"Tử Siêu Y Thoại - Kinh Nghiệm Điều Trị Và Học Tập Làm Thuốc PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tử Siêu Y Thoại - Kinh Nghiệm Điều Trị Và Học Tập Làm Thuốc PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo TỬ SIÊ U Y THOẠ I Lương Y Nguyễn Tử Siêu Thực hiện ebook: VATMFORUM Hà Nội - 2012 LƯƠNG Y NGUYỄN TỬ SIÊU TỬ SIÊU Y THOẠI KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ VÀ HỌC TẬP LÀM THUỐC Thực hiện ebook VATMFORUM @2012 Theo bản in của NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC Xà HỘI HÀ NỘI - 1990 MỤC LỤC LỜI TỰA DÀNH CHO BẢN EBOOK LỜI GIỚI THIỆU CÙNG MỘT TÁC GIẢ CHƯƠNG I: NHẬN THỨC VỀ Y ĐẠO ĐIỀU 1. Y GIẢ TỒN TÂM ĐIỀU 2. ĐẠO LÀM THUỐC KHÓ ĐIỀU 3. ĐẠO LÀM THUỐC NÊN UYÊN BÁC ĐIỀU 4. ĐÔI ĐIỀU VỀ Y THUẬT ĐIỀU 5. ĐỞM LƯỢC CƯƠNG QUYẾT CỦA THẦY THUỐC (I) ĐIỀU 6. ĐỞM LƯỢC CỦA THẦY THUỐC (II) ĐIỀU 7. TỪ LINH THAI BÀN VỀ Y ĐẠO ĐIỀU 8. HIỂU ĐÔNG Y HÃY NHẬN XÉT ĐÔNG Y ĐIỀU 9. SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI ĐIỀU 10. DÙNG THUỐC KHÔNG NÊN CÂU NỆ ĐIỀU 11. BÀN VỀ PHÉP TÁC TRỊ LIỆU ĐIỀU 12. CHỮA BỆNH KHÔNG NÊN CHỈ DỰA VÀO BÀI THUỐC KINH NGHIỆM ĐIỀU 13. CHỮA BỆNH NÊN BIẾN HÓA ĐIỀU 14. TỔ CHỨC PHƯƠNG TỄ ĐIỀU 15. "CANG HẠI, THỪA CHẾ" ĐIỀU 16. BỆNH TÁI PHÁT KHÓ CHỮA ĐIỀU 17. KINH NGHIỆM HỌC TẬP ĐIỀU 18. TẠP LUẬN VỀ Y DƯỢC ĐIỀU 19. TẠP THUYẾT (I) ĐIỀU 20. TẠP THUYẾT (II) ĐIỀU 21. TẠP THUYẾT (III) ĐIỀU 22. TẠP THUYẾT (IV) ĐIỀU 23. TẠP THUYẾT (V) ĐIỀU 24. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (I) ĐIỀU 25. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (II) ĐIỀU 26. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (III) ĐIỀU 27. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (IV) ĐIỀU 28. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (V) CHƯƠNG II: LÝ LUẬN VỀ ÂM DƯƠNG ĐIỀU 29. VÀI KHÍA CẠNH CỦA ÂM VÀ DƯƠNG ĐIỀU 30. NHẬN THỨC VỀ ÂM DƯƠNG SINH TRƯỞNG ĐIỀU 31. BÀN VỀ SỰ NGHI NGỜ ÂM VÀ DƯƠNG ĐIỀU 32. CHỮA BỆNH PHÂN THEO ÂM DƯƠNG ĐIỀU 33. NHẬN THỨC VỀ THUYẾT "BỔ DƯƠNG ĐỂ SINH ÂM” ĐIỀU 34. KHÁI NIỆM VỀ PHÙ DƯƠNG (GIÚP PHẦN DƯƠNG) ĐIỀU 35. VỀ MỘT DƯƠNG ÁN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG CHƯƠNG III: SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG HÀN ĐIỀU 36. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (I) ĐIỀU 37. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (II) ĐIỀU 38. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (III) ĐIỀU 39. VỀ MỘT ĐỀ TỰA SÁCH THƯƠNG HÀN ĐIỀU 40. VỀ TRỊ PHÁP CỦA TRỌNG CẢNH ĐIỀU 41. ĐIỀU ÍCH LỢI KHI HIỂU BIẾT THƯƠNG HÀN CHƯƠNG IV: ÔN BỆNH VÀ TẠP BỆNH ĐIỀU 42. NHẬN THỨC VỀ ÔN BỆNH ĐIỀU 43. SỰ KHÁC NHAU GIỮA ÔN BỆNH VÀ ÔN DỊCH ĐIỀU 44. BỆNH ÁN ĐIỀU TRỊ ÔN BỆNH ĐIỀU 45. VẤN ĐỀ DÙNG THUỐC TRONG ÔN BỆNH ĐIỀU 46. NHẬN THỨC VỀ NHIỆT BỆNH ĐIỀU 47. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH (I) ĐIỀU 48. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH(II) ĐIỀU 49. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH (III) ĐIỀU 50. NHẬN THỨC VỀ NHI KHOA ĐIỀU 51. BÀN VỀ PHỤ KHOA ĐIỀU 52. BÀN VỀ NỘI THƯƠNG THẤT TÌNH ĐIỀU 53. BÀN VỀ NHÂN TỐ GÂY BỆNH ĐIỀU 54. ĐIỀU KINH VÀ DÙNG THUỐC ĐIỀU 55. BÀN VỀ CHỨNG ĐẢO KINH ĐIỀU 56. PHÂN TÍCH "TẶC PHONG” ĐIỀU 57. PHÂN TÍCH HƯ CHỨNG ĐIỀU 58. TIÊN LƯỢNG TẬT BỆNH ĐIỀU 59. Ý NGHĨA "DẪN HỎA QUY NGUYÊN" ĐIỀU 60. CHỮA LOẠI BỆNH "GIẢ TƯỢNG" ĐIỀU 61. CHỮA BỆNH NÊN CHÚ Ý ĐỊA PHƯƠNG HOÀN CẢNH CHƯƠNG V: CHẨN ĐOÁN ĐIỀU 62. BƯỚC ĐẦU HỌC CHẨN ĐOÁN ĐIỀU 63. ĐÔNG ĐÔ BÀN VỀ CHẨN ĐOÁN ĐIỀU 64. PHÉP CHẨN MẠCH Ở TÂY TẠNG ĐIỀU 65. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH (I) ĐIỀU 66. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH(II) ĐIỀU 67. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH (III) ĐIỀU 68. PHÂN TÍCH MẠCH CỦA UÔNG THẠCH SƠN ĐIỀU 69. LẠI BÀN VỀ MẠCH ĐIỀU 70. NHẬN THỨC VỀ THIẾT CHẨN ĐIỀU 71. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (I) ĐIỀU 72. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (II) ĐIỀU 73. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (III) ĐIỀU 74. BỆNH ÁN VỀ VỌNG CHẨN CHƯƠNG VI: KINH LẠC VÀ CHÂM CỨU ĐIỀU 75. KINH LẠC VỚI TÁC DỤNG CHỮA BỆNH ĐIỀU 76. NHỮNG THU HOẠCH VỀ CHÂM CỨU ĐIỀU 77. CHÂM CỨU CHỮA HOÀNG ĐẢN ĐIỀU 78. CỨU NGẢI CHỮA LOA LỊCH (TRÀNG NHẠC) ĐIỀU 79. HUYỆT PHONG PHỦ ĐỐI VỚI CẢM PHONG ĐIỀU 80. MỐI LIẾN QUAN GIỮA Y DƯỢC VÀ CHÂM CỨU ĐIỀU 81. LẠI BÀN VỀ CHÂM CỨU (I) ĐIỀU 82. LẠI BÀN VỀ CHÂM CỨU (II) CHƯƠNG VII: Y LÝ VÀ Y ÁN ĐIỀU 83. BÀN VỀ Y LÝ (I) ĐIỀU 84. BÀN VỀ Y LÝ (II) ĐIỀU 85. BÀN VỀ Y LÝ (III) ĐIỀU 86. TÍNH TRỌNG YẾU CỦA THẦN ĐIỀU 87. KHÁI NIỆM VỀ KHÍ ĐIỀU 88. KHÁI NIỆM VỀ HUYẾT ĐIỀU 89. KHÁI NIỆM VỀ HỎA ĐIỀU 90. KHÁI NIỆM VỀ TÂM THẬN ĐIỀU 91. KHÁI NIỆM VỀ TIÊN THIÊN, HẬU THIÊN ĐIỀU 92. VAI TRÒ CỦA THỔ ĐIỀU 93. NGŨ HÀNH SINH KHẮC ĐIỀU 94. CÔNG VÀ TỘI CỦA TỲ VỊ ĐIỀU 95. PHÂN TÍCH NHIỆT VÀ HỎA ĐIỀU 96. BÀN VỀ PHÉP HÃN ĐIỀU 97. PHÂN TÍCH PHÉP HÃN ĐIỀU 98. THẬN TRỌNG KHI DÙNG PHÉP HÃN ĐIỀU 99. NGOẠI TRỊ PHÁT HÃN (I) ĐIỀU 100. NGOẠI TRỊ PHÁT HÃN (II) ĐIỀU 101. VỀ BỆNH TRÚNG PHONG ĐIỀU 102. ĐIỀU TRỊ TRÚNG PHONG ĐIỀU 103. Y ÁN VỀ BỆNH TRÚNG THỰC ĐIỀU 104. PHÂN TÍCH BỆNH ÁN KHÓ CHỮA ĐIỀU 105. PHÊ BÌNH Y ÁN ĐIỀU 106. NGHIỆM ÁN CHƯƠNG VIII: HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU ĐIỀU 107. NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM THẠCH THẤT BÍ LỤC ĐIỀU 108. ĐỌC Y LÂM NHÀN THOẠI ĐIỀU 109. ĐỌC BÚT HOA Y KÍNH ĐIỀU 110. TÁC PHẨM CỤC PHƯƠNG PHÁT HUY ĐIỀU 111. SÁCH Y HỌC VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN ĐIỀU 112. TÁC PHẨM Y HỌC GẦN ĐÂY (I) ĐIỀU 113. TÁC PHẨM Y HỌC GẦN ĐÂY (II) ĐIỀU 114. DANH Y Ở VIỆT NAM ĐIỀU 115. Y HỌC VIỆT NAM CỔ ĐẠI ĐIỀU 116. DÙ LÀ DANH SƯ CŨNG CÓ KHI SAI ĐIỀU 117. ĐIỂM QUA CÁC Y GIA CẬN DẠI ĐIỀU 118. SỞ TRƯỜNG CỦA CÁC DANH Y ĐIỀU 119. HỌC THUẬT CỦA CÁT ÍCH ĐÔNG ĐỖNG (NHẬT BẢN) ĐIỀU 120. TÀI NĂNG CỦA CÁT KHẢ CỬU - CHU NGẠN TU ĐIỀU 121. HỌC TẬP QUAN ĐIỂM CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG (I) ĐIỀU 122. HỌC TẬP QUAN ĐIỂM CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG (II) ĐIỀU 123. TUỆ NĂNG TRỊ BỆNH ĐIỀU 124. CÁI NHẦM CỦA CHƯƠNG HƯ CỐC ĐIỀU 125. TRỊ PHÁP CỦA DỤ GIA NGÔN ĐIỀU 126. CẢNH NHẠC ĐIỀU TRỊ HẦU TÝ ĐIỀU 127. CẢNH NHẠC VỚI NHI KHOA ĐIỀU 128. CÁC PHƯƠNG THUỐC DO CẢNH NHẠC CHẾ RA ĐIỀU 129. TRỊ PHÁP TRONG NỘI KINH ĐIỀU 130. DO “THIÊN” VỀ MỘT BỆNH MÀ BỊ BỆNH ĐIỀU 131. Y ÁN CỦA TỪ HỒI KHÊ ĐIỀU 132. NGHIỆM ÁN VỀ TRÚNG KHÍ ĐIỀU 133. Y ÁN CỦA CHU ĐAN KHÊ ĐIỀU 134. KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ CỦA UÔNG THẠCH NGOAN ĐIỀU 135. KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ CỦA NGU THIÊN DÂN ĐIỀU 136. NGÔ SƯ LÃNG ĐIỀU TRỊ TỲ VỊ ĐIỀU 137. HỌC THUẬT CỦA ĐÔNG VIÊN - ĐAN KHÊ ĐIỀU 138. PHÂN TÍCH BỆNH ÁN CỦA LÝ ĐÔNG VIÊN ĐIỀU 139. KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH CỦA PHI HÀ ĐIỀU 140. KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH CỦA ĐAN KHÊ ĐIỀU 141. KINH NGHIỆM CỦA LƯƠNG Y TRẦN CUNG ĐIỀU 142. PHÂN TÍCH BỆNH ÁN CỦA MẬU HI ĐÌNH CHƯƠNG IX: KINH NGHIỆM LÂM SÀNG ĐIỀU 143. KINH NGHIỆM CHỮA CHỨNG GIẢN ĐIỀU 144. KINH NGHIỆM CHỮA THƯƠNG THỰC ĐIỀU 145. CHỮA CHỨNG THI QUYẾT ĐIỀU 146. KINH NGHIỆM CHỮA TIẾT TẢ (I) ĐIỀU 147. KINH NGHIỆM CHỮA TIẾT TẢ (II) ĐIỀU 148. ĐIỀU TRỊ HOẮC LOẠN ĐIỀU 149. KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH GÙ ĐIỀU 150. KINH NGHIỆM CHỮA DI NIỆU ĐIỀU 151. KINH NGHIỆM CHỮA THỔ HUYẾT (I) ĐIỀU 152. KINH NGHIỆM CHỮA THỔ HUYẾT (II) ĐIỀU 153. ĐIỀU TRỊ ĐỜM ẨM ĐIỀU 154. KINH NGHIỆM CHỮA KINH BẾ ĐIỀU 155. VỀ BỆNH TIÊU KHÁT ĐIỀU 156. PHÉP CHỮA YÊU THỐNG ĐIỀU 157. CHỨNG ĐAU RĂNG ĐIỀU 158. THUỐC TA CHỮA ĐAU HỌNG ĐIỀU 159. NHẬN XÉT VỀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LỴ ĐIỀU 160. MẠN ĐÀM VỀ LAO THƯƠNG ĐIỀU 161. TÁC HẠI VIỆC DÙNG THUỐC BỔ (I) ĐIỀU 162. TÁC HẠI VIỆC DÙNG THUỐC BỔ (II) ĐIỀU 163. TỒN TẠI CỦA VIỆC DÙNG THUỐC BỔ ĐIỀU 164. DÙNG THUỐC NHIỆT ĐỂ BỔ ĐIỀU 165. NHẬN THỨC VỀ CHỨNG KHÁI THẤU (I) ĐIỀU 166. NHẬN THỨC VỀ KHÁI THẤU (II) ĐIỀU 167. VỀ CHỨNG KHÍ TÝ ĐIỀU 168. NHẬN THỨC VỀ BỆNH NGƯỢC ĐIỀU 169. SỐT RÉT NGà NƯỚC (I) ĐIỀU 170. SỐT RÉT NGà NƯỚC (II) ĐIỀU 171. ĐIỀU TRỊ ĐAU BỤNG GIUN ĐIỀU 172. TỲ HƯ NGOẠI CẢM KHÓ TRỊ ĐIỀU 173. PHÉP CHỮA BỆNH CHO NGƯỜI GIÀ ĐIỀU 174. KINH NGHIỆM CHỮA MẠN TỲ PHONG ĐIỀU 175. VỀ NUÔI DƯỠNG TRẺ EM ĐIỀU 176. SẢN HẬU PHÁT CUỒNG ĐIỀU 177. KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH CHƯƠNG X: VỊ THUỐC VÀ PHƯƠNG THUỐC ĐIỀU 179. CÔNG NĂNG CỦA VỊ KỶ TỬ ĐIỀU 180. CHẤT CHÍNH VỀ VỊ ĐẠI PHÚC BÌ ĐIỀU 181. CÔNG DỤNG CỦA NÕN CHUỐI ĐIỀU 182. CÔNG DỤNG CỦA LÁ HAN ĐIỀU 183. SỬ DỤNG VỊ CHI TỬ ĐIỀU 184. CÔNG DỤNG CỦA VỊ XUNG UẤT TỬ ĐIỀU 185. DÙNG HOÀNG CẦM TRONG AN THAI ĐIỀU 186. NÊN VÀ KHÔNG NÊN DÙNG HOÀNG CẦM TRONG AN THAI ĐIỀU 187. KINH NGHIỆM DÙNG SÂM VÀ SÂU CHÍT ĐIỀU 188. TÁC DỤNG CỦA THỊT CHÓ ĐIỀU 189. VỀ MẬT MỘT SỐ ĐỘNG VẬT ĐIỀU 190. PHÂN TÍCH VIỆC DÙNG SÂM PHỤ ĐIỀU 191. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (I) ĐIỀU 192. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (II) ĐIỀU 193. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (III) ĐIỀU 194. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (IV) ĐIỀU 195. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (V) ĐIỀU 196. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (VI) ĐIỀU 197. BÀN VỀ DÙNG THUỐC (VII) ĐIỀU 198. PHÂN TÍCH BA BÀI THỪA KHÍ THANG ĐIỀU 199. NHẬN ĐỊNH VỀ THẬP TẢO THANG ĐIỀU 200. VẬN DỤNG TIỂU SÀI HỒ THANG ĐIỀU 201. NHẬN THỨC VỀ BÀI THANH CHẤN THANG ĐIỀU 202. NHẬN THỨC VỀ BÀI QUẾ CHI THANG ĐIỀU 203. VẬN DỤNG NGÂN KIỀU TÁN - TANG CÚC ẨM ĐIỀU 204. NHẬN THỨC VỀ DÙNG THUỐC CHÚ THÍCH LỜI TỰA DÀNH CHO BẢN EBOOK Để hoàn thành bản ebook này BQT VATMFORUM chân thành cảm ơn bạn Phạm Đức đã đóng góp bản scan quyển sách này. Chúng tôi cảm ơn sự đóng góp không mệt mỏi của bạn Phan Tâm để bản ebook được xuất bản nhanh chóng. Trân trọng cảm ơn các bạn! Quyển sách này cùng quyển “Cuộc đời và Sự nghiệp của người thợ già trị bệnh” của Lương Y Định Ninh – Lê Đức Thiếp có thể coi như những tác phẩm Văn học – Y học, ở đó chúng ta không chỉ học những kiến thức Y học Cổ truyền, chúng ta biết được suy nghĩ và nhân cách của những Lương Y ngày xưa. Chúng tôi gọi đó là những quyển sách Khai tâm cho những ai sẽ và đang học ngành Y. Đó là lý do chúng tôi quyết tâm thực hiện hai bản ebook này. Như các quyển ebook trước, chúng tôi đã thay đổi lại định dạng, số trang, mục lục... so với bản in. Trong quá trình làm ebook không tránh khỏi một số lỗi chính tả, do đó chúng tôi đính kèm bản scan sách để các bạn tiện tra cứu. Chúc các bạn hứng thú và thành công! Hà Nội 01/10/2012 LỜI GIỚI THIỆU I. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ: Lương y Nguyễn Tử Siêu (1887 - 1965) có các bút danh Nguyễn An Nhân, Liên Tâm lão nhân, Hoa Cương. Nguyên quán xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội. Trú quán: số 8 đường Yên Phụ, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình - Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình nho học, thân sinh đỗ Cử nhân, bào huynh đỗ Tú tài Hán học, bản thân đã qua Tam trường vào năm cuối chế độ thi cử cũ, chuyển sang thi cử bằng quốc văn. Do đó lương y Nguyễn Tử Siêu hoạt động trong lĩnh vực viết văn dạy học và làm nghề Đông y. Về viết văn, chuyên về lịch sử tiểu thuyết, thời gian 20 năm (1925 - 1945) đã xuất bản hơn 20 cuốn với nội dung cổ vũ lòng yêu nước, chống cường quyền ngoại xâm, tiêu biểu như những cuốn Tiếng sấm đêm đông, Hai Bà đánh giặc, Vua bà Triệu, Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng, Việt Thanh chiến sử, Trần Nguyên chiến kỷ,.... Có những cuốn bị thực dân Pháp và chính quyền đương thời tịch thu, cấm lưu hành, bản thân tác giả bị quản thúc ở nguyên quán. Trong thời gian bị quản thúc, tác giả vừa tiếp tục viết văn, vừa dạy học, vừa làm nghề Đông y và viết, dịch hơn 20 cuốn sách Đông y mang bút danh Nguyễn An Nhân, đó là những tác phẩm y dược học quý. Tiêu biểu như các bộ sách viết: Y học tùng thư, Y học toàn thư, Sách thuốc trẻ em. Sách thuốc Phụ nữ, Châm cứu sơ bộ thực hành và các sách dịch như Hoàng đế Nội kinh, Ngoại cảm thông trị, Khôn hóa Thái chân, Tân Châm cứu học v.v... đã được nhiều người tìm đọc và áp dụng, sau này đã trở thành những lương y có tài năng, có tiếng tăm. Cuốn Tử Siêu y thoại là tác phẩm cuối cùng của tác giả. Ngoài công việc viết văn, viết và dịch sách Đông y, Dược học và hành nghề Đông y, tác giả từng tham gia Chủ tịch mặt trận Liên Việt tỉnh Sơn Tây, Phó Chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Sơn Tây, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Hội Đông y Việt Nam các khóa I và II (1957 - 1965). II. NỘI DUNG TÁC PHẨM TỬ SIÊU Y THOẠI: Bản thảo gồm 7 cuốn viết trên vở học sinh, bắt đầu viết năm 1962 và kết thúc năm 1964, trình bày 204 điều theo thể tài tùy bút, dựa vào sự học tập và kinh nghiệm, những tâm đắc trong quá trình khám chữa bệnh và nghiên cứu, thu hoạch được kinh nghiệm của các bậc danh y tiền bối, kết hợp với bình luận, nhận xét xoay quanh y dược học. Để có bản in tương đối đạt yêu cầu mà quý bạn đang cầm trong tay, chúng tôi có đề nghị lương y Nguyễn Thiên Quyến, thứ nam của lương y Nguyễn Tử Siêu hiện là Chủ tịch Hội Y học dân tộc Hà Nội sắp xếp thành chuyên mục để giúp bạn tham khảo được thuận tiện, một số địa danh viết trong bản thảo, chúng tôi cũng đổi lại cho phù hợp với độc giả hiện nay. Một số câu tác giả viết bằng chữ Hán và những câu thơ cổ dẫn ra trong tác phẩm, cũng được lương y Nguyễn Thiên Quyến chuyển ra âm Hán Việt để tiện in ấn. "Không để mất đi một kinh nghiệm, một di sản quý nào của người xưa để lại trong bất kỳ nền văn hóa nghệ thuật, kỹ thuật nào..." đó là tinh thần, là đường lối của Đàng và Nhà nước ta. vì vậy chúng tôi nghỉ rằng Tử Siêu y thoại, sẽ là tài liệu bổ ích cho các bạn tìm hiểu, nghiên cứu Đông y và chắc chấn là giúp được nhiều thực tế lâm sàng cho đồng nghiệp y dược học. CÙNG MỘT TÁC GIẢ A. SÁCH Y HỌC I. SÁCH BIÊN SOẠN ∙ Y học tùng thư ∙ Y học toàn thư ∙ Sách thuốc Hải Thượng Lãn ông ∙ Sách dạy xem mạch ∙ Sách thuốc kinh nghiệm ∙ Sách thuốc đàn bà ∙ Sách thuốc trẻ em ∙ Sách thuốc chữa đau mắt ∙ Sách thuốc chữa đậu sởi ∙ Học tập lý luận Đông y ∙ Bệnh Nội khoa Đông y ∙ Châm cứu sơ bộ thực hành ∙ Tính dược ∙ Tử Siêu y thoại II. (SÁCH DỊCH) ∙ Hoàng đế Nội kinh Tố vấn ∙ Hoàng đế Nội kinh Linh Khu ∙ Châm cứu lâm sàng trị liệu học ∙ Tân Châm cứu học ∙ Châm cứu đại thành ∙ Châm cứu học giảng nghĩa ∙ Khôn hóa Thái chân ∙ Ngoại cảm thông trị B. SÁCH VĂN HỌC - LỊCH SỬ - TÂM LÝ Xà HỘI TIỂU THUYẾT ∙ Gươm cứu khổ ∙ Trần Nguyên chiến kỷ ∙ Hai Bà đánh giặc ∙ Vua Bố Cái ∙ Đinh Tiên Hoàng ∙ Việt Thanh chiến sử ∙ Cái nạn văn chương ∙ Bạn đời xưa ∙ Sự nghiệp văn chương của Tế Văn hầu Nguyễn Trãi ∙ Vua Bà Triệu ∙ Lê Đại Hành ∙ Đỉnh núi cành mai ∙ Tiếng sấm đêm đông ∙ Bể tình nổi sóng ∙ Sống chết vì tiền ∙ Lê Văn Duyệt họ thành Phú Xuân ∙ Lê Văn Duyệt viếng Gia Long ∙ Việt Nam lịch đợi anh hùng kháng chiến cứu quốc sử ca... CHƯƠNG I: NHẬN THỨC VỀ Y ĐẠO ĐIỀU 1. Y GIẢ TỒN TÂM Một danh y triều Mãn Thanh bên Trung Quốc thường nói: "Y giả tồn tâm, tu thị thiên hạ vô bất khả trị chi bệnh; kỳ bất trị giả giai ngã chi tâm vị tận dã" (Người thầy thuốc nên có tấm lòng coi ở đời không có một loại bệnh tật nào là không chữa khỏi; sở dĩ có bệnh chữa không khỏi, đều do mình chưa hết lòng đó thôi...). Hải Thượng Lãn Ông cũng viết ở bài Tiểu dẫn trong tập Âm án: "Người ta khi ốm đau, đem cả tính mạng gửi vào trong tay người thầy thuốc. Nếu gặp bệnh biến khó khăn mà khoanh tay từ chối không chữa, thì đời còn quý chi người thầy thuốc ấy nữa? Vậy dù biết là bệnh chết đến nơi, cũng chỉ nên bảo nhỏ cho gia đình bệnh nhân biết, còn tự bản thân ông thầy vẫn phải cố gắng nghiên cứu suy nghĩ, họa may còn cứu vãn được phần nào, tuyệt nhiên không nên "thấy sóng cả mà rã tay chèo". Xem hai câu nói của hai vị trên, thật đáng là danh y. ĐIỀU 2. ĐẠO LÀM THUỐC KHÓ Khu Hoài Tố viết bài tựa tập Lý hư huyền giám của Ỷ Thạch, có câu: "Bất tri thiên địa nhân bất khả giữ ngôn y, bất thông Nho, Phật, Tiên bất khả giữ ngôn y" (Không hiểu biết trời, đất, người, không thể cùng nổi nghề làm thuốc; không thông suốt Nho, Phật, Tiên, không thể cùng nói nghề làm thuốc mới nghe như quá viển vông, người chỉ học khoa học y đời nay cũng không khỏi cho là viển vông. Nhưng nếu học thuộc Nội kinh cho thật kỹ, thì nhận thấy không có gì là viển vông mà đều là chính xác. ĐIỀU 3. ĐẠO LÀM THUỐC NÊN UYÊN BÁC Các bậc danh y đời xưa dùng thuốc chữa bệnh, trước như lập ngôn, thường hay mắc cái bệnh "thiên chấp", nghĩa là chủ trương một đường hướng riêng,... như Lưu Hà Gian chuyên về khổ hàn, Lý Đông Viên chuyên về ôn bổ, Chu Đan Khê chuyên về tư âm, Trương Cảnh Nhạc cũng chuyên về ôn bổ, Trương Tử Hòa chuyên về công hạ,v.v..1 Các vị đổ, tuy đều có sở trường, đều có công bổ sung thêm lý luận cho nền Đông y, nhưng vì đã có ”sở thiên” nên khi trước thư lập ngôn không khỏi biểu hiện ra thái độ chê bai công kích lẫn nhau, khiến người đời sau, nếu chỉ được đọc có một bộ thì tin ngay bộ đó là hoàn toàn đúng, rồi cũng cứ tuân theo cái "sở thiên” của bộ đó mà hành nghề, mà "cứu nhân độ thế”. Về vấn đề này, ở Trung Quốc tuy cũng có mắc, nhưng sách vở có nhiều, sự lưu hành dễ dãi, nên người có chí muốn tham khảo cũng dễ dàng. Còn như ở nước ta, về ngành y dược, tuy cũng đã có giao lưu với Trung Quốc từ lâu, nhưng về thực tế, các y thư cũng không lưu truyền sang được mấy. Có chăng, chỉ các nhà đại gia thế phiệt, được đảm nhiệm chức vụ ngự y, phục vụ cho vua chúa và gia đình vua chúa thì mới có đầy đủ, nhưng họ chỉ giữ làm gia bào để chức vụ của họ được bền lâu mãi mãi... Còn đem mà lưu truyền ra ngoài dân gian rất hiếm. Do đó, các nhà làng ở nước ta đời trước, phần nhiều chỉ được đọc có mấy bộ như Y học, Cẩm nang, Cảnh nhạc, Thọ thế, Vạn bệnh v.v... Vì thế nên kiến thức về chuyên môn cũng không khỏi có hạn và có "sở thiên". Từ Linh Thai có câu: "Bất bác cực quần thư bất năng vi y" (Không xem rộng hết mọi sách, không thể làm nghề y). Lời nói tuy có vẻ tự phụ, nhưng xét cho kỹ thì thật rất đúng. ĐIỀU 4. ĐÔI ĐIỀU VỀ Y THUẬT Tiết Sấu Ngâm soạn bộ Sấu ngâm y chuế, trong đó có đoạn nói: "Phàm những bệnh mà đời nay gọi là thương hàn đều thuộc về loại bệnh ôn nhiệt cả. Còn như những chứng hậu của các bài Ma Quế và Thanh Long... thuộc thiên Thái dương thì có rất ít. Khi bệnh mới phát sinh chỉ nên dùng Thông sị hợp với Lương cách tán, để vừa tán biểu tà, vừa thanh lý nhiệt, bệnh nhân sẽ ra mồ hôi nhâm nhấp mà khỏi..." Lại nói: "... Phàm thăm bệnh ôn nhiệt, nên lấy các chứng trạng biểu hiện như lưỡi nhuận hay ráo, bệnh nhân có khát hay không làm chủ yếu". Xét về lịch sử hành nghề của Sấu Ngâm không được phát đạt mấy, suốt đời ở trong vòng khốn quẫn... Nhưng xét về học thức và lý luận thì có thể gọi là giàu. Con trâu có hai sừng thì phải thiếu một hàm răng, con chim đã có hai cánh thì lại chỉ có hai chân... Cái quy luật "thừa trừ" đó, có lẽ không ai tránh được chăng? ĐIỀU 5. ĐỞM LƯỢC CƯƠNG QUYẾT CỦA THẦY THUỐC (I) Người thầy thuốc chữa bệnh, không những phải có học thuật tinh tường, không sao nhãng thuyết cổ, mà cũng không câu nệ thuyết cổ, lại còn cần phải có đởm lược mới nắm vững được lập trường, khỏi thấy sóng cả mà rã tay chèo. Xem y án của Vương Mạnh Anh, thấy có nhiều trường hợp ông chữa tài tình và cương quyết. Thí dụ. Một người đàn bà vừa mới đẻ hôm trước, đến hôm sau bị ngay chứng đi tả, rồi phát nhiệt, kính quyết, hôn, cuồng. Mạnh Anh tới thăm, mạch Huyền, Hoạt, ác lộ vẫn ra như thường. Chẩn xong, Mạnh Anh nói: "Đây là một chứng bị phục thử từ thai tiền, thừa thế khi mới đẻ huyết hư, đờm trệ mà phát sinh. Liền cắt cho một thang lớn, nội dung có các vị như: Tê giác, Linh dương giác, Huyền sâm, Trúc diệp, Tri mẫu, Hoa phấn, Chi tử, Khổ luyện, Kim ngân hoa v.v... Uống hết một thang, khắp mình mọc lắm nốt lấm tấm đỏ mà chứng "kính” khỏi, tinh thần cũng tỉnh táo. Rồi cho uống thêm vài thang khí vị "thanh túc” nữa, khỏi hẳn. Xem y án trên này, ta nhận thấy: Sau khi đẻ mới có một ngày mà đã phát sinh chứng hậu khá nặng. Nếu gặp lương y câu nệ thuyết "sau khi đẻ kỵ hàn lương" mà dùng ôn dược để dòn bỏ ứ huyết, hoặc dùng ôn dược để bổ nguyên khí v.v... thì bệnh tật càng thêm nặng, mà có khi không thể cứu. Mạnh Anh đối chứng dùng thuốc, cương quyết dùng phương pháp "thanh nhiệt tức phong” kết quả chỉ một thang mà thu được hiệu quả rõ rệt. Thật là vừa có Đởm lại vừa có Thức. Xem án này, càng nhận thấy Mạnh Anh biện chứng luận trị rất tinh tế. Căn cứ vào vấn chẩn: "ác lộ vẫn ra", nên không dùng đến loại thuốc hành ứ; căn cứ vào "mạch Huyền", nên biết là Can phong nội động; căn cứ vào "mạch Hoạt" nên biết là đờm nhiệt làm hại. Còn sở dĩ dám đoán là "thai tiền phục thử” là căn cứ vào chứng "phát nhiệt, kính quyết” Vậy ta có thể nói tóm lại rằng: "Đó là một bệnh án thai tiền phục thử, nhân sau khi đẻ huyết hư, âm khuy, đờm trệ mà kích động phong dương". Về ý nghĩa sử phương thì là: "tức phong tư âm, rửa sạch và làm mát đờm nhiệt". Mạnh Anh kế thừa học thuyết “Sản hậu bệnh kính, lấy tư âm tức phong làm chủ yếu”của Diệp Thiên Sĩ và Ngô Cúc Thông mà vận dụng một cách linh hoạt. Ngô Cúc Thông có nói: "Trong Tâm điển nói: “Huyết hư mồ hôi ra, gân mạch không có gì nuôi dưỡng, phong lại lọt vào làm cho càng thêm kính (thân thể cứng đờ), đổ là bệnh tại Cân. Vong âm huyết hư, dương khí liền bị quyết (bi át lại lạnh đi), mà hàn tà lại làm cho uất át thêm, thì váng đầu và mờ mắt... Đó là bệnh tại Thần, Vị chứa tân dịch, để tưới khắp các Tạng; mất tân dịch thì Vị táo, Đại trường sẽ mất thấm nhuần, sinh ra chứng đại tiện khó. Đó là bệnh tại tân dịch. Ba loại bệnh trên tuy khác nhau, mà nguyên nhân do mất huyết và tân dịch thì như một. Và đều là những loại bệnh hiếm mà sau khi đẻ đều có thể có". Tôi nghĩ ba loại bệnh trên, đều có thể sử dụng các bài như Tam giáp phục mạch, Đại, Tiểu định phong châu và Chuyên hấp cao làm chủ. Các bài đó đều chú trọng vào “tư âm". Như ông Mạnh Anh chữa bệnh trên là chỉ bắt chước ý mà không sử dụng bài. Thật là "học cổ mà hóa”. ĐIỀU 6. ĐỞM LƯỢC CỦA THẦY THUỐC (II) Mạnh Anh lại có một y án chữa cho Trương Võ Nông cũng rất tài tình. Y án như sau: "Mùa xuân năm Mậu Tuất, viên quan Tư mã là Trương Võ Nông có ý muốn mời Mạnh Anh cùng đến Hoàn Sơn với hắn. Mạnh Anh thấy bệnh của Võ Nông bị đã lâu và nặng, lại thêm việc công bề bộn, tâm tình không được thoải mái, khó lòng trông cậy về thuốc mà khỏi được. Đã từ chối không đi, sau vì khẩn khoản quá, đành phải cùng đi. Trong khi cùng ngồi thuyền đi đến Diễm Khê, Võ Nông thuật lại quá trình bị bệnh tình của mình rất tỉ mỉ. Mạnh Anh bỗng dưng cất tiếng hỏi: "Có lẽ đã từ lâu đến giờ ông chưa từng hắt hơi bao giờ chăng?” Võ Nông nói: "Vâng! Đã ngót hai năm nay tôi không hắt hơi lần nào. Vậy chẳng hay có can hệ gì không?” Mạnh Anh nói: "Đó là do dương khí không được tuyên bố. Từ xưa đến nay chỉ có ông Trọng Cảnh là bàn tới vấn đề đó, nhưng chưa lập phương. Giờ tôi xin lập một phương để giúp ông, xem sao?”