"
Tử Thần Sống Mãi - Lưu Từ Hân & Lục Hương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tử Thần Sống Mãi - Lưu Từ Hân & Lục Hương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tam Thể - Tử Thần Sống Mãi Địa Cầu Vãng Sự #3
Lưu Từ Hân
—★—
Lục Hương dịch
Nhà Xuất Bản Hà Nội
Nhã Nam phát hành
—★—
ebook©vctvegroup
BẢNG ĐỐI CHIẾU THỜI GIAN
Kỷ nguyên Khủng hoảng Năm 201x - năm 2208 Công nguyên Kỷ nguyên Đe dọa Năm 2208 - năm 2270 Công nguyên Hậu Đe dọa Năm 2278 - năm 2272 Công nguyên Kỷ nguyên Phát sóng Năm 2272 - năm 2332 Công nguyên Kỷ nguyên Boongke Năm 2333 - năm 2400 Công nguyên Kỷ nguyên Ngân Hà Năm 2273 - không rõ
Kỷ nguyên Hắc Vực trong hệ sao DX3906 Năm 2687 - năm 18906416 Công nguyên Dòng thời gian của Vũ trụ số 647 Năm 18906416 Công nguyên trở đi
PHẦN THỨ NHẤT
Những chuyện xưa nằm ngoài dòng thời gian (trích)
LỜI TỰA
Những câu chữ này vốn dĩ nên gọi là lịch sử, song những điều mà người viết dựa vào chỉ có ký ức của chỉnh bản thân mình mà thôi, nên viết ra thiếu đi tính nghiêm cẩn của lịch sử.
Kỳ thực, gọi là chuyện xưa cũng không chính xác, vì tất thảy không phải xảy ra trong quá khứ, không phải xảy ra trong hiện tại, mà cũng không phải xảy ra trong tương lai.
Người viết không muốn đi vào chi tiết, chỉ muốn đưa ra một cái khung cho lịch sử hoặc chuyện xưa mà thôi. Vì những chi tiết được bảo tồn chắc chắn đã phong phú vô cùng rồi, hầu hết những thông tin này đều được lưu trữ trong các chai thông điệp, mong rằng có thể đến được vũ trụ mới và được giữ gìn lâu dài.
Bởi vậy, người viết chỉ vạch ra phần khung chính, để một ngày nào đó có thể đem tất cả thông tin và các chi tiết trám vào đó - tất nhiên, đấy không phải việc của chúng ta. Mong rằng ngày đó sẽ đến.
Điều khiến người viết lấy làm tiếc nuối là, ngày đó không ở trong quá khứ, không ở trong hiện tại, mà cũng không ở trong tương lai.
Tôi dời Mặt trời về phía Tây, khi ánh nắng thay đổi góc chiếu, những giọt nước trên lá mạ non ngoài cánh đồng bỗng chốc sáng lên lấp lánh, tựa hồ vô số con mắt đột nhiên mở bừng ra. Tôi cho ánh nắng tối đi một chút, mang hoàng hôn đến sớm hơn, sau đó dõi mắt nhìn bóng lưng chính mình trên đường chân trời. Tôi huơ tay, cái bóng trước vầng tịch dương kia cũng huơ tay. Ngắm nhìn bóng hình ấy, tôi có cảm giác mình vẫn còn rất trẻ.
Đây là một thời điểm tốt, rất thích hợp để hồi tưởng.
Tháng Năm năm 1453: Cái chết của mụ phù thủy
Hoàng đế Constantines XI tạm ngưng dòng suy tư, đẩy đống bản đồ hệ thống phòng ngự thành phố trước mặt ra xa, quấn chặt áo choàng tím, lặng lẽ chờ đợi.
Ước tính thời gian của ông ta rất chuẩn xác, chấn động quả nhiên ùa đến đúng giờ, tưởng chừng như đến từ một nơi sâu thẳm trong lòng đất, nặng nề mà dữ dội. Đế chân nến bằng bạc rung lên phát ra tiếng ong ong, một ít bụi trên trần nhà rơi xuống, những hạt bụi này có lẽ đã lặng lẽ ở trên nóc Đại Cung cả nghìn năm. Chúng rơi xuống ngọn lửa nến, làm tóe lên một đám hoa lửa. Chấn động này là do một quả đạn pháo bằng đá hoa cương nặng một nghìn hai trăm pound bắn trúng tường thành gây ra, mỗi lần cách nhau ba tiếng đồng hồ, đây là thời gian mà đại pháo Orbán của Đế quốc Ottoman cần để nạp đạn. Đạn pháo khổng lồ bắn vào tường thành kiên cố nhất thế giới do Hoàng đế Theodosius II xây dựng hồi thế kỷ thứ 5 Công nguyên, sau đó lại không ngừng được mở rộng và gia cố, nó chính là chỗ dựa chủ yếu của triều đình Byzantium trước những kẻ thù hùng mạnh. Nhưng lúc này, mỗi viên đạn pháo khổng lồ đều bắn thủng một lỗ lớn trên tường thành, giống như một miếng cắn của gã khổng lồ vô hình. Hoàng đế có thể hình dung ra cảnh tượng ấy: đá vụn trên không trung vẫn còn lơ lửng, binh lính và thường dân trong thành tràn về lỗ hổng như một đàn kiến anh dũng giữa bụi cát mù trời. Họ dùng đủ thứ lấp kín lỗ hổng, có gạch ngói, gỗ khối dỡ ra từ các tòa nhà trong thành, có những bao tải nhét đầy đất cát, còn có cả những tấm thảm Ả Rập đắt tiền... Ông ta thậm chí có thể hình dung ra cảnh tượng đám mây bụi mù mịt ngấm đẫm ánh vàng trong cảnh tà dương chầm chậm bay vào, trông như tấm vải liệm màu vàng nhẹ nhàng phủ lên thành Constantinopolis.
Trong năm tuần thành phố bị vây đánh, mỗi ngày tường thành chịu chấn động này bảy lượt, giãn cách rất đều đặn, như tiếng báo giờ của một cái đồng hồ khổng lồ sừng sững giữa đất trời... Đó là thời gian của một thế giới khác, là thời gian của những kẻ dị giáo; so với nó, tiếng chuông từ chiếc đồng hồ bằng đồng hình chim ưng hai đầu đánh dấu thời gian của thế giới Cơ Đốc nơi góc tường kia nghe thật yếu ớt, bất lực.
Chấn động đã lắng xuống được một lúc, Hoàng đế Constantinos XI mới khó nhọc bắt suy nghĩ của mình trở về với hiện thực, ra hiệu cho gã thị vệ trước cửa cho người đang đợi bên ngoài vào.
Viên đại thần Phrantzes dẫn một cô gái gầy gò lặng lẽ đi vào.
“Thưa bệ hạ, đây chính là Helena.” Viên đại thần chỉ vào cô gái phía sau mình, sau đó ra hiệu cho cô gái đang nấp sau lưng bước lên phía trước mặt.
Hoàng đế vừa liếc nhìn qua đã nhận ra thân phận của cô gái. Phong cách ăn mặc của tầng lớp quý tộc thượng lưu và bình dân Byzantium có sự khác biệt rất lớn, thông thường trang phục của phụ nữ quý tộc được gắn đầy các món trang sức hoa lệ, còn phụ nữ bình dân thì chỉ mặc áo dài rộng thùng thình màu trắng, cùng với áo khoác có tay trùm kín cả người, nhưng trang phục của Helena lại là sự kết hợp giữa xa hoa của giới thượng lưu lẫn bảo thủ của bình dân: bên trong cô ta mặc áo trắng liền tay, bên ngoài lại khoác một chiếc áo choàng có mũ đắt tiền, loại áo choàng này lẽ ra phải được khoác bên ngoài chiếc tunica thêu kim tuyến mới đúng. Đồng thời, cô ta không dám dùng màu tím và màu đỏ tượng trưng cho tầng lớp quý tộc, chiếc áo choàng có màu vàng. Gương mặt cô gái toát lên một vẻ đẹp đẽ dâm đãng, khiến người ta nghĩ đến một đóa hoa thà rằng xinh đẹp rồi thôi nát còn hơn ủ rũ héo khô - một ả kỹ nữ, lại còn là loại cao cấp. Hai mắt cô
gái cụp xuống, toàn thân run rẩy, nhưng Hoàng đế Constantinos XI để ý thấy đôi mắt cô ta đang sáng lên như thể phát sốt, lộ ra vẻ hưng phấn và kỳ vọng hiếm khi thấy được ở lớp người đó.
“Ngươi có phép thuật?” Hoàng đế hỏi Helena, ông ta chỉ muốn nhanh chóng kết thúc chuyện này. Phrantzes làm việc luôn chắc chắn và ổn thỏa, trong hơn tám nghìn quân sĩ giữ thành hiện nay, ngoài đội quân thường trực không lấy gì làm đông đảo và hai nghìn lính đánh thuê Genoa, phần lớn đều do vị đại thần giỏi giang này trưng tập khẩn cấp từng tốp từng tốp một từ hơn trăm nghìn dân cư trong thành. Hoàng đế không có nhiều hứng thú với cô gái này, chỉ nề mặt vị đại thần mà thôi.
“Đúng vậy, thưa bệ hạ, tôi có thể giết chết Sultan.” Helena khom gối run rẩy trả lời, giọng nghe mỏng mảnh như một sợi tơ.
Năm ngày trước, Helena đến trước cổng cung điện xin gặp Hoàng đế, bị đám vệ binh ngăn cản, cô ta đột nhiên lấy từ trong ngực ra một vật giơ lên, đám vệ binh sững sờ, bọn chúng không biết đó là thứ gì, từ đâu mà có, nhưng đều biết chắc đó không phải vật tầm thường. Helena không gặp được Hoàng đế, cô bị bắt lại giao cho viên quan phụ trách trị an, và bị tra khảo xem cô ta trộm vật đó ở đâu. Helena đã khai nhận, họ cũng đã chứng thực, sau đó cô ta được đưa đến chỗ đại thần Phrantzes.
Phrantzes mở túi vải đay cầm trên tay ra, cẩn thận đặt vật bọc bên trong lên bàn đọc sách của Hoàng đế, ánh mắt Hoàng đế Constantinos XI chợt sững sờ giống hệt đám vệ binh khi trông thấy vật đó năm ngày trước - khác với bọn chúng, ông ta biết đây là thứ gì. Đây là một chiếc Chén Thánh bằng vàng ròng, bên trên khảm nạm đầy đá quý, sắc vàng óng ánh khiến tâm hồn người ta phải run rẩy. Chén Thánh này được đúc ra vào thời Justinian Đại Đế hồi chín trăm mười sáu năm trước, tổng cộng có một đôi,
ngoài hình dạng và bố trí các viên đá quý trên đó thì hoàn toàn giống nhau. Một trong hai chiếc Chén Thánh được các đời hoàng đế gìn giữ đến ngày nay, chiếc còn lại được cất vào một gian mật thất nhỏ bị niêm phong tuyệt đối ở sâu dưới nền móng đại giáo đường Hagia Sophia cùng với các thánh vật khác, khi giáo đường này được xây xong vào năm 537 Công nguyên. Chiếc Chén Thánh đang ở trước mắt ông ta hiển nhiên là chiếc thứ hai, vì chiếc còn lại đã hằn lên dấu vết của thời gian, ảm đạm lu mờ - đương nhiên, phải so sánh với chiếc đó thì mới nhận ra được chiếc Chén Thánh này trông mới tinh khôi như thể vừa được đúc ngày hôm qua vậy.
Vốn dĩ không ai tin lời Helena, mọi người đều cho rằng đây là đồ cô ta trộm được của một khách làng chơi giàu có, vì tuy có rất nhiều người biết chuyện bên dưới đại giáo đường có phòng bí mật, nhưng biết được vị trí chính xác của căn phòng ấy lại rất ít; vả lại, giữa những khối đá khổng lồ bên dưới nền móng giáo đường không có cánh cửa nào, thậm chí cả đường hầm dẫn đến căn phòng bí mật ấy cũng không có, không hao tốn nhân lực và thời gian thì hoàn toàn không thể nào vào đó được. Bốn ngày trước, xét đến cục thế nguy nan của thành phố, Hoàng đế ra lệnh đem hết mọi văn kiện và thánh vật quý hiếm đóng gói lại để khi khẩn cấp có thể nhanh chóng chuyển đi, mặc dầu trong lòng ông ta biết rõ đường bộ, đường biển đều đã bị cắt đứt, tường thành mà bị phá thì không còn nơi nào có thể đi được nữa. Ba mươi người phu mất trọn ba ngày mới vào được mật thất, họ thấy các khối đá quây lại thành căn phòng này cơ hồ lớn ngang với đá xây kim tự tháp Kheops. Các thánh vật đều được đặt trong một quan tài đá nặng nề bên trong mật thất, chằng ngang dọc mười hai đai sắt to tướng, phải mất hồi lâu mới mở ra được. Khi tất cả các đai sắt đều đã bị cưa đứt, năm người phu bị đám lính vũ trang xung quanh giám sát chặt chẽ, dốc hết sức lực đẩy nắp quan tài nặng nề ra, thứ đầu tiên thu hút ánh mắt của mọi người không phải các thánh vật và châu báu đã bị niêm phong nghìn năm
kia, mà là một chùm nho vẫn còn tươi đặt trên cùng! Helena nói, chùm nho là do cô ta để vào năm ngày trước, hơn nữa đúng như cô ta nói, chùm nho đang ăn dở, chỉ còn lại bảy quả. Sau khi vệ binh kiểm tra hết thánh vật, đối chiếu với danh sách khắc trên một tấm bảng đồng gắn dưới nắp quan tài, họ xác định quả có thiếu một chiếc Chén Thánh. Nếu không phải đã tìm được Chén Thánh ở chỗ Helena đồng thời có lời khai của cô ta, dù tất cả những người có mặt tại hiện trường đều chứng nhận trước đó mật thất và quan tài đá hoàn toàn lành lặn, e rằng cũng có người khó mà thoát chết.
“Sao ngươi lấy nó ra được?” Hoàng đế chỉ vào chén Thánh hỏi.
Helena càng run rẩy hơn, hiển nhiên dù cho có phép thuật thật đi chăng nữa, ở nơi này cô ta cũng không có cảm giác an toàn. Cô ta hoảng sợ ngước nhìn Constantinos XI, hồi lâu sau mới trả lời: “Những nơi này, với tôi... Với tôi... đều là...” Cô ta vất vả chọn lựa từ ngữ, “đều mở ra cả.”
“Vậy ngươi có thể làm cho ta xem ngay tại đây không, không mở niêm phong mà lấy ra được đồ ở bên trong vật chứa?”
Helena hoảng hốt lắc đầu, không nói nên lời, chỉ biết nhìn sang đại thần Phrantzes cầu cứu.
Phrantzes trả lời thay: “Cô ta nói, phải đến một nơi nhất định mới thực hiện phép thuật được, cô ta không thể nói ra nơi đó, người khác cũng không được theo dõi cô ta, bằng không phép thuật sẽ mất hiệu lực, vĩnh viễn mất hiệu lực.”
Helena quay sang phía Hoàng đế gật đầu.
Hoàng đế hừ một tiếng, “Người như ả ta mà ở châu Âu thì đã bị thiêu chết từ lâu rồi.”
Helena ngồi phịch xuống đất, thân hình vốn đã gầy guộc co rút lại trông như một đứa trẻ.
“Ngươi giết người được không?” Constantinos XI quay sang hỏi Helena.
Helena chỉ biết ngồi đó, không ngừng run lẩy bẩy, viên đại thần phải thúc giục, cô ta mới khẽ gật đầu.
“Vậy thì tốt,” Constantinos XI nói với Phrantzes, “thử đi xem nào.”
Phrantzes dẫn Helena đi theo một cầu thang dài xuống phía dưới, cứ cách một đoạn lại có đuốc cắm trên tường, chiếu ra những quầng sáng nhỏ trong bóng tối, bên dưới mỗi cây đều có một đến hai tên lính vũ trang tận răng, áo giáp phản chiếu ánh lửa, hắt những vệt sáng nhảy nhót lên bức tường ở góc tối.
Cuối cùng, hai người đến một căn hầm tối tăm, cái lạnh khiến Helena phải quấn chặt áo choàng. Đây từng là nơi trữ nước đá vào mùa hè của cung điện, lúc này, trong hầm không có đá, dưới cây đuốc cắm ở góc là một người chồm hỗm. Hắn ta là tù binh, nhìn trang phục rách rưới trên người có thể nhận ra là sĩ quan trong đội quân Anatolia chủ lực của Đế quốc Ottoman. Hắn ta rất cường tráng, quắc mắt nhìn hai người mới đến như một con sói dưới ánh lửa. Phrantzes và Helena dừng lại trước chấn song sắt khóa chặt.
Viên đại thần chỉ vào tên tù binh bên trong, “Thấy chưa?” Helena gật đầu.
Phrantzes đưa cho cô ta một cái túi da dê, chỉ lên trên: “Giờ ngươi đi đi, trước khi trời sáng mang đầu hắn đến cho ta.”
Helena lấy trong túi da dê ra một con dao quắm Thổ Nhĩ Kỳ, trông như một vầng trăng khuyết phát ra ánh sáng lạnh lẽo trong bóng đêm. Cô ta trả cây dao lại cho Phrantzes, “Đại nhân, tôi không cần thứ này.” Sau đó, cô ta kéo cổ áo choàng che đi nửa gương mặt, quay người đi lên bậc thang, bước chân lặng lẽ không phát ra âm thanh nào. Trong những vùng sáng tối luân phiên giữa hai hàng đuốc, ngoại hình cô ta như thể liên tục biến đổi, lúc thì giống người, lúc lại giống mèo, mãi đến khi biến mất hẳn vào bóng tối.
Phrantzes nhìn theo, đến khi cô ta hoàn toàn biến mất mới nói với một viên quan cấm vệ bên cạnh: “Nơi này phải canh phòng nghiêm ngặt. Hắn,” ông ta chỉ vào tên tù binh bên trong, “không được buông lỏng giám sát dù chỉ một giây!”
Sau khi viên quan đi khỏi, Phrantzes vẫy tay, một người từ trong bóng tối bước ra, khoác áo choàng tu sĩ màu thẫm, ban nãy gần như hòa làm một với bóng đêm.
“Giữ khoảng cách xa một chút, mất dấu cũng không sao hết, nhưng tuyệt đối không để cô ta phát giác.” Phrantzes hạ giọng dặn dò, kẻ theo dõi khẽ gật đầu, cũng âm thầm rời đi không một tiếng động.
Giống như mọi đêm từ khi cuộc chiến bắt đầu, đêm nay Constantinos XI cũng không ngủ ngon. Lần nào cũng như lần nào, chấn động do đại pháo của kẻ thù bắn vào tường thành đều khiến ông ta giật mình tỉnh giấc, lúc ngủ lại được, đợt chấn động tiếp theo đã sắp ập đến. Trời vẫn chưa sáng,
ông ta đã khoác áo đi ra thư phòng, thấy Phrantzes đã đợi ở đó rồi. Ông ta dường như đã quên chuyện ả phù thủy kia, không giống với cha là Manouel II và anh trai là Hoàng đế Ioannes VIII, ông ta thực tế hơn, biết rằng hầu hết những kẻ trông cậy vào phép mầu đều rơi vào kết cục chết không có đất chôn thây.
Phrantzes hướng về phía cửa vẫy tay, Helena lặng lẽ bước vào. So với lần trước đến đây, cô ta trông không khác mấy, vẫn kinh hoảng và run rẩy, trên tay cầm cái túi da dê. Hoàng đế nhìn cái túi liền biết mình đã phí thời gian với chuyện này, cái túi xẹp lép, cũng không có máu rỉ ra, hiển nhiên bên trong không có đầu người. Nhưng vẻ mặt Phrantzes lại rõ ràng không cho thấy thất bại, ánh mắt ông ta có chút hoang mang đờ đẫn, như thể người mộng du.
“Cô ta không mang đến được thứ cần mang đến à?” Hoàng đế hỏi.
Phrantzes cầm túi trên tay Helena đặt lên bàn, mở ra, nhìn chằm chằm vào Constantinos XI tựa hồ nhìn một bóng ma: “Thưa bệ hạ, gần như là được rồi.”
Hoàng đế nhìn vào túi, chỉ thấy bên trong có một thứ màu xám mềm nhũn, trông như mỡ dê để lâu năm. Phrantzes dịch ngọn nến lại gần, Hoàng đế nhìn rõ hơn, đồng thời nhận ra đó là thứ gì.
“Bộ não, của tên người Anatolia kia.”
