"
Từ Điêu Tàn Trỗi Dậy - Leigh Bardugo & Nguyễn Bảo Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từ Điêu Tàn Trỗi Dậy - Leigh Bardugo & Nguyễn Bảo Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tặng cha tôi, Harve
Đôi khi những người hùng của chúng ta chẳng thể sống sót đến cuối cùng.
── Grisha ──
Binh sĩ hạ quân
Chuyên gian thuật Điều Nhiên Corporalki
tâm y
Độc tâm y
Thiện tâm y
Etherealki
tiết độsư
Tiết khí sư
Tiết hỏa sư
Tiết hải sư
Materialki
sángchế gia
Giả kim hợp gia
Giả kim thuật gia
── MỞ ĐẦU ──
T
ên con quái vật là Izumrud, Cự Trùng, nhiều người khăng khăng tin rằng nó đã tạo ra những đường hầm bên dưới Ravka. Mang trong mình cơn đói cồn cào, nó ăn sạch bùn đất và sỏi đá, càng ngày càng đào sâu vào lòng đất hòng tìm ra thứ gì để thỏa mãn, cho đến khi nó đi quá xa và lạc lối trong bóng tối.
Đấy chỉ là một câu chuyện kể, nhưng người ở Giáo Hội Trắng luôn cẩn thận không đi quá xa khỏi những lối đi quanh hang động chính. Bao âm thanh lạ lẫm vang vọng khắp hệ thống địa đạo mịt mờ, những tiếng rên rỉ và lầm rầm khó hiểu, không gian lạnh lẽo của sự thinh lặng bị phá vỡ bởi những tiếng rít khẽ như đến từ hư vô, hoặc từ chuyển động uốn lượn của một thân thể dài ngoằng đang trườn dọc theo một lối đi gần bên để săn mồi. Vào những giây phút ấy, thật dễ để tin rằng Izumrud vẫn đang tồn tại ở đâu đấy, chờ được thức tỉnh bởi tiếng gọi của những vị anh hùng, mơ về bữa ăn ngon lành nó sẽ có nếu một đứa trẻ xấu số nào chẳng may đi lạc vào miệng nó. Một con quái thú như thế sẽ chỉ nghỉ ngơi chứ không chết hẳn.
Người con trai đem đến cho người con gái câu chuyện này, cùng nhiều câu chuyện khác, tất cả những câu chuyện mới mẻ cậu có thể thu thập được vào những ngày đầu tiên cậu được phép ở gần cô. Cậu sẽ ngồi cạnh giường, cố thúc cô ăn, lắng nghe tiếng thở gắt gao từ buồng phổi của cô, và cậu sẽ kể cô nghe câu chuyện về dòng sông được chế ngự bởi một Tiết Hải Sư quyền năng, nó được huấn luyện để xuyên thủng hàng ngàn lớp đá nhằm kiếm tìm một đồng xu ma thuật. Cậu sẽ thì thầm về gã Pelyekin đáng thương bị nguyền rủa, quần quật hàng ngàn năm với lưỡi cuốc diệu kỳ, để lại vô vàn hang động và lối đi sau dấu chân mình, một tồn tại đơn côi không mong gì hơn ngoài sự xao lãng, gã tích lũy vàng bạc và đá quý mà bản thân chưa bao giờ thiết dùng.
Rồi buổi sáng nọ, người con trai tìm đến phòng người con gái và nhận ra nó đã bị bao vây bởi một lực lượng vũ trang. Và khi cậu từ chối rời đi, họ xích cậu lại và lôi cậu ra khỏi cửa. Lão linh mục cảnh cáo người con trai rằng niềm tin sẽ đem cho cậu bình yên và phục tùng sẽ giữ cậu sống sót.
Bị giam trong ngục tối một mình ngoài tiếng nước rơi lộp độp và nhịp đập chậm rãi của trái tim, người con gái biết những câu chuyện về Izumrud là thật. Cô đã bị ăn sống, bị nuốt chửng hoàn toàn, và trong lòng thạch anh vang dậy của Giáo Hội Trắng, chỉ còn lại Thánh nữ hiện diện.
Người Thánh nữ thức dậy mỗi ngày trong tiếng ca tụng tên cô, và quân đội của cô ngày càng lớn mạnh, hàng ngũ lúc nhúc bao kẻ đói khát và tuyệt vọng, với những binh sĩ bị thương và những đứa trẻ chỉ gần đủ lớn để vác khẩu súng trường. Lão linh mục nói với tín đồ rằng ngày nào đó cô sẽ là Nữ Hoàng, và họ tin lời lão. Nhưng họ thắc mắc trước đoàn triều thần tơi tả và bí ẩn của cô: Tiết Khí Sư tóc đen với miệng lưỡi sắc sảo, Phế Nhân với khăn choàng cầu nguyện màu đen và những vết sẹo ghê tởm, người học giả xanh xao luôn lom khom bên đống sách vở và công cụ kì lạ của mình. Họ là những tàn dư rệu rã của Hạ Quân - thật không đủ tư cách làm trợ thủ của Thánh nữ.
Chỉ một số ít người biết rằng cô đã suy yếu. Bất cứ sức mạnh gì từng ban phúc cho cô, thiêng liêng hay không, đều đã biến mất - hoặc ít nhất là nằm ngoài tầm với. Những môn đệ bị cách ly ở một khoảng khá xa, để họ không thấy được đôi mắt cô giờ chỉ là hai lỗ trũng u tối, hơi thở cô giờ chỉ còn từng đợt ngắt quãng đầy sợ hãi. Cô bước thật chậm và ngập ngừng, từng khớp xương mảnh dẻ chực gãy nát bên trong, toàn bộ hy vọng của họ đặt lên người cô gái bệnh tật này.
Phía trên mặt đất, một vị vua mới cai trị với quân đoàn bóng tối mình sở hữu, và anh ta lệnh rằng Tiết Dương Sư của mình phải được trả về. Anh ta đe dọa lẫn treo thưởng, nhưng câu trả lời nhận được lại là thách thức - Một gã sống ngoài vòng pháp luật được dân chúng mệnh danh là Hoàng Tử Gió. Gã tấn công dọc theo biên giới phía Bắc, đánh bom đường dây tiếp tế, buộc Hắc Vương phải tái thiết mậu dịch và băng qua Vực Tối với không gì khác ngoài vận may cùng đoàn Tiết Hỏa Sư để đẩy lùi bầy quái vật. Vài người nói kẻ thách thức này là hoàng tử Lantsov. Kẻ khác lại đồn gã là một phiến quân Fjerda đã từ chối chiến đấu cùng lũ phù thủy. Nhưng tất cả đều nhất trí rằng gã chắc chắn phải sở hữu năng lực đặc thù.
Người Thánh nữ lắc mạnh song sắt của buồng giam bên dưới lòng đất. Đây là cuộc chiến của cô, và cô đòi quyền tự do để đấu tranh vì nó. Lão linh mục từ chối.
Nhưng lão đã quên rằng trước khi trở thành Grisha và Thánh nữ, cô là một hồn ma của Keramzin. Cô và người con trai đã tích trữ bí mật như Pelyekin tích trữ kho tàng. Họ biết cách trở thành những tên trộm và những bóng ma, biết cách che giấu sức mạnh cũng như mánh khóe. Tương tự các giáo viên ở dinh thự của Công tước, lão linh mục cứ ngỡ mình đã biết rõ về người con gái và khả năng của cô.
Lão đã lầm.
Lão đã không nghe thấy ngôn ngữ ẩn giấu của họ, đã không hiểu quyết tâm của người con trai. Lão đã không thấy được khoảnh khắc người con gái thôi đánh giá nhược điểm của mình là gánh nặng, mà bắt đầu mang nó như một lớp vỏ trá hình.
── 1 ──
T
ôi đứng trên ban công khắc đá, dang rộng hai tay, cả người run lẩy bẩy trong trang phục rẻ tiền, cố diễn tròn màn kịch hoàn hảo. Bộ kefta của tôi là một miếng vải chắp vá được may lại từ những mẩu vụn của chiếc áo choàng tôi mặc vào cái đêm trốn khỏi cung điện, cùng mấy tấm màn cửa sặc sỡ nghe nói được lấy từ một nhà hát đã sụp đổ đâu đó gần Sala. Áo được tô điểm bằng những chuỗi hạt trên chùm đèn treo trong hành lang. Họa tiết thêu ở tay áo gần sút chỉ. David và Genya đã cố gắng hết sức, nhưng tài nguyên bên dưới lòng đất thì có hạn.
Nhìn từ xa trông nó vẫn ổn, sắc vàng lung linh giữa ánh đèn như thể phát ra từ lòng bàn tay tôi, lan tỏa từng đợt lấp lánh rạng ngời trên khuôn mặt mê mẩn của đoàn môn đệ ở phía xa bên dưới. Khi đến gần, tất cả chỉ là những bó chỉ lỏng lẻo và nguồn sáng giả tạo. Giống như tôi. Thánh nữ xác xơ.
Giọng của Lão Tư Tế rền vang khắp Giáo Hội Trắng, và đám đông quay cuồng, mắt nhắm nghiền, tay giơ cao, một cánh đồng thuốc phiện, những cánh tay như cuống hoa nhợt nhạt đung đưa trong cơn gió vô hình mà tôi không thấy được. Tôi làm theo một chuỗi hành động được sắp đặt, cố ý di chuyển sao cho David và người Tiết Hỏa Sư phụ giúp anh vào sáng hôm đó có thể dõi theo cử động của tôi từ mật thất ngay phía trên ban công. Tôi chán ghét những buổi cầu nguyện sáng, nhưng theo lời lão linh mục thì, hình ảnh dối trá này rất cần thiết.
“Đấy là món quà cô tặng cho tín đồ của mình, Sankta Alina,” lão giải thích. “Là hy vọng”.
Trên thực tế, nó là một ảo vọng, một ám thị nhạt nhòa của ánh sáng một thời tôi từng nắm giữ. Quầng sáng màu vàng thật ra là lửa của Tiết Hỏa Sư, phản chiếu lại từ một chiếc đĩa gương tồi tàn được David tạo nên bằng những mảnh thủy tinh còn sót lại. Nó giống như thứ chúng tôi đã dùng khi
cố cản đường tiến của đội quân Hắc Y ở Os Alta nhưng thất bại. Chúng tôi bị đánh úp bất ngờ; và năng lực của tôi, kế hoạch của chúng tôi, tất cả kỹ nghệ của David, kể cả sự tháo vát của Nikolai cũng không đủ để ngăn chặn cuộc thảm sát. Từ đó, tôi không thể triệu hồi nổi dù chỉ một tia nắng nhỏ nhoi. Nhưng hầu hết đám đông của Lão Tư Tế chưa bao giờ nhìn thấy khả năng thật sự của Thánh nữ mà họ tôn thờ, và hiện tại, trò lừa đảo này xem như tạm đủ.
Lão Tư Tế kết thúc bài giảng của mình. Đấy là tín hiệu chấm dứt. Người Tiết Hỏa Sư để luống sáng bừng lên quanh tôi. Nó nhấp nháy và rung rinh một cách cuồng loạn, cuối cùng mới mờ đi lúc tôi bỏ tay xuống. Chà, giờ thì tôi biết hôm nay ai là người trực chung với David rồi. Tôi quắc mắt nhìn về phía hang động. Harshaw. Hắn ta lúc nào cũng làm quá trớn. Sau trận chiến ở Tiểu Điện chỉ có ba Tiết Hỏa Sư còn sống, nhưng một người đã chết chỉ sau đó vài ngày vì vết thương của cô. Trong số hai người còn lại, Harshaw là kẻ uy lực và khó đoán nhất.
Tôi bước xuống bục, nôn nóng thoát khỏi sự hiện diện của Lão Tư Tế, nhưng chân tôi loạng choạng suýt ngã. Lão liền nắm lấy tay và đỡ tôi đứng vững.
“Cẩn thận đấy, Alina Starkov. Cô quá bất cẩn với an nguy của bản thân.”
“Cảm ơn,” tôi nói. Tôi muốn tránh xa lão, tránh xa mùi bùn đất và nhang trầm hôi thối lão mang trên người.
“Hôm nay cô có vẻ không khỏe.”
“Chỉ vụng về chút thôi.” Cả hai đều biết đấy là lời nói dối. Tôi đã khỏe hơn hồi mới đến Giáo Hội Trắng - những khớp xương đã lành lặn, tôi cũng không nôn hết thức ăn nữa - nhưng tôi vẫn còn yếu, cơ thể như bị đày đọa bởi những cơn đau nhức và mỏi mệt liên miên.
“Vậy thì, một ngày để nghỉ ngơi nhé.”
Tôi nghiến răng. Lại một ngày bị giam cầm trong buồng ngủ. Tôi cố nén giận và yếu ớt mỉm cười. Tôi biết lão muốn thấy điều gì. “Tôi lạnh lắm,” tôi nói. “Vài ngày ở Kettle sẽ giúp tôi thấy ổn hơn.” Thành thực mà nói, đó là sự thật. Nhà bếp là nơi duy nhất không bị ẩm thấp trong Giáo Hội Trắng. Ngay lúc này, ít nhất một lò sưởi dùng cho buổi sáng sẽ được thắp lên. Hang động lớn hình tròn sẽ chìm trong mùi
thơm của bánh mì đang nướng và cháo yến mạch ngọt ngào được đầu bếp nấu từ đậu khô dự trữ và sữa bột do đồng minh trên mặt đất cung cấp. Tôi vờ run lên để tăng tính thuyết phục, nhưng câu trả lời duy nhất của lão linh mục chỉ là một chữ “hừm” vô thưởng vô phạt.
Tiếng di chuyển ở bên dưới hang động làm tôi chú ý: những người hành hương, tất cả đều mới đến. Tôi không thể ngăn mình nhìn họ bằng con mắt chiến lược. Một vài người mặc quân phục cho thấy họ là lính đào ngũ của Thượng Quân. Tất cả đều trẻ trung và khỏe mạnh.
“Không có cựu binh?” Tôi hỏi. “Hay góa phụ?”
“Cuộc sống dưới lòng đất là một hành trình khó khăn,” Lão Tư Tế đáp lại. “Nhiều người quá già hoặc quá yếu để chuyển đi. Họ thích sống thoải mái trong nhà mình hơn.”
Không thể nào. Những người hành hương chống nạng và gậy để đến đây, bất kể già nua hay bệnh tật. Dù sắp chết, họ vẫn đến đây vào những ngày cuối đời để được diện kiến Thần Mặt Trời. Tôi thận trọng ngoái nhìn sau vai. Tôi chỉ thoáng thấy qua cận vệ của Lão linh mục, những gã râu ria được trang bị vũ trang hiện đang đứng gác ở lối đi. Bọn họ là những nhà sư, những linh mục thông thái như Lão Tư Tế, và là những người duy nhất được phép mang vũ khí dưới đường hầm. Trên mặt đất, họ là người gác cổng, săn đuổi quân do thám và những kẻ vô thần, ban ơn trú ẩn cho những người họ nghĩ là xứng đáng. Gần đây, số lượng đoàn hành hương đang dần suy yếu, và những cá nhân gia nhập hàng ngũ của chúng tôi có vẻ nồng nhiệt hơn là ngoan đạo. Lão Tư Tế muốn những chiến binh tiềm năng, không phải những cái miệng đói ăn.
“Tôi có thể đến chỗ người già và bệnh nhân,” tôi đề nghị. Tôi biết tranh cãi là vô ích, nhưng tôi vẫn lên tiếng. Đây là điều gần như được đoán trước. “Thánh nữ nên đồng hành cùng dân chúng, không phải lẩn trốn như chuột cống dưới hang.”
Lão Tư Tế mỉm cười - nụ cười nhân đức, khoan dung mà giáo dân ngưỡng mộ nhưng khiến tôi muốn thét lên. “Vào thời điểm khó khăn, nhiều loài động vật sẽ chui xuống lòng đất. Đấy là cách chúng sống sót,” lão nói. “Sau khi lũ xuẩn ngốc phát động chiến tranh, chuột cống sẽ là loài cai trị ruộng đồng và thị trấn.”
Và mở tiệc ăn mừng trên xác chết, tôi rùng mình nhủ thầm. Như thể đọc được ý nghĩ, lão linh mục nhấn một tay lên vai tôi. Những ngón tay dài và trắng nhợt, vươn khắp tay tôi như một con nhện sáp. Nếu đây là cử chỉ nhằm để an ủi thì lão thất bại rồi.
“Hãy kiên nhẫn, Alina Starkov. Chúng ta chỉ trỗi dậy đúng lúc chứ không sớm hơn.”
Kiên nhẫn. Nó luôn là đơn thuốc của lão. Tôi cố kiềm chế mong muốn được chạm vào cổ tay trơ trọi của mình, khoảng trống đáng ra sẽ đón nhận vòng xương của Hỏa Điểu. Tôi đã có vảy của Hải Long và sừng con hươu đực, nhưng mảnh ghép cuối cùng trong câu đố của Morozova vẫn mất tích.
Chúng tôi đã có thể sở hữu bộ khuếch đại thứ ba nếu Lão Tư Tế chịu góp sức tìm kiếm, hoặc để chúng tôi quay lại mặt đất cũng được. Nhưng sự chấp thuận ấy phải trả bằng một cái giá.
“Tôi lạnh lắm,” tôi lặp lại, cố chôn vùi nỗi bực dọc của mình. “Tôi muốn đến Kettle.”
Lão cau mày. “Ta không thích cô túm tụm bên dưới đó với con bé kia…”
Đằng sau chúng tôi, bọn lính canh lao xao không ngừng, và tôi thoáng nghe được một từ. Razrusha’ya. Tôi hất tay Lão Tư Tế ra và giậm chân về phía lối đi. Đám cận vệ bắt đầu đứng nghiêm. Cũng như các huynh đệ khác của mình, bọn họ mặc áo nâu đính hình mặt trời, giống như biểu tượng trên áo choàng của Lão Tư Tế. Biểu tượng của tôi. Nhưng họ chưa bao giờ trực
tiếp nhìn tôi, chưa bao giờ nói chuyện với tôi hoặc những Grisha tị nạn khác. Thay vào đó, họ im lặng đứng ở góc phòng và theo chân tôi khắp nơi như những bóng ma râu ria mang súng trường.
“Tôi cấm các người nói cái tên đó,” tôi lên tiếng. Họ nhìn thẳng về phía trước, như thể tôi không hề tồn tại. “Tên cô ấy là Genya Safin, và tôi vẫn còn là tù nhân của Hắc Y nếu không có cô ấy.” Không phản ứng. Nhưng tôi thấy họ cứng người khi mới nghe tên cô ấy. Những gã đàn ông cao lớn mang súng, rốt cuộc lại sợ hãi một cô gái sứt sẹo. Lũ ngốc mê tín.
“XIN HÃY NGUÔI GIẬN, SANKTA ALINA,” Lão Tư Tế cất lời, kéo khuỷu tay tôi và xua tôi băng qua lối đi đến phòng tiếp khách của lão. Viên đá có vân màu bạc trên trần nhà được chạm khắc thành hình hoa hồng, và những bức tường được vẽ hình các Thánh với vòng hào quang rực sắc
Ắ ẳ
vàng. Ắt hẳn chúng được tạo nên nhờ tay nghề của các Sáng Chế Gia, vì không bút mực bình thường nào có thể chống chọi trước giá lạnh và ẩm thấp trong Giáo Hội Trắng. Lão linh mục ngồi xuống một cái ghế gỗ thấp và ra hiệu cho tôi làm theo. Tôi cố giấu vẻ nhẹ nhõm khi ngồi xuống một chiếc ghế khác. Chỉ mỗi việc đứng quá lâu cũng đủ khiến tôi đứt hơi.
Lão nhìn tôi chằm chằm, lướt qua nước da tái xanh và quầng thâm bên dưới mắt tôi. “Ắt hẳn Genya có thể giúp cô nhiều hơn.”
Đã hơn hai tháng kể từ trận chiến với Hắc Y, và tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Gò má tôi cắt ngang hai trũng sâu hoắm như những dấu chấm than giận dữ, và những sợi tóc bạc xơ xác trông y hệt tơ nhện. Cuối cùng tôi đã thuyết phục Lão Tư Tế cho phép Genya dùng bữa trong bếp cùng tôi, với lời hứa rằng cô ấy có thể sử dụng năng lực của mình và khiến tôi trông khá hơn. Đấy là mối giao tiếp thực sự duy nhất với những Grisha khác mà tôi có được trong vài tuần nay. Tôi sẽ trân trọng từng khoảnh khắc, từng chi tiết nhỏ nhoi nhất.
“Cô ấy đang cố gắng hết sức,” tôi nói.
Lão linh mục thở dài. “Ta đoán tất cả chúng ta đều phải kiên nhẫn. Theo thời gian, cô sẽ dần hồi phục. Bằng niềm tin. Bằng nguyện cầu.” Cơn thịnh nộ chợt dấy lên trong tôi. Lão thừa biết cách duy nhất có thể giúp tôi lành lại chính là sử dụng năng lượng của bản thân, nhưng để làm điều đó, tôi cần phải trở lên mặt đất.
“Ông chỉ cần để yên cho tôi quay trở lại…”
“Cô quá quan trọng với chúng ta, Sankta Alina, và rủi ro thì lớn vô cùng.” Lão nhún vai ra chiều ăn năn. “Cô không để tâm đến an nguy của mình, nên ta phải làm thế.”
Tôi giữ im lặng. Đây là trò mà hai chúng tôi đã chơi từ lúc tôi bị đưa đến đây. Lão Tư Tế đã giúp tôi rất nhiều. Lão là lý do duy nhất mà đoàn Grisha của tôi có thể thoát khỏi trận chiến với lũ quái vật của Hắc Y. Nhưng càng ngày Giáo Hội Trắng càng giống một nhà tù hơn trại tị nạn.
Lão chụm mười đầu ngón tay vào nhau. “Đã mấy tháng trôi qua, vậy mà cô vẫn không tin tưởng ta.”
“Có chứ,” tôi nói dối. “Dĩ nhiên là có.”
“Thế nhưng, cô không để ta giúp cô. Một khi bắt được Hỏa Điểu, tất cả có thể sẽ thay đổi.”
“David đang nghiên cứu ghi chép của Morozova. Tôi đảm bảo câu trả lời ở trong đó.”
Ánh nhìn u ám của Lão Tư Tế xoáy sâu vào tôi. Lão ngờ rằng tôi biết được vị trí của Hỏa Điểu - bộ khuếch đại thứ ba của Morozova và chìa khóa để tháo gỡ nguồn năng lượng độc nhất có thể đánh bại Hắc Y và tiêu diệt Vực Tối. Và lão đoán đúng. Ít nhất đấy là điều tôi mong muốn. Manh mối duy nhất chúng tôi có đã bị chôn vùi trong ký ức tuổi thơ hiếm hoi của tôi, cùng hy vọng rằng những điêu tàn ám bụi của Dva Stolba che giấu nhiều thứ hơn vẻ bề ngoài. Nhưng dù đúng hay sai thì tung tích của Hỏa Điểu vẫn là một bí mật tôi muốn giữ. Tôi đã bị cách ly ở bên dưới lòng đất, gần như vô dụng, lại thêm bọn cận vệ theo dõi suốt ngày đêm. Tôi sẽ không từ bỏ lợi thế của mình dù chỉ là một chút.
“Ta chỉ muốn điều tốt đẹp nhất cho cô, Alina Starkov. Cho cô và những người bạn của cô. Số ít hiếm hoi còn sót lại. Nếu có gì xảy đến với họ…” “Để họ yên,” tôi gầm gừ, quên mất phải giả vờ ngọt ngào, giả vờ ngoan ngoãn.
Cái nhìn của Lão Tư Tế trông đắc ý hơn những gì tôi muốn. “Ý ta chỉ là tai nạn thường xảy ra bên dưới lòng đất. Ta biết cô sẽ cảm nhận từng mất mát một cách sâu sắc, và cô thì vô cùng, vô cùng yếu đuối” Môi lão cong lên để hở lợi khi nói đến từ cuối cùng. Chúng đen ngòm như hàm sói.
Một lần nữa, cơn thịnh nộ chạy dọc khắp người tôi. Từ ngày đầu tiên ở Giáo Hội Trắng, những lời đe dọa đã phủ vây giữa không trung, làm tôi ngạt thở với sức ép vững vàng của nỗi sợ. Lão Tư Tế chưa bao giờ bỏ qua cơ hội nhắc nhở tôi về sự bất lực của bản thân. Gần như không suy nghĩ, từng đầu ngón tay giấu trong áo của tôi liền co quắp lại. Bóng tối nhảy vọt lên bốn bức tường trong phòng.
