấp rút theo dấu và truy tìm kẻ gây án đêm nay thì hơn.” “Theo lời vị quan tòa địa phương đáng kính nhất ở đây thì phu nhân Hầu tước đảo Anglessey đã tự sát.” Devlin im lặng một khắc trước khi lên tiếng, “Tự sát được như thế thì cũng tài đấy, theo những gì tôi được chứng kiến tối nay.” “Chính thế.” Jarvis nhấp thêm một ngụm Brandy. “Đáng tiếc là những người vốn có trách nhiệm giải quyết những vụ việc thế này lại không dám động chạm đến những bậc quyền thế nên cũng không được tích sự gì. Người mà chúng ta cần phải vừa thông minh vừa tháo vát và đặc biệt là không hề ngần ngại truy tìm chân tướng thật sự, dù nó có dẫn đến đâu.” Devlin không phải tên ngốc. Anh cười nhạt vẻ khinh thường. “Vậy thì hãy mời một người từ đơn vị cảnh sát chuyên nghiệp Bow Street Runner tới đi. Mà không, thuê cả cái đơn vị đó cũng được.” “Nếu như đây chỉ là một tên côn đồ đầu đường xó chợ lẻn vào gây án thì có lẽ như thế là đủ. Nhưng cả ngài và tôi đều biết rõ rằng có một mưu đồ nào đó nghiêm trọng hơn đang diễn ra ở đây. Chúng ta cần một người trong giới. Một người hiểu rõ cơ chế hoạt động trong thế giới của chúng ta và cũng cần phải biết cách truy tìm một kẻ giết người.” Jarvis ngừng nói một lát. “Ngài đã từng làm chuyện này rồi. Vậy sao lại không thể làm thêm lần nữa?” Devlin xoay người về phía cửa. “Xin ngài thứ lỗi. Tôi chỉ đến Brighton thăm cha mình vài ngày thôi. Tôi định quay về London vào ngày mai.” Jarvis chờ đến khi chàng tử tước nắm lấy quả đấm cửa mới lên tiếng, “Trước khi ngài đi, có một thứ này ngài nên nhìn qua. Một thứ có liên quan trực tiếp tới gia đình ngài.” Câu nói này đã cản được bước của Devlin và Jarvis cũng biết chắc là sẽ như thế. Chàng Tử tước xoay người lại. “Thứ gì?” Jarvis đặt ly rượu sang một bên. “Tôi sẽ chỉ cho ngài.” Sebastian đã không còn lạ lẫm gì với cái chết. Sáu năm làm kỵ binh - sáu năm của những nhát kiếm vung lên hạ xuống, của những nhiệm vụ lén lút bí mật trong hàng ngũ kẻ địch đã để lại trong anh những kí ức về nhiều sự việc và hình ảnh vẫn còn ám ảnh anh theo từng giấc ngủ. Anh đã phải ép bản thân đi theo Jarvis tới gian phòng của Hoàng tử. Ngọn lửa trong lò sưởi chỉ còn là mấy vệt than hồng, nhưng cả gian phòng vẫn còn rất ấm, bầu không khí đặc quánh thứ mùi ngọt lợm của chết chóc. Sebastian bước ngang tấm thảm thêu những họa tiết vui tươi, tiếng bước chân của anh dội lại khô khốc. Guinevere Anglessey đang nằm nghiêng, nửa người vắt trên chiếc trường kỉ, nơi mà Hoàng tử đã thả cô xuống giữa lúc hoảng hốt. Sebastian đứng trước mặt cô, ánh mắt viền theo đường nét mềm mại của trán và má cô, đường cong thanh tú của đôi môi cô. Cô hãy còn rất trẻ, hẳn là không hơn hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi. Anh đã từng gặp cô một lần. Khi ấy, cô đi cùng chồng mình tới một bữa tiệc tối do Hendon chủ trì. Anh nhớ đó là một người phụ nữ xinh đẹp, biết ứng đối, với một đôi mắt đen đượm buồn. Chồng cô, Hầu tước đảo Anglessey, thì đã gần bảy mươi. Sebastian quay lại nhìn Jarvis - ông đã dừng lại ngay ở cửa, đứng đó quan sát. “Cái chết của bất kỳ ai còn trẻ thế này đều là một bi kịch,” Sebastian nói, giọng đều đều. “Nhưng dù có thế thì cũng không liên quan gì tới tôi.” “Hãy thử lại gần và nhìn kĩ hơn một chút đi, Lãnh chúa Devlin.” Sebastian miễn cưỡng nhìn xuống người phụ nữ trước mặt. Chiếc đầm dạ hội óng ánh làm từ lụa sa tanh màu xanh ngọc lục bảo buông hờ quanh vai, dây áo đã bị tháo ra, chiếc áo quây kéo xuống để lộ ra gần nửa khuôn ngực căng tròn mịn màng. Từ góc độ này, anh chỉ nhìn thấy được phần chuôi khảm ngọc của con dao đâm sâu vào lưng cô. Nhưng anh lại nhìn được rất rõ ràng chiếc vòng cổ nằm im lìm trên cần cổ cô, bị bóng tối che lấp. Anh nhíu mắt, khẽ nín thở và ngồi xổm xuống cạnh thi thể cô. Anh vươn tay ra dường như muốn chạm vào chiếc vòng, nhưng nửa đường nắm lại thành một nắm đấm, ép chặt lên môi. Đó là một món đồ cổ, với mặt dây chuyền là một biểu trưng ba nhánh cong toả ra từ trung tâm được chế tác bằng bạc, gắn trên mặt đá xanh thẫm huyền bí, thứ đá người ta vẫn thường tìm thấy trong những vòng tròn đá cổ xưa bí ẩn ở xứ Wales. Tương truyền rằng chiếc vòng cổ này đã từng thuộc về những nữ tu của Cronwyn. Người ta nói rằng chiếc vòng cổ đã được truyền lại từ đời này qua đời khác và rằng nó vẫn luôn tự chọn nữ chủ nhân cho mình - viên đá cổ sẽ ấm dần và rung lên khi được đặt trong tay đúng người. Từ khi còn nhỏ, Sebastian đã rất mê mẩn chiếc vòng này. Anh thường leo lên ngồi cạnh mẹ mình và lắng nghe giọng nói mềm mại, du dương của bà kể lại câu chuyện cổ ấy. Anh vẫn nhớ mình đã cầm món trang sức được chế tác lạ mắt ấy trong tay, mong chờ nó ấm dần và rung lên. Lần cuối anh thấy nó là trên cổ mẹ mình, phần bạc được đánh bóng lấp lánh rực rỡ trong nắng khi bà vẫy tay chào anh từ trên boong của con thuyền hai cột buồm nhỏ xinh mà bạn bà thuê được cho một buổi hóng gió ngày hè năm Sebastian mười một tuổi. Buổi chiều hôm đó, thời tiết nóng bức bất thường, gió biển nhẹ thổi vào đất liền một chút không khí mát mẻ. Nhưng rồi bỗng nhiên trời chuyển dữ, mây đen ùn ùn kéo tới che lấp mặt trời, gió giật mạnh. Con thuyền hai cột buồm quay cuồng giữa tiếng gào thét của biển cả đã mang theo mọi hành khách chìm xuống đáy đại dương. Thi thể của phu nhân Bá tước xứ Hendon và cả chiếc vòng cổ bà đeo hôm đó chưa bao giờ được tìm thấy. ------------------ [3] Cuộc xung đột quân sự giữa đế chế của Napoleon và liên minh Anh, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ tại bán đảo Iberia. 2 Một triều đại hoàng gia Đức đã cai trị Vương quốc Anh và Ireland từ năm 1714 và ở vị trí đó cho đến khi Nữ hoàng Victoria băng hà vào năm 1901. CHƯƠNG 5 "C húng không thể nào lại là cùng một chiếc vòng cổ được,” Sebastian lên tiếng. Anh không nhận ra mình đã nói thành lời cho tới khi nghe Lãnh chúa Jarvis đáp lại. “Nhưng chúng thực sự là một,” Jarvis nói, tiến lại gần anh. “Hãy thử nhìn mặt sau chiếc vòng xem.” Sebastian cẩn thận lật ngược mặt dây chuyền, đầu ngón tay khẽ lướt qua da thịt lạnh ngắt của thi thể người phụ nữ. Trong ánh nến chập chờn, anh nhìn thấy hai chữ cái A. C. được tinh tế khắc lồng vào hai chữ J. S. Hình khắc này tồn tại đã rất lâu rồi - tuy vẫn chưa lâu đời được bằng chiếc vòng cổ, nhưng cũng đủ để mòn dần với thời gian. Đã hơn một thế kỷ rưỡi trôi qua kể từ khi Addiena Cadel cho khắc lên mặt dây chuyền chữ viết tắt tên mình và tên người yêu nàng - James Stuart, cũng chính là người sau này đã ngồi lên ngai vàng Vương quốc Anh với vương hiệu James Đệ Nhị. Sebastian lại ngồi xổm xuống, tay bám lấy đùi. “Sao ngài biết?” anh hỏi sau một khắc suy nghĩ. “Sao ngài biết mẹ tôi từng sở hữu chiếc vòng cổ này?” “Bà ấy đã cho tôi xem vào một lần tôi ca ngợi chiếc vòng. Câu chuyện đằng sau nó cũng thật đặc biệt. Không phải chuyện người ta dễ dàng quên đi.” “Vậy ngài có biết rằng mẹ tôi đã đeo chiếc vòng này vào ngày bà qua đời không?” Tất cả phản ứng của Jarvis thu lại vào trong đôi mắt khẽ giãn lớn ra. “Không. Không, tôi không hề biết. Thật là... lạ lùng.” Nhiệt độ lạnh ngắt của thi thể đọng lại trên đầu ngón tay quấy nhiễu dòng suy nghĩ của Sebastian. Tò mò, anh cúi xuống quan sát người phụ nữ trước mặt. Đầu ngón tay nàng đã bắt đầu chuyển xanh, cơ cổ cũng đã cứng đờ lại. Thế nhưng da mặt nàng trông vẫn hồng hào một cách bất thường. “Đã được bao lâu rồi?” anh hỏi Jarvis. “Bao lâu kể từ cái gì cơ?” “Kể từ khi Hoàng tử bị phát hiện đang ôm lấy phu nhân Hầu tước. Khoảng hai tiếng, ngài nghĩ có đúng không? Hay ít hơn?” “Tôi nghĩ là ít hơn. Sao ngài lại hỏi vậy?” Sebastian vươn tay ra, lòng bàn tay chạm vào gò má non trẻ mềm mại của phu nhân Anglessey. Một cảm giác man mát truyền vào tay. “Thi thể đã lạnh,” Sebastian nói. “Đúng ra vẫn chưa thể lạnh đến mức này.” Anh nhìn vào mấy viên than hồng vẫn còn sáng lên trong lò sưởi. Những ngày tháng trong quân đội đã dạy anh biết quá rõ ràng các biến chuyển của một cái xác theo thời gian. Nhiệt độ cao sẽ đẩy nhanh quá trình co cứng tử thi, điều này anh biết. Nhưng ít nhất thi thể sẽ vẫn còn ấm. Jarvis bước lại gần hơn. “Ý ngài là sao?” Sebastian nhăn mày. “Tôi không chắc. Đã có ai trong số các thầy thuốc của Hoàng tử khám nghiệm qua phu nhân chưa?” Vị Hoàng thân nhiếp chính này có hai người thầy thuốc cá nhân, bác sĩ Heberden và bác sĩ Carlyle. Hiếm khi nào họ rời khỏi Hoàng tử nửa bước. “Tất nhiên là rồi.” “Và?” Đôi môi dày nhếch lên thành một nụ cười chế giễu. “Cả hai đều ủng hộ kết luận của tòa án cho rằng phu nhân đã tự sát.” Sebastian khẽ hừ một tiếng trống rỗng, nghe cũng không hẳn là một tiếng cười. “Hẳn là vậy.” Anh đứng thẳng dậy. Thi thể người phụ nữ vẫn nằm đó, trong một tư thế nghiêng người cuộn tròn nhìn rất khó khăn. Sebastian nhẹ vươn tay ra xoay thi thể về phía mình. Chiếc váy lụa bị xô xộc xệch làm lộ ra cả mảng lưng trần. Có một cảm giác khơi gợi mãnh liệt, gần như thân mật trong cái cách lưỡi dao găm biến mất trong phần da thịt bầm tím. Sebastian hít vào một hơi. Bên cạnh anh, Jarvis giữ im lặng. Rồi ông lên tiếng, “Lạy Chúa lòng lành, dường như cô ấy đã bị đánh đập rất dã man.” Sebastian lắc đầu. “Đó không phải là vết thâm tím do hành hung. Tôi đã từng nhìn thấy hiện tượng này trên thi thể những người lính bị bỏ lại trên chiến trường. Đây giống như là máu đang dồn lại về điểm thấp nhất của cơ thể sau khi chết.” “Nhưng phu nhân nằm nghiêng, không phải nằm thẳng.” “Rất khó để có thể quan sát thêm được gì khi chuôi dao vẫn còn găm trên lưng thi thể,” Sebastian nói. Khẽ nhấc mấy lọn tóc màu xanh đen xõa quanh cổ nàng, Sebastian tháo chiếc vòng cổ dày kín những chi tiết phức tạp ra. “Tôi có quen biết một vị bác sĩ giải phẫu nghiên cứu về lĩnh vực này - một người Ireland tên Paul Gibson. Gibson có một phòng giải phẫu gần Tower Hill. Tôi muốn cho mời người ấy tới đây ngay lập tức.” “Ngài muốn mời một vị bác sĩ giải phẫu từ tận London tới đây?” Jarvis cười. “Nhưng như vậy sẽ mất mười tiếng đồng hồ hoặc hơn. Tôi tin chắc rằng chúng ta cũng có thể tìm được một vị bác sĩ giải phẫu ở ngay đây thôi.” Sebastian liếc nhìn sang người đàn ông đứng cạnh mình. “Để rồi nghe những ý kiến giống với mấy vị thầy thuốc cá nhân của Hoàng tử sao?” Jarvis không đáp. “Cần phải đảm bảo rằng không một ai được phép bước vào căn phòng này cho tới khi Gibson đến. Việc này ngài có thể thu xếp được không?” “Hẳn rồi.” Sebastian chậm xoay một vòng, đưa mắt nhìn một lượt cả gian phòng. “Ngài có để ý thấy điều bất thường nào nữa không?” Jarvis hỏi vặn lại với một tia chán ghét. Nụ cười chiến thắng lúc trước đã biến mất từ lúc nào. “Có sao?” “Con dao găm đó được nhắm rất chuẩn xác. Nó hẳn đã đâm thẳng vào tim phu nhân. Những vết thương như vậy sẽ chảy rất nhiều máu.” “Lạy Chúa lòng lành,” Jarvis nói, ánh mắt chuyển từ tấm lưng trần bầm tím của nữ phu nhân Hầu tước sang gương mặt Ở Sebastian. “Ngài nói đúng. Ở đây không hề có máu.” CHƯƠNG 6 N ửa tiếng sau, Sebastian bước vào phòng khách riêng của cha anh ở trong khách sạn Anchor trên đường Marine Parade. Bá tước xứ Hendon đang ngồi trên một chiếc ghế dựa phủ thảm thêu cạnh khung lò sưởi lạnh tanh, một cuốn sách để mở trên đùi, mái đầu gà gật nghiêng về một bên trong lúc ông ngủ thiếp đi. “Con đã dặn cha không cần thức chờ rồi mà,” Sebastian nói. Ngẩng bật đầu dậy, Hendon đóng quyển sách trên đùi lại rồi đặt sang bên cạnh. “Ta không ngủ được.” Sebastian tựa vào khung cửa, một tay vô thức mân mê chiếc vòng cổ đá xanh trong túi. “Cha kể cho con nghe về Hầu tước đảo Anglessey đi.” Hendon dụi mắt bằng ngón trỏ và ngón cái. “Đó là một người tốt. Kiên định. Đáng kính. Ông ấy hoàn thành đầy đủ trọng trách của mình trong Viện Quý tộc, dù không có hứng thú đặc biệt gì với chính phủ.” Ông ngừng lại một chút. “Chắc con không nghĩ Anglessey có dính dáng gì đến chuyện xảy ra đêm nay đấy chứ?” “Con không biết phải nghĩ gì nữa. Cha hiểu biết đến đâu về phu nhân Anglessey?” Hendon thở dài. “Thật là một người phụ nữ trẻ đẹp, Guinevere ấy. Họ lấy nhau đã được ba - có lẽ là bốn năm rồi. Hồi đó người ta xầm xì bàn tán rất nhiều, mà hiển nhiên là sẽ như vậy rồi, xét đến cách biệt tuổi tác giữa hai người. Có người cho rằng đó là một vụ bê bối, một ông già ốm yếu mà lại đi lấy một người phụ nữ trẻ đến thế về làm vợ. Nhưng cuộc hôn nhân này thật ra cũng hợp tình hợp lẽ thôi.” “Sao lại như vậy?” “Anglessey khẩn thiết cần một người thừa kế.” “Ra thế. Vậy ông ấy đã có được đứa con nào chưa?” “Ta vừa mới nghe tin tuần trước rằng phu nhân Anglessey đã có thai.” “Lạy Chúa.” Sebastian tiến vào trong phòng. “Đêm nay, cô ấy được tìm thấy trong một hoàn cảnh ê chề rõ mười mươi đến vậy, nhưng cha lại nói cô ấy không phải là kiểu người sẽ làm những chuyện như vậy?” “Đúng thế. Từ trước tới nay chưa từng có bất kì một lời gièm pha tai tiếng nào về cô ấy cả.” “Cha biết gì về gia đình phu nhân?” “Không có gì đáng chê trách. Cha Guinevere là Bá tước xứ Athelstone. Ở xứ Wales. Nếu ta nhớ không nhầm thì em trai cô ấy, vị Bá tước mới, hãy còn là một đứa trẻ.” Hendon ngả đầu vào tấm thảm thêu trên lưng ghế, ngước nhìn con trai. “Nhưng tất cả những chuyện này thì có liên quan gì tới con?” “Jarvis nghĩ rằng có lẽ con sẽ thấy hứng thú với những chuyện xoay quanh cái chết của phu nhân Anglessey.” “Hứng thú?” Hendon lắc đầu. “Con ư? Nhưng... Vì sao chứ?” Sebastian lấy chiếc vòng cổ bằng bạc-và-đá-xanh ra khỏi túi, sợi dây đung đưa trong khoảng không ngăn cách hai cha con. “Bởi vì phu nhân đeo trên cổ chiếc vòng này lúc cô ấy chết.” Gương mặt Hendon đột nhiên trắng bệch. Nhưng ông không hề có động thái gì muốn cầm lấy chiếc vòng, thậm chí đụng đến nó cũng không. “Không thể nào.” Nhấc cánh tay bên kia lên, Sebastian đặt gọn sợi dây chuyền vào lòng bàn tay. “Con cũng đã nghĩ vậy.” Hendon ngồi yên, tay bám