. Nói rồi liền kê một đơn, dùng các vị: Cao ly sâm, Can khương, Ngũ vị tử, Thạch xương bồ, Giới bạch (sao rượu), Bán hạ, Quất bì, Tử uyển, Cát cánh, Cam thảo... Bấy nhiêu vị làm một thang. Kê xong đơn, cho lên bờ cắt thuốc, sắc thuốc ngay ở trong thuyền. Sau khi uống nước thứ nhất, cách chừng một giờ Võ Nông đã hắt hơi luôn 3, 4 tiếng. Dụng được thật là tài tình! Thuộc về vấn đề "hắt hơi", do cơ năng sinh lý của con người biến chuyển như thế nào, thiên Khẩu vấn trong Linh khu đã có thuật một cách tường tận: Hoàng đế hỏi: "Con người có khi hắt hơi, do khí gì gây nên?" Kỳ Bá đáp: "Dương khí điều hòa thuận lợi, đầy ở Tâm, phát tiết lên mũi thì thành hắt hơi..". Xem đó ta nhận thấy có lẽ Võ Nông là một người tạng thể dương hư, nên Mạnh Anh mới chế một phương có tác dụng "ôn khí” và "tuyên khí" như trên. Chính hợp với ý nghĩa "dương khí điều hòa thuận lợi” ở Nội kinh, nên mới thu được hiệu quả. Do đó, càng chứng tỏ Mạnh Anh rất khéo vận dụng Nội kinh. Về ý nghĩa bài thuốc, Thạch Lan Tôn trong Vương Thị y án dịch chú có viết: "Trong bài này dùng Ngũ vị có ý nghĩa rất tinh. Theo nguyên tắc trị liệu: Muốn làm cho thăng, phải làm cho giáng trước. Phàm thuộc về khí, chưa từng không giáng được mà lại thăng được bao giờ". Thuyết của họ Thạch kể cũng đúng. Nhưng ý riêng tôi thì còn có một nhận xét khác. Vì xem kỹ lời thuật trong y án, thì Võ Nông là một người bị bệnh lâu ngày và hư yếu. Nên chỉ dụng dược còn cần phải chiếu cố tới thể chất của bệnh nhân. Trong bài dùng các vị Giới bạch, Bán hạ, Thạch xương bồ, Quất bì, Tử uyển, Cát cánh... đều là các vị có tác dụng tuyên khí, điều khí, giáng khí, thông khiếu... khá mạnh. Tựu trung, tuy có Nhân sâm, Can khương có sức mạnh "ôn phù dương khí" để nên bớt sức mạnh của các vị kia, nhưng cũng còn e sức không đầy đủ, không phù hợp với thể chất hư yếu của bệnh nhân, nên mới thêm Ngũ vị có vị "toan" để làm cho liễm bớt thêm một phần nữa, đồng thời lại làm dịu cả cái vị "tân" của Can khương. Không biết dụng ý của Mạnh Anh có phải như vậy không? ĐIỀU 7. TỪ LINH THAI BÀN VỀ Y ĐẠO Từ Linh Thai là một đại danh y đời Thanh, vốn sống thanh cao, nên không ai có thể dựa vào quyền quý để mua chuộc. Ông thường nói: "Không xem rộng hết các sách, không thể là lương y“... Văn ông viết giản dị và hùng hồn, nhất là phê phán những nhận thức sai lầm của các thầy thuốc đương thời, lời lẽ lại càng thống thiết và thẳng thắn, không kém phần "chặt sắt, chém đinh" như thầy Mạnh Kha. Như bài luận về "Y gia" tức là một thiên phê phán về hành động của các y giả đời bấy giờ. ông viết: "Y giả trình độ hơn kém không đều, điểm này ai cũng rõ. Nhưng nếu thực tâm cẩn thận thì cũng chưa đến nỗi giết người. Nếu lại xoay ra mưu toan lừa dối, thời tai hại thật không thể lường. Hoặc đặt ra kỳ phương để lập dị, hoặc dùng những vị hiếm để dối đời; hoặc dùng những loại thuốc bổ nhiệt như Sâm Nhung để xu phụng bọn giàu sang; hoặc thác danh là phương thuốc của thần tiên để lừa dối người khờ đại; hoặc đặt ra các luận điệu quái gở viển vông, để dọa đời lấy tiếng; hoặc bịa đặt làm các thuyết của sách cổ; kinh xưa để nạt chúng khoe tài; hoặc biết là bệnh này thì ai cũng hiểu, lại nặn ra một cái tên bệnh khác để tỏ ra mình là học rộng biết sâu; lại như chữa bệnh Thương hàn về mùa đông, lại gia thêm vị Hương nhu vào trong bài thuốc chữa Thương hàn, rồi rêu rao đó là thử bệnh.... Thực ra thì Hương nhu đã hết khí vị, làm như vậy chẳng qua chỉ là một cách bịp đời.... Lại có kẻ chữa bệnh nhiệt mà lại gia Phụ tử vào trong lương dược mà bệnh khỏi, rồi nói ba hoa rằng bệnh đó chính là chân hàn... có biết đâu rằng Phụ tử họ đã luộc tới trăm lần, còn có chi là tân nhiệt nữa... Những hạng người đó chẳng qua chỉ là muốn dối người để cầu lợi, hoặc giả cũng có hiểu đôi chút y lý, nhưng vì tấm lòng tư lợi quá nặng, thời cũng khó lòng thu được kết quả. Xem những lời miêu tả về hành động của các "danh y" (chữ danh đây là ranh mãnh) ở trên, ta nhận thấy: thiên lý tuy không đồng phong, mà nam bắc sao lại cùng lối, có lẽ ở đời chưa bao giờ xóa bỏ được chữ "ngã", thì con người cũng chưa bao giờ gột rửa hết được niềm "tư"? ĐIỀU 8. HIỂU ĐÔNG Y HÃY NHẬN XÉT ĐÔNG Y Phương ngôn có câu: "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe..." Trong Luận ngữ có câu: "Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết; như vậy tức là biết đó” “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã". Nhưng thế nào là "biết", thế nào là "không biết", phân biệt cho được rành mạch điểm này thật rất khó. vì ở đời còn có hạng người không biết mà tự cho là biết, lại chê người khác là không biết... thì làm thế nào mà biết được chỗ không biết của người đó? Có hiểu Đông y mới phê phán được Đông y.... Ý này là một sự cảnh tỉnh cho những người không phải Đông y mới sắp bước vào Đông y. Chỉ đáng tiếc trong giới Đông y lại có những người có học, có tài, có danh vọng, tự cho mình là đã thấu triệt y lý của Đông y, có thể làm lãnh đạo cho Đông y, lại chuyên đi cóp nhặt cái "da lông, cặn bã" của Tây y để chê bai chế diễu Đông y như Lục Uyên Lôi, Dư Vân Tụ v.v... Dư Vân Tụ chẳng đáng kể, còn Lục Uyên Lôi trong Thương hàn kim thích, Kim quỹ kim thích, có nhiều chỗ nghị luận thật đáng tiếc... Khiến cho khi đọc đến, không khỏi ngậm ngùi bực tức, tiếc cho cái tài, cái học của Uyên Lôi! ĐIỀU 9. SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI Con người, nếu không biết vì đâu mà sống, thì không biết vì đâu mà chết; không biết vì đâu mà chết thì không biết vì đâu mà ốm; không biết vì đâu mà ốm thì không biết do đâu để chữa. Cho nên biết được sống, biết được chết, mới biết được ốm và yên, đồng thời biết được cả phép chữa. Con người sở dĩ sống được là nhờ ở "Thần", Thần sở dĩ yên được là nhờ ở khí. Khí được bình hòa thì thần sẽ yên mà không ốm; khí mất bình hòa thì thần sẽ tán loạn mà chết. Thần với khí là tính mạng của con người. Thần thuộc Tâm, khí thuộc Thận. Vậy hai tạng của Tâm Thận, là nơi tính mạng của con người gửi ở đó. Quan trọng biết chừng nào! Cho nên: mạch quí có thần, hình quí có khí. Thần khí chữa được, bệnh tuy nguy cũng yên; thần khí rối loạn, bệnh tuy nhẹ cũng nguy. Nhưng thần khí sở dĩ suy hay vượng là do Dương minh Vị. Phàm người chữa bệnh, quyết không thể bỏ quên Vị. Cho nên ở Nội kinh nói: "...Vị khí là bản". Nhưng Thận lại là cửa của Vị, con người khi mới sinh, bắt đầu từ Thận; con người khi bị ốm, phần nhiều cũng ở Thận. Thận – Thận chính là gốc của sinh mạng. Nếu mạch ở Thận bộ không kém sút, ốm dù nặng cũng có thể sống, mạch ở Thận bộ bị kém sút, bệnh dù nhẹ cũng có thể chết. Bởi Thận bị thương tức là Tiên thiên bị thương, do đó Hậu thiên là Vị cũng bị đứt rễ mà không khỏi tai hại. Phàm người ốm lâu mà không chết, là do Thận thương chưa tới Vị; nếu tới Vị, tất sẽ chết. Cho nên, cái bí quyết đoán bệnh là ở hai "Thiên". Một thiên bị thương thì ốm, cả hai bị thương thì chết. Bệnh thế khi đã đến cả hai Thiên đều thương, mà cố chữa là rất ngu; nếu cả hai đều chưa bị thương mà chết, là người chữa làm cho chết. Khi lâm sàng không biết nắm vững hai điểm đó là người chưa biết làm thuốc. Người biết làm thuốc, cần phải nắm vững hai điểm đó để định hướng điều trị và tiến thoái. ĐIỀU 10. DÙNG THUỐC KHÔNG NÊN CÂU NỆ Y lâm tân luận của Lục Lệ Kinh có đoạn nói: "Người ta dầu dãi trong mùa nắng nực, mà vẫn mạnh khỏe như thường là nhờ có nguyên khí bền vững, thắng được thử tà. Theo thói quen của người đời, cứ đến mùa Hạ, thường đem bài Hương nhu ẩm để uống thay nước. Nhưng không biết rằng Hương nhu tính vị tân ôn, có thể làm tẩu tán mất chân khí; Hậu phác khí lực cay và mạnh, làm tiêu tán nguyên dương, sẽ mở lối cho Thử tà phạm vào... Thật là tai hại. Lại có người chuyên pha Lục nhất tán để uống. Không biết rằng Cam thảo tính tuy bình hòa, nhưng nếu là người thường có chứng bụng đầy, thở suyễn và bụng nhiều tích trệ, cũng không nên dùng, Hoạt thạch có tác dụng lợi khiếu; người biểu hư mà uống nó, thường làm cho vệ khí kém bền chặt; người có chứng di tinh mà uống nó, thì "tinh quan" (1) lại càng lỏng lẻo... Lợi chưa thấy đâu mà đã bị hại. Người có chí dưỡng sinh, nên thận trọng. ĐIỀU 11. BÀN VỀ PHÉP TÁC TRỊ LIỆU "Tắc nhăn tắc dụng: Thông nhân thông dụng" là hai phương pháp "quyền biến" trong nguyên tắc trị liệu của Đông y. Trước khi muốn sử dụng phương pháp đó, cần phải biện chứng luận trị cho thật tinh xác, không một chút hàm hồ, mới đạt được mục đích yêu cầu, trái lại nếu biện luận không tinh thì sẽ đi đến tình trạng "hư hư, thực thực" gây nên tai vạ rất dễ. Tôi hành nghề y đã hơn 50 năm, gặp những trường hợp phải sử dụng đến nó mà vẫn phải lo lắng từng giờ từng phút, nghe từ tiếng nói, hơi thở, trông từ lúc co tay lúc duỗi chân, có lúc quên cả ăn, mất cả ngủ, bao giờ thấy bệnh tình chuyển hướng được đúng như mong mỏi của mình, bấy giờ mới như trút được gánh nặng, nỗi niềm sung sướng có phần hơn cả những thân nhân người bệnh. Xin kể lại một trường hợp tôi chữa cho em bé Nguyễn Toán nắm 1962 làm thí dụ: Em Nguyễn Toán mới đầy tuổi thôi, bị bệnh nôn mửa, ỉa tháo, miệng khát, nước tiểu đỏ và ít, lúc khóc lúc nín không nhất định. Lúc đầu một lương y dùng thuốc "tiêu đạo" và "lợi thủy" cho uống luôn hai thang, không chút công hiệu. Sau ông ta lại cắt bài Vị linh tán gia giảm cho uống. Khi uống bài đó, em bé đi rửa ra toàn nước trong mà sắc xanh, không chút mùi phân, càng bực dọc, càng khát nước, càng nôn mửa. Từ hôm bị bệnh đến hôm đó đã qua 5 ngày mà ngày thứ 4 và thứ 5 lại nặng hơn trước nhiều, trằn trọc suốt đêm, không lúc nào yên. Bấy giờ bố mẹ em bé mới mời tôi đến chữa. Qua sự nhận xét về hình sắc và hỏi người nhà về quá trình của bệnh, tôi nhận thấy: Bấy giờ đương mùa nóng nực, hai khí thấp nhiệt đang cùng tranh giành. Trong Trường Vị của em bé vốn có tích nhiệt, lại kết hợp với thức ăn ứ đọng chưa tiêu nên chỉ mới biểu hiện ỉa ra toàn nước trong mà không mùi thối, trằn trọc vật vã không mấy lúc yên...Giờ lại cho uống bài Vị linh làm cho Trường Vị càng thêm khô ráo, có chút nước nào bài tiết ra hết, mà cặn bã thì vẫn ứ đọng; ứ đọng muốn ra mà không ra được, nên mới quặn ruột mà khóc. Sau khi nhận xét kỹ càng, tôi liền áp dụng phương pháp "Thông nhân Thông dụng" để "công kích khứ trệ". Bài thuốc như sau: Đại hoàng (tẩm rượu) 1 đ. c. - Chỉ thực (sao) 1 đ. c.- La bặc (sao) 2 đ. c. - Mạch nha 1,5 đ. c. - Hoạt thạch 6 đ. c. Bấy nhiêu vị làm một thang sắc với một bát rưỡi nước, cạn còn lưng bát, chia uống làm 3 lần, cách 2 giờ uống một lần. Sau khi uống lần thứ nhất, cách chừng một giờ, thấy em bé đánh rắm, đã có mùi phân. Uống lần thứ hai cũng cách hơn một giờ, em bé ỉa ra không phải là nước trong nữa, mà toàn là những chất lầy nhầy, có lẫn cả những chất như thức ăn chưa tiêu, ỉa xong, em bé nằm im lịm không nhúc nhích, cả nhà hoảng sợ chạy đến nói với tôi. Tôi nghe nói cũng ngạc nhiên, vội tới thăm, thấy em bé nằm thiếp trong lòng mẹ, hơi thở đều đặn, tuy ngủ mà thình thoảng vẫn mút vú, nuốt sữa ừng ực. Bấy giờ tôi mới nhận ra không phải là biến chứng, mà chỉ là ốm lâu mệt mỏi đấy thôi. Cách đó chừng một giờ, liền đái ra một bãi rất dài, rồi tỉnh dậy, chơi đùa tươi tỉnh như lúc chưa ốm. Tiếp đó tôi cho uống thêm một thang "Hòa trung thanh nhiệt" nữa, hoàn toàn bình phục. Nghĩ lại từ lúc bắt đầu chẩn trị, đến lúc hoàn toàn bệnh khỏi, tuy chỉ trong vòng có 3 ngày và uống có 2 thang thuốc mà chính tự chân thân mình đã tốn bao nhiêu lo nghĩ, qua mấy lần hồi hộp... mới thu được chút thắng lợi cuối cùng. Nghề làm thuốc khó khăn và vất vả như vậy đó. Thế mà có lắm người vẫn coi là rất dễ, lại muốn lợi dụng để làm kế sinh nhai... Thật buồn! ĐIỀU 12. CHỮA BỆNH KHÔNG NÊN CHỈ DỰA VÀO BÀI THUỐC KINH NGHIỆM Chung Thừa Lộ viết bài tựa Bút hoa y kính của Giang Hàm Đôn, đoạn đầu có mấy câu:"... các khí phong hàn thử thấp ở ngoài giới tự nhiên, đều dựa theo thể chất của mỗi người để nhiễm bệnh, lại dựa theo khí hậu của hoàn cảnh địa dư để gây nên chứng trạng vốn không phải cùng chung một lối; ngay như ở 2 người cùng mắc một bệnh, nhưng cái nguyên nhân nhiễm bệnh và hoàn cảnh gây nên chứng trạng cũng phần nhiều không giống nhau...." Chung tuy không phải là thầy thuốc mà còn biết được như vậy, sao thấy có nhiều người chính là thầy thuốc, khi lâm sàng lại cứ dựa vào những bài thuốc đã kinh nghiệm chữa người khác để điều trị, không còn biết "nhân thời, nhân địa, nhân nhân, nhân bệnh” là gì... Thật đáng buồn! ĐIỀU 13. CHỮA BỆNH NÊN BIẾN HÓA Trong một năm có 4 mùa, mỗi mùa có một khí hậu riêng. Con người ở trong khoảng khí giao, tất phải thích ứng với khí hậu để sinh trưởng; người làm thuốc tất cũng phải theo khí hậu đó để điều chỉnh tật bệnh của con người. Tỉ như mùa Xuân ấm, mùa Hạ nóng, nguyên khí ở con người do đó mà bài tiết mất nhiều, vì nguyên khí bài tiết mất nhiều nên âm tinh thường bị hao tổn. Việc dùng thuốc phải nên chú ý tới dưỡng âm. Mùa Thu mát, mùa Đông lạnh, dương khí ở con người do đó mà cũng phải tiềm tàng, vì dương khí cần được tiềm tàng, không nên khai thông, việc dùng thuốc cũng phải chú ý tới dưỡng dương. Đó là tùy theo khí hậu của từng mùa để ấn định phương pháp trị liệu. Chủ yếu là bổ sung vào chỗ thiếu để cho được điều hòa thích ứng với khí hậu bên ngoài. Tuy nhiên, vẫn trong một khí hậu mà ấm lạnh không điều. Tỉ như: gặp ngày nóng nực quá độ, con người phần nhiều bị cảm thử. Nhưng đột nhiên trời nổi cơn giông, mưa đá trút xuống, lúc đó thì lại cảm hàn. Bệnh thử thì cần phải giải thử, bệnh hàn thì cần phải khu hàn... Như vậy là tùy theo khí hậu để dụng dược. Đó chỉ mới là một phương diện; lại cũng còn có khi hoàn toàn không thể dựa theo khí hậu mà cần phải căn cứ vào bệnh tình. Như những người âm hư, dù đương giữa mùa đông, mà âm tinh khuy kiệt, thủy đã không đủ, không chế được hỏa, do đó dương không có nơi nương tựa, tiết ra ngoài thành chứng nhiệt, hoặc lại mồ hôi toát ra đầm đìa,...gặp tình trạng đó, cần phải dùng thuốc để dưỡng âm, những loại thuốc như Địa hoàng, Ngũ vị, Miết giáp, Câu kỷ v.v.... đều cần phải sử dụng. Nếu lại cứ dựa vào thời bệnh mà dùng các vị tân ôn, thì chết như trở bàn tay. Lại như những người dương hư, dù đương giữa mùa Hạ, mà vì dương khí không đầy đủ, không bảo vệ được bộ phận biểu, do đó biểu bị hư, không chịu được phong hàn, sinh ra ghê rợn sợ lạnh rét, muốn được ăn thức nóng và mặc áo ấm. Đó là khí hậu ở bên ngoài tuy nóng, cũng không đủ chống được chân dương hư ở bên trong, nên bệnh mới thuộc hư hàn, mà cần phải dùng thuốc ôn bổ để điều trị. Những loại thuốc như Sâm, Kỳ, Quế, Phụ... không thể bỏ qua. Nếu cứ dựa theo khí hậu mà dùng thuốc khổ hàn, thì cũng chết rất chóng. Đó lại là một trường hợp "bỏ thời để theo chứng”. Tóm lại, bệnh tình thiên biến vạn hóa, người làm thuốc cũng phải thiên biến vạn hóa. Theo thời, theo chứng, cứu tệ bổ thiên, nguyên tắc tuy nhất định, mà bệnh tình không nhất định... ta có thể cứ dựa vào nguyên tắc mà không hỏi đến sự biến hóa của bệnh tình được sao? ĐIỀU 14. TỔ CHỨC PHƯƠNG TỄ Về phương pháp tổ chức phương tễ, các y thư phần nhiều căn cứ vào Nội kinh mà nhận định: những vị nào chủ trị vào bản bệnh là "quân", còn các vị giúp “quân" thì là "thần", là "tá, sứ". v.v... nếu chi cá thế thì cũng rất đơn giản, không lấy gì làm khó khăn. Nhưng nếu chịu suy xét kỹ hơn một chút thì thấy nó còn cần phải dựa theo nhiều qui luật khác để phối hợp, thì phương thuốc mới có ý nghĩa và hiệu nghiệm. Lấy bài Tứ thần hoàn làm ví dụ: Tứ bài Tiết thần hoàn (2)sử đụng để chữa Tiết tả về gà gáy (tảng sáng). Sở dĩ gây nên chứng tiết tả về gà gáy, đại khái có 4 nguyên nhân: một là do Tỳ hư không "chế” được Thủy; hai là do Thận hư không "hành” được Thủy. Cho nên ở bài Nhị thần hoàn dùng vị Bổ cốt chi khí vị tân táo làm quân, vào Thận để chế Thủy; dùng Nhục đậu khấu khí vị tân ôn làm Tá, vào Tỳ để làm ấm Thổ; lấy Táo nhục làm hoàn, lại là kết hợp với cái nghĩa “Tân cam phát tán thuộc dương”. Đó là về bài Nhị thần hoàn. Đến bài Ngũ vị tử tán thì tuy cũng là "tiết tả về gà gáy" mà nguyên nhân lại khác. Một là Mệnh môn Hỏa suy không sinh được Thổ; hai là Thiếu dương khí hư, không phát triển được công năng "phát trần”. Cho nên dùng Ngũ vị tử dựa vào khí vị toan và ôn của nó để thu lại cái Hỏa bị hao tán ở Khảm cung, nhờ đó, Thiếu hỏa sẽ sinh khí để bồi bổ cho Thổ, dùng khí vị Tân ôn của Ngô thù làm Tá, để thuận theo cái xu hướng "ưa tán” của Can mộc, đồng thời mở một con đường cho Thủy khí thấm nhuần để thích ứng với cái khí Xuân sinh. Bốn nguyên nhân kể trên, tuy không giống nhau mà chứng hậu biểu hiện thì như một. Nhưng mà phần chủ yếu của nó thì không ngoài "thủy cang” làm hại. Nhị thần hoàn là một phương theo quy luật "Thừa chế"; Ngũ vị tử tán là một phương theo qui luật "hóa sinh". Cả hai phương hợp một thành bài Tứ thần hoàn là theo qui luật "chế, sinh", "chế sinh" thì "hóa", chứng tiết tả lâu ngày sẽ khỏi. Đó là theo qui luật biến hóa của ngũ hành để tổ chức thành phương. Xem đó, muốn tổ chức một phương để trị bệnh, có phải là việc dễ dàng đâu. ĐIỀU 15. "CANG HẠI, THỪA CHẾ" Đã là Đông y, ai cũng biết học thuyết Ngũ hành là một phần rất quan trọng. Trong học thuyết Ngũ hành thì qui luật "Cang hại thừa chế” lại rất phức tạp. Có nắm vững được qui luật đó, khi lâm sàng biện chứng luận trị mới đúng, mà tiến hành liệu pháp mới khỏi sai lầm. Đối với qui luật đó, tôi chưa dám nói là đã nắm vững, nhưng cũng xin thử phân tích sơ qua mấy nét ra sau đây: Con người dựa vào khí để thành hình; nếu khí mất sự quân bình thì sẽ sinh bệnh. Cho nên một khi Can mộc vượng quá, Can sẽ thành "cang". Can "cang" thì hại Tỳ; Tỳ bị hại thì không sinh được Kim, đồng thời không phòng được Thủy. Cho nên Mộc "cang" thì Kim Thủy đều bị thương. Lúc đó nên phù Kim làm chủ yếu. Kim được phù thì chế được Mộc mà Mộc sẽ bình; Mộc được bình, thì sẽ hòa với Thổ mà Thủy không tràn lên được; Kim sẽ được sinh. Nếu Phế Kim vượng quá, thì Phế sẽ thành "cang". Phế "cang" thì không sinh được Thủy mà hại Mộc. Mộc bị bệnh thì Tỳ cũng bị tổn. Lúc đó, nên phù Hỏa để chế Kim; Hỏa vượng thì Kim sẽ ấm mà bình; Kim bình thì sinh được Thủy, đồng thời lại chế được Mộc; Mộc có sự chế thì sẽ hòa mà không hại đến Tỳ. Lại như Tỳ Vị bị thấp nhiệt và ăn uống, nghĩ ngợi quá độ thì khí của Tỳ Vị sẽ "cang"; Tỳ Thổ "cang" thì sẽ làm hại đến Thận mà không sinh được Kim, Kim yếu thì "hóa nguyên" của Thủy sẽ bị tuyệt, do đó Thận lại càng suy. Lúc đó nên "sơ" Mộc để chế Thổ, Thổ được bình thì Kim với Thủy đều được bình. Lại như Thận bị "cang" thì Thủy tràn; Thủy tràn thì sẽ mất cái chức năng lưu hành của nó mà không sinh được Mộc, Mộc bị thương thì "tà" sẽ xâm phạm sang Thổ, do đó Tỳ Vị cũng bị thương. Lúc đó nên bổ Hỏa để sinh Tỳ; Tỳ vượng thì Thủy có cái chế mà được bình. Tóm lại, Hỏa cang, Thủy cang, Mộc cang, Kim cang... đều có thể làm lụy đến Tỳ. Tỳ bị lụy thì khí của Hậu thiên sẽ bị thương; khí của Hậu thiên bị thương, thì Tiên thiên cũng không hoàn thành được cái nhiệm vụ "sinh sinh". Cần phải dùng phương pháp nạp khí để điều trị. Bởi Vị khí là dương của Trung Thổ, Tỳ khí là âm của Trung Thổ. Tỳ không nhờ được dương của Vị khí, thì phần nhiều "hạ hãm"; Vị không nhờ được âm của Tỳ khí thì không lấy gì vận hóa mà "chuyển du" tới 5 tạng. Tỳ đã không "chuyển du”, thì Tâm cũng không lấy gì phụng dưỡng để hóa thành sắc đỏ; Tâm không hóa được thành sắc đỏ, thì Tâm Hỏa yếu không chế được Kim; Kim không có cái chế, thì cái chức năng hạ giáng không tiến hành được... đến lúc đó thì trong 5 tạng sẽ có thể đều mất mức độ quân bình. Lại như: Tỳ khí do Tâm mà đến Phế; Phế được khí sẽ phát triển được cái chức năng "hạ giáng”, vào Tâm thành huyết, vào Can và Tỳ cũng thành huyết, vào Thận thì thành tinh, ở chính bản tạng thì thành "dịch" - (tức chất lỏng, cũng là huyết). Năm tạng đều hòa mới có thể cùng sinh khấc lẫn nhau, cùng sinh, khắc, chế, hóa mà không có "quá" và "bất cập”, như vậy gọi là khí được quân bình. Sở dĩ có sự không được quân bình, hoặc do cảm nhiễm phải lục khí, thì là "ngoại thương" mà mất sự quân bình, hoặc do uống ăn, tình dục và thất tình thì là "nội thương” mà mất sự quân bình. Tiên thiên mất sự quân bình, sẽ ảnh hưởng đến Hậu thiên; Hậu thiên mất sự quân bình sẽ ảnh hưởng đến Tiên thiên. Hễ có sự ảnh hưởng, thì phần nhiều đi đến tình trạng Thận không "nạp khí” Cho nên y giả trước hết phải xét rõ nguyên nhân phát bệnh đồng thời lại phải xét xem tạng nào "cang”, tạng nào yếu. "Cang” thì lấy "thừa” để chế, bởi con có thể báo được thù cho cha; "yếu” thì tìm về phương diện "sinh hóa", bởi "chế” thì sẽ sinh ra hóa, mà lấy Tỳ làm chủ chốt. Vì khí của 5 tạng, đều phải dựa vào Tỳ Thổ để dồn khí tới nơi nguồn gốc của Tiên thiên, do đó mà mọi bệnh đều tiêu tán. ĐIỀU 16. BỆNH TÁI PHÁT KHÓ CHỮA Những bệnh phát sinh bởi thất tình - nhất là nộ - sau khi đã khỏi, phải hết sức giữ gìn, mới khỏi tái phát. Nếu lại tái phát thì cứu văn rất khó, xin dẫn một kinh nghiệm của tôi làm thí dụ: Anh Nguyễn Tiến Thành, 20 tuổi, bị bệnh ho thổ ra huyết. Cứ đến quá trưa về chiều thì da nóng hầm hập, đêm thường mộng di. Một lương y dùng bài Tứ vật, gia Thiên đông, Mạch đông, Tri mẫu, Hoàng bá... Chữa tới hơn nửa năm, lại thêm chứng đau và trướng bên sườn trái, không nằm nghiêng sang bên trái được. Tiếng nói dần dần khàn đi; khi ăn uống thường hay "lợm giọng” muốn nôn; thân thể gầy róc sáu bộ mạch đều Huyền Sác... Thấy bệnh tình như trên, lương y ấy từ chối không chữa nữa. Bấy giờ người nhà mới mời tôi đến chẩn trị. Tôi trông sắc mặt trắng bợt, lại lờ mờ có kèm thêm sắc xanh; hỏi đến sự đi lại, thì nói là yếu quá không đi lại được. Tôi nghĩ bụng: đây là một chứng khí hư huyết nhiệt. Can mạch lại rất Huyền. Huyền là do Mộc khí quá vượng, Tỳ Thổ lại bị thương không thống được huyết... Lúc bắt đầu tất do có việc gì uất ức cáu giận mà phát sinh bệnh; rồi lại do loại thuốc hàn lương làm hại, nên mới đến nỗi ăn vào thì lợm giọng, và thân thể gầy còm. Kinh nói: "Tỳ Vị một khi bị hư, Phế khí sẽ bị tuyệt trước...” Vì Phế Kim bất túc, nên Can Mộc lại càng không có gì "chế”. Do đó, trọc đờm, ứ huyết, đều kết đọng tại Phế khiếu, cho nên mới ho và khàn tiếng; vì ứ đọng tại Can, nên sườn bên trái không thể nằm áp xuống giường được... Bệnh tình tuy nguy ngập nhưng may là thanh niên, nên còn có hy vọng, liền dùng: Sâm đại quang 2 đ.c. Miết giáp 5 đ.c. Bạch thược, Bạch truật, Phục linh, Trần bì, Thông thảo, Bối mẫu, mỗi vị 0,7 đ.c. Cát cánh 0,5 đ.c. Các vị làm một thang, cho uống luôn 30 thang, các chứng đều giảm, tiếng nói đã trong, và đã nằm nghiêng về bên trái được. Kế đó, tôi lại luyện cho 1 cân bài Đại tạo hoàn để điều dưỡng. Sau khi nghỉ thuốc, tôi dặn lại: "Bệnh khỏi tuy đáng mừng, nhưng mạch Huyền chưa hết hẳn. Cần phải tránh mọi sự lao tâm, lao lực một thời gian lâu. Nếu lỡ lại kinh động, làm cho huyết lại dồn ra, không còn cách nào ngăn được đâu...” Anh ta vâng lời. Từ đó tinh thần ngày càng vượng, thân thể ngày càng béo, sức lực ngày càng khỏe, qua 6 năm bình an vô sự. Một hôm vì việc "kết toán” quá lao tâm, đồng thời lại xẩy ra một việc cáu giận. Tức thời huyết lại trào ra, đầy mấy bát lớn... Tức thời môi trên xạm xịt và sưng vều, mồ hôi toát ra đầm đìa... Khi tôi tới chẩn, mạch rối loạn không còn thứ tự gì nữa. Anh ta gọi người nhà đòi đi ngoài. Tôi bảo mọi người xung quanh: Dấu hiệu chết đã rõ, âm dương đã ly tuyệt rồi! Nói xong quay ra, mới đến cửa thì anh ta đã chết. Đôi khi nhớ đến cái chết của anh Tiến Thành mà cứ giật mình sợ thay cho những người quá buông thả, coi nhẹ lời dặn dò của thầy thuốc phải kiêng kỵ sau khi khỏi bệnh. ĐIỀU 17. KINH NGHIỆM HỌC TẬP Tôi làm thuốc chỉ là tự học, chứ không được thầy truyền thụ, nên khi mới học, vớ được bộ nào là học ngay bộ ấy, không biết nên học bộ nào trước, bộ nào sau, Sau khi đã đọc qua mấy bộ như Thọ Thế bảo nguyên, Vạn bệnh hồi xuân, Thạch thất bí lục v.v... Mới mượn được bộ Thương hàn luận thiển chú của Trân Tu Viên, thấy từng chữ, từng câu đều có bao hàm một ý nghĩa rất sâu, khác hẳn với loại sách mình đã đọc qua mấy năm trước. Liền đâm ra say mê, suốt năm, suốt tháng, không mấy lúc là không nghiên cứu Thương hàn, Tôi lại theo phương pháp đọc sách của Chu Hy: chép riêng chính văn ra, đọc đi đọc lại, tự mình suy nghĩ, bao giờ không thể hiểu được bấy giờ mới dở đến chú giải ra để coi... Tôi cứ nghiền ngẫm như thế tới 2, 3 năm. Trong thời gian đó, đôi khi ngẫu nhiên xem đến các loại sách khác... Cả những bộ sách vĩ đại như Cảnh nhạc toàn thư, Lục khoa chuẩn thằng v.v... đều có cảm giác như hoàn toàn là phù phiếm... chỉ mươi lăm phút đã chán không muốn xem. Tôi mê Thương hàn, tin Thương hàn, đã thể hiện ra ở đôi câu đối: Tập quần thánh chi đại thành, y gia Khổng tử; Tổng lục kinh chi chứng trị, pháp bị Thương hàn. Mãi tới năm 1935, 36... tôi mới mua được bộ Nội kinh, do Mã Nguyên Đài và Trương Ẩn Am chú giải... Trong thời gian đọc Nội kinh thì trái lại, không thấy có cảm giác chán như đọc các loại sách khác. Nhất là sau khi đọc thiên Dị pháp chương nghi luận trong Tố Vấn thì tư tưởng lại tụ thấy khác hẳn. Trong đầu óc bao giờ cũng thấy lởn vởn mấy vấn đệ: nước Việt mình ở về phương Nam;... Nước Việt mình ở vào khoảng giữa ôn đới và nhiệt đới...; con người tùy thổ nghi, khí hậu mà phú bẩm khác, đã do Thổ nghi, khí hậu và phú bẩm khác, nên nguyên nhân phát bệnh cũng khác; do nguyên nhân phát bệnh khác nên phương pháp điều trị và dụng được tất cũng phải khác"... Mấy vấn đề đó lưởng vưởng một thời gian khá lâu, mãi sau mới tìm ra được phương pháp giải quyết, tức là: "Trên tinh thần biện chứng luận trị, phải theo đúng nguyên tắc của Trọng Cảnh, còn dụng dược sử phương phải nhằm theo thổ nghi, khí hậu và phú bẩm của từng người.” Do đó, tôi đã dựa theo địa lý của nước ta mà chia ra thượng du, trung du và hạ du là ba khu vực dụng dược khác nhau; trong mỗi một khu vực lại chia ra đồng chiêm, đồng mùa, người ngoài bãi, người trong đồng, người ven sông, người trên đồi... cũng đều phải sử dụng dược vật và trị liệu bằng phương pháp khác nhau. Từ đó về sau, khi lâm sàng mới có đường hướng dễ dàng, không đến nỗi như thời kỳ đương say mê về Thương hàn, hễ gặp một bệnh sốt nào người ta mời đến chẩn trị, đều tưởng tượng ngay là Thương hàn, đem các triệu chứng gán cho vào kinh Thái dương không đúng, thì lại gán cho vào kinh Thiếu dương, Dương minh, v.v... Cũng như thời kỳ nghiên cứu Ôn bệnh, hễ gặp một bệnh sốt nào cũng tưởng tượng ngay là thuộc khí phận hoặc huyết phận v.v... Lắm lúc ngẫm nghĩ: học không có thầy thật là gian nan vất vả.. Uổng phí mất bao nhiêu năm! ĐIỀU 18. TẠP LUẬN VỀ Y DƯỢC Thiên "Thập di tạp luận" trong Đan Khê tâm pháp có những câu rất hay. ví dụ: 1. Phàm dùng thuốc dẫn kinh, chính được 6 lạng, chỉ nên dùng thuốc dẫn kinh nửa lạng. 2. Chữa chứng khí từ dưới bốc lên, nên dùng các loại thuốc như Hương phụ, Hoàng liên, Hoàng cầm, Sơn chi... 3. Bạch thược tẩm rượu sao, cùng dùng với Bạch truật thì bổ Tỳ, cùng dùng vời Xuyên khung thì tả Can, cùng dùng với Sâm, Truật thì bổ khí; nó chỉ chữa chứng đau bụng do huyết hư, còn các chứng đau bụng khác đều không nên dùng. 4. Người sắc mặt đen, không nên uống nhiều Hoàng kỳ, vì là người đó khí đã thực mà lại bổ thêm (tức là thực thực). Người sắc mặt trắng không nên uống nhiều thuốc phát tán, là vì người đó khí đã hư (tức là hư hư). 5. Bài Nhị trần thang chữa bệnh "trọc", gia loại thăng đề, có tác dụng làm cho đại tiện nhuận và tiểu tiện đầy bãi. 6. Bệnh ố hàn lâu ngày, cũng có thể dùng phương pháp giải uất để điều trị. 7. Những người ốm lâu, ở mặt bỗng thấy nổi những điểm đỏ, phần nhiều chết. 8. Phàm chữa bệnh phải chiếu cố chính khí trước. 