" Tự Thú - Lev Tolstoy PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tự Thú - Lev Tolstoy PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo CONFESSION Lev Tolstoy TỰ THÚ Tự truyện của Lev Tolstoy Bản dịch: Đỗ Tƣ Nghĩa Thân mến gửi bản dịch này đến tất cả những tâm hồn đồng điệu trên mặt đất – những người luôn thao thức về câu hỏi: “ Ý nghĩa của cuộc sống là gì?” Đỗ Tư Nghĩa Dalat. 14.7.2012 1 * Nguyên tác tiếng Nga: Lev Tolstoy. * Bản dịch tiếng Anh: David Patterson. NXB W.W. Norton & Company, Inch. New York . 1996. * Bản dịch Việt ngữ: Đỗ Tƣ Nghĩa. NXB Văn hóa Sài Gòn. 2007. Mục Lục Dẫn nhập CHƯƠNG I CHƯƠNG II CHƯƠNG III CHƯƠNG IV CHƯƠNG V CHƯƠNG VI CHƯƠNG VII CHƯƠNG VIII CHƯƠNG IX CHƯƠNG X CHƯƠNG XI CHƯƠNG XII CHƯƠNG XIII CHƯƠNG XIV CHƯƠNG XV CHƯƠNG XVI Lời Cuối 2 DẪN NHẬP Vào mùa thu năm 1879, Lev Tolstoy, tác giả của Chiến tranh và Hòa bình (1869) và Anna Karenina (1877), lúc ấy 51 tuổi, đi tới chỗ tin rằng ông đã không thành tựu đƣợc gì trong đời, và rằng đời ông là vô nghĩa. Một trong hai tác phẩm này có lẽ đã bảo đảm cho ông một chỗ thƣờng hằng trong những cuốn sử biên niên của văn học thế giới; cả hai đều chứng minh cho chiều sâu của thiên tài và tính sáng tạo của ông. Nếu thành tựu nghệ thuật với độ lớn này không thể truyền ý nghĩa vào cho cuộc sống, thì phải tìm ý nghĩa ở nơi đâu ? Đó là “câu hỏi về cuộc sống” mà Tolstoy đã nêu ra trong Tự Thú của ông, một câu hỏi cũng phi thời gian [1] nhƣ tinh thần [2] vậy. Ernest J. Simmon đã mô tả Tự Thú nhƣ là “một trong những phát ngôn [3] cao cả nhất và can đảm nhất của con ngƣời, những tuôn trào [4] của một linh hồn bị bối rối cực độ bởi vấn đề lớn của cuộc sống – mối quan hệ của con ngƣời với cái vô hạn – nhƣng đƣợc thực hiện với sự chân thành hoàn toàn và nghệ thuật cao.” [5] Đó là một câu chuyện kể về cuộc khủng hoảng tâm linh xảy ra vào lúc nửa đời, mà những thành tố của nó đã “ủ men” trong con ngƣời này từ trong tuổi trẻ của ông. Nhƣ thế, Tự Thú đánh dấu một khúc ngoặt trong mối quan tâm của Tolstoy với tƣ cách là một tác giả, và sau 1880, sự chú tâm của ông đƣợc tập trung một cách hoàn toàn tƣờng minh và hầu nhƣ chuyên nhất vào cuộc sống tôn giáo mà ông tin là đƣợc lý tƣởng hóa [6] trong ngƣời nông dân. 3 Mặc dù có những tƣơng đƣơng trùng hợp giữa những vò xé của Levin trong Anna Karenina và những xung đột của chính Tolstoy trong Tự Thú, cuốn sau đƣợc viết ra 2 năm sau khi ông cho xuất bản cuốn trƣớc, và trình bày một suy tƣởng đƣợc khai triển nhiều hơn về câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và những vấn đề bao quanh đức tin; quả thực, đây chính là những khó khăn mà nhiều nhân vật về sau của ông phải đƣơng đầu, bao gồm những nhân vật có chức danh trong Cái chết của Ivan Illich (1886), và Cha Sergius (1896), cũng nhƣ Brekhunov trong Chủ và Tớ (Master and Man. 1895), và Nekhlyudov trong Phục sinh (1900). Sau khi hoàn thành Anna Karenina, Tolstoy toan tính làm một ít phác thảo có tính thôn dã [7] về cuộc sống nông dân, nhƣng mối bận tâm của ông với đức tin, cái chết và ý nghĩa cuộc sống khiến cho ông khó viết gì đƣợc. Vào khoảng cuối năm 1877, Tolstoy bị chìm sâu trong cuộc xung đột giữa đức tin và lý tính. [8] Vào mùa đông của năm 1877-78, chẳng hạn, ông viết một ít cho 2 tiểu phẩm nhan đề Một tranh luận về Đức tin tại Kremlin và Những người đàm thoại (The Interlocutors) trong đó ông đƣa ra những thảo luận về đức tin giữa những kẻ có đức tin [9] và những kẻ vô tín [10]. Rồi ông đặt những dự án này sang một bên để bắt đầu việc khảo cứu cho một cuốn (xem nhƣ phần) tiếp theo của Chiến tranh và Hòa bình đƣợc gọi là Những người tháng Chạp, nhƣng công việc của ông trên cuốn tiểu thuyết mới này bị ngắt quãng hơn một tháng vào mùa hạ năm 1878 – lúc đó, ông làm một chuyến đi ẩn dật tôn giáo [11] tới Samara tại miền Nam nƣớc Nga. Không bao lâu sau, ông trở về nhà vào ngày 3 tháng 8, hòa giải một mối cừu hận với Turgenev mà đã kéo dài 17 năm. Tuy nhiên, vào tháng 2 năm 4 1879, ông hoàn toàn ngừng công việc của ông trên Những người tháng Chạp mà không có lời giải thích nào. Tolstoy tin rằng một trong những câu hỏi vĩnh cửu đối với mọi ngƣời là cái mức độ mà y phụng sự Thƣợng đế hay thần tiền tài vật chất. Chính là với câu hỏi này trong tâm trí mà ông đã bắt đầu những chuẩn bị cho một cuốn tiểu thuyết khác, Một trăm năm. Tác phẩm mới này sẽ nói về Peter Đại Đế, nhƣng vào khoảng mùa hè năm 1879, Tolstoy cảm thấy ông không có đủ nghị lực để tiếp tục cái dự án đó. Vào 14 tháng 6, ông lại làm một chuyến đi ẩn dật tôn giáo khác, lần này đến Tu viện Hang Động tại Kiev, nơi mà ông tìm thấy những tu sĩ mộc mạc sống đời họ theo “ những đƣờng lối Kytô cổ xƣa”. Chuyến đi tới Kiev đã phục hồi tinh thần của ông nhiều đến mức bây giờ ông có đủ nghị lực để hoàn toàn cắt đứt với Hội thánh Chính thống Giáo, và ngay sau đó, ông khởi sự chứng minh rằng những lời dạy của Hội thánh thì chẳng phù hợp chút nào với Phúc Âm. Chắc chắn là Tự Thú ban đầu có một tiểu đề : Dẫn nhập vào một tác phẩm chưa xuất Bản, tác phẩm đó là Một điều nghiên về Thần học Giáo điều, trong đó Tolstoy thực hiện một trong dăm bảy cuộc tấn công của ông nhắm vào Hội thánh. Sau khi hoàn tất một bản thảo sơ lƣợc của Tự Thú vào cuối năm 1879, Tolstoy hiệu đính nó bằng cách sử dụng tƣ liệu từ tiểu luận mang tính tự truyện – chƣa đầy đủ – của ông, “Tôi là cái Gì?” Tự Thú đƣợc dự tính là sẽ xuất hiện vào năm 1882, trong một số của tạp chí Russkaya mysl‟, nhƣng do những khó khăn về kiểm duyệt, mãi đến 1884 nó mới xuất hiện, khi mà nó đƣợc xuất bản tại Geneva. [12] 5 Nên ghi nhận rằng cho mãi đến khi nó ra đời trong ấn bản tại Geneva, nó mới mang cái nhan đề Tự Thú. Để chứng minh cái gì đã bị nhà kiểm duyệt xem là hết sức đáng chê trách về Tự Thú, có lẽ là hữu ích, khi trích dẫn lại ở đây trang đầu tiên của ấn bản tại Geneva, đƣợc dự tính là một dẫn nhập cho ấn bản “bị sẩy thai” [13] tại Nga. Trong tác phẩm này của Bá tước L.N. Tolstoy, mà chúng tôi xuất bản ở đây, có một tấn kịch nội tâm của một tâm hồn mạnh mẽ trong tất cả chiều sâu và sự thâm thúy của nó, với tất cả cái xáo động khủng khiếp và bi đát của nó. Đây là một tâm hồn được phú bẩm một năng lực sáng tạo sung mãn, phấn đấu tiến về sự tự hoàn thiện [14] từ những năm thơ ấu; nhưng đây cũng là một tâm hồn được giáo dục trong những môi trường nơi mà mọi người sống theo những nguồn gốc cơ bản [15] của họ; những nguồn gốc ấy không những không dính dáng gì tới những lời dạy của giáo lý, mà phần lớn, trái nghịch lại với chúng – „bất cứ nơi nào những lời dạy của giáo lý hiện hữu‟, được dạy một cách lạnh lùng và hình thức, „được hỗ trợ bởi bạo lực, thì những lời dạy kia không phải là một phần của đời sống của những con người và những mối quan hệ giữa họ.‟ Ở đây trải ra một tấn kịch của một tâm hồn mà đã tìm kiếm – từ những năm thơ ấu – một lối đi tới chân lý, hay như tác giả nói, „ý nghĩa của cuộc sống‟. Đây là một tâm hồn phấn đấu với tất cả năng lực nội tâm của mình tiến về làn ánh sáng mà nó định hình ông và soi sáng cho ông ; ông cũng phấn đấu không kém, bằng phương tiện của một cuộc điều tra có tính khoa học, lạnh lùng, thuần lý và trừu tượng, 6 mà sau cùng dẫn tới Thượng Đế và chân lý thiêng liêng. Nó thật sự là một tấn kịch huy hoàng cho bất cứ ai mà linh hồn sống động của y có cái năng lực để hiểu biết và tri giác [16] cái ý nghĩa thâm sâu của nó; nó được viết bởi bàn tay của một kẻ đã sống qua tất cả những va chạm, vò xé và thống khổ nội tâm, bởi bàn tay của nhà văn tài ba của chúng ta. Trong những hoàn cảnh như thế, thì bất cứ cái gì mà người ta có thể nói về tác phẩm này sẽ dường như là thừa thãi. Tuy nhiên, chúng tôi mong ước cảnh giác với bạn đọc, xin đừng phạm phải cái sai lầm (mà) dễ dàng phạm phải bởi bất cứ ai nhặt lên một tác phẩm mới xuất bản, bất luận nó bàn về thiên nhiên vô hồn [17] hay bàn về tinh thần, là địa hạt của văn học. Cái sai lầm này phát xuất từ cái thể cách mà trong đó bạn đọc đối xử với tác phẩm này, cái cách mà bạn đọc tiếp cận nó và những điều mà y yêu sách từ nó. Không nên để cho bất cứ cái gì thuộc loại đó làm méo mó những tư tưởng của tác giả; đừng nên để cho bất cứ cái gì làm sai lạc hay làm tối tăm cái ý nghĩa chân thực của tác phẩm của ông, chẳng hạn như những định kiến [18] của chúng ta, theo đó chúng ta có thể nhìn tác phẩm bất cứ khi nào chúng ta bước vào nó với những câu hỏi võ đoán mà tác giả không mong ước trả lời và (hẳn là) ông cũng không nghĩ là ông quan tâm đến chúng [19] Sau cùng, ngƣời ta có thể hỏi, liệu Tolstoy có bao giờ thực sự tìm thấy cái ý nghĩa của cuộc sống hay cái chân lý mà ông tìm kiếm ? Về mặt này, bất luận ngƣời ta có nói gì đi nữa, thì rõ ràng là ông đã tiếp tục cuộc truy tầm của mình cho đến ngày nhắm mắt vào năm 1910: đời ông là một cuộc đời đặc trƣng hóa bởi nhiều sự tìm kiếm, cũng 7 nhiều bằng sự tìm thấy.[20] Quả thật, cái ý nghĩa mà ông phấn đấu để đạt tới, nó tự tiết lộ ra trong cuộc truy tầm nhiều hơn là trong sự phát hiện và việc nêu câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống thì quan trọng hơn là việc trả lời câu hỏi ấy. [21] Bởi vì, chính bằng cách nêu câu hỏi, mà tinh thần[22] dấn mình vào một cuộc tranh đấu cho một giọng nói, một cuộc đấu tranh mà tìm thấy sự biểu đạt của nó trong những tác phẩm nhƣ Tự Thú. DAVID PATTERSON [1] Timeless. [2] Spirit. [3] Utterances. [4] Outpourings. [5] Ernest J. Simmons, Leo Tolstoy ( Boston : Little, Brown and Co. 1946), p. 326. [6] Idealized. [7] Idyllic. [8] Mối quan hệ giữa đức tin [ faith] và lý tính [ reason] là một vấn đề rất quan trọng. Đức tin và lý tính xung đột với nhau, hay bổ túc, soi sáng cho nhau? Đây là câu hỏi đã làm tốn rất nhiều giấy mực! (ĐTN). [9] Believers. [10] Nonbelievers. [11] Religious retreat. 8 [12] Nhƣ vậy, ấn bản tiếng Nga của Tự Thú [ vào thời đó] không đƣợc in tại Nga. Và ấn bản tại Geneva, chắc hẳn chỉ là một bản dịch.? (ĐTN). [13] Aborted. [14] Self-perfection. [15] Basic origins. [16] Perceive. [17] Heartless nature. [18] Preconceptions. [19] Dịch từ N. N. Gusev, Lev N. Tolstoy, vol. 3. Moscow, 1963. t. 593. [20] His life is characterized as much by seeking as by finding. [21] David Patterson tỏ ra rất “ tri âm” với Tolstoy, khi ông đƣa ra nhận định này. Nêu câu hỏi, thì quan trọng hơn là trả lời nó. Câu nói này có vẻ nghịch lý, nhƣng rất đáng suy ngẫm. (ĐTN). [22] The spirit. 9 CHƢƠNG I Tôi đƣợc rửa tội và giáo dục theo đức tin Ky Tô giáo Chính Thống. [1] Ngay từ tấm bé và suốt thời thiếu niên và thanh niên, tôi đã đƣợc rèn luyện theo tín ngƣỡng của Giáo hội Chính thống. Nhƣng ở tuổi 18, khi tôi rời bỏ trƣờng đại học vào năm thứ hai,[2] tôi đã mất hết niềm tin vào những gì mà tôi đã đƣợc dạy. Nếu xét theo những gì mà tôi có thể nhớ đƣợc, thì tôi đã chƣa bao giờ thực sự có một niềm tin nghiêm túc. Tôi chỉ đơn giản tin cậy vào những gì mà tôi đã đƣợc dạy và vào những điều mà những bậc đàn anh của tôi đã tin tƣởng, gắn bó một cách trung thành. Nhƣng ngay cả sự tin cậy này cũng rất bấp bênh. Tôi nhớ rằng khi tôi 11 tuổi, một cậu học sinh trung học tên là Volodin‟ka M, đã chết từ lâu, đến thăm viếng chúng tôi vào một ngày chủ nhật, thông báo về phát hiện mới nhất (đƣợc lƣu hành ) tại trƣờng cậu. Cái phát hiện đó, là không có Thƣợng đế, và những điều mà ngƣời ta đang dạy chúng tôi chỉ là những câu chuyện cổ tích (đó là vào năm 1838). [3] Tôi nhớ, cái tin này đã cuốn hút sự quan tâm của các anh trai tôi nhƣ thế nào; thậm chí họ còn cho tôi tham dự vào những cuộc thảo luận của họ. Tôi nhớ rằng tất cả chúng tôi đều rất phấn khích, và chúng tôi xem cái tin này vừa là khá hấp dẫn, vừa hoàn toàn có thể là đúng sự thật. Tôi cũng nhớ cái thời gian khi mà anh trai tôi, Dmitri, lúc ấy đang học tại trƣờng đại học, bỗng nhiên hiến mình cho đức tin với tất cả sự đam mê cuồng nhiệt, một đam mê khác thƣờng, vốn phù hợp với bản chất của anh; anh bắt đầu tham dự tất cả những khóa lễ tại nhà thờ, ăn 10 kiêng, và sống một đời sống trong sạch và đạo đức. Tất cả chúng tôi, bao gồm cả những ngƣời lớn tuổi hơn, liên tục chế giễu anh, và vì một lý do nào đó, tặng cho anh biệt danh là Noah. [4] Tôi nhớ rằng khi Musin-Pushkin, lúc bấy giờ là một ủy viên quản trị của đại học Kazan, mời chúng tôi tới dự một buổi dạ vũ, anh tôi đã từ chối lời mời đó. Musin-Pushkin, với một chút giễu cợt, cố thuyết phục anh đến dự, nói rằng ngay cả David [5] cũng nhảy múa trƣớc con thuyền lớn đấy thôi. Lúc bấy giờ, tôi đồng tình với những lời nói đùa từ các bậc đàn anh của tôi, và họ dẫn tôi đến kết luận rằng: tôi phải học sách giáo lý vấn đáp và đi lễ nhà thờ, nhƣng không cần thiết phải xem trọng tất cả mọi thứ này. Tôi cũng nhớ là đã đọc Voltaire [6] khi tôi còn rất bé, và tôi không những là không khó chịu với sự giễu cợt của ông, mà thực sự còn thấy nó rất thú vị nữa. Sự cắt đứt với đức tin xảy ra trong tôi nhƣ nó đã xảy ra và vẫn còn xảy ra giữa những ngƣời thuộc loại chúng tôi, xét về mặt xã hội và văn hóa. Theo nhƣ tôi thấy, thì trong phần lớn trƣờng hợp, nó xảy ra nhƣ vầy: ngƣời ta sống nhƣ mọi ngƣời sống, nhƣng tất cả họ đều sống theo những nguyên tắc mà không những không dính líu gì tới những lời dạy của đức tin, mà phần lớn là ngƣợc lại với những lời dạy đó. [7] Những lời dạy của đức tin không có chỗ trong cuộc sống và không bao giờ đƣợc thể hiện trong những mối quan hệ giữa con ngƣời; chúng chỉ đơn giản không đóng vai trò nào trong cuộc sống. Những lời dạy của đức tin thì đƣợc phó thác cho một lãnh vực nào khác, tách rời khỏi cuộc sống và độc lập với nó. Nếu tình cờ mà ngƣời ta gặp phải chúng, thì đó chỉ nhƣ là một hiện tƣợng hời hợt nào đó, không dính dáng gì tới cuộc sống. 11 Ngày nay, nhƣ những ngày của quá khứ, nếu căn cứ vào cuộc sống và những hành động của một ngƣời, thì không có cách nào nói đƣợc rằng họ có phải là một kẻ có đức tin hay không. Nếu quả thật không có khác biệt nào giữa những ngƣời mà (trên bề mặt. ĐTN) rõ ràng là những tín đồ của đức tin Chính Thống và những ngƣời phủ nhận nó, thì sẽ không thuận lợi cho nhóm trƣớc. Rồi thì, nhƣ bây giờ, những ngƣời công khai tự xƣng là tín đồ của đức tin Chính Thống, thì phần lớn họ đều là những kẻ cố chấp, hẹp hòi, tàn nhẫn và vô đạo, bị gói kín trong cái tự cao tự đại của chính họ. Trái lại, trí tuệ, sự chính trực, tính thẳng thắn, tính hiền lành đôn hậu, và tính đạo đức, thì phần lớn đƣợc tìm thấy giữa những ngƣời tự xƣng là những kẻ vô-tín. Ngƣời ta dạy sách giáo lý vấn đáp [8] trong các trƣờng học và đƣa học sinh tới nhà thờ; những viên chức phải có giấy chứng nhận [9] để cho thấy rằng họ đã chịu phép ban thánh thể [10]. Nhƣng bây giờ, và thậm chí càng nhƣ thế trong quá khứ, một ngƣời thuộc giai cấp chúng tôi