chặt lấy hai bên thành ghế. “Bọn họ chắc hẳn không có ý định quy kết con có liên quan gì tới cái chết này đấy chứ?” Một nụ cười chậm rãi cong lên trên môi Sebastian. “Lần này thì không.” Anh bước tới, đặt một tay lên thanh chắn trước lò sưởi, cúi đầu nhìn xuống vỉ lò trống trơn. “Con chợt nghĩ rằng kí ức của một đứa trẻ mười một tuổi về cái chết của mẹ mình có thể dễ dàng bị bóp méo,” anh chậm rãi nói. Họ chưa từng nói về chuyện này, về cái ngày hè xa xưa ấy. Không chỉ riêng ngày hôm đó, mà cả những ngày dài bất tận đầy đau đớn kéo theo sau cũng thế. “Người ta chưa từng tìm được mẹ, phải không, thưa cha?” Sebastian nhìn quanh. “Đúng vậy. Chưa từng tìm được.” Hendon đẩy hàm theo thói quen. “Bà ấy vẫn hay đeo chiếc vòng cổ đó. Nhưng thật lòng thì ta cũng không dám chắc bà ấy có đeo nó vào ngày bà ấy ra đi không nữa.” “Hôm ấy, mẹ có đeo. Riêng chuyện đó thì con chắc chắn.” Hendon đứng dậy khỏi ghế và đi về phía chiếc bàn đặt bộ ấm chén cạnh đó. Nhưng ông không rót trà ra. “Có một lời giải thích hợp lý cho chuyện này. Có lẽ xác bà ấy đã bị sóng đánh trôi dạt lên bờ.” “Và bị một gã bần cùng tuyệt vọng nào đó phát hiện ra rồi lột hết những thứ quý giá còn lại trên người bà đem bán kiếm bữa ăn sao?” Sebastian không rời mắt khỏi tấm lưng rộng đang căng cứng lại của cha mình. “Cũng có thể.” Hendon xoay người lại lần nữa, khuôn mặt rối rắm cảm xúc. “Lạy Chúa lòng lành. Còn có thể có lời giải thích nào khác cơ chứ?” Ánh mắt hai cha con chạm nhau, một đôi mắt xanh hoảng hốt bắt gặp một đôi mắt vàng kì lạ. Hendon quay đi trước. “Con định làm gì?” ông hỏi, giọng căng thẳng một cách khó hiểu. Tay Sebastian xiết chặt chiếc vòng. “Nói chuyện với Anglessey, trước tiên là thế. Hỏi thử xem ông ấy có biết vợ mình có được chiếc vòng từ đâu hay không. Mặc dù chuyện ấy thật ra cũng chẳng phải là vấn đề quan trọng nhất ngay lúc này, phải vậy không, thưa cha?” Hendon chùng giọng. “Đừng nói là con định nghiêm túc nhận trách nhiệm truy tìm kẻ thủ phạm này đấy chứ?” “Con sẽ nhận.” Hendon im lìm tiếp thu thông tin này. Rồi ông hỏi, “Prinny nói là chuyện gì đã xảy ra?” “Hoàng tử được cho dùng thuốc an thần. Con định sớm mai sẽ tìm Hoàng tử nói chuyện.” Hendon làu bàu một tiếng vẻ chế nhạo. “Jarvis sẽ không cho con đến gần Hoàng tử đâu. Đặc biệt là khi con định hỏi những chuyện mà ông ta cho là có thể tạo thêm rắc rối.” “Con nghĩ là ông ấy sẽ cho phép thôi.” “Vì lý do gì chứ?” Sebastian rời khỏi điểm tựa trên thanh chắn lò sưởi, quay người lại. “Bởi vì triều đại này chỉ còn cách vực thẳm đúng một bước thôi và Jarvis hiểu điều đó.” CHƯƠNG 7 J arvis đang rất bực mình. Ông vẫn không rõ là làm cách nào Devlin lại ép được ông phải đồng ý thu xếp một buổi gặp mặt vào lúc sáng sớm tinh mơ thế này với Hoàng tử. Kể cả vào những lúc thể trạng lẫn tinh thần tốt nhất, vị Hoàng thân Nhiếp chính này còn chẳng mấy khi tư duy được mạch lạc trước buổi trưa, chứ đừng nói đến tình cảnh bây giờ, khi mà cú sốc đêm hôm qua đã khiến ngài trở nên vô cùng rối loạn. Hoàng tử nằm dài trên chiếc ghế sofa đặt cạnh lò sưởi được đốt lửa rất to, bộ đồ lụa trông lộng lẫy khi đặt cạnh những chiếc gối nhung chần. Đôi con ngươi ngài vì cồn thuốc phiện mà thu lại chỉ còn hai chấm nhỏ, môi dưới run run vì tức giận. Những tấm rèm cửa sổ nặng nề bằng sa tanh cản lại toàn bộ ánh sáng mặt trời bên ngoài. “Ngài cho là ta không nghe thấy mọi người đang nói gì, nhưng ta biết đấy. Ta biết! Bọn họ thực sự cho rằng chính ta là người đã giết chết phu nhân Anglessey. Ta.” Những ngón tay hoàng tộc to béo xiết chặt lại quanh lọ muối ngửi. “Ngài cần phải làm gì đó đi, Jarvis. Chứng minh cho họ thấy rằng họ đã sai. Hoàn toàn sai!” Jarvis giữ tông giọng êm dịu nhưng vẫn chắc nịch. “Chúng thần đang cố, thưa Hoàng tử. Để làm được điều đó thì việc Người kể lại cho Lãnh chúa Devlin chính xác những gì đã xảy ra đêm qua là vô cùng quan trọng.” Hoàng tử nuốt nước bọt, mắt nhìn về phía chàng Tử tước đang đứng với đôi vai áo được cắt may hoàn mỹ, lơ đễnh dựa vào tường phòng dán giấy dán tường Trung Hoa, hai tay khoanh trước ngực, dường như đang tập trung chú ý vào mũi giày được đánh bóng kĩ càng. Có lẽ George không hiểu được vì sao Devlin lại chấp thuận bị kéo vào một chuyện kinh khủng nhường này, thậm chí có lẽ ngài còn có thể tin rằng chính chàng Tử tước này là kẻ gây án. Nhưng Jarvis biết rằng Hoàng tử cũng đủ khôn ngoan để hiểu được rằng nỗ lực của mấy vị bác sĩ và cả quan tòa địa phương để người ta tin cái chết của phu nhân Hầu tước là do tự sát chỉ mang lại cho ngài hại nhiều hơn lợi. George cần được giúp đỡ và ngài cũng tự nhận ra được điều đó. Đưa một tay lên che mắt, Hoàng tử khẽ run rẩy thở ra một tiếng. “Chúa cứu giúp, ta thực sự không biết gì.” Devlin ngẩng đầu lên, vẻ mặt lại có chút hứng thú mơ hồ chứ không phải khó chịu như Jarvis dự đoán. “Xin Người hãy thử nhớ lại những chuyện xảy ra trước đó,” anh nói, đứng thẳng dậy. “Vì sao Người lại ở trong căn phòng đó cùng Hầu tước phu nhân?” George buông thõng hai tay. “Nàng gửi cho ta một mẩu giấy, nhắn rằng muốn ta đến gặp nàng.” Jarvis sửng sốt, nhưng Devlin thì không để ý đến ẩn ý đằng sau câu nói này, tiếp tục hỏi, “Người còn giữ tờ giấy đó không?” Vẻ mặt Hoàng tử đờ đẫn. Người lắc đầu. “Ta không nghĩ vậy. Vì sao ta lại phải giữ nó chứ?” “Người có còn nhớ chính xác trên đó viết những gì không?” Vị Hoàng thân Nhiếp chính này vốn nổi tiếng thích kể những câu chuyện được phóng đại quá mức, khoe khoang về những chiến tích trên trường săn và mua vui cho các vị khách trên bàn ăn bằng hồi ức về những lần cầm quân ra trận hoành tráng mặc dù bộ quân phục duy nhất ngài từng mặc là quân phục dành cho các dịp lễ lạc. Thế nhưng với ngần ấy kinh nghiệm, George vẫn nói dối rất tệ. Ngay lúc này đây, với đôi môi dường như sắp cong lên thành một nụ cười lộ tẩy, Hoàng tử nhìn chằm chằm Devlin và nói thẳng, “Không hẳn. Ta chỉ nhớ nàng nói muốn gặp ta trong Phòng Vàng mà thôi.” Jarvis hoàn toàn không biết được liệu Devlin có nhìn ra lời nói dối hay không. Anh chàng trẻ tuổi này có một khả năng hiếm thấy - che giấu được mọi suy nghĩ và cảm xúc của bản thân trước con mắt kẻ khác. Anh hỏi, “Vậy là ngài đã thấy phu nhân ở đó? Trong Phòng Vàng?” “Đúng vậy. Nàng đang nằm trên chiếc ghế dài trước lò sưởi.” Hoàng tử hơi rướn người lên phía trước, dường như có chút kích động. “Ta chắc chắn là như vậy. Ta vẫn còn nhớ mình đã đứng chiêm ngưỡng ánh lửa phản chiếu trên đôi vai trần của nàng.” “Ngài có nói chuyện với phu nhân không?” “Có chứ, tất nhiên rồi.” Nghe ra được trong giọng nói Hoàng tử một chút khó chịu đúng vẻ của bậc vua chúa hoàng gia. “Chắc hẳn ngài không hy vọng ta nhớ chính xác những lời ta đã nói đấy chứ?” “Người có nhớ liệu phu nhân có trả lời mình hay không?” Hoàng tử mở miệng, nhưng rồi lại khép lại. “Ta không dám chắc,” ngài nói sau khi suy nghĩ. “Ý ta là, ta không nhớ là có nghe thấy nàng trả lời hay không nữa. Nhưng chắc là nàng cũng có trả lời ta rồi.” “Bình thường thì có lẽ là thế,” Devlin nói. “Trừ khi phu nhân đã chết trước khi Người bước vào căn phòng.” Đôi má vốn hồng hào của Hoàng tử thoáng chốc tái nhợt. “Lạy Chúa. Ngài nghĩ vậy sao? Nhưng... Chuyện đó sao có thể? Ý ta là, nếu như vậy thì chắc chắn ta phải nhận ra chứ. Đúng không?” Devlin vẫn tập trung ánh mắt sắc bén của mình vào khuôn mặt Hoàng tử và trong tích tắc, Jarvis bỗng cảm thấy lo âu, nghi ngại không biết việc ông kéo chàng Tử tước này vào vụ điều tra liệu có khôn ngoan hay không nữa. “Người bước vào căn phòng bao lâu trước khi phu nhân Jersey mở tung cánh cửa thông với phòng nhạc?” Devlin hỏi, giọng thản nhiên. Hoàng tử cáu kỉnh kéo kéo vạt áo ngủ. “Ta nghĩ... Ta nghĩ rằng ta đã ngủ thiếp đi mất.” Ẩn ý đã quá rõ ràng. Có cái gì đó hấp háy trong đôi mắt người đàn ông trẻ tuổi. “Vậy Người hẳn là rất chắc chắn về chuyện phu nhân vẫn chưa chết khi người bước vào căn phòng.” Đôi má Hoàng tử từ tái nhợt bỗng chốc đỏ gay khi người ngộ ra kết luận mà Devlin rút ra. “Không, không,” ngài vội vã nói. “Không phải như những gì ngài nghĩ đâu. Ta chưa từng chạm vào nàng, ta nhớ rõ ràng là vậy. Chân ta bị vấp lúc ta đang bước về phía nàng và ta đã ngồi xuống một trong mấy chiếc ghế.” “Và rồi Người thiếp đi luôn?” “Đúng thế. Đôi khi ta vẫn ngủ thiếp đi như vậy. Sau một bữa ăn no.” Devlin đã quyết định - rất khôn ngoan, Jarvis nghĩ - không đáp lại mấy lời này. Dừng lại trước một cái giá đồ giả tre được đặt bên trong hốc tường có khung vòm, chàng Tử tước nhìn lướt qua bộ sưu tập đồ ngà chạm khắc tinh xảo được trưng bày rất có thẩm mĩ trên đó. “Mối quan hệ giữa Người với phu nhân Hầu tước thân quen đến mức độ nào?” anh hỏi, trông như đang đặt hết sự tập trung vào những món đồ chạm khắc. George dẩu miệng ra ương bướng. “Ta gần như không quen biết nàng.” Devlin liếc mắt về phía Hoàng tử. “Vậy mà Người không hề ngạc nhiên khi nhận được lời nhắn muốn gặp riêng từ phu nhân?” Thân hình quá khổ của Hoàng tử giật nảy lên, kích động thở gấp. “Ngài đang ám chỉ điều gì? Lẽ ra người ta phải đi mà nghi ngờ Anglessey ấy, không phải ta! Chẳng phải những chuyện thế này thì thủ phạm thường là người chồng sao?” Đôi môi ẩm ướt mở khẽ, cánh mũi phập phồng, Hoàng tử đưa một tay lên ôm ngực mình. “Lạy Chúa. Tim ta đập nhanh quá. Bác sĩ Heberden đâu?” Jarvis đang vội vàng bước về phía trước thì bỗng vị bác sĩ xuất hiện từ sau khung cửa che rèm. “Như vậy chắc là đủ cho hôm nay rồi, Lãnh chúa Devlin. Ngài có thể lượng thứ và rời đi không?” Trong một khắc căng thẳng, Devlin đã chần chừ. Nhưng rồi anh cũng chỉ đơn giản cúi chào và xoay người dứt khoát bước đi. “Ngài hẳn là sẽ tìm hiểu về khả năng dính líu của Hầu tước tới chuyện này chứ?” Jarvis thấp giọng hỏi khi cùng Devlin bước ra cửa. Devlin giữ khuôn mặt không cảm xúc. “Tôi đã nghĩ đến chuyện đó,” anh nói, rồi tiếp lời, “Trong lúc đó thì mong ngài nhờ tùy tùng của Hoàng tử tìm thử trong túi tấm áo choàng Người mặc tối qua xem có thấy tờ giấy nhắn không. Nếu tìm được mẩu giấy đó thì sẽ rất có lợi cho việc điều tra.” “Tất nhiên rồi,” Jarvis đáp. Dừng lại trước cánh cửa thư phòng - gian tiền sảnh bên ngoài phòng ngủ của vị Hoàng thân Nhiếp chính, chàng Tử tước đưa mắt nhìn xung quanh. Một nụ cười nhỏ cong lên trên môi anh, một nụ cười nói với Jarvis rằng anh thừa biết mẩu giấy đó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy. “Và có lẽ khi Hoàng tử đã bình phục, mong ngài hỏi thử xem liệu Người có nhớ được chính xác ai là người đã đưa tờ giấy nhắn đó cho mình không.” “Tôi sẽ hỏi, một khi bác sĩ Heberden cảm thấy nhắc lại chuyện này sẽ không còn ảnh hưởng tới sức khỏe của Hoàng tử. Chắc ngài cũng hiểu rằng việc bảo vệ sức khỏe và tinh thần nhạy cảm của Hoàng tử là việc vô cùng hệ trọng.” “Hệ trọng hơn cả việc tìm ra sự thật đằng sau cái chết của phu nhân Anglessey sao?” Jarvis thẳng thắn đón nhận ánh mắt khắc nghiệt của người đàn ông trẻ tuổi. “Đừng bao giờ nghi ngờ điều đó.” Rời khỏi gian phòng của Hoàng tử, Sebastian dừng lại trong dãy hành lang được sưởi ấm quá mức, một tay vu vơ mân mê chiếc vòng cổ trong túi. Một số điều trong những lời Hoàng tử nói ban nãy, Sebastian biết, có lẽ là sự thật. Vấn đề ở đây chỉ là làm sao phân tách được sự thật khỏi tầng tầng lớp lớp những chuyện bịa đặt và những thông tin gây nhiễu mà thôi. Anh đang chuẩn bị xoay bước về phía chuồng ngựa thì nghe được ai đó lo lắng hắng giọng gọi, “Thưa Lãnh chúa Devlin?” Sebastian xoay người lại và nhìn thấy một người trẻ tuổi với làn da tái, đôi lông mày rậm và má hõm sâu đang đứng gần đó, người mà Sebastian nhận ra là một trong các tùy tùng đi theo Jarvis. “Có chuyện gì sao?” Cậu ta cúi người đáp. “Thưa ngài, vị bác sĩ phẫu thuật từ London đã đến đây. Ngài ấy đã được dẫn thẳng đến Phòng Vàng theo như yêu cầu của ngài.” CHƯƠNG 8 K hi vào tới Phòng Vàng, Sebastian trông thấy Paul Gibson đang quỳ dưới đất bên cạnh chiếc ghế dài, cái chân giả bằng gỗ duỗi ra một phía trông khá bất tiện. “A, anh đây rồi, Sebastian của tôi,” Gibson nói, mắt cong lên thành một nụ cười khi thấy bóng dáng Sebastian tiến vào. Họ là bạn bè lâu năm, Sebastian và người đàn ông Ireland tóc tối màu với đôi mắt xanh lá vui tươi và lúm đồng tiền tinh nghịch ở một bên má này. Tình bạn của họ được rèn nên trong máu và bùn, được thử thách qua đau đớn, lòng tham và cả sự đe dọa của cái chết. Gibson từng là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Anh, một người đàn ông thường bị chính quyết tâm sắt đá của bản thân, phải giúp được những người gặp nguy, đẩy vào nguy hiểm. Kể cả khi bị một phát đạn súng thần công lấy đi nửa dưới cẳng chân trái, Gibson vẫn ở lại trên chiến trường. Thế nhưng tình trạng sức khỏe ngày một suy giảm cùng với điểm yếu là thói quen đi tìm sự khuây khỏa ngọt ngào từ cây hoa anh túc đã khiến anh ấy phải rời khỏi quân đội cách đây hai năm. Anh ấy mở một phòng phẫu thuật nhỏ trên Thủ đô, nơi anh ấy dành phần lớn thời gian nghiên cứu và hướng dẫn các sinh viên y, rồi cung cấp ý kiến chuyên môn cho giới cầm quyền về những vụ phạm tội. “Anh đến thật nhanh,” Sebastian nói. “Xác chết sẽ không chia sẻ bí mật được lâu,” Gibson đáp, lại chuyển sự chú ý của mình về những gì còn lại của Guinevere, phu nhân trẻ đẹp nhà Anglessey. “Và cái xác này thì lại có một vài câu chuyện rất thú vị để kể nữa.” Anh ấy xoay thi thể người phụ nữ nằm sấp xuống đất. Trong ánh sáng ban ngày chói chang, có thể thấy phần da phía sau cổ đã thâm lại một màu đỏ xanh xao. Một thứ mùi thoảng như thịt rữa lan ra khắp phòng cho dù những tấm rèm dày đã được kéo sang hai bên, những ô cửa sổ dài đã được mở tung cho không khí trong lành và ánh nắng tràn vào đủ khiến Hoàng tử đột quỵ. Sebastian đi ra đứng cạnh ô cửa sổ để mở, dõi mắt nhìn theo những con mòng biển đang sải cánh chao