9. Con người khi nằm thì khí dồn lên Phế. 10. Phàm ở Trung tiêu có thực tích và đờm mà sinh bệnh, nếu Vị khí không hư, thì ít khi nguy hiểm. 11. Châm hoàn toàn là tả mà không có bổ; lúc châm cần phải miết mạnh vào chỗ định châm, thì huyết sẽ dãn ra, mà châm không đau. 12. Phép cứu có bổ, có tả. Muốn bổ Hỏa, cân cứu sát vào thịt; muốn tả Hỏa, không nên cứu sát vào thịt, khi cứu xong nên thổi một hơi mạnh vào chỗ vừa cứu. 13. Hàng ngày dùng Kim thoa Thạch hộc chừng 3 đồng cân, thái vụn,rửa sạch, cùng mấy lát gừng, đun sủi kỹ, trước bữa ăn 5, 6 phút, uống một chén tống, có tác dụng bổ Tỳ thanh Phế rất hay. 14. Muốn chế Huyền minh phấn, dùng Phác tiêu 1cân, La bặc (củ cải) 1 cân,bỏ vào nồi đất, đổ nước xăm xắp, bắc lên bếp đun, khi nào La bặc thật chín thì thôi, bắc ra, bỏ La bặc lấy giấy bản trải lên rá mà lọc cho chảy xuống chậu sứ, lọc xong, để phơi sương một đêm, hôm sau gạn bỏ nước trong, lấy thứ lắng xuống đáy chậu phơi khô, sẽ thành Huyền minh phấn. ĐIỀU 19. TẠP THUYẾT (I) Quả dâu chín đối với người già bị bệnh tiện bí dùng rất có công hiệu. Nhưng nếu nấu được thành cao mà dùng thời vừa tiện, vừa bổ. ĐIỀU 20. TẠP THUYẾT (II) Những người da mịn, lỗ chân lông nhỏ, lông tóc không nhẫy bóng,... người ấy Phế khí tất yếu; những người cổ ngẳng và dài, rất dễ bị bệnh ở Phế (phổi). ĐIỀU 21. TẠP THUYẾT (III) Màng trắng trong vỏ quít không những có tác dụng hóa đờm, lại có cả tác dụng kiện Vị. ĐIỀU 22. TẠP THUYẾT (IV) Bán hạ phối hợp với Bối mẫu, lực lượng hóa đờm càng thêm mạnh. Cổ có bài "Bán bối hoàn", tôi thường dùng để điều trị về đờm, rất công hiệu. ĐIỀU 23. TẠP THUYẾT (V) Bệnh thủy thũng bỗng dưng phát sinh, dùng Phù bình (bèo cái) phối hợp với Trạch tả để điều trị, rất hợp. Vị Phù bình là loại phong dược ở trong Thấp; còn Trạch tả tuy có tác dụng lợi thủy mà không thương âm. ĐIỀU 24. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (I) Một người lương y, trong khi chẩn trị tật bệnh, trong đầu tuyệt đối không nên lưởng vưởng có một bộ sách; nhưng ngoài khi chẩn trị, thì lại tuyệt đối không nên vắng sách. Từ Linh Thai có câu: "Không xem rộng hết các sách, không thể làm thuốc", câu nói đó thật ý vị vô cùng. ĐIỀU 25. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (II) Thường thấy nhiều người: vừa bị bệnh ở Phổi, vừa bị bệnh Trĩ. Hễ khi bệnh ở Phổi phát triển thì bệnh Trĩ giảm nhẹ; khi bệnh Trĩ phát triển thì bệnh ở Phổi giảm nhẹ.. Xem đó đủ chứng tỏ thuyết "Phế với Đại trường có quan hệ biểu lý" của người xưa là không phải nói mồ. ĐIỀU 26. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (III) Gặp chứng hôn mê bất tỉnh, lưỡi cứng, cấm khẩu, hai hàm răng nghiến chặt... Ngoài việc châm các huyệt Nhân trung, Dũng toàn, lại nên cứu các huyệt Quan nguyên và Khí hải, rất chóng hồi tỉnh. Nếu vẫn chưa tỉnh, nên thích Thập tuyên hoặc 12 Tỉnh huyệt... Như vậy mà vẫn chưa hồi tỉnh, thì e khó lòng cứu sống. ĐIỀU 27. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (IV) Chứng lên đinh sưng đầu ngón tay cái (xà đầu đinh) châm 2 huyệt Vân môn và xích trạch, dùng thủ thuật tả, có thể khỏi ngay. ĐIỀU 28. TẢN MẠN VỀ LÀM THUỐC (V) Hai huyệt ở dưới huyệt Quan nguyên, công dụng chủ yếu của nó là “tả". Dưới huyệt Quan nguyên 1 tấc là Thượng Huyết hải, chữa phụ nữ kinh bế (huyệt này ít người để ý nên ít khi dùng); dưới Thượng Huyết hải 1 tấc tức là Trung cực, có tác dụng chữa chứng “long bế” rất hay. Ba huyệt ở trên huyệt Quan nguyên, công dụng chủ yếu là bổ. Nhất là huyệt Khí hải, đối với các bệnh són đái, di tinh, băng lậu, đái hạ... công hiệu rất rõ rệt. CHƯƠNG II: LÝ LUẬN VỀ ÂM DƯƠNG ĐIỀU 29. VÀI KHÍA CẠNH CỦA ÂM VÀ DƯƠNG Thiên Kim quỹ chân ngôn luận trong Tố Vấn cố đoạn nói: ”Nói về âm dương ở con người, thì bụng là âm, lưng là dương v.v..." Lão tử lại có câu: "Muôn vật tựa vào âm mà ôm lấy dương”. Về hai thuyết trên, từ xưa tới nay có rất nhiều nhà bàn tán, Không biết cho thuyết nào là đúng. Theo thiển ý tôi thì: hết thảy mọi vật đều có thể chất và công dụng khác nhau. Nói về công dụng thì bụng là dương, lưng là âm; nói về thể chất thì bụng là âm, lưng là dương. Bởi qui luật của trời đất: lớn là dương, nhỏ là âm; cao là dương, thấp là âm; ngoài là dương, trong là âm. Dịch nói: "Lập ra qui luật của trời, là âm với dương; lập ra qui luật của đất, là nhu với cương...". Lại nói: "Càn cương, khôn nhu...". Nay như lấy lớn nhỏ mà nói thì: lưng lớn mà bụng nhỏ; lấy cao thấp mà nói thì: lưng ở trên cao mà có cái hình thế như che chở, tức là cái hiện tượng của trời; bụng ở dưới thấp mà có cái hình thế như chịu đựng, tức là cái hiện tượng của đất; lấy cương nhu, trong ngoài mà nói, thì: lưng cứng rắn mà ở bên ngoài, bụng mềm mại mà ở bên trong, nói về kinh mạch thì: dương đi ở lưng, âm kinh đi ở bụng, cái xu thế của thể chất đã rành mạch như vậy. Con người đối với các loài bay, chạy, bơi, lội thể trạng tuy khác nhau, mà bẩm thụ cái khí âm dương thì cũng như một. Nếu cho lưng là âm, bụng là dương, đối với con người còn có thể tạm được, đến đối với loài vật thì còn ra sao? Bởi vậy tôi nghĩ: lưng với bụng chia ra âm dương, là do sự phân biệt về công dụng và thể chất mà nói. Bất tất phải câu nệ thuyết nào là đúng hay không đúng. ĐIỀU 30. NHẬN THỨC VỀ ÂM DƯƠNG SINH TRƯỞNG Dương tiêu thì âm trưởng, âm tiêu thì dương vượng. Âm với dương là hai yếu điểm của con người, không thể bỏ đi một phía nào, mà cũng không thể để cho mất một phía nào. Các y giả đời nay, có người nói dương là trọng, cũng có người nói âm là trọng, đều không nêu rõ được cái điểm trọng yếu ấy là ở chỗ nào. Do đó mà thành ra sai lầm không phải nhỏ. Phàm nói "dương là trọng" tức là nói về chân dương của con người, không phải là cái loại cang dương như "tráng hỏa thực khí". Thứ cang dương đó, như bị đại hạn lâu ngày, cần phải có mưa nhuần mát mẻ mới làm dịu được cái khí "cang hại" của nó. Cho nên Đan Khê mới xướng lên thuyết "phù âm", mà các loại thuốc khổ hàn như Hoàng bá, Tri mẫu mới cần phải dùng đến. Nên biết rằng "phù âm" chính là để "giúp dương" đó. Như nói "âm là trọng" tức là nói về chân âm của con người, không phải là cái loại "trọc âm" như "kiên ngưng, hàn kết". Thứ trọc âm đó không khác mùa đông tháng giá, phải nhờ có vầng thái dương chói lọi, mới đem lại được khí ôn hòa. Vì đó, các tiên hiền mới xướng lên thuyết "phù dương" mà các loại tân nhiệt như Quế, Phụ, Can khương đều phải sử dụng. Nên biết rằng: "phù dương chính là để giúp âm". Bởi hỏa nóng quá thì thủy phải khô, thủy nhiều quá thì hỏa bị tắt, cả hai đều cần mà không thể bên trọng bên khinh. Y giả nếu trọng âm mà làm hại đến chân dương, hoặc trọng dương mà làm hại đến chân âm, thì thật là lầm. ĐIỀU 31. BÀN VỀ SỰ NGHI NGỜ ÂM VÀ DƯƠNG Phàm bệnh thuộc về "Âm dương nghi tự" (ngờ nó tựa âm hay tựa dương) rất khó phân biệt. Thí dụ: chứng "Quyết" cũng có hai loại âm dương khác nhau. Lý Sĩ Tài nói: "Chứng âm quyết mạch Trầm Nhược, móng tay xanh xám và lạnh; chứng dương quyết mạch Trầm Hoạt, móng tay đỏ hồng và nóng". Lấy hai điểm đó để phân biệt, Trương Trúc Bình viết quyển Thương hàn toát yếu chép thuyết đó, cho rằng thuyết đó rất đúng, lưu tâm kinh nghiệm, không bao giờ sai. Nhưng xem về môn bệnh Dịch trong Danh y loại án có chép một án: "Thi Ấu Thăng về khoảng tháng 6, bị bệnh thời dịch, miệng ráo lưỡi khô, rêu nổi như gai mít, cuống họng sưng đau, bụng đầy trướng, ấn tay vào rất đau, khát muốn uống nước lạnh, nước đái đỏ và rít, chỉ giỏ được một vài giọt lại buốt không thể chịu được... đều là những chứng hậu cần phải hạ. Trái lại, toàn thân lại lạnh như tiền, móng tay xanh xám, 6 bộ mạch nhỏ như sợi tơ, phải tìm mãi mới thấy, ấn tay mạnh xuống thì không có. Y giả dẫn thuyết của Đào Tiết Am trong Toàn sinh tập nói: "Hễ tay chân quyết nghịch, nếu lạnh tới khuỷu tay và đầu gối tức là âm chứng"... Huống chi đằng này lại lạnh khắp cả mình? Đào thị lại nói: "Phân biệt hai chứng âm dương, chỉ cần căn cứ vào mạch có lực..." Vậy mà đằng này lại còn nặng tay hơn. Y giả dựa vào hai quan điểm đó, liền cho uống Phụ tử thang. Ấu Thống uống mới được một nước thuốc tức thời đâm ra phiền táo, vài giờ sau thì chết”... Xem y án đó, ta nhận thấy "dương chứng tựa âm" cũng chưa có thể dựa vào mạch Trầm Nhược, móng tay xanh và lạnh làm bằng cứ. Trên đây là bằng chứng cụ thể "dương chứng tựa âm”, y giả nhầm cho là âm chứng dùng Phụ tử thang mà chết. Lại còn có trường hợp "âm chứng tựa dương", y giả nhầm điều trị theo dương chứng mà chết, như trong Chứng trị chỉ yếu của Hoàng Thoái Am có chép một bệnh án như sau: "Một người đàn bà sau khi tiểu sản, phát sốt nóng tới cực độ, rêu lưỡi vàng, mạch Đại, đã 3, 4 ngày chưa đại tiện. Y giả không biết là "chứng giả” cắt bài Bạch hổ thang cho uống. Uống hết một thang, đại tiện đi được, sốt nóng lui, người nhà bệnh nhân đều mừng. Tôi (Thoái Am) chẩn xong, bảo người nhà bệnh nhân: đây là một chứng "cách dương” (dồn khí dương) lên trên, cần phải ôn bổ, không thể lại uống bài trước nữa. Người nhà bệnh nhân hỏi: "Nếu đã là chứng hư, sao hôm qua uống bài thuốc đó lại đi đại tiện được và khỏi sốt?” Tôi (Thoái Am) nói: "Chứng đại tiện kết rắn đó, như mùa rét nước ở lòng đâm đông đặc, còn một chút khí nguyên dương bị khí lạnh dồn nốt ra ngoài, nên đại tiện mới tạm thời thông được; còn như sốt nóng sở dĩ lui, cũng là do bị sức hàn lương lấn áp, nên mới tạm lui đó thôi. Căn cứ vào mạch tượng tuy Phù Đại mà mềm nhỏ như sợi tơ.. bây giờ kíp cho uống bài Bát chân thang, cũng còn e không kịp cứu vãn.. Người nhà bệnh nhân không tin Y giả hôm trước đến, thấy bệnh bớt, lại dùng nguyên bài cũ, gia thêm Mạch môn, Ngũ vị. Bệnh nhân uống chưa hết thang, hai mát trợn ngược, lân áo; sờ giường, qua một đêm thì chết..." Tôi xét: phàm hàn ở bên trong mà cách (dồn) dương ra ngoài, hàn tại dưới mà cách (dồn) dương lên trên... đó là do hiện tượng của thứ hỏa "vô căn". Tất phải có những chứng trạng: bực dọc muốn cởi truồng, hoặc muốn nằm xuống đất mát; rêu lưỡi vàng nhạt, miệng ráo, chân răng hơi sưng, mặt đỏ như say rượu (tức là đới dương); hoặc hai gò má ửng hồng lúc hồng lúc không (khác với chứng thực nhiệt, đỏ cả mật - Diệp Thiên Sĩ nói: vẻ mặt đới dương đỏ mơn mởn có xen cà sắc trắng), nói năng bợt bạt, ăn ít mà đầy, khát muốn uống nước; hoặc họng đau, tuy đòi nước mà lại không uống; ngoài da tuy rất nóng mà ấn tay nặng xuống lại không thấy nóng, có khi lại thấy lạnh; hoặc mình tuy nóng mà lại muốn mặc áo; nhưng 2 chân tất phải lạnh, nước tiểu trong trắng, ỉa ra phân lẫn nước trong (cũng có đôi khi táo kết), mạch Trầm Tế, hoặc Phù Sác, ấn tay vào muốn tán; cũng có khi Phù Đại mà ấn tay xuống lại vô lực. Trị liệu bệnh này nên dùng các loại thuốc ôn nhiệt, như Bát vị thang v.v... mà cho uống nguội (tức là phương pháp tòng trị). Tôi xét: Thành Vô Kỷ viết trong "Thương hàn điều biện”: "Phàm chứng quyết, khi mới phát sinh, tay chân lạnh ngay không chút ấm, đó là do âm kinh bị trúng hàn tà, dương khí không còn đầy đủ, nên cho uống bài Tứ nghịch thang; nếu tay chân trước nóng, rồi dần dàn đến ấm, lại dần dần đến quyết... Đó là do hàn tà truyền kinh, nên cho uống bài Từ nghịch tán..." Sự phân biệt của họ Thành thật là tinh tế. Tôi xét: Phàm những bệnh ngoại cảm về khí, khác với sự truyền kinh của bệnh Thương hàn, chỉ căn cứ vào lưỡi là có thể chắc chán. Âm chứng cũng có rêu đen, rêu vàng, nhưng coi vẻ tất phải hoạt nhuận, mà không khô ráo... Điểm này cần phải xem xét kỹ lắm mới khỏi nhầm. Xem quyển Dịch lệ tổ nguyên của Vương Kính Nghĩa ở Thượng Hải có chép một y án như sau: "Anh họ Uông bị bệnh dịch, bấy giờ đương về mùa Hạ, mà bệnh nhân toàn thân giá lạnh như đồng, mạch hư, y giả cho uống bài Tứ nghịch, bệnh càng thêm kịch, mời tôi (Kính Nghĩa) tới thăm, thấy bệnh nhân cắn nát cả lưỡi và môi. khấp mình nổi ban đỏ, thân thể mỏi mệt, miệng nói lảm nhảm không thành câu, mạch rối loạn... Tôi (Kính Nghĩa) đành chịu, không còn cách nào cứu chữa..." Xem y án của Kính Nghĩa hợp với bệnh của Thi Ấu Thang trên, ta nhận thấy "âm chứng dương mạch" nếu chữa nhầm bằng loại thuốc ôn nhiệt, thì chết dễ như trở bàn tay... Đáng sợ là nhường nào! ĐIỀU 32. CHỮA BỆNH PHÂN THEO ÂM DƯƠNG Năm tạng đều thuộc về âm dương, mà âm dương đều nhờ về sinh khắc. Cho nên muốn làm cho khỏe Thận (tức cố Thận) tất phải bảo (giữ gìn) Phế; bảo Phế chính là để sinh Thận; muốn phù Tỳ tức phải trị Can, vì trị Can chính là để khỏi khắc Tỳ. Phù Tỳ cũng tức là để bảo Phế, vì Thổ sẽ sinh được Kim; bảo Phế cũng tức là để bình Can, vì Kim có thể khác được Mộc. Tỳ bệnh tức là Phế bệnh; Can bệnh tức là Tỳ bệnh. Can bệnh nên làm cho dịu (hoãn) trung khí, bởi Can khí không thể để cho "cang", Can huyết, không thể để cho "khuy". Đó là cái yếu quyết chữa bệnh cho Can. ĐIỀU 33. NHẬN THỨC VỀ THUYẾT "BỔ DƯƠNG ĐỂ SINH ÂM” Xưa có thuyết: "bổ dương sẽ sinh được âm...", tôi suy đi tính lại, có lẽ thuyết đó chưa thật ổn. Như con người đã âm hư hỏa táo, giờ lại đi bổ dương, thì dương càng vượng bao nhiêu, âm lại càng kiệt bấy nhiêu, huống chi dương phải nương tựa vào âm, âm hư thì dương không còn nơi nương tựa, nơi nương tựa đã không còn, thì còn sinh âm làm sao được? Ví như lúa phải nhờ nước để nuôi dưỡng, nếu nước đã cạn khô mà lại thêm ánh nắng dọi xuống, thì lúa tất chết khô. Trong thời gian đó, chỉ còn có một cách là đổ xuống một trận mưa rào, thì lúa mới có thể mọc lên được... Đó là một lẽ bình thường dễ hiểu. Riêng cổ thuyết “bổ khí có thể sinh huyết”, tức là theo cái nghĩa "kim sinh được thủy”, khác hẳn với thuyết "dương sinh được âm". Nên biết rằng: "bổ khí với bổ dương vốn có phân biệt...” Nội kinh nói: "Lao giả ôn chi", chữ ôn ở đây có hàm nghĩa là ôn tồn chứ không phải là "ôn nhiệt”, cùng một chữ mà nghĩa khác nhau rất xa. Theo tôi thì âm dương không thể chỉ bổ một phía, âm không thể tách rời dương, dương không thể tách rời âm, âm dương cùng phối hợp với nhau, muôn vật nhờ đó mới sinh sôi nẩy nở. Như các phương thuốc có: Lục vị hoàn, Phục mạch thang đều là loại thuốc bổ âm. Mà trong đó có phối hợp với Thù du, Quế chi là dương dược; Kiến trung thang, Phụ tử thang... đều là loại thuốc bổ dương, mà cả hai phương đều dùng Thược dược là âm dược... Các phương thuốc như vậy có rất nhiều, nói không kể xiết. Đến như các bài Tứ nghịch thang, Ngô thù du thang v.v... đều chữa những chứng có âm không có dương, nên chủ yếu của các bài đó là cứu dương chứ không phải là bổ dương; lại như các bài Bạch hổ thang, Hoàng liên thang v.v... chủ yếu là chữa chứng âm thịnh dương tiêu, cũng chỉ là cứu âm chứ không phải là bổ âm. Cũng như câu nói: "dương bị âm bức, không chạy thì bay; âm bị dương tiêu không khô thời héo...” Vậy những người chỉ chuyên về bổ âm chưa hẳn là đúng, mà những người chỉ chuyên về bổ dương cũng chưa hẳn là đã hay. ĐIỀU 34. KHÁI NIỆM VỀ PHÙ DƯƠNG (GIÚP PHẦN DƯƠNG) Con người lấy dương khí làm chủ (tức là thứ khí "xung hòa" của Vị) dùng thuốc cần phải "phù dương” làm đầu. Như Thượng tiêu bị vít lấp, dương khí không giáng xuống được cần phải nới rộng; dương khí ở Trung tiêu không thăng lên được, cần phải ôn bổ; dương khí ở Hạ tiêu không thu tàng được, cần phải nạp khí về Thận. ĐIỀU 35. VỀ MỘT DƯƠNG ÁN CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG Tứ chẩn là điều kiện tất yếu trong lâm sàng, nếu chỉ bỏ sót một điểm cũng rất dễ chữa nhầm. Uyên bác và tinh tế như cụ Hải thượng, cũng có khi chí bằng "Vấn" và "Văn” không kịp "Vọng" và "Thiết" mà đi đến tình trạng chữa nhầm suýt nữa chết người, như khi cụ chữa cho một người hàng xóm. Cụ tự thuật: "Một người đàn bà bên hàng xóm, sáng dậy, chưa ăn uống gì vội ra đồng làm, gặp hôm đó trời nắng chang chang. Khi về nhà phát sốt, vừa rét vừa nóng, tay chân giá lạnh, bụng dưới đau như thắt, lại thêm ỉa chảy... Dương về mùa Hạ mà đắp mấy lần chăn, gậm giường lại để chảo than, mà vẫn rét không chịu được. Bệnh thì rất nguy, hầu như thần chết đã kề bên. Người nhà đến nhà tôi xin thuốc, sau khi tôi nghe nói tình trạng như trên, liền tự nghĩ: về mùa Hạ khí âm ẩn phục bên trong, bụng lại đói, nên tà khí mới có thể thừa hư mà lọt vào được. Liên cắt cho một thang Phụ tử lý trung bảo đem về sắc cho uống. Cách chừng vài giờ, thấy người nhà lại đến, nói rằng: "Thuốc vừa uống vào khỏi miệng, lại thổ ra hết ngay.... Tôi nghi là bị hàn tà ngăn trở cần phải dùng hàn để dẫn nhiệt mới thành công. Liền bảo hãy sắc lấy nước thứ hai nữa, ngâm vào nước lạnh cho thật nguội, rồi cho uống... Vài giờ sau, người nhà lại đến, nói: lần này tuy không thổ ra nữa, nhưng bụng vẫn đau, và ỉa bắn ra tung tóe, thế rất nguy cấp... Yêu cầu đến tận nhà thăm đã rồi sẽ cắt thuốc... Khi tôi đến thăm, thấy sắc mật tuy tái xanh mà hai mắt đỏ ngàu, khát, uống nước rất nhiều. Chẩn mạch thấy Trầm Sác có lực, bấy giờ tôi mới vỡ lẽ ra là một chứng "hỏa cực tự thủy". Liền bảo lấy một chén nước giếng cho uống thử, bệnh nhân uống xong rất lấy làm khoan khoái dễ chịu. Đòi uống nữa, tôi liền lấy cho 2 đ.c. Lục nhất tán, hòa vào nước nóng, để nguội cho uống. Uống xong chứng đi tháo giảm bớt. Chỉ còn bụng vẫn đau. Tôi liền cắt cho một thang Bạch hổ, Thạch cao để sống, tán bột, hòa vào nước thuốc cho uống. Uống hết 2 nước, chứng đau bụng và đi tả khỏi hẳn, từ đầu đến chân, mồ hôi ra nhâm nhấp. Chỉ còn chứng sốt nóng vẫn chưa khỏi. Tôi cho uống thêm một thang Thanh thử ích khí thang, khỏi hẳn. Ngẫm như bệnh trên, lúc bắt đầu, tôi chỉ bằng cứ vào "Văn, Vấn" (mà thực tế Văn vẫn còn sót), nhầm cho là bệnh hàn, đến sau thêm cả "Vọng, Thiết" mới biết được là nhiệt... Trên đây là trích một y án thuộc phần Dương án của cụ Hải thượng. Xem đó, ta càng nhận thấy "tứ chẩn” không thể bỏ sót điểm nào. Bọn nhà lang chúng ta hiện nay (1963) phần nhiều chỉ có "Vấn", mà "Vấn" thì lắm vị cũng lười không chịu hỏi tỉ mỉ.. Như vậy mà muốn thực hiện được hai chữ "lương y" của người xưa... Thật là khó! CHƯƠNG III: SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG HÀN ĐIỀU 36. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (I) Từ xưa đến nay, các y gia đều một chiều cho bệnh Thương hàn là nguy hiểm và khó chữa. Tôi nghĩ: nhận định như vậy có lẽ chưa thật đúng. Chẳng qua thấy Trọng Cảnh là một bậc y thánh, động cơ lúc soạn ra bộ Thương hàn là do cảm nỗi họ hàng chết về bệnh đó quá nhiều.. Mà nội dung bộ đó có tới 397 pháp, 113 phương; các y giả đời sau có tới linh 100 nhà chú giải, mà vẫn "ông nói ông phải, vãi nói vãi hay”, chưa có ai dám tự nhận là đã bước vào được trong nhà của Trọng Cảnh... nên mới cùng phàn nàn là khó. Thực ra thì khi hàn tà mới phạm vào kinh Thái dương, phát hiện ra các chứng trạng "phát nhiệt, ố hàn, không mồ hôi, lưng đau, gáy cứng và mạch Phù Khẩn” và sau khi đã nhận được đúng các chứng trạng đó, không một chút hàm hồ, thì có thể cát ngay bài Ma hoàng thang, rồi từ phép sắc, phép uống đều theo đúng như lời Trọng Cảnh đã dặn, thì nhất định chỉ uống một nước, hoặc hai nước... bệnh sẽ khỏi. Như vậy thì có chi là khó? Sở dĩ có sự khó, chỉ vì lúc đầu nhận bệnh không được đúng đến khi cắt thuốc, sắc thuốc, uống thuốc lại không đúng... Đầu không chạy thì đuôi không lọt, nên mới xảy ra cái tình trạng truyền kinh, hợp bệnh, tính bệnh, thiên hình vạn trạng về sau. Nên tôi nói: “Chữa Thương hàn không khó, chữa biến chứng của Thương hàn mới khó”. Bộ Thương hàn luận của Trọng Cảnh, sở dĩ nội dung co tới 397 pháp và 113 phương, chỉ là chữa biến chứng của Thương hàn. Nói một cách khác: chính là những phương pháp gỡ tội sai lầm cho các nhà lang sai lầm đời sau mà thôi. ĐIỀU 37. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (II) Trọng Cảnh soạn bộ Thương hàn luận vào khoảng cuối đời Linh đế nhà Hán (công nguyên 196 - 219). Mãi tới Vương Thúc Hòa đời Tấn (vào khoảng công nguyên 300) mới tìm thấy được ở trong kho sách cũ, đã mối mọt rách nát... Liền đem ra vá víu xếp đặt lại và chú giải thêm cho rõ nghĩa. Từ đó về sau, các y giả Trung Quốc mới biết có Thương hàn luận và Thương hàn luận của Trọng Cảnh mới dần dần được phổ cập. Ngoài ra không còn thấy có người nào khác, tìm ra được bộ Thương hàn nào khác. Vậy mà các nhà chú giải Thương hàn luận đời sau không biết bằng cứ vào đâu, mà dám rêu rao phán đoán.. đoạn này không phải lời của Trọng Cảnh, đoạn kia chỉ là lời của Vương Thúc Hòa... Rồi buộc Vương Thúc Hòa vào tội làm rối loạn thánh kinh; rồi lại ông này chỉ trích ông kia,... Trước sau có tới linh trăm nhà chú giải, không nhà nào không chỉ trích, không nhà nào không bị chỉ trích. Tôi nghĩ các vị đó không những cách xa đời Trọng Cảnh hàng nghìn năm, và cách xa đời Thức Hòa cũng hàng chục thế kỷ... Vậy làm sao mà biết được nguyên văn của Trọng Cảnh như thế nào, và sai lầm của Thúc Hòa ở chỗ nào?... Thật là "mộng trung thuyết mộng", (3) linh hồn của Trọng Cảnh và Thúc Hòa có biết, tất cũng phải phì cười! ĐIỀU 38. SUY NGHĨ VỀ BỆNH THƯƠNG HÀN (III) Trọng Cảnh là một bậc y thánh trong y giới phương Đông, các y giả đời sau đều công nhận như vậy, Sở dĩ có sự tôn sùng đó, là đều căn cứ vào bộ Thương hàn tạp bệnh luận, có đủ "lý, pháp, phương, dược", đủ làm khuôn vàng thước ngọc cho y giả đời sau. Riêng về lịch sử hành nghề của Trọng Cảnh thì không thấy có điểm gì được "khoái trá" như Biển Thước và Hoa Đà... Vậy có lẽ y thuật của Trọng Cảnh không bằng Biển Thước và Hoa Đà chăng? Chắc không ai có thể khảng định được như vậy? Về điểm này tôi rất đồng ý với ông Lục Định Phố. Định Phố viết trong Lãnh Lư y thoại, có một đoạn nói: "... Trương Trọng Cảnh là bậc thánh trong y giới, còn Hoa Đà chỉ là một vị Tiên mà thôi. Hai vị đó sinh ra cùng một thời đại, Phạm thị (Hoa) chỉ chép truyện Hoa Đà, không chép truyện Trọng Cảnh, như vậy gọi là "lương sử"(4)sao được?" Nhân tìm trong Danh y lục thấy có một đoạn chép về lịch sử Trọng Cảnh, xin trích ra đây để Đông y giới chúng ta cùng thưởng thức một chút về hành nghề của vị tổ sư mà chúng ta bấy lâu vẫn nói theo: "... Người ở Nam dương, tên là Cơ, tên tự là Trọng Cảnh. Đỗ Hiếu liêm, làm đến chức Thái thú quận Trường Sa. Học nghề y ở người đồng quận là Trương Bá Tổ. Người đời bấy giờ thường nói: "Cơ hiểu biết sâu sắc hơn thầy...". Trong bài tựa Giáp ất kinh của Hoàng Phủ Thụy có chép rằng: "... Hán có Hoa Đà và Trương Trọng Cảnh. Trọng Cảnh gặp quan Thị trung là Vương Trọng Tuyên, lúc đó Trọng Tuyên mới có 20 tuổi. Trọng Cảnh bảo Trọng Tuyên: trong mình ông có bệnh, đến năm 40 tuổi thì lông mày sẽ rụng hết. Sau khi lông mày rụng được nửa năm, sẽ chết. Nên uống bài Ngũ thạch thang sẽ khỏi. Nói rồi liền trao bài thuốc cho Trọng Tuyên. Trọng Tuyên có ý không hài lòng lời nói của Trọng Cảnh, tuy nhận đơn thuốc mà không uống. Cách đó 3 ngày, Trọng Cảnh lại gặp Trọng Tuyên Trọng Cảnh hỏi: "Ông đã uống thuốc chưa?”. Trọng Tuyên đáp: "Đã uống rồi” Trọng Cảnh nói; "Coi khí sắc của ông không có gì biểu hiện là đã uống thuốc, sao lại coi rẻ tính mệnh của mình như vậy?,.. Trọng Tuyên không trả lời. Sau đó 20 năm, quả nhiên Trọng Tuyên tự nhiên rụng hết lông mày, rồi qua 117 ngày nữa thì chết. Đúng như dự đoán của Trọng Cảnh". Trên đây là lời ghi ở trong Danh y lục và bài tựa của Hoàng Phủ Thụy. Khá tiếc không nói rõ được bệnh của Trọng Tuyên là bệnh gì... Và bài Ngũ thạch thang dùng những vị thuốc gì?... Về điểm này chúng ta còn cần phải nghiên cứu. ĐIỀU 39. VỀ MỘT ĐỀ TỰA SÁCH THƯƠNG HÀN Nhật Bản cũng học theo lý luận của Trung y như ta: Những bậc vừa uyên bác, vừa tinh thâm, thời phải kể đến cánh họ Đan Ba, cha truyền con nối, một mối cùng theo, đọc qua mấy bộ Thương hàn tập nghĩa (Nguyên giản), Thương hàn thuật nghĩa (Nguyên kiên), Thương hàn quảng yếu (Nguyên kiên), Kim quĩ thuật nghĩa (Nguyên kiên), Kim quỹ tập nghĩa (Nguyên giản), Tố Vấn thức (Nguyên giản), Tố Vấn Thiệu thức (Nguyên kiên), Nạn kinh sổ. (Nguyên giản) v.v... Ta không khỏi vừa kinh ngạc vừa thán phục. Ngoài họ Đan Ba, phải nói đến họ Sơn Điền. Xem Thương hàn luận tập thành của Sơn Điền, về đoạn chú giải bài tựa Thương hàn luận của Trọng Cảnh, chỉ lấy đến câu: ”... năng tầm dư sở tập, tư quá bán hỹ.." là hết, còn một đoạn dài ở dưới hoàn toàn là giọng văn của Vương Thúc Hòa, không phải của Trọng Cảnh. Sơn Điền dẫn chứng 7 điểm: 1. Đến câu "tư quá bán (nghĩ quá nửa)" đã là giọng văn kết thúc của một bài rồi. Như vậy mà lại tiếp thêm một đoạn nghị luận nữa là không đúng. 2. Từ đoạn "thiên bố ngũ hành" trở xuống, văn lý không liên tiếp, thể tài khác hẳn với đoạn trên. 3. Ngay câu đầu đã nêu hai chữ “Việt Nhân", đến đoạn sau lại nói tên "Biển Thước” không phải giọng nói của một người. 