Lão Tư Tế ngả chồm về phía sau ghế. Tôi cau mày, giả vờ ngây thơ. “Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
Lão hắng giọng, hai mắt láo liên từ phải sang trái. “Không… không có gì,” lão lắp bắp.
Tôi liền để vầng tối rơi xuống. Phản ứng của lão đáng để bù lại cơn choáng váng ập tới mỗi lần tôi dùng mẹo vặt này. Và tất cả chỉ có thế. Tôi
có thể khiến bóng tối nhảy nhót và múa may, nhưng ngoài ra thì không gì khác. Ấy là một vọng âm nhỏ bé đáng thương từ sức mạnh của Hắc Y, chút tàn dư còn sót lại sau cuộc đối đầu đã suýt giết chết hai chúng tôi. Tôi phát hiện ra nó khi cố triệu hồi ánh sáng, và tôi gắng gượng mài giũa nó thành thứ gì đó tuyệt vời hơn, thứ gì đó để giúp tôi chiến đấu. Kết quả là con số không. Những bóng đen như một hình phạt, những hồn ma của năng lượng quyền uy hơn, tồn tại chỉ để chế nhạo tôi, vị Thánh của bộ tịch và những chiếc gương soi.
Lão Tư Tế đứng dậy, cố lấy lại bình tĩnh. “Cô sẽ đến phòng lưu trữ,” lão dứt khoát cất lời. “Khoảng thời gian học tập và nghiền ngẫm trong yên lặng sẽ giúp cô xoa dịu tinh thần.”
Tôi nén tiếng rên rỉ. Đây quả thật là một sự ngược đãi - hàng tiếng đồng hồ tốn công vô ích để nghiên cứu những văn bản tôn giáo nhằm tìm kiếm thông tin về Morozova. Chưa kể đến phòng lưu trữ ẩm thấp, tồi tàn, và lúc nhúc bọn cận vệ của Giáo hội. “Ta sẽ hộ tống cô,” lão nói thêm. Tuyệt vời chưa kìa.
“Còn Kettle?” tôi hỏi, cố giấu nỗi tuyệt vọng trong giọng nói. “Để sau. Razru- Genya sẽ đợi,” lão nói trong lúc tôi theo sau lão đi vào đường hầm. “Cô không cần phải gấp rút đến Kettle, cô biết chứ. Cô có thể gặp cô ấy ở đây. Trong riêng tư.”
Tôi liếc qua bọn cảnh vệ, những kẻ sớm đã dợm bước theo sau chúng tôi. Riêng tư. Thật nực cười. Nhưng ý nghĩ về việc bị cấm vào bếp thì không. Có thể hôm nay đường ống chính sẽ được mở lâu hơn vài giây. Một hy vọng mong manh, nhưng nó là tất cả hy vọng tôi có.
“Tôi thích Kettle hơn,” tôi đáp. “Ở đấy rất ấm.” Tôi cho lão thấy nụ cười nhu mì nhất của mình, để môi hơi run rẩy, rồi nói thêm, “Nó làm tôi nhớ nhà.”
Lão thích điều đó - hình ảnh một cô gái khiêm tốn, lom khom bên bếp lửa, áo xống lấm lem bụi tro. Một ảo ảnh khác, một chương khác trong cuốn sách Thánh nhân của lão.
“Được thôi,” cuối cùng lão nói.
Mất một lúc lâu để chúng tôi đi xuống từ ban công. Cái tên Giáo Hội Trắng bắt nguồn từ những bức tường thạch cao và hang động chính khổng lồ của nó, nơi chúng tôi hành lễ vào mỗi buổi sáng và tối. Nhưng nó còn
hơn thế nữa - một mạng lưới hầm ngầm và hang động chằng chịt, một thành phố dưới lòng đất. Tôi căm ghét từng milimet nhỏ của nó. Hơi ẩm rò rỉ xuyên tường, nhỏ giọt từ trần cao, hợp thành từng cụm lấm tấm trên da tôi. Nỗi ớn lạnh chẳng thể nào xua tan. Những cây nấm độc và hoa nở về đêm mọc lên từ những vết nứt và kẽ hở. Tôi ghét cách chúng tôi ấn định giờ giấc: Lễ sáng, cầu nguyện trưa, lễ tối, ngày các Thánh, ngày ăn kiêng và nửa ăn kiêng. Nhưng trên hết, tôi ghét cảm giác thấy bản thân là một con chuột nhỏ, lông trắng mắt đỏ, cào cấu những bức tường mê cung bằng móng vuốt ửng hồng khẳng khiu của mình.
Lão Tư Tế dắt tôi xuyên qua những hang động ở phía Bắc của lòng trũng chính, nơi nhóm Soldat Sol tập huấn. Dân chúng nép mình vào đá hoặc vươn tay chạm vào tay áo hoàng kim của tôi lúc cả hai đi ngang. Chúng tôi thả bước chậm rãi, trang nghiêm - cần phải thế. Tôi không thể đi nhanh hơn mà không đứt hơi cho được. Đám đông của Lão Tư Tế biết tôi đang bệnh và cầu nguyện cho sức khỏe của tôi, nhưng lão sợ họ sẽ hoảng lên nếu phát hiện ra tôi mỏng manh - và giống người thường - đến chừng nào.
Lúc chúng tôi đến thì nhóm Soldat Sol đã bắt đầu tập huấn. Họ là những thánh kỵ sĩ của Lão Tư Tế, những chiến binh mặt trời xăm biểu tượng của tôi trên cánh tay và mặt. Phần lớn là lính đào ngũ của Thượng Quần, dù những người khác chỉ là những kẻ trẻ dại, nhiệt huyết, và sẵn sàng hy sinh. Họ đã góp phần cứu tôi thoát khỏi Tiểu Điện, và thương vong nghiêm trọng vô cùng. Thánh kỵ sĩ hay không, họ vẫn không địch lại bầy nichevoʼya của Hắc Y. Tuy nhiên, phục vụ Hắc Y vẫn có quân đội thường dân và Grisha, nên nhóm Soldat Sol bắt đầu tập huấn.
Nhưng bây giờ họ không làm thế với vũ khí thật, thay vào đó là kiếm giả và súng trường nhồi đạn sáp. Soldat Sol là một thể loại hành hương khác, họ đến thờ cúng Thần Mặt Trời vì lời hứa về sự thay đổi, nhiều người còn trẻ và cảm thấy mâu thuẫn trước Lão Tư Tế và đường lối cổ hủ của nhà thờ. Từ khi tôi xuống dưới lòng đất, Lão Tư Tế đã kiểm soát chặt chẽ hơn. Lão cần họ, nhưng lão không hoàn toàn tin tưởng họ. Tôi biết cảm giác đó.
Đội cảnh vệ đứng dọc tường, theo dõi sít sao cuộc tập huấn. Đạn của họ là thật, và kiếm lưỡi cong cũng vậy.
Trong lúc tiến vào khu vực tập huấn, tôi thấy một nhóm họp lại để xem Mal đấu với Stigg, một trong hai Tiết Hỏa Sư còn sống sót. Anh ta có cái cổ to bè, tóc vàng, và không chút khiếu hài hước nào - máu Fjerda ăn vào tận xương tủy.
Mal tránh được quầng lửa, nhưng áo cậu ấy bắt phải đợt phụt lửa thứ hai. Đám đông đứng xem liền thở dốc. Tôi tưởng cậu ấy sẽ lùi lại, nhưng thay vào đó cậu ấy xông lên. Cậu ấy cuộn người lao tới, lăn trên đất dập lửa và đánh cho Stigg hụt chân ngã nhào. Trong nháy mắt, cậu ấy đã đè được người Tiết Hỏa Sư nằm sấp xuống. Cậu giữ chặt cổ tay của Stigg, ngăn anh ta tấn công tiếp.
Nhóm chiến binh mặt trời đương dõi theo vỡ òa trong tiếng huýt sáo và vỗ tay tán thưởng.
Zoya hất mái tóc đen bóng của mình qua một bên vai. “Giỏi lắm, Stigg. Anh đã được trói lại và sẵn sàng để phết mỡ đem nướng.” Ánh nhìn của Mal khiến cô ta im bặt. “Mất tập trung, mất vũ khí, mất lợi thế,” cậu nói. “Bí quyết chính là không được hoảng loạn.” Cậu nhỏm dậy và giúp Stigg đứng lên. “Anh không sao chứ?”
Stigg nổi quạu, nhăn nhó, nhưng vẫn gật đầu và chuyển sang đấu với một nữ binh trẻ đẹp.
“Coi nào, Stigg,” cô gái nhăn răng cười. “Tôi sẽ không mạnh tay với anh đâu.”
Khuôn mặt cô ấy trông khá quen, nhưng tôi phải mất một lúc mới nhớ ra - Ruby. Mal và tôi đã huấn luyện cùng cô ấy ở Poliznaya. Cô ấy ở cùng trung đoàn với cả hai. Tôi nhớ cô ấy hớn hở, hay cười khúc khích, loại con gái sôi nổi, ưa tán tỉnh luôn làm tôi bối rối và vô vọng dưới lớp vỏ của mình. Cô vẫn giữ được nụ cười thường trực ấy, bím tóc dài vàng rực ấy. Nhưng kể cả nhìn từ xa, tôi vẫn có thể thấy vẻ thận trọng trong cô, sự thận trọng có được từ chiến trận. Có một hình xăm mặt trời màu đen phía bên phải khuôn mặt cô. Thật lạ khi nghĩ rằng cô gái ngày nào từng ngồi đối diện tôi trong đại sảnh hỗn độn nay lại xem tôi như thần thánh.
Hiếm khi Lão Tư Tế hay cận vệ của lão dẫn tôi đến phòng lưu trữ bằng đường này. Hôm nay có gì khác? Lão đem tôi đến đây để tôi có thể nhìn những mảnh vụn còn lại từ đội quân của mình và nhớ đến cái giá phải trả
cho sai lầm của bản thân? Để cho tôi thấy đồng minh của mình ít ỏi thế nào?
Tôi nhìn Mal bắt cặp những chiến binh mặt trời với Grisha. Có Tiết Khí Sư: Zoya, Nadia và em trai Adrik của cô. Cùng với Stigg và Harshaw, họ là những người cuối cùng trong đội Tiết Độ Sư của tôi. Nhưng tôi không thấy Harshaw đâu cả. Hắn ta chắc đã lăn vào giường trở lại sau khi triệu hồi lửa cho tôi trong buổi cầu nguyện sáng.
Về phía Tâm Y, những Độc Tâm Y duy nhất đứng trên sân tập huấn là Tamar và ông anh sinh đôi bự con của cô, Tolya. Tôi nợ họ mạng sống của mình, nhưng món nợ ấy tôi vẫn thấy không thỏa đáng. Họ thân cận với Lão Tư Tế, làm theo chỉ thị của nhóm Soldat Sol, và nói dối tôi hàng tháng liền ở Tiểu Điện. Tôi không biết phải làm gì với họ. Lòng tin là một xa xỉ phẩm mà tôi khó lòng sở hữu.
Những chiến binh còn lại phải chờ tới lượt đấu tập. Đơn giản vì có quá ít Grisha. Genya và David thích sống tách biệt, và đằng nào họ cũng chẳng mấy thích hợp để đấu tay đôi. Maxim là một Thiện Tâm Y và thích rèn luyện y thuật của mình trong phòng y tế hơn, dù cũng có một vài môn đồ của Lão Tư Tế đủ tin tưởng vào Grisha để đến nhờ anh chữa thương. Sergei là một Độc Tâm Y quyền năng, nhưng tôi nghe nói anh ta không thật sự ổn định để được phép ở gần học sinh. Anh ta đã xuất hiện trong thời khắc ác liệt nhất của cuộc chiến, khi Hắc Y mở đợt tấn công bất ngờ, đã chứng kiến người con gái mình yêu bị lũ quái vật xé xác. Chúng tôi đánh mất Độc Tâm Y duy nhất còn lại vì lũ nichevoʼya đâu đó giữa Tiểu Điện và nhà thờ.
Bởi vì mày, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. Vì mày không thể bảo vệ họ.
Tôi được dời khỏi luồng suy tư ảm đạm bằng giọng của Lão Tư Tế. “Cậu ta đã đi quá giới hạn.”
Tôi dõi theo ánh mắt lão đến nơi Mal đang di chuyển giữa những chiến binh, trò chuyện với người này hay chỉnh lỗi cho kẻ khác. “Cậu ấy đang giúp họ tập luyện,” tôi nói.
“Cậu ta đang ra chỉ thị. Oretsev,” lão linh mục cất tiếng, vẫy tay bảo cậu lại gần. Tôi cứng người, nhìn Mal dần tiến đến. Tôi hầu như không được gặp cậu kể từ khi cậu bị cấm đến phòng ngủ của tôi. Ngoại trừ những lần
tương tác được phân chia kỹ lưỡng của tôi với Genya, Lão Tư Tế cô lập tôi khỏi những đồng minh có tiềm năng.
Mal trông khác hẳn. Cậu ấy mặc tấm áo vải thường dân đã từng là đồng phục của mình ở Tiểu Điện, nhưng cậu gầy hơn, nhợt nhạt hơn bởi khoảng thời gian ở bên dưới mặt đất. Vết sẹo nhỏ trên cằm của cậu giờ trông nổi bật hơn.
Cậu dừng lại trước tôi và cúi chào. Đây là khoảng cách gần nhất chúng tôi được phép ở cạnh nhau suốt mấy tháng qua.
“Ở đây cậu không phải đội trưởng,” Lão Tư Tế nói. “Tolya và Tamar có cấp bậc cao hơn.”
Mal gật đầu. “Đúng vậy.”
“Thế tại sao cậu lại chỉ huy bài tập luyện?”
“Tôi không chỉ huy gì cả,” cậu đáp. “Tôi có thứ để dạy. Họ có thứ để học.”
Chính xác, tôi cay đắng thầm nghĩ. Mal đã trở nên thiện nghệ trong việc chiến đấu với Grisha. Tôi nhớ hình ảnh cậu bầm dập và đẫm máu, đứng trên một Tiết Khí Sư trong chuồng ngựa ở Tiểu Điện, ánh nhìn khiêu khích và khinh miệt trong mắt. Một ký ức nữa mà tôi không cần đến.
“Sao những thành viên mới kia vẫn chưa được đánh dấu?” Lão Tư Tế hỏi, hướng tay về phía nhóm trẻ đang tập với kiếm gỗ gần bức tường phía xa. Không ai trong số chúng có thể lớn hơn mười hai tuổi.
“Bởi vì chúng là trẻ con,” Mal trả lời, giọng nói như đóng băng. “Đấy là lựa chọn của chúng. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội được bày tỏ lòng trung thành nơi chúng vì chính nghĩa của chúng ta sao?”
“Tôi sẽ chặn đứng nỗi ân hận của chúng.”
“Không ai có được quyền đó.”
Thớ cơ ở quai hàm Mal co giật. “Nếu chúng ta thua trận, những hình xăm đó sẽ tố giác chúng là chiến binh mặt trời. Bọn trẻ bây giờ chẳng khác nào đang đăng kí để đối mặt với đội hành quyết cả.”
“Có phải vì thế mà cậu không xăm hình trên mặt? Vì lòng tin chiến thắng của cậu quá ít?”
Mal liếc sang tôi, rồi quay lại Lão Tư Tế. “Tôi dành niềm tin của mình cho Thánh Thần,” cậu công bằng giảng giải. “Không phải những gã đưa lũ trẻ vào chỗ chết.”
Lão linh mục nheo mắt.
“Mal nói đúng,” tôi chen vào. “Không cần đánh dấu lũ trẻ đâu.” Lão Tư Tế lại dò xét tôi bằng ánh nhìn u tối ấy. “Làm ơn,” tôi khẽ nói, “xem như là ban phước cho tôi vậy.”
Tôi biết lão thích giọng điệu ấy đến thế nào - dịu dàng, ấm áp, một giọng nói tựa lời ru.
“Thật là một tấm lòng nhạy cảm,” lão tặc lưỡi. Nhưng tôi có thể thấy lão đương hài lòng. Dù tôi đã phản đối ý nguyện của lão, nhưng đây mới là vị Thánh lão muốn tôi trở thành, một người mẹ hiền từ, niềm ủi an cho dân chúng. Tôi bấm chặt móng vào lòng bàn tay.
“Đó là Ruby, phải không?” Tôi hỏi, nôn nóng đổi chủ đề và chuyển sự chú ý của Lão Tư Tế sang hướng khác.
“Cô ấy vừa đến cách đây vài tuần,” Mal bảo. “Cô ấy cừ lắm - xuất thân bộ binh mà.” Dầu không cố ý, tôi vẫn có chút nhức nhối vì ganh tị. “Trông Stigg có vẻ không vui,” tôi nhận xét, hất đầu về phía người Tiết Hỏa Sư đang trút giận lên Ruby. Cô ấy đang cố gắng cầm cự, nhưng rõ ràng đã bị áp đảo hoàn toàn.
“Anh ta không thích bị đánh bại.”
“Mình nghĩ thậm chí bồ còn chẳng đổ mồ hôi.”
“Ừ,” cậu ấy nói. “Đấy mới là vấn đề.”
“Tại sao?” Lão Tư Tế thắc mắc.
Mắt Mal lướt qua tôi trong thoáng chốc. “Ông học được nhiều hơn qua việc thua cuộc.” Cậu ấy nhún vai. “Ít nhất vẫn còn Tolya để đá đít tôi.” “Ăn nói cẩn thận đấy,” Lão Tư Tế gắt lên.
Mal lờ lão đi. Một cách đột ngột, cậu ấy đặt hai ngón tay lên môi và huýt một tiếng sáo cao vót. “Ruby, cô đang để lộ sơ hở!” Đã quá muộn. Bím tóc của cô ấy bừng cháy. Một chiến binh trẻ tuổi khác cầm xô nước chạy đến và đổ lên đầu cô.
Tôi nhăn mặt. “Cố đừng chiên giòn quá nhé.”
Mal cúi chào. “Moi soverenyi” Rồi cậu chạy bộ trở lại quân đoàn. Danh xưng đó. Cậu ấy gọi nó không chút ác ý như hồi còn ở Os Alta, nhưng nó vẫn như một nắm đấm thụi vào bụng tôi đau điếng. “Cậu ta không nên gọi cô như thế,” Lão Tư Tế phàn nàn. “Tại sao không?”
“Đấy là danh xưng của Hắc Y và nó không phù hợp với một vị Thánh.” “Vậy cậu ấy nên gọi tôi là gì?”
“Cậu ta không nên xưng hô trực tiếp gì với cô thì hơn.”
Tôi thở dài. “Lần tới tôi sẽ bảo cậu ấy viết thư nếu có gì muốn nói.” Lão Tư Tế mím môi. “Hôm nay cô khá bồn chồn. Ta nghĩ thêm một giờ để khuây khỏa trong phòng lưu trữ sẽ tốt cho cô hơn.”
Giọng lão quở trách như thể tôi là một đứa trẻ cáu gắt đã thức quá giờ đi ngủ.Tôi buộc mình nhớ đến lời hứa về Kettle và cố nặn ra nụ cười. “Tôi chắc ông nói đúng.” Mất tập trung, mất vũ khí, mất lợi thế.
Trong lúc quay xuống đường hầm dẫn tới phòng lưu trữ, tôi ngoái lại đằng sau. Zoya đã lật ngã một chiến binh và đang xoay anh ta như rùa, tay cô lười nhác đảo vòng trong không khí. Ruby đang nói chuyện với Mal, nụ cười rạng rỡ, biểu cảm khao khát. Nhưng Mal đang dõi theo tôi. Trong ánh sáng mờ ảo của hang động, mắt cậu rực lên màu xanh thẳm sâu và kiên định, màu xanh ở trung tâm một ngọn lửa.
Tôi quay đi và theo sau Lão Tư Tế, bước chân dồn dập hơn, cố làm dịu buồng phổi khò khè của mình. Tôi nghĩ đến nụ cười của Ruby, bím tóc đơn của cô ấy. Một cô gái tốt. Một cô gái bình thường. Đấy là những gì Mal cần. Nếu bây giờ cậu ấy chưa hẹn hò với người nào khác, thì sau này cậu ấy sẽ làm thế. Và ngày nào đó, tôi sẽ là một người đủ tử tế để chúc phúc cho cậu. Chỉ là không phải hôm nay.
Chúng tôi bắt gặp David trên đường đến phòng lưu trữ. Anh ta vẫn bê bối như thường lệ - tóc chĩa tứ tung, tay áo vấy mực. Một tay anh cầm ly trà nóng và nhét trong túi áo là một mẩu bánh mì nướng.
Mắt anh ta đảo từ Lão Tư Tế đến bọn cảnh vệ.
“Thêm thuốc mỡ?” Anh hỏi.
Lão Tư Tế khẽ nhếch môi khi nghe câu đó. Thuốc mỡ là điều dược của David dành cho Genya. Cùng với nỗ lực của riêng cô, nó đã giúp mấy vết sẹo nghiêm trọng nhất của Genya mờ dần, nhưng vết thương do nichevoʼya gây ra sẽ không bao giờ lành lại hoàn toàn.
“Sankta Alina đến đây để dành trọn buổi sáng của mình cho việc nghiên cứu,” Lão Tư Tế tuyên bố bằng vẻ nghiêm trọng tột cùng. David khẽ giật người tựa một cái nhún vai trong lúc luồn qua cửa. “Nhưng chốc nữa cô sẽ đến Kettle chứ?”
“Ta sẽ cho cận vệ đến hộ tống cô trong hai giờ tới,” Lão Tư Tế nói. “Genya Safin sẽ đợi cô.” Mắt lão quét qua khuôn mặt hốc hác của tôi. “Nhớ bảo cô ta phải chú tâm vào công việc của mình hơn.”
Lão cúi người thật sâu và biến mất cuối đường hầm. Tôi nhìn quanh phòng và thở một hơi dài chán nản.
Phòng lưu trữ đáng lẽ là một nơi tôi yêu thích, mùi mực thơm nồng trên giấy, tiếng lách tách khẽ của bút lông chim. Nhưng đây là hang ổ của bọn cảnh vệ - một mê cung mờ sáng gồm những cánh cửa tò vò và những cây cột chạm khắc từ đá trắng. Khoảng khắc tôi gần được chứng kiến David nổi giận nhất chính là lần đầu tiên anh nhìn thấy những hốc nhỏ có mái vòm này, một số chúng được đẽo sâu vào trong tường, tất cả đều được chất đầy sách cổ và bản thảo, những trang giấy đen đúa mục ruỗng, gáy sách phồng to vì hơi ẩm. “Cô không… cô không thể cất giữ ghi chép của Morozova ở đây được,” anh ta đã thực sự rít lên. “Chỗ này là một cái đầm lầy.”
Giờ David dành cả ngày và hầu hết buổi đêm trong phòng lưu trữ, nghiền ngẫm bút ký của Morozova, chép lại những học thuyết và phác họa vào sổ tay của mình. Cũng như phần lớn Grisha khác, anh ta tin rằng ghi chép của Morozova đã bị phá hủy sau sự ra đời của Vực Tối. Nhưng Hắc Y sẽ không đời nào để những tri thức như thế biến mất. Anh ta đã giấu kín các ghi chép ấy, và dù chưa bao giờ nhận được một câu trả lời rõ ràng từ Lão Tư Tế, tôi vẫn ngờ rằng lão đã tìm ra chúng ở Tiểu Điện bằng cách nào đó, rồi đánh cắp chúng khi Hắc Y bị ép phải rời Ravka.
Tôi ngồi sụp xuống chiếc ghế đẩu đối diện David. Anh ta đã kéo một bộ bàn ghế về phía khô ráo nhất trong hang, và chất lên kệ một lượng dầu dự trữ để thắp đèn giấy, cùng thảo dược và mỡ bôi để làm thuốc mỡ cho
Genya. Bình thường, anh ta sẽ khom lưng nghiên cứu vài công thức hay hàn xì chút đỉnh và chả buồn ngẩng đầu lên suốt mấy tiếng liền, nhưng hôm nay dường như anh ta chẳng ở yên được, nào rề rà với lọ mực, nào loay hoay với đồng hồ bỏ túi mình để trên bàn.
Tôi sốt ruột lật giở từng trang trong một cuốn sổ tay của Morozova. Tôi bắt đầu ghét phải nhìn thấy chúng - vô dụng, khó hiểu và, quan trọng hơn hết, dở dang. Ông miêu tả giả thuyết của mình về những bộ khuếch đại, những manh mối khi lần theo con hươu đực, hành trình dài hai năm trên tàu săn cá voi để tìm kiếm Hải Long, học thuyết về Hỏa Điểu, và rồi… không gì cả. Hoặc những ghi chép này còn thiếu sót, hoặc Morozova đã bỏ dở công trình của mình.