mà không còn ở trƣờng và chƣa đi làm cho nhà nƣớc, có thể sống hằng mấy chục năm mà không một lần đƣợc nhắc nhở rằng anh ta đang sống giữa những ngƣời Kytô giáo, trong khi chính anh ta thì đƣợc xem là một tín đồ của đức tin Ky tô giáo Chính thống. Hôm nay, nhƣ trong quá khứ, những lời dạy về đức tin, đƣợc chấp nhận theo kiểu tạm ứng, và đƣợc duy trì bởi áp lực bên ngoài, dần dần phai nhạt đi dƣới ảnh hƣởng của kiến thức và những kinh nghiệm sống, vốn đối nghịch với những lời dạy này. Rất thƣờng khi, một ngƣời cứ tiếp tục – trong nhiều năm – ngỡ rằng lời dạy tôn giáo đã đƣợc truyền vào cho anh ta từ thời thơ ấu thì vẫn còn nguyên vẹn, 12 nhƣng thực ra, trong mọi lúc không có một dấu vết nào của nó (lời dạy) còn sót lại trong anh ta. Có một ngƣời thông minh và trung thực, tên là S. đã một lần kể cho tôi câu chuyện anh ta đã thôi không còn là tín đồ nhƣ thế nào. Vào tuổi 26, trong khi tìm chỗ trú qua đêm trong một chuyến đi săn, anh đã quỳ xuống để cầu nguyện vào buổi chiều tối, nhƣ thói quen của anh từ ấu thơ. Anh trai của anh, đã đi cùng anh trong chuyến đi săn, thì đang nằm xuống nghỉ trên một tấm rơm và đang quan sát anh. Khi S. đã cầu kinh xong và chuẩn bị nằm xuống, ngƣời anh trai nói với anh, “Hóa ra là em vẫn còn làm việc đó.” Và họ không nói gì thêm với nhau. Từ ngày ấy về sau, S. từ bỏ việc cầu kinh và việc đi nhà thờ. Và 30 năm nay anh đã không cầu nguyện, không chịu phép ban thánh thể, và không đi nhà thờ nữa. Không phải bởi vì anh chia sẻ những xác tín của ngƣời anh trai và sống theo chúng; cũng không phải bởi vì anh đã quyết định về cái này hay cái nọ trong chính tâm hồn mình. Chỉ đơn giản là, lời nhận xét của ngƣời anh, nó giống nhƣ cái thúc nhẹ của một ngón tay chạm vào bức tƣờng sắp sụp xuống do cái trọng lƣợng của chính nó. Lời nhận xét của ngƣời anh trai đã chỉ ra cho anh thấy, rằng cái nơi chốn mà anh nghĩ là đức tin đã có mặt, hóa ra nó đã từ lâu trống rỗng; do vậy, những lời anh nói, những dấu thánh giá mà anh làm, và sự cúi đầu khi cầu nguyện, thì trong bản chất là những hành vi hoàn toàn vô nghĩa. Một khi đã thừa nhận sự vô nghĩa của những cử chỉ này, anh đã không thể nào tiếp tục chúng đƣợc nữa. Nó đã xảy ra nhƣ thế, và tôi tin rằng nó sẽ tiếp tục xảy ra, với đại đa số ngƣời. Tôi đang nói đến những ngƣời cùng một loại trong chúng tôi, xét về mặt văn hóa và xã hội, những ngƣời trung thực với chính 13 mình, chứ không phải là những ngƣời dùng đức tin nhƣ một phƣơng tiện để đạt một mục tiêu tạm bợ nào đó. (Những ngƣời này là những kẻ vô tín triệt để nhất; vì nếu đức tin, theo quan điểm của họ, là một phƣơng tiện để đạt tới một mục đích trần thế nào đó, thì quả thật, đó chẳng phải là đức tin gì cả). Những ngƣời cùng loại với chúng tôi thì ở trong một vị trí nơi mà ánh sáng của kiến thức và của cuộc sống đã phá sập cái cấu trúc giả tạo đó, và họ, hoặc là đã nhận ra điều này và đã bỏ nó lại đằng sau, hoặc là họ đã không còn ý thức đến nó nữa. Những lời dạy của đức tin đƣợc truyền dần vào trong tôi từ thời thơ ấu đã lìa bỏ tôi, y nhƣ chúng đã lìa bỏ những ngƣời khác; sự khác biệt duy nhất là, ngay từ rất sớm, từ khi tôi bắt đầu đọc sách và suy nghĩ nhiều, tôi đã sớm ý thức rằng tôi đã từ bỏ những lời dạy của đức tin. Từ tuổi 16, tôi đã bỏ cầu nguyện, bỏ đi nhà thờ và bỏ ăn kiêng. [11] Tôi ngừng tin vào cái đã đƣợc truyền dần vào tôi từ tuổi thơ, thế nhƣng tôi thật sự tin vào một cái gì đó, mặc dù tôi không thể nói đó là cái gì. Tôi thậm chí tin vào Thƣợng đế – hay đúng hơn, tôi không phủ nhận Thƣợng đế – nhƣng tôi không thể nói đó là loại Thƣợng đế nào; tôi cũng không phủ nhận Chúa Kytô và những lời dạy của Ngài, nhƣng tôi không thể nói là những lời dạy đó bao gồm những gì. Bây giờ, khi nhìn lại thời gian đó, tôi thấy rõ rằng, trừ ra cái bản năng thú vật, thì cái niềm tin mà đã tác động đến đời tôi, cái niềm tin đích thực duy nhất mà tôi đã có, là niềm tin vào sự hoàn hảo [12]. Nhƣng lúc bấy giờ tôi đã không thể nói sự hoàn hảo đó bao gồm cái gì, hay mục đích của nó có thể là cái gì. Tôi cố đạt tới sự hoàn hảo về tri thức [13]; tôi học hỏi mọi thứ mà tôi có thể, mọi thứ mà cuộc sống 14 đã cho tôi một cơ hội để học. Tôi cố hoàn thiện ý chí của mình và tự đề ra những luật tắc cho chính mình mà tôi nỗ lực tuân thủ. Tôi phấn đấu để đạt tới sự hoàn hảo về thể lực, bằng cách thực hành mọi bài tập thể dục nhằm phát triển sức mạnh và sự nhanh nhẹn, và bằng cách kinh qua tất cả những khó khăn vất vả nhằm chế ngự bản ngã qua sự chịu đựng và kiên nhẫn. Tôi xem mọi thứ này là những cái phải làm để đạt tới sự hoàn hảo. Dĩ nhiên, mục đích ban đầu của mọi thứ này là nhằm đạt tới sự hoàn hảo về đạo đức, nhƣng rồi điều này nhanh chóng đƣợc thay thế bằng một niềm tin vào sự hoàn hảo toàn diện, có nghĩa là, một ham muốn trở nên tốt hơn, không phải trong mắt của riêng tôi hay trong mắt Thƣợng đế, mà đúng hơn, là một ham muốn trở nên tốt hơn trong mắt của ngƣời khác. Và cái nỗ lực này – trở nên tốt hơn trong mắt ngƣời khác – thì nhanh chóng đƣợc thay thế bằng một hoài vọng trở nên mạnh mẽ hơn những ngƣời khác, có nghĩa là, đƣợc nổi tiếng nhiều hơn, quan trọng nhiều hơn, và giàu có hơn những ngƣời khác. [14] [1] Một giáo phái của Kytô giáo. Vào thế kỉ thứ 11, xảy ra cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, phân chia thành Chính Thống giáo Đông phƣơng và Công giáo Roma. (ĐTN). [2] Vào ngày 12 tháng 4 năm 1847, Tolstoy xin thôi học đại học Kazan vì những lý do sức khoẻ. Không lâu sau đó, ông trở lại trang viên của mình tại Yasnaya Polyana, cách Maskơva 130 dặm. [3] Vào 25 tháng 5 năm này, Bà của Tolstoy mất. Sự qua đời của bà gây cho ông nỗi hãi hùng và khiến cho ông rất đỗi quan tâm về sự chết nhiều tháng sau đó. 15 [4] Noah: ( Cựu ƣớc). Tên một tộc trƣởng. Để trừng phạt loài ngƣời, Đức Chúa Trời đã tạo ra cơn Đại hồng hủy, song Ngài ra lệnh cho ông đóng một con thuyền lớn, nhờ vậy mà gia đình ông và các loài thú khỏi bị tuyệt chủng. (ĐTN). [5] David: ( Cựu ƣớc): Vua của Israel, tác giả của Thánh vịnh (psalms). (ĐTN). [6] Francois Marie Arouet de Voltaire ( 1694 – 17778): là một triết gia, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận, nhà thơ, nhà sử học và nhà châm biếm của Pháp. Là một trung tâm tranh cãi suốt đời ông, Voltaire trở thành phát ngôn viên cho những ý tƣởng duy lý, chống giai cấp tăng lữ của Thời đại Ánh sáng. [7] Đây là một thực tế, vốn xảy ra trong tất cả tôn giáo có tổ chức, và không có ngoại lệ! ( ĐTN). [8] Catechism. [9] Certificate. [10] Holy communion. [11] Nhƣ vậy, Tolstoy từ bỏ đức tin rất sớm. ( ĐTN). [12] Perfection. [13] Intellectual perfection. [14] Niềm “ hoài vọng” này đã dẫn Tolstoy đi lạc đƣờng rồi! ( ĐTN). 16 CHƢƠNG II Một ngày nào đó, tôi sẽ kể câu chuyện đời tôi, bao gồm cả những khía cạnh đáng thƣơng [1] lẫn (những khía cạnh) bổ ích [2] của 10 năm đó, trong thời tuổi trẻ của tôi. Tôi nghĩ rằng nhiều ngƣời, rất nhiều ngƣời, đã có những kinh nghiệm tƣơng tự. Với tất cả tâm hồn, tôi khát khao muốn đƣợc thiện lành; nhƣng mà tôi thì còn trẻ, tôi có những đam mê, và tôi cô độc, hoàn toàn cô độc, bất cứ khi nào tôi tìm kiếm cái gì (là) tốt lành. Cứ mỗi lần tôi cố biểu lộ những mong ƣớc chân thành tâm huyết nhất của tôi – mong ƣớc trở nên tốt lành về mặt đạo đức – thì tôi gặp phải sự khinh miệt, sự chế giễu; và ngay khi tôi buông mình vào những đam mê thấp hèn, tôi đƣợc ngợi khen và cổ vũ. Tham vọng, lòng yêu quyền lực, quyền lợi cá nhân, sự dâm đãng, tính kiêu ngạo, sự giận dữ, sự trả thù – tất cả mọi thứ này thì rất đƣợc nể trọng. [3] Khi tôi tự nộp mình cho những đam mê này, tôi trở nên giống nhƣ những bậc đàn anh của tôi, và tôi cảm thấy rằng họ hài lòng với tôi. Một bà cô tốt bụng của tôi, mà với bà tôi đã sống – một trong những phụ nữ xinh đẹp nhất – thì luôn bảo tôi rằng cái mong muốn tha thiết nhất của bà, là tôi có một cuộc tình với một ngƣời phụ nữ đã có chồng. [4] “Rien ne forme un jeune homme comme une liaison avec une femme comme il faut. [5] Một niềm hạnh phúc khác mà bà mong ƣớc cho tôi, là tôi trở nên một quan phụ tá, cho hoàng đế càng tốt. Và niềm hạnh phúc lớn nhất cho tôi, sẽ là cƣới một tiểu thƣ con nhà giàu (mà) có thể đem lại cho tôi càng nhiều nông nô càng tốt. 17 Tôi không thể nào hồi tƣởng lại những năm tháng này mà không có niềm kinh hãi, sự ghê tởm, và nỗi đau xé lòng. Tôi giết ngƣời trong chiến tranh, thách đấu súng với mục đích giết chết đối thủ, và thua bạc; tôi đã phung phí những thành quả lao động của những nông dân và rồi ngƣợc đãi họ; tôi đã từng là một kẻ thông dâm và một kẻ lừa đảo. Nói dối, trộm cắp, bừa bãi và lang chạ đủ kiểu, rƣợu chè, bạo động, sát nhân – không có tội ác nào mà tôi đã không phạm phải; [6] mặc dù thế, tôi đƣợc ca ngợi, và những đồng nghiệp của tôi đã và vẫn đang thực sự xem tôi là một ngƣời tƣơng đối có đạo đức. [7] Tôi đã sống 10 năm nhƣ thế. Trong thời gian này, tôi bắt đầu viết vì hƣ danh, quyền lợi riêng tƣ và lòng kiêu mạn. [8]Trong tác phẩm, tôi làm cái mà tôi đã làm trong cuộc sống của mình. Để đạt đƣợc danh vọng và tiền bạc – là mục đích của tôi khi tôi viết – thì cần thiết phải giấu đi cái tốt và phô trƣơng cái xấu; và tôi đã làm nhƣ vậy. Lần này sang lần nọ, trong những tác phẩm của mình, tôi thƣờng âm mƣu che giấu những khát vọng về một cái gì đó mà sẽ mang lại ý nghĩa cho đời tôi – che giấu chúng dƣới cái mặt nạ của sự thờ ơ hay thậm chí sự đùa cợt nữa. Và tôi thành công trong việc này và đƣợc khen ngợi. Vào tuổi 26, khi chiến tranh [9] đã chấm dứt, tôi đến St Peterburg và dần quen biết những nhà văn tại đó. Họ chấp nhận tôi nhƣ là một thành viên thuộc phe nhóm của họ, chồng chất lên tôi sự vuốt ve tâng bốc. Trƣớc khi tôi kịp ngoái cổ nhìn ra đằng sau, thì những quan điểm của họ về cuộc sống – riêng cho phe nhóm của họ – đã trở thành những quan điểm của chính tôi, và chẳng bao lâu sau, tất cả những nỗ lực trƣớc đây của tôi – nỗ lực muốn trở nên tốt hơn – đã hoàn toàn 18 chấm dứt. Không có kỷ luật nào kiềm chế nữa, tôi để cho những quan điểm này biện minh cho đời mình. Cái lý thuyết đƣợc áp dụng bởi những ngƣời này, những văn hữu của tôi, là: cuộc sống diễn tiến theo một sự phát triển chung, và những nhà tƣ tƣởng đóng vai trò hàng đầu trong sự phát triển ấy; và rồi, chúng tôi (phe nhóm chúng tôi), những nghệ sĩ và những nhà thơ, lại có ảnh hƣởng lớn nhất trên những nhà tƣ tƣởng. Sứ mệnh của chúng tôi là giáo dục những con ngƣời. Để tránh câu hỏi hiển nhiên: “Tôi biết những gì và tôi có thể dạy những gì?”, lý thuyết đó giải thích rằng không cần biết cái gì cả, và nhà nghệ sĩ và nhà thơ dạy một cách vô thức. [10] Bởi vì tôi đƣợc xem là một nghệ sĩ và một nhà thơ đáng kể, đƣơng nhiên là tôi tán thành cái lý thuyết này. Với tƣ cách là một nghệ sĩ và nhà thơ, tôi viết và dạy mà chính tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Làm việc này, tôi thu nhận tiền bạc; tôi tận hƣởng đàn bà, nhà trọ [11], sự giao du với tầng lớp thƣợng lƣu – tất cả đều tuyệt diệu; tôi nổi danh. Do vậy, bất cứ cái gì mà tôi đang dạy thuở ấy phải là rất tốt. Niềm tin vào kiến thức, thi ca, và sự tiến hóa của sự sống quả thật là một đức tin, và tôi là một trong những giáo sĩ của nó. Là một trong những giáo sĩ của nó – đây là một điều rất có lợi lộc và rất thú vị. Tôi sống một thời gian khá dài trong đức tin này, mà không hề nghi ngờ cái chân lý của nó. Nhƣng vào năm thứ hai và nhất là năm thứ ba của một cuộc sống nhƣ thế, tôi bắt đầu nghi ngờ sự không-thể sai-lầm [12] của đức tin này và bắt đầu xem xét nó một cách sát sao hơn. Điều đầu tiên dẫn tôi đến sự nghi ngờ là: tôi bắt đầu nhận thấy rằng chính những “giáo sĩ” rao giảng đức tin này (this faith) cũng không đồng ý với nhau. Vài ngƣời thƣờng nói, “Trong số những vị 19 thầy, chúng tôi là những vị thầy giỏi nhất và hữu ích nhất, bởi vì chúng tôi dạy những cái cần thiết, trong khi những vị thầy khác đều sai lầm.” Những ngƣời khác sẽ nói, “Không, chúng tôi là những ngƣời thầy đích thực. Chính các ông mới là sai lầm.” Họ tranh luận, cãi vả, lăng mạ, dối gạt, và lừa đảo lẫn nhau. Thêm vào đó, trong số chúng tôi, có nhiều ngƣời thậm chí không quan tâm đến việc ai sai và ai đúng; họ chỉ đơn giản theo đuổi những cùng đích ích kỷ của họ và có sự hỗ trợ từ hoạt động của chúng tôi. Tất cả những sự kiện này buộc tôi phải nghi ngờ cái chân lý của đức tin của chúng tôi. Hơn nữa, một khi tôi đã đi tới chỗ nghi ngờ cái đức tin của những nhà văn này, tôi bắt đầu quan sát những “giáo sĩ” của nó một cách kỹ càng hơn, và trở nên xác tín rằng, gần nhƣ tất cả những giáo sĩ của đức tin này (this faith) là những kẻ vô đạo đức, [13]và trong phần lớn trƣờng hợp, họ thiếu nhân cách, đê tiện và không xứng đáng. Nhiều ngƣời trong số họ thì còn thấp kém hơn những ngƣời mà tôi đã gặp trƣớc đây trong cuộc đời quân ngũ phóng đãng của tôi, nhƣng họ hài lòng và tự mãn đến cái mức độ mà ngƣời ta chỉ có thể tìm thấy hoặc là ở những vị thánh toàn thiện, hoặc là nơi những kẻ không biết sự thiêng liêng linh thánh là cái gì. Mọi ngƣời trở nên đáng tởm [14] trong mắt tôi, và tôi trở đáng tởm trong mắt chính mình. Và tôi nhận thức rằng cái đức tin này là một ảo tƣởng lừa dối [15] Và điều lạ, là cho dù tôi nhanh chóng nhận ra sự dối trá hoàn toàn của niềm tin này và từ bỏ nó, tôi vẫn không từ bỏ cái địa vị đƣợc ban tặng cho tôi bởi những ngƣời này, cái địa vị của một nghệ sĩ, một nhà thơ, và một vị thầy. Tôi ngây thơ tƣởng tƣợng rằng tôi là một nhà thơ 20 và một nghệ sĩ, và tôi có thể dạy mọi con ngƣời mà chính tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Và do vậy, tôi cứ tiếp tục. Hậu quả của việc liên hệ với những ngƣời này, là tôi mắc phải một tật xấu mới: tôi phát triển một niềm tự hào bệnh hoạn và cái xác tín điên rồ rằng, sứ mệnh của tôi là dạy mọi ngƣời mà không cần biết tôi đang dạy họ cái gì. Bây giờ khi nhìn lại giai đoạn đó và hồi tƣởng lại cái tâm trạng của tôi và tâm trạng của những ngƣời này (một tâm trạng, nhân thể nói luôn, vẫn còn tồn tại giữa hằng ngàn ngƣời), tôi thấy mọi thứ đó có vẻ thật là đáng thƣơng, khủng khiếp và lố bịch; nó gợi lên những cảm nhận tƣơng tự nhƣ những cảm nhận mà ngƣời ta có thể trải nghiệm trong một nhà thƣơng điên. Vào thời đó, tất cả chúng tôi đều xác tín rằng chúng tôi phải nói, viết, và xuất bản càng nhanh chóng càng tốt, càng nhiều càng tốt, và rằng, điều ấy (thì) cần thiết cho sự tốt lành của nhân loại. Hằng ngàn ngƣời trong chúng tôi xuất bản sách và viết với một nỗ lực để dạy những ngƣời khác, trong khi đó, lại bài bác và xỉ vả lẫn nhau. Không để tâm đến cái sự kiện rằng chúng tôi chẳng biết gì cả, rằng chúng tôi không biết câu trả lời cho câu hỏi đơn giản nhất của cuộc đời, câu hỏi về cái gì là đúng và