4. Đoạn sau bàn luận tới bạn thời y, không tìm ý nghĩa của Nội kinh, chỉ chuyên lém miệng v.v... thì ở đoạn trên đã nói hết rồi, Trọng Cảnh dù có già lẫn, cũng không đến nỗi nói quanh quẩn như vậy. 5. Trong Thương hàn luận của Trọng Cành, chưa từng nói đến chẩn "tam bộ, cửu hậu, Minh đường, Quyết đình v.v... mà ở đoạn sau lại nói đến. 6. Trong Thương hàn luận của Trọng Cảnh, chưa từng nói đến ngũ hành, kinh lạc, mà đoạn sau lại nói đến. 7. Động cơ soạn cuốn Thương hàn này do "cảm nỗi chết chóc từ hồi dĩ vãng..." thì văn nói đến đấy là vừa đủ sự thực, có thể ngừng bút được rồi. Trên đây là 7 dẫn chứng Sơn Điền dẫn ra để cải chính lại chỗ dôi ra một đoạn ở nguyên văn. Thật cũng là một nhận thức sâu sắc và chính đáng. Nhưng câu nói: "hoàn toàn là giọng văn của Vương Thúc Hòa thì hơi võ đoán. Điểm này ta nên suy nghĩ". ĐIỀU 40. VỀ TRỊ PHÁP CỦA TRỌNG CẢNH Có người nói: ông Trọng Cảnh sở trường về Thương hàn, không sở trường về tạp bệnh, nên ít khi dùng đến phép bổ. Thuyết đó thật là nông nổi vô cùng, nếu nói ông Trọng Cảnh không sở trường về tạp bệnh, thì có lẽ toàn bộ Kim quỹ yếu lược cũng đều là luận về Thương hàn cả chăng? Trong linh 200 bài thuốc ở trong Kim quỹ yếu lược, cũng đều là những bài thuốc chữa về Thương hàn cả chăng? Còn như nói: "ít khi dùng phép bổ" thì lại càng mơ hồ lắm. Dưới đây tôi xin nêu một vài trị liệu và dùng bổ pháp của Trọng Cảnh, như nói: “Tâm khí không đày đủ, thổ huyết, nục huyết... Tả tâm thang chủ về bệnh ấy; hư lao lý cấp, và cốc chứng bất túc, Hoàng kỳ kiến trung thang chủ về bệnh ấy, chứng ngũ lao hư cực, gầy còm, bụng đầy, không ăn được, thực thương, ưu thương, phòng thất thương, cơ thương, lao thương, kinh lạc vinh vệ thương, trong có huyết ứ, ngoài da rộp vảy, hai mắt quầng đen... Đại hoàng chích trùng hoàn chủ về bệnh ấy; hư lao eo lưng đau, bụng dưới đau cấp, tiểu tiện không lợi, dùng Bát vị thần hoàn; hư lao và các chứng bất túc, mọi bệnh về phong khí... Thự dự hoàn chủ về bệnh ấy v.v... Ngoài ra, các bài thuốc về loại đó có rất nhiều, không thể kể xiết. Vậy có thể nói là Trọng Cảnh ít dùng phép bổ được chăng? Có một điều là: Trọng Cảnh dùng Tả tâm thang bổ tâm khí bất túc; dùng Đại hoàng chích trùng hoàn bổ ngũ lao hư cực.. Khác với người đời sau dùng Sâm, Nhung, Quế, Phụ, Hà sa, Nhân nhũ đấy thôi. Thực ra thì: Trọng Cảnh sở dĩ là bậc y thánh, có thể làm thầy hướng đạo cho muôn đời chúng ta về sau, chính là ở chỗ đó. ĐIỀU 41. ĐIỀU ÍCH LỢI KHI HIỂU BIẾT THƯƠNG HÀN Muốn dụng dược đúng, cần phải biện chứng cho đúng. Muốn biện chứng được đúng, cần phải học thật kỹ Thương hàn luận của Trọng Cảnh. Không học kỹ Thương hàn và biện chứng luận trị đúng với tinh thần của Thương hàn luận, ngoài Hứa Phúc Vi, tôi nhận thấy Tôn Triệu cũng đáng được là học trò khá giỏi của Trọng cảnh. Xin dẫn một y án sau đây làm chứng: - Một người bị Thương Hàn, sốt nóng, mồ hôi ra nhiều, sợ sệt, hoa mắt, mình run rẩy. Có người muốn cho uống phát hãn thêm, có người muốn chữa theo môn trúng phong, lại có người muốn dùng lãnh dược để giải bỏ nhiệt tà. Mời Tôn Triệu, sau khi qua tứ chẩn, Triệu nói: Thương hàn luận nói: "Phàm bệnh ở Thái dương, ra được mồ hôi mà vẫn không khỏi. Nếu muôn khỏi, lại phải cho ra mồ hôi”. Nhưng vì Thận khí không đầy đủ, nên mồ hôi không đầy đủ, nên không làm cho mồ hôi ra được, do đó mới sinh ra chứng hoa mắt, sợ sệt và run rẩy... Liền cho uống bài Chân vũ thang, uống hết 3 bát nước, mồ hôi ra nhâm nhấp, các chứng đều khỏi. Tôn Triệu sở dĩ cho uống bài Chân vũ, vì trong bài đó có Phụ tử, Bạch truật, có tác dụng điều hòa Thận khí. Sau khi Thận khí đã điều hòa và dẫn hành được, thì sẽ thúc đẩy được mồ hôi toát ra. Xem Thương hàn luận có đoạn nói: "mạch ở Xích bộ nhược, là dinh khí không đầy đủ, không thể phát hãn. Xem đó đủ biết rằng: Thận khí yếu thì khó lòng làm cho ra được mồ hôi. CHƯƠNG IV: ÔN BỆNH VÀ TẠP BỆNH ĐIỀU 42. NHẬN THỨC VỀ ÔN BỆNH Trong Ngoại cảm thông trị của Lãn ông có câu nói: "ở nước ta không có cái tên Thương hàn và bệnh ôn nhiệt..." và "Thương hàn chỉ là cảm hàn... không có chứng Thương hàn phải dùng bài Ma Quế như ở phương Bắc" v.v... Về điểm này tôi rất đồng ý. Riêng về điểm nói không có "ôn nhiệt" thì không ổn lấm. Nước ta ở về ôn nhiệt đới, người bị ôn bệnh chiếm tới ba phần tư trong loại ngoại cảm, sao lại bảo là không có. Nếu cho là thể chất con người ở nước ta mềm yếu tấu lý thưa rỗng, rất dễ cảm nhiễm ngoại tà, nhưng cảm vào dễ thì bài tiết ra cũng dễ... Nên chỉ có thể nói là: không có phục khí ôn bệnh... (tức là một loại bệnh do bệnh tà đã ẩn phục từ năm trước, đến năm sau mới phát). Như trong Tố Vấn nói: "Đông thương vu hàn xuân tật bệnh ôn". Theo kinh nghiệm của tôi thì những chứng hậu như "khái thấu, tự hãn" thuộc loại phong ôn: "Thần hôn, Thiềm ngữ" thuộc loại nhiệt bệnh, và ỉa lỏng ra những chất lầy nhầy"... đều là những hiện chứng của Thủ Thái âm Phế, Thủ Quyết âm Tâm bào và Thủ Dương minh Đại trường... cho tới cả các chứng "họng sưng, tay chân co rút, mê man như người say rượu, vật vã không yên, răng se, lưỡi ráo, phát ban, phát di" (sưng quai hàm) v.v... cũng đều rất nhiều trường hợp biểu hiện; và đều nằm trong phạm vi ôn bệnh cả, vậy mà bảo nước ta không có ôn bệnh được sao. Cho nên tôi nói: "ở nước Nam ta không có bệnh Thương hàn" và "không có ôn bệnh v.v..." đều chưa thỏa đáng. Mà trong Ngoại cảm thông trị không đặt thêm một môn về ôn bệnh cũng là một điểm thiếu sót. Vì ở nước ta chính là một khu vực rất dễ phát sinh ôn bệnh, cũng như các loại thấp ôn, ôn ngược, phong ôn v.v... ĐIỀU 43. SỰ KHÁC NHAU GIỮA ÔN BỆNH VÀ ÔN DỊCH "Ôn bệnh" vốn không phải là "ôn dịch", mà "ôn dịch” phát sinh rồi nhiều trường hợp gây nên bởi bệnh "ôn". "Thử bệnh" vốn không phải là bệnh "ôn", mà bệnh "ôn" đến mức độ nặng thường khi cũng giống như bệnh "Thủ". Tôi thường xem y án của Từ Linh Thai thấy trong đó có một y án chữa bệnh "ôn dịch" và một y án chữa bệnh "Thử", nhận thấy họ Từ là một nhà "ôn bệnh đại gia", chứ không phải chỉ là "tạp bệnh đại gia" mà thôi. Xin dẫn chứng y án của họ Từ và góp bàn ý kiến như sau: 1. Án về bệnh ôn dịch: Niên hiệu Ung chính năm thứ 10, vùng Côn Sơn, bệnh ôn dịch tràn lan, chết tới vài nghìn người. Có người tên là Uông Thiên Thành cũng mắc bệnh. Mình sốt nóng, tinh thần hôn mê, buồn bực, vật vã, mạch Sác mà không nhất định. Tôi dùng loại thuốc mát mẻ thơm tho như Xương bồ tươi, Trạch lan, Bạc hà, Thanh cao, Lô căn... sắc lấy nước cho uống; đồng thời cho uống thêm các loại hoàn tán có tác dụng "tịch tà, giải độc"... dần dần khỏi hẳn. Khi tôi đến Côn sơn là vì có chút việc riêng, rất ngại tiếp xúc, nên không để cho mấy người biết. Gặp khi Thiên Thành bệnh đã khỏi, và tôi cũng đã sắp về quê, nên không giấu giếm nữa... Tức thì có tới 27 bệnh nhân đến yêu cầu chẩn trị. Tôi xét lại những đơn thuốc trước của 27 người đó uống, đều có tính chất "hương táo, thăng đề” cùng với bệnh chứng hoàn toàn mâu thuẫn. Xem xong các đơn, tôi bèn dùng phương pháp chữa Thiên Thành kê đơn cho họ. Sau khi tôi về quê được ít lâu, có anh Diệp Sinh từ Côn Sơn về, cho tôi biết: trong số 27 người tôi cho đơn, có 24 người khỏi hẳn. Còn 3 người chết. Mà 3 người đó là mới uống đơn của tôi có một thang rồi lại theo thuốc mấy lương y khác. Phàm chữa bệnh, cần phải biết sự chuyển di của vận khí. Vì năm trước "thủy thấp" quá thịnh mà gây nên bệnh biến. "Thấp khí đến cực độ, tất phải hóa thành táo", thuyết của Nội kinh rất là rành mạch. Vậy lẽ nào lại có thể cố chấp cái phương pháp "khư phong trục thấp" từ năm trước để chữa chứng "ôn tà táo hỏa" hay sao? 2. Án về bệnh "Thủ": Một nhà sản xuất hương ở cửa Xương Môn, bị bệnh Thử nhiệt, đã bị uống nhầm thuốc, lại ở trên nhà gác nhỏ hướng tây, phía dưới lại chứa đầy nguyên liệu làm hương, mùi thơm ráo bốc lên, làm khô mất tân dịch. Biểu hiện chứng "quyết" hôn mê không biết gì, lưỡi khô, đuôi mắt nứt rách. Nhà anh ta cách xưởng chừng 2, 3 dặm. Các đồng nghiệp muốn khiêng ngay anh ta về nhà giữa lúc trưa nắng, để hoặc có chết cho tiện việc. Tôi thấy vậy liền bảo: Bệnh này kể thì cũng nguy thật, nhưng nếu uống đúng phép, còn có cơ sống. Nếu bây giờ lại khiêng đi giữa lúc trời nắng như thế này, thì sẽ chết ở dọc đường mất. Nghe vậy mọi người đành không dám khiêng. Tôi liền bảo mài cho uống mấy viên Chi bảo đan, rồi bốc bài Hoàng Liên Hương nhu ẩm hợp với bài Trúc diệp Thạch cao thang gia Lô căn và mấy vị "Thanh lương tư nhuận" khác, để cho uống dần, qua một đêm, mắt khỏi đỏ, nói lên được, tinh thần tỉnh táo, đã tự trở mình được. Qua 2 ngày sau, mình đã mát, ăn được cháo. Liền đưa về nhà điều dưỡng, chỉ nửa tuần, trở lại bình thường. Tôi nghĩ: ôn tà, táo hỏa” tức là một danh từ đại biểu của "ôn bệnh”. Mà những loại "thanh lương, phương nhiệt và tư nhuận" là những loại chữa bệnh ôn rất hay. Đến như các chứng tinh thần hôn mê, bực dọc vật vã, và "quyết" không biết gì..." tức là nhiệt tà đã vào Tâm bào, nên cần phải dùng đến các loại thuốc hoàn tán "tịch tà giải độc" như Ngưu hoàng hoàn, Tử tuyết đan, Chí bảo đan v.v... Các loại thuốc đó có tác đụng tiêu viêm, giải độc, tỉnh não, an thần, trừ đờm và trấn tĩnh v.v. Đều là những loại thuốc rất công hiệu đối với các chứng ôn tà hãm vào trong, mê man, cứng đờ, nói nhảm và bực dọc, vật vã v.v... Giờ chúng ta thử coi các y án chữa về Ôn bệnh của Diệp Thiên Sĩ, Vương Mạnh Anh và Ngô Cúc Thông... Xem phương pháp trị liệu của 3 nhà đó, có ai ra ngoài được phạm vi 2 y án trên kia không? Tóm lại, nếu nắm vững được nguyên nhân, thì dù ôn, dù thử, dù ôn dịch, cũng chỉ "đại đồng tiểu dị”. Cho nên phàm đã chữa được ôn bệnh, tất sẽ chữa được thử bệnh và ôn dịch; mà đã chữa được ôn dịch tất cũng chữa được ôn bệnh và thử bệnh. Quyết không đến nỗi như Lâm Xương Di nói: "Các lương y ở miền Đông Việt, phần nhiều nhầm bệnh phong ôn là Thương hàn, nên bệnh nhân bị thiệt mạng khá nhiều!”. Do quan điểm trên, tôi nhận thấy: khi mới bắt đầu học nghề y, chưa nên học Thương hàn luận ngay. Vì học Thương hàn luận, mở đầu đã thấy ngay đoạn nói: "Thái dương trúng phong, mạch dương phù mà âm nhược; dương phù là do phát nhiệt, âm nhược là do mồ hôi tự toát ra, ghê ghê sợ lạnh, rợn rợn sợ gió; hầm hập phát nóng, và mũi ngạt nôn khan... Quế chi thang chủ về bệnh ấy...". Vừa đọc xong đoạn đó, lại thấy tiếp đến đoạn: "Bệnh ở Thái dương, dầu rức, phát nóng, mình đau, eo đau, các khớp xương đều đau, sợ gió, không mồ hôi và thở suyễn. Ma hoàng thang chủ về bệnh ấy…”.Biết đâu, 2 đoạn kinh văn đó đã in sâu ngay vào trong đó, từ đó về sau, phàm gặp bệnh “phong ôn”, "thấp ôn, hoặc "thử” hoặc "táo”, không bệnh nào là không nhớ đến các bài Ma, Quế để điều trị... Bởi các bệnh ôn và thử, lúc mới phát sinh, các chứng trạng thường hơi giống với Thương hàn, nếu dùng Ma, Quế để điều trị, thì chẳng khác gì đã sa xuống giếng lại còn lấp đá thêm, khó lòng thoát khỏi, Vậy về vấn đề "nên học sách nào trước", tôi nghĩ nên cho học Ôn bệnh trước. Qua một thời gian thấu triệt hết chi tiết của ôn bệnh rồi, bấy giờ mới học Thương hàn... Sẽ không còn lầm tưởng ôn bệnh, thử bệnh là Thương hàn nữa. Cái nạn chết vì chữa lầm, may ra hạn chế được chăng? Xem 2 y án dẫn trên, ta nhận thấy khí hậu, hoàn cảnh đối với cơ thể con người có quan hệ rất mật thiết. Như đoạn nói: "Phàm chữa bệnh cần phải biết sự chuyển di của vận khí”... Vậy lẽ nào lại có thể cố chấp cái phương pháp “khu phong trục thấp" từ năm trước, để chữa chứng "ôn tà táo hỏa" năm sau? V.v... Xem câu đó, ta nhận thấy: "phàm những hoàn cảnh, khí hậu không giống nhau, sẽ cảm nhiễm các loại bệnh không giống nhau".Về điểm này, tôi xin dẫn chứng cụ thể. Trong Quảng Đông Trung y tạp chí số 10, xuất bản năm 1955, có bài nói về chứng Lưu hành tính ất hình não viêm (Viêm não B), một đoạn cuối nói: "Năm ngoái tại Bắc Kinh chữa chứng Lưu hành tính ất hình não viêm, lúc bắt đầu, dùng bài kinh nghiệm của Thạch gia trang năm trước. Kết quả hầu hết không khỏi. Sau một nhóm y sinh có kinh nghiệm tìm ra được nguyên nhân nói: "Vì năm ngoái, sau tiết lập Thu, ở Bắc Kinh mưa dầm khá lâu, khí trời ẩm thấp ảnh hưởng đến bệnh nhân phần nhiều biểu hiện ở chứng hậu thiên về Thấp. Xem lại những kinh nghiệm của Thạch gia trang mấy năm trước, phần nhiều là loại bệnh thiên về "nhiệt", giờ các y giả đem kinh nghiệm chữa loại bệnh thiên về "nhiệt” ở Thạch gia trang để chữa loại bệnh "thiên về thấp" ở Bắc Kinh, kết quả làm cho "thấp tà" càng bị ngăn chặn, không còn lối thoát, muốn khỏi sao được? Xem đoạn báo trên đây, ta còn có thể cứ nhắm mắt mà dùng bừa những bài thuốc kinh nghiệm được chăng? Do đó ta lại càng nhận thấy học thuyết Âm dương Ngũ hành và Vận khí của người xưa là rất giá trị. ĐIỀU 44. BỆNH ÁN ĐIỀU TRỊ ÔN BỆNH I. Tôi bình sinh rất ngại chữa Ôn bệnh, vô luận là bệnh phát sinh tại mùa Xuân hoặc mùa Hạ, vì sự truyền biến của nó rất chóng, nếu sai một ly đi một dặm, không dễ xoay trở như các tạp bệnh khác còn có thể dùng thang nhỏ uống thử, nếu đúng bệnh sẽ dùng thang to, hoặc có lúc vội không kịp tính thì "bắt cá hai tay” cũng tạm được... Tuy vậy, đôi khi cũng chữa được một vài trường hợp khó khăn, tà đã hãm tới âm phận, mà cứu cấp kịp thời, thu được kết quả, ví dụ: - Hoàng Văn Ất, 32 tuổi, cán bộ Thủy lợi tỉnh Hà Bắc... Vào khoảng tháng 6 dương lịch, bị bệnh ôn nhiệt, y giả không biết dùng phương pháp "Tân lương giải cơ" mà lại dùng "Tân ôn biểu tán” làm cho hỏa tà dồn lên, huyết ra đằng mũi (nục huyết) mãi không cầm được; các lương y ấy lại dùng các vị như Tê giác, Linh dương (phần nhiều là dùng sừng bò, sừng dê rừng) và Hoàng liên v.v... để thanh nhiệt, kết quả dồn dương tà vào cả Thiếu âm Tâm... chứng trạng biểu hiện: lưỡi nổi gai nhọn, nói sảng luôn miệng, sốt nóng, ráo khát, ban ngày hơi nhẹ, đến đêm nặng hơn... Các ông ấy lại cho uống Thừa khí thang, cũng không chút công hiệu. Dùng dằng tới hơn 10 ngày, bệnh nhân đã quá yếu, không ngồi dậy được nữa. Bấy giờ mới mời tôi đến chẩn trị.. (Suốt đời tôi chữa bệnh, phần nhiều chỉ được chữa những bệnh thừa của các lương y khác để lại nên đều gặp khó khăn, ít được dễ dàng), Tôi chẩn mạch trên dưới (tức Thốn Xích) đều không có, chỉ còn thấy ở Quan bộ, nhưng lúc thì Khẩn Tật, lúc thì Trì Tế, rất khó đoán định... Nhưng qua Vọng, Văn, Vấn... cũng có thể nhận định được là ” nhiệt tà hãm vào Tâm bào" theo phép cần phải hạ mới được. Người nhà bệnh nhân thấy tôi nói dùng phép hạ, có người võ vẽ thuốc, nói: "Mang tiêu, Đại hoàng đã uống nhiều lắm rồi".. Tôi nói: "Dương tà truyền vào dương phận, thì Mang tiêu, Đại hoàng có thể phá tan được chất kết rắn trong Trường Vị; nhưng nếu hãm vào âm phận, thì Mang Tiêu không còn tác dụng nữa. Bởi Mang tiêu tính hàn, chỉ vào dương phận mà không vào được âm phận. Vậy tuy cũng là hạ, mà phương pháp hạ của tôi khác"... Nói rồi, tôi liền lập phương; dùng Hậu phác 3 đ.c., Chỉ thực 3 đ.c., Sinh địa 6 đ.c. Cam thảo 1 đ.c để phá nghịch khí và trừ nội nhiệt. Lại dùng Sinh Đại hoàng 5 đ.c., Hắc phụ 5 đ.c., hai vị sắc riêng lấy nước đặc, rồi hòa với nước thuốc trên cùng uống, uống hết một thang, đại tiện thông lợi. Tức thời đổi cho uống bài Nhân sâm Bạch hổ thang gia giảm... Uống hết một thang, rêu lưỡi nhẵn hẳn và nhuận. Bấy giờ mới đổi sang dùng loại thuốc thanh bổ, uống vài thang nữa, khỏi hẳn. II. Câu chuyện trên tôi nói về chữa bệnh ôn nhiệt, một lần khác tôi lại gặp một bệnh ”Xuân ôn" cũng không kém phần nguy hiểm mà may cũng chữa khỏi. Ví dụ: Tăng Văn Hòa, 47 tuổi, trưởng ban quản trị HTX nông nghiệp làng Hiệp Hòa, thuộc Quốc Oai, Sơn Tây... bị bệnh Xuân ôn. Các lương y vùng đó chữa nhầm, chuyển thành chứng nói sảng, họng khô, miệng khát, lưỡi mọc gai nhọn, ngày đêm phát nhiệt, mắt đờ, thở mạnh, bệnh tình khá nguy, mời tôi đến chữa. Chẩn thấy cả 6 bộ mạch đều Trầm Tật. Tôi bảo người nhà, bệnh này đã đi đến tình trạng "dương tà hãm vào âm phận", phải dùng nhiệt được để hạ mới được. Liền dùng Huyền sâm 5 đ.c., Sinh địa 5 đ.c., Hậu phác 3 đ.c., Chỉ thực 3 đ.c., Sinh Chi tử 3 đ.c., Sinh Thạch cao 6 đ.c., Sinh Cam thảo 1 đ.c, Bấy nhiêu vị làm 1 thang sắc trước; ngoài ra lại dùng Sinh Đại hoàng 5 đ.c., Hắc phụ 5 đ,c. Sắc thật kỹ, lấy nước đặc rồi hòa vào nước thuốc trước cho uống. Lại dùng Sinh địa tươi 2 lạng, giã vắt lấy nước, lúc nào khát đòi uống nước thì cho uống thay nước. Uống chưa hết thang thuốc, bệnh nhân bỗng phát rét, run cầm cập, đến nỗi chuyển cả giường nằm. Người nhà thấy vậy hoảng sợ, hỏi tôi. Tôi nói: Tình trạng đó theo thuật ngữ Đông y gọi là chiến hãn nghĩa là run lên để ra mồ hôi... Không hề chi, cứ để vậy lặng yên, khi nào mồ hôi ra được, bệnh sẽ khỏi. Quả nhiên sau cơn run chừng 30 phút, mồ hôi toát ra đầm đìa. Tức thời nằm ngủ thiếp đi, qua 4 tiếng đồng hồ mới tỉnh. Đại, tiểu tiện đều thông lợi. Tôi liền cắt bài Nhân sâm (đổi làm Sâm Bố chính, dụng lượng nhiều gấp ba), Bạch hổ thang cho uống, hết một thang, rêu lưỡi hết. Kế đó, tôi liền cắt bài Hương sa Lục quân tử thang để điều hòa bổ dưỡng, uống hết 2 thang, khỏi hẳn. Sau khi chữa khỏi bệnh trên, một học trò của tôi có ý thắc mắc hỏi: lưỡi mọc gai nhọn, nhiệt nhiều, khát nhiều, nói sảng... là chứng hậu của Thái dương truyền vào Dương minh, tức thuộc về chứng hậu "Vị gia thực" ở trong Thương hàn. Giờ tiên sinh căn cứ vào đâu mà nhận định là "tà hãm vào Thiếu âm". Tiên sinh dùng thuốc để hạ, nhưng sao bệnh đó không do hạ khỏi, mà lại do hãn khỏi...? Xin giải rõ cho biết. Tôi nói: Dương tà truyền vào dương phận với dương tà hãm vào âm phận, cũng đều có hiện tượng lưỡi mọc gai nhọn, nóng nhiều, khát nhiều, nói sảng... Nhưng tại dương phận thì môi rộp, miệng nứt, lưỡi không ẩm ướt, nói sảng luôn miệng mà có nấc. Nếu tại âm phận, thì lưỡi tuy mọc gai mà còn có ẩm ướt, miệng tuy khát cũng chỉ có từng lúc, môi khô mà không rộp, miệng ráo mà không nứt, có lúc nói sảng, có lúc tỉnh táo, khác với chứng ở Dương minh là mê man không biết gì... Căn cứ vào những chứng trạng biểu hiện đó, nên mới nhận định là tà hãm vào âm phận. Nhưng dương tà truyền vào dương, với dương tà hãm vào âm, đều cần phải cấp hạ. Tại dương phận thì dùng hàn dược để hạ, tại âm phận thì dùng nhiệt dược để hạ. Chủ yếu là mượn dương làm dẫn đạo, thẳng vào âm phận, chứ không phải là dùng dương dược để trừ bỏ bệnh Sau khi đã thông lợi được, lại phải kíp dưỡng âm để thoái dương và phù Tỳ trợ Vị... Không những nhiệt dược không thể dùng, cho tới những vị hơi tân táo một chút cũng không thể dùng. Còn như bệnh đó sở dĩ giải ra đường "chiến hãn" không phải là Đại hoàng, Phụ tử có năng lực làm cho phát hãn, chính bởi trước kia uống nhiều biểu dược, bị âm tà cố kết, chưa đạt ra cơ biểu được, giờ bị lực lượng của Đại hoàng Phụ tử phá tan âm khí, bao các hàn tà cảm nhiễm trước, đều phải dòn dập tìm đường theo hãn mà ra, nên mới biểu hiện tình trạng "chiến hãn” mà khỏi. ĐIỀU 45. VẤN ĐỀ DÙNG THUỐC TRONG ÔN BỆNH Bệnh Đông ôn, Thu táo, nếu không kèm có Thấp, thì đại tiện phần nhiều can táo. Khi gặp có chứng cần phải hạ, có thể dùng ngay Phác tiêu, Đại hoàng, cho công hạ ngay. Nếu là Thấp ôn, Thử ôn mà có kèm cả thấp, dù thấy bệnh nhân bụng nóng như đốt, nhưng phần nhiều có tiếng sủi bụng, chỉ nên tùy cơ mà hạ một cách dần dàn, mà phân ỉa ra vẫn chỉ lỏng sệt, khác với thứ phân can táo của loại bệnh Đông ôn và Thu táo. Cho nên Diệp Thiên Sĩ thường nói: "Bệnh Thương hàn hạ nên mạnh, bệnh thấp ôn hạ nên chậm”. Thật là một câu nói rất giàu kinh nghiệm. Khi lâm sàng, gặp những loại bệnh có kèm thấp, nhẹ thời dùng Bảo hòa hoàn, nặng thì dùng Chỉ thực đạo trệ hoàn. Nếu thấp mà kèm cả táo, nên dùng Tỳ ước Ma nhân hoàn, cũng có khi có thể dùng cả Điều Vị thừa khí thang. ĐIỀU 46. NHẬN THỨC VỀ NHIỆT BỆNH Nhiệt bệnh là một loại bệnh do "thời bệnh” mà sinh ra nên người xưa mới đặt tên, dựa theo thời lệnh. Xin lấy 2 bệnh Thương hàn và Thử ôn làm thí dụ: Đông khí thông vào Thận, nên Thương hàn là bệnh ở Thận, Hạ khí thông vào Tâm, nên Thử ôn là bệnh ở Tâm. Bệnh nhiệt khi mới bắt đầu, chỉ trị Phủ, không trị Tạng, Phủ của Thận là Bằng quang, tức là Túc Thái dương; Phủ của Tâm là Tiểu trường, tức là Thủ Thái dương. Cho nên cũng cùng là bệnh phát triển, bệnh Thương hàn ở mùa Đông, lấy phép hãn, giải cơ làm chủ; bệnh Thử ôn ở mùa Hạ lấy lợi tiểu tiện làm chủ; tà ở kinh Túc Thái dương giải do đường cơ biểu; tà ở kinh Thủ Thái dương giải do đường tiểu tiện. Do đó, bệnh Thử ôn, dù không có mồ hôi, cũng dùng vị Hương nhu; sau khi đã có mồ hôi, nên chú ý tới lợi tiểu tiện. Thuốc đặc hiệu của bệnh Thương hàn là Ma, Quế và Thanh long; thuốc đặc hiệu của bệnh Thử ôn là Lục nhất tán, và Cam lộ tiêu độc đan v.v... Hai bệnh khác nhau, nên dùng thuốc cũng hoàn toàn khác nhau. Do cái hiệu năng của các bài thuốc khác nhau, suy nguyên tới nguồn gốc của nó, cũng đủ thấy bệnh Thương hàn với bệnh Thử ôn thuộc về Túc kinh và Thủ kinh khác nhau. ĐIỀU 47. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH (I) Phàm các tà về lục dâm, không riêng gì về Thử, Táo, Hỏa thuộc Nhiệt, mà đến Phong, Hàn, Thấp cũng biến thành nhiệt. Kinh nói: "Phàm các bệnh phát nhiệt đều thuộc về loại Thương hàn”. Lại nói: "Con người bị thương về hàn tà, sẽ phát sinh bệnh nhiệt”. Cho nên đối với bệnh ngoại cảm, phải lấy "tán nhiệt" làm chủ yếu. Duy có chứng Thương hàn "trực trúng âm kinh” tất phải có những hiện tượng mạch Khẩn, phân xanh, sợ hàn, nằm co, không muốn uống nước, lưỡi không có rêu... đều là những hiện tượng hàn. Đối với bệnh đó, cần phải dùng phương pháp "ôn tán”... Nhưng rất hiếm có người bị phải chứng hậu như vậy. Duy có một điều đáng lạ là các y giả đời nay đối với các bệnh "hàn nhiệt tạp cảm", hễ thấy bệnh tình hơi nặng, thời cho ngay là "âm chứng”, mà dùng ngay Quế, Phụ cho uống. Sau khi uống thuốc, nếu thấy bệnh thế nặng hơn, không nghĩ gì đến việc mình dùng nhiệt dược có đúng hay không, lại dùng ngay các vị như Thục địa, Mạch môn.. mà đặt cho một cái khẩu hiệu rất kêu là phương pháp "bổ âm để phối dương"... Quên đứt mất cái chứng bệnh mình đương chữa đó thuộc về loại bệnh ngoại cảm! Có biết đâu rằng: Đã là âm chứng không bao giờ có tình trạng phát nhiệt. Giản hoặc cũng có trường hợp "hàn cực tự dương” (hoặc chân hàn giả nhiệt) mà bên ngoài biểu hiện ra nhiệt chứng, nhưng dù sao bên trong cũng có hiện tượng chứng hậu của hàn; thì tất phải dồn bỏ hàn trước đã, dùng những bài như Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang v.v... chứ không có lý nào lại bổ hàn bao giờ. Vậy mà các vị đó dám đem cái bệnh tà thuộc loại ôn nhiệt gán bừa làm âm chứng để dùng thuốc ôn bổ... Thật là một hiện tượng sai lầm đáng trách. ĐIỀU 48. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH(II) Trong loại tạp bệnh, thường có những bệnh thấy phát sinh ở chỗ này mà lại ứng ra nơi khác, ví dụ: - Chứng Thanh thối nha cam, tuy là bệnh ở răng mà lại thấy đau ở bọng chân, và ho luôn không ngớt, hậu môn mọc mụn, mạch không có thân khí... Đó là một hiện tượng “dương cực” ở trên, dồn cả xuống dưới... Rất khó chữa! - Chứng Sạ tai (quai bị) khi mới phát, ố hàn, phát nhiệt, mạch Trầm Sác, sưng ở trước và sau tai, sắc hơi đỏ. Khi sưng ở tai sắp dẹp, bỗng dưng hòn ngoại thận sưng to. Phần nhiều do dùng nhầm thuốc phát tán mà thể hư không thể giải biểu mạnh, nhiệt tà thừa cơ lẩn vào trong, truyền vào lạc mạch của kinh Quyết âm. Sở dĩ ngoại thận sưng đau mà chứng sưng đau ở tai khỏi bởi phía sau tai là bộ vị của đường kinh Thiếu dương. Can với Đởm cùng biểu lý. Thiếu dương cảm nhiễm phải phong nhiệt, nhiệt tà liền truyền vào Can kinh. Gặp chứng hòn ngoại thận sưng đau này mà cho là Sán khí để chữa, thì thật là sai lầm vô cùng. Theo kinh nghiệm của tôi, thuộc về chứng Sạ tai, nếu bệnh nhân thể thực thì cho uống bài Cam cát thang, gia Ngưu bằng, Đan bỉ, Đương qui... chỉ một vài thang có thể tan được. Nếu bệnh nhân thể hư thì cũng dùng Cam cát thang gia Thủ ô, Ngọc trúc, Đan bì, Đương qui cũng có thể khỏi. Nếu di độc làm hại, thì cần phải cứu âm để thu hồi tân dịch, bổ nguyên để sinh ra Chân khí, khiến cho cái độc của nhiệt tà, dồn cả ra chỗ sưng, nên dùng bài Cứu âm bảo nguyên thang (Hắc đậu 3 đ.c, Thục địa, Mạch đông, mỗi vị 1,5 đ.c., Đan bì, Hoài sơn, Sa sâm, Hoàng kỳ mỗi vị 1 đ.c., Chích thảo 0,8 đ.c. sắc uống). Uống liên tiếp 4, 5 thang mới bảo đảm được an toàn. ĐIỀU 49. NHẬN THỨC VỀ TẠP BỆNH (III) Đối với tạp bệnh, khi lâm sàng chủ yếu là phải phân biệt Âm chứng với Dương chứng cho rành mạch, tuyệt đối không được một chút hàm hồ. Thí dụ: - Dương chứng ra mồ hôi, da thịt tất phải ấm nóng. - Âm chứng ra mồ hôi, da thịt tất phải mát lạnh. - Dương chứng quyết nghịch, tất phải đầu ngón tay lạnh trước, bộ phận "Nhân vương" tất hiện sắc xanh mờ, mặt đỏ mà bóng loáng. - Âm chứng quyết nghịch, mu tay tất phải lạnh; lúc bắt đầu mặt không đỏ, khi đới dương mặt mới đỏ; tại nhân vương không có sắc xanh, trên đầu tất có mồ hôi. - Dương chứng phiền táo, mặt đỏ, lưỡi đỏ tía, mồ hôi nhiều, khát uống nước nhiều, mạch Hoạt. - Âm chứng phiền táo, trịnh thanh (nói nhịu, nói lắp) bợt bạt, tay chân mát, mạch Trầm Vi... Trên đây là những yếu điểm phân biệt Dương chứng và Âm chứng. Trong trường hợp các chứng, hậu của Dương chứng và Âm chứng còn đương lẫn lộn, chưa rõ hẳn về phía nào, cần phải chú trọng tới âm chứng. Đới Bắc Sơn có câu: "Khắp mình thấy hữu dư, chỉ một điểm thấy bất túc, nên trị liệu theo về âm chứng; khắp mình thấy bất túc, chỉ một điểm là hữu dư, nên trị liệu theo về dương chứng"... thật là một câu rất chính xác. Khi thấy bệnh nhân da dẻ mềm mại mịn màng, trịnh thanh, nằm co, trán mát, chân tay lạnh, mạch Trì Hoãn, Trầm Phục... đều là âm chứng. Dù cho đồng thời có biểu hiện mắt đỏ, lưỡi khô cũng không nên ngộ nhận là dương chứng mà điều trị. Đó là một điểm mấu chốt, cần phải nhận rõ. Thuộc về âm chứng lại còn một đặc điểm nữa: tức là "tự lợi hoàn cốc” nghĩa là ăn vào thức gì lại ỉa ra thức ấy, lại lẫn cả thứ nước màu hơi đen, chứng này tục danh Trung y gọi là "lậu để” - có nghĩa là dò trôn - Đối với chứng hậu này, kíp dùng Phụ tử. Sau khi uống thuốc, nếu thấy ngủ ngon, khắp mình ôn hòa, khí hóa ở Bằng quang lưu hành được, đái được nhiều, chứng "lậu để” sẽ khỏi. Nếu sau khi uống Phụ tử hồi dương, thấy lưỡi khô, ố nhiệt, mặt đỏ,nói sảng, từ 2-3 ngày đến 10 ngày không đại tiện, đó là âm chứng "lậu để", đã biến thành dương chứng "Phủ thực", thuật ngữ Trung y gọi là "Trúng âm lưu phủ". Bởi âm chứng dùng Phụ tử, nên mới dẫn bệnh từ âm ra dương; âm là Tạng, dương là Phủ nên mới gọi là "Trúng âm lưu phủ”. Thuộc về loại Phủ chứng đó, có thể dùng bài Hoàng long thang để hạ, hoặc dùng Bán lưu hoàn để thông hạ. Đối với âm chứng, cần phải dùng Phụ tử để hồi dương, như những bài Tứ nghịch, Lý trung v.v., Điểm đó đã thành nguyên tắc nhất định. Sau đây tôi xin nêu thêm một số điểm về nguy chứng của âm chứng, để độc giả tham khảo, tức là chỗ dựa để dùng Phụ tử cho chính xác. 1. Biện về mạch: "luồng mạch cứng rắn và có mồ hôi" là đặc điểm thứ nhất. Mạch Khẩn không ra mồ hôi, là hàn tà tại biểu thuộc chứng của kinh Thái dương. Mạch Khẩn mà đến nỗi cứng rắn, lại ra mồ hôi, đó là hiện tượng Thiếu âm vong dương rất nguy (chứng của Thiếu âm phần nhiều là mạch Vi, Trầm, Tế; nếu lại Khẩn và cứng rắn, bệnh tình càng nặng). 