“Cô ta bổ đầu hắn ra ư?” Constantinos XI liếc mắt nhìn Helena sau lưng mình, cô ta đứng đó, khép chặt áo choàng, người run lẩy bẩy, ánh mắt tựa như con chuột sợ hãi.
“Không, thưa bệ hạ, đầu tên Anatolia sau khi chết vẫn nguyên vẹn, toàn thân cũng không có thương tích gì. Thần đã phái hai mươi tên lính giám sát hắn, mỗi lần năm tên thay phiên nhau giám sát hắn từ các góc độ khác nhau. Việc canh phòng trong hầm cũng cực kỳ nghiêm ngặt, một con muỗi cũng không thể bay lọt vào trong...” Phrantzes dừng lại, dường như bị những hồi ức của chính mình làm cho kinh hãi, Constantinos XI ra hiệu cho ông ta nói tiếp, “Chưa đến hai giờ sau khi cô ta đi khỏi, tên Anatolia đột nhiên co giật toàn thân, hai mắt trợn ngược, sau đó chết nằm thẳng cẳng ra đó. Trong những người giám sát tại hiện trường có một viên bác sĩ Hy Lạp dày dạn kinh nghiệm, ngoài ra còn có binh lính lão luyện đã đánh trận cả đời, chúng đều nói chưa bao giờ thấy có người nào chết kiểu như thế. Hơn một tiếng sau cô ta quay lại, cầm theo thứ này, bấy giờ bác sĩ mới nghĩ đến việc mổ đầu người chết, thấy bên trong không có bộ não, hoàn toàn trống rỗng.”
Constantinos XI cẩn thận quan sát bộ não trong túi một lần nữa, nhận ra nó hoàn chỉnh nguyên vẹn, không nát vỡ hay tổn thương gì. Đây là bộ phận mong manh nhất của cơ thể người, giữ được hoàn hảo như vậy nhất định là được gỡ ra hết sức cẩn thận. Hoàng đế nhìn bàn tay Helena lộ ra bên ngoài áo choàng, ngón tay thon dài thanh mảnh, tưởng tượng ra cảnh đôi bàn tay này gỡ lấy bộ não của người khác, thật cẩn thận, thật nhẹ nhàng như thể hái một cây nấm trong bãi cỏ, hay một đóa hoa trên cành cây...
Hoàng đế rời mắt khỏi cái túi da đựng bộ não, ngẩng đầu lên nhìn bức tường thành chênh chếch phía trên, dường như xuyên qua vách tường thấy thứ gì đó khổng lồ đang chầm chậm dâng lên nơi chân trời. Tường thành lại rung chuyển do đại pháo oanh kích, nhưng lần đầu tiên, ông ta không cảm thấy chấn động.
Nếu như phép mầu có thực, thì giờ là lúc nó cần xuất hiện rồi.
Thành Constantinopolis đang rơi vào tuyệt vọng, nhưng chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Trong cuộc huyết chiến kéo dài hơn năm tuần lễ, kẻ thù cũng bị tổn thất nặng nề, ở một số nơi, xác bọn Thổ Nhĩ Kỳ chất cao ngang các ụ thành, bọn chúng cũng đã mệt mỏi kiệt sức rồi. Mấy ngày trước, một đội thuyền Genoa anh dũng đã vượt qua phong tỏa của kẻ thù ngoài eo biển, tiến vào vịnh Sừng Vàng, mang đến viện binh và đồ tiếp tế quý giá, mọi người đều tin rằng đây là dấu hiệu báo trước một đợt tăng viện quy mô lớn từ Tây Âu. Bên phía doanh trại Đế quốc Ottoman cũng dày đặc bầu không khí chán ghét chiến tranh, phần lớn tướng lĩnh đều chủ trương chấp thuận điều kiện cuối cùng mà Đế quốc Byzantium đưa ra rồi rút quân. Sở dĩ Đế quốc Ottoman chưa rút quân về, chỉ vì có kẻ đó.
Con người đó là kẻ tinh thông tiếng Latinh, học thức uyên bác, đọc nhiều hiểu rộng các ngành khoa học và nghệ thuật; con người đó là kẻ biết rõ mình đã chắc chắn kế thừa ngôi vua, song chỉ vì muốn loại trừ mối họa ngầm liền dìm chết em trai ruột trong bồn tắm; con người đó là kẻ đem một nữ nô xinh đẹp ra chặt đầu trước mặt toàn thể quân sĩ vì muốn tỏ rõ mình không phải là người háo sắc - con người đó là trục bánh xe của cỗ chiến xa Đế quốc Ottoman khổng lồ hùng mạnh, thanh trục đó mà gãy, chiến xa sẽ sập xuống tức thì.
Có lẽ phép mầu đã thật sự xuất hiện.
“Tại sao ngươi đòi đảm nhận sứ mệnh này?” Hoàng đế hỏi, ánh mắt vẫn chếch lên trên.
“Tôi muốn làm Thánh nữ.” Helena trả lời rất nhanh, hiển nhiên, cô ta đã đợi câu hỏi này từ lâu.
Constantinos XI khẽ gật đầu. Lý do này tương đối đáng tin, đối với cô ta lúc này, tiền bạc hay của cải đều chẳng là gì cả, cô ta có thể thò tay lấy toàn bộ tiền bạc trên thế giới như lấy đổ trong túi, nhưng gái điếm lại là hạng đàn bà cách xa địa vị Thánh nữ nhất, đối với bọn họ, vinh dự này mới có sức hấp dẫn nhất.
“Ngươi là con cháu của quân Thập tự chinh à?”
“Vâng, thưa bệ hạ, tổ tiên tôi từng tham gia lần Đông chinh cuối cùng.” Ngập ngừng giây lát, Helena lại dè dặt bổ sung một câu: “Không phải lần thứ tư[1].”
Hoàng đế đặt tay lên trán Helena, cô ta mềm nhũn người quỳ xuống.
“Đi đi, cô bé, giết chết Mehmed II, ngươi sẽ cứu vớt thành Constantinopolis, ngươi sẽ trở thành Thánh nữ, được muôn người kính ngưỡng.”
Lúc hoàng hôn, Phrantzes dẫn Helena lên tường thành đoạn gần cổng Thánh Romanos. Đưa mắt nhìn ra xa, chiến trường lọt hết vào trong tầm mắt. Gần tường thành, trên một mảng đất cát đã bị máu nhuộm màu nâu đen, xác người nằm la liệt như thể trời vừa đổ một trận mưa người chết; hơi xa hơn một chút, khói thuốc súng bốc ra từ những khẩu pháo vừa nổ đang bay qua chiến trường, thứ duy nhất nhẹ nhàng ở chốn này; xa hơn nữa, dưới bầu trời xám xịt như chì, doanh trại quân đội Ottoman trải dài đến ngút tầm mắt, rừng cờ hình trăng non bay phần phật trong làn gió biển ẩm ướt; ở eo biển Bosporus phía bên kia, chiến hạm Đế quốc Ottoman phủ
kín mặt biển, nhìn từ xa trông như một mảng đinh sắt màu đen, ghim chặt mặt biển màu xanh không cho phép nó dập dềnh trong gió.
Helena nhìn hết thảy những cảnh tượng ấy, say sưa nhắm mắt: Đây là chiến trường của mình, đây là cuộc chiến của mình. Truyền thuyết về tổ tiên mà cha vô số lần kể đi kể lại hồi cô ta còn nhỏ lại hiện lên trong tâm trí: Ở châu Âu bên kia eo biển Bosporus, tại một nông trang vùng Provence, một hôm nọ trên trời bỗng sà xuống một đám mây lành, trong đám mây ấy hiện ra một đội quân toàn trẻ con. Trên áo giáp uy vũ của bọn họ, chữ thập phát ra ánh sáng đỏ rực rỡ, một vị thiên sứ dẫn đầu đội ngũ ấy. Nghe lời kêu gọi, tổ phụ cô ta đã gia nhập đội quân. Họ băng thuyền qua Địa Trung Hải đến Đất Thánh, chiến đấu vì Thượng Đế, trong Thánh chiến, tổ phụ cô ta đã trở thành một Kỵ sĩ Đền Thánh, sau đó gặp được một kỵ sĩ Thánh nữ xinh đẹp ở thành Constantinopolis, hai người đắm đuối yêu nhau, từ đó sinh ra một gia tộc quang vinh...
Sau khi lớn lên, Helena dần dần biết được sự thực: các nét chính câu chuyện này về cơ bản là vậy, ông tổ cô ta quả thực đã gia nhập vào đạo quân Thập tự chinh trẻ em, lúc đó Cái chết Đen vừa tràn qua vùng Tây Âu, ruộng đồng bỏ hoang, gia nhập vào quân Thập tự chinh chẳng qua chỉ vì muốn khỏi chết đói. Có điều, ông tổ cô ta chưa từng tham gia cuộc Thánh chiến nào, vì vừa xuống khỏi tàu, ông cùng hơn mười nghìn đứa trẻ khác đều bị đóng cùm vào chân bán đi làm nô lệ, nhiều năm sau mới may mắn trốn thoát, lưu lạc đến thành Constantinopolis. Ở đó, ông quả cũng gặp được một nữ binh lớn hơn mình nhiều tuổi trong đoàn kỵ sĩ Thánh nữ, chỉ có điều, số phận bà cũng chẳng hơn ông được bao nhiêu. Lần đó, người Byzantium đang mong ngóng chờ đợi binh lính tinh nhuệ từ Tây Âu đến giúp họ đối phó với lũ tín đồ dị giáo, không ngờ lại là một đám phụ nữ chân yếu tay mềm trông như lũ ăn mày, bọn họ tức tối cắt luôn mọi nguồn
trợ cấp, kết quả là các kỵ sĩ lần lượt trở thành gái điếm, một trong số đó đã trở thành bà tổ của Helena...
Hơn trăm năm qua, gia tộc quang vinh của Helena thực ra chưa bao giờ được ăn no, đến đời cha cô ta thì lại càng nghèo rớt mồng tơi. Cơn đói đã thúc đẩy Helena tự quyết tâm đi làm cái nghề của bà tổ nhà mình, sau khi biết chuyện, cha đã đánh cô ta một trận, nói rằng nếu phát hiện cô ta còn làm chuyện này nữa thì sẽ giết, trừ phi... trừ phi cô ta dẫn khách về nhà để ông ta thương lượng giá cả, thu tiền. Helena bỏ nhà ra đi, tiếp tục sống giang hồ, ngoài thành Constantinopolis, cô ta còn đến Jerusalem và Trabzon, thậm chí còn ngồi tàu đến cả Venice. Cô ta không còn phải chịu đói, có quần lượt áo là, nhưng cô ta biết mình chỉ là một cọng cỏ đổ rạp trong bùn đất, bị người đi đường không ngừng giẫm đạp lên, từ lâu đã hòa làm một với đất bùn rồi.
Cho đến khi phép mầu xuất hiện, hoặc có thể nói là cô ta đụng phải phép mầu.
Helena xem thường vị Thánh nữ xuất hiện trong cuộc chiến tranh châu Âu hai mươi mấy năm trước - Jeanne xứ Arc, Joan chẳng qua chỉ nhận được một thanh kiếm từ trên trời rơi xuống, còn Thượng Đế đã ban cho Helena một thứ có thể khiến cô ta chỉ đứng sau Đức Mẹ Maria mà thôi.
“Nhìn xem, đó chính là lều của el-Fātih[2].” Phrantzes chỉ về phía đối diện với cổng thành Thánh Romanos.
Helena chỉ liếc nhìn về phía đó, khẽ gật đầu.
Phrantzes đưa cho cô ta một chiếc túi da dê, “Trong này có ba bức hình của hắn ta, từ các góc độ khác nhau, mặc trang phục khác nhau. Ngoài ra,
cần phải mang theo dao, lần này không chỉ cần bộ não của hắn, mà phải có nguyên cái đầu. Tốt nhất là ngươi ra tay vào ban đêm, ban ngày hầu hết thời gian hắn ta đều không có trong lều.”
Helena nhận lấy túi da dê, “Tôi cũng xin ngài hãy nhớ kỹ lời tôi nói.” “Đương nhiên, chuyện này ngươi yên tâm.”
Helena muốn nói đến lời cảnh cáo lúc đầu: không được phép theo dõi cô ta, càng không được đặt chân vào nơi cô ta đến, bằng không phép thuật sẽ vĩnh viễn mất đi hiệu lực.
Kẻ theo dõi lần trước đã báo cáo với Phrantzes, sau khi Helena rời khỏi hầm, hắn đã bám theo cô ta từ đằng xa. Cô ta rất cẩn trọng, vòng vèo bảy tám lượt cuối cùng mới đến khu Blachernae ở phía Bắc đoạn tường thành do Theodosius II xây dựng. Phrantzes nghe vậy hơi ngạc nhiên, đó là khu vực mà kẻ địch pháo kích dữ dội nhất, ngoài các binh lính đang chiến đấu, không ai dám đến đó cả. Kẻ theo dõi cuối cùng trông thấy cô ta đi vào một ngôi tháp sập, trước đây ở đó có thánh đường Hồi giáo, đã thoát khỏi lần Constantinos XI ra lệnh dỡ bỏ các nhà thờ Hồi giáo trong thành vì trong đợt dịch hạch hoành hành lần trước, có mấy người bệnh vào chết ở đó, vì vậy không ai muốn đến gần. Sau khi cuộc chiến nổ ra, ngôi tháp bị sập mất một nửa trong đợt pháo kích nào đó. Theo chỉ thị của viên đại thần, kẻ theo dõi không vào trong tháp, nhưng đã điều tra hai tên lính lúc trước từng vào tháp. Trước khi ngôi tháp bị đạn pháo phá sập, bọn họ từng có ý định lập tháp canh ở đây, nhưng phát hiện độ cao không đủ bèn bỏ cuộc. Theo lời bọn họ, ở đó ngoài mấy cái xác đã biến thành xương khô ra thì chẳng có gì cả.
Lần này, Phrantzes không phái người theo dõi. Ông ta nhìn theo Helena, mới đầu đi giữa đội ngũ binh sĩ trên tường thành, giữa những áo giáp phủ đầy bụi đất và vết máu, chiếc áo choàng trùm đầu của cô ta trông rất nổi bật, nhưng những binh sĩ đã mệt lả trong cuộc huyết chiến kéo dài nhiều ngày không ai chú ý đến cô ta. Cô ta nhanh chóng xuống khỏi tường thành, đi qua cánh cổng vòng tường thành thứ hai, lần này không tìm cách cắt đuôi những kẻ có khả năng theo dõi mình nữa, mà đi thẳng về phía khu Blachernae lần trước, biến mất trong màn đêm vừa buông xuống.
Constantinos XI nhìn vũng nước đang khô dần trên nền nhà, như thể đối diện với hy vọng đang biến mất. Vũng nước là do mười hai dũng sĩ trên biển vừa rời khỏi đây để lại. Thứ Hai tuần trước, bọn họ khoác trên mình quân phục màu đỏ sẫm của Đế quốc Ottoman, đầu chít khăn theo kiểu Hồi giáo, lái một thuyền buồm nhỏ xuyên qua hàng rào phong tỏa nghiêm ngặt của quân thù, đi đón hạm đội châu Âu đến tiếp viện, đồng thời thông báo tình hình quân địch cho hạm đội biết. Nhưng họ chỉ thấy mỗi biển Aegea trống trải, thậm chí còn không thấy nổi cái bóng của hạm đội Tây Âu trong lời đồn. Các dũng sĩ lòng đã nguội lạnh vẫn làm tròn chức trách của mình, một lần nữa vượt hàng rào phong tỏa, báo tin xấu về cho Hoàng đế. Lúc này, Constantinos XI rốt cuộc đã thừa nhận, tăng viện từ châu Âu chẳng qua chỉ là mộng tưởng đơn phương, thế giới Cơ Đốc đã từ bỏ Byzantium, thực sự trơ mắt ra nhìn tòa thành thánh nghìn năm rơi vào tay tín đồ dị giáo rồi.
Bên ngoài vang lên tiếng ồn ào bất an, vệ binh báo cáo có nguyệt thực. Đây là điềm xấu cực kỳ, vì trong mưa gió nghìn năm đã có một câu cách ngôn thế này: chỉ cần trăng sáng chiếu rọi, thành Constantinopolis sẽ không
thất thủ. Qua ô cửa sổ dài, Hoàng đế nhìn vầng trăng nay đã biến thành lỗ đen, một huyệt mộ ở trên trời. Ông ta có dự cảm Helena sẽ không trở về, ông ta cũng không thể lấy được cái đầu kẻ đó nữa.
Quả nhiên, một ngày một đêm trôi qua, lại thêm một ngày nữa, Helena vẫn không có tin tức.
Đoàn người do Phrantzes dẫn đầu thúc ngựa đến trước ngôi tháp ở khu Blachernae, vừa trông thấy ngôi tháp, tất cả đều ngẩn người: dưới ánh sáng lành lạnh nhợt nhạt của vầng trăng mới nhú, ngôi tháp còn nguyên vẹn không chút suy suyển, đỉnh tháp nhọn hoắt chỉ thẳng lên bầu trời đêm vừa hiện ra những vì sao lấp lánh. Kẻ theo dõi dẫn đường thế rằng lần trước hắn đến đây ngôi tháp quả thực bị gãy mất một nửa, trong đoàn đi cùng còn có mấy viên sĩ quan và binh sĩ chiến đấu ở khu vực này, bọn họ cũng nhao nhao chứng thực. Đại thần lạnh lùng lừ mắt nhìn kẻ theo dõi, dù có bao nhiêu người làm chứng, chắc chắn kẻ này vẫn nói dối, vì đỉnh tháp nhọn hoắt nguyên vẹn kia vượt trên hết thảy lời chứng. Nhưng lúc này Phrantzes không có tâm tư trừng phạt ai cả, ngày tàn của ngôi thành sắp sửa ập đến, tất cả bọn họ đều khó mà thoát khỏi sự trừng phạt của quân thù. Đồng thời, một tên binh sĩ bên cạnh cũng có điều che giấu, hắn biết nửa trên ngôi tháp biến mất không phải do đạn pháo, vào cái đêm hai tuần trước đó, không có đợt pháo kích nào cả, sáng sớm ra đỉnh tháp đã biến mất rồi. Khi ấy, hắn còn để ý thấy mặt đất xung quanh tháp không có tí gạch ngói vỡ nào. Khúc tường thành này là khu vực trọng điểm oanh kích của đại pháo Orbán, viên đạn đá khổng lồ ấy bất cứ lúc nào cũng có thể xuyên qua tường thành rơi xuống nơi này, có lần còn giết chết mười mấy binh sĩ, ngôi tháp còn một nửa ấy bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị phá
hủy, vì vậy không ai bước chân vào trong đó nữa. Hai người cùng chứng kiến sự việc này với hẳn đều đã tử trận, hắn không muốn lắm chuyện, vì có nói ra cũng chẳng ai chịu tin.
Phrantzes và đám người cùng vào tầng thấp nhất của ngôi tháp, thấy xương cốt của những kẻ chết vì bệnh dịch hạch kia đã bị lũ chó hoang bới loạn lên vung vãi khắp mặt đất, không có người sống nào. Kế đó, bọn họ men theo cầu thang xoắn ốc sát bờ tường lên tầng thứ hai, dưới ánh sáng của ngọn đuốc, thoáng liếc qua đã thấy Helena nằm cuộn dưới cửa sổ, rõ ràng là cô ta đang ngủ, nhưng hai mắt vẫn phản chiếu ánh lửa bên dưới mí mắt khép hờ. Quần áo cô ta rách bươm, bên trên bám đầy bụi đất, đầu tóc rối bù, trên mặt có hai ba vết máu trông như bị chính mình cào rách. Viên đại thần đưa mắt nhìn quanh, đây là tầng cao nhất của ngôi tháp, không gian bên trong hình chóp nhọn, hoàn toàn không có gì. Ông ta để ý thấy khắp nơi chỗ nào cũng phủ một lớp bụi dày, chạm nhẹ vào là để lại dấu vết rõ ràng, nhưng dấu vết thực tế lại rất ít, dường như Helena cũng như bọn họ, đều đến đây lần đầu tiên vậy. Ngay lúc đó cô ta giật mình tỉnh giấc, hai bàn tay khua khoắng loạn xạ, dựa vào bức tường đứng dậy, ánh trăng hắt vào qua cửa sổ làm mái tóc rối bù trông như một đám sương bạc bao quanh đầu; cô ta trợn tròn hai mắt, hồi lâu sau ý thức mới gắng gượng trở về với hiện thực, sau đó lại đột nhiên nhắm hờ mắt lại, rơi vào hồi tưởng, dường như vẫn còn lưu luyến giấc mộng mình vừa đi ra.
