"
Tuổi Trẻ Và Cô Đơn - Hermann Hesse full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuổi Trẻ Và Cô Đơn - Hermann Hesse full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bạn đang đọc ebook TUỔI TRẺ VÀ CÔ ĐƠN của tác giả Hermann Hesse do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
Tên sách: TUỔI TRẺ VÀ CÔ ĐƠN
Tác giả: Hermann Hesse
Nguyên tác: PETER CAMENZIND
Dịch giả: Vũ Đình Lưu
Nhà xuất bản: Ca Dao
Năm xuất bản: 1968
Số trang: 203
Giá tiền: --
Khổ: 13x19 cm
Đánh máy: Minh Huy, Bùi Trang, Lê Trang, Vân Anh Kiểm tra: Hannah Lê
Chế bản ebook: Hannah Lê
Ngày thực hiện: 6/6/2010
Making Ebook Project #44 – www.BookaholicClub.com
Hermann Hesse
(02/7/1877 - 09/8/1962)
Giải Nobel Văn học 1946
Nhà văn, nhà thơ Đức quốc tịch Thụy Sĩ
Nơi sinh: Calw (Đức)
Nơi mất: Montagnola (Thụy Sĩ)
Hermann Hesse là một trong những nhà văn hiện đại viết tiếng Đức được đọc nhiều nhất trên thế giới. Ông được tặng giải Nobel vì những tác phẩm mang đậm truyền thống nhân đạo cổ điển, thể hiện bằng một văn phong sáng tỏ. Nhiều tác phẩm của ông được cả bạn đọc Phương Tây lẫn Phương Đông yêu thích.
Cha Hermann Hess là mục sư - nhà truyền giáo người Đức gốc Estonia, mẹ là con gái nhà truyền giáo gốc Schwaben (Thụy Sĩ); ông lớn lên ở Đông Ấn. Nền giáo dục tôn giáo và tính di truyền đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân sinh quan của nhà văn tương lai. Nhưng H. Hesse không
theo nghiệp thần học, trốn khỏi chủng viện Maulbronn (1892); sau nhiều đợt khủng hoảng thần kinh lặp đi lặp lại, sau một lần toan tự tử và trải qua điều trị trong các bệnh viện, ông học nghề thợ cơ khí một thời gian ngắn, rồi buôn sách ở Kalva và Basel.
Năm 1899, H. Hesse phát hành tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn và viết nhiều bài phê bình, nhưng ít được chú ý. Tiểu thuyết tân lãng mạn giáo huấn Peter Camenzind (1904) là sự thành công mang tính nghề nghiệp đầu tiên; từ đó H. Hesse hoàn toàn cống hiến cho sự nghiệp sáng tác văn học, chủ yếu viết truyện vừa và truyện ngắn với những yếu tố mang tính tự thuật. Cũng trong năm 1904 H. Hesse kết hôn với cô Mari Bernoulli người Thụy Sĩ (có ba con trai) và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee.
Năm 1924, ông trở thành công dân Thụy Sĩ. Sau khi kết hôn lần thứ hai với ca sĩ Ruth Wenger người Thụy Sĩ, và sau một khóa tâm lí trị liệu, ông xuất bản tiểu thuyết Sói đồng hoang (1927), một cuốn sách thuộc hàng best seller.
Tiểu thuyết Trò chơi với chuỗi hạt cườm (xuất bản năm 1943) như một bản tổng hợp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông và nâng lên một tầm cao chưa từng thấy vấn đề sự dung hòa đời sống tinh thần và thế tục. Trong thời kì đảng Quốc xã cầm quyền ở Đức, nhà văn sống "lưu vong" ngay trên đất nước mình. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1946.
Kể từ sau khi nhận giải ông không viết thêm được tác phẩm nào lớn, ngoài các tiểu luận, thư từ. Năm 85 tuổi ông mất khi đang ngủ vì xuất huyết não. Nhiều tác phẩm của H. Hesse đã được dịch sang tiếng Việt; có cuốn có đến hai ba bản dịch khác nhau; có cuốn được tái bản đến năm sáu lần.
* Tác phẩm:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Gertrud (1910), tiểu thuyết.
- Rosshalde (1914), tiểu thuyết.
- Knulp (1915), truyện vừa.
- Demian (1917), tiểu thuyết.
- Mùa hạ cuối cùng của Klingsors (Klingsors letzter Sommer, 1918), truyện vừa [Klingsor's last summer].
- Siddhartha. Bản trường ca Ấn Độ (Siddhartha. Eine Indische Dichtung, 1920), tiểu thuyết.
- Thơ (Gedichte, 1922), tập thơ.
- Từ Ấn Độ (Aus Indien, 1923), kí, thơ.
- Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Narziss và Goldmund (Narziss und Goldmund, 1929), tiểu thuyết. - Đêm an ủi (Trost der Nacht, 1929), thơ.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết [The journey to the East].
- Trò chơi với chuỗi hạt cườm (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết. - Chiến tranh và hòa bình (Krieg und Frieden, 1946), kí [War and peace].
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Một kiếp giang hồ, Võ Toàn dịch, tập san Văn, 1966.
- Đôi bạn chân tình (nguyên tác: Narziss und Goldmund, tiểu thuyết), Vũ Đình Lưu dịch, NXB Ca Dao, 1967; NXB Hội Nhà văn, 2001.
- Tuổi trẻ và cô đơn (nguyên tác: Peter Camenzind, tiểu thuyết), Vũ Đình Lưu dịch, NXB Ca Dao, 1968; 1972.
- Sói đồng hoang (truyện vừa), Chơn Hạnh - Phùng Thăng dịch từ bản tiếng Pháp Le loup des steppes, NXB Ca Dao, 1969.
- Tuổi trẻ thần tiên (nguyên tác: Schön ist die Jugend), Bùi Quang Đông dịch, NXB Bông Hồng, 1972.
- Tuồng ảo hóa (nguyên tác: Das Glasperlenspiel), Nguyễn Ngọc Minh dịch, NXB Nguồn Sáng, 1972.
- Nhà khổ hạnh và gã lang thang (nguyên tác: Narziss und Goldmund, tiểu thuyết), Phùng Khánh dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1994; 1998 và 2001.
- Narcisse và Goldmuld (tiểu thuyết), Viễn Nguyên dịch, NXB Lao Động, 2001.
- Câu chuyện của dòng sông (nguyên tác: Siddhartha, tiểu thuyết), Phùng Khánh - Phùng Thăng dịch, NXB An Tiêm, 1967; NXB Lá Bối, 1965-1966; NXB Hội Nhà Văn, 1988-1996-1998-2001.
- Huệ tím và những chuyện khác (nguyên tác: Iris und andere Märchen), Thái Kim Lan tuyển dịch, NXB Đà Nẵng, 1998.
- Tuổi trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian, tiểu thuyết), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1968-1971-1974; NXB Hội Nhà Văn, 1998.
- Hành trình sang Đông Phương (nguyên tác: Die Morgenlandfahrt, bút kí), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1967; NXB Hội Nhà Văn, 2001.
- Mối tình của chàng nhạc sĩ (nguyên tác: Gertrud, tiểu thuyết), Vũ Đằng dịch, NXB Ca dao, 1972; NXB Hội Nhà Văn, 2001.
- Tuổi trẻ, tuổi trẻ vàng son, Trần Phong Giao - Hoàng Ưng dịch, in trong Truyện ngắn Đức, NXB Lao Động, 2002.
- Bài học tình yêu hay chuyện chàng Augustus, Iris - Huệ tím, Chuyện hóa thân của Bích Thảo (3 truyện cổ tích viết theo lối mới), Thái Kim Lan dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3 năm 1998.
GIỚI THIỆU NỘI DUNG
Tuổi trẻ và cô đơn là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Hermann Hesse được xuất bản năm 1904.
Cuốn tiểu thuyết được bắt đầu bằng những dòng chữ: “Từ buổi thái sơ đã có huyền tượng. Thần linh muốn lên tiếng đã làm cho huyền tượng xuất hiện trong tâm hồn cổ lỗ của người Ấn Ðộ, người Hy Lạp, người Đức, và mỗi ngày lại tái tạo huyền tượng trong tâm hồn trẻ con.” Cuốn tiểu thuyết là những áng thơ và nhân vật chính trong truyện cũng khát khao trở thành một nhà thơ, nguyện dâng hiến cả cuộc đời mình để tạo nên những vần thơ tuyệt đẹp. Đọc Tuổi trẻ và cô đơn khiến ta nhớ đến những nhân vật chính khác trong các tác phẩm của Hermann Hesse như Siddharta (tác phẩm Siddharta), Goldmund (tác phẩm Đôi bạn chân tình) và Harry Haller (tác phẩm Sói Đồng Hoang). Cũng giống như những nhân vật trên, nhân vật chính trong Tuổi trẻ và cô đơn – Peter Camenzind - đã trải qua những cuộc hành trình và chịu đựng rất nhiều những đau đớn đến cùng cực về trí tuệ, về thể xác cũng như về tâm hồn. Trong cuộc hành trình của mình, anh đã đặt chân đến những nơi danh lam thắng cảnh khác nhau trên đất Đức, đất Ý, đất Pháp và đất Thụy Sĩ. Anh cũng trải nghiệm qua rất nhiều cung bậc cảm xúc rất khác nhau mà loài người thể hiện qua những bước thăng trầm trong cuộc đời mình. Trong những tháng ngày gần cuối cuộc đời, anh là một mẫu người lý tưởng hiện thân cho Thánh Francis khi anh kết bạn và chăm sóc cho một người què chân.
Peter Camenzind, khi còn trẻ, rời bỏ làng quê miền núi của mình mang theo một tham vọng lớn lao sẽ đặt chân đến mọi miền trên thế giới và trở thành một trong những kiều dân được phép cư trú trên mỗi vùng miền đất ấy. Đã từng trải qua niềm đau mất mẹ khi tuổi còn ấu thơ và ao ước được rời bỏ người cha nhẫn tâm, anh hướng mình thi đậu trường đại học. Trong quá trình học, anh đem lòng yêu Rosi Girtanner và trở thành một người bạn thân thiết của Richard. Quá đau buồn trước cái chết của Richard, anh lại lang thang chìm ngập vào những trải nghiệm khác nhau của cuộc sống.
Liên tục phải đối mặt với những thăng trầm của cuộc đời, anh lấy men rượu làm phương tiện để đương đầu với sự khắc nghiệt và những điều kỳ lạ không thể giải thích được của cuộc sống. Anh cũng gặp và đem lòng yêu Elizabeth, bất luận cô sẽ lấy một người khác làm chồng. Tuy nhiên, cuộc
hành trình của anh ngang qua đất Ý đã làm thay đổi nhiều khía cạnh trong con người anh. Nó làm gia tăng khả năng yêu đời và khả năng nhìn nhận cái đẹp giữa muôn trùng sự vật của anh. Chỉ đến khi anh kết bạn với Boppi, một nguời khuyết tật, anh mới thực sự hiểu được ý nghĩa của lòng thương yêu giữa người với người. Lúc ấy, anh mới nhìn nhận được những hình thái cao quý nhất của tình người được phản chiếu hoàn mỹ qua con nguời của Boppi và qua những khó khăn mà hai người phải vượt qua để có với nhau một tình bạn không thể phai mờ. Sau khi Boppi chết, Peter Camenzind trở về làng và chăm sóc người cha đã có tuổi của mình, ngay cả khi anh đã lên kế hoạch hoàn thành công việc vĩ đại của đời mình.
1
Từ buổi thái sơ đã có huyền tượng. Thần linh muốn lên tiếng đã làm cho huyền tượng xuất hiện trong tâm hồn cổ lỗ người Ấn Độ, người Hy Lạp, người Đức, và mỗi ngày lại tái tạo huyền tượng trong tâm hồn trẻ con.
Tôi chưa biết tên cái hồ, rặng núi, con sông xứ sở tôi, nhưng tôi đã trông thấy làn nước phẳng lặng màu xanh và màu lam lấp lánh hàng ngàn tia sáng dưới mặt trời, xung quanh núi non lởm chởm như tuyết sáng chói, với những thác nhỏ trên khe núi cao, dưới chân chạy dài triền dốc tắm nắng và đồng cỏ lác đác cây ăn quả, nhà gỗ và bò xám xứ Alpes. Tâm hồn con trẻ của tôi còn trinh trắng và lặng lẽ, chờ đợi cuộc đời, đã in khắc chiến công rực rỡ và hiển hách của thần núi thần hồ. Sườn núi rắn chắc và bờ đá ven biển vừa giận dữ vừa kính cẩn nói đến những thời đã cấu tạo ra chúng mà dấu vết còn ghi lại trên mình chúng. Chúng nói đến những thời kỳ xa xôi, trái đất mang nặng đẻ đau trong rên xiết và quằn quại đã sinh ra ngọn núi sườn non. Từng khối đá khổng lồ gầm như sấm vang, nhô lên, xông những mũi nhọn hoắt lên khoảng không vô hạn, vỡ ra rồi rơi xuống; những quả núi sinh đôi quyết liệt tranh dành nhau đất đứng, tranh dành cho đến khi một trái núi thắng thế, vươn mình lên đẩy người em song thai ngã dúi sang bên vỡ tan ra thành từng mảnh. Di tích của những thời kỳ xa xôi ấy là những khối đá nhọn bị xẻ nát, văng ra xa trong khi biến động; những khối đá ấy nằm trên bờ các hào sâu; mỗi dịp tuyết tan, nước đổ xuống kéo theo triền núi những tảng đá lớn, đập vỡ nát như miếng thuỷ tinh hay ném mạnh cho ngập sâu xuống đất mềm đồng cỏ.
Những đống đá ấy nhắc đi nhắc lại một truyện từ ngàn xưa. Muốn hiểu chúng cũng không khó khăn gì, chỉ việc nhìn những cạnh dựng đứng, lớp nọ bị xô lên trên lớp kia, méo mó, nứt nẻ, đầy viết thương toang hoác. Chúng nó như muốn bảo rằng: “Chúng tôi đã chịu đựng những cuộc thử thách ghê gớm và chúng tôi còn chịu đựng nữa”. Nhưng ngôn ngữ của chúng chững chạc, nghiêm nghị, cương quyết như ngôn ngữ của người chiến sĩ đã bạc đầu với nợ kiếm cung mà không bao giờ chấm dứt sự nghiệp.
Chính thế, đây là những chiến sĩ. Tôi nhìn chúng vật lộn với nước non bão táp trong những đêm kinh hoàng báo trước mùa xuân, gió gầm dữ dội trên đầu thác cuốn đi từng tảng thịt nóng hổi bên sườn chúng. Trong những
đêm ấy chúng vươn lên một cách thê thảm, bám chặt rễ xuống đất, nín hơi thở, nghiến răng lại, đưa lưng và sườn phong sương ra chịu trận, gom hết sức lực lại để lên mặt thách đố. Mỗi lần bị thương chúng phẫn nộ bối rối gầm lên những tiếng vang dội ra xa mặt trở thành những điệu rên rỉ kinh hồn hoà điệu với những tiếng tấm tức điên dại.
Và tôi trong thấy triền cỏ và dốc núi, hốc đá đất đã lấp đầy, trên phủ cỏ, hoa, rêu, những loại cây cỏ có tên gọi nôm na rất kỳ dị nhưng rất ý nghĩa. Những đứa con của núi rừng sống ngây thơ qua các thế hệ, chúng sống ở những nơi chúng lựa chọn, rực rỡ muôn ngàn màu sắc. Tôi mân mê, tôi ngắm nhìn, tôi ngửi hương thơm của thảo mộc, sơn khê và tìm hiểu tên gọi của chúng. Cây cổ thụ gây cho tôi một ấn tượng nghiêm trang và sâu xa hơn. Tôi nhìn mãi cây sống cảnh đời biệt tích, mỗi vòm lá có hình thái cá biệt, bóng râm cũng không cây nào giống cây nào. Cây cối dưới mắt tôi hoá ra những thầy tu và những chiến sĩ, cuộc sống mật thiết với núi đồi, vì mỗi cây, nhất là những cây mọc trên cao, vật lộn lặng lẽ và dẻo dai với gió mưa và đá sỏi để sinh sống và tăng trưởng. Cây nào cũng phải mang gánh nặng lá cành, cây nào cũng phải đâm rễ chắc chắn xuống đất, sự cố gắng ấy đã tạo cho mỗi cây một hình thể cá biệt và cũng để lại trên mình nó những vết thương. Có những cây thông bão táp chỉ cho phép mọc cành ở một phía, có những cây thân đỏ quạch quấn quanh khối đá cao hơn nó như con rắn, cây và đá xiết chặt lấy nhau để sống còn. Trước mắt tôi chúng xuất hiện như những chiến sĩ làm cho tôi phải kính sợ. Người ở vùng tôi, cả đàn ông lẫn đàn bà đều giống những cây thông ấy, họ là những người rắn rỏi, nét mặt khó đăm đăm, ít nói ít cười, nhất là những người ưu tú. Bởi vậy tôi học cách nhìn người như nhìn cây và đá, và khi tôi có ý kiến riêng về họ, tôi không kém phần trọng vọng mà cũng không ưa gì họ hơn mấy cây thông lặng lẽ.
Nimikon, làng tôi ở một triền núi hình tam giác thoai thoải xuống ven hồ, kẹt giữa hai mỏm núi. Một con đường dẫn tới nhà tu gần đấy, con đường khác đi sang làng bên cách xa bốn dặm rưỡi, đi đến các thị trấn khác ở ven hồ phải dùng đường thuỷ. Nhà cửa cất theo lối kiến trúc cổ, nhà bằng gỗ, không rõ làm từ bao giờ, gần như không bao giờ thấy có nhà mới cất, theo nhu cầu người ta sửa lại gian này hay gian kia của căn nhà cổ; năm này sửa nền, năm khác sửa một bên mái. Một khúc gỗ, một miếng ván trước kia làm vách bây giờ làm đòn tay trên mái, khi nào không dùng được nữa nhưng chưa đáng làm củi thì đem ra sửa chuồng bò hay vựa rơm, hay sửa ngưỡng cửa. Dân làng cũng vậy, mỗi người giữ một vai trò trong cuộc sống cộng
đồng cho đến lúc già yếu, dần dần họ chuyển sang hàng ngũ người vô dụng rồi chết đi, chẳng ai để ý đến nhiều. Người ra ngoài sống vài năm khi trở về chẳng thấy cái gì thay đổi ngoại trừ việc sửa lại mấy mái nhà đổ nát, và một vài mái mới làm nay đã già đi; mấy ông già sống dưới mái nhà ấy đã không còn nữa, nhưng đã có những ông già khác thay thế, họ vẫn ở những mái nhà tranh ấy, mang tên ấy, cũng ngồi trông mấy đứa trẻ con tóc màu sậm, nét mặt và cử chỉ không khác bao nhiêu những người đã ngủ yên dưới mồ.
Cái mà thôn tôi không có là giòng máu lạ và nếp sống mới đem từ ngoài vào. Dân làng là con cháu một giống nòi vạm vỡ đều có khuôn mặt, giọng nói, dáng dấp tương tự nhau, có đến ba phần tư họ là Camenzind. Họ Camenzind chiếm đầy chỗ trong sổ ghi danh ở nhà thờ, khắc trên bia mộ chí, người ta thấy họ ấy viết bằng sơn dầu hay khắc thô sơ lên cửa, cả ở chiếc chiếc xe bò của người phu xe, ở cái thùng trong chuồng bò, chiếc ghe đậu dưới hồ. Ngay trên cửa vào nhà cha tôi, người ta cũng sơn mấy chữ “Nhà này của Job và Francisca Camenzind xây cất”. Đây không phải là tên cha tôi, đây là tên ông nội cha tôi, cụ nội tôi vậy, và có lẽ nếu tôi không con, ắt là một người trong họ Camenzind sẽ đến ngôi nhà lụp xụp cũ kỹ này nếu nó còn đứng vững được đến ngày ấy và còn tấm mái che.
Tuy rằng bề ngoài nom không khác gì nhau mấy nhưng trong số người làng cũng có kẻ hiền người dữ, kẻ sang người hèn, kẻ quyền thế, kẻ bạch đinh, bên cạnh một số người khôn ngoan lanh lợi cũng còn một lũ khờ dại đáng tức cười, ấy là không kể những kẻ ngu si đần độn. Ở đây cũng như ở nơi khác có một hình ảnh vũ trụ thu nhỏ khá vui vẻ, vì lớn bé, khôn dại đều là họ hàng thân thích cho nên thường khi kẻ kiêu căng gan góc và kẻ hời hợt ngây độn cùng ở chung một mái nhà và dẫm chân lên nhau; cho đến nỗi cuộc sống của chúng tôi có rộng chỗ cho đủ chuyện thấm thía hay khôi hài của loài người. Nhưng có một thứ suy nhược âm thầm hay chẳng ngờ bao phủ nhịp sống tưng bừng ấy như một tấm màn.
Giống nòi chúng tôi cũng đã sắp sửa già nua rồi, sống tùy thuộc vào mãnh lực thiên nhiên, sống vất vả, làm ăn cực nhọc, bởi vậy có khuynh hướng nhìn việc đời với con mắt bi thảm; thực ra khuynh hướng ấy không phải là không thích hợp với những khuôn mặt gân guốc và rắn rỏi như thế, nhưng trừ điểm ấy ra thì không có ảnh hưởng gì khác ít ra là ảnh hưởng tốt đẹp. Bởi vậy người ta khoan khoái mà để ý đến mấy anh điên khùng, mấy anh này tuy không thiếu nghiêm trang hay dè dặt nhưng đem lại cho cuộc đời chút màu sắc và ít nhiều dịp để cười cợt chế giễu. Khi anh nào bị một
cái hác lờ để mọi người bàn tán thì đó là câu chuyện đem lại ánh vui nồng ấm cho những khuôn mặt rám nắng nhăn nheo ở Nimikon; thêm vào cái vui bông phèng còn chút giấm ớt đưa cay, người nào cũng giả dối tự kiêu là mình hơn người, khoan khoái mà thấy mình không lầm lẫn vấp váp như vậy.
Cha tôi thuộc về số người lưng chừng người ngay và kẻ gian, muốn hưởng lợi của cả hai hạng người – số người như cha tôi rất nhiều. Không một chuyện điên rồ nào xảy ra hẳn vì cũng may mà ông biết băn khoăn ngần ngại; thế là ông nửa thì thiện cảm khen ngợi người dám liều một cách tức cười, nửa thì sung sướng đến ngẩn người vì không mắc míu gì cả.
Cậu Conrad tôi thuộc về phía những người điên khùng, tuy rằng cậu thông minh không kém gì cha tôi hay bất cứ ai. Vả chăng ông là người rất mánh lới, ông luôn bứt rứt vì cần phải sáng kiến cái gì, người khác chắc phải thèm muốn cũng được như ông. Nhưng lâm vào việc thì ông chẳng làm nên trò trống gì cả. Đáng lẽ thất vọng và ngồi yên mà nuốt hận thì ông lại lao mình vào những việc khác; lạ thay, ông rất sáng suốt và cảm thấy rõ việc làm của mình có cái gì đó vừa khôi hài vừa bi thảm. Hẳn là ông cũng đáng được khen nhưng người đời chỉ thấy lập dị một cách lố lăng và xếp ông vào loại những anh hề mua vui không tiền cho cả xóm. Còn cha tôi đối với ông vẫn có thái độ nửa khen ngợi nửa chê bai. Dự định mới mẻ nào của cậu tôi cũng làm cha tôi sốt ruột vì hiếu kỳ và cha tôi cố tảng lờ như không, cha tôi hỏi săn hỏi dồn và nói xa nói gần những lời thâm hiểm và báng nhạo. Khi cậu tôi cho là chắc ăn và làm bộ úp mở, cha tôi bao giờ cũng bị lôi kéo chạy theo những sáng kiến thần tình của ông và ngồi cùng ông bàn bạc rất thân mật cho đến lúc việc hỏng be bét, cậu tôi nhún vai như thường, trong khi cha tôi nổi nóng mắng nhiếc thậm tệ, hằng mấy tháng sau không thèm nhìn mặt ông và không nói với ông nửa lời.
Cậu tôi là người thứ nhất cho dân làng thấy thế nào là một cái thuyền buồm; cha tôi đã mất toi cái thuyền cho cuộc thử thách. Cậu tôi theo hình vẽ trong cuốn lịch, làm buồm tết trảo rất cẩn thận, không phải lỗi tại ông nếu rút cục cái thuyền nhỏ quá không thể làm thuyền buồm được. Sắm sửa, hằng mấy tuần lễ; cha tôi chờ đợi mong mỏi và thắc mắc đến phờ cả người, khắp làng cũng chẳng nói chuyện gì khác dự án mới mẻ của Conrad Camenzind. Ngày hôm ấy, thật là một ngày đáng ghi vào lịch sử cho chúng tôi, buổi sáng cuối hè gió hây hây, cái thuyền khởi sự dăng buồm lần thứ nhất chạy trên mặt hồ. Cha tôi lo lắng, đã có linh cảm xảy ra tai nạn cho nên
không muốn dính dáng làm gì. Tiếc quá! Cha tôi cũng cấm tôi không được theo các thủy thủ. Chỉ có đứa con hàng bánh Fussli là đi theo nhà phát minh thuyền buồm. Nhưng cả làng kéo ra bờ hồ và khoảng vườn nhỏ để xem một trò lạ. Gió đông thuận thổi xuôi ra hồ. Mới đầu cũng phải chèo một chút, đến lúc thuyền gặp gió buồm căng phồng, thuyền kiêu hãnh vượt sóng. Chúng tôi đứng nhìn theo chiếc thuyền đi khuất sau đồi thán phục ông cậu tài ba và sửa soạn đón rước người anh hùng chiến thắng trở về, chúng tôi cũng tự thẹn vì trót có ẩn ý chế nhạo ông. Nhưng đến đêm, thuyền và buồm chẳng còn, thủy thủ như người chết dở chứ chẳng còn gì là vui vẻ, con lão chủ tiệm bánh vừa ho vừa nói: “tụi anh chỉ thiếu chút nữa thì tha hồ mà khoái trí: suýt nữa thì chủ nhật sau các anh được ăn hai bữa cỗ đám ma”. Cha tôi đành phải đóng lại hai miếng ván mới vào cái thuyền và từ đấy không còn cái buồm nào in bóng xuống nước hồ. Mãi về sau, mỗi khi Conrad có việc phải vội vàng một chút, người ta lại bảo ông: sao không thượng buồm lên đi. Cha tôi nuốt hận không kể lể với ai, nhưng mấy năm sau, mỗi khi thấy mặt người em rể xui xẻo ông đưa mắt nhìn chỗ khác và nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ khôn tả. Câu chuyện ấy dai dẳng mãi cho đến một ngày kia Conrad đến tìm cha tôi bàn về một dự án lò than bảo đảm không cháy làm cha tôi lại mất toi bốn đồng tiền vàng, nhà phát minh lãnh đủ lời chế giễu không ngớt. Vô phúc cho ai dám nhắc đến chuyện bốn đồng tiền vàng. Mãi sau này khi trong nhà lại túng bấn mẹ tôi nói phớt quá rằng giá số tiền phung phí một cách “bất nhân bất nghĩa” như vậy mà còn thì bây giờ cũng đỡ khổ. Cha tôi giận đỏ mặt cho tới cổ, nhưng ông tự chủ được và chỉ nói: “Tôi muốn đem mua rượu uống hết nội trong một ngày chủ nhật.”
Một lần hết mùa đông cơn bão ào đến với tiếng gầm âm ỉ, người dân sơn cước núi Alpes nghe thấy mà run sợ, nếu ở xa nhà họ cũng vọng về quê hương mà bùi ngùi tấc dạ.
Khi bão đến gần, từ người đến gia súc, núi non, đều biết trước hàng giờ. Trước khi bão đến bao giờ cũng có gió mát thổi ngược chiều, bão đến thì báo hiệu bằng tiếng ầm ầm và một luồng gió ấm áp. Trong giây lát nước hồ xanh rờn trở thành đen như mực, sóng bạc đầu nổi lên hỗn loạn. Ngay sau đó nước hồ đang yên lặng bình thản bỗng xô vào bờ, gầm lên như biển cả sóng. Cũng lúc ấy cảnh vật run sợ xích gần lại ôm chặt lấy nhau. Đỉnh non cao thường mờ trong mây bây giờ có thể thấy rõ từng mỏm đá, làng mạc trước kia nom như những chấm nâu tận ngoài xa, bây giờ thấy rõ cả nóc nhà, gác chuông, cửa sổ. Núi, đồng cỏ và nhà ở túm tụm lại với nhau như
một đàn thú vật sợ hãi. Bấy giờ nổi lên một tiếng gầm dữ dội, đất rung trời lở, dưới ngọn roi quất, sóng dâng lên cao như khói liên miên tiếng gió bão tử chiến với núi rừng nhất là về đêm. Mấy ngày sau dân làng chỉ nói đến thác đổ tràn bờ, nhà tan cửa nát, thuyền bè vỡ nát, biết bao người cha người anh không thấy trở về.