2. Bệnh về lưỡi: "sắc lưỡi khô ráo” là đặc điểm thứ hai. Sắc lưỡi khô ráo như vỏ quả vải khô; nếu sắc tía sẫm như vẻ tân dịch bị kiệt... đó là do Thận dương không dẫn lên được; khác với hiện tượng sắc lưỡi khô và đỏ do dương chứng nhiệt thịnh, tân dịch bị hút... Kết hợp với chứng trạng có thể quyết đoán là Âm chứng. 3. Biện về chứng: "Da thịt mềm nhuận” là đặc điểm thứ ba. Rêu lưỡi có vẻ tân dịch bị kiệt... đồng thời lại thấy tay chân lạnh, đầu ra mồ hôi, da thịt mềm nhuận. Như vậy là âm chứng. Dương chứng tân dịch bị kiệt, da thịt khô ráo, không mồ hôi. Âm chứng tân dịch bị kiệt, da thịt mềm nhuận, toát mồ hôi... Đó là những đặc điểm phân biệt rất rõ. Âm chứng dùng Phụ tử có thể vãn hồi, nhưng nó chỉ ở trong giới hạn: Mạch chưa rối loạn, mặt không sưng, hơi thở không gấp; đầu chưa đẫm mồ hôi... Nếu 4 điểm trên, bị một điểm tức là khó chữa; bị 2 điểm, tức là không thể chữa. Sở dĩ như vậy là vì: Phụ tử tuy có năng lực ôn Thận hồi dương, làm mạnh cơ năng gạn lọc... Nhưng cũng phải dựa vào chính khí (tức là sức mạnh) ở bên trong chưa kiệt, năng lực của Phụ tử mới có thể dựa vào đó để phát huy. Nếu 4 điểm trên mà sai sót tới 2 điểm, thì là chính khí đã kiệt. Phụ tử cũng không làm trò gì được nữa. Về bệnh cơ của chứng vong dương, cũng có thể chia làm 4 giai đoạn: bắt đầu lạnh từ mu tay đến cổ tay (phía trên); rồi đến mồ hôi toát ra, cả bàn tay và cổ tay đều lạnh; rồi đến chân đều lạnh, tay lạnh tới khuỷu, chân lạnh tới gối; cuối cùng đến thể ôn tan ra ngoài hết, da thịt đều lạnh, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa. Giai đoạn thứ nhất là cái dấu hiệu của chứng vong dương; giai đoạn thứ hai là chính chứng hậu của chứng vong dương, ở giai đoạn này dùng Phụ tử rất tốt. Giai đoạn thứ ba, chứng vong dương đã lâm tới thế nguy, kíp dùng Phụ tử họa may còn có thể cứu vãn. Đến giai đoạn thứ tư, Phụ tử không còn chỗ dựa, không còn tác dụng nữa. ĐIỀU 50. NHẬN THỨC VỀ NHI KHOA Trẻ em bị bệnh kinh phong, nội nhân là do đình tích, ngoại nhân là do phong hàn, đồng thời lại phải kiêm có sự sợ sệt ; cả ba yếu tố đó kết hợp lại thành bệnh kinh phong; mà trọng tâm trọng điểm thì ở Vị nhiệt, đồng thời Can Đởm cũng nhiệt, vì nhiệt tà bốc ngược, xông lên đầu óc; đầu óc bị bệnh, phát sinh các chứng trạng. Do đó, trẻ em khi bị bệnh, kíp nên phát hãn và thanh nhiệt, nên theo phương pháp chữa Thương hàn và ôn bệnh để điều trị, không nên nhằm theo quan niệm dự phòng, mà vội dùng các loại thuốc phương hương chấn kinh, đến nỗi bệnh nhẹ hóa nặng. Dù cho sốt nóng quá độ, có dấu hiệu muốn thành kinh phong, cũng chỉ nên lấy "thanh nhiệt giáng hỏa” làm chủ yếu, mà kèm thêm phương pháp tiêu đạo thực tích, không để cho nhiệt tà xông lên đầu óc, như vậy là đã đạt được mục tiêu dự phòng. Phàm trẻ em sắp phát sinh kinh, có 4 loại chứng hậu biểu hiện, có thể căn cứ vào đó để tiến hành trị liệu: A/ Môi thường mấp máy, thường thè lưỡi liếm môi; môi lưỡi đều khô và đỏ; sắc mặt xanh, các đầu ngón tay lạnh, khóc không có nước mắt, mắt sáng lóng lánh. B/. Tay nắm chặt, ngón tay cái luồn vào trong ngón tay trỏ, gỡ ra lại nắm lại. C/. Lòng trắng mắt đỏ hung, có những tia đỏ nổi lên chàng chịt phía trong mí. D/. Bộ phận "nhân vương" (khoảng giữa mặt và 2 bên mũi) thấy có sắc xanh lờ mờ, thường cùng phát hiện với đầu ngón tay lạnh. Khi thấy biểu hiện các hiện tượng trên, nên kíp dùng phương pháp "phát hãn, giải cơ, thanh nhiệt, lương huyết", dùng những bài như Cát căn cầm liên thang, gia Bạc hà, Lô căn, Sinh địa v.v... Nếu không có mồ hôi, cũng có thể dùng chút ít Ma hoàng, mồ hôi ra được nhiệt sẽ lui. Như vậy là đã trừ được kinh từ lúc chưa thành hình. Nếu không giải nhiệt ngay từ trước, để cho nhiệt tà tiến sâu vào kinh lạc, trong thì Can, Vị, Đại, Tiểu trường, Tam tiêu đều phát sinh biến hóa, rồi biểu hiện ra các chứng trạng mặt xanh hoặc đỏ, môi se, đầu ngón tay lạnh, ngón tay máy động, nắm chặt tay, mắt trông ngơ ngác; hoặc kêu khóc ra rả, hoặc ngủ im lịm, ỉa ra phân lỏng sắc xanh... Đó là thời kỳ kinh phong đã sắp thành, dùng bài thuốc trên, gia Long đởm (tẩm rượu sao) 2, 3 phân để tả nhiệt tại Can Đởm... Có thể ngăn chặn khỏi bùng to. Nên nhớ, khi dùng Long đởm nên hợp với Đương qui hoặc Sinh địa để dưỡng huyết, công dụng mới toàn diện. Giai đoạn này, nếu không có mồ hôi, vẫn có thể dùng chút ít Ma hoàng. Nếu nhiệt tà thịnh quá, tiêu hao tân dịch, biểu hiện các chứng trạng chân tay co duỗi, mi mắt, môi, miệng đều máy động từng cơn; mắt trông ngược, hoặc trông ngang hoặc trông thẳng không chớp, gáy cứng hoặc ngoẹo sang một bên, hoặc uốn ván... Như vậy là thời kỳ chứng kinh phong đã hoàn toàn biểu hiện, phương pháp trị liệu lấy "tức phong chấn kinh" làm nguyên tắc. Các dược phẩm chủ yếu là Cương tằm, Xà thoái, Toàn yết và Ngô công. Nên chú ý: Bốn vị đó chỉ dùng được vào thời kỳ chứng kinh phong đã hoàn toàn đầy đủ. Nếu dùng quá sớm, sẽ gây thành tình trạng "rước voi dày mồ", tai hại không nhỏ. Bốn vị đó đều có tác dụng ngăn ngừa chứng co duỗi, cứng đờ, chúm miệng, trực thị v.v... Tựu trung vị Ngô công mạnh nhất, thứ là Toàn yết. Có khi dùng Toàn yết không ngăn chặn được kinh, phải dùng đến Ngô công mới chặn được. Các vị đó tuy có tác dụng chấn kinh, nhưng lại có cái hại làm ráo huyết. Nên khi dùng đến các vị đó, cần phải xen với Đương qui, Sinh địa để cùng dưỡng huyết, mới khỏi di hại. ĐIỀU 51. BÀN VỀ PHỤ KHOA Các sách Phụ khoa, về môn Điều kinh, phần nhiều chép: "Kinh thấy trước kỳ là huyết nhiệt, thấy sau kỳ là huyết hàn"... Nhưng có nhiều người tháng này thấy trước, tháng sau thấy sau, chẳng lẽ tháng trước thì nhiệt, đến tháng sau lại hàn hay sao? Theo tôi thì khí là mẹ của huyết, vì khí loạn nên kinh kỳ cũng loạn, cho nên về phương pháp điều kinh, chủ yếu là phải lý khí trước. ĐIỀU 52. BÀN VỀ NỘI THƯƠNG THẤT TÌNH Theo nguyên tắc trị liệu thất tình trong Nội kinh, phần nhiều dựa trên qui luật sinh, khắc, chế, hóa của Ngũ hành như: ưu thắng nộ, khủng thắng hỷ, nộ thắng tư, hỷ thắng ưu, tư thắng khủng v.v... các danh y thời trước sử dụng khá nhiều. Nhưng phải là người có học thức sâu rộng, tận tâm với bệnh nhân, áp dụng một cách khôn ngoan khéo léo mới thu được kết quả. Còn nếu chỉ là người mượn dao cầu làm kế sinh nhai, muốn cắt được nhiều thuốc để thu lấy nhiều lời... thì không khi nào sử dụng phương pháp đó. Tiện đây xin trích dịch mấy y án chữa bệnh theo qui luật đó, để các bạn chân chính lương y cùng tham khảo sử dụng, vừa đỡ cho bệnh nhân khỏi tốn tiền uống thuốc, vừa kinh nghiệm thêm một phương pháp vừa thần diệu vừa giản tiện của người xưa. 1. Bi (buồn): Viên quan Tư hầu ở Tức thành nghe tin cha bị giặc giết, khóc thương quá độ, đến nỗi ngất đi. Sau khi người nhà cứu chữa được hồi tỉnh, thấy âm ỉ đau ở giữa khoảng xương mỏ ác (bộ phận tim), rồi ngày càng đau kịch. Tới hơn một tháng, tại nơi đau kết thành một khối ở bên trong, to bằng bát úp, đau đớn lạ thường, uống thuốc gì cũng không khỏi. Đến mời Trương Tử Hòa chẩn trị. Khi Tử Hòa vừa đến nơi, thấy có một bà cốt (5)ngồi bên cạnh bệnh nhân, đương khấn khứa gọi hồn.., Tử Hòa thừa thế bắt chước ngay bà cốt, cũng õng ẹo múa may nói năng đùa cợt... làm cho Tư hầu cũng phải cười phá lên, rồi thẹn đỏ mặt, vội ngoảnh mặt quay vào vách... Qua trận cười đó, khối kết ở bụng tiêu mòn dần, chỉ 3 ngày sau tan hết, không phải uống thang thuốc nào mà khỏi bệnh. Trên đây là Tử Hòa đã áp dụng qui luật "hỷ thắng bi" để chữa bệnh. 2. Kinh (sợ hãi): Liễu thị là vợ Vệ Đức Tân, đêm nằm ngủ trên nhà lầu. Có bọn cướp đột phá nhà bên cạnh. Liễu thị hoảng sợ từ trên giường cao ngã lăn xuống sàn, người nhà phải xúm lại nhấc lên giường. Từ đó về sau, hễ nghe thấy tiếng động gì hơi mạnh, tức thời sợ ngất, mê man không còn biết gì. Đến nỗi người nhà làm lụng, cắt nhắc việc gì, đều phải gượng nhẹ, không dám để xẩy thành tiếng động. Cứ như vậy tới hơn một năm, các thầy thuốc cứ cho là bệnh tại Tâm, dùng các loại thuốc bổ Tâm, an thần như Nhân sâm, Trân châu và Định chí hoàn v.v... để điều trị, đều không chút công hiệu. Khi đó. Đức Tân mới đi mời Tử Hòa. Sau khi quan hình, sát sắc và chẩn mạch... Tử Hòa bảo Đức Tân: "Phàm các chứng "kinh" là do từ bên ngoài đột nhiên đến, mình chưa từng biết, thuộc về dương; các chứng "khủng" là do tự mình đã từng biết trước thuộc về âm. Kinh Túc Thiếu dương Đảm thuộc Mộc, Đảm có nghĩa là "quả cảm", "mạnh dạn", nếu "kinh" thì Đảm sẽ bị thương, do đó mà sinh bệnh. nói rồi, Tử Hòa bảo Liễu thị ngồi vào chiếc ghế dựa, hai tay để lên hai thành ghế. Bảo hai người nhà đứng 2 bên, mỗi người giữ một tay. Trước mặt Liễu thị để một chiếc bàn nhỏ, cũng chỉ thấp bằng ghế của Liễu thị ngồi. Chuẩn bị xong xuôi, Tử Hòa bảo Liễu thị: - Bà hãy trông thẳng xuống bàn... Dứt lời, Tử Hòa cầm cái thước lớn đập mạnh xuống bàn "chát" một tiếng. Liễu thị giật mình suýt ngất đi. Ngay lúc đó, Tử Hòa vừa dùng tay trái nắm chặt lấy chòm tóc trên đầu Liễu thị, vừa cười nói: - Tôi đập xuống mặt bàn đấy mà! Can chi phải sợ? (kinh)... Chờ lúc Liễu thị đã định thần hết sợ.. Tử Hòa lại đập "chát", lần này Liễu thị chỉ hơi sợ... Tức thời "chát, chát, chát..." Từ Hòa lại đập luôn 2, 3 tiếng; đồng thời ngấm ngầm bảo người nhà lấy gập đập vào cửa đằng trước, cửa sổ đàng sau, tiếng động dồn dập cả xung quanh... Lúc này, Liễu thị không còn sợ nữa, cười hỏi Tử Hòa: - Ông lang chữa bằng phương pháp gì lạ lùng thế?... Nhân có Đức Tân cũng đứng gần đấy, Tử Hòa liên giải thích cho cả hai vợ chồng cùng nghe: Nội kinh có câu: "Kinh giả bình chi” - chữ "bình" ở đây có nghĩa là "thường" - (coi thường). Phàm vật, hễ được thấy thường luôn, thì không còn khi nào kinh (sợ) nữa. Khi đã bị kinh, thì "thần" sẽ từ dưới bốc ngược lên, nên tôi đập xuống mặt bàn ở phía dưới, và bảo trông trở xuống, chủ yếu là để thu liễm thần cho khỏi bốc lên; khi thần đã thu liễm được, thì còn "kinh" gì nữa... Đêm hôm đó, Tử Hòa lại bảo người nhà, đập bàn, đập ghế, om sòm thâu đêm, Liễu thị không hề sợ sệt, ngủ một giấc suốt từ tối đến sáng. Một chứng bệnh bị đã một năm, Tử Hòa chỉ dùng mấy tiếng động mà khỏi, thật là kỳ diệu. 3. Hỷ (mừng): Viên Thể Am đời nhà Minh, chữa bệnh giỏi nổi tiếng. Gặp năm tại vùng đó có mở khoa thi hương, có một cậu học trò từ tỉnh xa đến thi, được trúng cử nhân. Hôm xướng danh, cậu ta nghe thấy "xướng” đến tên mình, mừng quá, phá lên cười. Rồi cứ cười khanh khách suốt đêm ngày, bỏ cả ăn, mất cả ngủ, không sao cầm lại được. Người nhà đưa đến nhà Thể Am, yêu cầu chẩn trị. Thể Am chẩn mạch xong, làm ra vẻ sửng sốt nói: - Bệnh của cậu nguy lắm rồi, không sao chữa được nữa, chỉ còn dai dẳng được chừng mươi ngày nữa thôi. Cậu phải về quê ngay mới kịp... Nói rồi, ông lấy giấy bút viết thư, bỏ vào phong trì dán cẩn thận, rồi trao cho cậu Cử mới và bảo rằng: - Cậu về quê từ nay, hai hôm nữa sẽ qua Chấn Giang, ở đấy có ông lang họ Hà, đưa thư này cho ông ta, nhờ ông ấy chẩn trị, họa may có còn cứu vãn được chăng"? Vì tôi tin rằng ông ấy học rộng và giàu kinh nghiệm hơn tôi. Cậu Cử cầm thư vội vàng thu xếp hành lý về quê. Hai hôm sau, qua Chấn Giang, tìm đến ông lang họ Hà, đưa thư; ông họ Hà mở phong thư ra xem thấy trong thư chỉ viết vắn tắt mấy câu: "Cậu Cử mới này chỉ vì mừng quá mà phát cuồng, do Tâm khí bị kích thích quá mạnh, không thuốc nào làm cho dịu xuống được. Tôi phải dùng lời nguy hiểm đe dọa, cho buôn rầu lo lắng, để cho Tâm trí dịu xuống, chắc đến nay bệnh cười của hắn đã khỏi rồi. Mong Tiên sinh chi bảo cho hắn biết..." Ông lang họ Hà xem thư xong, cười đưa cho cậu Cử xem, và nói đùa: - Chà! Ông Thể Am bốc cho cậu thang thuốc đắt tiền quá! Giờ bệnh thật khỏi rồi chứ! Cậu Cử xem thư, rất kinh ngạc về phương pháp chữa bệnh của ông Thể Am. Hà tiên sinh nói: - Không lạ lùng gì đâu, ông ấy áp dụng qui luật "khủng tháng hỷ" đấy thôi. 4. Nộ (giận): Trần thị bị bệnh cáu giận, lúc nào cũng thấy tức tối bực bội, bỏ cả uống ăn, suốt ngày chỉ kêu gào chửi bới; có lúc vung dao định giết cả những người xung quanh. Các thầy lang chữa đủ mọi mặt, nửa năm trời vẫn không khỏi. Bấy giờ mới mời Trương Tử Hòa đến chữa. Tử Hòa quan hình sát sắc xong, nói với người nhà: - Bệnh này chữa bằng thuốc thế nào được?... Rồi cùng bàn với người nhà, mượn hai người đàn bà khỏe mạnh, cho đánh phấn thoa son, mặc quần áo như phường chèo, nhởn nha õng ẹo, đùa bỡn cợt nhả ở trước mặt Trần thị... Trần thị thấy điệu bộ hai người đó, bất giác phì cười... Ngày hôm sau lại bảo hai người đó ăn mặc lòe loẹt hơn, cùng vật lộn nhau trước mặt Trần thị... Trần thị lại càng phá lên cười. Đồng thời lại bảo người nhà làm các thức ăn thật ngon, bày ở trước mặt Trần thị, cho hai người kia ăn, cơm trắng khói bốc lên nghi ngút, các thức ăn như thịt xào, chả nướng, mùi đưa lên ngạt cả mũi... Hai người vừa mời nhau, vừa tấm tắc khen ngon, và cùng ăn một cách rất ngon lành và thỏa thích... Trần thị thấy vậy, cũng chạy lại xúc lấy một thìa ăn thử, thấy ngon miệng, tức thời ăn luôn 3, 4 miếng. Thế là từ bữa đó trở đi, Trần thị tính nết trở nên vui vẻ, ăn uống tăng dần. Không phải uống thuốc mà bệnh khỏi. 5. Ưu (lo): Em trai Trần mỗ… vì lo nghĩ quá độ ho nhổ ra huyết, sắc mặt xạm đen, uống thuốc mãi không khỏi. Đan Khê chẩn mạch xong, bảo Trần mỗ: - Bệnh này nguyên nhân do "thất chí” hại đến Thận, chỉ có một cách làm cho "mừng” mới có thể khỏi được. Trần nghe lời, liền tìm cho một nơi có công việc làm lương bổng rất hậu... Từ đó bệnh cứ khỏi dần, không phải uống thuốc. Nội kinh có câu: "Trị bệnh tất cầu kỳ bản” và "hỷ thắng ưu"... Đan Khê đã thực hiện được phương pháp trị liệu đó. 6. Một thiếu phụ mới về nhà chồng được ít lâu, chồng đi buôn luôn 2 năm không về. Thiếu phụ dần dần biếng ăn, cứ nằm li bì suốt ngày như người ngây, mà phần nhiều chỉ nằm ngoảnh mặt vào trong... Ngoài ra không có bệnh gì hết, Đan Khê chẩn mạch, thấy: Can mạch Huyền quá ra ngoài Thốn khẩu. Ông nói: - Đây là một bệnh phát sinh bởi nhớ chồng quá độ, khí kết tại Tỳ, không thể chỉ đơn thuần dùng thuốc mà chữa được, chỉ có "mừng" mới có thể giải được bệnh "kết" đó. Nếu không có cách gì làm cho được mừng, thì phải làm cho "giận". Tỳ chủ về "tư” tư lự quá độ Tỳ khí kết lại, thành chứng không ăn được. "Giận" thuộc Can mộc, Mộc khắc được Thổ. Giờ làm cho giận thì Can khí sẽ bốc lên mạnh. Xâm phạm sang Tỳ thổ, tức là "mộc năng sơ thổ”... Chứng "kết" ở Tỳ sẽ nhờ đó mà “khai tiết” (mở để thoát ra) được. Người bố chồng nghe lời liền kiếm cớ quở máng nàng dâu thậm tệ, đồng thời lại tát luôn cho nàng mấy cái. Nàng kêu khóc luôn 2, 3 giờ, người nhà phải khuyên nhủ, dỗ đành mãi mới nín. Thừa thế lúc đó, Đan Khê cắt cho một thang giải uất, bệnh giảm nhẹ ngay, đó biết đòi ăn và ăn rất ngon. Đan Khê bảo ông bố: - "Tư khí " (cái khí phát sinh bởi nghĩ ngợi) tuy đã giải, nhưng phải cần được "mừng", bệnh thế mới khỏi tái phát. Ông bố chồng liền nói dối nàng: chồng nàng sắp về, đã biên thư về báo tin trước... May sao, sau đó 3 ngày thì người chồng về thật. Bệnh của thiếu phụ từ đó khỏi hẳn. ĐIỀU 53. BÀN VỀ NHÂN TỐ GÂY BỆNH Hạ Tống Điền nói: "Người ta phú bẩm không giống nhau nên bị bệnh cũng không giống nhau. Hạng người chỉ chuyên lo nghĩ về mình, thì Tâm Can ít khi bị bệnh. Hạng người hàng lo nghĩ về đại thể thì Tâm Can bệnh thường nhiều. Hạng người "vô tình" thì Tỳ Phế ít khi bị bệnh. Hạng người hay "chung tình" thì Tỳ Phế bệnh thường nhiều. Hạng người chìm nổi tùy thời, Can Thận ít khi bị bệnh. Hạng người gìn giữ chi tiết, thì Can Thận bệnh thường nhiều v.v..." Tuy là nói về y, mà thật cũng là một câu nói của con người rất từng trải... ĐIỀU 54. ĐIỀU KINH VÀ DÙNG THUỐC Chữa bệnh phụ nữ lấy điều kinh làm chủ yếu. Tiêu Thận Trai từng nói: “Phụ nữ có khi bị một bệnh gì trước, rồi sau mới sinh ra kinh nguyệt không điều; phép chữa, hãy chữa khỏi bệnh đã, bệnh khỏi thì kinh tự điều. Nếu do kinh không điều mà sinh ra các chứng bệnh khác, thì cần phải dùng phương pháp điều kinh đã, khi kinh điều thì các chứng hậu kia sẽ không phải chữa mà tự khỏi..." ý kiến của họ Tiêu rất đúng. Nhưng khí là lãnh đạo của huyết, khí hành thì huyết hành, khí thuận thì huyết thuận, nên muốn điều kinh cần phải lý khí; muốn lý khí phải dùng loại thuốc có khí vị "tân hương", cùng phối hợp với loại thuốc "điều can lương huyết" thì công dụng mới đầy đủ. Do đó, lâu nay tôi chuyên dùng 2 vị Hương phụ, ích mẫu phối hợp làm thuốc điều kinh, tùy theo kinh huyết hàn nhiệt mà thay đổi quân thần, kết quả rất tốt. Nhân xem trong Phụ khoa y yếu, có bài "Bát chế Hương phụ hoàn", tuy dược vị và phương pháp bào chế có phiền phức hơn bài của tôi, nhưng cũng đều là những dược vị bình thường dễ kiếm, đồng thời cũng có thể "chiếu cố" được nhiều mặt hơn. Xin giới thiệu và giải thích thêm về phương pháp bào chế như sau: Bài thuốc: Dùng Hương phụ làm quân, sau khi đã qua lần chế, phối hợp với Đương qui, Thục địa, Bạch thược, Xuyên khung, Hồng hoa, Bán hạ, Tần giao, Đan bì, Thanh bì. Cộng cả 9 vị, cùng tán bột, luyện với hồ (không dùng mật) làm hoàn. Chủ yếu của bài này là vị Hương phụ, tôi chỉ xin giải thích riêng phương pháp chế Hương phụ. Chữa bệnh phụ nữ, muốn điều kinh cần phải điều Can. Dùng Hương phụ làm quân, để giải Can uất, lý Can khí. vì e nó có vẻ "tân, táo", nên mới tẩm nước gạo cho chế bớt tính táo, đồng thời cũng là mượn thêm "cốc khí" cho dẫn vào Vị ; thứ hai là tẩm rượu sao, để cho nó dẫn khắp toàn thân và thông hành cả tam tiêu; thứ ba là tẩm dấm thanh sao, để cho dẫn vào kinh Quyết âm Can; thứ tư là tẩm đồng tiện sao là mượn cái khí vị "hàm hàn" của nó để cho dẫn xuống phận dưới; thứ năm là tẩm với nước Đỗ trọng sao, để cho dẫn tới bộ phận eo lưng và đầu gối. Sau khi đã chế qua 5 lần, chia làm 3 phần. Một phần tẩm với nước Hồng hoa để giúp thêm tác dụng hành huyết; một phần tẩm với nước Hoàng liên để thanh nhiệt; một phần tẩm với nước Bán hạ để cho tróc đờm. Sau khi đã chế qua 8 lần rồi, lại phối hợp bài Tứ vật và Hồng hoa, Xuyên liên... đối với các phương diện điều chỉnh khí huyết, dồn bỏ đờm thấp... đều đầy đủ. Theo ý tôi, bài thuốc trên này, nếu người có hoàn cảnh làm được cả thì càng hay; không thì chỉ chế riêng một vị Hương phụ mà dùng cũng được. Hoặc dùng vị Hương phụ 8 chế, phối hợp với ích mẫu làm hoàn cũng không kém phần công hiệu. ĐIỀU 55. BÀN VỀ CHỨNG ĐẢO KINH Trong các sách về phụ khoa từ xưa đến nay, đều xếp "Điều kinh" lên hàng đầu. Đủ chứng tỏ người xưa đã xác định phụ nữ lấy huyết làm chủ, nếu kinh huyết không được điều, hoặc hàn, hoặc nhiệt, hoặc quá nhiều, hoặc quá ít, hoặc rít, hoặc loãng v.v... không những có ảnh hưởng tới sức khỏe, mà cả vấn đề sinh dục cũng bị trở ngại. Do đó, ở môn điều kinh chia ra rất nhiều tiết mục, có tới 15, 20 mục chứ không phải ít. Thế mà duy có vấn đề ”đảo kinh" lại rất ít nói đến. Hoặc có nói đến cũng chỉ sơ qua, xen vào trong các mục khác, hình như coi bệnh đó không lấy gì làm quan trọng. Theo ý tôi thì cơ chế gây nên đảo kinh cũng rất phức tạp, mà người bị bệnh đó cũng rất ảnh hưởng tới sức khỏe và sinh dục. Trước khi thuật một trị nghiệm về đảo kinh của tôi, tôi cũng xin dẫn một số lý luận về đảo kinh của người xưa, mặc dầu rất ít ỏi, cũng đủ chứng tỏ cho trị nghiệm của tôi không phải toàn là viển vông. - Trần Lương Phủ nói: "Đương khi hành kinh mà bị việc gì kinh sợ, huyết khí sẽ lẫn lộn đi tràn, dồn ngược lên bộ phận trên, ra đường miệng mũi..." - Diệp Dĩ Tiềm nói: "Có khi nguyệt kinh đi lên miệng mũi, đó là do hỏa dồn huyết lên, khí loạn mà gây nên. Dùng bài Tứ vật gia Chi tử, Hoàng liên, Đan bì, Tê giác..." - Lý Thời Trân: "Kinh của phụ nữ, có khi đến kỳ chỉ thổ huyết, nục huyết, hoặc huyết ra ở tai, mắt... Như vậy gọi là Đảo kinh..." - Phó Thanh Chủ nói: "Trước khi hành kinh một ngày, có người bỗng dưng đau bụng mà thổ ra huyết, đến nỗi huyết không dẫn xuống mà chỉ dồn lên... phần nhiều cho là hỏa nhiệt đến cực độ, có biết đâu chỉ là tại Can khí ngược lên đấy thôi. Can không tàng huyết chỉ là do Thận không nạp khí. Nhưng sở dĩ kích động đến nỗi như vậy, thì chính là Can làm chủ vấn đề. Cho nên phép chữa cần phải "thuận khí để bình Can", không cần phải ích tinh để bổ Thận. Tuy nhiên, gặp trường hợp điên đảo lẫn lộn đến như vậy. Thận khí cũng không khỏi bị vạ lây... Nên ở trong phương pháp thuận khí cũng nên chiếu cố tới vấn đề "nạp khí” một đôi chút. - Y Tông kim giám nói: "Đàn bà kinh nguyệt đi ngược, ngược lên bộ phận trên là thổ huyết, nục huyết... đều bởi nhiệt thịnh cả. Nếu huyết ra mất quá nhiều, thì nhiệt theo huyết đi, nên dùng phương pháp bổ làm chủ. Nếu huyết ra ít mà nhiệt còn chưa giảm, tuy là hư, nhưng vẫn phải dùng phương pháp thanh làm chủ. Trước khi hành kinh mà thổ huyết, nục huyết do nội nhiệt làm nghẽn và dồn ngược huyết lên, nên dùng bài Tam hoàng Tứ vật thang để tả, sau khi hành kinh mới thổ huyết, nục huyết dù vẫn có nhiệt, cũng không nên tả, chỉ nên dùng bài Tê giác Địa hoàng thang để thanh... - Thương Toán Triết nói: "Phụ nữ có người hàng tháng chỉ thổ huyết hoặc nục huyết mà không hành kinh, người xưa cho là sinh lý tự nhiên. Riêng tôi thì nhận thấy dùng bài Tứ vật thang gia Hương phụ, Đào nhân, Ngưu tất, Đại hoàng rất công hiệu. Nhưng nếu là người thể hư thì cần phải dùng bài Kim quĩ Mạch môn đông thang. - Trương Sơn Lôi nói: "Chứng đảo kinh cũng có khi gọi là nghịch kinh... Nó là một tình trạng chỉ có thăng, không có giáng, đường đi trái ngược... phần nhiều do âm hư ở dưới, dương nổi lên trên, không dùng trọng tễ dồn ngay nó xuống, không sao đạt được qui luật dẫn xuống là thuận của nó. Bởi khi hỏa bốc lên, gây bệnh rất chóng, không nên coi là vô bệnh, mà không dùng thuốc điều trị. Vả đó chỉ lả một trường hợp ngẫu nhiên, quyết không có ai suốt đời đều đảo kinh bao giờ. Nếu chứng đó tiếp tục sinh ra luôn, tất sẽ có thời kỳ sinh ra bệnh lớn..." Tổng kết các thuyết trên thì bệnh đảo kinh phát sinh có mấy điểm chủ yếu: 1) Sau khi bị sợ mà hành kinh 2) Hỏa dồn huyết lên 3) Can khí nghịch lên, Thận không nạp khí 4) Nội nhiệt dồn ngược. Ngoài những bài thuốc người xưa đã dùng, lại còn có các bài như Hồi lan thang của Vương Tùng Dường trong Bí phương tập yếu, chữa phụ nữ đến kỳ hành kinh mà không thấy, bỗng dưng nục huyết, thổ huyết, hoặc huyết ra ở chân răng... Ôn thanh ẩm của Thắm thị Tôn sinh, Quế chi phục linh hoàn và Đào nhân thừa khí thang của Trọng Cảnh... đều thích hợp với bệnh Đảo kinh. Năm 1959-1960, một người thuộc khu chợ Hòa Bình, tên là Trần Thị Đào, 42 tuổi. Nghe bệnh nhân thuật lại: bị bệnh thổ huyết từ hồi kháng chiến (1947), khi còn ở hậu phương; qua các thầy thuốc Tây y khám nghiệm, đều cho là Phế lao, dùng thuốc tiêm, thuốc uống 2, 3 năm liền không khỏi. Rồi chuyển sang uống thuốc bắc, thuốc nam cung đều vô hiệu. Tới hòa bình lập lại, trở về Hà Nội, lại uống và tiêm thuốc Tây hơn một năm vẫn không khỏi; lại chuyển sang uống thuốc bắc. Theo thuốc của một lương y phố Huế, tới 120 thang, cũng chỉ như muối bỏ bể. Mà từ trước tới sau, các thầy thuốc Tây y, Đông y đều cho là bệnh Phế lao.... mà phần nhiều cho là không thể khỏi. Khi đến yêu cầu tôi chữa thì hiện chứng vẫn cứ một vài tháng thổ một lần, có khi thổ nhiều, có khi thổ ít, không nhất định. Khi thổ ít, thì hôm trước thổ, hôm sau thường hành kinh; khi thổ nhiều thì hôm sau không hành kinh, hoặc cũng có nhưng huyết ra rất ít, màu da hơi xanh, ăn uống bình thường; đại tiện 2, 3 ngày mới đi một lần, thường xuyên táo, tiểu tiện thường ít và đỏ,.... mạch Trầm Sắc, lẫn Huyền. Sau khi chẩn xong, tôi nhận là bệnh Đảo kinh. Muốn dùng mấy bài thuốc có dẫn trên để điều trị, thì vị có vị không, giá tiền lại đắt, không thích hợp với hoàn cảnh của một người đã bị bệnh tới hơn 10 năm. Tôi liền chuyển hướng dùng thuốc nam để điều trị. Nhận thấy bệnh Đảo kinh chủ yếu là do huyết nhiệt gây nên, nên tôi dùng ích mẫu là một vị có khí vị khổ hàn để hoạt huyết điều kinh; nhưng muốn cho huyết hành được dễ dàng, càn phải điều khí, vì khí là "soái” của huyết, khí có hành thì huyết mới hành, nên tôi dùng vị Hương phụ là khí dược ở trong huyết, có tác dụng dẫn hành được cả khí của 12 kinh, cùng hợp với ích mẫu thành cái công dụng "khai uất, tán trệ, thống kinh, hoạt huyết..." Tôi chỉ dùng 2 vị đó hình quân đem tán bột (Hương phụ tẩm đồng tiện 3 ngày 3 đêm) luyện với hồ, viên bằng hạt đỗ con, Mỗi lần nuốt 50 viên (không nhai), tiêu bằng nước nóng, ngày uống 3 lần. Trước sau uống hết chừng 2 cân thuốc, bệnh khỏi. Thế là bệnh trị tới linh 10 năm, chữa có bỡn một tháng, tiền chi hết hơn 3 đồng là khỏi hẳn. Khi bệnh khỏi, Thị Đào nói chuyện với lương y đã cát cho 120 thang trước, ông ta lấy làm lạ, tìm đến nhà tôi hỏi về phương pháp chữa, tôi nói: "Có lạ đâu, tôi chỉ dùng phương pháp điều kinh đấy thôi", ông ta ngạc nhiên không tin nói: "Bệnh thổ huyết đã tới hơn 10 năm, cả Tây y khám nghiệm cũng đã công nhận là Phế lao, Vậy mà cụ lại chữa điều kinh là nghĩa gì?..." Bất đắc dĩ tôi phải thuật lại các thuyết của các y giả đời trước nói về Đảo kinh như tôi đã dẫn ở trên cho ông ta nghe, rồi tôi lại phải dẫn cả công dụng của hai vị ích mẫu và Hương phụ để chứng với phương pháp điều trị của tôi, bấy giờ ông ta mới chịu là đúng. Khi ông ta đúng dậy về, tôi bắt tay dặn thêm: đây chỉ là một trường hợp, ông đừng cho rằng bệnh thổ huyết nào cũng đều là đảo kinh. Chủ yếu của Đông y ta là "biện chứng luận trị, tùy bệnh xử phương" không phải hễ cứ sốt rét là uống-"ký ninh" được đâu. ĐIỀU 56. PHÂN TÍCH "TẶC PHONG” Trong Y lũy nguyên nhung nói: "tục cho rằng "tặc phong" tức là luồng gió qua cửa sổ, không đúng....”