Viễn cảnh tìm kiếm và sử dụng Hỏa Điểu đã rất nản lòng. Nhưng nếu ý nghĩ rằng nó không tồn tại, và tôi có thể phải đối mặt với Hắc Y một lần nữa mà không có nó? Ý nghĩ ấy quá kinh hoàng, nên tôi chỉ gạt đi.
Tôi buộc mình lật sang trang khác. Phương tiện duy nhất để tôi canh giờ là chiếc đồng hồ của David. Tôi không biết anh ta tìm thấy nó ở đâu, làm nó hoạt động như thế nào, hoặc múi giờ được cài đặt có tương quan với trên mặt đất hay không, nhưng tôi trừng mắt nhìn mặt đồng hồ và ước gì kim phút chạy nhanh hơn.
Cận vệ của Lão Tư Tế đến và đi, luôn theo dõi tôi hoặc cắm mặt vào văn bản của họ. Nhiệm vụ của họ là tô màu bản thảo, học ngôn ngữ thánh, nhưng tôi đoán phần lớn không chỉ có vậy. Mạng lưới gián điệp của Lão Tư Tế trải dài xuyên suốt Ravka, và những gã đàn ông này cho rằng mình có bổn phận gìn giữ nó, giải mã mật thư, tập họp tình báo, xây dựng một giáo phái thờ Tân Thánh. Thật khó để không so sánh họ với nhóm Soldat Sol của tôi, phần lớn đều non nớt và mù chữ, bị khóa kín khỏi những thần bí cổ xưa được những gã đàn ông này canh giữ.
Khi tôi không thể chịu thêm bất kì lời lải nhải nào của Morozova nữa, tôi xoay người trên ghế, cố vặn khớp trên lưng. Rồi tôi lấy xuống một quyển tuyển tập hầu như chỉ có những cuộc tranh luận về cầu nguyện, nhưng không ngờ lại bao gồm một phiên bản khác về sự tích tử vì đạo của thánh Ilya.
Trong phiên bản này, Ilya là một thợ nề, và cậu bé hàng xóm bị ngựa đè chết - chi tiết này mới. Thường thì, cậu bé sẽ bị lưỡi cưa chém đứt. Nhưng
kết thúc vẫn như cũ: Ilya đem cậu bé trở lại từ ranh giới sống chết, và để trả ơn ông, dân làng đã xích chân ông lại và quăng xuống sông. Vài câu chuyện bảo ông không hề chìm xuống mà lại trôi ra biển. Số khác thề rằng xác của ông đã nổi lên ở một bãi cát vài ngày sau, hoàn toàn nguyên vẹn và nức hương hoa hồng. Tôi biết hết chứ, và không một câu chuyện nào trong số chúng có đề cập đến Hỏa Điểu hay ngụ ý rằng Dva Stolba là nơi thích hợp để bắt đầu tìm kiếm.
Toàn bộ hy vọng tìm thấy Hỏa Điểu của chúng tôi đặt vào một bức tranh minh họa: Thánh Ilya bị xiềng xích, vây quanh là con hươu đực, Hải Long, và Hỏa Điểu. Có thể thấy được những dãy núi phía sau ông, cùng một con đường và một vòng cung. Vòng cung ấy đã đổ nát từ lâu, nhưng tôi nghĩ mình vẫn có thể tìm thấy tàn tích của nó ở Dva Stolba, không xa khu dân cư mà Mal và tôi được sinh ra. Ít nhất, đấy là những gì tôi tin tưởng vào những ngày lạc quan. Hôm nay, tôi không mấy chắc chắn về chuyện Ilya Morozova và thánh Ilya là một. Tôi không thể nhìn đến những bản sao của Istorii Sankt’ya nữa. Chúng nằm lại trong đống ẩm mốc của góc nhỏ bị lãng quên, chẳng khác nào mấy cuốn sách thiếu nhi lạc hậu thay vì điểm báo về một vận mệnh vĩ đại.
David cầm đồng hồ lên, đặt nó xuống, lại vươn tay cầm lấy nó, hất đổ một lọ mực rồi luống cuống dựng nó lên.
“Hôm nay anh làm sao thế?” Tôi hỏi.
“Không có gì,” Anh ta đáp vội.
Tôi chớp mắt. “Môi anh chảy máu kìa.”
Anh ta đưa tay quẹt ngang, máu vẫn chảy tiếp. Hẳn anh ta đã cắn môi. Rất mạnh.
“David…”
Anh ta gõ khớp tay lên bàn, và tôi suýt nhảy dựng. Có hai cận vệ ở phía sau. Đúng giờ và khiếp đảm như mọi khi.
“Đây,” David nói, đưa cho tôi một hộp thiếc nhỏ. Trước khi tôi kịp cầm lấy, một tên cận vệ đã giật lấy nó.
“Ngươi làm gì vậy?” Tôi tức tối hỏi. Nhưng tôi hiểu rõ. Không thứ gì được truyền đi giữa tôi và những Grisha khác mà không được khám xét chặt chẽ. Dĩ nhiên, đấy là vì an toàn của tôi.
Gã cận vệ tảng lờ tôi. Gã di tay phía trên và dưới đáy hộp, mở nó ra, ngửi mùi bên trong, xem xét nắp đậy kỹ càng. Tôi kéo nó khỏi tay gã. “Cảm ơn,” tôi chua chát nói. “Và cảm ơn anh, David.”
Anh ta sớm đã vùi đầu trở lại vào quyển sổ ghi chép, trông như mê mẩn với những gì đang đọc. Nhưng anh ta siết chặt cây bút đến nỗi tôi tưởng nó sẽ vỡ đôi.
Genya đang đợi tôi ở Kettle, hang động khổng lồ tròn vạnh dùng để tiếp tế lương thực cho tất cả người dân trong Giáo Hội Trắng. Dãy tường cong vòng của nó được đóng lò sưởi đá, một lời nhắc nhở về quá khứ cổ xưa của Ravka mà những nhân viên trong bếp hay phàn nàn rằng chúng không tiện nghi bằng lò nướng hay lò gạch ở trên. Những xiên nướng thịt khổng lồ được làm riêng để quay thú lớn, nhưng đầu bếp hiếm khi tìm được thịt tươi. Nên thay vào đó họ phục vụ thịt heo muối, rễ cây hầm, và một loại bánh mì kì lạ làm từ bột mì thô màu xám có vị từa tựa anh đào.
Những người đầu bếp đã gần quen với Genya, hoặc chí ít không còn nhăn nhó và cầu nguyện mỗi khi thấy cô ấy nữa. Tôi bắt gặp cô đang sưởi ấm cạnh một lò sưởi ở một bức tường phía xa trong Kettle. Nơi đây đã trở
thành địa điểm của chúng tôi, và đầu bếp để cho cả hai một nồi súp nhỏ ở đó mỗi ngày. Trong lúc tôi đến gần cùng hai gã hộ tống mang vũ khí của mình, Genya để khăn choàng rơi xuống, và cận vệ hai bên liền khựng lại. Cô ấy đảo con mắt còn lại của mình và rít một tiếng như mèo kêu. Bọn họ lùi về sau, lảng vảng quanh lối vào.
“Hơi quá ư?” cô ấy hỏi.
“Vừa đủ,” tôi đáp lời, ngạc nhiên bởi thay đổi nơi cô. Nếu cô ấy có thể cười trước phản ứng đối với mình của lũ đần kia, đấy là một dấu hiệu rất tốt. Dù một phần là nhờ thuốc mỡ chữa thẹo do David chế tạo, tôi vẫn chắc rằng công đầu thuộc về Tamar.
Sau khi đến Giáo Hội Trắng được mấy tuần, Genya vẫn từ chối ra khỏi phòng. Cô ấy chỉ nằm đó, trong bóng tối, không chịu nhúc nhích. Dưới sự canh gác của bọn cận vệ, tôi bắt chuyện, đã chọc ghẹo, đã cố làm cô cười. Tất cả đều vô ích. Cuối cùng, chính Tamar là người dụ cô ấy ra ngoài, yêu cầu cô ít nhất phải học lấy cách tự vệ.
“Cô quan tâm làm gì?” Genya đã lẩm bẩm như thế, đoạn kéo chăn lên.
“Tôi không có. Nhưng nếu cô không thể chiến đấu, cô chỉ là của nợ mà thôi.”
“Tôi chẳng quan tâm nếu mình bị thương đâu.”
“Tôi có,” tôi phản bác.
“Alina cần phải tự bảo vệ mình,” Tamar nói. “Cô ấy không thể trông chừng cô.”
“Tôi chưa bao giờ yêu cầu cô ấy làm thế.”
“Nếu mọi yêu cầu đều được đáp ứng thì tốt quá nhỉ?” Tamar đáp lời. Đoạn cô ta cấu nhéo, đâm chọt và quấy rối đủ kiểu, cuối cùng Genya đã hất tung chăn và đồng ý tham dự một buổi học đấu tay đôi - trong riêng tư, tránh xa những người khác, chỉ có cận vệ của Lão Tư Tế là khán giả.
“Tôi sẽ đè bẹp cô ta,” cô ấy càu nhàu với tôi. Nỗi hoài nghi của tôi hẳn đã hiện lên rất rõ, vì sau đấy cô ấy thổi bay lọn tóc đỏ lòa xòa trước vầng trán đầy sẹo và nói, “Được rồi, thế thì tôi sẽ chờ cô ta ngủ rồi biến cô ta thành đồ mũi heo.”
Nhưng cô ấy đã đến buổi học ấy và buổi tiếp theo, và theo những gì tôi biết, Tamar chưa từng thức dậy với một cái mũi heo hay hai mi mắt bị dính chặt vào nhau.
Genya tiếp tục che mặt và dành phần lớn thời gian trong phòng ngủ của mình, nhưng cô ấy không khom lưng nữa, và cô không tránh mặt những người ở đường hầm nữa. Cô ấy tự làm một miếng bịt mắt bằng lụa đen từ vải lót áo khoác cũ, và tóc cô đỏ lên trông thấy. Nếu Genya có thể sử dụng năng lực để chuyển màu tóc, thì có thể thói hợm hĩnh ngày xưa phần nào đã trở về, đó là một tiến bộ.
“Bắt đầu thôi,” cô nói.
Genya quay lưng lại với căn phòng, đối diện ngọn lửa, rồi kéo khăn trùm qua đầu, giữ cho phần tua rua viền quanh giăng rộng để tạo nên tấm màn che chắn chúng tôi khỏi những ánh mắt tò mò. Lần đầu tiên chúng tôi làm vậy, bọn cận vệ đã chạy đến ngay lập tức. Nhưng ngay khi thấy tôi bôi thuốc mỡ lên mấy vết sẹo của Genya, họ đã lùi ra xa. Họ cho rằng những
vết thương cô ấy có được từ bầy nichevo’ya của Hắc Y là một phán xét thiêng liêng nào đó. Vì cái gì thì tôi không chắc. Nếu tội của Genya là đồng lõa với Hắc Y, thì hầu hết chúng tôi đều phạm phải nó vào lúc này hay lúc
khác. Rồi họ sẽ nói gì về vết cắn trên vai tôi? Hay cách tôi khiến những bóng đen cuộn tròn?
Tôi lấy hộp thiếc ra khỏi túi và bắt đầu bôi thuốc mỡ lên vết thương của cô. Nó có mùi lá cây hăng hắc làm mắt tôi chảy nước. “Tôi chưa bao giờ nhận ra việc phải ngồi yên một chỗ thật lâu lại khó chịu thế này,” cô ấy phàn nàn.
“Cô đâu có ngồi yên. Cô đang cựa quậy nè.”
“Ngứa quá.”
“Tôi lấy đinh bấm đâm vào cô nhé? Như thế có làm cô quên đi cơn ngứa không?”
“Cô chỉ cần nói khi nào thì xong thôi, đồ con gái khó chịu.” Cô ấy cẩn thận quan sát tay tôi. “Hôm nay không may mắn gì sao?” cô thì thầm. “Không hẳn. Chỉ có hai lò nướng hoạt động, và lửa nhỏ quá.” Tôi chùi tay lên một cái khăn bẩn dùng làm bếp. “Đấy,” tôi nói. “Xong rồi.” “Đến lượt cô,” cô ấy bảo. “Trông cô…”
“Kinh khủng. Tôi biết.”
“Dùng từ đó cũng được.” Nỗi buồn trong giọng nói của cô không lẫn đi đâu được. Nó làm tôi muốn tự đá mình một cái.
Tôi vươn tay chạm lên má cô. Làn da chen giữa những vết sẹo mịn màng và trắng nõn tựa bức tường thạch cao. “Tôi là đồ tồi.” Khóe môi cô ấy khẽ nhếch lên. Gần như một nụ cười. “Thi thoảng,” cô đồng tình. “Nhưng tôi là người khơi chuyện. Giờ im lặng cho tôi làm việc.”
“Chỉ làm vừa đủ để Lão Tư Tế để chúng ta tiếp tục tới đây thôi. Tôi không muốn cho lão một vị Thánh nhỏ xinh để khoe khoang đâu.” Genya bèn thở dài một cách điệu bộ. “Đây là hành vi xâm phạm đến những nguyên tắc cốt lõi nhất của tôi, và sau này cô sẽ phải đền bù.” “Bằng cách?”
Cô ấy nghiêng đầu sang bên. “Tôi nghĩ cô nên để tôi đổi tóc cô thành màu đỏ.”
Tôi đảo mắt. “Không phải kiếp này, Genya.”
Trong lúc cô ấy chậm rãi bắt đầu quá trình chỉnh sửa khuôn mặt, tôi đưa tay nghịch chiếc hộp thiếc. Tôi định đậy nắp lại, nhưng có gì đó tụt ra dưới lớp thuốc mỡ. Tôi dùng đầu ngón tay nhấc nó lên - một chiếc đĩa mỏng bằng sáp. Genya nhìn thấy nó cùng lúc với tôi.
Phía sau mặt đĩa, chỉ có một từ được viết bằng nét chữ nguệch ngoạc khó đọc của David: hôm nay.
Genya giật lấy nó từ tay tôi. “Ôi, Thánh thần ơi. Alina…” Đấy là lúc chúng tôi nghe thấy tiếng giậm thình thịch của những đôi ủng nặng trịch và tiếng chen lấn bên ngoài. Một cái nồi rơi xuống sàn với tiếng keng ầm ĩ, và một trong những đầu bếp hét lên khi thấy cận vệ tràn vào phòng, súng trường giương cao, đôi mắt dường như tóe lửa. Lão Tư Tế lao vào ngay sau họ, dải áo màu nâu xoay tít. “Giải tán cả phòng,” lão rống lên.
Genya và tôi đứng phắt dậy trong lúc bọn cận vệ thô bạo lùa nhóm đầu bếp ra khỏi phòng trong sự phản kháng hoang mang và những tiếng la hốt hoảng.
“Chuyện này là sao?” tôi gặng hỏi.
“Alina Starkov,” Lão Tư Tế lên giọng, “cô đang gặp nguy hiểm.” Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi cố giữ giọng bình thản. “Nguy hiểm từ đâu?” tôi hỏi, liếc về phía mấy cái nồi đương sôi sùng sục trong lò nướng. “Bữa trưa?”
“Một âm mưu,” lão tuyên bố, chỉ về phía Genya. “Những kẻ yêu cầu tình bạn của cô sẽ tìm cách hủy diệt cô.”
Thêm vài gã hầu cận râu ria của Lão Tư Tế hành quân vào phòng qua cánh cửa ở sau lão. Khi họ tách hàng, tôi nhìn thấy David, mắt anh mở to và sợ hãi.
Genya thở dốc và tôi đặt một tay lên cánh tay cô để giữ cô không nhào về phía trước.
Những người tiếp theo là Nadia và Zoya, cổ tay cả hai đều bị trói lại để ngăn họ triệu hồi năng lượng. Một tia máu chảy xuống từ khóe miệng Nadia, và da cô trắng bệch dưới lớp tàn nhang. Mal đi cùng với họ, mặt cậu ướt đẫm máu. Cậu ấy đang siết chặt hông như thể ôm lấy xương sườn bị gãy, vai cậu sụp xuống vì đau. Nhưng tệ hơn cả là cảnh tượng của hai cận
vệ kèm cặp cậu - Tolya và Tamar. Tamar đã mang rìu trở lại. Thực tế, bọn họ đều trang bị vũ trang kĩ càng như cận vệ của Lão Tư Tế. Họ không nhìn vào mắt tôi.
“Khóa cửa lại,” Lão Tư Tế ra lệnh. “Chúng ta sẽ giải quyết sự vụ thảm hại này trong riêng tư.”
── 2 ──
N
hững cánh cửa lớn của Kettle bị đóng chặt, và tôi nghe tiếng khóa ngang. Tôi cố gạt bỏ cơn quặn cồn cào trong ruột và chuyển sang lý giải những gì mình đang thấy. Nadia và Zoya - Hai Tiết Khí Sư - Mal, và David, một Sáng Chế Gia vô hại. Hôm nay, mẩu giấy đã nói. Điều đó nghĩa là gì?
“Tôi hỏi lại ông lần nữa, linh mục. Chuyện này là sao? Tại sao bạn tôi lại bị bắt giữ? Tại sao họ lại chảy máu?”
“Chúng không phải bạn cô. Mưu đồ phá hủy Giáo Hội Trắng đã được phát hiện ngay bên tai chúng ta.”
“Ông đang nói gì vậy?”
“Cô đã thấy sự hỗn xược của thằng nhãi này hôm nay…” “Đấy là vấn đề ư? Cậu ấy không run sợ đúng mực trước sự hiện diện của ông?”
“Vấn đề ở đây là sự mưu phản!” Lão lôi từ trong áo một chiếc túi nhỏ bằng vải bạt và giơ nó ra, để nó đung đưa từ đầu ngón tay. Tôi cau mày. Tôi đã nhìn thấy những chiếc túi thế này trong xưởng làm việc của Sáng Chế Gia. Chúng được dùng cho…”
“Thuốc nổ,” Lão Tư Tế tiếp lời. “Do tên Sáng Chế Gia rác rưởi này làm ra từ nguyên liệu mà những người được cho là bạn của cô thu thập.” “Thế là David chế tạo thuốc nổ. Có đến một trăm lý do để làm điều đó mà.”
“Vũ khí bị cấm trong phạm vi của Giáo Hội Trắng.”
Tôi nhướng một bên mày trước mấy khẩu súng trường đang chĩa vào Mal và đoàn Grisha của mình. “Và mấy thứ đó là gì? Muôi múc canh? Nếu ông muốn kết tội…”
“Kế hoạch của chúng đã bị phát giác. Tiến lên phía trước, Tamar Kir Bataar. Hãy nói ra sự thật ngươi đã phát hiện.”
Tamar cúi chào thật thấp. “Tên Grisha này và người dò đường định sẽ đánh thuốc mê và đem cô lên mặt đất.”
“Tôi muốn trở lại mặt đất.”
“Thuốc nổ sẽ được dùng để bảo đảm rằng sẽ không ai theo sau,” cô tiếp tục, “để đánh sập hang động chôn vùi ngài Tư Tế và dân chúng của cô.” “Hàng trăm người vô tội? Mal sẽ không bao giờ làm thế. Không một ai trong số họ sẽ làm thế.” Kể cả Zoya, cô ả ti tiện ấy.
“Và điều này chẳng nghĩa lý gì cả. Họ làm thế nào để đánh thuốc tôi chứ?”
Tamar gật đầu với Genya và ấm trà đặt giữa chúng tôi.
“Tôi cũng uống món trà ấy,” Genya gắt gỏng. “Chẳng có gì trong đó cả.”
“Cô ta là một độc y và kẻ nói dối thuần thục,” Tamar lạnh lẽo đáp lời. “Trước đây cô ta đã phản bội cô vì Hắc Y rồi.”
Những ngón tay của Genya siết chặt quanh khăn choàng. Chúng tôi đều biết có một phần sự thật trong lời buộc tội. Tôi chợt gai người vì ngờ vực không nên có.
“Cô tin cô ta,” Tamar kết luận. Có gì đó lạ lẫm trong giọng nói của cô. Nghe như cô đang ra lệnh hơn là ra lời cáo buộc.
“Chúng chỉ chờ đến khi dự trữ đủ thuốc nổ,” lão Tư Tế nói. “Rồi chúng định sẽ tấn công, sẽ đưa cô lên mặt đất và giao nộp cô cho Hắc Y.” Tôi lắc đầu. “Ông thật sự nghĩ tôi sẽ tin rằng Mal muốn giao nộp tôi cho Hắc Y sao?”
“Cậu ta là một gã bịp bợm,” Tolya khẽ nói. “Cậu ta muốn liều mình giải thoát cô đến mức trở thành con tốt trong tay chúng.”
Tôi liếc nhìn Mal. Tôi không thể đọc được biểu cảm của cậu. Thoáng hoài nghi thật sự bắt đầu xâm nhập vào tôi. Tôi chưa bao giờ tin tưởng Zoya, và tôi hiểu Nadia đến đâu? Genya - Geyna đã bị giày vò quá nhiều dưới bàn tay của Hắc Y, nhưng ràng buộc giữa họ rất sâu đậm.
Mồ hôi lạnh túa ra trên cổ, và tôi nhận ra cơn hoảng loạn đang dằn vặt mình và tạo nên xung đột trong tư tưởng.
“Âm mưu đan cài giữa âm mưu,” lão Tư Tế rít lên. “Cô quá từ tâm, và điều đó đã phản bội cô.”
“Không,” tôi phủ nhận. “Chuyện này chẳng có ý nghĩa gì hết.” “Chúng là gián điệp và lừa đảo!”
Tôi ấn tay lên hai bên thái dương. “Những Grisha khác của tôi đâu?” “Họ đã bị giam giữ cho đến khi được hỏi cung rõ ràng.”
“Hãy nói rằng họ vẫn an toàn.”
“Các người thấy sự lo lắng cho những kẻ muốn hãm hại mình của cô ấy rồi chứ?” lão hỏi đám cận vệ. Lão đang tận hưởng chuyện này, tôi chợt vỡ lẽ. Lão đã chờ nó từ lâu. “Đây là yếu tố làm nên sự ân cần và hào phóng của cô ấy.” Ánh mắt lão nhìn thẳng vào tôi. “Có một vài thương tổn, nhưng lũ phản bội sẽ nhận được chế độ chăm sóc tốt nhất. Cô chỉ cần ra lệnh thôi.”
Cảnh cáo quá rõ ràng, và cuối cùng tôi đã hiểu. Dù âm mưu của Grisha là thật hay chỉ là luận điệu lẩn tránh do lão Tư Tế dựng nên chăng nữa, thì đây vẫn là khoảnh khắc lão đã mong chờ, cơ hội để cách ly tôi hoàn toàn. Không còn những buổi viếng thăm Kettle với Genya, không còn những đoạn hội thoại vụng trộm với David. Lão linh mục sẽ dùng cơ hội này để tách tôi khỏi bất kì người nào có lòng trung thành gắn chặt với tôi hơn chính nghĩa của lão. Và tôi quá yếu để ngăn lão lại.
Nhưng có đúng là Tamar đang nói thật? Có đúng những đồng minh kia là kẻ thù? Nadia cúi đầu. Zoya vẫn hất cằm, đôi mắt xanh sáng đầy thách thức. Thật dễ để tin rằng một trong hai hoặc cả hai có thể phản bội tôi, có thể tìm đến Hắc Y và dâng hiến tôi như món quà với hy vọng khoan hồng. Và David đã giúp đeo chiếc vòng lên cổ tôi.
Có lẽ nào Mal đã bị lừa để giúp họ phản bội tôi? Cậu ấy trông chẳng có vẻ hoảng sợ hay lo lắng - cậu ấy trông như thời còn ở Keramzin khi sắp làm gì đó khiến hai chúng tôi gặp rắc rối. Mặt cậu bầm tím, nhưng tôi nhận ra cậu đang đứng thẳng hơn. Và rồi cậu nhìn lên, như thể đang hướng lên trời, như thể đang cầu nguyện. Tôi hiểu rõ hơn. Mal chưa bao giờ là người mộ đạo. Cậu ấy đang nhìn đường ống chính.
Âm mưu đan cài giữa âm mưu. Sự bồn chồn của David. Những lời của Tamar. Cô tin cô ta.
“Thả họ đi,” tôi ra lệnh.