Lúc còn bé tôi sợ bão lắm và tôi cùng thù ghét nó nữa. Nhưng đến thời kỳ đột khởi tính hung bạo như đứa trẻ nào cũng phải sắp trải qua, tôi lại yêu nó vì khí thế trẻ trung muôn thuở của nó, vì cái ngỗ ngược hung hãn của nó, chà! một anh chàng nổi loạn, sứ giả của mùa xuân. Thật là một cảnh tượng huy hoàng khi trận bão đầy nhựa sống, vui tươi và hy vọng, mở cuộc chiến man rợ, thổi ào ào, cười cợt và rên xiết, gào thét mà lùa qua khe núi, nuốt chửng tuyết trên ngàn, bàn tay sắt bóp nát cây thông dẻo dai làm thông khóc thét từng hồi. Sau này mối tình của tôi với gió bão càng thêm mạnh, tôi chào đón vẻ dịu dàng, khôi ngô, nguồn giàu thịnh Phương Nam của nó, từ đó tuôn ra từng đợt sinh khí, ấm nồng và tươi đẹp dồn dập toả đến núi non xa rồi sau cùng kiệt lực hạ xuống đồng băng giá miền bắc. Không có cái gì kỳ dị và thú vị bằng vẻ sốt nóng của đàn ông; nhất là đàn bà ở núi trong thời gian bão táp; sốt nóng làm mất ngủ, khích động mọi cơ quan trong thân thể con người. Gió Nam hăng hái và bồng bột thổi ào đến trái tim phương Bắc nghèo nàn và cằn cỗi, gió báo trước cho dân làng xứ Alpes còn co rúm dưới tuyết phủ biết rằng lúc này bên hồ đỏ ối gần nước Ý, anh thảo, thuỷ tiên, hạnh đào đều đã khai hoa.
Khi gió bão đã hết hơi, khi những trận núi lở ngầu bùn đã chấm dứt, bấy giờ mới lộ vẻ đẹp sáng lạn hơn cả. Khắp nơi trên triền núi, bãi cỏ vàng muôn hoa đua nở, trên đỉnh non cao băng tuyết hiện ra vẻ trong sáng thiên đường, mặt hồ xanh nóng phản chiếu mặt trời trong trẻo và mây trôi man mác.
Tất cả khung cảnh ấy đủ để tràn ngập quãng đời thơ ấu, và nếu cần ra, cả một kiếp người. Bởi vì tất cả đều nói lên bằng tiếng nói của Trời vẻ trong sáng hồn nhiên và sức mạnh vô song của trời đất, tiếng nói chưa bao giờ xuất hiện trên môi một phàm nhân. Ai đã từng nghe tiếng nói ấy trong lúc tuổi thơ sẽ nghe thấy mãi suốt đời người, tiếng nói dịu dàng, mạnh mẽ và kinh khủng sẽ văng vẳng bên tai chúng ta, không tránh khỏi được. Ai đã sống trên núi đồi, họ có thể học triết lý hay khoa học thiên nhiên và đoạn tuyệt với tin tưởng cổ lỗ trong nhiều năm, nhưng khi trở lại thấy gió bão
hay lở núi ào xuống khu rừng, tim họ lại rung động, họ nghĩ đến Ông Trời và cái chết.
Một mảnh vườn nhỏ kế bên nhà cha tôi. Trong vườn mọc bắp cải, xu hào và một loại rau diếp đắng; mẹ tôi đã để một luống nhỏ trồng hoa, nhỏ đến nỗi nom thấy mà cảm động, hai cây hồng Bengale, một cụm thược dược sống cằn cỗi thảm đạm không hy vọng nảy nở, một khoảng đất hẹp hơn nửa phủ đá sỏi sau vườn chạy dài ra tận hồ. Ở đấy có hai cái thùng gỗ đã hư nát, vài tấm ván, mấy cái cột, và dưới thấp nữa, một chiếc thuyền đậu trên mặt nước cột vào bờ, bấy giờ người ta còn sửa chữa và tráng nhựa, hai ba năm một lần. Người ta nhớ kỹ ngày phải làm việc đó. Người ta làm vào những buổi quá trưa gần đến mùa hạ; bướm vàng bay trong ánh nắng mặt hồ không một lăn tăn, đỉnh núi xanh lơ, bình lặng dưới làn khí mỏng, tỏa ra ánh sáng dịu dàng; dưới bãi, đá sỏi nồng nặc mùi nhựa thông và sơn dầu. Sau đấy, suốt mùa hạ chiếc thuyền xông lên mùi dầu hắc. Nhiều năm sau, mỗi lần ra bờ biển ngửi thấy mùi đặc biệt hơi nước lẫn với hơi dầu hắc, tôi lại thấy hiển hiện trước mắt bãi cát ven hồ, cha tôi vắn tay áo sơn phết, từng đám mây xanh nhỏ từ ống điếu bay lên trời êm ả trưa hè, đàn bướm vàng do dự và sợ sệt vút qua như những cái chớp. Những ngày ấy cha tôi có dáng vui vẻ khác thường; ông thổi sáo miệng những điệu rất hay và ông thổi cả một điệu nhạc Tyrol, nhưng chỉ một điệu thôi và thổi nhỏ nhẹ. Mẹ tôi sửa soạn món gì ngon miệng cho bữa tối, bấy giờ tôi nghĩ rằng bà làm cơm với hi vọng âm thầm tối hôm ấy đức ông chồng không ra quán rượu. Nhưng ông cũng vẫn đi.
Tôi không thể biết được cha mẹ tôi đã ngăn cản hay nâng đỡ sự phát triển tâm hồn non nớt của tôi. Mẹ tôi lúc nào cũng bận bịu luôn chân luôn tay, ở đời không có cái gì cha tôi ít để ý bằng vấn đề dạy con. Ông mắc bận trông nom cây cối cho được tốt tươi và ông làm khi được khi chăng, ông còn mắc bận trồng mảnh ruộng khoai và gầy rơm rạ. Nhưng độ hai ba tuần lễ một lần, tối đến, trước khi đi chơi, ông dắt tôi lẳng lặng leo lên vựa rơm ở trên nóc chuồng bò. Ở đây ông chỉ thi hành một nghi lễ rửa tội và sám hối kỳ dị: ông lấy roi quất tôi một hồi cả ông lẫn tôi đều không hiểu tại sao lại làm thế. Đó là một lễ cúng dường lặng lẽ trước bàn thờ thần Némésis, và khi hành lễ ông không trách mắng, tôi không kêu la, đó là lễ vật phải dâng Thần linh. Sau này mỗi khi nghe nói đến số hệ, những cảnh tượng bí hiểm ấy lại hiện lên trong trí óc tôi, và chúng cho tôi một hình ảnh linh động về khái niệm số hệ. Ông già tôi chất phác, tuy không hiểu nhưng ông làm theo
phương pháp giáo hóa sơ sài nông cạn mà chính đời sống vẫn thường áp dụng cho chúng ta; thỉnh thoảng trời quang đãng bỗng giáng xuống một trận mưa giông, tự ta suy nghĩ về tai hại của thiên tai mà hiểu rằng tội của ta đã phạm đến thần linh. Khốn thay, cách ta suy nghĩ ấy không bao giờ tôi làm cả hay ít khi tôi làm. Tôi chịu hình phạt hàng tháng như thế mà không chịu tự vấn tâm, tôi chịu đựng một cách kiên trì hay với tinh thần thách thức, những tối ấy lần nào tôi cũng khấp khởi mừng rằng đã trả món nợ và sẽ được vài tuần không phải phạt. Tôi càng luyện thêm cá tính của mình để chống lại ý muốn của cha mà yên ổn mà làm việc. Thiên nhiên khó hiểu và hoang phí đã tụ hợp trong người tôi hai bẩm tính mâu thuẫn nhau: tôi có một sức vóc phi thường nhưng khốn thay tôi sợ cố gắng và cử động cũng chẳng kém. Cha tôi nỗ lực làm đủ mọi cách để luyện thành đứa con và người giúp việc có thể dùng được, nhưng tôi, tôi tìm đủ mọi cách để trốn việc phải làm; khi tôi học trường trung học, tôi không ưa người anh hùng thời cổ nào hơn Hercule, người anh hùng bị bắt buộc phải làm mọi xông việc nặng nhọc và phi thường. Lúc ấy tôi không thấy cái gì thú vị hơn đi vẩn vơ trên đá tảng và đồng cỏ ở bờ nước.
Núi và hồ, bão và nắng là bạn tôi, kể chuyện cho tôi nghe, dạy dỗ tôi, thân thiết với tôi hơn cả trong nhiều ngày, thân hơn bất cứ người nào, bất cứ số mệnh phàm nhân nào. Nhưng tôi thích ngắm mây hơn cả, thích hơn mặt hồ óng ánh, rặng thông u buồn và tảng đá phơi nắng.
Hãy chỉ cho tôi biết trong cõi đời to rộng này có người nào biết rõ mây hơn tôi và yêu mây hơn tôi! Hãy chỉ cho tôi biết trong thiên nhiên có cái gì đẹp hơn đám mây! Mây là đồ chơi, là sự an ủi cho con mắt, mây là phép lành, là tặng phẩm của trời, là sự giận dữ của trời, là quyền lực tàn phá của trời. Mây dịu dàng, hiền lành và bình thản như linh hồn trẻ sơ sinh; mây đẹp, giàu có và rộng rãi như thiên thần; mây ủ rũ, khắt khe và vô lương tâm như sứ giả của thần chết. Mây bay thành dải trắng bạc, mây mỉm cười mà trôi đi, mình trắng viền vàng, nó dừng lại nghỉ ngơi khoe sắc vàng, đỏ, xanh. Nó luồn lọt, hung dữ và chậm chạp như kẻ giết người, nó ào ào và đâm thẳng xuống đất như những kỵ mã nổi điên, nó treo lơ lửng, buồn rầu mơ mộng trong ánh sáng mờ trên cao như những anh chàng cô đơn đa sầu đa cảm. Nó có hình thù những hòn đảo canh gác và những thiên thần ban phước lành; nó giống những thằng lùn ghê sợ, những tấm màn lượn bay, nhưng con hạc di chuyển đi xa. Nó lượn bay giữa cõi trời của Thượng Đế và cõi phàm trần như biểu tượng đẹp đẽ của mọi ước vọng phàm nhân.
Mây ơi! Mây đẹp mây bay không nghỉ! Tôi chỉ là đứa trẻ ngây thơ, tôi yêu mây, tôi ngắm mây mà không biết rằng chính tôi cũng đi qua đường đời như một đám mây – đi đó đi đây ở đâu cũng là người lạ bay bổng giữa thời gian và vô cùng. Từ tuổi thơ ấu mây đối với tôi là bạn thân, là anh em. Tôi không thể đi qua phố mà không làm hiệu chào thân hữu, mà không gật đầu chào nhau, và rồi chúng tôi dừng lại, bốn mắt nhìn nhau. Tôi cũng không quên được điều gì tôi học của mây, hình thù, màu sắc của mây, mây giỡn chơi, dắt tay nhau nhảy vòng, múa may, nghỉ ngơi, tất cả những truyện dưới đất trên trời kỳ lạ của mây.
Trong số những chuyện ấy còn có chuyện công chúa bạch tuyết. Chuyện này xảy ra trên núi không cao vào một ngày ế cận mùa đông, gió nóng thổi là là mặt đất. Nàng công chúa bạch tuyết từ trên cao xuống, đằng sau đi theo một đám thể nữ, nàng tìm trên đồi rộng hay trên đỉnh núi một chỗ nghỉ ngơi. Ngọn gió gian xảo nổi ghen, thấy nàng nằm đấy không chút nghi ngờ, y bèn lén lút đi quanh đó cả ngàn lần leo lên núi, dục tình sôi dục, bất thần thư điên như dại vồ lấy nàng. Y ném vào nàng công chúa xinh đẹp từng mảng mây đen, chế giễu nàng, gây chuyện với nàng, muốn đuổi nàng đi. Nàng công chúa bối rối, chờ đợi, mặc y hành hung một lát; thỉnh thoảng nàng lắc đầu, mỉm cười chế diễu và bay lên cao. Nhưng thỉnh thoảng nàng cũng gọi những cô thể nữ sợ sệt lại quanh mình, để lộ khuôn mặt ngọc sáng ngời và lạnh lùng khẽ lấy tay gạt tên cuồng bạo. Y ngập ngừng, rên rỉ và chạy trốn. Nàng yên lặng nằm dài phủ chỗ mình nằm và xung quanh ra tận xa một lớp sương mù nhợt; khi sương mù đã tan, thung lũng và đỉnh núi rực rỡ ánh sáng, trên phủ lớp tuyết lạnh, trong và mềm.
Câu chuyện này thể hiện linh hồn, thể hiện sự ưu thắng của cái đẹp, chuyện có cái gì cao quý làm trái tim non nớt của tôi say đắm và xúc động vì một vẻ bí mật thích thú.
Rồi đến lúc tôi có thể đến gần hơn đám mây, lần qua đám mây, đứng trên cao mà nhìn mây dưới chân mình. Tôi được mười tuổi khi leo lên ngọn núi thứ nhất, ngọn Sennalpstock, dưới chân ngọn này là xóm Nimikon chúng tôi. Bấy giờ tôi mới biết những sự hãi hùng, những vẻ đẹp của núi non. Hố sâu đầy băng và tuyết, băng hà màu xanh trong vắt, đôi Thạch xấu ghê tởm, trên cao vòm trời xanh lam tròn như một cái chuông. Khi người ta đã sống mười năm đằng đẵng kẹt giữa ngọn núi và cái hồ, bốn bên đều là núi cao bao bọc, người ta không thể quên được ngày đầu tiên người ta thấy trên đầu mình trời rộng bao la, trước mặt mình chân trời không biên giới. Lúc leo lên
tôi đã giật mình vì thấy đá tảng và thành đá mình đã quen thuộc sao bây giờ nom to lớn đến thế. Lúc này bị thôi miên vì cảnh huy hoàng, tôi xao xuyến êm đềm vì cảm thấy không gian cao rộng hấp tấp ùa vào trong tôi. Thế ra vũ trụ to rộng ngoài sức tưởng tượng vô cùng! Toàn thể làng tôi trải dài khắp mọi nơi, bây giờ chỉ còn là một chấm sáng. Những đỉnh cao ở dưới thung lũng nom lên thấy gần nhau, bây giờ cách xa nhau hằng giờ leo núi.
Tôi bắt đầu hiểu lờ mờ rằng đến nay tôi chỉ có ý niệm sơ sài chứ chưa có cái nhìn rõ rệt về hoàn vũ, có lẽ ngoài kia núi non cao ngất, thung lũng sâu thẳm, việc đời diễn biến, sống trong một khe núi chúng tôi không thể có một ấn tượng nào. Đồng thời trong người tôi có cái gì rung động, nó như cái kim địa bàn, tuy tôi không biết nhưng nó đã hướng về những nơi xa lạ mà tôi nghi ngờ có biết bao chuyện to tát quan trọng. Bây giờ tôi mới hiểu hẳn vẻ đẹp vẻ buồn của đám mây đang trôi về những nơi man mác.
Hai người cùng đi với tôi đã lớn tuổi, họ khen tôi tài leo trèo, họ dừng chân nghỉ trên đỉnh núi phủ tuyết, thấy tôi vui vẻ cuồng nhiệt họ chỉ cười. Nhưng tôi, khi đã hết kinh ngạc lúc ban đầu, tôi hét lên sự vui sướng và cảm động của tôi trong khí trời trong trẻo như một con bò mộng.Tôi đợi một tiếng vang mạnh như sấm nhưng tiếng hét của tôi chỉ như tiếng chim nhỏ biến vào sự yên lặng chỗ non cao. Thế là tôi xấu hổ phải im bặt.
Có thể nói rằng ngày hôm ấy đã đánh tan cuộc sống lạnh lùng vô tư lự của tôi, vì từ đây dồn dập xảy đến những biến cố trọng đại. Trước hết ngươi ta hay đưa tôi đi leo núi, cả những hòn núi rất khó leo, tôi vừa hoan hỉ vừa e ngại mà làm quen với bí mật vĩ đại của núi cao. Sau đấy tôi được giữ việc chăn dê. Tôi thường dắt dê đến một triền núi, ở đấy có một chỗ khuất gió mọc đầy cây khổ sâm xanh lợt và cỏ rừng đỏ tía: tôi ưa chỗ này hơn cả. Ở đây không trông thấy làng và nhìn qua mỏm đá cũng chỉ thấy một mảng hồ sáng chói; nhưng được cái hoa màu vui tươi, trời xanh lam nom như một cái lều vải căng trên những ngọn núi đá phủ tuyết, tiếng róc rách một cái thác gần đấy hòa với tiếng long nhong kín đáo chuông đeo cổ dê. Tôi nằm giữa ánh nắng, hai mắt hiếu kỳ nhìn mây bạc, miệng sẽ hát đủ mình nghe theo điệu Tyrol, nằm như vậy cho đến lúc đàn dê thấy chủ nó lười biếng, đua nhau làm đủ mọi trò chơi cấm đoán. Trong những tuần lễ đầu, hạnh phúc thần tiên bị khuấy rối vì một chuyện khó chịu, tôi té xuống hốc đá với một con dê lạc đàn. Con dê chết, đầu tôi xưng u và còn được bồi thêm một trận đòn. Tôi bỏ nhà ra đi, người ta lôi về giữa những tiếng răn rủa và tả oán.
Những chuyện ấy có thể là những sự rắc rối đầu tiên và cuối cùng. Cuốn sách này sẽ không viết ra biết bao sự điên rồ của tôi sẽ không xảy ra. Có điều rằng tôi sẽ lấy một người con gái trong thân quyến hay chết vùi dưới một lớp băng tuyết. Điều đó chẳng mắc mớ gì đến ai. Nhưng mọi việc đã xảy ra khác hẳn, tôi không có nhiệm vụ so sánh cái gì đã xảy ra với cái gì không xảy ra.
Thỉnh thoảng cha tôi đến làm việc vặt trong tu viện Welsdorf. Một hôm ông đau ốm bảo tôi đến làm thay. Nhưng tôi không đến: tôi mượn bút giấy của hàng xóm viết một bức thư cầu kỳ cho các sư huynh tu viện gửi vợ người đưa thư mang đi, còn tôi nhất quyết lên núi chơi.
Tuần lễ sau tôi trở về đã thấy một ông Cha ngồi đợi người nào viết bức thư hay đó. Tôi lo lắng, nhưng Cha khen ngợi tôi và cố gắng thuyết phục cha tôi cho tôi đến học, cha sẽ chỉ bảo cho việc học hành. Đúng vào hồi ấy, cậu Conrad lại được yêu mến và cha tôi lại hỏi ý kiến cậu. Dĩ nhiên cậu tôi lấy giọng hùng hồn nói rằng tôi sẽ theo đời nghiên bút, trở nên sinh viên, bác học, trở nên ông nọ ông kia. Cha tôi nghe lời, và tương lai của tôi dính líu với những kế hoạch nguy hiểm của cậu tôi như lò than trừ hỏa, thuyền buồm và trăm ngàn trò ngông cuồng như thế.
Thế là tôi đi học ngay và học nhiều nhất tiếng Latin, truyện liệt thánh, thực vật học và địa lý. Đi học làm tôi thích trí lắm, bấy giờ tôi không hề nghĩ rằng món hàng lạ hoắc lại làm tôi mất cả tổ ấm cỏn con của tôi lẫn ngày xanh tươi đẹp nhất. Cũng không phải chỉ có cái tiếng Latin khỉ gió kia là thủ phạm những tai họa lớn ấy. Lẽ ra cha tôi dạy tôi thành người nông dân mặc dầu tôi thuộc làu làu sách De Viris bắt đầu từ dòng chữ đầu hay dòng chữ cuối. Nhưng cha tôi là người hiểu biết, ông biết rõ tính con, tính lười biếng bất trị là trọng tâm của tôi, là thói xấu số một. Mỗi lần có cớ là tôi tránh công tránh việc để lên núi hay xuống hồ hay ra nằm dài ở sườn núi tìm một chỗ kín để đọc sách mơ màng mà chẳng làm gì cả. Chính vì ngài nghĩ đến nông nỗi ấy mà sau cùng ông quyết định để mặc tôi làm gì thì làm.
Nhân dịp này tôi xin nói vài lời về cha mẹ tôi. Mẹ tôi ngày trước đẹp lắm, nhưng vẻ đẹp ấy nay chỉ còn sót lại một tấm thân ngay ngắn và khoẻ mạnh và đôi mắt nhung. Mẹ tôi người cao lớn, mạnh mẽ, siêng năng và lặng lẽ. Tuy bà cũng thông minh như cha tôi và còn hơn về sức lực, nhưng không phải bà điều khiển nội trợ, bà để cha tôi có quyền đó. Cha tôi người tầm thước, chân tay mảnh khảnh gần như thanh tú, mặt hồng hào đầy nếp răn nhỏ, ông có vẻ bền gan và mưu mẹo; trên trán, một đường răn ngắn thẳng
góc nếp răn ngang, mỗi lần ông cau mày đường răn tối sầm lại làm cho ông có vẻ cáu kỉnh và sầu thảm. Mọi người cho là ông muốn nhớ lại điều gì quan trọng mà bực mình vì khó nghĩ ra. Trông ông người ta có thể có cảm tưởng là một người ưu tư, nhưng ở đây không ai để ý, vì hầu hết mọi người đều có một vẻ buồn rầu nhẹ nhàng tạo ra bởi cuộc sống cực nhọc và nguy hiểm, họ lại sống biệt tích một nơi khuất nẻo, mùa đông kéo dài nhiều tháng.
Cha mẹ tôi đã di truyền cho tôi những nét chính của tính tình tôi. Mẹ tôi truyền lại cho tôi sự khôn khéo thực tiễn, sự thuận theo ý trời, tính bình thản ít chuyện trò, cha tôi truyền cho tôi tính sợ phải quyết định, không biết tiêu tiền hợp lý, ông còn truyền cho nghệ thuật uống rượu, biết thưởng rượu ngon và uống thật nhiều. Nhưng biệt tài ấy chưa phát lộ lúc còn tuổi măng sữa. Về thể chất, tôi có đôi mắt và cái miệng của cha; vóc dáng, bước đi nặng nề dẻo dai và sức lực dồi dào là của mẹ. Cha tôi và có lẽ cả giống nòi nhà tôi để lại cho tôi một trí thông mình đầy tiểu xảo của dân quê, nhưng cũng để lại cho một phong độ buồn rầu và khuynh hướng trầm ngâm sâu thẳm. Số kiếp tôi là phải tiến thân ở xa quê hương giữa người xa lạ, như vậy nên có chút mềm mỏng và nhẹ nhàng vui vẻ.
Với mớ hành lý và một bộ quần áo mới, tôi bước chân vào cuộc đời. Đức tính của cha mẹ truyền lại rất quý giá cho tôi vì từ đấy tôi là người thân lại lập thân. Tuy nhiên tôi vẫn thiếu một cái gì mà khoa học, kiến trúc và sự giao thiệp không mang lại cho tôi. Bây giờ cũng như ngày trước, tôi vẫn có thể leo núi, đi bộ hay chèo thuyền suốt trong mười tiếng đồng hồ, nếu cần tôi có thể lấy tay giết chết một người; nhưng còn nghệ thuật sống thì bây giờ tôi vẫn thiếu thốn đủ mọi cái mà trước kia thiếu thốn. Tôi sớm làm quen và chỉ biết có ruộng đất, cây cối và súc vật cho nên không phát triển được xã hội tính, ngay bây giờ cũng còn là người làm sao chiêm bao làm vậy, giấc chiêm bao đem lại bằng chứng kỳ lạ về khuynh hướng sống gần thiên nhiên như loại vật của tôi. Tôi thường nằm mê thấy mình ngủ bên bờ biển, mặt là mặt thú thường thường là mặt con hải cẩu, tôi rất được yên dạ khi tỉnh dậy biết rõ mình là người, nhưng tôi thường không vui không buồn mà chỉ tiếc rẻ.
Theo nền nếp truyền lại, tôi được học bổng ăn học để theo các lớp trung học, sau này sẽ chuyên về ngôn ngữ học. Không có môn học nào vô ích và chán nản hơn, không có môn học nào đối với tôi kém phần hấp dẫn hơn.
Những năm ở nhà trường trôi qua rất mau. Ngoài những buổi nghe giảng và đánh lộn còn những giờ nhớ nhà, những giờ mơ mộng tương lai rất táo bạo, những giờ kính cẩn tôn sùng Khoa học. Đôi khi tính lười biếng tự nhiên của tôi ló dạng, đem lại đủ mọi ưu phiền và hình phạt nhưng rồi lại đến lúc vui mừng khấp khởi khác.
Giáo sư Hy Lạp bảo tôi: “Perter Camenzid, anh là một người khó tính và lập dị, cứ như vậy sẽ có ngày anh húc đầu vào tường.” Tôi nhìn ông thầy béo phệ mắt đeo kính, tôi nghe thầy nói dông nói dài mà thấy ông thật là thô lỗ.
Giáo sư toán học bảo tôi: “Peter Camenzind, anh có tài siêu thần hoá sự lười biếng, tôi tiếc rằng không có điểm nào dưới số không để cho anh. Bài của anh hôm nay chỉ đáng hai điểm rưỡi dưới số không”. Tôi nhìn ông, tôi phàn nàn cho ông vì ông lé mắt, tôi thấy ông là người đáng ngán.
Giáo sư sử ký một hôm bảo tôi: “Peter Camenzind, anh không phải học trò khá, nhưng rồi anh cũng trở thành sử gia có khả năng. Anh lười biếng thật, nhưng anh biết phân biệt cái lớn cái nhỏ.”
Điều ấy đối với tôi không quan trọng là mấy. Tuy nhiên tôi kính trọng các giáo sư; tôi cho rằng họ nắm chắc được khoa học và đối với khoa học tôi có một thứ trọng vọng mờ mịt và sâu xa. Tuy rằng các thầy học đều đồng ý nhau về tính lười biếng của tôi nhưng tôi cũng học tấn tới và được sắp hạng trên mức trung bình. Nhà trường và kiến thức không đủ, điều ấy tôi biết lắm, nhưng tôi để mai sau sẽ liệu. Đằng sau những thứ tập tành chuẩn bị và những trò khỉ dạy đời ấy tôi tưởng tượng ra một đời sống tinh thần thuần tuý, một khoa nghiên cứu sự thật chắc chắn và chân thực. Nhờ sự nghiên cứu ấy tôi có thể biết được ý nghĩa của bí mật lịch sử, của sự xung đột giữa các dân tộc, sự mâu thuẫn trong tâm hồn mỗi người.
Tôi còn cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ hơn là khẩn thiết. Tôi cần có một người bạn.
Ở đây có một người bạn đứng đắn tóc nâu, hơn tôi hai tuổi tên là Gaspard Hauri. Thái độ cử chỉ của anh chắc chắn và bình tĩnh, mắt anh có vẻ nghiêm trang và tự tin như người lớn, ít khi anh trò chuyện với bạn bè. Trong nhiều tháng tôi chỉ nhìn anh với sự kính nể tột bực, hy vọng rằng anh cũng để ý đến tôi. Tôi ghen với những người thành thị mà anh chào hỏi và những nhà anh thường lui tới. Nhưng tôi học kém hơn anh hai lớp, còn anh hẳn là sức học của anh đã hơn trình độ lớp anh học. Chưa bao giờ chúng tôi nói với
nhau một tiếng. Thay vào chỗ anh đã có một thằng bạn người ốm o, hắn chơi với tôi nhưng tôi không bận tâm đến hắn. Hắn ít tuổi hơn tôi, nhút nhát và đần độn, nhưng có đôi mắt đẹp, nét mặt thanh tú và đau khổ. Ốm o và hơi loắt thoắt, hắn bị nhiều sự ức hiếp nên chơi với tôi để tìm sự sự che chở của người mạnh mẽ và uy tín. Chẳng bao lâu hắn bịnh não quá nên phải thôi học. Tôi không nhớ hắn, chẳng bao lâu tôi quên hắn.
Trong lớp tôi có một đứa tóc vàng rất hoạt động. Hắn ta thật mưu mẹo, chơi âm nhạc, nhái người này người khác và hay pha trò. Tôi không khó nhọc mà thân mật được với hắn. Tuy hắn cùng tuổi tôi nhưng thằng hề oắt con ấy cũng làm ra vẻ một người anh che chở. Dầu sao thì tôi cũng có bạn. Tôi đến căn buồng của hắn đọc với hắn vài cuốn sách, làm hộ hắn bài Hy Lạp và hắn giúp tôi làm toán. Thỉnh thoảng chúng tôi đi chơi với nhau, hắn đi cạnh tôi, coi hai người như con gấu với con cầy. Bao giờ cũng chỉ có hắn là ăn nói, bồ của tôi lại vui vẻ, hoạt bát, chẳng bao giờ bị bí cả, còn tôi, tôi cười đã, tôi sung sướng vì có người bạn vui tính.