lượn và í ới gọi nhau trên nền trời xanh thẳm bên trên phố Strand. “Anh cho rằng phu nhân đã chết trong khoảng thời gian nào? “Khó để nói chính xác, nhưng tôi cho rằng đầu giờ chiều hôm qua thì hợp lý hơn là sáng hôm qua.” Sebastian quay hẳn người lại. “Không phải đêm qua sao?” “Không. Không thể nào là đêm qua được.” “Anh cũng hiểu như thế có nghĩa là gì mà, phải không? Những người hầu chắc chắn đã phải vào căn phòng này để khơi lửa trong lò sưởi trước buổi diễn đêm qua. Cái xác không thể nào cứ nằm đây mà không hề bị phát hiện trong suốt một quãng thời gian dài đến thế. Có lẽ phu nhân đã bị giết ở một nơi khác và rồi được chuyển về đây chỉ ngay trước khi Hoàng tử đến.” Gibson chuyển trọng tâm vào cái chân lành của mình, nhăn mày. “Anh nghĩ rằng có kẻ đã dàn dựng chuyện này với chủ ý đổ dồn sự nghi ngờ lên Hoàng tử?” “Nghe ra thì cũng hợp lý, không phải vậy sao?” Sebastian đi quanh căn phòng, cố tìm được một cái gì đó - bất kể cái gì - mà có lẽ anh đã bỏ sót. Trên tường treo những tấm vải lanh vẽ hình những tán lá màu xanh táo, nổi bật trên nền vàng thanh nhã. Bao quanh căn phòng là một dãy những bức tượng phụ nữ Trung Quốc mạ vàng với kích cỡ người thật, đặt trong khung tò vò. Mô-tip phương Đông được thể hiện rất rõ ở đây, với những bộ bàn ghế làm từ gỗ sáng màu được chạm khắc nhìn giống mây tre, cùng một chiếc rương sơn mài được trang trí hình rồng đứng giữa hai cái khung tò vò. “Hoàng tử nói rằng Người đã nhận được một lời nhắn từ phu nhân Guinevere,” Sebastian nói, chăm chú nhìn một bức tượng mạ vàng. “Một lời nhắn hẹn gặp Người tại đây. Nhưng làm sao phu nhân gửi được mẩu giấy nhắn đó nếu cô ấy đã chết rồi?” “Có thể phu nhân đã viết từ trước?” “Cũng có thể. Đáng tiếc rằng Hoàng tử chẳng còn nhớ được chính xác khi nào và bằng cách nào Người có được tờ giấy đó nữa.” “Hẳn là lại say rượu rồi phải không?” “Nghe thì có vẻ như là vậy.” Sebastian bước lại kiểm tra chốt cửa sổ. Tất cả đều còn nguyên vẹn. Nhưng nếu một người được phép ra vào Cung điện thì mở cửa từ phía trong không phải là khó. Bao nhiêu người đã tới tham dự buổi hòa nhạc đêm qua? Anh tự hỏi. Sự có mặt của hoàng tộc Pháp bị truất quyền đã kéo cả những người vốn thường hay tránh xa Cung điện tới đây, cả gian phòng khách đêm qua chật ních người. Mắt Sebastian nheo lại trước ánh nắng chói chang, anh nhìn ra phía công viên bên ngoài. Phải là kẻ điềm tĩnh vô cùng thì mới dám mang theo một cái xác chết đi ngang qua sân Cung điện trong một đêm hòa nhạc của Hoàng tử. Trừ phi... Tất nhiên, trừ phi thi thể được đưa vào Phòng Vàng từ một nơi nào đó bên trong Cung điện. “Nhìn vào những vết bầm tím này,” Gibson trầm ngâm nói, “thì cái xác đã được đặt nằm ngửa vài tiếng đồng hồ trước khi có kẻ đâm con dao vào lưng phu nhân.” “Sao cơ?” Sebastian ngạc nhiên. Anh đã nhận thấy rằng trong căn phòng không hề có máu, nhưng anh chỉ cho rằng đó đơn giản là do vụ giết người đã diễn ra ở một nơi khác. Anh chưa hề nghĩ tới khả năng Guinevere Anglessey đã chết trước khi bị đâm dao vào lưng. “Nhưng nếu phu nhân chết không phải vì con dao đó, vậy thì là vì cái gì?” “Chưa thể nói chính xác được. Cần phải khám nghiệm tử thi đã.” Gibson ngẩng đẩu lên. “Có thể không?” Sebastian hừ một tiếng mỉa mai. “Ta không có cách nào nhận được sự đồng ý từ phía quan hành chính địa phương đâu. Ông ta đã đưa ra thông cáo nói rằng cái chết của phu nhân là do tự sát rồi.” “Tự sát? Ông ta làm thế nào mà nghĩ ra được như thế?” “Các thầy thuốc của Hoàng tử cũng đã tán thành.” Gibson im lặng một hồi rồi mới nói, “À, ra thế. Bất cứ điều gì để Hoàng tử tránh bị nghi ngờ. Anh nghĩ rằng chúng ta có thể thuyết phục chồng phu nhân cho tiến hành khám nghiệm tử thi không?” “Cái đó có lẽ còn tùy thuộc vào việc ngài Hầu tước đảo Anglessey có dính dáng gì tới vụ án này hay không nữa.” Gibson vươn tay lấy một tấm vải trắng che phủ thi thể dưới chân. “Ông ta cũng có vẻ như là một đối tượng khả nghi nhỉ? Anh biết gì về ông ta?” “Anglessey sao? Nhìn chung thì cũng là một người đủ tỉnh táo - biết cách quản lý tốt nhà cửa, đồn điền và cũng biết cách phân bổ thời gian hợp lý giữa việc trong nhà và việc của Viện Quý tộc. Hay ít ra thì,” Sebastian thêm vào, “vẫn được cho là đủ tỉnh táo cho đến cuộc hôn nhân gần đây nhất.” Paul Gibson nhìn anh đầy ngạc nhiên. “Phu nhân là người không tương xứng đến thế sao?” “Không phải về gia cảnh. Mà là về tuổi tác. Anglessey hơn cha tôi một hay hai tuổi gì đó.” “Lạy Chúa.” “Anglessey sẽ có động cơ để vừa giết vợ mình, vừa đổ tội cho Hoàng tử nếu ông ta phát hiện ra rằng mình bị cắm sừng.” “Phu nhân là một trong các nhân tình của Hoàng tử sao?” “Tôi thật lòng không rõ. Hoàng tử nói rằng họ gần như không quen biết nhau.” “Nhưng anh không tin chuyện đó.” “Hoàng tử đang nói dối chuyện gì đó. Tôi chỉ không biết là chuyện gì thôi.” Gibson bắt đầu nhặt mấy thứ dụng cụ của mình và bỏ lại vào chiếc túi bằng da màu đen. “Anh đã tận mắt thấy mẩu giấy mà Hoàng tử kể là Người nhận được từ phu nhân chưa?” “Chưa. Nó bị thất lạc rồi.” “Không biết là vô tình hay hữu ý.” Gibson đứng thẳng dậy, hơi chao đảo một chút khi dồn trọng tâm về phía cái chân bằng gỗ. “Dù sao thì cũng thật đáng tiếc. Tôi nghĩ nếu anh mà biết được mảnh giấy đó đến từ đâu là sẽ tìm được ra thủ phạm thôi.” “Cũng có thể. Mặc dù tôi nghĩ rằng kẻ gây án này quá thông minh nên không dễ gì bị tóm gọn.” Sebastian nhận ra đôi mắt xanh của Paul Gibson đang chăm chú nhìn mình. “Tất cả những chuyện này thì có liên quan gì đến anh chứ, Sebastian?” Nếu như là với người khác, có lẽ Sebastian sẽ che giấu. Nhưng tình bạn giữa anh và người đàn ông Ireland này rất vững chắc. Sebastian lấy chiếc vòng cổ của mẹ anh từ trong túi ra. “Phu nhân Guinevere đã đeo chiếc vòng này lúc chết.” “Một món đồ thú vị.” Gibson nhướng mày. “Nhưng cho dù vậy thì cũng có liên quan gì tới anh đâu?” Sebastian nắm chiếc vòng trong lòng bàn tay. Anh vẫn luôn cảm thấy rằng mấy viên đá này hơi ấm lên một chút. Nhưng trong tay mẹ mình, anh đã từng thấy chúng rung lên với một nguồn năng lượng lớn đến mức gần như bỏng cả tay... Hoặc ít ra khi còn nhỏ, anh đã cảm thấy thế. “Chiếc vòng cổ này từng thuộc về mẹ tôi,” anh trả lời đơn giản. Paul Gibson ngước mắt lên nhìn khuôn mặt bạn mình. “Có chuyện gì đó kì lạ đang diễn ra ở đây, Sebastian. Một chuyện có lẽ là rất nguy hiểm. Nguy hiểm cho tất cả những ai có liên quan.” “Nếu anh không muốn tham gia vào vụ điều tra nữa thì tôi cũng rất thông cảm. ” Gibson nóng nảy khua tay. “Anh này buồn cười thật đấy. Tôi là đang lo cho anh thôi. Ai đã kéo anh vào chuyện này?” “Nhìn từ bên ngoài thì là Hoàng tử. Còn trên thực tế ư? Jarvis.” “Và anh tin ông ta sao?” Sebastian nhìn xuống thi thể người phụ nữ bị hành hung đang nằm im lìm dưới lớp vải. “Không hề. Nhưng có kẻ nào đó đã giết chết Guinevere Anglessey. Một kẻ đã đâm con dao đó vào tấm lưng bầm tím của phu nhân rồi chuyển thi thể vào đây, đặt lên chiếc ghế này trong một tư thế mời gọi. Mục đích duy nhất của Lãnh chúa Jarvis là bảo vệ Hoàng tử. Nhưng tôi thì khác. Tôi sẽ tìm ra kẻ đã giết chết người phụ nữ này và nhìn hắn trả giá cho tội lỗi của mình.” “Chỉ bởi vì chiếc vòng sao?” Sebastian lắc đầu. “Bởi vì nếu tôi không làm, sẽ không có bất kì ai làm hết.” “Chuyện đó thì quan trọng gì với anh?” Một bàn tay trắng trẻo mảnh mai của Guinevere lộ ra từ dưới lớp vải, ngón tay hơi quắp lại do co cứng. Nhìn hình ảnh này, Sebastian lại nhớ về một người phụ nữ khác, bị bỏ mặc đến chết trên những bậc thang trước bàn lễ thánh, cổ bị cứa vô cùng dã man, cơ thể rõ ràng đã bị xâm phạm. Một người phụ nữ khác, bị truy đuổi như một con mồi không chút phòng bị và cũng phải chịu một kết cục kinh hoàng như thế. Anh chẳng có mấy mộng tưởng gì về cái thế giới mà mình sống. Anh biết sự bất bình đẳng đến khó mà chấp nhận nổi giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp bần cùng, anh nhìn ra được sự bất công độc ác của một hệ thống pháp luật có thể treo cổ một đứa bé tám tuổi vì nó ăn cắp ổ bánh mì nhưng sẽ miễn tội giết người cho một vị Hoàng tử. Anh đã từng cảm thấy chán nản với sự man rợ và tàn bạo phi lý của những cuộc chiến mà đất nước anh tham chiến nhân danh tự do và công bằng đến mức anh thấy tự hài lòng khi để mặc bản thân lặng lẽ trôi đi, không mục tiêu và cô độc. Giờ đây, anh mới nhận ra phản ứng của mình lúc đó không chỉ bê tha mà còn có chút hèn nhát. Cúi người xuống bên cạnh thi thể của người phụ nữ tên Guinevere, Sebastian kéo tấm vải che đi bàn tay tái nhợt, yếu ớt đó rồi nhẹ giọng nói, “Có đấy.” CHƯƠNG 9 S ebastian đang đi qua khoảng sân về phía chuồng ngựa mái vòm thủy tinh xây theo phong cách Thượng Đô khi anh nghe thấy có tiếng người gọi tên mình. “Lãnh chúa Devlin.” Anh xoay người lại và nhìn thấy Bộ trưởng Nội vụ - Lãnh chúa Portland, đang băng qua mặt đường lát đá về phía mình. Mặt trời ban trưa chiếu sáng rực rỡ mái tóc đỏ lửa của nhà quý tộc, nhưng mặt anh ta thì tái lại, trông như đang rất lo lắng. “Xin hãy đi cùng tôi một đoạn, thưa ngài,” Portland nói, hướng cả hai đi vào con đường đâm ngang qua thảm cỏ rộng của Cung điện. “Tôi biết rằng ngài đã đồng ý đi tìm sự thật đằng sau sự việc khác thường đêm qua.” Sebastian chỉ có chút quen biết xã giao với Bá tước xứ Portland mặc dù kể từ khi Sebastian trở về từ đại lục, anh đã tham dự vài bữa tiệc và mấy buổi dạ hội với sự có mặt của người này rồi. Cũng như Jarvis và Hendon, Portland thuộc trường phái chính trị bảo thủ, một lòng ủng hộ nước Anh tiếp tục cuộc chiến chống lại quân Pháp và duy trì chế độ nhà nước hiện thời của Anh quốc, bất chấp những làn sóng ngày một dữ dội đòi hỏi cải cách. Nhưng dù có phản đối tư tưởng của người này, Sebastian vẫn kính trọng anh ta. Bá Tước xứ Portland là một trong số ít những người trong chính phủ - hoặc ngoài chính phủ - từ chối trở thành con tốt trong tay Jarvis. Nhưng có gì đó không phải, gần như đê tiện, khi gọi cái chết của một người phụ nữ trẻ là ‘sự việc khác thường’. “Nếu ngài muốn nói tới án mạng của phu nhân Anglessey,” Sebastian nói, “thì đúng vậy.” “Theo như Quan tòa và bác sĩ của Hoàng tử thì đó là một vụ tự tử.” Sebastian nhướng một bên mày. “Ngài tin như vậy ư?” Portland thở hắt ra rồi lắc đầu. “Không.” Họ đi cạnh nhau trong yên lặng một lúc lâu, Portland cắn môi lo lắng. Cuối cùng, anh ta nói, “Không hiểu sao tôi cảm thấy đây là lỗi của mình.” “Sao lại thế?” “Giá như tôi đừng gửi lời nhắn cho Hoàng tử...” Sebastian quay sang nhìn vị Bộ trưởng. “Ngài gửi lời nhắn của phu nhân Anglessey cho Hoàng tử?” “Đúng. Dù tôi không biết nàng là ai. Lúc ấy, nàng đeo mạng che mặt.” “Từ lúc nào?” “Không lâu sau khi dàn giao hưởng của Hoàng tử bắt đầu tấu nhạc đêm qua. Một người phụ nữ trẻ đeo mạng đã đưa cho tôi một bức thư được dán kín và nhờ chuyển lại cho Hoàng tử.” Portland ngần ngừ, làn da trắng đổi màu. “Cũng không phải lần đầu tiên có người tiếp cận tôi như thế.” Sebastian không đáp. Bao nhiêu năm qua, dàn nhân tình của Hoàng tử đã lan rộng ra đủ kiểu người, từ những cô vũ công và diễn viên nhạc kịch bình thường như bà Fitzherbert cho tới những vị phu nhân cao quý nhất - phu nhân Jersey và phu nhân Hertford là hai trong số đó. Làm người thân cận với Hoàng tử thì việc đồng thời phải gánh luôn vai trò đứng giữa dắt mối như vậy cũng không phải chuyện hiếm thấy. “Thật ra, tôi biết Guinevere Anglessey khá rõ,” Portland nói. “Phu nhân là - đã từng là - một người bạn thuở nhỏ của vợ tôi, Claire. Tôi không hề biết hóa ra đó lại là Guinevere.” “Hẳn là không rồi.” Sebastian nhìn đôi mắt xám nhạt của người đàn ông mở to, nhìn thấy sự sửng sốt ban đầu dần chuyển thành một thứ cảm xúc gì đó khác, một thứ cảm xúc trông đặc biệt giống sự sợ hãi. “Tôi không hiểu ý ngài?” “Lúc dàn giao hưởng tư nhân của Hoàng thân Nhiếp chính bắt đầu chơi nhạc đêm qua thì phu nhân Anglessey đã chết được có lẽ cũng phải sáu đến tám tiếng rồi.” Portland đột ngột ngừng nói. “Sao cơ? Nhưng... Không thể như thế được.” “Cơ thể người trải qua một quá trình với những thay đổi tuần tự sau khi chết. Nhiệt độ môi trường xung quanh và cả lý do dẫn đến cái chết có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm quá trình này lại, nhưng cũng không đến mức đáng kể. Tôi e rằng không thể có nhầm lẫn này đâu.” “Nhưng tôi đảm bảo với ngài rằng tôi đã nhìn thấy phu nhân Anglessey. Cô ấy đã đưa tôi bức thư.” “Ngài nhìn thấy một người phụ nữ che mạng. Ngài có nhớ người phụ nữ đó ăn mặc như thế nào không?” Portland đứng im, như thể đang cố gắng hết sức để huy động kí ức của mình. Nhưng cuối cùng anh ta cũng chỉ lắc đầu. “Không. Tôi không còn chắc chắn về bất cứ điều gì nữa. Ý tôi là, tôi nghĩ có lẽ người đó mặc chiếc váy sa tanh màu xanh giống phu nhân Anglessey, nhưng nếu những gì ngài nói là đúng thì chuyện đó không thể xảy ra được, phải không?” “Có thể thế. Cũng có thể không.” Ngài Bộ trưởng Nội vụ lại lắc đầu thêm lần nữa, khuôn mặt thấp thoáng vẻ băn khoăn. “Tôi không hiểu. Đó có thể là ai cơ chứ?” “Ta chưa biết,” Sebastian đáp, ánh mắt nhìn theo đám mòng biển bay cao bên trên phố Strand. “Nhưng cho dù đó có là ai thì chắc chắn cũng có dính dáng đến cái chết của phu nhân Anglessey.” Sebastian cho một tên hầu chạy đi chuẩn bị xe ngựa của anh rồi đứng trên đoạn đường cong rải sỏi quan sát chú hổ của mình, Tom, dắt đôi ngựa màu nâu hạt dẻ ánh đỏ ra. Đây không phải là một việc mà Sebastian tán thành, cái mốt giao những con ngựa ưu tú vào tay mấy cậu nhóc con diện áo gi-lê kẻ sọc vàng đen (lý do cho cái tên gọi “chú hổ”) của những quý ông thời thượng ngày nay. Nhưng Tom làm công việc mới này với một loại năng khiếu bẩm sinh khiến Sebastian cũng phải bất ngờ. Thêm vào đó, Tom còn có những tài năng khác mà thường người ta không thấy ở chú hổ của một quý ông, loại tài năng