"
Từng Là Bá Chủ - Nước Mỹ tụt hậu ngay trong thế giới mình tạo ra như thế nào và làm sao để quay trở lại - Thomas L. Friedman & Michael Mandelbaum full prc pdf epub azw3 [Phân Tích Kinh Tế]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từng Là Bá Chủ - Nước Mỹ tụt hậu ngay trong thế giới mình tạo ra như thế nào và làm sao để quay trở lại - Thomas L. Friedman & Michael Mandelbaum full prc pdf epub azw3 [Phân Tích Kinh Tế]
Ebooks
Nhóm Zalo
Người Mỹ chúng ta không quan tâm Trung Quốc có hệ thống đường sắt tốt hơn, Singapore có những sân bay tốt hơn. Và rồi chúng ta chợt nhận thấy chiếc siêu máy tính nhanh nhất thế giới hiện nay lại thuộc về Trung Quốc - vị trí bá chủ từng là của chúng ta.
- Tổng thống Barrack Obama, ngày 03/11/2010
5
Tặng Ann Friedman và Anne Mandelbaum
6
Lời mở đầu
Giờ nghỉ của nước Mỹ
Giống như nhiều người mê phim ảnh, cả hai chúng tôi đều hâm mộ Clint Eastwood. Và chưa bao giờ hâm mộ hơn vào giờ giải lao giữa trận bóng bầu dục thuộc giải vô địch quốc gia năm 2012 ở Indianapolis, khi quảng cáo ô tô của hãng Chrysler xuất hiện với giọng nói của Eastwood trước hơn 100 triệu người xem: “Đây là giờ giải lao giữa hai hiệp của nước Mỹ”.
Trong hai phút, Eastwood đã tóm tắt xong chủ đề chính của cuốn sách này: Cả đất nước chúng ta đã mắc sai lầm – một hiệp đấu thứ nhất tệ hại. Nhưng chúng ta lại có mọi nguồn lực và khả năng để quay lại vào hiệp hai. Chúng ta đã từng làm được như vậy trước đây và có thể lặp lại, nhưng chỉ khi chúng ta cùng cố gắng thực hiện những nhiệm vụ vừa đúng đắn vừa khó khăn. Eastwood tường thuật:
Đang là giờ nghỉ giữa hai hiệp. Cả hai đội đều đã vào phòng thay quần áo để bàn cách giành chiến thắng trong hiệp hai. Nước Mỹ cũng đang nghỉ giữa hai hiệp. Mọi người đang bị thất nghiệp và họ thấy mệt mỏi. Tất cả họ đang tự hỏi mình phải làm gì để quay trở lại. Và tất cả chúng ta đều đang sợ hãi vì đây không phải là trò chơi. Người dân Detroit hiểu chút ít về điều này. Họ gần như đã mất tất cả. Nhưng chúng ta đang xích lại gần nhau. Thành phố Motor (tức Detroit) đã quay lại cuộc chiến. Trong đời tôi đã chứng kiến rất nhiều thời kỳ gian khó, nhiều giai đoạn xuống dốc mỗi khi chúng ta không hiểu nhau. Có vẻ như đôi khi chúng ta đã đánh mất dũng khí khi màn sương mù của sự chia rẽ, bất hòa và đổ lỗi bao phủ khiến chúng ta không nhìn thấy điều gì ở phía trước. Nhưng sau những lần đó, chúng ta đều tập trung lại quanh những giá trị đúng đắn và hành động như một quốc gia thống nhất vì chúng ta là như thế. Chúng ta luôn
Lời mở đầu 9
tìm ra con đường thoát khỏi khó khăn, còn nếu không có đường thì chúng ta sẽ tự tạo ra nó. Vấn đề giờ đây là cái gì đang ở phía trước. Làm thế nào để vượt lên? Làm thế nào để đi cùng nhau? Làm thế nào để giành chiến thắng? Detroit đang cho thấy là chúng ta có thể làm được. Và cái gì đúng với họ thì cũng sẽ đúng với tất cả chúng ta. Đất nước này không thể gục ngã chỉ vì một cú đấm. Chúng ta sẽ quay lại, và khi ấy, cả thế giới sẽ phải nghe thấy tiếng động cơ của chúng ta gầm rú. Phải, đây là lúc nước Mỹ đang nghỉ giữa hiệp. Và hiệp hai sắp bắt đầu.
Chúng tôi đồng ý với Eastwood, và chúng tôi muốn cuốn sách này sẽ là kế hoạch thi đấu cho hiệp hai của nước Mỹ, là lộ trình hành động trước những thách thức và cơ hội sẽ quyết định liệu chúng ta có còn là một đất nước có khả năng truyền sự thịnh vượng từ thế hệ này sang thế hệ khác – như chúng ta luôn luôn làm được trước đây, và tiếp tục đóng vai trò là người giữ ổn định cho toàn thế giới – điều chúng ta phải làm được – hay không. Các thách thức đang sờ sờ trước mắt, và chúng vẫn y nguyên, chưa được giải quyết, từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu vào năm 2011. Giải pháp cũng chưa hề thay đổi: Nếu không cùng nhau hành động, chúng ta sẽ không thể sửa chữa những gì cần thiết. Nước Mỹ đang hết sức cần một loạt những cuộc Mặc cả Vĩ đại* giữa hai đảng chính và những đối tượng có liên quan đến các lĩnh vực tài chính, năng lượng và giáo dục.
Ban đầu, chúng ta cần một kế hoạch ngắn hạn để tạo ra tăng trưởng việc làm thông qua những khoản đầu tư nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng của Mỹ: đường sá, cầu cống, trường học, băng thông đường truyền và giao thông công cộng. Nhưng để kế hoạch ngắn hạn được Quốc hội thông qua và đảm bảo không làm tăng thâm hụt ngân sách, nó phải được đi kèm với một kế hoạch dài hạn nhằm giải quyết tình trạng mất cân đối ngân sách ở quy mô đúng với thực tế. Để làm được thì đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa cần có một cuộc Mặc cả Vĩ đại về cải cách phúc lợi xã hội, cải cách thuế và tăng thu cho chính phủ.
Đồng thời, chúng ta còn cần một cuộc Mặc cả Vĩ đại về vấn đề năng lượng giữa các nhà môi trường và ngành dầu khí. Thỏa thuận giữa hai bên sẽ dẫn tới Mỹ áp dụng những tiêu chuẩn môi trường cao nhất cho hoạt động khai thác khí tự nhiên bằng công nghệ phá vỡ vỉa thủy lực và khai thác dầu ở những địa điểm xa xôi để chúng ta có thể tận dụng được lợi thế có nhiều cả
* Từ được Tổng thống Obama dùng khi ông đề xuất thỏa thuận với đảng Cộng hòa kế hoạch tăng thuế và giảm chi tiêu ngân sách năm 2011.
10 từng là bá chủ
dầu lẫn khí. Trong năm năm qua, nhờ công nghệ khoan khai thác hiện đại, tăng thành phần nhiên liệu sinh học trong xăng và tăng tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu của ô tô, Mỹ đã thay đổi được tình trạng 20 năm phụ thuộc ngày càng nặng nề vào năng lượng nhập khẩu. Năm 2011, Mỹ đã tự đáp ứng được hơn 80% nhu cầu năng lượng trong nước. Nếu chúng ta tiếp tục khai thác tài nguyên một cách hợp lý thì các chuyên gia năng lượng ước tính Mỹ có thể trở thành nhà sản xuất dầu khí lớn nhất, sạch nhất thế giới vào năm 2020. Thu từ thuế sẽ tăng lên và chúng ta đỡ phải lo ngại về tình hình Trung Đông, đồng thời vẫn gây ảnh hưởng lớn hơn lên khu vực này. Ngoài ra, chúng ta sẽ giảm được phát thải khí nhà kính khi thay các nhà máy nhiệt điện than bằng khí tự nhiên sạch hơn nhiều cũng như chạy xe tải cỡ lớn bằng gas. Nhưng chúng ta phải làm hai việc. Thứ nhất, phải khoan dầu và khai thác khí tự nhiên với tiêu chuẩn môi trường cao nhất, an toàn nhất có thể. Thứ hai là phải dần dần chuyển nền kinh tế sang sử dụng hệ thống năng lượng sạch hơn – có thể là hạt nhân, gió, mặt trời, thủy triều hoặc khí tự nhiên – và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Để làm được hai việc này, cần đánh thuế những thứ chúng ta không thích, ví dụ nguồn nhiên liệu hóa thạch phát thải carbon; và trợ cấp, tạo động cơ khuyến khích những thứ chúng ta ưa thích, ví dụ hệ thống sưởi ấm, làm mát, chiếu sáng, đi lại sử dụng tài nguyên ít hơn, sạch hơn, có khả năng tái tạo hơn. Không những chúng ta không có lý do gì để không đạt được thỏa thuận trong cuộc Mặc cả Vĩ đại ấy – vì công nghệ đã có, còn chi phí gia tăng hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát – mà nếu chúng ta không làm thì nước Mỹ sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh trong ngành công nghiệp chính của thế giới sắp tới – công nghệ năng lượng sạch và sử dụng năng lượng hiệu quả. Khi thế giới tăng từ 7 tỷ người lên 9 tỷ người vào năm 2050, đạt được tăng trưởng cao hơn với ít tài nguyên hơn và năng lượng sạch hơn sẽ là động lực tạo ra làn sóng sáng tạo mới. Nước Mỹ phải đi đầu làn sóng ấy.
Chúng ta cũng cần có một cuộc Mặc cả Vĩ đại giữa các thế hệ với nhau. Cần bổ sung thêm vào chương trình cải cách y tế của Tổng thống Obama – vốn dự kiến sẽ mở rộng bảo hiểm y tế cho thêm 32 triệu người Mỹ hiện chưa có bảo hiểm – một kế hoạch đáng tin cậy, tham vọng để có nguồn thu bù đắp chi phí, nếu không bảo hiểm sẽ lấn át hết những khoản chi khác trong ngân sách Liên bang, biến chúng ta thành một đất nước đầu tư quá nhiều vào các trung tâm chăm sóc sức khỏe nhưng lại quá ít vào trường đào tạo ra những con người làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe. Với tư cách là một quốc gia, chúng ta phải đầu tư vào tương lai đồng thời với đầu tư vào quá khứ.
Lời mở đầu 11
Cuối cùng, chúng ta cần một kế hoạch tổng thể tạo việc làm, tập trung cả vào các giải pháp làm thế nào để có nhiều người mở công ty mới hơn – vì nếu chúng ta muốn có nhiều người lao động hơn thì phải có nhiều người sử dụng lao động đã – và làm thế nào để có nhiều người Mỹ hơn có được những kỹ năng, kiến thức mà các ngành công nghiệp và dịch vụ của thế kỷ 21 cần. Điều này đòi hỏi phải có một cuộc Mặc cả Vĩ đại giữa các yếu tố lao động, vốn và chính phủ. Các nhà tư bản cần tìm kiếm thêm cơ hội đầu tư ở Mỹ, giới lao động cần đảm bảo cung cấp nhiều người có trình độ đáp ứng được các công việc cho tương lai, và chính phủ cần có chính sách tạo điều kiện cho cả hai.
Cục Thống kê lao động Mỹ không chỉ theo dõi số người thất nghiệp ở Mỹ mà còn tính toán cả số việc làm không thể tìm được người. Vào đầu năm 2012, có hơn 3 triệu việc làm đang bỏ trống mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chung vào khoảng 8%. Có nghĩa là có quá nhiều người Mỹ không có khả năng tính toán, đọc hiểu hoặc trình độ kỹ thuật mà các công ty trong lĩnh vực chế tạo công nghệ cao – lĩnh vực chế tạo duy nhất sẽ tồn tại ở Mỹ trong tương lai – yêu cầu.
Như thị trưởng thành phố Chicago là Rahm Emanuel kể với chúng tôi vào tháng 10/2011: Vào một ngày đẹp trời, ông đọc được trên báo địa phương rằng một công ty, Accenture chẳng hạn, tuyên bố sẽ tạo thêm 500 việc làm ở Chicago. Vào một ngày xấu trời khác, ông nhận thấy mình “đang phải đối diện rất gần với tình trạng lao động thiếu kỹ năng”. Thành phố Chicago có hàng nghìn việc làm không tìm được người. Ông cho biết: “Có hai vị giám đốc điều hành trẻ trong ngành phần mềm y tế đến gặp tôi. Tôi hỏi: ‘Tôi có thể giúp gì được cho các bạn?’ Họ đáp: ‘Chúng tôi cần tuyển 50 người, nhưng chẳng tìm được ai cả’”. Có thể nghe thấy câu này từ giới tuyển dụng trên khắp đất Mỹ, về công việc của cả công nhân cổ xanh lẫn công nhân cổ trắng.
Chúng ta không thể tiếp tục là cường quốc trong ngành chế tạo trừ khi tất cả mọi người – người lao động, nhà tư bản, chính phủ và cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ – nhất trí với việc tái đầu tư, tiếp thêm sinh lực cho cái mà trong cuốn sách này chúng tôi gọi là công thức thành công năm trụ cột của nước Mỹ: cung cấp giáo dục hậu trung học cơ sở (gồm dạy nghề, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học) cho nhiều người Mỹ hơn, nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho thêm nhiều người nhập cư có tài năng và nhiệt huyết, thực thi các quy định khuyến khích mọi người chấp nhận rủi ro chứ không phải sự liều lĩnh, và tăng đầu tư vào nghiên cứu và triển khai để mở rộng thêm biên giới các ngành vật lý, sinh học, hóa học, năng lượng và vật chất.
12 từng là bá chủ
Nếu nhìn từ góc độ này, không khó để nhận thấy người Mỹ có cảm xúc lẫn lộn trước sự kiện Thomas Edison của thời đại chúng ta – người đồng sáng lập Apple là Steve Jobs – qua đời vào năm 2011. Một mặt, có những lời tung hô mạnh mẽ, dồn dập dành cho hiện thân của tinh thần sáng tạo của nước Mỹ. Sau khi bỏ học đại học vào những năm 1970, trong bốn thập kỷ sau đó, Jobs đã tạo ra những sản phẩm mang tính biểu tượng, từ máy tính Mac đến máy tính bảng iPad, từ những bộ phim sản xuất trên máy tính đến cửa hàng bán nhạc trên mạng. Trong Jobs có cái gì đó như tinh hoa của nước Mỹ. Nhưng mặt khác, xuyên suốt những lời ca tụng, tưởng niệm ông, có thể thấy một tâm trạng u buồn, day dứt rằng nước Mỹ sẽ không bao giờ sản sinh ra một người như thế nữa.
Chúng tôi không tin điều đó. Nhưng để chắc chắn nước Mỹ sẽ còn tạo ra nhiều công ty như Apple, nhiều nhà kinh doanh có tầm nhìn như Steve Jobs thì đất nước cần nghiêm túc thực hiện chương trình hành động mà chúng tôi đã nói ở trên. Và việc chúng ta có thực hiện được hay không lại phụ thuộc vào hệ thống chính trị – gót chân Achilles của nước Mỹ hiện nay.
Hệ thống chính trị của chúng ta vẫn chưa thể hiện được vai trò vào thời điểm này. Không đơn giản là chúng ta bị chia rẽ quá sâu sắc. Tình hình còn tệ hơn thế. Chúng ta bị chia rẽ về những vấn đề không phù hợp. Điều đáng lo ngại về tình hình chính trị hiện nay không chỉ là tình trạng siêu chia rẽ đảng phái mà vì nó quá thường xuyên xảy ra với những chuyện không quan trọng. Khi chúng tôi viết lời giới thiệu này, trong không khí nóng hổi của chiến dịch vận động tranh cử tổng thống 2012, không có gì lạ nếu một người sao Hỏa có mặt ở Mỹ nghĩ rằng vấn đề quan trọng nhất ở Mỹ là ai sẽ chi trả cho các biện pháp tránh thai, liệu quỷ Satan có xuất hiện ở Mỹ hay Tổng thống Obama có phải một người Kenya bí mật theo chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa thực dân hay không. Chúng ta không cần lịch sự thêm nữa mà cần sự thật. Nước Mỹ và giới lãnh đạo trước đây đã rất xuất sắc khi họ kết hợp được chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan và tính linh hoạt, chứ không phải chủ nghĩa cực đoan và thái độ từ chối thỏa hiệp. Chúng ta sẽ không bao giờ đồng thuận được tuyệt đối về cách thức tiến lên phía trước, nhưng ít nhất chúng ta cũng nên đồng thuận về việc nên đi về đâu. Và hiện tại, mặc dù mục tiêu nước Mỹ nên đạt được đã quá rõ ràng, nhưng chúng ta vẫn không thể đồng thuận. Câu hỏi chính trong nền chính trị hiện nay nên là: Chúng ta nên tăng trưởng bao nhiêu và tạo ra bao nhiêu việc làm thì đủ để trả nợ và truyền lại mức sống cao hơn cho thế hệ sau, đồng thời không gây ảnh hưởng đến môi trường và vẫn duy trì được vị thế lãnh đạo toàn cầu mà cả thế giới cần?
Lời mở đầu 13
Không may là có quá nhiều thành viên đảng Cộng hòa đang nghĩ rằng câu trả lời đơn giản là quay về với những gì Ronald Reagan đã làm. Cách tư duy này có hai sai lầm. Thứ nhất, Reagan không làm những việc như họ nghĩ, và những gì ông làm đã diễn ra từ 30 năm trước – mà từ đó đến nay thế giới đã thay đổi về cơ bản. Như chúng tôi sẽ chứng minh trong cuốn sách, khi Ronald Reagan đối mặt với thâm hụt ngân sách nặng nề do cắt giảm thuế, ông đã thông qua giải pháp tăng thuế, hay dùng cụm từ ông ưa thích trong nhiều dịp là “cải thiện nguồn thu”, trong đó có việc tăng đáng kể thuế xăng. Nếu không có gì thay đổi thì thật tuyệt nếu chính phủ giảm thuế thay vì tăng thuế, nhưng giờ đây mọi thứ đã thay đổi. Nợ quốc gia hiện đã lên tới hơn 15,7 nghìn tỷ dollar – lớn hơn cả tổng giá trị kinh tế hàng năm chúng ta tạo ra – tương đương 138.000 dollar tính trên một người dân, cùng với khoản thâm hụt hàng năm vào khoảng 1,5 nghìn tỷ dollar.
Với uy tín của mình, Tổng thống Obama ít nhất cũng đã thể hiện mong muốn sẵn sàng tiến hành những cải cách ngân sách cần thiết. Nhưng chúng ta vẫn chưa rõ liệu ông có thuyết phục được đảng của ông chấp nhận những thay đổi cơ bản về dài hạn trong chính sách Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế hay không, và ông sẽ nỗ lực như thế nào để làm việc đó.
Tóm lại, quá nhiều đảng viên Cộng hòa muốn quay lại quá khứ, thời kỳ không còn tồn tại như họ tưởng tượng, và trong bất cứ tình huống nào cũng không còn phù hợp với hiện tại. Và có quá nhiều đảng viên Dân chủ mặc dù biết rõ cần phải thay đổi, nhưng vẫn muốn chính phủ phải làm nhiều hơn cái họ sẵn sàng bỏ ra, nhiều hơn khả năng mà đất nước có thể chịu đựng.
Cái mà chúng ta đang vô cùng cần là một cuộc tranh luận chính trị về những vấn đề thực tế, liên quan đến thế giới chúng ta đang sống. Vì vậy, trong cuốn sách này, chúng tôi bày tỏ hy vọng rằng nếu hai đảng không thể đem lại cuộc tranh luận đất nước cần thì trong cuộc bầu cử, sẽ có một ứng cử viên độc lập trung dung xuất hiện, người mà nếu không đạt được thành công gì thì cũng có thể tham gia vào cuộc tranh luận của các ứng cử viên tổng thống để đặt câu hỏi – và trung thực – với cả hai đảng. Một người có tư tưởng độc lập như vậy là David Walker, từng là Tổng Kiểm toán nhà nước từ năm 1998 đến 2008 và hiện là tổng giám đốc điều hành Comeback America Initiative, một tổ chức phi đảng phái có mục tiêu phục hồi ngân sách quốc gia. Chúng tôi nhất trí với Walker rằng người Mỹ hiện nay “đang khát khao ba thứ: sự thật, vai trò lãnh đạo và giải pháp”. Không may là hai đảng chỉ đem lại “sự chậm chạp, chờ đợi xem có vụ bê bối nào không” để họ lại phản ứng theo kiểu “thiếu đi sự cẩn trọng cần thiết”.
14 từng là bá chủ
Walker khẳng định cuộc Mặc cả Vĩ đại về vấn đề ngân sách vẫn chưa được rõ ràng. Ông khen ngợi Tổng thống Obama vì đã tập trung vào đúng vấn đề – đó là tỷ lệ nợ/GDP – và đã đưa ra được những ý tưởng trong ngắn hạn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết nạn thất nghiệp thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Nhưng những ý tưởng này phải “đi kèm với một kế hoạch đáng tin cậy và khả thi nhằm giải quyết vấn đề thâm hụt đã ăn vào bản chất ngân sách, đe dọa vị thế của đất nước trên thế giới cũng như mức sống của người dân trong nước trong tương lai”. Về vấn đề này thì Obama vẫn thất bại trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình. Walker cho rằng các đảng viên Dân chủ luôn “không thừa nhận sự cần thiết phải đàm phán lại vấn đề bảo hiểm trong xã hội”.
Còn với các đảng viên Cộng hòa, theo Walker, “họ cũng không có kế hoạch gì để phục hồi tình trạng lành mạnh về tài khóa”. Họ không thừa nhận rằng chúng ta không thể giải quyết bài toán thâm hụt ngân sách nếu giữ nguyên mức thu thuế hiện tại – tương đương 15-16% GDP – hoặc thậm chí kể cả với mức trung bình trước đây là 18% GDP. Chúng ta cần tăng thu lên nữa. Vấn đề thâm hụt về cơ bản là do chi tiêu quá mức, nhưng còn nhiều lý do khác. “Cứ cắt giảm đi 3 dollar chi tiêu thì chúng ta phải tăng được 1 dollar trong thu ngân sách, đấy là chưa tính lãi”. Và mục tiêu này chỉ có thể đạt được thông qua cải cách thuế sao cho hệ thống thuế của chúng ta “đơn giản hơn, công bằng hơn, cạnh tranh hơn” mà vẫn đem lại số thu lớn hơn. Theo ông, “đảng Cộng hòa đơn giản là không chịu thừa nhận điều đó”.
Như Bill Gates từng trả lời chúng tôi trong một buổi phỏng vấn về nền chính trị Mỹ hiện nay:
Một vấn đề quan trọng đang bị bỏ qua là giới chính trị phải hiểu đúng thực tế, chỗ nào mọi thứ đang hoạt động tốt và chỗ nào không. Tôi thực sự nghĩ rằng khi tình hình chia rẽ đảng phái giảm bớt thì sẽ có những người ở Quốc hội nói rằng: “Tốt rồi, tôi sẽ dành thời gian làm việc ở ủy ban của tôi. Tôi sẽ tìm hiểu về lĩnh vực giao thông hoặc nhà ở”. Và họ sẽ trở nên thạo việc. Họ sẽ không bị kiểm tra xem có trung thành với đảng hay không. Các chuyên gia sẽ tham gia vào ủy ban của họ. Lúc đó, chúng ta sẽ có một chính phủ mang tính kỹ trị hơn. Còn hiện tại, khi chúng ta gặp phải tình trạng chia rẽ vì chính phủ không đủ khả năng làm việc thì chúng ta sẽ có cách nhìn hết sức đơn giản: “Chính phủ hoàn toàn không nên làm việc này. Chính phủ nên tham gia toàn bộ vào việc kia”, chứ không phải: “Hãy
Lời mở đầu 15
cho tôi biết bạn muốn chính phủ tham gia đến mức độ nào và sau đây là kế hoạch chi tiêu hợp lý nhất”. Ví dụ, trong ngành giáo dục chẳng hạn, quỹ của chúng tôi đang thử nghiệm với hệ thống nhân sự. Chúng tôi biết nếu các giáo viên và học sinh không thích điều chúng tôi làm và kết quả đạt được không tốt thì thử nghiệm ấy sẽ không bao giờ được áp dụng rộng rãi.
Nghe có vẻ ngây thơ trong bối cảnh chính trị siêu chia rẽ đảng phái, nhưng theo Gates, chúng ta vẫn cần áp dụng cách tư duy này trong chính trị: “Hệ thống chính trị phải điều chỉnh mỗi khi có vấn đề, và đó là lý do tại sao nước Mỹ chúng ta đã vượt qua được rất nhiều giai đoạn khủng hoảng… Khi nhìn vào tình hình ngân sách, năng lượng, rất dễ nhận ra rằng chúng ta đang thiếu quan điểm chung về cuộc khủng hoảng và không thể áp dụng một giải pháp chung. Nếu chính phủ chỉ làm cho tình hình xấu đi thì liệu nên giảm bớt sự can thiệp của chính phủ hay chấn chỉnh lại chính phủ? Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào từng lĩnh vực”.
Đó là lý do tại sao sẽ rất tốt nếu có thêm một ứng cử viên có trách nhiệm thuộc đảng thứ ba trong cuộc đua hay ít nhất cũng tham gia và cuộc tranh luận. Theo Gates, thật tuyệt nếu có thêm một người để phát biểu rằng: “Hai ngài nói rất hay, nhưng chưa đủ. Thưa các cử tri, tôi xin nói rằng cắt giảm chi tiêu bao nhiêu thì vẫn cứ phải tăng thuế. Và không may là các ngài mới chỉ thu được thêm ít thuế từ những người giàu nhất. Các ngài phải tăng thuế thêm nữa và cắt giảm chi tiêu”.
Gates kết luận: Lý do của tất cả những điều này quan trọng hơn bao giờ hết, đó là “chúng ta đang đòi hỏi phải thay đổi hiện trạng. Chúng ta đã tạo ra một hệ thống có khả năng tránh những thay đổi hiện trạng làm tổn hại đến người khác một cách bất hợp lý. Và hệ thống ấy đã hoạt động rất tốt. Nhưng giờ đây, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Có lẽ trong những lĩnh vực như năng lượng hay ngân sách, những gì chúng ta đang làm, với tốc độ đang có sẽ không đưa chúng ta đến được mục tiêu mong muốn”. Chất lượng của cuộc tranh luận thực sự quan trọng, nhưng không may là hiện tại “chúng ta chưa tập trung tranh luận vào những lựa chọn sẵn có như đáng lẽ chúng ta phải làm”.
Nếu chúng ta làm đúng thì rất nhiều người khác cũng được hưởng lợi chứ không chỉ nước Mỹ trong tương lai. Kể từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2011, sự cần thiết phải có một nước Mỹ hùng mạnh, ổn định, sôi động càng trở nên bức thiết. Ở Đông Á, khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới, quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng đang trở
16 từng là bá chủ
nên căng thẳng hơn trong những năm gần đây. Chính quyền khép kín, bí mật, được trang bị vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên đang trong giai đoạn chuyển giao quyền lực khó lường. Ở Trung Đông, nơi có nguồn tài nguyên dầu mỏ dễ dàng khai thác với trữ lượng lớn nhất thế giới, hàng loạt làn sóng nổi dậy đã lật đổ các chính phủ cầm quyền lâu năm ở Tunisia, Ai Cập, Libya và đang đe dọa các chính phủ Bahrain và Syria. Nhưng chúng ta vẫn chưa biết bản chất của những người sẽ nắm quyền sau phong trào “Thức tỉnh Ả Rập”. Trong khi đó, giới cầm quyền cực đoan, chống phương Tây ở Iran vẫn tiếp tục nỗ lực phát triển vũ khí hạt nhân. Ở Liên minh châu Âu, khu vực kinh tế lớn nhất thế giới, khủng hoảng tài chính đang diễn ra ở một số nước thành viên, còn đồng tiền chung euro đang đe dọa kéo cả châu Âu và nhiều quốc gia khác vào giai đoạn suy thoái kinh tế nghiêm trọng, thậm chí còn tồi tệ, lâu dài hơn cuộc khủng hoảng 2007-2009 do những sự sụp đổ khoản vay dưới chuẩn ở Mỹ gây ra.
Đông Á, Trung Đông và châu Âu là những nơi trong hàng chục năm, Mỹ đã góp phần đáng kể tạo ra sự ổn định và thịnh vượng. Chỉ sức mạnh của Mỹ thì không đủ để giải quyết các vấn đề trong khu vực, nhưng sẽ các nước sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều nếu không có một nước Mỹ hùng mạnh về mặt kinh tế, gắn kết về mặt xã hội và đáng tin cậy về mặt chính trị. Lionel Barber, biên tập viên báo Financial Times từng nhận xét, nước Mỹ không “vắng mặt vào thời điểm sáng tạo” ra thế giới hiện nay, nhưng chúng ta không còn hùng mạnh bằng lúc trước, vì vậy sự “có mặt” của chúng ta cũng không được thể hiện rõ ràng bằng lúc trước. Sau hai cuộc chiến tốn kém hàng nghìn tỷ dollar ở Trung Đông và đưa thâm hụt ngân sách lên mức mà chúng ta không thể tránh khỏi việc đánh đổi giữa nhu cầu lương hưu của thế hệ bùng nổ dân số với nhu cầu máy bay cường kích của quân đội, làm sao chúng ta có thể như trước được?