Lão Tư Tế lắc đầu, biểu cảm ngập buồn thương. “Thánh nữ của chúng ta đang bị suy yếu bởi những kẻ tự nhận rằng mình yêu cô ấy. Nhìn xem cô ấy mảnh dẻ thế nào, bệnh tật thế nào. Đây là sự mục nát từ ảnh hưởng của chúng.” Vài tên cận vệ của lão gật đầu, và tôi nhìn thấy ánh sáng cuồng tín lạ lẫm đó trong mắt họ. “Cô ấy là một vị Thánh, nhưng cũng là một thiếu nữ bị cảm xúc chi phối. Cô ấy không hiểu sức mạnh chủ chốt ở đây.” “Tôi hiểu là ông đã mất trí rồi, linh mục ạ.”
Lão Tư Tế lại nở nụ cười thương hại, khoan dung ấy với tôi. “Cô đang bệnh, Sankta Alina. Thần trí không tỉnh táo. Cô không phân biệt được bạn và thù.”
Nhờ hoàn cảnh đưa đẩy cả, tôi chán chường nhủ thầm. Tôi hít một hơi sâu. Đây là giây phút chọn lựa. Tôi phải tin vào ai đó, và đấy không phải lão Linh Mục, gã đàn ông đã phản bội Đức vua của mình, rồi phản bội Hắc Y, người tôi biết sẽ vui lòng dàn dựng màn tử vì đạo cho tôi nếu nó đáp ứng mục đích của mình.
“Ông sẽ thả họ đi,” tôi lặp lại. “Tôi không cảnh cáo lần nữa đâu.” Cái nhếch mép thoáng qua trên môi lão. Đằng sau sự thương hại là vẻ ngạo mạn. Lão hiểu rất rõ tôi bất lực thế nào. Tôi chỉ có thể mong rằng những người khác biết mình đang làm gì.
“Cô sẽ được hộ tống về phòng ngủ để tịnh tâm một mình,” lão nói. “Cô sẽ nghĩ về chuyện đã xảy ra, và lí trí sẽ trở về. Tối nay chúng ta sẽ cầu nguyện cùng nhau. Để được dẫn lối.”
Sao tôi lại ngờ rằng sự “dẫn lối” đó nghĩa là địa điểm của Hỏa Điểu và bất kì thông tin nào tôi có được về Nikolai Lantsov nhỉ?
“Và nếu tôi từ chối?” tôi chất vấn, lướt qua đám cận vệ. “Những chiến binh của ông sẽ chống đối lại Thánh nữ của mình?”
“Cô sẽ vẫn được bảo vệ, không ai đụng đến cô cả, Sankta Alina,” lão Tư Tế trả lời. “Nhưng ta không thể áp dụng ưu đãi tương tự với những người cô gọi là bạn được.”
Thêm một lời hăm dọa. Tôi nhìn vào mặt của đám cận vệ, ánh mắt sôi sục của họ. Họ sẽ giết Mal, trừ khử Genya, nhốt tôi trong phòng, và cảm thấy hành động của mình là chính nghĩa.
Tôi lùi một bước nhỏ. Tôi biết lão Tư Tế sẽ xem nó như một dấu hiệu của sự yếu đuối. “Ông có biết vì sao tôi đến đây không, linh mục?” Lão tùy tiện phẩy tay, nóng vội thấy rõ. “Vì nó làm cô nhớ nhà.” Mắt tôi thoáng bắt gặp ánh mắt của Mal. “Đáng lẽ giờ này ông phải hiểu ra,” tôi nói, “rằng trẻ mồ côi không có nhà.”
Tôi khẽ động ngón tay giấu trong tay áo. Bóng đêm nhảy vọt lên từ tường Kettle. Chúng không đủ đánh lạc hướng cho lắm, nhưng thế đã tạm ổn. Cận vệ của lão Tư Tế giật nảy người, họ hoảng loạn huơ súng, trong lúc những Grisha bị họ bắt giữ lùi lại vì sốc. Mal không chần chừ.
“Làm đi!” Cậu ấy hét lên. Cậu lao thẳng về phía trước, giật lấy thuốc nổ từ tay lão Tư Tế.
Tolya vung nắm đấm. Hai tên cận vệ đổ gục, tay ôm lấy ngực. Nadia và Zoya đưa tay ra, rồi Tamar quay người, đôi rìu của cô chặt đứt gông cùm giữa họ. Cả hai Tiết Khí Sư giơ tay, và gió lùa vào phòng, thổi bay mùn cưa trên sàn.
“Tóm lấy chúng!” lão Tư Tế thét lên. Bọn cận vệ liền xông tới. Mal ném túi bột vào không trung. Nadia và Zoya nâng nó lên cao, bay vào đường ống chính.
Mal lao vào một tên cận vệ. Vụ gãy xương chắc chỉ là đóng kịch, vì hành động của cậu ấy bây giờ chẳng có gì gượng gạo hết. Một nắm đấm, một cú huých chỏ. Đám cận vệ gục ngã. Mal chộp lấy khẩu súng lục của mình và chĩa lên cao, vào trong đường ống, vào trong bóng tối. Đây là kế hoạch ư? Không ai có thể bắn phát đạn đó.
Một tên cận vệ khác nhào về phía Mal. Mal xoay vụt khỏi tay hắn và nổ súng.
Trong phút chốc, không gian tuyền một thinh lặng vây phủ, và rồi ở tít trên cao, tôi đã nghe thấy nó: một tiếng bùm ẩm ướt.
“Nadia!” Zoya gào to, cô ta đang vật lộn với một gã cảnh vệ. Nadia cong tay và đám bụi lơ lửng, vặn xoắn rồi chuyển thành một cột gió lốc, nó xoay tít rồi đổ sụp xuống sàn trong tiếng leng keng vô hại của đá sỏi và bụi đất.
Tôi dõi theo tất cả trong nhạt nhòa - trận ẩu đả, tiếng hét thịnh nộ của lão Tư Tế, ngọn lửa sắc lẻm ở phía tường xa.
Genya và tôi đến nhà bếp vì một lý do duy nhất: những cái lò sưởi. Không phải vì hơi ấm hay bất kì yếu tố ủi an nào khác, nhưng vì từng cái lò sưởi cổ xưa ấy đều dẫn tới đường ống chính. Và đường ống ấy là nơi duy nhất trong Giáo Hội Trắng kết nối trực tiếp với mặt đất. Kết nối trực tiếp với mặt trời.
“Hạ gục chúng!” lão Tư Tế gào lên với đám cận vệ. “Chúng đang cố giết Thánh nữ! Chúng đang cố giết chúng ta!”
Tôi đến đây mỗi ngày, mong rằng những người đầu bếp sẽ đốt thêm vài ngọn lửa để đường ống chính được mở rộng tối đa. Tôi cố gắng triệu hồi, trốn khỏi đám cận vệ nhờ tấm khăn dày của Genya và nỗi sợ mê tín của họ trước cô. Tôi đã cố gắng và thất bại. Giờ Mal phải cho nổ để nới rộng đường ống. Tôi chỉ có thể kêu gọi sức mạnh và mong sao ánh sáng sẽ đáp lời.
Tôi cảm nhận được nó, hơn vạn dặm phía trên - thật ngại ngần, tựa một tiếng nỉ non. Hoảng loạn liền ập đến. Khoảng cách quá xa. Tôi có ngu mới dám hy vọng.
Rồi dường như thứ gì đó trong tôi chợt trỗi dậy vươn vai, như một sinh vật đã nằm yên ắng quá lâu. Cơ bắp của nó đã mềm nhũn vì thiếu vận động, nhưng chúng vẫn còn đó, chờ đợi. Tôi kêu gọi và ánh sáng đáp trả bằng sức mạnh của chiếc sừng hươu trên cổ, hân hoan và phấn khởi.
Tôi nhăn răng cười với lão Tư Tế, ra chiều đắc ý vô cùng. “Một kẻ bị ám ảnh vì lửa thiêng nên chú ý đến khói lửa hơn chứ.”
Ánh sáng xuyên qua người tôi và vỡ òa khắp căn phòng thành một đợt thác chói lòa, soi sáng biểu cảm kinh ngạc gần như lố bịch trên mặt lão Tư Tế. Đám cận vệ giơ tay lên, hai mắt nhắm nghiền trước luồng sáng.
Sự nhẹ nhõm đến cùng ánh sáng, một cảm giác đúng đắn và toàn vẹn lần đầu tiên trong nhiều tháng. Phần nào trong tôi đã thực sự sợ hãi rằng bản thân sẽ không bao giờ hồi phục hoàn toàn, rằng bằng việc sử dụng merzost trong trận chiến với Hắc Y, bằng việc bạo gan kiến tạo binh đoàn bóng đêm và xâm phạm quá trình sáng tác ở trung tâm thế giới, tôi đã vô tình đánh mất món quà này. Nhưng giờ đây cơ thể tôi tựa hổ đang sống dậy, những tế bào bắt đầu hồi sinh. Năng lượng chảy róc rách trong máu, vang vọng trong xương.
Lão Tư Tế định thần rất nhanh. “Cứu cô ấy!” Lão ra lệnh. “Cứu cô ấy khỏi lũ phản bội!”
Vài tên cận vệ có vẻ hoang mang, số khác thì hoảng sợ, nhưng có hai gã phụng mệnh nhảy tới, vung cao kiếm để tấn công Nadia và Zoya. Tôi nhào nặn sức mạnh thành hình lưỡi hái sáng lóa, cảm nhận sức mạnh của Vết Cắt trong tay.
Rồi Mal nhào đến trước mặt tôi. Tôi suýt nữa đã không rút lại kịp. Cú giật từ nguồn năng lượng chưa sử dụng truyền khắp người tôi, khiến tim đập ngắt nhịp.
Mal đã chiếm được một thanh kiếm, và lưỡi kiếm lóe lên khi cậu chém ngang một cận vệ, rồi gã còn lại. Họ đổ nhào như khúc cây. Hai tên nữa xông tới, nhưng Tolya và Tamar đã chặn đứng họ. David chạy về phía Genya. Nadia và Zoya hất tung một tên cận khác lên không. Tôi nhìn thấy những cận vệ đứng ở vòng ngoài giơ súng chuẩn bị bóp cò. Cơn cuồng nộ chạy dọc cơ thể, và tôi cố ép mình kiềm nó lại. Không được, tôi tự nhủ. Hôm nay không ai phải chết nữa. Tôi vung tay chém Vết Cắt thành một vòng cung ngụt cháy. Nó đâm xuyên qua một chiếc bàn dài và xé nát mặt đất trước đám cận vệ, mở ra một rãnh tối hun hút, đen ngòm trên sàn nhà bếp. Không thể biết được nó sâu tới đâu.
Vẻ kinh hoàng hiện rõ trên mặt lão Tư Tế - kinh hoàng cùng một thứ có vẻ là nể phục. Đám cận vệ khuỵu gối, và giây lát sau, lão Tư Tế làm theo. Một số còn nức nở rồi tụng kinh. Bên ngoài cửa bếp, tôi nghe tiếng nắm đấm đập bình bịch, tiếng rền rĩ than van, “Sankta! Sankta!”
Tôi mừng vì họ gào khóc cho tôi chứ không phải lão Tư Tế. Tôi buông tay, để ánh sáng rút lui. Tôi không muốn để nó đi. Tôi nhìn xuống những cận vệ nằm sõng soài trên sàn. Một trong số họ có lẫn mùn cưa trên râu. Suýt nữa tôi đã trở thành người kết liễu gã ta.
Tôi phát một luồng sáng nhỏ và để nó tỏa rạng quanh người thành vầng hào quang ấm áp. Tôi phải cẩn thận. Năng lượng đang nuôi dưỡng tôi, nhưng tôi đã thiếu vắng nó quá lâu. Cơ thể yếu ớt của tôi vẫn đang chật vật gắng gượng, và tôi không chắc giới hạn của mình được bao lâu. Dẫu vậy, tôi đã nằm dưới quyền kiểm soát của lão Tư Tế hàng tháng liền, và tôi sẽ không còn cơ hội nào như vậy nữa.
Những gã đàn ông mất mạng và đổ máu, và đám đông đang đợi ngoài cửa Kettle. Tôi có thể nghe thấy giọng của Nikolai trong đầu: Dân chúng thích xem kịch. Vở diễn vẫn chưa kết thúc.
Tôi tiến về phía trước, cất bước cẩn thận quanh rãnh tối mình tạo ra, và đứng trước một trong những cận vệ đang quỳ.
Cậu ta trẻ hơn những gã còn lại, râu vừa mọc lún phún; ánh mắt dán chặt lên sàn trong lúc lẩm bẩm cầu nguyện. Tôi không những nghe thấy tên mình, mà cả tên của những vị Thánh thực thụ, nối liền với nhau như một từ đơn. Tôi đặt tay lên vai cậu ta, và mi mắt cậu ta nhắm nghiền, hai hàng lệ tuôn tràn trên má.
“Thứ lỗi cho tôi,” cậu ta nói. “Thứ lỗi cho tôi.”
“Nhìn tôi này,” tôi nhẹ nhàng bảo.
Cậu ta cố ngước mắt lên. Tôi đưa tay ôm lấy mặt cậu, thật dịu dàng, như một người mẹ, dù cậu ta cũng trạc tuổi tôi. “Tên cậu là gì?” “Vladim… Vladim Ozwal.”
“Nghi ngờ Thánh thần là tốt, Vladim. Và con người.”
Cậu ta run rẩy gật đầu, một giọt nước mắt nữa lại trào ra. “Chiến binh của tôi mang dấu ấn của tôi,” tôi cất tiếng, ý chỉ hình xăm trên người nhóm Soldat Sol. “Cho đến hôm nay cậu đã tách biệt khỏi họ, chôn vùi bản thân vào sách vở và kinh cầu thay vì lắng nghe dân chúng. Bây giờ cậu sẽ chấp nhận dấu ấn của tôi chứ?”
“Vâng,” cậu ta nhiệt liệt đồng ý.
“Cậu sẽ thể trung thành với tôi và chỉ duy nhất mình tôi?” “Rất sẵn lòng!” cậu ta hét to. “Sol Koroleva!” Nữ Hoàng Mặt Trời. Dạ dày tôi quặn lại. Một phần trong tôi rất ghét việc mình sắp làm.
Mình không thể bắt cậu ta kí giao ước gì à? Tuyên thệ bằng máu? Thề độc trước mình? Nhưng tôi phải mạnh mẽ hơn thế. Cậu trai này và đồng đội của cậu đã chống đối tôi. Tôi không thể để chuyện đó lặp lại lần nữa, và đây là ngôn ngữ của Thánh thần và chịu đựng, ngôn ngữ mà họ tường tận.
“Phanh áo ra,” tôi ra lệnh. Giờ không còn là người mẹ yêu thương, mà là một loại Thánh thần khác, một chiến binh cai trị lửa thiêng.
Tay cậu ta đánh vật với nút áo, nhưng cậu ta không ngần ngại. Cậu xé phanh miếng vải, để lộ vùng da ngay ngực. Tôi mệt mỏi và còn đuối sức. Tôi phải tập trung. Tôi muốn chứng minh luận điểm, không phải giết người.
Tôi cảm nhận ánh sáng trong tay. Tôi ấn lòng bàn tay lên làn da mịn màng trên trái tim cậu ta và để năng lực vang động. Vladim giật mình khi nó kết nối và thiêu đốt da cậu, nhưng cậu ta không thét lên. Mắt cậu ta mở to không chớp lấy một lần, vẻ mặt sung sướng vô ngần. Khi tôi rút tay lại, vết hằn từ lòng bàn tay tôi còn nguyên, dấu nung tấy đỏ nhức nhối trên ngực cậu.
Không tệ, tôi cay nghiệt thầm nghĩ, cho lần đầu tiên thiêu đốt người khác của mày.
Tôi giải phóng sức mạnh, cảm thấy mừng vì đã hoàn tất. “Xong rồi.”
Vladim nhìn xuống ngực, và mặt cậu ta vỡ òa thành nụ cười mãn nguyện. Cậu ta có lúm đồng tiền, tôi lảo đảo nhận ra. Lúm đồng tiền và một vết sẹo kinh tởm phải mang theo suốt cuộc đời.
“Cảm ơn người, Sol Koroleva.”
“Đứng lên,” tôi ra lệnh.
Cậu ta nhỏm dậy, tươi cười với tôi, nước mắt vẫn chảy dài. Lão Tư Tế khẽ động như muốn đứng lên. “Ông ở yên đó,” tôi gắt, cơn giận quay trở lại. Lão là lý do tôi phải đóng dấu một thiếu niên. Lão là lý do hai người đàn ông phải chết, máu họ thấm lên những vỏ hành và cà rốt trong bếp.
Tôi nhìn xuống lão. Tôi có thể cám dỗ đang kêu gọi mình lấy mạng lão, diệt trừ lão triệt để. Đấy là sự xuẩn ngốc không tưởng. Tôi đã mê hoặc được vài chiến sĩ, nhưng nếu tôi ra tay với lão Tư Tế, ai biết được hỗn loạn nào sẽ xảy ra? Nhưng cô muốn thế mà, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. Để bù lại tháng ngày dưới lòng đất, bù lại sợ hãi và đe dọa, bù lại từng ngày hy sinh ở nơi đây trong khi tôi có thể săn Hỏa Điểu và trả thù Hắc Y.
Hẳn lão đã đọc được ý định trong mắt tôi.
“Sankta Alina, ta chỉ muốn cô an toàn, cho cô toàn vẹn và mạnh khỏe như xưa,” lão run rẩy giải thích.
“Thế thì xem như lời nguyện của ông đã được đáp ứng.” Nếu tôi có bao giờ nói dối thì đấy chính là câu này. “Toàn vẹn” và “Mạnh khỏe” là hai từ cuối cùng tôi sẽ chọn để miêu tả bản thân. “Linh mục,” tôi tiếp lời. “Ông sẽ ban ơn trú ẩn cho người tìm kiếm nó, không chỉ những ai thờ phụng Thần Mặt Trời.”
Lão lắc đầu. “An ninh của Giáo Hội Trắng…”
“Nếu không phải ở đây, thì ở chỗ khác. Ông tự nghĩ đi.”
Lão hít một hơi sâu. “Dĩ nhiên.”
“Và không còn chiến binh nhỏ tuổi nữa.”
“Nếu những trung thần muốn chiến đấu…”
“Ông đang quỳ gối,” tôi nói. “Chúng ta không phải đang thương lượng.”
Lão mím chặt môi, nhưng một chốc sau, lão gật đầu tán thành. Tôi nhìn xung quanh. “Các người đều là nhân chứng cho chiếu chỉ này.” Đoạn tôi quay sang một trong những cận vệ. “Đưa súng của anh cho tôi.” Gã ta đưa ngay không chút đắn đo. Tôi nhìn lão Tư Tế tròn mắt trong kinh ngạc với chút hài lòng, nhưng tôi chỉ đơn giản chuyến vũ khí sang cho Genya, rồi yêu cầu đưa kiếm cho David, dù tôi biết anh ta sẽ chẳng dùng đến nó là bao. Zoya và Nadia đứng nghiêm sẵn sàng triệu hồi, và Mal cùng cặp sinh đôi đã được vũ trang đầy đủ.
“Đứng lên,” tôi nói với lão Tư Tế. “Hãy để mọi người bình yên. Hôm nay tất cả đều được chứng kiến phép màu rồi.”
Lão đứng dậy, và trong lúc ôm lão, tôi thì thầm vào tai lão. “Ông sẽ trợ giúp cho nhiệm vụ của chúng tôi, và ông sẽ tuân theo mệnh lệnh do tôi đề ra. Hoặc tôi sẽ cắt đôi ông và ném xác vào Vực Tối. Hiểu chứ?” Lão nuốt khan rồi gật đầu.
Tôi cần thời gian suy nghĩ, nhưng tôi không có đủ. Chúng tôi phải mở những cánh cửa kia, để đưa ra một lời giải thích về những chiến sĩ gục ngã cũng như vụ nổ.
“Anh đi dọn xác của đồng đội đi,” tôi nói với một trong những cận vệ của lão Tư Tế. “Chúng tôi sẽ đem họ theo. Họ… họ có gia đình không?” “Chúng tôi là gia đình của họ,” Vladim trả lời.
Tôi bảo những người khác. “Tập hợp những trung thần từ khắp Giáo Hội Trắng và đưa họ đến hang động chính. Tôi sẽ nói chuyện với họ trong vòng một giờ. Vladim, lúc chúng tôi rời Kettle rồi, hãy thả những Grisha còn lại ra và đưa họ đến chỗ của tôi.”
Cậu ta chạm lên dấu ấn trên ngực như một kiểu chào. “Sankta Alina.” Tôi lướt qua khuôn mặt bầm tím của Mal. “Genya, chữa cho cậu ấy. Nadia…”
“Tôi biết rồi,” Tamar nói, sớm đã thấm máu trên môi Nadia bằng khăn lau được cô bỏ vào một nồi toàn nước nóng. “Xin lỗi nhé,” tôi nghe cô ấy nói.
Nadia mỉm cười. “Phải diễn cho giống thật mà. Vả lại, tôi sẽ trả đũa cô sớm thôi.”
“Để xem,” Tamar đáp lại.
Tôi nhìn qua những Grisha khác trong bộ kefta lôi thôi của họ. Chúng tôi không phải một đoàn diễu hành ấn tượng cho lắm. “Tolya, Tamar, Mal, ba người sẽ đi cạnh tôi với lão Tư Tế.” Tôi hạ giọng. “Cố tỏ ra tự tin và… vương giả.”
“Tôi có một câu hỏi…” Zoya bắt đầu.
“Tôi có khoảng một trăm câu, nhưng phải đợi thôi. Tôi không muốn đám đông ngoài kia trở nên bạo động.” tôi nhìn lão Tư Tế. Tôi cảm nhận một khao khát đen tối thúc giục tôi sỉ nhục lão, khiến lão quỳ lụy trước tôi vì bao tuần khuất phục đằng đẵng dưới lòng đất, nhưng cái giá phải trả là gì? Tôi hít một hơi sâu và nói, “Tôi muốn những người khác đi rải ra với đám cận vệ. Đây là một màn kịch đồng minh.”
Chúng tôi xếp hàng trước cửa. Lão Tư Tế và tôi dẫn đầu, cận vệ và Grisha theo sau, xác những người tử nạn được anh em họ vác trên vai. “Vladim,” tôi ra lệnh, “mở cửa ra.”
Trong lúc Vladim bước lên để mở khóa, Mal đến thế chỗ cậu ta ở cạnh tôi.
“Làm sao bồ biết mình có thể triệu hồi được?” tôi khẽ hỏi.
Cậu ấy liếc sang tôi, nét cười phảng phất trên môi. “Niềm tin.”
── 3 ──
C
ánh cửa bật mở. Tôi vung tay và để luồng sáng chiếu xuyên qua lối đi. Tiếng khóc phát lên từ dân chúng đang xếp hàng trong đường ngầm. Những người trước đó chưa quỳ gối giờ khuỵu xuống, và một tràng kinh cầu ập đến chỗ tôi.
“Phát biểu đi,” tôi thì thầm với lão Tư Tế trong lúc bao bọc những kẻ van nài trước mặt bằng ánh sáng rạng ngời. “Và nói cho hay vào.” “Hôm nay chúng ta đã trải qua một phiên xét xử tuyệt vời,” lão vội vã tuyên bố. “Thánh nữ của chúng ta đã trỗi dậy từ đấy, mạnh mẽ hơn bao giờ.”
“Tôi đã nhìn thấy nó!” một gã cận vệ hét lên. “Bóng tối trèo lên những bức tường…”
“Về chuyện đó….” Mal lẩm bẩm.
“Để sau đi.”
“Nhưng chúng đã bị chế ngự,” lão Tư Tế tiếp tục, “và sẽ tiếp tục bị chế ngự. Bởi đức tin!”
Tôi tiến về phía trước. “Và sức mạnh.”
Một lần nữa, tôi để ánh sáng quét qua lối đi, một suối nguồn rực rỡ. Phần lớn người ở đây chưa bao giờ nhìn thấy năng lượng thực thụ của tôi. Vài kẻ đang khóc lóc thảm thiết, và tôi nghe thấy tên của mình lẫn trong tiếng kêu la “Sankta! Sankta!”
Trong lúc dẫn đầu lão Tư Tế và đoàn cận vệ đi khắp Giáo Hội Trắng, tâm trí của tôi liên tục hoạt động, cân nhắc từng lựa chọn, Vladim đi trước cả đoàn, để thực thi mệnh lệnh của tôi.