Nhưng một buổi trưa tôi đến bất thần gặp oắt miệng ráo hoảnh như anh bán dầu cù là rong ấy đang biểu diễn cho chúng bạn trong hiên hè một trò vui thích thú. Hắn vừa bắt chước một giáo sư và tôi nghe thấy hắn la lên: “Thử đoán xem ai!”. Hắn cất cao giọng đọc thơ Homère; hắn làm như hệt tôi vậy; điệu bộ bối rối của tôi, tôi đọc run run, giọng khan khan người đường rừng cả đến tật giật người vì chú ý nhiều quá, tật chớp mắt, nhắm mắt bên trái. Thật là tức cười, hắn thật không kiêng nể gì tôi mà bắt chước lại rất thông minh.
Khi hắn đã gấp sách lại và nhận sự tán thưởng tôi tiến lại sau hắn để báo thù. Tôi khống nói được tiếng nào nhưng thể hiện sự phẫn uất, sự xấu hổ, sự giận dữ bằng một cái tát như trời giáng. Ngay sau đấy tôi nhận được một bài học, giáo sư để ý ngay đến cái mà sưng và tiếng khóc tấm tức của hắn, hắn lại là học trò cưng của ông:
- Ai đánh trò vậy?
- Camenzind.
- Camenzind! Lại đây, có đúng thế không?
- Dạ phải.
- Tại sao mày đánh nó?
Tôi không trả lời.
- Không cớ gì sao lại đánh nó?
- Không.
Thế là tôi phải phạt nặng, nhưng tôi thưởng thức ý vị đó như một người tử vì đạo vì biết mình vô tội. Khốn thay, tôi chẳng là người theo chủ nghĩa khắc kỷ, chẳng là thánh, tôi chỉ là đứa trẻ con bởi vậy chịu phạt rồi tôi thè dài lưỡi ra dọa kẻ thù địch. Thầy giáo tức giận chạy lại:
- Mày không biết xấu hổ ư? Thế là nghĩa lý gì?
- Nghĩa là thằng ấy là đứa nhơ bẩn tôi khinh bỉ nó. Hơn thế nó còn là một đứa hèn nhát!
Thế là tôi chấm dứt tình bạn với thằng hề ấy. Tôi không chơi với ai nữa, suốt trong mấy năm niên thiếu tôi không có bạn. Tuy rằng sau này quan niệm của tôi về nhân tình thế sự có thay đổi, nhưng khi nào nhớ lại cái tát ấy tôi vẫn lấy làm khoan khoái vô cùng. Tôi muốn tin rằng thằng cha tóc vàng ấy không thể quên được.
Năm mười bảy tuổi tôi mê mẩn con gái một luật sư. Nàng đẹp, tôi lấy làm kiêu hãnh rằng trong đời tôi chỉ mê những người đẹp, nàng đẹp, rất đẹp. Cô bé này và một vài cô khác đã làm tôi đau khổ thế nào, lúc khác tôi sẽ kể chuyện. Tên nàng là Rose Girtanner và nàng xứng đáng để cho những người có phong độ khác tôi yêu nàng.
Hồi ấy sinh lực tuổi trẻ dồi dào đang khích động chân tay tôi. Tôi đánh lộn lung tung với bạn học. Tôi lấy làm hãnh diện được là tay đánh vật giỏi nhất, cầu thủ giỏi nhất, nhưng dù thế lúc nào tôi cũng buồn rầu. Chuyện tình ái không ảnh hưởng mấy tới tâm trạng ấy. Đó chính là nỗi buồn êm ái trước mùa xuân xâm chiếm tâm hồn tôi mạnh hơn cả, thậm chí tôi thích thú những ý nghĩ buồn nản, bi quan, những ý nghĩ về sự chết. Dĩ nhiên cũng có người bạn học cho tôi mượn tập thơ của Heine, loại sách giá phổ thông. Không phải là tôi đọc thơ nữa, tôi gửi hết nỗi niềm tâm sự tràn đầy vào những câu thơ trống rỗng, tôi chia xẻ nỗi đau thương, tôi tham dự vào sự sáng tác thi ca của nghệ sĩ, tôi để hết mình vào sự rung cảm trữ tình mãnh liệt, thật là mặc sơ mi cho một con lợn sữa. Cho đến lúc sau tôi đọc Lenau, Schiller, Geothe, Shakespeare, thế là bất thần văn chương, con ma mờ ảo ấy, trở thành thần linh lẫm liệt.
Tôi cảm thấy một luồng gió dịu dàng từ những cuốn sách ấy thổi hơi mát mẻ và ngon ngọt của một đời sống chưa từng có dưới trần gian nhưng có
thật sự và vẫn theo vận mệnh của nó trào lên thành đợt sống trong trái tim tôi. Nhân vật tiểu thuyết của Geothe và Shakespeare bắt đầu lui tới ngăn sách trong căn phòng áp mái của tôi, bấy nay chỉ có tiếng chuông nhà thờ gần đấy và tiếng cò gõ mỏ trong tổ ngay cạnh. Tôi ý thức được cái gì là thiêng liêng, cái gì là lố lăng trong kiếp sống của mọi người: tình người đau khổ và uất ức, thật bí hiểm, lịch sử loài người thật sâu sắc và thâm trầm, tư tưởng của con người như là một phép nhiệm mầu biến đổi cảnh đời gang tấc phàm nhân, sự suy tưởng dựa vào tri thức nâng cao kiếp sống mong manh lên cõi khẩn yếu và tuyệt đối. Ngó đầu ra ngoài khung cửa hẹp tôi thấy mặt trời chiếu sáng trên nóc nhà và dưới phố nhỏ, tôi ngạc nhiên nghe tiếng ồn ào đời sống cần lao khẽ vọng lên; trong sự cô tịch, sự bí hiểm, căn phòng cheo leo được hân hạnh tiếp đón các danh nhân siêu việt, tôi cảm thấy như mình sống trong bầu không khí một truyện thần tiên kỳ lạ. Dần dần tôi càng đọc sách càng thấy mái nhà và phố xá tưng bừng nhịp sống hàng ngày trở nên xa lạ kỳ dị, tôi càng thấy trong người tôi dâng lên một cảm tưởng e dè và thắc mắc, hầu như là một người có ảo giác, cuộc đời mở rộng dưới mắt tôi hầu như vẫn đợi tôi lượm lấy những kho tàng quý giá, đợi tôi vén tấm màn vô thường và thô lậu, đợi tôi cứu vãn khỏi sự huỷ diệt và ghi vào vĩnh cửu những hình ảnh bộc lộ dưới thần lực của thi ca.
Tôi bắt đầu làm thơ, cũng hơi tự thẹn; dần dần tôi viết đặc mất cuốn vở nào thơ, nào lời ghi, nào truyện kể ngắn. Những tác phẩm ấy không còn, hẳn là chúng vô giá trị, nhưng chúng đã làm tim tôi đập rộn ràng, đã đem lại cho tôi niềm vui kín đáo. Mãi sau này tôi mới có óc phê bình và tự kiểm soát đến niên học cưối cùng ở trường trung học tôi mới qua cơn thất vọng đầu tiên không thể tránh được. Tôi bắt đầu thanh toán những bài thơ tập làm và nghi ngờ văn của mình thì tự nhiên kiếm được mấy cuốn sách của Gottfried Keller. Tôi đọc luôn hai ba lượt. Bấy giờ mới chợt nhật ra rằng những mơ mộng của tôi còn non nớt và ở xa nghệ thuật chân thực; tôi vội vàng đốt hết cả thơ lẫn truyện ngắn, sau tôi chỉ nhìn đời với con mắt thực tế và bi quan; thái độ của người khổ sở, bứt rứt.
2
Đối với ái tình thì suốt đời tôi còn là đứa trẻ. Ở quê hương tôi, tình yêu phụ nữ vẫn là tâm tình cao trọng và trong sạch, ngọn lửa tình thoát tự trái tim rung cảm và bốc thẳng lên cao trong khi hai tay kính cẩn đưa lên trời xanh biếc. Theo truyền thống của mẹ, và cũng theo tiếng nói âm thầm của tim tôi, tôi trọng vọng đàn bà, bất cứ ai, nếu họ đẹp và bí hiểm, vượt hẳn chúng ta vì bẩm sinh có cái gì đẹp đẽ và nhất trí, có vẻ thiêng liêng, họ như ngôi sao trên trời hay đỉnh núi xanh lam, xa chúng ta và hầu như gần Thượng Đế hơn. Cũng như cuộc đời khắc nghiệt không phải vì ta quên rắc hạt tiêu vào, tình yêu đã đem lại cho cuộc đời tôi đau khổ cũng như êm dịu. Đàn bà vẫn đứng trên bệ cao của họ nhưng đối với tôi, địa vị ông thầy đạo kính cẩn tôn thờ dễ biến thành địa vị anh si ngốc bị nhục mạ nom đáng tức cười một cách đau xót.
Gần như ngày nào đi ăn sáng tôi cũng gặp Rose Girtanner. Một cô gái mười bảy tuổi người óng ả cân đối. Khuôn mặt mảnh mai, da nâu tươi tắn đẹp thanh nhã, phản ánh một đời sống nội tâm thanh lịch, vẫn một nét chung ấy còn phản phất trên mặt bà thân mẫu, hơn nữa, nét chung của bà và cụ của nàng. Giòng họ lâu đời này thuộc về xã hội thượng lưu, từ thế hệ nọ sang thế hệ kia đều là những trang phụ nữ ý nhị và thanh lịch, tươi tắn, cao quý, đẹp vẹn toàn. Chúng tôi có bức chân dung một người con gái giòng họ Fugger do một hoạ sĩ vô danh vẽ từ thế kỷ XVI; thật là một bức ảnh xinh đẹp nhất mà tôi được thấy. Đàn bà trong họ Girtanner thuộc về loại đó, Rose cũng thế.
Dĩ nhiên, thời ấy tôi chưa hiểu được những điều nói trên đây. Tôi chỉ biết ngắm nàng, ngắm vẻ người bình tĩnh và thanh lịch của nàng cà tôi nhận thấy vẻ cao quý trong cử chỉ giản dị của nàng. Đến tối, giữa chỗ mờ ảo, tôi ngồi suy nghĩ hoài cho đến lúc thấy người nàng, khuôn mặt nàng hiện ra sáng sủa, tâm hồn con trẻ của tôi rung động một cách dịu dàng kỳ ảo. Nhưng những phút vui sướng đó chẳng bao lâu mất hết tính chất tinh thần, và tôi phải qua những phút đau khổ cay chua. Bất thần tôi có cảm tưởng là nàng xa lạ hẳn với tôi, không quen biết tôi, không hỏi han gì đến tôi, khuôn mặt xinh đẹp trong mơ mộng chỉ là cái gì đánh cắp của con người thượng thặng ấy. Và đúng lúc tôi cảm thấy điều ấy một cách mạnh mẻ và đau đớn nhất, tôi cũng trông thấy hình ảnh nàng sống động và có hơi thở thực sự ở
trước mắt trong vài giây, một luồng rung cảm nóng bừng và đen tối ùa vào trái tim làm cho những mạch máu xa xôi nhất trong người tôi phải đau đớn kỳ dị.
Có ngày, tôi đang ngồi trong lớp hay đang đánh lộn rất hăng, đợt sóng rung cảm ấy bỗng nổi lên. Tôi nhắm mắt lại, buông thõng hai tay, cảm thấy như mình trôi tuột vào một vực thẳm nóng ran cho đến lúc tiếng la của giáo sư hay cái đấm của thằng bạn đánh thức tôi dậy. Tôi tránh ra ngoài cuộc đời, tôi trú ẩn vào thiên nhiên, trong cơn mơ mộng kỳ dị tôi đưa hai mắt bỡ ngỡ nhìn đời. Bất thần tôi lý hội được như một mạc khải vẻ đẹp và mầu sắc của thế gian, hào quang và thiên khí luân lưu trong lòng sự vật, giòng sông xanh, mái nhà đỏ, rặng núi lam. Nhưng vẻ đẹp ấy không làm tôi khuây khoả, tôi chỉ thưởng thức trong nỗi buồn êm ả. Vạn vật càng đẹp vạn vật càng xa lạ với tôi, tôi không dự phần vào, tôi chỉ đứng ở ngoài. Và ý nghĩ âu sầu của tôi lại quanh quẩn trở lại với Rose; nếu tôi chết lúc này hẳn nàng không biết, nàng cũng chẳng hỏi thăm cho biết, chẳng lấy làm buồn.
Tuy thế nhưng tôi không tìm cách cho nàng chú ý đến tôi. Tôi những muốn tặng nàng cái gì đó thật phi thường mà không để nàng biết ai tặng.
Rồi quả nhiên tôi làm nhiều thứ chỉ vì nàng. Nhân dịp được nghỉ vài ngày, nhà trường cho phép tôi về thăm nhà. Ở nhà tôi làm đủ mọi chiến công oanh liệt để tỏ lòng yêu mến Rose. Tôi leo lên một ngọn núi thật hiểm trở, chọn phía nào khó leo nhất. Tôi bơi thuyền dưới hồ, vượt những chặng đường thật xa trong một thời gian kỷ lục. Sau mỗi chiến công như vậy tôi trở về nhà mệt nhoài, rám nắng và đói như cào, nhưng tôi nghĩ rằng còn phải nhịn ăn uống cho đến tối. Tất cả chỉ vì Rose Girtanner. Tôi khắc tên nàng và lời tán tụng nàng vào những núi đá thật xa và những hốc đá kín đáo chưa ai đặt chân đến.
Trong những dịp ấy tuổi trẻ của tôi có cơ hội bù lại những ngày sống mòn mỏi trong lớp học. Vai tôi rộng ra, mặt và cổ tôi bắt nắng, các bắp thịt tôi căng phồng.
Trước ngày nghỉ cuối cùng tôi cố công đi kiếm hoa để tặng người tình. Tôi đã để ý thấy ở những triền núi([1]) hay đi qua, có những dải đất hẹp mọc hoa edelweiss, những thứ cây ốm o, có ánh bạc đó lại không hương và không lộng lẫy, tôi cho là không có hồn và kém vẻ đẹp. Trái lại tôi biết có mấy bụi hồng núi Alpes ở dưới một cái vực sâu, hồng này ra hoa rất chậm và khó hái điều đó làm tôi càng ham. Phải hái cho kỳ được. Tuổi trẻ và tình
yêu không có cái gì là làm không được, sau cùng tôi đi tới đích, hai tay xây xát, bắp vế rụng rời. Trong tình trạng nguy hiểm ấy tôi không thể kêu lên vì sung sướng, nhưng trong tim tôi đầy hoan lạc có tiếng hát vang, tôi cẩn thận ngắt những cành hoa rất rắn, cầm ở tay. Đến lúc trở về phải ngậm hoa trên miệng và bò giật lùi. Chỉ có Trời mới biết đứa trẻ táo gan làm cách nào để xuống dưới chân mỏm đá được yên lành. Khắp vùng núi đã hết mùa hồng từ lâu, tôi cầm trong tay bó hoa cuối cùng trong năm này, nụ cười hé mở.
Ngày hôm qua, trong suốt năm giờ đi đường tôi phải cầm lăm lăm ở tay. Mới đầu tim tôi đập mạnh, mong mỏi chóng đến tỉnh gặp người đẹp, nhưng càng đi xa núi tình cố hương càng kéo tôi về nhà. Chuyến đi xe hoả ấy tôi nhớ mãi! Ngọn Sennalpstock đã khuất từ lâu, bây giờ đến lượt những ngọn khác lần lượt đã khuất phía sau; mỗi ngọn lìa khỏi trái tim tôi để lại một cảm giác đau đớn. Núi non quen thuộc khuất hết, bây giờ là một đồng bằng mênh mông xanh rờn. Chuyến đi thứ nhất của tôi không để ý đến những sự kiện này. Nhưng lần này tôi xao xuyến buồn rầu như thể bị bắt buộc phải đến sống ở những nơi bình địa, không bao giờ được về ở núi, mất quyền sống ở quê hương. Đồng thời trước mặt tôi hiện ra khuôn mặt mảnh mai của Rose Girtanner, thanh lịch nhưng xa lạ, lạnh lùng, không để ý gì đến tôi đến nỗi tôi nghẹt thở vì khổ sở đau đớn. Trước khung cửa toa tàu vun vút đưa qua nào làng mạc vui tươi sạch sẽ với tháp cao, chòi trắng, nào dân cư kẻ ra người vào, nói cười, hút thuốc, chào hỏi nhau, bông đùa với nhau, họ đều là người đồng ruộng cử chỉ nhẹ nhõm, ăn nói hoạt bát, tính tình hoà nhã, còn tôi, người nặng nề miền núi, tôi sống với họ, khăng khăng giữ lấy cục lầm lì, buồn so. Tôi có cảm tưởng từ đây phải bỏ núi rừng mà không bao giờ vui vẻ, khéo léo, thư thái, tự chủ như họ được. Những người như thế sẽ chế nhạo tôi, Rose Girtanner sẽ lấy một người như thế; tôi luôn luôn gặp những người như thế ngăn bước đường đi hay lấn tôi từng bước.
Tôi trở lại tỉnh thành với ý nghĩ ấy. Vừa chào hỏi xong, tôi vội bước lên gác thượng mở rương ra lấy một tờ giấy lớn. Tờ giấy là giấy bồi đem bọc hoa hồng xứ Alpes tôi mang sẵn một sợi dây gai từ nhà đi để cột, nom gói đồ không có vẻ quà tặng người yêu chút nào. Tôi trịnh trọng mang gói hoa đến chỗ cư ngụ của luật sự Girtanner, thừa lúc thuận tiện tôi thấy cửa mở liền bước vào, liếc nhìn phòng ngoài lờ mờ ánh đèn rồi đặt gói giấy chẳng ra hình thù gì lên chiếc cầu thang rộng trong cái dinh thự quý tộc ấy.
Không ai trông thấy tôi cả mà tôi cũng chẳng biết Rose có dịp trông thấy quà tặng hay không. Nhưng tôi đã leo lên sườn hốc đá, đã liều mạng để lấy
bó hoa hồng đem đặt lên thềm nhà này. Trong câu chuyện ấy có cái gì êm dịu, u buồn lẫn vui vẻ, có cái gì thú vị làm tôi sung sướng đến ngày nay vẫn còn cảm thấy. Chỉ những phút Thượng Đế bỏ tôi, tôi mới hầu như cảm thấy câu chuyện hoa hồng của tôi cũng như tất cả các chuyện tình khác của tôi đều là chuyện ngớ ngẩn.
Mối tình đầu của tôi không bao giờ có kết quả. Nó tắt nghỉ trong sự mơ hồ không ngã ngũ ra sao khi tuổi trẻ tôi trôi đi, và sau này, mỗi khi tôi yêu ai, nó trở lại đi bên cạnh sự mê say mới như một người chị bí mật. Tôi vẫn không thể tưởng tượng được người nào cao quý hơn, trong trắng hơn, xinh đẹp hơn người con gái quý tộc có đôi mắt lặng lẽ ấy. Nhiều năm sau khi tôi đi thăm một cuộc triển lãm lịch sử ở Munich, khi tôi nhìn thấy bức chân dung người con gái họ Fugger, vô danh, bí hiểm và duyên dáng, tôi có cảm tương như tất cả tuổi trẻ của tôi hiện ra trước mắt và đứng nhìn tôi.
Tuy nhiên tôi cũng thay da đổi thịt, dần dần tôi cũng trở thành người thanh niên. Trông bức ảnh chụp hồi ấy tôi là một chàng trai xứ quê người xương xẩu, to lớn, ăn bận kiểu học sinh lôi thôi, hai mắt lờ đờ, chân tay một anh bị thịt chưa lớn đẫy con. Chỉ có cái đầu là sớm thành hình dáng nhất định. Tôi ngạc nhiên thấy mình mất hết dáng dấp trẻ con, tôi chờ đợi sống cuộc đời sinh viên mà tôi đã lờ mờ nếm trước niềm vui.
Tôi sẽ theo học trường Đại Học Jurich nếu sự học vấn của tôi có kết quả mỹ mãn, những người đỡ đầu cho tôi cũng hứa rằng có thể cho đi du lịch để nghiên cứu việc học. Trước mắt tôi đã hiện ra một bức tranh cổ điển: một vườn cây u nhã xanh tươi với những tượng bán thân Homère và Platon, tôi ngồi cắm cúi xuống những cuốn sách lớn, tứ bề sáng sủa, nhìn ra xa thấy thành thị, núi hồ, những cảnh ngoạn mục.
Tôi đã bớt mơ mộng nhưng tôi hăng hái hơn và tôi hớn hở vì hạnh phúc tương lai, yên chí rằng mình đáng được hưởng lắm.
Những năm cuối niên học, tôi rất ham học tiếng Ý, lần đầu tiên tôi đọc những truyện ngắn của các nhà văn cổ và tự hứa sẽ đọc nhiều hơn và nghiên cứu cẩn thận hơn ngoài giờ học môn chính khi đến Jurich. Rồi đến ngày tôi từ giã thầy học và chủ trọ, xếp quần áo vào rương lấy đinh đóng thật chặt, tôi buồn nhẹ nhàng đi qua trước cửa nhà Rose từ giã.
Những kỳ nghỉ hè kế tiếp cho tôi nếm trước vị chua xót của cuộc đời và chẳng bao lâu chúng đã phũ phàng cất cánh bay bổng mơ mộng của tôi. Trước hết là tin mẹ tôi lâm bệnh. Bà nằm liệt giường không nói năng gì và
lạnh lùng cả với tôi. Tôi không có khuynh hướng bi thảm hoá việc đời, nhưng tôi rất hảo tâm vì ở đây không ai thông cảm với niềm vui và lòng kiêu hãnh tuổi hoa niên của tôi. Kế đấy cha tôi cho biết rằng nếu tôi muốn theo đại học thì cha tôi không phản đối, nhưng ông không đủ khả năng nuôi tôi ăn học. Nếu số học bổng của tôi không đủ thì tôi phải đi làm kiếm thêm tiền. Bằng tuổi tôi cha tôi đã phải tự túc từ lâu.
Bây giờ không còn thì giờ leo núi, bơi thuyền và chạy rong miền quê nữa, tôi phải tham gia vào việc nhà, việc đồng áng, nửa ngày được rỗi rãi tôi chẳng thiết gì nữa, đọc sách tôi cũng không ham. Tôi phẫn nộ và ủ dột vì công việc sinh nhai đòi hỏi nhiều quá, nó ngốn hết sinh lực và hăng hái của tôi. Vả chăng cha tôi khi khỏi bận tâm đến tiền nong lại theo tính bẩm sinh tỏ ra gắt gỏng và ít nói tuy ông đối xử với tôi không có gì làm tôi phải thở than, dầu sao thì ở nhà tôi cũng không lấy gì làm vui thú. Tôi cũng bối rối và khổ tâm khi nhận thấy học vấn và sách vở của tôi vừa làm ông kính nể lẫn khinh bỉ tuy ông không để lộ cho biết. Tôi cũng hay nghĩ đến Rose và tôi lại đau xót vì tính quê mùa của tôi bất lực không bao giờ thích ứng được với “thiên hạ”. Trong nhiều ngày tôi đã phải tự hỏi chẳng thà tôi ở lỳ đây còn hơn, chẳng thà gác bỏ tiếng Latin và hy vọng tương lai để sống mòn mỏi ở xó làng trong cuộc đời tối tăm, cực nhọc và gò bó. Tôi đi la cà chỗ này chỗ khác, lòng bối rối và buồn nản và cũng không tìm được chút an ủi hay thư thái bên giường bệnh của mẹ tôi. Hàng cây xum xuê mà tôi mơ mộng thấy bên tượng Homère bây giờ chỉ còn có vẻ nhạo báng, tôi xua đuổi nó với tất cả sự giận dữ căm hờn. Ngày tháng dài dằng dặc chịu không nổi, hầu như tất cả tuổi thanh xuân của tôi sẽ tiêu tan trong sự thất vọng đau đớn, mình không thể thoả hiệp với mình như vậy.
Nếu ngày xưa tôi kinh ngạc và phẫn nộ vì cuộc đời tiêu huỷ toàn vẹn giấc mộng hạnh phúc của tôi nhanh chóng như vậy, thì ngày nay tôi cũng lấy làm lạ rằng tôi có thể chế ngự mau chóng và mạnh dạn những mối lo hiện tại. Mới đầu đời sống cho tôi biết bộ mặt tối sầm thường nhật của nó, bây giờ tôi đã hiểu đời; cuộc đời xuất hiện dưới mắt tôi với vẻ sâu sắc vĩnh tồn của nó, nó đem lại cho tuổi trẻ của tôi những kinh nghiệm giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
Một buổi sáng tinh sương ngày hè nóng nực, tôi nằm trong giường thấy khát nước bèn trỗi dậy để xuống bếp tìm gầu nước lạnh vẫn để ở đấy. Khi đi qua phòng cha mẹ tôi, tôi giật mình vì mẹ tôi rên những tiếng khác thường. Tôi đến bên giường mắt bà đã dại không thấy tôi, bà cũng không trả lời tôi,
bà vẫn tiếp tục rên la những tiếng ngắn và rối loạn, hai mi mắt luôn luôn chớp nhoàng nhoàng, mặt nhợt nhạt và xám xanh. Tôi không đến nỗi kinh hoàng tuy vẫn lo lắng. Bấy giờ tôi mới nhận thấy bà để hai tay buông xuôi trên nệm, cứng ngắc như hai chị em xinh đôi nằm ngủ. Hai bàn tay ấy báo cho tôi biết mẹ tôi sắp chết, hai bàn tay kiệt lực không cử động nữa, người sống không bao giờ hai tay như vậy. Tôi quên cả khát, tôi quỳ xuống đặt tay lên trán mẹ, nhìn mắt mẹ. Bà nhìn tôi, vẻ yên tĩnh không tỏ chút đau đớn nhưng hình như sắp tắt nghỉ. Tôi không nghĩ đến việc đánh thức cha tôi dậy, cha tôi ngủ bên cạnh, thở như sấm. Tôi quỳ như vậy trong hai tiếng đồng hồ nhìn mẹ tôi qua đời. Mẹ tôi chấp nhận cái chết một cách lặng lẽ, can đảm và nghiêm trang, bản tính của bà như vậy, đó là tấm gương tốt cho tôi.
Ánh sáng bàn ngày dần tràn vào căn phòng yên lặng; nhà tôi và làng xóm còn ngủ yên; tôi được rảnh rang đưa linh hồn người chết lâng lâng lướt trên nhà cửa, thôn xóm, hồ ao, đỉnh núi tuyết phủ, trong cảnh tự do băng giá của trời trong ban mai. Tôi ít đau đớn vì lòng tôi tràn ngập kinh ngạc và tôn kính khi được trông thấy diễn ra sự bí mật vĩ đại, kiếp sống trần gian kết liễu với một cái rùng mình nhẹ nhàng. Sự can đảm và sự nhẫn nại của người chết, thật là cao đẹp, vầng hào quang chói lọi và thanh tĩnh quanh mình mẹ tôi toả chiếu một tia sáng rọi vào trái tim mát lạnh. Tôi không nghĩ đến điều gì khác như cha tôi nghĩ, không có ông Cha giải tội nào ở bên, không có phép rửa tội và kinh kệ tiễn đưa một linh hồn từ biệt Trần gian. Tôi chỉ thấy rõ một giòng vĩnh cửu lướt qua như một luồng gió trong ánh sáng mờ căn phòng nhỏ thấu vào tâm hồn tôi và kết hợp với tâm hồn tôi.
Đến lúc cuối cùng, tia sống trong mắt mẹ tôi đã tắt, lần thứ nhất tôi hôn miệng lạnh lẽo và tàn úa của mẹ tôi. Tiếp xúc với sự lạnh lẽo ấy, bất thần tôi rùng mình, tôi ngồi xuống bên giường, hai giọt nước mắt ngại ngùng kế tiếp nhau chảy chậm chạp xuống má, cằm và hai bàn tay.
Một lát sau cha tôi tỉnh dậy thấy tôi ngồi đấy giọng tôi còn ngái ngủ, ông hỏi tôi có chuyện gì đấy? Tôi muốn trả lời nhưng nói không lên tiếng; tôi ra khỏi phòng, trở về phòng mình thong thả mặc áo như trong cơn mê ngủ không biết mình làm gì. Sau cha tôi cũng chạy vào:
“Mẹ con mất rồi, cón có biết không?”
Tôi gật đầu.
“Sao mày không đánh thức tao? Không có cha đến rửa tội…” Ông chửi thề một tiếng lớn.
Tôi thấy đau nhói trong đầu như có một mạch máu vỡ tung. Tôi tiến lại, lấy hai tay nắm chặt cha tôi và nhìn vào tận mắt ông – bên cạnh tôi, coi ông không khác hơn đứa trẻ là bao. Tôi không thể nói nên lời, nhưng cha tôi yên lặng, người rất xao xuyến, khi hai cha con cùng đến bên mẹ tôi, ông cũng hiểu thấm thía mãnh lực của cái chết, ông trở nên trịnh trọng khác thường. Sau cùng ông cúi xuống gần người quá cố và la khóc nhỏ nhẹ như một đứa trẻ, gần như một con chim. Tôi đi báo tin cho hàng xóm biết, họ nghe tôi nói, không hỏi han gì, đưa tay ra bắt tay tôi và hứa sẽ sang giúp việc vì trong nhà thiếu bà nội trợ. Một người nhận lãnh việc đi mời ông Cha, khi tôi về nhà đã thấy một cô láng giềng vào chuồng coi giùm bò.