Vì vậy, những cuộc Mặc cả Vĩ đại mà nước Mỹ cần cũng quan trọng đối với sự an toàn và thịnh vượng của hàng tỷ người sống xa lục địa Mỹ không kém gì đối với chính người dân Mỹ. Nếu hệ thống chính trị của chúng ta chỉ tiếp tục tạo ra những chính sách đối phó kém tối ưu, hoặc tệ hơn, chẳng có chính sách đối phó gì – vì cả hệ thống đã bị tê liệt bởi tình trạng siêu chia rẽ đảng phái, không thể đặt câu hỏi và trả lời cho vấn đề quan trọng nhất đối với mọi chính sách là “Chúng ta đang sống trong thế giới như thế nào?” – thì người dân trên khắp thế giới này sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Tóm lại, việc nước Mỹ có thể quay lại, có thể vượt lên trên, hay nói theo
Lời mở đầu 17
ngôn ngữ của Clint Eastwood là có thi đấu tốt trong hiệp hai hay không đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Liệu chúng ta có làm được không? Với tất cả những khó khăn đang có, kể cả xu hướng chính trị đáng ngại hiện nay, chúng tôi, các tác giả cuốn sách, vẫn tin tưởng là chúng ta làm được. Chúng tôi lạc quan về tương lai của nước Mỹ dựa vào quá khứ chúng ta đã có. Với tư cách là một quốc gia, chúng ta đã từng vượt qua những thách thức thậm chí còn khó khăn hơn những thách thức chúng ta đang đối mặt. Chúng ta đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ thậm chí còn dễ gây nản chí hơn việc tiến hành cuộc mặc cả quyết định lợi ích của đất nước. Chúng ta đã từng là một nước Mỹ có khả năng nhận biết, đối mặt và giải quyết mọi thách thức. Chúng tôi tin rằng nước Mỹ sẽ làm được điều đó lần nữa.
Thomas L. Friedman
Michael Mandelbaum
Bethesda, Maryland, tháng 4/2012
18 từng là bá chủ
PHẦN I
CHẨN ĐOÁN
19
MỘT
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy
Đây là cuốn sách viết về nước Mỹ, nhưng bắt đầu từ Trung Quốc. Tháng 9/2010, Tom* tham gia một cuộc hội thảo mùa hè trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Thiên Tân, Trung Quốc. Năm năm trước, phải lái xe mất ba-giờ-rưỡi đồng hồ từ Bắc Kinh đến Thiên Tân – một phiên bản ô nhiễm, đông đúc kiểu Trung Quốc của Detroit. Nhưng giờ thì khác. Để đi Thiên Tân, bạn hãy đến ga Nam Bắc Kinh – một tòa nhà hình đĩa bay siêu hiện đại với tường kính và mái nhà hình bầu dục gắn 3.246 tấm pin mặt trời. Bạn mua vé từ máy bán vé điện tử hiển thị tiếng Trung và tiếng Anh, lên chuyến tàu cao tốc đẳng cấp quốc tế chạy thẳng đến một nhà ga rộng lớn, hiện đại khác nằm ở trung tâm Thiên Tân. Được coi là chuyến tàu chạy nhanh nhất thế giới khi đi vào hoạt động vào năm 2008, chuyến tàu siêu tốc Trung Quốc chạy trên đoạn đường dài 115km, tương đương 72 dặm chỉ trong khoảng 29 phút.
Hội thảo diễn ra ở Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Meijiang Thiên Tân – một công trình khổng lồ và đẹp mà chỉ rất ít thành phố ở Mỹ có được. Và như thể bản thân Trung tâm chưa gây đủ ấn tượng, các nhà đồng tài trợ ở Thiên Tân còn cho biết thêm một số thông tin (trên trang web www.tj-summerdavos.
cn). Theo đó, Trung tâm có tổng diện tích mặt sàn là 230.000m2 và “quá trình xây dựng Trung tâm Hội nghị Meijiang bắt đầu vào ngày 15/9/2009 và hoàn thành vào tháng 5/2010”. Khi đọc dòng đó, Tom đếm đốt ngón tay – Xem nào, tháng chín, mười, mười một, mười hai, tháng một…
Tám tháng.
Sau khi quay về nhà ở bang Maryland, Tom mô tả cho Michael** và vợ là Anne nghe về tổ hợp Thiên Tân và thời gian xây dựng nó ngắn như thế
* Thomas L. Friedman, đồng tác giả cuốn sách.
** Michael Mandelbaum, đồng tác giả cuốn sách.
20 từng là bá chủ
nào. Đột nhiên Anne hỏi: “Tom này, cho tôi hỏi, gần đây anh có đến ga tàu điện ngầm của chúng ta không?”. Tất cả chúng tôi đều sống ở Bethesda và thường sử dụng hệ thống tàu điện ngầm Washington để đi làm ở trung tâm thủ đô Washington D.C. Tom vừa ở nhà ga Bethesda nên biết rõ Anne đang nói chuyện gì. Hai thang cuốn nhỏ đã sửa chữa được gần sáu tháng. Khi sửa một bên thang thì phải tắt điện bên thang còn lại và nó trở thành thang bộ hai chiều. Vào lúc cao điểm, chỗ này trở nên vô cùng hỗn độn. Tất cả những người đang cố ra vào sân ga đều phải chen từng bước một trên cái thang cuốn đứng im. Có khi phải mất đến mười phút mới ra khỏi nhà ga. Phía trên chiếc thang đang được sửa có một tấm biển thông báo đây là một phần của dự án “hiện đại hóa” quy mô lớn hệ thống thang cuốn.
Điều gì khiến dự án “hiện đại hóa” kéo dài đến như thế? Chúng tôi đã tìm hiểu lý do. Cathy Asato, phát ngôn viên của Cơ quan Giao thông đô thị Washington đã trả lời báo Maryland Community News (ngày 20/10/2010) rằng “quá trình sửa chữa dự kiến mất sáu tháng và đang diễn ra đúng tiến độ. Thợ sửa chữa cần khoảng 10 đến 12 tuần cho mỗi bên thang”. Một phép so sánh đơn giản cũng đem lại kết quả đáng ngạc nhiên: Tập đoàn xây dựng Teda của Trung Quốc mất 32 tuần để xây dựng một trung tâm hội nghị đẳng cấp quốc tế từ chỗ không có gì – trong đó có hệ thống thang cuốn khổng lồ ở tất cả mọi ngóc ngách. Còn các nhân viên hệ thống tàu điện ngầm Washington mất 24 tuần chỉ để sửa hai thang cuốn nhỏ xíu, mỗi cái có đúng 21 bậc. Chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn và biết rằng WTOP – một đài phát thanh địa phương – đã phỏng vấn Richard Sarles, giám đốc điều hành tạm thời của hệ thống tàu điện ngầm vào ngày 20/7/2010. Theo ông, những thang cuốn này đã cũ, nhưng “chúng không được sửa chữa đúng mức. Chúng ta đang bị chậm nên phải cố gắng tăng tốc… Vừa mới tuần trước thôi, thang cuốn ở ga Dupont Circle đã bốc khói khi đang hoạt động trong giờ cao điểm”.
Ngày 14/11/2010, báo Washington Post đăng bức thư của Mark Thompson ở Kensington, Maryland gửi ban biên tập. Thư viết:
Tôi rất lưu tâm đến bài báo viết về nghiên cứu trị giá 225.000USD dẫn tới việc Cơ quan quản lý tàu điện ngầm phải mời công ty VTX sửa chữa tình trạng tồi tệ của hệ thống thang cuốn và thang máy… Tôi chắc chắn rằng nghiên cứu này rất có giá trị. Nhưng là người đã đi tàu điện ngầm hơn 30 năm nay, tôi nghĩ có một cách dễ hơn nhiều để đánh giá thực trạng hệ thống thang cuốn. Chúng đã hoạt động êm ái, hiệu quả hàng chục năm. Nhưng mấy năm gần đây, khi thang chạy, nó phát ra những âm thanh
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 21
đáng sợ vì nhiều bộ phận đã già nua hoặc hỏng hóc đâu đó. Với tôi tiếng động này nghe như tiếng gào hấp hối của con khủng long bạo chúa bị rơi xuống hồ nhựa đường* vậy.
Nhưng câu chuyện khiến chúng tôi lo ngại nhất là của báo Maryland Community News về những dòng người xếp hàng dài vào giờ cao điểm do quá trình sửa chữa dường như không bao giờ hoàn thành ở Metro: “Khi đứng xếp hàng, tôi có cảm giác rằng mọi người như đã quen với tình trạng ấy” – Benjamin Ross nói. Anh sống ở Bethesda và ngày nào cũng đi về từ ga trung tâm”.
Chủ đề chung trên cả nước
Mọi người như đã quen với tình trạng ấy. Thực tế là thái độ cam chịu… thái độ cho rằng đó là những gì đang diễn ra ở nước Mỹ ngày nay, rằng những ngày tươi đẹp của nước Mỹ đã qua rồi, còn trước mặt là những ngày tươi đẹp của Trung Quốc đã trở thành là chủ đề bàn tán của mọi người khi uống nước, trong bữa tiệc tối, khi xếp hàng mua tạp phẩm hoặc trong lớp học trên khắp nước Mỹ. Chúng ta thấy trẻ em – những người chưa từng đến Trung Quốc – cũng bày tỏ sự hoài nghi. Vào tháng 9/2010, Tom tham gia cuộc họp của Hội đồng Quy hoạch cơ sở giáo dục quốc tế (CEFPI) tại San Jose, California. Trong chương trình có “Cuộc thi thiết kế trường học tương lai” dành cho học sinh trung học cơ sở thiết kế ngôi trường xanh lý tưởng của riêng mình. Vào buổi sáng cuối cùng của cuộc hội thảo, ông gặp các bạn học sinh lọt vào vòng chung kết và họ cùng nói chuyện về xu hướng toàn cầu hiện nay. Tom hỏi các em nghĩ gì về Trung Quốc. Một cô bé tóc vàng tên là Isabelle Foster, học sinh trường trung học Old Lyme bang Connecticut trả lời: “Có vẻ như họ có tham vọng và lòng quyết tâm lớn hơn chúng ta”. Tom hỏi: “Sao cháu lại nghĩ thế?” Cô bé trả lời là thực sự cô cũng không giải thích được. Cô bé chưa đến Trung Quốc bao giờ. Nhưng cô vẫn cảm thấy điều đó. Nó hiển hiện ở khắp mọi nơi.
Chúng ta cũng thấy Thống đốc Ed Rendell của bang Pennsylvania bày tỏ thái độ nghi ngờ nước Mỹ khi ông có phản ứng bực bội vì ban tổ chức Giải vô địch bóng bầu dục quốc gia (NFL) đã hoãn trận đấu tại Philadelphia
* Hồ tự nhiên hình thành do nhựa đường (bitum) trong lòng đất tràn lên mặt đất.
22 từng là bá chủ
giữa hai đội Philadelphia Eagles và Minnesota Vikings hai ngày vì bão tuyết dữ dội. NFL buộc trận đấu phải hoãn lại vì họ không muốn người hâm mộ phải lái xe đến xem trên những con đường phủ đầy băng tuyết. Nhưng với Rendell, đây là dấu hiệu cho thấy một vấn đề tệ hơn: người Mỹ đã trở nên yếu đuối. “Quyết định của họ đi ngược lại tất cả những gì là đặc trưng của bóng bầu dục” – Rendell nói trong cuộc phỏng vấn với kênh phát thanh thể thao Fanatic 97,5 của Philadelphia (27/12/2010). “Chúng ta đã trở thành một đất nước của những kẻ quặt quẹo. Người Trung Quốc đang lấn át chúng ta về mọi mặt. Nếu giải diễn ra ở Trung Quốc, anh có nghĩ họ sẽ hoãn trận đấu không? Họ sẽ vẫn lũ lượt kéo tới sân, họ sẽ đi bộ và thậm chí yêu đương nhau suốt đường về”.
Tôi đọc thấy thái độ hoài nghi trong đống thư từ gửi ban biên tập – ví dụ nhận xét đầy nhiệt huyết sau đây của Eric R. đăng trên trang ý kiến độc giả của báo New York Times, ngay dưới bài báo Tom viết về Trung Quốc (ngày 1/12/2010):
Chúng ta đã gần như hoàn thành quá trình tiến hóa từ thời Lewis và Clark để trở thành Elmer Fudd và Yosemite Sam*. Trước kia, chúng ta ưa thích thách thức, chịu đựng thiếu thốn, nén chặt nỗi sợ hãi và lao vào thiên nhiên hoang dã (chưa từng biết đến). Chúng ta đoàn kết với nhau để xây dựng khắp lục địa này hệ thống đường sắt và đường cao tốc, đánh bại những kẻ độc tài xấu xa, chữa trị bệnh bại liệt, đưa con người đặt chân lên mặt trăng. Giờ đây, chúng ta nhắn tin và trang điểm trong khi lái xe, chơi trò chơi điện tử nhiều hơn đọc sách, lờ đi các bài tập thể dục, coi săn bắn là tội ác và gục ngã trước bệnh béo phì và tiểu đường. Không còn gì của tinh thần tiên phong (từng) giúp chúng ta trở thành quốc gia vĩ đại nhất thế giới, khiến những người khác phải ngước nhìn và gọi chúng ta là “ngoại lệ khác thường”.
Đôi khi thái độ nghi ngờ xuất hiện đúng lúc chúng ta không chờ đợi nhất. Chỉ vài tuần sau khi trở về từ Trung Quốc, Tom đến Nhà Trắng để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Ông đi qua điểm kiểm tra an ninh trên đại lộ Pennsylvania.
* Meriwether Lewis và William Clark đã tiến hành cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến bờ biển Thái Bình Dương với mục đích tìm hiểu, khám phá miền Tây sau khi chính phủ Mỹ mua vùng đất Louisiana (1804-1806).
Elmer Fudd và Yosemite Sam: các nhân vật hoạt hình, chuyên săn đuổi con thỏ láu lỉnh Bugs Bunny.
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 23
Sau khi cho túi xách đi qua máy soi, ông vặn tay nắm cửa kim loại để bước vào con đường dẫn đến Nhà Trắng. Tay nắm cửa rời ra nằm gọn trong tay ông. “Ờ, đôi khi nó bị thế đấy” – nhân viên an ninh nói với vẻ thờ ơ khi thấy Tom cố lắp lại cái tay nắm lỏng lẻo vào lỗ hổng trên cửa.
Và giờ đây chúng ta thường xuyên thấy khách đến chơi cũng tỏ ra ngờ vực. Một người sống ở Bethesda kể rằng mấy năm nay, ông đã thuê vài cô gái người Đức đến giúp ông chăm sóc con. Tất cả họ đều nói về hai chuyện: một là Washington có thật nhiều sóc, hai là đường phố ở đây mấp mô quá. Họ không thể tin được đường phố thủ đô nước Mỹ lại nhiều ổ gà đến thế.
Người lạc quan đã nản lòng
Như vậy có phải là chúng tôi tin vào một điều đang ngày càng quen thuộc đối với một số nhóm người: Nước Anh sở hữu thế kỷ 19, nước Mỹ thống trị thế kỷ 20, và chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ đóng vai trò quyền lực nhất trong thế kỷ 21 – và bạn chỉ cần bay từ Thiên Tân hoặc Thượng Hải đến Washington D.C. rồi đi tàu điện ngầm là kết luận ngay điều đó?
Không, chúng tôi không tin điều đó. Và chúng tôi viết cuốn sách này để giải thích tại sao không người Mỹ nào dù trẻ hay già nên cam chịu ý nghĩ đó. Cả hai tác giả đều không phải người bi quan về nước Mỹ cũng như tương lai nước Mỹ. Chúng tôi là những người lạc quan, nhưng chúng tôi cảm thấy nản. Chúng tôi là những người lạc quan đã nản lòng. Hai thái độ này đang song hành với nhau. Chúng tôi lạc quan vì với tinh thần phóng khoáng, tư tưởng đa dạng, tài năng phong phú, nền kinh tế linh hoạt, thái độ làm việc có đạo đức và luôn hướng tới sự thay đổi, xã hội Mỹ thực sự có đầy đủ điều kiện để phát triển trong bối cảnh thế giới đầy thách thức ngày nay. Chúng tôi lạc quan vì hệ thống kinh tế và chính trị của nước Mỹ nếu vận hành tốt thì có thể khai thác được triệt để tài năng, sức lực của đất nước nhằm giải quyết những khó khăn mà đất nước đang gặp phải. Và chúng tôi lạc quan vì những thành tựu nước Mỹ đã đạt được chính là nền tảng vững chắc để đất nước vượt qua những trở ngại hiện tại.
Nhưng đó cũng là lý do tại sao chúng tôi nản lòng. Lạc quan hay bi quan về tương lai nước Mỹ không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào việc chúng ta có khả năng làm được những điều vĩ đại hay lịch sử chúng ta có hùng tráng hay không. Nó còn phụ thuộc vào việc liệu chúng ta có thực sự muốn lặp lại
24 từng là bá chủ
những thành tích đó không nữa. Rất nhiều người Mỹ hiện đang làm những công việc vĩ đại nhưng mới chỉ ở quy mô nhỏ hẹp. Làm từ thiện, tình nguyện, các sáng kiến cá nhân – tất cả đều ấn tượng, nhưng cái chúng ta cần nhất là hành động chung trên phạm vi lớn.
Chúng ta không thể bi quan về nước Mỹ nếu ta biết rằng đất nước này là quê hương của vô số những con người sáng tạo, tài năng, chăm chỉ. Nhưng chúng ta cũng khó tránh khỏi cảm giác nản chí khi phát hiện ra rằng rất nhiều người trong số đó đang cảm thấy đất nước chưa đào tạo ra lực lượng lao động cần thiết, chưa thu hút được những người nhập cư chăm chỉ, chưa đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chưa tài trợ cho hoạt động nghiên cứu, chưa thực thi những chính sách thuế và ưu đãi khôn ngoan như các đối thủ cạnh tranh đã làm được.
Vì thế, chương mở đầu này mới có tên là “Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy”. Đây chính là câu thần chú mà Bộ An ninh nội địa lặp đi lặp lại trên loa ở các sân bay và nhà ga trên khắp cả nước. Đúng là chúng tôi có nghe, có thấy nhiều thứ, và hàng triệu người Mỹ khác cũng thế. Cái chúng tôi nhìn thấy không phải một kiện hàng vô chủ đáng ngờ bị bỏ ở cầu thang mà là những thứ không thể phát hiện bằng mắt thường. Chúng tôi thấy mối đe dọa tiềm ẩn lớn lao đối với an ninh và phúc lợi đất nước, hơn cả nguy cơ từ phía al-Qaeda. Chúng tôi thấy một đất nước có tiềm năng khổng lồ nhưng đang dần cũ hỏng, chính trị thì xáo trộn và rõ ràng là đang lo ngại về hiện tại cũng như tương lai của chính mình.
Cuốn sách này là tiếng nói của chúng tôi – điều gì không ổn, tại sao không ổn, và có thể và phải làm gì để khắc phục.
Nhưng tại sao phải nhắc đến ngay vào lúc này, tại sao phải khẩn cấp đến thế? Trả lời câu hỏi “tại sao ngay vào lúc này?” rất dễ. Đó là vì đất nước chúng ta đang suy yếu một cách chậm chạp, chậm đến mức chúng ta có thể giả bộ – hoặc tin – rằng nó không hề diễn ra. Timothy Shriver – chủ tịch Ủy ban Olympic dành cho người khuyết tật, con trai của người sáng lập Tổ chức Hòa bình Mỹ Sargent Shriver và là cháu của Tổng thống John F. Kennedy – là một người luôn lạc quan. Khi chúng tôi nói chuyện với ông về cuốn sách, ông trả lời: “Như thể mỗi năm chúng ta lại tụt dốc đi một ít, và chúng ta cứ mặc kệ để cho mọi thứ dần vượt ra ngoài tầm kiểm soát – suy thoái kinh tế chỗ này, vấn đề xã hội ở chỗ kia, rắc rối chính trị trong năm nọ. Mỗi ngày chúng ta lại tụt xuống một bước và không ai nói: Dừng lại!” Không nghi ngờ gì nữa, Shriver nói thêm, hầu hết người Mỹ “sẽ vẫn muốn Mỹ là đất nước
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 25
của những tư tưởng và thành tựu vĩ đại, nhưng có vẻ nhưng không ai muốn trả giá để có được kết quả đó”. Hay như Jeffrey Immelt, tổng giám đốc công ty General Electric nói: “Cái nước Mỹ ngày nay thiếu chính là lòng tin người dân có được khi cùng nhau giải quyết được một vấn đề lớn và phức tạp”. Đã lâu lắm rồi chúng ta chưa cùng nhau làm được điều gì vĩ đại, khó khăn.
Theo chúng tôi, quá trình suy thoái chậm chạp này có bốn nguyên nhân chính. Thứ nhất, từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chúng ta, đặc biệt là các nhà lãnh đạo chính trị, đã không còn bắt đầu mỗi ngày bằng hai câu hỏi hết sức quan trọng khi ra chính sách công. Đó là: chúng ta đang sống trong thế giới nào? Chính xác là chúng ta phải làm gì để phát triển được trong thế giới đó? Không quân Mỹ có một học thuyết chiến lược do sỹ quan John Boyd xây dựng, gọi là chu kỳ QĐQH, viết tắt của các từ: quan sát, định hướng, quyết định, hành động. Boyd lập luận rằng giả sử bạn là phi công chiến đấu, nếu QĐQH của bạn vận hành nhanh hơn của người khác thì bạn sẽ luôn là người giành thắng lợi trong cuộc không chiến. Hiện tại, nước Mỹ thực hiện QĐQH rất chậm và thường xuyên tỏ ra lúng túng. Trong lĩnh vực chính trị, người ta rất ít khi chịu quan sát, định hướng, quyết định và hành động, nhưng họ lại làm quá nhiều những việc như la hét, đòi hỏi, chia rẽ và trì hoãn. Khi thế giới vận động càng nhanh thì khả năng quan sát, định hướng, quyết định và hành động của một quốc gia càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Thứ hai, trong hơn 20 năm qua, cả quốc gia này đã thất bại trong việc giải quyết những vấn đề lớn nhất, đặc biệt là giáo dục, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia, năng lượng và biến đổi khí hậu. Và giờ đây, những vấn đề đó đã trở nên tồi tệ đến mức chúng ta không thể lờ chúng đi được nữa, và cũng không thể giải quyết chúng một cách triệt để nếu không cùng hành động và cùng hy sinh. Thứ ba, như thể để mọi chuyện xấu hơn nữa, chúng ta còn ngừng đầu tư vào những công thức truyền thống từng giúp chúng ta đạt được thành tựu vĩ đại có từ thời lập quốc. Thứ tư – chúng tôi sẽ giải thích thêm ở đoạn sau – chúng ta đã không thể giải quyết được khó khăn hay tái đầu tư vào mặt mạnh của mình vì hệ thống chính trị đã tê liệt, còn hệ thống giá trị thì bị xói mòn nghiêm trọng. Nhưng rút cục, là những người lạc quan, chúng tôi vẫn sẽ đề xuất chiến lược để vượt qua những thách thức này.
“Tại sao lại khẩn cấp?” cũng là một câu hỏi dễ trả lời. Sự khẩn cấp bắt nguồn một phần từ thực tế rằng cả quốc gia không còn có đủ nguồn lực, thời gian để hoang phí như 20 năm trước, khi thâm hụt ngân sách còn nằm trong tầm kiểm soát, và chúng ta vẫn có vẻ đang điều khiển được tất cả
26 từng là bá chủ
những thách thức lớn nhất của mình. Đặc biệt, trong 10 năm qua, chúng ta đã tốn rất nhiều thời gian, năng lượng – và tiền bạc của thế hệ sau – vào việc chống chủ nghĩa khủng bố, tự chiều chuộng bản thân với chính sách cắt giảm thuế, tín dụng với lãi suất thấp. Kết quả là hiện giờ chúng ta không có dự trữ. Chúng ta đang lái một chiếc xe không có ốp cản, không có lốp dự phòng, còn đồng hồ xăng báo gần cạn. Nếu thị trường hay Mẹ Thiên nhiên đột ngột chuyển theo chiều hướng xấu thì chúng ta sẽ không có đủ nguồn lực để tự bảo vệ mình trước những tác động xấu nhất – như những gì chúng ta làm được trước đây. Winston Churchill rất thích nói câu này: “Nước Mỹ luôn chọn phương pháp đúng đắn, nhưng chỉ sau khi họ đã thử mọi cách khác”. Giờ đây, đơn giản là Mỹ không còn đủ thời gian để thử mọi cách khác trước khi thực hiện theo cách đúng đắn nhất nữa.
Chúng tôi thấy khẩn cấp còn vì thực tế rằng giới chính trị chưa hình dung đúng đắn – chứ chưa nói đến giải quyết được – những thách thức của đất nước. Mục tiêu của chúng ta không nên chỉ đơn thuần là giải quyết vấn đề nợ quốc gia và thâm hụt ngân sách – như thế là quá hẹp. Hai vấn đề này rất quan trọng, thực tế là rất cần thiết và khẩn cấp, nhưng giải quyết được chúng mới chỉ là phương tiện đi đến mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu của nước Mỹ phải là tiếp tục giữ được vị thế là một cường quốc. Có nghĩa là ngoài giảm thâm hụt, chúng ta còn phải đầu tư vào giáo dục, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và triển khai, đồng thời mở rộng cửa hơn với những người nhập cư có tài năng, sửa đổi các quy định liên quan đến nền kinh tế. Nhập cư, giáo dục, luật pháp thực dụng là những thành phần truyền thống tạo nên công thức trở thành cường quốc của nước Mỹ. Và chúng đang có vai trò sống còn hơn bao giờ hết nếu chúng ta muốn tận dụng được toàn bộ tiềm năng của người Mỹ trong những thập niên tới để có thể tạo ra được nguồn lực giúp duy trì sự thịnh vượng, tiếp tục là quốc gia đứng đầu thế giới như chúng ta đã làm được và thế giới cũng mong muốn chúng ta làm được. Chúng tôi, những tác giả của cuốn sách này, không chỉ muốn nước Mỹ trả được nợ nần mà còn muốn duy trì vị thế cường quốc. Chúng tôi không phải những người ưa đi vào chi tiết. Chúng tôi là kiểu người muốn làm cách mạng.
Lại là Trung Quốc
Để duy trì vị thế cường quốc của Mỹ thì lựa chọn đúng đắn là không nên trở thành giống Trung Quốc. Chúng ta nên là chính mình. Tất nhiên, Trung
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 27
Quốc đã có những tiến bộ phi thường khi đưa 10 triệu người dân thoát khỏi nghèo đói và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng từ các trung tâm hội nghị đến đường cao tốc, sân bay, nhà cửa. Trung Quốc không ngừng chú trọng phát triển kinh tế, luôn tìm kiếm những phương pháp tốt nhất trên thế giới – mọi thứ từ giáo dục, năng lượng đến quy hoạch đô thị – để thử nghiệm rồi áp dụng rộng rãi cách nào có hiệu quả nhất – tất cả đều thực sự ấn tượng.
Nhưng Trung Quốc vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề có nguy cơ làm suy yếu đất nước như: thiếu quyền tự do, tham nhũng quá mức, ô nhiễm nghiêm trọng, một hệ thống kinh tế lộn ngược và nền giáo dục có truyền thống lâu đời là hạn chế sự sáng tạo. Thu nhập đầu người của Trung Quốc – khoảng 4.000 dolla – bằng 10% của Mỹ và khoảng cách giàu nghèo thuộc loại lớn nhất thế giới. Trung Quốc chỉ tạo ra được một vài công ty có tên tuổi toàn cầu và vẫn chỉ được biết đến nhờ sao chép và lắp ráp hơn là phát minh và thiết kế. Khó mà tin rằng trong thập kỷ tới Trung Quốc sẽ không phải gánh chịu một dạng khủng hoảng kinh tế nào đó, vì mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu – vốn phụ thuộc nặng nề vào các ngân hàng quốc doanh và các doanh nghiệp quốc doanh huy động tiết kiệm lãi suất thấp, lao động rẻ và sáng tạo của các nước khác – đã chạm đến ngưỡng.
Hệ thống chính trị và kinh tế của Trung Quốc không hề tốt hơn so với Mỹ. Chúng tôi tin rằng để duy trì được quá trình tăng trưởng kinh tế cao, cuối cùng Trung Quốc sẽ phải đổi mới nhiều hơn, tạo ra những khởi đầu của chính mình, và phát triển một nền kinh tế tri thức/dịch vụ. Trung Quốc thực hiện chuyển đổi bởi vì đất nước cần làm giàu trước khi nắm vững vấn đề. Với chính sách một con, Trung Quốc đã chuyển nhanh từ một đất nước mà hai đời dành dụm mới mua được cái laptop cho đời cháu sang một đất nước mà đứa cháu đó phải trả tiền chăm sóc cha mẹ, và có thể cả ông bà. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu Trung Quốc trở thành một nền kinh tế tri thức nhiều hơn và nếu Trung Quốc mở cửa về chính trị và học cách nắm bắt “sự phá hủy mang tính sáng tạo” – ngay cả khi cần phá hủy nền công nghiệp quốc doanh của mình. Nói ngắn gọn, Trung Quốc sẽ cần áp dụng thêm nhiều đặc điểm của hệ thống kiểu Mỹ, nhất là sự tự do trong chính trị và kinh tế vốn là yếu tố cơ bản dẫn đến thành công của chúng ta.