“Ngươi làm cái gì ở đây?!” Phrantzes gằn giọng hỏi.
“Đại nhân, tôi... tôi không thể đến đó được nữa!”
“Đến đâu?”
Helena vẫn nhắm hờ hai mắt, ngây ngất say sưa trong hồi ức tựa như đứa trẻ giằng co không chịu để người lớn kéo khỏi tay món đồ chơi yêu thích. “Nơi đó rất lớn, rất tốt, rất dễ chịu. Ở đây...” Cô ta đột nhiên trợn trừng hai mắt kinh hoảng đảo một vòng xung quanh: “Ở đây chật hẹp như trong quan tài vậy, bên ngoài... Cũng chật hẹp như trong quan tài. Tôi muốn đến đó!”
“Sứ mệnh của ngươi thì sao?” Viên đại thần hỏi.
“Đại nhân, xin hãy đợi,” Helena gắng sức làm dấu thánh, “xin hãy đợi.”
Phrantzes chỉ ra ngoài cửa sổ, “Giờ còn có thể đợi được cái gì nữa?”
Từng đợt sóng âm từ bên ngoài truyền vào, lắng nghe thật kỹ sẽ thấy sóng âm chia thành hai phần rõ rệt.
Một phần âm thanh từ ngoài thành vẳng vào. Mehmed II đã quyết định ngày mai sẽ phát động đợt tổng tấn công vào Constantinopolis, lúc này, vị Hồi vương trẻ tuổi đang thúc ngựa đi qua lều trại của quân Ottoman, hứa với tướng sĩ: Ta chỉ cần thành Constantinopolis, của cải và đàn bà trong thành đều là của các ngươi, sau khi phá thành, các ngươi có thể cướp bóc ba ngày trong thành phố. Toàn quân hoan hô vang dội, trong tiếng hoan hô vừa lắng xuống nơi này đã vang lên ở nơi khác còn xen lẫn cả tiếng tù và và tiếng trống quân, làn sóng âm này cùng với khói mù và hoa lửa từ vô số đống lửa trong doanh trại bốc lên cao, biến thành một bầu sát khí dày đặc phía trên thành phố.
Âm thanh từ phía trong thành Constantinopolis lại thấp trầm, bi thống. Dưới sự dẫn dắt của Thượng phụ, dân chúng toàn thành đã diễu hành một
vòng. Lúc này, tất cả mọi người đều tập trung ở đại giáo đường Hagia Sophia, tham gia buổi lễ Misa cuối cùng. Đây là cảnh tượng chưa từng có trong lịch sử Cơ Đốc giáo, và cũng sẽ không bao giờ tái diễn: Trong tiếng Thánh ca trang nghiêm, dưới ánh nến u ám, Hoàng đế và Thượng phụ Byzantium, các tín đồ Chính Thống giáo phương Đông và tín đồ Công giáo từ Ý, các binh sĩ giữ thành vũ trang từ đầu tới chân, các thương nhân và thủy thủ từ Venice và Genoa, cùng vô số cư dân thành phố, tất cả đều tụ tập trước mặt Thượng Đế, chuẩn bị đem sinh mạng mình đi nghênh đón trận huyết chiến cuối cùng.
Phrantzes biết chuyện này thế là hỏng, có lẽ Helena chỉ là một tên bịp bợm tài cao, cô ta hoàn toàn không có phép thuật gì, song như vậy còn tốt chán. Nhưng mặt khác, ông ta lại đối diện với nguy cơ vô cùng lớn: cô ta thực sự có phép thuật, và còn đến trận địa của quân địch, nhận lệnh của người Ottoman và trở về đây. Xét cho cùng, triều đình Byzantium nay chỉ còn thoi thóp chẳng thể mang lại gì cho cô ta cả, thậm chí ngay cả cái danh hiệu Thánh nữ vinh dự kia cũng khó lòng thành sự thật - Giáo hội Chính Thống giáo phương Đông và Công giáo La Mã đều khó thể nào chấp nhận tuyên thánh cho một gái điếm và nữ phù thủy. Lần này, cô ta trở về, mục tiêu rất có thể là Hoàng đế Constantinos XI hoặc chính bản thân ông ta. Vết xe đổ Orbán vẫn còn ngay đó[3].
Viên đại thần ra hiệu cho kẻ theo dõi, người này rút kiếm ra đâm vào Helena, mũi kiếm xuyên qua lồng ngực mềm mại rồi lút vào kẽ tường phía sau. Hắn muốn rút kiếm ra nhưng không được, bàn tay Helena cũng nắm lấy chuôi kiếm, hắn không muốn chạm vào đôi tay đó, bèn buông tay ra, cùng Phrantzes vội vàng bỏ đi. Từ đầu đến cuối, Helena không phát ra tiếng nào, đầu cô ta chầm chậm ngoẹo xuống. Đám sương màu bạc kia rời khỏi ánh trăng, chìm vào bóng tối. Trong tháp tối sầm lại, ở khoảng sáng
nhỏ nơi ánh trăng nhợt nhạt chiếu vào mặt đất, dòng máu như thể một con rắn đen ngoằn ngoèo bò qua.
Lúc Phrantzes ra khỏi cửa tháp, âm thanh bên trong và bên ngoài thành đều đã im bặt, trong sự tĩnh mịch trước trận chiến lớn bao trùm mặt đất và biển cả nơi Âu-Á giao nhau này, Đế quốc La Mã phương Đông chuẩn bị đón buổi bình minh cuối cùng của nó.
Trên tầng hai của ngôi tháp, mụ phù thủy bị thanh kiếm ghim vào tường đã chết, có lẽ cô ta là phù thủy thực sự duy nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng mười giờ đồng hồ trước, thời đại phép thuật ngắn ngủi cũng đã kết thúc. Thời đại phép thuật bắt đầu vào 16 giờ ngày 3 tháng Năm năm 1453 Công nguyên, khi đó mảnh vỡ của không gian chiều cao hơn lần đầu tiên tiếp xúc với Trái đất; kết thúc vào 21 giờ ngày 28 tháng Năm năm 1453 Công nguyên, lúc này mảnh vỡ đã hoàn toàn rời khỏi Trái đất; tổng cộng hai mươi lăm ngày năm giờ đồng hồ. Sau đó, thế giới này lại trở về với quỹ đạo bình thường của nó.
Chập tối ngày 29, thành Constantinopolis bị công phá.
Khi cuộc chiến thảm khốc ngày hôm đó gần đi đến tàn cục, Constantinos XI đối mặt với quân đội Ottoman tràn vào như ong vỡ tổ, hét lớn: “Thành đã đổ mà ta vẫn còn chưa chết!” Sau đó, Hoàng đế cởi bỏ áo bào tím, rút kiếm xông vào giữa kẻ thù, giáp trụ màu bạc của ông ta như thể miếng giấy thiếc bị ném vào nước cường toan đỏ sậm, chớp mắt đã biến mất không còn dấu tích...
Rất lâu về sau, ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành Constantinopolis bị công phá mới hiển hiện ra, khi sự việc xảy ra, điều đầu tiên người ta nghĩ đến chính là Đế quốc La Mã rốt cuộc đã hoàn toàn biến mất. Byzantium là
vệt xe kéo dài nghìn năm của Đế quốc La Mã cổ, tuy cũng có độ huy hoàng, song cuối cùng vẫn phải bốc hơi như vũng nước dưới ánh Mặt trời nóng rực. Đã có thời người La Mã cổ từng huýt sáo trong nhà tắm hoa lệ hùng vĩ của mình, cho rằng Đế quốc sẽ như bồn tắm bên dưới, được xây bằng một khối đá hoa cương duy nhất, trường tồn vĩnh viễn.
Giờ đây người ta đã biết, không có bữa tiệc nào không tàn, mọi thứ đều có kết thúc.
Kỷ nguyên Khủng hoảng năm thứ nhất: Lựa chọn "sự sống"
Dương Đông muốn cứu chính mình, nhưng cô biết hy vọng rất mong manh.
Cô đứng trên ban công tầng thượng của trung tâm điều khiển, cúi nhìn máy gia tốc đã ngừng vận hành. Chu vi máy gia tốc là hai mươi nghìn mét, từ độ cao này vừa khéo có thể nhìn thấy toàn bộ. Máy không được xây dựng trong đường hầm dưới lòng đất như thường lệ, mà nằm trong đường ống bê tông cuộn tròn trên mặt đất, trông như thể một dấu chấm cầu khổng lồ dưới ánh hoàng hôn[4].
Dấu chấm cho cái gì? Mong rằng nó chỉ là dấu chấm hết cho ngành vật lý.
Trước đây, Dương Đông có một niềm tin cơ bản: có lẽ cuộc đời và thế giới thì xấu xa thật, nhưng ở tận cùng của thước đo vi mô và vĩ mô lại là sự hài hòa hoàn mỹ, thế giới thường nhật chỉ là bọt bong bóng nổi trên đại dương hoàn mỹ này mà thôi. Giờ nhìn lại, thế giới thường nhật ngược lại trở thành vỏ ngoài đẹp đẽ, hiện thực vi mô mà nó bao trùm, cũng như hiện thực vĩ mô bao trùm lên nó rất có thể còn hỗn loạn và xấu xí hơn bội phần.
Chuyện này quá đáng sợ.
Thực ra, chỉ cần không nghĩ những chuyện này nữa là xong, không có ngành vật lý, cô vẫn sống tiếp được, cô có thể lựa chọn một ngành nghề không liên quan đến vật lý lý thuyết, lấy chồng sinh con, sống bình lặng
hết đời như bất cứ người phụ nữ nào khác. Đương nhiên, đối với cô, sống như vậy chỉ là sống một nửa mà thôi.
Một việc khác nữa, đó là về mẹ cô. Tình cờ một lần Dương Đông phát hiện ra máy tính của mẹ nhận được những tin nhắn có cấp độ bảo mật cực cao, điều này khiến cô hết sức tò mò. Những tài liệu được giải mật xong không bị chạy phần mềm hủy dữ liệu, mà chỉ bị xóa đi. Giống như nhiều người lớn tuổi khác, mẹ cô không thông thạo sử dụng máy tính và mạng Internet lắm, không biết rằng dù format lại ổ cứng thì dữ liệu trên đó cũng có thể dễ dàng khôi phục lại. Lần đầu tiên trong đời mình, Dương Đông làm một việc giấu giếm mẹ: cô khôi phục một phần những tài liệu bị xóa đi ấy. Lượng thông tin rất lớn, cô đọc mất mấy ngày, biết được bí mật giữa mẹ và thế giới Tam Thể.
Dương Đông gần như bị nỗi kinh hoàng đánh gục, người mẹ mà bấy lâu nay vẫn cùng cô dựa vào nhau để sống hóa ra là một con người khác, chẳng những vậy, cô vốn thậm chí còn không dám tin rằng trên thế giới này lại có loại người như thế. Cô không dám đi hỏi mẹ, vĩnh viễn không dám, vì chỉ cần hỏi ra, mẹ sẽ thực sự biến thành con người khác kia mãi mãi. Để mẹ tiếp tục giữ bí mật của bà, còn Dương Đông thì giả bộ như mẹ vẫn là người mẹ ấy, cuộc sống cũng có thể tiếp tục. Đương nhiên, với Dương Đông, cuộc sống như vậy cũng chỉ còn lại một nửa mà thôi.
Sống một nửa thực ra cũng chẳng có gì lắm, theo như cô quan sát, một phần không nhỏ những người xung quanh đều đang sống một nửa như thế, chỉ cần giỏi quên và thích ứng, sống một nửa cũng có thể sống rất bình thản, thậm chí là rất hạnh phúc.
Nhưng bớt đi hai nửa, tức là bỏ đi trọn vẹn một đời mất rồi.
Dương Đông vịn vào lan can của ban công, nhìn vực sâu bên dưới, trong cảm giác sợ hãi còn kèm theo cả cám dỗ. Cô có cảm giác thanh lan can chịu sức nặng của mình đột nhiên lắc lư, lập tức giật lùi một bước như thể bị giật điện. Cô không dám ở lại đây thêm nữa, liền quay người đi vào phòng thiết bị đầu cuối.
Đây là nơi để thiết bị đầu cuối của siêu máy tính, máy chủ này không nối trực tiếp với máy gia tốc hạt mà chỉ dùng để xử lý kết quả ngoại tuyến. Toàn bộ các thiết bị đầu cuối đã bị tắt đi vào mấy ngày trước, giờ lại có mấy chiếc được bật lên, khiến Dương Đông cảm thấy an ủi phần nào, nhưng cô biết, giờ đây nơi này đã không còn liên hệ gì với máy gia tốc hạt nữa, máy chủ đã bị dành cho các dự án khác. Trong phòng chỉ có một người trẻ tuổi, thấy Dương Đông vào bèn đứng dậy, anh ta đeo kính gọng to, màu xanh lục tươi tắn, trông rất đặc biệt. Dương Đông nói cô chỉ đến lấy một ít đồ để ở đây. Sau khi biết cô là ai, Gọng Kính Xanh trở nên nhiệt tình hẳn, anh ta giới thiệu với cô dự án mà siêu máy tính này đang vận hành.
Đây là một mô hình toán học về Trái đất, dùng để mô phỏng sự biến đổi bề mặt Trái đất trong quá khứ và tương lai. Khác với những dự án tương tự trước đây, mô hình này tổng hợp cả nhiều nhân tố khác như sinh vật, địa chất, khí quyển, hải dương và thiên văn. Gọng Kính Xanh bật mấy màn hình lớn lên cho Dương Đông xem, cô thấy trên đó hiển thị những thứ hoàn toàn khác với bảng số liệu và đồ thị trước đây, toàn bộ đều là những hình ảnh màu sắc rực rỡ, như thể các lục địa và đại dương được nhìn từ trên cao xuống vậy. Gọng Kính Xanh linh hoạt di động con trỏ chuột, phóng lớn vài phần hình ảnh, hình ảnh nét hẳn thành một khu rừng hoặc một dòng sông. Dương Đông có cảm giác hơi thở của tự nhiên đang thẩm thấu vào nơi từng bị những số liệu và lý luận trừu tượng chiếm lĩnh này,
cảm giác đó không ngờ lại khiến cô thấy được giải thoát, như thể bước ra khỏi một chốn giam cầm bí bách.
Nghe Gọng Kính Xanh giới thiệu xong, Dương Đông lấy đồ, lịch sự chào tạm biệt, định rời chân. Lúc quay người đi ra phía cửa, cô cảm thấy Gọng Kính Xanh vẫn đang chăm chú nhìn mình. Cô đã quen với ánh mắt ấy của đàn ông, cũng không lấy làm bực tức, mà còn thấy dễ chịu như thể vào mùa đông được sưởi dưới ánh Mặt trời. Cô đột nhiên có ham muốn nói chuyện với người khác, bèn dừng lại quay người đối diện với Gọng Kính Xanh.
“Anh có tin vào Thượng Đế không?”
Câu nói vừa thốt ra khỏi miệng, bản thân Dương Đông cũng thấy ngạc nhiên, nhưng nghĩ đến mô hình mà máy tính ở đây đang thực hiện, câu hỏi này cũng không quá đột ngột nữa, cô mới ít nhiều thấy thoải mái hơn.
Gọng Kính Xanh cũng ngớ người vì câu hỏi này, há miệng ra một lúc lâu mới dè dặt đáp: “Thượng Đế nào?”
“Thì là Thượng Đế đó.” Dương Đông nói ngắn gọn, cảm giác mệt mỏi áp đảo hết tất cả mọi thứ lại ập về, cô không còn tinh thần giải thích thêm gì nữa.
“Tôi không tin.”
“Nhưng mà,” Dương Đông chỉ vào lục địa và đại dương trên màn hình lớn, “các tham số vật lý của môi trường mà sự sống tồn tại đều cực kỳ hà khắc, ví dụ như nước ở thể lỏng chỉ tồn tại trong một phạm vi nhiệt độ rất hẹp; xét từ góc độ vũ trụ lại càng rõ rệt hơn, nếu các tham số của Vụ Nổ Lớn chỉ lệch đi một phần triệu tỷ thôi là sẽ không có các nguyên tố nặng
xuất hiện, tức cũng không có sự sống nữa. Chẳng phải điều này là dấu hiệu rõ rệt của thiết kế thông minh hay sao?”
Gọng Kính Xanh lắc đầu, “Vụ Nổ Lớn thì tôi không hiểu rõ, nhưng môi trường của sự sống trên Trái đất mà cô nói thì hoàn toàn không phải như thế đâu. Trái đất sinh ra sự sống, sự sống cũng đang thay đổi Trái đất, môi trường Trái đất hiện nay thực ra là kết quả của tác động tương hỗ giữa hai bên.” Gọng Kính Xanh ngẫm nghĩ một thoáng, đặt tay lên con chuột, “Chúng ta thử mô phỏng xem sao nhé.” Anh ta bật trên màn hình lớn một giao diện cài đặt, đó là một đống ô tham số nhìn mà hoa hết cả mắt, rồi bỏ chọn một ô trên cùng, tất cả các trường tham số đều trở nên trống trơn, “Chúng ta bỏ lựa chọn ‘sự sống’ đi, xem xem Trái đất ở trạng thái không có sự sống đến lúc này sẽ thành ra như thế nào. Chỉ mô phỏng ở mức độ thô sơ nên sẽ không tốn quá nhiều thời gian đâu.”
Nhìn qua một thiết bị điều khiển đầu cuối, Dương Đông thấy máy chủ bắt đầu vận hành hết công suất, siêu máy tính cỡ lớn kiểu này đều cực kỳ hao điện, lúc này phải tương đương với một huyện lỵ nhỏ, nhưng cô không ngăn Gọng Kính Xanh lại.
Trên màn hình lớn xuất hiện một hành tinh vừa mới hình thành, bề mặt đang ở trạng thái nóng đỏ trông như một cục than hồng vừa lấy ra khỏi lò. Thời gian trôi đi theo các kỷ địa chất, hành tinh nguội dần, màu sắc và đường vân trên bề mặt liên tục biến đổi chậm rãi, nhìn vào có cảm giác như đang bị thôi miên. Mấy phút sau, trên màn hình xuất hiện một hành tinh màu cam, thông báo quá trình mô phỏng đã hoàn thành.
“Đây là tính toán ở mức độ sơ bộ nhất, mô phỏng chính xác phải mất một tháng.” Gọng Kính Xanh nói, đồng thời di động con chuột, từ ngoài không gian nhìn xuống bề mặt hành tinh. Khung hình lướt qua sa mạc
mênh mông, bay qua những dãy núi hình dạng quái dị, ngọn núi trông như vô số cây cột khổng lồ; kê đó lại lướt qua một vực sâu thăm thẳm không thấy đáy và một thung lũng hình tròn trông như thể hố thiên thạch.
“Đây là đâu vậy?” Dương Đông ngơ ngác hỏi.
“Trái đất đấy. Nếu như không có sự sống, Trái đất diễn biến đến bây giờ sẽ có bề mặt như thế này.”
“Thế... biển đâu?”
“Không có biển, không có sông suối, toàn bộ đều khô cạn.”
“Ý anh là, nếu như không có sự sống, Trái đất thậm chí còn không có cả nước ở thể lỏng?”
“Tình trạng thực có thể còn kinh khủng hơn thế này nhiều. Đây đương nhiên chỉ là mô phỏng sơ lược, nhưng ít nhất cũng cho cô thấy được sự sống có ảnh hưởng lớn như thế nào đến hình hài hiện nay của Trái đất.”
“Nhưng...”
“Có phải cô cho rằng, sự sống chỉ là một lớp những thứ mỏng manh, mềm nhũn, lưa thưa, yếu đuối trên bề mặt Trái đất hay không?”
“Không phải vậy à?”
“Vậy cô đã bỏ qua mất sức mạnh của thời gian rồi. Giả sử một đàn kiến không ngừng vận chuyển những viên đá nhỏ cỡ bằng hạt gạo, nếu cho chúng nó một tỷ năm, chúng có thể dọn đi cả núi Thái Sơn. Chỉ cần thời gian đủ dài, sự sống sẽ còn mạnh mẽ hơn nhiều nham thạch và kim loại, uy lực của nó còn hơn cả gió lốc và núi lửa.”
“Nhưng vận động kiến tạo sơn chủ yếu vẫn là do tác động của lực địa chất mà.”