mà nhiều lúc Sebastian cảm thấy rất hữu dụng. Là một đứa nhóc mười hai tuổi với mái tóc tối màu và gương mặt góc cạnh, Tom trông nhỏ hơn tuổi, thân hình mảnh dẻ vẫn còn gầy gò và thấp bé cho dù hai má thì hồng hào, khỏe mạnh. Chỉ bốn tháng trước đây thôi, nó vẫn còn là một trong hàng ngàn đứa nhóc vô danh cầu bơ cầu bất kiếm ăn tạm bợ trên những con phố của London, một tên móc túi với quá khứ tối tăm và niềm đam mê thầm kín dành cho loài ngựa. Còn giờ đây, cậu bé này vô cùng trung thành với Sebastian. Nhận ra được ánh nhìn của Sebastian đang tập trung vào mình, thằng nhóc khoa trương đứng ưỡn ngực lên. “Sáng nay, chúng đang cảm thấy rất hồ hởi đó, thưa chủ nhân,” thằng nhóc nói, miệng cười toe toét để lộ ra hàm răng thưa. “Bây giờ ta đi đến chỗ của Lãnh chúa Anglessey là chúng sẽ được thư giãn gân cốt ngay ấy mà.” Sebastian nhảy lên xe ngựa, tay giữ chắc dây cương. “Ta muốn em ở lại đây. Thám thính thử xem người ta bàn tán chuyện gì trong nhà bếp và chuồng ngựa. Chắc chắn sẽ có một người hầu nào đó đã nhìn thấy hoặc nghe thấy điều gì bất thường đêm qua. Ta đặc biệt muốn biết xem có ai mang theo một cái gì đó kì lạ hay không. Một vật gì đó khá lớn.” Tom nhảy xuống khỏi xe, mắt hấp háy. “Ý ngài là một vật gì đó đủ to để giấu được một cái xác sao?” Thằng bé rất tinh ý - chuyện này không cần phải nghi ngờ. Sebastian mỉm cười. “Thật ra thì đúng là như thế đấy.” Tom lùi lại một bước, một tay đưa lên giữ chiếc mũ khi cơn gió mặn từ phố Strand thổi tới. “Nếu có bất kì ai đã nhìn thấy điều gì, thưa chủ nhân, em sẽ tìm ra được, ngài đừng lo.” “À mà Tom này?” Sebastian nói thêm ngay khi thằng bé chuẩn bị chạy đi. “Đừng có táy máy gì đồ đạc của người ta đấy, nghe chưa? Để tập luyện thôi cũng không được.” Tom ưỡn ngực ra vẻ bị tổn thương lòng tự trọng và khịt mũi một tiếng. “Không bao giờ.” CHƯƠNG 10 K hông giống như phần lớn những người thuộc tầng lớp quý tộc vốn hay thuê những ngôi nhà hẹp ngang ở Brighton vào mấy tháng hè, Oliver Godwin Ellsworth, vị Hầu tước thứ tư đảo Anglessey, sở hữu hẳn một dinh cơ ở rìa thị trấn. Đó là một trong những dinh cơ thuộc dạng nhỏ mà ông sở hữu, bé hơn khá nhiều so với dinh cơ chính của ông ở Northumberland, nhưng dù sao thì căn nhà cũng rất gọn gàng và thoải mái, yên vị trên một ngọn đồi nhìn ra vùng biển trong xanh, đủ xa để tách biệt khỏi sự ầm ĩ phồn hoa của đường phố Brighton. Giao đôi ngựa lại cho một người giữ ngựa, Sebastian gặp vị Hầu tước trong khu vườn với những lối đi lát gạch phủ rêu và các khóm hồng được chăm chút cẩn thận, ẩn mình trong những góc chắn gió dưới sự bảo vệ của các bức tường cao khỏi hơi biển mặn mòi. Nghe thấy tiếng bước chân của Sebastian, Anglessey quay lại - mái tóc sẫm màu ngày còn trẻ giờ đã điểm bạc, ngả hoa râm. Chỉ hơn Hendon có vài tuổi nhưng trông ông già hơn rất nhiều, thân hình mảnh khảnh, khuôn mặt hằn sâu dấu vết của bệnh tật và rõ ràng là đang càng thêm u sầu với chuyện đau buồn vừa xảy ra. “Cảm ơn ngài đã đồng ý gặp mặt trong thời điểm nhạy cảm này,” Sebastian nói, dừng lại nơi ánh nắng tháng Sáu rực rỡ chạm đến mặt đất. “Tôi thực sự không biết phải nói gì để bày tỏ niềm thương tiếc.” Ngài Hầu tước quay lại tiếp tục cắt tỉa những bông hoa hồng phớt đã nở rộ trên cành hoa hồng leo uốn mình bám quanh một cây cột trụ lớn. “Nhưng đó hẳn không phải là lý do ngài đến đây, phải không?” Câu hỏi thẳng thắn làm Sebastian ngạc nhiên. “Đúng vậy,” anh trả lời thẳng thừng không kém. “Lãnh chúa Jarvis đã nhờ tôi tìm hiểu những chuyện xung quanh cái chết của vợ ngài.” Tay ngài Hầu tước xiết chặt chiếc kéo tỉa cây. “Để bảo vệ Hoàng tử, hẳn là vậy.” Ông nói với giọng điệu khẳng định chứ chẳng phải là một câu hỏi nữa. “Đó là động cơ của họ, đúng vậy.” Ngài Hầu tước quay đầu lại, một bên lông mày nhướng cao. “Nhưng không phải của ngài sao?” “Đúng vậy.” Sebastian bắt gặp ánh mắt kiên định và thông minh của người đàn ông lớn tuổi. “Ngài có nghĩ người đó là thủ phạm không?” “Hoàng tử sao?” Anglessey lắc đầu, tiếp tục công việc tỉa hoa. “Prinny có thể là một tên ngu ngốc suốt ngày say xỉn, luôn được người ta chiều lòng, thích gì được nấy, nhưng ông ta không hề bạo lực. Không giống người anh trai Cumberland.” Ông ngừng lại một chút để đánh giá thành quả của mình, hàm đột nhiên nghiến chặt lại gay gắt làm người ta không dám nghĩ ông đã từng ấy tuổi. “Nhưng ngài đừng hiểu lầm: nếu ta sai - nếu ta phát hiện ra Prinny thực sự có liên quan tới cái chết của Guin - ta sẽ không đời nào để cho Hoàng tử thoát tội. Dù có là Hoàng thân Nhiếp chính đi nữa.” Sebastian quan sát kĩ gương mặt tức giận và đầy đau buồn ấy. Vị Hầu tước này có lẽ đã già thật, nhưng sự quyết tâm lẫn khả năng nhận thức của ông không có chút gì là yếu đuối hay nhu nhược. “Vậy ngài cho rằng ai là kẻ đã giết chết vợ mình?” Một nụ cười mỉm kì lạ cong lên trên môi người đàn ông luống tuổi. “Ngài có biết ngài là người đầu tiên hỏi ta câu này không? Có lẽ là vì tất cả những người không nghĩ Hoàng tử đã giết Guinevere thì đều cho rằng ta là thủ phạm.” Ngài Hầu tước chuyển qua bông hoa kế tiếp. Sebastian vẫn chờ, ánh nắng rơi xuống ấm áp trên vai anh. Sau một lúc, Hầu tước nói, “Họ không cho ta nhận thi thể của Guinevere về. Ngài có biết chuyện đó không? Họ nói rằng có một vị bác sĩ phẫu thuật nào đó từ London đang tới. Người ta muốn kiểm tra thi thể nàng.” “Đó là Paul Gibson. Anh ấy rất giỏi trong những việc thế này. Anh ấy muốn xin ngài cho phép thực hiện khám nghiệm tử thi.” Anglessey nhìn quanh. “Vì sao chứ?” Sebastian nhìn thấy ánh mắt đau đớn, phờ phạc của ông. “Bởi vì phu nhân Anglessey không bị giết vào đêm qua. Phu nhân đã bị giết từ buổi chiều và thi thể của cô ấy được chuyển vào Phòng Vàng chỉ ngay trước khi Hoàng tử tới mà thôi.” Một tia tức giận bùng lên trong đáy mắt ông. “Đây là chuyện gì chứ? Một thứ mánh khóe để kéo mọi nghi ngờ ra khỏi Hoàng tử sao?” “Không phải vậy. Thật ra theo nhận định từ phía thầy thuốc của Hoàng tử thì phu nhân Guinevere đã tự sát.” “Tự sát! Với một con dao găm đâm thẳng vào lưng nàng?” “Đúng thế.” Sebastian thoáng ngần ngừ, nhưng rồi vẫn nói thêm, “Chỉ có điều con dao đó không phải là hung khí đã giết chết phu nhân. Theo lời Gibson thì có lẽ phu nhân đã qua đời vài tiếng trước khi bị đâm vào lưng.” “Lạy Chúa. Ý ngài là sao?” Sebastian lắc đầu. “Chúng tôi không biết phu nhân đã chết như thế nào, thưa ngài. Đó là lý do vì sao Gibson mong ngài cho phép thực hiện khám nghiệm tử thi. Nếu không trực tiếp khám nghiệm thì rất khó để có thể hiểu rõ được những gì đã xảy ra với vợ ngài.” Một khoảng im lặng trôi qua, chỉ nghe tiếng kéo lách cách trong tay ngài Hầu tước và tiếng mòng biển kêu phía xa. Thế rồi ông quyết định, “Thôi được rồi. Ta cho phép bác sĩ Gibson của ngài.” Ông ném cho Sebastian một ánh mắt hung dữ qua vai. “Nhưng ta muốn được biết mọi thứ. Ngài nghe rõ chứ? Không được phép che giấu bất kì chuyện gì vì lo nghĩ đến tuổi tác hay sức khỏe của ta hay vì bất kì lý do nhảm nhí nào khác.” “Sẽ không che giấu chuyện gì.” Anglessey mím chặt môi, cánh mũi phập phồng khi hít sâu một hơi. “Ta biết mọi người nghĩ gì về hôn lễ của ta với Guinevere. Một lão già như ta, lại đi lấy một người ngang tuổi cháu gái mình về làm vợ. Họ làm như thể đó là chuyện đáng hổ thẹn, một chuyện rất hèn hạ. Như thể khoảng cách tuổi tác bốn mươi lăm năm làm ta hoàn toàn không thể yêu thương nàng vậy.” Ông dừng lại, hai tay bất động, mắt nhìn xa xăm về phía cuối khu vườn, giọng nhỏ lại thành tiếng thầm thì. “Nhưng ta đã yêu nàng thật lòng. Không phải vì nàng xinh đẹp - mặc dù có Chúa chứng giám, nàng thật sự quá kiều diễm. Nhưng ở nàng còn có nhiều điều hơn thế. Nàng... Nàng tựa như một làn gió mát lành thổi vào cuộc đời ta. Ngập tràn năng lượng và đam mê. Vô cùng rực rỡ, vô cùng quyết tâm phải nắm lấy sự sống bằng cả hai tay và làm được những điều mình ao ước...” Ông ngừng nói và phải hít một hơi trước khi nói tiếp, giọng còn nhỏ hơn lúc nãy, “Ta vẫn không thể tin rằng nàng đã chết.” Sebastian chờ một lúc rồi khe khẽ hỏi lại, “Ngài cho rằng ai đã giết chết phu nhân?” Anglessey buông mình xuống băng ghế gỗ đã bị phong hóa ở dưới một cái cây thân gỗ gần đó, tay đặt trên đùi. “Guinevere là người vợ thứ ba của ta,” ông nói, điều chỉnh tông giọng cứng rắn trở lại. “Người đầu tiên đã lìa trần chỉ vài giờ sau khi hạ sinh ra một đứa bé chết non. Người thứ hai thì hiếm muộn.” Sebastian gật đầu. Ngài Hầu tước thật ra cũng không cần giải thích gì thêm. Cả ông và Sebastian đều sống trong cùng một thế giới, nơi mà tất cả mọi người đều hiểu quá rõ việc một người đàn ông ở vị trí này cần phải có một người thừa kế hợp pháp ra sao. Dù mới chỉ hai mươi tám tuổi, Sebastian đã cảm thấy gánh nặng đó đè lên vai mình, không chỉ từ phía người cha mà còn cả từ chính nhận thức của anh, nhận thức về những gì anh còn nợ ngôi nhà mình ở, nợ cái tên mình mang. “Kể từ khi em trai ta qua đời hai mươi năm trước,” Anglessey nói, “người thừa kế của ta là đứa cháu trai Bevan.” Ngụ ý rất rõ ràng. Sebastian quan sát kĩ gương mặt nhăn nheo tức giận của người đàn ông luống tuổi này. “Ngài nghĩ anh ta có khả năng giết người sao?” “Ta nghĩ Bevan Ellsworth có khả năng sẽ xuống tay giết chết người nào đứng chắn giữa nó và những gì nó cho là thuộc về mình. Và Bevan thì hiển nhiên cho rằng của cải của ta thuộc về nó. Nó coi cuộc hôn nhân của ta với Guinevere là một sự lăng mạ nhắm thẳng vào nó. Thật ra, nó đã từng đe dọa sẽ phá cuộc hôn nhân này - cứ như thể nó đủ khả năng vậy.” “Thế nhưng cũng đã vài năm trôi qua kể từ khi ngài cưới phu nhân rồi. Sao bây giờ anh ta mới sát hại phu nhân Anglessey?” Anglessey thở dài đau đớn. “Chi tiêu của Bevan luôn vượt quá mức nó kiếm được. Tất nhiên Bevan cho rằng vấn đề nằm ở việc nó có quá ít tiền chứ không phải ở thói quen tiêu pha phung phí của nó. Thằng cháu đó của ta, nó là đứa ăn diện rất chải chuốt. Nó lại còn ham mê những trò đỏ đen may rủi nữa. Nhưng chỉ cần nó còn là người thừa kế của ta, chủ nợ sẵn sàng cho nó vay mượn thả cửa. Ta cho rằng mọi chuyện đã chuyển xấu khi mọi người biết rằng vợ ta đã có thai.” “Thế nhưng đứa trẻ có thể là một bé gái,” Sebastian cảm thấy cần phải nói thêm, “và khi đó thì vị trí người thừa kế của Bevan Ellsworth vẫn được bảo đảm.” “Đứa trẻ có thể sinh ra là con gái,” Anglessey đồng ý. “Nhưng thật lòng thì ta không cho rằng Bevan sẽ ngồi yên chờ đợi một cơ hội mong manh như thế.” Những tia nắng mặt trời dừng lại phía sau lưng Sebastian, vẻ mặt anh chìm trong bóng râm khi anh quan sát gương mặt trầm ngâm của người đàn ông này. Rất dễ để nhìn ra những nếp nhăn mới hằn sâu trên gương mặt do buồn thương, vẻ đờ đẫn trống rỗng vì đau đớn ánh lên trong đôi mắt xám nhạt của ngài Hầu tước và cả sự đau lòng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc đã có tuổi. Ở ông còn có cả sự tức giận nữa, nó ẩn trong quai hàm nghiến chặt, trong đôi môi mỏng mím lại thành một đường thẳng. Cơn thịnh nộ trước sự ra đi đột ngột và bất ngờ của một người ông hết lòng yêu thương, trước lòng tham ích kỉ của đứa cháu mà ông tin là kẻ đã cướp đi người thân cận nhất bên cạnh ông. Thế nhưng... Thế nhưng Sebastian vẫn không khỏi cảm thấy có một cái gì khác nữa đang diễn ra ở đây, một cái gì đó anh đã bỏ qua. “Lần cuối ngài nhìn thấy vợ mình còn sống là khi nào?” đột nhiên anh hỏi. Anglessey ngẩng mặt lên, đôi mắt nhíu lại trước ánh nắng mặt trời. “Cũng phải gần mười ngày trước.” Sebastian thở mạnh. “Tôi không hiểu.” “Vợ ta gần đây không được khỏe. Cũng không có gì nghiêm trọng, ngài biết đấy.” Một nụ cười buồn bã, đăm chiêu quanh quẩn nơi khóe môi ông. “Phụ nữ mang thai đôi khi vẫn vậy. Nàng đã định xuống Brighton với ta rồi. Nàng vẫn luôn rất thích những tuần hè chúng ta tới đây nghỉ ngơi. Nhưng rồi nàng quyết định mình không thể chịu đựng được hàng mấy tiếng đồng hồ phải ngồi trong một buồng xe kín bưng lắc lư qua lại, cho nên nàng đã ở nhà.” “Ở nhà ư?” “Đúng vậy.” Ngài Hầu tước nắm chặt cây kéo cắt tỉa trong tay rồi đứng thẳng dậy. “Các bác sĩ nói rằng khí hậu ở biển có lẽ sẽ tốt cho ta nên nàng đã kiên quyết bắt ta đi một mình. Chúng ta vẫn mong nàng sẽ cảm thấy đủ khỏe để khởi hành một hay hai tuần sau đó. Mãi tới tận đêm qua, ta vẫn nghĩ Guinevere đang ở London.” CHƯƠNG 11 M ới đầu thì tưởng chừng như chuyện Anglessey vẫn đinh ninh vợ mình đang ở London vào thời điểm cô bị sát hại là một khúc ngoặt kỳ quái trong mạch phát triển của cả một mạng lưới lùng bùng rối rắm những sự kiện khiến người ta không tài nào hiểu được hết. Nhưng càng nghĩ, Sebastian lại càng cảm thấy mọi chuyện rất hợp lý. Theo lời Paul Gibson, phu nhân Guinevere đã bị giết từ sáu đến tám tiếng trước khi Hoàng thân Nhiếp chính tìm thấy thi thể co quắp của cô trong Phòng Vàng. Vào một lúc nào đó trong buổi chiều dài đằng đẵng, phu nhân đã được đặt nằm ngửa hàng giờ đồng hồ, đến nỗi máu đông lại, bầm lên khắp da thịt một màu tím thẫm. Sau đó, con dao mới đâm thẳng vào tấm lưng trần và thi thể thì được đặt nằm nghiêng trong một tư thế hấp dẫn mời gọi Hoàng tử si mê mà bước lại gần. Tất cả những điều này có nghĩa là phu nhân có lẽ đã bị giết ở London rồi mới được mang xuống Brighton. “Đây là chuyện vô lý nhất ta từng được nghe,” Hendon nói sau khi Sebastian trình bày lập luận về những gì đã diễn ra đêm hôm đó trong gian khách phòng của họ ở khách sạn Anchor, tay cầm một ly Brandy. “Vậy theo con thì tên sát nhân thần bí này đã mang thi thể phu nhân vào Phòng Vàng bằng cách nào? Hắn rõ ràng không thể ôm cơ thể không còn sự sống của phu nhân trong tay mà băng băng đi lại trong Cung điện, đúng không? Hay con đang nghĩ là hắn đã cuộn tròn thi thể phu nhân trong một tấm thảm rồi mang vào giống mấy tên cặn bã trong những quyển tiểu thuyết lãng mạn trong các tiệm