Cuối cùng chúng tôi đã có cơ hội thoát khỏi nơi này. Nhưng ý nghĩa của việc bỏ lại Giáo Hội Trắng phía sau là gì? Tôi sẽ bỏ rơi một binh đoàn và
để họ trong tay lão Tư Tế. Thế nhưng, chúng tôi không có nhiều lựa chọn. Tôi cần trở lên mặt đất. Tôi cần Hỏa Điểu.
Mal sai Tamar đi tập hợp những người còn lại trong nhóm Soldat Sol và tìm thêm những cây súng cầm tay còn dùng được. Quyền kiểm soát của tôi với cận vệ của lão Tư Tế quả thật rất mong manh. Chúng tôi cần súng ống sẵn sàng phòng khi bất trắc, và tôi mong mình có thể trông cậy vào lòng
trung thành của những chiến binh mặt trời đối với tôi.
Tôi đích thân hộ tống lão Tư Tế về phòng riêng, Mal và Tolya theo sau cả hai.
Đến trước cửa phòng, tôi nói, “Một tiếng nữa, chúng ta sẽ hành lễ cùng nhau. Đêm nay, tôi rời đi với đoàn Grisha của mình và ông sẽ phê chuẩn chuyện đó.”
“Sol Koroleva,” lão Tư Tế thì thầm, “Ta xin cô đừng trở lên mặt đất quá sớm. Vị thế của Hắc Y không phải là kẻ mạnh. Thằng nhóc Lantsov có vài đồng minh..
“Tôi là đồng minh của gã.”
“Gã đã bỏ rơi cô ở Tiểu Điện.”
“Gã đã sống sót, linh mục. Đấy là điều ông nên hiểu.” Nikolai đã định sẽ đưa gia đình gã và Baghra đến nơi an toàn rồi quay trở lại cuộc chiến. Tôi chỉ có thể hy vọng gã đã thành công và tin đồn về việc gã đánh phá biên giới phía Đông là sự thật.
“Hãy để đôi bên giết hại lẫn nhau, chờ xem gió thổi chiều nào…” “Tôi nợ Nikolai Lantsov nhiều hơn thế.”
“Động lực của cô là lòng trung thành ư? Hay lòng tham?” Lão Tư Tế hỏi dồn. “Những bộ khuếch đại đã chờ biết bao lâu để được tập hợp, và cô không thể đợi thêm vài tháng nữa sao?”
Tôi bèn nghiến răng khi nghĩ đến đấy. Tôi không chắc điều gì đã thúc đẩy mình, là khát khao trả thù hay thứ gì cao xa hơn, là tham vọng tìm thấy Hỏa Điểu hay tình bạn với Nikolai. Nhưng nó chẳng còn quan trọng nữa. “Đây cũng là cuộc chiến của tôi,” tôi nói. “Tôi sẽ không trốn chui trốn nhủi như thằn lằn nấp đá.”
“Ta van cầu cô hãy lưu ý đến những gì ta nói. Ta đã chẳng làm gì ngoài việc trung thành phụng sự cô.”
“Bằng cái cách ông phụng sự Đức vua? Phụng sự Hắc Y?” “Ta là tiếng nói của người dân. Họ không chọn Hoàng gia Lantsov hay Hắc Y. Họ chọn cô làm Thánh nữ, và sẽ yêu quý cô như Bà hoàng.”
Chỉ nghe những lời ấy cũng làm tôi rã rời.
Tôi ngoái nhìn đến chỗ Mal và Tolya đang đứng chờ ở một khoảng đáng kể. “Ông có tin không?” Tôi hỏi lão linh mục. Câu hỏi đã đeo bám tôi kể từ ngày nghe tin lão đương chiêu mộ giáo phái của mình. “Ông có thật sự tin rằng tôi là một vị Thánh không?”
“Những gì ta tin không quan trọng,” lão đáp lời. “Đấy là thứ cô sẽ không bao giờ hiểu. Cô có biết họ đã bắt đầu dựng tượng đài cô ở Fjerda? Ở Fjerda, nơi họ đóng cọc thiêu rụi những Grisha. Giữa sợ hãi và tôn kính là một lằn ranh rất nhỏ, Alina Starkov ạ. Ta có thể dịch chuyển lằn ranh ấy. Đấy là cái giá ta đề nghị cho cô.”
“Tôi không muốn.”
“Nhưng cô sẽ có nó. Những người đàn ông chiến đấu cho Ravka vì Đức vua ra lệnh, vì lương bổng giúp gia đình họ khỏi chết đói, vì họ không có quyền lựa chọn. Họ sẽ chiến đấu cho cô vì cô là nguồn cơn cứu rỗi. Họ sẽ nhịn đói, sẽ hy sinh mạng sống của mình và con cái vì cô. Họ sẽ liều mình phát động chiến tranh và vui lòng nhắm mắt. Không một sức mạnh nào quyền uy hơn đức tin, và không một đội quân nào dũng mãnh hơn những người lấy nó làm động lực.”
“Đức tin đã không bảo vệ binh lính của ông khỏi bầy nichevo’ya. Không sự cuồng tín nào có thể.”
“Cô chỉ thấy mỗi chiến tranh, nhưng ta thấy được hòa bình đến sau đó. Đức tin vượt qua mọi ranh giới và dân tộc. Yêu kính dành cho cô đã bắt rễ ở Fjerda. Nước Shu sẽ tiếp nối, rồi đến Kerch. Giáo dân của chúng ta sẽ tiến bước và truyền bá khắp nơi, không chỉ ở Ravka mà trên toàn thế giới. Đây là con đường dẫn tới bình yên, Sankta Alina. Thông qua cô.” “Cái giá phải trả quá đắt.”
“Chiến tranh là cái giá cho sự thay đổi.”
“Và những người phải trả giá là những người bình thường, những thường dân như tôi. Không bao giờ là mấy gã như ông.”
“Chúng ta…”
Tôi đưa tay ra hiệu lão im lặng. Tôi nghĩ đến chuyện Hắc Y tàn phá toàn bộ một thị trấn, đến chuyện anh trai Vasily của Nikolai ra lệnh hạ thấp độ tuổi nhập ngũ. Lão Tư Tế tự xưng mình là tiếng nói của dân chúng, nhưng lão cũng chả khác gì hai gã kia.
“Giữ an toàn cho họ, linh mục - đám đông này, quân đội này. Cho họ ăn uống đầy đủ. Không được đánh dấu lên mặt của bọn trẻ hay để chúng cầm đến súng trường. Những việc còn lại cứ để tôi lo.”
“Sankta Alina…”
Tôi mở cánh cửa dẫn vào phòng lão. “Chúng ta sẽ sớm cầu nguyện cùng nhau,” tôi nói. “Nhưng tôi nghĩ một khởi đầu sớm hơn sẽ tốt cho ông đấy.” Mal và tôi giam Lão Tư Tế ở trong phòng do Tolya canh giữ - cùng lệnh
giới nghiêm rằng cửa phải luôn được đóng và không ai đến làm phiền ngài cầu nguyện.
Tôi ngờ rằng Lão Tư Tế sẽ sớm giành lại quyền kiểm soát đội quân của mình, có thể là cả Vladim. Nhưng tất cả những gì chúng tôi cần là vài giờ khởi động. May cho lão là tôi không nhồi lão vào một góc ẩm ướt nào đó trong phòng lưu trữ đấy.
Khi cả hai cuối cùng cũng về đến chỗ tôi, thì gian phòng chật chội màu trắng đã đông đúc những Grisha và Vladim đang chờ trước cửa. Buồng ngủ của tôi là một trong số những không gian rộng nhất trong Giáo Hội Trắng, nhưng vẫn khó mà chứa hết một nhóm mười hai người. Không ai trông quá tệ. Môi Nadia sưng vù, và Maxim đang sơ cứu một vết cắt ngang qua mắt của Stigg. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được phép tụ họp bên dưới lòng đất, và có gì đó thật ủi an khi nhìn thấy đoàn Grisha ở cạnh nhau và nằm ngồi lung tung trên những bàn ghế tuềnh toàng.
Mal có vẻ không đồng tình cho lắm. “Cứ như đi cùng một ban nhạc diễu hành ấy,” cậu ấy khẽ lầm bầm.
“Chuyện quái gì đang diễn ra vậy?” Sergei cất tiếng hỏi ngay sau khi tôi bảo Vladim rời đi. “Mới đây tôi còn ở bệnh thất với Maxim, thế mà nháy mắt sau đã ở trong buồng giam.” Anh ta đi đi lại lại. Da anh ta bóng nhờn, và hai quầng thâm hiện rõ bên dưới mắt.
“Bình tĩnh,” Tamar nói. “Giờ anh đâu có ở sau song sắt nữa.”
“Cũng chả khác mấy. Chúng ta đều bị kẹt ở dưới đây. Và lão già khốn kiếp kia chỉ chờ thời cơ thủ tiêu tất cả.”
“Nếu anh muốn rời khỏi hang động thì đây là cơ hội của anh,” tôi bảo. “Chúng ta sẽ rời đi. Đêm nay.”
“Bằng cách nào?” Stigg hỏi.
Thay vì trả lời, tôi để ánh sáng lóe lên từ lòng bàn tay trong một thoáng rực rỡ - bằng chứng rằng năng lượng của tôi đã bùng cháy lần nữa, dù hành động nhỏ nhặt ấy mất sức hơn bình thường.
Căn phòng vỡ òa trong tiếng huýt sáo và hoan hô.
“Vâng, vâng,” Zoya buông giọng. “Tiết Dương Sư có thể triệu hồi. Và tất cả chỉ nhờ vài cái chết và một vụ nổ nhỏ.”
“Cô làm nổ thứ gì đó?” Harshaw ai oán hỏi. “Thế mà không có tôi?” Hắn ta chen chúc sát tường kế bên Stigg. Hai Tiết Hỏa Sư của chúng tôi trông hoàn toàn khác nhau. Stigg thấp bé và chắc nịch với máu tóc có màu gần như bạch kim. Anh ấy có vẻ ngoài vững vàng và to bè như một cây nến dâng lễ. Harshaw cao kều và tả tơi, tóc hắn đỏ hơn cả Genya, gần giống màu máu. Một con mèo tam thể cái gầy nhẳng không biết sao lại mò được đến tận Giáo Hội Trắng và yêu thích hắn ta. Nó theo hắn đi khắp nơi, quấn giữa hai chân hay đu bám trên vai hắn.
“Mấy cái bột thuốc súng ấy ở đâu ra vậy?” Tôi thắc mắc khi đến ngồi cạnh Nadia và em trai cô ấy ở mép giường.
“Tôi đã chế tạo chúng, trong khi đáng ra phải làm thuốc mỡ,” David trả lời. “Như lời lão Tư Tế đã dặn.”
“Ngay trước mắt bọn cận vệ?”
“Làm như họ biết gì về thuật Điều Nhiên vậy.”
“Ờ, chắc phải có chứ. Anh bị bắt còn gì.”
“Không hẳn,” Mal chen vào. Cậu ấy đứng gác ở cửa với Tamar, mỗi người quan sát một lối đi phía đối diện.
“David biết chúng ta hẹn gặp nhau ở Kettle,” Genya giải thích, “và anh ấy đoán ra được đường ống chính.”
David cau mày. “Tôi không đoán mò.”
“Nhưng không cách nào lấy bột ra khỏi phòng lưu trữ hết, nhất là với bọn cận vệ lục soát mọi thứ.”
Tamar nhăn nhở. “Nên chúng tôi đã dùng lão Tư Tế chuyển hàng.” Tôi trân trối nhìn bọn họ. “Ý cô là chuyện bị bắt giữ?”
“Hóa ra cách dễ dàng nhất để lên lịch họp là để lão bắt quả tang,” Zoya tiếp lời.
“Cô có biết chuyện đó mạo hiểm thế nào không?”
“Đi mà mắng Oretsev ấy,” Zoya sụt sịt đáp trả. “Sáng kiến ấy là của cậu ta.”
“Thành công thật nhỉ,” Genya nhận xét.
Mal nhún một bên vai. “Cũng như Sergei đã nói, lão Tư Tế đang chờ thời cơ thủ tiêu chúng ta. Nên mình nghĩ chúng ta sẽ cho lão toại nguyện.” “Chúng tôi chỉ không chắc khi nào cô sẽ ở Kettle,” Nadia bảo. “Lúc cô rời khỏi phòng lưu trữ hôm nay, David đã viện cớ để quên đồ trong phòng và đi ngang qua phòng tập huấn để ra hiệu cho chúng tôi. Chúng tôi biết lão Tư Tế sẽ tin Tolya và Tamar hơn, nên họ đã mạnh tay một chút…” “Mạnh tay rất nhiều,” Mal cắt ngang.
“Rồi họ tuyên bố mình đã phát hiện một âm mưu hiểm độc bao gồm một vài Grisha quỷ quyệt và một gã dò đường cả tin.”
Mal mỉa mai giơ tay chào.
“Tôi sợ lão sẽ nhất quyết tống cổ mọi người vào ngục,” Tamar tiếp tục. “Nên chúng tôi bảo cô đang gặp nguy hiểm cấp bách và tất cả phải đến Kettle ngay lập tức.”
Nadia mỉm cười. “Và rồi cả đám chỉ mong sao căn bếp không đổ sụp xuống đầu.”
David càng nhăn nhó hơn. “Đấy là vụ nổ được kiểm soát. Xác suất mà kết cấu của hang động sẽ giữ vững là trên mức trung bình.” “À. Trên mức trung bình,” Genya lặp lại. “Sao anh không nói thế?” “Tôi vừa nói đó thôi.”
“Còn mấy cái bóng trên tường?” Zoya hỏi. “Ai đã tạo nên chúng?” Tôi cứng người, không biết nên nói gì.
“Tôi,” Mal trả lời. “Chúng tôi làm thế như một cách đánh lạc hướng.”
Sergei đi đi lại lại, bẻ từng khớp tay. “Lẽ ra cô nói trước kế hoạch cho chúng tôi. Chúng tôi đáng được nhận cảnh báo.”
“Lẽ ra cô nên để tôi nổ tung thứ gì đó,” Harshaw thêm vào. Zoya cường điệu nhún vai. “Tôi thành thật xin lỗi vì các anh thấy mình lạc lõng. Đừng để ý đến chuyện chúng tôi bị canh gác nghiêm ngặt thế nào và việc không bị phát hiện mới màu nhiệm làm sao. Chúng tôi đáng ra phải đánh liều cả nhiệm vụ để ngăn các anh khỏi bị tổn thương.” Tôi hắng giọng. “Trong vòng chưa đầy một giờ, tôi sẽ dẫn dắt nghi thức với lão Tư Tế. Chúng ta sẽ rời đi ngay sau đó, và tôi cần biết người nào sẽ đi cùng tôi.”
“Cô sẽ nói cho chúng tôi biết bộ khuếch đại thứ ba ở đâu chứ?” Zoya hỏi. Đến giờ, chỉ mỗi cặp sinh đôi, Mal, và tôi biết nơi khả dĩ nhất để tìm ra Hỏa Điểu. Và Nikolai, tôi tự nhắc mình. Nikolai cũng biết - nếu gã vẫn còn sống.
Mal lắc đầu. “Biết càng ít, an toàn càng nhiều.”
“Vậy là cô thậm chí sẽ không nói cho chúng tôi biết mình sẽ đi đâu?” Sergei nói vẻ trách móc.
“Không hẳn. Chúng ta sẽ cố liên lạc với Nikolai Lantsov.” “Tôi nghĩ chúng ta nên thử đến Ryevost,” Tamar đề nghị. “Đến những thành phố gần sông?” Tôi hỏi. “Tại sao?” “Sturmhond có nhiều đường dây buôn lậu khắp
Ravka. Rất có thể Nikolai đang dùng chúng để đưa vũ khí vào đất nước.” Tamar hẳn phải biết. Cô ấy và Tolya từng là những thuyền viên thân cận trong phái đoàn của Sturmhond. “Nếu tin đồn là thật và ngài ấy đóng quân ở đâu đó phía bắc, thì khả năng cao là điểm giao hàng gần Ryevost đang hoạt động.”
“Quá nhiều phỏng đoán và không mấy thông tin,” Harshaw nhận định.
Mal gật đầu. “Đúng. Nhưng đấy là đầu mối khả thi nhất.” “Và nếu nó là ngõ cụt?” Sergei hỏi.
“Chúng ta sẽ chia ra,” Mal đáp. “Chúng ta sẽ tìm một căn cứ để ẩn náu, và tôi sẽ dẫn một đội đi tìm Hỏa Điểu.”
“Tất cả có quyền ở lại đây,” tôi nói với những người khác. “Tôi biết đoàn hành hương không mấy thân thiện với Grisha, và sau đêm nay, tôi
không biết thiện cảm của họ sẽ thay đổi thế nào. Nhưng nếu chúng ta bị bắt giữ trên mặt đất…”
“Hắc Y không nương tay với những kẻ phản bội,” Genya lặng lẽ kết câu.
Mọi người bắt đầu cựa quậy một cách bất an, nhưng tôi ép mình nhìn thẳng vào mắt cô ấy. “Đúng. Anh ta sẽ không nương tay.” “Anh ta đã làm vậy với tôi,” cô ấy nói. “Tôi đi.”
Zoya vuốt phẳng tay áo khoác của mình. “Không có cô chúng tôi sẽ đi nhanh hơn.”
“Tôi sẽ đuổi kịp.”
“Cứ cho là thế đi,” Mal nói. “Nhưng chúng tôi sẽ tiến vào một khu vực có vô số dân quân, chưa kể đoàn oprichniki của Hắc Y. Cô rất dễ nhận biết,” cậu ấy nói với Genya. “Cũng như Tolya, với lý do tương tự.”
Môi của Tamar khẽ giật. “Cậu muốn là người đi thông báo là anh không thể đi cùng không?”
Mal bèn lưỡng lự. “Chúng ta có thể hóa trang cho anh ta thành một cái cây thật lớn.”
Adrik bật dậy nhanh đến nỗi cậu nhóc suýt hất tôi khỏi giường. “Gặp mọi người sau một tiếng nữa,” cậu ấy tuyên bố, như thể thách thức bất cứ ai muốn phản đối.
Nadia nhún vai với tôi trong lúc cậu ta chạy khỏi phòng. Adrik không nhỏ hơn chúng tôi là bao, nhưng có lẽ vì là em trai của Nadia nên cậu luôn tìm cách chứng tỏ bản thân.
“Ờ, tôi sẽ đi,” Zoya lên tiếng. “Độ ẩm ở đây là sát nhân với mái tóc của tôi.”
Harshaw nhỏm dậy và bật khỏi vách tường. “Tôi thích ở lại hơn,” gã vừa ngáp vừa nói. “Nhưng Oncat bảo chúng tôi phải đi.” Gã dùng một tay nâng con mèo lên vai.
“Chừng nào anh mới đặt tên cho nó?” Zoya hỏi.
“Nó có tên mà.”
“Oncat không phải tên. Nó là ‘con mèo’ trong tiếng Kaelish.” “Hợp với nó mà, không phải sao?”
Zoya đảo mắt rồi hối hả rồi khỏi cửa, theo sau là Harshaw và Stigg, người cúi chào lễ phép và nói, “Tôi sẽ chuẩn bị.”
Những người khác dần rời đi sau họ. Tôi phỏng chừng David sẽ muốn ở lại Giáo Hội Trắng với ghi chép của Morozova hơn. Nhưng anh ấy là Sáng Chế Gia duy nhất trong bọn, và giả sử chúng tôi tìm ra Hỏa Điểu thì sẽ cần đến anh để rèn thành dây xích thứ hai. Nadia trông có vẻ vui khi được đi cùng em trai mình, dù người được cô ấy nở nụ cười trong lúc ra cửa là Tamar. Tôi đoán Maxim sẽ chọn ở lại bệnh thất, và tôi đã đúng. Biết đầu tôi có thể nhờ Vladim và những cận vệ khác của lão Tư Tế làm ví dụ cho đoàn hành hương và tận dụng khả năng của Maxim với tư cách Thiện Tâm Y.
Điều ngạc nhiên duy nhất là Sergei. Dù Giáo Hội Trắng tồi tàn, ẩm ướt, ảo não, nó cũng tương đối an toàn. Tuy Sergei có vẻ hào hứng muốn thoát khỏi bàn tay của lão Tư Tế, tôi vẫn không chắc anh ta muốn mạo hiểm cùng chúng tôi ở phía trên mặt đất. Nhưng anh ta chỉ đơn giản gật đầu và nói, “Tôi sẽ đi.” Có lẽ chúng tôi đều khao khát một bầu trời xanh thẳm và một cơ hội nữa để cảm nhận tự do, bất kể hiểm nguy nào.
Khi tất cả đã rời đi, Mal thở dài rồi nói, “Chậc, thì cũng đáng để thử.” “Bồ cố dọa cho họ sợ,” tôi lên tiếng, sực hiểu ra.
“Mười hai người là quá nhiều. Một nhóm lớn như vậy sẽ khiến chúng ta chậm chân khi đi qua đường hầm, và khi lên đến mặt đất, họ sẽ đem lại nhiều rủi ro hơn. Ngay khi có cơ hội, chúng ta phải tách ra. Không đời nào mình dẫn theo một tá Grisha vào vùng núi phía nam đâu.”
“Được rồi,” tôi đồng ý. “Đấy là nếu chúng ta tìm được một nơi an toàn cho họ.”
“Không dễ dàng đâu, nhưng chúng ta sẽ xoay xở được.” Cậu ấy di chuyển về phía cánh cửa. “Mình sẽ quay lại trong vòng nửa tiếng để đưa bồ đến hang động chính.”
“Mal,” tôi nói, “sao bồ lại đứng chắn giữa mình và đám cận vệ của lão Tư Tế?”
Cậu ấy nhún vai. “Họ không phải những kẻ đầu tiên mình giết. Và sẽ không phải những kẻ cuối cùng.”
“Bồ đã ngăn mình sử dụng Vết Cắt với họ.”
Cậu ấy không nhìn tôi lúc trả lời, “Ngày nào đó bồ sẽ là một nữ hoàng, Alina. Tay bồ càng ít vấy máu thì càng tốt.
Hai chữ nữ hoàng thốt ra trên môi cậu thật dễ dàng. “Bồ có vẻ chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra Nikolai.”
“Mình chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra Hỏa Điểu.”
“Mình cần một đội quân. Hỏa Điểu có thể sẽ không đủ.” Tôi đưa một tay xoa xoa mắt. “Biết đâu Nikolai thậm chí còn không ở Ravka.” “Báo cáo từ phía bắc…”
“Có thể là thông tin sai lệch lan truyền bởi Hắc Y. ‘Hoàng tử Gió’ có thể là một thần thoại được dựng nên hòng dụ chúng ta khỏi chỗ trốn. Biết đâu Nikolai chưa từng thoát khỏi Đại Điện.” Nói ra điều này khiến tôi thấy đau lòng, nhưng tôi buộc mình phải lên tiếng. “Anh ta có lẽ đã chết rồi.” “Bồ tin thế sao?”
“Mình không biết.”
“Nếu có ai đó chạy trốn được, đấy chính là Nikolai.”
Con cáo tinh ranh tột bậc. Kể cả khi vất bỏ vỏ bọc Sturmhond của mình, đấy là ấn tượng của tôi về Nikolai, luôn luôn suy tính, luôn luôn âm mưu. Nhưng gã đã không đoán được sự phản bội của anh trai mình. Gã đã không thấy được Hắc Y đang tiếp cận.
“Được rồi,” tôi nói, cảm thấy xấu hổ bởi sự run rẩy trong giọng nói. “Bồ vẫn chưa hỏi mình về những cái bóng.”
“Mình nên hỏi ư?”
Tôi không thể ngăn mình lại. Có lẽ tôi muốn xem cậu ấy sẽ phản ứng thế nào. Tôi cong tay lại, và bóng tối lan ra từ góc phòng. Mắt Mal dõi theo cử động của chúng. Tôi đã mong đợi biểu cảm gì ở cậu ấy? Sợ hãi? Thịnh nộ?
“Bồ có thể làm gì hơn với chúng không?” cậu hỏi.
“Không. Chỉ là chút tàn tích của những gì mình từng làm ở nhà thờ nhỏ mà thôi.”
“Ý bồ là chuyện cứu sống tất cả mọi người?”
Tôi để bóng đêm rơi xuống và đưa tay day sống mũi, cố ngăn chặn cơn váng vất vừa kéo tới. “Ý mình là chuyện sử dụng merzost. Đây không phải
năng lực thật sự. Chỉ là một tiểu xảo trá hình.”