“Chưa chắc. Có lẽ sự sống không thể dựng lên núi non, nhưng nó có thể thay đổi sự phân bố của các rặng núi, ví dụ có ba ngọn núi lớn, thực vật chỉ mọc trên hai ngọn núi, ngọn núi không có thực vật sẽ nhanh chóng bị phong hóa và san bằng. Ở đây tôi nói ‘nhanh chóng’ là khoảng mười triệu năm, xét về mặt niên đại địa chất thì thực sự không lâu.”
“Thế biển làm sao mà biến mất?”
“Phải xem lại nhật ký quá trình mô phỏng, phiền phức lắm, nhưng có thể đoán được. Thực vật, động vật và vi khuẩn có tác dụng cực quan trọng đối với việc hình thành bầu khí quyển như hiện nay, nếu như không có sự sống, thành phần khí quyển hiện nay sẽ khác hẳn, có lẽ đã không ngăn cản được tia tử ngoại và gió Mặt trời, biển sẽ bốc hơi hết, khí quyển Trái đất sẽ biến thành một cái lồng hấp như ở Sao Kim vậy, hơi nước tập trung ở tầng cao nhất của khí quyển rồi bay hơi vào vũ trụ, sau vài tỷ năm, Trái đất sẽ khô cạn.”
Dương Đông không nói gì nữa, lặng lẽ nhìn thế giới khô xác màu vàng đó.
“Vì thế, Trái đất hiện nay là ngôi nhà mà sự sống xây dựng cho riêng mình, không liên quan gì đến Thượng Đế cả.” Gọng Kính Xanh quay về phía màn hình, làm động tác ôm trọn lấy, rõ ràng anh ta rất hài lòng với bài hùng biện vừa rồi của mình.
Với trạng thái tinh thần lúc này, Dương Đông vốn dĩ chẳng có tâm tư đâu mà nói những chuyện này và xem những thứ này, song khi Gọng Kính
Xanh bỏ lựa chọn sự sống trong mô hình toán học, tâm trí cô đột nhiên lóe lên chấn động. Lúc này, rốt cuộc cô cũng cất tiếng hỏi câu hỏi đáng sợ kia:
“Thế còn vũ trụ?”
“Vũ trụ? Vũ trụ thì sao?” Gọng Kính Xanh đang tắt quá trình mô phỏng đi, không hiểu ý cô bèn hỏi lại.
“Nếu có một mô hình toán học tương tự như vậy, mô phỏng toàn bộ vũ trụ, lúc bắt đầu vận hành cũng bỏ chọn ‘sự sống’ như vừa nãy, vậy thì vũ trụ kết quả trông sẽ như thế nào?”
“Tất nhiên vẫn như bây giờ rồi, nếu như kết quả chính xác. Vừa nãy tôi nói sự sống thay đổi thế giới là chỉ giới hạn ở Trái đất thôi, trong vũ trụ ấy à, sự sống dù có cũng cực kỳ thưa thớt, có thể bỏ qua không tính đến ảnh hưởng của nó đối với quá trình thay đổi.”
Dương Đông muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc cũng không nói ra, bèn tạm biệt Gọng Kính Xanh lần nữa, đồng thời gắng nở một nụ cười cảm kích với anh ta. Cô ra ngoài tòa nhà, ngẩng mặt ngước nhìn bầu trời sao mới xuất hiện.
Qua những thông tin trong máy tính của mẹ cô có thể thấy, sự sống trong vũ trụ này không hề thưa thớt, vũ trụ đã rất chật chội rồi.
Vậy thì, vũ trụ hiện nay đã bị sự sống thay đổi đến chừng nào, sự thay đổi này đã đạt đến cấp độ nào, độ sâu nào?
Câu hỏi thứ hai đặc biệt khiến Dương Đông sợ hãi.
Cô biết mình đã không thể cứu được chính mình nữa, bèn ngừng suy nghĩ, cố gắng biến ý nghĩ của mình thành một vùng hư không đen kịt, nhưng vẫn có một câu hỏi cuối cùng ngoan cố lưu lại trong tiềm thức:
Tự nhiên thực sự là tự nhiên hay sao?
Kỷ nguyên Khủng hoảng năm thứ tư: Vân Thiên Minh
Hôm nay bác sĩ Trương đến phòng bệnh thăm khám, lúc đi khỏi đã tiện tay đưa cho Vân Thiên Minh một tờ báo, nói anh ta nằm viện cũng đã khá lâu, nên biết một số chuyện ở bên ngoài. Vân Thiên Minh hơi ngạc nhiên, vì trong phòng bệnh có ti vi, anh ta lờ mờ cảm giác được, bác sĩ Trương làm vậy có thể còn có mục đích khác.
Ấn tượng đầu tiên của Vân Thiên Minh khi đọc báo là: so với thời điểm trước khi anh ta nhập viện, tin tức về Tam Thể và ETO (tổ chức Tam Thể Địa Cầu) không còn ngập tràn khắp mọi nơi như hồi đó nữa, rốt cuộc cũng có một tỷ lệ nhất định những bài không liên quan đến nguy cơ này. Bản tính gặp sao yên vậy của loài người đang thể hiện ra, chuyện của bốn thế kỷ về sau đang dần dần nhường chỗ cho cuộc sống hiện tại. Điều này không có gì lạ, anh ta ngẫm nghĩ xem bốn thế kỷ trước là thời nào, ở Trung Quốc là triều Minh, hình như Nỗ Nhĩ Cáp Xích vừa thành lập nhà Hậu Kim; thời Trung cổ tăm tối ở phương Tây vừa mới kết thúc; động cơ hơi nước phải hơn trăm nầm nữa mới xuất hiện, loài người muốn dùng điện thì phải đợi hơn hai trăm năm nữa. Lúc đó, nếu có người lo lắng về chuyện bốn trăm năm sau, thì cũng đáng cười như lo lắng cho người cổ đại vậy.
Còn bản thân anh ta, theo đà phát triển của bệnh tình trước mắt, chuyện sang năm thôi cũng chẳng cần phải lo lắng rồi.
Một mục tin khiến anh ta chú ý, ở trang đầu, tuy không phải tin đầu bảng, nhưng cũng khá nổi bật:
HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KHÓA 3 THÔNG QUA LUẬT AN LẠC TỬ[5]
Chuyện này hơi kỳ lạ, hội nghị đặc biệt ủy ban thường vụ Quốc hội thường triệu tập để lập ra các điều luật có liên quan đến nguy cơ Tam Thể, mà Luật An lạc tử này hình như không liên quan gì đến mối nguy kia cả.
Bác sĩ Trương muốn mình đọc được tin tức này sao?
Một cơn ho dữ dội khiến anh ta buông tờ báo xuống, bắt đầu ngủ một cách khó nhọc.
Hôm sau, trong chương trình thời sự trên truyền hình có một số bản tin và thảo luận về Luật An tử, nhưng không được chú ý nhiều lắm, phản ứng của mọi người cũng rất bình thản.
Đêm hôm đó, cơn ho cùng với khó thở và cảm giác buồn nôn, mệt rũ gây ra bởi hóa trị khiến Vân Thiên Minh khó mà ngủ được. Ông Lý giường bên nhân lúc giúp anh ta lấy ống thở ngồi xuống mép giường anh ta, sau khi kiểm tra thấy hai người bệnh khác cùng phòng đều đã ngủ say, ông ta mới khẽ nói: “Tiểu Vân này, tôi định đi trước một bước.”
“Ra viện ạ?”
“Không, an lạc.”
Từ sau đó, mọi người hễ nhắc đến chuyện này đều tỉnh lược bớt chữ cuối cùng kia đi.
“Sao bác lại nghĩ đến chuyện ấy? Con trai con gái đều chăm sóc rất có hiếu mà...” Vân Thiên Minh ngồi thẳng người dậy.
“Chính vì thế tôi mới định làm vậy đấy, cứ kéo dài mãi thế này, chúng nó sẽ phải bán nhà mất, cuối cùng cũng không chữa nổi, mà tôi cũng phải có trách nhiệm một chút với con cháu chứ.”
Hình như ông Lý nhận ra nói chuyện này với Vân Thiên Minh cũng không thích hợp, bèn lặng lẽ bóp nhẹ cánh tay anh ta một cái rồi đứng lên về giường.
Nhìn bóng cây đang đưa mà ánh đèn đường hắt lên rèm cửa sổ, Vân Thiên Minh dần dần ngủ thiếp đi. Lần đầu tiên từ khi bị bệnh, anh ta có một giấc mơ yên ả, trong mơ, anh ta ngồi trên một con thuyền nhỏ không có mái chèo, con thuyền nhỏ ấy được gấp bằng giấy trắng, nổi trên mặt nước phẳng lặng, bầu trời là một mảng xám mờ mịt đang đổ cơn mưa bụi lành lạnh, nhưng những giọt mưa dường như không rơi xuống nước, mặt nước phẳng lặng như mặt gương, không gợn dù chỉ một làn sóng lăn tăn. Ở mọi hướng, mặt nước đều hòa vào màu xám tro ấy, không thấy bến bờ cũng không thấy đường chân trời... Sáng sớm tỉnh dậy nhớ lại giấc mơ ấy, Vân Thiên Minh lấy làm ngạc nhiên, trong mơ, anh ta tin chắc đến không ngờ, rằng ở nơi đó sẽ mãi mãi đổ mưa bụi, ở nơi đó mặt nước mãi mãi không gỢn sóng, ở nơi đó bầu trời mãi mãi là một màu xám xịt như thế.
Cái chết êm dịu của ông Lý sắp được tiến hành. Từ “tiến hành” mà bản tin sử dụng đã được cân nhắc kỹ lưỡng rất nhiều, “thi hành” thì hiển nhiên không đúng, còn “thực hiện” nghe cũng không được ổn lắm, “hoàn thành” mang hàm nghĩa cái chết như một lẽ dĩ nhiên không phải ngờ vực, nhưng đối với quy trình cụ thể của cái chết êm dịu thì cũng không chuẩn xác cho lắm.
Bác sĩ Trương tìm gặp Vân Thiên Minh, hỏi nếu sức anh ta vẫn trụ được thì có thể tham dự nghi thức An lạc tử của ông Lý hay không. Bác sĩ Trương vội vàng giải thích: Đây là trường hợp An lạc tử đầu tiên của thành phố này, có đại diện của các bên tham gia, gồm cả đại diện bệnh nhân cũng là điều rất tự nhiên, ngoài ra không có ý gì khác. Vân Thiên Minh có cảm giác yêu cầu này ít nhiều cũng có ý tứ gì khác, nhưng bác sĩ Trương bấy lâu nay vẫn luôn chăm sóc anh ta, anh ta bèn nhận lời. Sau đấy, anh ta đột nhiên cảm thấy bác sĩ Trương hơi quen mặt, ngay cả cái tên cũng lờ mờ nghe ở đâu rồi, nhưng nhất thời lại không nhớ ra nổi. Sở dĩ trước đây anh ta không có cảm giác này là vì giao tiếp giữa bọn họ chỉ giới hạn ở bệnh tình và việc điều trị, bộ dạng bác sĩ lúc khám bệnh và những thời điểm khác vốn rất khác nhau.
Khi ông Lý tiến hành nghi thức An lạc tử không có người nhà nào có mặt, ông ta giấu họ, chỉ khi xong xuôi hết mọi việc, Sở dân chính thành phố (không phải bệnh viện) mới thông báo về nhà, điều này được Luật An tử cho phép. Có khá nhiều cơ quan truyền thông đến săn tin, nhưng các phóng viên hầu hết bị chặn ở bên ngoài. Nghi thức được tiến hành trong một phòng cấp cứu, ở đây có một bức tường kính chỉ có thể nhìn qua từ một phía. Những người liên quan đứng bên ngoài tường kính, bệnh nhân không trông thấy họ.
Vân Thiên Minh đi vào, chen qua đại diện của các bên đứng trước bức tường kính, khi anh ta lần đầu tiên nhìn thấy căn phòng thực hiện cái chết êm dịu, một cảm giác trộn giữa sợ hãi và buồn nôn dâng lên, suýt chút nữa nôn ọe. Vốn dĩ bệnh viện có ý tốt, để cho có vẻ nhân văn hơn, bọn họ trang trí lại phòng cấp cứu, thay rèm cửa đẹp đẽ, bày hoa tươi, thậm chí còn dán lên tường rất nhiều trái tim màu hồng phấn. Nhưng hành động này có hiệu
ứng ngược lại, giống như trang trí mộ thất thành phòng tân hôn vậy, trong nỗi sợ cái chết lại còn tăng thêm vẻ quái dị.
Ông Lý nằm trên cái giường ở chính giữa, trông có vẻ rất bình thản, Vân Thiên Minh nhớ ra vẫn chưa nói lời từ biệt với ông, trong lòng càng nặng nề. Hai công chứng viên đang ở trong hoàn thành các thủ tục công chứng, ông Lý ký tên lên công chứng thư. Sau khi công chứng viên đi ra, lại có một người vào giảng giải trình tự các thao tác cuối cùng. Người này mặc áo trắng, không biết có phải bác sĩ hay không. Trước tiên anh ta chỉ vào màn hình lớn trước giường, hỏi ông Lý có đọc được chữ hiển thị trên đó không, ông Lý nói được, anh ta lại bảo ông Lý thử xem có dùng tay phải di chuyển con chuột bên giường bấm vào một cái nút trên màn hình được không, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh, nếu không tiện thì vẫn còn cách khác, ông Lý thử một lượt thấy cũng làm được. Lúc này Vân Thiên Minh nhớ ra, ông Lý từng nói với anh ta, mình chưa bao giờ dùng máy tính, rút tiền cũng phải ra ngân hàng xếp hàng, vậy đây chính là lần đầu tiên trong đời ông ta dùng chuột rồi. Kế đó người mặc áo blu trắng nói với ông Lý, trên màn hình sẽ hiện ra một câu hỏi lặp lại năm lần, bên dưới câu hỏi có sáu nút từ 0 đến 5, mỗi lần, nếu ông ta trả lời khẳng định thì hãy bấm nút theo hướng dẫn, chỉ định một con số ngẫu nhiên từ 1 đến 5 - sở dĩ làm như vậy mà không dùng nút Có hoặc Không là để ngăn ngừa bệnh nhân vô ý thức bấm đi bấm lại cùng một nút; nếu trả lời phủ định, thì chỉ cần bấm số 0, khi đó quy trình cái chết êm dịu sẽ lập tức ngưng lại. Một y tá đi vào, cắm kim vào cánh tay trái ông Lý, kim nối với một ống mềm và một máy tiêm tự động to cỡ máy tính xách tay. Người mặc áo blu trắng chỉ đạo lúc đầu kia lại móc ra một món đồ, mở ra tầng tầng lớp lớp niêm phong, đó là một ống thủy tinh nhỏ, bên trong có chất lỏng màu vàng nhạt, anh ta cẩn thận lắp ống thủy tinh đó vào máy tiêm, sau đó đi ra ngoài cùng y tá. Phòng an lạc chỉ còn lại một mình ông Lý. Quy trình cái chết êm dịu chính thức
bắt đầu, trên màn hình hiện ra câu hỏi, đồng thời có một giọng nữ dịu dàng đọc lên thành tiếng:
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 3; nếu không, hãy bấm số 0.
Ông Lý bấm nút số 3.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 5; nếu không, hãy bấm số 0.
Ông Lý bấm nút số 5.
Sau đó, câu hỏi lại hiện ra hai lần nữa, nút bấm khẳng định lần lượt là 1 và 2, ông Lý đều bấm nút đó.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Đây là lần hỏi cuối cùng. Nếu phải, hãy bấm số 4; nếu không, hãy bấm số 0.
Trong chớp mắt, một làn sóng bi thương khổng lồ tràn vào tâm trí Vân Thiên Minh, khiến anh ta cơ hồ bất tỉnh, ngay cả lúc mẹ ruột qua đời, anh ta cũng không cảm thấy bi thương cực độ như vậy. Anh ta muốn hét lớn lên bảo ông Lý hãy bấm số 0, muốn đập vỡ tường kính, muốn giết chết cái người đàn bà có giọng nói dịu dàng ngọt ngào kia.
Nhưng ông Lý đã bấm số 4.
Máy bơm tiêm im lìm khởi động, Vân Thiên Minh thấy rõ mồn một cột chất lỏng màu vàng nhạt trong ống thủy tinh nhanh chóng thấp đi, cuối cùng biến mất. Trong toàn bộ quá trình này, ông Lý không nhúc nhích, hai mắt nhắm nghiền như thể thanh thản ngủ thiếp đi vậy.
Những người xung quanh mau chóng tản đi, Vân Thiên Minh vẫn đứng như phỗng tì vào tường kính, anh ta không nhìn thân thể đã không còn sự sống đó, mắt anh ta trợn trừng trừng, nhưng thực ra không nhìn gì cả.
“Không đau đớn một chút nào.” Giọng bác sĩ Trương nhẹ nhàng cất lên, như thể con muỗi bay vo ve bên tai, đồng thời Vân Thiên Minh cũng cảm thấy một bàn tay đặt lên vai trái mình, “Thuốc tiêm bao gồm thuốc ngủ barbital, thuốc giãn cơ và kali clorua nồng độ cao. Barbital có tác dụng đầu tiên, khiến người bệnh rơi vào trạng thái ngủ sâu; thuốc giãn cơ khiến bệnh nhân ngừng hô hấp, kali clorua làm tim ngừng đập, tất cả chỉ khoảng hai ba mươi giây.”
Bàn tay bác sĩ Trương đặt trên vai Vân Thiên Minh một lúc rồi nhấc lên, kế đó anh ta nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của đối phương bỏ đi. Vân Thiên Minh không ngoảnh đầu lại, nhưng hồi tưởng gương mặt bác sĩ Trương trong đầu, đột nhiên sực nhớ ra là ai.
“Bác sĩ Trương,” Vân Thiên Minh khẽ gọi, tiếng bước chân dừng lại, anh ta vẫn không quay đầu, “Anh quen chị tôi?”
Một lúc lâu sau mới có câu trả lời: “ừ, phải, bạn học cấp III, hồi nhỏ tôi còn gặp cậu hai ba lần.”
Vân Thiên Minh đi ra khỏi tòa nhà chính của bệnh viện như một cái máy. Giờ anh ta đã hiểu, bác sĩ Trương đang làm việc này cho chị gái anh
ta, chị gái muốn anh ta chết, ừm, muốn anh ta được an lạc.
Vân Thiên Minh thường hay nhớ lại những thời khắc vui vẻ cùng chơi đùa với chị gái hồi nhỏ, nhưng lớn lên, hai chị em dần trở nên xa cách. Giữa họ không có xung đột, không ai từng làm gì tổn thương đến người kia, nhưng vẫn không thể tránh được mà trở nên xa cách, đều cảm thấy người kia và mình là hai hạng người hoàn toàn khác nhau, đều có cảm giác người kia coi thường mình. Chị gái anh ta là một người tinh khôn, nhưng không thông minh, lấy một người chồng cũng tinh khôn nhưng không thông minh, kết quả cuộc sống rất vất vả, đầu tắt mặt tối, con lớn tướng rồi mà cũng chưa mua được nhà, nhà chồng cũng không có chỗ ở, phải ở rể sống chung với cha Vân Thiên Minh. Về phần anh ta, tính tình cô độc lẻ loi, sự nghiệp và cuộc sống cũng không thành công hơn chị gái là mấy, bấy lâu nay vẫn sống một mình bên ngoài ở ký túc xá công ty, đẩy hết trách nhiệm chăm lo người cha già yếu cho chị.
Anh ta đột nhiên hiểu được tâm tư của chị mình. Sau khi anh ta ngã bệnh, chút tiền bảo hiểm bệnh nan y đó căn bản là không đủ, vả lại bệnh này càng về sau càng phải tốn tiền, cha đã không ngừng đem tiền để dành đổ vào chữa cho anh; nhưng ông lại không hề giúp chị đồng nào để mua nhà, đây rõ ràng là thiên vị. Vả lại, bây giờ đối với chị, tiêu tiền của cha cũng không khác nào tiêu tiền của chị, huống hồ tiền này lại còn đổ vào một cuộc điều trị không có hy vọng. Nếu anh ta lựa chọn chết an lạc, tiền của chị được giữ lại, mà anh ta cũng bớt phải chịu khổ.
Bầu trời bị mây xám che phủ, chính là bầu trời trong giấc mộng đêm trước, Vân Thiên Minh ngước nhìn màu xám kéo dài vô tận ấy, thở dài.
Được, chị muốn em chết, em sẽ chết vậy.