cho thuê sách sao?” Sebastian nhìn cha mình bước lại phía cái bàn gần lò sưởi và rót thêm một ly Brandy nữa. “Vậy cha muốn nói gì? Rằng phu nhân đã tới Brighton mà không báo cho chồng mình biết, đơn giản chỉ để tự sát một cách khó hiểu sau khi sắp xếp để cho mình ngã nằm lên con dao găm trong Phòng Vàng của Hoàng tử? Và rồi nằm yên trong căn phòng đó mà không bị ai phát hiện cỡ sáu tiếng đồng hồ, trong khi người hầu ra ra vào vào để khơi lửa và dọn dẹp?” Hendon đặt mạnh bình rượu xuống bàn. “Đừng ngớ ngẩn như thế. Ta muốn nói là anh bạn người Ireland kia của con chẳng hiểu hắn đang nói chuyện gì hết.” Ông dừng lời, đầu quay về phía cánh cửa vừa phát ra tiếng gõ dè dặt. “Thưa ngài,” người hầu phòng của ngài Bá tước lên tiếng rồi cúi chào, mỗi thớ thịt trên cơ thể đều tỏ rõ vẻ cứng nhắc vì bất mãn. “Chú hổ của Tử tước Devlin mong muốn được gặp ngài ấy. Nó nói rằng ngài ấy đang chờ nó.” Sebastian giơ một nắm đấm lên che miệng ho để giấu đi nụ cười. Tom không được lòng tùy tùng của Bá tước cho lắm. “Đúng vậy. Làm ơn dẫn thằng bé vào đây.” Không cam lòng bị bắt đứng chờ ngoài đại sảnh, Tom đã xuất hiện ngoài cửa, mặt mũi thì nhăn nhó và rõ là rất thất vọng. “Sao rồi?” Sebastian hỏi trong khi người hầu của ngài Bá tước cúi chào rồi rời đi. “Phát hiện ra được gì rồi?” “Chẳng được cái gì cả, thưa chủ nhân,” thằng bé nói, giọng nặng trĩu. “Không được bất kì một cái gì hết. Chẳng ai nhớ là đã nhìn thấy cái gì bất thường cả. Chẳng có gì bất thường hết cho đến khi mấy ông to bà lớn bắt đầu la hét gào khóc và chạy túa khỏi đó như bọ chét nhảy ra khỏi xác con chó chết cả.” Hendon khẽ thở ra một tiếng tỏ vẻ hài lòng và cầm ly Brandy đưa lên bên miệng. “Có ai suy đoán gì không?” Sebastian hỏi. “À phải rồi. Cái đó thì lại nhiều. Mấy cô làm bếp đó, các cô ấy đều bàn tán chuyện chắc là Hoàng thân Nhiếp chính đã giết phu nhân, trong khi mấy anh ở chuồng ngựa thì lại cho là Cumberland mới là kẻ chủ mưu. Và tất cả bọn họ đều nói về gia tộc Hanover...” Tom bỗng ngừng lại, liếc trộm Bá tước Hendon. “Cứ nói đi,” Sebastian nhắc thằng bé. Tom hít hít mũi và nhỏ giọng tiếp tục. “Người ta nói, tất nhiên cũng chỉ là thì thầm to nhỏ với nhau thôi, rằng cả Nhà Hanover không chỉ gặp rắc rối vụn vặt đâu. Họ nói rằng người Nhà Hanover đều bị nguyền rủa hết. Và rằng nước Anh cũng sẽ bị nguyền rủa, một khi Nhà Hanover còn...” “Vớ vẩn,” Hendon gầm lên, đứng bật dậy khỏi ghế. Thằng bé vẫn đứng yên, mắt nhíu lại vẻ cảnh giác. “Đó là những gì họ nói.” Sebastian khẽ nắm một bên vai thằng bé. “Cảm ơn Tom. Như thế là được rồi.” “Ta có chết cũng không hiểu được vì sao con lại thu nhận thằng nhóc đó vào nhà mình,” Hendon nói sau khi Tom đã rời đi. “Cha cho rằng lòng cảm kích của con chỉ cần một câu cảm ơn kèm một món quà nào đó như một cái đồng hồ vàng chẳng hạn là tỏ rõ được hết rồi sao? Tom đã cứu con một mạng, cha không nhớ sao? Mạng sống của con và Kat.” Cũng giống như mọi lần khác mà Sebastian làm điều gì Hendon không tán thành - hoặc làm ông thất vọng, ông lại nghiến chặt hai hàm răng. Đã từng có một thời mà ngài Bá tước xứ Hendon kiêu hãnh về ba người con trai khỏe mạnh có thể sẽ kế vị ông. Thế nhưng số phận lại chỉ để lại cho ông mình Sebastian, đứa ít tuổi nhất và cũng làm người ta không vừa lòng nhất. “Ta nghĩ phần lớn mọi người đều sẽ cho rằng một khoản trợ cấp nho nhỏ là quá đủ rồi,” Hendon nói. “Đứa bé đấy rất được việc.” “Lạy Chúa lòng lành. Một thằng móc túi thì giúp ích được gì cho một quý ông cơ chứ?” “Để có thể sinh tồn được nơi phố chợ, người ta cần phải hành sự nhanh nhẹn, có khả năng quan sát tốt và còn phải nhanh trí nữa. Đều là những đức tính con có thể cậy nhờ được.” Hơn nữa, thằng nhóc vẫn luôn muốn được tiếp xúc nhiều hơn với mấy con ngựa, Sebastian nghĩ, dù cũng không nói ra. Hendon chỉ cười chế giễu. “Bốn tháng qua chắc nó cũng phải cố gắng lắm mới kiểm soát được bản năng trộm cắp của nó nhỉ?” “Cái ấy thì cũng đành tùy cha nghĩ sao cũng được.” Sebastian uống cạn ly Brandy của mình rồi đặt cái ly sang một bên. “Thôi, chúc cha buổi tối an lành. Con dự định sáng sớm mai sẽ khởi hành về London.” “London?” Hendon mím môi không hài lòng. “Ta vẫn tưởng cái chuyện ám sát này ít ra cũng sẽ giữ con không quay trở lại đó lâu hơn một chút.” Tất nhiên, Hendon cũng không có ý kiến gì với bản thân thành phố London cả, vấn đề khiến ông phiền lòng là cô diễn viên trẻ đẹp mà ông biết chắc Sebastian sẽ gặp gỡ tại đó. Không muốn phải bắt đầu tranh cãi chuyện này, Sebastian quay người ra cửa. “Con không thấy ở đây còn chuyện gì để làm cả. Anglessey đã đồng ý cho Paul Gibson chuyển thi thể phu nhân về phòng mổ của anh ấy để tiến hành khám nghiệm tử thi. Cho dù phu nhân Guinevere không bị giết ở London thì có lẽ ở đó cũng sẽ có người có thể cho con biết phu nhân đã đi đâu - và vì sao.” Bình minh ngày hôm sau khẽ mở mắt ra để nhìn từng làn sương trắng đượm mặn mùi biển len lỏi qua từng dãy nhà cao lớn và trịnh trọng, uốn mình vào những con ngõ nhỏ hẹp đan dệt nên khu Lanes. Sebastian giữ chặt dây cương đôi ngựa màu hạt dẻ cho tới khi những xóm nhỏ dựng lên lẻ tẻ dọc đường đã khuất hẳn khỏi tầm mắt. Chỉ chờ có thế, anh liền thả cho đôi ngựa thiến được tự do mà chạy đua với gió một đoạn, rồi sau đó mới một lần nữa kìm chúng lại, đi nước kiệu từng bước đều đều thong thả, từ từ gặm nhấm cả quãng đường dài. Khi họ tới Edburton, những tia nắng mặt trời mỗi lúc một chói chang đã bắt đầu thiêu cháy những tàn tích cuối cùng còn sót lại của màn sương mù ban sớm. Trông ra phía xa là cả một vùng South Downs mênh mông rộng lớn. Và đó cũng chính là lúc mà mối nghi ngờ mỗi lúc một mạnh mẽ về việc mình đang bị theo dõi trong lòng Sebastian được khẳng định chắc chắn. CHƯƠNG 12 M ặc dù có màn sương mù dày đặc che khuất mọi thứ song Sebastian vẫn nhận ra được tiếng vó ngựa đều đều luôn duy trì một khoảng cách an toàn với họ. Chỉ có một con ngựa thôi, anh nghĩ vậy, đi với một tốc độ vừa phải, không tiếp cận sát hơn nhưng cũng không để bị mất dấu xe ngựa của anh. Nhưng rồi màn sương bắt đầu tan dần thành một thứ màu trắng mông lung ôm lấy hàng tường đá gồ ghề và cả những hàng rào cây lỉa chỉa cành lá hai bên đường, để lộ ra những cánh đồng lúa mạch và cây lanh xanh rờn. Lúc đó, gã đàn ông đáng ngờ kia bắt đầu đi chậm lại phía sau, nhưng mắt Sebastian vốn vẫn tốt hơn người thường rất nhiều. Khi khung cảnh bát ngát của South Downs dần hé mở dưới nắng mặt trời, anh đã bắt đầu bắt được bóng dáng của một người vận quần áo tối màu đang cưỡi một con ngựa nâu to lớn, lần đầu là thấp thoáng qua tán cây phỉ, rồi sau đó là ẩn hiện sau những gốc cây sồi lớn. Trầm ngâm, Sebastian thúc đôi ngựa màu dẻ của mình đi nhanh hơn. Kẻ bí ẩn kia liền tăng tốc theo. Họ tiếp tục đi như vậy thêm một, hai dặm nữa rồi Sebastian mới kìm ngựa lại, đi thong thả. Những cái bóng ngả rạp ra sau lưng. “Dù có làm gì thì cùng đừng nhìn về phía sau,” Sebastian ra lệnh cho chú hổ nhỏ tuổi. “Nhưng ta nghĩ... Không, thật ra ta khá chắc là chúng ta đang bị bám đuôi.” Cả người Tom gồng lên, kiềm chế niềm xúc động muốn được quay đầu lại nhìn tận mắt. “Từ khi nào vậy?” “Từ khi chúng ta rời khỏi Brighton, có vẻ là như vậy.” “Vậy phải làm gì bây giờ?” Sebastian duy trì những nhịp bước đều đều của đôi ngựa. Họ đang đi tới một đoạn đường thoai thoải dốc, lối đi quanh co chìm trong bóng râm tối tăm của hàng cây dương liễu. Nhưng lên đến đỉnh đoạn dốc thì mặt đất dần bằng phẳng, con đường trước mắt vẽ ngang một nét qua đồng cỏ xanh rì rộng lớn lấm tấm những giọt màu trắng-đen của đàn bò sữa đang yên ả gặm cỏ. Không nhìn lại đằng sau, Sebastian thúc ngựa phi nước đại, bắt người đàn ông sau lưng họ phải làm theo. Họ băng qua cánh đồng cỏ, ánh mặt trời phản chiếu lên hai bên sườn ẩm ướt mồ hôi của đôi ngựa màu nâu dẻ. Sebastian ra sức thúc đội ngựa xe của anh tăng tốc liên tục cho tới khi con đường bỗng dâng cao rồi đột ngột gẫy gập xuống trước mặt theo một đường cong thẳng dài. Sebastian ngay lập tức ghì cương lại, hãm những nước đại xuống thành nhịp kiệu gấp gáp. Tiếng gió rít ù ù bên tai cùng tiếng vó ngựa rầm rập lặng đi, chỉ còn nghe thấy tiếng bánh xe khẽ khàng lạo xạo, yên ắng đến độ Sebastian nghe được cả tiếng thở mạnh gấp gáp vì phấn khích của Tom. Lúc họ mới chỉ xuống được nửa con dốc, người đàn ông trên con ngựa nâu đã chạy nước kiệu được lên đến đỉnh ngọn đồi sau lưng họ. Nhìn thấy Sebastian, hắn ta ngập ngừng dừng lại một khắc rồi sau đó liền thúc con ngựa của mình thong thả đi về phía trước. Sebastian tấp vào bên đường rồi dừng hẳn lại. Nhận thấy thế, Tom liền nhảy ra khỏi xe, chạy xuống đứng trước đôi ngựa. “Hắn đang làm gì vậy?” Sebastian hỏi, cúi người xuống như thể đang bận bịu nghiên cứu cái gì đó ở dưới chân mình. Một tay anh nắm lấy khẩu súng kíp ngắn. Một lần nữa, người đàn ông kia tỏ vẻ ngập ngừng. Nhưng giờ hắn ta đã không còn sự lựa chọn nào khác: hoặc là nói rõ mục đích của mình, hoặc là tiếp tục đi và bỏ lại bọn họ phía sau. Kéo chiếc mũ sụp xuống trán, người đàn ông trong bộ đồ tối màu đá thúc sườn ngựa đi tiếp. “Hắn đang lại gần rồi,” Tom nói, thở ra căng thẳng. Người đàn ông phóng vượt qua họ như một cơn lốc bụi kéo theo tiếng yên cương ngựa bằng da bị ma sát kẽo kẹt và những giọt mồ hôi nổi lấm tấm trên thân thể một con ngựa hảo hạng. Ngẩng đầu lên, Sebastian chỉ kịp loáng thoáng nhìn ra một con ngựa nâu ánh đỏ như máu, đầu ngẩng cao, mắt mở lớn và một người đàn ông tầm vóc trung bình với chiếc mũ lông hải ly và tấm áo choàng được may đo rất có tay nghề. Rồi với một tiếng lóc cóc, con ngựa nâu đỏ biến mất sau khúc quanh phía trước. Tiếng vó ngựa cứ xa dần, để rồi tất cả lại chìm vào trong yên lặng, chẳng còn nghe được gì khác ngoài tiếng gió xào xạc thổi qua từng nhánh cỏ thơm và tiếng bò rống khẽ vọng lại. Tom đứng bám một tay vào dây cương ngựa, đầu quay ngược lại phía sau và nhìn chằm chằm vào con đường. “Kẻ đó là ai vậy, thưa chủ nhân?” “Ta cũng không rõ nữa,” Sebastian đáp, cầm lấy chiếc roi da. “Lui ra nào, Tom.” Tom vâng lời, nhảy lùi lại khỏi đôi ngựa rồi leo lên băng ghế phụ phía sau của mình, chiếc xe song mã lại tiếp tục lăn bánh về London. Họ về tới thành phố lúc vừa quá trưa. Người đàn ông mặc áo choàng cưỡi con ngựa nâu đỏ không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Nhà riêng của Sebastian nằm trên phố Brook, đi từ phố New Bond rẽ vào. Nhưng đó lại không phải là điểm dừng chân đầu tiên của anh. Dừng xe lại trước một căn nhà nhỏ tinh tế trên phố Harwich, Sebastian đưa lại dây cương cho Tom và nói, “Cho chúng vào chuồng đi.” Người hầu gái ra mở cửa có nét giống loài chuột với đôi vai nhỏ gầy xương xẩu và khuôn mặt tai tái chẳng bao giờ cười. Nhìn thấy Sebastian, cô khịt mũi và trông như thể cô sẵn sàng đóng sầm cửa vào mặt anh nếu như cô có quyền. “Cô Boleyn hãy còn đang ngủ.” “Tốt lắm,” Sebastian vui vẻ đáp lời, leo hai bậc thang một lúc. “Cô cứ tiếp tục công việc của mình đi, Elspeth,” anh nói thêm, nhưng cô vẫn tiếp tục đứng nguyên tại chỗ trên sảnh vào, đầu hơi ngửa ra phía sau và ngước lên nhìn anh trừng trừng. “Ta sẽ tự đi lên.” Cánh cửa gian phòng ngủ trên tầng hai đang đóng nhưng không bị chốt. Sebastian đẩy mở cánh cửa sơn màu, tiến vào căn phòng treo kín những tấm vải sa tanh xanh lam, nhập nhoạng tối. Một người phụ nữ đang nằm trên giường, một người phụ nữ trẻ đẹp với mái tóc nâu óng ả rơi xõa trên gối. Tên cô là Kat Boleyn và dù mới ở tuổi hai mươi ba, cô đã trở thành tâm điểm của sân khấu London được vài năm nay. Cô cũng là tình yêu của cuộc đời Sebastian. Bước lại gần, anh phát hiện ra cô đã tỉnh, đôi mắt xanh khẽ nheo lại phía đuôi mắt với một nét cười nhẹ, đôi vai để trần lộ ra ngoài tấm chăn lanh thượng hạng. “Elspeth tội nghiệp,” cô nói. Cởi bỏ chiếc áo khoác cánh dơi nhiều lớp của mình ra, Sebastian ném nó lên một chiếc ghế gần đó, rồi tiếp theo là đến cái mũ, chiếc roi da và đôi găng tay. “Vì sao nàng cứ giữ cái người lúc nào cũng trưng ra gương mặt ảm đạm đó trong nhà vậy?” Kat vươn đôi tay dài để trần của cô ra, lười biếng duỗi người. “Elspeth không ảm đạm với em.” “Vậy cô ấy vì sao lại cứ chống đối ta như thế?” Kat bật cười. “Chàng là đàn ông.” Sebastian quỳ xuống bên giường, chân quỳ lún sâu vào tấm đệm lông. “Vở kịch mới ra sao rồi?” “Được yêu thích. Hoặc có lẽ chỉ có bộ trang phục Cleopatra của em là được yêu thích thôi.” Cô đưa tay lên vòng qua cổ và kéo anh lại gần. “Em tưởng hôm qua chàng phải về rồi cơ.” Nếu như là do bất kì người phụ nữ nào khác nói ra, câu này hẳn sẽ ẩn chút ý tứ trách móc. Nhưng không phải với Kat. Với Kat, đó chỉ là một câu nói, một lời nhận định mà thôi. Cô chẳng yêu cầu bất kì sự ràng buộc gì giữa những người yêu nhau ở anh. Mọi nỗ lực của anh để có thể cưới cô về làm vợ, cô đều thẳng thừng cự tuyệt, thậm chí cả danh phận tình nhân cô cũng từ chối. Anh nghĩ có lẽ có những người đàn ông sẽ cảm thấy mối quan hệ như vậy hẳn là được tự do khỏi mọi sự ràng buộc tù túng, nhưng Sebastian thì lại sống với một nỗi lo sợ tuyệt vọng trong âm thầm rằng sẽ có một ngày, vì một lý do nào đó mà anh không thực sự hiểu được, cô sẽ bỏ anh mà đi. Một lần nữa. Anh trườn tay dọc xuống tấm lưng trần của cô, nghe thấy tiếng cô hít vào đúng cái cách mà cô vẫn phản ứng mỗi khi anh chạm vào cô. Anh vùi đầu vào cổ cô, hít đầy lồng ngực hương vị tuyệt vời như men say từ da thịt và mái tóc cô. “Tha thứ cho ta được không?” Cô ôm lấy đôi má anh trong tay, đẩy lùi ra để có thể nhìn thấy gương mặt anh. Trên môi cô đang vẽ lên một nụ cười, đôi mắt sáng lấp lánh một cái gì đó nhìn rất giống với tình yêu. Nhưng rồi cô chỉ nhẹ giọng buông câu trêu chọc. “Cái đấy còn phải xem lý do của chàng hay đến đâu đã.” Anh chiếm lấy đôi môi cô với một nụ hôn như lời chào âu yếm nhưng cũng chất chứa