Ông Cha đến, hầu hết đàn bà trong xóm đều có mặt; mọi việc được xếp đặt chu đáo theo tục lệ trong làng; chúng tôi cũng không phải bận tâm tới quan quách; và lần thứ nhất tôi nhận thấy mình rất có phước được sống giữa những người thân, giữa một cộng đồng có thể tin cậy được. Ngày hôm sau tôi còn dịp để nghĩ nhiều về tình thân quyến,
Khi cái quan tài đã hạ huyệt, phép lành đã ban, người đưa đám giải tán, nét mặt trầm buồn, khi những chiếc mũ lông, những chiếc mũ cao chóp – kể cả mũ của cha tôi – đã cất vào hộp trong tủ, cha tôi phải một dạo suy nhược. Ông trở nên bần thần, ông tự thán cho mình, ông kể cho tôi nghe sự đau khổ của ông bằng những công thức kỳ dị, phần nhiều rút ở Thánh kinh. Bây giờ mẹ tôi đã qua đời mà con lại sắp sửa đi xa! Ông nói mãi không chán, tôi nghe mà phát sợ sắp đến lúc phải hứa với ông là ở lại nhà.
Giữa lúc tôi mới mở miệng định trả lời thì trong người tôi thoáng qua một cái gì kỳ lạ. Trong một giây, những điều tôi đã nghĩ đến hồi còn thơ ấu, những điều tôi mong mỏi thật mãnh liệt bỗng xuất hiện như đọng lại thành một ảo giác. Tôi trông thấy những công việc vĩ đại đang chờ đợi tôi biết bao sách sẽ đọc, biết bao sách sẽ viết. Tôi nghe thấy tiếng bão thổi ầm ầm, tôi nhìn thấy xa xa mặt hồ và ven hồ sáng lạn dưới ánh nắng trời Nam. Tôi trông thấy lướt qua những người mặt mũi tuấn tú lộ vẻ thông thái hiền triết, những phụ nữ xinh đẹp và thanh lịch, tôi trông thấy đường dài xa tắp đèo thông qua núi Alpes, tàu hoả chạy khắp nơi; mọi cảnh đều diễn ra cùng một lúc, nhưng vật nào vật nấy hiện ra riêng rẽ, rõ mồn một; đằng sau những cảnh trí ấy còn chân trời xa xa sáng sủa điểm mấy đám mây bay nhẹ nhàng. Học hỏi, sáng tác, suy tư và du lịch; cuộc sống đầy đủ xuất hiện thành một ảo giác lướt qua chói lọi trước mắt tôi, lại một lần nữa, cũng như lúc thơ, có
cái gì trong tôi sùng sục âm thầm thúc đẩy tôi tới những chân trời rộng rãi của giang san vô tận, không thể cưỡng được.
Tôi yên lặng để cha tôi nói, chỉ lắc đầu và đợi cho ông qua lúc xúc động. Mãi đến chiều ông mới nguôi lòng. Tôi bèn nói cho cha biết tôi nhất quyết theo học để sau này có chỗ đứng trong thế giới văn học, nhưng không xin cha cấp dưỡng tiền nong. Ông không tìm cách ép buộc gì tôi, chỉ lắc đầu ra vẻ kinh dị. Ông hiểu rằng kể từ ngày hôm nay tôi đi con đường riêng biệt của tôi, chẳng bao lâu sẽ chẳng liên lạc gì với đời sống của ông nữa. Lát sau, khi ngồi viết, tôi nhớ lại ngày hôm ấy, tôi thấy cha tôi ngồi gần cửa sổ, nom y như ban chiều. Khuôn mặt người nông dân tinh khôn, nét rất đậm, đặt trên cái cổ mảnh dẻ, yên không cử động, mái tóc ngắn đã hoa râm, trên khuôn mặt khắc nghiệt và rắn rỏi ấy phảng phất sự u buồn của tuổi già đang xâm lấn thời kỳ tráng niên.
Những ngày sống dưới mái nhà với cha tôi còn để lại một kỷ niệm nhỏ nhưng không phải là không quan trọng. Vài tuần trước khi ra đi, một buổi tối cha tôi đội mũ và đưa tay cầm nắm đấm cửa. Tôi hỏi: “Bố đi đâu đấy?”. “Mày cũng biết à? Mày có thể nói cho tao biết nếu không có gì trở ngại”. Rồi cha tôi cười và nói lớn: “Mày đi với tao cũng được, mày không còn bé dại gì nữa.” Thế là tôi theo cha ra tửu quán. Trong quán có vài người dân quê ngồi quanh một vò rượu nho xứ Hallau, hai người đánh xe ngoại quốc uống rượu mạnh, một đám thanh niên đánh bài cười nói ồn ào.
Tôi cũng có thói quen thỉnh thoảng uống một ly rượu nho, nhưng đây là lần thứ nhất tôi bước vào một quán cà phê. Tôi nghe người ta nói cha tôi là một tay tửu lượng rất cao. Ông uống nhiều và vẫn tỉnh táo, vì thế mà trong nhà túng bấn liên miên tuy ông không chểnh mảng quá đáng. Tôi nhận thấy chủ quán và khách đều có vẻ kính nể ông. Ông gọi một lít rượu nho Thụy Sĩ bảo tôi rót ra ly và dạy tôi cách rót rượu. Phải để thấp bình mà rót, sau đưa tay lên kéo giòng nước ra thật dài, rồi lại hạ bình xuống thật thấp. Rồi ông nói đến các thứ rượu ông biết và vẫn quen dùng vào những dịp hiếm hoi, thí dụ như khi ông lên tỉnh hay sang xứ lạ. Ông ra giọng nghiêm trang mà xác định rượu Valentine rất ngon, thứ rượu đỏ sậm mà ông biết phân biệt ba thứ. Sau ông hạ giọng kín đáo để người nghe phải tin, nói đến một vài thứ rượu đóng chai của miền Vaud. Và sau cùng ông nói thật nhỏ như người kể chuyện cổ tích, khen ngợi rượu Neuchâtel. Thứ rượu đó đổ ra ly nom như một ngôi sao đựng trong ly, và ông dấp ướt ngón tay vẽ ngôi sao ra bàn. Sau cùng ông ức đoán tầm phơ tầm phèo hương vị rượu xâm banh, ông chưa
được uống thử bao giờ, ông tưởng rằng một chai có thể làm cho hai người say sưa như hai con lừa cái.
Nói chán rồi ông yên lặng nghỉ ngơi và đốt ống điếu. Bấy giờ ông mới nhận thấy tôi không có gì hút, ông cho tôi hai hào để mua vài điều xì gà. Rồi hai cha con ngồi đối diện nhau, thở khói vào mặt nhau uống lai rai hết lít rượu thứ nhất, Rượu Vaud sắc vàng uống hơi the hợp giọng tôi lắm. Dần dần mấy người nông dân bên cạnh góp vào vài câu, họ hắng giọng lần lượt đến ngồi bên cạnh chúng tôi. Rồi mọi người chú ý đến lời nói của tôi, hẳn là họ chưa quên tài leo núi của tôi. Người ta kể lại đủ mọi chuyện leo núi và té ngã, kể ra cũng khó tin như thần thoại hoang đường, người bắt bẻ chống chế. Bấy giờ chúng tôi đã uống hết hai lít, máu nóng xông lên đầu tôi. Trái với bản tánh thường nhật, tôi bắt đầu ba hoa nhiều chuyện và nói đến chuyện leo lên mỏm đá Sennalptock rất táo tợn của tôi để hái hoa hồng tặng Rose Girtanner. Họ không tin, tôi cãi lại, họ phì cười làm tôi nổi nóng. Tôi thách người nào ngờ vực hãy ra vật lộn với tôi và nói cho họ hiểu rằng nếu cần tôi sẽ đương đầu với cả bọn. Đến đấy, một ông già người đã còng queo mang một cái nậm sành lớn đặt trên bàn.
Ông cả cười mà rằng: “Tôi bảo anh này, nếu quả anh giỏi như vậy anh hãy đánh vỡ tan cái nậm sành này coi. Tôi sẽ mất cho anh tiền rượu mà nậm có thể chứa được. Nếu anh không làm được thì anh phải trả tiền rượu”.
Cha tôi đồng ý ngay. Tôi bèn đứng dậy, lấy khăn bọc vào và đấm mạnh vào bình. Hai quả đầu không có kết quả. Đến lần thứ ba bình bể tung. Cha tôi vui vẻ quá la lên: “Trả tiền đi!” Ông già có vẻ nghe lời: “Được rồi, tôi sẽ trả, bình đựng bao nhiêu tôi sẽ trả. Kể ra nó chẳng còn chứa được mấy hột”. Quả vậy, bình vỡ chỉ chứa chưa được một cốc vại, còn tôi đã đau tay còn bị mắc lỡm. Cả cha tôi cũng cười tôi nữa.
Tôi vội la lên “Ừ thì ta cho mi được cuộc!”. Tôi rót rượu vào một mảnh bình vỡ, cầm hắt vào mặt lão. Lần này thì chúng tôi được lợi thế, mọi người đứng về phía chúng tôi.
Người ta còn nghĩ ra nhiều trò hề kiểu ấy, sau đấy cha tôi mới kéo tôi về. Hai cha con đều bốc nóng, càu nhàu, chúng tôi làm om sòm trong căn phòng mới đây ba tuần lễ còn để chiếc quan tài mẹ tôi. Tôi ngủ say như chết, ngày hôm sau người tôi bải hoải, trí tôi rối loạn. Cha tôi chế giễu tôi. Ông vẫn khoẻ khoắn và vui tươi, chỗ hơn người ấy làm ông sung sướng rõ
rệt. Còn tôi, tôi thề rằng từ nay không uống rượu nữa và tôi sốt ruột đợi ngày khởi hành.
Ngày khởi hành đến, tôi lên đường, nhưng tôi không giữ lời thề. Từ đấy tôi làm quen với rượu vàng xứ Vaud, rượu đỏ sậm xứ Valentine, rượu óng ánh như sao xứ Neuenburg và nhiều rượu nữa, rượu trở thành bầu bạn của tôi.
3
Thoát khỏi bầu không khí nặng nề vô vị ở quê hương, tôi tung cánh bay về chốn tự do vui thú. Trong quãng đời còn lại, có khi tôi sống không quân bình, nhưng ít ra tôi cũng hưởng đầy đủ nhiều sắc thái thú vị lãng mạn của tuổi trẻ. Như một chàng tráng sĩ ngồi nghỉ ở ven rừng xanh tươi, tôi sống những phút xao xuyến êm ái giữa cuộc tranh hùng ngoài chiến địa và lúc giải trí vẩn vơ; như một nhà tiên tri linh cảm hết chuyện khác, tôi đứng bên bờ những vực thẳm tối tăm, tai lắng nghe sông rộng, bão to ầm ầm chuyển động, tâm hồn mở rộng đón nhịp điệu sâu xa của vạn vật, của đời sống muôn loài. Tôi đã say sưa uống cạn chén thanh xuân, tôi đã đau đớn âm thầm và sâu xa vì những cô gái đẹp mà tôi kính yêu thầm trộm, và tôi đã hưởng đến cùng hạnh phúc cao quý nhất của tuổi trẻ: một tình bạn đứng đắn, vui vẻ và trong sạch.
Tôi ở trên xe hỏa bước xuống, mặc bộ đồ mới bằng thứ nỉ xấu, mang theo một cái rương đựng đầy sách vở và mấy thứ cần dùng, sẵn sàng để chinh phục một phần thiên hạ và chứng tỏ cho những người cổ lậu xứ tôi biết rằng tôi có tư chất khác hẳn người trong họ Camenzind. Trong ba năm, ba năm tươi thắm, căn gác thượng lộng gió trông ra khoảng trời rộng rãi, tôi chuyên chú về văn nghiệp; tôi muốn thấu hiểu mọi vẻ đẹp của trần gian, vẻ đẹp ở gần tôi, bao bọc quanh mình tôi, thấm nhập và mình tôi. Không phải ngày nào tôi cũng được cơm canh nóng sốt, nhưng suốt ngày đêm giờ nào trái tim tôi cũng cười cũng khóc, tràn ngập niềm vui mãnh liệt, ôm ghì lấy thú vui của đời sống một cách hăng hái và ham say.
Chàng thư sinh là tôi bắt đầu biết Zurich, một đô thị quan trọng, trong mấy tuần lễ liền tôi mở to mắt quan sát mọi thứ. Tôi không hề nghĩ đến việc ca ngợi hay thèm muốn đời sống thị thành: đối với cuộc sống ấy tôi chỉ là một người nông dân. Nhưng tôi khoan khoái mà thấy nhiều sắc thái của phố phường, nhà cửa, dân cư. Tôi theo xe cộ đi lại nhộn nhịp, tôi ngắm bến tàu, công trường, vườn hoa, dinh thự và giáo đường, tôi xem người thành thị chăm chỉ kéo nhau lũ lượt đến sở làm, sinh viên dạo chơi, người ngoại quốc đi một vòng quanh thành phố. Vợ con người giàu có, đàn bà sang trọng ăn mặc hợp thời trang, dáng dấp kiêu kì hơi có vẻ lố lăng, khinh khỉnh với tôi không khác gì con công trong vườn gà vịt. Thật ra tôi không nhút nhát mà
chỉ vụng về thôi, thể chất và tâm hồn tôi thiếu ý nhị, tôi không cho rằng tôi không thể thích ứng đến nơi đến chốn với đời sống hoạt động của người thành thị và sống mãi mãi với họ.
Tình bạn trẻ xuất hiện với tôi dưới bộ mặt một chàng trai đẹp trai cũng học ở tỉnh này, y ở căn lầu thứ nhất cùng nhà, mướn hai căn phòng rất đẹp. Hàng ngày tôi nghe y đánh dương cầm ở dưới, bởi vậy lần thứ nhất tôi được biết chút ít về cái du dương của âm nhạc, nghệ thuật êm ái và nữ tính hơn cả. Sau tôi thấy y đi ra, dáng đi uyển chuyển và người mảnh mai, tay trái cầm một cuốn sách hay một tập nhạc, tay phải cầm điếu thuốc, tưởng vòng khói tan tỏa ra phía sau. Tôi mến y với tình bạn thân thiết và rụt rè, nhưng tôi vẫn giữ ý không muốn làm quen vì sợ mình chơi với một người bạn có phong thái tự chủ, ung dung, nhanh nhẹn không khỏi làm cho tôi tự thẹn vì mình nghèo và kém đường ăn ý ở. Chính y đến thăm tôi trước. Một buổi tối có tiếng gõ cửa, tôi áy náy vì chưa bao giờ tiếp ai ở nhà tôi. Người sinh viên đẹp trai ấy, tự bước vào, giơ tay bắt tay tôi, tự giới thiệu và xử sự rất tự nhiên, rất vui vẻ làm như hai người quen nhau từ lâu.
Y nói một cách thân mật: “Tôi muốn hỏi anh, anh có thích chơi âm nhạc với tôi không.” Khốn thay, trong đời tôi đã sờ đến cái đàn bao giờ đâu. Tôi nói cho y biết và thêm rằng ngoài giọng hát xứ Tyrol ra tôi không biết một nghệ thuật nào khác, tuy nhiên nghe tiếng dương cầm của y cũng biết hay biết thú.
Y vui vẻ mà rằng: “Thế ra tôi lầm! Trông bề ngoài của anh tôi dám cá rằng anh biết chơi âm nhạc. Lạ thật thế sao anh biết hát giọng Tyrol. Anh hát cho tôi nghe đi, tôi thích lắm.”
Tôi bối rối mà trả lời rằng ở trong phòng nhỏ này mà lại có người bảo hát thì tôi không hát giọng ấy được. Chỉ có thể hát khi nào ở trên núi hay ít ra ở ngoài trời và mình có hứng.
“Nếu vậy ta sẽ lên núi để anh hát cho tôi nghe! Ngày mai nhé! Anh nhận lời tôi đi. Chúng ta có thể cùng đi vào buổi chiều, đi lang thang và tán chuyện chơi; lên núi anh sẽ hát một điệu Tyrol rồi tối xuống làng dùng bữa. Anh được rỗi rãi chứ?”
Thì hẳn rồi, tôi thiếu gì lúc rảnh rang. Tôi vội nhận lời ngay. Rồi tôi cũng yêu cầu y đờn cho nghe. Tôi theo y xuống căn phòng đẹp đẽ và rộng rãi của y. Một vài bức họa đóng khung kiểu mới, cái dương cầm, một chút bề bộn nên thơ, hơi thuốc thơm thoang thoảng làm cho căn phòng xinh xắn có một
vẻ thanh lịch phóng khoáng và tiện nghi, một bầu không khí thoải mái mới mẻ đối với tôi. Richard ngồi vào dương cầm đánh vài điệu.
- Anh biết bài này chứ?
Y quay lại hỏi tôi, trông y thật là phong lưu công tử. Khuôn mặt xinh trai bỏ phím đàn, nghiêng đi ngó tôi với hai con mắt sáng ngời.
- Không, tôi không biết gì cả.
- Của Wagner, bậc thầy về âm nhạc.
Y trả lời rồi tiếp tục chơi đàn. Một bản nhạc dịu dàng và mãnh liệt, buồn bã và hồn nhiên, tôi cảm thấy như đầm mình trong nước ấm làm cho người sảng khoái. Tôi vừa nghe vừa ngắm lưng và gáy mảnh dẻ hai bàn tay trắng trẻo của người chơi đàn, lòng vui kín đáo. Tôi cũng thấy lòng mình yêu mến và kính trọng một cách thán phục và rụt rè như trước đã từng kính mến người bạn học tóc đen, tôi cũng có cảm tưởng lờ mờ rằng người thanh niên tuấn tú và thanh lịch này có thể trở nên bạn thân của tôi để thực hiện những hoài bão mà tôi đã quên rồi.
Ngày hôm sau tôi xuống kiếm y. Chúng tôi vừa nói chuyện vừa thong thả leo lên một ngọn đồi cao lắm, mắt ngó xuống thành phố, mặt hồ và vườn tược, yên hưởng vẻ đẹp của lúc chiều tà.
Richard nói:
- Bây giờ thì anh hát một điệu Tyrol đi. Nếu anh còn mắc cỡ thì cứ xoay lưng lại tôi. Xin hãy hát cho, hát lớn lên!
Y được thỏa mãn. Trong buổi chiều vàng tôi lấy gân hát lớn, đủ các giọng, đủ các khuôn đem hết niềm vui vào giọng hát. Khi tôi ngừng hát, y muốn nói điều gì, nhưng bỏ lửng, chỉ tay lên núi và lắng tai nghe. Từ một ngọn núi xa, điệu hát đáp lời vọng lại, kín đáo, ngân nga, tiếng chào của một gã mục đồng hay một khách bộ hành; chúng tôi lắng nghe trong yên lặng và vui sướng. Khi hai chúng tôi cùng lắng nghe, cảm tưởng đứng bên người bạn, cùng bạn dõi mắt ra phương trời xa rực rỡ mây hồng khiến cho lòng tôi rung động êm ái. Mặt hồ bắt đầu óng ánh dưới chiều tà, giây lát trước khi mặt trời lặn mây mù tan đi làm hiển hiện một vài đỉnh núi rất hiểm trở.
Tôi nói:
“Phương trời ấy là xứ tôi, ngọn núi ở giữa là Rote Fluh, bên phải là núi Geshorn, bên trái xa hơn một chút là ngọn Seanalpstock, đỉnh tròn. Tôi mới hơn mười tuổi đã bắt đầu lên ngọn núi lớn ấy.”
Tôi ráng sức tìm một ngọn nữa ở phía nam. Lát sau Richard nói một câu tôi không hiểu. Tôi hỏi lại:
- Anh nói gì?
- Tôi nói rằng bây giờ thì tôi biết anh có khiếu về nghệ thuật nào. - Nghệ thuật nào?
- Anh là thi sĩ.
Y làm tôi mắc cỡ; y đoán ra điều ấy làm tôi vừa khó chịu vừa kinh ngạc.
- Không, tôi không phải thi sĩ. Ở nhà trường tôi có ít bài thơ thật nhưng đã lâu nay tôi không làm nữa.
- Cho tôi xem được không?
- Tôi đốt hết rồi, mà dù tôi còn giữ cũng không cho anh xem. - Hẳn là cái gì rất mới, có nhiều mùi vị Nietzsche.
- Thế là cái gì?
- Nietzsche. Trời ơi, anh không biết à?
- Không. Biết ở đâu được.
Y thích chí vì tôi không biết Nietzsche. Nhưng tôi chạnh lòng, tôi bèn hỏi y đã từng lên được mấy ngọn núi tuyết. Khi y trả lời chưa lên ngọn nào, tôi cũng làm mặt ngạc nhiên và ngạo nghễ như y lúc trước. Y bèn đặt tay lên trên vai và nói rất nghiêm nghị: “Anh hay động lòng. Nhưng anh không biết rằng anh là người chân thực, anh không biết rằng rất hiếm có! Trong một hai năm nữa anh cũng biết Nietzsche và tất cả cửa tiệm triết lý, mà anh sẽ biết hơn tôi vì anh thông minh và sâu sắc hơn tôi. Tuy nhiên tối rất mến anh với trình độ của anh bây giờ. Anh không biết Nietzsche và cũng không biết Wagner, nhưng anh thường lên núi tuyết, anh có khuôn mặt người ở Cao Nguyên. Và chắc chắn anh cũng là thi sỹ. Trông vẻ nhìn và trán của anh thì đủ biết.”
Tôi cũng lấy làm lạ rằng y nhìn tôi một cách sỗ sàng và sống sượng, y nói thẳng ý nghĩ không úp mở như vậy.
Nhưng tôi còn ngạc nhiên và vui sướng hơn khi tôi gặp y tám ngày sau tại vườn một cái quán rất đông khách; y đề nghị với tôi đánh dấu tình bạn thân thiết, trước mặt mọi người y đứng dậy ôm lấy tôi hôn và cùng tôi nhảy chung quanh bàn.
Tôi rụt rè và bảo y:
- Không biết thiên hạ họ nghĩ thế nào?
- Họ nghĩ rằng: hai thằng cha này sung sướng khác thường hay đã say bí tỉ, nhưng phần nhiều họ không nghĩ gì cả.
Tuy y hơn tuổi tôi, thông minh hơn, được dạy dỗ chu đáo hơn, cái gì cũng thông thạo lọc lõi hơn tôi nhưng đi bên cạnh tôi thường khi anh có vẻ một đứa trẻ con. Ngoài phố y tán tỉnh nữ sinh còn trẻ con với giọng trịnh trọng và chế giễu, đang chơi những bản đờn nghiêm trang nhất y ngừng lại bông phèng những câu vô vị nhất. Một hôm chúng tôi cùng đi lễ nhà thờ, giữa lúc giảng đạo, bất thần y lấy giọng thạo đời bảo tôi: “này anh, anh có thấy ông cha cố này có vẻ một con thỏ già không?” Y so sánh thật đúng nhưng tôi cho rằng y để sau hãy nói thì hơn, và tôi bảo cho y biết.
Y bĩu môi cãi lại: “Đã đúng thì sao không nói. Lát nữa chắc là tôi không nghĩ đến nữa.”
Những câu nói khôi hài của y không phải là bao giờ cũng thông minh, thường chẳng có gì khác ngoài trích dẫn một câu thơ của Busch, nhưng tôi không thấy chối tai, người khác cũng vậy, bởi vì chúng tôi yêu y không phải vì y thông minh hay lanh lợi mà vì tính vui vẻ bất di bất dịch của bản chất tươi cười con nít lúc nào cũng lộ ra bên ngoài làm y có dáng nhẹ nhàng khinh khoái. Bản chất của y có thể biểu lộ trong khóe cười kín đáo, trong vẻ nhìn vui tươi, nhưng y không thể giữ kín được lâu. Tôi tin rằng trong giấc ngủ cũng có khi y cười hay làm điệu bộ tức cười.
Richard thường đưa tôi đến chơi với bạn hữu khác, sinh viên, nhạc sỹ, họa sỹ, tao nhân mặc khách, phong nhã tài hoa trong hàng tỉnh dần dần đều giao du với y. Trong số ấy có vài người nghiêm trang nhiệt thành tham dự sự tranh đấu sống còn như triết gia, mỹ học gia, người tranh đấu cho xã hội chủ nghĩa, nhiều người có thể gặp giúp tôi mở rộng kiến thức. Tôi thâu thái kiến thức thuộc đủ lãnh vực nhưng chỉ từng chi tiết vụn vặt, tôi phải đọc rất nhiều để bổ túc thêm. Dần dần tôi có một ý niệm về những vấn đề đã làm những bộ óc ưu thời mẫn thế hồi ấy phải băn khoăn và say mê, tôi cũng có thể liếc mắt vào đời sống tinh thần của hoàn vũ, điều đó rất có ích lợi cho
tôi và kích thích tôi thêm cố gắng. Tôi hiểu ý muốn khuynh hướng, ý chí và lý tưởng của họ và tôi cũng hợp tác với họ nhưng không có thái độ rõ ràng để đứng hẳn về một phe nào. Tôi thấy phần nhiều người để hết tâm trí vào nhiệt tình và hình thức và định chế xã hội, chính phủ, khoa học, mỹ thuật, giáo khoa nhưng chỉ có một cố ít người thấy cần phải tồn tâm dưỡng trí không có mục đích ở ngoài, cần phải rọi ánh sáng vào mối tương quan giữa con người với thời gian và vĩnh cửu. Đối với tôi cũng vậy, khuynh hướng ấy nói chung chỉ bộc lộ một cách mờ mịt.
Tôi không thân thiết với ai vì tôi yêu Richard một cách tuyệt đối, sự yêu mến ấy làm tôi ghen với người khác, tôi cũng tìm cách làm cho y xa đàn bà vì y hay lui tới và thân mật với họ. Tôi thận trọng thi hành thật đúng từng li từng tí những điều giao ước với y và tôi phật ý khi bắt tôi phải chờ đợi. Một hôm y hẹn tôi đến rủ y đi bơi thuyền vào lúc nào đó. Tôi đến, y không có nhà, tôi ngồi đợi trong ba giờ đồng hồ mà không thấy. Ngày hôm sau tôi trách y thậm tệ. Y ngạc nhiên mà chỉ cười.
- Sao mày không đi bơi thuyền một mình. Tao quên bẵng đi mất. Mấy lại cũng chẳng có gì là tai nạn.
- Tao có thói quen giữ đúng lời hứa. Dĩ nhiên tao cũng đã quen với mày, mày chẳng cần bận tâm đến thằng cha ngồi đợi mày suốt buổi. Ờ tao biết mày nhiều bạn lắm!
Y nhìn tôi kinh ngạc vô cùng:
- Có thế mà mày cũng cho là quan trọng.
- Tình bạn của tao không phải là chuyện nhỏ mọn.
Richard bèn trịnh trọng đọc 2 câu thơ:
“Lời em đánh trúng tim anh
Thôi xin hứa hẹn trung thành từ đây.”
Y chắp tay lên đầu, theo phong tục Đông Phương lấy mũi mình quệt vào mũi tôi rồi y vuốt ve tôi đến lúc tôi phì cười vùng người ra; thế là tình bạn vẫn nguyên vẹn.
Tôi mượn được nhiều sách, có nhiều quyển rất quí, trong phòng tôi có đủ: triết gia, thi sỹ và phê bình gia kim thời, tạp chí văn chương của nước Đức và nước Pháp, kịch bản mới nhất, tiểu thuyết Ba Lê và tiểu luận của thẩm mỹ gia thành Vienne hợp thời. Nhưng tôi chú ý đến tiểu thuyết gia cổ điển
của nước Ý và công việc khảo cứu lịch sử của tôi, công việc ấy tôi thực hiện nghiêm trang và sâu sắc hơn đọc những loại văn chỉ xem qua cho biết. Hoài bão thiết tha nhất của tôi là dẹp ngôn ngữ học đi càng sớm càng hay và chuyên chú về nghiên cứu lịch sử. Bên cạnh những sách tổng quát về lịch sử và phương pháp sử học, tôi đọc thêm những bản cổ thư và địa phương chí của thời Trung Cổ lúc suy tàn ở Ý và Pháp. Nhờ thế tôi làm quen với nhân vật tôi ưa thích hơn cả là Saint François d'Assise, vị thánh đồ thông suốt và thần khí hơn cả. Như vậy giấc mộng nung nấu trái tim tôi giữa những ngưỡng vọng, thú vui và tự đắc tuổi trẻ dần dần trở thành sự thật, trong giấc mộng ấy tôi thấy mở rộng ra trước mắt tôi đời sống tinh thần viên mãn và thuần khiết. Trong giảng đường trí óc tôi hướng cả về khoa học, môn học nghiêm trọng, hơi khô khan, có khi chán ngán. Ở nhà tôi trú ẩn vào sách vở, tôi kính cẩn bước vào thế giới Trung Cổ, đọc những trang sử buồn thảm, những áng văn cổ thời, thế giới tươi đẹp và hạnh phúc của họ tỏa ra quanh tôi một bầu không khí mơ mộng đầy bóng tối và sáng mờ, hay làm nổi lên như sóng biển phũ phàng lý tưởng kim thời và mê muội của thời đại. Những lúc khác tôi nghe nhạc, vui cười với Richard, cùng y họp bạn, giao du với người Pháp, người Đức, người Nga, đọc những cuốn sách kì dị mới xuất bản, đi thăm những phòng vẽ của họa sỹ, dự những buổi họp có đủ mặt tri thức trẻ tuổi sốt sắng và phù phiếm, họ bao quanh tôi như trong một buổi dạ hội quái dị.