Nhưng hiện tại, chúng tôi tin rằng Trung Quốc đã thu được 90% lợi ích tiềm năng mà hệ thống chính trị loại hai của họ mang lại. Họ đang tận dụng được những gì tốt nhất của một nhà nước toàn trị. Ngược lại, người Mỹ chúng ta mới chỉ thu được 50% lợi ích tiềm năng của hệ thống dân chủ hạng nhất của
28 từng là bá chủ
chúng ta. Và cái chúng ta đang có là ít hơn nhiều so với những gì mà đáng lẽ chúng ta có thể, nên và phải nhận được từ nền dân chủ.
Theo Nathan Gardels, chủ bút NPQ, một chuyên san các tư tưởng chính trị và xã hội, mặc dù ý nghĩ thông thường là “Trung Quốc phải khai minh để tự sửa đổi, Mỹ phải nghiêm khắc. Nhưng dân chủ trong một xã hội tiêu dùng được dẫn dắt bởi đặc trưng hài lòng ngay lập tức cũng không tự sửa đổi nếu không áp dụng lâu dài thể chế nhân tài mà cũng có ích tương tự với Trung Quốc. Tất cả các dấu hiệu phản hồi trong nền dân chủ tiêu dùng [của chúng ta] – thị trường, phương tiện truyền thông và chính trị – đều là ngắn hạn. Trừ phi điều này được cân bằng với các thể chế thích cái nhìn dài hạn hơn, còn không thì sự quản lý tập trung cũng không khả thi. Những Nhà lập quốc của chúng ta hiểu rõ điều này.
Nói tóm lại, vấn đề lớn nhất không phải là chúng ta không thể đuổi kịp được thành tựu xuất sắc của Trung Quốc mà là chúng ta đã rời quá xa những thành tựu vĩ đại nhất của chính mình. Tương lai của nước Mỹ không phụ thuộc vào việc bắt chước hệ thống Trung Quốc. Nó phụ thuộc vào việc chúng ta có làm cho hệ thống dân chủ của mình hoạt động một cách tập trung, nghiêm túc, kiên định, giới lãnh đạo có đạo đức và mọi người đoàn kết trong hành động hay không – những phẩm chất mà Trung Quốc đã tạo ra được bằng phương cách độc tài trong hàng chục năm qua.
Theo chúng tôi, sự so sánh giữa Trung Quốc và Mỹ xuất hiện trong mọi câu chuyện phiếm trên khắp nước Mỹ ngày nay hoàn toàn không phải nhằm vào Trung Quốc. Mục tiêu chính là chúng ta. Trung Quốc chỉ là tấm gương phản chiếu mà thôi. Thực ra chúng ta đang nói về bản thân và sự mất tự tin của chính mình. Chúng ta thấy người Trung Quốc có những tính cách đã từng có trong người Mỹ, đã từng là đặc trưng của cả nước Mỹ – nhưng giờ chúng ta đã đánh mất rồi.
Orville Schell là người đứng đầu Trung tâm Quan hệ Mỹ - Trung thuộc Hiệp hội Á châu đặt tại thành phố New York. Ông cũng là một trong những nhà quan sát tình hình Trung Quốc có kinh nghiệm nhất của Mỹ. Ông có tham gia hội nghị Thiên Tân. Một chiều nọ, sau một bài trình bày cực kỳ thuyết phục về bước nhảy kinh tế vượt bậc của Trung Quốc gần đây, Tom hỏi Schell tại sao ông ấy lại nghĩ sự nổi lên của Trung Quốc làm người Mỹ mất tinh thần và bị ám ảnh như vậy.
“Vì chúng ta bắt đầu cảm thấy mình không thể giải quyết được mọi chuyện, chúng ta có xu hướng nhìn nhận những vấn đề liên quan đến Trung Quốc
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 29
với thái độ mơ ước, lý tưởng hóa quá mức”, Schell trả lời. “Chúng ta nhìn những điều họ làm và thấy rằng họ đang làm được những điều chúng ta đã đánh mất và chỉ còn nhớ đến một cách e dè. Đó chính là tinh thần “có thể làm được, làm bằng được, đoàn kết lại, bằng bất cứ giá nào” – nhờ tinh thần ấy mà chúng ta đã xây dựng được những con đường cao tốc, những con đập ngăn nước và đặt chân lên mặt trăng. Nó là đặc điểm nổi bật của nền văn hóa thời chúng ta còn nhỏ. Nhưng giờ đây, chúng ta đang chứng kiến đất nước đi theo hướng ngược lại, trong khi đó, Trung Quốc trở nên cực kỳ năng động bởi chính nguồn năng lượng tương tự… Trung Quốc khát khao muốn chứng minh bản thân với cả thế giới, còn Mỹ có vẻ như đã đánh mất mong muốn thể hiện sự ưu việt của mình”. Động lực của Trung Quốc là “khát vọng sâu xa muốn phục hồi lại vị thế cường quốc của mình, và thật đáng buồn, tất cả mọi người đều luôn có cảm giác rằng nước Mỹ chúng ta đã đánh mất chính động lực lớn lao đó”.
Hai chúng tôi đều có chung cảm nhận, nhưng chúng tôi không ủng hộ những chính sách, giải pháp duy trì vị thế cường quốc của nước Mỹ với thái độ ngạo mạn hay chủ nghĩa sô-vanh. Chúng tôi ủng hộ bằng lòng ái quốc và niềm tin mạnh mẽ vào bất cứ cách thức nào đem lại điều tốt đẹp nhất cho nước Mỹ – cho người Mỹ lẫn cho toàn thế giới. Chúng tôi hiểu rõ rằng nước Mỹ có những điểm chưa hoàn hảo, cả trong quá khứ và hiện tại. Chúng tôi biết tuần nào cũng có chính trị gia nhận hối lộ, có người bị kết án bởi tội lỗi mà họ không hề mắc phải, có tiền ngân sách đáng lẽ có thể dùng để xây một cây cầu mới, một trường học mới hoặc đầu tư vào một nghiên cứu đột phá nhưng lại bị sử dụng hoang phí, có rất nhiều thanh thiếu niên bỏ học, có nhiều cô gái trẻ mang thai những đứa con không cha, và có người bị mất việc làm hoặc mất nhà cửa một cách vô lý. Người theo chủ nghĩa hoài nghi sẽ nói: “Hãy nhìn khoảng cách giữa ý nghĩ và thực tế xem. Mọi phát biểu về nước Mỹ vĩ đại đều là dối trá”. Người theo tư tưởng bè phái thì bảo: “Khoảng cách gì cũng mặc kệ. Chúng ta vẫn là “ngoại lệ khác thường””. Quan điểm của chúng tôi là khoảng cách thực sự là vấn đề cần quan tâm, nhưng không ai nhận diện nước Mỹ qua chúng. Chúng ta là một quốc gia vĩ đại – sự vĩ đại mới thực sự là đặc trưng của nước Mỹ – vì chúng ta luôn luôn nỗ lực không ngừng để xóa đi những khoảng cách ấy, vì chúng ta luôn luôn đấu tranh không mệt mỏi để ngày càng đoàn kết hơn. Khoảng cách chỉ là dấu hiệu cho thấy chúng ta còn nhiều việc phải làm.
Chúng tôi nhắc lại lần nữa: Vấn đề không phải là Trung Quốc, và giải pháp
30 từng là bá chủ
cũng không phải trở thành Trung Quốc. Vấn đề là ở chính bản thân chúng ta – chúng ta đang làm và không làm những gì, hệ thống chính trị của chúng ta hoạt động và không hoạt động ra sao, chúng ta sống và không sống theo hệ giá trị nào. Và giải pháp cũng chính là bản thân chúng ta – con người, xã hội, chính phủ mà chúng ta từng có và có thể tìm lại. Đó mới là mục đích của cuốn sách: vừa là lời cảnh báo, vừa là lời động viên. Cuốn sách sẽ chứa đầy những lời phê phán về tình trạng của chúng ta hiện tại, nhưng cũng giữ vững tinh thần lạc quan về kết quả trong tương lai nếu chúng ta hành động cùng nhau.
Hãy cho chúng tôi biết những gì bạn thấy 31
HAI
Lờ đi những rắc rối
Những loài sinh vật sống sót được không phải loài khỏe nhất hay thông minh nhất. Mà là những loài có khả năng thích ứng với thay đổi nhất.
– Thuyết tiến hóa
Chúng tôi sẽ làm một điều kinh khủng với các ông.
Chúng tôi sẽ tước đi của các ông một kẻ thù.
– Georgi Arbatov, chuyên gia về Mỹ của Liên Xô phát biểu
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc
Hiện tại mọi chuyện có vẻ đã quá rõ ràng, nhưng vào cái ngày lịch sử khi Bức tường Berlin sụp đổ – ngày 11/11/1989 – không ai có thể đoán được rằng Mỹ sắp mắc sai lầm lớn nhất của một quốc gia: đánh giá sai tình thế của mình. Đáng lẽ chúng ta phải nhớ đến lời cảnh cáo của Oscar Wilde: “Trên đời này chỉ có hai bi kịch. Một là không đạt được thứ ta muốn, hai là đạt được thứ đó”. Lúc đó Mỹ sắp phải trải qua bi kịch thứ hai. Chúng ta đã đạt được mục tiêu mà chúng ta từng theo đuổi trong một thời gian dài: chấm dứt Chiến tranh Lạnh theo những điều kiện phương Tây đặt ra. Nhưng chính thành tựu này lại đánh dấu sự ra đời của thế giới mới với những thách thức chưa từng có dành cho Mỹ. Không ai cảnh báo chúng ta, cho dù đó là Oscar Wilde hay một người nào đó, ví dụ như một chính trị gia đã làm chính xác điều đó 40 năm trước: George Kennan.
Tối ngày 22/2/1946, Kennan, 42 tuổi, phó đại sứ Mỹ tại Liên Xô đã gửi một bức điện dài 8000 từ cho Bộ Ngoại giao Mỹ ở Washington mà sau này được gọi là “Bức điện dài”. Nó đã trở thành tin tức ngoại gia nổi tiếng nhất lịch sử nước Mỹ. Phiên bản ngắn gọn của nó xuất hiện trên báo Foreign Affairs năm sau đó dưới tiêu đề “X” có lẽ cũng là bài báo gây ảnh hưởng lớn nhất.
Bức điện của Kennan lại nổi tiếng lần nữa vì nó đóng vai trò cơ sở cho chính sách ngoại giao Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Theo đó, cần “ngăn
32 từng là bá chủ
chặn” sức mạnh quân sự và chống phá về chính trị ý thức hệ cộng sản của Liên Xô. Kết quả là Kế hoạch Marshall với mục đích viện trợ tái thiết châu Âu vừa bị chiến tranh tàn phá; NATO – liên minh quân sự duy nhất trong thời bình trong lịch sử nước Mỹ – và duy trì một lực lượng quân đội Mỹ ở châu Âu; các cuộc chiến tranh Mỹ ở Triều Tiên và Việt Nam; chạy đua vũ khí hạt nhân; tiệm cận chớp nhoáng nguy cơ chiến tranh hạt nhân tại Cuba; sự đối đầu về chính trị hình thành ở mọi ngóc ngách trên thế giới thông qua viện trợ quân sự, hoạt động gián điệp, quan hệ công chúng và viện trợ kinh tế.
Chiến tranh Lạnh kết thúc với việc khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Nhưng thông điệp rộng lớn hơn của Bức điện dài mới là điều chúng ta cần nghe hiện nay: “Tỉnh dậy đi! Chú ý kìa! Thế giới đã thay đổi về cơ bản rồi. Không còn là thế giới mà các anh nghĩ nữa. Các anh phải điều chỉnh bản thân, vì kinh tế, an ninh và tương lai đất nước phụ thuộc vào điều đó”.
Khó mà hình dung được thông điệp này sẽ khiến cho rất nhiều người Mỹ choáng váng như thế nào. Thế giới mà Kennan nhắc đến trong bức điện không phải thế giới mà phần lớn người Mỹ cho rằng họ đang sống hoặc muốn sống ở đó nữa. Hầu hết họ đều nghĩ rằng khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Mỹ có thể có được mối quan hệ tốt với Liên Xô – đồng minh trong chiến tranh cũng như chấm dứt được giai đoạn cả đất nước phải bỏ ra nỗ lực khổng lồ để giành thắng lợi trong cuộc chiến. Theo Bức điện dài thì cả hai mong muốn đều sai lầm. Cuối cùng, giới lãnh đạo đất nước cũng nhất trí với phân tích của Kennan và nghe theo toa thuốc của ông. Đã từ lâu, người Mỹ hiểu ra rằng họ phải thận trọng, sáng tạo và đoàn kết. Họ biết họ phải đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, cải tiến công nghệ, tăng tính linh hoạt của xã hội để tránh bị thất bại trong cuộc cạnh tranh toàn cầu trên lĩnh vực địa chính trị. Chiến tranh Lạnh có những sự kiện tồi tệ và những thất bại của riêng nó, ví dụ như Việt Nam hay sự kiện vịnh Con Lợn. Đồng thời nó cũng đặt giới hạn nhất định cho chính trị và xã hội Mỹ. Chỉ cần nhìn xuyên qua Bức màn sắt và những gì đằng sau nó, hoặc tham gia vào những cuộc diễn tập phòng chống bom hạt nhân ngay trong tầng hầm trường tiểu học của chúng ta là có thể hiểu: thế giới chúng ta đang sống là cuộc chiến giành ưu thế giữa hai siêu cường có trang bị vũ khí hạt nhân. Thực tế này đã hình thành nên nền chính trị nước Mỹ cũng như thái độ, quan điểm phổ biến của giới lãnh đạo và người dân Mỹ: luôn luôn phải thận trọng. Không phải lúc nào chúng ta cũng đánh giá chính xác thế giới xung quanh, nhưng chúng ta theo dõi rất cẩn thận mọi diễn biến bên ngoài đất nước.
Lờ đi những rắc rối 33
Người Mỹ đã chứng kiến phe cộng sản chi phối phần lớn thế giới, đe dọa các xã hội tư bản. Nước Mỹ phải hy sinh rất nhiều để đẩy lùi ảnh hưởng ấy. Nếu chúng ta nao núng, chúng ta có nguy cơ bị phe cộng sản lấn át. Nếu chúng ta hiếu chiến quá mức, chúng ta sẽ gặp phải nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Vì thế, đó là thời kỳ hết sức hệ trọng.
Ở đây có ai biết viết điện tín không?
Rồi sau đó Bức tường Berlin sụp đổ. Và vô vàn giả định của người Mỹ về tương lai lại mọc lên tưng bừng như hoa nở mùa xuân. Điều đó có gì lạ? Kết cục của cuộc xung đột toàn cầu này đã xóa bỏ bóng ma phủ lên đầu hai thế hệ với tư cách là thách thức lớn nhất mà đất nước từng gặp phải: mối đe dọa về chính trị, kinh tế và quân sự từ phía Liên Xô và các nước cộng sản khác.
Lẽ ra chúng ta đã có thể sử dụng một Bức điện dài khác. Chiến tranh Lạnh kết thúc chắc chắn là thắng lợi, nhưng nó cũng mang lại một thách thức mới rất lớn. Có điều tại thời điểm đó, chúng ta lại không nhận ra.
Chúng ta đã góp phần mở ra cánh cửa mới cho hai tỷ người để họ có được cuộc sống như chúng ta. Hai tỷ người này sẽ có giấc mơ Mỹ của riêng mình. Hai tỷ người này sẽ đi theo kinh tế thị trường. Hai tỷ người này sẽ có nửa thế kỷ khát khao cháy bỏng được sống, được làm việc, được đi lại và được tiêu dùng như người Mỹ. Phần còn lại của thế giới nhìn chúng ta và nói: “Chúng tôi cũng muốn được sống như họ”. Xét từ góc độ đó thì thế giới chúng ta đang sống chính là do chúng ta tạo ra.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, qua đó rất nhiều rào cản cạnh tranh bị xóa bỏ. Toàn cầu hóa đã trở thành yếu tố giúp ổn định tình hình thế giới và thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu. Nhưng nó cũng tạo ra rất nhiều “người Mỹ mới”, có khả năng cạnh tranh vốn và việc làm với người Mỹ ở nước Mỹ. Theo kinh tế học thì điều đó có nghĩa là người Mỹ phải chạy nhanh hơn nữa – tức là làm việc chăm chỉ hơn nữa – mới giữ được vị trí của mình. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, tình thế của Mỹ giống như vận động viên chạy xuyên quốc gia thường xuyên vô địch quốc gia hết năm này sang năm khác, nhưng lần này trọng tài trao cho anh ta chiếc cúp và bảo: “Chúc mừng anh. Anh sẽ không bao giờ thi đấu ở cấp quốc gia nữa. Từ giờ trở đi anh sẽ thi đấu ở Thế vận hội, với những người giỏi nhất thế giới – mỗi ngày và mãi mãi về sau”.
34 từng là bá chủ
Chúng ta không hiểu hết chuyện gì đang diễn ra nên chúng ta không có câu trả lời thích hợp. Thời gian trôi đi, chúng ta thư giãn, giảm đầu tư ở đúng thời điểm đáng lẽ cần phải học tập chăm chỉ, tiết kiệm nhiều hơn, xây dựng lại cơ sở hạ tầng và làm cho đất nước trở nên cởi mở, hấp dẫn hơn đối với các tài năng nước ngoài. Mất đi đối thủ cạnh tranh chính cũng là một rắc rối. Đội bóng chày New York Yankees sẽ ra sao nếu không có đối thủ Boston Red Sox, đội bóng bầu dục Alabama sẽ là gì nếu không có đối thủ Auburn? Khi phương Tây giành thắng lợi trong Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ cũng đồng thời mất đi một đối thủ từng giúp chúng ta gìn giữ được sự sắc sảo, tập trung khi giải quyết các vấn đề ngoại giao và nghiêm túc với nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Trong khi đó ở vùng duyên hải Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil, các rào cản kinh tế đã bắt đầu được dỡ bỏ từ 10 năm trước. Người Trung Quốc không giống người dân Liên Xô cũ, như người ta nói là mọi người giả bộ làm việc, còn chính phủ giả bộ trả lương. Không, người Trung Quốc giống người Mỹ. Họ có đạo đức nghề nghiệp mạnh mẽ, có khát vọng làm giàu khổng lồ nhưng bị kìm nén lâu ngày – như thể một chai sâm-panh được lắc suốt 50 năm và sắp sửa được mở nút. Bạn sẽ không muốn rơi vào tình cảnh của cái nút chai đâu. Thêm nữa, cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh là sự phát triển của công nghệ, nó san bằng sân chơi kinh tế toàn cầu, dần xóa đi lợi thế của người dân các nước phát triển như Mỹ và đem lại sức mạnh lớn hơn cho người dân các nước đang phát triển. Thế giới đang thay đổi với tốc độ ngày càng nhanh hơn bao giờ hết. Người Mỹ phải mất một thời gian mới hiểu được rằng mặc dù nhiều đối thủ cạnh tranh mới của mình là những công nhân lương thấp và kỹ năng thấp, nhưng lần đầu tiên chúng ta thấy trong số đó có ngày càng nhiều công nhân lương thấp và trình độ cao, đặc biệt ở châu Á. Chúng ta biết rất rõ lực lượng lao động rẻ tiền, nhưng chưa bao giờ chúng ta phải đối mặt với nhiều người làm công xuất sắc đồng ý nhận lương thấp như vậy. Kinh nghiệm lịch sử của chúng ta chủ yếu là ở châu Âu. Chúng ta đã không hiểu được rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mới và phải thích ứng với nó, và đây là một thất bại to lớn và đắt giá của nước Mỹ.
Chắc chắn rằng hai thập kỷ sau Chiến tranh Lạnh là giai đoạn phát triển vượt bậc đối với một số người Mỹ và một vài lĩnh vực kinh tế Mỹ. Đây là thời đại của cách mạng công nghệ thông tin, khởi đầu ở Mỹ và lan rộng trên khắp thế giới. Nó khiến một số người Mỹ trở nên giàu có, giúp tất cả mọi người có khả năng tiếp cận với thông tin, giải trí và giao tiếp với nhau – cũng như với thế giới – nhiều hơn bao giờ hết. Nó thực sự là một cuộc cách mạng. Nhưng
Lờ đi những rắc rối 35
nó cũng đặt ra thách thức lớn lao cho người Mỹ và góp phần khiến nước Mỹ chúng ta thất bại trong việc đối phó với hậu quả nó gây ra. Thất bại ấy có nguồn gốc từ cái mà giờ chúng ta có thể coi là sự tự tin thái quá. “Sự kết hợp chết người của tính vênh váo và tự mãn” – Bộ trưởng Giáo dục Arne Dunan nói. “Chúng ta là bá chủ thế giới. Nhưng chúng ta đã lạc đường. Chúng ta nghỉ ngơi với vòng nguyệt quế vinh quang… lúc nào cũng chỉ nhắc đến những gì đã làm được ngày hôm trước và sống trong quá khứ. Chúng ta ngủ quên trên chiến thắng và sống bằng danh tiếng. Chúng ta không khác gì một gã ở tuổi bốn mươi, kể đi kể lại chuyện mình từng là một cầu thủ xuất sắc ở đội bóng trường trung học”. Chính tính tự mãn nguy hiểm này là nguyên nhân khiến nước Mỹ của thế kỷ 21 có những con đường đầy ổ gà, tay nắm cửa bung ra và thang máy phải sửa chữa kéo dài. Thật không may là cơ sở hạ tầng xuống cấp mới chỉ là rắc rối nhỏ nhất mà chúng ta gặp phải.
Bốn thách thức lớn
Chúng ta đã đi đến lập luận chính của cuốn sách. Thực tế là sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã mở ra một kỷ nguyên mới với bốn thách thức lớn dành cho nước Mỹ. Đó là: làm thế nào để thích ứng được với quá trình toàn cầu hóa, làm thế nào để điều chỉnh cho phù hợp với cuộc cách mạng công nghệ thông tin (IT), làm thế nào để giải quyết phần thâm hụt ngân sách khổng lồ và đang ngày càng tăng lên do nhu cầu của chính quyền các cấp ngày càng cao và làm thế nào để điều khiển được một thế giới có mức tiêu thụ năng lượng lẫn nguy cơ biến đổi khí hậu đều gia tăng. Bốn thách thức này và cách thức chúng ta đối đầu với chúng sẽ quyết định tương lai của nước Mỹ.
Bản chất của toàn cầu hóa là con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn đều có thể tự do di chuyển từ nước này sang nước khác. Quá trình toàn cầu hóa đang mở rộng nhanh chóng nhờ những thành tựu kinh tế xuất sắc của các quốc gia đi theo mô hình thị trường tự do ở phương Tây, những nước có quan hệ thương mại và đầu tư với nhau rất sâu sắc. Các nước khác sau khi quan sát thành công phương Tây đạt được đã quyết định đi theo mô hình của họ. Trung Quốc, các nước Đông Á và Đông Nam Á, Ấn Độ, các nước Mỹ Latin và các quốc gia Đông Âu đều tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Người Mỹ đã không hiểu hết ý nghĩa của quá trình toàn cầu hóa đang ngày càng mở rộng – nếu chúng ta có thể nói như vậy – một phần vì chúng ta nghĩ mình đã từng chứng kiến hết rồi.
36 từng là bá chủ
Tất cả những cuộc tranh luận về Trung Quốc dường như khiến những người Mỹ trên 40 tuổi gặp phải một ảo ảnh quen thuộc. Nói cho cùng, chúng ta đã gặp thách thức tương tự từ phía Nhật Bản hồi những năm 1980. Kết quả là Mỹ tiếp tục phát triển, còn Nhật Bản lại đi xuống. Chúng ta muốn tin rằng Trung Quốc hôm nay cũng chỉ là một nước Nhật ở quy mô lớn hơn. Nhưng không may là Trung Quốc và quá trình mở rộng toàn cầu hóa – phần nào đó là nguyên nhân của sự tăng trưởng vượt bậc của Trung Quốc –nguy hiểm hơn Nhật Bản nhiều lần. Với Mỹ, Nhật chỉ đe dọa một thành phố là Detroit và hai ngành công nghiệp là ô tô và sản phẩm điện tử gia dụng. Còn Trung Quốc nói riêng và toàn cầu hóa nói chung đang đe dọa mọi thành phố, mọi ngành công nghiệp của nước Mỹ. Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Singapore, Việt Nam, Đài Loan, Hàn Quốc, Chile và Thụy Sỹ (danh sách có thể còn rất dài) đã đặt ra thách thức khổng lồ cho nước Mỹ nhờ sự kết hợp giữa máy tính, viễn thông, trang web toàn cầu và thị trường tự do. Nhật Bản giống như cơn lốc xoáy hoạt động trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Còn Trung Quốc và toàn cầu hóa lại là cơn bão cấp 5, sẽ không bao giờ di chuyển ra biển trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh.
Theo Charles Vest, cựu chủ tịch Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), khi nhìn lại thập kỷ 1970 và 1980, ngay lúc chúng ta nhận thấy mối đe dọa to lớn đến từ Nhật Bản, “chúng ta đã thực hiện những bước đi đau đớn nhưng cần thiết để trở lại cuộc chơi. Chúng ta phân tích, tái định vị, kiên nhẫn và đã quay lại mạnh mẽ hơn trước. Chúng ta đã làm được điều đó. Trong câu chuyện này, “chúng ta” chính là nền công nghiệp của nước Mỹ”. Nhưng giờ đây, nước Mỹ cần một thứ rộng lớn hơn, toàn diện hơn thế.
Vest nói: “Lần này, chúng ta cần sự thức tỉnh của tất cả mọi người, tạo nên quyết tâm chính trị, thay đổi mục tiêu ưu tiên, hy sinh vì tương lai, cần sự hợp tác giữa chính phủ, doanh nghiệp và mọi công dân. Chúng ta cần thành thật, đầu tư khôn ngoan, xây dựng lại lễ nghĩa, còn giới lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp cần chấm dứt việc cố thỏa mãn bản năng thấp hèn của con người. Kỹ thuật, giáo dục, khoa học và công nghệ rõ ràng là những ngành cốt lõi phải quan tâm. Nói cho cùng, đây là thời đại tri thức. Nước Mỹ không thể phát triển thịnh vượng nhờ trả lương thấp, vị trí địa lý tách biệt hay sức mạnh quân sự. Chúng ta chỉ có thể trở nên giàu mạnh nhờ trí tuệ được chuẩn bị đầy đủ và được áp dụng đúng lúc”.
Nếu quá trình toàn cầu hóa khiến hầu như mọi người lao động Mỹ đều phải chịu sức ép thì cuộc cách mạng IT lại thay đổi cách thức làm việc vì máy tính, điện thoại di động, Internet và mọi phương tiện giao tiếp xã hội
Lờ đi những rắc rối 37
đang ngày càng phổ biến. Chúng làm mất đi những công việc cũ và sinh ra những công việc mới, thậm chí cả ngành công nghiệp mới với tốc độ nhanh chưa từng có. Hơn nữa, vì cuộc cách mạng IT khiến hầu hết các công việc trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có tư duy phản biện cao hơn nên mọi người Mỹ cần được đào tạo tốt hơn bao giờ hết để đảm bảo giữ được việc làm lương cao. Thời mà bạn tốt nghiệp phổ thông rồi đi làm ngay với mức lương đảm bảo cuộc sống trung lưu, cái thời đáng nhớ được phản ánh trong hai bộ phim hài tình huống nổi tiếng nhất – phim Trong tuần trăng mật (The Honeymooners) hồi những năm 1950 với Jackie Gleason trong vai anh chàng lái xe buýt Ralph Kramden và phim Tất cả chuyện gia đình (All in the Family) của thập niên 1970 với Carroll O’Connor trong vai Archie Bunker, anh chàng nhập cư màu mè ở Queens, New York – đã trôi qua lâu rồi. Thời mà bạn tốt nghiệp đại học rồi làm một công việc duy nhất với những kỹ năng cần thiết không thay đổi trong bốn mươi năm trước khi nghỉ hưu một cách khoan khoái cũng đã biến mất. Cuộc cách mạng IT đã đặt ra thách thức trong lĩnh vực giáo dục: làm thế nào để phát triển năng lực phân tích và sáng tạo cho người Mỹ. Thách thức này cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ không kém gì tác động của việc chuyển từ cày bằng ngựa kéo sang máy cày hoặc từ thuyền buồm sang tàu hơi nước.
Thách thức lớn thứ ba đối với tương lai nước Mỹ là nợ quốc gia và thâm hụt hàng năm đang ngày càng tăng và từ Chiến tranh Lạnh đến nay, cả hai đều đã cao tới mức báo động vì chúng ta đã có thói quen không thu thuế đủ cho chính phủ chi tiêu nên sau đó phải đi vay để bù đắp. Chính phủ Mỹ có khả năng vay được vài nghìn tỷ dollar, phần lớn trong đó là từ Trung Quốc và các nước khác nhờ họ có lòng tin vào nền kinh tế Mỹ cũng như nhờ vai trò đặc biệt của đồng dollar trên thị trường quốc tế – vai trò mà đồng dollar có được từ thời Mỹ là cường quốc kinh tế toàn cầu.
Trên thực tế, Mỹ cũng có phiên bản tài nguyên dầu mỏ của riêng mình: đó là tài nguyên dollar. Vì thực tế là đồng tiền của Mỹ đã trở thành đồng tiền quốc tế không chính thức kể từ Thế chiến thứ hai nên Mỹ có thể in tiền và chấp nhận vay nợ ở mức cao mà không nước nào làm được. Các nước nhiều dầu mỏ có xu hướng không tuân theo kỷ luật tài chính chặt chẽ, và một nước có thể tự in đồng dollar của riêng mình cũng dễ rơi vào cái bẫy tương tự. Chắc chắn rằng kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặc biệt là từ năm 2001, Mỹ đã đánh mất kỷ luật tài chính hơn bao giờ hết. Và điều này lại xảy ra rất không đúng lúc: thế hệ bùng nổ dân số bước vào tuổi nghỉ hưu và sẽ phải dựa vào lợi tức từ Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế.