bao ẩn ý về những điều lòng anh da diết muốn và cần. Thế rồi anh ngẩng đầu lên, khẽ lướt ngón cái lên môi cô và nhìn nụ cười nơi cô nhạt dần khi anh nói, “Một vụ án mạng thì sao?” CHƯƠNG 13 C ô được sinh ra với một cái tên khác, bởi một người phụ nữ với đôi mắt biết cười và những lời yêu thương thì thầm ấm áp nhưng bà lại chết trong sa sút và sợ hãi vào một buổi sáng đầy sương mù trên mảnh đất Ireland. Có đôi khi, đặc biệt là vào buổi sáng sớm khi bóng tối vẫn còn đang nhập nhoạng chưa nhường lối hẳn cho ánh sáng, Kat vẫn tưởng như mình có thể cảm nhận được đôi bàn tay thô ráp của những tên lính trên người mình, cảm nhận được sự thô ráp của sợi dây thừng cắn lấy cổ cô, từng hơi thở của sự sống dần bị vắt mòn, vắt kiệt ra khỏi cơ thể cô. Rồi cô sẽ bật dậy, thở hổn hển, nỗi kinh hoàng in hằn đầy tăm tối và chân thực trong trí óc cô. Nhưng cô không phải là mẹ mình. Cô sẽ không chết cái chết của bà. Và cô cũng sẽ không sống cả cuộc đời của mình trong sợ hãi. Mười năm qua, cô là Kat Boleyn. Đã từng có lúc cô nếm trải mùi vị của sự nghèo đói và tuyệt vọng, trước khi danh tiếng và sự mến mộ bỗng nhiên thay đổi tất cả mọi thứ. Và suốt bảy năm trong số đó, cô đã yêu người đàn ông này, Sebastian St. Cyr. Cô quay đầu lại, một nụ cười làm trái tim cô ấm lên khi được nhìn thấy những đường nét thân thương quen thuộc và mái tóc tối màu bù xù trên khung nền trắng muốt của chiếc gối vải lanh. Cô đã yêu anh từ hồi cô mới mười sáu và anh thì hai mươi mốt, từ khi cả hai đều còn trẻ và còn ngây thơ để một lòng tin tưởng rằng tình yêu quan trọng hơn tất cả mọi thứ - tất cả mọi thứ trên đời. Từ trước khi cô hiểu được rằng mỗi người trong đời đều đã từng đưa ra những sự lựa chọn và có những sự lựa chọn sẽ phải đánh đổi bằng một cái giá đau đớn quá mức chịu đựng. Giờ thì cô thông suốt được nhiều chuyện hơn rồi. Cô biết rằng tình yêu vừa có thể rất vị tha, nhưng cũng có thể vô cùng tham lam. Và rằng đôi khi điều tốt nhất mà một người có thể làm được cho người mình thương yêu là để họ ra đi. Cô chợt nhận ra đôi mắt anh đã mở lớn, vẫn đang nhìn cô. Chỉ một vài phút nữa thôi, anh sẽ rời giường cô và rồi cô sẽ tiễn anh hòa bước vào buổi chiều đầy nắng với một cử chỉ âu yếm thật tùy tiện và những lời nói bâng quơ, không đòi hỏi, cũng chẳng hứa hẹn bất kì điều gì. Khi cô vươn đầu ngón tay chạm lên đôi vai trần của anh, anh liền kéo cô vào lòng, đôi tay mạnh mẽ trượt dọc theo sống lưng cô. Cô khẽ thở dài, đôi mắt nhắm lại và rồi cô tự cho phép bản thân mình tin rằng tất cả những thứ quan trọng ấy - như là danh dự và lòng trung thành, nghĩa vụ và sự phản bội - đều chẳng có ý nghĩa gì, dù chỉ là trong một khắc ngắn ngủi. Chiếc vòng cổ nằm im lìm trong tay Kat. Đó không phải loại trang sức thông thường, chỉ có ba hình bầu dục bằng bạc nhọn ở đầu như hạt hạnh nhân đan vào nhau trên nền một miếng đá xanh thẫm hình tròn. Chiếc vòng cổ này từng thuộc về mẹ của Sebastian. Kat đã được nghe kể về vị phu nhân Bá tước xinh đẹp với mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh lá sống động, người đã mất tích trên vùng biển của Brighton vào một mùa hè khi Sebastian vẫn còn nhỏ. Giờ đây chiếc vòng cổ lại xuất hiện - và lần này là trên cổ của một người phụ nữ bị sát hại. Lật mặt dây chuyền lại, Kat nhìn thấy những chữ viết tắt A. C. và J. S. khắc lồng vào nhau. Devlin vừa đi quanh phòng sửa soạn lại phục trang, mặc cái quần ống túm và chiếc áo sơ mi vào, vừa kể cho cô câu chuyện truyền thuyết anh được nghe từ bé về một người phụ nữ xứ Wales bí ẩn đã đem chiếc vòng cổ này tặng cho vị Hoàng tử đẹp trai nhưng xấu số mà bà đem lòng yêu thương. “Em không hiểu,” Kat nói. “Nếu như chiếc vòng cổ này tự chọn chủ nhân cho mình thì sao Addiena lại đem nó cho James Stuart được?” Devlin đang ngồi ở mép giường với một chiếc giày bốt bóng lộn trong tay, ngẩng lên nhìn cô. “Nàng chớ quên rằng khi bà quen biết James Stuart thì ông ấy đang bị người ta truy sát. Vua Charles Đệ Nhất - cha James - vừa mới bị Cromwell và những người theo phái nghị trường chém đầu, trong khi anh trai của ông - vua Charles Đệ Nhị tương lai - cũng đã bỏ trốn biệt tăm biệt tích.” Devlin xỏ chân vào giày rồi đứng lên. “Theo như những gì được lưu truyền lại thì chiếc vòng cổ có thể giúp chủ nhân của nó trường thọ. Đó là lý do mà Addiena tặng chiếc vòng cho James Stuart - để bảo vệ James. Người ta nói rằng lần đầu tiên James trở về London sau khi Charles Đệ Nhị đoạt lại được vương vị và chế độ quân chủ được khôi phục, ông đã mang theo chiếc vòng cổ đó trong một chiếc túi nhỏ đặc biệt ông luôn đeo quanh cổ.” “Addiena hẳn đã yêu James rất nhiều,” Kat khẽ khàng nói, “thì mới đem trao đi một vật quý giá với mình đến thế.” Devlin đứng thắt cà vạt trước bàn gương trang điểm. “Ta cũng nghĩ vậy. Cho dù James còn chẳng giữ lòng chung thủy với bà ấy. Sau đó, ông đã lấy qua hai đời vợ và có hơn chục đứa con.” Kat nắm lấy sợi dây chuyền trong tay. “Ông ấy vốn sinh ra để làm vua. Ông cần một người vợ mà dân chúng có thể chấp nhận, không phải một người phụ nữ xứ Wales nào đó đến từ những cánh đồng của Cronwyn. Nếu như thật lòng yêu ông ấy, bà sẽ hiểu thôi.” Đôi mắt họ bắt gặp nhau trong tấm gương lớn. Cô quay người đi nhặt lấy chiếc áo khoác bằng vải Bath thượng hạng. “Chỉ có điều là chiếc vòng không hữu dụng mấy nhỉ?” cô nói. “Ông ấy cũng không sống được lâu. Về sau, ông đã bị truất ngôi rồi tha hương và chết nơi xa xứ.” “À, nhưng lúc đó thì ông lại không còn sở hữu chiếc vòng trong tay nữa rồi. Theo như những gì được kể lại thì James Đệ Nhị có một cô con gái với Addiena Cadel, tên cô là Guinevere. Guinevere Stuart.” “Guinevere?” Kat xoay người lại, rất bất ngờ. “Thật là một sự trùng hợp kì lạ.” “Quả thật là vậy. Theo như những gì ta hiểu thì cha của Guinevere Stuart công nhận cô. Không chỉ cho cô mang họ mình, ông còn sắp xếp một cuộc hôn nhân rất có lợi cho cô nữa. Và ông đã tặng lại cho cô chiếc vòng như một món quà cưới.” “Vậy làm sao mẹ chàng lại có được nó vậy?” Devlin choàng lên vai chiếc áo khoác cô đưa cho anh. “Vào một mùa hè, mẹ ta đã gặp một bà cụ ở xứ Wales và bà ấy đã tặng lại chiếc vòng cho mẹ ta. Ba ấy nói rằng bà là cháu gái của James Đệ Nhị - bà nói rằng bà đã 101 tuổi rồi và rằng mẹ bà đã trao lại chiếc vòng cho bà trước lúc cụ ấy qua đời, hưởng thọ 102 tuổi.” Kat nhìn kĩ khuôn mặt anh. Anh hiếm khi nói về phu nhân Bá tước, mặc dù Kat biết rằng sự ra đi của bà vào lúc tuổi đời Sebastian còn quá nhỏ đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến anh - đặc biệt là khi bà qua đời chỉ một thời gian rất ngắn sau cái chết của người anh trai duy nhất còn lại của Sebastian. “Nhưng vì sao bà ấy lại tặng chiếc vòng cho mẹ chàng?” Sâu trông đáy mắt vàng nâu của anh có cái gì thoáng trầm xuống. Anh đột ngột quay đầu đi. “Bà ấy nói rằng nó sẽ giúp mẹ ta luôn được an toàn.” Kat bước lại, vòng tay quanh eo anh, áp má lên tấm lưng rộng, ôm anh thật chặt. “Nó cũng đâu bảo vệ được Guinevere Anglessey. Khi chết vị phu nhân ấy đã đeo nó trên cổ mà.” Anh cầm lấy đôi bàn tay cô đang đan lại vào nhau trước lớp áo gi-lê sa tanh của anh. Một lúc sau, anh xoay người lại đối diện cô và những gì cô vừa thoáng thấy trong mắt anh đã biến mất - hoặc đã được anh cẩn thận giấu thật kĩ. “Nhưng chiếc vòng này mà phối cùng một bộ dạ phục thì hơi lạ, nàng không cảm thấy vậy sao?” “Em cũng nghĩ vậy.” Cô đưa chiếc vòng cho anh. “Chiếc váy phu nhân Guinevere mặc có màu gì vậy?” “Xanh lá cây.” Anh cầm lấy chiếc vòng rồi bỏ vào túi. “Như vậy còn kì lạ hơn. Anglessey có nói vì sao mà phu nhân Hầu tước lại có chiếc vòng cổ đó không?” “Ta chưa tìm ra được cơ hội thích hợp để hỏi về chuyện đó.” Kat gật đầu. “Em vẫn còn nhớ ngày phu nhân Guinevere lấy ông ấy. Cũng gây xôn xao một phen không nhỏ. Phu nhân hãy còn trẻ trung và xinh đẹp như vậy cơ mà.” Môi Devlin cong lên một nụ cười mỉa mai. “Trong khi đó thì ông ấy đơn giản chỉ là rất giàu có. Và là một Hầu tước nữa.” “Chàng có nghĩ ông ấy đã giết phu nhân không... hoặc là cho người giết phu nhân?” “Nếu như phu nhân thực sự dan díu với Hoàng thân Nhiếp chính thì Hầu tước hoàn toàn có động cơ để làm vậy - không chỉ giết vợ mình mà còn dàn dựng hiện trường để đổ tội cho kẻ đã cắm sừng lên đầu ông nữa.” “Ấy là nếu như phu nhân có gian tình với Hoàng thân Nhiếp chính.” “Hoặc nếu như ông ấy tin là như vậy.” “Anglessey cũng không cần phải cho phép Paul Gibson tiến hành giải phẫu tử thi vợ mình,” Kat chỉ ra. “Việc ông ấy đồng ý chứng tỏ rằng ông không có gì cần phải che giấu cả.” “Có lẽ vậy. Chúng ta sẽ biết được nhiều hơn khi Gibson tiến hành xong cuộc khám nghiệm.” Devlin nhặt chiếc áo khoác đi đường lên. “Anglessey nói ông nghi ngờ cháu trai mình, Bevan Ellsworth.” “Chà, giờ thì chúng ta đã có đối tượng tình nghi thực sự có khả năng sẽ ra tay giết người rồi.” Anh nhìn sang cô đầy ngạc nhiên. “Nàng biết hắn sao?” “Năm ngoái, hắn có đi lại với một cô gái hát bè ở nhà hát. Cô ấy thấy hắn quyến rũ - mà cũng ác ôn đến không ngờ.” “Nghe có vẻ rất giống Ellsworth đấy.” Anh vắt chiếc áo khoác lên cánh tay, rồi hơi ngập ngừng, không có vẻ gì giống anh thường ngày cả. Kat nghiêng đầu, nhoẻn miệng cười khi cô nhìn kĩ vẻ mặt anh. “Cứ nói đi.” Anh mở lớn mắt giả bộ không hiểu. “Nói gì cơ?” Cô lấy lại chiếc mũ từ trong tay anh rồi đặt lên đầu anh, nghiêng nghiêng trông đến là ngông nghênh. “Điều mà chàng đang vòng vo muốn nhờ em làm ấy.” Anh mỉm cười rồi kéo cô lại gần, vùi mặt vào cần cổ làm cô phải bật cười. “Ừm, thật ra thì cũng có một việc nho nhỏ thế này...” CHƯƠNG 14 H ọ được gọi là Mười Nghìn Người Trên Đỉnh, cái nhóm nhỏ những người đàn ông và phụ nữ sinh ra đã ngậm thìa vàng, tạo nên giai tầng cao quý nhất của xã hội Anh, sở hữu những trang viên và đồn điền rộng lớn - cơ sở thiết yếu nhất của sự tôn trọng trong xã hội này. Được gắn kết lại với nhau bằng những mối quan hệ hôn nhân hoặc máu mủ thân thích, cùng nhau tham gia vào các câu lạc bộ quý tộc và đều gửi con trai mình tới học ở mấy ngôi trường ấy - trường Winchester và Eton, Cambridge và Oxford. Cũng như Sebastian, đứa cháu trai và cũng có thể là người thừa kế của Hầu tước đảo Anglessey, Bevan Ellsworth, được gia đình gửi vào trường Eton. Sebastian chỉ có những kí ức mơ hồ về một anh chàng thể thao luôn tươi cười nhưng trong thâm tâm lại giấu kĩ một quyết tâm tàn ác phải trả thù bằng hết những kẻ gây tội với hắn. Tuy nhiên vào cái tầm tuổi ấy, khoảng cách hai năm tuổi ngăn cách mọi cơ hội tiếp xúc của hai người. Và rồi sau đó khi Sebastian tới Oxford học đại học thì Ellsworth đã đi Cambridge. Giờ thì Ellsworth làm luật sư tranh tụng, cho dù người ta vẫn nói thời gian hắn ngồi nơi sòng bài quanh khu Pickering Place còn nhiều hơn cả trên tòa án. Luật sư tranh tụng là một nghề rất được tôn trọng đối với một quý ông. Bởi những người này sẽ chỉ ra mặt để làm việc với các luật sư tư vấn chứ không tiếp xúc trực tiếp với các thân chủ, cho nên luật sư tranh tụng vẫn được coi là thanh sạch, không phải nhúng tay vào những trò giao dịch kì kèo thô tục. Bởi vậy nên vợ của một luật sư tranh tụng thì được phép xuất hiện tại tòa còn vợ luật sư tư vấn thì không - một đặc điểm tuy nhỏ nhưng rất quan trọng của người rồi sẽ trở thành Bá tước đảo Anglessey sau này. Sebastian gặp cháu trai ngài Hầu tước đang thưởng thức rượu vang với một người bạn ở Brook’s chiều muộn cùng ngày. Dừng lại ngay lối vào căn phòng tiếp khách sơn tường đỏ của câu lạc bộ, Sebastian thầm đánh giá con người Bevan Ellsworth hiện tại. Hắn vẫn mang vẻ mặt cởi mở và thoải mái mà Sebastian còn nhớ, mái tóc màu nâu trầm cố tình để rối theo phong cách của Beau Brummel [4]. Bản thân Ellsworth cũng có tiếng là chải chuốt bảnh bao, chiếc áo khoác làm từ vải Bath thượng hạng được cắt may thời trang và chiếc cà vạt thì thắt rất kiểu cách nhưng không quá diêm dúa như kiểu thắt mà một số người đang ưa chuộng dạo gần đây. Nhưng đôi vai rộng chứng tỏ hắn vẫn ít nhiều coi mình là người có tinh thần thể thao, đi đấm bốc ở chỗ của Jackson, đấu kiếm ở trường đấu của Angel và rồi cả luyện bắn súng ở chỗ của Menton nữa. Quý ông đứng cạnh hắn, một người đàn ông khá trắng với mái tóc vàng nhạt thắt một chiếc cà vạt kiểu cách quá mức, trông cũng có phần quen mắt nhưng Sebastian không nhớ được chính xác đã gặp ở đâu. Cầm lấy một ly Madeira từ trên khay của người phục vụ vừa đi ngang qua, Sebastian thản nhiên khoan thai ngồi xuống chiếc ghế trống đối diện hai người. “Ta nghĩ là mình cũng nên chúc mừng ngài một câu,” anh nói, cứ thế không đầu không cuối xen vào câu chuyện của họ, cũng chẳng xin lỗi. Ellsworth cứng người, quay đầu lại và lạnh lùng nhìn chằm chằm Sebastian. “Xin lỗi, ta không hiểu ý ngài?” Sebastian mỉm cười. “Hẳn là ngài sẽ không giả vờ mình còn chưa biết đến cái chết của bác gái Guinevere thân yêu của ngài chứ? Tất cả những gì đe dọa cướp mất tước hiệu và gia tài của Anglessey khỏi tay ngài đã được diệt trừ rồi. Vậy nên” - Sebastian nâng ly lên phía trước - “chúc mừng ngài.” Người đàn ông với mái tóc vàng nhạt và chiếc cà vạt kỳ quái bắt gặp ánh mắt Sebastian liền im lặng rời khỏi đó, đi ra tận đầu kia của căn phòng, bồn chồn đứng đó. “Tất nhiên ấy là ta mặc định rằng,” Sebastian tiếp lời sau một khắc dường như ngẫm nghĩ thêm, “ngài không ở Brighton thứ Tư tuần trước.” Một tia đỏ phơn phớt nhưng rất dễ nhận ra hiện lên trên gò má Ellsworth. “Làm sao có thể có chuyện đó? Gần như cả ngày thứ Tư vừa rồi ta ở Gray’s Inn [5].” “Trên tòa sao?” Màu đỏ ấy thẫm dần. “Ta hoàn toàn không hiểu việc đó thì có liên quan gì tới ngài.” Sebastian cười nhạt đáp lại ánh mắt tức giận của hắn. “Có chứng cứ ngoại phạm lúc nào cũng thật tiện, ngài không nghĩ vậy sao? Nếu như ngài may mắn, mấy vị cầm quyền thậm chí còn có thể không nghĩ ra là ngài vẫn có thể dễ dàng bỏ tiền mượn tay kẻ khác nhúng chàm.” Ellsworth đưa chiếc ly trong tay lên miệng và hớp một ngụm chậm rãi, trầm ngâm trước khi trả lời với một vẻ điềm tĩnh thật đáng để tán dương, “Không sai. Nhưng như thế chẳng phải khiến người ta nghi ngờ lắm sao? Ý ta là, vì sao lại phải giết phu nhân một cách phô trương và bày ra trước mắt bàn dân thiên hạ như vậy? Thuê hai tên trộm cướp tới tấn công xe kiệu cô ta vào một đêm tối mịt chẳng phải đơn giản hơn sao?” “Đúng vậy, vì sao lại không làm thế cơ chứ?” Sebastian đồng tình. “Hoặc sai một tên cướp đường chặn xe ngựa của phu nhân lại giữa Hampstead Heath? Rõ ràng là ngài cũng đã suy nghĩ đến chuyện này.” Ellsworth bật cười một tiếng rất ngắn và sắc nhọn trước khi cúi người về phía trước để nói, “Mấy khoản nợ của ta cũng chẳng đáng lo đến thế.” Nụ cười vẫn còn trên gương mặt hắn nhưng một tia cảnh cáo hung hãn đã ánh lên trong đôi mắt xám. “Người ta lại nói khác.” “Người ta nói sai sự thật rồi.” Sebastian ngả đầu dựa vào lưng ghế cao sau lưng. “Vậy ngài nghĩ gì về cô ấy? Về người bác gái quá cố của ngài, ý ta là vậy.” Bất cứ ai trong căn phòng này nhìn vào có lẽ sẽ tưởng họ đang có một cuộc nói chuyện hòa nhã, thân thiện. “Kể cũng lạ khi phải gọi phu nhân là bác khi mà phu nhân - bao nhiêu ấy nhỉ? Kém ngài mười tuổi?” “Trong thế giới của chúng ta thì cũng chẳng lạ lùng đến vậy, không phải sao? London đầy rẫy những tiểu thư trẻ tuổi được nuôi nấng trong nhung lụa cứ như mấy con chó mùa động dục thèm khát tước vị hoặc tiền tài. Hoặc cả hai.” Những lời chua cay, xấu xí. Thế nhưng, hiện thực cũng rất tàn khốc. Những người con trai cả - những người đàn ông nắm trong tay cả sự giàu sang lẫn tước vị - luôn được theo đuổi và tranh giành một cách trơ trẽn trong khi những đứa con thứ, mà đặc biệt lại là con trai của con thứ như Ellsworth, đều bị coi là hạ đẳng, bị người đời xua đuổi, dè chừng và khinh miệt. “Và phu nhân Guinevere trẻ tuổi hẳn là đã muốn có cả hai?” Sebastian hỏi. “Một món hàng ưu tú như cô ta sao? Làm gì có lý do gì để cô ta chấp nhận ít hơn thế chứ?” Ellsworth nhếch mép cười. “Ngài hẳn là sẽ không nghĩ cô ta lấy ông bác của ta vì tình yêu đấy chứ?” Sebastian nhìn thật kĩ những đường nét ủ ê, giận dữ trên gương mặt người đàn ông đối diện. Anh nhớ về khoảng thời gian rất nhiều năm trước đây ở Eton, khi mà con trai của một vị Tòng nam tước nào đó nẫng tay trên mất chức đội trưởng đội bóng khu kí túc của Ellsworth. Hai tuần sau, trong một trận rối loạn ầm ĩ đầy khó hiểu và cũng rất bạo lực, tay anh chàng đó bị gãy nghiêm trọng đến mức cậu ta được đưa về nhà và phải nghỉ đến hết năm học. Ngày đó, người ta đồn rằng Ellsworth đã cố ý bẻ gãy cánh tay cậu ta, cho dù tất nhiên sự thật vẫn chưa bao giờ được phơi bày ra ánh sáng. Về sau, Sebastian được biết rằng cánh tay anh chàng đó không bao giờ bình phục được hoàn toàn. “Còn bác của ngài?” Sebastian lên tiếng. “Ngài nghĩ liệu ông ấy có gì hối tiếc về cuộc hôn nhân này không?” Ellsworth cười gằn. “Hối tiếc sao? Ngoài chuyện cô ta đã cắm sừng ông ấy?” Sebastian đã lường trước được câu trả lời này, nhưng vì một lý do nào đó, nó vẫn làm anh cảm thấy không yên. “Ý ngài là với Hoàng thân Nhiếp chính?” “Hoàng thân Nhiếp chính hay gì thì ta không biết. Nhưng chẳng lẽ ngài thật sự tin rằng Anglessey là cha của cái thứ được coi là người thừa kế mà phu nhân ông ấy đang mang trong bụng sao?” “Có những người đàn ông lớn tuổi hơn cả ông ấy vẫn sinh được con trai.” “Chuyện đó cũng có thể.” Ellsworth dốc cạn chút rượu vang còn lại vào cổ họng rồi đứng dậy. “Nhưng không phải với ông ấy.” --------------- [4] George Bryan "Beau" Brummell (1778 - 1840): một biểu tượng thời trang nam giới quý tộc Anh. [5] Một trong bốn Hội đoàn Luật sư (Inns of Court) - các hiệp hội chuyên môn dành cho luật sư và thẩm phán tại Anh. CHƯƠNG 15 C ái quần ống túm được làm bằng vải lông nhung hảo hạng nhất, phối với một chiếc áo khoác bằng nhung màu xanh được cách điệu với một vài chi tiết làm từ lụa sa tanh. Đi thêm đôi tất lụa, mặc vào một chiếc áo sơ mi trắng như tuyết là đã ra dáng bộ chế phục cho người hầu của một vị Công tước rồi - ít ra thì trong con mắt của nhân viên Nhà hát Covent Garden là như vậy. Đây là nơi người ta thường xuyên được thấy bộ trang phục này. Ngọ nguậy khó chịu trong chiếc áo cứng ngắc bột hồ, Tom nghĩ có lẽ có một vài người sẽ cảm thấy bộ quần áo này bắt mắt, nhưng nó thì chỉ thấy bộ đồ làm nó trông giống một thằng công tử bột mà thôi. “Đừng có ngọ nguậy nữa,” Kat nói, cách phát âm vốn chuẩn xác của cô nhíu lại do phải nói chuyện với mấy cái kim kẹp giữa hai môi. Tom ngoan ngoãn đứng yên. Lưng nó ngứa vô cùng, nhưng nó cũng không nhúc nhích. Tom lo rằng tiểu thư Kat sẽ không khách sáo mà đâm thẳng một trong mấy cây kim vào người nó nếu như nó không làm theo lời cô nói. Họ đang đứng trong phòng thay đồ của tiểu thư Kat ở Nhà hát Covent Garden và cô thì đang bận rộn chỉnh trang lại bộ chế phục mà cô mượn từ kho sưu tầm trang phục biểu diễn cho vừa với tạng người nhỏ gầy của nó. “Em không hiểu chúng ta làm cái này để làm gì nữa,” Tom càu nhàu. “Em đã có một bộ chế phục rất cừ rồi, chính là bộ mà ngài Tử tước đã cho em lúc em trở thành hổ của ngài ấy đấy.” “Hừm.” Kat di chuyển để làm gì đó với cái gấu quần, “Chỉ cần nhìn cái áo gi-lê kẻ vàng đen ấy một cái thôi là người hầu của Lãnh chúa Anglessey sẽ ngay lập tức cho rằng em đến từ gia đình của một quý ông thích chơi thể thao. Những người làm có quan điểm rất rạch ròi về những quý ông trẻ tuổi như vậy và trong số đó có rất ít những câu khen ngợi. Em không bị đuổi đi là may lắm rồi.” Tom cố nuốt lại mấy lời phản bác định nói ra miệng. Nỗi ê chề không tìm được bất kì thông tin hữu dụng nào cho Devlin ở Cung điện hôm qua vẫn còn nghẹn trong lòng nó. Nó quyết tâm phải moi được những thông tin mà Devlin cần từ chỗ những người giúp việc của phu nhân Anglessey và để làm được điều đó thì nó phải ăn mặc như tên công tử bột của thế kỉ XVIII - nó rất sẵn lòng. Tom vươn đầu ra nhìn kĩ hơn mép gấu mà tiểu thư Kat đang khâu lại. “Đường chỉ không thẳng rồi.” “Ta là diễn viên, không phải thợ may.” Cô cắn đứt sợi chỉ rồi ngồi xổm xuống ngắm nghía thành quả của mình. “Và bộ trang phục này là của nhà hát đấy. Em mà dám làm rách hay rớt cái gì lên là ta sẽ lột da em ra đền đó.” Tom bước xuống khỏi cái bục mà Kat bắt nó đứng. “Em làm rách nó kiểu gì được chứ?” Cô đột nhiên bật cười, một tiếng cười thật thà không chút che giấu làm nó cũng phải nhăn nhở cười theo. Cô là một người rất tuyệt, không chỉ là một diễn viên nổi tiếng mà còn có ngón nghề móc túi đỉnh cao nhất nó từng được chứng kiến, mặc dù nó nghĩ rằng không mấy ai biết đến chuyện này. “Kể cho ta nghe về người đàn ông đã theo dõi ngài ấy hôm qua đi,” cô thoải mái hỏi chuyện nó trong khi cúi người thu nhặt lại kim chỉ rơi dưới đất. “Mãi đến lúc hắn đến gần em mới phát hiện ra. Nhưng tất nhiên là người bình thường không phải ai cũng có được đôi mắt và đôi tai giống ngài ấy rồi.” Cô gật đầu, nhìn thẳng vào nó. “Em có nghĩ hắn ta có liên quan gì đó tới vụ ám sát mà ngài ấy đang điều tra không?” “Cũng không nghĩ ra lý do nào khác nữa. Ý em là, nó cũng hợp lý mà. Khi mình bắt đầu đi quanh thám thính điều tra một vụ án thì khả năng cao là sẽ đánh động đến một vài kẻ liều lĩnh tuyệt vọng.” Tom cho rằng mọi chuyện thật ra rất kích thích, nhưng khi nhìn tới gương mặt của tiểu thư Kat, nó bỗng lại hối hận vì sao mình nói nhiều đến thế. Nó chộp lấy thứ hình thù kì dị làm từ vải nhung và vải sa tanh mà nó phải đội làm mũ. “Vậy em đi đây.” Gương mặt cô lại trở về với biểu cảm bình thường nhanh đến độ nó không dám chắc nỗi niềm âu lo nó vừa thoáng bắt gặp trên gương mặt cô là thật hay do mình tưởng tượng ra nữa. “Nhớ lấy,” cô nói với Tom trong lúc cậu bé chỉnh lại chiếc mũ ba sừng nằm thăng bằng trên đầu rồi chuẩn bị chạy đi. “Không được ẩu đả với mấy đứa nhóc bê đuốc.” Cô lớn giọng gọi với theo nó. “Và cũng không được ăn uống gì đâu đấy.” Dinh thự của Hầu tước đảo Anglessey là một tòa nhà đồ sộ an vị trên phố Mount. Tom đứng trên vỉa hè lát đá phiến, vươn cổ ngước nhìn lên hơn bốn tầng vào mái nhà lợp ngói xám cùng kiến trúc trán tường. Ngài Hầu tước hẳn là vẫn đang ở Brighton bởi cái vòng sắt gõ cửa đã bị tháo xuống, nhưng người hầu của ông thì đã kịp phủ trùm ngôi nhà trong tang tóc. Vải nhiễu kết hoa rủ xuống từ những khung cửa sổ trắng cao lớn, im lìm và ngay trước cửa là một vòng hoa tang màu đen. Chỉnh lại chiếc áo sơ mi hồ bột, Tom bước lên những bậc thềm ngắn trước cửa rồi lấy nắm đấm đập rầm rầm lên những cán ô sơn đen bóng bẩy của cánh cửa chính. Không thấy có người, nó thêm lực, đập mạnh hơn. Bên cạnh nó là một lan can sắt phân cách cửa chính với phần bậc thềm dẫn xuống cửa ra vào cho người hầu. Khi Tom gõ đến đợt thứ ba thì cánh cửa ấy đột ngột bật mở và một người phụ nữ trung niên với cái mũi củ hành màu đỏ, đôi má đầy thịt và mái tóc hoa râm khô cứng, đầu đội chiếc mũ trùm đầu lỗi thời đưa đầu ra ngoài, ngước lên nhìn nó. “Cháu đang làm gì vậy, anh bạn nhỏ? Cháu không thấy là vòng sắt gõ cửa đã được tháo ra rồi sao?” Tom giơ bức thư được gấp kĩ có dấu niêm phong mà tiểu thư Kat đã chuẩn bị cho nó trong tay. Bức thư đó tất nhiên là chẳng viết gì, nhưng Tom cũng không định trao nó cho ai. “Cháu có một bức thư gửi Lãnh chúa Anglessey từ ngài James Aston. Ngài ấy bảo cháu phải trao tận tay cho Lãnh chúa Anglessey, không được đưa qua bất kì ai khác. Nhưng cháu chẳng biết phải gọi thế nào vì trên cửa thì lại không có vòng sắt.” Người phụ nữ khịt mũi cười lớn. “Anh bạn trẻ đây hẳn là mới đi làm thôi phải không? Cháu không hiểu việc người ta gỡ vòng sắt ra có nghĩa là gì thật à? Nó có nghĩa là chủ nhân hiện đang không có nhà đấy. Hoặc là cháu để bức thư lại đây hoặc là mang nó về cho ngài James và báo với ngài rằng phải đến đêm thì Hầu tước mới trở về cơ.” Tom thở dài, nâng mũ lên, đưa một cánh tay lau trán. Nó chẳng cần phải giả vờ vã mồ hôi: lớp vải nhung thì bức bí vô cùng và mặt trời giờ này thì cũng đã bắt đầu tỏa nắng chói chang, nóng đến bất bình thường cho một ngày tháng Sáu. “Ôi, Chúa ơi,” nó nói, giọng đầy vẻ mệt mỏi. “Cháu lại đang hy vọng được ngồi nghỉ một lát và có lẽ xin một chút gì đó để uống trong khi ngài ấy viết thư trả lời.” Khuôn mặt phúc hậu của người phụ nữ thoáng nhăn lại, như từ mẫu lo lắng. “Ôi, đứa nhỏ đáng thương. Hôm nay thực sự là nóng chết người mà.” Bà ngần ngừ một chút rồi nói, “Hay là cháu ngồi lại đây một lát, uống cốc nước chanh mát trước khi về nhé?” Tom tỏ vẻ hơi bối rối. “Nhưng, cháu cũng không biết nữa...” “Nào, lại đây nào.” Bà mở lớn cánh cửa và vẫy một tay ra hiệu cho cậu vào. “Ta cũng có một đứa con trai tầm tuổi cháu, thằng bé đang phục vụ Lãnh chúa McGowan. Ta cũng chỉ hy vọng nếu như nó đứng đó trước cửa nhà một quý ông, nóng nực và khát nước như cháu bây giờ thì bà bếp cũng sẽ tốt bụng mà kéo nó vào, cho nó cốc nước, để nó nghỉ ngơi một chút.” Tom nhanh chân trèo xuống mấy bậc thang, thầm nghĩ không nhanh nhỡ bà đổi ý thì hỏng việc mất. Nó bước vào một căn phòng ốp gạch trắng với sàn lát đá phiến cùng những ô tủ gỗ lớn, cũ kĩ đầy những cái nồi đồng khổng lồ. Bà Long - ấy là bà tự giới thiệu tên mình như vậy - dẫn cậu tới một một băng ghế cạnh bàn bếp rồi hối thúc một cô hầu rửa bát chạy đi lấy cho cậu cốc nước chanh lớn mát lạnh. Nhớ tới lời cảnh cáo tàn khốc của tiểu thư Kat, Tom vươn cổ ra và uống một cách vô cùng, vô cùng cẩn thận. “Bác nói rằng ngài Hầu tước phải đến đêm mới trở về ư?” nó hỏi, đưa mắt nhìn bà qua mép cốc thủy tinh. “Theo kế hoạch là như vậy.” Bà thở dài một hơi thật lớn rồi kéo một góc tạp dề lên lau khóe mắt. “Ngài ấy trở về để chôn cất vị phu nhân trẻ đẹp, nghĩ mà tội.” Trên bệ cửa sổ bằng đá là ba cái bánh nướng nóng hôi hổi vừa mới ra khỏi lò đang chờ cho nguội. Nhân anh đào, Tom đoán vậy, sau khi hít hà đầy mũi làn gió chiều thoảng qua. Và cũng có thể là nhân táo. Nó lại vội vã chuyển sự chú ý của mình về khuôn mặt phúc hậu của bà Long. “Phu nhân đã qua đời rồi sao?” “Chẳng lẽ cháu chưa biết chuyện sao?” Bà ngồi xuống băng ghế đối diện, cúi người về phía nó, nói giọng thầm thì vẻ bí ẩn. “Phu nhân bị mưu sát.” Tom há hốc miệng ngạc nhiên. “Không thể nào!” “Đó là sự thật. Người ta tìm thấy phu nhân ở dưới Brighton - chính xác là trong Cung điện luôn - với một con dao găm cắm trên lưng. Chỉ có điều vì sao phu nhân lại ở đó thì thực sự ta cũng không hiểu nổi.” “Nhưng cháu tưởng bác vừa nói ngài Hầu tước cũng đang ở Brighton mà?” “À phải, ngài ấy đúng là đang ở dưới đó. Nhưng phu nhân thì không. Phu nhân ở lại đây, cả tuần trước và tuần trước nữa. Cái ngày phu nhân bị giết đó, cô ấy vẫn còn ngồi trong phòng ăn sáng, dùng bữa nhẹ buổi chiều với cá hồi và sốt ta chuẩn bị mà. Gần đây, phu nhân lại còn ăn không được ngon miệng, đến là tội.” “Lần cuối bác gặp phu nhân là khi nào vậy?” Bà Long đặt khuỷu tay lên bàn, hai tay chống cằm trầm ngâm. “Chắc chỉ một, hai tiếng sau bữa nhẹ ấy thôi. Một cậu người hầu gọi một cỗ xe ngựa thuê đến và rồi phu nhân đi mất.” “Xe ngựa thuê sao?” Tom phải cực kì kiềm chế không để vẻ kích động hân hoan hiện lên trên mặt. Đây chính xác là loại thông tin mà Lãnh chúa Devlin cần. “Có ai mà ngờ được chứ?” Tom nói, cố giữ tông giọng từ tốn và bình thản. “Ý cháu là, ai mà lại nghĩ một phu nhân sống trong một cơ ngơi như thế này lại không có nổi một cỗ xe riêng chứ?” Bà Long bật cười, lưng ngửa lại về phía ghế của bà. “Cái thằng nhóc này thật là... Lãnh chúa Anglessey tử tế đến độ ngài có thể đặt mua cả trăm cỗ xe ngựa nếu cần. Cháu không biết sao?” Bỗng nhiên bà cúi người về phía trước, giọng thầm thì như đang truyền lại một bí mật. “Một vị phu nhân sẽ chỉ dùng xe ngoài khi