Một bữa chủ nhật Richard cùng tôi đến thăm một cuộc triển lãm họa phẩm. Bạn tôi dừng lại trước một bức tranh vẽ một quả núi với vài con dê. Họ vẽ đúng nguyên tác và khéo lắm, nhưng hơi lỗi thời và xét cho cùng thì không có nghệ thuật chân chính. Trong bất cứ một phòng khách nào cũng có thể thấy những bức họa xinh xắn và vô vị như thế. Tuy nhiên tôi cũng thích thú vì người ta họa lại khá trung thành bãi cỏ xứ Alpes của tôi. Tôi hỏi Richard bức họa ấy có cái gì làm anh chú ý. Y chỉ tên họa sĩ ở một góc. Tôi không đọc được những chữ ghi bằng màu nâu đỏ.
Y nhìn tôi kinh ngạc vô cùng:
- Hội họa không phải là cái gì kì lạ. Còn nhiều bức họa đẹp hơn. Nhưng không có cô nào đẹp hơn nữ họa sĩ vẽ bức đó. Tên cô ta là Ermina Aglietti. Nếu anh muốn, ngày mai chúng ta sẽ đến chơi để khen cô ta là một nhà danh họa.
- Anh biết cô ta à?
- Thì hẳn rồi. Nếu họa phẩm của cô ta cũng đẹp như người cô ta thì cô ta giàu có đã lâu rồi mà cô ta đã thôi không vẽ nữa. Cô ta vẽ mà chẳng ham thích vì cô ta không biết làm cái gì khác để sống.
Y không nghĩ đến sự thăm viếng ấy nữa, mấy tuần sau mới lại nói đến.
“Tôi đã gặp Aglietti. Đã từ lâu tôi muốn đến thăm cô. Anh đi với tôi; vừa đúng dịp cổ áo anh sạch sẽ, cô ta để ý đến những tiểu tiết như vậy.”
Cổ áo tôi còn sạch thật, chúng tôi cùng đi đến nhà Aglietti. Trong thâm tâm tôi hơi có ý chống đối vì Richard và bạn bè của y giao du tự do và suồng sã với nữ họa sĩ và nữ sinh viên, tôi không ưa. Đàn ông thì kém nhã nhặn, có khi thô lỗ, có khi báng nhạo; phụ nữ thì thực tế, lém lỉnh và quỷ quyệt, không làm gì có cái phong thái lý tưởng mà tôi đợi ở người đàn bà, mà vì thế tôi tôn kính họ.
Tôi không được thoải mái khi bước vào xưởng họa. Tôi đã quen với không khí xưởng họa, nhưng đây là lần thứ nhất tôi bước vào xưởng họa của phụ nữ. Không có gì là hợm hĩnh nhưng cũng không có gì là hỗn độn. Ba bốn bức tranh vẽ xong đã đóng khung, một bức khác còn trên giá mới có mấy nét phác. Chỗ tường còn lại thì treo những bức phác họa bằng bút chì rất tinh tế, ngon lành, còn có một tủ sách phân nửa còn trống rỗng. Họa sĩ chào chúng tôi hơi lạnh lùng. Nàng để bút xuống, để nguyên áo choàng, ngồi dựa vào tủ sách. Nàng để lộ thái độ không muốn mất nhiều thì giờ với chúng tôi.
Richard khéo khen ngợi thật ồn ào bức tranh triển lãm. Nàng chế diễu lại và không tin khen tặng của y.
- Nhưng, thưa cô, tôi có ý muốn mua bức họa! Vả chăng những con bò có vẻ thật sự giống sự thực.
Nàng bình thản trả lời:
- Đấy là những con dê.
- Dê à? Dĩ nhiên là dê. Tôi muốn nói đến một cuộc nghiên cứu đã làm tôi điên đảo. Những con dê đúng là con dê trong cuộc đời, đúng là bản chất dê. Cô cứ hỏi bạn Camenzind đây, anh cũng là người miền núi; hẳn anh đồng ý với tôi.
Giữa lúc tôi lúng túng lẫn thích chí nghe y tán dóc, tôi thấy họa sĩ đưa mắt nhìn tôi và ngắm nghía tôi. Nàng nhìn tôi rất lâu, một cách tự nhiên nhất.
- Anh là người miền núi à?
- Thưa vâng.
- Trông thì biết. Anh nghĩ sao về mấy con dê của tôi? - Vẽ được lắm. Ít ra tôi cũng không lầm với bò như Richard. - Anh thực là người có nhã ý với tôi. Anh là nhạc sĩ à? - Không, tôi là sinh viên.
Nàng không nói gì với tôi nữa, tôi chỉ có dịp ngắm nhìn nàng. Tấm áo phủ dài lê thê che lấp thân hình nữ lưu làm mất cả duyên dáng, còn cái mặt thì tôi không thấy đẹp. Đường nét dịu dàng và giản dị, mắt hơi nghiêm khắc, tóc rậm, đen và mềm mại; cái làm tôi hơi khó chịu và gần như chướng mắt là nước da. Nước da ấy cứ làm tôi nghĩ đến một thứ phô ma Ý và tôi không lạ rằng đã khám phá ra những đường xanh xanh. Tôi chưa gặp người Ý da trắng xanh, giờ này, trong ánh sáng ban mai xưởng vẽ chẳng thuận lợi cho nàng, nom nàng như bằng đá làm tôi phát sợ, không phải đá cẩm thạch mà là đá tảng dầu giãi phong sương nhợt nhạt. Tôi không có thói quen nhận xét khuôn mặt phụ nữ, nhưng thường thường tôi muốn tìm thấy cái gì là đầy đặn, hồng hào, duyên dáng; tôi hãy còn tâm hồn con trẻ.
Richard cũng không thỏa mãn về cuộc viếng thăm hôm nay. Ít lâu sau, tôi càng kinh ngạc, đúng hơn, càng phát sợ khi y bảo tôi rằng Agiletti rất muốn được hân hạnh vẽ tôi. Không phải phác họa thông thường, càng không cần vẽ mặt, chỉ có vóc dáng của tôi hình như có vẻ độc đáo.
Trước khi mọi việc trôi theo hướng ấy, một biến cố nhỏ đã xảy ra và biến đổi cuộc sống của tôi, quyết định tương lai của tôi trong nhiều năm. Một buổi sáng, tôi tỉnh giấc thì thấy mình thành văn sĩ.
Theo lời khuyến khích của Richard, và cũng là một cách tập dượt và giải trí trong văn học, tôi mô tả những kiểu người trong xứ tôi, những mẩu chuyện sống có đối thoại v.v... tôi trình bày dưới hình thức những nét chấm phá và cố gắng trung thành với sự thật. Tôi cũng viết bài tiểu luận về các sự kiện văn chương hay lịch sử.
Buổi sáng hôm ấy, tôi còn ngủ. Richard chạy vào đặt lên mền tôi ba mươi lăm quan và nói với giọng một người chạy việc: “tiền này là của anh”. Y để tôi hỏi săn hỏi đón theo mọi giả thiết của tôi rồi mới lôi từ trong túi áo ra một tờ báo và chỉ cho thấy một truyện ngắn của tôi viết. Y đã chép lại vài
bản thảo của tôi đem đến điều đình với một biên tập viên bạn của y mà không cho tôi biết. Bây giờ y đã có bài thứ nhất được đăng với tiền nhuận bút cẩn thận.
Chưa bao giờ tôi xúc động kì dị như lúc ấy. Thực ra tôi bực mình vì Richard đóng vai trò Thiên Hựu như thế nhưng cái khoe khoang nhẹ nhàng của người viết văn bừng tỉnh, tiền nhuận út và hoài bão danh vọng trên văn đàn đã làm tôi quên sự bực mình.
Trong một tiệm cà phê, y giới thiệu tôi với biên tập viên. Ông này bảo tôi giữ lấy những bản thảo mà Richard đã cho ông biết và mời tôi thỉnh luận về lịch sử, ông muốn nhận được những bài khác và sẽ trả tiền nhuận bút xứng đáng. Bấy giờ tôi mới hiểu tầm quan trọng của việc viết báo đối với tôi. Không những tôi có cơm ăn đều đều và trả được những món nợ nhỏ, mà còn có chỗ tống khứ những bài viết ra một cách miễn cưỡng; có lẽ tôi sắp sửa sống bằng ngòi bút và làm việc trong lãnh vực sở trường của mình.
Trong khi chờ đợi, người biên tập viên ấy đưa cho tôi một chồng sách bảo tôi viết bài giới thiệu. Tôi ngốn một hơi hết cuốn sách cuối cùng. Tôi có việc làm trong mấy tuần lễ. Nhưng hết kì tam cá nguyệt mới lấy được tiền nhuận bút, mà vì trông mong vào số tiền đó tôi đã ăn tiêu rộng rãi hơn trước, cho nên lại có ngày tiêu đến đồng xu cuối cùng, tôi phải mở một chiến dịch ăn kham khổ khác. Trong mấy ngày liền tôi sống yên lành trong phòng với bánh mì suông và cà phê, nhưng rồi đói quá lại mò đến tiệm ăn. Tôi đem ba cuốn sách để viết bài đi theo định kí lại tiệm ăn làm của tin. Trước tôi đã gạ bán cho một tiệm sách cũ mà không được. Bữa ăn ngon lành nhưng đến lúc dùng cà phê tôi bắt đầu lo lắng. Tôi thú thực với cô hầu bàn rằng không có tiền, định ăn chịu để sách lại làm của tin. Nàng cầm một cuốn, một tập thơ, mở ra với hai mắt hiếu kì rồi hỏi tôi rằng nàng đọc nó được không. Nàng thích đọc sách nhưng không biết mua sách bao giờ. Tôi cảm thấy mình thoát nạn bèn gạ nàng giữ lấy ba cuốn nhỏ thay cho tiền ăn. Nàng nhận lời, dần dà tôi bán cho nàng một số sách đáng mười bảy quan. Một tập thơ mỏng tôi đổi lấy bánh mì và phô ma, tiểu thuyết thì lấy một bữa ăn thêm rượu nho, một tập truyện ngắn chỉ được một miếng bánh với một tách cà phê. Cứ theo những cuốn tôi đọc qua thì hầu hết là những truyện viết lối văn vò xé đau khổ hợp với thời mới, hẳn là cô gái đọc những sách ấy đã có một ấn tượng lố lăng về văn chương nước Đức hiện đại. Tôi lấy làm khoan khoái mà nhớ lại những buổi sáng tôi mướt mồ hôi trán phi nước đại hết một cuốn sách viết vài dòng tường thuật vội vã cho xong vào buổi
trưa để kịp đem sách đổi lấy cái gì ăn được. Tôi vẫn cố giấu Richard sự túng bấn của tôi vì tôi đã lầm lẫn mà lấy làm xấu hổ, tôi chỉ nhận sự trợ giúp của y một cách miễn cưỡng và trong một thời gian ngắn.
Tôi không chỉ là nhà văn. Những bài báo tôi viết chỉ là truyện trang hai trang ba trong tờ nhật báo, không có nghệ thuật. Trong thâm tâm tôi tuy không nói với ai, nhưng tôi hy vọng rằng một ngày kia tôi sẽ viết một tập thơ vĩ đại và mãnh liệt nói lên kiếp phù sinh.
Tấm gương sáng sủa vui tươi của tâm hồn tôi có khi lu mờ vì một loại u buồn, nhưng lúc ấy không bao giờ vẩn đục nhiều. Những ý nghĩ đen tối thỉnh thoảng hiện ra một ngày hay một đêm thành hình tướng một nỗi buồn mơ mộng cô đơn, rồi sau biến mất không để lại dấu vết gì, nhiều tuần nhiều tháng sau mới trở lại. Dần dần tôi làm quen với nó như một cô bạn thường gặp. Nó không còn là một sự vò xé, mà chỉ là một mối bứt rứt, một cơn mệt không thiếu vẻ quyến rũ. Khi nó chiếm cứ người tôi vào buổi tối, tôi không ngủ, tôi ngồi hàng giờ trước của sổ nhìn mặt hồ tối tăm hình núi in lên nền trời, bên trên, sao đẹp như ngọc. Thường thường tôi cảm thấy mạnh mẽ một thứ khắc khoải dịu dàng, hình như tất cả cái huy hoàng của ban đêm nhìn tôi ra chiều trách móc có lý do. Hình như sao, núi và hồ cũng mong mỏi có người hiểu và diễn tả vẻ đẹp với nỗi đớn đau của sự hiện hữu câm lặng ấy, hình như tôi là người ấy, hình như sứ mạng của tôi là đem vào nghệ thuật tiếng nói của thiên nhiên câm lặng. Chưa bao giờ tôi tự hỏi phải làm thế nào, nhưng tôi cảm thấy đêm đẹp và nghiêm vẫn yên lặng chờ tôi, chứa chan tình nồng. Tôi cũng chưa bao giờ viết cái gì trong trạng thái tâm hồn ấy, nhưng tôi chỉ ý thức được trách nhiệm của tôi đối với tiếng gọi âm thầm của sông núi, sau những đêm ấy thường thường tôi một mình đi bộ suốt trong mấy ngày. Làm như thế có cảm tưởng như có thể giãi bày chút ít tình yêu đất nước, đất nước vẫn câm lặng tự hiến dâng cho tôi; thật là một ý nghĩ kì dị làm cho tôi phì cười ngay sau đó.
Đi bộ trở thành một thói quen chính yếu suốt đời tôi. Từ đấy, năm năm tôi dành phần lớn thì giờ đi bộ qua nhiều xứ, hành trình lâu hàng tuần lễ, hàng tháng. Tôi thành thói quen đi xa với chút ít tiền và một ổ bánh mì trong túi áo, sống nhiều ngày một mình trên đường cái và thường thường ngủ ngoài trời với sao đêm.
Công việc viết văn làm tôi quên bẵng cô họa sĩ. Một hôm tôi nhận được của cô một phong thư: “Thứ năm này vài bạn hữu đến nhà tôi dùng trà. Mời anh lại chơi, anh nhớ rủ cả bạn anh đi nữa.”
Chúng tôi đến và thấy quân quần một bầy nghệ sĩ. Phần nhiều là những người không ai biết, những người bị bỏ quên, những người không thành công; cảnh ấy đối với tôi đáng não lòng tuy rằng mọi người có vẻ ham sống, hoàn toàn thỏa mãn với cảnh ngộ. Có nước trà, bánh mì phết bơ, dăm bông và rau tươi. Tôi không gặp ai quen biết vả chăng tôi cũng ít nói; bởi vậy tôi chỉ thấy mình đói lạ: tôi ăn trong nửa tiếng đồng hồ, lẳng lặng ăn luôn miệng trong khi những người khác mới uống trà và tán chuyện. Nhưng khi họ lần lượt ra kiếm miếng săng uých thì mới vỡ lẽ ra là tôi đã ăn hết cả dăm bông. Tôi đã lầm mà nghĩ rằng còn đĩa thứ hai để phòng hờ. Người ta cười kín đáo và tôi được ban thưởng mấy cái liếc ngạo nghễ. Tôi nguyền rủa cô gái Ý với dăm bông của cô, điên tiết đứng dậy, đến xin lỗi qua loa cô và tuyên bố rằng lần khác tôi sẽ mang theo bữa ăn của tôi. Tôi cầm lấy mũ.
Aghietti vội giằng lấy mũ, giương hai mắt lặng lẽ và ngạc nhiên nhìn tôi, nghiêm nghị yêu cầu tôi ở lại. Ánh sáng một ngọn đèn lọc qua chao lụa mỏng chiếu vào khuôn mặt nàng, giữa lúc bực mình bất thần tôi thấy vẻ đẹp sung mãn và tuyệt diệu của nàng. Tôi thấy mình mất dạy và thô lỗ tôi bèn kiếm một chỗ cách biệt mọi người ngồi thần ra như cậu học trò phải phạt. Ngồi đấy tôi mở một cuốn hình hồ Côme ra coi. Những người khác uống trà, chạy chỗ này chỗ khác, cười nói huyên thuyên, trong phòng nhẹ đưa tiếng vĩ cầm hòa với đại vĩ cầm. Tấm màn vén lên, bốn thanh niên ngồi trước giá nhạc sẵn sàng để hòa một bản. Giữa lúc ấy người thiếu phụ đến gần tôi một cái bàn con và một tách cà phê, vui vẻ mời tôi và ngồi xuống bên cạnh. Bản nhạc nổi lên và chơi rất lâu nhưng tôi không nghe một tiếng nào vì tôi còn bận giương mắt chão chuộc nhìn người đàn bà mảnh mai, thanh lịch, ăn mặc rất ý nhị, tiếc rằng tôi đã nghi ngờ sắc đẹp và ăn hết thực phẩm của nàng. Tôi vui sướng và băn khoăn mà nhớ ra nàng có ý muốn vẽ tôi. Vả chăng tôi nghĩ đến Rose Gitanner, đến cuộc leo thành đá để hái hoa hồng núi, đến chuyện nàng công chúa vùng băng tuyết, tất cả những chuyện cũ hầu như chỉ để khai mào cho phút hiện tại.
Hết bản nhạc, cô họa sĩ không đi chỗ khác như tôi vẫn lo mà ngồi lại thật êm thắm, cô bắt đầu nói chuyện với tôi. Nàng khen ngợi tôi về một truyện ngắn đã đăng trên báo. Nàng lấy Richard ra để khôi hài, trong khi vài cô gái xúm quanh anh chàng, thỉnh thoảng tiếng cười vô tư vô lự của anh át cả tiếng nói người khác. Sau nàng nói đến ý muốn vẽ tôi. Tôi nảy ra một ý kiến. Tôi tiếp tục câu chuyện bằng tiếng Ý mà không hề dùng cách gì chuyển tiếp, không những hai mắt ý nhị của người phụ nữ phương Nam
ngạc nhiên sung sướng mà tôi còn khoái trí được nghe nàng nói tiếng mẹ đẻ, tiếng nói hợp với cái miệng. Khóe mắt với dáng dấp của nàng, tiếng nói miền Toscane nhịp nhàng thanh lịch, trơn tru và lanh lẹ hơi pha giọng thổ ngữ Tessin duyên dáng. Tôi nói không đúng mẹo mà cũng không thạo lắm nhưng điều đó không làm tôi lúng túng. Hôm sau tôi phải trở lại để nàng vẽ.
“Arreviderla”, tôi chào nàng để cáo lui và cúi mình thấp đến mức có thể cúi được.
“Arreviderci domani”, nàng mỉm cười trả lời và làm hiệu từ biệt.
Ra khỏi nhà, tôi cứ đường thằng tiến lên cho đến lúc đường đâm vào sườn đồi, phong cảnh tối âm tối thầm bày ra trước mắt tôi trong vẻ sáng lạn ban đêm. Trên mặt hồ đủng đỉnh chiếc thuyền cô đơn với ngọn đèn đỏ ném xuống nước một vệt dài đỏ tía rung rung trên mặt hồ tối tăm, thỉnh thoảng nhô lên đây đó một làn sóng mờ bạc. Trong một mảnh vườn gần đấy có người đánh đàn và cười vang. Trời khuất mây đến gần nửa, trên đỉnh đồi gió mạnh và ầm thôi qua.
Cũng như ngọn gió vuốt ve cành cây nặng trĩu trái, vòng lá hạt dẻ tối thui gợi ra tiếng rên rĩ, cười cợt, rung động, sự say sưa đang đùa giỡn với tim tôi. Tôi quì xuống sườn đồi, tôi nằm dài ra đất, tôi trỗi dậy thở dài, rọi gót chân xuống đất, ném mũ ra xa, vùi mặt xuống cỏ, ôm lấy thân cây mà rung, tôi khóc, cười, vùng vẩy, điên cuồng vì xấu hổ và vui sướng, trái tim thắt lại muốn đứt hơi. Độ một giờ sau tôi mới yên yên, tất cả lịm đi trong sự tê mê. Tôi không nghĩ đến gì nữa, không định tâm gì nữa, không cảm giác gì nữa; tôi bước xuống đồi như người thụy du, đi lang thang khắp nửa tỉnh, nhìn thấy một quán cà phê còn mở cửa tại một phố hẻo lánh, tôi bước vào như một cái máy, uống hai lít rượu nho xứ Vaud, đến sáng mới về nhà, người say mèm.
Trưa hôm nay, Aglietti kinh hãi khi thấy tôi bước vào.
- Anh làm sao vậy? Anh đau hay sao? Trông hốc hác quá!
- Không có gì quan trọng, hình như đêm qua tôi say rượu quá, thế thôi. Xin cô bắt đầu vẽ đi.
Nàng bảo tôi ngồi trên ghế và bảo ngồi yên. Điều đó khó gì tôi lim dim ngủ ngay, suốt buổi quá trưa ấy tôi ngủ gà ngủ vịt trong xưởng vẽ. Có lẽ mùi nhựa dầu thông trong phòng làm cho tôi nằm mơ thấy cha tôi sơn lại chiếc thuyền ở nhà. Tôi nằm nghiêng trên bãi sỏi nhìn cha tôi cầm cán sơn
và chổi sơn; mẹ tôi cũng có mặt ở đấy; khi tôi kinh ngạc sao mẹ tôi chưa chết, bà khẽ trả lời: “Không, nếu má không ở đây thì con sẽ rượu chè như cha con.”
Khi bừng tỉnh tôi ngã lăn khỏi ghế và tôi kinh ngạc rằng đã có ai khiêng tôi vào xưởng vẽ của Aglietti. Tôi không trông thấy nàng nhưng nghe tiếng nàng ở phòng bên khua đĩa bát, tôi kết luận rằng sắp đến giờ ăn.
Nàng nói vọng sang:
- Anh dậy đấy à?
- Vâng. Tôi ngủ có lâu không?
- Có bốn giờ thôi. Anh không ngượng chút nào à?
- Có chứ! Nhưng tôi đã mơ một giấc mơ đẹp đẽ.
- Anh kể lại coi!
- Vâng, nếu cô thứ lỗi cho và bước sang đây.
Nàng bước vào. Nhưng trước khi tha thứ, nàng còn muốn tôi kể lại giấc mơ. Tôi kể lại và câu chuyện ấy đã đưa tôi trở về những ngày xa xôi lúc tuổi thơ bị lãng quên, trời đã tối đen khi tôi ngưng nói; tôi đã nói cho nàng nghe và cũng nói cho chính mình nghe tất cả cuộc đời niên thiếu của tôi. Nàng bắt tay tôi, vuốt phẳng quần áo cho tôi và hẹn hôm sau vẽ nốt, tôi cảm thấy nàng hiểu tôi, nàng ta thứ cho tôi cả cử chỉ bất lịch sự hôm trước lẫn hôm nay.
Những ngày sau tôi ngồi làm mẫu hàng mấy giờ. Chúng tôi ít nói, tôi ngồi hay nằm như trong lúc mê hoặc, tôi nghe tiếng cây than vẽ quệt lên giấy, tôi ngửi mùi sơn dầu thoang thoảng và không có cảm tưởng nào khác cảm tưởng được gần người tôi yêu, cảm tưởng hai mắt nàng luôn luôn đặt lên người tôi. Ánh sáng trong xưởng vẽ chan hòa trên tường, một vài con ruồi uể oải cụng vào cửa kính, trong phòng nhỏ cạnh đấy, một cái bếp đun bằng rượu reo ù ù, bởi vì sau mỗi chuyến ngồi làm mẫu người ta cho uống một tách cà phê.
Trở về nhà, trí óc tôi vẫn thường theo dõi Erminia Aglietti. Ý nghĩ rằng tôi không thể nào ca ngợi nghệ thuật của nàng không ảnh hưởng gì đến sự say sưa của tôi và cũng không hề giảm bớt. Nàng đẹp như thế, dịu dàng, trong sạch và tự tin như thế, cần gì đến họa phẩm của nàng? Tôi còn thấy cuộc đời cơ chỉ của nàng có cái gì bi thảm: đó là hình ảnh một người đàn bà
tranh đấu sống còn, một nữ anh hùng lặng lẽ, kiên trì và can đảm. Vả chăng còn gì hão huyền hơn sự phán đoán người mình yêu. Những điều nhận xét như vậy không khác nào mấy điệu hát dân ca, mấy điệu hát của lính nói đến trăm ngàn câu chuyện nhưng vẫn nhắc lại một điệp khúc mặc dù điệp khúc đó không ăn nhập gì với nó.
Hình ảnh người đàn bà Ý xinh đẹp trong trí tôi tuy không kém rõ ràng nhưng hiện ra thiếu những nét mà chúng ta thấy rõ ở người ngoài còn người thân cận thì không thấy. Tôi không còn biết rõ nàng ăn mặc thế nào, đầu tóc ra sao v.v... cũng như không rõ sự thực người nàng cao lớn hay bé nhỏ. Khi nghĩ đến nàng tôi thấy một khuôn mặt người đàn bà tóc đen, trông nghiêng rất cao nhã; hai mắt sắc sảo, không to lắm, nước da trắng xanh, miệng nhỏ, đường cong môi tuyệt diệu chứng tỏ nàng đã đến tuổi chín chắn. Khi nghĩ đến nàng, đến những ngày tôi say mê, tôi chỉ nhớ đến một buổi tối trên đồi gió nồng thổi qua mặt hồ, tôi khóc, tôi mừng quýnh và tôi say sưa như điên dại. Và tôi cũng nhớ đến một buổi tối nữa mà tôi muốn thuật lại.
Tôi nhận thấy cần phải kiếm cách bày tỏ với nàng họa sĩ tình yêu của tôi và hỏi nàng làm vợ. Nếu nàng ở xa tôi chắc là tôi vẫn yên lặng tôn thờ nàng và âm thầm đau khổ vì nàng. Nhưng hàng ngày trông thấy nàng, nói với nàng, bắt tay nàng, đến nhà nàng, lúc nào cũng như kim đâm vào trái tim, tôi không thể chịu đựng được lâu nữa.
Một số nghệ sĩ và bạn hữu của họ tổ chức một buổi họp mặt ở bờ hồ, trong một khu vườn xinh xắn, một buổi tối trời oi ả vào giữa mùa hạ nóng bức. Chúng tôi uống rượu nho và nước đá, nghe âm nhạc, nhìn mấy cái đèn lồng treo trên dây căng giữa các thân cây. Người ta tán chuyện, pha trò, cười đùa rồi hát hỏng. Một chàng họa sĩ nào đó đội nón nồi rất chướng mắt nằm dài trên bờ tường làm ra vẻ thơ mộng gảy một cây đàn cán dài lêu nghêu. Một vài nghệ sĩ hữu danh không đến dự hoặc có đến thì ngồi riêng một nơi với mấy họa sĩ già. Vài người đàn bà trẻ có mặt ở đấy, họ mặc áo màu sáng của mùa hè, những người khác đi đi lại lại trong bộ làm việc thường ngày. Một nữ sinh viên xấu ơi là xấu, đã lớn tuổi, làm cho tôi ngứa mắt vô cùng; nàng đội mũ rơm đàn ông trên mớ tóc cắt ngắn, hút xì gà, uống như bồ thể, nói nhiều mà nói lớn. Cũng như thường lệ Richard quanh quẩn với mấy cô. Trong sự ồn ào ấy tôi chỉ lạnh lùng, uống rất ít, tôi đợi Agiletti vì nàng hứa cùng tôi đi bơi thuyền. Sau nàng đến với tôi thật, tặng tôi mấy bông hoa và cùng tôi bước xuống thuyền.
Hồ láng trơn như dầu, ban đêm trông không có màu sắc gì cả. Tôi đưa mau lẹ con thuyền nhẹ nhàng ra xa bờ, trong yên lặng tôi không ngừng nhìn bóng người đàn bà mảnh mai tựa vào ghế ngồi bên bánh lái và vui hưởng cuộc du ngoạn. Trời cao thẳm còn có màu xanh lam, dần dần từng ngôi sao mọc ra mờ mờ; trên bờ, đó đây có người đàn địch và vui chơi trong vườn. Mái chèo đập nước lờ đờ gợi lên những tiếng ì ọp nhẹ; vào chiếc thuyền khác bơi tung tăng trên nước lặng, nom không rõ lắm; nhưng tôi không để ý đến, tôi chỉ chăm chú nhìn người cầm lái không rời mắt, dự định giãi bày mối tình của tôi đang bóp thắt trái tim xao xuyến như một cái vòng sắt nặng. Sự dàn cảnh có một vẻ đẹp đẽ nên thơ: con thuyền đủng đỉnh, sao lấp lánh, mặt hồ yên lặng mát mẻ, tất cả làm cho tôi ngại ngùng. Tôi có cảm tưởng đây là một sân khấu hý viện mà tâm hồn nặng trĩu giữa sự mênh mông – vì cả hai đều không nói – tôi ra sức bơi thuyền không biết về đâu.