cái gì là sai, tất cả chúng tôi tiếp tục nói mà không còn lắng nghe nhau nữa. Thỉnh thoảng chúng tôi chiều chuộng và ca tụng lẫn nhau với điều kiện là chúng tôi đƣợc chiều chuộng và đƣợc ca tụng trở lại; vào những lúc khác, chúng tôi thƣờng chọc tức và quát tháo lẫn nhau y hệt nhƣ trong một nhà thƣơng điên. Hằng ngàn công nhân lao động vất vả ngày đêm, bằng tất cả sức lực của họ, thu thập và in ấn hằng triệu chữ để phát hành qua bƣu điện 21 đi khắp nƣớc Nga. Chúng tôi tiếp tục dạy, dạy, và dạy thêm mãi, và dạy tất cả mọi thứ đó, mà chƣa từng có cách nào để dạy; và rồi chúng tôi thƣờng nổi giận bởi vì ngƣời ta ít chú tâm đến chúng tôi. Quả thật kỳ lạ, nhƣng bây giờ tôi hiểu điều đó. Lý do đích thực đằng sau cái mà chúng tôi đang làm là: chúng tôi muốn kiếm đƣợc càng nhiều tiền bạc và lời khen càng tốt. Viết sách và làm báo là cái duy nhất mà chúng tôi biết cách làm để đạt tới mục đích này. Và do vậy, đó là cái mà chúng tôi đã làm. Nhƣng mà để dấn mình vào một cái gì quá vô ích nhƣ thế và đồng thời duy trì đƣợc cái xác tín rằng chúng tôi là những ngƣời quan trọng, chúng tôi cần một “cơ sở hợp lý” [16] để biện minh cho cái mà chúng tôi đang làm. Và do vậy, chúng tôi dựa vào cái cơ sở sau đây: tất cả những gì tồn tại thì đều phù hợp với lý tính [17] . Hơn nữa, tất cả những gì tồn tại thì đang tiến hóa. Và nó đang tiến hóa qua phƣơng tiện của một sự “giác ngộ.” [18] Sự giác ngộ, đến lƣợt nó, trải qua sự thay đổi nhờ việc lƣu hành những cuốn sách và tạp chí định kỳ. Chúng tôi đƣợc trả tiền và đƣợc kính nể do việc viết sách và báo, và bởi thế, chúng tôi là những con ngƣời hữu ích và ƣu tú nhất. Cái lý luận này chắc đã có hiệu quả rất tốt, nếu tất cả chúng tôi đều đồng ý với nhau; nhƣng thực trạng lại nhƣ vầy: cứ một ngƣời phát biểu một quan niệm nào đó, lại có một ngƣời khác, phát biểu một quan niệm đối nghịch hoàn toàn với nó – sự kiện này lẽ ra phải dẫn chúng tôi đến chỗ xem xét lại vấn đề. Nhƣng chúng tôi đã không bao giờ nhận ra điều ấy. Chúng tôi nhận tiền, và những ngƣời thuộc tầng lớp chúng tôi ca ngợi chúng tôi; nhƣ thế, mỗi một ngƣời trong chúng tôi đều tin rằng chính mình đúng. 22 Bây giờ thì tôi thấy rõ rằng không có sự khác biệt nào giữa chúng tôi và những ngƣời điên đang sống trong một nhà thƣơng điên; vào thời ấy, tôi chỉ mơ hồ thoáng thấy điều này; và, giống nhƣ tất cả mọi ngƣời điên, tôi nghĩ rằng trừ tôi ra, tất cả mọi ngƣời khác đều điên cả. [1] Pathetic. [2] Instructive. [3] Điều này cho thấy cái xã hội mà trong đó Tolstoy đang sống, nó sa đọa nhƣ thế nào! ( ĐTN). [4] “… Her fondest desire was for me to have an affair with a married woman.” Tôi dịch sát nguyên văn. Chƣa hiểu rõ ý của tác giả. ( ĐTN). [5] Tiếng Pháp trong nguyên tác tiếng Nga. Tạm dịch: “ Không có gì hình thành một chàng trai trẻ cho bằng một cuộc dan díu với một ngƣời phụ nữ lịch thiệp.” [6] Dám phô bày hết những cái xấu xa của mình, Tolstoy thật trung thực và dũng cảm. J.J. Rousseau cũng viết một cuốn “Tự Thú”, nhƣng còn có ý muốn tự biện minh cho mình; nếu so sánh, thì Rousseau không trung thực và chân thành bằng Tolstoy. ( ĐTN). [7] Quả thực, Tolstoy là một ngƣời hết sức trung thực. Nhƣng cũng thật mỉa mai, mặc dù ông phạm phải nhiều “ tội ác” nhƣ thế, mà vẫn đƣợc xã hội thời đó xem nhƣ là ngƣời “ tƣơng đối có đạo đức” ! (ĐTN). [8] Thời nào cũng có những “ nhà văn” viết vì hƣ danh, quyền lợi riêng tƣ và lòng kiêu mạn, nhƣng đã mấy ai dám công khai “ tự thú” nhƣ Tolstoy! ( ĐTN). [9] Đây là cuộc chiến tranh Cremea ( 1853 – 1856), trong đó Anh quốc, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia hợp lực để đánh bại Nga. [10] Thật là ngụy biện! ( ĐTN). 23 [11] Lodgings. [12] Infallibility. [13] Nhân loại vẫn luôn là nạn nhân của những “ giáo sĩ” kiểu này ! ( ĐTN). [14] Repugnant. [15] Delusion. [16] Rationale. [17] Everything that exists is rational. [18] Enlightenment. 24 CHƢƠNG III Tôi đã sống nhƣ thế, buông mình vào trong cái sự điên rồ này thêm 6 năm nữa, cho đến khi tôi kết hôn. [1] Trong suốt thời gian này, tôi đi ra nƣớc ngoài. Cuộc sống của tôi tại châu Âu và sự quen biết của tôi với những ngƣời châu Âu nổi tiếng và thông thái, lại càng củng cố niềm tin của tôi vào cái khả-năng-trở-nên-hoàn-hảo nói chung, [2] bởi vì tôi cũng tìm thấy nơi họ một niềm tin tƣơng tự. Niềm tin của tôi thuở ấy mang một hình thức tƣơng tự nhƣ cái hình thức mà vẫn đang thịnh hành ở những ngƣời “ có học” [3] hiện nay của thời đại chúng ta. Niềm tin này đƣợc diễn đạt bởi cái từ “tiến bộ.” Vào thời ấy, đối với tôi, dƣờng nhƣ cái từ này có ý nghĩa. Giống nhƣ bất cứ cá nhân nào đang sống, tôi bị dày vò bởi câu hỏi: “Làm thế nào để sống tốt hơn?” Tôi vẫn chƣa hiểu đƣợc rằng, khi trả lời rằng ngƣời ta phải sống theo sự tiến bộ, thì tôi chỉ đang nói giống hệt nhƣ một ngƣời ở trong một chiếc xuồng đang bị sóng và gió cuốn đi; đáp lại câu hỏi quan trọng duy nhất – “Chúng ta phải lái về đâu?” – một ngƣời nhƣ thế nói, “Chúng ta đang bị cuốn đi tới một nơi nào đó.” Vào thời đó, tôi đã không nhận ra điều này. Chỉ thỉnh thoảng, những cảm xúc chứ không phải lý tính của tôi, phản kháng lại cái sự mê tín này, sự mê tín phổ biến của thời đại, mà nhờ nó ngƣời tự che giấu sự dốt nát của chính bản thân về cuộc sống – để khỏi nhìn thấy nó. Trong thời gian tôi lƣu lại Paris nhƣ thế, thì cảnh tƣợng của một cuộc hành hình đã phát hiện cho tôi sự mỏng manh thiếu vững chắc của niềm tin mê tín của tôi vào sự tiến bộ.[4] Khi tôi thấy cái đầu bị 25 tách lìa khỏi thân xác và nghe tiếng “bộp” của mỗi bộ phận khi nó rơi vào trong cái hộp (box), tôi đã hiểu, không phải với trí năng của tôi, mà với toàn bộ con ngƣời tôi, rằng không có lý thuyết nào về cái hữu lý [5] của sự hiện hữu hay của sự tiến bộ có thể biện minh cho một hành vi nhƣ thế; tôi nhận thức rằng, cho dù tất cả mọi ngƣời trên thế gian kể từ ngày sáng thế, xem cái việc hành hình này là cần thiết [6] theo bất cứ lý thuyết nào, thì tôi vẫn biết rằng nó không cần thiết, và nó sai trái. Bởi vậy, những phán đoán của tôi phải đƣợc đặt nền tảng trên cái gì là đúng và cần thiết, chứ không phải trên cái mà ngƣời ta nói và làm; tôi không nên phán đoán theo sự tiến bộ, mà phải phán đoán theo trái tim của riêng tôi. Cái chết của anh trai tôi là một thí dụ khác mà qua đó tôi nhận thức cái thiếu sót, bất cập của sự mê tín về sự tiến bộ trong mối quan hệ với cuộc sống. [7] Một con ngƣời nghiêm túc, thông minh, thiện lành, anh vẫn còn trẻ khi anh ngã bệnh. Anh chịu khổ sở trong hơn 1 năm và chết một cái chết đau đớn mà chƣa từng hiểu tại sao anh sống và càng ít hiểu tại sao anh đang nằm hấp hối. Không có lý thuyết nào có thể cung cấp bất cứ câu trả lời nào cho những câu hỏi này, hoặc cho anh, hoặc cho tôi, trong cái chết chầm chậm và đau đớn của anh. Nhƣng đây chỉ là những thí dụ hiếm hoi của sự nghi ngờ; nhìn chung, tôi vẫn tiếp tục sống, có một niềm tin duy nhất vào sự tiến bộ. “Mọi sự thì đang phát triển, và tôi đang phát triển; cái lý do tại sao tôi đang phát triển trong cách thức này, nó sẽ hiện ra ánh sáng, cùng với mọi thứ khác.” Vào thời đó, tôi đƣợc dẫn đến chỗ công thức hóa cái “đức tin” của tôi nhƣ vậy . 26 Khi tôi trở về nƣớc, tôi định cƣ tại vùng quê và dồn hết tâm sức vào những trƣờng học nông dân. Công việc này thì đặc biệt thân thiết với trái tim tôi, bởi vì nó không dính líu gì đến những lời dối trá mà đã trở thành hiển nhiên với tôi, những dối trá mà đã làm tôi khó chịu khi tôi là một vị thầy văn học. Ở đây tôi cũng đang hành động nhân danh sự tiến bộ, nhƣng tôi giữ một thái độ phê phán đối với sự tiến bộ. Tôi tự nhủ thầm rằng trong nhiều hình thức của nó, sự tiến bộ đã không diễn ra nhƣ lẽ ra nó phải, và rằng ở đây, cần phải để cho một dân tộc bán khai [8], những đứa trẻ nông dân, hoàn toàn tự do để chọn con đƣờng của tiến bộ mà họ muốn. Về bản chất, tôi vẫn đối mặt với cùng một vấn đề không thể giải quyết: tôi làm thế nào để dạy, mà không biết tôi đang dạy cái gì. Trong những lãnh vực cao hơn của văn học, rõ ràng là tôi không thể dạy mà không biết mình đang dạy cái gì; bởi vì tôi thấy rằng mọi ngƣời dạy một cách khác nhau, và rằng trong những luận cứ mà họ có, hầu nhƣ họ không che giấu nhau sự dốt nát của họ. Nhƣng ở đây, với con cái của nông dân, tôi nghĩ tôi có thể tránh né sự khó khăn này bằng cách cho phép lũ trẻ học bất cứ cái gì mà chúng thích. Bây giờ, điều ấy dƣờng nhƣ lố bịch đối với tôi khi tôi hồi tƣởng lại, nhƣ thế nào mà tôi đã thử làm điều này điều nọ để thực hiện cái ý muốn bốc đồng này – cái ý muốn dạy dỗ của tôi – trong lúc đó tôi biết rất rõ trong sâu thẳm linh hồn tôi rằng, không có cách gì tôi có thể dạy cái cần thiết cho mọi ngƣời, bởi vì tôi không biết cái gì là cần thiết. Sau một năm bận bịu với trƣờng học, tôi lại ra nƣớc ngoài để tìm kiếm xem làm thế nào để dạy trong điều kiện chính tôi không biết phải dạy nhƣ thế nào. 27 Tôi tin rằng tôi đã tìm ra một giải pháp ở nƣớc ngoài, và đƣợc trang bị bằng tất cả sự khôn ngoan này, tôi trở lại nƣớc Nga vào cái năm khi mà những nông nô đƣợc giải phóng.[9] Tôi nhận chức vụ của một trọng tài và bắt đầu dạy những ngƣời mù chữ trong những trƣờng học và những ngƣời biết chữ thông qua những tạp chí định kỳ mà tôi đã bắt đầu xuất bản. Mọi sự có vẻ tiến hành tốt, nhƣng tôi cảm thấy rằng, sức khoẻ tinh thần của tôi thì không là cái mà nó phải là, và rằng tình trạng này không thể tiếp diễn lâu. Ngay cả lúc bấy giờ, có lẽ tôi đã rơi vào nỗi tuyệt vọng mà sau này sẽ đến với tôi vào tuổi 50, nếu không nhờ một khía cạnh khác nữa của cuộc đời mà trƣớc đây tôi chƣa trải nghiệm, nó hứa hẹn sự cứu rỗi: cuộc sống hôn nhân. [10] Trong 1 năm, tôi bận bịu với việc làm trọng tài, với các trƣờng học, và với cái tạp chí (của tôi). Nhƣng chẳng bao lâu tôi mệt nhoài kiệt sức vì bị vƣớng kẹt vào trong toàn bộ sự việc. Cuộc đấu tranh với công việc trọng tài trở nên nặng nề với tôi; hoạt động của tôi tại các trƣờng học thì quá rắc rối phiền nhiễu, và sự lê lết của tôi với cái tạp chí trở nên khó chịu đối với tôi, bởi vì nó muôn đời đặt trọng tâm vào cùng một chuyện – cái ƣớc muốn dạy mọi ngƣời trong khi che giấu đi cái sự kiện rằng tôi không biết tôi đang dạy cái gì. Sau cùng, sự việc đi tới một điểm, tại đó tôi ngã bệnh, về tinh thần hơn là về thể xác; tôi từ bỏ hết mọi thứ và đi tới vùng thảo nguyên của những ngƣời Bashkirs để thở không khí trong lành; uống koumiss . [11] và sống một cuộc sống của loài thú. [12] Sau khi trở lại, tôi lập gia đình. Hoàn cảnh mới của một gia đình hạnh phúc đƣa tôi trệch hoàn toàn ra khỏi bất cứ sự tìm kiếm nào về 28 cái ý nghĩa toàn diện của cuộc đời. Vào thời đó, toàn bộ đời tôi tập trung vào gia đình tôi, vợ tôi, con cái tôi, và nhƣ thế, vào một mối quan tâm đến việc cải thiện cách sống của chúng tôi. Việc phấn đấu cho sự hoàn hảo cá nhân, mà đã đƣợc thay thế bằng một phấn đấu cho sự hoàn hảo nói chung, một phấn đấu cho sự tiến bộ, bây giờ trở thành một phấn đấu cho cái tốt nhất cho gia đình tôi và cho tôi. Mƣời lăm (15) năm nữa đã trôi đi nhƣ thế. Mặc dù trong suốt 15 năm này, tôi đã xem việc viết lách nhƣ là một nỗ lực vặt vãnh, [13] tôi vẫn tiếp tục viết. [14] Tôi đã nếm vị ngọt cám dỗ của nghề viết văn, những cám dỗ của những phần thƣởng to lớn về tiền bạc và sự hoan nghênh cho công việc vô giá trị, và tôi buông mình vào nó nhƣ là một phƣơng tiện để cải thiện cái tình huống vật chất của tôi và nhƣ là một cách để bóp nghẹt bất cứ câu hỏi nào trong tâm hồn tôi liên quan đến ý nghĩa của đời tôi và cuộc sống nói chung. Khi tôi viết, tôi dạy cái mà với tôi là chân lý duy nhất: rằng chúng ta phải sống cho bất cứ cái gì là tốt nhất cho chính chúng ta và gia đình chúng ta. Và tôi đã sống nhƣ vậy. Nhƣng cách đây 5 năm, một cái gì đó rất lạ kỳ đã xảy đến với tôi. Thoạt tiên, tôi bắt đầu có những khoảnh khắc bối rối ngỡ ngàng,[15] khi đời tôi đi tới một sự bế tắc, nhƣ thể là tôi không biết sống ra sao hay phải làm cái gì. tôi thƣờng đánh mất sự nhanh trí [16] và rơi vào trong một trạng thái trầm cảm, chán chƣờng.[17] Nhƣng trạng thái này qua đi, và tôi tiếp tục sống nhƣ trƣớc đây. Rồi những khoảnh khắc ngỡ ngàng bối rối hoang mang lại tái xuất hiện thƣờng xuyên hơn, và chúng luôn có cùng một hình thức. 29 Bất cứ khi nào cuộc đời tôi đi tới chỗ bế tắc, những câu hỏi thƣờng nổi lên: “Tại sao? Và cái gì tiếp theo?” Ban đầu, tôi nghĩ đây là những câu hỏi không đâu, và không ăn nhập gì đến tôi. Tôi nghĩ rằng những câu trả lời cho chúng thì đã đƣợc nhiều ngƣời biết tới, và rằng, nếu tôi có bao giờ muốn giải đáp chúng, thì việc ấy cũng không quá khó đối với tôi; chỉ có điều, là bây giờ tôi chƣa cần phải bận tâm tới việc đó, nhƣng nếu tôi phải tự mình giải đáp những câu hỏi đó, thì tôi sẽ tìm thấy những câu trả lời. Nhƣng những câu hỏi bắt đầu hiện lên mỗi lúc một thƣờng xuyên, và những yêu sách đòi hỏi câu trả lời trở nên ngày càng khẩn cấp. Và giống nhƣ những điểm [18] đƣợc tập trung vào trong một vị trí duy nhất, những câu hỏi không có câu trả lời này cứ tụ lại cùng nhau để tạo thành một vết đen duy nhất. Nó đã xảy ra với tôi nhƣ nó thƣờng xảy ra với bất cứ ai mắc phải một cơn bệnh nội tâm chết ngƣời. Ban đầu, có những triệu chứng không đáng kể của một cơn bệnh, mà bệnh nhân bỏ lơ đi; rồi những triệu chứng này tái xuất hiện mỗi lúc một thƣờng xuyên hơn, cho đến khi chúng đổ dồn vào thành một nỗi khổ không dứt. Sự khổ đau gia tăng, và trƣớc khi bệnh nhân có thể ngoái cổ nhìn ra sau, y khám phá ra cái mà y đã biết : cái mà y đã xem chỉ là một sự se mình, khó ở – cái đó lại là cái quan trọng nhất trên thế gian đối với y; thật ra, cái đó chính là cái chết. [19] Chính đây là cái đã xảy đến cho tôi. Tôi nhận thức rằng đây không phải là một cơn bệnh tình cờ thoáng qua, mà là một cái gì đó rất nghiêm trọng, và rằng, nếu những câu hỏi tƣơng tự còn tiếp tục tái diễn, tôi sẽ phải trả lời chúng. Và tôi cố trả lời chúng. Những câu hỏi 30 này có vẻ nhƣ là những câu hỏi ngờ nghệch[20], giản đơn và trẻ con. Nhƣng ngay khi tôi đặt hai bàn tay lên chúng và cố giải đáp chúng, tôi liền xác tín ngay rằng, trƣớc tiên, chúng không phải là những câu hỏi ngờ nghệch và trẻ con, mà chúng là những câu hỏi sâu xa và cốt tủy nhất trong đời, và, thứ hai, cho dẫu tôi có suy ngẫm về chúng nhiều thế nào đi nữa, tôi cũng không có cách gì giải đáp chúng. Trƣớc khi tôi có thể bận tâm với trang trại Samara, với sự giáo dục con trai tôi, hay với việc viết những quyển sách, tôi phải biết tại sao tôi đang làm những điều này. Chừng nào mà tôi không biết lý do tại sao, tôi không thể làm cái gì cả. Giữa cái mối quan tâm của tôi với gia đình, mà vào thời đó giữ cho tôi khá bận rộn, một câu hỏi bỗng nhiên đến trong đầu tôi: “ Rất tốt, bạn sẽ có 6.000 desiatin [21] tại tỉnh Samara, cũng nhƣ 300 con ngựa; rồi sao nữa ?” Và tôi hoàn toàn bị bất ngờ và không biết phải nghĩ gì khác. Ngay khi tôi bắt đầu nghĩ về việc giáo dục các con tôi, tôi thƣờng tự hỏi, “Tại sao ?” Hay tôi thƣờng suy tƣởng : bằng cách nào mà ngƣời ta có thể đạt đƣợc sự thịnh vƣợng, và tôi thƣờng bất giác tự hỏi, “ Nó có quan hệ gì đến tôi?” Hay giữa sự suy nghĩ của tôi về danh vọng mà những tác phẩm của tôi đang mang đến cho tôi, tôi thƣờng tự hỏi, “Rất tốt, bạn sẽ nổi danh hơn cả Gogol, Pushkin, Shakespeare, Moliere, nổi danh hơn cả tất cả những nhà văn trên thế giới – vậy thì sao ?” Và tôi tuyệt đối không thể tìm thấy một câu trả lời nào. 31 [1] Vào ngày 23. 9. 1862, lúc 34 tuổi, Tolstoy cƣới Sofia Andrevna Bers, mới 18 tuổi. [2] General perfectibility. [3] Educated. [4] Vào ngày 25. 3. 1857, Francoise Riche bị hành quyết về tội sát nhân. Vào 6. 4, Tolstoy đề cập đến cuộc hành quyết này trong nhật ký của ông: “ Anh ta hôn cuốn Phúc Âm và rồi - cái chết. Thật là một sự điên rồ!” [5] Rationality. [6] Necessary. Cũng có nghĩa là “ tất yếu.” [7] Ngƣời anh trai mà Tolstoy đặc biệt yêu quý, Nikolai, chết vì bệnh lao phổi vào ngày 20. 9. 1860, ở tuổi 37. Trƣớc đó, vào 21. 1. 1856, anh trai Dmitri của Tolstoy đã chết ở tuổi 28, cũng vì bệnh lao phổi. Mặc dù Dmitri đƣợc dùng làm ngƣời mẫu cho ngƣời anh trai của Levin trong Anna Karenina (1877), ở đây, chắc hẳn Tolstoy đang nói đến cái chết của Nikolai. [8] A primitive people. [9] Vào ngày 18. 2. 1861, Nga Hoàng Alexander II ban hành chiếu chỉ bãi bỏ chế độ nông nô. [10] Thực ra, cuộc sống hôn nhân hầu nhƣ không “ cứu rỗi” đƣợc gì cho Tolstoy, mà nó còn [ góp phần] biến đời ông thành… bi kịch! ( ĐTN). [11] Một loại sữa bò. ( ĐTN). [12] Animal life. [13] Chính trong giai đoạn này, khi ông “xem việc viết văn nhƣ là một nỗ lực vặt vãnh”, mà ông đã cho ra đời tác phẩm Chiến tranh & Hoà bình ( 1869). [14] Chiến tranh & Hòa bình luôn đƣợc xem là một kiệt tác của nền văn học thế giới. Nhƣng lại đƣợc Tolstoy xem chỉ là một “ nỗ lực vặt vãnh” mà thôi! Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì trên phƣơng diện văn học, nó là một kiệt tác. 32 Nhƣng cái mà Tolstoy đang tìm kiếm, là “ ý nghĩa của cuộc sống” – mà văn học chỉ là một thành tố góp phần tạo nên cái “ ý nghĩa” đó. (ĐTN). [15] Bewilderment. [16] Presence of mind. [17] Depression. [18] Points. [19] Cái chết ! Đây có phải là một vấn đề “ quan trọng nhất” ? Câu trả lời có thể rất khác nhau ở mỗi ngƣời. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, đa phần nhân loại xem cái chết là điều “ tự nhiên”, và họ gạt nó sang một bên, không nghĩ về nó nữa. Theo ĐTN, cái chết là một vấn đề rất lớn, bởi vì quan niệm của ta về sự chết, sẽ có ảnh hƣởng vô cùng lớn trên cách sống của ta. ( ĐTN). [20] Foolish. [21] 1 desyatin = 2. 7 mẫu Tây. Nhƣ vậy, Tolstoy có 16. 200 mẫu Tây tại tỉnh Samsara. 33 CHƢƠNG IV Đời tôi đi tới chỗ bế tắc. Tôi có thể thở, ăn, uống, và ngủ; quả thật, tôi không thể không thở, không ăn, và không ngủ. Nhƣng không có chút sự sống nào trong tôi, bởi vì tôi đã không có một ƣớc vọng nào; giá nhƣ mà tôi có, thì thì hẳn tôi đã thấy sự thỏa mãn nó là có lý. [1] Nếu tôi đã muốn một cái gì đó, thì tôi đã biết trƣớc rằng, dù có đạt đƣợc nó hay không, thì cũng chừng ấy chuyện. Nếu một bà tiên đến và có nhã ý cho tôi đƣợc thỏa mãn mọi ƣớc vọng của tôi, thì có lẽ tôi đã không biết tôi mong ƣớc cái gì. [2] Nếu trong những khoảnh khắc say sƣa, [3] tôi không có những ƣớc vọng nào ngoài những ƣớc vọng cũ đã thành thói quen, thì trong những khoảnh khắc tỉnh táo, [4] tôi biết rằng tất cả đó chỉ là một ảo ảnh lừa dối; rằng tôi đã thực sự không ƣớc vọng điều gì. Tôi thậm chí không còn muốn khám phá chân lý bởi vì tôi đã đoán trƣớc nó là cái gì. Chân lý đó là: cuộc đời là vô nghĩa.[5] Sự việc diễn ra nhƣ thể tôi đã sống một ít, lang thang một ít, cho đến khi tôi đến cái vực thẳm, và tôi thấy một cách rõ ràng rằng không có gì phía trƣớc ngoài ra sự đổ nát. Và tôi không thể ngừng lại, không thể quay trở lại, không thể nhắm mắt lại để khỏi thấy rằng không có gì ở phía trƣớc, ngoại trừ cái ảo ảnh lừa dối của cuộc đời, của hạnh phúc, và cái thực tại của đau khổ và sự chết, của sự hủy diệt hoàn toàn. Tôi đâm ra chán cuộc sống; một sức mạnh bất khả kháng nào đó đang dẫn tôi đến chỗ muốn loại bỏ nó bằng cách nào đó. Không phải 34 là tôi muốn tự kết liễu đời mình. Cái sức mạnh vốn đang dẫn tôi rời khỏi cuộc sống thì mạnh mẽ hơn, tuyệt đối hơn, bao trùm toàn diện hơn bất cứ ƣớc vọng nào. Với tất cả sức lực của tôi, tôi vùng vẫy để rời khỏi cuộc đời. Lúc bấy giờ, cái ý tƣởng tự vẫn đến với tôi một cách cũng tự nhiên nhƣ cái ý tƣởng về việc cải thiện cuộc sống vốn đã đến với tôi trƣớc đó. Cái ý tƣởng này có sức cám dỗ quá mạnh mẽ, đến nỗi tôi phải dùng thủ đoạn mƣu mẹo chống lại chính mình, để không phải thực hiện nó việc tự vẫn một cách quá vội vã. Tôi không muốn vội vàng chỉ vì tôi muốn sử dụng tất cả sức mạnh [6] của tôi để gỡ rối những ý tƣởng của mình. Nếu không thể gỡ rối chúng, tôi tự nhủ, tôi luôn luôn có thể tiến hành việc tự vẫn. Và hãy nhìn tôi kia – một con ngƣời may mắn – lại phải mang một sợi dây thừng ra khỏi căn phòng, nơi tôi ở một mình mỗi đêm khi thay quần áo, để sẽ không tự treo cổ từ cái xà ngang giữa những cái tủ. Và tôi từ bỏ việc đi săn với một khẩu súng ngắn, để sẽ không bị cám dỗ một cách dễ dàng đi tới chỗ loại bỏ chính mình. Chính tôi không biết là tôi muốn cái gì. Tôi sợ cuộc sống, tôi vùng vẫy để loại bỏ nó, và tuy vậy, tôi vẫn hy vọng về một cái gì đó từ nó. Và điều này đang xảy ra cho tôi vào một thời điểm mà, từ mọi dấu chỉ, [7] lẽ ra tôi nên đƣợc xem là một ngƣời hoàn toàn hạnh phúc; [8] sự việc này xảy ra khi tôi chƣa đầy 50 tuổi. Tôi có một ngƣời vợ tốt, nàng yêu tôi và tôi tha thiết yêu nàng, những đứa con xinh xắn và một bất động sản lớn đang phát triển và bành trƣớng mà tôi khỏi cần có nỗ lực nào. Hơn bao giờ cả, tôi đƣợc kính nể bởi bạn hữu và ngƣời quen, đƣợc ca ngợi bởi những ngƣời lạ, và tôi có thể tự đòi hỏi [9] một danh tiếng nào đó mà thực sự không tự lừa dối mình. Hơn nữa, 35 tôi không bệnh hoạn về thể xác và tinh thần; [10] trái lại, tôi đƣợc hƣởng một khí lực mạnh mẽ về cả thể xác lẫn tinh thần, mà tôi hiếm khi gặp đƣợc trong số những ngƣời cùng lứa tuổi với tôi. Về mặt thể lực, tôi có thể theo kịp những nông dân làm việc trên cánh đồng; về mặt tâm thần, tôi có thể làm việc 8 - 10 tiếng đồng hồ liên tiếp mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào từ sự căng thẳng đó. Và trong cái hiện tình nhƣ thế, tôi đã đi tới một điểm mà tại đó tôi không thể sống; và cho dù tôi không sợ hãi cái chết, tôi đã phải sử dụng những mƣu mẹo chống lại chính mình để giữ cho mình khỏi tự vẫn. Tôi đã mô tả cái điều kiện tâm linh của tôi cho chính mình trong cách này: đời tôi là một loại trò đùa ngu xuẩn và ác độc mà một ai đó đang chơi, nhắm vào tôi. Mặc dù sự kiện rằng tôi không công nhận sự hiện hữu của một ai đó mà có lẽ đã sáng tạo ra tôi [11] – mặc dù vậy, cái ý niệm rằng một ai đó đã cho tôi ra đời nhƣ là một trò đùa ngu xuẩn và độc ác, cái ý niệm ấy dƣờng nhƣ là cách tự nhiên nhất để mô tả cái tình trạng [12] của tôi. Tôi đã không thể không tƣởng tƣợng rằng, một ai đó đang tự lấy làm thích chí, đang cƣời nhạo tôi và cái cách mà tôi đã sống 30-40 năm, học tập, phát triển, tăng trƣởng về thể xác và tinh thần ; cƣời nhạo tôi về việc bằng cách nào mà tôi đã (trở nên) hoàn toàn chín chắn về mặt trí năng và đã tới cái chóp đỉnh mà từ đó cuộc sống tự phát lộ chính nó – chỉ để đứng ở đó giống nhƣ một gã khờ chính hiệu, thấy rõ rằng không có gì trong cuộc đời, rằng đã không bao giờ có và sẽ không bao giờ có. “Và điều đó khiến cho y (một ai đó) cƣời lớn …” Nhƣng dù thực sự có hay không có một ai đó (mà) đang chế giễu tôi, cái điều ấy cũng không khiến cho tôi dễ chịu hơn chút nào. Tôi 36 không thể gắn một ý nghĩa hợp lý [13] nào vào một hành vi đơn lẻ nào trong toàn bộ đời tôi. Cái điều duy nhất khiến cho tôi kinh ngạc, là làm sao mà tôi đã không nhận thức ra điều này ngay từ đầu. Đã từ lâu, mọi thứ này là điều mà ai cũng biết. Nếu không phải hôm nay, thì ngày mai, bệnh tật và cái chết sẽ đến (quả thật, chúng đang đến gần rồi) với mọi ngƣời, với tôi, và sẽ không có gì còn lại ngoài cái mùi hôi hám và lũ bọ giòi. Những hành động của tôi, dù chúng có thể là cái gì đi nữa, cũng sẽ bị lãng quên sớm hay muộn, và chính tôi sẽ không còn nữa. Vậy thì, tại sao phải làm một cái gì đó ? Làm sao ngƣời ta có thể không thấy điều này và có thể sống chứ ? Cái đó là điều đáng ngạc nhiên! Chúng ta có thể sống chừng nào mà cuộc sống làm say sƣa mê muội [14] chúng ta; một khi chúng ta tỉnh táo, chúng ta không thể không thấy rằng tất cả mọi thứ đó đều là một ảo ảnh lừa dối, một ảo ảnh ngu xuẩn [15] ! Cũng nhƣ không có gì là buồn cƣời hay dí dỏm về điều ấy; nó chỉ là tàn nhẫn và ngu xuẩn. Có một chuyện ngụ ngôn cổ phƣơng Đông, [16] về một kẻ lữ hành bị bất ngờ trên thảo nguyên bởi một con dã thú đang hoành hành. Cố cứu mình thoát khỏi con dã thú, ngƣời lữ hành nhảy vào trong một cái giếng đã cạn nƣớc; nhƣng ở dƣới đáy giếng, y thấy một con rồng đang giƣơng móng vuốt ra chờ vồ lấy y. Kẻ bất hạnh không dám leo ra vì sợ bị con dã thú giết, y cũng không dám nhảy xuống đáy giếng vì sợ bị con rồng vồ. Bởi vậy, y bám vào một cành của một bụi cây hoang dã đang mọc trong những kẽ nứt của cái giếng, và níu vào đó. Hai cánh tay y trở nên yếu dần và y cảm thấy rằng chẳng bao lâu nữa, y sẽ phải làm mồi cho Thần Chết đang đợi y ở cả hai phía. Thế nhƣng y vẫn cứ níu vào đó; và khi đang níu vào cành cây, y nhìn lên, thấy 2 37 con chuột, một đen một trắng, đang gặm vào xung quanh cái bụi cây nơi mà y đang treo lủng lẳng. Chẳng bao lâu bụi cây sẽ gãy và đổ xuống, và y sẽ rơi vào trong nanh vuốt của con rồng. Ngƣời lữ hành thấy điều này và biết rằng y chắc chắn sẽ chết. Nhƣng trong khi y đang treo lủng lẳng ở đó, y nhìn quanh và thấy những giọt mật trên những chiếc lá của bụi cây, và y lè lƣỡi ra và liếm chúng. Tôi cũng đang đeo níu vào cành cây của đời nhƣ thế, biết rằng tất yếu con rồng của sự chết đang chờ đợi, sẵn sàng xé tôi ra từng mảnh; và tôi không thể hiểu tại sao cái sự tra tấn này đã đổ xuống tôi. Tôi cố mút những giọt mật vốn đã một lần an ủi tôi, nhƣng mật thì không còn ngọt nữa. Ngày và đêm, con chuột trắng và đen đang gặm cái cành cây mà tôi đang níu vào. Tôi thấy con rồng một cách rõ ràng, và mật đã mất hết tất cả cái vị ngọt của nó. Tôi chỉ thấy con rồng mà tôi không thể trốn thoát và những con chuột, và tôi không thể quay mắt khỏi chúng. Đây không phải là câu chuyện cổ tích, mà là chân lý không thể bác bỏ, và đƣợc hiểu bởi mọi ngƣời. Cái ảo ảnh của hạnh phúc cuộc đời, mà trƣớc đây đã bịt mắt tôi lại trƣớc cái sự khủng khiếp của con rồng, bây giờ không còn lừa dối tôi đƣợc nữa. Dù tôi có tự khuyên nhủ chính mình thế nào đi nữa, rằng tôi không thể hiểu ý nghĩa của cuộc đời, rằng tôi nên sống mà không nghĩ về nó – tôi không thể làm điều này bởi vì tôi đã làm điều này quá lâu rồi. Bây giờ tôi không thể không thấy những ngày và đêm đang lao nhanh về phía tôi và dẫn tôi đến sự chết. Tôi chỉ thấy điều này, và chỉ điều này thôi, là chân lý. Mọi thứ khác chỉ là sự dối trá. Hai giọt mật mà, hơn bất cứ cái gì khác, đã làm mắt tôi xoay hƣớng, trệch khỏi cái chân lý tàn nhẫn này, là tình yêu dành cho gia 38 đình tôi, và việc viết lách của tôi, mà tôi đề cập đến nhƣ là nghệ thuật; thế nhƣng thứ mật này đã mất hết vị ngọt đối với tôi. “ Gia đình tôi…,” tôi nhủ thầm. Nhƣng gia đình tôi, vợ tôi và con tôi, cũng là những con ngƣời. Họ cũng đang chịu những điều kiện tƣơng tự nhƣ tôi : họ phải hoặc là sống trong dối trá hoặc là phải đối mặt với cái chân lý khủng khiếp đó. Tại sao họ nên sống ? Tại sao tôi nên thƣơng yêu họ ? Tại sao quan tâm tới họ, nuôi nấng họ, và chăm nom họ ? Hãy để cho họ có thể chìm vào trong nỗi tuyệt vọng, cái đang ăn mòn tôi, hay cứ để họ tiếp tục sống với sự ngu xuẩn [17] ? Nếu tôi yêu thƣơng họ, thì tôi không thể không phơi bày cái sự thật này cho họ thấy. Mọi bƣớc chân mà họ đang đi trong kiến thức [18] đều sẽ dẫn họ tới cái chân lý này. Và cái chân lý này là sự chết. “Nghệ thuật, văn học…?” Dƣới ảnh hƣởng của sự thành công và sự ca tụng từ những ngƣời khác, tôi đã tự thuyết phục mình một thời gian dài rằng có lẽ đây là cái mà tôi nên làm, mặc dù cái chết đang tới và nó sẽ hƣ vô hóa mọi sự – chính tôi, tác phẩm của tôi, và cái ký ức về chúng. Nhƣng chẳng bao lâu tôi thấy cả cái này nữa, là một ảo ảnh lừa dối. Mỗi lúc, tôi càng thấy rõ ràng rằng nghệ thuật là một sự trang trí của cuộc sống, một cái gì đó khuyến dụ chúng ta vào với cuộc đời. Nhƣng cuộc sống đã đánh mất sự quyến rũ của nó đối với tôi, vậy thì tôi làm sao để quyến rũ kẻ khác ? Chừng nào tôi không đang sống cuộc đời của chính mình, mà chỉ sống cuộc đời của một ngƣời khác, cuộc đời ấy nhƣ một ngọn sóng đang mang tôi đi trên cái chóp đỉnh của nó [19]; chừng nào mà tôi tin rằng cuộc sống có một ý nghĩa – mặc dù tôi không thể diễn đạt nó – thì cái phản ảnh của mọi thứ về cuộc sống qua văn học và nghệ thuật mang đến cho tôi lạc thú; tôi 39 hƣởng thụ việc nhìn đời trong tấm gƣơng soi của nghệ thuật. Nhƣng khi tôi bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, khi tôi bắt đầu cảm thấy cái nhu cầu phải sống, thì cái tấm gƣơng soi này lại trở thành hoặc là cái vò xé tâm hồn tôi, hoặc là nó trở nên không cần thiết, dƣ thừa, và lố bịch. [20] Tôi không còn có thể đƣợc an ủi bởi cái mà tôi thấy ở trong tấm gƣơng, bởi vì tôi có thể thấy rằng cái tình huống của tôi là ngu xuẩn và đầy tuyệt vọng. Thật tốt cho tôi để mà hân hoan, khi nào tận đáy linh hồn tôi, tôi tin rằng đời tôi có ý nghĩa. Khi nào tin nhƣ vậy, thì cái trò chơi của ánh sáng và bóng tối, trò chơi của cái hài, cái bi, cái gây xúc động, cái đẹp, và những thành tố khủng khiếp trong cuộc sống đã an ủi tôi. Nhƣng một khi tôi đã thấy cuộc sống là vô nghĩa và khủng khiếp, thì cái trò chơi trong tấm gƣơng không thể làm vui tôi đƣợc nữa. Dù mật có ngọt tới đâu chăng nữa, nó không thể ngọt đối với tôi, vì tôi thấy con rồng và những con chuột đang gặm vào cái trụ cột đang nâng đỡ tôi. Nhƣng mà sự việc không dừng lại ở đây. Nếu tôi chỉ đơn giản hiểu rằng đời không có ý nghĩa, có lẽ tôi đã có khả năng chấp nhận nó một cách bình thản; có lẽ tôi đã công nhận rằng số phận của tôi là nhƣ thế. Nhƣng tôi đã không thể thỏa mãn với chừng đó. Nếu tôi là một ngƣời sống trong một khu rừng, từ đó không có lối nào thoát ra, có lẽ tôi đã có khả năng tiếp tục sống; nhƣng tôi giống nhƣ ngƣời lạc lối trong rừng, kinh hãi bởi sự kiện rằng y bị lạc; giống nhƣ một ngƣời cứ chạy vòng quanh, mong ƣớc tìm đƣờng ra, và biết rằng mọi bƣớc chân đều dẫn y vào trong sự hỗn loạn sâu hơn, và thế nhƣng, lại không thể không chạy vòng quanh nhƣ thế. 40 Nỗi khủng khiếp đó là nhƣ vậy. Và để đƣợc giải phóng khỏi nỗi khủng khiếp đó, tôi đã muốn tự kết liễu đời mình. Tôi cảm thấy sự khủng khiếp của cái đang đợi tôi; tôi biết rằng sự khủng khiếp này thì ghê rợn hơn cái tình huống hiện tại của mình, nhƣng tôi không thể ngăn bƣớc đi của nó, và tôi không có sự kiên nhẫn để chờ sự kết thúc. Cho dù cái lập luận rằng, một mạch máu nào đó trong quả tim tôi dù sao cũng sẽ vỡ; rằng một cái gì khác sẽ làm cho nó vỡ, và mọi sự sẽ kết thúc – dù cái lập luận này có thuyết phục đến đâu chăng nữa, thì tôi cũng không thể kiên nhẫn chờ đợi sự kết thúc. Cái khủng khiếp của bóng tối thì quá lớn, và tôi muốn thoát khỏi nó càng nhanh càng tốt, bằng một sợi dây thừng, hay một viên đạn. Chính cái cảm nhận này, mạnh mẽ hơn bất kỳ cảm nhận nào khác, chính nó đang dẫn tôi về phía sự quyên sinh.. [1] Reasonable. [2] Trong một lúc nào đó, chắc nhiều ngƣời cũng có ý tƣởng này, giống nhƣ Tolstoy? ( ĐTN). [3] Intoxication. [4] Sobriety. [5] Jean-Paul Sartre và Albert Camus … cũng có quan niệm tƣơng tự. Nhƣng thực ra, đây là cũng chỉ là một trong số những cách nhìn về cuộc đời. Còn có rất nhiều quan niệm khác “ tích cực” hơn thế rất nhiều! ( ĐTN). [6] Strength. [7] Indications. 