38 từng là bá chủ
Tổng nợ hàng năm tính được chính là nợ quốc gia, và con số thường được nhắc đến thường xuyên này – mặc dù mỗi lần nghe thấy là chúng ta lại dựng tóc gáy – thực tế còn thấp hơn nghĩa vụ trả nợ của người dân Mỹ. Con số nợ quốc gia chưa tính đến các khoản nợ khổng lồ và đôi khi không thể thanh toán được của các tiểu bang và các thành phố. Thử ước tính, các tiểu bang có nghĩa vụ chi trả tổng cộng 3 nghìn tỷ dollar các khoản tiền liên quan đến quỹ hưu trí mà không có nguồn nào bù đắp. Riêng với New York, Illinoise và California, chênh lệch giữa số tiền chính phủ phải trả số thuế thu được trong những năm sắp tới sẽ rất lớn.
Vallejo, bang California, một thành phố có khoảng 117.000 dân đã tuyên bố phá sản vào tháng 5/2008. Họ đã phải dành 80% ngân sách để chi trả lương và phúc lợi cho cảnh sát, lính cứu hỏa và các nhân viên xã hội khác thuộc công đoàn lao động thành phố. Tracy cũng thuộc bang California đã gây ngạc nhiên khi tuyên bố từ năm 2010 trở đi, các công dân phải trả tiền cho dịch vụ khẩn cấp 911 – mỗi hộ gia đình phải nộp 48 dollar một năm, còn các hộ thu nhập thấp phải nộp 36 dollar. Mức phí sẽ tự động tăng lên 300 dollar nếu hộ đó có gọi 911 và người trả lời đầu tiên liên quan đến vấn đề y tế. Tất nhiên chính phủ liên bang cũng được yêu cầu phải có trách nhiệm chi trả một phần số tiền này. Chính phủ cũng sẽ gặp sức ép do phải hỗ trợ một số khoản hưu trí cá nhân đã bị phá sản. Và phần lớn các tính toán đều giả định rằng lãi suất mà chính phủ phải trả cho các khoản nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách là ở mức thấp nhất. Tuy nhiên, nếu điểm tín nhiệm của chính phủ Mỹ thấp thì có lẽ Bộ Tài chính phải đề xuất mức lãi suất cao hơn thì mới thu hút được mọi người mua giấy tờ có giá do chính phủ ban hành. Điều này sẽ làm tăng tổng số nợ lên đáng kể – tùy lãi suất cao đến đâu. Nói ngắn gọn thì tình trạng tài chính nói chung của nước Mỹ hiện đang tồi tệ hơn chúng ta tưởng tượng. Có một trang web chuyên theo dõi “Nợ công của Mỹ”, và theo họ thì tính đến ngày 29/3/2012, vào lúc 6:45, tổng nợ quốc gia là 15.596.042.778.243 dollar và vài xu lẻ (Có thể Trung Quốc sẽ xóa cho chúng ta vài xu nợ chăng?)
Và thách thức thứ tư – mối đe dọa mà nhiên liệu hóa thạch mang lại cho bầu khí quyển trái đất – là kết quả trực tiếp của việc tiêu dùng năng lượng nhiều hơn. Bản thân việc tăng tiêu dùng năng lượng lại là kết quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế có được nhờ quá trình toàn cầu hóa và áp dụng mô hình thị trường tự do (nhất là ở châu Á). Nếu chúng ta không tìm ra nguồn năng lượng dồi dào, rẻ, sạch và ổn định cho tương lai của “những người Mỹ
Lờ đi những rắc rối 39
mới” này thì chúng ta sẽ phải đối mặt với rủi ro trái đất bị bốc cháy, bị bịt kín, bị hun nóng, bị bốc khói với tốc độ nhanh hơn cả Al Gore dự đoán. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa là công nghệ nào có khả năng đem lại nguồn năng lượng dồi dào, rẻ, sạch và ổn định sẽ là nền công nghiệp mới của toàn thế giới. Công nghệ năng lượng – ET – sẽ là IT mới. Quốc gia nào có nền công nghiệp ET phát triển sẽ có an ninh năng lượng vững vàng, an ninh quốc gia được đảm bảo và sẽ góp phần vào an ninh môi trường toàn cầu. Đồng thời, nước đó cũng sẽ trở thành quê hương của các công ty sáng tạo hàng đầu vì các công ty không thể tạo ra các sản phẩm xanh hơn nếu không tìm ra được loại nguyên liệu, chương trình phần mềm và kiểu thiết kế thông minh hơn. Thật khó mà tưởng tượng nước Mỹ sẽ tiếp tục cải thiện được mức sống của người dân nếu Mỹ không phải quốc gia đi đầu trong nền công nghiệp mới của thế giới.
Điểm chung của bốn thách thức trên là để đối phó với chúng, con người cần hành động tập thể. Chúng lớn đến mức không một tổ chức, một thành phần riêng lẻ nào trong xã hội có thể giải quyết được. Mỗi thách thức đều mang tầm vóc quốc gia, và chỉ cả quốc gia mới có giải pháp thích đáng cho chúng. Tất nhiên trong mỗi trường hợp, giải pháp có thành công hay không còn phụ thuộc vào việc mỗi cá nhân có làm đúng hay không. Công nhân cần trang bị cho bản thân mình các kỹ năng để kiếm được việc làm có thu nhập cao, và các doanh nghiệp phải tạo ra những việc làm đó. Người Mỹ nên chi tiêu ít hơn, tiết kiệm nhiều hơn, chấp nhận thuế cao hơn. Cá nhân, doanh nghiệp và các ngành công nghiệp phải sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch hơn. Nhưng để mỗi cá nhân có hành vi đúng đắn thì chúng ta phải có chính sách khuyến khích, phải có quy định và thể chế thuận lợi, và thực thi chúng chính là nhiệm vụ chung của tất cả mọi người.
Đây là những thách thức mà cả quốc gia phải cùng nhau giải quyết và chúng ta phải nỗ lực và hy sinh khi làm việc đó. Đồng thời, những thách thức này cũng là vấn đề mang tầm quốc tế. Vì vậy, tất nhiên chúng ta có thể thảo luận về chúng dưới góc độ cạnh tranh và xung đột quốc tế. Thách thức mà Kennan nhắc đến trong Bức điện dài thực sự là chiến tranh theo một nghĩa nào đó. Bốn thách thức mà chúng ta phải đối mặt hiện nay lại cần được giải quyết theo cách khác. Có vẻ như cách thức thích hợp chính là học tập động lực lớn nhất cho sự thay đổi trong thế giới tự nhiên – quá trình tiến hóa. Các sinh vật tiến hóa nhờ khả năng thích ứng. Nếu Kennan kêu gọi nước Mỹ đối mặt với kẻ thù mới thì ngày nay, chúng ta kêu gọi đất nước phải thích ứng với môi trường mới.
40 từng là bá chủ
Trong hàng trăm triệu năm, hàng nghìn loại sinh vật (thực vật và động vật, trong đó có cả loài người) tồn tại được nhờ các đặc điểm sinh học của mỗi loài cho phép chúng thích ứng được với môi trường xung quanh. Nói cách khác, nhờ đó, các loài có thể sinh sản và bảo tồn được gene của mình. Nếu những con diệc màu xám khó bị kẻ thù phát hiện hơn so với diệc trắng thì sẽ có ngày càng nhiều diệc xám và ngày càng ít diệc trắng, và mỗi thế hệ sẽ tiếp tục sinh sản cho đến khi mọi cá thể diệc đều có màu xám. (cụm từ “loài phù hợp nhất sẽ tồn tại” thường được dùng để mô tả quá trình tiến hóa chính là sự tồn tại của những loài có khả năng thích ứng tốt nhất).
Thích ứng là một yêu cầu trở nên đặc biệt cấp thiết khi môi trường sống của các loài sinh vật thay đổi. Chim có thể bay đến một hòn đảo rất xa nơi chúng sống. Các cá thể chim có tồn tại được hay không tùy thuộc vào khả năng thích ứng của chúng với nơi ở mới. Loài chim có tồn tại được hay không phụ thuộc vào khả năng di truyền sự thích ứng đó cho các thế hệ sau.
Các nhà khoa học tin rằng 65 triệu năm trước, một khối thiên thạch, hoặc cũng có thể một loạt các thiên thạch đã va vào Trái Đất, gây ra những đám cháy cực lớn và Trái Đất bị phủ kín bởi một đám mây bụi. Hậu quả là ba phần tư số loài vật bị tuyệt chủng, trong đó có loài vật thống trị thời đó là khủng long.
Chiến tranh Lạnh chấm dứt và những thách thức mới xuất hiện đã làm thay đổi cơ bản môi trường xung quanh chúng ta. Chỉ các cá nhân, công ty và quốc gia nào thích ứng được với môi trường mới thì mới phát triển được trong tương lai. Chiến tranh Lạnh kết thúc không phải cơ hội để chúng ta nghỉ ngơi và tự khen ngợi mình mà chúng ta phải cùng nhau hành động để thích ứng được với chính thế giới mới mà chúng ta đã tạo ra.
Chúng ta cứ nghĩ mình là con sư tử đã đánh bại được con đầu đàn của bầy sư tử đang cạnh tranh với mình và trở thành vị vua không bàn cãi của cả vùng thảo nguyên. Nhưng thực tế chúng ta đã và đang đối mặt với nguy cơ trở thành loài khủng long đã tuyệt chủng.
Nhưng tác động của quá trình tiến hóa lên các loài vật và tác động của những thay đổi về xã hội, kinh tế và chính trị lên một quốc gia lại khác nhau ở hai điểm cơ bản. Thứ nhất, sự thích ứng trong sinh vật học kéo dài qua hàng trăm thế hệ, trong khi đó sự thích ứng mà chúng ta đang bàn sẽ phải xảy ra trong vài năm tới. Thứ hai, một loài có thích ứng tốt với môi trường hay không tùy thuộc vào mã gene của loài đó, một điều nằm ngoài khả năng kiểm soát. Ngược lại, các cá nhân, tổ chức, quốc gia có thể hiểu rõ hoàn cảnh của mình và chủ động thực hiện những điều chỉnh cần thiết để phát triển
Lờ đi những rắc rối 41
được trong môi trường mới. Loài khủng long không có khả năng làm bất cứ điều gì để khỏi bị tuyệt chủng. Nhưng nước Mỹ có thể chọn cách đối mặt với thách thức và thực hiện những chính sách phù hợp để giải quyết chúng.
Nước Mỹ không đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, nhưng những yếu tố liên quan đến Mỹ thì có.
Những yếu tố liên quan
Khả năng giải quyết thành công bốn thách thức sẽ quyết định tốc độ, cách thức tăng trưởng kinh tế của nước Mỹ cũng như số người được hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng đó. Trong lịch sử, Mỹ hầu như luôn có tốc độ tăng GDP hàng năm rất ấn tượng, nhờ đó thu nhập của phần lớn người Mỹ đều tăng lên. Tăng trưởng kinh tế chính là nền tảng của hầu hết mọi thứ ở Mỹ: nền chính trị, đời sống xã hội, vai trò của nước Mỹ trên trường quốc tế, tính cách quốc gia. 50 năm trước, trong cuốn Một dân tộc thịnh vượng (People of Plenty), nhà sử học David Potter đã cho rằng chính sự sung túc đã tạo nên tính cách Mỹ. Thành tựu của nền kinh tế Mỹ đã giúp hầu hết người Mỹ nếu làm việc chăm chỉ thì ít nhất cũng có thể có đời sống vật chất liên tục được cải thiện trong suốt cuộc đời, đồng thời họ cũng tin rằng con cháu họ sẽ được hưởng điều tương tự. Tăng trưởng kinh tế đã tạo cơ hội cho tất cả mọi thế hệ người Mỹ. Qua thời gian, hầu hết người Mỹ đều tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn hiện tại, rằng nếu anh làm việc chăm chỉ thì sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, rằng thế hệ sau sẽ giàu có hơn thế hệ trước. Niềm hy vọng đó thậm chí còn có tên: “giấc mơ Mỹ”. Giấc mơ Mỹ chỉ có được nếu kinh tế tăng trưởng ổn định, mạnh mẽ – và giờ đây điều đó phụ thuộc vào khả năng giải quyết bốn thách thức của chúng ta.
Như Thượng nghị sỹ Cộng hòa Lindsey Graham của bang South Carolina đã nói: “Nước Mỹ cần tư duy trong dài hạn vào đúng thời điểm khó tư duy dài hạn hơn bao giờ hết. Tôi hy vọng rằng nó chỉ khó hơn chứ không phải không thể làm được”. Ông nói thêm: “Những người không nghĩ rằng giấc mơ Mỹ đang gặp rủi ro hẳn đang sống ở một góc tăm tối nào đó… Tôi hy vọng rằng thành viên phong trào Tea Party*, giới tài chính, công đoàn, các bà mẹ giết
* Những người ủng hộ việc cắt giảm thuế và chi tiêu ngân sách. Phong trào chính trị mới này trùng với tên của phong trào Tea Party cũ, gọi là Boston Tea Party năm 1773. Để chống lại việc Chính phủ Hoàng gia Anh tăng thuế trà nhập khẩu vào Mỹ, khi tàu cập bến Boston, những người Tea Party đã nhảy lên tàu đổ trà xuống biển.
42 từng là bá chủ
thời gian ở sân bóng của con trai – tất cả sẽ đoàn kết với nhau với một ý nghĩ chung: ‘Tôi không muốn chứng kiến giấc mơ Mỹ tan biến trước mắt mình’”. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người lo ngại rằng giấc mơ Mỹ đang biến mất. Báo cáo Rasmussen (ngày 19/11/2010) đã công bố kết quả điều tra cho thấy 37% người Mỹ tin rằng những ngày đẹp đẽ của đất nước đang chờ đợi phía trước, nhưng con số cao hơn nhiều: 47% người trả lời cho rằng những ngày tươi đẹp nhất đã trôi qua rồi. Chúng ta không thể cùng nhau hành động để giải quyết những vấn đề mà toàn cầu hóa, cách mạng IT, nợ quốc gia, năng lượng và sự nóng lên của trái đất gây ra, vì vậy chúng ta phải đối mặt với nguy cơ những gì giới bi quan nghĩ sẽ đúng.
Người xưa đã nói: “Trên đời này có rất nhiều thứ quan trọng hơn tiền bạc”, và họ cũng nói thêm: “tất cả những thứ đó đều tốn tiền”. Trong cuốn sách xuất bản năm 2005, Hậu quả đạo đức của tăng trưởng kinh tế (The Moral Consequences of Economic Growth), nhà kinh tế học Benjamin M. Friedman của Đại học Harvard đã chứng minh rằng thời kỳ kinh tế thịnh vượng cũng là thời kỳ tự do về xã hội, chính trị và tôn giáo, trong đó các quyền tự do được mở rộng và xã hội phát triển hài hòa. Ngược lại, khi kinh tế Mỹ suy thoái như sau cuộc khủng hoảng 1929 thì mọi mâu thuẫn đều gia tăng. Giấc mơ Mỹ chính là chất kết dính, giúp xã hội rất đa dạng, cạnh tranh quyết liệt và thường nổi cáu này gắn bó được với nhau. Chủ tịch câu lạc bộ Liverpool của Anh sau khi quan sát một trận đấu của môn thể thao mà cả thế giới gọi là bóng đá trừ người Mỹ* đã nói: “Có người nói bóng đá là chuyện sống hoặc chết. Họ nhầm. Bóng đá còn quan trọng hơn thế nhiều”. Tương tự, việc nước Mỹ thành công hay thất bại trong việc giải quyết các thách thức của toàn cầu hóa, cách mạng IT, nợ quốc gia, năng lượng và sự nóng lên của trái đất sẽ quyết định tương lai của đất nước. Nhưng không chỉ có tương lai nước Mỹ là vấn đề đáng lo ngại. Vì Mỹ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trên trường quốc tế nên những gì xảy ra ở nước Mỹ sẽ có ảnh hưởng đến các thế hệ tiếp theo trên khắp thế giới.
Như Michael đã viết trong một cuốn sách năm 2006 có tên là Chuyện Goliath: Nước Mỹ với vai trò chính phủ của cả thế giới phải hành động như thế nào trong thế kỷ 21 (The Case for Goliath: How America Acts as the World’s Government in the Twenty-First Century): Kể từ năm 1945 và đặc biệt là sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã đem lại cho thế giới những thứ giống như các chính phủ thường làm cho xã hội của họ. Các nhà lãnh đạo trên thế giới đều
* Người Mỹ gọi bóng bầu dục là football, còn bóng đá là soccer.
Lờ đi những rắc rối 43
đánh giá cao vai trò này của Mỹ cho dù họ không công khai nói ra. Mỹ đã từng là kiến trúc sư, cảnh sát, ngân hàng của nhiều thể chế và quy định quốc tế do chính Mỹ thành lập ra sau Thế chiến thứ hai và hiện giờ mọi quốc gia trên thế giới đều là thành viên. Khi nắm giữ trong tay đồng tiền chính của thế giới là đồng dollar, Mỹ cũng đóng vai trò thị trường xuất khẩu, đem lại sự tăng trưởng vượt bậc cho châu Á và nhiều nơi khác. Lực lượng hải quân Mỹ canh giữ hầu hết các tuyến vận tải biển, đồng thời, việc triển khai quân Mỹ ở châu Âu và Đông Á góp phần đảm bảo an ninh khu vực. Quân đội của chúng ta cũng giúp cả thế giới được tiếp cận với nguồn dầu mỏ ở vịnh Ba Tư – gần như toàn bộ nền kinh tế thế giới phụ thuộc vào nguồn tài nguyên này. Năng lực của Mỹ trong lĩnh vực tình báo, ngoại giao và đôi khi cả quân sự đã góp phần đáng kể nhằm ngăn chặn xu hướng nguy hiểm nhất trong nền chính trị quốc tế hiện nay – đó là phát triển vũ khí hạt nhân. Và trên tất cả, còn có một nước Mỹ thể hiện được rõ mối liên hệ giữa tự do, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi cá nhân. Những tấm gương thường có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với xã hội, còn tấm gương nước Mỹ, nhờ thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế nên đã tạo ra ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới. Tất nhiên, còn có nhiều quốc gia dân chủ, thịnh vượng, hùng mạnh và có ảnh hưởng lớn khác. Những nguyên tắc kinh tế và chính trị nền tảng của nước Mỹ có nguồn gốc từ Anh. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, các quốc gia Trung và Đông Âu mong muốn đi theo mô hình tư bản chủ nghĩa và con đường dân chủ chính bởi tấm gương từ các nước Tây Âu. Ngày càng nhiều quốc gia châu Á trở nên giàu có là vì họ đã áp dụng phiên bản kinh tế thị trường tự do của Nhật Bản.
Nhưng chính nước Mỹ mới là người tạo ra và bảo vệ nền dân chủ cũng như nền kinh tế thị trường tự do ở Tây Âu và Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai. Và cũng chính nước Mỹ, suốt hàng trăm năm qua, là quốc gia luôn luôn dân chủ, thịnh vượng, hùng mạnh – và do đó có sức ảnh hưởng – nhất thế giới. Mỹ xứng đáng được nền chính trị dân chủ và hệ thống kinh tế thị trường tự do trên toàn thế giới ghi công. Xét trên góc độ này, thế giới ngày nay là do nước Mỹ chúng ta tạo ra.
Không nước nào sẵn sàng bước lên thay thế vị trí đứng đầu cả thế giới của Mỹ – giống như chúng ta đã bước lên khi đế quốc Anh bước vào thời kỳ suy thoái. Các đồng minh đang chịu sức ép kinh tế nặng nề ở châu Âu và châu Á của chúng ta cũng không thể gánh chịu được chi phí của nhiệm vụ quốc tế này. Vì vậy, nước Mỹ mà suy yếu thì thế giới sẽ trở nên tồi tệ, nghèo khó và nguy hiểm hơn.
44 từng là bá chủ
Tóm lại, tương lai của nước Mỹ và của cả thế giới phụ thuộc vào việc chúng ta có giải quyết tốt bốn thách thức trước mặt hay không. Vì chúng quá quan trọng với nước Mỹ, mà nước Mỹ lại quá quan trọng với thế giới nên chúng ta không hề phóng đại khi nói rằng từ nay đến hết thế kỷ, tiến trình lịch sử diễn ra như thế nào là phụ thuộc vào phản ứng của nước Mỹ trước những thách thức đó.
Có đủ lý do để tin rằng Mỹ sẽ giải quyết được chúng. Chúng ta lạc quan vì trong lịch sử, chúng ta đã từng đối phó được với những thách thức lớn lao. Mỹ giành được độc lập thông qua một quá trình ly khai đầy táo bạo và bạo lực với đất nước giàu nhất thế giới, lực lượng hải quân hùng hậu nhất thế giới thời đó. Người Mỹ chinh phục cả một lục địa rộng lớn và hoang dã, tiến hành cuộc nội chiến đẫm máu rồi phục hồi nhanh chóng đến mức chỉ sau vài thập kỷ, họ đã xây dựng được một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Quân đội của chúng ta không kém gì châu Âu trong cuộc Thế chiến thứ nhất; và xe tăng, tàu thủy, máy bay cũng như nỗ lực của các nam nữ quân nhân Mỹ là lực lượng quan trọng trong việc đánh bại Đức và Nhật trong Thế chiến thứ hai.
Winston Churchill từng nói với người dân Anh rằng: “Chúng ta chưa thể vượt được qua nhiều thế kỷ, nhiều đại dương, nhiều đỉnh núi, nhiều thảo nguyên vì chúng ta được làm bằng kẹo đường”. Với người Mỹ cũng có thể nói câu tương tự. Giờ đây, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức của kỷ nguyên mới, nhưng chúng ta lại phản ứng với sức mạnh và tính quyết đoán của một cây kẹo mút. Chúng ta không có những chính sách có dự tính, nghiêm túc, được xây dựng tốt và được ủng hộ rộng rãi để giúp người Mỹ chuẩn bị sẵn sàng cho những công việc trong tương lai, để kiểm soát được các vấn đề tài chính của đất nước và để bảo vệ chúng ta khỏi những biến động khí hậu nguy hiểm. Tại sao chúng ta không muốn làm điều đó? Hệ thống chính trị của chúng ta đã trở nên lệch lạc nên nó không thể tạo ra được những chính sách vĩ đại, đầy tham vọng mà chúng ta cần. Còn người dân Mỹ chúng ta lại không hề đòi hỏi giới lãnh đạo phải giải quyết các thách thức trước mắt vì chúng ta cũng chưa hiểu rõ thế giới mình đang sống.
Chúng ta đang sống trong một thế giới như thế nào? Chúng ta cần làm gì để phát triển được trong thế giới ấy? Chúng ta đã có những chính sách cần thiết chưa? Chúng ta đã thực hiện chúng một cách hiệu quả chưa? Chúng ta phải điều chỉnh chúng thế nào để đạt được kết quả tốt hơn?
Ở Singapore, giới lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp thường xuyên đặt những câu hỏi này như thể họ bị ám ảnh. Tom đã chứng kiến điều đó trong
Lờ đi những rắc rối 45
chuyến thăm Singapore vào mùa đông năm 2011. Nhà kinh tế học người Singapore Tan Kong Yam đã chỉ ra lý do: “Là một nước nhỏ nhưng lại có những người láng giềng lớn, Singapore giống như một người sống trong túp lều không có vách. Chúng tôi cảm thấy rõ từng sự thay đổi nhỏ trong gió, trong nhiệt độ và phải tìm cách thích ứng. Người Mỹ các anh thì vẫn sống trong nhà gạch có hệ thống sưởi tập trung nên các anh không cần phải phản ứng nhanh như chúng tôi”.
Khi đến thăm một giờ khoa học lớp 5 của một trường tiểu học vùng trung lưu, Tom mới thấy rõ thái độ ám ảnh của người Singapore đã tác động thế nào lên những việc họ phải làm để đất nước phát triển. Tất cả các cô bé, cậu bé học sinh 11 tuổi đều mặc áo blu trắng dùng trong phòng thí nghiệm với họ tên được thêu lồng trên áo. Bên ngoài hành lang là dải dây vàng của cảnh sát vây quanh “hiện trường vụ án”. Trên sàn nhà là một thi thể giả đẫm máu của “nạn nhân”. Học sinh đang học về ADN thông qua việc sử dụng vân tay và thu thập chứng cứ, và giáo viên môn khoa học đang biến mỗi học sinh thành một cảnh sát điều tra nhỏ tuổi. Tất cả đều phải lấy dấu vân tay và thu thập các chứng cứ khác từ hiện trường, sau đó phân tích chúng. Khi được hỏi đây có phải một nội dung trong chương trình giáo dục quốc gia không, bà hiệu trưởng cho biết là không. Nhưng bà có một giáo viên môn khoa học rất giỏi, rất hứng thú với ADN, và bà cũng biết rằng Singapore đang nỗ lực đẩy mạnh nền công nghệ sinh học. Vì vậy bà nghĩ cho học sinh học về nội dung này là một ý tưởng rất hay.
Một vài học sinh lấy dấu vân tay của Tom. Tom vô tội, nhưng cảm thấy cực kỳ ấn tượng.
Curtis Carlson, tổng giám đốc điều hành SRI International – một trung tâm thí nghiệm sáng tạo ở thung lũng Silicon – đã từng làm việc với General Motors và chính phủ Singapore. Ông nói: “Đứng bên trong công ty khổng lồ General Motors, tôi cảm thấy rất giống như tôi đang sống trong nước Mỹ ngày nay. Thích ứng là chìa khóa để có thể tồn tại được, và người nào, công ty nào thích ứng được tốt nhất thì cũng có cuộc sống tốt nhất. Khi anh là công ty lớn nhất thế giới, anh dễ trở nên kiêu căng, và với tư duy của anh thì không ai có thể thuyết phục được anh rằng anh có thể học hỏi được điều gì đó từ Toyota. Anh chỉ chú trọng vào nội bộ của anh chứ không quan tâm đến bên ngoài – anh quan tâm đến tình hình chính trị bên trong công ty chứ không biết bên ngoài thế nào, đối thủ cạnh tranh của anh đang làm gì. Khi kiêu ngạo anh sẽ trở nên mù quáng. Đó là General Motors, và thật không
46 từng là bá chủ
may, đó cũng là nước Mỹ ngày nay… Anh không thể thích ứng được trừ khi anh thường xuyên theo dõi những gì đang diễn ra ở môi trường xung quanh. Những nước thích ứng tốt, như Singapore chẳng hạn, đều là những nước chịu khó quan sát bên ngoài”.
Singapore không có tài nguyên thiên nhiên, thậm chí cát để xây dựng cũng phải nhập khẩu. Nhưng giờ đây, thu nhập trên đầu người của Singapore chỉ thấp hơn Mỹ một chút, hoàn toàn nhờ vào ngành chế tạo tiên tiến, dịch vụ và xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 là 14,7%, chủ yếu là nhờ xuất khẩu trang thiết bị dược và y sinh học. Mỹ không phải Singapore, và tất nhiên không thể áp dụng những yếu tố chuyên chế của hệ thống chính trị Singapore. Và chúng ta cũng không thể trả cho các quan chức cao cấp và thành viên chính phủ mức lương tương đương mức cao nhất trong khối tư nhân (tất cả các quan chức cấp cao chính phủ Singapore đều có thu nhập trên 1 triệu dollar một năm) hoặc thưởng cho họ hàng năm theo mức tăng trưởng GDP. Nhưng chúng ta vẫn có thể học được từ người Singapore sự nghiêm túc và sáng tạo trong giáo dục tiểu học và phát triển kinh tế, thái độ lưu tâm của họ trước những điều kiện cần thiết để có thể thành công trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Carlson kể với chúng tôi rằng ông đã từng gặp một cựu bộ trưởng kinh tế của Singapore. Carlson khen ngợi các thành tựu về giáo dục và kinh tế của họ, nhưng ông bộ trưởng “không nhận lời khen”. “Mà ông ấy nói: “Thực ra thành tựu của chúng tôi chưa đủ. Chúng tôi không bao giờ được phép nghĩ mình đã làm tốt. Chúng tôi phải thường xuyên cải thiện bản thân”. Hoàn toàn chính xác – không có lựa chọn nào khác: thích ứng hay là chết”.
Xét về mặt kinh tế, rõ ràng là các quốc gia không trực tiếp cạnh tranh với nhau. Singapore hay Trung Quốc có trở nên giàu có hơn thì Mỹ cũng không nghèo đi. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế ấn tượng của châu Á đã làm lợi cho nước Mỹ. Nhưng các cá nhân thì phải cạnh tranh với nhau để giành được việc làm tốt, và những ai có kỹ năng tốt nhất thì sẽ có được việc làm với mức lương cao nhất. Trong thế giới hiện nay, có ngày càng nhiều người trên khắp thế giới có thể cạnh tranh được với người Mỹ theo cách này.
Còn một lý do nữa khiến người Mỹ chưa nhận thấy tầm quan trọng của những thách thức mình đang phải đối mặt, đó là những thách thức ấy lại chính là kết quả của sự thành công của nước Mỹ. Trong nhiều năm, Mỹ luôn là quốc gia đi đầu thế giới trong việc bảo vệ tự do thương mại và đầu tư – bản chất của quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa ngày càng mở rộng
Lờ đi những rắc rối 47
chính nhờ năng suất lao động cao vượt bậc của các nền kinh tế thị trường tự do phương Tây, vốn có quan hệ đầu tư và thương mại với nhau rất chặt chẽ. Ngược lại, các nước cộng sản đã mất uy tín vì thành tích tăng trưởng kinh tế nghèo nàn. Vì vậy họ cũng muốn theo đuổi mô hình thị trường tự do và tham gia toàn cầu hóa.
Tương tự, cuộc cách mạng IT cũng khởi đầu ở Mỹ. Bóng bán dẫn, vệ tinh viễn thông, điện thoại di động, Internet – đấy là chưa nói đến PalmPilot, iPad, iPhone, Kindle* – đều ra đời ở Mỹ và được các công ty Mỹ đưa vào thị trường thế giới. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người hơn bao giờ hết có công cụ để cạnh tranh với chính chúng ta và xóa bỏ đi rào cản mà các chính phủ đặt ra.
Chính phủ Mỹ luôn có thể vay vài nghìn tỷ dollar vì mọi người cả trong và ngoài nước đều tin tưởng vào nền kinh tế Mỹ, đồng thời cũng nhờ vai trò đặc biệt của đồng dollar trên thế giới từ những ngày Mỹ là siêu cường kinh tế. Và việc người dân toàn cầu đang sử dụng quá nhiều nhiên liệu hóa thạch đến mức có nguy cơ gây ra biến đổi khí hậu cũng có nguyên nhân chính là vì tăng trưởng kinh tế đang mở rộng ngày càng nhanh, song hành với quá trình tăng tiêu dùng năng lượng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ qua gia tăng là nhờ toàn cầu hóa do Mỹ bảo trợ và nhờ các nước, đặc biệt là châu Á, áp dụng mô hình thị trường tự do của Mỹ và phương Tây.
Tóm lại, thế giới mà Mỹ phải thích ứng hầu như chính là thế giới “sản xuất tại Mỹ”, do Mỹ làm ra. Nhưng trong trường hợp này, sự quen thuộc, lòng tự hào vì sinh ra nó là nguyên nhân của tính tự mãn. Chúng ta đang tự hào một cách đáng ngại về thế giới mới này chính vì chúng ta tạo ra nó.
Một đặc điểm nữa của bốn thách thức nước Mỹ đang phải đối mặt là chúng đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, có nghĩa là việc huy động mọi người cùng nhau hành động sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Có thể thấy rất rõ với trường hợp thâm hụt ngân sách. Người Mỹ sẽ phải nộp thuế nhiều hơn, chấp nhận phúc lợi thấp hơn. Nộp thuế nhiều hơn để nhận được ít phúc lợi hơn trái ngược hoàn toàn với điều mà hầu hết mọi người mong muốn, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi thâm hụt ngày càng lớn. Tương tự, người Mỹ sẽ không bắt đầu sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch hơn, các ngành công nghiệp sẽ không đầu tư vào nguồn năng lượng khác trừ khi giá than đá, dầu mỏ và khí đốt tăng lên đáng kể để phản ánh chính xác chi phí của toàn xã hội khi sử dụng những nguồn nhiên liệu đó. Giá năng lượng đối với người Mỹ cao
* Các thiết bị điện thoại thông minh, máy tính bảng, điện thoại di động, máy đọc sách điện tử hiện đại được ưa chuộng.
48 từng là bá chủ
hơn thực sự là một điều tốt cho nước Mỹ lẫn cho cả thế giới vì sẽ khuyến khích con người phát triển năng lượng tái tạo. Nhưng giá năng lượng tăng cũng gây khó khăn cho các hộ gia đình trong ngắn hạn. Để giải quyết được thách thức của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng IT, đồng thời để liên tục nâng cao mức sống của người dân như họ mong muốn, người Mỹ sẽ phải tiết kiệm hơn, tiêu dùng ít hơn, học tập nhiều hơn và làm việc chăm chỉ hơn so với những gì họ đã quen làm trong các thập kỷ gần đây.
Vấn đề của chúng ta “giờ đây không còn là nên hay không nên hy sinh nữa – chúng ta đã không còn được lựa chọn từ lâu lắm rồi”. Michael Maniates, giáo sư môn khoa học chính trị và khoa học môi trường tại Đại học Allegheny, Pennsylvania đã viết như vậy. Chúng ta không thể lựa chọn liệu người Mỹ có nên hy sinh hay không mà chỉ có thể quyết định ai sẽ là người chịu gánh nặng lớn nhất. Thế hệ hiện tại càng chần chừ trước thách thức, sự hy sinh càng bị trì hoãn thì thiệt hại mà thế hệ sau phải gánh chịu sẽ càng lớn khi cả sức mạnh và sự thịnh vượng của nước Mỹ đều suy giảm.
50 năm trước, trong bài phát biểu nhậm chức, John F. Kennedy đã kêu gọi người dân: “Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì cho các bạn mà hãy hỏi bạn có thể làm gì để phục vụ Tổ quốc”. Ý tưởng ấy lại một lần nữa vang lên trong tâm trí của hầu hết những người đã từng nghe Kennedy nói ngày ấy, vì họ đều có những kỷ niệm riêng về một thời họ đã từng hy sinh rất nhiều và đạt được thành công – nhờ đó họ mới được gọi là “Thế hệ vĩ đại”.
Không may là những thách thức hiện nay lại có điểm khác biệt quan trọng với thách thức của thế kỷ trước. Những vấn đề mà Thế hệ vĩ đại gặp phải là không thể trốn tránh được, xảy ra ngay lập tức và mang tính sống còn như Đại Khủng hoảng, chủ nghĩa phát xít ở Đức và Nhật, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Kẻ thù của họ rất đáng sợ và hiển hiện rõ ràng: dòng người thất nghiệp xếp hàng dài, nhà ăn phục vụ người nghèo, nhân viên ngân hàng nhẫn tâm đuổi các gia đình ra khỏi nhà, đống đổ nát còn lại ở Trân Châu Cảng, vẻ mặt điên khùng và giọng nói chói tai của Adolf Hitler, cuộc diễu hành ngày 1/5 trang bị đầy tên lửa đạn đạo ở Quảng trường Đỏ Moscow – và số vũ khí này sau đó được đưa đến Cuba, chỉ cách bờ biển Mỹ 90 dặm. Khi Liên Xô chưa dựng nên bức tường cắt ngang trung tâm Berlin thì họ đang đưa quân vào Hungary và Tiệp Khắc để truy đuổi một vài phần tử tự do xuyên thủng lớp bê tông mà Liên Xô đã phủ lên hai quốc gia này. Không thể bỏ qua những thách thức như thế.
Cho dù công chúng và các chính trị gia có hoàn toàn nhất trí về chiến lược
Lờ đi những rắc rối 49
đối phó với các thách thức đó hay không – thường câu trả lời là không – họ vẫn nhận thấy cần phải ra quyết định, cần chấm dứt những cuộc tranh cãi vô tận và không thể chấp nhận được thái độ từ chối sự tồn tại của thách thức hoặc trì hoãn việc đối phó với chúng. Phần lớn người Mỹ hiểu thế giới họ đang sống là như thế nào. Họ cũng hiểu rằng khi đối phó với thách thức, họ phải đoàn kết với nhau, cùng hành động một cách thống nhất, nghiêm túc và quyết đoán. Đối phó với các thách thức có nghĩa là người Mỹ phải chịu đựng toàn bộ gánh nặng và sức mạnh. Đồng thời, giới lãnh đạo không thể tránh được việc yêu cầu mọi người phải hy sinh. Kennedy từng kêu gọi người dân “trả mọi giá, chịu mọi gánh nặng, đáp ứng mọi khó khăn, hỗ trợ mọi người bạn, chống trả mọi kẻ thù”. Tất cả mọi người đều phải đóng góp thứ gì đó – thời gian, tiền bạc, năng lượng, và trong nhiều trường hợp còn là mạng sống. Con người không còn được phép lựa chọn mất mát hay không. Trì hoãn, chối bỏ, sợ hãi hay tuyệt vọng cũng tương tự.
Những thách thức lớn ngày nay thì khác. Cả bốn thách thức – toàn cầu hóa, cách mạng IT, thâm hụt và nợ quá mức, nhu cầu năng lượng tăng cao trong điều kiện biến đổi khí hậu – đều đang diễn ra mỗi ngày một ít. Một vài vấn đề nghiêm trọng nhất lại rất khó nhận biết trừ khi chúng đạt đến một mức độ nhất định. Trừ những cơn bão cấp 5 hoặc một vụ tràn dầu nghiêm trọng ra thì những thách thức này không sản sinh ra một Hitler hay sự kiện Trân Châu Cảng nào khiến cả quốc gia phải choáng váng mà hành động. Chúng không tạo ra bức tường Berlin để làm biểu tượng cho mối đe dọa đối với Mỹ và toàn thế giới, không cho các vệ tinh bay vòng quanh Trái Đất để tuyên bố qua mỗi tín hiệu âm thanh như tiếng dế rằng nước Mỹ đang tụt hậu trong cuộc cạnh tranh địa chính trị vô cùng quan trọng. Chúng ta không thấy những dòng sông dollar chảy cuồn cuộn ra nước ngoài hàng tháng – khoảng 28 tỷ dollar – để phục vụ cơn nghiện dầu của chính mình. Khí CO2 loài người thải ra bầu khí quyển tính từ thời kỳ Cách mạng Công nghiệp và tăng vọt trong hai thập kỷ gần đây là một loại khí mà chúng ta không thể nhìn thấy, chạm vào hay ngửi được.
Đúng là không khó để nhận thấy bốn thách thức lớn. Nhưng trong những năm gần đây, nước Mỹ đã bị xao lãng, đúng hơn là bị chi phối bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong 80 năm qua. Không có gì đáng ngạc nhiên khi người Mỹ chỉ quan tâm đến tình trạng kinh tế trước mắt của họ. Thực trạng kinh tế thật khắc nghiệt: Trong cuộc khủng hoảng, các hộ gia đình Mỹ đã mất khoảng 10 nghìn tỷ dollar. Quy mô nền kinh tế Mỹ giảm trong khoảng
50 từng là bá chủ
thời gian có hơn một năm. Thất nghiệp tăng lên 9% (và nếu tính cả những người quá chán nản, không muốn tìm việc thì con số này còn cao hơn nhiều). Có một điểm khác biệt cơ bản giữa khủng hoảng kinh tế và bốn thách thức dài hạn mà nước Mỹ phải đối mặt. Cuộc khủng hoảng sâu từ cuối năm 2007 đến năm 2009 là cái mà các nhà kinh tế học gọi là “hiện tượng xảy ra theo chu kỳ”. Khủng hoảng sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm xuống dưới mức tiềm năng. Nhưng sau cùng, nền kinh tế cũng như cả quốc gia sẽ phục hồi. Trái lại, bốn thách thức lớn kia sẽ quyết định tiềm năng của nền kinh tế. Khủng hoảng giống như một trận ốm, có thể làm con người bị suy nhược trong một tuần, một tháng, thậm chí một năm. Nhưng bốn thách thức lại giống như căn bệnh kinh niên. Chúng mới là những yếu tố quyết định tuổi thọ và sức khỏe suốt đời của con người. Tương tự, cách thức chúng ta đối phó với những thách thức lớn này sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của người Mỹ trong
những thập kỷ tới. Và chúng ta hành động chậm chạp hơn chúng ta nghĩ. Vài năm trước, các thành viên hâm mộ câu lạc bộ bóng chày Chicago Cubs – giành chức vô địch lần cuối là vào năm 1908 – đã cùng mặc áo phông in khẩu hiệu: “Đội bóng nào cũng có thể có một thế kỷ tồi tệ”. Các quốc gia cũng thế. Trung Quốc có ba thế kỷ tồi tệ từ năm 1644 đến 1980. Nếu chúng ta không giải quyết bốn thách thức chúng ta đang đối mặt thì có thể thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ tồi tệ của chúng ta.
Thất bại không phải là thứ không thể tránh được. Quay lại quá khứ, phát triển ngay trong thế kỷ này, giữ gìn giấc mơ Mỹ và vai trò của Mỹ trên trường quốc tế là những việc đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách thích hợp để đối phó với bốn thách thức lớn. Để làm được điều đó thì có hai tiên đề cơ bản. Thứ nhất là phải nhận biết được các thách thức – chúng ta còn chậm chạp trong việc này. Thứ hai là phải nhớ lại chúng ta đã xây dựng sức mạnh để đối phó với thách thức tương tự trong quá khứ như thế nào. Như Bill Gates đã nói với chúng tôi: “Những thứ tốt đẹp chúng ta từng có mà các nước khác phải bắt chước là gì?” Câu trả lời chính là nội dung của chương tiếp theo.
Lờ đi những rắc rối 51
BA
Lờ đi lịch sử
Ngày 5/1/2011, phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa 112. Hạ viện bắt đầu làm việc bằng cách đọc Hiến pháp Mỹ. Ý tưởng này xuất phát từ những người thuộc phong trào Tea Party – một phong trào cộng đồng ủng hộ các ứng cử viên đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 2010, giúp họ giành thắng lợi và đảng Cộng hòa nắm được quyền kiểm soát Hạ viện. Các thành viên của phe đa số mới muốn nhấn mạnh một điều rằng họ có mặt ở Washington là để thực thi trần chi tiêu ngân sách cũng như quyền lực chung của chính phủ liên bang. Theo họ, chính phủ liên bang đã đi quá xa so với quy định về quyền lực dành cho chính phủ được ghi trong Hiến pháp. Các nhà sử học cho biết đây là lần đầu tiên Hiến pháp Mỹ – được hoàn thành vào năm 1787 – được đọc toàn văn trước Hạ viện.
Hiến pháp chính là cơ sở của đời sống chính trị và kinh tế Mỹ trong gần 225 năm. Trong khoảng thời gian này, nước Mỹ từ chỗ là tập hợp của những thành phố nhỏ, thị trấn, làng mạc, trang trại dọc bờ biển miền Đông đã phát triển lên thành một lục địa siêu cường với nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với lịch sử hào hùng nước Mỹ có được, Hiến pháp xứng đáng giành được sự kính trọng đáng kể.
Nhưng ngay cả sự kính trọng đối với Hiến pháp cũng đã đi quá xa. Cựu nghị sỹ Cộng hòa bảo thủ Bob Inglis của bang South Carolina đã thất bại trước đối thủ cạnh tranh được phong trào Tea Party ủng hộ trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 2010. Ông kể cho chúng tôi rằng ông đã có buổi nói chuyện với các thành viên nhóm Tea Party ở thư viện hạt Greenville, South Carolina vài tuần trước cuộc bầu cử sơ bộ. “Sau khoảng nửa giờ và nửa chương trình trôi qua, một người ở tuổi trung niên đứng dậy đặt câu hỏi. Anh ta tự giới thiệu mình làm nghề bảo vệ ban đêm. Anh rút từ trong túi áo ra một cuốn Hiến pháp, vẫy vẫy trong không khí và hỏi: tôi có bỏ phiếu bác bỏ mọi tiền lệ pháp và quay về chỉ ‘cái này’ – Hiến pháp không”.
52 từng là bá chủ
“Không”, tôi trả lời. Đám đông la ó huýt sáo, còn anh bảo vệ lắc đầu với vẻ phẫn nộ: “Được rồi, ông cứ suy nghĩ đi”. Tôi rút điện thoại ra khỏi vỏ bao, giơ lên và nói: “Hiến pháp không đề cập gì đến điện thoại di động, nhưng có rất nhiều vụ kiện, nhiều điều luật liên quan, điều chỉnh việc sử dụng vật này. Nếu chúng ta bác bỏ hết chúng thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có điện thoại di động để dùng”. Rồi tôi giải thích rằng nếu không có phán quyết của thẩm phán Green trong vụ chia tách hãng viễn thông AT&T thì chúng ta sẽ không có điện thoại di động, và sẽ vẫn phải trả mức cước phí cắt cổ cho những cuộc gọi đường dài”. Inglis cho biết rõ ràng ông không gây được ấn tượng gì cũng như chẳng thuyết phục được anh chàng đặt câu hỏi kia.
Chính những người phác họa ra Hiến pháp cũng biết rằng văn bản mà họ làm ra – thông qua quá trình thỏa thuận kéo dài và đôi khi rất khó khăn – là cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ để bảo đảm tương lai đất nước. Và đương nhiên nó chưa bao giờ là yếu tố duy nhất quyết định số phận nước Mỹ. Chúng ta phải dựa vào nhiều thứ hơn thế: không chỉ một văn bản mà còn là một loạt những biện pháp nhằm xây dựng đất nước thịnh vượng, khởi đầu từ thời lập quốc và được cập nhật, ứng dụng liên tục đến tận ngày nay. Chúng ta gọi đó là “công thức kiểu Mỹ”. Mặc dù chúng ta thấy rõ ràng nó rất quan trọng, nhưng ngày nay điều đó không còn rõ ràng nữa. Mỹ đã không còn nhìn thấy nguồn sức mạnh truyền thống đúng lúc chúng ta cần nâng cao sức mạnh ấy. Nước Mỹ sẽ không có một cơ hội nào – hoàn toàn không – để có thể giải quyết được những thách thức lớn hiện nay nếu không thay mới, phục hồi, tái đầu tư vào công thức cũ. Nhưng chúng ta lại để nó bị xói mòn trên mọi khía cạnh suốt hai thập kỷ qua.
Tình hình hiện tại càng đặc biệt xấu khi Mỹ phải giảm mạnh chi tiêu công trong những năm tới vì ngân sách đang thâm hụt trầm trọng. Trong thời kỳ phải cắt giảm chi tiêu, chúng ta sẽ rất dễ không đầu tư đầy đủ vào công thức thành công truyền thống, đã được thời gian kiểm chứng. Chúng ta đang có nguy cơ rơi vào tình trạng đó. Lược sử công thức kiểu Mỹ đã chứng minh rõ tại sao.
Năm trụ cột của sự thịnh vượng
Trong kinh doanh có câu cách ngôn: “Anh sẽ nổi lên khi thời thế thay đổi”. Có nghĩa là khi thị trường biến động mạnh thì công ty giỏi nhất sẽ giành được thị phần và tạo ra được khoảng cách lớn giữa họ và các đối thủ cạnh tranh
Lờ đi lịch sử 53
vì họ có tầm nhìn, có phẩm chất linh hoạt giúp họ biết được đâu là những thay đổi cơ bản và tiến lên phía trước trong khi các đối thủ cạnh tranh đơn giản là bị chôn vùi. Có nghĩa là họ có công thức thành công. Các quốc gia thường gặp phải những thách thức giống nhau. Nếu nước Mỹ là một công ty thì theo ngôn ngữ của các nhà phân tích tài chính ở Wall Street, Mỹ có thành tích làm ăn rất tốt. Quốc gia này vẫn thịnh vượng qua mọi thăng trầm trong lịch sử với nhiều thay đổi trong công nghệ và trong chuẩn mực xã hội. Mỹ đã tạo nên một nền kinh tế, một nền dân chủ mạnh mẽ nhất thế giới chính bởi vì trong mọi bước ngoặt của lịch sử kể từ khi lập nước, chúng ta đã áp dụng công thức thành công của riêng mình.
Trong công thức ấy có năm trụ cột, cùng tạo nên phiên bản riêng của nước Mỹ về sự hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư nhân để thúc đẩy kinh tế phát triển. Trụ cột thứ nhất là phải làm cho ngày càng nhiều người được tiếp cận với giáo dục. Với sự tiến bộ công nghệ liên tục, Mỹ phải giúp người dân sẵn sàng khai thác những ý tưởng mới – từ máy kéo sợi, tàu hơi nước đến dây chuyền lắp ráp, máy tính xách tay, Internet.
Trụ cột thứ hai là xây dựng và liên tục hiện đại hóa cơ sở hạ tầng – đường sá, cầu cảng, sân bay, băng thông, đường cáp quang, mạng không dây – để người lao động và các doanh nghiệp Mỹ có thể giao tiếp, hợp tác với nhau một cách hiệu quả, giao nhận hàng hóa và dịch vụ nhanh và rẻ đến người tiêu dùng. Tính từ kênh đào Erie từ 1817 đến 1825, chính quyền các cấp ở Mỹ liên tục bỏ tiền ra xây dựng các công trình hạ tầng cần thiết để thương mại phát triển.
Trụ cột thứ ba là trừ một vài khoảng thời gian ngoại lệ, nước Mỹ luôn mở rộng cửa với người nhập cư, nhờ đó chúng ta luôn được bổ sung một lực lượng lao động tuy trình độ thấp nhưng lại rất chăm chỉ làm việc, tiếp thêm năng lượng cho xã hội Mỹ, Ngoài ra còn có những bộ óc xuất sắc nhất đến với các trường đại học Mỹ, hoặc mở công ty mới, hoặc thực hiện những giải pháp đột phá mới nhất trong nhiều lĩnh vực từ y sinh học đến chế tạo.
Trụ cột thứ tư là sự hỗ trợ của chính phủ đối với nghiên cứu và triển khai khoa học cơ bản. Những hoạt động này không chỉ làm tăng kiến thức cho con người thông qua việc mở rộng biên giới của hóa học, sinh học, vật lý cơ bản mà còn sinh ra các sản phẩm, dây chuyền công nghệ mới, giúp các công ty và người lao động Mỹ có thu nhập cao hơn. Với nền kinh tế Mỹ, để tiếp tục tăng trưởng trong thời đại thông tin này, khi mà các sáng kiến cải tiến có giá trị kinh tế cao chưa từng thấy, thì nghiên cứu khoa học trong mọi lĩnh vực càng đóng vai trò sống còn hơn bao giờ hết.
54 từng là bá chủ
Trụ cột thứ năm là nhà nước phải thực thi các quy định cần thiết để quản lý hoạt động kinh tế khối tư nhân. Nhiệm vụ này bao gồm cả việc ngăn chặn sự sụp đổ về tài chính, hủy hoại môi trường, quản lý và khuyến khích đầu tư vào trong nước, định hướng các nhà phát minh sao cho họ phải đến Mỹ để đăng ký bằng sáng chế và quyền sở hữu trí tuệ – vì họ biết ở đây bằng sáng chế và quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ – và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ, các nhà đầu tư mạo hiểm đến khởi nghiệp ở Mỹ.
Trong suốt lịch sử nước Mỹ, năm trụ cột này đã giúp người Mỹ biến nghị lực, tài năng và tinh thần kinh doanh của mình thành động lực để giúp chính bản thân mình cũng như cả đất nước được giàu có, hùng mạnh hơn. Khi kết hợp với nhau, năm trụ cột đã làm nên một công thức cho sự thịnh vượng rất độc đáo, chỉ có ở nước Mỹ và nhờ chúng mà chính phủ Mỹ xây dựng được nền tảng để khu vực tư nhân có thể chấp nhận rủi ro và thực hành sáng tạo. Công thức thành công ấy đã đem lại mức sống ngày càng cao cho người dân Mỹ trong suốt hai thế kỷ. Vì vậy, Mỹ cũng là nơi có sức thu hút lớn nhất với tất cả những ai đang nuôi dưỡng ước mơ trên khắp thế giới.
Những người làm nên công thức
Trong gần 235 năm, nước Mỹ đã thành công trong việc sinh ra những vị lãnh tụ nhận thức được rằng chúng ta đang bước vào khúc ngoặt quan trọng, chỉ ra được những thách thức trước mắt, giúp mọi người hiểu điều gì đang diễn ra, và tập hợp cả xã hội để thực thi những chính sách cần thiết nhằm làm cho công thức của nước Mỹ ngày càng tốt hơn nữa, đáp ứng được những thách thức mới. Và đây là một hình mẫu trong số những người làm nên công thức thành công hàng đầu của chúng ta.
Cha đẻ của mô hình hợp tác công tư ở Mỹ chính là bộ trưởng tài chính đầu tiên: Alexander Hamilton. Hamilton đã nhận thấy sự cần thiết phải có một chính phủ nhỏ nhưng hùng mạnh và tích cực, chủ động. Như nhà viết tiểu sử Ron Chernow đã viết, chúng ta đang sống “trong một thế giới sôi động của những hoạt động thương mại, công nghiệp, thị trường chứng khoán và ngân hàng mà Hamilton đã từng dự đoán”. Ông là người xây dựng nên ngân sách, hệ thống thuế, các khoản nợ dài hạn, dịch vụ hải quan và lực lượng bảo vệ bờ biển. Ông khuyến khích phát triển ngành chế tạo, và sau khi mãn nhiệm, ông vạch ra kế hoạch về lực lượng quốc phòng thời bình của nước Mỹ. Lực lượng này không hề phải ra trận cho đến sau Thế chiến thứ hai. Mặc
Lờ đi lịch sử 55
dù Hamilton đã qua đời, không thể chứng kiến sự phát triển của nước Mỹ, nhưng công thức năm trụ cột hợp tác công tư xuất hiện ở Mỹ trong nhiều năm chính là nguồn gốc trực tiếp từ tư duy, tầm nhìn của Hamilton từ cuối thế kỷ 18. Ông đã nhận thấy những đặc điểm của nước Mỹ, và ông cũng hiểu rằng vai trò của chính phủ là tạo điều kiện cho sự thịnh vượng.
Từ thời những người sáng lập đất nước, chính phủ đã luôn tạo điều kiện cho giáo dục công. Trước khi qua đời ngày 4/7/1826, Thomas Jefferson yêu cầu khắc lên bia mộ ba thành tựu của đời ông, đó là viết Tuyên ngôn độc lập, chấp bút Đạo luật Tự do tín ngưỡng Virginia và thành lập Đại học Virginia. Nhưng khác với các nước công nghiệp lớn khác, chính phủ liên bang Mỹ chưa bao giờ chịu trách nhiệm chính về giáo dục ở cấp sau trung học cơ sở. Đây là nhiệm vụ của mỗi bang và các hạt địa phương. Các trường học địa phương lấy nguồn kinh phí từ thuế tài sản, thuế liên bang và tiền từ ngân sách liên bang. Sự kết hợp các nguồn hỗ trợ khác nhau của chính phủ đã đưa giáo dục ở Mỹ từ một dịch vụ cao cấp trở thành quyền lợi chung cho mọi người. Trong cuốn sách Cuộc chạy đua giữa giáo dục và công nghệ (The Race Between Education and Technology), hai tác giả Claudia Goldin và Lawrance Katz thuộc Đại học Harvard đã nhận xét rằng nhờ giáo dục tiểu học được mở rộng liên tục, tiếp đó là sự phát triển của giáo dục trung học phổ thông rồi đến cao đẳng hai năm và đại học bốn năm, “từng thế hệ người Mỹ đã đạt được trình độ giáo dục vượt xa thế hệ trước họ – thể hiện ở thời gian đi học của một người bình thường sẽ nhiều hơn số thời gian đi học của bố mẹ anh ta một năm”. Kết quả là chênh lệch về nguồn lực, thành tích trong giáo dục và tác động kinh tế mà giáo dục mang lại cho các cộng đồng thuộc chủng tộc, tôn giáo khác nhau đã thu hẹp lại rõ rệt.
Khi bắt đầu thế kỷ 20, chỉ có 6% thanh thiếu niên Mỹ học hết trung học. Nhưng đến cuối thế kỷ con số này đã lên tới 85%. Theo thống kê của Bộ Giáo dục, vào đầu thế kỷ, chỉ có 2% người Mỹ trong độ tuổi từ 18 đến 24 được vào học cao đẳng hoặc đại học, đến cuối thế kỷ đã có 63% trong số họ tiếp tục theo học lên cao hơn sau khi tốt nghiệp phổ thông. Goldin và Katz cho rằng sự đầu tư vào giáo dục phổ thông của Mỹ đã đem lại kết quả to lớn: vừa giảm bất công bằng về thu nhập, vừa đảm bảo người lao động Mỹ thích ứng được với những tiến bộ công nghệ mới.
Tất nhiên, người ta biết đến Abraham Lincoln nhiều nhất vì ông là tổng thống Mỹ trong thời gian nội chiến, nhưng trong suốt thời gian đó, chính phủ của ông cũng đã thông qua nhiều đạo luật mang tính bước ngoặt, thúc
56 từng là bá chủ
đẩy quá trình biến Mỹ từ một xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Một trong số đó là Đạo luật Cấp đất 1862, theo đó bất cứ ai không tham gia chiến đấu chống phe Liên minh đều được cấp đất định cư ở miền Tây. Ngoài ra còn có Đạo luật Đường sắt Thái Bình Dương năm 1862 và 1864 với hệ thống đường sắt nối hai miền Đông Tây của đất nước, tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc gia. Thứ ba là Đạo luật Morrill năm 1862 quy định cấp đất cho một loạt các trường đại học, nhờ đó các cơ sở đào tạo đại học phát triển mạnh mẽ từ Georgia đến California, từ Minnesota đến Texas. Các bang được cấp đất liên bang để xây trường đại học hoặc dạy nghề cho sinh viên trong các lĩnh vực nông nghiệp, khoa học, kỹ thuật cũng như nhiều kỹ năng khác mà đất nước cần. Lincoln còn ký quyết định thành lập Viện Khoa học Quốc gia vào ngày 3/3/1863. Đây là nơi tập hợp những nhà nghiên cứu hàng đầu nước Mỹ để “tìm hiểu, kiểm tra, thử nghiệm và báo cáo về mọi lĩnh vực khoa học hay nghệ thuật” khi được chính phủ yêu cầu. Điều đáng chú ý là tất cả những dấu mốc này đều xuất hiện trong thời kỳ nước Mỹ tiến hành nội chiến.
Theodore Roosevelt có một vị trí chắc chắn trên đỉnh núi Rushmore* chủ yếu vì ông đã đóng góp vào công thức thành công của nước Mỹ. Kinh nghiệm khi làm cảnh sát trưởng thành phố New York, người đứng đầu cơ quan Dịch vụ dân sự và thống đốc bang New York giúp ông hiểu rằng để doanh nghiệp phát triển được thì cần có các quy định nhất quán và minh bạch, đồng thời những người thực thi chính sách phải ngăn chặn được các hành vi lạm dụng và đảm bảo các công ty hoạt động có trách nhiệm. Khi làm tổng thống, ông thành lập những công ty độc quyền lớn nhằm khuyến khích tự do cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp Mỹ thường không hài lòng với các quy định, điều luật mà Roosevelt ủng hộ, nhưng có lẽ môi trường cạnh tranh, minh bạch và lòng tin của công chúng do chính ông tạo ra đã đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hơn cho bất cứ nhóm người nào khác. Tư duy của ông về vai trò sống còn của chính phủ là điều tiết thị trường, bảo vệ sức khỏe và an ninh cho người dân – đó là chưa nhắc đến bảo vệ môi trường hoang dã – chính là nền tảng của Kỷ nguyên tiến bộ** của nước Mỹ.
* Tác phẩm điêu khắc trên đá trên đỉnh núi Rushmore, thể hiện chân dung của bốn tổng thống Mỹ là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln.
** Thời kỳ diễn ra các phong trào xã hội và cải cách chính trị ở Mỹ (1890 – 1920) với các hoạt động như chống tham nhũng, trao quyền bầu cử cho phụ nữ, hiện đại hóa công nghiệp, phát triển khoa học công nghệ…
Lờ đi lịch sử 57
Năm 1907, ngay sau năm cuối cùng trong nhiệm kỳ tổng thống của Roosevelt, có 1.285.349 người từ nhiều nước khác nhau nhập cư đến Mỹ – là năm có số người nhập cư nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ tính đến thời điểm đó. Mỹ luôn là quốc gia của người nhập cư kể từ thời những người Âu đầu tiên đến cư trú ở nơi hiện là bang Virginia và Massachusetts. Trong nửa đầu thế kỷ 19, phần lớn người nhập cư đến từ Bắc Âu. Vào nửa sau thế kỷ 19 và những thập niên đầu thế kỷ 20, rất nhiều người nhập cư có gốc gác ở Nam và Đông Âu. Mỹ trở thành cường quốc công nghiệp sau nội chiến nhờ lợi dụng tăng trưởng dân số nhanh do nhập cư. Rất nhiều người làm việc cho các nhà máy hoặc trong các mỏ than cung cấp năng lượng cho các nhà máy đó là người gốc Âu.
Franklin D. Roosevelt với Chính sách Kinh tế mới đã xây dựng nên các con đập, đê điều, đường sá, công viên, sân bay, nhà máy điện, hồ chứa nước, đường hầm, hội trường, trường học và thư viện công cộng. Những dự án chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và giáo dục đã khiến nền kinh tế Mỹ tăng trưởng vượt bậc trong suốt thời kỳ Đại Khủng hoảng, Thế chiến thứ hai và nhiều năm sau đó. Với Đạo luật Chứng khoán năm 1933, thường được gọi là luật “chứng khoán trung thực” và các quy định tái kiểm soát hệ thống ngân hàng, FDR đã ổn định tình hình tài chính trong nước. Đồng thời các biện pháp của ông cũng đã cứu chủ nghĩa tư bản ở Mỹ. Ngoài ra, khi giới thiệu hệ thống an sinh xã hội và chương trình bảo hiểm thất nghiệp trong một chương trình Trò chuyện bên lò sưởi* năm 1935, ông đã đặt nền tảng cho hệ thống an sinh xã hội Mỹ mà bản thân nó chính là một phương thức bảo vệ gián tiếp cho chủ nghĩa tư bản. Môi trường cạnh tranh là đặc tính cốt lõi của thị trường tự do, nó tạo ra cả kẻ thắng lẫn người thua. Quá trình “hủy diệt mang tính sáng tạo” này quan trọng với chủ nghĩa tư bản chính ở chỗ đó – sáng tạo và hủy diệt – và sự hủy diệt không thể tiếp tục diễn ra nếu không có hệ thống an sinh xã hội để bảo vệ những người thất bại. Nếu thiếu nó, những người thất bại sẽ tìm cách lật đổ chính hệ thống giúp nước Mỹ trở nên giàu có. Cuộc tranh luận xem chính sách bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế nên hào phóng đến mức nào là cần thiết. Nhưng khi tham gia tranh luận, người Mỹ cũng cần nhớ rằng chính mạng lưới an sinh xã hội này đã giúp nền kinh tế thị trường tự do tồn tại được một cách hợp lý và bền vững.
Mặc dù FDR không mở rộng cửa cho người nhập cư – chính sách này đã * Chuỗi 30 bài phát biểu trên đài phát thanh của tổng thống Roosevelt từ năm 1933 đến 1944.
58 từng là bá chủ
bị thu hẹp kể từ thập niên 1920 – nhưng trong nửa cuối thập niên 1930, hàng nghìn người châu Âu, trong đó có rất nhiều người Do Thái vẫn tìm đường đến Mỹ để tị nạn, tránh mối đe dọa từ Đức Quốc xã. Trong số họ có nhiều nhà khoa học, vật lý, nhiều tác gia, nghệ sỹ, nhà soạn nhạc, nhà sử học và học giả xuất sắc. “Làn sóng trí tuệ” mà đại diện là Albert Einstein đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình dịch chuyển vị trí đi đầu về tri thức từ châu Âu sang Mỹ.
Chính phủ của người kế nhiệm FDR là Harry Truman đã ban hành Đạo luật Phục viên 1944, hay còn gọi là Đạo luật GI, trong đó quy định cựu binh Thế chiến thứ hai được chính phủ hỗ trợ học phí đại học hoặc đào tạo nghề. (Sau Thế chiến thứ nhất, phần lớn cựu chiến binh chỉ được cấp vé tàu về nhà và số tiền khoảng hơn 60 USD). Theo trang web của Bộ Cựu chiến binh:
Nhờ Đạo luật GI mà hàng triệu người đáng lẽ sẽ tràn vào thị trường lao động đã lựa chọn con đường đi học. Vào năm cao điểm 1947, các cựu chiến binh chiếm đến 49% số sinh viên nhập học. Khi Đạo luật GI hết hiệu lực vào ngày 25/7/1956, đã có 7,8 trong số 16 triệu cựu chiến binh Thế chiến thứ hai được học đại học hoặc học nghề. Hàng triệu người cũng đã được bảo lãnh vay tiền mua nhà theo Đạo luật GI. Từ năm 1944 đến 1952, Bộ Cựu chiến binh đã bảo lãnh gần 2,4 triệu khoản vay mua nhà cho các cựu binh Thế chiến thứ hai.
Ngoài ra, dưới thời Truman, Mỹ còn thành lập Quỹ Khoa học nhà nước vào năm 1950. Hàng năm, thông qua quỹ này, chính phủ liên bang đã phân bổ hàng tỷ dollar cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Người kế nhiệm Truman là Dwight Eisenhower thường được mô tả một cách hài hước là một vị tướng về hưu thích chơi golf hơn là làm chính sách. Nhưng thực tế, đóng góp của ông vào công thức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Mỹ là rất vĩ đại. Ông làm điều đó dựa trên mối quan hệ giữa chính phủ và khoa học trong suốt Thế chiến thứ hai, nhờ đó Mỹ đã tạo ra được những quả bom nguyên tử đầu tiên. Ông cũng tận dụng được sự kiện Liên Xô phóng vệ tinh quỹ đạo trái đất đầu tiên, Sputnik 1 vào năm 1957 để khiến cả nước Mỹ phải thức tỉnh. Giờ thì chúng ta đã quên Sputnik đã kích động, thách thức người Mỹ thế nào và tại sao nó buộc chúng ta phải cập nhật công thức thành công một cách hăng hái như vậy.
Chỉ trong vòng một năm sau khi Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Giáo dục quốc phòng quốc gia, mục đích là tạo điều kiện cho việc học khoa học, ngoại ngữ, lịch sử, chính trị và kinh tế các
Lờ đi lịch sử 59
nước khác. Để thúc đẩy nghiên cứu và sáng tạo trong lĩnh vực quốc phòng, chính phủ thành lập Cơ quan Dự án nghiên cứu cao cấp, sau này là Cơ quan Dự án nghiên cứu quốc phòng cao cấp. Trong nhiều năm, cơ quan này góp phần vào sự ra đời của tên lửa Saturn V – là tên lửa đã đưa các phi hành gia trong chương trình Apollo lên mặt trăng. Ngoài ra họ còn tạo ra vệ tinh do thám đầu tiên trên thế giới, mạng lưới nghiên cứu là tiền thân của Internet ngày nay, các loại vật liệu mới được sử dụng trong mạch tích hợp tốc độ cao và con chuột máy tính.
Eisenhower rất ấn tượng với mạng lưới đường sá ở Đức nên ông cũng để lại cho nước Mỹ cơ sở hạ tầng đồ sộ. Ông được mọi người ủng hộ xây dựng hệ thống đường cao tốc xuyên bang nhờ lập luận rằng nó rất cần thiết để vận chuyển trang thiết bị, nhân lực và hậu cần cho quân đội một cách hiệu quả hơn nếu có chiến tranh với Liên Xô. Ngày nay, bạn có thể tải từ Internet một bài hát có tên “Eisenhower là cha đẻ của hệ thống đường cao tốc xuyên bang” về làm chuông điện thoại.
Eisenhower bảo vệ rất quyết liệt cho giới nhập cư, với quan điểm đó là trách nhiệm trước những người tị nạn chính trị hơn là chiến lược nhập khẩu thêm chất xám. Nhưng cả hai ảnh hưởng này đều có. Trong Thông điệp Liên bang ngày 12/01/1961, ông cho biết:
Hơn 32.000 nạn nhân của chế độ chuyên chế ở Hungary đã cập bờ biển nước Mỹ, và vào thời điểm này đất nước chúng ta cũng đang hỗ trợ người tỵ nạn Cuba. Từ năm 1953, thời gian mà những người xin nhập quốc tịch phải chờ đợi đã giảm từ 18 tháng xuống 45 ngày. Chính phủ cũng đã đưa ra một số đề xuất để tháo gỡ những khó khăn mà người nhập cư đang gặp phải, đồng thời vẫn đảm bảo bảo vệ được lợi ích quốc gia. Chính sách nhập cư nhất định phải là một phần trong truyền thống tốt đẹp nhất của nước Mỹ, đó là cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho những người bị áp bức, và nó hoàn toàn phù hợp với trách nhiệm đứng đầu thế giới tự do của chúng ta.
Vài năm sau, dưới thời Tổng thống Lyndon Johnson, trụ cột nhập cư trong công thức thành công của chúng ta còn được củng cố hơn khi Quốc hội nới lỏng các điều luật từng hạn chế nghiêm ngặt người nhập cư từ châu Á. Đạo luật Nhập cư và quốc tịch 1965 đã mở cửa cho một con số khổng lồ lao động tri thức nhập cư từ Ấn Độ. Hiện nay, ở Mỹ đang có gần ba triệu người nhập cư gốc Ấn, rất nhiều người trong số họ là nhà khoa học, bác sỹ, học giả, đóng góp đáng kể vào giới tri thức Mỹ. Theo Subra Suresh, đương kim giám đốc Quỹ Khoa học Quốc gia thì: “Vào thập niên 1970, khoảng 80% số kỹ sư tốt
60 từng là bá chủ
nghiệp Học viện Công nghệ Ấn Độ (ITT) đến Mỹ để học sau đại học và làm nghiên cứu, đại đa số đã trở thành công dân Mỹ”. Chính Subra cũng là một trong số các sinh viên đó. Nhiều người trong số họ cũng trở thành lãnh đạo các học viện, ngành, cơ sở thí nghiệm của nhà nước và doanh nghiệp mới ở Mỹ. Đến năm 2009, chỉ có khoảng 16% sinh viên tốt nghiệp IIT đến Mỹ để học tập và nghiên cứu sau đại học. Subra, người trước đây cũng đã từng làm trưởng Khoa Công trình của Học viện Công nghệ Massachusett (MIT), cho biết thêm: “Nếu xu hướng này vẫn tiếp tục ở IIT và các trường cùng ngành ở nhiều nước khác thì sẽ tác động rất lớn lên hoạt động nghiên cứu ở các doanh nghiệp Mỹ. Hơn 40% trong số 375 giảng viên của Trường Kỹ thuật thuộc MIT là người nước ngoài”.
Chính phủ chịu trách nhiệm cung cấp ba trong số năm trụ cột trong công thức thành công của nước Mỹ gồm giáo dục, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và triển khai nhờ tiền thuế thu được. Trụ cột thứ tư – nhập cư – có được nhờ các đạo luật do Quốc hội ban hành. Còn trụ cột thứ năm không liên quan đến tiền mà liên quan đến quyền lực của chính phủ.
Các quy định kiểm soát nền kinh tế của chính phủ có vẻ như đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của thị trường tự do. Tương tự như mạng lưới an sinh xã hội, kiểm soát nền kinh tế đến mức độ nào là chủ đề vẫn đang gây tranh cãi. Và cũng như Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế đang ngày càng trở nên tốn kém, với hình thức hiện tại thì đất nước khó mà chi trả được, các quy định quản lý kinh tế cũng đang ngày càng trở nên phức tạp hơn mức cần thiết để tạo điều kiện cho kinh tế Mỹ phát triển lành mạnh.
Tổng thống Obama cũng thừa nhận như vậy khi tuyên bố trên Tạp chí Wall Street (ngày 18/01/2011) rằng ông đang yêu cầu “toàn bộ chính phủ phải xem xét lại các điều luật hiện có để loại bỏ những quy định đã lỗi thời, cản trở quá trình tạo việc làm mới và giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Tuy nhiên, cũng như mạng lưới an sinh xã hội, loại bỏ bớt các quy định liên quan đến môi trường kinh doanh là một việc làm sáng suốt, nhưng nếu xóa bỏ hoàn toàn các quy định thì lại hết sức dại dột.
Thị trường không phải khu vườn hoang, có thể để tự do phát triển. Nó cần được định hướng thông qua các quy định, mục tiêu là khuyến khích người kinh doanh chấp nhận rủi ro, nhưng phải hạn chế những việc làm thiếu thận trọng, liều lĩnh ở quy mô lớn, có thể gây tổn hại cho xã hội. Sự cần thiết của các chính sách kiểm soát của chính phủ bắt nguồn từ một đặc điểm tất yếu của thị trường tự do: đó là “ngoại ứng” – theo thuật ngữ của các nhà kinh tế
Lờ đi lịch sử 61
học. Đó là chi phí phát sinh từ những hoạt động trên thị trường tự do nhưng không được phản ánh trong giá cả, tức là không cá nhân nào phải trả những khoản chi phí này, vì vậy cả xã hội phải gánh chịu. Để khắc phục nhược điểm của thị trường, cần sự có mặt của chính phủ để đảm bảo bằng cách nào đó, có người sẽ phải chịu gần như toàn bộ chi phí mà một hoạt động kinh tế gây ra. Có thể làm được bằng cách chính phủ kiểm soát các hoạt động gây ra chi phí cho xã hội hoặc đánh thuế. Một ví dụ về ngoại ứng quen thuộc, thường gặp là chất thải do các hoạt động sản xuất công nghiệp tạo ra, gây ô nhiễm không khí mà mọi người đang hít thở hoặc ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Khi chính phủ nhận thấy tính nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường, họ đã thành lập một cơ quan cấp liên bang, chính là Cục Bảo vệ Môi trường ra đời năm 1970 dưới thời Tổng thống Richard Nixon.
Các quy định và tiêu chuẩn thông minh thường ra đời sau khi tham vấn giới doanh nghiệp và chúng có tác dụng khuyến khích đầu tư và sáng tạo. Ví dụ, khi chính phủ Mỹ đặt tiêu chuẩn sử dụng năng lượng cao đối với thiết bị điều hòa không khí, tất cả các hãng sản xuất điều hòa không khí phải tìm cách thay đổi để đáp ứng được tiêu chuẩn mới và từ đó có thể cạnh tranh một cách hiệu quả trên thị trường thế giới. Ngược lại, khi chúng ta hạ thấp tiêu chuẩn thì có nghĩa là chúng ta đang tăng khả năng cạnh tranh cho các công ty giá rẻ trên khắp thế giới.
Đồng thời, các quy định và các cơ quan quản lý còn là nền tảng quan trọng để tạo niềm tin và niềm tin khuyến khích sáng tạo và chấp nhận rủi ro. Sự ra đời của Ủy ban Chứng khoán và Ngoại hối năm 1934 đã nâng cao tầm quan trọng của thị trường chứng khoán New York vì nó giúp thị trường gặp ít rủi ro hơn. Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) được thành lập theo Đạo luật Ngân hàng năm 1933 đã làm giảm đáng kể nguy cơ vỡ nợ ngân hàng, ngoài ra tính ổn định của FDIC cũng giúp Mỹ thu hút được vốn từ khắp nơi trên thế giới. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ có hiệu lực vào năm 1994 đã tạo ra khung pháp lý, mở cửa cho dòng đầu tư và thương mại khổng lồ xuyên biên giới giữa Mỹ, Mexico và Canada. Các đạo luật liên quan đến bản quyền đã bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các nhà sáng chế, thậm chí khuyến khích cả người nước ngoài cũng đăng ký bản quyền tại Mỹ vì họ biết ở đây, ý tưởng của họ sẽ không bị ăn cắp như ở Trung Quốc. Trong năm 2010, có hơn 500.000 bằng sáng chế được đăng ký tại Cục Bản quyền và Thương hiệu Mỹ, vài nghìn trong số đó là của người nước ngoài.
Đạo luật Bản quyền đầu tiên của Mỹ được ký thông qua từ thời Tổng
62 từng là bá chủ
thống George Washington, và trong hơn 200 năm tiếp sau đó, các đời tổng thống tiếp tục mở rộng việc bảo hộ mọi hình thức sở hữu trí tuệ: bản quyền, thương hiệu, bằng sáng chế. Ngày nay Cục Bản quyền và Thương hiệu Mỹ rất tự hào cho biết hơn 200 năm qua, họ đã từng cấp bằng sáng chế cho “bóng đèn điện của Thomas Edison, điện báo của Alexander Graham Bell, máy bay của Orville và Wilbur Wright, máy cày bằng sắt của John Deere, cách sử dụng tinh dầu đậu trong mỹ phẩm và sơn của George Washington Carver, máy ảnh Polaroid của Edwin Land”. Sự phát triển trong lĩnh vực cấp bằng sáng chế của Mỹ đã tạo ra một ngân hàng tri thức khoa học kỹ thuật khổng lồ với gần 80 triệu sáng chế được cấp bằng và hai triệu thương hiệu được bảo hộ kể từ khi cơ quan quản lý này ra đời.
Một lý do khiến Mỹ trở thành đất nước của những người muốn khởi nghiệp là ở Mỹ, thất bại không phải vết nhơ mãi mãi như ở châu Âu cũ kỹ. Đây là khác biệt văn hóa, nhưng cũng là một thành phần quan trọng trong công thức thành công của chúng ta: thông qua những quy định được phát triển thường xuyên để tạo điều kiện cho mọi người khởi nghiệp.
Một trong những quy định đó là luật phá sản. Bắt đầu từ thế kỷ 19, Mỹ đã thông qua các đạo luật cho phép các công ty và cá nhân được tuyên bố phá sản và bắt đầu kinh doanh lại tương đối dễ dàng. Ngân hàng có thể thanh lý tài sản của bạn để buộc bạn phải cải tổ, nhưng sau đó bạn vẫn được thử kinh doanh lần nữa. Tất nhiên hồ sơ tín dụng của bạn sẽ có vết đen trong vài năm, nhưng rồi nó sẽ biến mất. Không ai muốn khuyến khích phá sản, nhưng cũng không nhiều vụ phá sản bị coi là vết nhơ ở Mỹ – ít nhất là khi so sánh với châu Âu, nơi mà chỉ một vụ phá sản cũng bị coi như dấu vết ô nhục*, đồng nghĩa với sự nghiệp kinh doanh của bạn đã chấm dứt. Luật phá sản Mỹ chú trọng việc giúp con nợ khôi phục sự nghiệp hơn là trừng phạt họ. Người châu Âu luôn ngạc nhiên hỏi tại sao các doanh nhân ở thung lũng Silicon lại dễ dàng thử nghiệm, thất bại, tuyên bố phá sản, thử lần nữa, lại thất bại, lại thử, rồi trở nên giàu có đến như vậy. Càng dễ thất bại thì càng dễ làm lại.
Nhà sử học David Kennedy thuộc Đại học Standford lưu ý rằng tất cả những quy định đó “không nhằm mục đích tăng vai trò kiểm soát của nhà nước và hạn chế sở hữu tư nhân mà là để tạo ra sự kết hợp hợp lý giữa hai điều này”. Khi bạn củng cố thị trường bằng các điều luật, quy định, công cụ khuyến
* Nguyên văn: dấu vết của Cain (mark of Cain). Theo Kinh thánh, Cain đã giết em trai mình là Abel và bị Chúa trời đuổi đi. Chúa đánh dấu lên cơ thể Cain để cảnh báo những người khác là ai giết Cain sẽ bị Chúa báo thù.
Lờ đi lịch sử 63
khích đúng đắn thì “bạn đã tạo cơ sở để mọi người chấp nhận rủi ro nhiều hơn” – theo lời Kennedy. “Tính chất có thể dự đoán được của thị trường thực sự đem lại cho mọi người cơ hội và động lực lớn hơn để sáng tạo”.
Nền kinh tế Mỹ sẽ không thể được như ngày nay nếu không có những người chấp nhận rủi ro với động lực cực lớn như Warren Buffett, Bill Gates và Steve Jobs. Nhưng họ cũng không thể thành công nếu không có sự ủng hộ của chính phủ – một bên trong công thức thành công liên quan đến hợp tác công - tư mà chỉ Mỹ mới có.
Và đó là lý do tại sao chúng ta lo ngại.
Bí quyết thành công của chúng ta quá bí hiểm
Ở lớp học lái xe, một trong những điều đầu tiên bạn được học là không được vượt người khác khi đi đến đoạn đường ngoặt. Nhưng ở lớp lịch sử kinh tế, bạn sẽ biết rằng khúc cua chính là nơi bạn dễ bị vượt qua. Vì vậy, khi vào đoạn đường cua tốc độ cao thì phải lèo lái đất nước với tính quyết đoán hơn nhiều so với khi đi trên đường thẳng. Chiến tranh Lạnh kết thúc trùng hợp với thời kỳ nước Mỹ bước vào đoạn cua tốc độ cao nhất chúng ta từng thấy. Đoạn đường cua hình thành do sự kết hợp của hai xu hướng lớn: toàn cầu hóa và cách mạng IT. Chúng ta phải vượt lên trong đoạn cua này. Vì vậy, chúng ta phải nâng cấp, cải thiện công thức thành công của mình hơn bao giờ hết. Không may là nền chính trị của chúng ta lại đi theo con đường ngược lại.
Đảng viên đảng Cộng hòa, cựu nghị sỹ bang South Carolina là Bob Inglis có thể xác nhận điều đó. Ông nhắc lại một ví dụ sinh động: trong chiến dịch vận động tranh cử năm 2010, ông đã tổ chức một cuộc họp về dịch vụ y tế ở tòa thị chính Simpsonville, South Carolina. “Tôi đang nói về các vấn đề y tế thì một người đàn ông lớn tuổi đứng lên và nói: ‘Bảo chính phủ của ông đừng động vào bảo hiểm y tế của tôi nữa’.
Tôi trả lời: ‘Nhưng thưa ông, bảo hiểm y tế chính là chương trình của chính phủ’. ‘Phải, nhưng tôi trả tiền cho nó’ – ông ta đáp. Tôi nói: ‘Vâng, đúng là ông có trả tiền. Ông đang trả 25% phí bảo hiểm, còn chính phủ trả 75% còn lại thông qua chương trình bảo hiểm y tế B. Giờ thì ông ta chờn, ông ta nói: ‘Đúng, nhưng tôi trả tiền khi tôi đi làm’. Tôi nói: ‘Phải, ông và công ty của ông đều nộp bảo hiểm y tế với tỷ lệ là 1,45% mỗi bên tính trên bảng lương của ông’. Tôi cố tỏ ra lịch sự hết mức có thể. Ông ta vào khoảng 75 tuổi, nhìn có
64 từng là bá chủ
vẻ có sức khỏe tốt. Nên tôi nói thêm: ‘Và tôi phải nói thêm rằng chỉ cần ông nằm bệnh viện một hoặc hai lần thôi thì ông sẽ dùng hết số tiền mà ông và công ty của ông từng đóng rồi”. Ông ta tức giận ngồi xuống. Trong khái niệm của ông ta thì ông ta tự cưỡi ngựa chạy ra thảo nguyên, thuần phục cả vùng và những gì ông ta có được là hoàn toàn do nỗ lực cá nhân. Nhưng trong thâm tâm ông ta biết mình không tự làm ra mọi thứ. Ông ta phải phụ thuộc vào những người khác, và điều đó đe dọa cái tôi trong con người ông ta”.
Inglis kể tiếp: “Để thuyết phục ông ta và để thắng cử, đáng lẽ tôi phải nói ‘Tôi sẽ ngăn không cho tay xã hội chủ nghĩa đang ngồi trong Nhà Trắng kia được nhúng tay vào bảo hiểm xã hội. Mà nhân vật trong Nhà Trắng có lẽ thậm chí còn không phải công dân Mỹ và bước vào Nhà Trắng một cách bất hợp pháp’. Khi ấy tôi sẽ trở thành một vị anh hùng chính trị, nhưng tôi cũng biến các công dân thành dốt nát, không biết gì. Bi kịch hiện giờ là chúng ta có những người làm lãnh đạo nhưng lại chọn cách mặc kệ cho người dân không có thông tin, hoặc thậm chí còn khuyến khích họ trở nên ngu ngốc”.
Inglis chắc chắn đã đúng – và điều đó cũng để lại ảnh hưởng. Suzanne Mettler là giáo sư Đại học Cornell và tác giả cuốn sách Nhà nước ẩn: Những chính sách vô hình của chính phủ đã làm xói mòn nền dân chủ Mỹ như thế nào (The Submerged State: How Invisible Government Policies Undermine American Democracy). Trong bài viết ngày 20/9/2011 đăng trên báo New York Times tóm tắt nghiên cứu của mình, bà lưu ý: Đừng tin điều người ta nói là người Mỹ không ưa chính phủ. Tất nhiên, một cuộc thăm dò dư luận mới đây của ABC News/Washington Post cho thấy 56% người Mỹ nói rằng họ muốn chính phủ nhỏ hơn và ít cơ quan hơn. Các nhà hoạt động phong trào Tea Party, những công dân to mồm nhất của thời đại chúng ta, đã thổi phồng những đòi hỏi này. Tuy nhiên, thực tế là đại đa số người Mỹ vào một lúc nào đó cũng phải dựa vào các chương trình của chính phủ – và coi trọng chúng – mặc dù họ thường không nhận ra rằng chính phủ là nguồn cung cấp những hỗ trợ đó. Một cuộc thăm dò 1.400 người Mỹ của Viện Nghiên cứu thăm dò Cornell cho thấy khi mọi người được hỏi họ đã bao giờ sử dụng một chương trình xã hội nào của chính phủ chưa, 57% trả lời là chưa. Những người này sau đó được hỏi là họ đã bao giờ tận dụng chính sách nào trong 21 chính sách liên bang, bao gồm Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ lãi suất mua nhà trả góp và cho vay học tập. Hóa ra 94% những người phủ nhận đã sử dụng các chương trình của chính phủ đã được hưởng lợi từ ít nhất một chương trình; còn trung bình là bốn chương trình. Người Mỹ thường không nhận ra vai trò của chính phủ
Lờ đi lịch sử 65
trong xã hội, ngay cả nếu họ đã trải nghiệm điều đó trong cuộc đời. Nguyên nhân là vì quá nhiều những gì chính phủ làm ngày nay là vô hình”. Mettler gọi toàn bộ các chương trình, khuyến khích và trợ cấp của chính phụ – những trụ cột của mối liên hệ công tư của chúng ta – mà hầu hết công chúng không biết đến là “nhà nước ẩn”. Mọi người cảm thấy, hưởng lợi từ chính phủ, nhưng ngừng trông thấy nó, và do đó cũng ngừng đánh giá đúng những gì cần thiết để duy trì nó. Bà viết, “Ngày nay mối đe dọa đối với nền dân chủ không phải là quy mô của chính phù mà là dạng ẩn của hầu hết các sự mở rộng của nó. Nếu những người cho rằng chính phủ chưa bao giờ giúp họ có thể thấy được sự thật, điều đó có lẽ sẽ giúp làm lắng dịu không khí chính trị phân cực của chúng ta và làm sống lại vị trí của người công dân có hiểu biết”.