Nàng họa sĩ mơ màng bảo tôi:
- Anh khỏe thật!
- Cô không muốn nói rằng tôi bị thịt?
- Không, - nàng cười - tôi nói bắp thịt của anh.
- Đúng vậy, tôi rất khỏe.
Câu mở đầy không thuận lợi mấy tí. Buồn nản và bực bội tôi tiếp tục bơi chèo. Một lát sau tôi bảo nàng cho tôi biết về cuộc đời nàng.
- Anh muốn biết gì?
- Tất cả, nhưng tốt hơn hết là một câu chuyện tình. Rồi tôi sẽ kể chuyện tôi, câu chuyện duy nhất. Ngắn ngủn và đẹp đẽ, chắc sẽ làm cô vui thích.
- Anh nói gì vậy, thử kể lại coi.
- Không, cô nói trước đã. Vả chăng cô biết nhiều về tôi hơn tôi biết về cô. Tôi muốn biết đã có khi nào cô thực sự yêu ai hay là đối với chuyện tình tôi e rằng cô tự ái quá và thiên vì lí trí quá.
Erminia suy nghĩ một chút.
- Đây cũng là ý nghĩ lãng mạn của anh bắt một người đàn bà kể chuyện mình ở đây, trong đêm tối, trên mặt nước lênh đênh này! Tiếc rằng tôi không thể làm được. Thi sĩ các anh, các anh có thói quen việc gì cũng tìm được lời hay ý đẹp và tưởng rằng ai không nói đến tâm tình là không có
trái tim. Anh đã lầm, tôi không tin rằng tôi không thể yêu nồng nàn hơn tôi đã làm. Tôi yêu một người đã lấy vợ và ảnh cũng yêu tôi không kém; nhưng chúng tôi không biết được có thể xum họp với nhau không. Chúng tôi viết thư cho nhau và thỉnh thoảng cũng gặp nhau...
- Cô có thể cho biết mối tình ấy là cô vui sướng hay đau khổ, hay cả hai thứ.
- Chao ôi! Ái tình không phải để cho chúng ta sung sướng. Tôi cho rằng ái tình là đề khải thị cho chúng ta biết ta có sức đau khổ và chịu đựng được đến mức nào.
Tôi không hiểu rõ lắm nhưng tôi không ném được cái gì như tiếng thở dài nhẹ thay cho câu trả lời.
Nàng nghe thấy tiếng thở dài ấy.
- Ủa, anh đã biết những chuyện ấy rồi à? Anh còn trẻ thế kia! Bây giờ đến lượt anh tự thú đi. Nhưng tùy anh có thực tình muốn nói hay không.
- Có lẽ để lần khác thì hơn. Vả chăng hôm nay tôi thấy trong lòng sôi động quá và tôi cũng rất tiếc có lẽ đã làm cô nhìn đời đen tối. Chúng ta quay trở lại thôi chứ?
- Tùy anh. Đi xa bao nhiêu rồi?
Tôi không trả lời. Nhưng tôi khua mạnh mái chèo xuống nước, quay thuyền và chèo đi như trời sắp đổi gió. Thuyền lướt sóng, giữa lúc quay cuồng trong nguy nan và xấu hổ, tôi thấy mồ hôi chảy từng giọt lớn trên mặt và người tôi run lên như cò phải bão. Khi tôi tưởng tượng ra rằng suýt nữa thì mình đóng vai trò một gã đa tình quỳ gối trước mặt người đàn bà ráng gạt lời van nài với giọng phân hữu của người mẹ, tôi rùng mình thấu xương tủy. May mà thoát được nạn ấy, bây giờ tôi chỉ còn phải ráng mà chịu đựng những đau khổ khác. Tôi bơi vào bờ như một người bị ma trêu quỷ ám.
Cô bạn xinh đẹp của tôi ra chiều phật ý khi lên bờ tôi từ biệt cô lẹ làng để cô một mình.
Hồ yên lặng, âm nhạc vui vẻ, đèn giấy vẫn đưa ánh sáng ửng hồng xuống đám hội, nhưng tất cả đối với tôi hiện ra vẻ dối trá lố lăng. Nhất là âm nhạc. Tôi những muốn nghiền nát thây thằng cha mặc áo nhung đang làm ra bộ ta đây kẻ giỏi với cây đàn đeo vào sợi băng lụa. Trong chương trình lại còn khoản đốt pháo bông nữa! Thật là phù phiếm!
Tôi mượn Richard vài quan, ném mũ lên gáy và bắt đầu đi lan man qua thành phố mấy giờ liền cho đến khi buồn ngủ rũ xuống. Tôi nằm lăn ra bãi cỏ, nhưng một giờ sau phải bò dậy vì sương xuống ướt đẫm người cứng đờ run run như cầy sấy. Tôi đi đến làng gần đấy thì trời đã tang tảng sáng. Người đi hái rau tạt qua đường phố bụi bặm, mấy anh canh điền phải dậy sớm, mở mắt tròn xoe bên cửa chuồng bò, đâu đâu cũng tưng bừng sinh hoạt thôn dã. Đáng ra mình phải yên phận ở nhà quê, tôi tự nhủ khi đi qua xóm, tuy mệt nhọc cũng cứ đi miết cho tới khi mặt trời nóng bức khiến tôi phải ngồi nghỉ. Tôi chúi vào đám cỏ bên ven khu rừng dẻ gai, ngủ dưới trời nóng cho tới chiều. Khi tỉnh dậy đầy nặc mùi cỏ đồng, chân tay nặng nề một cách khoan khoái, chỉ khi nào nằm lăn ra đất thật lâu người ta mới có cảm giác ấy; buổi hội hè, bơi thuyền và tất cả chuyện khác hầu như chỉ còn là chuyện xa xôi buồn bã quên đi quá nửa như cuốn tiểu thuyết đọc được từ mấy tháng trước.
Tôi còn đi trong ba ngày nữa để mặt trời thiêu đốt mặt mày đen nhẻm và tôi tự hỏi có nên cứ nước này đi về nhà giúp cha rẫy cỏ non.
Thực ra vết thương chưa lành hẳn. Trở về tôi lánh mặt cô họa sĩ như tránh bệnh dịch hạch, nhưng không thể tránh được lâu, đến sau mỗi lần nàng đặt hai mắt vào tôi và nói với tôi, tôi lại thấy uất hận đè lên cổ.
4
Cái gì ngày trước không xảy ra cho cha tôi thì nay đã xảy ra với tôi vì chuyện thất tình này: tôi thành người nghiện rượu.
Đối với đời tôi, với tính tình tôi, thì điều đó quan trọng hơn tất cả cái gì tôi đã kể đến đây. Ông trời quyền uy và hiền từ ấy trở thành người bạn trung thành của tôi và ông còn là bạn mãi. Ai có quyền uy bằng ông? Ai đẹp đẽ, ngông cuồng, nhiệt tình, vui và buồn được như ông thần rượu? Một đấng anh hùng vừa là một nhà ảo thuật. Một chàng quyến rũ tài tình, anh em với Dâm thần. Quyền thế của ông là làm cái gì không thể làm được. Ông làm cho trái tim ty thiểu của loài người tràn đầy thơ hay tuyệt diệu. Một người nông dân, một người cô độc như tôi, ông đã biến ra một ông vua, một nhà thơ, một nhà hiền triết. Ông đem lại một vận mệnh mới cho những con thuyền đã xả hết láng vào giòng đời và ông đưa những người đắm thuyền vào những hướng đi khác để họ bị lôi cuốn theo như bay.
Rượu là tất cả những cái ấy. Nhưng rượu cũng như tất cả cái gì có giá, có thiên bẩm và có nghệ thuật, người ta phải yêu mến nó, tìm đến nó, hiểu biết nó và dày công chinh phục nó. Ít người đáng kể là có tửu lượng khá và rượu cũng đưa cả ngàn người đến tử địa. Nó làm cho con người già nua và nó làm họ ngu muội. Nhưng con cưng của nó, nó mời vào bàn tiệc của nó, nó xây cho chín bậc cầu vồng, như xây phù kiều cho lên tới động thiên thai. Nó hầu gối chăn khi mình mệt mỏi, nó ôm ấp mình trong cánh tay mềm mại của nó khi mình buồn nản, an ủi vỗ về như người bạn hay người mẹ. Nó biến đổi những trắc trở trên đường đời thành huyền thoại cao siêu, cây đàn thần của nó lên tiếng hát bài ca sáng tạo.
Vả lại nó còn là đứa trẻ tóc tơ, vai hẹp, chân yếu tay mềm. Nó nép mình vào tim ta, ngẩng mặt nhìn ta, giương hai mắt ngây thơ hiền hậu và mơ màng nhìn ta, trong cùng khóe, mắt ấy phảng phất sự ngây thơ nguyên thủy, những kỉ niệm thơ ấu của chốn Thiên Đường tươi đẹp và trong sáng như ngọn suối mới sa trong rừng sâu.
Ông thần lưu linh thú vị ấy giống như dòng sông sâu cuồn cuộn chảy một đêm xuân. Và nó giống như biển cả bồng bềnh trên làn sóng mát mặt trời và bão tố.
Khi rượu chuyện trò với ai yêu chuộng nó, kẻ ấy sẽ thấy giữa hai cái rùng mình, cuồn cuộn nổi lên trong người như biển sóng, biết bao sự bí hiểm biết
bao kỉ niệm, thi tứ, linh cảm, làm át cả những tiếng động khác. Trần gian thu nhỏ lại tấc gang không còn là cõi thực, tâm hồn rung động vì vui sướng và khắc khoải rơi vào những nơi hoang vắng xa lạ, cái gì cũng lạ lùng nhưng quen thuộc, tiếng nói là âm nhạc, là tiếng nói của thi nhân, của mơ mộng.
Nhưng tôi phải bắt đầu kể lại chuyện của tôi với bạn đọc.
Có khi tôi quên mình, tôi có thể giữ được sự thư thái trong vài giờ để học hành, viết lách và nghe âm nhạc với Richard. Nhưng không ngày nào là tôi không đau khổ. Có khi nó chỉ day dứt tôi về đêm trong giường ngủ, tôi thở dài và phản kháng, mãi khuya mới ngủ được, mắt còn đẫm lệ. Có khi nó bừng lên vào lúc tôi gặp Aglietti. Nhưng thường thường là về buổi chiều, lúc bắt đầu những đêm hà nóng nực làm ta nhọc mệt. Bấy giờ tôi chạy ra hồ kiếm một chiếc thuyền, bơi chèo đến vã mồ hôi, bấy giờ không thể về nhà được nữa, phải tìm một quán rượu hay khu vườn của một tiệm cà phê. Ở đây tôi uống các thứ rượu nho, vừa uống vừa gặm nhấm nỗi ưu phiền, ngày hôm sau tôi gần như người ốm. Có đến mười lần ở trong tình trạng ấy tôi thấy khổ sở và ghê tởm đến nỗi định bụng không bao giờ uống nữa. Thế nhưng rồi lại uống. Dần dần tôi biết cách phân biệt các thứ rượu và ảnh hưởng của mỗi thứ, như vậy tôi biết rõ tác dụng của nó khi đem dùng, nhưng nói chung thì dùng một cách thiển cận và ngu muội. Sau cùng tôi chỉ dùng thứ rượu nho đỏ sậm sứ Valteline. Cốc thứ nhất có vị chát và bốc, uống xong rượu đưa tôi vào cơn mộng bình thản và miên man, rồi bắt đầu ảnh hưởng kì ảo, sáng tạo và thi hứng của nó. Tôi nhớ lại tất cả những phong cảnh đã làm tôi say mê một ngày nào đó nhưng hiện ra dưới một thứ ánh sáng đẹp đẽ; tôi đi lại trong cảnh ấy, ca hát, mơ mộng, trong tôi hừng hực một hình thức sống cao kì và mãnh liệt. Rồi cảnh đó chấm dứt bằng một thứ buồn rát thú vị, tôi nghe thấy đàn ca những điệu hát bình dân, tôi biết rằng một chân trời hạnh phúc đang chờ đợi tôi ở đâu đây và tôi đã lướt qua nhưng đã không biết nắm lấy.
Dĩ nhiên, rồi cũng đến lúc ít khi tôi ngồi uống một mình, tôi đi nhậu nhẹt ở khắp nơi tụ hội. Khi tôi không uống một mình nữa, rượu nho ảnh hưởng đến tôi khác hẳn. Tôi trở nên người nói nhiều, nhưng không đến nỗi nóng nảy, trái lại tôi cảm thấy một thứ nóng sốt lạnh lùng kì lạ. Một kích thước khác của con người tôi chưa từng ý thức được; nhưng kích thước ấy ít thấy được ở hoa trong bình hay hoa trong vườn mà phải tìm ở nơi cỏ nội hoa đồng. Tôi có đủ khả năng diễn tả tư tưởng thì đồng thời tôi cũng phát triển
thêm một khiếu phê bình lạnh lùng và bén nhọn làm cho tôi yên chí là mình có cái gì hơn người, tôi trở nên ngạo nghễ và hoạt bát. Nếu có ai làm tôi khó chịu, tôi báng nhạo họ, châm chọc họ kì cho họ bỏ đi chỗ khác. Từ thuở tôi còn thơ ấu người lớn đối với tôi đã không thân thiết đặc biệt, không cần thiết; từ đấy tôi xét đoán họ với tinh thần chỉ trích trào lộng. Tôi lấy làm thích thú mà tưởng tượng và kể lại những mẩu chuyện trong đó sự tiếp xúc giữa mọi người hiện ra bộ mặt dữ tợn và trào lộng, tôi chế giễu họ dưới hình thức khách quan lạnh lùng. Từ đâu mà tôi có giọng khinh bỉ ấy? Chính tôi cũng không biết rõ, nó tự thâm tâm tôi phát ra như một cái ung thư đến lúc chín mùi và trong nhiều năm qua tôi không thể từ bỏ được.
Nếu có buổi tối nào ngồi một mình thì tôi lại mơ màng đến núi non, sao sáng, âm nhạc buồn.
Trong những tuần lễ ấy tôi khởi thảo một loạt nghiên cứu xã hội, văn minh, nghệ thuật thời đại, một cuốn sách chỉ trích cay độc thoát thai từ những câu chuyện ở quán cà phê. Công việc nghiên cứu lịch sử của tôi trích dẫn những tài liệu quá khứ làm cho lời bình chú của tôi có căn bản chắc chắn.
Thiên khảo ấy đăng lên báo, tôi được một tờ báo khá quan trọng mời cộng tác thường xuyên nhờ vậy cuộc sống khá đầy đủ. Ít lâu sau thiên tiểu luận in thành sách xuất bản và gây được ít nhiều tiếng vang. Tôi bỏ hẳn ngôn ngữ học không ngó đến nữa. Kiến thức đại học của tôi đã khá tiến bộ, sự liên lạc với nhiều tờ tập san đưa tôi ra khỏi chỗ tối tăm thô thiển và dẫn tôi vào thế giới của những nhà văn chính thức. Đã có phương tiện sinh nhai, tôi xin khước học bổng và dương buồm thẳng tới cảnh đời bạc đãi một nhà văn.
Mặc dù thành công và hợm hĩnh; mặc dù viết lách, mặc dù thất tình, lúc vui cũng như lúc buồn, tôi vẫn giữ được sinh khí mạnh mẽ và sáng chói của tuổi trẻ.Tuy rằng tôi trào lộng, tự cho mình những vẻ thạo đời, tôi vẫn nhìn thấy trước mặt tôi trong mơ mộng của tôi, một mục đích, một lý tưởng. Sau này sẽ ra thế nào không biết. Tôi chỉ cảm thấy sẽ có một ngày kia đời sống mang đến cho tôi hạnh phúc đề huề, danh vọng. Không biết chừng cả ái tình và sự thỏa mãn thèm khác cháy lòng, những cái gì trả lời vào hoài bão sâu xa của tôi hay phấn khích kiếp sống của tôi. Tôi là một cậu ấm sính mơ màng đến các bà công nương quý tộc ngày mà cậy được sắc phong, được danh vọng lớn.
Tôi tưởng rằng mình đã bắt đầu có chức phận cao sang. Tôi không biết rằng tất cả cái gì đạt được chỉ là ngẫu nhiên, còn bản chất tôi, đời sống của tôi chưa tìm thấy chủ điểm sâu xa và chính yếu của riêng nó. Tôi chưa biết rằng ý muốn mãnh liệt vò xé tôi không thể bị giới hạn bởi sự thỏa mãn ái tình hay danh vọng.
Bởi vậy tôi hãy tạm hưởng chút danh vọng cỏn con vẩn đục với tất cả hứng khởi của tuổi trẻ. Tôi thấy dễ chịu khi được ngồi bên ly rượu ngon với những người thức giả và khi tôi nói mắt người ta đổ dồn về tôi, đầy hiếu kì và chú ý.
Đôi khi tôi ý thức được nhu cầu cấp thiết của mọi người có tâm huyết ngày nay đang thúc đẩy mạnh mẽ họ tìm một lối thoát và tôi cũng ý thức được họ đã sa chân vào những ngõ ngách kì dị. Tin Thượng Đế thì thiên hạ cho là đần độn, gần như thô lỗ, ngoài ra người ta còn muốn tin tưởng đủ mọi thuyết đủ mọi người có tên tuổi: Schopenhauer, Thích Ca, Zarathoustra và hàng trăm người khác. Có những nghệ sĩ trẻ tuổi không tên không tuổi lấy thái độ thành khẩn mà suy tư trước những tòa kiến trúc vĩ đại, những pho tượng hay bức họa. Quỳ gối trước Thượng Đế thì họ xấu hổ, nhưng họ lại quỳ trước tượng Jupiter của Orticoli. Có những nhà tu khổ hạnh khổ sở vì diệt dục nhưng cách ăn mặc thật là choang chóe. Ông trời của họ có những tên như Tolstoi hay Thích Ca. Có những nghệ sĩ tìm cách tự gợi ra những trạng thái tâm tình độc đáo bằng cách ngắm những bức thêu tinh vi được chọn lựa cẩn thận, hay bằng một vài bản nhạc, một vài món ăn, rượu, hương hoa và thuốc xì gà. Họ dùng một ngôn từ phổ thông để làm như nắm được những dữ kiện bình dân, những âm điệu, những hòa hợp màu sắc và những tinh túy cùng loại ấy; đâu đâu người ta cũng tìm những “cá tính” mà kỳ thực cá tính của họ chỉ là một chút ngụy tạo cỏn con mà chính họ bị lừa trước tiên, nếu không là cái gì ngông cuồng quái gở. Thực ra, tôi lấy làm thích thú mà xem họ nhập đồng hay đóng một mà kịch dơ dáng, tuy vậy cũng có khi tôi có cảm tưởng là nhiều hoài bão sâu xa, nhiều sinh khí thực sự đã tan thành lửa khói.
Tất cả những thi sĩ, nghệ sĩ và triết gia có tư tưởng tân kì mà tôi quen biết hồi ấy, tôi không thấy có người nào sau này làm được cái gì ra hồn. Trong số ấy có một thanh niên Đức trạc tuổi tôi, một nhân vật đáng cho người ta có cảm tình, một người dễ thương và mềm mỏng, ý nhị và có cảm giác tinh vi đối với mọi lãnh vực liên hệ đến nghệ thuật. Y được tiếng là một thi sỹ lớn trong tương lai, có khi tôi nghe đọc thơ của y, câu thơ phảng phất trong
trí nhớ như cái gì vô cùng nhẹ nhàng, một vẻ đẹp có linh hồn. Trong số nhà văn chúng tôi có lẽ y là người duy nhất có tâm hồn thi sĩ thực sự. Sau này ngẫu nhiên tôi biết rõ cuộc đời văn nghệ ngắn ngủi của y. Người nghệ sĩ dễ động lòng ấy trở nên rầu rĩ sau một chuyến thất bại trên văn đàn, y quyết định không ra mắt công chúng nữa và tìm sự nâng đỡ của một người bảo trợ, ông này đáng lẽ khuyến khích y và khuyên y theo lẽ phải lại đưa y đến chỗ mai một tài năng. Trong biệt thự của ông bầu giàu có, anh chàng khoan khoái mà cho ra những lời bàn thẩm mỹ nhạt nhẽo và huênh hoang trước mặt mấy bà, trong trí tưởng tượng của y, y cho mình là thiên tài người đời không biết đến, âm nhạc Chopin và sự say mê lỗi thời thêm vào, y tự mình làm cho mình mất cả lý trí. Tôi không thể nghĩ đến những tâm hồn ưu tú như y mà không rùng mình lẫn thương hại, những trang thi nhân tuổi còn non dại, quần áo tóc tai nom thật kì dị; sau đấy tôi mới ý thức được cái nguy hiểm của những sự giao du như thế. Bản chất dân quê miền núi đã giúp tôi tránh khỏi những trò lố lăng ấy.
Tuy nhiên, tôi có ý thức hơn về cao đẹp và hạnh phúc là nhờ tình bạn chứ không phải danh vọng, rượu chè, ái tình và đạo lý. Xét đến cùng thì tình bạn giúp tôi thắng được khuynh hướng bẩm sinh chỉ nhìn cạnh khía bi thảm của cuộc đời và giữ được toàn vẹn cái trong sáng nguyên sơ của tuổi trẻ. Đến ngày nay tôi cũng chưa thấy cái gì quý giá hơn tình bạn trai thành thực và phong phú; và nếu thỉnh thoảng có ngày ảm đạm lòng tôi nhớ nhưng lúc thiếu thời đó chỉ là hồi tưởng lại tình bạn sinh viên.
Từ khi say mê Erminia tôi kém thân thiết với Richard. Mới đầu tôi không nhận thấy, nhưng độ vài tuần lễ sau tôi phải hối hận. Tôi thú thật với y, y cho biết là y trông thấy tai nạn mà y lo ngại phát sinh và nảy nở. Tôi trở lại thân thiết với y, thân đến ghen với người khác. Tôi hoàn toàn nhờ có tình bạn mà đạt được một vài điểm của nghệ thuật sống anh nhiên thư thái. Y đẹp cả về thể chất cũng như về tinh thần, y ham sống và hình như đời y không có gì là ưu phiền. Sự tinh khôn, sự lanh lợi của y không làm cho y không biết đến say sưa lầm lẫn, nhưng những chuyện đó qua đi không tác hại gì. Đi đứng, nói năng, cái gì cũng thanh thoát, nhịp điệu, đáng mến. Trời ơi! Y mới là người biết cách cười!
Y không đồng ý với tôi về chuyện nghiên cứu rượu nho của tôi. Có dịp y cũng đi với tôi, nhưng chỉ uống hai ly là say, y ngạc nhiên một cách ngây thơ khi thấy tửu lượng của tôi đáng phục hơn nhiều. Nhưng khi thấy tôi đau khổ hay quị ngã trong ưu tư không đường chống cự, y đánh đàn đọc sách
với tôi hoặc dắt tôi đi chơi. Những lúc đi chơi như thế thường thường chúng tôi vui nhộn như con nít. Một buổi chiều quá trưa oi ả, chúng tôi nghỉ dưới một thung lũng rậm rạp cây cối, chúng tôi hái nụ thông ném nhau và đọc thơ oang oang với giọng tình tứ. Tiếng một con sông róc rách đưa tới bên tai, không thể tránh khỏi sức quyến rũ của làn nước ao trong veo mát lạnh. Y có sáng kiến đóng kịch. Y ngồi lên một hòn đã phủ rêu làm nữ thần Lorelei quyến rũ tàu bè làm cho mắc cạn, còn tôi bơi ở dưới như anh thủy thủ trong chiếc thuyền con. Y đóng vai trinh nữ và ưỡn ẹo tài tình quá đến nỗi tôi không nín cười được, đáng ra tôi làm ra vẻ đau đớn mê man. Bất thình lình có tiếng người, một đám du khách xuất hiện trên đường mòn, chúng tôi trần truồng như nhộng phải vội vàng nấp xuống bờ sông, chỗ khuất. Giữa lúc đám người đi qua trên đầu chúng tôi mà không ngờ, Richard gào lên đủ thứ tiếng kì dị, kêu ụt ịt, kêu choe chóe, giả tiếng mèo gào. Họ giật mình dừng lại nhìn quanh mở to mắt nhìn xuống sông, họ sắp sửa tìm thấy chúng tôi thì y thò nửa người ra ngoài hang, nhìn đám người tức giận, giơ tay lên như thầy tu vái Chúa, nói giọng nghiêm trang: “Xin đi đi cho yên lành!” Rồi y thụt xuống véo vào tay tôi mà rằng: “Đó cũng là một câu sấm.”
- Câu gì?
- Thần Pan dọa mấy đứa mục đồng - y vừa nó vừa cười. Thật là xui xẻo, trong số khách bộ hành có vài người đàn bà.
Y không để tâm đến công việc nghiên cứu lịch sử của tôi. Tuy nhiên y cũng đồng ý với về điểm tôi thích Saint François d'Assise đến say mê, nhưng có cơ hội y cũng đặt mấy câu pha trò làm tôi lên ruột. Chúng tôi nghĩ đến ông thánh ấy lần bước qua xứ Ombrie nước Ý, an nhiên tự tại mà sống hồn nhiên trong ân sủng của Chúa và đầy trìu mến khiêm nhường với tất cả mọi người. Chúng tôi cùng đọc bài ca ngợi mặt trời bất tử của ông mà chúng tôi gần thuộc lòng. Một lần đi chơi hồ, trở về bằng tàu thủy, gió thổi gợn sóng, nhuốm màu hồng, y khẽ hỏi tôi:
“Không biết trong những lúc thế này ông thánh của ta nói gì?” Tôi vội đọc:
“Lauda tu si, mi signore, per frate ventu e per aere e nubilo e sereno e onne tempu!...”
Khi chúng tôi cãi nhau và văng tục với nhau, y cười và hắt vào mặt tôi đủ mọi biệt hiệu kiểu học sinh đến nỗi tôi không nhịn cười được, thế là cơn
giận hết gay go. Chỉ khi nào nghe hay đờn những bản nhạc y hâm mộ là y có vẻ tương đối, nhưng y vẫn có thể ngưng lại pha trò một câu. Tuy nhiên y phụng sự nghệ thuật với trái tim trong sạch và ý thức về cái gì có chân giá trị không thể sai lầm được.
Y còn xuất sắc về tài nghệ thuật rất tế nhị an ủi người khác, chia sẻ thống khổ với người khác hay làm phấn khởi người bạn trong lúc buồn nản. Khi thấy tôi ủ rũ y có cách kể cho nghe một loạt chuyện tiếu lâm, y biết dùng giọng nói trấn tĩnh và vỗ về ít khi tôi không nghe theo.
Tôi hơn trội y chút đỉnh vì tôi nghiêm trang đứng đắn hơn y, vả chăng thân hình đồ sộ của tôi có cái gì đáng nể chứ. Y còn khoe với bạn khác, y hãnh diện có người bạn có thể dùng một tay bóp cổ y chết tươi. Y chú trọng nhiều đến sức lực và khéo léo thể chất; dạy tôi chơi quần vợt, chèo thuyền và bơi lội, với tôi, cùng tôi đua ngựa, không có chuyến nào đánh bi a với y mà tôi chơi kém. Bi-a là món sở trường của y, không những y chơi có nghệ thuật và chuẩn xác, thường thường đứng trước bàn bi-a y còn trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát và vui vẻ. Thường khi y lấy tên ba người quen với chúng tôi đặt cho ba hòn bi, mỗi cú, tùy theo vị trí, ba hòn bi gần hay xa nhau, y dựng lên một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết giật gân, lời bóng gió ví von không nhịn cười được. Tuy thế nhưng y vẫn chơi một cách bình tĩnh, nhẹ nhõm và thanh lịch vô cùng, nom y cũng đủ thích mắt.
Hoạt động văn nghệ của tôi, y cũng không để ý đến nhiều hơn tôi. Một hôm y nói: “Tôi vẫn cho anh là thi sĩ và tôi không đổi ý, nhưng anh thi sĩ không phải vì anh viết văn đăng báo mà vì tôi biết anh có cái gì sâu sắc và cao đẹp sẽ có ngày đưa ra ánh sáng. Bấy giờ mới thật là thơ.”
Trong khi ấy thì ngày tháng trôi đi như đồng tiền trong tay, chẳng ai để ý đến ngày Richard phải nghĩ đến việc về thăm nhà. Trong những tuần lễ cuối cùng chúng tôi sống vui vẻ đến điên cuồn, gần như giả tạo, sau cùng, đồng ý với nhau rằng trước khi chia tay phải đánh dấu những năm đẹp đẽ của cuộc đời bằng một cuộc vui tưng bừng đáng ghi nhớ suốt đời. Tôi đề nghị một chuyến nghỉ hè trên núi Alpes Thụy sĩ, nhưng mùa xuân chưa đến. Lên núi thì còn sớm quá. Trong khi tôi bới óc tìm ý kiến thì Richard viết thư cho cha và kín đáo sửa soạn một cuộc vui bất ngờ thật ra vẻ. Một hôm y nhận được một tấm chi phiếu lớn và rủ tôi đi cùng với tư cách là người hướng dẫn sang miền bắc nước Ý.