Lúc này, Vân Thiên Minh chợt nghĩ đến truyện ngắn của Kafka, nhân vật chính trong truyện cãi nhau với cha mình, người cha buột miệng chửi: “Mày đi chết đi”, người con lập tức đáp trả: “Vâng, con đi chết”, dễ dàng như thể nói: “Vâng, con đi đổ rác đây” hay “Vâng, con đi ra đóng cửa”, sau đó người con chạy ra khỏi nhà, băng qua đường, chạy lên cây cầu lớn, nhảy xuống tự tử. Sau này, Kafka nhớ lại và nói, lúc viết đến đó, ông có “khoái cảm như thể vừa phóng tinh”. Lúc này, Vân Thiên Minh đã hiểu được Kafka, hiểu được người đàn ông đội mũ quả đưa, tay cắp cặp táp, trầm mặc bước đi trên con phố tối tăm của thành Praha hơn trăm năm về trước, người đàn ông ấy cũng cô độc giống như anh ta vậy.
Về phòng bệnh, Vân Thiên Minh thấy có người đang đợi mình, đó là Hồ Văn, bạn học đại học với anh ta. Thời đại học, Vân Thiên Minh không có bạn, Hồ Văn là người gần gũi với anh ta nhất - cũng không phải vì giữa hai người họ có tình bằng hữu gì cả, mà tính cách của Hồ Văn vừa khéo trái ngược với Vân Thiên Minh, là loại người làm thân với bất cứ ai, giao du rất rộng rãi. Vân Thiên Minh chắc chắn thuộc số ở ngoài rìa nhất trong vòng giao du của anh ta. Sau khi tốt nghiệp, bọn họ không còn liên lạc với nhau nữa. Hồ Văn không mang hoa, mà xách đến một thùng trông như là đồ uống.
Sau màn chào hỏi ngắn ngủi, Hồ Văn đột nhiên hỏi một câu khiến Vân Thiên Minh hơi ngạc nhiên: “Cậu còn nhớ lần đi dã ngoại hồi năm thứ nhất không? Lần đầu tiên mà cả bọn cùng đi chơi xa ấy.”
Đương nhiên Vân Thiên Minh còn nhớ, đó là lần đầu tiên Trình Tâm ngồi xuống cạnh anh ta, lần đầu tiên cô nói chuyên với anh ta; trên thực tế, nếu Trình Tâm không để ý đến anh ta, có lẽ trong bốn năm đại học sau đấy
Vân Thiên Minh cũng chưa chắc đã dám chủ động bắt chuyện với cô. Khi ấy anh ta ngồi một mình ở đó nhìn mặt nước mênh mông của hồ chứa nước Mật Vân bên ngoài thành phố Bắc Kinh, Trình Tâm đi tới ngồi xuống hỏi bình thường anh ta thích gì, sau đó bọn họ chuyện trò và liên tục quăng những viên sỏi nhỏ xuống hồ nước. Hai người nói toàn chuyện thông thường của những bạn học mới quen nhau, nhưng đến nay Vân Thiên Minh vẫn nhớ rõ từng chữ một. Lát sau, Trình Tâm gấp một con thuyền giấy nhỏ thả xuống nước, trong làn gió nhè nhẹ, con thuyền giấy trắng như tuyết ấy chầm chậm trôi về phía xa, cuối cùng biến thành một chấm trắng nhỏ... Đó là ngày nắng đẹp rực rỡ nhất trong đời sinh viên của anh ta. Sự thực, ngày hôm đó thời tiết không đẹp, trời mưa bụi lâm thâm, mặt nước gợn sóng lăn tăn, những hòn sỏi nhỏ họ ném đi đều ướt rườn rượt, nhưng từ hôm đó, Vân Thiên Minh bỗng yêu những ngày mưa nhỏ, yêu bầu không khí ẩm ướt và những viên sỏi nhỏ ướt rượt, anh ta còn thường xuyên gấp một con thuyền giấy nhỏ đặt trên bàn mình.
Anh ta đột nhiên nhớ ra, đêm hôm trước mình mơ thấy thế giới bên kia trong màn mưa bụi, không biết có phải đến từ đoạn ký ức ấy hay không?
Về chuyện sau đó mà Hồ Văn nói đến, Vân Thiên Minh lại không có ấn tượng gì sâu sắc lắm, có điều nghe nhắc nhở thì anh ta vẫn nhớ ra được. Sau đấy, mấy đứa con gái gọi Trình Tâm đi, Hồ Văn đi đến ngồi xuống bên cạnh bảo Vân Thiên Minh, cậu đừng có mà khoái trá, cô ấy tốt với tất cả mọi người. Vân Thiên Minh đương nhiên là biết điều này.
Nhưng câu chuyện không tiếp tục theo hướng đó, Hồ Văn kinh ngạc chỉ vào chai nước khoáng trong tay Vân Thiên Minh, hỏi anh ta đang uống gì. Nước trong chai đã chuyển thành màu xanh, bên trong còn có rất nhiều mẩu vụn trôi nổi. Vân Thiên Minh nói, đây là anh ta nghiền nát cỏ dại bỏ
vào, có thể nói là thức uống thiên nhiên một trăm phần trăm. Do đang vui vẻ, hôm đó Vân Thiên Minh nói rất nhiều, bảo nếu sau này có cơ hội nhất định sẽ mở một công ty sản xuất loại nước này, đảm bảo bán chạy. Hồ Văn nói, trên đời còn thứ gì khó uống hơn thứ này không? Vân Thiên Minh hỏi ngược lại: Rượu có dễ uống không? Thuốc có dễ hút không? Kể cả Coca Cola, lần đầu nếm thử cũng chẳng dễ uống chút nào, những thứ khiến người ta nghiện đều thế cả.
“Bạn ạ, lần đó cậu đã thay đổi cuộc đời tôi đấy!” Hồ Văn vỗ vai Vân Thiên Minh, kích động nói, sau đó mở cái thùng giấy, lấy ra một lon nước, vỏ lon thuần một màu xanh lá, vẽ hình thảo nguyên mênh mông, thương hiệu là “Bão Xanh”. Hồ Văn mở nắp lon, Vân Thiên Minh nếm thử một ngụm, vị đắng kèm theo hương thơm thanh mát khiến anh ta ngây ngất, anh ta nhắm mắt, dường như lại trở về bên bờ hồ trong cơn mưa lất phất kia, Trình Tâm lại ngồi bên...
“Đây là phiên bản đặc biệt, loại thông thường ở trên thị trường đều cho thêm ít đường.” Hồ Văn nói.
“Cái này, bán tốt không?”
“Tốt lắm, vấn đề bây giờ là giá thành sản xuất, đừng tưởng cỏ mà rẻ, chưa thành quy mô lớn thì còn đắt hơn óc chó hay táo gì đó đấy; ngoài ra, trong cỏ có rất nhiều thành phần có hại, quá trình xử lý rất phức tạp. Có điều triển vọng tốt lắm, rất nhiều nhà đầu tư lớn đều có ý tham gia, tập đoàn Hối Nguyên thậm chí còn muốn mua cả công ty của tôi, tổ sư nhà chúng nó.”
Vân Thiên Minh im lặng nhìn Hồ Văn, một người tốt nghiệp ngành động cơ hàng không chuyển qua làm doanh nhân sản xuất nước đóng chai,
anh ta là con người hành động, là người thực tế, cuộc đời này thuộc về những người như anh ta. Còn người như mình, chỉ có thể bị cuộc đời vứt bỏ mà thôi.
“Bạn ạ, tôi nợ cậu.” Hồ Văn nói, đoạn nhét ba tấm thẻ tín dụng và một tờ giấy vào tay Vân Thiên Minh, ngó nghiêng xung quanh một lượt xong, anh ta mới hạ thấp giọng nói: “Trong này có ba triệu, mật khẩu viết ở đây.”
“Tôi chưa từng đăng ký sáng chế.” Vân Thiên Minh hờ hững nói.
“Nhưng ý tưởng là của cậu, không có cậu thì không có Bão Xanh. Nếu cậu đồng ý nhận số tiền này, về mặt pháp luật chúng ta không nợ nần gì nữa, nhưng về tình bạn thì không, tôi sẽ mãi mãi nợ cậu.”
“Về mặt pháp luật cậu cũng không nợ nần gì tôi cả.”
“Phải nhận lấy, giờ cậu đang cần tiền.”
Vân Thiên Minh không từ chối nữa, nhận lấy món tiền có thể nói là khổng lồ đối với anh ta, nhưng cũng không lấy gì làm vui vẻ, vì anh ta hiểu rõ, giờ đây tiền cũng chẳng thể nào cứu được mạng mình nữa. Có điều, anh ta vẫn ôm một tia hy vọng, sau khi Hồ Văn ra về, anh ta lập tức đi hỏi thăm, nhưng không tìm gặp bác sĩ Trương mà mất khá nhiều công sức mới lùng được viện phó, một vị chuyên gia nổi tiếng về bệnh ung thư trong nước, hỏi thẳng ông ta xem nếu có đủ tiền, bệnh của mình có hy vọng trị khỏi hay không.
Sau khi mở bệnh án của Vân Thiên Minh trên máy tính ra xem, vị bác sĩ già khe khẽ lắc đầu, nói tế bào ung thư đã lan từ phổi đi khắp cơ thể, không thể phẫu thuật, chỉ có thể dùng những phương pháp bảo thủ như hóa trị và xạ trị, không phải là vấn đề tiền nong.
“Chàng trai trẻ, bác sĩ chỉ chữa được những bệnh không chết người, Phật chỉ độ người có duyên.”
Trái tim Vân Thiên Minh đã hoàn toàn nguội lạnh, cũng hoàn toàn bình thản, chiều hôm ấy anh ta liền đi nộp đơn xin an lạc tử. Lá đơn được giao cho bác sĩ điều trị của anh ta là bác sĩ Trương, người này hình như rất áy náy, không dám nhìn thẳng vào mắt anh ta, chỉ nói trước tiên hãy dừng hóa trị lại, không cần thiết phải chịu khổ nữa.
Giờ chỉ còn lại một việc duy nhất, chính là tiêu số tiền kia như thế nào. Theo lẽ thường, anh ta nên đưa cho cha mình, rồi để ông chia lại cho người thân, nhưng như thế cũng đồng nghĩa với cho chị gái anh ta. Vân Thiên Minh không muốn làm thế, anh ta đã chết đi theo tâm nguyện của chị gái rồi, cảm giác không còn nợ nần gì chị nữa.
Vậy thử nghĩ xem giấc mơ của chính mình là gì. Lên một chiếc du thuyền xa hoa đắt đỏ kiểu như tàu Elizabeth đi vòng quanh thế giới cũng là ý hay, số tiền này có lẽ là đủ, nhưng điều kiện sức khỏe anh ta không cho phép, có lẽ anh ta cũng không còn nhiều thời gian đến vậy. Tiếc thật, nếu được, anh ta cũng muốn nằm dưới ánh nắng trên boong tàu, ngắm nhìn mặt biển mà nhớ lại cuộc đời mình, hoặc đặt chân lên bờ biển một đất nước xa lạ nào đó trong một ngày mưa bụi lâm thâm, ngồi bên bờ một cái hồ nhỏ nào đó ném những viên sỏi ướt rượt xuống mặt hồ lăn tăn gỢn sóng dưới mưa...
Lại nghĩ đến Trình Tâm rồi, dạo này anh ta càng lúc càng hay nghĩ về cô.
Buổi tối, Vân Thiên Minh xem được một bản tin trên ti vi.
Trong hội nghị lần thứ 12 của Hội đồng phòng ngự toàn cầu Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ này, dự thảo số 479 đã đuợc thông qua, dự án Các Vì Sao chính thức khởi động, lập tức ủy quyền cho Ủy ban dự án Các Vì Sao bao gồm Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Ủy ban tài nguyên thiên nhiên và Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) thực hiện dự án này trên phạm vi toàn cầu.
Sáng nay, trang mạng chính thức của dự án Các Vì Sao ở Trung Quốc đã được chính thức khai trương, cho thấy dự án này đã khởi động ở trong nước. Theo lời quan chức cơ quan đại diện của UNDP thường trú tại Bắc Kinh, ở Trung Quốc, dự án này sẽ hướng đến các doanh nghiệp và cá nhân, không nhận đề nghị từ các cơ quan đoàn thể xã hội...
Vân Thiên Minh thoáng động tâm, khoác áo đi ra khỏi phòng bệnh, nói với y tá mình muốn đi tản bộ, nhưng vì đã đến giờ tắt đèn nên y tá không cho đi. Anh ta về phòng bệnh đã tắt đèn, kéo rèm, mở cửa sổ, bệnh nhân mới đến nằm trên giường bệnh trước của ông Lý bất mãn càu nhàu mấy tiếng. Vân Thiên Minh ngẩng đầu lên nhìn, quầng sáng của thành phố khiến bầu trời đêm trở nên mờ mịt, nhưng anh ta vẫn thấy những đốm sáng màu bạc khảm trên màn đêm kia, rốt cuộc anh ta đã biết dùng số tiền đó vào việc gì rồi.
Anh ta muốn tặng Trình Tâm một ngôi sao.
Những chuyện xưa nằm ngoài dòng thời gian (trích)
DỰ ÁN CÁC VÌ SAO - BỆNH ẤU TRĨ KHI KHỦNG HOẢNG BẮT ĐẦU
Có một số việc xảy ra trong xã hội loài người vào khoảng hai mươi năm đầu kỷ nguyên Khủng hoảng mà những người trước và sau thời điểm đó
đều khó mà hiểu nổi, các nhà sử học gọi đó là “bệnh ấu trĩ trước cơn khủng hoảng”. Mọi người thông thường đều cho rằng bệnh ấu trĩ này là do mối đe dọa chưa từng có đối với toàn thể nền văn minh đột ngột ập đến; đối với cá nhân, có thể là như vậy, nhưng đối với toàn thể xã hội loài người, sự việc có lẽ không chỉ đơn giản như thế. Cú sốc văn hóa mà mối nguy Tam Thể mang đến có ảnh hưởng sâu rộng vượt xa tưởng tượng ban đầu của mọi người. Nếu có thể so sánh, thì về mặt sinh học, nó tương đương với việc tổ tiên ban đầu của động vật có vú từ dưới biển bò lên đất liền; về mặt tôn giáo, nó chẳng khác nào sự kiện Adam và Eva bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng; còn về mặt lịch sử và xã hội học thì hoàn toàn không có gì sánh được với nó, mọi đảo lộn mà văn minh nhân loại đã trải qua đem so với biến cố này đều nhỏ nhặt vô cùng, không đáng nhắc tới. Thực tế là, sự kiện này đã làm lung lay tận nền móng văn hóa, chính trị, tôn giáo và kinh tế của xã hội loài người. Cú sốc này đánh thẳng vào tận tầng sâu nhất của văn minh, nhưng ảnh hưởng lại nhanh chóng nổi lên bề mặt, tương tác với quán tính khổng lồ của xã hội loài người, đây có lẽ là nguyên nhân căn bản sinh ra bệnh ấu trĩ.
Ví dụ điển hình của bệnh ấu trĩ chính là kế hoạch Diện Bích và dự án Các Vì Sao, đều do cộng đồng quốc tế thời bấy giờ đưa ra thông qua cơ cấu Liên Hiệp Quốc. Đối với những người ở thời kỳ lịch sử khác, đây đều là những hành động không thể nào tin nổi. Kế hoạch Diện Bích đã làm thay đổi lịch sử, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ lịch sử nền văn minh sau này, nó sẽ được trình bày và phân tích ở một chương khác; còn dự án Các Vì Sao thì xuất hiện không được bao lâu đã không còn tăm tích, thoáng chốc đã bị lãng quên.
Dự án Các Vì Sao chủ yếu có hai nguyên nhân, một là mong muốn nâng cao địa vị của Liên Hiệp Quốc trong thời kỳ đầu kỷ nguyên Khủng
hoảng, hai là sự xuất hiện và thịnh hành của chủ nghĩa đào vong.
Sự xuất hiện của nguy cơ Tam Thể khiến toàn nhân loại lần đầu tiên đối mặt với một kẻ thù chung, mong đợi đối với Liên Hiệp Quốc dĩ nhiên cũng tăng lên. Ngay cả phe bảo thủ cũng cho rằng Liên Hiệp Quốc cần phải triệt để cải cách, đồng thời được trao cho quyền lực cao hơn nữa, có thể điều động nhiều nguồn tài nguyên hơn nữa; phe cấp tiến và những người theo chủ nghĩa lý tưởng thì cổ xúy thành lập Liên bang Trái đất, đưa Liên Hiệp Quốc trở thành chính phủ thế giới. Các quốc gia vừa và nhỏ nhiệt liệt hưởng ứng việc nâng cao địa vị của Liên Hiệp Quốc, vì trong mắt họ, khủng hoảng này là cơ hội nhận được viện trợ về công nghệ và kinh tế từ các nước lớn; còn phản ứng của các nước lớn lại rất hờ hững. Trên thực tế, sau khi mối nguy xuất hiện, các nước lớn đều nhanh chóng đầu tư những khoản khổng lồ vào nghiên cứu cơ bản cho việc phòng ngự không gian, một mặt vì họ ý thức được phòng ngự không gian là lĩnh vực quan trọng trong chính trị quốc tế ở tương lai, những đóng góp về mặt này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến thế lực và địa vị chính trị của mình; mặt khác, từ lâu họ đã muốn thực hiện các nghiên cứu cơ bản với quy mô lớn như thế này rồi, chỉ vì ưu tiên quốc kế dân sinh cùng hạn chế của chính trị quốc tế mà bấy lâu nay vẫn chưa thể thực hiện. Lúc này, khủng hoảng Tam Thể đối với các chính trị gia nước lớn cũng giống như Chiến Tranh Lạnh với Kennedy năm nào, nhưng cơ hội này còn lớn hơn cả trăm lần. Có điều, các nước lớn đều từ chối đặt những nỗ lực này trong hệ thống của Liên Hiệp Quốc. Do phong trào thế giới đại đồng ngày một lên cao trong cộng đồng quốc tế, bọn họ không thể không trao cho Liên Hiệp Quốc rất nhiều tờ séc khống (ý là về chính trị), nhưng lại đầu tư rất ít vào hệ thống phòng thủ không gian chung mà tổ chức này đề xướng.
Trong lịch sử Liên Hiệp Quốc ở giai đoạn đầu kỷ nguyên Khủng hoảng, bà Say, Tổng thư ký thời bấy giờ là một nhân vật có vai trò then chốt. Bà cho rằng đây là cơ hội tạo ra kỷ nguyên mới cho Liên Hiệp Quốc, và chủ trương thay đổi tính chất của Liên Hiệp Quốc, để nó không chỉ là hội nghị liên tịch của các siêu cường quốc và diễn dàn quốc tế nữa. Bà muốn biến nó thành một thực thể chính trị độc lập, sở hữu quyền lãnh đạo thực chất đối với việc xây dựng hệ thống phòng thủ Hệ Mặt trời. Muốn thực hiện được mục tiêu này, Liên Hiệp Quốc trước tiên phải có cơ sở là tài nguyên mà nó có thể tùy ý sử dụng, vào thời điểm đó, điều này gần như là bất khả thi. Dự án Các Vì Sao chính là một trong những cố gắng của bà Say, dù kết quả thế nào, chương trình này đã thể hiện trọn vẹn trí tuệ chính trị cũng như trí tưởng tượng của người phụ nữ này.
Cơ sở pháp luật quốc tế của dự án Các Vì Sao là “Công ước Luật Vũ trụ”, điều ước không phải là sản phẩm của khủng hoảng Tam Thể, mà trước khi nguy cơ này xuất hiện đã trải qua quá trình khởi thảo và đàm phán dài lâu, chủ yếu tham khảo từ “Công ước Luật Biển” và “Hiệp ước Nam Cực”. Trước khi khủng hoảng Tam Thể xuất hiện, “Công ước Luật Vũ trụ” chỉ giới hạn trong tài nguyên Hệ Mặt trời nằm bên trong vành đai Kuiper. Do sự xuất hiện của khủng hoảng Tam Thể, người ta buộc phải tính đến không gian vũ trụ bên ngoài vành đai Kuiper, nhưng do trình độ công nghệ, nhân loại còn chưa thể đặt chân lên Sao Hỏa, trước khi Công ước này hết hiệu lực (kỳ hạn năm mươi năm), tài nguyên bên ngoài Hệ Mặt trời hoàn toàn không có ý nghĩa thực tế gì cả. Các siêu cường quốc nhận ra đấy là một tấm séc khống rất thích hợp cho Liên Hiệp Quốc, bèn thêm điều khoản về tài nguyên bên ngoài Hệ Mặt trời vào bản công ước, quy định việc khai thác phát triển và các hành vi kinh tế khác đối với tài nguyên thiên nhiên bên ngoài vành đai Kuiper nhất thiết phải được thực hiện trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc. (Về ý nghĩa của từ “tài nguyên thiên nhiên”
này, trong văn kiện bổ sung vào bản Công ước đã định nghĩa rất dài dòng, chủ yếu là chỉ các tài nguyên chưa bị những nề văn minh không phải nhân loại chiếm cứ, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên từ “văn minh” được định nghĩa trong luật quốc tế.) Lịch sử gọi điều khoản này là “Tu chính án Khủng hoảng”.