. Tôi nghĩ lấy luồng gió qua cửa sổ để giải nghĩa chữ "tặc phong" ở Nội kinh, đích xác là không đúng. Nhưng thực tế thì những người lưu ý tới vấn đề vệ sinh cũng rất cần phải tránh luồng gió đó. Tôi thường xem tập Cơ đình ngoại thư của Trần Long Chính đời Minh có một đoạn chép rằng: "Những luồng gió rộng thổi tới trước mặt, không khác người há miệng để hà hơi; còn luồng gió hẹp từ các khe hổng thổi tới, không khác người chúm miệng để thổi hơi. Thứ hơi há miệng "hà" ra ẩm, thứ hơi chúm miệng thổi ra lạnh... Hơi thổi ra cần cần phải tránh, huống chi là luồng gió từ khe hổng thổi tới, ta lại không phải tránh hay sao? Thí dụ như sắt, nếu là tấm sắt vuông và phẳng, người ta có thể ngồi nằm lên được. Nhưng đến lưỡi sao và mũi dao, phòng có nằm ngồi được chăng? Gió sắc vừa nhọn, ta cấn tránh..." Thí dụ của Long Chính rất hợp lý, đáng lưu tâm. ĐIỀU 57. PHÂN TÍCH HƯ CHỨNG Chu Khanh Tử ở Kiến Giang, mới 23 tuổi, bị bệnh phát nhiệt, thân thể gầy còm, tay chân mỏi mệt, chỉ ưa nằm, hễ chợp mắt là toát mồ hôi trộm, bụng sủi, ỉa lỏng, biếng ăn biếng nói, lưỡi không biết vị... Bệnh tình cứ lúc nặng lúc nhẹ dai dẳng như thế tới nửa năm không khỏi. La Khiêm Phủ chẩn mạch Phù Sác, ấn mạnh vô lực... Nhận thấy đúng như câu ca về mạch Phù trong mạch quyết: "Trong tàng tích lãnh trong doanh nhiệt, muốn được sinh tân phải bổ hư". Liền cứu huyệt Trung quản là Mộ của Vị, để dẫn thanh khí đi lên, làm cho tấu lý được dày đặc, lại cứu huyệt Khí hải, khiến cho phát triển nguyên khí, thấm nhuần ra các luồng mạch, nở nang cơ nhục, cứu cả huyệt Túc Tam lý, huyệt đó là Hợp của Vị, để giúp Vị khí, và rút nhiệt từ bộ phận trên xuống với âm phận. Đồng thời dùng loại thuốc cam hàn để tả hỏa nhiệt, dùng loại thuốc cam ôn làm tá để nuôi trung khí. Lại bảo ăn gạo cánh, thịt dê để bổ thêm cho Vị khí. Lại bảo phải ít nói năng, dè ăn uống, ít giận dữ, kiêng phòng dục... Không bao lâu bệnh khỏi hẳn. Tới năm sau, thân thể lại béo gấp bội khi chưa mắc bệnh. Có người hỏi Khiêm Phủ: người đời chữa bệnh hư lao phần nhiều dùng loại thuốc khổ hàn đằng này lại dùng cam hàn; thịt dê có tính chất trợ nhiệt, người ta điều kiêng; đàng này ông lại cho ăn... là cớ sao? La đáp Nội kinh có câu; "Chủ của hỏa phải dùng cam để tả....”; thiên Tạng khí pháp thời luận cũng nói: "Tâm khổ về hỏa, kíp ăn vị toan để cho thu lại, dùng vị cam để tả..? Cán cứ vào thuyết trên, muốn tả nhiệt bổ khí, không dùng vị cam hàn sao được? Nếu lại dùng khổ hàn để tả Thổ, khiến Tỳ thổ càng hư, hỏa tà sẽ lại càng thêm mạnh, không những vô ích mà còn có hại. Trong Nội kinh lại nói: "Hình không đầy đủ, lấy khí dược làm cho ích. Dùng chất bổ có thể khỏi được yếu đuối, tức là ôn; tinh không đầy đủ lấy hậu vị để bồi bổ. Bị nhọc mệt thì làm cho ôn, bị hao tổn thì làm cho ích. Dùng chất bổ có thể khỏi được yếu đuối, tức là những vị như Nhân sâm và thịt dê. Vậy thì tôi cho ăn thịt dê có hề chi..". Tôi xét: La Khiêm Phủ chữa cho Sử hầu ỉa ra máu, và bệnh Tâm Tỳ thống của con trai Thôi Vận sứ... đều cứu 3 huyệt trên, mà những lời giải về tác dụng của các huyệt cũng giống nhau. Xem đó, có thể lượng biết là họ La thu được kết quả về 3 huyệt đó không phải là ít. Liễu cống Độ thường nói: "Tôi trước kia vốn hay ốm, mỗi khi ốm thường bị khí lực kém sút, hơi thở rất ngắn. Nhân đó cứu huyệt Khí hải, tức thời thở được dễ dàng. Từ đó về sau, cứ mỗi năm tôi cứu huyệt 2,3 lần...” Xem 2 thuyết của hai ông La, Liễu. thì bệnh hư tổn dùng thuốc khó khăn không gì bằng đổi sang dùng phép cứu, có phần vừa giản tiện, vừa công hiệu hơn. ĐIỀU 58. TIÊN LƯỢNG TẬT BỆNH Theo học thuyết của Đông y đối với tạp bệnh có nhiều loại có thể dự biết trước được. Như bỗng dưng thấy ngón tay tê đại (không cứ cả 5 ngón, chỉ một ngón hoặc 2,3 ngón, mà chỉ tê đại một lúc lại khỏi ngay), biết là vài ba-năm sau sẽ bị bệnh trúng phong (ngã ngất, bất tỉnh nhân sự); tự nhiên thường thấy miệng khô, lòng bàn tay bàn chân đều nóng, khát muốn uống nước lạnh, hoặc ăn rất chóng đói... biết là một vài năm sau sẽ bị chứng phát bối (mụn mọc giữa lưng); trong vòng 3 năm, thường cảm thấy xương ở khoảng lông mày và quầng mắt đau nhức ê ẩm, biết là sáp bị bệnh đại phong (hủi).... Những bệnh trên đều có chứng trạng biểu hiện, có thể dựa vào làm bằng cứ. Đến như chỉ nhận xét thần sắc, thăm dò mạch tượng, mà biết trước được bệnh sẽ phát sinh, như Biển Thước đoán bệnh Tề Hoàn Hầu, Trọng Cảnh đoán Vương Trọng Tuyên, nếu không phải là kỹ thuật đạt tới mực thần diệu, không sao biết được. ĐIỀU 59. Ý NGHĨA "DẪN HỎA QUY NGUYÊN" Người đời thường tôn sùng cái thuyết "dẫn hỏa quy nguyên" mà dùng Quế, Phụ, cho rằng không gì hay bằng. Nhưng nếu không hiểu rõ cái "khâu chính" của nó mà cứ nhắm mắt dùng liều thì rất là tai hại. Tần Hoàng Sĩ thảo luận về vấn đề đó ở trong bộ "Chứng nhân mạch trị" có thể làm tiêu chuẩn cho vấn đề dùng Quế Phụ. Tóm tắt như sau: "....Triệu Dưỡng Quỳ dùng Quế Phụ là loại thuốc tân nhiệt để ôn bổ tướng hỏa. Nhưng không biết người xưa ví cái hỏa của Can Thận như "long, lôi", vì 2 kinh đó một kinh chủ về mộc, một kinh chủ về thủy, đều có Tướng hỏa ký ngụ ở trong, “ất, quí” vốn cùng nguồn. Nếu chân thủy của hai kinh đó không đầy đủ, thì sẽ biến thành dương vượng âm khuy, tướng hỏa nhân đó mà phát sinh, muốn chữa chứng đó cần phải bồi dường chân âm của Can Thận mới có thể "chế" lại được; nếu lại dùng loại thuốc tân nhiệt để lấn át, thì thật là nhầm. Phương pháp dẫn hỏa quy nguyên dùng Quế, Phụ, chính là để chữa chứng "chân dương bất túc", cái hỏa "vô căn” bị âm tà nó dồn ép, không còn ở vững tại vị trí của mình, mà phải bốc ngược lên. Vậy cái hỏa đó có phải là hỏa "long, lôi” đâu. Hà Tây Trì cũng nói: "... Phương pháp dùng Quế Phụ dẫn hỏa qui nguyên là để đối với chứng "dưới hàn trên nhiệt" mà đặt ra. Nếu thuộc về loại chứng hậu thủy cạn hỏa bốc, trên dưới đều nhiệt, thì không hiểu còn định dẫn cái hỏa đó đi tới địa điểm nào?..." Thuyết của Hà Tây Trì rất hợp với luận của Tần Hoàng Sĩ. Do thiếu ý của tôi thì: "sở dĩ có cái danh từ hỏa long lôi, là vì chân âm của Can Thận không đầy đủ, tướng hỏa của Can Thận bốc lên, thủy khuy hỏa vượng, từ dưới bốc lên, khác với cái tà của lục dâm, từ ngoài giới tự nhiên phạm đến (thiên ngoại gia lâm), mà có thể dùng vị khổ hàn để dập xuống; cũng không thể theo cái thuyết" hỏa uất phát chi", mà dùng phương pháp "thăng dương tán hỏa:, nên liệu trị bằng phương pháp "dưỡng âm chế hỏa", dùng những bài như Lục vị hoàn hợp với Tư Thận hoàn, hoặc Hoàng sĩ gia bí Can Thận hoàn v.v... (Địa hoàng, Thiên đông, Bạch thược, Hoàng bá, Tri mẫu... cùng tán bột, luyện với cao da trâu). ĐIỀU 60. CHỮA LOẠI BỆNH "GIẢ TƯỢNG" Khi lâm sàng, gặp phải những "giả chứng" mà tìm ra được cái "chân" của nó để điều trị cho đúng đích thật là khó. Đọc hai y án của Lý Sĩ Tài dưới đây, có thể rút ra kinh nghiệm bổ ích: 1. Hàn Mẫu Viễn bị thương hàn đã 8,9 ngày, mắt không trông được, miệng không nói được, thân thể không cử động được, tay chân đều giá lạnh, 6 bộ mạch đều như không có; thầy thuốc ấn tay vào bụng, bệnh nhân vội lấy tay gạt ra, chau mày lại như có vẻ đau đớn; án tới mạch Phu dương thời Đại và có lực. Bấy giờ mới biết là trong bụng có phân rắn. Liền cho uống thuốc hạ, đại tiện ra được mấy cục phân rắn hơn phân dê... Tức thời miệng nói được và thân thể lại cử động, rồi khỏi. Trên đây là bệnh chân thực giả hư. 2. Ngô Văn Tài, bị thương hàn, trằn trọc rối loạn, mê man không biết gì, thỉnh thoảng đòi uống nước lạnh, tay chân vật vã luôn, không sao chẩn được mạch, phải bảo người nhà giữ chặt cả hai tay mới chẩn được. Mạch tượng "hồng, đại vô luân", án nặng xuống chỉ còn như sợi tơ. Liền dùng bài Lý trung thang gia Sâm, Phụ đun được thuốc, rót ra chén, ngâm vào nước lạnh cho thật nguội rồi mới cho uống. Chỉ chừng hơn một giờ sau, bao các chứng vật vã rối loạn đều yên, rồi khỏi. Trên đây là loại bệnh chân hư giả thực. Gặp những chứng hậu như trên, nếu thầy thuốc không chịu nhận xét cho tinh, thì rất dễ nhầm, mà giết người cũng rất dễ. ĐIỀU 61. CHỮA BỆNH NÊN CHÚ Ý ĐỊA PHƯƠNG HOÀN CẢNH Thiên Dị pháp phương nghi luận trong Nội kinh chia ra 5 phương pháp trị liệu của 5 phương khác nhau, đó chỉ là nói một cách khái quát, chứ không ấn định hẳn là phương đông chỉ dùng biếm mạch, phương tây chỉ dùng độc dược, phương bắc chỉ dùng cứu nhuế, phương nam chỉ dùng vi châm, và Trung ương chỉ dùng đạo dẫn... Cho nên ở cuối bài, Kỳ Bá lại nói thêm: cho nên thánh nhân "tập hợp” để chữa, đều thích ứng với "sở nghi, nên chi phương pháp dù có khác nhau mà bệnh đều khỏi". Xem vậy ta càng thấy rõ: không riêng gì khí hậu ở nam phương khác nhau thì bệnh tật phát sinh và phương pháp dụng dược trị liệu ở 5 phương cũng phải khác nhau, Ngay ở địa thế ở nước ta có chia ra thượng du, trung du, hạ du khác nhau, thì phương pháp dụng dược và trị liệu của các khu vực đó tất cũng phải khác nhau. Không những thế, chỉ nói một phạm vi nhỏ như khu vực thủ đô Hà Nội, có lúc đường Nam Bộ mưa mà đường Yên Phụ nắng, có lúc phố Ngọc Hà nắng mà phố Bạch Mai mưa... Vậy trong thời gian đó, ta có thể chia bài thuốc chữa chứng sốt ở người ở đường Yên Phụ mà chữa cho người sốt ở đường Nam Bộ chăng? Ta có thể dùng bài thuốc chữa rức đầu cho người ở phố Ngọc Hà mà chữa cho người rức đầu ở phố Bạch Mai chăng? Về điểm này, nếu quả là người Đông y tất phải trả lời là "không". CHƯƠNG V: CHẨN ĐOÁN ĐIỀU 62. BƯỚC ĐẦU HỌC CHẨN ĐOÁN Khi mới bất đầu học chẩn mạch, trong trí mình nhận định là Huyền thì nó sẽ là Huyền; hoặc lại nhận định là Khẩn thì nó cũng là Khẩn... Các mạch Phù, Trầm, Tiểu, Đại, Hoạt, Sác, v.v... cũng đều có một hiện tượng như vậy. Cũng như khi ta nghe con chim ca ca nó kêu, trong trí ta nhận là "bát tép kho cà", thì nó hoàn toàn là "bắt tép kho cà".. Nếu là người biết chữ Hán mà tưởng tượng nó là "hành bất đắc dã kha kha...”, đều là do sự dự định của tâm trí mình mà diễn biến ra cả. Vương Thúc Hòa nói: "Trong tâm dễ rõ ràng, dưới tay khó phân tích...". Vậy chỉ có một cách là khi đặt tay lên tay bệnh nhân, trong bụng phải hoàn toàn không nghĩ ngợi; dồn hết cả tinh thần vào 3 đầu ngón tay... Họa chăng mới nhận dược chính xác. ĐIỀU 63. ĐÔNG ĐÔ BÀN VỀ CHẨN ĐOÁN Trong Minh biện loại hàm của Thiềm Đông Đồ cố đoạn nói: "Y giả nhận xét bệnh, chủ yếu là vọng, văn, vấn, thiết. Đó là lấy thiết mạch để nghiệm cho vọng, văn, vấn. Bắt đầu xét từ chỗ có hình có tiếng, cuối cùng xét tới chỗ không hình không tiếng... Như vậy thì trong ngoài, gốc ngọn đều biết dược rõ ràng. Mạch có các hiện tượng Phù, Trầm, Huyền, Sác... thì ai cũng đã rõ. Nhưng trong cái hiện tượng Phù, Trầm, Huyền, Sác đó lại còn có rất nhiều chi tiết phiền phức, nếu không dựa vào "vấn" để chứng thực cho "văn"; dựa vào "văn" để chứng thực cho "vọng" để tìm cho được đầu, đuôi, gốc, ngọn, mà chỉ bằng cứ vào một sự mập mờ ở dưới 3 đầu ngón tay... thật khó lòng đạt được yêu cầu. Người xưa đặt "thiết" ở dưới vọng, văn, vấn, không phải là nói bao các chứng hậu có thể đoán cả ở mạch, mà chính là tỏ cho ai nấy đều biết "thiết mạch" không thể bỏ qua được vọng, văn, vấn...". Lại nói: "Thiết mạch mà đoán bệnh được đúng, là nhờ ở vọng, văn và vấn". Nhưng theo thiển ý tôi thì "vấn" lại càng là điểm cần thiết hơn hết. Muốn biết được hiện trạng của tật bệnh ra sao, và nguyên nhân của tật bệnh là gì. Tất phải nhờ vào "vấn". Vậy mà y giả đời nay, có nhiều người tự phụ thông minh(?), cố ý không vấn mà chỉ thiết, hoàn toàn dựa vào mạch để đoán bệnh. Dù cho bệnh nhân có muốn kể bệnh kỹ càng, y giả lại tỏ ra vẻ kiêu hãnh, nói một cách tự đắc: đã biết rồi, không cần nói nữa! Như vậy mà đoán được đúng bệnh, cũng không khỏi là "gặp may" nếu không may mà không đúng thì đối với bệnh nhân ra sao? Cho nên, phàm y giả tự phụ thông minh, không chịu hỏi kỹ, thật là một lỗi lớn. Mệnh người rất trọng, sống chết ở tay có thể làm liều như thế được chăng? Trong Hồ hải Lưu kỳ của Vương Triệu Vân cũng nói: "Nói về mạch lý, tôi rất lấy làm ngờ. Ngẫm từ Thái sử công soạn Sử ký đã nói: "Biển Thước uống nước ở ao Thượng Trì, sau 30 ngày, có thể cách tường trông thấy được suốt nội tạng của con người, nhưng chỉ nổi tiếng về việc thiết mạch"... Xem đó đủ rõ bản ý của soạn giả ra sao. Giờ chỉ dùng 3 đầu ngón tay để lên 3 bộ ở cổ tay bệnh nhân, mà nói lên được là Tạng ấy, Phủ ấy bị bệnh, rồi phân tích nào là "thất biểu, bát lý, cửu đạo..." không sai mảy may,.. Không những ở đời này không có người có tài như vậy, mà đến đời xưa cũng rất hiếm, chẳng qua chỉ người nọ nói dối người kia đó thôi". Xem 2 đoạn văn nói về chẩn mạch của Thiềm Đông Đồ và Vương Triệu Vân vừa dẫn ở trên, tưởng các bạn đồng nghiệp chúng ta cũng nên suy nghĩ. ĐIỀU 64. PHÉP CHẨN MẠCH Ở TÂY TẠNG Trong sách Vệ tàng đồ chí của Lỗ Hoa Chúc có chép: các y giả ở Tây Tạng đều gọi là "ách mộc khí". Khi chẩn mạch, dùng tay trái chẩn tay phải của bệnh nhân, tay phải chẩn tay trái của bệnh nhân cả hai tay đều chẩn. Tôi thường đọc một quyển sách thuốc của họ, trong đó có đoạn nói về phương pháp "hai tay cùng chẩn", đại khái nói: "Hai tay đều chẩn mà luồng mạch của bệnh nhân ứng lên tay của y giả không đều nhau, sẽ là chứng triệu chết"... Đó là một điều mà trong các mạch thư của Đông y từ xưa chưa nói đến. ĐIỀU 65. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH (I) Dương Nhân Trai nói: "Phàm các loại mạch như Trầm Tế, Trầm Trì, Trầm Tiểu, Trầm Sác, Trầm Vi... đều thuộc âm.. các loại mạch như Trầm Hoạt, Trầm Sác, Trầm Thực, Trầm Đại... đều thuộc về dương. Nếu vô ý chữa lầm, sống chết như trở bàn tay... "Nhưng theo thực tế cũng có khi không hoàn toàn như vậy. Môn Hỏa nhiệt trong Danh y loại án chép: "Hồ tiên ông chữa chứng phong nhiệt không giải, mạch ở hai tay đều phục. Hồi đó bệnh ôn dịch đương lưu hành. Mấy lương y khác đều nói: "Dương chứng mà biểu hiện ra âm tượng, khó lòng chữa được. Muốn dùng bài Dương độc thăng ma thang để thăng đề lên... Tiên ông nói: “đây là chứng phong nhiệt tới cực độ, hỏa thịnh thời phục, có phải là thời dịch đâu mà thăng để giải độc. Bệnh nhân nếu cho uống thăng đề, thì sẽ chết ngay không thể cứu. Rồi ông cho uống Liên kiều Lương cách hợp tễ gia giảm, chỉ uống hết một thang là bệnh khỏi. Lại xét trong Mạch quyết ca có đoạn nói: bị thương hàn mà một bên tay mạch phục gọi là "đơn phục", cả hai tay đều phục gọi là "song phục", không thể coi là dương chứng âm mạch; đó là do hỏa tà bị uất ở trong, không phát ra ngoài được, dương cực tựa âm, nên mạch mới phục. Sẽ có lúc mồ hôi toát ra đầm đìa mà khỏi... Phàm thời chứng biểu hiện loại mạch này không phải ít. Người làm thuốc cần phải nhận xét cho tinh, không nên cố chấp thuyết của Dương Nhân Trai mà dùng thuốc sai lầm không thể gỡ. ĐIỀU 66. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH(II) Trong Thương hàn luận của Trọng Cảnh: chứng kết hung nhiệt thực, mạch Trầm và Khẩn, tâm hạ đau, ấn tay vào rắn như đá, chủ dùng bài Đại hãm hung thang. Trong Kim quỹ chữa chứng hàn sán đau quanh rốn. Mỗi khi lên cơn đau nước miếng ứa ra, tay chân quyết lãnh, mạch Trầm Khẩn... chủ dùng bài Đại ô đầu tiễn. Cùng một loại mạch Trầm Khẩn, mà một đằng thuộc nhiệt, một đằng thuộc hàn... Vậy khi lâm sàng, ta có thể chỉ chuyên bằng cứ vào mạch được chăng? ĐIỀU 67. CHUYỆN TRÒ VỀ MẠCH (III) Mạch tượng "hư" và "thực” khi mới chẩn rất dễ lầm lẫn. Diệp Tư Liên viết trong y án chữa một người phụ nữ, nói: "Diệp chẩn mạch thấy biểu hiện cực đại hoặc cực vi, cần phải suy xét cho kỹ. Nếu cực đại mà vô lực, nên đề phòng dương khí phù tán ra bên ngoài; nếu thấy biểu hiện ra cực vi, nắn mãi mới nhận ra được, khi đó dần dần ấn nặng đầu ngón tay xuống tới áp xương thấy mạch càng tỏ ra "kiên lao"... ta không thể coi đó là hiện tượng hư hàn. Chứng này, trong 6 bộ đều không có mạch, mà về phía sau xích bộ thì lại Sác mà có lực... Như vậy là thuộc về lại mạch "phục nặc" (ẩn nấp). Dương bị ẩn nấp ở dưới, là đã bị "cang” tới cực độ rồi. Còn câu nệ sản hậu cấm dụng hàn lương được sao?..." ĐIỀU 68. PHÂN TÍCH MẠCH CỦA UÔNG THẠCH SƠN Trong y án của Uông Thạch Sơn có chép một án như sau: "Vương nghi nhân sau khi đẻ, tắm gội, phát sốt nóng nôn mửa, nói nhảm như cuồng, uống ăn giảm ít. Vì thể chất to béo không chịu uống thuốc bổ, Các lương y cho uống loại thuốc thanh lương, bệnh càng nặng thêm. Uông chẩn mạch: 6 bộ đều Phù, Đại, Hồng, Sác... Uông nói: sau khi đẻ, khí huyết hao tổn mất nhiều, cô dương phù ra bên ngoài, trong "chân hàn" mà ngoài biểu hiện giả "nhiệt", cần phải đại bổ khí huyết mới được. Liền dùng Bát chân thang gia Bào khương 8 phân cho uống. Sốt nóng bớt được quá nửa. Bệnh nhân tự cho mình không nên dùng Sâm Kỳ, mặc dù bệnh thế đã giảm, cũng không chịu uống tới thang thứ 2. Qua một ngày lại bốc lên sốt nóng như lửa. Uông Thạch Sơn lại cho uống bài trước, ngầm cho thêm Sâm Kỳ và Bào khương, uống luôn 3 thang, các chứng hậu đều khỏi hẳn. Xem bệnh tình và mạch tượng trong y án trên không có một điểm gì là có thể dùng thuốc ôn bổ, thì các y giả cho uống thanh lương tưởng cũng không lấy gì làm quá đáng. Nhưng đến khi uống thuốc thanh lương mà bệnh lại nặng thêm, bấy giờ mới biết là nên dùng ôn bổ. Nhưng nếu không tinh thông như Thạch Sơn thì cũng chưa chắc đã dám dùng ôn bổ. Có một điều là: mạch tuy Phù, Đại, Hồng, Sác, mà trọng án tất phải vô lực, như luận án của Diệp Tư Lan ở trên, điểm này có lẽ trong án của Uông tiên sinh nói còn sót. ĐIỀU 69. LẠI BÀN VỀ MẠCH Mạch đi đương Sác mà bỗng ngừng, rồi lại có, như vậy gọi là "Súc". Súc chủ về nhiệt, trong các mạch thư đều nói như vậy. Nhưng cũng có khi phát sinh bởi hàn. Như Thương hàn luận nói: "Mạnh súc, tay chân quyết nghịch, nên cứu...." Các nhà chú giải đều nói: "Khí chân dương vốn động, bị hàn tà dồn ép, thì biểu hiện mạch tượng Sác mà Súc". Mạch hành đương hoãn mà bỗng ngừng, rồi lại có, như vậy gọi là "kết", chủ về hàn. Nhưng cũng có khi lại vì nhiệt mà kết. Như "bệnh ở Thái dương mình phát hoàng, mạch Trầm Kết, thiếu phúc rắn, tiểu tiện lợi, bệnh nhân như cuồng, đó là biểu hiện của huyết chứng, dùng bài Để đương thang làm chủ...". Các nhà chú giải đều nói: "thấp với nhiệt cùng chọi nhau, mạch hãm là thấp..." mạch tượng của chứng "lý thấp", thường biểu hiện Trầm kết..." Trên lâm sàng có khi phải xả mạch tòng chứng, lý do là như thế. ĐIỀU 70. NHẬN THỨC VỀ THIẾT CHẨN Về Thiết chẩn, ở ta từ xưa đến nay, vẫn theo phương pháp chia 3 bộ Thốn Quan, xích phối hợp với các tạng phủ. Trong Mạch học thần chương của cụ Hải Thượng cũng dập theo các thuyết của Phùng Thị và Cảnh Nhạc, không hề thay đổi. Theo ý tôi, thì có khi nên phân, cũng có khi không cần phải phân. Như Thiên Ngọc khu chân tàng luận trong Tố Vấn viết: "Xuân mạch như Huyền, Hạ mạch như Câu... Thương hàn luận viết: "Bệnh ở Thái dương mạch Phù; bệnh ở Thiếu âm mạch Vi Tế...” Như vậy là không cần phân Tạng Phủ. Lại như thiên Đại kỳ trong Tố Vấn viết: "Thận mạch Đại, Trầm, Cấp.... là bệnh Sán; Can mạch Tiểu và Hoãn là trường tích", và: "Can, Thận đều Trầm là Thạch thủy, đều Phù là Phong thủy" v.v....đó lại là những trường hợp cần phải phân Tạng Phủ. Vậy đối với phân Tạng Phủ hay không phân Tạng Phủ, ta cần phải linh hoạt vấn đề sử dụng, không nên quá câu nệ máy móc. ĐIỀU 71. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (I) Chữa bệnh, điều chủ yếu nhất là chẩn mạch, biện chứng. Phương pháp chẩn mạch bao quát ở trong 8 chữ: "có thần, không thần, có lực, không lực”. Biết được có thần hay không, thì người đó sống hay chết có thể phân biệt. Biết được có lực hay không thì chứng đó hư hay thực có thể nhận định. Sau khi đã biết được mạch và chứng, đem chứng hợp với mạch, thì bệnh đó chết hay sống, hư hay thực, nội thương hay ngoại cảm.. sẽ nhận định được rõ ràng. Như chứng hư, mạch vô lực, nên bổ; chứng thực, mạch vô lực, cũng nên bổ; Chứng thực, mạch có lực, nên tả; chứng hư, mạch có lực, cũng nên tả. Biết rõ được quan điểm hư, thực, bổ, tả... như vậy là đã đi sâu được quá nửa nhiệm vụ. Lại phải nhận định thêm, như nói: Có lực, không lực, nên bổ, nên tả, không phải chỉ nói riêng một kinh mà thôi, mà phải nhận rõ bộ nào có lực thì nên tả bộ nào; bộ nào không lực thì nên bổ bộ nào. Hoặc vì bộ này có lực, để đến nỗi bộ kia không lực... Đều phải chia rõ từng kinh để nhận xét, thì dưới tay mới được rõ ràng, mà trong đó mới có định kiến, khi lâm sàng không còn phải dò dẫm bắt cá 3, 4 tay nữa. ĐIỀU 72. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (II) Chủ yếu của phương pháp chẩn mạch không ngoài hai chữ "hư, thực". Muốn nhận rõ "hư, thực” chỉ cần xét mạch tượng "đại, tiểu, nhuyễn, nhuận” ở bộ phận Nhân nghinh và Khí khẩu. Như Can mạch thấy Phù, đáng lẽ là bệnh phong, nhưng nếu mạch ở Nhân nghinh không Phù, thì không phải là chứng phong. Tỳ mạch thấy Trầm, đáng lẽ là bệnh thấp, nhưng nếu mạch ở Khí khẩu không Trầm, thì không phải là chứng thấp. Phàm thăm bệnh, ngoài thời biện lục khí, trong thời biện thất tình, mà chủ yếu là phải căn cứ vào Nhân nghinh và Khí khẩu. Trong Nội kinh phân biệt Nhân nghinh và Khí khẩu rất tường tận, bạn đọc nên nghiên cứu. ĐIỀU 73. NHẬN THỨC VỀ MẠCH CHẨN (III) Chẩn mạch, án cả 3 bộ, để nhận xét về khí huyết của toàn thân; rồi chỉ án một ngón để nhận xét sự thịnh suy của các kinh. Tựu trung duy có hiện tượng Trầm Vi của xích bộ là rất khó phân biệt. Nhưng dù sao, Xích bộ là căn bản của Mạch, không thể lơ là. ĐIỀU 74. BỆNH ÁN VỀ VỌNG CHẨN Trong tứ chẩn, vọng chẩn là đứng đầu. Người xưa cho là bậc "Thần”. Nhưng thực tế thì đồng nghiệp ta từ xưa đến giờ ít có người chú ý đến công tác đó, chỉ đổ xô cả về môn "thiết" là bậc "Xảo", thật là một chủ quan đáng tiếc. Tuy vậy, về công tác đó cũng không phải là hoàn toàn không có người đặc sắc. Trong Phúc Kiến Trung y tạp chí năm 1959 có đăng một bài bút ký đầu đề là "Xem sắc mặt dự biết ngày ốm chết" của Lý Kiệm Di, nội dung tự thuật và phân tích khá tinh vi và lý thú. Tóm tắt giới thiệu bài viết của Lý Kiệm Di như sau: "Ông nhạc tôi là Vương Hữu Toàn, bình nhật rất ham nghiên cứu học thuyết Âm Dương - Ngũ hành và có tài nhận xét khí sắc để quyết đoán việc sống chết. Có bác họ Du làm nghề chở đò, bạn thân với ông nhạc tôi. Bác ta thể lực rất khỏe, bình sinh chưa từng ốm đau bao giờ. Hôm đó gặp tiết nguyên tiêu, trăng trong gió mát, ông nhạc tôi mời mấy ông bạn đến ngồi chơi ở nhà tôi, uống trà, nói chuyện. Đương lúc chuyện trò vui vẻ, ông nhạc tôi cứ chú ý trông sắc mặt bác Du, bỗng tỏ vẻ không vui, nói với bác Du: hai gò má bác có hai điểm sắc đỏ bằng đầu ngón tay, mà đầu mũi lại có vẻ xanh xám. Đến cuối mùa hạ năm nay e sẽ bị bệnh, mà là bệnh nặng, không khéo nguy đến tính mệnh.... Bác Du nghe nói, đỏ bừng mặt, không bằng lòng, hất hàm một câu: có lẽ nào thế được, tôi không tin.... Không ngờ đến trung tuần tháng 6, bác Du bỗng dưng tinh thần mê man. Bệnh càng ngày càng nặng... Qua các thầy thuốc Trung Tây chẩn trị và cả châm cứu đều vô hiệu. Tôi bấy giờ mới ngoài đôi mươi, mới bắt đầu làm nghề thuốc, cũng điều trị 5, 6 ngày, tự nhận thấy mình học thuật còn nông, kinh nghiệm còn ít, tìm hết cách xoay xở, cũng chỉ nhu ném đá xuống nước, không chút thuyên giảm, rất lấy làm áy náy. Một hôm tôi rủ ông nhạc tôi cùng đến thăm, ông nhạc tôi bảo nhỏ tôi: Ấn đường, sơn căn đen như ám khói, sắp mặt khô khan. Đó là hiện tượng "Hỏa đương phạm kim" sắp hóa thành đốt cháy; khí của Tỳ Vị đã kiệt, hễ gặp ngày Bính Đinh là ngày hỏa vượng, tất sẽ chết. Qua 3 ngày sau, bỗng thấy đờm kéo lên cổ, hơi thở gấp rút, tay chân co giật... dần dần tắt nghỉ. Qua cái chết của bác Du, tôi mới tin ông nhạc tôi đoán là đúng. Tôi liền yêu cầu giải thích cho tôi biết nguyên nhân cái chết của bác Du. Ông nhạc tôi nói: "Hai gò má với đầu mũi biểu hiện sắc đỏ sẫm, là tượng trưng hỏa thắng hình kim. Ấn đường, Sơn căn ám đen là tượng trưng thổ khí suy kiệt, không còn năng lực sinh khí kim nữa. Mùa Hạ Hỏa vượng, Kim càng bị nung đốt, có khác chi hai búa cùng chặt một cây... Nên mới đoán là sẽ chết về khoảng cuối Hạ đầu Thu. Nghe qua lời chỉ dẫn, tôi nhận thấy là có căn cứ, có đầu mối rành mạch, không có gì là trừu tượng. Vậy thì nhận xét sắc mặt mà đoán được sống chết có phải là chuyện viển vông đâu". Trên đây là lời tường thuật lại của Lý Kiệm Di. Xem xong, ta lại liên tưởng đến câu chuyện Biển Thước đoán bệnh Tề Hoàn Hầu và Trọng Cảnh đoán bệnh Vương Trọng Tuyên cũng không phải hoàn toàn là người xưa thêu dệt. Nếu bác họ Du là người có cảnh giác, biết tin theo lưu ý của bạn, mà dùng phương pháp" tả hỏa thanh kim" hoặc "bồi thổ, ức can" ngay từ trước, thì lo gì cuối Hạ sang Thu còn phát sinh bệnh. Xem vậy ta càng nhận thấy học thuyết "Ngũ hành" và "Thiên nhân hợp nhất” của người xưa là đúng. CHƯƠNG VI: KINH LẠC VÀ CHÂM CỨU ĐIỀU 75. KINH LẠC VỚI TÁC DỤNG CHỮA BỆNH Trương Tử Hòa có câu:"...Làm thuốc không thông hiểu 12 kinh lạc, chẳng khác nào người chống gậy đi đêm..." thật là rất đúng. Xin dẫn một vài trường hợp làm ví dụ: như người bị chứng đau ở họng (hầu thống). Chứng này chia ra thực và hư khác nhau. Thực thì do cảm nhiễm ngoại tà, hư thì phần nhiều do Thận thủy bất túc. Thận thủy bất túc mà gây nên chứng đau ở họng là vì sao? Bởi đường mạch của Thiếu âm Thận đi lên họng, chằng sang cuống lưỡi. Lại như chứng hai bên hiếp (lườn) là con đường tuần hành của Can kinh, cho nên gặp chứng đau tại bộ phận "hung hiếp" thì cần phải dùng tới phương pháp "sơ can” để điều. Âm nang Sà hai bên gần bẹn cũng thuộc về bộ phận của Can kinh, cho nên các chứng Sán khí và đau tại bụng dưới, gần hai bẹn, cũng phải nhằm Can kinh để điều trị. Tóm lại, mối quan hệ biểu lý của 5 Tạng 6 Phủ và khí huyết chu lưu ở khắp thân thể con người hết thảy đều phải lấy kinh lạc làm con đường giao thông. Một khi nội tạng bị bệnh, đều thông qua đường kinh lạc để biểu hiện ra ngoài..Do đó, Kinh lạc học thuyết, không riêng gì người học khoa châm cứu cần phải học mà phàm người học về ngành Y cũng đều phải học. ĐIỀU 76. NHỮNG THU HOẠCH VỀ CHÂM CỨU Tôi bắt đầu nghiên cứu về khoa Châm cứu từ năm 1955, qua một thời gian ngắn cho ra quyển "Châm cứu sơ bộ thực hành”, bác sĩ Phạm Bá Cư viết lời tựa. Cách đó ít lâu, bác sĩ Phạm Bá Cư cho tôi xem quyển Tân châm cứu học của bác sĩ Chu Liễn soạn, đồng thời yêu cầu tôi dịch, Lúc đó vì còn là mới nghiên cứu, nên cái sơ hở của Chu Liễn chưa phát hiện ra được. Qua mấy năm sau, tiếp tục dịch luôn mấy bộ lớn như Linh khu, Châm cứu đại thành, và Châm cứu Lâm sàng thực nghiệm của Đại điền Văn Chí.. càng ngày càng đi sâu vào lý luận, càng nhận thấy khoa học châm cứu là vừa sâu, vừa rộng, tuy không phải là vạn năng, nhưng cũng có thể trị liệu được tới 6,7 phần mười các loại bệnh, vô luận là Nội thương hay Ngoại cảm phụ khoa hay nhi khoa, đều cố công hiệu rõ rệt. Tôi tuy biết vậy, nhưng vì tuổi già tay run, thủ thuật thường khi không được chính xác, nên phần nhiều chỉ chữa được những loại bệnh thông thường, như rức đầu, đau bụng, đau rức cánh tay, khớp chân v.v...Còn những bệnh khó thì hiệu quả không thu được mấy. Tựu trung có một vài bệnh về nội thương, lúc bắt đầu chữa chưa dám nắm chắc là sẽ đạt được yêu cầu, vậy mà lại thu dược kết quả khả quan, có thể làm một phần thưởng khuyến khích bằng tinh thần cho sự cố công nghiên cứu. Xin ghi một bệnh về Kinh bế và một bệnh về Di tinh để tự rút kinh nghiệm. 