“Đấy là thứ bồ đã lấy được từ anh ta,” cậu ấy nói. Tôi không nghĩ mình đã tưởng tượng ra vẻ hả hê trong giọng của cậu. “Mình sẽ không nói gì hết, nhưng bồ nên giấu nó không cho mấy người khác biết.”
Chốc nữa tôi sẽ lo về chuyện đấy sau. “Nếu thuộc hạ của Nikolai không ở Ryevost thì sao?”
“Bồ nghĩ mình có thể theo dấu một con chim khổng lồ huyền thoại, nhưng lại không thể tìm ra một gã hoàng tử to mồm à?”
“Một gã hoàng tử đã lẩn tránh Hắc Y thành công suốt nhiều tháng trời.” Mal chăm chú nhìn tôi.
“Alina, bồ có biết mình bắn phát đạn đó thế nào không? Lúc ở Kettle ấy?”
“Nếu bồ nói ấy là vì bồ rất giỏi, mình sẽ tháo bốt ra và dùng nó để đập bồ.”
“Chà, đúng là mình rất giỏi,” cậu ấy công nhận bằng nụ cười thoáng qua. “Nhưng mình đã bảo David bỏ một con ong vào túi.” “Tại sao?”
“Để ngắm bắn dễ hơn. Tất cả những gì mình phải làm là lần theo nó.” Tôi nhướng mày. “ồ, chiêu trò ấn tượng đấy.”
Cậu ấy nhún vai. “Đấy là thứ duy nhất mình biết. Nếu Nikolai còn sống, chúng ta sẽ tìm ra anh ta.” Cậu ngừng lại, rồi nói thêm, “Mình sẽ không làm bồ thất vọng nữa đâu.” Cậu quay lưng rồi đi, nhưng trước khi đóng cửa, cậu cất tiếng, “Cố nghỉ ngơi một chút. Mình sẽ ở ngoài đây nếu bồ cần.”
Tôi đứng đó một lúc lâu. Tôi muốn nói với cậu ấy rằng cậu đã không làm tôi thất vọng, nhưng điều đó không thật sự đúng. Tôi đã nói dối cậu ấy về những bóng ma luôn ám ảnh mình. Cậu ấy đã xua đuổi tôi lúc tôi cần cậu nhất. Có lẽ hai chúng tôi đều đòi hỏi đối phương phải từ bỏ quá nhiều. Công bằng hay không, tôi vẫn cảm thấy Mal đã quay lưng với mình, và phần nào đó trong tôi oán giận cậu ấy vì thế.
Tôi nhìn quanh căn phòng trống. Thật bối rối khi nhìn thấy quá nhiều người chen chúc trong đây. Tôi biết rõ từng người đến đâu? Harshaw và Stigg lớn hơn mấy người khác một chút, họ là những Grisha đã tìm đến
Tiểu Điện sau khi nghe tin Tiết Dương Sư trở về. Đối với tôi họ cơ bản chỉ là những kẻ lạ. Cặp sinh đôi tin rằng tôi được ban cho sức mạnh của thánh thần. Zoya chỉ miễn cưỡng theo sau tôi. Sergei đang dần suy sụp, và tôi biết có lẽ anh ta đã đổ tội cho tôi vì cái chết của Marie. Chắc Nadia cũng thế. Cô đau lòng một cách thầm lặng hơn, nhưng họ đã từng là bạn thân nhất.
Và Mal. Tôi đoán chúng tôi đại khái đã làm lành, nhưng không dễ dàng cho lắm. Hoặc có khi chúng tôi chỉ chấp nhận về vị thế của tôi sau này, rằng lối đi của cả hai chắc chắn sẽ phân tách. Ngày nào đó bồ sẽ là một nữ hoàng, Alina à.
Tôi biết mình nên cố chợp mắt một vài phút, nhưng tâm trí tôi không thể ngừng lại. Thân thể tôi rúng động với năng lượng đã sử dụng và ngày càng khao khát hơn.
Tôi liếc nhìn cánh cửa, ước gì nó có ổ khóa. Có điều này tôi muốn thử. Tôi đã cố vài lần và chẳng nhận được gì hơn ngoài một cơn đau đầu. Nó nguy hiểm, và có thể hơi ngu ngốc, nhưng giờ năng lực đã quay trở lại, nên tôi muốn thử thêm lần nữa.
Tôi đá văng đôi bốt và nằm xuống trên chiếc giường chật hẹp. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận chiếc vòng cổ nơi cuống họng, vẩy Hải Long trên cổ tay, sức mạnh hiện diện bên trong tôi tựa nhịp tim đập liên hồi. Tôi nhận thức được vết thương trên vai, vết sẹo tối màu do con nichevo’ya của Hắc Y tạo ra. Nó đã tăng cường liên kết giữa chúng tôi, giúp anh ta tiếp cận tâm trí tôi như chiếc vòng cổ đã giúp anh ta tiếp cận năng lượng của tôi. Trong nhà thờ nhỏ, tôi đã dùng liên kết ấy chống lại anh ta và suýt giết chết cả hai trong lúc làm thế. Tôi thật dại dột khi thử nghiệm nó bây giờ. Dẫu vậy, tôi vẫn bị cám dỗ. Nếu Hắc Y có thể tiếp cận năng lượng ấy, tại sao tôi lại không? Đây là cơ hội để thu thập tin tức, để tường tận cách thức hoạt động của liên kết giữa hai chúng tôi.
Nó sẽ không thành công, tôi trấn an bản thân. Mày làm thử, mày thất bại, rồi mày sẽ chợp mắt một chút.
Tôi thở chậm lại, để năng lượng chạy khắp người. Tôi nghĩ đến Hắc Y, đến những bóng đen mà tôi có thể ngoắc tay sai khiến, đến chiếc vòng quanh cổ mà anh ta đã đeo vào, xiềng xích nơi cổ tay đã mãi mãi tách biệt
tôi khỏi những Grisha khác và thực sự khiến tôi phải đeo đuổi con đường này.
Không có gì xảy ra. Tôi đang nằm trên giường ở trong Giáo Hội Trắng. Tôi đã không đi đâu. Một mình tôi trong căn phòng trống. Tôi chớp mắt nhìn lên trần nhà ẩm thấp. Như thế sẽ tốt hơn. Ở Tiểu Điện, sự cô lập gần như phá hủy tôi, nhưng đấy là vì tôi đã thèm khát một thứ khác, cảm giác được thuộc về đâu đó mà tôi đeo đuổi suốt cuộc đời. Tôi đã chôn giấu ham muốn ấy giữa đổ nát trong nhà thờ. Giờ tôi sẽ nghĩ đến liên minh hơn là tình cảm, ai và cái gì sẽ giúp tôi đủ mạnh cho trận chiến này.
Tôi đã định sẽ giết lão Tư Tế hôm nay; đã đốt dấu ấn của mình lên da thịt của Vladim. Tôi tự nhủ rằng mình phải làm thế, nhưng bản thân tôi ngày xưa sẽ không bao giờ cân nhắc những việc kinh khủng đó. Tôi ghét Hắc Y vì những gì anh ta đã làm với Baghra và Genya, nhưng tôi nào có khác gì? Và khi bộ khuếch đại thứ ba được đính trên cổ tay, liệu tôi có thay đổi gì chăng?
Có thể không, tôi thừa nhận, và đến cùng lời thú thật ấy là chấn động trơ trụi nhất - một sự rung chuyển lan truyền qua kết nối giữa chúng tôi, một tiếng vọng đáp trả từ đầu dây vô hình bên kia.
Nó kêu gọi tôi thông qua chiếc vòng trên cổ và vết cắn trên vai, được khuếch đại bởi dây xích nơi cổ tay, một mối dây kiến tạo bởi merzost và độc được hắc ám trong máu tôi. Cô cất tiếng gọi, và ta đáp lời. Có lẽ đây là cảm giác của Mal khi dò đường - một lực hút xa xăm từ phía khác, một hiện diện luôn kêu gào sự chú ý dù nó không thể được nhìn thấy hay chạm vào.
Mới đây thôi, tôi còn đang lơ lửng trong bóng tối của đôi mắt nhắm nghiền, giây lát sau tôi đã đứng giữa một căn phòng sáng rực. Mọi thứ xung quanh thật mù mờ, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra nơi này: Tôi đang ở phòng thiết triều trong Đại Điện. Mọi người đang nói chuyện. Như thể họ đang ở dưới nước. Tôi nghe được tiếng động nhưng không phải từ ngữ.
Tôi biết ngay khoảnh khắc Hắc Y nhìn thấy mình. Anh ta bắt đầu hiện rõ hơn, dù căn phòng xung quanh vẫn tăm tối nhạt nhòa.
Khả năng kiểm soát của anh ta tốt đến mức không ai ở gần đó phát hiện ra vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt hoàn hảo ấy. Nhưng tôi thấy đôi mắt xám của anh ta mở to, lồng ngực căng cứng khi ngưng thở. Từng đầu
ngón tay của anh ta siết chặt trên tay ghế - không, là ngai vàng. Rồi anh ta thả lỏng, gật đầu đồng tình với gì đó mà người đứng trước mình đang nói. Tôi chờ đợi, quan sát. Anh ta đã chiến đấu vì ngai vàng ấy, đã chịu đựng mấy trăm năm đấu tranh và quy phục để giành lấy nó. Tôi phải thừa nhận nó rất hợp với anh ta. Phần nhỏ mọn trong tôi đã mong sẽ được thấy anh ta yếu đi, mái tóc đen nhánh chuyển sang trắng như tôi. Nhưng sau tất cả tổn hại tôi đã gây ra cho anh ta vào cái đêm trong nhà thờ ấy, anh ta đã hồi phục tốt hơn tôi.
Khi tiếng lầm rầm từ những người cầu xin ngưng bặt, Hắc Y đứng dậy. Ngai vàng nhòe đi về phía sau, và tôi nhận ra những gì ở gần anh ta sẽ rõ nhất, nhưng thể tôi đang nhìn thế giới qua lăng kính là anh ta.
“Ta sẽ cân nhắc việc đó,” anh ta nói, chất giọng lạnh lẽo như thủy tinh, thật thân quen. “Giờ đi hết đi.” Anh ta lỗ mãng phẩy tay. “Tất cả các người”
Thuộc hạ của anh ta có thảng thốt quay sang nhìn nhau không, hay họ chỉ cúi chào rồi rời đi? Tôi không biết được. Anh ta đã bắt đầu bước xuống cầu thang, ánh mắt dán chặt lên tôi. Tim tôi quặn lại, và một từ duy nhất vang vọng rõ ràng trong tâm trí: Chạy. Tôi điên rồi mới dám thử việc này, dám tìm anh ta. Nhưng tôi không cử động. Tôi không giải phóng liên kết.
Người nào đó đến gần, khi anh ta chỉ còn cách Hắc Y một tấc, tôi bắt đầu nhìn rõ anh ta hơn - Áo choàng Grisha màu đỏ, một gương mặt xa lạ. Thậm chí tôi còn nghe được lời anh ta nói “…. về vấn đề chữ ký cho…” Rồi Hắc Y cắt ngang.
“Để sau,” anh ta dứt khoát, và người lính hấp tấp bỏ đi.
Căn phòng vắng lặng những âm thanh và cử động, trong suốt lúc đó, Hắc Y vẫn nhìn về phía tôi. Anh ta băng ngang qua sàn gỗ. Từng bước một, những thớ gỗ bóng loáng hiện rõ hơn dưới đôi bốt của anh ta, rồi chúng lại mờ đi.
Tôi có cảm giác kì lạ khi đang nằm trên giường trong Giáo Hội Trắng và khi ở đây, trong phòng thiết triều, đứng giữa một quảng trường ấm áp đầy ánh nắng.
Anh ta dừng lại trước tôi, đôi mắt dò xét khuôn mặt tôi. Anh ta thấy những gì? Anh ta lành lặn xuất hiện trong tầm nhìn của tôi. Liệu anh ta có
thấy tôi khỏe mạnh và nguyên vẹn, mái tóc màu nâu, đôi mắt sáng ngời? Hay anh ta đã thấy một con bé ốm o, nhợt nhạt và xám xịt, bị suy kiệt từ trận chiến trong nhà thờ, tàn tạ bởi cuộc sống dưới lòng đất?
“Giá như ta biết cô là một học trò tài năng đến vậy.” Giọng của anh ta nghe ngưỡng mộ thật sự, gần như ngạc nhiên. Khủng khiếp thay, tôi nhận ra đứa trẻ mồ côi thảm hại trong tôi lại thích thú với lời khen ấy. “Sao bây giờ cô lại đến tìm ta?” anh ta hỏi. “Phải lâu như vậy cô mới hồi phục từ trận ẩu đả của chúng ta ư?”
Nếu đấy chỉ đơn giản là một trận ẩu đả, thì chúng tôi thua thật rồi. Không, tôi tự nhủ. Anh ta cố tình chọn cụm từ ấy, để hăm dọa tôi. Tôi lờ đi câu hỏi của anh ta và nói, “Tôi không ngờ mình lại được khen đấy.”
“Thế sao?”
“Tôi đã chôn vùi ngài dưới một đống gạch đá.”
“Và nếu ta nói rằng ta tôn trọng sự tàn nhẫn của cô?”
“Tôi không nghĩ mình sẽ tin ngài.”
Nét cười phảng phất hiện ra trên môi anh ta. “Một học trò tài năng,” anh ta lặp lại. “Sao ta phải trút giận lên cô khi lỗi thuộc về bản thân? Đáng ra ta nên mong chờ một sự phản bội nữa từ cô, một sự níu giữ điên cuồng về lý tưởng ngây ngô nào đó. Nhưng dường như ta luôn là nạn nhân bởi ước vọng của chính mình trong những chuyện liên quan đến cô.” Vẻ mặt của anh ta đanh lại. “Cô đến đây làm gì, Alina?”
Tôi thành thật trả lời. “Tôi muốn gặp ngài.”
Tôi bắt gặp chút ngạc nhiên thoáng chốc trước khi biểu cảm trước đó quay về. “Có hai ngai vàng trên bệ đài. Cô có thể gặp ta bất cứ khi nào cô thích.”
“Ngài sẽ tặng tôi một ngai vàng ư? Sau khi tôi cố giết ngài?” Anh ta nhún vai lần nữa. “Có thể ta cũng sẽ hành động giống cô.” “Tôi không tin.”
“Không phải để cứu sống đám ô hợp phản bội và cuồng tín ấy, không. Nhưng ta hiểu khao khát được tự do.”
“Nhưng ngài vẫn muốn biến tôi thành nô lệ.”
“Ta tìm những bộ khuếch đại của Morozova cho cô, Alina, để chúng ta cai trị như hai kẻ ngang bằng.”
“Ngài cố chiếm đoạt sức mạnh của tôi cho mình.”
“Sau khi cô trốn khỏi ta. Sau khi cô chọn…” Anh ta dừng lại, nhún vai. “Rồi chúng ta sẽ cùng nhau cai trị thôi.”
Tôi cảm nhận được hấp lực ấy, ước mong của một con bé luôn e sợ. Kể cả bây giờ, sau tất cả mọi thứ anh ta đã làm, tôi vẫn muốn tin vào Hắc Y, muốn tìm cách tha thứ cho anh ta. Tôi muốn Nikolai còn sống. Tôi muốn tin tưởng những Grisha khác. Tôi muốn tin tưởng bất kì thứ gì để không phải cô độc đối diện với tương lai. Vấn đề với khát khao là việc nó khiến chúng ta trở nên yếu đuối. Tiếng cười thoát khỏi tôi trước khi kịp cân nhắc kĩ càng.
“Chúng ta sẽ ngang bằng cho đến ngày tôi dám phản đối ngài, đến khi tôi chất vấn những phán xét của ngài hoặc không làm theo những gì được bảo. Rồi ngài sẽ xử lý tôi theo cách ngài xử lý Genya và mẹ của ngài, theo cách ngài cố xử lý Mal.”
Anh ta tựa vào cửa sổ, và khung cửa mạ vàng hiện rõ hơn. “Cô nghĩ mọi chuyện sẽ khác đi với gã dò đường bên cạnh cô? Với thằng nhãi Lantsov ấy?”
“Đúng vậy,” tôi đơn giản nói.
“Vì cô sẽ là người mạnh hơn?”
“Vì họ là những người tốt hơn ngài.”
“Cô có thể khiến ta trở thành người tốt hơn.”
“Và ngài có thể khiến tôi trở thành con quái vật.”
“Ta chưa bao giờ hiểu được sở thích đối với otkazat’sya này. Có phải vì cô nghĩ rằng mình là một trong số chúng đã quá lâu rồi không?” “Tôi đã từng hôn ngài, một lần.” Hắc Y ngẩng đầu ngay lập tức. Anh ta đã không ngờ đến câu đấy. Thề có chúa, cảm giác này thật thỏa mãn. “Sao ngài không đến thăm tôi?” tôi hỏi. “Suốt những tháng ngày đằng đẵng ấy?” Anh ta im lặng.
“Không có ngày nào ở Tiểu Điện mà ngài không đến với tôi,” Tôi tiếp tục. “Khi không thấy ngài đứng trong góc tối. Tôi cứ ngỡ mình sắp phát điên.”
“Tốt.”
“Tôi nghĩ ngài sợ hãi.”
“Hẳn điều đó làm cô an lòng lắm.”
“Tôi nghĩ ngài sợ mối dây ràng buộc giữa chúng ta.” Nó không làm tôi khiếp đảm. Không còn nữa. Tôi chậm rãi bước lên phía trước. Anh ta cứng người, nhưng không tránh đi.
“Tuổi đời của ta rất lớn, Alina. Ta biết nhiều thứ về sức mạnh mà cô chẳng bao giờ đoán được.”
“Nhưng đấy không chỉ là sức mạnh, đúng chứ?” Tôi khẽ nói, nhớ đến cách anh ta đùa bỡn với mình khi tôi vừa mới đặt chân vào cung điện - kể cả trước đó, ngay từ lần đầu tiên gặp mặt. Tôi là một con bé cô đơn, khao khát sự chú ý. Chắc đối với anh ta tôi chỉ là thú tiêu khiển dễ dàng.
Tôi bước thêm bước nữa. Anh ta lặng người. Cơ thể chúng tôi gần như chạm vào nhau. Tôi vươn tay áp vào má anh ta. Lần này thoáng bối rối trên khuôn mặt anh ta không thể nhầm được. Anh ta đứng sững người, cử động duy nhất chỉ là lồng ngực phập phồng đều đặn. Rồi thì, như một sự nhượng bộ, anh ta khép mắt lại. Nếp nhăn chợt hiện ra giữa hai chân mày.
“Là thật,” tôi khẽ khàng nói. “Ngài mạnh mẽ hơn, thông minh hơn, kinh nghiệm lại vô vàn.” Tôi rướn người về phía trước và thì thầm, môi tôi lướt nhẹ qua vành tai của anh ta. “Nhưng tôi là một học trò tài năng.”
Mắt anh ta mở to. Tôi bắt gặp cơn thịnh nộ thoáng qua phút chốc trong ánh nhìn màu xám ấy trước khi cắt đứt kết nối.
Tôi tan biến, bay vụt trở về Giáo Hội Trắng, chỉ để lại ký ức về ánh sáng cho anh ta.
── 4 ──
T
ôi bật dậy thở dốc, hít một hơi sâu bầu không khí ẩm ướt trong căn phòng thạch cao. Tôi đảo mắt nhìn quanh một cách có lỗi. Đáng ra tôi không nên làm thế. Tôi đã biết được những gì? Anh ta đang ở Đại Điện và vô cùng khỏe mạnh? Thông tin không đáng kể.
Nhưng tôi không hối hận. Giờ tôi đã biết anh ta thấy được gì khi đến thăm tôi, những thông tin anh ta có thể và không thể chọn lọc từ kết nối. Giờ tôi đã thành thục thêm một sức mạnh mà trước đó chỉ thuộc về anh ta. Và tôi thích nó. Ở Tiểu Điện, tôi đã sợ hãi những hình ảnh ấy, sợ rằng mình sắp sửa mất trí, và tệ hại hơn, tôi đã thắc mắc không biết mọi người sẽ nói gì về tôi. Nhưng không còn nữa. Tôi sẽ không hổ thẹn nữa. Hãy để anh ta biết cảm giác ám ảnh là thế nào.
Huyệt thái dương bên phải của tôi bắt đầu nhức nhối. Ta tìm những bộ khuếch đại của Morozova cho cô, Alina. Những gian dối trá hình sự thật. Anh ta muốn giúp tôi mạnh mẽ hơn, nhưng đấy chỉ vì anh ta tin rằng mình có thể kiểm soát tôi. Anh ta vẫn tin như thế, và điều đó khiến tôi sợ hãi. Hắc Y không tài nào phát hiện Mal và tôi đã biết phải bắt đầu tìm bộ khuếch đại thứ ba từ đâu, nhưng dường như anh ta chẳng lo lắng. Anh ta thậm chí còn không nhắc đến Hỏa Điểu. Anh ta trông có vẻ tự tin, quyền uy, như thể anh ta thuộc về cung điện và ngai vàng ấy. Ta biết nhiều thứ về sức mạnh mà cô chẳng bao giờ đoán được. Tôi lắc đầu. Có lẽ tôi không phải là một mối đe dọa, nhưng tương lai thì có thể. Tôi sẽ không để anh ta đánh bại mình trước khi có cơ hội đem đến cho anh ta một trận đấu xứng đáng.
Tiếng gõ hối thúc vang lên từ phía cửa. Đã đến giờ rồi. Tôi xỏ chân lại vào bốt và chỉnh đốn bộ kefta nhếch nhác màu vàng của mình. Sau hôm nay, có lẽ tôi sẽ đãi bản thân một bữa.
Nghi thức diễn ra khá đẹp mắt. Việc triệu hồi ánh sáng dưới tầng ngầm vẫn còn là một thử thách, nhưng tôi vẫn chiếu những luồng sáng chói lòa lên khắp những bức tường trong Giáo Hội Trẳng, tung hết năng lượng để thu hút đám đông đang rên rỉ và đung đưa bên dưới. Vladim đứng bên trái tôi, áo sơ mi phanh rộng nhằm phô bày dấu tay tôi trên ngực cậu ta. Bên phải tôi, lão Tư Tế đang giảng bài, và dù là vì sợ hãi hay đức tin thật sự thì lão nói cũng rất thuyết phục. Giọng của lão vang vọng khắp hang động chính, tuyên bố rằng nhiệm vụ của chính tôi được dẫn dắt bởi Thánh thần và tôi sẽ trỗi dậy từ những thử thách mạnh mẽ hơn bao giờ.
Tôi quan sát lão trong lúc lão thuyết giảng. Lão trông nhợt nhạt hơn thường lệ, đẫm mồ hôi nhưng vẫn không quá tệ. Tôi tự hỏi không biết có phải để lão sống là sai lầm hay không, nhưng khi không bị chi phối bởi luồng sóng cuồng nộ và năng lượng thì tôi không muốn giết người.
Một tiếng suỵt vang lên. Tôi nhìn xuống những khuôn mặt háo hức của giáo dân bên dưới. Có gì đó mới mẻ trong niềm hân hoan của họ, có lẽ vì họ đã thoáng thấy qua sức mạnh thật sự của tôi. Hoặc có lẽ vì lão Tư Tế đã hoàn thành nhiệm vụ quá tốt. Họ đang chờ tôi phát biểu. Tôi đã từng có những giấc mơ như thế. Tôi là một diễn viên trong vở kịch, nhưng tôi chưa bao giờ học thuộc lời thoại của mình.
“Tôi sẽ…” Giọng tôi khản đặc, tôi đằng hắng rồi thử lại lần nữa. “Tôi sẽ quay trở lại và quyền năng hơn trước,” tôi nói bằng chất giọng giống thánh-thần nhất có thể. “Mọi người là đôi mắt của tôi.” Tôi cần họ như thế, để theo dõi lão Tư Tế, để trông chừng lẫn nhau. “Mọi người là nắm đấm. Là thanh kiếm của tôi.”
Đám đông reo hò. Đồng loạt, tiếng của họ vọng về chỗ tôi, Sankta Alina! Sankta Alina! Sankta Alina!
“Không tệ,” Mal nói trong lúc tôi rời khỏi ban công.
“Mình đã nghe lão Tư Tế lải nhải suốt ba tháng trời. Cũng phải học hỏi chút được chút ít chứ.”
Theo lệnh của tôi, lão Tư Tế thông báo mình sẽ cô lập bản thân trong ba ngày, nhịn ăn và cầu nguyện cho sứ mệnh thành công. Những cận vệ của lão cũng sẽ làm tương tự, nhốt mình trong phòng lưu trữ và được canh giữ bởi nhóm Soldat Sol.