Nguyên nhân thứ hai của dự án Các Vì Sao là chủ nghĩa đào vong. Khi đó, chủ nghĩa đào vong mới manh nha xuất hiện, hậu quả còn chưa thể hiện rõ rệt, vẫn được coi là lựa chọn cuối cùng của nhân loại trước nguy cơ Tam Thể. Trong trường hợp đó, người ta đã nhận ra giá trị của các sao bên ngoài Hệ Mặt trời, đặc biệt là những ngôi sao có hành tinh đất đá quay xung quanh.
Dự thảo ban đầu của dự án Các Vì Sao là đề nghị Liên Hiệp Quốc chủ trì bán đấu giá quyền sở hữu một phần số sao bên ngoài Hệ Mặt trời kèm theo các hành tinh quay quanh chúng, đối tượng bán đấu giá là quốc gia, công ty, đoàn thể xã hội và cá nhân. Số tiền thu được sẽ dùng vào nghiên cứu cơ bản cho hệ thống phòng thủ Hệ Mặt trời chung của Liên Hiệp Quốc. Bà Say giải thích: thực ra lượng sao cực kỳ phong phú, trong phạm vi một trăm năm ánh sáng quanh Hệ Mặt trời đã có hơn ba trăm nghìn ngôi sao, trong phạm vi một nghìn năm ánh sáng thì có hơn mười triệu sao, ước lượng dè dặt thì cũng ít nhất một phần mười số sao ấy có hành tinh. Đấu giá một phần nhỏ trong số đó cũng không ảnh hưởng gì đến việc khai thác vũ trụ sau này.
Hồi đó, dự thảo đặc biệt này đã thu hút được sự chú ý rộng rãi, các nước ủy viên thường trực PDC (Hội đồng phòng ngự toàn cầu) nhận thấy, tuy rằng hơi khó tin, nhưng trong tương lai trước mắt, thông qua dự thảo này hình như cũng không có hậu quả bất lợi gì cho mình cả; ngược lại,
nếu phủ quyết, trong hoàn cảnh chính trị thời bấy giờ chắc chắn sẽ gây ra phiền phức. Dù vậy, trải qua nhiều lần tranh luận và thỏa hiệp, cuối cùng họ vẫn đẩy phạm vi các sao được bán đấu giá từ “bên ngoài vành đai Kuiper” ra “bên ngoài khoảng cách một trăm năm ánh sáng”, sau đó dự thảo được thông qua.
Dự án Các Vì Sao vừa bắt đầu liên kết thúc luôn, nguyên nhân rất đơn giản: không bán được. Tổng cộng chỉ có mười bảy ngôi sao được bán ra, toàn bộ đều bán với giá sàn, Liên Hiệp Quốc chỉ kiếm được hơn 40 triệu đô la. Tất cả người mua đều không lộ mặt, dư luận xôn xao suy đoán xem bọn họ bỏ nhiều tiền như vậy mua một tờ giấy lộn để làm gì, cho dù mảnh giấy lộn ấy có hiệu lực pháp lý rất chắc chắn đi nữa. Có lẽ được sở hữu một thế giới khác là một cảm giác rất ngầu, kể cả khi vĩnh viễn chỉ nhìn được mà không thể chạm tới. (Có một số trong đó mắt thường còn không nhìn thấy được.)
Bà Say không hề cho rằng dự án này thất bại, bà nói kết quả nằm trong dự kiến, thực ra dự án Các Vì Sao về bản chất là một tuyên ngôn chính trị của Liên Hiệp Quốc.
Dự án Các Vì Sao mau chóng bị lãng quên, sự xuất hiện của nó là một ví dụ điển hình cho những hành vi bất bình thường của xã hội loài người hồi đầu kỷ nguyên Khủng hoảng. Những nhân tố thúc đẩy dự án Các Vì Sao ra đời, gần như đồng thời, cũng thúc đẩy sự ra đời của kế hoạch Diện Bích vĩ đại.
Chiếu theo địa chỉ trên mạng, Vân Thiên Minh gọi điện cho văn phòng đại diện của dự án Các Vì Sao ở Trung Quốc, sau đó gọi điện cho Hồ Văn,
nhờ tìm hiểu một số thông tin cá nhân của Trình Tâm như địa chỉ liên lạc, số chứng minh thư... Anh ta dự đoán khi nghe yêu cầu này, có thể Hồ Văn sẽ nói những lời châm chích, thương hại, hoặc cảm thán, nhưng đối phương không nói gì cả, chỉ khẽ thở dài sau một khoảng im lặng khá lâu.
“Được rồi, thời gian gần đây có thể cô ấy không ở trong nước.” Hồ Văn nói.
“Đừng nói là tôi hỏi thăm đấy.”
“Yên tâm, tôi không hỏi thẳng cô ấy đầu.”
Hôm sau, Vân Thiên Minh nhận được tin nhắn của Hồ Văn, trong đó có hầu hết thông tin cá nhân của Trình Tâm mà anh ta cần, nhưng không có tên nơi cô làm việc. Hồ Văn nói, năm ngoái Trình Tâm được điều động khỏi Viện công nghệ hàng không vũ trụ, không ai biết hiện nay cô đang làm việc ở đâu. Vân Thiên Minh để ý thấy Trình Tâm có hai địa chỉ gửi thư, một ở Thượng Hải, một ở New York.
Buổi chiều, Vân Thiên Minh yêu cầu bác sĩ Trương cho ra ngoài, nói có việc cần phải làm, bác sĩ Trương nằng nặc đòi đi cùng, nhưng Vân Thiên Minh cảm ơn và từ chối.
Vân Thiên Minh đi tắc xi đến văn phòng Bắc Kinh của UNESCO. Sau khi nguy cơ Tam Thể xuất hiện, quy mô các cơ quan thường trú tại Bắc Kinh của Liên Hiệp Quốc đều nhanh chóng mở rộng, văn phòng UNESCO chiếm phần lớn một tòa nhà văn phòng bên ngoài vành đai 4. Văn phòng đại diện của dự án Các vì Sao rất rộng, lúc bước vào, đập vào mắt Vân Thiên Minh là một tấm bản đồ sao khổng lồ, những đường màu bạc chằng chịt phức tạp nối liền các chòm sao trên nền đen tuyền như vải nhung. Sau
đó, anh ta nhận ra bản đồ sao này được hiển thị trên một màn hình tinh thể lỏng lớn, nguồn là một máy tính, có thể phóng đại từng phần để tìm kiếm. Căn phòng trống trơn, chỉ có một cô gái xinh đẹp phụ trách lễ tân. Vân Thiên Minh tự giới thiệu xong, cô gái lập tức hào hứng chạy đi mời một phụ nữ tóc vàng đến. Cô gái giới thiệu người phụ nữ này là giám đốc UNESCO Trung Quốc, cũng là một trong những người phụ trách dự án Các Vì Sao ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bà giám đốc cũng mừng rỡ ra mặt, vừa bắt tay Vân Thiên Minh vừa nói bằng tiếng Trung lưu loát, anh ta là người đầu tiên có ý định mua một ngôi sao ở Trung Quốc, vốn dĩ nên liên hệ các cơ quan truyền thông đến phỏng vấn đưa tin và tổ chức một buổi lễ, nhưng họ vẫn tôn trọng yêu cầu bảo mật và giản tiện của anh ta... Thực sự rất đáng tiếc, đây lẽ ra là một cơ hội tốt để tuyên truyền và đẩy mạnh quảng bá cho dự án Các vì Sao.
Yên tâm, ở Trung Quốc không ai ngốc như tôi nữa đâu. Vân Thiên Minh thầm nhủ, suýt chút nữa thì nói ra ngoài miệng.
Sau đó, một người đàn ông trung niên đeo kính, mặc vest, đi giày da bước vào, bà giám đốc giới thiệu ông ta là tiến sĩ Hà, nghiên cứu viên của Đài thiên văn Bắc Kinh, phụ trách các thủ tục cụ thể trong việc bán đấu giá ngôi sao. Sau khi bà giám đốc chào từ biệt, tiến sĩ Hà trước tiên mời Vân Thiên Minh ngồi xuống, bảo cô gái lễ tân rót trà, ân cần hỏi han có phải anh ta đang không được khỏe hay không. Sắc mặt Vân Thiên Minh đương nhiên không giống người khỏe mạnh, nhưng từ khi ngừng cái cực hình hóa trị, anh ta đã thấy đỡ hơn rất nhiều, thậm chí còn có ảo giác mình có một cuộc sống mới. Anh ta không để tâm đến lời hỏi thăm của tiến sĩ Hà, lập tức nhắc lại câu hỏi trong điện thoại: anh ta muốn mua một ngôi sao để làm quà tặng, mọi quyền lợi đều thuộc về người được tặng, anh ta sẽ không cung cấp bất cứ thông tin cá nhân nào, cũng mong là tuyệt đối bảo mật đối
với người được tặng. Tiến sĩ Hà nói việc này đơn giản, sau đó hỏi Vân Thiên Minh muốn mua ngôi sao như thế nào.
“Cố gắng gần gần một chút, có hành tinh xung quanh, tốt nhất là hành tinh đất đá.” Vân Thiên Minh nhìn bản đồ sao nói.
Tiến sĩ Hà lắc đầu, “Với số tiền của anh thì chịu thôi, giá khởi điểm thấp nhất của những sao loại này đều hơn xa con số đó. Anh chỉ có thể mua một ngôi sao không có hành tinh xung quanh, vả lại khoảng cách cũng không thể quá gần. Nói thực với anh chứ, kể cả vậy, số tiền của anh cũng vẫn thấp hơn giá quy định. Hôm qua sau khi nhận được điện thoại của anh, xét đến việc anh là người mua đầu tiên ở Trung Quốc, chúng tôi đã hạ giá khởi điểm cho một ngôi sao xuống cái giá mà anh đưa ra.” Ông ta di chuột, phóng to một khu vực trên bản đồ sao, “Anh xem, chính là ngôi sao này, thời hạn đấu giá của nó đã bị gia hạn nhiều lần, vì vậy chỉ cần anh xác định mua, nó sẽ là của anh.”
“Ở xa chừng nào?”
“Cách Hệ Mặt trời 286,5 năm ánh sáng.”
“Xa quá.”
Tiến sĩ Hà lắc đầu mỉm cười, “Có thể nhận ra anh không phải người không biết gì về thiên văn học. Vậy anh thử nghĩ xem, đối với chúng ta, 286 năm ánh sáng và 286 tỷ năm ánh sáng thì có khác gì nhiều không?”
Vân Thiên Minh im lặng thừa nhận. Quả thực là không khác gì mấy.
“Nhưng ngôi sao này có một ưu điểm lớn nhất: có thể trông thấy được. Thực ra tôi cảm thấy, mua ngôi sao chủ yếu là cần xem bề ngoài, khoảng
cách bao nhiêu hay có hành tinh quay xung quanh hay không cũng chẳng quan trọng, ngôi sao ở xa mà thấy được còn tốt hơn ở gần mà không thấy được, ngôi sao đơn lẻ mà thấy được còn tốt hơn có hành tinh quay xung quanh mà không thấy được, xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ có thể nhìn mà thôi.”
Vân Thiên Minh gật đầu, Trình Tâm có thể nhìn thấy ngôi sao đó, vậy thì rất tốt.
“Nó tên là gì?”
“Mấy trăm năm trước ngôi sao này đã có mặt trên danh mục sao của Tycho Brahe, nhưng không có tên thường gọi, chỉ có số hiệu thiên văn thôi.” Tiến sĩ Hà đưa con trỏ chuột vào điểm sáng đó, bên cạnh lập tức xuất hiện một chuỗi ký tự: DX3906. Ông ta kiên nhẫn giải thích ý nghĩa của cái tên này cho Vân Thiên Minh, bao gồm phần loại hình ngôi sao, cấp sao tuyệt đối[6] và biểu kiến[7], vị trí trên dãy chính[8]...
Thủ tục mua bán nhanh chóng hoàn tất, tiến sĩ Hà lại gọi hai nhân viên công chứng đến làm thủ tục. Bà giám đốc xuất hiện, cùng đến còn có hai quan chức của UNDP và Ủy ban tài nguyên thiên nhiên Liên Hiệp Quốc. Cô tiếp tân bưng lên một khay sâm banh. Mọi người chúc mừng một lượt rồi bà giám đốc tuyên bố quyền sở hữu đối với DX3906 của người được tặng là Trình Tâm chính thức có hiệu lực, kế đó, bà ta đưa cả hai tay trao một kẹp hồ sơ bằng da thật màu đen trông có vẻ rất đắt tiền cho Vân Thiên Minh: “Ngôi sao của anh.”
Khi các quan chức đã đi khỏi, tiến sĩ Hà nói với Vân Thiên Minh: “Tôi chỉ hỏi thôi nhé, anh có thể không trả lời: nếu tôi đoán không nhầm, ngôi sao này anh tặng cho một cô gái phải không?”
Vân Thiên Minh thoáng do dự, khẽ gật đầu.
“Cô gái đó may mắn thật!” Tiến sĩ Hà cũng gật đầu, sau đó cảm thán: “Có tiền tốt thật.”
“Thôi đi, thôi đi.” Cô lễ tân nãy giờ vẫn không nói năng gì thè lưỡi. “Có tiền cái gì? Thầy Hà thử nghĩ lại xem, thầy mà có ba mươi tỷ, thầy có chịu tặng bạn gái một ngôi sao không? Xì, đừng quên những lời thầy nói hai hôm trước đấy nhé.” Cô gái nói tới đây, tiến sĩ Hà hơi hoảng hốt, muốn ngăn cô phun ra những bình luận cay nghiệt của ông ta về dự án Các Vì Sao. Lúc đó ông ta bảo, cái trò này của Liên Hiệp Quốc mười năm trước đã có một bọn lừa đảo chơi rồi, chẳng qua bọn chúng chỉ bán Mặt trăng với Sao Hỏa thôi, lần này mà có người mắc lừa nữa thì đúng là phép mầu. Cũng may cô gái không nói đến chuyện đó. “Đây không chỉ là tiền, mà là lãng mạn nữa, lãng mạn ấy! Thầy hiểu không?”
Từ đầu đến cuối, cô gái này vẫn luôn len lén nhìn Vân Thiên Minh với ánh mắt như thể nhìn một hoàng tử cổ tích, vẻ mặt cô cũng không ngừng thay đổi: thoạt đầu tò mò, sau đó kính sợ và ngưỡng mộ, cuối cùng, khi cô nhìn chằm chằm vào chiếc kẹp hồ sơ bằng da đắt tiền bên trong có giấy tờ sở hữu một ngôi sao ấy, trên gương mặt chỉ còn lại sự đố kỵ trần trụi mà thôi.
Tiến sĩ Hà nói với Vân Thiên Minh: “Giấy tờ sẽ nhanh chóng được gửi đến người được tặng, sử dụng địa chỉ ở đây. Theo như yêu cầu của anh, chúng tôi sẽ không tiết lộ bất cứ thông tin gì về người mua, mà thực ra cũng chẳng có gì để tiết lộ cả, chúng tôi hoàn toàn không biết gì về anh, đến lúc này, chẳng phải tôi thậm chí còn chưa biết anh họ gì đấy sao?” Ông ta đứng lên, nhìn ra ngoài cửa sổ, sắc trời đã tối: “Tiếp sau đây, tôi sẽ dẫn anh đi xem ngôi sao của anh... à không, ngôi sao anh tặng cô ấy.”
“Lên nóc nhà xem à?”
“Trong thành phố không thể thấy được, chúng ta phải ra ngoại thành. Nếu anh không khỏe, hay là để hôm khác?”
“Không, đi luôn bây giờ, tôi thực sự rất muốn xem ngôi sao đó.”
Tiến sĩ Hà lái xe chở Vân Thiên Minh đi hơn hai tiếng đồng hồ, bỏ lại sau lưng một quãng xa biển đèn hoa rực rỡ của thành phố, để tránh sự quấy nhiễu của đèn pha xe cộ, ông ta lái xe vào giữa cánh đồng cách xa đường cao tốc. Sau khi tắt đèn pha, hai người xuống xe, đêm thu, bầu trời trong veo, sao đặc biệt sáng.
“Anh biết chòm sao Bắc Đẩu chứ, men theo một đường chéo của hình tứ giác đó, chính là hướng kia kìa, có ba ngôi sao tạo thành một hình tam giác rất tù, từ đỉnh góc tù ấy hạ một đường vuông góc xuống cạnh đáy, vươn tiếp xuống phía dưới, chính là hướng mà tôi đang chỉ đây này, có thấy không? Ngôi sao của anh, ngôi sao mà anh tặng cô ấy đấy.”
Vân Thiên Minh chỉ ra hai ngôi sao, nhưng tiến sĩ Hà nói đều không phải, “Ở giữa hai ngôi sao đấy, chệch sang hướng Nam một chút, ngôi sao đó có độ sáng biểu kiến là 5,5, thông thường chỉ người quan sát giàu kinh nghiệm mới nhìn thấy được, song hôm nay thời tiết rất đẹp, chắc hẳn anh cũng có thể trông thấy. Để tôi mách anh một cách: đừng nhìn lâu vào đó, hãy dịch ánh mắt sang mé bên, nhìn bằng khóe mắt, khả năng cảm nhận ánh sáng yếu của khóe mắt nhạy hơn, sau khi tìm được hãy nhìn thẳng...”
Với sự giúp đỡ của tiến sĩ Hà, Vân Thiên Minh rốt cuộc cũng thấy được DX3906, một chấm sáng rất mờ nhạt, tựa hồ như có mà cũng như không, thoáng sơ ý một chút là sẽ biến mất khỏi tầm mắt. Người bình
thường đều cho rằng các vì sao màu bạc, kỳ thực nếu quan sát kỹ lưỡng sẽ phát hiện chúng có màu sắc khác nhau, DX3906 màu đỏ sậm. Tiến sĩ Hà nói, ngôi sao đó chỉ ở vị trí này vào mùa này, lát nữa ông ta sẽ đưa cho anh ta tài liệu chi tiết về cách quan sát DX3906 trong các mùa khác nhau.
“Anh rất may mắn, cũng may mắn như cô gái được anh tặng ngôi sao này vậy.” Tiến sĩ Hà nói trong màn đêm dày đặc.
“Tôi không hề may mắn, tôi sắp chết rồi.” Vân Thiên Minh nói, đồng thời dịch chuyển ánh mắt, liếc về phía tiến sĩ Hà, sau đó lại nhìn lên bầu trời đêm, không ngờ lần này anh ta lại dễ dàng tìm được DX3906.
Vân Thiên Minh nhận ra dường như tiến sĩ Hà không hề ngạc nhiên trước điều mình nói, chỉ lẳng lặng châm một điếu thuốc, có lẽ ông ta đã lờ mờ đoán ra được điều gì đó. Im lặng một hồi lâu, ông ta mới nói: “Nếu thế thật, anh cũng vẫn rất may mắn, hầu hết mọi người, đến lúc chết cũng không liếc nhìn ra ngoài cõi thế gian này lấy một lần.”
Khói thuốc mà tiến sĩ Hà phả ra lơ lửng bay qua trước mặt Vân Thiên Minh, khiến ngôi sao mờ tối kia nhấp nháy. Vân Thiên Minh thầm nghĩ, khi Trình Tâm thấy ngôi sao này, mình đã không còn sống trên thế gian này nữa. Thực ra, khi anh ta và Trình Tâm thấy ngôi sao này, họ chỉ thấy nó như hai trăm tám mươi sáu năm về trước, chùm ánh sáng yếu ớt ấy đã đi gần ba thế kỷ trong không gian vũ trụ mới đến chạm vào võng mạc họ, còn ánh sáng mà nó đang phát ra lúc này, phải đợi hai trăm tám mươi sáu năm sau mới đến Trái đất, lúc ấy thì Trình Tâm cũng không còn trên cõi đời này nữa.
Cuộc đời cô sẽ ra sao nhỉ? Mong rằng cô có thể nhớ, trong biển sao mênh mông kia có một ngôi sao thuộc về cô.