41 [8] Quả vậy, Tolstoy có đủ “ tiền tài, danh vọng; vợ đẹp, con khôn” – ông không thiếu một cái gì trong số đó! Nếu theo tiêu chí thông thƣờng, thì ông là ngƣời “hoàn toàn hạnh phúc.” Nhƣng, kẻ ấy, lại luôn muốn tự vẫn ! Có lẽ, đó là bi kịch, và cũng là sự vĩ đại của đời ông. (ĐTN). [9] Claim. [10] Mental. [11] “ Một ai đó” này, hẳn là Thƣợng đế. ( ĐTN). [12] Condition. [13] Rational meaning. [14] Intoxicates us. [15] A stupid delusion. [16] Đây là một câu chuyện ngụ ngôn thật hay, đáng cho ta suy ngẫm. ( ĐTN). [17] Stupidity. [18] Knowledge. [19] Có lẽ, Tolstoy muốn ví những ngƣời dân lao động là những ngọn sóng, và ông thuộc giai cấp đƣợc ƣu đãi, sống ăn bám vào quần chúng lao động, và đƣợc họ mang đi, cƣỡi trên chóp đỉnh của những ngọn sóng đó? ( ĐTN). [20] Ludicrous. 42 CHƢƠNG V Dăm bảy lần tôi tự hỏi, “ Phải chăng là tôi đã bỏ qua một cái gì đó; phải chăng là có một cái gì đó mà tôi đã không hiểu đƣợc ? Há chẳng phải, có thể trạng thái tuyệt vọng này là chung cho mọi ngƣời ?” Và tôi tìm kiếm một câu trả lời cho những câu hỏi của tôi, trong mọi lãnh vực của kiến thức đã thủ đắc bởi con ngƣời. [1] Trong một thời gian dài, tôi thực hiện cuộc tìm kiếm vất vả của mình; tôi không kiếm tìm một cách ngẫu hứng tùy tiện, chỉ do sự hiếu kỳ, nhƣng một cách đau đớn,[2] kiên trì dai dẳng, ngày đêm, giống nhƣ một ngƣời hấp hối đang tìm kiếm sự cứu rỗi. Tôi đã không tìm thấy gì. Tôi lục soát [3] mọi lãnh vực của kiến thức, và tôi không chỉ không thấy một cái gì, mà tôi còn xác tín rằng, tất cả những ngƣời mà đã thám hiểm kiến thức nhƣ tôi, sau cùng họ cũng không tìm thấy gì. Họ không chỉ không tìm thấy gì, mà họ còn công nhận một cách rõ ràng cùng một điều tƣơng tự, cái điều mà đã mang đến nỗi tuyệt vọng cho tôi: kiến thức độc nhất mà con ngƣời có thể đạt tới, đó là: cuộc sống là vô nghĩa. [4] Tôi lùng sục khắp nơi. Và nhờ vào một cuộc đời trải qua trong nghiên cứu, nhờ vào những mối quan hệ của tôi với thế giới có học thức, tôi đã tiếp cận những ngƣời thông thái nhất trong tất cả mọi lãnh vực đa dạng của kiến thức. Những học giả này không từ chối tiết lộ cho tôi cái tổng số kiến thức của họ, không chỉ qua những cuốn sách 43 của họ, mà còn qua những cuộc trò chuyện với họ; tôi biết mọi thứ mà kiến thức đã có để trả lời câu hỏi về cuộc sống.. Trong một thời gian dài, tôi đã không thể đƣa chính mình tới chỗ tin rằng kiến thức không có câu trả lời nào cho câu hỏi về cuộc sống ngoài cái câu trả lời mà tôi đã gặp, đã tìm thấy. Trong một thời gian dài, tôi đã nghĩ rằng có lẽ tôi đã hiểu nhầm một cái gì đó, khi tôi quan sát kỹ càng sự nghiêm trọng trọng [5] và tính nghiêm túc [6] trong cái giọng điệu của khoa học, xác tín trong cái lập trƣờng của nó, trong khi nó lại không dính dáng gì tới cái câu hỏi về cuộc sống của con ngƣời. Trong một thời gian dài, tôi rụt rè [7] xung quanh kiến thức, và tôi nghĩ rằng cái sự phi lý [8] của những câu trả lời đã đƣợc cung cấp cho câu hỏi của tôi, thì không phải là lỗi của kiến thức, mà là do sự ngu dốt của riêng tôi; nhƣng có điều là, đối với tôi, đây không phải là một trò đùa, một trò chơi, mà là một vấn đề sinh tử; và sau cùng tôi đi tới kết luận rằng, những câu hỏi của tôi là những câu hỏi chính đáng duy nhất làm cơ sở cho mọi kiến thức, và rằng, không phải tôi, mà khoa học đã phạm tội [9] trƣớc những câu hỏi của tôi nếu nó làm ra vẻ [10] nhƣ muốn trả lời những câu hỏi này. Câu hỏi của tôi, cái câu hỏi mà đã đƣa tôi tới bờ mép của sự quyên sinh khi tôi 50 tuổi, là câu hỏi đơn giản nhất nằm trong tâm hồn của mọi con ngƣời, từ một đứa trẻ ngờ nghệch cho đến những bậc cao niên khôn ngoan nhất, câu hỏi mà thiếu nó thì không thể sống đƣợc; đó là cái cách mà tôi đã cảm nhận về vấn đề này. Câu hỏi đó là nhƣ vầy: “Cái gì sẽ xảy ra với cái mà tôi làm hôm nay và ngày mai ? Cái gì sẽ xảy ra với toàn bộ đời tôi ?” 44 Diễn đạt một cách khác, câu hỏi có lẽ là: “ Tại sao tôi nên sống ? Tại sao tôi nên ao ƣớc một điều gì đó, hay làm một cái gì đó?” Hay, nói một cách khác nữa: “Có chăng một ý nghĩa trong đời tôi, [11] cái ý nghĩa mà sẽ không bị hủy diệt bởi cái chết của tôi – cái chết tất yếu, và đang tới gần ? Qua suốt kiến thức con ngƣời, tôi đã tìm kiếm một câu trả lời cho câu hỏi này – chỉ là một câu hỏi độc nhất đƣợc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau. Và tôi thấy rằng về câu hỏi này, thì cái tổng số kiến thức của con ngƣời dƣờng nhƣ đƣợc chia thành hai bán cầu nằm đối diện với nhau, thành hai đối cực chiếm giữ hai cực, một dƣơng [12] và một âm.[13] Nhƣng, ở cả hai cực đó, không có câu trả lời nào cho câu hỏi về cuộc sống. Một lãnh vực của kiến thức thì thậm chí không công nhận câu hỏi đó, cho dù nó trả lời một cách rõ ràng và chính xác những câu hỏi mà nó đã đặt ra một cách độc lập. Đây là lãnh vực của khoa học thực nghiệm, và cái đầu mút tận cùng [14] của nó là toán học. Lãnh vực kia của kiến thức thì công nhận câu hỏi đó, nhƣng không trả lời nó. Đây là lãnh vực của triết học tƣ biện [15] và tận cuối của nó là siêu hình học. Từ thuở còn rất trẻ, tôi đã nghiên cứu triết học tƣ biện, nhƣng về sau, cả toán học lẫn những khoa học tự nhiên đã hấp dẫn tôi. Và tôi thỏa mãn với những câu trả lời giả mạo [16] mà kiến thức đã có để cung ứng, cho đến khi tôi đặt câu hỏi này một cách rõ ràng cho chính mình, cho đến khi chính câu hỏi lớn dần lên bên trong tôi và khẩn cấp đòi hỏi một giải đáp. 45 Về lãnh vực của kinh nghiệm, tôi tự nhủ, “Mọi sự thì đang phát triển, và đang bị sai biệt hóa [17] trở nên ngày càng phức tạp và tiến về sự hoàn hảo, và có những định luật điều khiển cái tiến trình này. Bạn là một phần của cái toàn thể. Nếu bạn biết càng nhiều càng tốt về cái toàn thể và nếu bạn biết cái qui luật của sự phát triển của nó, bạn sẽ đi tới chỗ biết vị trí của bạn trong cái toàn thể và biết chính bạn.” Mặc dù tôi xấu hổ nhiều khi thú nhận, đã có một thời gian dƣờng nhƣ tôi cũng rất thỏa mãn với cái câu trả lời này. Chính vào thời điểm này mà bản thân tôi đang phát triển và đang trở nên phức tạp hơn. Những bắp thịt của tôi đang tăng trƣởng và trở nên mạnh mẽ hơn, trí nhớ của tôi đang đƣợc bồi đắp, khả năng suy tƣởng và thông hiểu của tôi cũng đang trở nên lớn hơn; tôi đang tăng trƣởng và phát triển. Cảm nhận sự tăng trƣởng bên trong tôi, thật tự nhiên khi tôi tin rằng sự có-thể-hoàn thiện [18] quả thật là qui luật của toàn vũ trụ và rằng, trong cái ý tƣởng này, tôi có thể tìm thấy những câu trả lời cho những câu hỏi của đời tôi. Nhƣng đến một lúc, khi mà tôi ngừng tăng trƣởng; tôi cảm thấy rằng tôi không đang tăng trƣởng, mà đang khô cạn đi. Những bắp thịt của tôi đang trở nên yếu hơn, những cái răng của tôi đang rơi ra, và tôi thấy rằng, không những cái qui luật này không giải thích điều gì cho tôi, mà tôi còn thấy rằng, chƣa bao giờ, và sẽ không bao giờ có thể có một qui luật thuộc loại này. Tôi chỉ nhầm lẫn xem một cái gì đó – mà tôi đã tình cờ tìm thấy trong chính bản thân mình vào một thời điểm nhất định nào đó trong đời tôi – là một quy luật Khi tôi xem xét bản chất của cái qui luật này một cách cặn kẽ, tôi thấy rõ rằng không thể có qui luật nào nhƣ thế – cái qui luật về sự phát triển có tính thƣờng hằng, vĩnh cửu [19]. Tôi thấy rõ là, nói rằng mọi sự thì đang phát triển, trở nên hoàn hảo hơn, phức tạp hơn và sai biệt hơn trong 46 không gian và thời gian vô tận – nói nhƣ vậy, thì cũng nhƣ không nói gì cả. Không có từ nào trong số này có chút ý nghĩa nào, bởi vì trong cái vô hạn không có cái gì là đơn giản hay phức tạp, không có cái gì trƣớc hay sau, không có cái gì tốt hơn hay xấu hơn. Cái điều chính yếu là: câu hỏi riêng tƣ của tôi, câu hỏi: “ Tôi là cái gì, với tất cả những khát vọng của tôi?” – câu hỏi ấy vẫn còn hoàn toàn không đƣợc trả lời. Tôi nhận thức rằng, những lãnh vực kiến thức này có thể rất thú vị và hấp dẫn, nhƣng sự minh bạch và sự chính xác của chúng thì tỷ lệ nghịch với việc có thể áp dụng chúng vào câu hỏi về cuộc sống. Chúng càng ít dính líu đến những câu hỏi về cuộc sống, thì chúng càng minh bạch và chính xác. Nhƣng chúng càng cố gắng cung cấp những câu trả lời cho những câu hỏi về cuộc sống, thì chúng càng trở nên mơ hồ và thiếu hấp dẫn. Nếu chúng ta xoay hƣớng sang những lãnh vực kiến thức vốn cố gắng mang đến những câu trả lời cho những câu hỏi – chẳng hạn nhƣ nhƣ lãnh vực của sinh lý học, tâm lý học, sinh vật học, xã hội học– thì chúng ta gặp phải một sự nghèo nàn đáng chú ý về tƣ tƣởng và sự tối tăm lớn nhất; chúng ta thấy trong chúng một cao vọng [20] hoàn toàn không đƣợc biện minh – cao vọng muốn quyết định những câu hỏi nằm bên ngoài phạm vi của chúng; trong những lãnh vực nói trên, chúng ta cũng tìm thấy sự mâu thuẫn liên miên giữa một nhà tƣ tƣởng này và một nhà tƣ tƣởng khác, và thậm chí, mỗi nhà tƣ tƣởng cũng tự mâu thuẫn với chính mình. Nếu chúng ta quay sang những lãnh vực kiến thức không quan tâm đến việc trả lời những câu hỏi về cuộc sống, mà chỉ quan tâm đến việc trả lời những câu hỏi đặc thù, có tính khoa học của chúng, rồi thì chúng ta có thể bị “ngợp”[21] bởi cái quyền lực của trí 47 năng con ngƣời, nhƣng chúng ta biết trƣớc rằng chúng ta sẽ không tìm thấy câu trả lời nào cho những câu hỏi về cuộc sống. Những lãnh vực kiến thức này hoàn toàn bỏ qua câu hỏi về cuộc sống. Chúng nói, “ Chúng tôi không thể nói cho bạn biết bạn là cái gì, và tại sao bạn sống; chúng tôi không có những câu trả lời cho những câu hỏi này, và chúng tôi không quan tâm đến chúng.Tuy nhiên, nếu bạn muốn biết về những qui luật của ánh sáng, hay về những hợp chất hóa học, hay những qui luật điều khiển sự phát triển của những cơ thể sống [22] ; nếu bạn muốn biết về những qui luật điều khiển những cơ thể vật lý, những hình thái của chúng và mối liên hệ giữa kích cỡ và số lƣợng của chúng; nếu bạn muốn biết về những qui luật của trí óc bạn – thì về tất cả những thứ này, chúng tôi có những câu trả lời rõ ràng, chính xác, và không thể nghi ngờ.” Nhìn chung, sự quan hệ giữa những khoa học thực nghiệm và câu hỏi về cuộc sống có thể đƣợc diễn đạt trong cách này: Câu hỏi: Tại sao tôi sống ? Trả lời: Trong không gian vô hạn, trong thời gian vô hạn, những hạt cực nhỏ trải qua những biến thái [23] phức tạp vô hạn, và khi bạn hiểu những qui luật điều khiển những biến thái này, thì bạn sẽ hiểu tại sao bạn sống. Rồi đi dọc theo những đƣờng lối tƣ biện, tôi thƣờng tự nhủ, “ Tất cả nhân loại sống và phát triển theo những nguyên lý tâm linh, theo những lý tưởng chỉ đạo nó. Những lý tƣởng này tìm thấy sự biểu đạt trong những tôn giáo, nghệ thuật, những khoa học, và những hình thức chính quyền. Khi những lý tƣởng này ngày càng đƣợc nâng cao, nhân loại sẽ tiến tới hạnh phúc lớn hơn. Tôi là một phần của nhân loại, và do vậy, cái sứ mệnh của tôi nằm ở chỗ giúp đỡ nhân loại thông qua 48 việc ý thức và thực hiện những lý tƣởng này.” Trong trạng thái “đần độn” [24] của trí óc, tôi đã tự thoả mãn với điều này. Nhƣng ngay khi câu hỏi về cuộc sống bắt đầu hiện lên một cách rõ ràng bên trong tôi, thì toàn bộ cái lý thuyết này đã sụp đổ ngay lập tức. Do bất cẩn, loại kiến thức này thƣờng rút ra những kết luận thiếu chính xác; sau khi chỉ mới nghiên cứu một mảng nhỏ của nhân loại, ngƣời ta đã vội vàng đƣa ra những khẳng định khái quát về nó. Ngoài ra, về câu hỏi : “ những lý tƣởng của con ngƣời bao gồm những gì?” – thì những ngƣời cổ xúy cho cái quan điểm này cũng mâu thuẫn với nhau. Sự kỳ lạ, nếu không phải là sự ngu xuẩn, của cái quan điểm này là: để trả lời câu hỏi thƣờng hiện ra cho mọi ngƣời: “ Tôi là cái gì ?” hay, “ Tại sao tôi sống?” hay, “Tôi phải làm cái gì? “ – thì một câu hỏi khác phải đƣợc giải đáp trƣớc tiên: “Cuộc sống của nhân loại nói chung – cái mà chúng ta không biết tới, cái cuộc sống mà chúng ta chỉ có thể biết một mảng nhỏ, qua một giai đoạn thời gian ngắn – cái đó là cái gì?” Để biết y là cái gì, một ngƣời trƣớc hết phải biết tổng số của cái nhân loại bí hiểm này [25] là cái gì – một nhân loại đƣợc cấu thành bởi những con ngƣời mà, giống nhƣ chính y, cũng không hiểu họ là cái gì. Tôi phải thú nhận rằng có một thời gian tôi đã tin điều này. Đó là trong suốt thời gian khi mà tôi có những lý tƣởng ƣa thích của riêng tôi để biện minh cho những thị hiếu bốc đồng [26] của tôi; khi mà tôi cố sáng chế ra một lý thuyết này hay lý thuyết nọ để tôi có thể nhìn những thị hiếu bốc đồng của tôi nhƣ là những qui luật điều khiển con ngƣời. Nhƣng ngay khi câu hỏi về cuộc sống bắt đầu nổi lên trong tâm hồn tôi với tất cả sự minh bạch của nó, thì câu trả lời này bỗng nhiên biến thành tro bụi. Và tôi nhận thức rằng, bên trong những khoa học 49 thực nghiệm, có những ngành là khoa học đích thực, và có những ngành chỉ là bán khoa học [27] – những ngành bán khoa học này cố trả lời những câu hỏi hoàn toàn vƣợt quá phạm vi của chúng. Nhƣ thế, tôi nhận thức rằng có một loạt những lãnh vực kiến thức đa dạng nhất, mà cố trả lời những câu hỏi vƣợt quá phạm vi của chúng. Những ngành chỉ là những ngành bán khoa học gồm có: ngành tƣ pháp, khoa học về xã hội, hay là khoa học về lịch sử ; trong cách thức riêng của nó, mỗi trong số những khoa học đó cố quyết định những câu hỏi liên quan đến cá nhân bằng cách có vẻ nhƣ muốn quyết định câu hỏi về cuộc sống liên quan đến tất cả nhân loại. Nhƣng, nhƣ trong địa hạt của những khoa học thực nghiệm, nếu một ngƣời chân thành tự hỏi là y phải sống nhƣ thế nào, thì y không thể thoả mãn với một câu trả lời : “Hãy nghiên cứu những cái phức tạp vô hạn và những thay đổi vô hạn mà một số lƣợng vô hạn của những phân tử [28] có thể kinh qua trong một không gian và thời gian vô hạn;” và trong một cách tƣơng tự, một con ngƣời chân thành không thể thỏa mãn với một câu trả lời nhƣ: “ Hãy nghiên cứu toàn bộ nhân loại – cái nhân loại mà sự bắt đầu và kết thúc của nó chúng ta không thể biết – và những bộ phận của nó nằm ngoài tầm với của chúng ta.” Những ngành bán khoa học [29] cũng tƣơng tự nhƣ những khoa học bán thực nghiệm [30] : chúng càng bị dính kẹt trong sự tối tăm, sự thiếu chính xác, sự ngu xuẩn, và sự mâu thuẫn bao nhiêu, thì chúng càng trệch xa ra khỏi cái nhiệm vụ đích thực của chúng bấy nhiêu. Nhiệm vụ của khoa học thực nghiệm là qui định mối quan hệ nhân quả của những hiện tƣợng vật chất. Nếu những khoa học thực nghiệm 50 tình cờ chạy (lạc) vào trong một câu hỏi có liên quan đến cái nguyên nhân sau cùng, thì nó vấp té vào sự vớ vẩn vô nghĩa. [31] Nhiệm vụ của khoa học tƣ biện là khám phá ra cái bản chất, yếu tính [32] của sự sống nằm phía bên kia nhân và quả. Nếu sự khảo sát của nó tình cờ chạy lạc vào trong những hiện tƣợng có tính nhân quả, nhƣ những hiện tƣợng xã hội và lịch sử, thì khoa học tƣ biện cũng vấp té vào cái sự vớ vẩn vô nghĩa. Vậy thì, khoa học thực nghiệm chỉ quan tâm đến cái kiến thức xác thực và phát lộ sự vĩ đại của trí năng con ngƣời bất cứ khi nào những cuộc khảo sát của nó không đi vào những nguyên nhân tối hậu. Và, mặt khác, khoa học tƣ biện phát lộ cái vĩ đại của trí năng con ngƣời chỉ khi nào nó hoàn toàn loại bỏ tất cả những câu hỏi liên quan đến cái chuỗi nối tiếp của những hiện tƣợng có tính nhân quả, và chỉ xem xét con ngƣời trong mối quan hệ với một nguyên nhân tối hậu. Siêu hình học, hay triết học tƣ biện, chiếm cứ cái đầu mút nằm ở cuối tấm quang phổ [33] của những khoa học tƣ biện. Khoa học này, một cách minh bạch, đặt câu hỏi : “Tôi là gì? Vũ trụ là gì?”, câu hỏi “Tại sao tôi sống và tại sao vũ trụ hiện hữu?” Và ngay từ buổi đầu tiên của nó, nó luôn trả lời cùng một cách giống nhau. Bất luận nhà triết học gọi cái yếu tính của sự sống ở bên trong tôi và trong tất cả mọi sinh vật thụ tạo là cái gì – một ý tƣởng, một bản chất,[34] một tinh thần, [35] hay một ý chí – ông ta vẫn đang nói rằng cái yếu tính này hiện hữu và rằng tôi là cái yếu tính này; nhƣng tại sao nó có mặt ở đó, ông ta không biết, và nếu ông ta là một nhà tƣ tƣởng chính xác, ông ta không trả lời. Tôi hỏi, “Tại sao cái yếu tính này hiện hữu, và cái gì xảy đến cho cái sự kiện rằng nó đang hiện hữu và sẽ hiện hữu?” Và không những triết 51 học bỏ qua không trả lời, mà tất cả những gì mà chính nó có thể làm, là đặt ra câu hỏi tƣơng tự. Và nếu nó là một triết học đích thực, rồi thì tổng số cái lao động của nó nằm trong việc đặt câu hỏi này một cách minh bạch. Và nếu nó kiên trì bám chắc nhiệm vụ của nó, rồi thì nó chỉ có độc nhất một câu trả lời cho câu hỏi: “Tôi là cái gì? Vũ trụ là cái gì?”. Câu trả lời đó là: tất cả, và không là gì cả. Và để trả lời cho câu hỏi: “Tại sao vũ trụ hiện hữu?” và “Tại sao tôi hiện hữu?” nó chỉ trả lời: “Tôi không biết.” Cho dù tôi có xoay đi đảo lại [36] những câu trả lời tƣ biện [37] của triết học nhƣ thế, tôi cũng không thể đạt tới một cái gì giống nhƣ một câu trả lời; không phải bởi vì câu trả lời đó không liên quan gì tới câu hỏi của tôi – nhƣ trong trƣờng hợp những khoa học thực nghiệm chính xác, rõ ràng – nhƣng bởi vì, cho dẫu tổng số của cái lao động trí năng ở đây đều đƣợc hƣớng về câu hỏi của tôi, thì cũng không có câu trả lời. Và thay vì một câu trả lời, tất cả những gì mà ngƣời ta có thể đạt tới, là chính câu hỏi tƣơng tự, đƣợc đặt ra trong một hình thức rối rắm phức tạp. [1] Trong lịch sử nhân loại, những kẻ “ miệt mài đi tìm chân lý” nhƣ Tolstoy không phải là không có. Nhƣng có lẽ, cũng không nhiều lắm? ( ĐTN). [2] Painfully. [3] Search. [4] Dĩ nhiên, đây cũng chỉ là quan niệm riêng của những ngƣời này mà thôi; nó không phải là chân lý phổ quát mà mọi ngƣời phải chấp nhận. ( ĐTN). [5] Gravity. 52 [6] Seriousness. [7] Timid. [8] Absurdity. [9] Guilty. [10] Pretend. [11] Đây là một câu hỏi mà một kẻ trung thực không thể nào không đặt ra cho mình. ( ĐTN). [12]Positive.. [13] Negative. [14] Extreme end. [15] Speculative philosophy. [16] Counterfeit answers. [17] Differentiated. [18] Perfectibility. [19] Law of eternal development. [20] Pretension. [21] To be carried away. [22] Organism. [23] Modifications. [24] Feeble–mindedness. [25] The sum of this mysterious humanity. Nếu đúng nhƣ vậy, thì đây là điều quá khó khăn, nếu không nói là bất khả! ( ĐTN). [26] Whims. [27] Half scientific. 53 [28] Particles. [29] Semi-sciences. [30] Semi-experimental sciences. [31] Nonsense. [32] Essence. [33] Spectrum. [34] Substance. [35] Spirit. [36] Twist and turn : đi vào mọi ngóc ngách. [37] Speculative answers. 54 CHƢƠNG VI Trong cuộc truy tầm của tôi, tìm kiếm những câu trả lời cho câu hỏi về cuộc sống, tôi cảm thấy y hệt nhƣ một ngƣời bị lạc giữa một khu rừng. Tôi đến một khu rừng thƣa, leo lên một cành cây, và có một tầm nhìn rõ ràng về cái khoảng không gian vô tận xung quanh tôi. Nhƣng tôi có thể thấy rằng không có ngôi nhà nào và rằng không thể có ngôi nhà nào; tôi đi vào nơi rậm nhất của khu rừng, vào trong bóng tối, nhƣng một lần nữa, tôi không thể thấy ngôi nhà nào – chỉ có bóng tối. Tôi lang thang đó đây nhƣ thế trong khu rừng của kiến thức con ngƣời. Ở một phía của tôi, là những khu rừng thƣa của toán học và khoa học thực nghiệm, phát hiện cho tôi những chân trời rõ ràng, minh bạch; nhƣng tôi không thể thấy một ngôi nhà nào ở bất cứ hƣớng nào. Ở phía bên kia, là bóng tối của những khoa học tƣ biện, nơi mà mọi bƣớc chân tôi đi, càng dìm tôi xuống sâu hơn vào trong bóng tối, và sau cùng, tôi xác tín rằng không thể có lối nào thoát ra. Khi tự buông mình vào cái ánh sáng rực rỡ của kiến thức, tôi chỉ đang hƣớng mắt tôi trệch ra khỏi câu hỏi đó. Cho dẫu những chân trời mở ra với tôi có thể rõ ràng và cám dỗ tôi thế nào chăng nữa, dù việc lặn chìm vào cái vô hạn của cái kiến thức này có cám dỗ tới đâu chăng nữa, chẳng bao lâu tôi nhận thức rằng, cái kiến thức này càng rõ ràng bao nhiêu, thì tôi càng ít cần đến nó bấy nhiêu, thì nó càng ít trả lời cho câu hỏi của tôi bấy nhiêu. 55 “ Ờ,” tôi tự nhủ, “ Tôi biết mọi thứ mà khoa học rất muốn biết, nhƣng lối đi này sẽ không dẫn tôi tới một câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của đời tôi.” Trong lãnh vực của khoa học tƣ biện, tôi thấy rằng, mặc dù – hay chính xác hơn, bởi vì – sự kiện rằng cái kiến thức này đƣợc thiết kế để trả lời câu hỏi của tôi, cho nên không thể có câu trả lời nào khác ngoài câu trả lời mà tôi đã trao cho chính mình: “ Ý nghĩa của đời tôi là gì? “– Nó không có ý nghĩa nào. Hay: “Cái gì sẽ xảy đến cho đời tôi ?” – Không có gì cả. Hay: “Tại sao mọi sự đang tồn tại lại tồn tại, [1] và tại sao tôi tồn tại?” – Bởi vì nó tồn tại. [2] Từ một ngành của kiến thức con ngƣời, tôi nhận đƣợc một số lƣợng vô tận những câu trả lời chính xác cho những câu hỏi mà tôi đã không hỏi – những câu trả lời liên quan đến sự cấu tạo hóa học của những tinh tú, sự chuyển động của mặt trời về phía chòm sao Hercules, nguồn gốc của những chủng loại [3] và của con ngƣời, những hình thể của những nguyên tử cực vi, và sự rung chuyển của những phân tử ether cực nhỏ và cực nhẹ. Nhƣng câu trả lời đƣợc cung cấp bởi ngành kiến thức này cho câu hỏi của tôi về ý nghĩa đời tôi chỉ là nhƣ vầy: bạn là cái mà bạn gọi là đời bạn; bạn là một sự kết hợp ngẫu nhiên, tạm thời của những phân tử. Bạn đƣợc dẫn tới cái đƣợc nói đến nhƣ là đời bạn – cái ấy chỉ đơn giản là sự tƣơng tác và biến đổi [4] của những phân tử này. Sự kết hợp này sẽ tiếp tục trong một giai đoạn thời gian nhất định nào đó; rồi sự tƣơng tác của những phân tử này sẽ ngừng lại, và cái mà bạn gọi là đời bạn sẽ chấm dứt, và với nó, tất cả những câu hỏi của bạn. Bạn là một mảnh nhỏ bé của một cái gì đó mà dính lại với nhau một cách ngẫu nhiên. Cái mảnh này phân hủy. [5] Sự phân hủy của cái mảnh này thì đƣợc biết đến nhƣ là cuộc 56 sống của bạn. Cái mảnh đó lại rã ra từng phần, [6] và nhƣ thế sự phân hủy kết thúc, cũng nhƣ tất cả những câu hỏi của bạn. Cái phía rõ ràng, minh bạch của kiến thức trả lời nhƣ thế, và nếu nó tuân thủ một cách chặt chẽ những nguyên tắc của chính nó, thì không còn gì để mà nói nữa. Tuy nhiên, hóa ra một câu trả lời nhƣ thế không cấu thành một lời đáp cho câu hỏi đó. Tôi phải biết cái ý nghĩa của đời tôi, nhƣng nói rằng nó là một phân tử của cái vô hạn, nói nhƣ vậy không những đã bỏ qua, không đem lại cho nó bất cứ ý nghĩa nào, mà còn tiêu diệt hết mọi ý nghĩa khả thể.[7] Cái phía thực nghiệm, chính xác của kiến thức có thể tạo ra một sự nhất trí mơ hồ nào đó với cái phía tƣ biện, khi nói rằng, ý nghĩa cuộc sống nằm trong sự phát triển và trong những đóng góp của con ngƣời vào trong sự phát triển này. Nhƣng một nhận xét thiếu chính xác và tối tăm nhƣ thế không thể đƣợc xem là một câu trả lời. Bất cứ khi nào nó bám sát vào những nguyên lý của chính nó trong việc trả lời câu hỏi đó, cái phía tƣ biện của kiến thức luôn luôn gặp phải cùng một câu trả lời tƣơng tự đã lƣu truyền hằng bao thế kỷ: vũ trụ là một cái gì đó vô hạn và không thể thông hiểu đƣợc. Cuộc sống con ngƣời là một phần bất khả phân của cái toàn bộ bí ẩn, khôn dò này. [8] Một lần nữa, tôi để sang một bên tất cả những sự nhất trí đã đạt tới đƣợc giữa cái kiến thức thực nghiệm và tƣ biện, những nhất trí này đã cấu thành toàn bộ cái trụ cột[9], làm chỗ dựa cho những bán khoa học – những khoa học đƣợc mệnh danh là những khoa học về pháp lý, chính trị, và lịch sử. Trong những khoa học này, một lần nữa, chúng ta đƣợc dẫn đến một khái niệm sai lầm về sự phát triển và sự 57 hoàn hảo, với một khác biệt duy nhất là trong một lãnh vực, chúng ta có sự phát triển chung của mọi sự, và trong lãnh vực kia, sự phát triển của riêng con ngƣời. Sự sai lầm thì tƣơng tự trong cả hai trƣờng hợp: sự phát triển và sự hoàn hảo không thể có mục đích nào trong cái vô hạn, nó không có phƣơng hƣớng, và do vậy, nó không thể cung cấp câu trả lời nào cho câu hỏi của tôi. Bất cứ nơi nào kiến thức tƣ biện là chính xác và có thể đƣợc gọi là triết học đích thực, chứ không phải là cái mà Schopenhauer nói đến nhƣ là “ triết học chuyên nghiệp”[10], chỉ có mục đích duy nhất là chia tất cả những hiện tƣợng đang hiện hữu thành những cột báo triết học với những cái tên mới; bất cứ nơi nào triết học không quay mặt khỏi câu hỏi cốt tủy này, thì câu trả lời luôn tƣơng tự với câu trả lời đã đƣợc cung cấp bởi Socrates, Schopenhauer, Solomon, và Đức Phật. Socrates nói [11] khi ông chuẩn bị cho cái chết: “ Chúng ta càng di chuyển ra xa cuộc sống bao nhiêu, thì chúng ta càng di chuyển đến gần chân lý bấy nhiêu. Chúng ta, những ngƣời yêu chân lý, chúng ta phấn đấu cho cái gì trong đời ? – Để thoát khỏi thể xác và tất cả những cái xấu ác [12] do sự sống của thân xác mang lại. Nếu đúng là nhƣ vậy, thì làm thế nào mà chúng ta lại không hân hoan khi cái chết tới gần ? “ Kẻ hiền nhân tìm kiếm sự chết suốt đời mình, và vì lý do này, sự chết thì không kinh hãi đối với vị ấy.” Schopenhauer nói, “ Nếu chúng ta chấp nhận cái yếu tính nội tại [13] của vũ trụ nhƣ là ý chí, và nếu chúng ta chấp nhận tính khách 58 quan của cái ý chí này trong mọi hiện tƣợng – từ những làn sóng cồn vô ý thức của những sức mạnh tối tăm của thiên nhiên cho đến hoạt động hoàn toàn có ý thức của con ngƣời – thì chúng ta không thể tránh cái kết luận rằng, tất cả những hiện tƣợng này biến mất trong sự phủ nhận và sự tự hủy diệt – có tính tự do – của ý chí [14]; sự phấn đấu thƣờng trực, cái khuynh hƣớng không mục đích và không ngừng nghỉ hƣớng về phía tất cả những mức độ của khách quan tính vốn tạo thành vũ trụ sẽ biến mất, và cái đa dạng của những hình tƣớng[15] nối tiếp nhau sẽ chấm dứt; và khi hình tƣớng biến đi, thì tất cả những hiện tƣợng của hình tƣớng cũng vậy, bao gồm cả không gian lẫn thời gian, cho đến khi cái nền tảng tối hậu của hình tƣớng – cái nền tảng của chủ thể và khách thể – sẽ sau cùng biến mất. Nơi nào không có ý chí, không có sự xuất hiện của những hiện tƣợng, thì không có vũ trụ. Cái duy nhất còn lại trƣớc mắt chúng ta, dĩ nhiên, là hƣ vô. [16] Nhƣng cái vốn chống đối sự di chuyển này – sự di chuyển vào trong hƣ vô – cái ấy là bản chất [17] của chúng ta, cái ý chí muốn sống [18] của chính chúng ta, bởi nó mà chúng ta đƣợc cấu thành, nhƣ vũ trụ của chúng ta đƣợc cấu thành. Cái sự kiện rằng chúng ta quá kinh hãi trƣớc hƣ vô, hoặc, cái sự kiện rằng chúng ta quá muốn sống, chỉ có nghĩa là, chính chúng ta chỉ là cái dục vọng muốn sống [19] này; và những sự kiện đó có nghĩa là, ngoài cái dục vọng này, chúng ta không biết cái gì cả. Bởi vậy, khi cái ý chí này bị hoàn toàn hủy diệt, thì tất cả những gì còn lại với chúng ta – những kẻ đƣợc thành tựu [20] bởi cái ý chí ấy – dĩ nhiên, là hƣ vô; nhƣng về mặt khác, đối với những ngƣời mà ở họ ý chí này đƣợc chuyển hóa và từ bỏ, thì cái vũ trụ này của chúng ta, (tuy nom có vẻ.ĐTN) quá thực, với tất cả những mặt trời và những thiên hà của nó – chính cái vũ trụ này cũng là hư vô.”