bà ấy không muốn chồng mình biết mình đã đi đâu.” “Ồ.” Tom gật gù, mắt mở lớn như thể tất cả những điều này đều hết sức mới lạ với cậu. “Phu nhân có thường làm như vậy không ạ?” “Mấy tháng gần đây thì cũng khá là thường xuyên đấy.” Chống bàn tay xuống bàn, bà đứng dậy khỏi băng ghế như thể đột nhiên hối hận vì mình đã nói quá nhiều. “Giờ thì, chú vịt nhỏ này, ta cho cháu một miếng bánh ăn kèm với cốc nước chanh nhé?” Tom thèm miếng bánh đến mức nước bọt đã ra đầy miệng. Nhưng nhớ kĩ chừng mực của mình, nó chỉ nuốt nước bọt và lắc đầu. “Ồ, không ạ. Cám ơn bà.” Bà cúi người, vỗ vỗ má nó bằng bàn tay múp míp. “Mẹ cháu đã dạy cháu rất tốt đấy, cháu bé. Nhưng không có ích gì khi ra vẻ cháu không muốn miếng bánh đâu, bởi ta đã nhìn thấy cháu liếc trộm chúng rồi. Nào, giờ thì cháu muốn loại nào đây? Táo hay anh đào?” CHƯƠNG 16 S ebastian dành thời gian còn lại của buổi chiều tại Hội đoàn Luật sư và những ổ bài bạc xập xệ quanh khu Pickering Place. Cũng không mất nhiều thời gian để anh khẳng định được rằng thứ Tư vừa rồi đúng là một trong những ngày hiếm hoi mà Bevan Ellsworth xuất hiện ở khu đầu não pháp lý. Nhưng cả ngày hôm đó hắn lại không ngồi yên một chỗ mà chạy đó chạy đây làm đủ thứ chuyện, cuối cùng kết lại bằng một buổi tối bên bàn bài ở một sòng bạc ngay ngoài khu Pickering Place. Sau khi suy xét mọi thứ kĩ càng, Sebastian cảm thấy hắn đã rời khỏi Grey’s Court đủ lâu để ra tay hãm hại Guinevere Anglessey ở một nơi nào đó giữa London. Thế nhưng hắn không thể nào mang thi thể của phu nhân tới tận Brighton rồi lại trở về Pickering Place lúc mười giờ tối được - ấy là lúc người ta thấy hắn đang chìm đắm trong trò faro mà mãi tận bốn giờ sáng hôm sau gã mới đứng dậy rời đi. Sebastian trở về ngôi nhà trát vữa xtucô ngay ngắn của mình tại số 41 phố Brook khi những vệt nắng cam hồng cuối cùng trong ngày đang le lói chớm tắt và những người thắp đèn bắt đầu tỏa ra làm nhiệm vụ. Thay một bộ lễ phục, anh lên cỗ xe ngựa của mình và đi tới một dinh cơ đồ sộ trên phố Park, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của người bác gái duy nhất còn lại của anh, quả phụ Công tước của Claiborne. Đúng lý mà nói thì ngôi nhà này thuộc quyền sở hữu của người con trai lớn nhất trong ba đứa con trai của bác Henrietta, bây giờ là Công tước của Claiborne. Thế nhưng đứa con trai này khiếp hãi bà tới mức cứ thế ngoan ngoãn để lại ngôi nhà cho mẹ, còn mình thì mang theo gia đình đang lớn dần tới một ngôi nhà nhỏ trên phố Half Moon. Sebastian nhìn thấy bác mình bước xuống cầu thang chính của ngôi nhà, những viên hồng ngọc Claiborne nức tiếng lấp lánh quanh cổ bà, trên mái đầu đã bạc là một chiếc mũ không vành màu tím hoa oải hương vĩ đại gắn mấy cái lông vũ màu đỏ. Bà dừng lại giữa cầu thang, một bàn tay mang găng trắng nâng chiếc kính một mắt bà luôn đeo trên một sợi dây bằng vàng quanh cổ. “Lạy Chúa lòng lành, Devlin. Cháu làm gì ở đây vậy?” “Chào bác Henrietta,” anh nói, nhẹ bước chạy lên cầu thang rồi hôn má bà đầy trìu mến. “Chiếc mũ quá là nổi bật đấy ạ.” “Ta biết mà, phải không?” bà vui vẻ đáp lời. “Claiborne chắc sẽ ghét nó lắm”. Lớn hơn Hendon năm tuổi, bà được gả cho người thừa kế của Công tước Claiborne khi vừa tròn mười tám. Thời ấy thì cuộc hôn nhân này cũng được coi là đạt đến mức kì tích, bởi tiểu thư Henrietta St. Cyr chưa bao giờ được coi là một người phụ nữ đẹp, kể cả khi còn trẻ. Bà giống Hendon ở gương mặt to lớn cùng thân hình thùng phi và thậm chí là cả một thói quen đầy tính khiêu khích - cứ nhìn chằm chằm thẳng mặt người khác. Bà là một nữ Công tước bệ vệ. “Ta đang chuẩn bị tới bữa tiệc tối ở nhà Senton,” bà nói, dồn trọng tâm vào cây gậy ba toong đầu bạc mà bà mang theo người chủ yếu cũng chỉ để thực hiện nhiệm vụ của một món đồ trang sức. “Ta hãy còn nhớ rõ lắm, Claiborne mất cũng đã được hai năm thêm sáu tiếng đồng hồ. Ta đã sinh cho ông ấy bốn đứa con, một cuộc hôn nhân dài năm mươi mốt năm và trọn hai năm để tang. Giờ thì ta muốn tận hưởng cuộc sống của mình.” “Thế mà cháu lại không hề biết là ngoài việc sống vui vẻ ra thì bác còn làm chuyện gì khác đâu đấy,” Sebastian nói, theo chân bà tiến vào phòng khách. Bà vui vẻ cười khúc khích. “Rót cho ta chút rượu nào. Không, không phải cái thứ tầm thường ấy,” bà lên tiếng khi anh định vươn tay lấy bình rượu Ratafia. “Vang đỏ ấy.” Bà thích thú thưởng thức một hớp rượu vang rồi đưa mắt nhìn thẳng Sebastian qua mép ly rượu. “Nào, giờ thì nói cho ta nghe xem, chuyện Hendon kể với ta về việc cháu tham gia vào việc điều tra cái chết của người phụ nữ đáng thương và tội nghiệp ở Brighton rốt cuộc là thế nào?” Sebastian suýt thì sặc rượu. “Bác gặp cha cháu khi nào vậy?” “Hôm nay thôi, trên phố Pall Mall ấy. Bọn họ về London hết cả rồi - Perceval và Hendon, Prinny với Jarvis. À và cả cái gã Bá tước Lille đấy nữa, gã vẫn tự gọi mình như vậy, thật sự là hết sức nực cười. Ta cũng chẳng thể nào hiểu được làm sao hắn có thể hy vọng người ta coi mình là vị vua hợp pháp của nước Pháp trong khi chính hắn còn chẳng dám tự xưng mình là Louis Mười Tám. Dù sao thì, có vẻ như là Prinny đã bị chuyện xảy ra ở Cung điện làm cho chấn động đến mức các bác sĩ riêng cảm thấy cần phải đưa Người rời khỏi Brighton một thời gian. Mà thật ra có về Nhà Carlton thì chắc Hoàng tử cũng chẳng được nghỉ ngơi mấy, Người còn có bao nhiêu là việc cần chuẩn bị cho buổi đại lễ tuần sau mà. Ôi, thử tưởng tượng mà xem! Tổ chức cả một bữa đại tiệc để mừng Hoàng tử lên vị trí Hoàng thân Nhiếp chính. Như thế cũng chẳng khác gì ăn mừng chuyện Đức Vua già cả tội nghiệp của chúng ta hóa điên vậy. Ta sẽ không đi đâu.” Sebastian hiểu rõ ấy chỉ là lời bà nói cho có mà thôi. Buổi đại lễ của Hoàng thân Nhiếp chính chắc chắn sẽ là sự kiện xã hội được bàn tán nhiều nhất thập kỷ này và không đời nào bác Henrietta chịu để lỡ mất một màn diễn hoành tráng đến thế. Bà dừng lại lấy hơi rồi hớp thêm một ngụm vang và Sebastian nhân cơ hội ấy hỏi, “Bác à, bác kể cho cháu nghe những gì bác biết về phu nhân Guinevere được không?” Bà ngẩng đầu lên, đôi mắt xanh thẫm sáng lên. “À, ra đó là lý do cháu đến đây sao? Muốn biết xem liệu đứa trẻ tội nghiệp ấy có che đậy một vài bí mật bẩn thỉu nào đó phải không?” “Chuyện về phu nhân hoặc là những người thân thiết với phu nhân.” “Rồi, để ta nghĩ xem...” Bác gái của anh ngồi xuống một chiếc ghế êm ái bên cạnh khung lò sưởi trống trơn. “Bên nội cô ấy là nhà có gia thế. Cha cô là Bá tước Athelstone, cháu cũng biết đấy. Một người nhà LeCornu. Gia tộc ấy hình thành từ thời của Nhà chinh phạt [6].” Sebastian mỉm cười. Là một người thông minh, chua cay và tọc mạch không gì cản nổi, bác Henrietta là một trong những vị đại phu nhân của xã hội Anh đương thời. Dù hai năm qua bà có để tang chồng thật nhưng chỉ đến lúc chết thì bà mới thôi nắm bắt kịp thời những câu chuyện ngồi lê đôi mách nóng hổi nhất. “Vậy mẹ của phu nhân thì sao?” Bác Henrietta nhăn mày. “Ta không biết nhiều lắm về bà ấy. Bà ấy là người vợ thứ hai của Bá tước thì phải. Hay là thứ ba nhỉ? Dù sao thì bà ấy cũng không sống được đủ lâu để ông ấy đưa bà lên London.” “Lạy Chúa. Ông ấy đã cưới về bao nhiêu bà vợ vậy?” “Năm. Ông ta cũng là dạng tam thê tứ thiếp thường thấy thôi. Bốn vị phu nhân đầu tiên đều qua đời sau khi lâm bồn. Toàn sinh cho ông ta con gái, ta nghĩ đấy cũng là lý do vì sao ông ta tiếp tục đi thêm bước nữa. Cố mãi rồi cuối cùng cũng sinh được một đứa. Bá tước tương lai bây giờ hình như tầm mười tuổi, ta nhớ không nhầm thì là thế.” Sebastian nghĩ về người phụ nữ trẻ rực rỡ và tràn đầy sức sống anh gặp bên bàn tiệc của Hendon. Trong suốt quãng thời gian trưởng thành lại phải chứng kiến những người mẹ kế cứ liên tục đến rồi đi và một người cha muốn sinh con trai đến tuyệt vọng như thế, không biết cô cảm thấy thế nào? “Cháu biết đấy, phu nhân Guinevere làm lễ trưởng thành cùng năm với đứa con cả nhà Emily,” bác anh nói. Nhắc đến cô con gái Emily của mình, đôi môi bác Henrietta mím lại bất mãn. Theo quan điểm của bà, Emily đã không kiếm được cho mình một tấm chồng xứng đáng, một quyết định xốc nổi điên rồ mà bác Henrietta không thể nào chấp nhận nổi. “Cô gái ấy quả thật là tâm điểm của Mùa lễ hội năm đó - tất nhiên là phu nhân Guinevere, không phải đứa cả nhà Emily. Đứa trẻ tội nghiệp đó giống Emily đến nỗi nó chẳng có chút cơ hội nào để được gả vào nhà tử tế, cho dù có khoản của hồi môn khá khẩm đi chăng nữa, mà đằng này thì đến hồi môn nó cũng chẳng có. Còn Guinevere! Người ta ai cũng mến mộ, vừa ý với cô gái ấy cả. Của hồi môn thì cũng không có gì đáng kể, thật lòng thì là thế, nhưng cô gái ấy quả thật là viên kim cương tinh khiết nhất, luôn tràn đầy nghị lực và nhiệt huyết sống. Có lẽ là cũng hơi thẳng tính, bướng bỉnh, một vài người cảm thấy vậy đấy, tất nhiên trong đó không có ta. Ta chỉ không ưa được cái dạng con gái suốt ngày ăn nói quanh co, kiểu cách mà ngày nay đi đâu cũng gặp phải thôi.” “Có chuyện bê bối gì liên quan tới phu nhân không bác?” “Ta chưa từng nghe qua chuyện gì như vậy cả.” “Hoàn toàn không có gì? Một người phụ nữ 21 tuổi xinh đẹp và sôi nổi lấy một ông cụ 67 tuổi ốm yếu, bệnh tật làm chồng mà lại không có chút lời ra tiếng vào gì về một chàng tình nhân trẻ tuổi nào sao?” Chỉ riêng gợi ý đấy dường như đã là một sự lăng mạ đối người bác gái của anh. “Ta không nghĩ vậy. Phu nhân Guinevere có lẽ là người cứng đầu và không mang vẻ nền nã, e lệ nhưng cô ấy cũng không phải đứa hư hỏng, trơ trẽn, bất kể khung cảnh mà người ta chứng kiến tại Cung điện tối hôm thứ Tư vừa rồi có như thế nào đi chăng nữa. Cô ấy hiểu rõ một người phụ nữ ở địa vị của mình thì phải cư xử ra sao. Chỉ có những kẻ đáng khinh hết mức mới có thể làm những chuyện như vậy trong khi còn chưa sinh được cho chồng mình một người thừa kế.” Sebastian chậm rãi hớp một ngụm rượu. “Lúc nãy, bác có nói phu nhân có chị em gái?” “Hiện chỉ còn lại hai người, con của hai vị phu nhân khác nhau. Đứa nhỏ hơn hình như vẫn còn đang học ở Wales. Nhưng cô chị lớn thì có lẽ cháu cũng biết đấy, tên là Morgana. Cô này thì chẳng bì được với Guinevere về sắc đẹp, tính tình thì lại như giống chó Rottweiler ấy. Chỉ riêng việc cô này lấy được chồng thôi là cũng đáng kinh ngạc lắm rồi, chứ đừng nói đến chuyện được gả vào một nhà tốt đến thế.” Sebastian mỉm cười. “Đức ông chồng đáng kính mà cô ấy tóm được là ai vậy?” “Lãnh chúa Quinlan. Tất nhiên thì Nam tước cũng chỉ là một tước vị quá ư là nhỏ nhoi nếu đem so với Hầu tước và gia sản của Lãnh chúa Quinlan thì cũng chẳng thể nào mà đem đi so được với gia sản bên phía Anglessey, nhưng thế cũng chẳng phải dạng vừa. Trước khi Guinevere kiếm được một mối hôn sự tuyệt diệu đến thế thì Morgana vẫn được coi là tài ba lắm rồi. Bất động sản của Athelstone cũng không có gì gọi là rộng lớn hoành tráng và bản thân ông ta cũng không nghiêm túc quản lý cho tốt được mấy cái đồn điền đó. Cả hai cô con gái đều được gả đi mà chẳng có mấy của hồi môn trong tay. Ta nghĩ là Athelstone chỉ cố dồn hết mọi thứ cho đứa con trai thôi.” Lại một lần nữa, những lời bà kể mơ hồ vẽ ra một tuổi thơ chẳng mấy bình dị. Sebastian tự hỏi, không biết gian phòng học của ngôi nhà bị ám bởi cái chết của các nữ chủ nhân bên bờ biển xứ Wales ấy đã ủ men cho nhưng mối thù oán sâu đậm đến độ nào? Ba cô gái cùng cha khác mẹ, cô chị cả không ưa nhìn lại xấu tính, trong khi cô chị hai thì xinh đẹp và quyến rũ? Bỗng nhiên anh rất muốn được nghe xem Morgana nghĩ gì về cô em gái của mình. “Ngày mai liệu cháu có thể gặp được cô ấy ở đâu?” anh hỏi. “Ý cháu là phu nhân Quinlan ấy.” Bác Henrietta cúi đầu, cằm dán lại trên cần cổ lộ ngấn khiến bà càng trông giống Hendon hơn bao giờ hết. “Để xem nào. Morgana luôn tự coi mình là một nữ học giả - lúc nào cũng đến dự thính mấy cái bài giảng ở Học viện Hoàng gia và lảm nhảm về dòng điện với cả động cơ hơi nước và mấy cái thứ nhảm nhí tương tự như vậy. Ta nghĩ có lẽ phu nhân Quinlan sẽ đến tham dự cái sự kiện thả khinh khí cầu mà gần đây đâu đâu cũng thấy nhắc đến đấy.” “Thả khinh khí cầu ư? Ở đâu vậy, thưa bác?” “Trời đất, ta không biết.” Uống cạn ly rượu, bà đặt chiếc ly sang một bên rồi đứng dậy. “Giờ thì cháu phải về đi thôi. Ta còn phải đi dự tiệc.” Từ trong góc khuất của gian ban công riêng trong Nhà hát Covent Garden, Sebastian đứng dõi theo Kat, lộng lẫy trong bộ váy voan mỏng và chiếc mũ miện vương giả của nhân vật Cleopatra dưới ngòi bút đại thi hào Shakespeare, lui dần vào sau sân khấu. Anh biết cô không nhìn thấy được anh. Thế nhưng bằng cách nào đó, dường như cô cảm nhận được sự có mặt của anh bởi cô bỗng nhiên dừng lại một chút, quay đầu về phía anh và nở một nụ cười rực rỡ. Một nụ cười chỉ dành riêng cho anh. Anh vẫn đứng đó thêm một vài phút, chỉ để tiếp tục ngắm nhìn cô. Nhưng trước khi tấm rèm kịp che kín sân khấu chuẩn bị cho màn chuyển cảnh, anh xoay người đi về phía sau sân khấu. Anh đang bắt đầu thấy hơi lo cho Tom và anh muốn hỏi Kat xem cô có thấy thằng bé ở đâu không. Nhưng ngay khi anh vừa đi ngang qua mấy cô gái làng chơi cao cấp và đám công tử bột đang liếc mắt đưa tình, anh liền trông thấy một cậu nhóc trong bộ chế phục vàng-đen đang đứng thấp thỏm gần hành lang. “Em đã đi chỗ nào thế hả, cái thằng nhóc này?” Sebastian hỏi, kéo chú hổ của mình đi. “Ta còn đang tính cho người đến trại tạm giam hỏi thử xem liệu nhóc có bị người ta bắt đi hay không đấy.” Tom giữ chặt lấy cái gói bọc giấy nâu trong tay. “Em phải chờ người ta giặt xong bộ trang phục của tiểu thư Kat.” “Giặt?” Sebastian nghi ngại lặp lại. “Nó trông vẫn như mới luôn, em thề,” thằng bé hấp tấp đáp, rồi lại thêm vào, “Gần như là thế.” “Gần như là thế?” Đôi vai Tom thõng xuống. “Lẽ ra em nên xin bánh táo.” ------------------------ [6]Biệt hiệu của VuaWilliam Đệ Nhất. """