Hôm nay là ngày cuối cùng của Vân Thiên Minh, anh ta muốn xem nó có gì đặc biệt không, nhưng không. Anh ta dậy lúc bảy giờ sáng như thường lệ, một tia nắng giống như thường ngày chiếu vào vị trí thường ngày trên vách tường đối diện. Ngoài cửa sổ, thời tiết không đẹp cũng không xấu, bầu trời xanh lam pha xám như mọi ngày bình thường khác. Trước cửa sổ có một cây sồi đã trụi lá, thậm chí không để lại chiếc lá cuối cùng. Hôm nay, đến bữa sáng cũng giống như mọi ngày. Ngày hôm nay, cũng giống như hai mươi tám năm mười một tháng lẻ sáu ngày đã qua, thực sự không có gì đặc biệt.
Cũng như ông Lý, Vân Thiên Minh không nói chuyện cái chết êm dịu với người nhà, anh ta vốn định để lại cho cha một bức thư, nhưng không có gì để nói, cuối cùng lại thôi.
Đúng mười giờ, theo lịch hẹn, một mình anh ta đi vào phòng an lạc, bình thản như thể đi kiểm tra hằng ngày. Anh ta là người thứ tư lựa chọn cái chết êm dịu ở thành phố này, vì vậy cũng không thu hút nhiều chú ý lắm, trong phòng an lạc chỉ có năm người, trong đó hai người là nhân viên công chứng, một người hướng dẫn, một y tá và một lãnh đạo bệnh viện, bác sĩ Trương không đến. Có vẻ như anh ta có thể ra đi lặng lẽ.
Theo yêu cầu của anh ta, phòng an lạc không bày biện trang trí gì cả, chỉ là một phòng bệnh bình thường, bốn vách trắng toát, khiến anh ta thấy rất dễ chịu.
Anh ta nói với người hướng dẫn mình đã biết quy trình thao tác, không cần anh ta nữa, người này gật đầu, ở lại phía bên kia vách kính. Ở phía bên thực hiện cái chết êm dịu này, sau khi nhân viên công chứng đi khỏi, chỉ
còn lại anh ta và y tá. Cô y tá rất xinh đẹp, không còn vẻ sợ hãi và căng thẳng hồi mới làm chuyện này lần đầu tiên nữa, khi cắm kim máy tiêm tự động vào cánh tay trái Vân Thiên Minh, động tác đã trấn tĩnh và ổn định hơn nhiều. Anh ta đột nhiên nảy sinh một thứ tình cảm không thể gọi tên với cô, dẫu sao thì cô cũng là người cuối cùng trên thế gian này bầu bạn với mình. Vân Thiên Minh chợt muốn biết người hai mươi tám năm trước đã đỡ đẻ cho mình là ai, hai người này là những người hiếm hoi đã thực sự giúp đỡ anh ta, anh ta cần phải cảm ơn họ. Vì vậy, Vân Thiên Minh nói cảm ơn với cô y tá. Cô mỉm cười, sau đó ra ngoài, bước chân nhẹ như mèo, không phát ra tiếng động.
Quy trình an tử chính thức bắt đầu, màn hình treo trước mặt anh ta hiển thị:
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 5; nếu không, hãy bấm số 0.
Anh ta ra đời trong một gia đình trí thức, nhưng cha mẹ đều thuộc loại người không khôn khéo trong xã hội và giao thiệp, cuộc sống rất chán nản. Họ không phải là quý tộc, nhưng lại khăng khăng dạy dỗ Vân Thiên Minh theo cách thức quý tộc. Sách anh ta đọc nhất thiết phải là danh tác kinh điển, âm nhạc anh ta nghe nhất thiết phải là các khúc nhạc cổ điển nổi tiếng, người anh ta giao du nhất thiết phải là những người mà họ nghĩ là thuộc tầng lớp có giáo dục. Họ lúc nào cũng nói với Vân Thiên Minh rằng những người, những sự vật xung quanh thật dung tục tầm thường, rồi đời sống tinh thần của nhà họ cao hơn những người bình thường đến chừng nào. Hồi tiểu học, Vân Thiên Minh còn có vài người bạn, nhưng chưa bao giờ dám dẫn bạn đến nhà chơi, vì cha mẹ chắc chắn không cho phép anh ta
chơi với những đứa trẻ dung tục tầm thường như vậy. Lên cấp II, chế độ giáo dục quý tộc bị đẩy lên một mức nữa, Vân Thiên Minh trở thành một kẻ hoàn toàn cô độc. Nhưng đúng vào thời điểm này, cha mẹ anh ta ly dị. Nguyên nhân dẫn đến gia đình tan vỡ là cha có người thứ ba, một cô gái làm tiếp thị bảo hiểm. Mẹ tái giá với một nhà thầu xây dựng giàu có. Cả hai đều là hạng người mà cha mẹ anh ta vốn cực lực bắt con mình tránh xa, vì vậy lúc này chính họ cũng hiểu ra, bản thân mình không còn tư cách dạy dỗ con trai theo hướng đó nữa. Nhưng kiểu cách giáo dục đó đã bám rễ vào tâm hồn Vân Thiên Minh, anh ta không thể nào giằng thoát ra được, giống như loại còng tay có lò xo hồi trước, càng muốn giằng ra, nó lại càng thít chặt. Suốt thời trung học, anh ta ngày càng trở nên cô độc, ngày càng thêm nhạy cảm, ngày càng rời xa đám đông.
Ký ức thời ấu thơ và thiếu niên đều xám xịt một màu.
Bấm số 5.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 2; nếu không, hãy bấm số 0.
Trong tưởng tượng của anh ta thuở đó, trường đại học khiến anh ta cảm thấy bất an, môi trường xa lạ cùng những người xa lạ, đối với anh ta, chỉ là thêm một quá trình thích ứng khó khăn. Hồi mới vào đại học, mọi thứ đều không khác gì nhiều so với tưởng tượng, cho đến khi anh ta gặp Trình Tâm.
Trước đó, Vân Thiên Minh cũng từng bị các cô gái thu hút, nhưng chưa bao giờ có thứ cảm giác ấy: mọi thứ xa lạ lạnh lẽo xung quanh đều đột nhiên tràn ngập ánh nắng ấm áp và dịu dàng. Thoạt tiên, anh ta thậm chí
còn không ý thức được nguồn sáng này từ đâu đến. Giống như Mặt trời nhìn qua tầng mây dày đặc, ánh sáng yếu ớt như thể ánh trăng của nó chỉ hiển hiện lờ mờ thành một cái đĩa tròn, chỉ khi Mặt trời biến mất, người ta mới ý thức được nó là ngọn nguồn của mọi ánh sáng ban ngày. Mặt trời của Vân Thiên Minh biến mất vào kỳ nghỉ dài nhân dịp Quốc khánh, Trình Tâm về quê, anh ta bỗng nhiên cảm thấy mọi thứ xung quanh ảm đạm lu mờ.
Tất nhiên, chắc chắn không chỉ mỗi Vân Thiên Minh có cảm giác này đối với Trình Tâm, nhưng anh ta không bị dằn vặt đến mức quên ăn quên ngủ như những nam sinh khác, vì anh ta hoàn toàn không hy vọng gì ở bản thân. Anh ta biết không có cô gái nào thích loại con trai lầm lì mà nhạy cảm như mình, anh ta chỉ có thể ngắm cô từ xa, tắm mình trong ánh nắng mà cô mang đến, lặng lẽ cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân.
Ấn tượng đầu tiên của Vân Thiên Minh về Trình Tâm là cô không thích nói nhiều, con gái vừa xinh đẹp lại vừa trầm lặng ít nói tương đối hiếm gặp, nhưng không có nghĩa cô là một người đẹp băng giá. Cô không nói nhiều nhưng lại sẵn lòng lắng nghe, lắng nghe một cách ân cần, với thái độ chân thành, lúc đó, đôi mắt trong veo tĩnh lặng ấy dường như đang nói với mỗi người rằng, đối với cô, họ rất quan trọng.
Khác với những cô bạn học xinh đẹp thời cấp III của Vân Thiên Minh, Trình Tâm không hề bỏ qua sự tồn tại của anh ta, mỗi lần gặp mặt cô đều mỉm cười chào hỏi. Có mấy lần hoạt động tập thể, người tổ chức không biết vô tình hay cố ý mà quên mất Vân Thiên Minh, Trình Tâm đều cất công tìm đến thông báo cho anh ta biết, sau này, cô là người đầu tiên trong số bạn học gọi anh ta bằng tên Thiên Minh chứ không phải “cậu Vân”. Trong những giao thiệp cực kỳ giới hạn ấy, cảm giác khắc cốt ghi tâm nhất
mà Trình Tâm mang đến cho Vân Thiên Minh là: cô là người duy nhất biết rõ sự mong manh yếu đuối của anh ta, vả lại hình như còn thực sự lo lắng anh ta có thể bị tổn thương. Nhưng Vân Thiên Minh vẫn luôn tỉnh táo, anh ta biết ở đây không có gì hơn nữa, đúng như Hồ Văn đã nói, với ai cô cũng tốt như vậy.
Có một chuyện để lại ấn tượng rất sâu sắc cho Vân Thiên Minh: chính trong lần đi chơi dã ngoại đó, họ đang leo lên một ngọn núi nhỏ, Trình Tâm đột nhiên dừng lại, khom lưng cẩn thận cầm thứ gì đó trên bậc thang đá lên. Vân Thiên Minh thấy đó là một con sâu xấu xí, mềm nhũn ẩm ướt, con sâu trườn bò giữa những ngón tay trắng muốt của cô, một nữ sinh bên cạnh kêu rú lên: kinh tởm quá đi mất, cậu chạm vào nó làm gì?! Trình Tâm nhẹ nhàng đặt con sâu vào bãi cỏ bên cạnh, nói, nó bò ở đây sẽ bị người ta giẫm chết mất.
Kỳ thực, Vân Thiên Minh giao tiếp với Trình Tâm rất ít, cả bốn năm đại học, họ chỉ nói chuyện riêng với nhau có hai, ba lần.
Đó là một đêm hè mát mẻ, Vân Thiên Minh lên tầng thượng của thư viện, đây là nơi anh ta thích nhất, rất ít người lên, có thể ở một mình. Trời đêm sau cơn mưa hết sức trong trẻo, dòng sông Ngân bình thường hiếm khi thấy được cũng in trên đó.
“Giống như vấy sữa lên bầu trời ấy nhỉ!”
Vân Thiên Minh nhìn về phía tiếng nói, nhận ra không biết từ lúc nào Trình Tâm đã đứng bên cạnh, cơn gió đêm hè thổi bay mái tóc dài của cô, rất giống cảnh tượng trong giấc mộng của anh ta. Sau đó, cả hai cùng ngước lên ngắm Ngân Hà.
“Nhiều sao quá, như sương mù ấy.” Vân Thiên Minh cảm thán.
Trình Tâm không nhìn Ngân Hà nữa, quay sang anh ta, chỉ xuống sân trường và thành phố bên dưới: “Cậu xem, dưới kia cũng thật là đẹp mà, cuộc sống của chúng ta là ở nơi này, chứ không phải ở Ngân Hà xa xôi kia.”
“Nhưng chẳng phải chuyên ngành của chúng ta là để đi khỏi Trái đất này hay sao?”
“Đó là để cuộc sống ở đây tốt đẹp hơn, không phải để trốn khỏi Trái đất.”
Đương nhiên Vân Thiên Minh biết Trình Tâm nói vậy là ám chỉ thái độ lầm lì và sống khép kín của anh ta một cách uyển chuyển, anh ta cũng chỉ im lặng coi như thừa nhận. Đó là lần anh ta ở gần Trình Tâm nhất. Có lẽ là ảo giác, nhưng thậm chí anh ta còn cảm nhận được hơi ấm cơ thể cô, khi ấy anh ta thực sự rất hy vọng làn gió đêm kia đổi hướng, để mái tóc dài của cô phất lên gương mặt mình.
Bốn năm đại học chính quy kết thúc, Vân Thiên Minh thi trượt nghiên cứu sinh, còn Trình Tâm thì dễ dàng vượt qua kỳ thi, sau đó cô về nhà. Vân Thiên Minh muốn ở lại trường lâu thêm một chút chỉ để đợi Trình Tâm khai giảng thì gặp lại cô. Ký túc xá không cho ở nữa, anh ta bèn thuê một phòng nhỏ ở gần trường, đồng thời tìm việc trong thành phố. Vân Thiên Minh gửi vô số hồ sơ xin việc, nhưng lần nào cũng thất bại ở vòng phỏng vấn, kỳ nghỉ hè thấm thoắt đã trôi qua lúc nào chẳng rõ. Anh ta đến trường tìm Trình Tâm, nhưng không gặp được cô, sau khi dè dặt dò hỏi mới biết hóa ra cô và giáo sư hướng dẫn đã đến Viện công nghệ hàng không vũ trụ của trường ở tận Thượng Hải, cô sẽ hoàn thành việc học của mình ở khoa
đào tạo sau đại học của Viện. Cùng ngày hôm ấy, Vân Thiên Minh không ngờ lại xin được việc làm, đó là một công ty chuyển giao công nghệ hàng không vũ trụ dân dụng, vì mới thành lập nên tuyển rất nhiều người.
Mặt trời của Vân Thiên Minh đã đi xa, anh ta bước vào xã hội với trái tim lạnh giá.
Bấm số 2.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 4; nếu không, hãy bấm số 0.
Khi mới đi làm, anh ta đã có một niềm vui bất ngờ nho nhỏ, phát hiện so với những bạn cùng tuổi hừng hực tinh thần cạnh tranh ở trường đại học, người trong xã hội có vẻ hòa dịu hơn nhiều, dễ giao tiếp hơn, anh ta thậm chí còn nghĩ rằng mình sắp thoát khỏi trạng thái cô độc và tự khép kín này rồi. Nhưng sau vài lần bị người ta bán đứng còn đếm tiền giúp họ, rốt cuộc anh ta cũng nhận ra sự hiểm ác của nơi này, vì vậy lại bắt đầu hoài niệm quãng đời đi học, đồng thời một lần nữa xa lánh mọi người, rúc sâu hơn vào vỏ ốc tinh thần. Điều này đương nhiên là có tác động tai hại tới sự nghiệp của anh ta, kể cả trong công ty khởi nghiệp nhà nước dạng này, cạnh tranh cũng hết sức gay gắt, không tiến ắt phải lùi. Năm này qua năm khác, đường lùi của anh ta càng lúc càng ít ỏi.
Mấy năm nay, anh ta yêu đương hai lần, đều chia tay rất nhanh. Chuyện này không phải vì trái tim anh ta đã bị Trình Tâm chiếm lĩnh, đối với anh ta, Trình Tâm vĩnh viễn là mặt trời sau mây, anh ta chỉ mong nhìn thấy cô, cảm nhận ánh sáng dịu dàng của cô, chứ chưa bao giờ dám mơ tưởng rút ngắn khoảng cách giữa họ. Những năm này, anh ta không hề hỏi
thăm tin tức của Trình Tâm, chỉ ầm thầm suy đoán với sự thông tuệ của cô, hẳn là đã đi học tiến sĩ rồi. Còn về cuộc sống của cô thế nào, anh ta cũng không suy đoán, chướng ngại chính của anh ta khi qua lại với phụ nữ vẫn là tính cách cô độc lầm lì, anh ta từng quyết tâm thử xây dựng cuộc sống riêng, nhưng khó khăn vẫn chất chồng khó khăn.
Vấn đề của Vân Thiên Minh nằm ở chỗ anh ta không thể hòa nhập mà cũng không thể lánh đời, để hòa nhập thì anh ta không có năng lực mà để lánh đời thì anh ta không có vốn liếng, đành đau khổ lơ lửng ở lưng chừng. Sau này đi trên đường đời thế nào, đi tới đâu, trong lòng anh ta chỉ toàn là hoang mang.
Nhưng anh ta đột nhiên nhìn thấy điểm cuối của con đường. Bấm số 4.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Nếu phải, hãy bấm số 1; nếu không, hãy bấm số 0.
Bệnh ung thư phổi của anh ta khi được chẩn đoán trúng thì đã đến giai đoạn cuối, có lẽ bị chậm trễ vì những chẩn đoán sai lầm trước đó, mà ung thư phổi di căn nhanh nhất, anh ta không còn nhiều thời gian nữa.
Lúc ra khỏi bệnh viện, anh ta không hoảng sợ, cảm giác duy nhất là cô độc. Tuy trước đây nỗi cô độc đó cũng không ngừng tích tụ, song vẫn bị một con đê vô hình ngăn lại, giam nó trong một trạng thái tĩnh mà anh ta có thể chấp nhận được. Lúc này, đê đã vỡ, nỗi cô độc tích tụ qua bao năm tháng như thể một cơn lũ đen kịt từ trời cao ập xuống, vượt xa cực hạn sức chịu đựng của anh ta.
Anh ta muốn gặp Trình Tâm.
Anh ta không do dự, mua ngay một tấm vé máy bay, chiều hôm đó bay đến Thượng Hải. Lúc ngồi trên tắc xi, tâm trạng nôn nóng đã nguội đi phần nào, anh ta tự nhủ rằng một kẻ sắp chết như mình không thể đi quấy rầy cô được, anh ta sẽ không để cô biết về sự tồn tại của mình, chỉ muốn nhìn cô từ xa một lần, giống như kẻ sắp chết đuối gắng hết sức ngoi lên mặt nước hít một hơi không khí, khi chìm xuống cũng có thể chết bình thản hơn.
Đứng trước cổng Viện công nghệ hàng không vũ trụ, anh ta lại bình tĩnh hơn nữa, nhận ra trong vài giờ qua, mình quả đã hoàn toàn mất lý trí. Nhẩm tính thời gian, kể cả Trình Tâm có học tiến sĩ thì giờ cũng đã ra trường đi làm rồi, chắc gì đã ở đây. Anh ta hỏi thăm bảo vệ ở chòi gác trước cửa, được biết viện nghiên cứu này có hơn hai mươi nghìn nhân viên, anh ta phải cho biết phòng ban cụ thể thì mới tìm được. Anh ta không có phương thức liên lạc với bạn học cũ, không biết hỏi ở đâu, đồng thời lại cảm thấy cực kỳ mệt mỏi, khó thở, bèn ngồi xuống cách cổng viện nghiên cứu không xa lắm.
Cũng có thể Trình Tâm làm việc ở đây, sắp hết giờ làm rồi, biết đâu đợi được cô, vì vậy anh ta bèn đợi trước cổng.
Cổng viện nghiên cứu rất rộng, bên cạnh hàng rào co duỗi được có một bức tường thấp màu đen bên trên khắc tên đơn vị bằng chữ màu vàng, đây vốn là Cơ sở số 8 của Viện nghiên cứu công nghệ hàng không vũ trụ, quy mô hiện nay đã được mở rộng ra rất nhiều. Anh ta sực nghĩ ra, một đơn vị lớn thế này, không biết liệu có còn cổng khác nữa không? Nghĩ đoạn, anh ta lại khó nhọc đứng lên đi hỏi bảo vệ, biết được nơi này hóa ra còn bốn cổng khác nữa!
Anh ta chậm rãi quay về chỗ cũ, vẫn ngồi xuống chờ đợi, anh ta cũng chỉ có thể đợi ở đây mà thôi.
Vân Thiên Minh phải trông vào xác suất xảy ra tất cả những điều này: sau khi tốt nghiệp, Trình Tâm vẫn làm việc ở đây; hôm nay cô không đi công tác bên ngoài; hết giờ làm cô sẽ đi ra từ cổng này trong năm chiếc cổng của cơ quan.
Khoảnh khắc này rất giống với cuộc đời anh ta, khư khư níu lấy một tia hy vọng mong manh.
Những người tan làm bắt đầu đi ra ngoài, có người đi bộ, có người đi xe đạp hoặc lái xe, dòng người và dòng xe lưa thưa dần đông đúc, rồi từ đông đúc chuyển sang lưa thưa, một tiếng sau, chỉ còn lại vài ba người và xe ra vào.
Không có Trình Tâm.
Anh ta tin chắc mình sẽ nhận ra cô giữa dòng người, kể cả khi cô lái xe, vậy thì có thể cô không làm việc ở đây, hoặc làm việc ở đây nhưng hôm nay không đến cơ quan, hoặc ở cơ quan nhưng lại đi cổng khác.
Vầng dương ngả về Tây khiến cái bóng của tòa nhà và cây cối càng lúc càng kéo dài hơn, tựa hồ vô số cánh tay thương hại vòng ôm lấy anh ta.
Anh ta vẫn ngồi đó, đến khi trời tối hẳn. Sau đó, anh ta không nhớ nổi mình làm thế nào leo lên được tắc xi ra sân bay, bay về thành phố nơi mình sinh sống, trở về ký túc xá dành cho người độc thân của mình.