Lòng tôi khấp khởi vui mừng mong mỏi. Một ước vọng mạnh mẽ hơn cả đã có từ thuở bé, thực hiện cả ngàn lần trong giấc mơ, nay trở thành sự thật. Tôi nóng lòng sửa soạn các thứ lặt vặt, dạy bạn nói mấy câu tiếng Ý, đến phút cuối cùng còn lo rằng mọi dự định sẽ tan đi như mây khói.
Chúng tôi gửi hành lý đi trước rồi lên tàu. Núi đồi đồng ruộng lướt qua mắt, hồ Uri, núi Gothard làng mạc đến sườn núi, thác, núi lở, đỉnh Tessin phủ tuyết rồi đến những căn nhà thứ nhất xây bằng đá, đen thui giữa vườn nho phẳng lì, rồi thì con tàu mang theo hy vọng của chúng tôi lướt qua ven hồ, qua vùng Hombardie trù phú, tiến tới Milan tưng bừng sống động vừa có sức thu hút lẫn xua đuổi chúng ta một cách kì dị.
Chưa bao giờ Richard có một ấn tượng về thánh đường Milan, y chỉ nghe người ta nói về một nơi nổi tiếng đẹp. Bây giờ y tỏ vẻ thất vọng và bực tức, coi thật buồn cười. Khi đã nuốt trôi được ghê tởm và thấy lại tinh thần hài hước y đề nghị với tôi leo lên nóc để chạy nhảy trên các tượng đá và cây mọc trên ấy. Chúng tôi cũng được thỏa mãn không đến nỗi bực bội khi nhận thấy hàng trăm pho tượng ở gác chuông phần nhiều nhận kĩ thì thấy là thứ làm ra từng loạt và thuộc loại rất thô sơ, đó là những pho tượng mới nhất, mà có lẽ toàn thể các tượng đều như vậy. Chúng tôi đứng gần hai giờ trên sân đá cẩm thạch dốc, mặt trời tháng tư chiếu xuống đã hơi hơi nóng: Ở đấy Richard bình tĩnh thú nhận với tôi: “Anh biết không, thực ra tôi không thấy có gì là thất lợi nếu rồi đây còn gặp những thất vọng khác ngoài cái thánh đường kì cục này. Trong khi đi đường tôi hơi bứt rứt khi nghĩ đến những di tích huy hoàng sắp viếng thăm có thể làm cho chúng tôi hoa mắt. Thế mà cuộc phiêu lưu bắt đầu một cách kháu khỉnh và khôi hài như vậy!” Sau đấy, thế giới tượng đá hỗn loạn bao quanh chúng tôi gợi lên đủ mọi ý nghĩ kì quặc; y nói: “Tôi giả thiết rằng cái gác chuông ở trên cao kia, ngọn tháp cao hơn hết, hẳn là chỗ của vị thánh đồ cao nhất và tôn nghiêm nhất. Nhưng chắc hẳn lấy gân mà đứng cho thăng bằng mãi như tài tử bằng đá đi trên dây thép thì cũng mệt cho nên vị thánh bự nhất đã được thay thế và lên chầu thiên hoàng. Anh thử tưởng tượng xem thiên hạ vận động ngược xuôi như thế nào! Vì các vị thánh khác đều lên một trật tự đúng theo cấp bậc phẩm trật và ai nấy đều phải nhảy một bước lớn lên trật của người đi trước mình cho cho thật nhanh, vì họ ghen với kẻ đi trước mình đã từ lâu.”
Từ đấy, mỗi lần đi qua Milan, tôi lại nghĩ đến buổi chiều ấy và mỉm cười buồn tưởng tượng ra hàng trăm ông Thánh đá cẩm thạch đang co chân nhảy thốc lên bậc trên.
Đến thành Gênes, lòng tôi giàu thêm một mối tình. Trưa hôm ấy trời sáng sủa, gió hây hây. Tay tôi đặt lên một thành đá rộng, đằng sau tôi là thành Gênes với muôn màu sắc; phía dưới nước biển xanh ào ào cuộn sóng. Biển! Trong sự náo động ầm ỹ, vô cùng và vĩnh cửu đổ xô đến tôi với sức mạnh của một ước vọng không người biết đến, tôi cảm thấy trong tôi có cái gì kết giao với làn sóng bạc bằng một tình bạn sống chết có nhau.
Chân trời to rộng ngoài biển cả cũng chiếm cứ người tôi mãnh liệt. Cũng như ngày thơ ấu tôi nhìn thấy xa khơi mịt mù mở ra trước mắt tôi như cửa ngỏ lên trời xanh thăm thẳm. Lại một lần nữa, một mối tâm tình xâm chiếm người tôi: tôi có cảm tưởng như số mệnh tôi không phải để sống luôn luôn giữa gia đình loài người nơi thành thị, nhưng để lang thang đến đất xa lạ và lênh đênh trên mặt biển. Tôi lại thấy xuất hiện nhu cầu mờ mịt nép mình và trái tim Thượng Đế, hòa đồng kiếp sống mong manh với vĩnh cửu và vô cùng, lòng tôi buồn rười rượi.
Đến Rapalls, lần thứ nhất tôi chống cự với sóng biển, nếm mùi vị nước mặn và thử thách mãnh lực của làn sóng. Ngọn sóng xanh lam và trong suốt bao vây tôi giữa những tảng đá vàng nâu bờ biển, dưới trời xanh thăm thẳm trên cao. Trông thấy tàu bè chạy ngoài xa, cột đen buồm trắng, hay thấy luồng khói một chiếc tàu chạy ra khơi lòng tôi lại thêm một niềm xúc động. Ngoại trừ mây là vật thân yêu của tôi, tôi không biết có hình ảnh nào của hoài vọng và viễn vọng trần gian đẹp đẽ và sâu xa hơn cơn tàu biển tiến đến nơi xa lạ, vút đi nhỏ dần rồi biến và chân trời mở rộng.
Rồi chúng tôi đi đến Florence. Thành phố đã hiện ra trước mặt đúng như tôi đã biết qua tranh ảnh và giấc mơ - sáng lạn, rộng rãi, như lời khuyên mời du khách, một dòng sông xanh chảy dưới chân cầu, một dãy đồi bao bọc xung quanh. Tháp Palazzo Vecchio đứng sừng sững, chọc thủng trời xanh, tháp Fiesole xinh đẹp đứng trên ngọn đồi, sáng chói dưới ánh nắng gay gắt, ngọn núi nào cũng khoe màu trắng và hồng dưới lớp cây đang mùa khai hoa. Đời sống miền Toscane cơ chỉ và vui vẻ xuất hiện trước mặt tôi trong sắc thái hồn nhiên của nó như một phép lạ, chẳng bao lâu tôi có cảm tưởng như sống ở nhà, sống thoải mái hơn cả ở xứ tôi. Ngày ngày tôi thơ thẩn ở các giáo đường, các công trường, trong các thành phố nhỏ, các khu chợ; đến tối đi lượn quanh các khu vườn chanh triền núi, quả đã bắt đầu chín, hay bước vào những quán nhỏ bán rượu nho vùng Chianti để nhậu nhẹt và tán dóc. Cũng còn những giờ đầy hạnh phúc trong phòng triển lãm, trong nhà
tu, thư viện, những buổi chiều đi thăm Fiesole, San Miniato, Settignano, Prato.
Chúng tôi đã đồng ý là trước khi rời khỏi nơi này tôi để Richard ở lại đây một tuần, một mình tôi thực hiện cuộc hành hương cao đẹp và thú vị nhất tuổi trẻ qua những đồi phì nhiêu trù phú nhất ở miền Ombrie. Tôi đi theo lốt chân của Saint Fraçois d'Assise và cảm thấy như ông đi bên cạnh hàng giờ, tâm hồn tràn đầy tình thương thâm sâu cất tiếng chào vui vẻ và nhân từ từng con chim, từng ngọn suối, từng bụi cây tầm xuân. Trên triền đồi chói chang ánh nắng tôi hái chanh ăn, tối đến vào làng ngủ; tim tôi ca hát và làm thơ, đến lễ Pâques tôi vào lễ nhà thờ thánh d'Assise của tôi.
Tôi vẫn có cảm tưởng rằng tám ngày hành hương qua vùng Ombrie là những ngày kết thúc, là buổi hoàng hôn ửng hồng của quãng đời non trẻ. Không có ngày nào là không có nguồn suối trong mới tuôn ra trong tâm hồn tôi, hai mắt tôi chăm chăm ngó vẻ xuân sắc của phong cảnh tươi sáng ấy như ngó tận mắt ông trời.
Ở Ombrie tôi đã kính cẩn theo gót chân Saint François; đến Florence, tôi lại mơ màng thích thú nhớ lại đời sống Quattrocento. Tôi đã viết về những hình thức đời sống hiện đại. Đến Florence tôi mới nhận thấy lần thứ nhất rằng văn hóa ngày nay của chúng ta chứa tất cả cái gì là lố lăng và dơ bẩn. Chính ở đấy mà tôi có cảm tưởng rằng tôi sẽ mãi mãi là người xa lạ bỡ ngỡ trong xã hội ngày nay, ở đấy đã chớm nở ý muốn sau này sống ở ngoài xã hội của tôi để đến một nơi về phương nam nếu có thể được. Ở Florence, tôi thân cận với mọi người rất dễ dàng, trên mỗi bước đường tôi vui vẻ mà thấy người ta sống hồn nhiên không chút giả tạo, người ta sống trong nền nếp cổ truyền văn hóa và lịch sử, nền nếp ấy thanh lọc và nâng cao phẩm giá con người.
Những tuần lễ đầy tươi sáng thú vui và hạnh phúc bay đi; Richard cũng tràn đầy hứng khởi mà tôi chưa từng thấy. Chúng tôi uống cạn chén đời tươi đẹp và say sưa trong thú vui tràn bờ. Chúng tôi đến những nơi khuất nẻo trên đồi, chúng tôi kết thân với chủ quán, thầy tu, nông dân, cha xứ, người nào cũng đầy hân hoan; chúng tôi nghe những bản nhạc hồn nhiên, đem bánh và trái cây cho trẻ em, leo lên núi cao trông xuống miền Toscane rực rỡ dưới trời xuân, xa xa là biển Bắc Ý. Cả hai chúng tôi đều có cảm tưởng sâu xa là đáng được hưởng hạnh phúc và đang đi tìm một đời sống mới mẻ, phong phú. Cần lao, tranh đấu, khoái lạc và danh vọng ở trước mặt kia, chói lọi và chắc chắn, chúng tôi cứ việc nhẩn nha hái hoa tình của những ngày
sung sướng. Sau này phải chia tay thì cũng là thường tình và nhất thời vì chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi cần có nhau, chúng tôi có thể tin nhau suốt đời.
Tuổi thanh niên của tôi là như vậy. Khi nghĩ đến quãng đời ấy tôi thấy nó ngắn ngủi như một đêm hè. Một chút âm nhạc, một sinh hoạt tinh thần, một chút ái tình, một chút khoe khoang - nhưng thật là đẹp đẽ, phong phú và màu sắc như một buổi hội Eleusis thời Cổ Hy lạp.
Và tất cả đã vội tắt ngấm một cách đáng tiếc như ngọn đèn trước gió.
Đến Zurich, Richard từ biệt tôi. Hai lần y đã lên xe còn trở xuống hôn tôi, tàu đã chuyển bánh y còn thò ra cửa tỏ dấu trìu mến.
Mười lăm ngày sau, y chết đuối ở phía nam nước Đức khi tắm trong một con sông nhỏ. Tôi không được thấy mặt y nữa, khi chôn cất y tôi cũng không có đấy, mấy ngày sau người ta mới cho tôi biết, bấy giờ y đã nằm trong săng chôn chặt dưới đất. Tôi nằm sóng sượt ra đất than trời trách đất với những tiếng bi ai và thô lỗ; tôi khóc, tôi mặc sức cơn phẫn nộ bùng ra. Từ trước đến nay tôi chưa biết rằng trong mấy năm ấy tôi chỉ có tình bạn là vững vàng quý giá. Bây giờ còn đâu!
Không thể ở tỉnh này lâu nữa, hàng ngày biết bao kỷ niệm vấn vít lấy cõi lòng và bóp nghẹt hơi thở. Bây giờ thì cái gì xảy đến tôi cũng dửng dưng. Tâm hồn tôi đã bị xúc phạm xấu xa, tôi ghê tởm cả cuộc sống. Lúc này hầu như tâm hồn tôi đã tan vỡ khó lòng lấy lại hơi sức và giương buồm tới miền hạnh phúc đắng cay của thời kỳ đứng bóng. Trời đã muốn tôi hy sinh phần tốt đẹp nhất của tôi cho tình bạn trong sạch và vui tươi. Như hai con thuyền lướt nhẹ, chúng tôi cùng tiến bước, thuyền của Richard rất xuất sắc, nhanh nhẹn, đáng mến, tôi đã chú trọng đến thuyền của y, tôi chắc chắn rằng y sẽ dắt díu tôi đến những chân trời rực rỡ. Bây giờ thuyền y đã đắm rồi còn tôi chới với giữa giòng, mặt nước bỗng dưng tối tăm. Giờ đến lượt tôi lèo lái, tranh đấu và thăm dò một ngả khác để chinh phục đỉnh cao của đời sống. Tôi đã tin tưởng tình bạn, ái tình và tuổi trẻ. Bây giờ chúng lần lượt bỏ tôi, tại sao tôi không tin tưởng ông trời và gửi vận mệnh mình vào tay gang thép của ông. Nhưng suốt đời tôi vẫn do dự và cứng đầu như một đứa trẻ, và tôi vẫn chờ đợi một đời sống thực sự, làm như nó ầm ầm kéo đến như cơn bão, ôm chầm lấy tôi khiến tôi trở nên tinh khôn và giàu có, cõng tôi trên hai cánh rộng lớn của nó đưa đến hạnh phúc tuyệt vời.
Nhưng cuộc đời cũng khôn ngoan và cần kiệm lắm không chịu khai khẩu, mặc xác tôi chới với giữa dòng. Nó chẳng đem lại bão tố hay sao sáng nó đợi tôi trở lại khiêm nhường và kiên nhẫn, đợi cho sự phách lối, sự phản loạn của tôi phải gẫy vụn. Nó mặc kệ cho tôi đóng tấn kịch kiêu căng và làm ra bộ láu lỉnh, nó đợi đứa con thất lạc trở về với mẹ.
5
Đây là một giai đoạn đời tôi có bề ngoài náo nhiệt và nhiều sắc thái hơn giai đoạn trước, có thể làm đầu đề cho một thiên tiểu thuyết nhỏ rất hợp thời. Đáng lẽ tôi phải kể lại trong trường hợp nào tôi được chọn làm biên tập viên của một tờ báo Đức, tôi đã cầm ngòi bút và uốn ba tấc lưỡi quá tự do như thế nào để đến nỗi xảy ra kiện cáo và chê trách. Ngoài ra, tôi khét tiếng là bợm rượu như thế nào, sau cùng, vì những cuộc tranh luận ác độc, tôi phải từ chức và sang Ba Lê làm phóng viên như thế nào. Trong cái hang ấy tôi sống qua ngày như người Bô Hêm thế nào, và trên mọi lãnh vực tôi đã thấy đủ mọi màu sắc như thế nào.
Không phải vì hèn nhát mà tôi không nói đến giai đoạn ngắn ngủi đời tôi này để mất lòng những người thích nghe chuyện tục tĩu trong số bạn đọc. Tôi công nhận là tôi đã đi vào hết ngõ ngách dơ bẩn khác; tôi làm quen với đủ mọi thứ trụy lạc và tôi sa lầy trong ấy. Tôi mất cả ý thích thơ mộng của đời sống phóng đãng, các bạn cho phép tôi chỉ nói cái gì sạch sẽ tốt lành trong đời tôi và coi thời gian đã qua như qua hẳn không bao giờ trở lại, không bao giờ nói đến nữa.
Vả chăng Ba Lê là một nơi ghê tởm: nghệ thuật, chánh trị, văn chương, chuyện đàn bà nhảm nhí - nghệ sĩ, văn nhân, chánh khách và đàn bà xấu xa, thế thôi chẳng có gì khác. Nghệ sĩ cũng khoe khoang và hợm hĩnh như chánh khách, văn nhân còn khoe khoang và hợm hĩnh hơn, người khoe khoang và hợm hĩnh nhất hẳn là đàn bà.
Một buổi tối ở Bois de Boulogne, tự hỏi nên từ giã Ba Lê hay từ giã ngay cả cuộc đời lại hơn. Rồi tôi nghĩ đến việc kiếm điểm lại cả cuộc đời mình, đã lâu tôi không làm việc học ôn ấy, tôi tính rằng mình chẳng mất mát cái gì quan trọng.
Nhưng bất thần hiện lên sáng sủa dị thường kỷ niệm một ngày đã xa xưa, đã quên lãng - một buổi bình minh mùa hạ ở nhà tôi trên núi; tôi quỳ gối gần một cái giường; trên giường mẹ tôi đang hấp hối.
Tôi giật mình lấy làm xấu hổ rằng đã lâu nay không nghĩ đến buổi sáng ấy. Ý muốn tự vẫn đớn hèn biến mất. Bởi vì tôi cho rằng không có người đứng đắn nào đã trông thấy một người tinh khiết và đôn hậu tắt nghỉ lại dám cả gan tự kết liễu đời sống của mình. Trừ khi họ mất hẳn con đường
chánh đạo. Tôi thấy lại mẹ hấp hối. Tôi thấy trên mặt mẹ tôi bàn tay lặng lẽ và nghiêm khắc của tử thần làm cho mẹ tôi trở nên cao đẹp. Tử thần có vẻ ác nghiệt nhưng cũng quyền uy và nhân từ, như một người mẹ cẩn thận đưa về nhà một đứa con chết đuối.
Bất thần, tôi lại hiểu rằng cái chết là người anh em tử tế và hiền triết của chúng ta; nó biết khi nào giờ của chúng ta đã điểm, chúng ta phải tin tưởng nó. Tôi cũng bắt đầu hiểu rằng đau khổ, thất vọng và ý nghĩ đen tối không có trách vụ làm cho chúng ta cay chua, làm cho chúng ta mất phẩm giá và danh dự, nhưng làm cho chúng ta chín chắn và cao khiết.
Tám ngày sau tôi gửi hành lý về Ba Lê rồi đi bộ một phần lớn niềm nam nước Pháp, kỷ niệm ngày sống ở Ba Lê còn dõi theo với không khí nồng nặc của nó, nhưng rồi mỗi ngày mỗi phai mờ và tan biến như sương mù. Tôi dự một phiên huấn luyện ái tình, tôi ngủ đêm trong lầu các, cối xay, vựa thóc, tôi uống rượu nho với những chàng trai cởi mở, rượu của họ làm ra đem khí mặt trời ấm áp vào tâm hồn ta.
Hai tháng sau tôi tới Ba Lê, quần áo tơi tả, người gầy nhom, đen sạm, tâm hồn thay đổi hẳn. Lần thứ nhất tôi đi bộ xa như vậy, đây chỉ là chặng thứ nhất, sau này tôi còn đi nhiều. Từ Lacano đến Vérone, từ Bâle đến Brigue, từ Florence đến Pérouse, ít có thị trấn nào mà tôi không qua lại đôi ba lượt, theo đuổi những mơ mộng mà chưa có một điểm nào thực hiện được.
Đến Bâle tôi thuê một căn phòng ở ngoại ô, lấy đồ dùng ra và bắt đầu làm việc. Tôi sung sướng sống ở một tỉnh yên tĩnh không ai biết tôi cả, sự liên lạc với vài tờ báo và tập san vẫn còn, tôi không thiếu gì việc làm và sống không đến nỗi thiếu thốn. Mấy tuần lễ đầu yên lành bình thản, rồi sự u buồn lại đến, dai dẳng hàng ngày, hàng tuần làm việc cũng không khuây được. Biết mô tả nó thế nào? Tôi có cảm tưởng mình lẻ loi ghê gớm. Giữa tôi và mọi người, giữa tôi và đời sống thành thị với nhà cửa, phố xá, luôn luôn có một vực thẳm. Một thiên tai xảy ra những biến cố tường thuật trên mặt báo đều không có nghĩa gì đối với tôi. Người ta hội hè đình đám, người ta làm ma chay, người ta ký kết công ăn việc làm với nhau, người ta đàn hát - Để làm gì? Tại sao? Tôi trốn tránh về thôn quê, tôi đi lang thang vào rừng, lên núi, xuống đồng; xung quanh tôi cô tịch, nhưng không một tiếng than van, đồng cỏ, ruộng nương đều câm lặng, chúng giương mắt van lơn nhìn tôi như muốn nói câu gì, như muốn đến với tôi. Nhưng chúng đứng trơ ra đó
không nói nên lời; tôi hiểu nỗi khổ đau ấy và tôi chia sẻ với chúng vì tôi không thể thoát ly chúng được.
Tôi đi khám bác sĩ, kể bệnh thật tỉ mỉ, cố gắng mô tả bệnh của tôi. Ông ta xem, hỏi han, chẩn mạch.
- Ông có sức khoẻ dồi dào nhiều người phải thèm, tôi mừng cho ông, như vậy thể chất của ông tốt lắm. Ông hãy thử giải buồn bằng âm nhạc hay đọc sách.
- Trong nghề của tôi, mỗi ngày tôi đọc rất nhiều tin mới lạ. - Dù sao thì ông cũng phải cố gắng vận động ngoài trời chút ít. - Mỗi ngày tôi đi bộ từ ba đến bốn giờ, khi nghỉ hè tôi đi gấp đôi.
- Thế thì ông buộc lòng phải giao du với mọi người. Điều nguy hiểm cho ông là ông có thể trở thành người ghét xã hội.
- Như thế thì có làm sao?
- Quan trọng lắm chứ. Lúc này ông càng ghê tởm xã hội bao nhiêu, ông càng phải ráng tiếp xúc với xã hội bấy nhiêu. Tình trạng của ông chưa hẳn là bệnh và không có gì là trầm trọng; nhưng nếu ông cứ thụ động như thế ắt là ông sẽ mất quân bình.
Viên y sĩ là một người hiểu biết và tử tế. Ông ái ngại cho tôi. Ông giới thiệu tôi với một nhà văn thường hội họp tại nhà rất nhiều người, những buổi họp ấy có ít nhiều hoạt động trí thức văn học. Tôi đến. Người ta biết vì đã nghe danh tôi; người ta tỏ ra nhã nhặn gần như thân hữu. Tôi trở lại đấy luôn. Một buổi tối lạnh lẽo quý thu, tôi ở đấy, trong phòng có một sử gia trẻ tuổi và một thiếu nữ người bé nhỏ tóc nâu, ngoài ra không có người nào nữa. Cô gái pha trà, nói rất nhiều và chọc tức chàng sử gia. Rồi cô ngồi đánh dương cầm. Đến sau cô cho tôi biết là cô đã đọc sách trào phúng của tôi nhưng không thấy thích thú. Cô có vẻ thông minh, thông minh quá nữa, chẳng bao lâu tôi bỏ về.
Trong thời gian ấy, dần dần người ta khám phá ra tôi năng lui tới tửu quán, mà thực ra tôi là một bợm rượu. Tôi không lấy làm lạ vì những chuyện ngồi lê đôi mách rất thịnh hành trong giới văn học đàn ông cũng như đàn bà. Sự khám phá nhục nhã cho tôi như vậy không ảnh hưởng gì đến sự giao du của tôi; trái lại người ta chiếu cố đến tôi nhiều hơn vì ở đây người ta sính điều độ; các ông bà ấy là nhân viên ban chấp hành một hội bài
trừ nghiện rượu, họ khoan khoái mỗi khi tóm được một tên phạm tội rượu chè. Một ngày kia họ tung ra đợt công kích đầu tiên trong vòng lễ độ. Người ta yêu cầu tôi suy ngẫm về sự tủi hổ bê tha nơi quán rượu, về cái hại của rượu chè, tôi phải đứng về phương diện y tế, xã hội và đạo đức để tự vấn tâm. Người ta cũng mời tôi dự một ngày hội của liên minh bài trừ nghiện rượu. Tôi ngạc nhiên vô cùng, vì đến nay tôi chỉ nghe nói qua loa những hội, những đoàn thể như thế. Buổi lễ có ấm nhạc giúp vui và nhuốm màu sắc tôn giáo có vẻ khôi hài nặng mùi, cảm tưởng của tôi, tôi chẳng cần giữ bí mật. Trong mấy tuần liền người ta tìm cách khuyến dụ tôi ngọt ngào lộ liễu, câu chuyện trở nên bực bội vào một tối nọ người ta nhắc lại bản ca cũ rích và nóng lòng mong mỏi tôi cải quá, tôi nổi nóng lớn tiếng yêu cầu họ chấm dứt những trò con nít ấy. Người con gái có mặt ở đấy chú ý nghe tôi rồi la lớn: “Can đảm quá!” nhưng tôi tức giận quá không để ý.
Tôi thấy thích thú khi xem một trò khôi hài kháu khỉnh xảy ra trong một cuộc biểu diễn của mấy chiến sĩ nhịn rượu. Cái hội lớn đó thết tiệc tại trụ sở mời rất nhiều người dự. Họ đọc diễn văn, họ làm thân với bạn bè, họ hát hỏng và nêu thành tích của việc làm ý nghĩa. Một công nhân được mướn để vác cờ, anh này thấy bài diễn văn dài quá vì không có rượu, anh ta chuồn ra một tửu quán gần đấy, khi đoàn thể long trọng diễu hành qua các phố, phàm nhân được dịp chứng khiến một cảnh tượng thích thú: trước đoàn người lớn tiếng bài trừ rượu, ngất ngưởng một đệ tử lưu linh chân nam đá chân xiêu, tay cầm một lá cờ “Lam Thập Tự” như cột buồm một con tàu sắp chìm.
Chàng nghiện rượu biến mất, nhưng cái mà người ta không dẹp đi là những sự khoe khoang nặng tính chất trần tục quá, những sự ghen ghét và mưu đồ ti tiện xảy ra giữa các nhóm, các ban tranh giành nhau, mỗi ngày nảy nở mỗi nhiều, mỗi thêm thú vị. Phong trào phân chia ra làm nhiều phe phái, vài người háo danh muốn hưởng danh vọng một mình, họ bất bình nếu có người nào bỏ được rượu mà không phải họ có công dìu dắt. Người ta lợi dụng trắng trợn những người hằng tâm cộng tác không vụ lợi, mà số người này không thiếu. Những người có vị trí thuận tiện để quan sát chẳng bao lâu có dịp nhận thấy rằng dưới chiêu bài lý tưởng này cũng len vào bao nhiêu sự dơ bẩn của con người, mùi tanh hôi bốc lên thấu trời. Nhiều người ngoài cuộc kể cho tôi nghe những tấn hài kịch nho nhỏ ấy, tôi khoái chí một cách kín đáo và đến đêm đi uống rượu đã mới về, tôi tự nhủ: Đã thấy chưa, phàm nhân cái tóc cái tội chúng tôi, chúng tôi cũng còn hơn thế nhiều!
Trong căn phòng nhỏ bé của tôi, đứng trên cao thấy sông Rhin và chân trời xa, mịt mù của vùng sông ấy, tôi học hành và suy nghĩ rất nhiều. Tôi thất vọng vì dòng đời đã tách khỏi tôi, đã gạt tôi ra bên mà không có ngọn sóng mãnh liệt nào kéo tôi đi chỗ khác, không có một sức thu hút mãnh liệt nào, một sự thúc đẩy cấp thiết nào khơi động nhiệt tình và kéo tôi ra khỏi cơn mơ mộng bần thần. Ngoài công việc làm để sinh nhai, tôi còn dự thảo một cuốn sách nhưng đấy không phải là sáng tác, mới chỉ là công việc thường xuyên của người sưu tầm không thoả mãn được ý muốn gắt gao của tôi. Thu thập những ký ức ở Zurich, Berlin, Paris, tôi tìm cách rút ra cái gì là ước vọng chính yếu, say mê và lý tưởng của con người suy tưởng đồng thời với tôi. Người này cố gắng xoá bỏ bàn ghế, màn mùng, thói tục hiện có để làm cho người đời quen với một khung cảnh sống tự do hơn, tốt đẹp hơn. Người khác cố gắng phổ biến quan niệm triết lý nhất nguyên của Haeckel bằng loại văn phổ thông và những buổi nói chuyện. Nhóm người khác nữa cho rằng họ đã cố gắng thích đáng để lập nền hoà bình vĩnh viễn. Lại có người tranh đấu cho giai cấp nghèo khổ bị bạc đãi, họ lập sổ quyên và diễn thuyết để lấy tiền xây cất rạp hát và thư viện cho bình dân. Còn ở đây, thành Bâle, người ta tranh đấu để bài trừ rượu.