Trong cộng đồng doanh nghiệp chúng ta cũng có thể thấy sự ngu ngốc tương tự khi thái độ khinh thường chính phủ và các điều luật đã trở thành chuẩn mực. Làm sao có thể quên khẩu hiệu tranh cử nổi tiếng của Ronald Reagan: “Trong ngôn ngữ, những từ nghe kinh khủng nhất là: ‘Tôi là người của chính phủ và có nhiệm vụ giúp đỡ các bạn’”. Tất nhiên, mọi doanh nhân đều muốn thuế thấp hơn, ít quy định quản lý hơn. Phần lớn các công dân Mỹ cũng thế. Nhưng mỗi người trong số chúng ta đều được hưởng lợi và thực sự phụ thuộc sâu sắc vào năm trụ cột trong công thức thành công của nước Mỹ. Nếu chúng ta không nhận biết được điều đó thì một trong những nguồn sức mạnh chính của nước Mỹ sẽ bị đe dọa.
May mắn là ít nhất thì một vài nhà đầu tư và doanh nhân xuất sắc nhất của Mỹ hiểu rất rõ công thức thành công đã giúp nền kinh tế Mỹ tạo ra ngày càng nhiều của cải từ ngày càng ít nguồn lực đầu vào như thế nào. “Chúng ta phải luôn thay đổi cách thức đi đầu” – Bill Gates từng lưu ý như vậy. “Nhưng chúng ta cũng phải đặt câu hỏi: Vị trí đứng đầu này ở đâu mà ra? Đó là nhờ chúng ta đem lại giáo dục cho nhiều người hơn so với các nước khác. Và chúng ta cũng thu hút được nhiều nhân tài hơn”. Chúng ta xây dựng được cơ sở hạ tầng tốt hơn. Chúng ta cần phải quay lại tập trung vào việc “thay đổi lợi thế của mình” – như lời Bill Gates.
Jeffrey Immelt – chủ tịch kiêm tổng giám đốc điều hành General Electric, một trong những công ty tư nhân lớn nhất thế giới – đã lưu ý rằng nước Mỹ đã mắc sai lầm nguy hiểm khi tin là chính phủ có vai trò không hề tích cực trong nền kinh tế. “Chúng ta đang sai lầm khi tôn thờ vị thánh sức mạnh của thị trường tự do. Trong nhiều thế hệ qua, chính phủ Mỹ luôn đóng vai trò xúc tác cho sự thay đổi. Viện Y học Quốc gia đã tạo ra một thế hệ công nghệ
66 từng là bá chủ
chăm sóc y tế hàng đầu. Và tất cả những khoản chi tiêu cho quốc phòng đã làm ra đời ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân và Internet. “Tôi ủng hộ thị trường tự do”, Immelt nói thêm. “Tôi tin rằng lựa chọn của cá nhân và ý tưởng từ khu vực tư nhân là vô hạn. Nhưng lịch sử lâu dài của đất nước này cho thấy chính các khoản chi tiêu của chính phủ đã tạo nên nền tảng cho các ngành công nghiệp mới phát triển suốt nhiều thế hệ”. Warren Buffett cũng nhất trí với quan điểm này thông qua sự nghiệp đặc biệt thành công của ông. Ông giải thích rằng hàng tỷ dollar ông kiếm được từ hoạt động đầu tư chủ yếu là nhờ ông sống và làm việc ở nước Mỹ – một đất nước có thể chế năng động, thị trường tự do, chế độ pháp trị và công thức thành công.
“Tôi sinh ra đúng nơi và đúng thời”. Buffett phát biểu trong một cuộc phỏng vấn trên kênh ABC (ngày 28/11/2010). “Bill Gates vẫn luôn nói với tôi rằng nếu tôi được sinh ra vào thời điểm vài nghìn năm trước thì tôi sẽ trở thành bữa trưa của thú dữ rồi vì tôi không chạy nhanh được, không leo cây được. Sẽ có một con thú nào đó đuổi theo tôi, và nếu tôi bảo tôi làm nghề phân bổ vốn đầu tư thì nó sẽ trả lời: Loại ấy là ngon nhất đấy”.
John Doerr, một trong những nhà đầu tư mạo hiểm hàng đầu ở Mỹ, người đầu tư rất sớm và Netscape, Google và Amazon.com thì nói: “Bạn phải chấp nhận rủi ro khi đi vào đoạn đường cua tốc độ cao. Đôi khi bạn đi quá nhanh và phải bẻ lái quá gấp khiến ô tô chỉ còn đi bằng hai bánh. Nhưng nếu bạn không chấp nhận rủi ro thì sẽ chẳng làm được điều gì vĩ đại”. Doerr nói thêm rằng chính công thức thành công của nước Mỹ đã tạo điều kiện cho các công ty đầu tư mạo hiểm hoạt động hiệu quả đến như vậy khi bước vào đoạn đường cua thông qua việc hỗ trợ cho nghiên cứu cơ bản, tạo ra những kết quả đột phá trong vật lý, sinh học và hóa học.
Cũng cần lưu ý rằng công thức thành công của Mỹ là thành tựu chủ yếu của đảng Cộng hòa. Có nghĩa là những đảng viên Cộng hòa nào ở thế kỷ 21 đang phản đối vai trò của chính phủ liên bang trong nền kinh tế thì có nghĩa là họ đang đi ngược lại chính truyền thống của đảng mình. Alexander Hamilton là thành viên đảng Liên bang – tiền thân xa xưa của đảng Cộng hòa, đối thủ của phe Dân chủ – cộng hòa mà đại diện là Thomas Jefferson (sau này đổi tên là đảng Dân chủ), tức tiền thân của đảng Dân chủ ngày nay. Các tổng thống thuộc đảng Cộng hòa như Abraham Lincoln, Theodore Roosevelt và Dwight Eisenhower đều góp phần hết sức quan trọng vào việc mở rộng, thay đổi công thức thành công cho nước Mỹ. Đảng Cộng hòa có truyền thống ủng
Lờ đi lịch sử 67
hộ chính phủ quy mô nhỏ, nhưng phải là một chính phủ có sức mạnh và hoạt động hiệu quả khi cần.
Lincoln, Roosevelt, Eisenhower và các đồng nhiệm đảng Dân chủ đều hiểu rằng thách thức của thế giới mà họ đang tồn tại buộc nước Mỹ phải tăng cường sức mạnh và sự thịnh vượng của mình. Và ở những thời điểm quan trọng, họ đã xây dựng được hình ảnh về một nước Mỹ vĩ đại, đủ để được cả xã hội ủng hộ, được Quốc hội tin tưởng, đồng thời đưa ra những cách thức phù hợp để cải thiện công thức thành công. Chắc chắn giữa các vị tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử có một điểm chung: khả năng tập hợp cả đất nước để làm mới công thức cũ ở mỗi khúc ngoặt quan trọng của lịch sử.
Lịch sử cũng ghi nhận rằng công thức thành công phát triển được nhanh nhất, xa nhất trong thời chiến. Khi đất nước tham gia chiến tranh, đặc biệt là cuộc chiến được coi là có tính chất sống còn thì sẽ có rất nhiều người dân sẵn sàng ủng hộ mọi biện pháp giúp nước mình giành được thắng lợi. Ví dụ, thời Nội chiến là cơ hội để chính phủ lần đầu tiên áp dụng thuế thu nhập liên bang.
Từ khi Benjamin Franklin làm ra cột thu lôi đến nay*, nước Mỹ đã có rất nhiều nhà phát minh tài năng. Nhưng các hoạt động nghiên cứu và triển khai do chính phủ tài trợ chỉ bắt đầu phát triển mạnh vào thời Thế chiến thứ hai với Dự án Manhattan. Mỹ có ý tưởng nỗ lực chế tạo bom nguyên tử vì FDR và các cố vấn của ông sợ rằng nếu Mỹ không làm được thì Đức Quốc xã sẽ thành công trước. Sau chiến tranh, khi nghiên cứu khoa học bắt đầu trở nên quan trọng đối với tiến bộ công nghệ, đồng thời quy mô và mức độ phức tạp của nghiên cứu khoa học đã vượt quá năng lực của các công ty tư nhân thì chính phủ Mỹ phải nhận lấy vai trò chủ đạo. Những phát minh đơn giản thì giới nghiệp dư đã thực hiện được ngay trong ga ra ô tô tại nhà. Giờ đây, để đạt được tiến bộ trong khoa học thì cần phải có những phòng thí nghiệm tầm cỡ quốc gia và cần sự phối hợp giữa chính phủ với các trường đại học và công ty tư nhân. Những chương trình được Eisenhower bổ sung vào công thức thành công của nước Mỹ đều có mục đích chung là hỗ trợ cho cuộc chiến toàn cầu chống Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản quốc tế. 75 năm sau Thế chiến thứ hai và 20 năm sau Chiến tranh Lạnh, trung tâm nghiên cứu lâu đời nhất nước Mỹ là Argonne ở Illinoise vẫn đang tiến hành những nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực năng lượng mặt trời, mạng điện thông minh và ô tô điện. Những ví dụ về sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư
* Cột thu lôi do Benjamin Franklin phát minh năm 1749.
68 từng là bá chủ
nhân xuất hiện trên báo chí hàng ngày. Ví dụ, trang web DailyFinance.com của AOL (ngày 07/01/2011) cho biết công ty General Motors đã được Trung tâm Nghiên cứu Argonne cho phép sử dụng một công nghệ “giúp nâng cao đáng kể hiệu suất của pin lithium sử dụng trong các loại ô tô điện” như xe Volt của GM chẳng hạn. Nhờ đó họ có thể sản xuất ra “loại pin an toàn hơn, rẻ hơn, có tuổi thọ cao hơn và giúp ô tô chạy được quãng đường dài hơn giữa hai lần nạp”.
Những thách thức lớn ngày nay đòi hỏi cả đất nước phải cùng đối phó giống như thời chiến, nhưng nếu không có xung đột chính đang tiếp diễn thì sẽ khó mà thuyết phục được người dân Mỹ lựa chọn những chính sách khó khăn nhưng cần thiết để giải quyết thách thức. Khi nhậm chức, để tìm kiếm sự ủng hộ cho những chính sách như vậy, Tổng thống Obama đã nhắc lại “khoảnh khắc Sputnik” của nước Mỹ. “Khoảnh khắc Sputnik” nguyên gốc trong lịch sử đã khiến hàng nghìn người Mỹ có động lực tham gia làm việc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và các ngành kinh doanh có liên quan và kích thích cả nước đầu tư vào toán học, khoa học, công nghệ cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng. Mục tiêu chính là không bị tụt hậu trước Liên Xô, ngoài ra Mỹ còn có một lợi ích khác là cập nhật công thức để đạt được sự thịnh vượng, nhờ đó nền kinh tế Mỹ càng trở nên sáng tạo và hiệu quả hơn.
Ngày nay, Mỹ không có đối thủ nào như vậy; nhưng chúng ta phải tìm ra cách nào đó có tác dụng giống như sự kiện Sputnik ngày trước: đó là tạo động lực để chúng ta thay đổi công thức thành công để đáp ứng được yêu cầu thời đại. Nói cho cùng thì hiện giờ chúng ta vẫn đang đi trên những con đường, những cây cầu được xây dựng từ thập niên 1950 hoặc thậm chí 1930. Chúng ta đang cắt giảm chi tiêu ở chính những trường đại học do Lincoln thành lập. Chúng ta đang học hỏi từ những phát minh đột phá của các nhà khoa học lấy cảm hứng từ chiến dịch chạy đua lên mặt trăng, hoặc của những người nhập cư vào Mỹ thập niên 1970 và được tư tưởng của Kennedy động viên khuyến khích. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta đang sống dựa vào những thay đổi mới nhất trong công thức thành công từ nhiều năm trước. Trong gói kích thích kinh tế trị giá 787 tỷ dollar mà Quốc hội thông qua vào tháng 9/2009 chỉ có một vài khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và triển khai, còn phần lớn khoản tiền đối phó với cuộc khủng hoảng là để phục vụ cắt giảm thuế, chi bảo hiểm thất nghiệp và thực hiện một vài dự án cải tạo nhỏ xíu như hệ thống chiếu sáng các sân ga ở ga Penn, thành phố New York – và khi nó hoàn thành thì chúng ta sẽ càng nhìn thấy rõ hơn sự bẩn thỉu, chật hẹp
Lờ đi lịch sử 69
và lạc hậu của nơi này. Công thức thành công có thời gian chờ phát huy tác dụng khá dài – thế hệ này đầu tư chính là thay mặt cho thế hệ khác. Nên khi chúng ta quyết định trì hoãn việc thay đổi công thức cho phù hợp thay vì đầu tư dài hạn vào nó thì tức là chúng ta đang từ chối không mang lại cho thế hệ sau công cụ cần thiết để con cháu chúng ta tiếp tục phát huy giấc mơ Mỹ.
Không may là cuộc tranh cãi chính trị ở Mỹ đã đi quá xa khỏi công thức hợp tác công-tư. Phe tự do cho rằng những rắc rối nước Mỹ gặp phải hoàn toàn do ngành tài chính Wall Street và các công ty lớn gây ra, nhưng lại ủng hộ việc chia cái bánh nền kinh tế đang nhỏ lại một cách công bằng. Phe bảo thủ thì khẳng định bí quyết dẫn đến tương lai tốt đẹp hơn rất đơn giản: chỉ cần nhắm mắt lại, gõ giày ba lần và nói “cắt giảm thuế”, thế là cái bánh nền kinh tế sẽ phình ra một cách kỳ diệu.
Chúng ta cần quay về bản chất vấn đề, thật nhanh chóng. Chúng ta cần đầu tư, cải thiện công thức thành công giống như những gì các thế hệ trước đã làm. Chúng ta đang bước vào thời kỳ bước ngoặt của nền kinh tế – thời kỳ mà Mỹ góp phần tạo ra nhiều hơn bất cứ nước nào khác. Giờ đây, chúng ta phải đảm bảo rằng mọi công dân, mọi công ty của Mỹ đều có đủ các kỹ năng và công cụ để vượt qua khúc quanh này.
70 từng là bá chủ
PHẦN II
THÁCH THỨC VỀ GIÁO DỤC
71
BỐN
Lơ lửng trên trời
Năm 2009 có một bộ phim ra đời phản ánh rất sinh động tác động của hai trong số bốn thách thức lớn nước Mỹ đang gặp phải: toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin. Đó là phim Lơ lửng trên trời (Up in the air), trong đó George Clooney đóng vai một “tư vấn chuyển việc”, người luôn bay khắp nước Mỹ để sa thải các nhân viên văn phòng dư thừa theo yêu cầu. Cuộc đời anh ta là chuỗi ngày bất tận và cô đơn ở khách sạn sân bay, phòng chờ máy bay của hành khách thân thiết, thủ tục kiểm tra an ninh và những tờ tạp chí trên máy bay. Trên đường đi, Clooney gặp một phiên bản khác phái của mình do Vera Farmiga thủ vai, cũng là một chiến binh cô đơn luôn di chuyển với vô số thẻ tín dụng các loại, quần áo loại không nhàu và va ly nhét vừa in ngăn hành lý trên máy bay. Chuyện tình cảm giữa họ nhắc chúng ta nhớ rằng bất cứ ai, ngay cả những người sống đơn độc cũng cần một người nào đó để yêu. Nhưng ngôi sao thực sự trong phim phải là nhân viên tập sự của Clooney do Anna Kendrick thủ vai – một cô gái 23 tuổi hết sức tự tin, một chuyên gia làm việc vô cùng hiệu quả với sáng kiến sa thải còn hay hơn cách làm của Clooney: thực hiện ngay tại văn phòng trung tâm với máy tính và Internet, vì vậy chuyên gia sa thải không còn cần phải bay khắp nơi, gặp mặt và tỏ thái độ thông cảm – điều mà nhân vật của Clooney làm rất tốt. Như Anthony Lane viết trong bài điểm phim đăng trên tờ The New Yorker (ngày 7/12/2009): “Bộ phim bắt đầu với một loạt người đang nói – vẻ mặt và thái độ phản đối của những người vừa bị sa thải khi họ phải đối mặt với tin tức tồi tệ nhất trong đời. Nếu bạn thắc mắc tại sao trông họ không hề giống nghệ sỹ và có vẻ thất thần một cách chân thực đến thế thì câu trả lời là họ hoàn toàn không phải diễn viên phụ ở Hollywood, họ là những nạn nhân thực sự của nạn thất nghiệp ở St.Louis và Detroit”. Họ nhìn thẳng vào máy quay và phản ứng lại trước thông báo mà một kẻ nhẫn tâm y như Clooney vừa đưa
72 từng là bá chủ
ra. Họ bày tỏ đủ kiểu thái độ, từ “Đây là kết quả 30 năm tôi làm cho công ty này phải không?” cho đến “Thế anh là thằng chó chết nào?” Một câu hỏi tuyệt hay. Đây là dạng thô mộc của một vấn đề hết sức cơ bản mà nhiều người Mỹ đang thắc mắc.
Một trong những nội dung chính của phim là ngay cả người độc thân chuyên nghiệp thực ra cũng không muốn sống cô đơn. Nhưng phim còn có tư tưởng lớn hơn: chính sức mạnh của công nghệ, tự động hóa và thuê nhân công bên ngoài, những thứ đang tước đi công việc của những người mà Clooney phải sa thải cuối cùng cũng làm Clooney phải mất việc làm khi Kendrick và giải pháp áp dụng công nghệ đã giúp cô ta sa thải nhân viên hàng loạt. Có nghĩa là chủ đề lãng mạn của phim thì là không ai muốn sống cô đơn, nhưng thông điệp lớn hơn là không ai chắc chắn được an toàn – ngay cả người làm nghề sa thải người khác. Toàn cầu hóa kết hợp với công nghệ cuối cùng sẽ đụng chạm đến tất cả mọi người. Chúng mạnh hơn nhiều so với bất cứ cá nhân riêng lẻ nào. Chúng rất tàn bạo, vô nhân tính và không ai có thể né tránh được. Chúng đang khiến cho cả giai cấp công nhân Mỹ phải làm việc trong tư thế chênh vênh. Tất cả chúng ta có nhiệm vụ phải hiểu hai xu hướng này đang ảnh hưởng lên cuộc sống của người Mỹ như thế nào và chúng ta – mỗi cá nhân và cả quốc gia – phải làm gì để khai thác chúng chứ không bị chúng cuốn đi.
Sự kết hợp
Hãy bắt đầu với một câu tường thuật đơn giản. Sự kết hợp giữa toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin trùng hợp với thời điểm chuyển từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21 đã thay đổi tất cả – mọi việc làm, mọi ngành công nghiệp, mọi ngành dịch vụ, mọi cơ quan các cấp. Chỉ sau một đêm, nó đã tạo ra những thị trường mới, những vấn đề kinh tế chính trị mới. Nó đòi hỏi con người phải có kỹ năng ở trình độ cao hơn mới tìm thấy và duy trì được việc làm tốt, đồng thời tăng sự cạnh tranh việc làm giữa tất cả mọi người trên toàn cầu. Nói một cách ngắn gọn, nó giúp chính trị trở nên minh bạch hơn, thế giới kết nối với nhau nhiều hơn, cạnh tranh việc làm – cả cổ trắng lẫn cổ xanh – trở nên khốc liệt hơn, những kẻ chuyên chế dễ bị tấn công hơn, còn mỗi cá nhân hay nhóm nhỏ lại có quyền lực lớn hơn. Sau đây là bốn mẩu tin ngẫu nhiên tóm tắt cho chúng ta biết điều gì đang xảy ra:
Lơ lửng trên trời 73
Tin thứ nhất từ châu Á. Một tờ báo của Ấn Độ là Hindustan Times (ngày 30/10/2010) đưa tin một công ty viễn thông Nepal vừa bắt đầu cung cấp dịch vụ mạng điện thoại di động thế hệ thứ ba (3G) trên Everest – ngọn núi cao nhất thế giới. Theo bài báo, sự kiện này sẽ “cho phép hàng nghìn người leo núi có thể truy cập Internet tốc độ cao và gọi điện kèm hình ảnh bằng điện thoại di động”. Tiếp theo câu chuyện, hãng tin BBC nhận thấy đây là bước tiến dài so với năm 1953, khi Edmund Hillary lần đầu tiên leo lên đỉnh Everest và phải “nhờ người chạy bộ đưa tin về chuyến thám hiểm của ông đến trạm điện báo gần nhất”.
Bạn có thể hình dung những cuộc điện thoại như sau: “Chào mẹ! Mẹ không đoán được con đang gọi cho mẹ từ đâu đâu…”
Cũng trong tháng đó, trên trang kinh tế của các tờ báo Mỹ xuất hiện tin công ty Applied Materials có trụ sở ở Thung lũng Silicon, chuyên chế tạo những tấm phim mỏng dùng trong pin năng lượng mặt trời đã thành lập trung tâm nghiên cứu và triển khai năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới ở Tây An, Trung Quốc. Ban đầu, Applied Materials tìm kiếm ứng viên cho 260 vị trí nhà khoa học/ chuyên gia công nghệ ở Tây An. Howard Clabo, phát ngôn viên của công ty cho biết trung tâm ở Tây An nhận được khoảng 26.000 hồ sơ xin việc của người Trung Quốc và họ đã tuyển 330 người, trong đó 31% có bằng thạc sỹ hoặc tiến sỹ. Clabo giải thích: “Năm ngoái, khoảng 50% tấm pin mặt trời trên thế giới được sản xuất ở Trung Quốc. Chúng tôi phải có mặt ở nơi có khách hàng”.
Câu chuyện thứ ba xoay quanh câu trả lời cho một câu hỏi. Tổng thống Obama đã từng hỏi Steve Jobs, đồng sáng lập viên Apple, rằng tại sao Apple lại sản xuất hầu như mọi sản phẩm ở Trung Quốc. Cuộc trao đổi đã được đăng trên New York Times vào ngày 21/01/2012:
“Khi Barack Obama dùng bữa tối cùng các nhân vật hàng đầu của Thung lũng Silicon ở California vào tháng 2 rồi, mỗi vị khách được yêu cầu chuẩn bị một câu hỏi cho tổng thống. Nhưng khi Steven P. Jobs của Apple nói, Tổng thống Obama đã ngắt ngang bằng một câu hỏi: phải làm gì để iPhone được sản xuất ở Mỹ? Trước đây không lâu, Apple đã quảng cáo rằng các sản phẩm của mình được làm tại Mỹ. Ngày nay, rất ít sản phẩm còn được làm tại Mỹ. Gần như toàn bộ 70 triệu máy iPhone, 30 triệu máy iPad và 59 triệu sản phẩm khác mà Apple bán vào năm ngoái được sản xuất ở nước ngoài.
Obama hỏi tại sao không đem công việc này trở về nước Mỹ được? Câu trả lời của Jobs rất rõ ràng. Theo một vị khách khác thì ông đã nói, “Những công việc này sẽ không trở lại”.
74 từng là bá chủ
Câu hỏi của tổng thống đã chạm vào niềm tin cơ bản ở Apple. Không chỉ là chuyện nhân công ở nước ngoài rẻ hơn. Vấn đề là ở chỗ các nhà quản lý của Apple tin rằng quy mô lớn của các nhà máy ở nước ngoài cũng như sự linh hoạt, siêng năng và kỹ năng công nghiệp của công nhân nước ngoài vượt xa công nhân Mỹ đến nỗi “Làm tại Mỹ” không còn là một lựa chọn khả dĩ cho hầu hết các sản phẩm Apple. Apple đã trở thành một trong những công ty nổi tiếng nhất, được khâm phục nhất và bị bắt chước nhiều nhất trên thế giới, một phần nhờ khả năng luôn luôn tận dụng được quá trình vận hành trên toàn cầu. Năm ngoái, công ty đạt lợi nhuận 400.000 dollar/công nhân, cao hơn cả Goldman Sachs, Exxon Mobil hay Google. Tuy nhiên, điều đã làm Obama cũng như các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách phiền lòng là Apple – và nhiều công ty kỹ thuật cao khác – hầu như không mặn mà với việc tạo ra việc làm tại Mỹ như các công ty nổi tiếng khác đã từng làm vào thời hoàng kim của họ.
Apple hiện sử dụng 43.000 nhân công tại Mỹ và 20.000 ở nước ngoài, một con số rất nhỏ nếu so với hơn 400.000 công nhân Mỹ tại General Motors vào thập niên 1950, hay hàng trăm ngàn tại General Electric vào thập niên 1980. Số người làm việc cho các nhà thầu của Apple lại nhiều hơn: có 700.000 người khác thiết kế, chế tạo và lắp ráp iPad, iPhone và các sản phẩm khác của Apple. Nhưng hầu như không có ai làm tại Mỹ mà họ làm cho các công ty nước ngoài tại châu Á, châu Âu và các nơi khác, tại các nhà máy mà hầu như tất cả các hãng điện tử đặt sản xuất các sản phẩm của mình… Một cựu quản lý đã mô tả công ty dựa vào một nhà máy Trung Quốc [Foxconn] để sửa sang lại sản phẩm iPhone chỉ vài tuần trước khi thiết bị này xuất hiện tại cửa hàng. Apple đã thiết kế lại màn hình của iPhone vào phút cuối, khiến cả dây chuyền lắp ráp phải điều chỉnh. Các màn hình mới bắt đầu được chuyển đến nhà máy vào gần nửa đêm. Theo nhà quản lý trên thì một quản đốc lập tức đánh thức 8.000 công nhân trong ký túc xá của công ty. Mỗi công nhân được phát cho một cái bánh bích quy và một tách trà, dẫn đến xưởng và nửa tiếng sau thì bắt đầu một ca làm việc 12 tiếng lắp màn hình thủy tinh vào khung vỏ máy. Trong vòng 96 tiếng, nhà máy đã sản xuất trên 10.000 iPhone một ngày. Vị quản lý nói, “Tốc độ và sự linh hoạt thật ngoạn mục. Không có nhà máy nào ở Mỹ có thể sánh được”.
Tin thứ tư là một câu chuyện vào ngày 13 tháng 7 trên Adweek về cách thức [công ty cung cấp dịch vụ video trực tuyến] Netflix đã đối mặt với một cuộc nổi loạn của khách hàng mà trên nhiều phương diện giống với những cuộc phản đối mà Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gặp phải khi ông quyết
Lơ lửng trên trời 75
định ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba mà không tham khảo ý kiến người dân. Câu chuyện như sau: “Ngày hôm qua Netflix tuyên bố tăng giá mạnh, khiến cho các thuê bao nổi điên. Các khách hàng sẽ không còn có thể chỉ trả 9,99 dollar mỗi tháng để xem đĩa DVD trực tuyến không giới hạn – họ sẽ phải trả 7,99 dollar cho mỗi DVD. Hiện nay, hàng ngàn thuê bao giận dữ của Netflix đang lên mạng phản đối mức phí mới này. Theo New York Post, những khách hàng giận dữ đã tấn công tổng giám đốc điều hành Reed Hasting của Netflix trên mạng, gọi ông là Greed Hastings (Hastings tham lam) trên các diễn đàn bằng tin nhắn và các trang mạng xã hội như Facebook và Twitter. Chủ đề tuyên bố tăng phí trên trang Facebook của Netflix đã có hơn 30.000 ý kiến từ các thành viên của trang, tất cả đều là phản đối… Mọi người đăng địa chỉ liên lạc lên trang Facebook của Netflix, từ địa chỉ thư điện tử công ty của Hastings cho đến số điện thoại và địa chỉ văn phòng chính của Netflix, để khuyến khích các khách hàng giận dữ khác liên lạc với công ty này và ‘lên tiếng’”,
Một tuần sau, sau khi mất 800.000 khách hàng gần như chỉ trong một đêm, Netflix đã rút lại kế hoạch mới đó. Trong một bức thư cho các cổ đông, Netflix đã xác nhận rằng mình đã xử lý không tốt vấn đề thông tin về việc tăng giá: “Cả 7,99 dollar cho việc xem phim trực tuyến không giới hạn và 7,99 dollar cho việc xem không hạn chế đĩa DVD đều là những mức giá thấp, so với mức giá cạnh tranh và giá trị của các dịch vụ, và trong dài hạn thì đó là mức phù hợp đối với Netflix. Chỉ có điều chúng ta đã nhận định sai về tốc độ tiến đến mức giá đó. Chúng ta đã làm tình thế tồi tệ hơn khi giải thích không đầy đủ về việc chi phí mở rộng nội dung xem trực tuyến tăng, chi phí DVD tăng, vì thế… nhiều người đã coi chúng ta là tham lam”.
Câu chuyện thứ nhất về ngọn Everest cho chúng ta thấy mạng lưới công nghệ thông tin – thứ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa – đã phát triển nhanh và rộng đến mức nào chỉ trong năm năm qua. Mỗi ngày, các công dân, chính phủ, doanh nghiệp, kẻ khủng bố, và giờ đây cả các đỉnh núi trên khắp thế giới đang được kết nối với nhau trong một mạng lưới chặt chẽ hơn bao giờ hết, khiến cho ngày càng có thêm nhiều người ở nhiều nơi được tiếp cận với công cụ kết nối, sáng tạo và hợp tác có chi phí thấp.
Câu chuyện thứ hai cho chúng ta biết tất cả những sự kết nối này đang dẫn tới hình thành một nhóm người lao động mới gia nhập vào thị trường toàn cầu. Trong quá trình đó, nó đặt nước Mỹ trước sự cạnh tranh của một nhóm người lao động với quy mô lớn chưa từng thấy: họ có trình độ cao nhưng chỉ cần mức lương thấp. Chúng ta đã quen với giới công nhân trình
76 từng là bá chủ
độ thấp, lương thấp vốn rất đông đảo. Nhưng người lao động có trình độ cao mà lương thấp thì thuộc một nhóm hoàn toàn khác biệt và chúng ta phải tìm cách thích ứng với họ.