Anh ta có cảm giác mình đã chết.
Bấm số 1.
Ông muốn kết thúc cuộc sống của mình phải không? Đây là lần hỏi cuối cùng. Nếu phải, hãy bấm số 3; nếu không, hãy bấm số 0.
Mộ chí của mình sẽ khắc gì? Sự thực là anh ta không xác định mình có mộ hay không, một ngôi mộ ở quanh Bắc Kinh rất đắt, dù cha anh ta có muốn mua, chị gái cũng sẽ không đồng ý, chị sẽ nói người sống còn chẳng có chỗ ở. Tro cốt của anh ta cùng lắm cũng chỉ được đặt vào một ô nhỏ trên núi Bát Bảo, có điều, nếu như có bia mộ, bên trên chắc là nên đề:
Đã đến, đã yêu, đã tặng cô ấy một ngôi sao, đã đi. Bấm số 3.
Trước khoảnh khắc ấy, đã có hỗn loạn phía bên kia vách tường kính, gần như cùng lúc Vân Thiên Minh ấn vào nút bấm tử vong, cánh cửa vào phòng an lạc bật mở, một đám người ập vào. Nhân viên điều khiển cái chết êm dịu xông vào đầu tiên, lao đến trước giường bệnh tắt nguồn điện của máy bơm tiêm tự động; lãnh đạo bệnh viện vào ngay sau đó, rút luôn ổ cắm ở chân tường; cuối cùng là cô y tá kia, cô giật mạnh ống mềm trên máy bơm tiêm tuột ra khỏi máy, đồng thời cũng văng luôn mũi kim ra khỏi cổ tay trái Vân Thiên Minh đau nhói. Tiếp đấy, mấy người quây lại kiểm tra cái ống mềm, anh ta nghe được một cầu giọng như thể vừa trút gánh nặng, hình như nói: cũng may, thuốc chưa chảy ra. Sau đó, cô y tá mới bắt đầu xử lý cổ tay bị chảy máu của anh ta.
Phía bên kia bức tường kính chỉ còn lại một người, cô đã chiếu sáng cả thế giới này cho Vân Thiên Minh, cô là Trình Tâm.
Lồng ngực Vân Thiên Minh cảm nhận rõ rệt giọt nước mắt Trình Tâm rơi xuống thấm vào áo anh ta, lúc mới gặp lại Trình Tâm, anh ta có cảm giác cô gần như không thay đổi gì, giờ mới để ý thấy mái tóc dài ngang vai của cô nay đã chuyển thành kiểu tóc ngắn đến gáy, cúp vào rất đẹp. Ngay đến lúc này, anh ta cũng không dám vuốt nhẹ lên mái tóc đẹp đã từng khiến anh ta hồn xiêu phách lạc ấy.
Anh ta thật sự là đồ bỏ đi, có điều lúc này, anh ta đã lên thiên đường rồi.
Im lặng kéo dài, tĩnh lặng như thể ở Cõi Trên, Vân Thiên Minh mong sự tĩnh lặng này có thể kéo dài mãi mãi. Em không thể cứu được anh, anh ta thầm nói với Trình Tâm, anh sẽ nghe theo lời khuyên của em mà từ bỏ cái chết êm dịu, nhưng kết quả đều như nhau. Em hãy mang theo ngôi sao anh tặng đi tìm hạnh phúc của mình đi.
Trình Tâm dường như nghe thấy tiếng lòng của anh ta, cô chầm chậm ngẩng đầu lên, lần đầu tiên ánh mắt họ gặp nhau ở khoảng cách gần như thế, còn gần hơn trong giấc mộng của anh ta, đôi mắt xinh đẹp óng ánh vì nước mắt khiến trái tim Vân Thiên Minh tan nát.
Sau đó, Trình Tâm nói ra một câu hoàn toàn bất ngờ: “Thiên Minh, cậu biết không? Luật An tử được thông qua là vì cậu đó.”
Kỷ nguyên Khủng hoảng năm thứ 1-4: Trình Tâm
Khi khủng hoảng Tam Thể bùng nổ, Trình Tâm vừa học xong đi làm, cô vào tổ chuyên đề nghiên cứu chế tạo động cơ cho tên lửa Trường Chinh thế hệ mới. Trong mắt người khác, đây là một nơi vừa quan trọng lại vừa có tính chất cốt lõi, nhưng lòng nhiệt tình của Trình Tâm với chuyên ngành của mình đã nguội đi từ lâu. Cô dần dần nhận thức được, tên lửa hóa học giống như ống khói lớn thời kỳ đầu Cách mạng Công nghiệp, những nhà thơ thời ấy ca ngợi những cột ống khói mọc san sát như rừng, cho rằng đó chính là văn minh công nghiệp; ngày nay người ta cũng tán dương tên lửa như thế, cho rằng nó đại diện cho thời đại hàng không vũ trụ. Trên thực tế, nếu dựa vào tên lửa hóa học sẽ mãi mãi không thể nào thực sự tiến vào thời đại hàng không vũ trụ. Sự xuất hiện của nguy cơ Tam Thể khiến sự thực này càng thêm rõ nét, muốn dựa vào động cơ đẩy dạng hóa học để xây dựng hệ thống phòng thủ Hệ Mặt trời thực chẳng khác nào mơ mộng của người điên. Từ khi còn đi học, cô đã có ý thức không chỉ loanh quanh trong chuyên ngành hẹp, nên chọn thêm rất nhiều học trình về năng lượng hạt nhân. Sau khi khủng hoảng bùng nổ, công việc ở mọi lĩnh vực trong hệ thống hàng không vũ trụ đều khẩn trương tăng tốc, ngay cả công trình máy bay vũ trụ[9] thế hệ đầu tiên bị trì hoãn bao lâu nay cũng nhanh chóng khởi động. Tổ nghiên cứu chuyên đề của cô đảm nhiệm việc thiết kế mẫu động cơ cho máy bay vũ trụ này. Tiền đồ sự nghiệp của Trình Tâm có vẻ rất sáng sủa, năng lực của cô đã được công nhận, mà trong hệ thống hàng không vũ trụ ở Trung Quốc, có một tỷ lệ rất lớn các tổng công trình sư xuất thân từ chuyên ngành động cơ. Nhưng đồng thời, cô lại tin chắc động cơ hóa học đã là công nghệ lỗi thời, tiếp tục nghiên cứu nó, cá nhân và tập thể đều không thể đi được bao xa. Dừng lại trên con đường sai lầm mới là
tiến bộ, mà công việc của cô lại chẳng khác nào dốc hết tâm sức chạy trên con đường sai lầm đó, điều này từng khiến cô rất khổ sở.
Cơ hội thoát khỏi ngành động cơ này nhanh chóng xuất hiện. Liên Hiệp Quốc bắt đầu thành lập các cơ quan khác nhau liên quan đến việc phòng thủ Trái đất, những cơ quan này không giống với các tổ chức trước đây của Liên Hiệp Quốc, về mặt hành chính, chúng do Hội đồng phòng ngự toàn cầu (PDC) lãnh đạo, nhưng chủ yếu là do các nước điều động nhân viên thành lập. Ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc đã cử một nhóm lớn cán bộ nhân viên thuộc nhiều cấp bậc khác nhau tham gia những cơ quan này. Lãnh đạo gặp Trình Tâm, nói có một vị trí muốn điều cô đi, đó là trợ lý về công nghệ hàng không vũ trụ cho giám đốc Trung tâm hoạch định công nghệ thuộc Cục tình báo chiến lược của Hội đồng phòng ngự toàn cầu. Trước mắt, công tác tình báo của thế giới loài người chủ yếu tập trung vào một kênh là tổ chức Tam Thể Địa Cầu, hy vọng có thể giành được thông tin về thế giới Tam Thể thông qua bọn chúng. Nhưng Cục tình báo chiến lược trực thuộc PDC, gọi tắt là PIA, lại có mục tiêu trinh sát là hạm đội Tam Thể và hành tinh mẹ của chúng, họ có nền tảng công nghệ hàng không vũ trụ rất mạnh. Trình Tâm nhận công việc này mà không hề do dự.
Trụ sở chính của PIA đặt tại một tòa nhà sáu tầng cũ cách tòa nhà Liên Hiệp Quốc không xa lắm, tòa nhà này được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, kết cấu chắc chắn nặng nề, trông như thể một khối đá hoa cương khổng lồ. Lần đầu tiên bước chân vào đó sau chuyến bay băng qua đại dương, Trình Tâm cảm thấy âm u lạnh lẽo như thể trong một pháo đài. Nơi này hoàn toàn không giống với trung tâm tình báo của thế giới loài người như cô
tưởng, mà giống một nơi sinh ra những âm mưu kiểu Byzantium[10] trong những cuộc trò chuyện rì rầm.
Tòa nhà vắng tanh vắng ngắt, cô là người đến sớm nhất. Giữa đống thiết bị văn phòng vừa bóc hộp và các thùng giấy trong văn phòng, cô gặp giám đốc Trung tâm hoạch định công nghệ của PIA, Mikhail Vadimov, một người Nga cao lớn cường tráng chừng ngoài bốn mươi, nói tiếng Anh với giọng Nga rất nặng, phải mất một lúc lâu Trình Tâm mới ý thức được ông ta đang nói tiếng Anh. Ông ta ngồi trên thùng giấy cằn nhằn với Trình Tâm, mình đã làm việc trong ngành hàng không vũ trụ này mười mấy năm, đâu cần trợ lý kỹ thuật gì chứ, nước nào cũng đều ra sức nhét người vào PIA mà không chịu chi thêm tiền. Nhớ ra trước mặt mình là một cô gái trẻ, ông ta lại an ủi Trình Tâm đang hoang mang, nói rằng nếu về sau cơ quan này có làm nên lịch sử, mà đây là điều hoàn toàn có thể xảy ra, tuy chưa chắc đã là lịch sử huy hoàng gì, vậy thì hai người họ là những người đến sớm nhất.
Gặp được người cùng ngành khiến Trình Tâm vui lên một chút, cô hỏi dò xem giám đốc đã từng làm gì trong ngành, Vadimov hờ hững kể, hồi cuối thế kỷ 20 ông ta từng tham gia thiết kế máy bay vũ trụ Buran của Liên Xô cũ, công trình này đã thất bại. Về sau, ông ta giữ chức phó giám đốc thiết kế một dự án tàu vận tải vũ trụ nào đó, công việc về sau thì ông ta chỉ nói mập mờ, bảo là làm hai năm ở Bộ Ngoại giao, sau đó đến một bộ phận khác làm việc như chúng ta đang làm. Ông ta bảo, tốt nhất là không nên hỏi thăm công việc trước đây của những đồng nghiệp sắp đến.
“Cục trưởng cũng đến rồi, phòng làm việc của ông ấy ở trên lầu, cô lên gặp một chút đi, nhưng đừng làm mất quá nhiều thời gian của ông ấy.” Vadimov nói.
Trình Tâm bước vào phòng làm việc rộng lớn của cục trưởng, mùi xì gà nồng nặc ập vào mặt cô. Thứ đầu tiên thu hút ánh mắt cô là bức tranh sơn dầu khổ lớn treo trên tường, phần lớn bề mặt bức tranh là bầu trời đầy mây màu xám chì và cánh đồng tuyết tối tăm ảm đạm, ở phía đằng xa, tít gần nơi mây và tuyết gặp nhau, có một thứ gì đó đen sì, nhìn kỹ thì là một mảng hình khối bẩn thỉu, hầu hết là những căn nhà thấp lè tè, trong đó có vài căn nhà kiểu Âu hai ba tầng. Nhìn dòng sông ở tiền cảnh bức tranh và những đặc điểm địa hình khác, đây có lẽ là New York vào đầu thế kỷ 18. Cảm giác đậm nhất mà bức tranh này mang đến là cái lạnh, song lại rất phù hợp với người đang ngồi đằng trước nó. Bên cạnh bức tranh này còn có một bức sơn dầu nhỏ hơn vẽ một thanh kiếm kiểu dáng cổ điển có phần che cổ tay màu vàng, lưỡi kiếm sáng bóng như tuyết nằm trong một bàn tay bọc giáp đồng, bàn tay cầm kiếm này chỉ vẽ đến chỗ cùi chỏ, đang dùng kiếm vớt một vòng hoa tết từ những đóa hoa màu đỏ, trắng, vàng lên khỏi mặt nước màu xanh, sắc điệu bức tranh này tương phản với bức tranh lớn, rực rỡ hoa lệ, nhưng lại ẩn giấu vẻ kỳ dị chẳng lành, Trình Tâm để ý thấy, trên đóa hoa trắng có vết máu rất rõ.
Cục trưởng PIA Thomas Wade trẻ hơn Trình Tâm tưởng tượng rất nhiều, nhìn bề ngoài thì trẻ hơn Mikhail Vadimov, cũng đẹp trai hơn, đường nét gương mặt rất cổ điển. Sau này, Trình Tâm phát hiện ra, cảm giác cổ điển này quá nửa là do gương mặt ông ta không hề bộc lộ cảm xúc gì, trông như thể một bức tượng lạnh giá được khiêng từ bức tranh phía sau ra vậy. Wade có vẻ không bận lắm, bàn làm việc rộng rãi trước mặt hoàn toàn trống trải, không có máy tính và hồ sơ, ông ta đang chuyên tâm nghiên cứu đầu điếu xì gà trên tay. Trình Tâm bước vào, ông ta chỉ ngẩng đầu lên liếc nhìn một cái rồi lại tiếp tục ngắm đầu điếu thuốc. Khi Trình Tâm giới thiệu bản thân xong, đồng thời xin ông ta sau này chỉ dạy, Wade mới ngẩng đầu lên, ấn tượng đầu tiên của cô là ánh mắt mệt mỏi và biếng
nhác, nhưng sâu bên trong lại thấp thoáng một vẻ sắc bén khiến cô nôn nao bất an. Trên gương mặt ông ta nở nụ cười nhàn nhạt, song hoàn toàn không khiến Trình Tâm thấy ấm áp và thoải mái, nụ cười ấy giống như dòng nước lạnh rỉ ra từ một khe nứt trên bề mặt sông đóng băng đang chầm chậm lan rộng trên mặt băng vậy. Trình Tâm cố gắng mỉm cười đáp lại, nhưng câu nói đầu tiên của Wade đã khiến nụ cười và cả người cô cứng đơ:
“Cô có dám bán mẹ mình vào nhà thổ không?”
Trình Tâm kinh hãi lắc đầu, không phải ý nói cô không dám bán mẹ mình vào nhà thổ, mà là vì nghi hoặc không biết có phải mình nghe lầm hay không. Nhưng Wade đã xua bàn tay kẹp điếu xì gà, nói: “Cảm ơn, đi làm việc của cô đi.”
Nghe Trình Tâm kể lại cuộc gặp với cục trưởng, Vadimov chỉ cười xòa, “Ha ha, đây là một câu... một câu... Cứ gọi là một câu nói vẫn lưu truyền trong ngành chúng ta cũng được, có lẽ là bắt nguồn từ hồi Chiến tranh Thế giới thứ II, mấy tay lão làng hay đem nó ra bỡn người mới, ý của nó là: trên thế giới chỉ có cái nghề này của chúng ta lấy lừa gạt và phản bội làm trung tâm, làm nòng cốt. Đối với những chuẩn mực đã được công nhận, chúng ta cần phải... Vận dụng một cách thích đáng... nói như nào nhỉ... Cần phải linh hoạt một chút. PIA gồm hai bộ phận, một phần là người làm chuyên môn như cô, phần còn lại đến từ giới tình báo và các đội quân bí mật thuộc quân đội, phương pháp tư duy và cách thức hành động của hai loại người này rất khác nhau... Cũng may tôi quen với cả hai loại, tôi sẽ giúp các người thích ứng với nhau.”
“Nhưng chúng ta trực tiếp đối mặt với thế giới Tam Thể mà, đây không phải là công tác tình báo truyền thống.” Trình Tâm nói.
“Có những thứ sẽ chẳng bao giờ thay đổi.”
Những người đến sau lần lượt trình diện, đội ngũ chủ yếu đến từ các nước ủy viên thường trực Hội đồng phòng ngự toàn cầu. Mọi người đều rất lịch thiệp lễ độ với nhau, nhưng lại đầy sự nghi kỵ và không tin tưởng. Dân làm chuyên môn thì một mực ra vẻ ta đây không qua lại với ai, túm chặt miệng túi, nơm nớp lo sợ bị người khác trộm đi mất cái gì; người trong giới tình báo thì lại hoạt bát thân thiện lạ thường, lúc nào cũng muốn trộm đi thứ gì của người khác. Đúng như Vadimov đã nói, so với việc điều tra về thế giới Tam Thể, những người này còn hứng thú điều tra lẫn nhau hơn nhiều.
Hai ngày sau, hội nghị toàn thể đầu tiên của PIA được triệu tập, thực ra lúc này cán bộ nhân viên vẫn chưa đến đủ. Ngoài cục trưởng Thomas Wade, PIA còn ba cục phó từ Anh, Pháp và Trung Quốc. Vị cục phó đến từ Trung Quốc Vu Duy Dân lên tiếng phát biểu đầu tiên. Trình Tâm cũng không biết ông ta đến từ ban ngành nào trong nước. Người đàn ông này thuộc loại phải gặp ba lần mới nhớ nổi gương mặt, cũng may ông ta phát biểu không dài dòng lê thê như thói thường của các quan chức Trung Quốc, mà ngược lại rất ngắn gọn rõ ràng, có điều cũng chỉ toàn những trần ngôn sáo ngữ trong những đợt thành lập cơ quan kiểu như thế này mà thôi. Ông ta nói, những người có mặt tại đây về bản chất đều được nhà nước mình điều động, hiển nhiên đều có hai tầng lãnh đạo, PIA không yêu cầu, cũng không mong đợi họ đặt lòng trung thành với tổ chức này lên trên trách nhiệm với quốc gia, nhưng xét đến nhiệm vụ của PIA là bảo vệ văn minh nhân loại, hy vọng mọi người có thể cân bằng giữa hai trách nhiệm này. Do PIA là tổ chức trực tiếp đối đầu với bọn xâm lược ngoài hành tinh, không nghi ngờ gì, nó cần phải trở thành tổ chức đoàn kết nhất.
Khi cục phó Vu bắt đầu phát biểu, Trình Tâm để ý thấy Wade dùng một chân đạp vào chân bàn, chầm chậm đẩy mình ra xa khỏi bàn họp, bộ dạng như muốn đứng ngoài chuyện này vậy. Sau đấy, có mấy quan chức phát biểu xong mời ông ta lên tiếng, ông ta đều xua tay từ chối. Cuối cùng, đến khi không còn quan chức nào có lời gì để nói nữa, ông ta mới mở miệng. Ông ta chỉ tay vào đống thiết bị văn phòng và thùng chứa vẫn chất thành đống chưa kịp lắp đặt, “Những chuyện này,” hiển nhiên là đang chỉ những công việc mang tính chất sự vụ khi thành lập cơ quan, “phiền các vị tự mình vất vả một chút, đừng phí thời gian của tôi, mà cũng không thể chiếm dụng thời gian của bọn họ.” Nói đoạn, ông ta chỉ tay vào Vadimov: “Cảm ơn! Các chuyên viên ngành hàng không vũ trụ của Trung tâm hoạch định công nghệ ở lại, buổi họp đến đây kết thúc.”
Chỉ có mười mấy người ở lại, hội trường yên tĩnh hơn nhiều. Cánh cửa gỗ sồi cũ kỹ vừa mới đóng lại, Wade đã quăng bom: “Các vị, PIA cần phóng tàu thăm dò về phía hạm đội Tam Thể.”
Mọi người trước hết ngây ra như tượng, sau đó ngơ ngác nhìn nhau. Trình Tâm cũng hết sức ngạc nhiên, đương nhiên cô cũng mong nhanh chóng thoát khỏi những việc lặt vặt để bắt đầu công việc chuyên môn, nhưng không ngờ lại nhanh đến thế, trực tiếp đến thế. Hiện tại, PIA vừa mới thành lập, chưa có một chi nhánh nào ở các nước và vùng lãnh thổ, hoàn toàn không đủ điều kiện để chính thức triển khai công việc. Nhưng điều khiến Trình Tâm kinh ngạc nhất là bản thân ý tưởng mà Wade đưa ra, bất luận là từ góc độ công nghệ hay phương diện nào khác, ý nghĩ này đều khó mà tưởng tượng nổi.
“Có yêu cầu cụ thể gì không?” Vadimov hỏi, ông ta là người duy nhất không tỏ thái độ gì ra mặt.
"""