Trong những sự cố gắng ấy người ta đều tỏ ra thành khẩn và hoạt động; nhưng đối với tôi không có người nào là quan trọng, là cần thiết, và nếu hôm nay tất cả những mục tiêu ấy đều đạt được chúng cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tôi, đến đời tôi. Tôi thất vọng ngồi phịch xuống ghế, gạt cả sách vở, bản thân đi và suy nghĩ, suy nghĩ hoài. Bấy giờ tôi nghe tiếng sông Rhin chảy dưới cửa sổ, tiếng gió gào thét, tôi xúc động lắng tai nghe tiếng nói chứa chan nhớ nhung và u buồn. Tôi trông mây mờ ban đêm bay từng đám lớn trên trời như đàn chim sợ hãi, tôi nghe tiếng sông Rhin chảy theo dòng rồi nghĩ đến mẹ tôi, đến Saint François, đến quê hương khuất nẻo trong núi tuyết, và Richard nay đã xanh mồ. Tôi lại thấy mình bơi thuyền trong đêm với Aglietti, thấy mình thất vọng vì bạn chết, đi xa trở về, khuây khoả và trở lại nghèo túng. Để làm gì? Tại sao? Trời! Tất cả những biến cố ấy chỉ là trò chơi, là ngẫu nhiên, là tấm hình màu chăng? Tôi có tranh đấu và đau khổ vò xé cho đời sống tinh thần, cho tình bạn, cho chân thiện mỹ, cho tình yêu không? Ham muốn và tình yêu còn tiếp tục luân lưu trong người tôi với sức mạnh như gió bão chăng? Và tất cả những cái đó chỉ là phù phiếm, chỉ để vò xé riêng tôi chẳng đem lại thú vui cho ai ư?
Lúc ấy tôi đã đủ già dặn để lui tới tửu quán. Tôi tắt đèn, sờ soạng bước xuống cầu thang xoáy trôn ốc và ló mặt vào một tiệm cà phê bán rượu nho Valteline hay tiệm rượu bán thứ vang Vaudois. Ở đấy tôi được tiếp đãi lịch sự như người khách đứng đắn tuy rằng thường nhật tôi cáu kỉnh và nếu gặp dịp tôi cũng thô bỉ. Tôi đọc tờ Simplicissimus và không khỏi bực mình, tôi uống rượu và đợi nó an ủi tôi. Trong lúc êm ái ấy thần lưu linh đưa tay mềm mại như tay đàn bà ra vỗ về tôi, làm cho chân tay tôi bủn rủn, đưa linh hồn lạc lõng của tôi đến xứ mộng đẹp.
Tôi phải kinh ngạc rằng tôi đã đối xử với mọi người một cách cau có gắt gỏng như thế, tôi đã lấy làm mát ruột mà ngược đãi họ như thế. Trong các hàng cơm có mặt tôi, hầu bàn sợ tôi và nguyền rủa tôi là một thằng cục súc, quạu quọ, bao giờ cũng tìm được cớ để bắt bẻ. Nói chuyện với khách ăn thì tôi thô lỗ và báng bổ họ, dĩ nhiên họ tìm cách trả đũa tôi. Tuy nhiên trong số những khách ăn quen cũng có một số ít người - rất ít - đã có tuổi và uống rượu thùng bất chỉ thình. Thỉnh thoảng tôi ngồi giết thời giờ với họ, sự giao du với họ cũng được khả quan. Trong số ấy có một ông già lỗ mãng làm nghề thợ vẽ, một người ghét đàn bà, một lão gắt gỏng bợm nhậu có môn bài hạng nhất. Tối nào tôi gặp y một mình ở quán là y như có cuộc so ly rất cam go. Mở màn chúng tôi tán dóc, pha trò, tráng miệng bằng một chầu rượu nho đỏ, rồi dần dần nổi hứng, chúng tôi ngồi yên lặng trước mặt nhau không cần chuyện trò gì nữa, chúng tôi như hai đống thịt chất lù lù, nốc hết hàng chai. Tửu lượng của chúng tôi ngang nhau, chúng tôi cùng rót đầy ly một lượt, cùng liếc mắt ngó nhau ranh mãnh như thử xem ai hơn ai kém. Đến mùa có rượu mới vào cuối thu chúng tôi cùng đi qua các làng trồng nho, đến một tửu quán ở đấy lão ma bùn kể chuyện cuộc đời của lão. Tôi cho rằng chuyện của lão lý thú chứ không nhàm chán, nhưng đáng tiếc rằng tôi quên hết. Chỉ nhớ y nói đến một tiệc rượu của y vào lúc tuổi khá cao. Chuyện xảy ra trong một ngày hội ở làng. Nhân danh khách người ta mời y ngồi với các thân hào. Chẳng mấy lúc y làm cho cả ông tiên chỉ lẫn ông mục sư say mèm. Ông mục sư phải đứng dậy nói vài lời cảm ơn quan khách. Khi người ta dìu ông lên diễn đàn ông nói nhiều câu lỗ mãng quá làm người ta phải kéo ông xuống. Đến lượt ông tiên chỉ hăng hái bước lên. Ông ứng khẩu nói dõng dạc, nhưng hoa chân múa tay quá nên ông mệt, phần kết cấu của ông không đến nỗi tầm thường nhưng chẳng có gì là điêu luyện. Sau này tôi muốn lão kể tiếp câu chuyện và cho biết nhiều chuyện nữa. Nhưng đến một bữa thi bắn kia, chúng tôi bất bình nhau một cách đáng tiếc, chúng tôi nắm râu nhau mà kéo rồi từ đấy giận nhau. Từ đấy thỉnh
thoảng chúng tôi cũng gặp nhau trong một tửu quán nhưng chỉ còn là thù nghịch nhau, mỗi người ngồi riêng một bàn. Vì thói quen đã lâu ngày, chúng tôi lẳng lặng ngó nhau, uống với tốc độ ngang nhau, cùng ở lại rất lâu khi khách đã về hết, mãi đến lúc người ta phải mời ra để đóng cửa. Không bao giờ chúng tôi giải hoà với nhau.
Nghĩ mãi về nguyên nhân chán nản và không thích ứng được với cuộc đời chỉ là vô ích và mệt người. Tôi không hề có cảm tưởng là người tôi hết sinh lực hay rỗng tuếch, trái lại tôi thấy mình tràn đầy sức lực tiềm tàng và tính rằng đến lúc thuận lợi sẽ còn có thể sáng tác được một văn phẩm giá trị, ít ra hái được một chút hạnh phúc của cuộc đời cay nghiệt. Nhưng giờ phút thuận lợi có đến không? Tôi đau lòng mà nghĩ đến những người cấu tạo hoàn toàn bằng dây thần kinh, họ dùng cả ngàn thứ kích thích nhân tạo để làm nghệ thuật, trong khi ấy thì trong người tôi sinh khí hùng hậu chưa dùng đến còn để mụ mị không trau dồi. Và tôi lại bới óc ra tìm xem con quỷ nào đã làm tê liệt linh hồn tôi mỗi ngày mỗi nặng thêm trong khi thể xác tôi tràn đầy sức lực. Ngoài ra tôi còn hợm hĩnh tự cho mình là một người khác tục, không ai bênh vực, không ai biết đến, không ai hiểu thấu và chia sẻ bớt nỗi đau đớn. Trong sự chán ngán có điều này thật là quái gở, không những nó làm mình ốm đau mà còn làm mình tự cao tự đại, làm mình cận thị, gần như kiêu căng. Người ta tưởng mình là chàng Atlats khiếm nhã mà Heine đã nói đến, chàng ta cho rằng mình đã nắm được tất cả bí mật và đau khổ ở đời, chàng ta cho rằng cả ngàn người khác không có những đau khổ ấy và không gặp những nỗi vấn vương ngoắt ngoéo ấy. Và trong nỗi cô đơn xa quê hương, tôi cũng quên hẳn rằng tính tốt tật xấu và điểm riêng biệt của tôi không phải là cái gì hay cho tôi và cho họ Camenzind - nói là một sự bất hạnh thì hơn.
Vài tuần lễ sau tôi trở lại nhà người trí thức đã tiếp đãi tôi nồng hậu. Dần dần tôi làm quen với gần hết những người lui tới nhà ấy. Phần nhiều là những người trong giới đại học còn trẻ, rất nhiều người Đức thuộc đủ mọi phân khoa, ngoài ra còn vài hoạ sĩ, nhạc sĩ, và vài trưởng giả và vợ con của họ. Tôi thường ngạc nhiên khi để ý thấy họ đối đãi với tôi như một thượng khách. Tôi biết rằng mỗi tuần họ gặp nhau không biết bao nhiêu lần. Không biết họ nói gì với nhau và làm gì với nhau? Phần nhiều họ có một thái độ rập theo khuôn mẫu homo socialis, người nào cũng như người nào đều có tinh thần thoả hiệp với đời sống xã hội mà chỉ riêng tôi không có. Trong số ấy có nhiều người rất phong nhã, đời sống chỉ có khách khứa với tiếp rước
không làm cho họ mất cá tính hồn nhiên và nghị lực. Có những người mà tôi có thể nói chuyện lâu, rất thích thú. Nhưng tôi không thể lăng xăng chạy chỗ này chỗ kia, đứng vài phút trước mặt họ, khen tặng các bà vài câu xã giao, chú ý vào một tách trà, vài câu đối đáp và một bản nhạc, làm như chú trọng và thích thú với tất cả những sự nhàm chán ấy. Nói đến văn chương nghệ thuật thật là khổ tâm cho tôi vô cùng. Tôi nhận thấy rằng trong những lĩnh vực ấy người ta suy nghĩ thì ít, nói dóc thì nhiều, phần nhiều chỉ là nói không ăn thua đâu vào đâu. Nếu làm như vậy, tôi cũng phải bắt chước mọi người mà nói trí nói trá nhưng chẳng thích thú gì, thật là những chuyện vẩn vơ ấy vô ích, nhàm chán và hạ phẩm giá con người. Chẳng thà nghe một người đàn bà nói chuyện với con cái hay để tôi kể những chuyến du lịch của tôi, hay nói chuyện vặt hàng ngày, chuyện gì liên hệ đến đời sống thực tiễn. Những lúc ấy có khi tôi cởi mở và gần như vui vẻ. Nhưng phần nhiều, sau những buổi họp như thế tôi vẫn phải đến một tiệm cà phê uống vài hớp rượu nho Valteline để tiêu tan sự buồn bực ghê tởm hay dư vị đắng khô còn ứ trong cổ họng.
Trong một buổi họp tôi gặp lại người thiếu nữ tóc đen. Tối hôm ấy có một đám đông người chơi âm nhạc và làm om sòm như thường lệ, tôi ngồi ở một góc phòng xem tập ảnh dưới ánh sáng một ngọn đèn. Đó là những bức họa xứ Toscane, không phải ảnh chụp những bức họa tầm thường người ta đã thấy cả ngàn lần, nhưng là những họa phẩm của họa sĩ tài tử, phần nhiều của bạn hữu ông chủ nhà. Tôi vừa tìm thấy bức họa một căn nhà xây bằng đá, cửa sổ hẹp, nằm trong một thung lũng hẻo lánh miền nam San Clemente, tôi nhận ra vì tôi đã đi qua đấy nhiều lần. Thung lũng này ở gần Fiesole, nhưng du khách không đến thăm bao giờ vì không có gì là đồ cổ. Đó là một thung lũng đất cằn cỗi ít người ở, nhưng đẹp lạ lùng, thung lũng xen vào giữa những trái núi cao, trơ trụi và hiểm trở, một nơi cách biệt với đời sống, tịch mạc và trinh nguyên.
Thiếu nữ đến gần, nhìn qua vai tôi.
- Sao ông ngồi một mình như vậy, ông Camenzind?
Cô ta làm tôi khó chịu. Tôi nghĩ thầm, cô ta bị tụi thanh niên bỏ rơi nên đến tìm tôi.
- Sao ông không trả lời tôi?
- Xin lỗi cô, tôi trả lời cô thế nào bây giờ? Tôi ngồi một mình vì tôi thích thế.
- Thế tôi có làm phiền ông không?
- Cô chỉ khôi hài.
- Như vậy tôi sẽ được việc cho ông.
Cô ngồi xuống. Tôi không rời bỏ tập họa.
- Ông là người miền núi thực à? Tôi được nghe chuyện miền núi thì còn gì bằng. Anh tôi bảo rằng trong làng ông chỉ có một họ, chỉ có họ Camenzind. Điều ấy có đúng không?
- Gần hết thôi. Nhưng cũng có anh hàng bánh họ Fussli và người chủ quán họ Nydegger.
- Còn thì họ Camenzind hết à? Tất cả đều là thân thích? - Thân thích xa hay gần.
Tôi đưa cô xem bức họa. Cô cầm lấy và tôi nhận thấy cô lấy điệu bộ thích hợp. Tôi nói cho cô biết. Cô cười mà rằng:
- Ông quá khen tôi, nhưng khen như thầy giáo khen học trò. - Cô ngồi đây xem tranh với tôi nhé.
- Bức này vẽ cái gì đây?
- San Clemente.
- Ở đâu?
- Gần Fiesole.
- Ông đã đến thăm nơi ấy chưa?
- Nhiều lần rồi.
- Ông tả cho tôi nghe thung lũng ấy nhé. Đây chỉ có một khoảng nhỏ.
Tôi suy nghĩ. Phong cảnh đẹp vì vẻ hiểm trở gập ghềnh hiện ra trước mắt tôi, tôi lim dim mắt lại để nhớ rõ. Một phút qua đi trước khi tôi bắt đầu nói và tôi thích chí vì cô ta yên lặng ngồi đợi. Cô biết rằng tôi trầm tư để nhớ lại.
Rồi tôi mô tả khe San Clemente nằm êm ả, trơ trụi và hùng vĩ trong ánh nắng trưa hè. Ở Fiesole gần đấy có nhiều xưởng kỹ nghệ, người ta bán cam và đồ vật làm kỷ niệm, người ta đánh lừa du khách và người ta xin tiền.
Dưới thấp nữa là thành Florence đời sống diễn biến với cả hai sắc thái kim và cổ, nhưng ở San Clemente người ta không thấy có sắc thái nào. Không có họa sĩ nào đến đây vẽ phong cảnh, người La Mã không xây cất một lâu đài dinh thự nào, lịch sử đã bỏ quên thung lũng hẻo lánh này. Ở đây là bãi chiến trường, đất tranh đấu với mưa nắng; cây thông uốn mình cong quèo sống vất vưởng, cây trắc vươn ngọn ốm o lên thám thính để biết chừng có cơn bão phũ phàng nào xảy đến kết liễu đời sống eo hẹp mà nó vẫn bám lấy bằng mấy cái rễ khô cằn. Thỉnh thoảng đi qua một cỗ xe bò từ những trại lớn gần đấy, hay một gia đình dân làng lên thăm tỉnh; nhưng họ chỉ là những khách qua đường, váy đỏ thôn nữ chỉ vui tươi khi đặt vào khung cảnh khác, ở đây nom có vẻ không hợp cảnh hợp tình, người ta chẳng cần những thứ ấy.
Tôi kể lại hồi còn niên thiếu tôi đã cùng người bạn qua lại thung lũng, nằm dưới gốc cây trắc, tựa vào thân cây gầy ốm, cảnh tịch mịch u buồn và đẹp đẽ ấy làm tôi nghĩ đến khe núi quê hương tôi.
Chúng tôi yên lặng một lúc, rồi cô ta nói:
- Ông là thi sĩ.
Tôi nhăn mặt.
- Tôi không muốn nói vậy, không phải vì ông viết truyện ngắn và những loại nào đó mà tôi cho ông là thi sĩ. Tôi nói vậy vì ông yêu thiên nhiên và hiểu thiên nhiên. Đối với người khác thì một cái cây than thở hay một trái núi ửng hồng dưới ánh sáng mặt trời có gì đáng chú ý? Nhưng đối với ông thiên nhiên có một đời sống và ông có thể tham dự vào đời sống ấy.
Tôi trả lời rằng không ai hiểu được thiên nhiên, mà muốn đem hết thiện chí ra tìm hiểu người ta chỉ gặp những bí mật làm cho mình buồn nản. Một cái cây mọc giữa trời, một tảng đá dầm sương dãi nắng, một con vật, một trái núi - chúng nó đều có một linh hồn, một lịch sử, chúng nó sống, vật lộn, thụ hưởng rồi chết, nhưng chúng ta không hiểu gì cả.
Trong khi nói chuyện và vui lòng vì cô ta yên lặng và chú ý một cách kiên nhẫn, tôi để ý xem xét cô ta. Hai mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi không hề quay đi. Nét mặt cô bình thản không còn gì là giữ ý tuy hơi căng thẳng vì chú ý. Trông cô như một đứa trẻ ngồi nghe chuyện. Không phải; đúng ra là một người lớn quên mình trong khi nghe chuyện và trở lại có đôi mắt con trẻ mà chính họ không biết. Và trong khi ngắm nàng, dần dần tôi khám phá ra nàng đẹp lắm, sự khám phá ấy làm tôi vui sướng một cách hồn nhiên.
Khi tôi nói hết, người con gái cũng ngồi yên lặng. Rồi nàng giật mình, hai mắt khẽ chớp dưới ánh đèn.
Tôi hỏi nàng, không để ý nhiều đến câu hỏi:
- Cô cho biết quý danh.
- Elisabeth.
Nàng đi chỗ khác, rồi người ta yêu cầu nàng đánh dương cầm. Nàng chơi hay, nhưng đến gần tôi thấy nàng đã hết đẹp.
Khi xuống cầu thang để về nhà - cầu thang rộng theo kiểu cổ - tôi thoáng nghe hai họa sĩ trong phòng thay áo nói chuyện với nhau, một người vừa cười nói:
- Phải rồi, tối nay người ta chỉ xum xoe với con Elisabeth.
- Này, đừng coi thường những thằng cha lù đù như nước đọng nhé, kể ra hắn cũng không lựa chọn thứ dở nhất.
À, ra mấy ông làm trò khỉ này đã bắt đầu đi đánh mõ rồi! Bất thình lình tôi giật mình mà tự nhận thấy mình đã nói với cô gái xa lạ với mình những kỷ niệm kín đáo nhất và một phần đời sống nội tâm của mình. Sao tôi lại đến nỗi thế? Bây giờ kẻ xấu miệng đã bắt đầu hoạt động rồi!
Mấy tháng sau tôi không trở lại căn nhà ấy nữa. Cũng là sự ngẫu nhiên, một trong hai họa sĩ nói trên, người nói trước, gặp tôi ngoài phố bèn hỏi tại sao lâu ngày tôi vắng mặt.
- Tại sao ông không đến đấy nữa thế?
- Vì tôi không chịu được những chuyện ngồi lê đôi mách. Y cười:
- Ồ! Đàn bà ấy mà!
- Không phải, tôi muốn nói đến đàn ông, nhất là mấy ông họa sĩ.
Suốt mấy tháng ấy tôi chỉ gặp Elisabeth ở ngoài phố, một lần trong tiệm buôn và một lần ở viện bảo tàng. Bình thường nom cô ta cũng xinh nhưng không đẹp. Người cao ráo mảnh mai, dáng dấp có vẻ riêng làm cô ta đẹp thêm, có vẻ đài các, nhưng cũng có khi lộ vẻ giả tạo quá đáng.
Ngày tôi gặp ở viện bảo tàng, cô ta đẹp, đẹp lắm. Cô ta trông thấy tôi. Tôi cũng đứng ở chỗ vắng coi một cuốn ca-ta-lô. Cô ta ở cạnh đấy, trước bức
tranh lớn, để hết cả ý tứ ngắm nghía. Tranh vẽ một cánh đồng cỏ vàng vọt, một vài cô thôn nữ đang làm việc; đằng xa núi gập ghềnh lởm chởm làm cho ta nghĩ đến núi ở Stockhom, bên trên là trời trong sáng đám mây trắng ngà vẽ thật là thần bút. Mới nhìn người ta phải để ý ngay đến chất mây dày đặc, nó vừa mới được cấu tạo, bị gió thổi dồn dập, sắp sửa bay lên và từ từ trôi đi. Hẳn là Elisabeth hiểu rõ đám mây ấy vì cô ta biến thân vào cả trong cái nhìn, linh hồn cô thường ngày rất kín đáo, bây giờ lộ ra khuôn mặt, mỉm cười qua khoé mắt, làm cho cái miệng chúm chím mềm ra như miệng trẻ thơ, làm dịu nét nhăn trên trán tiêu biểu cho sự thiên về trí thức đáng buồn. Chân lý và sự thật của một nghệ phẩm tuyệt tác bắt buộc cô ta không được dùng cái gì che đậy tâm hồn mà phải tỏ lộ trong sự chân thật và hồn nhiên của nó.
Tôi yên lặng ngồi cạnh cô ta, ngắm đám mây tuyệt bút của Segantini và ngắm cô gái bị thu hút bởi bức tranh. Rồi tôi sợ cô ta ngoảnh lại thấy tôi cô ta sẽ chào hỏi, cô ta sẽ mất hết vẻ đẹp. Tôi lẳng lặng bước mau ra khỏi phòng.
Hồi ấy sự vui sướng của tôi trước thiên nhiên câm lặng và mối tương quan của tôi với thiên nhiên bắt đầu thay đổi.
Tôi vẫn đi lang thang ở ngoại ô thành phố nhất là trong vùng núi Jura. Bao giờ tôi cũng thấy núi rừng, cây cối và bụi cỏ vươn mình lên không biết chờ đợi cái gì. Có lẽ chúng chờ đợi tôi; dù sao thì chúng cũng chờ đợi tình yêu.
Chính trong hoàn cảnh ấy mà tôi sinh lòng yêu mến cảnh vật. Tôi có một sự thèm khát mãnh liệt đến với cái đẹp lặng lẽ của cảnh vật. Trong người tôi, một đời sống sâu xa cũng đang dò dẫm tìm đường xuất hiện ra tâm thức, mong mỏi được hiểu biết và yêu mến.
Nhiều người nói rằng mình “yêu thiên nhiên”. Nói thế nghĩa là họ không thấy có gì trở ngại nếu thỉnh thoảng họ bỏ qua thế sự, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Họ đi ra ngoài, ngắm vẻ đẹp của trời đất mà khoan khoái, dẫm chân lên đồng cỏ, hái một bó hoa và cành cây rồi chẳng bao lâu vứt vào sọt rác hay để héo trong xó nhà. Làm như vậy họ bảo là yêu thiên nhiên. Họ nghĩ đến tình yêu đó vào một ngày chủ nhật đẹp trời và thoả mãn vì tim mình tỏ ra rộng rãi. Thì họ có thể miễn trừ được những chuyện ấy mà lị! Con người có phải tinh hoa tụ khí của trời đất không? Hẳn là họ đã tặng trời đất một vòng hoa tang đẹp đẽ!
Bởi vậy tôi vẫn giương mắt hau háu nhìn vào lòng sâu thẳm của sự vật. Tôi nghe gió lên tiếng đàn trên những đỉnh cây cao, tôi nghe thác gầm trong khe núi, sông chảy êm đềm trong đồng bằng và tôi biết rằng đó là tiếng nói của Ông Trời, hiểu được tiếng nói nguyên thuỷ tối tăm đó là tìm thấy thiên đường. Sách vở nào có nói đến; trong Thánh Kinh chỉ có mấy chữ kỳ ảo này: “tiếng thở than không diễn tả được của thiên nhiên.” Nhưng tôi vẫn có cảm tưởng rằng xưa nay người đời xúc động vì không ai hiểu mình cũng như tôi, đã coi thường công việc hàng ngày để tìm sự cô đơn tịch mạc, lắng tai nghe tiếng ca hát của hóa công, nhìn mây bay và giơ tay hướng về vĩnh cửu trong nỗi niềm nhớ tiếc khôn cùng - như ẩn sĩ, khổ tu, thánh đồ.
Đã có bao giờ bạn đến thành Pise, nhị địa Campo Santo? Trên tường là những bích họa từ những thế kỷ trước nay đã phai mờ, một bức diễn tả đời sống những ẩn sĩ ở sa mạc Thébaide. Ngày nay tuy màu sắc đã phai lợt nhưng bức họa vụng về ấy cũng còn gợi lên vẻ u nhã của sự yên lành tĩnh tịch; bất thần thống khổ trần gian nổi lên, ta thấy cần phải đến một nơi nào xa lánh trần gian lấy nước mắt mà rửa lỗi lầm ô trọc, đến một thánh địa và không bao giờ ta trở về nữa. Biết bao nghệ sĩ đã thử nói lên sự nhớ tiếc ấy bằng những hình ảnh đẹp mê hồn, một vài bức họa con nít rất đẹp của Ludwig Richter cũng ca hát những điệu thoát phàm như bích họa của Pise. Tại sao danh họa Le Titien người bạn của những nét hiện thực đích xác, lại có khi họa những bức tranh trong đó bối cảnh và chân trời xa phơn phớt một màu lam, vũ trụ quan của ông bộc lộ không chút bí hiểm? Đó chỉ là một nét màu lam đậm, người ta không biết ông muốn vẽ núi ở xa hay là không gian vô tận. Chính Titien, một người duy thực, cũng không biết rõ. Ông không làm như vậy vì muốn có nhịp điệu màu sắc như mấy người viết lịch sử hội họa tưởng mình hiểu ông đã nói, nhưng đó là món nợ trả cho nỗi nhớ tiếc khôn nguôi vẫn kín đáo ám ảnh con người vui vẻ sung sướng ấy cũng như nhiều người khác. Như vậy, hầu như nghệ thuật thời nào cũng cố gắng tìm cách diễn tả sự cần thiết cái gì thần linh, cái gì không thiêng liêng tiềm tàng trong mỗi con người chúng ta.
Saint François đã nói ra một cách viên mãn, cao đẹp hơn cả mà lại hồn nhiên như con trẻ. Bấy giờ tôi mới hiểu đến nơi đến chốn. Tóm thâu vào tình yêu của Thượng Đế tất cả trần gian, cây cổ tinh tú, muôn loài, gió mưa, ông đã đi trước cả thời kỳ Trung Cổ, trước cả Dante, ông tìm ra ngôn ngữ nói lên cái gì là của nhân loại muôn thuở. Ông gọi tất cả mãnh lực và hiện tượng thiên nhiên là “anh chị em”. Đến tuổi già, khi ông bị các lương y bắt
phải cầm sắt nung đỏ áp vào trán, trong sự lo lắng của một người bệnh chịu cực hình ông còn đón chào thanh sắt nung đỏ ghê sợ như “người anh em lửa” của ông.
Khi tôi bắt đầu yêu thiên nhiên như yêu một người, nghe thiên nhiên như một người bạn hay một người đồng hành nói một ngôn ngữ nước ngoài, hẳn là mối ưu tư của tôi không thuyên giảm, nhưng nó trở nên cao đẹp, thuần khiết. Tai mắt tôi trở nên tinh tường. Tôi học cách tri giác sắc độ và đa dạng của thiên nhiên, tôi muốn mỗi ngày mỗi nghe thấy gần hơn, rõ ràng hơn, nhịp điệu sinh hoá của sinh vật đã một ngày kia hiểu được cái khí lực sinh hoá ấy, có lẽ có được thiên tư để diễn tả thành công từ thi ca, hy vọng rằng người khác cũng xích lại gần thiên nhiên, cảm quan của họ sẽ triển khai nếu họ trở lên tận suối nguồn đem lại sinh khí cho họ, thanh lọc họ, tu dưỡng cho họ cái hạo khí an nhiên tự tại của tuổi thơ. Lúc này thì đó mới là một triển vọng, một ước mơ, tôi không biết có ngày nào thực hiện được không và tôi chỉ chú trọng đến cái gì ở tầm tay mình. Không từ chối lòng ái mộ tất cả cái gì thấy trước mắt, không coi vật gì với thái độ dửng dưng hay khinh bỉ.
Tôi không thể nói được cách xử kỷ tiếp vật ấy an ủi và đổi mới cuộc đời tối tăm của tôi như thế nào. Không có gì ở đời làm cho ta cao đẹp và đem lại hạnh phúc cho ta bằng tình yêu bất diệt, không lời nói, không mê say; ước vọng thân yêu nhất của tôi là trong số những người đọc tôi, dù chỉ có hai người hay một người duy nhất, sẽ có người làm theo tôi, học lấy nghệ thuật thích thú và thanh khiết ấy. Một vài người trời phú bẩm cho nghệ thuật ấy, họ thực hiện suốt đời họ mà không biết: đó là những con cưng của Thượng Đế, những người hiền, những người giữ được tinh hồn nhiên của trẻ con. Những người khác đã được đời sống cao đẹp ấy, trong sự thống khổ ghê gớm - có khi nào bạn thấy chăng, vài người tàn tật khốn cùng có đôi mắt bình tĩnh sáng ngời tỏ ra họ hơn người? Nếu bạn không muốn nghe tôi, nghe lời nói quê kệch của tôi, xin bạn hãy đến với họ, với những người có tình yêu vô tư không vụ lợi, tình yêu đó đã thắng sự thống khổ của họ và biến đổi hẳn đi.
Than ôi! Ngày nay tôi cũng vẫn còn ở xa sự toàn vẹn của người đau khổ như thế mà tôi vẫn trọng vọng. Nhưng suốt mấy năm ấy ít khi tôi để mất sự vững tâm tin tưởng rằng mình đang đi theo con đường chính đạo.
Tôi không thể nói được rằng mình có luôn luôn theo đúng không; thực ra nhiều khi tôi dừng lại bên đường và tôi cũng không tránh khỏi nhiều lúc đi
"""