“Hãy giữ đức tin của họ được vững mạnh,” tôi dặn dò Ruby và những binh sĩ khác. Tôi mong ba ngày sẽ đủ để chúng tôi thoát khỏi Giáo Hội Trắng, nhưng tôi thừa biết lão Tư Tế, có khi lão sẽ thuyết phục họ thả mình ra trước bữa tối.
“Tôi biết cô,” Ruby nói, cô siết chặt tay tôi lúc tôi quay lưng đi. “Tôi từng ở cùng trung đoàn với cô. Cô có nhớ không?”
Mắt cô ấy rơm rớm, và hình xăm trên má sẫm đen tới mức trông như nó đang nổi lềnh phềnh trên da.
“Dĩ nhiên là có,” tôi dịu dàng đáp. Chúng tôi không phải bạn bè. Hồi đó Ruby có hứng thú với Mal hơn là tôn giáo. Tôi gần như vô hình đối với cô. Giờ cô ấy lại thốt nên tiếng nấc nghẹn và đặt một nụ hôn lên khớp tay của tôi. “Sankta,” cô nồng nhiệt thì thầm. Những khi tôi nghĩ cuộc đời mình sẽ chẳng thể nào kì lạ hơn thì nó lại diễn ra ngược lại. Khi tôi tách khỏi Ruby, tôi dành ra giây phút cuối cùng để nói riêng với lão Tư Tế.
“Ông biết tôi đang theo đuổi cái gì, linh mục, và ông biết sức mạnh tôi sẽ sở hữu khi trở về. Không có gì xảy đến với nhóm Soldat Sol và Maxim hết.” Tôi không muốn để người Thiện Tâm Y ở lại một mình, nhưng tôi cũng không bắt anh ta phải nhập bọn khi không biết rõ về hiểm nguy mà mình phải đối mặt lúc ở trên mặt đất.
“Chúng ta không phải kẻ thù, Sankta Alina,” lão Tư Tế dịu giọng. “Cô phải biết rằng tất cả những gì ta muốn chỉ là được thấy cô ngồi trên ngai vàng của Ravka.”
Tôi suýt đã mỉm cười trước câu ấy. “Ta biết, linh mục. Trên ngai vàng và dưới quyền kiểm soát của ông.”
Lão nghiêng đầu sang một bên, chuyên chú nhìn tôi. Tia sáng cuồng tín đã biến mất nơi mắt lão. Lão bây giờ trông chỉ có vẻ khôn ngoan. “Cô không giống những gì ta đã tưởng,” lão thú nhận.
“Không phải vị Thánh mà ông đã mua được?”
“Một vị Thánh thấp kém hơn,” lão nói. “Nhưng có lẽ là một nữ hoàng tuyệt vời hơn. Ta sẽ cầu nguyện cho cô, Alina Starkov.”
Điều kì lạ là, tôi đã tin lão.
Mal và tôi gặp những người khác tại Giếng Chetya, một suối nước tự nhiên ở giao lộ của bốn đường hầm lớn. Nhỡ lão Tư Tế có cho người đuổi theo thì chúng tôi thì từ đấy sẽ khó dò đường hơn. Ít nhất đấy là ý tưởng dự kiến, nhưng chúng tôi đã không tính đến chuyện vô số người hành hương đến đưa tiễn cả đoàn. Họ đi theo những Grisha từ lúc rời khỏi phòng và đến tụ họp quanh Giếng.
Chúng tôi đều mặc đồ lữ hành bình thường, áo kefta xếp gọn ghẽ trong ba lô. Tôi đã đổi áo choàng vàng lấy một cái áo khoác dày, một chiếc mũ lông, và sức nặng an ủi của khẩu súng giắt ngang hông. Nếu không phải vì mái tóc bạc trắng của mình, tôi không nghĩ sẽ có người hành hương nào nhận ra tôi.
Giờ họ vươn tay để chạm vào tay áo hoặc bàn tay tôi. Một số người nài ép chúng tôi nhận mấy món quà nho nhỏ, những quà biếu duy nhất họ có: những ổ bánh mì tích trữ lâu năm cứng đến gãy răng, những hòn đá được đánh bóng, một nhúm muối huệ tây. Họ lầm rầm cầu nguyện cho sức khỏe của chúng tôi với những giọt lệ đong đầy trong mắt.
Tôi nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của Genya khi một người phụ nữ choàng lên vai cô ấy một chiếc khăn màu xanh đậm. “Không phải màu đen,” bà nói. “Tặng cô, đừng là màu đen nữa nhé.”
Cơn đau quặn lên trong cuống họng. Lão Tư Tế không phải kẻ duy nhất đã cách ly tôi với những người này. Chính tôi cũng đã xa lánh họ. Tôi đã nghi ngờ đức tin của họ, nhưng chủ yếu là tôi e sợ hy vọng từ họ. Yêu thương và quan tâm trong từng cử chỉ nhỏ nhặt thế này là gánh nặng mà tôi vô phương đón nhận.
Tôi hôn má, bắt tay, hứa hẹn những lời mình không chắc có thể giữ, và rồi chúng tôi lên đường. Tôi đã được khiêng vào Giáo Hội Trắng trên một chiếc cáng. Ít ra tôi sẽ đi khỏi đây bằng chính đôi chân mình.
Mal dẫn đầu. Tolya và Tamar đi cuối hàng, dò thám sau lưng chúng tôi để bảo đảm rằng không có ai bám đuổi.
Nhờ những lần David lui tới phòng lưu trữ và giác quan dò đường bẩm sinh của Mal mà họ đã phác họa được một tấm bản đồ hệ thống đường ngầm. Họ bắt đầu vẽ đường đi đến Ryvost, nhưng vẫn còn vài khoảng trống thông tin. Dù chúng có chính xác tới đâu, chúng tôi vẫn không biết rõ mình đang dấn thân vào thứ gì.
Sau lần trốn thoát của tôi ở Os Alta, người của Hắc Y đã cố thâm nhập hệ thống đường ngầm bên dưới những nhà thờ và thánh địa ở Ravka. Khi việc tìm kiếm không có tác dụng, họ bắt đầu đánh bom: chặn hết mọi lối thoát, cố ép những người đang tìm nơi trú ẩn phải trở lên mặt đất. Những Giả Kim Thuật Gia của Hắc Y đã tạo ra chất nổ mới nhằm đánh đổ mấy tòa nhà và thổi khí gas gây cháy xuống dưới lòng đất. Tất cả chỉ cần một mồi lửa của Tiết Hỏa Sư, và cả một bộ phận của hệ thống đường ngầm cổ xưa sụp đổ. Đấy là một trong những lý do Lão Tư Tế khăng khăng bắt tôi ở lại Giáo Hội Trắng.
Ở phía Tây có tin đồn về đất lún, nên Mal dẫn chúng tôi hướng lên phía Bắc. Nó không hẳn là lối đi trực tiếp, nhưng chúng tôi mong nó sẽ an toàn. Thật nhẹ nhõm khi được di chuyển xuyên qua hang động, được làm gì đó sau hàng tuần liền bị giam hãm. Cơ thể của tôi vẫn còn yếu, nhưng tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn bao giờ, và tôi cất bước không chút phàn nàn. Tôi cố không nghĩ quá nhiều về khả năng trạm buôn lậu ở Ryevost đã không còn hoạt động. Làm sao chúng tôi tìm được một gã hoàng tử không muốn bị phát hiện, và thực hiện điều đó khi chính mình vẫn phải ẩn thân? Nếu Nikolai còn sống, chắc hẳn gã đang tìm tôi, hoặc gã sẽ tìm đến đồng minh khác. Đối với gã, tôi có lẽ đã chết trong trận chiến ở Tiểu Điện. Đường hầm ngày càng tối dần trong lúc chúng tôi di chuyển xa hơn khỏi Giáo Hội Trắng và lớp thạch cao sáng rực kì ảo của nó. Chẳng mấy chốc chỉ còn những đốm lửa lung lay từ đèn lồng làm nguồn sáng dẫn đường duy nhất cho chúng tôi. Ở một vài chỗ, hang động hẹp đến nỗi chúng tôi phải tháo dỡ hành lý và luồn lách qua những bức tường ép sát. Rồi, bất thình lình, chúng tôi nhận ra mình đang ở trong một hang động đủ lớn để chăn ngựa.
Mal đã đúng: đi cùng nhiều người rất ồn ào và khó kiểm soát. Tiến độ của chúng tôi chậm đến nản lòng, cả đám xếp thành một hàng dài với Zoya, Nadia và Adrik rải đều khắp hàng; phòng khi đất lún, luồng không khí mà những Tiết Khí Sư của chúng tôi có thể triệu hồi sẽ cung cấp thêm khoảng thời gian quý giá để hô hấp cho những người bị kẹt.
David và Genya cứ bị tụt lại ở đằng sau, nhưng dường như anh ta mới là nguyên nhân của việc chậm trễ. Cuối cùng, Tolya nhấc bổng túi hành lý nặng trịch khỏi đôi vai gầy khẳng của David.
Anh ta rên rỉ. “Anh nhét gì trong đây vậy?”
“Ba đôi vớ, một cái quần, một cái áo để thay. Một cái bi đông. Một chiếc ly và đĩa bằng thiếc. Vòng thước loga hình trụ, một cái cân lượng tịnh, một hũ nhựa cây vân sam, bộ sưu tập chất chống ăn mòn của tôi…”
“Đáng ra anh chỉ nên mang theo những gì cần thiết thôi.” David gật đầu dứt khoát. “Chính xác.”
“Làm ơn đừng nói với tôi anh đem theo toàn bộ ghi chép của Morozova đấy nhé,” tôi nói.
“Dĩ nhiên là có rồi.”
Tôi đảo mắt. Ít nhất phải có đến mười lăm cuốn sách bọc da. “Có lẽ dùng chúng để nhóm lửa rất tốt.”
“Cô ta đang đùa à?” David hỏi, tỏ vẻ lo lắng. “Tôi không bao giờ biết liệu cô ta có đang đùa hay không.”
Tôi đùa đấy. Phần lớn là thế. Tôi mong những ghi chú sẽ cho tôi manh mối về Hỏa Điểu hoặc thậm chí là những bộ khuếch đại sẽ giúp tôi phá hủy Vực Tối như thế nào. Nhưng chúng đã là ngõ cụt, và nói thật, chúng cũng làm tôi sợ hãi chút đỉnh. Baghra đã cảnh báo tôi về sự điên loại của Morozova, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn mong được tìm ra tri thức trong công trình của ông. Thay vào đó, ghi chú của ông ta đã khiến tôi ám ảnh, tất cả đều được ghi lại bằng lối chữ viết tay nguệch ngoạc khó đọc. Có vẻ như thiên tài thì không cần viết chữ đẹp.
Những ghi chú đầu tiên kể lại thí nghiệm của ông: Công thức chế tạo lửa ở dạng lỏng bị bôi đen, cách thức phòng tránh sự phân hủy, những thí nghiệm dẫn đến sự ra đời của thép Grisha, cách phục hồi oxy trong máu, những năm tháng vô tận ông đã dành để tìm cách chế tạo thủy tinh không vỡ. Tài nghệ của ông vượt xa những Sáng Chế Gia thông thường, và ông ta biết rõ điều đó. Một trong những nguyên tắc chủ yếu trong học thuyết Grisha chính là “Tương đồng kêu gọi tương đồng,” nhưng Morozova dường như tin rằng nếu ta có thể đập vỡ thế giới thành những mảnh nhỏ bằng nhau, thì Grisha nào cũng sẽ điểu khiển được tất cả. Không phải chúng ta là vạn vật sao? Ông ta gặng hỏi, gạch chân những từ đó để nhấn mạnh. Ông ta ngạo mạn, táo bạo - nhưng vẫn tỉnh trí.
Rồi ông ta bắt tay vào làm những bộ khuếch đại, và đến tôi cũng có thể thấy được sự thay đổi. chữ nghĩa dày đặc hơn, lộn xộn hơn. Bên lề đầy những biểu đồ và mũi tên chồng chéo chỉ lên những đoạn văn trước đó. Tệ hơn là những miêu tả về thí nghiệm trên động vật của ông ta, những hình vẽ giải phẫu. Chúng khiến tôi buồn nôn và nghĩ rằng Morozova xứng đáng với bất kì công cuộc tử vì đạo nào trước đó. Ông ta tàn sát động vật rồi hồi sinh chúng, đôi khi lặp lại nhiều lần, lún sâu hơn vào merzost, sự kiến tạo, sức mạnh của sự sống trên cái chết, cố tìm cách làm ra những bộ khuếch đại có thể được dùng chung. Đấy là năng lượng cấm, nhưng tôi hiểu cám dỗ của nó, và tôi rùng mình khi nghĩ đến việc theo đuổi nó có thể là nguyên nhân khiến ông ta phát điên.
Nếu ông ta được dẫn dắt bởi mục đích cao quý nào khác thì tôi cũng không thấy ghi ra trên giấy. Nhưng tôi đọc được thứ gì đó sâu xa hơn trong những dòng chữ cuồng loạn của ông, trong khẳng định rằng sức mạnh ở mọi nơi để chiếm lấy. Ông ta tồn tại từ trước khi Hạ Quân được thành lập. Ông ta là Grisha quyền năng nhất mà thế giới từng biết đến - và sức mạnh ấy đã cô lập ông. Tôi nhớ đến những lời Hắc Y nói với mình: Không có người nào giống như chúng ta đâu, Alina. Và sẽ không bao giờ có. Có lẽ Morozova muốn tin rằng nếu không có người nào giống như ông thì sau này sẽ có, rằng ông có thể tạo ra một Grisha nhiều quyền năng hơn. Hoặc tôi chỉ đang tưởng tượng, chỉ đang nhìn thấy cô đơn và ham muốn của chính mình trên những trang sách của Morozova. Đống hỗn độn của những gì tôi biết và những gì tôi muốn, khát khao của tôi với Hỏa Điểu. Nhận thức của bản thân về khác biệt đã trở nên khó khăn để tháo gỡ.
Tôi bị kéo khỏi dòng suy nghĩ bởi tiếng nước chảy xiết. Cả đoàn đang đến gần một con sông dưới lòng đất. Mal đi chậm lại và bắt tôi đi ngay phía sau cậu ấy, thắp sáng con đường phía trước. Âu cũng là điều tốt, vì chỗ lún đến nhanh chóng, dốc cao và bất chợt khiến tôi đâm sầm vào lưng Mal, suýt xô cậu mất đà và rơi xuống mặt nước bên dưới. Ở đây, tiếng sóng đập vỗ vào vách đến điếc cả tai, dòng sông chảy ào ạt với chiều sâu vô định, những cụm sương mờ bốc lên từ dốc đứng.
Chúng tôi buộc dây thừng quanh hông Tolya, và anh ta lội ngang sông, sau đó cột chặt dây ở bờ bên kia để tất cả có thể bám theo dây và theo sau từng người một. Nước lạnh cóng và dâng cao tới ngực tôi, dòng chảy mạnh đến nỗi suýt cuốn tôi trượt chân dù bám chặt dây thừng. Harshaw là người
cuối cùng băng qua. Tôi thoáng đứng tim khi hắn sẩy chân và sợi dây gần như đứt lìa. Rồi hắn trồi lên, hớp từng ngụm khí, Oncat ướt như chuột lột và phun nước bọt phì phèo. Lúc Harshaw đến chỗ chúng tôi, mặt và cổ hắn đã đầy những vết cào.
Sau đó, chúng tôi đều nôn nóng muốn nghỉ chân, nhưng Mal buộc cả đoàn phải tiếp tục.
“Tôi ướt nhẹp rồi,” Zoya càu nhàu. “Sao chúng ta không thể dừng lại ở hang động ẩm ướt này thay vì cái tiếp theo?”
Mal không dừng bước, nhưng cậu chĩa ngón cái về phía dòng sông. “Bởi vì nó,” cậu hét lên trong tiếng nước chảy ồ ạt. “Nếu chúng ta bị theo đuôi, sẽ rất dễ để họ đuổi kịp chúng ta với tiếng ồn đó làm lá chắn.”
Zoya cau mặt, nhưng chúng tôi lại đi tiếp, cho tới khi cuối cùng cũng lánh xa dòng sông ầm ĩ. Chúng tôi qua đêm trong một trũng đá vôi ẩm ướt, không có gì khác để nghe ngoài tiếng răng va vào nhau cầm cập khi tất cả run lẩy bẩy trong bộ quần áo ướt đẫm.
Chúng tôi cứ đi như thế suốt hai ngày, xuyên qua những đường hầm, thi thoảng phải đi ngược lại vì lộ trình có vẻ bất khả thi. Tôi đã mất hết phương hướng về nơi mình đang tới, nhưng khi Mal thông báo rằng chúng tôi đang rẽ về hướng Tây, tôi nhận ra những lối đi bắt đầu hướng lên trên, dẫn cả đoàn tiến lên trên mặt đất.
Mal bước theo tốc độ khó bắt kịp. Để giữ liên lạc, cậu và cặp sinh đôi sẽ huýt sáo từ hai đầu hàng ngũ, đảm bảo rằng không ai bị tụt về phía sau quá xa. Thi thoảng, cậu sẽ đi lùi lại để kiểm tra dân số.
“Mình biết bồ đang làm gì nhé,” tôi nói khi cậu ấy quay trở lại đầu hàng.
Sao hả?
“Bồ lùi lại mỗi khi có ai đó đi chậm, bắt chuyện với họ. Bồ hỏi David về thuộc tính của phốt-pho hoặc hỏi Nadia về đốm tàn nhang của cô ấy…” “Mình chưa bao giờ hỏi Nadia về đốm tàn nhang của cô ấy nha.” “Hoặc thứ gì khác. Rồi dần dần bồ bắt đầu đi nhanh hơn để họ đuổi theo.”
“Cách đó dường như hữu dụng hơn dùng cây thúc họ,” cậu ấy trả lời. “Ít vui hơn.”
“Thúc họ thì mỏi tay lắm.”
Rồi cậu ấy rời đi, bắt đầu tiến về phía trước. Đấy là đoạn đối thoại dài nhất chúng tôi có được từ khi rời khỏi Giáo Hội Trắng.
Dù Mal đã dặn chúng tôi phải giữ nguyên đội hình, Genya vẫn thường trốn lên hàng trên để than phiền với tôi.
“Bài thơ nào cũng viết về một người hùng can đảm tên Kregi,” cô ấy nói. “Bài nào cũng vậy. Anh ta luôn cưỡi một con chiến mã, và chúng tôi phải nghe về con chiến mã và ba loại kiếm khác nhau anh ta mang bên mình và màu của những chiếc khăn anh ta cột trên tay và những con quái vật đáng thương bị anh ta tàn sát và rồi anh ta lịch thiệp và chân thành thế nào. Với tư cách một lính đánh thuê, Tolya ủy mị đến phát sợ.”
Tôi bật cười và liếc về phía sau, dù tôi chẳng thấy gì nhiều. “David thích không?”
“David khờ hết mức. Anh ấy luôn miệng lảm nhảm về hợp chất khoáng vật suốt một tiếng đồng hồ.”
“Có lẽ anh ta và Tolya sẽ ru ngủ lẫn nhau,” Zoya lầm bầm. Cô ấy không việc gì phải cằn nhằn. Dù tất cả đều là Tiết Độ Sư, nhưng điểm chung duy nhất của Tiết Khí Sư và Tiết Hỏa Sư là tính thích tranh cãi. Stigg không muốn Harshaw đến gần vì anh ta không chịu được lũ mèo. Harshaw liên tục thấy xúc phạm thay cho Oncat. Adrik đáng ra phải đi giữa nhóm, nhưng cậu nhóc muốn ở gần Zoya. Zoya thường rời khỏi vị trí đầu hàng để lánh xa Adrik. Tôi bắt đầu ước mình đã cắt dây và để họ chìm hết xuống sông.
Và Harshaw không chỉ làm tôi bực mình; hắn ta khiến tôi lo sốt vó. Hắn ta thích quẹt những viên đá lửa của mình dọc tường hang động, tóe lên mấy đốm lửa nhỏ tí, và hắn liên tục lôi những miếng phô mai cứng từ trong túi ra cho Oncat ăn, rồi cười khúc khích như thể con mèo tam thể vừa nói gì buồn cười. Một sáng nọ, chúng tôi tỉnh dậy và phát hiện hắn đã cạo trọc hai bên đầu của mình để mái tóc đỏ quạch chỉ còn một đường sọc duy nhất kéo xuống đỉnh đầu.
“Anh đã làm vì vậy?” Zoya thét lên. “Nhìn anh như con gà trống bị dại ấy!”
Harshaw chỉ nhún vai. “Oncat thích thế.”
Dẫu vất vả, những kỳ quan trong đường ngầm đôi khi vẫn làm cả đoàn Tiết Độ Sư ngạc nhiên im bặt. Chúng tôi đã dành hàng giờ đồng hồ chỉ để ngắm những tảng đá màu xám và mấy quả chanh lấm bùn, rồi thoát ra một hang động xanh lơ tròn vạnh và trơn mượt giống như đang đứng trong một quả trứng tráng men khổng lồ. Chúng tôi đi ngang một loạt những hang động nhỏ lấp lánh với những thứ có khi từng là đá ruby. Genya gọi nó là Hộp Đá Quý, và sau đó, chúng tôi thay phiên nhau đặt tên chúng để giết thời gian. Có Vườn Ăn Quả - một hang động đầy những chuông và măng đá đã quyện vào nhau thành cột dài mảnh dẻ. Và trong vòng nửa ngày sau đó, chúng tôi chạm trán Sảnh Khiêu Vũ, một hang dài chứa thạch anh hồng và sàn đá trơn đến mức chúng tôi phải bò qua, thi thoảng phải nằm sấp xuống mà trượt. Rồi có cả khung lưới sắt kỳ quái bị chìm một phần trong nước được chúng tôi gọi là Cổng Thiên Thần. Hai bên lưới là hai bức tượng đá có cánh, họ cúi đầu, tay đặt lên thanh đao bằng cẩm thạch. Nhờ cuộn dây, chúng tôi suôn sẻ băng qua nó, nhưng tại sao nó được đặt ở đó? Và bởi ai?
Vào ngày thứ tư, chúng tôi bắt gặp một hang động với mặt hồ tĩnh lặng tựa ảnh ảo phản chiếu bầu trời đêm, lòng nước sâu thẳm lấp lánh cùng bầy cá phát quang tí hon.
Mal và tôi đi trước những người khác một chút. Cậu ấy nhúng tay vào nước, rồi ré lên và rụt lại. “Tụi nó cắn đấy.”
“Đáng đời bồ,” tôi nói. “Ồ, trông kìa, một cái hồ tối tăm đầy những thứ lấp lánh. Để mình thò tay xuống xem.”
“Ai bảo mình ngon lành quá làm gì,” cậu ấy đùa, nụ cười ngạo nghễ thân thuộc thoáng hiện trên mặt cậu như ánh sáng tỏa rạng trên làn nước. Rồi dường như cậu ấy chợt nhận ra. Cậu bèn vác hành lý lên vai, và tôi biết cậu ấy sắp sửa tránh mặt tôi.
Tôi không chắc những từ ấy đến từ đâu. “Bồ đã không làm mình thất vọng, Mal à.”
Cậu ấy chùi bàn tay ẩm ướt lên đùi. “Chúng ta đều biết rõ sự thật mà.” “Chúng ta sẽ cùng đi với nhau một khoảng thời gian mà có trời mới biết nó lâu đến thế nào. Thể nào bồ cũng phải nói chuyện với mình thôi.” “Mình đang nói chuyện với bồ đây.”
“Thấy chưa? Nó tệ đến vậy sao?”
ẳ
“Không hẳn,” cậu trả lời, chăm chú nhìn vào tôi, “nếu tất cả những gì mình muốn làm chỉ là nói chuyện.”
Hai má tôi nóng bừng. Mày không muốn vậy, tôi tự nhủ. Nhưng tôi nhận ra gai góc trong người bắt đầu vặn xoắn như mẩu giấy bị hơ quá gần lửa. “Mal…”
“Mình phải giữ cho bồ an toàn, Alina, để tập trung vào đại cuộc. Mình không thể làm thế nếu…” Cậu ấy thở một hơi rất dài. “Bồ xứng đáng được nhiều thứ hơn mình, và mình sẽ chiến đấu tới chết để bồ có được chúng. Nhưng làm ơn đừng bắt mình phải giả vờ rằng chuyện đó thật dễ dàng.”