Câu chuyện về hãng Apple cho thấy tại sao ngành sản xuất duy nhất mà nước Mỹ có thể tiếp tục duy trì ở quy mô lớn là sản xuất kỹ thuật cao, nó đem lại lương cao hơn nhiều nhưng cũng đòi hỏi trình độ cao hơn trung học nhiều – trong khi cách đây hai thập kỷ thì có bằng trung học là đủ để một người có thể lảm việc ở nhà máy
Câu chuyện thứ tư về Netflix cho chúng ta thấy ngày càng có nhiều khách hàng và công dân đang sở hữu những công cụ giao tiếp và hợp tác trên toàn cầu nhờ sự kết hợp giữa toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin. Nhờ đó, họ có thể hợp tác để san bằng thứ bậc, thách thức giới lãnh đạo – cả người điều hành công ty lẫn các lãnh tụ chính trị, từ thế giới Ả Rập, Nga đến thế giới tài chính Wall Street, điều mà trước đây chưa bao giờ xảy ra. Và giới lãnh đạo buộc phải thích ứng với hoàn cảnh mới. Thời kỳ lãnh đạo đất nước hoặc công ty “bằng những cuộc đàm thoại một chiều đã qua” – lời Dov Seidman, tổng giám đốc điều hành LRN, công ty chuyên hỗ trợ các công ty khác xây dựng văn hóa kinh doanh bền vững, đồng thời ông còn là tác giả cuốn: Tại sao cách thức chúng ta làm mọi việc lại có tầm quan trọng quyết định (How: Why How We Do Anything Means Everything). Hệ thống “mệnh lệnh và kiểm soát” cũ với cây gậy và củ cà rốt nhằm áp đặt quyền lực lên người khác đang nhanh chóng bị thay thế bởi hệ thống “kết nối và hợp tác” nhằm hình thành quyền lực thông qua người khác”. Seidman nói thêm: Giới lãnh đạo không thể chỉ áp đặt mong muốn của họ. “Giờ đây bạn phải đối thoại hai chiều nhằm kết nối sâu sắc với công dân, khách hàng hoặc nhân viên của bạn… Những công dân, nhân viên đó đang nhìn vào từng người lãnh đạo và nói: “Chúng tôi có nhiều quyền lực hơn ông nghĩ, và ông không mạnh như ông tưởng”.
Khi bạn kết hợp tất cả các thay đổi này lại với nhau, kết quả là rất nhiều lợi thế về cấu trúc mà Mỹ có được trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã biến mất. Đúng thế, Mỹ vẫn có rất nhiều đất đai để sản xuất nông nghiệp, một chuỗi các thành phố cảng mà không nước nào có và nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ trong nước. Nhưng chỉ những thứ đó thì chưa đủ để tăng GDP, nhất là khi bạn nghĩ về một thứ mà nước Mỹ chúng ta đã đánh mất: sự vượt trội. Mỹ nổi lên từ Thế chiến thứ hai với tư cách là nền kinh tế lớn duy nhất với nền tảng công nghiệp còn nguyên vẹn. Châu Âu và Nhật cuối cùng cũng bắt kịp, nhưng các nước lớn khác không thực sự tham gia cuộc cạnh tranh. Trung
Lơ lửng trên trời 77
Quốc gần như bế quan tỏa cảng, tiềm năng của họ đã bị chệch hướng bởi tư tưởng của Mao và cuộc cách mạng văn hóa. Ấn Độ bớt khép kín hơn, nhưng giới lãnh đạo của họ lại hài lòng với tốc độ tăng trưởng kinh tế 2% mỗi năm. Brazil đóng cửa một phần nền kinh tế và gặp bất lợi với chính sách kinh tế theo kiểu dân túy. Các công ty ở Hàn Quốc và Đài Loan chỉ tập trung vào sản phẩm nhựa rẻ tiền, hàng điện tử dân dụng và dệt may mặc dù sau này họ có thêm sản phẩm bán dẫn. Mỹ có thể thu hút được những tài năng trí tuệ lớn nhất từ Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Ả Rập và Nam Mỹ, nơi họ không có nhiều cơ hội để thực hiện những phát minh táo bạo hoặc nghiên cứu lý thuyết. Các công ty tài chính ở Wall Street thống trị thị trường thế giới và Mỹ là nước duy nhất có hệ thống đầu tư vốn mạo hiểm hoàn chỉnh. Không phải người Mỹ không làm việc chăm chỉ hay mức sống cao ở Mỹ chỉ là may mắn có được. Chúng ta đã thực sự làm việc tích cực. Thành công của chúng ta được dựa trên những sáng tạo thực sự, giáo dục thực sự, nghiên cứu thực sự, thị trường thực sự và tăng trưởng thực sự. Nhưng sân chơi thế giới cũng thuận lợi cho chúng ta nữa. Giờ đây chúng ta phải cố gắng để duy trì những ưu điểm đó trong điều kiện không còn những lợi thế về cấu trúc. Con cái chúng ta sẽ chỉ biết đến một thế giới thuận lợi cho nước Mỹ khi đọc sách lịch sử. Sự kết hợp giữa toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin có thể khiến chúng ta trở nên giàu hơn hoặc nghèo đi. Điều đó phụ thuộc vào chúng ta , vào việc chúng ta hiểu cái thế giới mới do chính chúng ta tạo ra có đúng không và phản ứng với nó có hiệu quả không.
Thế giới phẳng 1.0
Toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin đang hòa lẫn hoàn toàn với nhau, cái này bị ảnh hưởng bởi cái kia. Các công nghệ mới đang xóa nhòa đường biên giới, phá vỡ tường ngăn và kết nối tất cả những ai trước kia chưa từng được kết nối. Rồi các cá nhân, công ty và chính phủ khi được kết nối với nhau lại xây dựng nên mạng lưới thương mại, đầu tư, sáng tạo và hợp tác, qua đó tạo ra thêm thị trường và nhu cầu đối với công nghệ để kết nối thêm nhiều người hơn với chi phí thấp hơn. Tất cả đang diễn ra rất nhanh, nhưng rõ ràng là vào một thời điểm nào đó của năm 2000, rất nhiều người ở rất nhiều nơi nhận thấy họ đang làm việc với những người mà họ chưa từng hợp tác trước đó – đó có thể là mẹ của Tom và bạn chơi bài bridge của bà ở Siberia hay chủ một trạm xăng địa phương đã tìm ra nhà cung cấp lốp xe mới
78 từng là bá chủ
rẻ hơn ở Panama thông qua Internet. Đồng thời, chính những người này lại thấy họ đang bị tác động bởi những người chưa từng ảnh hưởng đến họ – đó có thể là một giọng nói Ấn Độ trong cuộc gọi từ trung tâm dịch vụ qua điện thoại đặt ở Bangalore với mục đích thuyết phục họ dùng thẻ tín dụng Visa hay một sinh viên Trung Quốc ở Thượng Hải vừa được nhận vào học ở nơi họ luôn ao ước là Harvard.
Tất cả những gì họ cảm thấy là thế giới phẳng (cũng là tên cuốn sách của Tom năm 2005), tức là có thêm nhiều người đột nhiên tham gia cạnh tranh, kết nối và hợp tác với thêm nhiều người khác ở nhiều nơi khác nhau với chi phí thấp hơn, phương tiện dễ dàng hơn lúc nào hết trong lịch sử. Quá trình phẳng hóa thế giới mà sau sẽ ảnh hưởng lên các công ty, trường học, quân đội, nhóm khủng bố, chính phủ và hơn cả là cá nhân người lao động trên toàn cầu là sản phẩm của ba xu hướng mạnh mẽ cùng diễn ra vào cuối thập niên 1980 và thiên niên kỷ mới.
Thứ nhất là máy tính cá nhân. Nó cho phép ngày càng nhiều người tạo ra từ ngữ, sách vở, phép tính, chương trình, ảnh, dữ liệu, bảng tính, âm nhạc, ứng dụng và video của riêng mình dưới dạng số hóa. Con người vẫn tạo ra cái mà hiện nay chúng ta gọi là “tư liệu” từ thời những người sống trong hang đá bắt đầu vẽ lên tường. Nhưng với máy tính cá nhân, họ có thể tạo ra tư liệu dưới dạng số hóa, và một khi tư liệu được lưu bằng bit và byte thì con người có thể sử dụng chúng theo rất nhiều cách khác nhau.
Thứ hai là Internet và World Wide Web đã mở rộng khắp thế giới từ cuối thập niên 1990. Chúng đột nhiên khiến con người có khả năng gửi tư liệu số hóa của họ đi rất, rất nhiều nơi để chia sẻ và hợp tác làm việc với rất, rất nhiều người, trong khi đó chi phí tiếp cận với máy tính và Internet lại thấp.
Thứ ba và đồng thời với hai xu hướng trên, có một cuộc cách mạng trầm lặng nhưng vô cùng quan trọng đã diễn ra. Đó là cách mạng trong ngôn ngữ lập trình phần mềm và giao thức truyền dữ liệu với những cái tên như HTML, HTTP, XML, SOAP, AJAX, EDI, FTP, SSH, SFTP, VAN, SMTP và AS2. Bạn không cần biết chúng viết tắt cho từ gì, bạn chỉ cần biết là khi đi với nhau, hỗn hợp các chữ cái này đã khiến máy tính để bàn, máy tính xách tay, điện thoại thông minh Blackberry và iPhone, máy tính bảng iPad và các loại điện thoại di động không tên tuổi của Trung Quốc và Ấn Độ của người này có khả năng kết hợp vận hành với các thiết bị tương tự của người khác. Chúng ta gọi nó là “cách mạng quy trình làm việc” vì nó khiến cho tư liệu số di chuyển dễ dàng theo mọi hướng. Kết quả là bất cứ ai cũng có thể bật máy tính hoặc mở
Lơ lửng trên trời 79
điện thoại để gửi một tập tin PDF, viết thư điện tử cho bạn bè, nhắn tin cho đồng nghiệp hoặc chuyển một tấm ảnh, và người đó biết rằng tất cả những gì mình nói, nhắn gửi, quay video hay biến thành dạng Powerpoint đều có thể đến được bất cứ nơi nào trên thế giới và ở đâu cũng tiếp cận được, cho dù người gửi và người nhận sử dụng loại máy tính và phần mềm nào đi nữa. Ngày nay chúng ta thấy chuyện đó rất tự nhiên, nhưng đây thực sự là là cuộc cách mạng ở thời điểm mà rất nhiều người sử dụng đủ loại máy móc khác nhau với hệ điều hành và phần mềm khác nhau.
Khi kết hợp ba phát minh này với nhau, kết quả thu được là chỉ trong một thập kỷ, mọi người ở Boston, Bangkok, Bangalore, Mumbai, Manhattan và Moscow đều trở thành hàng xóm của nhau. Có khoảng hai tỷ người đột nhiên thấy mình có năng lực mới giúp cá nhân họ có thể giao tiếp, cạnh tranh và hợp tác trên phạm vi toàn cầu. Nếu trước kia, hầu như chỉ có các quốc gia và các công ty có thể hoạt động trên quy mô này thì khi thế giới trở nên phẳng, ngày càng nhiều cá nhân cũng có thể giao tiếp với mọi người trên khắp thế giới hàng ngày.
Thế giới phẳng 2.0
Theo Hiệp hội Viễn thông quốc tế (ITU), một cơ quan thuộc Liên hiệp quốc, đến giữa năm 2012 thế giới có khoảng 6 tỷ thuê bao điện thoại di động. Hành tinh này có 7 tỷ người. Vì năm 2002 chúng ta chỉ có khoảng 1 tỷ thuê bao di động nên rõ ràng con số này đã tăng với tốc độ chóng mặt, trong đó phần lớn thuê bao mới là từ các nước đang phát triển. Ví dụ, mỗi tháng Ấn Độ có thêm 15 đến 18 triệu người sử dụng điện thoại di động. Theo trang web mobithinking.com chuyên nghiên cứu về ngành này, Ấn Độ và Trung Quốc đã tăng thêm 300 triệu thuê bao di động mới chỉ riêng năm 2010 – cao hơn tổng số thuê bao di động tại Mỹ. ITU cho biết hiện nay có khoảng 25% dân số thế giới sử dụng Internet so với 12% năm 2002. Mỗi ngày có hàng triệu hoạt động giao tiếp và hợp tác diễn ra ở mọi nơi, giữa những người mà chỉ năm năm trước đây chưa từng có liên hệ với nhau. Chúng ta đã biết cuối cùng mọi chuyện dẫn đến đâu: đó là cả thế giới đã kết nối với Internet thông qua điện thoại di động, điện thoại thông minh hoặc máy tính cá nhân truyền thống chỉ trong vòng một thập kỷ.
“Ngày nào tôi cũng gọi điện cho mẹ tôi đang sống ở Karachi. Tôi dùng phần mềm Skype, còn mẹ tôi dùng điện thoại thường. Giá cước rất rẻ, gần
80 từng là bá chủ
như cho không”. Raziuddin Syed, kỹ sư công nghệ thông tin cao cấp đang làm việc ở Tampa, Florida kể với báo Dawn của Pakistan (ngày 20/02/2011) như vậy. Syed “làm việc cho một công ty kế toán quốc tế nhờ vào máy tính xách tay có kết nối với Internet và công nghệ truyền giọng nói trên giao thức IP (VoIP). ‘Năm năm trước, giá cước điện thoại, đặc biệt là VoIP đắt hơn hiện giờ rất nhiều. Nếu các thành viên của dịch vụ Skype gọi điện cho nhau thì được miễn phí, còn nếu họ gọi sang mạng điện thoại có dây hoặc không dây thì giá cước mỗi phút cũng rất thấp’, Syed cho biết thêm”.
Nói cách khác, kể từ khi Tom bắt tay vào viết cuốn sách Thế giới phẳng vào năm 2004, thế giới lại trở nên ngày càng phẳng hơn. Chúng ta đã tiến xa và nhanh đến mức nào? Khi Tom xuất bản Thế giới phẳng vào năm 2005, Facebook còn chưa được đề cập đến. Nó mới được tung ra và chỉ là một hiện tượng rất nhỏ. Thực tế là hồi năm 2005, với phần lớn mọi người, Facebook chưa hề tồn tại. “Twitter” là từ chỉ âm thanh, “đám mây” là một thứ chỉ tồn tại trên trời, “4G” nghĩa là nơi đỗ xe, “apps” là hồ sơ bạn nộp để xin học ở trường đại học, “Linked-In” là một nhà tù, còn đối với đa số mọi người “Skype” là một từ bị gõ sai chính tả. Tất cả những điều này trỗi dậy và lan rộng chỉ trong vòng sáu năm qua.
Tất cả kết hợp với nhau đã tăng thêm đáng kể những công cụ cho chúng ta để cạnh tranh, kết nối và phối hợp. Thực tế là có quá nhiều công nghệ, dịch vụ mới ra đời khiến chúng ta phải đi đến lập luận cho rằng vào khoảng năm 2010, chúng ta sẽ bước vào Thế giới phẳng 2.0 – một bước phát triển mới xứng đáng được ghi nhận. Đó là vì Thế giới phẳng 2.0 là tất cả những gì Thế giới phẳng 1.0 có, nhưng có thêm nhiều người hơn có khả năng kết nối vào sân chơi phẳng, nhiều người hơn có thể giao tiếp với những người đã tham gia kết nối khác, nhiều người hơn có đủ sức mạnh để tìm kiếm những người có tư tưởng tương đồng để hợp tác dựa trên giá trị, lợi ích, ý tưởng chung. Họ có thể cùng ủng hộ một chính trị gia, cùng hâm mộ một nhóm nhạc rock, cùng phát minh ra một sản phẩm hoặc cùng tiến hành một cuộc cách mạng.
Chúng ta hãy nhìn nhận thế này: Thế giới phẳng 1.0 được hình thành dựa trên mối quan hệ giữa máy tính cá nhân và máy chủ. Để tham gia thế giới 1.0, phần lớn mọi người phải sử dụng máy tính xách tay hoặc máy tính để bàn, thường được kết nối bằng dây mạng hoặc cáp quang tới một máy chủ Internet ở đâu đó. Việc kết nối không được di động lắm, và chi phí để kết nối đã khiến một số người không đủ khả năng tham gia. Bạn phải có đủ
Lơ lửng trên trời 81
tiền để mua máy tính, hoặc thuê một chiếc ở quán café Internet, hoặc dùng máy tính ở cơ quan. Quá trình xâm nhập của Internet diễn ra trên toàn thế giới, theo nghĩa này, nó thực sự làm thế giới phẳng hơn nhờ dây mạng và cáp quang trên đất liền và dưới biển nhanh chóng trở nên phổ biến. Nhưng nó cũng có xu hướng chỉ kết nối người dân ở khu vực thành thị với nhau và ít quan tâm hơn đến người dân sống ở làng mạc, nông thôn, nơi thu nhập chỉ ở mức tối thiểu.
Thế giới phẳng 1.0 có sức mạnh đặc biệt không chỉ ở chỗ nó cho phép mỗi cá nhân tham gia đối thoại trên toàn thế giới thông qua thư điện tử mà còn giúp con người cùng làm việc với nhau để sản xuất, mua và bán hàng hóa từ nhiều nơi hơn bao giờ hết. Nó cho phép Boeing có thể chế tạo từng phần của máy bay 777 nhờ một nhóm người bao gồm các nhà thiết kế ở Moscow, các công ty chế tạo ở Trung Quốc và các nhà sản xuất thiết bị điện tử điều khiển ở Wichita. Nó cho phép mọi người có thể thuê ngoài mọi dịch vụ, từ đọc kết quả chụp X quang đến tìm kiếm hành lý bị mất trên chuyến bay của hãng Delta. Nó đem lại những đột phá lớn trong đào tạo, giải trí, xuất bản và thương mại điện tử và thực sự tăng tính đa dạng văn hóa cho thế giới chứ không hề làm xói mòn văn hóa. Và nó cho phép các cá nhân đẩy mạnh hợp tác trên toàn cầu, nhờ đó một “đám đông” có thể cùng nhau viết và đưa mọi thứ lên mạng, từ bách khoa toàn thư (Wikipedia) đến hệ điều hành máy tính mới (Linux).
Thế giới phẳng 2.0 vẫn đang làm tất cả những việc đó và còn hơn thế nữa. Jeff Bezos, người sáng lập kiêm tổng giám đốc điều hành của Amazon.com đã nói với tạp chí The Economist vào tháng 3/2012: “Trong vài năm gần đây, tốc độ thay đổi công nghệ lại tăng nhanh”. Nó đang đi lên với sự phổ biến của nhiều máy tính cá nhân hơn (năm 2010, đã có hơn 350 triệu chiếc được bán ra); sự ra đời của các loại điện thoại thông minh có thể dùng để nhắn tin, truy cập các trang web, quay phim chụp ảnh, cũng như kết nối không dây thay vì phải dùng dây mạng để cả những cộng đồng xa xôi cũng vào được mạng; và sự xuất hiện của nhiều mạng xã hội mới cho phép con người hợp tác với nhau trên ngày càng nhiều mặt. Và tất cả những hoạt động này giờ đây được hỗ trợ thêm bởi hàng loạt phần mềm ứng dụng mới được lưu trữ trên những cụm máy chủ khổng lồ liên kết với nhau, được gọi chung là “đám mây”.
Đám mây thực sự là một thứ “mới tinh”. Nó chứa tất cả các chương trình phần mềm và tất cả các ứng dụng mà bạn có thể tưởng tượng ra – từ hướng
82 từng là bá chủ
dẫn theo dõi các loài chim ở Nam Phi đến hướng dẫn đầu tư ở Wall Street – và được cập nhật liên tục từng giây. Cái đẹp của đám mây này và lý do khiến nó làm thế giới ngày càng phẳng hơn một cách nhanh hơn là nó có thể biến một máy tính để bàn, máy tính xách tay hoặc một thiết bị cầm tay đơn giản bất kỳ có trình duyệt web thành một trạm sáng-tạo-thông-tin hoặc tiêu-thụ
thông-tin vì nó là trung tâm chứa vô số các ứng dụng có thể chạy trên từng thiết bị cá nhân riêng lẻ.
Ví dụ, Amazon.com hiện không chỉ bán sách và cưa máy mà còn bán các ứng dụng phục vụ sản xuất kinh doanh có trong đám mây. Andy Jassy là phó tổng giám đốc Amazon, phụ trách Amazon Web Services. Như tuần báo Bloomberg Businessweek (ngày 03/3/2011) giải thích, nhiệm vụ của anh là cho các công ty hoặc các nhà sáng chế thuê chỗ trên đám-mây-cho-thuê của Amazon.
Mặc dù tất cả mọi người đều được chào đón, nhưng dịch vụ này của Amazon – theo lời Jassy – hướng đến khách hàng là doanh nghiệp và Amazon không đề rõ dịch vụ này trên trang web chủ. Amazon Web Services hay AWS… là dịch vụ cho thuê công suất làm việc của máy tính với giá chỉ vài xu một giờ. “Dịch vụ này đã hoàn toàn san phẳng sân chơi”, Jassy nói. AWS giúp cho bất kỳ ai có kết nối Internet và có thẻ tín dụng đều có thể tiếp cận với hệ thống máy tính đẳng cấp thế giới như nhau, chính là hệ thống mà Amazon đang sử dụng cho hoạt động bán lẻ với chi phí vận hành lên tới 34 tỷ dollar một năm… AWS đang phát triển như vũ bão. Mặc dù Jassy không tiết lộ con số chính xác nhưng anh cho biết có “hàng trăm ngàn khách hàng” đã sử dụng dịch vụ này. Và các nhà phân tích ước tính trong năm nay Amazon sẽ kiếm được khoảng 750 triệu dollar nhờ AWS. Thực tế là cả một thế hệ các công ty Internet sẽ không thể tồn tại nếu thiếu AWS. Đế chế phim trực tuyến Neflix vận hành nhờ nó. Zynga, công ty trò chơi điện tử xã hội dùng nó để đáp ứng khách hàng khi cầu tăng đột biến. AWS cũng đã trở thành một phần trong cuộc sống của các doanh nghiệp mới thành lập ở Thung lũng Silicon, đến mức các nhà đầu tư vốn mạo hiểm thường tặng thẻ mua quà của Amazon cho các doanh nghiệp. Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì phải liên tục mở rộng. Mỗi ngày, Jassy bổ sung thêm một lượng công suất máy tính hoạt động đủ để phục vụ nguyên tập đoàn Amazon thời năm 2000 với doanh thu 2,8 tỷ dollar. Sự mở rộng của tất cả lượng dữ liệu đó diễn ra trong những tòa nhà khổng lồ, được thiết
Lơ lửng trên trời 83
kế đặc biệt của Amazon. Tòa lớn nhất có diện tích lên tới hơn 65.000 m2, tương đương với 16 sân bóng. Các thiết bị được kết nối với nhau này nằm rải rác trên khắp thế giới và chính là nơi AWS hoạt động kinh doanh: điện toán đám mây. Từ “đám mây” chỉ vô số tác vụ không định hình, không thể nhìn thấy, không thể hình dung đang diễn ra trên máy tính của người khác.
Mặc dù đám mây mới đang trong thời kỳ sơ khai, nhưng nhờ công nghệ này và khả năng kết nối không dây mà riêng trong năm 2009, lưu lượng dữ liệu trên toàn thế giới đã tăng 50%. “Càng nhiều người được kết nối thì càng có thêm nhiều người tham gia kết nối” – lời Léo Apotheker, cựu tổng giám đốc điều hành Hewlett-Packard. “Nhờ đó tạo nên hiệu ứng mạng lưới, làm thế giới càng phẳng thêm mỗi ngày”.
Thực tế là mỗi ngày, thêm nhiều đặc tính trước đây chỉ riêng có của máy tính cá nhân giờ cũng xuất hiện trên điện thoại và máy tính bảng. Đúng là đa phần mọi người không sở hữu điện thoại thông minh. Nhưng bạn có thể thấy trong tương lai, điện thoại sẽ thông minh. Sẽ xuất hiện những chiếc điện thoại có thể truy cập web và quay video ở mọi nơi, dành cho mọi người – và sẽ sớm hơn bạn nghĩ. Kết quả là sẽ có thêm hai tỷ người nữa tham gia giao tiếp trên toàn cầu và hợp tác trên sân chơi toàn cầu. Rất nhiều người trong số họ chỉ cần biết thò tay lấy điện thoại và gõ phím chứ không phải thuê, mua máy tính hay học bất cứ ngôn ngữ lập trình nào cả.
Tóm lại: Thế giới phẳng 1.0 tồn tại từ khoảng năm 1995 đến 2005 đã khiến Boston và Bangalore trở thành hàng xóm của nhau. Thế giới phẳng 2.0 tồn tại từ năm 2005 đến nay đang khiến Boston, Bangalore và Sirsi trở thành hàng xóm của nhau. Sirsi là nơi nào? Đó là một trung tâm thương mại nông nghiệp có 90.000 dân, cách Bangalore khoảng 443 km, nằm ở vùng nông thôn Ấn Độ. Và điều này đang diễn ra khắp nơi, trên mọi quốc gia.
Trong Thế giới phẳng 1.0, theo Alan Cohen, phó chủ tịch phụ trách tiếp thị của Nicira, một công ty mạng phần mềm mới sống nhờ đám mây trên mạng thì “mọi người đều là người tiêu dùng hàng hóa và thông tin trong cái đang trở thành thị trường người tiêu dùng cuối cùng. Bạn có thể mua bất cứ thứ gì, từ bất cứ ai, ở bất cứ đâu”. Một số người cũng có thể trở thành nhà sản xuất hàng hóa và thông tin (đó là những người chưa bao giờ nghĩ mình có thể làm như vậy), lập trang web riêng hoặc tải lên mạng và chia sẻ ý kiến, âm nhạc, tranh ảnh, phần mềm hoặc bài viết về kiến thức chung của họ. Hệ thống kết nối của Thế giới phẳng 2.0 mới rất rẻ và di động này giúp hiện
84 từng là bá chủ
tượng nói trên liên tục mở rộng đến những vùng xa xôi nhất, đưa một nhóm người hoàn toàn mới nữa tham gia cuộc chơi. Kết quả chỉ là càng có thêm nhiều phát minh trên mọi lĩnh vực xuất hiện nhanh hơn. Cohen nói: “Hãy tưởng tượng họ sẽ sản xuất ra những gì. Đám mây giống như một xưởng sản xuất chung khổng lồ, nơi bất cứ ai muốn làm ra thứ gì đó đều có thể đến, thuê công cụ làm việc với giá gần như bằng không… [Điều đó] có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể có nguồn lực máy tính của Google và thuê theo giờ”. Theo Cohen, điều này nghĩa là các công ty cũ sẽ đổi mới nhanh hơn, công ty nhỏ phát triển thành lớn nhanh hơn, sản phẩm đắt tiền sẽ trở nên rẻ đi nhanh hơn, những công ty lớn sẽ phải điều chỉnh nhanh hơn. Nó cũng có nghĩa là bạn có thể khởi đầu nhanh hơn, thành công nhanh hơn và lụn bại nhanh hơn.
Nếu Thế giới phẳng 1.0 có đặc thù là con người làm ra hàng hóa và dịch vụ trên nền tảng toàn cầu mới thì Thế giới phẳng 2.0 là tất cả những điều đó cộng thêm việc con người có thể đưa ra và chia sẻ ý tưởng cũng trên một nền tảng chung. Craig Mundie, giám đốc điều hành chiến lược và nghiên cứu của Microsoft giải thích với chúng tôi rằng những gì máy tính cá nhân, Internet và công cụ tìm kiếm làm cho các trang web “đã cho phép những người có kết nối Internet có thể tìm kiếm bất cứ thứ gì họ quan tâm”. Còn những gì máy tính cá nhân, điện thoại thông minh, Internet và Facebook đang làm lại “cho phép bất cứ ai cũng có khả năng tìm được bất cứ người nào” mà họ quan tâm – ít nhất là với 500 triệu người đang sử dụng mạng xã hội. Họ có thể tìm những người có chung sở thích đan lát, thích nấu ăn kiểu Ethiopia, hâm mộ đội bóng chày New York Yankees, có con bị hội chứng Down, nghiên cứu bệnh ung thư, tiến hành thánh chiến chống Mỹ hay lật đổ chính quyền Ai Cập, Tunisia hay Syria.
Khi có rất nhiều người có thể tìm thấy bất cứ thứ gì và bất cứ ai dễ dàng hơn bao giờ hết, và liên lạc với nhau thuận tiện hơn bao giờ hết nhằm làm ra sản phẩm, viết bách khoa thư, tiến hành cách mạng thì có nghĩa là bạn đang sống trong Thế giới phẳng 2.0 – một thế giới siêu kết nối. Và nó có những tác động rất sâu sắc.
“Giờ đây, con người không chỉ có hệ thống tiếp cận thông tin riêng để biết những gì đang xảy ra trong và ngoài nước và thảo luận những vấn đề này với người khác mà còn có cơ chế ra lệnh và kiểm soát để chính họ có thể làm được điều gì đó” – Mundie nói thêm. “Trước đây, chỉ các chính phủ và quân đội mới có hệ thống ra lệnh và kiểm soát ở quy mô lớn. Giờ đây con người bình thường cũng có. Và những công cụ này càng phát triển trên diện rộng
Lơ lửng trên trời 85
"""