1. Chị Nguyễn Thị Phi Loan, 16 tuổi, ở phố Hàng Lược, (quận Hoàn Kiếm) Hà Nội, học sinh lớp 8 trường phổ thông, mẹ mất sớm, ở với bố. Vào khoảng mùa xuân năm Nhâm dần (1962) bắt đầu hành kinh. Vì là lần đầu thấy huyết ra, không biết là hành kinh, rất hoảng sợ, vào buồng tắm cặm cụi rửa...Rồi cứ lúc nào thấy huyết ra là lại rửa mất tới 20, 30 phút. Kinh ra tới 4 ngày mới sạch, cũng rửa cả 4 ngày, cứ một mình vừa cặm cụi vừa lo lắng...cũng không dám hé răng với ai. Sau khi kinh sạch được vài ngày, thấy tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh, da thường nổi gai óc, eo lưng đau rức, các khớp chân tay rã rời, hoa mắt, chóng mặt, húng háng ho luôn...Uống ăn kém sút...Nhân có ông bạn của bố là bác sĩ, Ông bố liền đưa tới khám bệnh. Bác sĩ đoán là bệnh phổi, vừa dùng thuốc tiêm, thuốc uống tới ngót 1 năm, bệnh tình lại càng ngày càng nặng. Sau đó một người bạn thân của Loan trước đã có uống thuốc của tôi được khỏi bệnh mách, ông bố mời tôi đến chẩn trị. Khi tôi tới thăm, thấy Loan thân thể gầy còm, sắc mặt xanh nhợt, tinh thần hoảng hốt, tiếng nói nhỏ yếu, rêu lưỡi trơn trắng, cả 6 bộ mạch đều Tế Nhược và Sác...Tôi hỏi đến kinh nguyệt thì Loan thẹn ngoảnh mặt đi không dám nói. Tôi liền ra ngoài thấy có một bà già đi lại săn sóc, nghe nói là bà thím, tôi liền bảo bà ấy hỏi hộ, và dặn phải hỏi rất cặn kẽ, tỉ mỉ...kết quả được bà già nói lại tình hình khi mới hành kinh như tôi vừa thuật ở trên, và lại nói thêm đã hơn 14 tháng rồi cháu không hành kinh nữa. Sau khi nghe bà già nói, tôi liền kết hợp với Vọng, Văn, Thiết vừa rồi, đoán là “hàn tà lọt vào huyết thất”. vì hán tà làm ứ trệ ở Huyết hải, khiến cho hai mạch Xung, Nhâm mất sự giao lưu nên mới thành ra kinh bế; vì kinh bế nên mới ảnh hưởng đến Tỳ Vị mà phát sinh các chứng hậu như trên; chứ không phải là bệnh ở Phổi. Nhân đó, tôi vạch ra phương pháp lấy "Ôn kinh, kiện Tỳ", "hành khí bổ huyết" làm chủ. Vì ông bố nghe nói tôi nghiên cứu về khoa Châm cứu đã lâu năm nên yêu cầu tôi dùng châm. Tôi liền châm các huyệt: Phế du, Tỳ du, Thận du, Quan nguyên, Huyết hải, Tam âm giao. Lưu kim 20 phút. Sau khi rút châm tiếp tục cứu luôn lên trên các huyệt đó. Ngày hôm sau tới thăm, tinh thần coi có vẻ khá hơn hôm trước, ho cũng đỡ. Liền châm và cứu thêm các huyệt Cao hoang, Nội quan, Chí thất, Mệnh môn, Bào hoang, Trung Cực, Tam âm giao v.v...Ngày thứ 3 tôi tới thăm, lại thấy tiến bộ hơn trước, coi mặt Loan đã có vẻ hớn hở. Từ hôm đó trở đi, lại bổ sung thêm mấy huyệt Hoang du, Trung chử, Qui lai, Khí hải, Can du, Đới mạch v.v...cùng với các huyệt trên thay đổi mà châm cứu. Tới ngày thứ 9, bệnh tình đã giảm được 60% đến 70%. Tôi liền bảo ông bố cho uống thêm mấy thang Qui tỳ, uống xen kẽ với Bát chân thang gia giảm cho chóng bình phục. Ông bố đồng ý. Từ hôm đó trở đi lại cứ vừa châm cứu vừa uống thuốc tới 16 ngày, các chứng hậu hoàn toàn khỏi hẳn, ăn ngon, ngủ được, tinh thần sảng khoái. Ông bố định cho ăn uống bổ dưỡng hai tuần nữa, sẽ tiếp tục cho đi học. (Uống hết 2 thang Qui tỳ và 2 thang Bát chân gia giảm). 2. Hoàng Hữu Hưng, 30 tuổi, giáo viên trường Phổ thông cấp 2 bị bệnh di tinh đã lâu năm, có khi mộng mới di, có khi mới chợt nghĩ đến đàn bà cũng di. Uống và tiêm hết rất nhiều thuốc Đông, Tây đều không khỏi. Khi đến yêu cầu tôi chữa, tôi chẩn thấy Thốn quan Huyền Hoạt, Xích bộ Trầm Tế, sắc lưỡi đỏ bóng không rêu... Tôi đoán đó là hiện tượng của bệnh "Thoát dịch”, vì thường cứ cách một ngày hoặc hai ngày lại di một lần, do đó tinh thần kém sút, thân thể gầy còm, trí nhớ giảm, chân đi chóng mỏi, eo lưng đau rức, đầu choáng mắt hoa... Nội kinh nói: "Tâm là quân Hỏa, thận là tướng Hỏa, vì lo nghĩ quá độ, hoặc tình dục không ngừng, khiến cho quân hỏa bốc ở trên, tướng hỏa nung ở dưới, thủy với hỏa không tương tế lẫn nhau, do đó mà dễ bài tiết. Vì tinh dễ bài tiết, nên Thận tạng hư tổn, chân nguyên không bền cứ vào khoảng 3, 4 giờ sáng, khi sinh dương bắt đầu phát triển, tức thì dồn tinh tràn ra... vì vậy nên phần nhiều di vào lúc gà gáy. Tinh đã bài tiết ra mất quá nhiều, nên mới gây nên các hiện tượng như vừa nói ở trên. Tôi liền châm các huyệt Tâm du, Trung cực, Hoàn khiêu, và cứu các huyệt Khí hải, Thận du, Tinh cung. Các huyệt tôi sử dụng trên, chủ yếu là: bổ thận, Nhiếp tinh, Ninh Tâm, ích khí v.v...LÚC đầu còn tưởng hãy châm cứu một liệu trình 5 ngày rồi bảo họ kết hợp với uống thuốc, dùng những bài như Kim tỏa cố tinh, Kim thủy nhị tiên và Thiên vương bổ Tâm v.v... Không ngờ mới điều trị được hết một liệu trình, bệnh tình đã giảm được tới 60-70%, nên thôi không bảo họ uống thuốc nữa, tiếp tục lại châm và cứu thêm 3 liệu trình nữa, bệnh tình hoàn toàn khỏi hẳn. ĐIỀU 77. CHÂM CỨU CHỮA HOÀNG ĐẢN Đinh Vãn Quang, 47 tuổi, nghề nông, quê làng Phù Long, huyện Phúc Thọ (Sơn Tây), tháng 7 năm 1957 khi vụ gặt chiêm phơi phóng vừa xong, bị bệnh sốt nóng, sợ rét, tinh thần mỏi mệt, ăn uống kém sút... Mỗi cơn sốt kéo dài tới 3, 4 giờ mới lui... Trước còn mỗi ngày một cơn, sau dần dần 2, 3 ngày một cơn... cứ dai dẳng như thế mãi tới tháng 5 năm 1958, bỗng thấy màu da biến thành sắc vàng, cả lòng trắng mắt cũng vàng. Trong gần một năm trời đó đã uống khá nhiều các thuốc Tây, Ta, mà chỉ như muối bỏ bể. Đến lúc da biến sắc vàng, lại xoay sang chữa Hoàng đản, chữa mãi tới tháng 4 năm 1959 cũng vẫn không kết quả. Tới trung tuần tháng 10, người nhà đưa đến nhà tôi điều trị. Xét về hiện chứng sốt nóng, rét run, cứ 2,3 ngày lên một cơn. Sắc mặt vàng xạm, không có vẻ bóng; hai bên lòng trắng mắt đều vàng; khắp mình màu da cũng xạm xỉn; bụng trên đầy tức khó chịu, uống ăn kém sút; khi ăn vào, bụng lại càng đầy tức; thường váng đầu hoa mắt, trong tâm hồi hộp, tinh thần mỏi mệt, tay chân gầy róc, nhiều khi giá lạnh; ỉa lỏng, sắc vàng; nước tiểu vàng đục, có lúc đỏ sẫm; rêu lưỡi trắng nhợt và nhớt... Mạch Huyền, Trì, Hoãn; bên trái cường, bên phải nhược. Xét về hiện tượng, đúng như bệnh Cốc đản trong Kim quỹ Trọng Cảnh nói: "Bệnh cốc đản, phát hàn nhiệt, không ăn được, hễ ăn vào thì choáng đầu hoa mắt, Tâm Tỳ không yên, lâu thì phát hoàng, gọi là Cốc đản...” So với bệnh này thật không khác. Đến như các nguyên nhân phát sinh chứng Cốc đản, trong Kim quỹ cùng nói rõ: "Phong với hàn chọi nhau, ăn cơm vào hoa mắt, cốc khí không tiêu; trong Vị chứa nhiều trọc khí, sẽ luôn luôn chảy xuống phạm vào Thận; Thận âm bị trọc tà xâm phạm, không những làm cho tiểu tiện không thông lợi, đồng thời những chất vẩn đó lại chạy vào Bằng quang, ứ đọng lại, đến nỗi làm cho khắp mình biến thành Hoàng đản... Như vậy gọi là Cốc đản". Xem đoạn nói đó, đủ thấy rõ là bệnh này phần nhiều do phong hàn từ bên ngoài phạm vào, Tỳ hư không tiêu hóa được thức ăn, ăn vào không tiêu, thì trong Vị sinh ra trọc khí, trọc khí đó trước phạm vào Thận, sau dồn ra Bằng quang, gây nên tình trạng phát hoàng. Lại xét: bệnh nhân vốn là nông dân, hằng bị mưa dầm dãi nắng, uống ăn lại khi no khi đói không đều, Tỳ Vị rất dễ bị thương, mất sự vận hóa nên mới phát sinh bệnh này. Căn cứ vào hiện chứng và tài liệu trong Kim quỹ có thể đoán định bệnh này là "Cốc đản" vì bệnh phát sinh đã quá lâu, bệnh tà và chính khí đều đi tới tình trạng kém sút, nên phải dựa vào mặt "âm hoàng" để điều trị. Chủ yếu là ôn bổ Tỳ Vị, một khi Tỳ Vị đã khỏe, thì thấp khí sẽ tiêu, không chữa hoàng mà hoàng tự khỏi. Phương pháp điều trị: cứu làm chủ yếu, châm là thứ yếu. Các huyệt sử dụng, ngoài các huyệt kinh nghiệm của người xưa, như Uyển cốt, Chí dương, Lao cung, Nội quan... còn lấy các du huyệt, Mộ huyệt làm chủ, như Can du, Tỳ du, Vị du, Đởm du, Trung quản, Chương môn, Kỳ môn v.v... đều thay đổi sử dụng. Bởi Du với Mộ đều là nơi lưu trú, du tổng của bản kinh bản tạng; châm cứu các huyệt đó có mục đích là trực tiếp tới bản tạng để đi tới tác dụng điều chỉnh và khôi phục. Ngoài các huyệt của Đốc mạch như Đại chùy, Thân trụ, Chí dương v.v... Các huyệt của Nhâm mạch như Quan nguyên, Khí hải và các huyệt của Tỳ Vị như Túc tam lý, Tam âm giao v.v... đều có tác dụng cường tráng và điều bổ... cũng đều thay đổi sử dụng. Phần nhiều châm rồi lại cứu, có khi chỉ cứu không châm. Tôi ấn định cứ 4 ngày là một liệu kỳ. Hết một liệu kỳ, nghỉ 2 ngày, lại tiếp tục trị liệu. Qua 2 liệu kỳ trước, bệnh tình chỉ đứng vững, không hề thay đổi. Từ liệu kỳ thứ 3 trở đi, mỗi ngày thấy giảm bớt dần dần.... Tới hết liệu kỳ thứ tư, ăn đã ngon, mỗi bữa 3 bát, mà sau khi ăn xong, không còn có những hiện tượng hoa mắt, đầy ưu tư như trước nữa. Trước sau, cứu và châm tới 8 liệu kỳ, các chứng trạng hoàn toàn khỏi hẳn. Bệnh nhân xin về quê. ĐIỀU 78. CỨU NGẢI CHỮA LOA LỊCH (TRÀNG NHẠC) Phạm Văn Hổ là một danh y đời Mãn Thanh bên Trung Quốc, chữa bệnh chuyên dụng thang dược. Thỉnh thoảng cũng có dùng phép cứu. Đặc sắc nhất là chữa bệnh Tràng nhạc. Không theo các huyệt kinh nghiệm cổ truyền, mà thu được kết quả mỹ mãn. Phương pháp lấy huyệt: bảo bệnh nhân xoạc thẳng ngón tay cái và ngón tay trỏ, như gang tay để đo. Rồi để đầu ngón tay trỏ lên giữa ngoại khỏa (xương khoai bên ngoài), còn ngón tay cái thì cứ hướng thẳng ngược lên sườn ngoài xương ống. Hễ đầu ngón tay cái chạm đến đâu tức là huyệt ở đấy (gần với huyệt Quang Minh). Sau khi đã lấy được huyệt, bảo bệnh nhân nằm nghiêng để cứu. Cứu bằng mồi ngải, không để cách gừng, 7 tráng thì thôi. Sau khi cứu xong, lẽ tất nhiên là chỗ cứu phải phồng, cứ để vậy không phải bôi gì, chỉ có khi nào tự vỡ, chảy nước, thì tán bột mai mực, rắc lên, sẽ khỏi. Trong thời kỳ chỗ vết cứu chảy nước, tức là thời kỳ tràng nhạc ở trên nhỏ dần, rồi đến tiêu hết, ít khi phải cứu tới lần thứ hai. ĐIỀU 79. HUYỆT PHONG PHỦ ĐỐI VỚI CẢM PHONG Người ta bị cảm phong, tất phải qua huyệt Phong phủ, nếu là người tinh ý, hễ cảm thấy phía gáy có vẻ "ghê ghê rờn rợn".... tức thì phát sinh hắt hơi, rồi tiếp đến phát nhiệt, ố hàn... Về mùa nhiều gió, ta nên phòng bị giữ kín gáy, không nên để hở. Tư sinh kinh chép rằng: "... Kỳ Bá đáp câu Hoàng đế hỏi: cự dương là một kinh thuộc về các kinh dương. Luồng mạch của nó nối liền Phong phủ, nên là chủ khí của các kinh dương. Xem vậy thì huyệt Phong phủ chính là nơi phát sinh ra bệnh Thương hàn. Trong Châm cứu Tụ Anh chép: người phương Bắc thường dùng các thứ da có lông để quàng sau gáy; ở phương Nam, những người yếu cũng thường lấy bông hoặc lụa quàng vào gáy... gọi là "hộ hạng"... tuy chỉ là tập tục mà rất hợp với y lý. Người đời nay, chỉ về mùa rét mới dùng khăn quàng cổ, còn 3 mùa kia đều bỏ qua... Tưởng cũng là quan niệm không đúng. ĐIỀU 80. MỐI LIẾN QUAN GIỮA Y DƯỢC VÀ CHÂM CỨU Có người quan niệm là châm cứu với y dược không liên quan gì với nhau, nên khi nghe chữa bệnh bằng châm cứu vừa nhanh chóng, vừa giản tiện, thích hợp với mục đích "nhanh, nhiều, tốt, rẻ" thì phấn khởi muốn theo học, còn nói đến học y lý thì lắc đầu, lè lưỡi, cho là khó khăn man mác, học làm sao được. Quan niệm như vậy là lầm. Về hình thức trị liệu thì dù là hai khoa khác nhau; mà về phần lý luận cơ bàn thì vẫn chỉ có một, vẫn dùng chung một học thuyết Âm dương, Ngũ hành, Tạng phủ, Kinh lạc. Không khoa nào có thể tách rời được. Từ năm 1955, tôi bắt đầu đi sâu vào khoa châm cứu, vừa đồng thời hành y vừa châm cứu, tôi nhận thấy lắm lúc hành y gặp trường hợp bí phải nhờ tới học thuyết của khoa châm cứu mới tháo gỡ bí tắc. Thí dụ: Năm 1962, tôi chữa một người ở Vân Hồ là Đào Thị Du, đã ngoài 30 tuổi và góa chồng đã 2, 3 năm. Một hôm, vào khoảng 12 giờ trưa, bỗng dưng thố ra hàng mấy bát nước chua, tới chừng khoảng 14 giờ bắt đầu đau bụng, đến 15 giờ thì đau kịch, đến nỗi ngất đi, mãi tới 18-19 giờ mới hồi tỉnh. Thuốc Tây thuốc ta đã dùng khá nhiều mà vẫn không chút công hiệu. Khi người nhà đến kể bệnh và xin đơn, tôi kê bài Nhị trần làm chủ dược, gia thêm mấy vị giáng khí, hành khí và sơ can, Bình Vị v.v... bảo cắt luôn 2 thang về sắc cho uống. Đến ngày thứ ba, người nhà đến nói bệnh không chuyển chút nào và yêu cầu tôi tới chẩn. Khi tới nơi, trông thấy bệnh nhân sắc mặt tiều tụy, thân thể mỏi mệt, mạch 6 bộ đều Trầm Sác... Hỏi lại quá trình tật bệnh, thì người nhà nói: hôm nào cũng bắt đầu thổ nước chua và ngất một cơn, mà đều vào khoảng 14-15 giờ, tôi xem lại đơn của các lương y trước, đã có đơn chữa về mặt đờm khí và kiêm thấp nhiệt; cũng có đơn chuyên chữa về mặt hàn thấp... Tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi, không biết dùng phương pháp gì để điều trị. Bỗng nhớ đến câu: "Vị Thân thì khí hành Bàng quang” ở trong Giáp ất kinh liền liên tưởng đến chứng hậu của bệnh nhân đau kịch vào khoảng 14-15 giờ tức là khoảng 2 giờ Thân Vị... lại liên tưởng đến mạch Trầm Sác mình vừa chẩn xong, nhân nghĩ: có lẽ là vì có ứ huyết tụ đọng tại kinh Bàng quang, nên cứ đến lúc bấy giờ thì đau chăng? Nghĩ vậy, tôi liền dùng các vị: Qui Vỹ, Hồng hoa, mỗi vị 3 đ.c. Can tất 5 đ. c, Cam thảo 1 đ. c., bốn vị làm một thang cắt cho uống. Uống hết một thang, hết thổ, đỡ đau, cả chứng ngất cũng ngắn hơn trước. Ngày hôm sau uống thêm thang nữa, 10 phần khỏi 8, 9. ngày thứ 3 vẫn dùng mấy vị trên, gia thêm Đại hoàng, Đào nhân mỗi vị 2 đ.c., uống hết thang thứ 3, đái ra 2, 3 bãi toàn máu đặc, sắc đỏ sẫm... Rồi các chứng hậu đều khỏi hẳn. Sau khi chữa khỏi, tôi lại tự nhủ: "Nếu trường hợp đó mà không nhớ được câu ở trong Giáp ất kinh, thì không biết mình sẽ xoay xở ra làm sao? ĐIỀU 81. LẠI BÀN VỀ CHÂM CỨU (I) Từ năm 1960 đến nay (1964), khoa châm cứu ở nước ta phát triển khá rộng. Song khá tiếc chỉ có rộng mà không có sâu, nên ảnh hưởng tới giá trị của khoa châm cứu cũng không phải ít. Đó là một điểm đáng tiếc. Tôi thiết nghĩ, châm cứu tuy chỉ là một phương pháp ngoại trị, nhưng nếu không nắm vững được lý luận cơ bản của Đông y và không sử dụng được bát cương, bát pháp trong nguyên tắc trị liệu, cũng không sao thu được kết quả tốt. Nhất là vấn đề thủ thuật, lại càng phải rèn luyện tốn công phu, chứ không phải chỉ cầm châm, châm được đúng vào huyệt, rồi lay lay mấy cái, hoặc rút châm ra ngay, hoặc lưu châm mươi lăm phút, đã là đủ. Chủ yếu của thủ thuật là "bổ" với "tả”. Dùng thủ thuật, nếu không đúng, sẽ đưa đến tình trạng: đáng lẽ có bổ mà lại hóa ra tả, đáng lẽ tả mà lại hóa ra bổ, phạm vào lỗi "hư hư thực thực" chữa nhả hóa mù". - Tôi thường thấy có người chữa cho một bệnh nhân bị chứng "mất ngủ" do Tâm hư thần không ổn định, châm huyệt Thần môn để định chí, an thần, đáng lẽ phải dùng thủ thuật bổ, đàng này lại tả, không những không thu được kết quả, bệnh tình lại thêm trầm trọng. - Tôi lại thấy có người chữa một bệnh nhân bị chứng "thấp nhiệt úng trệ, Vị quản bị trướng....” đáng lẽ phải tả Túc Tam lý, đồng thời tả cả Hợp cốc để dồn bỏ các chất "đục" và nghịch khí xuống, thì Trung cung nới rộng, mà chứng trướng và khó chịu ở Vị quản sẽ tiêu...đằng này lại bổ cả Túc Tam lý và Hợp cốc, làm cho chứng bĩ trướng ngày càng nặng. Gặp những trường hợp như vậy, ta có nên trách khoa châm cứu là không công hiệu chăng? ĐIỀU 82. LẠI BÀN VỀ CHÂM CỨU (II) Về thủ thuật bổ tả của khoa châm cứu, căn cứ vào các sách cổ, như Châm cứu đại thành của Dương Kế Châu (bộ này tôi đã dịch từ năm 1958, sơ cảo lưu tại Viện Nghiên cứu Đông y) và Tiêu u phú, Thông huyền chỉ yếu phú, Hành châm chỉ yếu ca (những tài liệu này tôi đều đã dịch thành văn vần) v.v... có tới hơn 30 loại..Dưới đây tôi chọn ra 14 phép giản đơn để đồng nghiệm tham khảo. A. Thủ thuật bổ: 1. Khinh (nhẹ): lúc tiến hành châm nhẹ nhàng, chỉ hơi thích kích. Dùng thủ thuật này, một mặt để cho bệnh nhân đỡ đau; mặt khác, chỉ hơi có phản ứng. Thích hợp với những bệnh nhân hư yếu. 2. Hoãn (chậm): tiến châm thong thả, rút châm thong thả 3. Đè (nhấc): Sau khi đã châm đúng huyệt, và đúng vời phân thốn đã ấn định, thỉnh thoảng nhắc (rút) châm lên một chút (chừng 1 phân), lại ấn xuống như cũ. 4. Hô (hơi thở ra): Theo đúng lúc bệnh nhân thở hơi ra thì tiến châm vào, chờ lúc bệnh nhân hít hơi vào thì rút châm ra... Như vậy là bổ. 5. Thiền (nông): châm vào nông, chỉ 1 phân đến 2 phân là cùng. Đối với người gầy, người hư yếu và về 2 mùa Xuân Hạ... dùng phép này là bổ. 6. Tế (nhỏ): dùng loại châm nhỏ (tiểu hào châm) để châm vào xoay chuyển là bổ. 7. Tùy (theo): Lúc tiến châm, mũi châm xuôi theo đường kinh là bổ. Một cách khác khi đã châm đúng huyệt rồi, xoay chuyển mũi châm theo đường kinh là bổ. Thí dụ: châm 3 dương kinh thuộc thủ, dùng ngón tay cái đưa ra phía trước, ngón tay trỏ lùi về phía sau để xoay chậm, là bổ. B. Thủ thuật tả: 1. Trọng (nặng tay): lúc tiến châm hơi mạnh, thích kích mạnh, do đó phản ứng cũng mạnh. Phép này thích hợp với bệnh nhân sức khỏe và bệnh thực. 2. Cấp (nhanh): tiến châm nhanh, rút châm nhanh, phép này thích hợp với loại bệnh cấp tính. 3. Sáp (cắm): sau khi tiến châm đã đúng với phân thổn ấn định, thì cứ cắm như vậy, không nhắc châm lên nữa. 4. Hấp (hít hơi vào): chờ lúc bệnh nhân hít hơi vào thì tiến châm, lại chờ lúc bệnh nhân thở hơi ra thì rút châm. Phương pháp châm theo "thở hít” này thích hợp với những huyệt ở lớp thịt nông mỏng, như huyệt Đầu duy v.v. 5. Thâm (sâu): tiến châm sâu, từ 3, 4 phân đến 6, 7 phân, có khi tới 1 tấc. Phép này thích hợp với những bệnh nhân béo mập và về hai mùa Thu, Đông... dùng phép này là tả. 6. Thô (châm lớn): Tiến mũi kim, đón ngược đường đi của kinh là tả. Một phép khác: sau khi đã châm đúng huyệt, xoay chuyển mũi châm ngược lại đường kinh để tả. Thí dụ: châm 3 kinh dương thuộc thủ, cho ngón tay cái lùi về phía sau ngón tay trỏ tiến lên phía trước để xoay châm là tả. Các phép trên, có thể dùng cả 2, 3 phép một lúc cũng được, nhưng cần phải chú ý: đã dùng huyệt nào bổ thì chuyên bổ, huyệt nào tả thì chuyên tả, không nên vừa bổ vừa tả cùng một lúc, cùng một huyệt. Sau khi đã thông thạo được 14 phép trên, sẽ dần dần luyện tập thêm các thủ thuật khác như: Thiêu sơn hỏa, Thấu thiên lương, Thanh long bãi vĩ, Bạch hổ giao đầu v.v... lo gì không "rút châm bệnh khỏi”. CHƯƠNG VII: Y LÝ VÀ Y ÁN ĐIỀU 83. BÀN VỀ Y LÝ (I) Phàm tật bệnh phát sinh, vô luận là nội thương hay ngoại cảm, chủ yếu là "nội nhân quyết định ngoại nhân". Lão tử có câu: "Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu". Ta cũng có thể nói: "Tật bệnh vô môn, duy nhân tự triệu". Câu: "Khí chi sở hư, tà tất tấu chi" trong Nội kinh, cũng hàm ý đó. ĐIỀU 84. BÀN VỀ Y LÝ (II) Chủ yếu khi lâm sàng, phải làm theo bốn nguyên tắc sau đây: 1. Nhân thời chế nghi 2. Nhân địa chế nghi 3. Nhân nhân chế nghi 4. Nhân bệnh chế nghi Trước phải nhận định khí hậu ở ngoài giới tự nhiên ấm hay lạnh, ráo hay ẩm, các khí đó có đúng mức hay trái thường... Nếu trái thường thì sẽ ảnh hưởng đến bệnh nhân đó như thế nào?... Sau xét tới khu vực của bệnh nhân đó ở là nơi cao ráo hay nơi ẩm ướt, là rừng núi hay đồng bằng. Như ở ta: thuộc miền thượng du, hay trung du, hay hạ du v.v... để nhận xét bẩm phú và cơ thể thích ứng của bệnh nhân đó như thế nào? Rồi xem xét bệnh nhân đó là già hay trẻ, trai hay gái, béo tốt hay gầy còm, vốn khỏe hay yếu, lao động hay an nhàn; hoàn cảnh trong gia đình thuận hay nghịch, vui hay buồn; trước sướng sau khổ hay trước khổ sau sướng? Nếu là đàn bà: con gái hay đã có gia đình, vợ cả hay vợ lẽ; là sư ni hay góa chồng v.v... Những cái đó đều có ảnh hưởng tới bệnh nhân rất sâu sắc. Cuối cùng mới xét tới bệnh, thuộc nội thương hay ngoại cảm, thuộc hư hay thực, hàn hay nhiệt, mới bị bệnh hay bị đã lâu v.v... Bốn nguyên tắc đó đều có liên hệ với nhau rất mật thiết. Nếu bỏ sót một, đều có ảnh hưởng tới kết quả điều trị. ĐIỀU 85. BÀN VỀ Y LÝ (III) Chữa ngoại cảm (bao quát cả Thương hàn, Ôn bệnh, Thương thử, Trúng át, v.v.,.) như đối với toán quân ngoại xâm đã kéo tới biên cương; chữa nội thương như đối với toán loạn dân nổi lên ở trong nước, Đối với quân ngoại xâm phải tiêu diệt cho kỳ hết; đối với toán loạn dân thì trái lại, nếu cũng tiêu diệt cho kỳ hết, thì ở với ai? Chỉ có một cách là vừa "tiễu" vừa "phủ”. Có một điều nên chú ý là: quân ngoại xâm không bỗng dưng vô cớ mà dám đột nhiên kéo đến. Tất nó đã thám thính thấy mình có chỗ sơ hở, có thể thừa hư xâm lấn được, nên mới kéo đến. Toán loạn dân sở dĩ dám nổi lên, tất cũng phải do một điều kiện gì không được thỏa mãn nên mới bất đắc dĩ bùng nổ để tự cứu lấy đời sống của mình. Chất gỗ có mềm, mới có thể sinh ra mối mọt. Chứ như Đinh, Lim, Trác, Gụ thì mối mọt ẩn nấp vào đâu? Vậy dù đối với ngoại xâm hay nội loạn, ta đều phải nhằm vào "chính khí" làm chủ yếu. Nội kinh có câu; "Khí chi sở hư - tà tất tấu chi..." chữ "tà" ở đây không chỉ nói về "ngoại tà" như lục dâm... mà hết thảy các "mầm mống” gây nên tật bệnh, đều có thể gọi là "tà" được cả. ĐIỀU 86. TÍNH TRỌNG YẾU CỦA THẦN Con người sống hay chết là dựa vào Thần. Thần ngụ tại Tâm. Tâm là hỏa, cho nên hỏa chính là gốc của sinh mạng con người. Mậu Quí hóa hỏa. Mậu là Thổ? Quý lả Thủy. Thủy thuộc Tiên thiên, Hỏa thuộc Hậu thiên. Hai "Thiên” đó là cái gốc "hóa Hỏa", con người nhờ đó mới sống được. ĐIỀU 87. KHÁI NIỆM VỀ KHÍ Thanh khí ở bộ phận dưới, có tác dụng giúp được Hỏa của Mệnh môn. Nếu âm khí tuyệt, trọc khí dồn lên trên, thì đầy nghẽn lên Phế khí, Phế khí không phát huy được chức năng hạ giáng, thì đại tiện bế tắc. Tâm Phế là dương, dương có âm cho nên đi lên tới cùng thì quay trở xuống. Can Thận là âm, trong âm có dương, cho nên đi xuống tới cùng thì đi trở lên. "Trung khí" nói lên Phế thì là khí, do Phế quay trở xuống thì là huyết. Nhờ có sự thăng giáng của Vị khí, mà khí huyết sản sinh không ngừng. ĐIỀU 88. KHÁI NIỆM VỀ HUYẾT Con người lấy huyết làm chủ. Vị là nguồn sinh ra huyết, Dương khí không đủ, hãm vào âm phận, thì huyết không sinh trưởng, do đó khí đều hóa thành hỏa. Nếu dương khí thăng lên, thì huyết sẽ chia rải khắp trên dưới, khí không ngưng trệ, còn đau ốm gì nữa. Tóm lại, ở con người chỉ có 2 khí âm dương, dương khí phát triển, âm khí sẽ đều hóa thành huyết; dương khí không đủ, âm khí đều hóa thành hỏa. Do đó, phương pháp trị liệu của Đông Viên, lấy “bổ trung ích khí” làm chủ chốt. Nhưng đối với những người Thận kém, lại phải hướng về đường lối khác, y giả không nên cố chấp. ĐIỀU 89. KHÁI NIỆM VỀ HỎA Phàm hỏa tại phía dưới Đan điền, tức là Thiếu hỏa, Thiếu hỏa thì sinh khí, khi hỏa đó tách khỏi Đan điền mà bốc lên, tức là Tráng hỏa, Tráng hỏa sẽ làm hại khí. Thứ hỏa làm hại khí là “tà hỏa"; thứ hỏa sinh ra khí là "chân hỏa” ĐIỀU 90. KHÁI NIỆM VỀ TÂM THẬN Tâm Thận cùng giao với nhau, đều nhờ giáng. Tâm khí sở dĩ giáng xuống là do ở Thận khí thăng lên; Thận khí sở dĩ thăng lên, lại là do Tâm khí giáng xuống. Thận thuộc Thủy, tính chất của Thủy là nhuận hạ. Vậy làm sao mà lại thăng lên? Do trong Thủy có chân dương, cho nên Thủy cũng theo dương mà thăng lên tới Tâm sẽ sinh ra Hỏa ở trong Tâm; Tâm thuộc Hỏa, tính của Hỏa bốc lên, vậy làm sao mà lại giáng xuống? Do trong Hỏa có chân âm, cho nên Hỏa cũng theo âm mà giáng tới Thận, sẽ sinh ra Thủy ở trong Thận. Thăng với giáng là do Thủy Hỏa. Chân âm chân dương tức là chân khí ở trong Tâm Thận. Cho nên Hậu thiên của Thận, tức là Tiên thiên của Tâm; Hậu thiên của Tâm tức là Tiên thiên của Thận. Muốn bổ Tâm, cần phải thực Thận, để cho Thận có thể thăng; muốn bổ Thận trước phải ninh Tâm, để cho Tâm có thể giáng. Trong bài Lục vị hoàn có Đan bì, Phục linh, chính là để ninh Tâm, mà Địa hoàng, Sơn dược, tức là để thực Thận, đó là phương pháp làm cho