[21] 59 Solomon nói, “ Hƣ vô trong những hƣ vô,[22] hƣ vô trong những hƣ vô, tất cả đều là hƣ vô! Một ngƣời có thể thu lợi đƣợc gì từ tất cả những lao động vất vả của y dƣới mặt trời? Một thế hệ đến, trong khi một thế hệ khác qua đi, nhƣng trái đất vẫn cứ tồn tại mãi. Cái đã và đang tồn tại, sẽ tồn tại [23], cái đã đƣợc làm sẽ đƣợc làm; và không có gì mới dƣới ánh mặt trời. Có một cái gì mà về nó ngƣời ta có thể nói, “hãy nhìn, cái này thì mới?” Không, nó đã từng hiện hữu trong những thế kỷ đến trƣớc chúng ta. Không có hoài niệm [24] nào về những cái xƣa cũ; và sẽ không có hoài niệm nào về cái mà sẽ đến với những kẻ hậu sinh sau này. Tôi, Kẻ Rao Giảng, là Vua trị vì Israel tại Jerusalem. Và tôi để hết tâm hồn vào việc truy tầm và tìm kiếm qua minh triết tất cả những cái hiện hữu dƣới mặt trời – cuộc theo đuổi khó khăn mà Đức Chúa Trời đã ban cho những đứa con trai của con ngƣời [25], để chúng nó có thể đƣợc rèn luyện trong đó. Tôi đã thấy mọi thứ vốn đƣợc làm dƣới ánh mặt trời, và hãy nhìn xem, tất cả là hƣ vô, và một sự héo mòn của tâm thức [26] … Tôi nói thầm trong tim, rằng, “hãy nhìn xem, tôi đã đƣợc tán tụng nhƣ thế nào và bằng cách nào mà tôi đã đạt tới nhiều minh triết hơn tất cả những ai vốn đã từng trị vì Jesusalem trƣớc tôi. Và trái tim tôi đã nắm giữ nhiều minh triết và kiến thức. Và tôi hiến trái tim tôi cho việc nhận biết sự minh triết, sự điên rồ và cái dại dột nực cƣời [27] ; tôi phát hiện rằng cái này cũng là một sự héo mòn của tâm thức. Vì trong nhiều minh triết là nhiều sầu muộn, và kẻ nào gia tăng minh triết, cũng gia tăng nỗi sầu muộn. “ Tôi nói trong tim mình, rằng, ta sẽ cho mi thử nếm trải sự vui thú, và mi sẽ tận hƣởng những lạc thú của những điều tốt đẹp; nhƣng cái này nữa, cũng là hƣ vô. Về tiếng cƣời, tôi nói: “Nó là sự khờ 60 khạo” [28]; và về sự vui thú : “ Nó làm cái gì?” [29] Tôi nghĩ thầm: hãy làm sảng khoái thể xác mình với rƣợu, và dù trái tim tôi đƣợc dẫn dắt bởi minh triết, tôi nghĩ : hãy cứ bám vào sự khờ khạo cho đến khi tôi có thể thấy cái gì tốt cho những đứa con trai của con ngƣời và khám phá ra cái gì mà chúng nên làm dƣới bầu trời trong những ngày ít ỏi của đời chúng. Tôi đảm đƣơng những công trình vĩ đại: tôi dựng những tòa nhà và trồng những vƣờn nho cho chính mình. Tôi dựng những khu vƣờn và vƣờn cây ăn quả đủ loại cây; tôi làm những hồ chứa nƣớc để tƣới những vƣờn cây ăn quả, để cây có thể lớn nhanh. Tôi thủ đắc những tôi tớ và tỳ nữ, và có những tôi tớ đƣợc ra đời trong nhà tôi; tôi cũng có gia súc, lớn và nhỏ, nhiều hơn bất cứ ai đã từng hiện hữu tại Jerusalem trƣớc tôi; tôi thu đƣợc vàng bạc và những kho tàng từ những vị vua và từ những vùng khác; tôi thu thập cho tôi những ca nhân và những phụ nữ biết xƣớng ca, những nhạc cụ đa dạng; thu góp về cho tôi mọi hoan lạc mà những đứa con trai của con ngƣời có thể thu góp đƣợc. Và tôi trở nên vĩ đại hơn và giàu sang hơn tất cả những ngƣời đã trị vì Jerusalem trƣớc tôi; và sự minh triết của tôi vẫn lƣu lại với tôi. Bất cứ cái gì mà mắt tôi thèm muốn, tôi muốn sở hữu chúng, tôi cũng không cấm trái tim tôi bất cứ hoan lạc nào. Và tôi nhìn quanh vào tất cả những việc làm mà hai bàn tay tôi đã thực hiện, và nhìn vào những lao khổ đi kèm với những việc mà tôi đã làm; và hãy nhìn, tất cả đều là hƣ vô, và một sự héo mòn của tâm thức, và không có lợi lộc gì từ chúng dƣới ánh mặt trời. Và tôi quay mắt nhìn ra xung quanh để nhìn lên sự minh triết, sự điên khùng và sự khờ khạo. Nhƣng tôi thấy một số phận độc nhất đổ xuống tất cả chúng. Và trong trái tim tôi, tôi nói: một số phận tƣơng tự sẽ đổ xuống tôi nhƣ nó đổ xuống kẻ khờ khạo – vậy, tôi đã trở nên quá khôn ngoan minh triết 61 nhƣ thế để làm gì? Và tôi nói với trái tim mình : cả cái này nữa, cũng là hƣ vô. Bởi vì sẽ không có cái ký ức vĩnh cửu nào về bậc hiền nhân hay kẻ khờ khạo; vào những ngày sẽ đến, tất cả sẽ bị lãng quên, và than ôi, bậc hiền nhân sẽ chết cái chết tƣơng tự nhƣ cái chết của kẻ khờ khạo ! Và tôi đi tới chỗ ghét cuộc sống, bởi vì tất cả những công trình đƣợc làm ra dƣới mặt trời, đã trở nên gớm ghiếc [30] đối với tôi; bởi vì tất cả là hƣ vô, và là một sự héo mòn của tâm thức. Và tôi đi tới chỗ ghét bỏ nỗi vất vả trong việc lao động của tôi dƣới ánh mặt trời, bởi vì nó phải đƣợc để lại cho cái ngƣời sẽ đến sau tôi. Bởi vì một ngƣời sẽ có gì từ tất cả cái lao khổ của y và những âu lo của trái tim y qua sự lao động vất vả của y dƣới ánh mặt trời ? Bởi vì tất cả những ngày tháng của y là buồn phiền và việc lao động của y là sầu khổ ; ngay cả ban đêm trái tim y cũng không biết đến sự bình an. Và cái này nữa, cũng là hƣ vô. Không có cái gì tốt cho một ngƣời hơn là ăn, uống và để cho tâm hồn y tìm thấy hoan lạc trong lao động của y… “ Mọi sự xảy đến giống nhau cho tất cả mọi ngƣời; một số phận độc nhất đổ xuống trên kẻ công chính và kẻ độc ác, trên ngƣời thiện và kẻ ác, trên ngƣời trong sạch và kẻ ô uế, trên kẻ hy sinh và kẻ không hy sinh; giống nhau cho kẻ đạo hạnh và kẻ tội lỗi, cho kẻ thề thốt, và cho kẻ sợ hãi một lời thề. Đây là một điều ác giữa tất cả những thứ đƣợc làm dƣới ánh mặt trời : một số phận độc nhất đổ xuống tất cả, và, trái tim của những đứa con trai của con ngƣời thì đầy sự ác, và có sự điên rồ trong trái tim và trong cuộc sống của họ; và sau cái kiếp sống này, họ sẽ đi nhập bọn với những ngƣời đã chết. Bất cứ ai còn sống đều vẫn có hy vọng, bởi vì thà là một con chó đang sống 62 còn tốt hơn một con sƣ tử đã chết. Ngƣời sống biết rằng họ sẽ chết, nhƣng ngƣời chết thì không biết gì, họ cũng không có phần thƣởng nào, bởi vậy ngay cả cái ký ức về họ đã bị chìm vào trong sự quên lãng; tình yêu của họ, sự thù ghét của họ, và sự ghen tuông của họ, đã biến mất, và sẽ không có thêm sự tôn vinh nào dành cho họ trong tất cả những cái mà đã đƣợc làm dƣới ánh mặt trời.[31]” Solomon – hay là kẻ đã viết những lời này – đã nói nhƣ thế. Và đây cũng là cái mà một hiền nhân Ấn Độ đã nói. Thích Ca Mâu Ni [32] – một hoàng tử trẻ và hạnh phúc, bị che giấu khỏi bệnh tật, tuổi già và sự chết – một hôm đi ra ngoài dạo một vòng và thấy một cụ già rụng hết răng, mũi dãi lòng thòng, và nom dễ sợ. Vị hoàng tử – mà cho tới lúc ấy đã bị che giấu khỏi tuổi già – bị bất ngờ và hỏi ngƣời đánh xe điều này có nghĩa gì, và tại sao ngƣời đàn ông này đã đi tới một tình trạng đáng thƣơng, kinh tởm và gớm ghiếc nhƣ thế. Và khi chàng phát hiện ra rằng, đây là số phận chung của tất cả mọi con ngƣời; rằng chàng, một hoàng tử trẻ tuổi, cũng sẽ tới tình trạng này, chàng không thể tiếp tục đi với ngƣời đánh xe và ra lệnh cho y trở về nhà để có thể suy tƣởng về điều này. Và chàng tự giam mình trong phòng và suy ngẫm về nó. Chắc hẳn chàng nghĩ ra một cái này hay cái nọ để tự an ủi mình, bởi vì một lần nữa, hạnh phúc và vui tƣơi, chàng lại ra ngoài dạo một vòng. Nhƣng lần này chàng gặp một ngƣời bệnh hoạn. Chàng thấy một ngƣời đàn ông hốc hác, yếu ớt, run rẩy, với đôi mắt mờ. Vị hoàng tử – kẻ bị che giấu không cho thấy bệnh tật – ngừng lại và hỏi điều này có thể có nghĩa là gì. Và khi chàng phát hiện ra rằng đây là bệnh tật – đổ xuống tất cả mọi ngƣời – và rằng ngay cả chàng, vị hoàng tử khoẻ mạnh và hạnh 63 phúc, cũng có thể ngã bệnh ngày mai, một lần nữa cái tinh thần vui tƣơi rời bỏ chàng; chàng ra lệnh cho ngƣời đánh xe trở về nhà, nơi mà chàng lại tìm kiếm sự bình an của tâm hồn. Và chắc hẳn chàng tìm thấy nó, bởi vì lần thứ ba chàng ra ngoài dạo một vòng. Nhƣng lần này chàng thấy một cảnh tƣợng mới khác; chàng thấy vài ngƣời đang khiêng một cái gì đó. “Đó là cái gì?” – “Một ngƣời chết.” “Chết nghĩa là gì?” hoàng tử hỏi. Và chàng đƣợc cho biết rằng, trở thành một ngƣời chết có nghĩa là trở thành cái mà ngƣời đàn ông này đã trở thành. Hoàng tử đi tới bên ngƣời chết, lật tấm vải che, và và nhìn vào ông ta. “Và bây giờ cái gì sẽ xảy ra với ông ta?” – hoàng tử hỏi. Và chàng đƣợc cho biết rằng ngƣời đàn ông này sẽ đƣợc chôn xuống đất. “Tại sao?” – Bởi vì ông ta sẽ không bao giờ sống lại, chỉ có cái mùi hôi và những bọ giòi sẽ xảy đến với ông. “Và đây là cái số phận của mọi con ngƣời ƣ ? Và nó cũng sẽ xảy đến cho ta nữa? Họ sẽ chôn ta, và một mùi hôi sẽ bốc lên từ ta, và bọ giòi cũng sẽ gặm nhắm ta?” Vâng. “ Hãy quay về! Ta không muốn đi dạo, ta sẽ không bao giờ đi dạo nữa.” Thích Ca Mâu Ni [33] không thể nào tìm thấy sự bình an trong đời. Chàng quyết định rằng cuộc sống là một điều xấu to lớn, và chàng huy động tất cả sức mạnh của linh hồn chàng để giải thoát chính mình và những ngƣời khác ra khỏi cuộc sống, giải phóng họ nhƣ thế nào đó, để sau cái chết, sự sống sẽ không bao giờ bị tái sinh, và cái gốc rễ của sự sống sẽ hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả những hiền nhân của Ấn Độ đều nói nhƣ thế. 64 Nhƣ vậy, chúng ta có những câu trả lời trực tiếp mà sự khôn ngoan minh triết của con ngƣời có để cung cấp khi nó trả lời câu hỏi về cuộc sống. * “ Sự sống của thân xác là một điều xấu và một sự dối trá.[34] Và bởi vậy, việc hủy diệt sự sống của thân xác là một phúc lành, và chúng ta nên mong ƣớc điều đó ,” – Socrates nói. * “ Sự sống là cái mà nó không nên là, một điều xấu; và một sự di chuyển vào trong hƣ vô [35] là cái phúc lành duy nhất mà cuộc sống có để ban tặng,” –Schopenhauer nói. * “ Mọi sự trên thế gian – cả sự rồ dại lẫn sự khôn ngoan, sự giàu sang và sự nghèo khó, niềm vui và nỗi sầu – tất cả đều là hƣ vô và sự trống rỗng. Một ngƣời chết đi và không có gì còn lại.Và điều này thì phi lý,” – Solomon nói. * “ Thật không thể nào sống đƣợc, khi biết rằng sự đau khổ, sự hƣ nát, tuổi già và sự chết là tất yếu; chúng ta phải giải thoát chính mình ra khỏi sự sống [36] và ra khỏi tất cả mọi khả tính [37] của sự sống,” – đức Phật nói. Và cái điều mà đã đƣợc thốt ra bởi những trí óc hùng mạnh[38] này, chính điều ấy đã đƣợc nói lên, suy nghĩ, và cảm nhận bởi hằng triệu ngƣời giống nhƣ họ. Tôi cũng đã suy nghĩ và cũng đã cảm nhận một cách tƣơng tự. Những chuyến lang thang của tôi nhƣ thế giữa những lãnh vực của kiến thức đã không những không dẫn tôi ra khỏi cơn tuyệt vọng của tôi, mà càng làm gia tăng nó. Một khu vực của kiến thức không trả lời câu hỏi về cuộc sống; ngành kiến thức còn lại, thì quả thật có trả lời – 65 nhƣng nó chỉ càng củng cố thêm cơn tuyệt vọng của tôi, và cho tôi thấy rằng, cái điều (mà) đã đổ xuống tôi, thì không phải do một sai lầm về phía tôi, hay là một trạng thái bệnh hoạn của tâm thức. Trái lại, cái khu vực kiến thức này xác nhận cho tôi cái sự kiện rằng, tôi đã và đang suy nghĩ một cách đúng đắn và trùng hợp với những trí óc hùng mạnh nhất đã từng đƣợc nhân loại biết đến. Tôi đã không thể bị đánh lừa. Mọi sự đều là hƣ vô. Hạnh phúc thay cho kẻ nào chƣa từng đƣợc sinh ra; cái chết thì tốt hơn cuộc sống; chúng ta phải loại bỏ sự sống ra khỏi chính mình. [39] [1] Why does everything that is exists. [2] Trả lời nhƣ vậy, thà đừng trả lời còn hơn! ( ĐTN). [3] Species. [4] Alterations. [5] Decompose. [6] Fall apart. [7] Every possible meaning. [8] This mysterious, inscrutable whole. [9] Ballast. [10] Profesional philosophy. [11] Socrates ( 470 – 399) thảo luận điều này trong tíết mục 62 – 69 trong tác phẩm Phaedo của Plato, khi các bạn ông đến thăm ông lần cuối cùng trƣớc ngày ông bị hành quyết. 66 [12] Evils. [13] Inner essence. [14] The free denial and self-annihilation of will. [15] Form : hình thể, hình tƣớng, sắc tƣớng (ĐTN). [16] Nothingness. [17] Our nature. [18] Will to live. [19] Desire to live. [20] Fulfilled. [21] Arthur Schopenhauer (1788 – 1860) : có một ảnh hƣởng sâu xa trên tƣ duy của Tolstoy, nhất là trong suốt thời gian khi ông đang viết Chiến tranh & Hòa bình. Những khái niệm đƣợc trình bày ở đây đƣợc tìm thấy trong tác phẩm Paregrga and Paralipomena của Schopenhauer. [22] Vaniy of vanities. [23] What have been, will be. [24] Remembrance. [25] The sons of men. [26] A languishing of the spirit. [27] Folly. [28] Foolishness. [29] What does it do? Tôi dịch sát nguyên văn, nhƣng chƣa rõ ý của câu này. ( ĐTN). [30] Repulsive. 67 [31] Đoạn này đƣợc Tolstoy trích dẫn từ The Book of Ecclesiates, thực sự không phải do Solomon viết; ông này mất khoảng năm 920 trƣớc Chúa Giáng Sinh. Đúng ra, sách này xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III trƣớc công nguyên. [32] Có lẽ, dùng từ “Siddharta” thì sẽ thích hợp hơn. ( ĐTN). [33] Lúc ấy là thái tử Siddartha. (ĐTN). [34] A lie. [35] A passage into nothingness. [36] Life. [37] Possibility. [38] Powerful. [39] Những dòng chữ đầy bi quan! Có lẽ, trên đƣờng đi tìm chân lý, Tolstoy đã gặp những ngƣời “ bi quan” nhƣ Schopenhauer, Solomon… Ông có nhắc đến đức Phật, nhƣng ông không hiểu đúng giáo lý của Ngài… ĐTN nghĩ rằng, Tolstoy rất “ phiến diện” khi viết những dòng này. ( ĐTN). 68 CHƢƠNG VII Đã thất bại trong việc tìm thấy một giải thích trong kiến thức, tôi bắt đầu tìm kiếm nó trong cuộc đời, hy vọng tìm thấy nó trong những ngƣời xung quanh tôi. Và do vậy, tôi bắt đầu quan sát những ngƣời giống nhƣ chính tôi, để xem họ sống nhƣ thế nào, và xác định cái mối quan hệ mà họ có với câu hỏi mà đã dẫn tôi đến cơn tuyệt vọng, xem nó thuộc loại nào. Và đây là cái mà tôi đã tìm thấy giữa những ngƣời mà hoàn cảnh của họ thì giống hệt nhƣ hoàn cảnh của tôi về phƣơng diện giáo dục và cách sống. Tôi đã thấy rằng, đối với những ngƣời cùng giai cấp của tôi, thì có 4 cách để chạy trốn [1] cái tình huống khủng khiếp mà trong đó tất cả chúng tôi thƣờng rơi vào. Cách chạy trốn thứ nhất, là cách chạy trốn của sự ngu dốt. Nó gồm có việc không nhận thức đƣợc và không hiểu rằng cuộc sống là xấu xa và vô nghĩa. Phần lớn những ngƣời trong phạm trù này là phụ nữ, hay là những chàng trai rất trẻ, hay là những ngƣời đàn ông rất ngu xuẩn; họ vẫn chƣa hiểu vấn đề của cuộc sống mà đã khởi lên với Schopenhauer, Solomon và Đức Phật. Họ không thấy con rồng đang chờ đợi họ, cũng không thấy những con chuột đang gặm vào cành cây mà họ đang bám vào; họ chỉ đơn giản liếm những giọt mật. Nhƣng họ chỉ liếm những giọt mật này trong khi chờ đợi; một cái gì đó sẽ xoay hƣớng sự chú ý của họ sang con rồng và những con chuột, và việc 69 liếm mật của họ sẽ có một kết thúc. Tôi không học đƣợc nơi họ một cái gì, bởi vì chúng ta không thể ngừng biết cái mà chúng ta biết. Lối chạy trốn thứ hai là lối chạy trốn của chủ nghĩa khoái lạc. Ý thức một cách đầy đủ về sự tuyệt vọng của cuộc sống, lối chạy trốn này bao gồm việc tận hƣởng – trong hiện tại – những phúc lành mà chúng ta đang có mà không nhìn vào con rồng hay những con chuột; nó nằm trong việc liếm càng nhiều mật càng tốt, nhất là trong những nơi chốn có nhiều mật nhất trong bụi cây. Solomon mô tả sự chạy trốn này theo thể cách sau đây: “Và tôi ca ngợi sự vui thú, bởi vì không có gì tốt hơn cho một ngƣời dƣới ánh mặt trời hơn là ăn, uống, và vui chơi; đây sẽ là cái rƣờng cột nâng đỡ cho sự lao động vất vả của y qua những ngày của đời y, mà Thƣợng đế đã ban cho y dƣới ánh mặt trời. “ Vậy thì hãy đi và ăn cái bánh mì của bạn với niềm vui và uống rƣợu của bạn trong sự vui mừng [2] của trái tim bạn … Hãy tận hƣởng cuộc đời với một ngƣời đàn bà mà bạn yêu qua suốt những ngày của cuộc sống hƣ vô của bạn, qua tất cả những ngày tháng hƣ ảo [3] của bạn; bởi vì đây là số phận của bạn trong cuộc đời và trong những lao khổ của bạn dƣới ánh mặt trời … Hãy làm bất cứ cái gì mà bạn có thể làm với sức mạnh của bàn tay bạn, bởi vì không có công việc nào để làm trong cái nấm mồ nơi mà bạn đang đi tới, không có sự suy tƣởng, không có kiến thức, không có sự minh triết.” Phần lớn những ngƣời thuộc giai cấp của chúng tôi theo đuổi cách trốn chạy thứ hai này. Cái tình huống mà trong đó họ rơi vào, là một tình huống cung cấp cho họ nhiều những thứ tốt lành trong đời hơn là những thứ xấu xa; sự ngu dốt về đạo đức của họ khiến cho họ quên 70 rằng, tất cả những thuận lợi của cái địa vị của họ là tình cờ, rằng không phải tất cả mọi ngƣời đều có thể có một ngàn ngƣời đàn bà và những cung điện, nhƣ Solomon đã có; họ quên rằng, cứ một ngƣời đàn ông với một ngàn ngƣời vợ, thì lại có một ngàn ngƣời không có vợ; rằng cứ mỗi cung điện, có một ngàn ngƣời xây nó với mồ hôi trên trán họ; và rằng, cùng một sự tình cờ mà đã biến họ thành một Solomon hôm nay, sự tình cờ ấy ấy cũng có thể khiến cho họ trở thành ngƣời nô lệ của một Solomon ngày mai. Cái trí tƣởng tƣợng nghèo nàn của những ngƣời này khiến cho họ quên đi cái mà đã không để lại cho đức Phật chút bình an nào : sự tất yếu của bệnh tật, tuổi già, và cái chết, mà nếu không hôm nay thì ngày mai , sẽ hủy diệt tất cả những lạc thú này. Sự kiện rằng, một số trong những ngƣời này cứ cho rằng sự nghèo nàn của họ về tƣ tƣởng và trí tƣởng tƣợng là triết lý tích cực, theo ý tôi, thì sự kiện ấy không phân biệt họ với những ngƣời liếm mật mà không thấy cái vấn đề. Tôi không thể bắt chƣớc những ngƣời đó, bởi vì tôi không thiếu trí tƣởng tƣợng và không thể giả vờ rằng tôi thiếu. Giống nhƣ mọi con ngƣời sống chân thực, tôi không thể quay mắt khỏi những con chuột và con rồng, một khi tôi đã thấy chúng. Cách chạy trốn thứ ba là qua sức mạnh và nghị lực. Nó bao gồm việc hủy diệt sự sống một khi ngƣời ta đã nhận thức rằng cuộc sống là xấu ác và vô nghĩa. Chỉ có những ngƣời cực kỳ mạnh mẽ và nhất quán về mặt logic mới hành động theo cách này. Đã nhận thức tất cả sự ngu xuẩn của cái trò đùa (mà) đang đƣợc chơi trên chúng ta, và thấy rằng, những phúc lành của những ngƣời đã chết thì lớn hơn những phúc lành của những ngƣời đang sống, và thấy rằng rằng không hiện hữu 71 thì tốt hơn – họ hành động và chấm dứt cái trò đùa ngu xuẩn này; và họ dùng bất cứ phƣơng tiện nào để làm việc đó: một sợi dây thừng xung quanh cổ, một con dao đâm vào tim, một nơi sông nƣớc, một chiếc xe lửa. Mỗi lúc càng có nhiều ngƣời thuộc giai cấp của chúng tôi đang hành động theo cách này. Phần lớn những ngƣời thực hiện hành vi này thì đang ở ngay trong tuổi thanh xuân, khi sức mạnh của linh hồn đang ở đỉnh điểm của nó và khi những thói quen vốn ăn mòn lý tính con ngƣời chƣa đến tiếp quản đời họ. Tôi thấy rằng đây là cách trốn chạy xứng đáng nhất, và tôi muốn áp dụng nó. [4] Cách trốn chạy thứ tƣ là cách trốn chạy của sự yếu đuối. Nó bao gồm việc tiếp tục kéo lê một cuộc đời xấu ác và vô nghĩa, biết trƣớc rằng, không có gì có thể xảy ra với một cuộc đời nhƣ thế. Những ngƣời trong phạm trù này biết rằng cái chết thì tốt hơn đời sống, nhƣng họ không có nghị lực, sức mạnh để hành động một cách hợp lý tính và nhanh chóng chấm dứt cái ảo ảnh lừa dối bằng cách tự kết liễu đời mình; thay vào đó, họ dƣờng nhƣ đang chờ đợi một cái gì đó xảy ra. Đây là lối trốn chạy của sự yếu đuối, vì nếu tôi biết cái gì là tốt hơn và có nó trong tầm tay của mình, vậy thì tại sao lại không tự hiến mình cho nó? Chính tôi thuộc về phạm trù này. Những ngƣời thuộc giai cấp của tôi tự cứu mình thoát khỏi một mâu thuẫn khủng khiếp bằng một trong bốn cách này. Cho dù vận dụng những quan năng tri thức [5] nhiều tới đâu chăng nữa, tôi vẫn không thể thấy có cách chạy trốn nào khác ngoài 4 cách này. [6] Một cách chạy trốn nằm ở chỗ không nhận thức đƣợc rằng cuộc sống là vô nghĩa, hƣ ảo, và xấu ác, và rằng không sống thì tốt hơn. Tôi không thể nào không biết điều này, và một khi tôi đã khám phá ra 72 chân ly đó, tôi không thể nào nhắm mắt trƣớc nó. Một cách chạy trốn khác nằm ở chỗ tận dụng tất cả những gì cuộc sống có để ban cho mà không nghĩ về tƣơng lai. Và tôi không thể làm điều này. Giống nhƣ Thích ca Mâu ni, [7]tôi không tìm thấy lạc thú trong cuộc đời một khi đã đi tới chỗ biết cái cái gì là tuổi già, sự đau khổ và sự chết. Trí tƣởng tƣợng của tôi quá năng động. [8] Vả lại, tôi không thể vui hƣởng những lạc thú phù du mà đã tình cờ đến lối đi của tôi trong một khoảnh khắc. Cái lối trốn chạy thứ ba nằm ở chỗ biết rằng đời là xấu ác, phi lý, và chấm dứt nó bằng cách quyên sinh. Tôi hiểu điều này, nhƣng vì lý do nào đó, tôi đã không tự vẫn. Cách trốn chạy thứ tƣ nằm ở chỗ biết rằng cuộc sống là cái mà Solomon và Schopenhauer đã mô tả nó, biết rằng nó là một trò đùa ngu xuẩn đang đƣợc chơi trên chúng ta, và thế nhƣng, vẫn tiếp tục sống, tắm rửa, mặc quần áo, ăn, nói chuyện, và thậm chí, viết những cuốn sách. Một vị trí nhƣ thế thật đáng kinh tởm [9] và đau đớn đối với tôi, nhƣng tôi vẫn cứ lƣu lại trong nó nhƣ thƣờng. Bây giờ tôi thấy rằng, nếu tôi đã không tự kết liễu đời mình, là bởi vì tôi có một khái niệm mơ hồ nào đó, rằng những ý tƣởng của tôi đều hoàn toàn sai lầm. Cho dẫu cái dòng tƣ tƣởng của tôi và của những bậc hiền nhân – những ý tƣởng mà đã dẫn chúng tôi đến chỗ khẳng định cái sự vô nghĩa của cuộc đời – cho dù chúng có vẻ thuyết phục và bất khả vấn [10] đến đâu chăng nữa – tôi vẫn có một sự nghi hoặc mơ hồ nào đó về cái điểm xuất phát của những suy tƣởng của tôi. Sự nghi ngờ của tôi đƣợc diễn đạt trong cách này: tôi, có nghĩa là, lý tính[11] của tôi, tuyên bố rằng đời là phi lý. Nếu không có cái gì cao hơn lý tính (và không có cách nào chứng minh rằng có cái gì cao 73 hơn nó), vậy thì lý tính là cái sáng tạo ra cuộc sống cho tôi. Nếu không có lý tính, thì đối với tôi, sẽ không có sự sống. Do vậy, làm thế nào mà cái lý tính này lại phủ nhận sự sống khi chính nó là cái sáng tạo ra sự sống ? Hay, nói cách khác, nếu không có sự sống, thì lý tính của tôi cũng sẽ không hiện hữu. Bởi vậy, lý tính là con đẻ của sự sống. Sự sống là tất cả. Lý tính là hoa trái của sự sống, và thế nhƣng cái lý tính này lại phủ nhận chính sự sống đó. Tôi cảm thấy rằng có một cái gì sai lầm, không ổn ở đây. “ Cuộc sống là một điều xấu phi lý, không có gì phải nghi ngờ điều này,” – tôi nhủ thầm. “ Nhƣng mà từ trƣớc tới nay tôi đã sống, và tôi vẫn còn đang sống; và tất cả nhân loại đã sống và vẫn tiếp tục sống. Làm thế nào mà điều này có thể xảy ra? Tại sao con ngƣời sống khi mà họ có đủ khả năng [12] để chết ? Phải chăng chỉ có Schopenhauer và tôi là những kẻ duy nhất đủ thông minh để nhận thức rằng đời là vô nghĩa và xấu ác ?” Hiểu đƣợc cái hƣ ảo [13] của cuộc sống không phải là quá khó, và ngay cả những kẻ mộc mạc nhất cũng đã hiểu điều đó từ lâu; thế nhƣng họ đã sống và tiếp tục sống. Làm thế nào mà tất cả họ đều tiếp tục sống và không bao giờ suy nghĩ để mà nghi ngờ tính hợp lý [14] của cuộc sống ? Cái kiến thức đƣợc thủ đắc của tôi, đƣợc củng cố bởi sự minh triết của những ngƣời khôn ngoan nhất, đã tiết lộ cho tôi rằng mọi sự trên thế gian, cả hữu cơ lẫn vô cơ, đều đƣợc sắp xếp với sự thông minh khác thƣờng; chỉ riêng cái quan điểm của tôi là phi lý. Nhƣng mà những kẻ khờ khạo này, đám quần chúng khổng lồ bao gồm những con ngƣời thô mộc, không biết gì về sự sắp xếp hữu cơ và vô cơ của 74 thế giới này, và thế nhƣng họ sống, và trong mọi lúc, họ tin rằng cuộc sống đƣợc sắp xếp trong một cách thức rất hợp lý! Bỗng nhiên tôi thấy rằng, có lẽ vẫn còn có một cái gì đó mà tôi không biết. Dù nói gì đi nữa, thì sự ngu dốt hành động (act) trong thể cách này – chính xác trong thể cách này. Sự ngu dốt luôn nói y hệt những cái mà tôi đang nói. Bất cứ khi nào nó không biết một cái gì đó, nó nói rằng bất cứ cái gì mà nó không biết, cái đó là ngu xuẩn. Quả thực, sự việc tựu trung là nhƣ vầy: tất cả nhân loại đã sống và tiếp tục sống nhƣ thể họ biết cái ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì nếu không biết ý nghĩa của cuộc sống, thì họ đã không thể sống; nhƣng tôi đang nói rằng, toàn bộ cuộc sống này là vô nghĩa và rằng tôi không thể sống. Không ai ngăn cản chúng ta phủ nhận cuộc sống, nhƣ Schopenhauer đã làm. Vậy thì hãy tự vẫn, và bạn sẽ không phải lo lắng về điều đó. Nếu bạn không thích cuộc sống, hãy tự vẫn. Nếu bạn sống mà không thể hiểu ý nghĩa của cuộc sống, hãy chấm dứt nó; nhƣng đừng quay mặt và khởi sự nói và viết về việc nhƣ thế nào mà bạn không hiểu cuộc sống. Các bạn có mặt trong một đám ngƣời lạc quan mà đối với họ, mọi sự đang tiến hành tốt, và tất cả họ biết họ đang làm cái gì; nếu bạn thấy chán và khó chịu, thì hãy cứ bỏ đi.” Nói gì đi nữa, nếu chúng ta xác tín về sự cần thiết [tất yếu] của việc tự vẫn, mà lại không thực hiện điều đó, vậy thì bạn là cái gì, nếu không phải là những kẻ yếu đuối nhất, thiếu nhất quán nhất, và, nói cho thật lòng, là những kẻ ngu xuẩn nhất trong tất cả mọi con ngƣời, nhặng xị om sòm giống nhƣ những đứa trẻ ngờ nghệch với một đồ chơi mới?. 75 Nói gì thì nói, sự minh triết của chúng tôi [15], dù có thể chính xác tới đâu chăng nữa, đã không cung cấp cho chúng tôi một sự hiểu biết về ý nghĩa của cuộc sống. Thế nhƣng hằng triệu ngƣời – vốn tạo thành cái tổng số của nhân loại – tham dự tham dự vào cuộc sống mà không hề nghi ngờ cái ý nghĩa của cuộc sống. Quả thật, từ thời cổ đại, khi cuộc sống của con ngƣời bắt đầu xuất hiện – một cuộc sống cổ xƣa mà về nó tôi thực sự có biết chút ít – từ thuở ấy, những ngƣời biết những luận cứ liên quan tới cái hƣ ảo của cuộc sống, những luận cứ mà đã tiết lộ cho tôi cái vô nghĩa của nó – những ngƣời ấy vẫn sống, mang lại cho cuộc sống một ý nghĩa của riêng họ. Từ cái thời khi mà ngƣời ta bắt đầu sống một cách nào đó, thì cái ý nghĩa của cuộc sống này đã có mặt với họ, và họ đã dẫn cái cuộc sống này tới thời đại của chính tôi. Mọi thứ vốn ở trong tôi và xung quanh tôi, đều là kết quả của kiến thức của họ về cuộc sống. Chính những công cụ của tƣ tƣởng mà nhờ đó tôi phán đoán cuộc sống và kết án nó, những công cụ ấy đã đƣợc sáng tạo ra, không phải bởi tôi, mà bởi họ. Chính tôi đƣợc sinh ra, đƣợc giáo dục, và đã trƣởng thành nhờ vào họ. Họ đào đất để lấy sắt, dạy chúng ta cách đẵn gỗ, thuần hóa gia súc và ngựa, chỉ cho chúng ta cách gieo những vụ mùa, và sống cùng nhau; họ mang đến trật tự cho đời sống chúng ta. Họ dạy tôi cách suy nghĩ và cách nói. Tôi là hậu duệ của họ, đƣợc nuôi nấng, đƣợc giáo dục bởi họ, đƣợc dạy dỗ bởi họ; tôi suy nghĩ theo những tƣ tƣởng của họ, lời nói của họ, và bây giờ tôi chứng minh cho họ (thấy) rằng tất cả mọi thứ đó đều là vô nghĩa ! “ Có một cái gì sai lầm, [16] không ổn ở đây,” tôi tự nhủ, “Chắc hẳn tôi đã phạm một 76 sai lầm ở một nơi nào đó.” Nhƣng tôi đã nhìn đi nhìn lại, và không thể thấy cái sai lầm đó nằm ở chỗ nào. [1] Chúng ta có đang “ chạy trốn” không? Và đang chạy trốn bằng cách nào? ( ĐTN). [2] Gladness. [3] Your vain days. [4] Đây chỉ là ý nghĩ riêng của Tolstoy. Tôi tôn trọng và dịch đúng ý của tác giả, và dành sự phán đoán cho bạn đọc. ( ĐTN). [5] Intellectual faculties. [6] Phải chăng, chỉ có 4 cách chạy trốn đó? Còn cách nào khác nữa không? ( ĐTN). [7] Cần phần biệt thái tử Siddhartha và Phật Thích ca. Thái tử Siddhartha là một ngƣời bình thƣờng nhƣ tất cả mọi chúng sinh, nhƣng Phật là danh hiệu dành cho ngƣời đã giác ngộ. Cũng cần biết, do thiếu điều kiện để tiếp cận với đạo Phật một cách thấu đáo, nên Tolstoy có những nhận định phiến diện và sai lạc về Thích ca, về đạo Phật. Thực ra, đạo Phật khẳng định chân lý “ đời là khổ”, nhƣng cũng đƣa ra con đƣờng diệt khổ - chứ không hề bi quan yếm thế nhƣ Tolstoy đã nghĩ. ( ĐTN). [8] Active. [9] Disgusting. [10] Unquestionable. [11] My reason. [12] Điều kiện. [13] Vanity. 77 [14] Rationality. [15] Our wisdom – có lẽ Tolstoy muốn nói đến chính ông và những ngƣời nhƣ Schopenhauer… (ĐTN). [16] Theo cách nhìn của đạo Phật, thì có lẽ Tolstoy còn nặng “ sở tri chƣớng”, ông chƣa thoát ra khỏi quỹ đạo của những cái đã “ quy định” ông. ( ĐTN). 78 CHƢƠNG VIII Tất cả những nghi ngờ này – mà bây giờ tôi ở trong một vị thế phải diễn tả, một cách ít hay nhiều rõ ràng hơn – thì lúc bấy giờ tôi đã không có khả năng diễn tả chúng. Tôi chỉ cảm thấy rằng, cho dù những kết luận của tôi về cái hƣ ảo của cuộc đời có thể đã là tất yếu đến mấy đi chăng nữa về mặt logic; cho dù chúng đã đƣợc xác nhận bởi nhà tƣ tƣởng vĩ đại nhất trong các nhà tƣ tƣởng – cho dẫu nhƣ vậy, thì cũng có một cái gì đó sai lầm với chúng. Cái sai lầm này nằm ở cái tƣ duy của tôi hay ở sự công thức hóa [1] của tôi về câu hỏi đó, tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ cảm thấy rằng, dù cái lý tính của tôi có xác tín đến đâu chăng nữa, thì điều này cũng chƣa đủ. Tất cả những luận cứ này không thể thuyết phục tôi theo đuổi sự tƣ duy của tôi tới tận cùng logic của nó, có nghĩa là, tới việc tự kết liễu đời mình. Tôi sẽ không đang nói sự thật nếu tôi phải nói rằng, chính là nhờ lý tính mà tôi đã đi tới cái điểm này [2] mà không tự vẫn. Lý tính đã làm việc nhƣng có một cái gì khác cũng làm việc nữa, một cái gì đó mà tôi chỉ có thể gọi là một ý thức [3] về cuộc sống. Cũng có một lực đang làm việc, mà đã dẫn tôi đến chỗ tập trung sự chú ý của tôi về cái này thay vì một cái khác; chính cái lực này đã mang tôi ra khỏi tình huống tuyệt vọng của tôi, và nó đi theo một hƣớng hoàn toàn xa lạ với lý tính. Lực này dẫn tôi tới chỗ tập trung chú ý của tôi vào sự kiện rằng, giống nhƣ hằng trăm ngƣời khác thuộc giai cấp tôi, tôi không phải là toàn bộ nhân loại, và rằng, tôi vẫn không biết cuộc sống của nhân loại (nói chung) là cái gì. 79 Khi tôi nhìn xung quanh vào cái tầng lớp nhỏ hẹp của những bậc đàn anh của tôi, tôi chỉ thấy những loại ngƣời nhƣ sau: những ngƣời không hiểu vấn đề đó, những ngƣời hiểu nó nhƣng nhận chìm nó trong sự say sƣa mê muội của họ với cuộc đời, những ngƣời hiểu nó và chấm dứt cuộc sống, và những ngƣời hiểu nó, nhƣng vì sự yếu đuối, vẫn tiếp tục sống một cuộc sống tuyệt vọng. Đó là tất cả những gì mà tôi có thể thấy. Tôi đã nghĩ rằng, cái tầng lớp nhỏ hẹp này (những ngƣời có học thức, giàu có, và nhàn rỗi, mà tôi thuộc về) bao gồm toàn bộ nhân loại, và rằng hằng triệu ngƣời đã sống và tiếp tục sống bên ngoài cái vòng tròn này đều là những thú vật, chứ không phải là những con ngƣời. Bây giờ, tôi thấy dƣờng nhƣ thật lạ lùng và hoàn toàn không thể tin đƣợc, rằng trƣớc đây, trong quá trình lý luận của tôi, có lẽ tôi đã bỏ qua cuộc sống của nhân loại xung quanh tôi; rằng tôi đã rơi vào trong một trạng thái quá sai lầm lố bịch, đến mức nghĩ rằng đời tôi và đời của Solomon hay Schopenhauer là cuộc sống đích thực, bình thƣờng [4], trong khi cuộc đời của hằng triệu ngƣời khác thì không đáng kể; nhƣng dù bây giờ điều đó có vẻ kỳ lạ với tôi thế nào đi nữa, thì vào thƣở đó, quả thật tôi đã nghĩ nhƣ vậy. Bị dẫn đi lạc đƣờng bởi sự kiêu ngạo về tri thức, tôi nghĩ – không có gì phải nghi ngờ – rằng tôi cùng với Solomon và Schopenhauer, đã đặt câu hỏi này một cách quá chính xác, quá chân thành, đến nỗi không còn có cách nào khác nữa (hợp lý hơn); tôi nghĩ, không có gì phải nghi ngờ, rằng tất cả hằng triệu ngƣời này đều ở trong số những ngƣời mà chƣa bao giờ xuyên thấu [5] tận chiều sâu của câu hỏi đó. Trong khi tôi truy tầm ý nghĩa của đời tôi, chƣa bao giờ tôi từng tự hỏi, “ Hằng triệu ngƣời trên thế giới mà đã 80 """