Tâm và Thận cùng giao nhau. ĐIỀU 91. KHÁI NIỆM VỀ TIÊN THIÊN, HẬU THIÊN Phàm chữa bệnh không ngoài Tiên thiên, Hậu thiên tức là lấy Tỳ Thận làm chủ. Nhưng Hậu thiên Ty Vị trong đó có âm dương khác nhau, điểm đó cần phải nhận rõ; Tiên thiên Thận mệnh trong đó có Thủy Hỏa khác nhau, điểm đó cũng phải xem tường. Bởi Thận Thủy suy thời sinh Hỏa, do đó Tỳ Vị cũng bị khô khan; Thận Hỏa suy thì sinh hàn, do đó Tỳ Vị cũng thành ẩm ướt. Vậy không thể lấy "bổ Hậu thiên cần phải ôn táo, bổ Tiên thiên cần phải tư nhuận" làm nguyên tắc nhất định. ĐIỀU 92. VAI TRÒ CỦA THỔ Muôn vật phò dương để sinh hóa, do Thổ để phát triển. Thổ không có dương thì không chế được Thủy; Thủy không có gì sinh hóa thì trở lại vũ Thổ, Thổ cứu mình không xong còn hơi sức đâu mà sinh được Kim nữa. Kim với Thủy hàn thì cứng rắn mà không thể sinh hóa được, tuy có chút Hỏa lập lòe cũng không đủ sáng, còn khả năng đâu mà làm cho Kim Thủy khỏi hàn? Cần phải dùng chất thuốc ôn hòa để chữa. Khí dương nói trên đây tức là khí dương ở Vị quản. Dùng thuốc cứu chữa, gián hoặc có trường hợp không khỏi, nhưng chưa từng không cứu chữa mà khỏi được bao giờ. ĐIỀU 93. NGŨ HÀNH SINH KHẮC Ngũ hành không khắc thì không sinh, ở 5 Tạng của con người cũng vậy. Y giả phần nhiều chỉ biết cái hành khắc minh là tặc tà, nhưng không biết chính cái hành khắc mình đó lại là chồng mình. Bởi đàn bà không có chồng thì không sinh, năm Tạng không có khắc thì cũng không có sinh. Thí dụ: Thủy sinh được Mộc, mà Mộc đó không sinh (mộc) ra tại sông bể hổ ao, lại sinh ra ở Thổ... Như vậy là do Thổ khác Thủy mà sinh. Nội kinh nói: "Cang tắc hại, thừa nãi chế, chế tắc hóa sinh" Người có chí về Đông y, nên hiểu sâu lẽ đó. ĐIỀU 94. CÔNG VÀ TỘI CỦA TỲ VỊ Mạnh tử đời xưa phê phán sự nghiệp của đời Ngũ Bá, cho rằng: "Ngũ Bá giả công chi chủ, tội chi khôi dã" (năm đời Bá công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu..."). Tôi thường nghĩ hai nội tạng Tỳ Vị ở trong con người cũng nên dùng câu của Mạnh tử để phê phán. Thật vậy, con người sở dĩ sống được, một phần lớn là phải nhờ chất dinh dưỡng của thủy cốc; mà đào tạo nên chất dinh dưỡng, đó là công năng của Tỳ Vị. Vì thế nên người xưa mới cho là nguồn gốc của Hậu thiên. Nhưng tính chất của hai chú Hậu thiên đó lại rất là éo le chú thời ưa táo ghét thấp, chú thì ưa thấp ghét táo. Cách uống ăn cư xử của con người lỡ vô ý một chút là sinh bệnh ngay... Nhẹ thời hao của tốn công, nặng thì thiệt đời mất mạng... Công ở đó mà tội cũng ở đó.. Lý Đông Viên chủ trương điều bổ Tỳ Vị, thật là xác đáng. ĐIỀU 95. PHÂN TÍCH NHIỆT VÀ HỎA Nội kinh nói: "ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa"; ở trên Thiếu âm, nhiệt khí chủ trị; ở trên Thiếu dương, hỏa khí chủ trị. Hai khí đó một là quân hỏa, một là tướng hỏa, đều thuộc hỏa cả, sao mỘt đằng gọi là ''nhiệt", một đằng lại gọi là "hỏa"? Bởi vì hỏa đó, như thứ hỏa của khói lửa, có thể đốt cháy được, thuộc về loại hữu hình. Còn "nhiệt" là thứ hơi nóng bốc lên, không thể đốt cháy, thuộc loại vô hình. Cho nên mới nói: "ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa" cũng như câu nói: "ở trời là phong, là thấp, là táo, là hàn...” đều thuộc về khí và đều là vô hình. Lại nói: “ở đất là Mộc, là Thổ, là Kim, là Thủy..." đều là hữu hình, ở trong thân thể con người, như kinh Thiếu dương Tam tiêu là Tướng hỏa, Đởm là Giáp mộc; mà Tam tiêu là bản khí, Đởm là hỏa khí, mộc với hỏa hợp nhau, thì có thể đốt cháy, nên mới gọi là "hỏa". Như kinh Thiếu âm Tâm là quân hỏa, Thận là Quý thủy, mà Tâm là bản khí, Thận là hỏa khí... Thủy với hỏa phối hợp; có thể làm cho bốc hơi, không thể đốt cháy, cho nên gọi là "nhiệt”. Đó là cái lẽ hỏa với nhiệt không giống nhau. Đến như con người bị bệnh sở dĩ không giống nhau, vì như Kinh nói: "Các bệnh trướng bụng to, đều thuộc về nhiệt; các bệnh đau lở ngứa, đều thuộc về hỏa.." Lại như các chứng miệng lưỡi lở loét, mắt đỏ tai đau... thuộc về hỏa; các chứng nước tiểu vàng, ưa nằm, bực dọc, hay nôn oẹ... thuộc về nhiệt. Những loại bệnh không giống nhau như vậy, y giả cần phải nhận rõ: bệnh nào thuộc nhiệt, thì chữa về nhiệt; bệnh nào thuộc hỏa, thì chữa về hỏa. Nếu 2 phương diện đó nhận không được rành, trông gà hóa cuốc thì giết người dễ như trở bàn tay. Lại còn một điểm cần chú ý nữa: hỏa thường kiêm phong mà nhiệt thường kiêm thấp. Cho nên trị hỏa nên tức phong, trị nhiệt nên trừ thấp. Trị hỏa nên dùng hàn lương để dập tắt, trị nhiệt nên dùng phép dưới nồi bớt củi... Giới hạn phân biệt của hỏa với nhiệt như vừa thuật ở trên đây thật là rành mạch, vậy mà đời sau còn có người hoài nghi, dựa vào thuyết trong Âm dương ứng tượng đại luận, ngoài phong, hàn, thử, thấp, táo... không còn có gì gọi là "hỏa", các thiên bàn về "lục khí" chẳng qua chỉ do Vương Băng bịa ra... Thật là sai lầm vô cùng. ĐIỀU 96. BÀN VỀ PHÉP HÃN Về phương pháp phát hãn, phần nhiều chỉ biết lấy những vị như: Tử tô, Hương nhu, Kinh giới, Ma hoàng, Sài hồ, Thông bạch, Bạc hà... và các bài như Ma hoàng, Quế chi, Sâm tô, Bại độc v.v... để phát hãn. Thực ra phương pháp có rất nhiều và ý nghĩa rất rộng. Cụ thể có những phép như sau: 1. Tân Ôn phát hãn pháp 2. Tân lương phát hãn pháp. 3. Ích khí phát hãn pháp 4. Dưỡng huyết phát hãn pháp 5. Tư âm phát hãn pháp 6. Trợ dương phát hãn pháp 7. Lý khí phát hãn pháp 8. Hòa trung phát hãn pháp 9. Tuyên thượng phát hãn pháp 10. Ôn hạ phát hãn pháp 11. Hóa ẩm phát hãn pháp 12. Quyên đờm phát hãn pháp Phép phát hãn rộng rãi như vậy, các phép hòa giải, phép công hạ, phép ôn lý, phép khu hàn v.v... cũng đều như vậy. Cho nên khi dùng đến một phép nào, nên biện chứng cho tinh, luận trị cho đúng, điều khiển dược vật cho thích hợp, không chút sơ hở, mới mong thành công. ĐIỀU 97. PHÂN TÍCH PHÉP HÃN Hãn là một phương pháp rất thông dụng cho chứng ngoại cảm. Nhưng khi sử dụng lại phải tùy theo bệnh thế để biến hóa, không thể cứ một mực thấy không có mồ hôi là dùng ngay Ma hoàng thang, hoặc Sâm tô ẩm v.v... mà khỏi được bệnh, Xin nêu mấy y án làm thí dụ: 1. Một bệnh nhân đã ngoài 50 tuổi, làm việc lao động vất vả, lại thêm vừa đói vừa rét. Bị chứng rức đầu ố hàn, phát nhiệt, các khớp xương đau rức, không có mồ hôi, thỉnh thoảng nói sảng. Tự uống bài Sâm tô ẩm để cho ra mồ hôi. Mồ hôi tuy ra nhiều mà nhiệt vẫn không lui. Đến ngày thứ tư, mời Đan Khê đến chẩn. Mạch Hồng Sác bên tả hơn bên hữu. Sau khi hỏi rõ nguyên nhân trước khi bị bệnh, Đan Khê nói: "Đây là chứng nội thương, đã vì lao lực lại thêm vì đói mà Vị hư, Dương minh tuy có phạm phải hàn tà, cũng không nên công kích, cần phải đại bổ cho chứng hư, chờ khi nào Vị khí đầy đủ, sẽ tự ra mồ hôi mà khỏi. Liền dùng Sâm, Kỳ, Qui, Truật, Trần bì, Cam thảo, gia Phụ tử 2 phiến, cho uống luôn một ngày một đêm hết 5 gói. Đến ngày thứ 3, miệng hơi khô nhưng nói năng đã không lẫn lộn, các chứng tuy khỏi mà nhiệt vẫn chưa lui. Liền bỏ Phụ tử, gia Thược dược. Lại qua 2 ngày, bệnh nhân đã có ý muốn ăn, tinh thần dễ chịu Đan Khê bảo người nhà lấy thịt lợn nạc luộc kỹ, lấy nước cho uống. Lại qua 3 ngày, mồ hôi tự toát ra nhâm nhấp khắp mình, bấy giờ nhiệt mới lui, chẩn lại mạch, vẫn còn Hồng Sác. Đan Khê nói: "Mạch tượng "Hồng" ở kinh này nên coi như "Đại", vì người già mà phát hãn nhầm, về sau thể nào cũng phải xuất hiện ra hư chứng. Lại cứ dùng bài thuốc trước cho uống. Qua hôm sau, bệnh nhân tự nói: "Đã 13 ngày không đi đại tiện được. Tới nay, có lúc muốn đi phải rặn như người bị kiết lỵ, mà cũng không đi được. Ý muốn dùng Đại hoàng để hạ...” Đan Khê nói: không phải thật là chứng bế tiện đâu, chỉ vì phát hãn nhầm làm cho khí hư, không đủ sức để dồn đại tiện xuống đấy thôi. Vẫn cứ cho uống bài thuốc trước và uống nhiều nước thịt luộc kỹ. Đồng thời cho đun một nồi nước Xuyên tiêu và Thông bạch, đổ nước ra chậu, khi nước còn nóng già, bảo bệnh nhân ngồi ngâm. Cách đó chừng 2 giờ, bệnh nhân mới đại tiện được. Rồi vẫn cứ bài thuốc trước uống tiếp tục tới nửa tháng, mới thật khỏi. Xem ông Đan Khê chữa bệnh trên đây, thật là có định kiến lập trường, mới dám dùng Sâm, Kỳ, Qui, Truật... lâu đến như vậy. Lại càng nhận thấy đối với người già sử dụng phương pháp phát hãn là rất khó. Phát hãn đã khó, thì Thổ, Hạ lại càng khó đến chừng nào? 2. Đào Tiết Am chữa một người bị thương hàn đã 4, 5 ngày. Thổ huyết mãi không dứt. Y giả cho uống Tê giác địa hoàng thang, Mai hoa thang v.v... Càng uống càng kịch. Đào chẩn mạch: Phù, Khẩn và Sác. Nói: nếu không cho ra mồ hôi, bệnh tà bài tiết ra đằng nào được? Liền cho uống một thang Ma hoàng thang, mồ hôi ra được, liền khỏi. Có người hỏi: Trọng Cảnh nói: "Người bị "nục” không thể phát hãn, người bị vong huyết không thể phát hãn...", vậy sao bệnh này lại dám dùng Ma hoàng thang? Đào trả lời: "Người bị nục lâu, mất huyết đã nhiều, nên không thể phát hãn. Còn như người này vốn thuộc loại bệnh cần phải phát hãn mà không phát hãn, do đó nhiệt độc uẩn kết lại mà thành thổ huyết. Giờ làm cho huyết với tân dịch phân tách hẳn ra, thì bệnh sẽ khỏi". Cho nên Trọng Cảnh lại có chỗ nói: "Thương hàn mạch Phù Khẩn mà không phát hãn, nhân đó mà gây nên chứng Nục. Cho uống Ma hoàng thang... Bởi phát được hãn, thì nhiệt độc sẽ bài tiết ra được, mà chứng huyết tự khỏi. Thổ huyết mà dùng Ma hoàng thang, lại dẫn kinh văn để giải thích... Tiết Am thật đáng là công thần của Trọng Cảnh. Lại xét: bài Ma hoàng thang tuy là chính dược của kinh Thái dương, nhưng nếu sử dụng không đúng mùa, không đúng kinh, và không phù hợp với thể chất của bệnh nhân... rất dễ gây nên tai hại. Tôi đã thấy một ông lương y bình nhật rất tự phụ là quán triệt Thương hàn của Trọng Cảnh. Mùa thu cảm hàn phát sốt... Tự cắt 2 thang Ma hoàng thang để uống... Sau khi uống 3, 4 giờ, bỗng dưng mắt đỏ, môi se, lột bỏ quần áo như người điên không biết hổ thẹn... Rồi thành hoại bệnh. Lại một người khác cảm mạo phong hàn, dùng Ma hoàng 5 đồng cân, đun lấy nước đặc để uống... Tức thời phát sinh chứng thổ huyết, chữa mãi không khỏi mà chết. Dùng Ma hoàng thang để phát hãn có phải là việc dễ dàng đâu. Trên đây mới chỉ nói về chứng hậu nên dùng Ma hoàng hay không nên dùng Ma hoàng. Lại còn về hoàn cảnh địa dư cũng cần phải phân biệt. Như ông Du Chấn nói: "Người thuộc vùng Nam kinh bị bệnh Thương hàn, trong 10 người thì thì 2,3 là uống được Ma hoàng; còn như người thuộc vùng Giang Bắc hoàn toàn phải dùng Ma hoàng mới có công hiệu. Ngoài vấn đề hoàn cảnh địa dư, lại còn trường hợp do phú bẩm khác nhau, nên đến khi dụng dược cũng cần phải phân biệt Như Triệu Dưỡng Quỳ nói: "Con người Thái dương dù mùa đông cũng không cần mặc áo bông, thường uống nước lã, sắc dục vô độ, đại tiện vài ngày mới đi một lần Cầm, Liên, Chi, Bá và Tiêu, Hoàng uống luôn hàng ngày cũng không hề chi... Con người Thái âm, dù mùa Hạ cũng vẫn ưa mặc áo dày, uống nước nóng, hơi ăn thức lạnh là đau bụng đi rửa ngay... Sâm, Truật, Khương, Phụ, Quế uống như cơm bữa, cũng chẳng sao... Suy các lẽ đó, thì mỗi khi gặp một bệnh nhân, ta có thể dùng bừa những nghiệm phương của người xưa chăng?... 3. Hứa Thúc Vi chữa một người bị thương hàn, phát nhiệt, rức đầu, phiền, khát. Mạch tuy Phù Sác mà vô lực, Xích bộ Trì mà Nhược. Hứa nói: tuy là chứng hậu của bài Ma hoàng, nhưng Xích bộ Trì Nhược. Trong Thương hàn có chỗ nói: "Mạch ở Xích bộ Trì, là do Dinh huyết không đầy đủ”, chưa phát hãn được. Liền cho uống bài Kiến trung thang gia Đương qui, Hoàng kỳ. Sang ngày hôm sau, mạch vẫn chưa thay đổi. Người nhà bệnh nhân đòi cho uống thuốc phát hãn... đến nỗi tỏ thái độ gắt gỏng. Hứa cố nhịn, chỉ cho uống bài Kiến trung gia vị để điều dưỡng Dinh huyết. Tới 5 ngày, mạch ở Xích bộ mới có lực, liền cho uống luôn 2 nước bài Ma hoàng thang. Cách vài giờ sau, bệnh nhân bỗng như phát cuồng, một lát ngủ thiếp đi, mồ hôi đã ra nhâm nhấp khắp mình, bệnh liền khỏi. Xem án này, ta nhận thấy y giả chữa bệnh cần phải nhận rõ biểu, lý, hư, thực và đợi đến đúng ngày đúng mức, theo thứ tự mà dụng dược, mới thu được kết quả. Nếu chỉ nhằm lấy lợi ngay trước mắt, tuy khỏi chóng, mà để hại cho Tạng Phủ về sau.. thì còn gọi là "lương y từ mẫu” sao được? ĐIỀU 98. THẬN TRỌNG KHI DÙNG PHÉP HÃN Chữa bệnh ngoại cảm phong hàn, bắt đầu là phương pháp phát hãn, điều đó ai cũng rõ, nhưng tựu trung còn có rất nhiều chi tiết phức tạp, khi lâm sàng cần phải nhận định đủ mọi phương diện, mới tránh khỏi sai lầm. Đoạn ghi nói về "không nên phát hãn thái quá" của Từ Hối Khê chứng minh điều nói ở trên: "Nguyên tắc chữa bệnh, không ngoài 2 phương pháp hãn với hạ. Hạ không đúng làm hại người, sự nguy hiểm sẽ biểu hiện ngay. Cho nên y giả và bệnh nhân phần nhiều không dám dùng bừa. Đến như vì hãn nhiều mà vong dương, mười người chỉ có độ 2, 3, mà phần nhiều sau khi đã chết, cũng không ai biết là tại hãn. Bởi sao? Phàm người bị cảm phong hàn, tất. cùng bảo nhau: "Thà giữ cho ấm hơn là để cho mát"... Người bị bệnh cũng đáp điếm cẩn thận, Các y giả cũng đều nói: uống thuốc cần phải cho phát hãn mới khỏi. Do đó, bệnh nhân muốn được ra mồ hôi, mười người như một đều cho là một lẽ đương nhiên. Ở 2 mùa Thu Đông mà giữ gìn ấm quá, còn không hại mấy; đến giữa mùa Hạ hoặc đầu mùa Thu, khí trời khô ráo, tấu lý mở rộng, vệ khí rất dễ bài tiết... Trường hợp đó mà phải ở buồng kín và đắp chăn, đồng thời lại cho uống thuốc phát hãn, tất sẽ đi đến tình trạng hãn ra quá nhiều bị vong dương mà chết. Lại như bệnh ngoại cảm, khi hãn còn chưa ra, tất phải có tình trạng buồn bực, ố nhiệt, sau khi hãn đã ra, vệ khí tiết ra hết, tất đi đến tình trạng dương suy mà ố hàn. Lúc bắt đầu phải đắp chăn cho ấm, còn là sự miễn cưỡng; đến lúc đó tuy muốn không đắp chăn mà cũng không thể được; nhưng càng đắp chăn, hãn càng ra; hãn càng ra lại càng hàn, cứ thế mãi cho tới thời kỳ hãn ra dấp dính như dầu, tay chân quyết lãnh... bệnh tình đã không thể cứu vãn. Đến khi chết, tinh thần vẫn tỉnh táo, không chút đau đớn... Bệnh nhân, y giả và người xung quanh, đều không hiểu vì sao mà chết, chỉ cùng trông nhau lấy làm lạ mà thôi... Trường hợp này, tôi thấy khá nhiều, thật đáng suy nghĩ! Tóm lại, đối với người bị bệnh, không nên để cho mát quá, cũng không nên để cho ấm quá, không duyên cớ gì không nên để cho ra mồ hôi. Chỉ khi uống thuốc, nên cho mồ hôi ra nhâm nhấp. Phương pháp uống bài Quế chi của Trọng Cảnh: uống thuốc xong, đắp chân cho mồ hôi nhâm nhấp, không được để đầm đìa... Đó là một nguyên tắc nhất định không thể thay đổi. Đến như khi bị vong dương còn chưa nặng lắm, vẫn có thể cứu được, như những bài Chân võ, Lý trung, Tứ nghịch trong Thương hàn luận đều có thể chọn lọc, sử dụng. Nếu dương đã thoát hết thì đành bó tay, không còn phương pháp nào cứu vãn nữa. Lại như gặp mùa nắng nực, bệnh nhân hoặc ở trên gác nhỏ hướng tây, hoặc ở gần bếp đun, dù người vô bệnh, thì đứng một lúc cũng mồ hôi đầm đìa; người bị bệnh tránh sao khỏi mồ hôi ra suốt ngày, dù không vong dương cũng đến âm kiệt mà chết. Gặp những tình trạng như vậy, tuy không có hoàn cảnh thay đổi, cũng nên cố tìm lấy chỗ hơi mát hơn một chút... Nếu không, thì dù thuốc tiên cũng không cứu được". ĐIỀU 99. NGOẠI TRỊ PHÁT HÃN (I) Thuộc về phương pháp phát hãn, nếu gặp chứng sơ cảm, có khi không cần phải uống thuốc, chỉ dùng ngoại trị cũng khỏi. Tôi thường chữa một người: Về khoảng cuối Xuân sang Hạ, vì cảm phải khí lạnh trái mùa mà phát sốt, đã đến một ông lương y dùng các vị như Chi tử, Đạm sị, Hương nhu, Hoạt thạch, Tử tô, v.v... cho uống, vẫn không ra được mồ hôi, vẫn sợ lạnh, phải mặc áo bông. Tôi đến thăm thấy chứng hậu không nóng lắm, miệng không khát, vẫn sợ lạnh và không mồ hôi... Mạch Phù, rêu lưỡi trắng... Đoán là Thương hàn, không phải thương thử. Vì là bệnh nhẹ, không cần phải dùng thuốc uống, vừa chiều theo tính ngại đắng của bệnh nhân, liền dùng các vị Phù bình (bèo cái), Bạc hà, Thương truật, Tô diệp, Thông bạch, Sinh khương... mỗi thứ 5 đ.c., đun vào nồi lớn, bảo bệnh nhân vào buồng kín lấy nước thuốc ấy tắm, tắm xong lau ráo mình, nằm đắp chăn kín, một giờ sau, mồ hôi ra khấp mình, bệnh khỏi. Phương pháp chữa trên này, vì bệnh nhân thể chất còn thực nên mới tắm, nếu là người hư yếu, thì chỉ trùm chăn kín để xông, cũng ra được mồ hôi. ĐIỀU 100. NGOẠI TRỊ PHÁT HÃN (II) Dùng ngoại trị để làm cho ra mồ hôi theo tài liệu cổ còn khá nhiều phương pháp, nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì có mấy phép buộc vào lòng bàn tay, tra vào mắt, đắp vào rốn là công hiệu chóng và dễ dàng. Xin ghi ra đây để giúp bà con gặp trường hợp xa thầy, hiếm thuốc, có thể tự lực điều trị, khỏi để bệnh dây dưa kéo dài, mà nhẹ hóa nặng. 1. Khi mới bị thương hàn, phương pháp chủ yếu là phát hãn. Dùng hành sống, gừng sống, muối, đậu sị... cùng giã nát, sao nóng, bọc vào vải mỏng, đắp lên rốn, nằm đáp chăn cho ra mồ hôi. 2. Dùng Ma hoàng (bỏ đốt) 8 gam, Cam thảo 4 gam, Băng phiến 0,1 gam. Các vị cùng tán bột thật nhỏ, điểm vào đầu mắt như tra thuốc đau mắt hột, rồi nằm đắp chăn kín cho ra mồ hôi (Bài này chữa được cả các chứng thương hàn, Thời dịch, cảm mạo, không ra được mồ hôi). 3. Dùng hạt thầu dầu (nhất là thứ tía) giã nát, dát mỏng vào lòng bàn tay, lấy một miếng giấy hoặc khăn tay phủ lên, rồi lấy ấm nước nóng là (ủi) lên trên như là quần áo. Hoặc dùng vật gì khác nóng là lên cũng được. Một lát sẽ ra mồ hôi (Bài này chữa được cả các chứng cảm sốt không có mồ hôi, Nhất là chứng trúng phong. Không có thầu dầu thì dùng hành sống cũng được). 4. Dùng Thương truật, Phèn phi, gừng già cùng tán bột trộn với nước hành sống, dán vào lòng bàn tay bên phải, rồi để khum tay úp lên rốn, úp khéo đừng để xát vào rốn. Đồng thời tay trái nắm chặt Thận nang (đèn bà thì úp lên sản môn). Nằm đắp chăn kín. Cách chừng 80 phút uống thêm một bát nước đậu xanh, sẽ ra mồ hôi (Tâm chủ huyết, mồ hôi tức là do huyết gạn lọc ra. Huyệt Lao cung ở lòng bàn tay thuộc tâm, nên mới nhằm vào đó để phát huy tác dụng phát hãn) 5. Đun nước nóng, ngâm từ bụng chân trở xuống. Còn từ bụng chân trở lên thì đắp chăn kín cho ra mồ hôi. 6. Dùng củ gấu giã nát (nhất thì thứ tươi tẩm với dấm thanh, sao nóng, bọc vào khăn mỏng, xát dọc đường xương sống nhiều lượt (chứng phong hàn phạm vào kinh lạc, sinh ra đau nhức, cũng dùng bài này xát vào chỗ đau). 7. Đun nước lá Tía tô, nằm ngửa, bỏ tóc vào ngâm. Còn từ mặt trở xuống thì đắp chăn kín (Bài này làm rất hay, nhưng hiện nay, chỉ đàn bà mới có thể làm được. Còn đàn ông thì đều cát tóc ngán, khó làm). ĐIỀU 101. VỀ BỆNH TRÚNG PHONG Trong các y thư về Nội khoa, đều xếp môn Trúng phong lên đầu, nhưng phần nhiều là nói về Chân trúng phong, tức là ngoại phong; các bài thuốc phần nhiều là Đại, Tiểu tục mệnh, Tam sinh ẩm, Địa hoàng ẩm tử v.v... Còn về Nội phong không thấy mấy bộ xếp thành một môn riêng, chỉ chép phụ vào môn Trúng phong (tức ngoại phong) và nêu 2 chữ "Loại trúng”. Xem đó, ta nhận thấy người xưa coi trọng Chân trúng hơn Loại trúng... Có lẽ do đời xưa nhiều Chân trúng, ít loại trúng chăng? Riêng về tôi, làm thuốc đã hơn 50 năm, gặp bệnh Trúng phong không phải ít, nhưng có đến 9/10 là loại trúng... Không mấy khi được dùng tới các bài Đại, Tiểu tục mệnh và Tam sinh ấm v.v... Xin nêu một y án sau đây làm dẫn chứng: Nguyễn Đinh Thư, 47 tuổi, quê ở Hữu Bằng, Thạch Thất (Sơn Tây), bị bệnh đã 5 ngày, mời tôi đến chẩn. - Vọng: Sắc mặt tái xanh - Văn: Tiếng nói yếu, trong cổ như có đờm nghẽn vướng - Vấn: Do kinh doanh thất bại, trong lòng buồn bực. Khi buồn thường đem rượu ra uống suông, không thiết gì ăn. Trước đây mười lăm ngày thường phát rức đầu, buốt óc, nhưng coi thường, không để ý. Hôm đó, sáng dậy định đi làm, bỗng dưng ngã ngất bất tỉnh nhân sự, chừng 10 phút mới tỉnh. Nhưng tay chân bên trái đều không cử động được nữa, đồng thời rức đầu kịch liệt. Đã uống hai thang thuốc của lương y gần đấy. Thuốc uống vào đầu càng đau thêm. Xem lại đơn thấy dùng bài Bổ dương hoàn ngũ thang của Vương Thanh Nhậm(6) trong đó Hoàng Kỳ dùng tới 5 đ.c. - Thiết: mạch bên tả Huyền, Trường, bên hữu Hồng, Trường; trọng án đều có lực. - Hiện chứng: Tay chân bên trái vẫn bại liệt, đầu rức như búa bổ, coi vẻ rền rỉ nhăn nhó rất đáng thương. Tự nói: trong bụng nóng như đốt. - Biện chứng: Bệnh này do nghĩ nhiều mất ngủ, thành ra âm hư, dương thịnh; Thủy không thấm nhuần được Mộc, Mộc động thì phong sinh. Do đó, đờm thừa thế dồn lên, khí thừa thế thăng lên, dồn dập ào ạt, làm nghẽn lấp cả các thanh khiếu, nên mới gây thành chứng ngã ngất. Thiên "Sinh khí không thiên luận” trong Tố Vấn nói: "Huyết cùng với khí, dồn dập ngược lên, sẽ thành chứng đại quyết”. Chính là nguyên nhân chủ yếu của bệnh này. Theo danh từ mới, bệnh này có thể gọi là "Não xung huyết" (Xung huyết não). Mạch bên trái Huyền, Trường là do nhiệt của rượu mà sinh ra. Đó cũng lại là một nguyên nhân nữa làm cho huyết khí dồn lên làm nghẽn tắc thanh khiếu. Lương y trước không nhận kỹ chỗ đó, lại dùng toàn loại thuốc trợ dương bổ khí để điều trị... Nhưng mạch và chứng như vậy, phỏng chịu sao nổi sức thăng bổ của Hoàng kỳ? Sở dĩ đầu rức như búa bổ, chính là kết quả của các loại thuốc thăng bổ đó. - Luận trị: chữa bệnh này, chủ yếu là phải dồn huyết từ bộ phận trên xuống. Dùng Ngưu tất làm quân dược. Do kinh nghiệm của tôi, Ngưu tất có tác dụng giáng huyết từ bộ phận trên xuống rất nhanh chóng. Rồi dùng các vị Long cốt, Mẫu lệ (để sống), Thạch cao, Giả thạch, Xuyên luyện, Huyền Sâm, Long đởm, Sinh cam thảo... làm tá sứ. Chủ yếu toàn bài là nhằm mục đích "Tiềm dương, giáng nghịch, thanh nhiệt, tức phong" theo phương pháp của Mạnh Anh, Sơn Lôi. - Ngưu tất 1 lạng Long cốt 6 đ.c. Mẫu lệ 6 đ.c. Xuyên luyện 6 đ.c. Bạch thược 6 đ.c. Thạch cao 1 lạng Giả thạch 6 đ.c. Huyền sâm 4 đ.c. Long đởm 4 đ.c. Sinh cam thảo 2 đ.c. Các vị trên làm một thang, mài rỉ sắt lấy nước, sắc uống. - Hiệu quả: uống hết 2 thang, chứng rức đầu khỏi hẳn, mạch cũng điều hòa, tay chân bên trái đã cử động được. Tôi liền đổi phương dùng: - Đương qui 5 đ.c. Bạch thược 5 đ.c. Huyền sâm 5 đ.c. Thiên đông đ.c. Sinh hoàng kỳ 3 đ.c. Nhũ hương 3 đ.c. Một dược 3 đ.c. Hồng hoa 1 đ.c. Uống hết 2 thang sau, đã chống gậy đi được. Trong bài này sở dĩ dùng Hồng hoa là để hóa bỏ ứ huyết còn sót lại ở, trong hung bộ, vì mạch đã điều hòa, đầu đã không rức, có đủ khả năng hấp thụ được sự ôn bổ của Hoàng kỳ, nên mới dùng tới 3 đ.c. để bổ thêm cho chính khí, và giúp Qui, Thược, Nhũ, Một cho lưu thông huyết mạch dễ dàng; đồng thời lại có thể điều chỉnh bớt tính hàn lương của Huyền sâm và Thiên đông. Theo đơn sau, uống thêm 3 thang nữa, khỏi hẳn. ĐIỀU 102. ĐIỀU TRỊ TRÚNG PHONG Thuộc về bệnh Trúng phong, nên chú ý phân biệt rõ hai chứng "bế” và "thoát”. - Chứng bế: cấm khẩu, mắt mở, hai tay nắm chặt, đờm nghẽn khó thở, nói nhịu... Nên dùng các loại thuốc khai khiếu, thông lạc, thanh hỏa và hóa đờm... Như Hy diên tán, Chí bảo đan v.v... - Chứng thoát: miệng mở, mắt nhắm, tay buông, són đái, mình cứng, hôn mê... nên dùng các loại thuốc đại bổ như Sâm phụ thang, Địa hoàng ẩm tử v.v... Nhưng chứng bế, nhiều khi cũng có hiện tượng mát nhắm, són đái, mình cứng, hôn mê... cần phải nhận định mấy chứng trạng: cấm khẩu, tay nắm, mặt đỏ, hơi thở mạnh và mạch Đại để phân biệt. Về chứng thoát thường khi cũng có hiện tượng đờm nghẽn, cấm khẩu... chỉ nên nhận rõ điểm "mạch Hư Đại" để phân biệt. Lại như về chứng bế, khí nghẽn, cũng có khi cả 6 bộ mạch đều tuyệt.. Đó chỉ là một tình trạng "phục" không nên thấy vậy mà nhận lầm là thoát. ĐIỀU 103. Y ÁN VỀ BỆNH TRÚNG THỰC Bệnh Trúng thực, nhiều khi chứng trạng giống với bệnh Trúng phong. Không hỏi kỹ nguyên nhân khi phát bệnh, thì khó lòng chữa khỏi. Trong Minh y tạp trứ có một y án có thể làm gương mẫu, xin giới thiệu như sau: "Một người tráng niên bỗng bị bệnh như trúng phong, cấm khẩu, bất tỉnh nhân sự, tay chân không cất lên được. Y giả mài Tô hợp hương hoàn cho uống, không chuyển. Tôi (soạn giả Minh y tạp trứ) ngẫu nhiên qua nhà anh ta, hỏi nguyên nhân vì sao?... Người nhà nói: đương lúc tiếp khách ăn cơm thì bị bệnh... Tôi liền bảo đun nước gừng hòa lẫn ít muối đổ cho uống, rồi dùng lông gà lùa vào trong họng, tức thời thổ ra một bãi toàn thức ăn chưa tiêu, Thổ xong, nói ú ớ ngay được, liền cắt cho mấy vị Bạch truật, Trần bì, Bán hạ, Mạch nha làm một thang lớn, sắc đặc cho uống, uống hết một thang bệnh khỏi.. Xem án trên, ta nhận thấy: y giả nếu không nhận bệnh tinh xác, gặp bệnh tình như vậy, mà vội cho uống ngay các bài như Tiếu tục mệnh, Đại tần giao và Địa hoàng ẩm tử v.v... thì bệnh tình sẽ chuyển biến đến thế nào?.. ĐIỀU 104. PHÂN TÍCH BỆNH ÁN KHÓ CHỮA Trình Hạnh Hiên chữa một người họ Uông, mùa Hạ, bị chứng hàn nhiệt, thổ tả, tự ra mồ hôi, rức đầu. Một lương y khác cho uống loại thuốc "sơ biểu hòa trung”, thổ và tả đều cầm được. Nhưng vẫn phát nhiệt không lui, mồ hôi ra nhiều, miệng khát, rêu lưỡi hơi vàng mà nhuận, mạch Hư Tế. Trình căn cứ vào Nội kinh có câu: "Mạch hư, mình nhiệt, gây nên bởi thương thử” liền cho uống bài Thanh thử ích khí thang (7). Ngày hôm ấy uống hết một thang, đến đêm lại càng nóng nhiều, mê man rồ dại trằn trọc không yên... Sớm hôm sau chẩn lại, mạch lại càng Tế, rêu lưỡi đỏ sẫm chất lưỡi như nứt, có vệt máu đọng, khát uống nước lạnh. Trình đoán là nhiệt tà phục ở bên trong chưa đạt ra ngoài được. Cần phải "bỏ mạch theo chứng". Đổi cắt bài Bạch hổ thang gia Sinh địa, Đan bì, Sơn chi, Hoàng cầm, Trúc diệp, Đăng tâm. Uống hết một thang, khắp mình ra mồ hôi, tuy không rồ đại nữa nhưng lại cứ đờ ra như người ngây, chân giá lạnh, án tay tới tận xương không """