Cậu ấy lao đến hang động tiếp theo ở phía trước.
Tôi nhìn xuống mặt hồ rực rỡ, những vòng ánh sáng vẫn đang dao động sau cú chạm thảng hoặc của Mal. Tôi có thể nghe thấy những người khác ồn ào băng qua hang.
“Oncat cào tôi suốt,” Harshaw nói trong lúc thong dong đi đến cạnh tôi. “Ồ?” Tôi lãnh đạm hỏi.
“Điều nực cười là, nó thích ở cạnh tôi.”
“Anh đang cố tỏ ra sâu sắc đấy à, Harshaw?”
“Thật ra tôi đang tự hỏi, nếu ăn hết mấy con cá kia thì tôi có bắt đầu phát sáng không?”
Tôi lắc đầu. Dĩ nhiên một trong những Tiết Hỏa Sư còn sống sót phải là một gã điên. Tôi theo chân cả đoàn và hướng về đường ngầm tiếp theo. “Đi nào, Harshaw,” tôi quay lại gọi.
Rồi vụ nổ đầu tiên diễn ra.
── 5 ──
C
ả hang động rung chuyển. Một làn mưa đá cuội đổ lách cách xuống đầu chúng tôi.
Mal đến bên tôi ngay lập tức. Cậu ấy kéo tôi khỏi đống đá đang rơi trong lúc Zoya đứng chắn bên còn lại.
“Tắt đèn!” Mal hét lên. “Dỡ hành lý xuống.”
Chúng tôi đè chặt ba lô của mình lên tường như một điểm tựa, rồi thổi tắt đèn phòng trường hợp tàn lửa sẽ gây thêm một vụ nổ khác. Bùm. Ở phía trên? Ở phía Bắc? Thật khó mà nhận ra.
Mấy giây nữa trôi qua. Bùm. Lần này tiếng nổ ở gần hơn, to hơn. Đất đá đổ ào xuống mái đầu cúi gằm của chúng tôi.
“Anh ta tìm thấy chúng ta rồi,” Sergei rên rỉ, giọng nói rã rời vì sợ hãi. “Không thể nào,” Zoya cự lại. “Đến Lão Tư Tế còn không biết chúng ta đi đâu.”
Mal hơi cựa mình. Tôi nghe tiếng đá rơi lộp bộp. “Một vụ tấn công ngẫu nhiên,” cậu ấy bảo.
Giọng của Genya run rẩy khi cô thì thầm, “Con mèo ấy đem lại vận xui.”
Bùm. Ồn đến mức cằm tôi va vào nhau lách cách.
“Metan yez” David lên tiếng. Khí Metan.
Tôi ngửi thấy nó chỉ một giây sau, mùi than bùn hôi thối. Nếu có một Tiết Hỏa Sư ở phía trên, tia lửa sẽ bắt khí và nổ chúng tôi tan xác. Ai đó bắt đầu khóc.
“Tiết Khí Sư,” Mal ra lệnh, “thổi nó về phía Tây.”
Sao cậu ấy có thể bình tĩnh nhường vậy?
Tôi thấy Zoya cử động, rồi một luồng khí lướt qua trong lúc cô ta và những người khác đẩy khí gas đi xa chúng tôi.
Bùm. Thật khó thở. Không gian dường như quá hẹp.
“Ôi, lạy Thánh Thần,” Sergei run rẩy.
“Tôi thấy có lửa!” Tolya hét lên.
“Thổi nó về phía Tây,” Mal lặp lại, giọng nói bình thản. Tiếng vút từ làn gió của Tiết Khí Sư theo sau. Thân thể Mal áp sát vào người tôi. Tôi vươn tay ra, tìm bàn tay cậu ấy. Ngón tay của chúng tôi đan vào nhau. Tôi nghe tiếng nấc khẽ từ phía còn lại, và tôi đưa tay nắm lấy bàn tay buông lỏng của Zoya, siết chặt nó trong tay mình.
BÙM. Lần này cả đường hầm rống lên với tiếng đá đổ. Tôi nghe mọi người thét gào trong bóng tối. Bụi mù phủ lấp cả buồng phổi. Khi tiếng ồn dứt hẳn, Mal cất tiếng, “Không thắp đèn, Alina, chúng ta cần ánh sáng.” Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi tìm thấy một tia sáng nhỏ và để nó lan tỏa khắp đường hầm. Người ai cũng đầy bụi, đôi mắt mở to đầy sợ hãi. Tôi mau chóng điểm danh: Mal, Genya, David, Zoya, Nadia, và Harshaw - Oncat được bọc trong áo hắn.
“Tolya?” Mal hét.
Không nghe gì. Và rồi, “Chúng tôi ổn.”
Tiếng của Tolya đến từ phía sau bức tường đá đổ xuống lấp hết đường hầm, nhưng nó rõ ràng và mạnh mẽ. Tôi gục đầu trên gối vì nhẹ nhõm. “Em trai tôi đâu?” Nadia gào lên.
“Cậu ấy ở đây với tôi và Tamar,” Tolya đáp.
“Sergei và Stigg?” Tôi hỏi.
“Không biết.”
Thánh thần ơi.
Chúng tôi chờ thêm một tiếng bùm nữa, để phần còn lại của đường hầm đổ sụp xuống tất cả. Khi không có gì xảy ra, cả đám bắt đầu trườn đến chỗ giọng nói của Tolya trong lúc cô ấy và Tamar đào bới từ phía bên kia. Trong chốc lát, chúng tôi thấy đôi tay, rồi khuôn mặt lấm lem của họ đối mặt với chúng tôi. Họ chui qua phía chúng tôi. Ngay sau khi Adrik bỏ tay
xuống, trần nhà phía trên chỗ cậu nhóc và cặp sinh đôi đứng lúc nãy đổ xuống thành một cồn đá bụi bặm. Người cậu run lên kịch liệt. “Cậu đã chống đỡ căn hầm sao?” Zoya hỏi.
Tolya gật đầu. “Cậu ta tạo nên bong bóng khí ngay khi nghe thấy tiếng nổ cuối cùng.”
“Hử,” Zoya nói với Adrik. “Tôi ngạc nhiên đấy.”
Nhìn thấy vẻ phấn khởi vỡ òa ra trên khuôn mặt của cậu nhóc, cô ta liền rên rỉ. “Thôi bỏ đi. Tôi sẽ hạ cấp chuyện đó thành miễn cưỡng chấp nhận được.”
“Sergei?” Tôi gọi. “Stigg?”
Im lặng, chỉ có tiếng sỏi lăn.
“Để tôi thử cái này,” Zoya nó. Cô ta giơ tay lên. Tôi nghe một tiếng rắc bên tai, và không khí dường như hóa ẩm. “Sergei?” Cô ta nói. Giọng cô nghe xa xăm kì lạ.
Rồi tôi nghe tiếng Sergei, yếu ớt và run rẩy, nhưng rõ ràng, như thể anh ta đang nói ngay bên tôi. “Ở đây,” anh ta thở dốc.
Zoya nắm tay lại, điều chỉnh một chút, rồi gọi Sergei lần nữa. Lần này, khi anh ta đáp lại, David nói, “Nghe như nó đến từ phía dưới chúng ta.”
“Có thể không.” Zoya trả lời. “Sóng âm dễ nhầm lắm.”
Mal đi về phía xa hơn của đường hầm. “Không, anh ta nói đúng. Khoảng đất mà họ đứng có lẽ đã sụp xuống.”
Chúng tôi mất gần hai giờ để tìm ra và đào họ lên - Tolya xới đất, Mal chỉ đường, những Tiết Khí Sư dùng gió để giữ vách cân bằng trong lúc tôi duy trì một luồng sáng mờ nhạt, mấy người khác đứng thành hàng để di dời đất đá.
Khi chúng tôi tìm thấy Stigg và Sergei, họ bị bùn lấp kín và sắp rơi vào trạng thái hôn mê sâu.
“Hạ thấp mạch đập của chúng tôi xuống,” Sergei chếnh choáng lẩm bẩm. “Làm giảm hô hấp. Dùng ít khí hơn.”
Tolya và Tamar đem họ trở về, tăng nhịp tim và bơm đầy oxy vào phổi của cả hai.
“Không ngờ mọi người lại tới,” Stigg lè nhè nói trong trạng thái mơ hồ. “Tại sao?” Genya thổn thức, nhẹ nhàng lau sạch bụi xung quanh mắt anh ta.
“Cậu ấy không chắc mọi người sẽ quan tâm,” Harshaw nói từ phía sau tôi.
Có mấy tiếng lẩm bẩm phản đối, vài vài ánh nhìn tội lỗi. Đúng là tôi đã coi Stigg lẫn Harshaw như người ngoài. Và Sergei… chậc… Sergei đã lạc lối bấy lâu nay. Không ai trong chúng tôi thật sự lưu tâm đến họ.
Khi Sergei và Stigg có thể đi lại được, chúng tôi trở về đoạn hầm còn chắc chắn. Lần lượt, những Tiết Khí Sư phóng thích năng lượng của họ, và chúng tôi chờ xem trần nhà đủ vững không để họ nghỉ ngơi. Chúng tôi phủi
bụi và than đen trên mặt và quần áo của nhau sạch hết mức có thể, rồi chuyển một bình kvas vòng quanh. Stigg ôm lấy nó như đứa trẻ cần sữa mẹ.
“Mọi người không sao chứ?” Mal hỏi.
“Chưa bao giờ khỏe hơn,” Genya run rẩy đáp.
David giơ tay. “Tôi đã từng khỏe hơn.”
Cả bọn cười phá lên.
“Sao chứ?” Anh ta nói.
“Sao cô làm thế được?” Nadia hỏi Zoya. “Cái trò tìm âm thanh ấy?” “Chỉ là một cách tạo âm vang bất thường thôi. Chúng tôi thường sử dụng nó hồi còn ở trường để có thể nghe lén những người ở phòng khác.” Genya khịt mũi. “Dĩ nhiên rồi.”
“Chị có thể chỉ mọi người cách làm không?” Adrik hỏi.
“Nếu tôi cần giải trí.”
“Tiết Khí Sư,” Mal nói. “mọi người sẵn sàng di chuyển tiếp chưa?” Tất cả đều gật đầu. Khuôn mặt họ lóe lên tia sáng chỉ xuất hiện sau khi sử dụng sức mạnh Grisha, nhưng tôi chắc mẩm họ đã gần đến cực hạn rồi. Họ đã giữ hàng tấn đá khỏi rơi xuống đầu cả đội, và họ cần thêm vài phút nghỉ ngơi để hồi phục.
“Vậy mau thoát khỏi chỗ quái này thôi,” Mal bảo.
Tôi thắp sáng đường, vẫn lo lắng trước những bất ngờ khác đương chờ chúng tôi. Cả đám di chuyển một cách thận trọng, Tiết Khí Sư sẵn sàng cảnh giác, chúng tôi vòng vèo quanh đường hầm và lối đi cho đến khi tôi không còn biết được phương hướng. Chúng tôi đã đi rất xa tuyến đường mà Mal và David đã vẽ.
Mọi âm thanh dường như được phóng đại. Từng tiếng đá rơi khiến chúng tôi dừng chân, đông cứng, chờ tình huống xấu nhất. Tôi cố không nghĩ đến sức nặng của lớp đất phía trên đầu. Nếu chúng đổ xuống và năng lượng của Tiết Khí Sư thất bại, chúng tôi sẽ bị nghiền nát và không được một ai biết đến, như bông hoa dại ép giữa những trang sách và bị lãng quên.
Dần dà, tôi nhận ra chân tôi bắt đầu nặng nhọc hơn và phát hiện mặt đất bắt đầu lên dốc. Tôi nghe tiếng thở phào, một vài tiếng reo khẽ, và chưa đầy một giờ sau, chúng tôi đã chen chúc trong một căn hầm, nhìn lên một cánh cửa sập trên trần.
Sàn nhà ở đây ướt đẫm, đầy những vũng nước lỗ chỗ - dấu hiệu cho thấy rằng chúng tôi đã ở rất gần những thành phố ven sông. Nhờ ánh sáng phát ra từ lòng bàn tay, tôi có thể thấy tường đá bị nứt, nhưng lại không biết đấy là thiệt hại có từ lâu hay là hậu quả của mấy vụ nổ vừa rồi. “Sao bồ làm thế được?” Tôi hỏi Mal.
Cậu ấy nhún vai. “Như thường lệ. Có một con thú lớn trên mặt đất. Mình chỉ xem đây như cuộc đi săn.”
Tolya lôi chiếc đồng hồ cũ của David khỏi túi áo khoác. Tôi không biết anh ta lấy nó từ lúc nào. “Nếu thứ này vẫn hoạt động thì giờ đã quá lúc hoàng hôn rồi.”
“Anh phải lên dây cho nó mỗi ngày,” David nói.
“Biết rồi.”
“Thế anh có làm không?”
“Có.”
“Vậy thì nó đúng giờ đấy.”
Tôi tự hỏi mình có nên nhắc David nhớ rằng nắm đấm của Tolya cũng có cùng kích thước với đầu của anh ta hay không.
Zoya sụt sịt. “Với vận may của chúng ta, có lẽ ai đó đang chuẩn bị cho buổi lễ nửa đêm.”
Phần lớn những lối vào và ra của đường hầm đều thuộc phạm vi đất thánh - nhưng không phải tất cả. Chúng tôi có thể thoát ra ở phòng niệm kinh trong nhà thờ hoặc sân trong của thư viện hoặc biết đâu cả đám sẽ ló đầu lên khỏi sàn của một nhà chứa. Và chúc một ngày tốt lành, thưa quý ngài. Tôi cố nén tiếng khúc khích. Kiệt sức và sợ hãi đang làm tôi choáng váng.
Nếu ai đó đang chờ chúng tôi trên đó thì sao? Nếu Lão Tư Tế lại đổi phe lần nữa và báo cho Hắc Y lộ trình của chúng tôi thì sao? Tôi không được tỉnh trí lắm. Mal tin rằng những vụ nổ chỉ là một cuộc tấn công ngẫu nhiên dưới đường hầm, và đấy là thứ duy nhất có lý. Lão Tư Tế không thể biết chúng tôi đang ở đâu, vào lúc nào. Và dù bằng cách nào đó mà Hắc Y phát hiện ra chúng tôi đang hướng về Ryevost, thì sao anh ta phải dùng bom để ép chúng tôi trở lên mặt đất? Anh ta chỉ cần chờ chúng tôi xuất hiện ở đó thôi.
“Đi thôi,” tôi nói. “Mình thấy nghẹt thở quá.”
Mal ra dấu cho Tolya và Tamar kèm chặt hai bên tôi.
“Sẵn sàng nhé,” cậu ấy nói với họ. “Khi có bất kì dấu hiệu rắc rối nào, hai người phải đưa cô ấy rời khỏi đây. Đến đường hầm dẫn ra phía Tây xa hết mức có thể.”
Chỉ sau khi cậu ấy bắt đầu trèo lên thang tôi mới nhận ra tất cả đều ở lại, chờ cậu ấy đi trước. Tolya và Tamar đều là những chiến binh thiện nghệ nhất, và Mal là otkazat’sya duy nhất giữa chúng tôi. Vậy tại sao cậu ấy lại là người gánh vác mạo hiểm? Tôi muốn gọi cậu trở lại, bảo cậu hãy cẩn thận, nhưng điều đó nghe thật xuẩn ngốc. “Cẩn thận” không còn là những gì chúng tôi từng làm nữa.
Trên đỉnh thang, cậu ấy ra hiệu cho tôi, và tôi dập tắt nguồn sáng, ném cả bọn và bóng tối. Tôi nghe một tiếng thịch, tiếng bản lề kéo căng, rồi tiếng càu nhàu thật khẽ và tiếng kẽo kẹt khi cửa sập mở tung. Không có ánh sáng tràn xuống, không la hét, không súng nổ.
Tim tôi đập dồn dập trong ngực. Tôi nghe tiếng Mal bước lên, chân cậu ấy giẫm lạo xạo phía trên. Cuối cùng, tôi nghe tiếng diêm quẹt và ánh sáng bừng lên xuyên qua cửa. Mal huýt sáo hai lần - dấu hiệu an toàn.
Từng người một, chúng tôi trèo lên thang. Khi tôi thò đầu qua cửa sập, cơn ớn lạnh liền chạy dọc sống lưng. Căn phòng hình lục giác, sáu bức tường được đẽo từ những phiến đá trông như lapis xanh, bức nào cũng có treo khung tranh bằng gỗ vẽ các Thánh khác nhau, vòng hào quang của họ nhấp nháy dưới ánh đèn. Góc phòng chằng chịt những mạng nhện màu trắng. Đèn lồng của Mal đặt trên một quách quan tài đá. Chúng tôi đang ở trong hầm mộ.
“Tuyệt vời,” Zoya nói. “Từ đường ngầm đến hầm mộ. Tiếp theo là gì, một chuyến đi đến lò mổ?”
“Mezle,” David cất lời, chỉ về một trong số những cái tên được khắc trên tường. “Họ là một gia đình Grisha lão luyện. Thậm chí còn có một người trong số họ ở Tiểu Điện trước khi…”
“Trước khi tất cả bị giết?” Genya nói đỡ cho anh ta.
“Ziva Mezle,” Nadia lặng lẽ trả lời. “Cô ấy là một Tiết Khí Sư.” “Chúng ta có thể dừng cuộc triển lãm này ngay tại đây không?” Zoya hỏi. “Tôi muốn ra khỏi đây.”
Tôi xoa xoa cánh tay. Cô ấy nói đúng.
Cánh cửa nhìn như một tảng sắt nặng trịch. Tolya và Mal tựa vai vào nó trong khi chúng tôi xếp hàng phía sau họ, hai tay giơ cao, đá lửa Tiết Hỏa Sư sẵn sàng.
“Đếm đến ba,” Mal nói.
Tôi khẽ cười thành tiếng. Mọi người đều quay lại.
Tôi đỏ mặt. “À thì, chắc chúng ta đang ở trong nghĩa địa, và cả đám đang chuẩn bị nhào ra khỏi mộ.”
Genya khúc khích. “Nếu có ai ngoài kia, chúng ta sẽ dọa họ sợ chết khiếp.”
Với nét cười thảng hoặc, Mal hùa theo, “Ý hay đấy. Chuẩn bị đón tiếng ồoooooo nào.” Rồi nụ cười biến mất. Cậu ấy gật đầu với Tolya. “Cẩn thận.”
Cậu ấy đếm, rồi cả hai đẩy tới. Chốt cửa rít lên, và lối vào hầm mộ bật mở. Chúng tôi chờ, nhưng không có tiếng báo động nào ập đến. Từ từ, chúng tôi nối đuôi nhau bước vào nghĩa địa vắng lặng. Ở gần sông thế này, dân chúng sẽ chôn cất người chết trên mặt đất phòng khi có
lũ lụt. Những ngôi mộ, xếp thành từng dãy ngăn nắp như nhà đá, khiến cho nơi đây như một thành phố bỏ hoang. Một cơn gió thổi qua, lay chuyển lá trên cây và khuấy động những nhành cỏ mọc trên mấy ngôi mộ nhỏ hơn. Khung cảnh thật đáng sợ, nhưng tôi không quan tâm. Sau cái lạnh trong hang động, bầu không khí dường như ấm áp hơn. Cuối cùng chúng tôi đã thoát ra ngoài.
Tôi ngửa đầu, hít một hơi sâu. Một đêm không trăng trong trẻo, và sau bao tháng ngày đằng đẵng dưới mặt đất, cảnh tượng trời đêm mới choáng váng làm sao. Và rất nhiều sao - một quần thể lấp lánh, hỗn độn ở gần đến mức có thể chạm tới được. Tôi để ánh sáng nơi chúng đổ xuống người như một niềm an ủi, cảm thấy biết ơn vì không khí trong phổi, buổi đêm xung quanh.
“Alina,” Mal khẽ nói.
Tôi mở mắt. Đoàn Grisha đang nhìn tôi chằm chằm. “Chuyện gì?” Cậu ấy nắm tay tôi và giơ ra trước mặt, như thể cả hai sắp khiêu vũ cùng nhau. “Bồ đang phát sáng.”
“Ồ,” tôi thở ra. Da của tôi có màu bạc, được bao lấy bởi ánh sao. Tôi thậm chí còn không nhận ra mình đã triệu hồi năng lượng. “Ồ.” Cậu ấy lướt dọc ngón tay lên phần da trần lộ ra khi tôi vén tay áo lên, dõi theo chuyển động của ánh sáng nơi ấy, môi cong lên mỉm cười. Rồi thốt nhiên, cậu ấy lùi lại. Cậu buông phứt tay tôi như thể nó nóng rẫy. “Bồ phải chú ý hơn,” Mal nghiêm khắc nhắc nhở. Cậu ra hiệu cho Adrik giúp Tolya đóng lại cửa hầm mộ, rồi nói với cả nhóm. “Đi cạnh nhau và giữ im lặng. Chúng ta phải tìm chỗ trốn trước bình minh.” Những người khác theo sau Mal, để cậu ấy dẫn trước lần nữa. Tôi nán lại phía sau, tích cực phủi sạch ánh sáng trên da, nó bám vào tôi, như thể toàn thân tôi khao khát nó.
Khi Zoya đến gần tôi, cô ta nói, “Cô biết không, Starkov, tôi bắt đầu nghĩ rằng cô cố ý biến tóc mình thành màu trắng.”
Tôi búng một đốm ánh sao khỏi cổ tay, nhìn nó mờ dần. “Đúng vậy, Zoya, cầu cạnh cái chết là một phần quan trọng trong chế độ thẩm mỹ của tôi.”
Cô ta nhún vai và liếc về phía Mal. “Chà, hơi lộ liễu so với gu của tôi, nhưng tạo hình trinh nữ ánh trăng này có hiệu quả đấy.”
Người cuối cùng tôi muốn nói chuyện về Mal là Zoya, nhưng nghe nó giống như một lời khen vậy. Tôi vẫn nhớ cô ta đã siết chặt tay tôi khi hầm sụp và cô ta đã mạnh mẽ thế nào suốt tai nạn ấy.
“Cảm ơn,” tôi nói. “Vì đã bảo vệ chúng tôi lúc ở dưới hầm. Vì đã giúp cứu Sergei và Stigg.”
Dù tôi chẳng có ý chân thành, nhưng vẻ kinh ngạc trên mặt cô ta thật đáng giá.
“Không có chi,” Zoya đáp lại. Đoạn cô ta hếch chiếc mũi hoàn hảo của mình lên và thêm vào, “Nhưng không phải lúc nào tôi cũng ở bên để cứu mạng cô đâu, Tiết Dương Sư.”
Tôi nhoẻn cười và theo cô ta xuống lối đi giữa mộ. Ít nhất cô ta rất dễ đoán.
Chúng tôi phải mất một lúc lâu mới ra khỏi nghĩa địa. Những dãy mộ cứ kéo dài mãi, như một chứng cứ lạnh lùng về các thế hệ Ravka đã bỏ mạng vì chiến tranh. Lối đi được dọn sạch, những ngôi mộ chất đầy hoa, tượng thánh nhiều màu, kẹo ngọt, vài chồng đạn dược quý giá - những nghĩa cử nhỏ nhặt, kể cả cho người chết. Tôi nghĩ đến những người đàn ông và phụ nữ đã chào tạm biệt cả đoàn ở Giáo Hội Trắng, dúi những lễ vật của họ lên tay chúng tôi. Tôi thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng ra khỏi cổng.
Nỗi khiếp đảm vì hầm sụp và hàng giờ liền đi bộ đã bắt đầu tác động lên chúng tôi, nhưng Mal nhất quyết phải đưa cả bọn đến nơi gần Ryevost nhất trước bình minh. Chúng tôi lê bước về phía trước, đi song song với đường cái, sát với những cánh đồng được chiếu sáng bởi ngàn sao. Thi thoảng, chúng tôi bắt gặp một ngôi nhà lẻ loi, bóng đèn thắp lên ngoài cửa sổ. Không hiểu sao tôi thấy thật an tâm, khi nhìn thấy dấu hiệu của sự sống, khi nghĩ đến một nông dân tỉnh giấc giữa đêm để uống nước, ông thoáng quay đầu về cửa sổ và bóng đêm trải dài.
Trời chỉ bắt đầu mờ sáng khi chúng tôi nghe thấy tiếng người lại gần trên đường. Cả bọn vừa kịp chạy biến vào trong rừng và nấp sau những bụi cây trước khi cỗ xe đầu tiên đi ngang.
Có khoảng mười lăm người trong đoàn hộ vệ, hầu hết là đàn ông, một vài phụ nữ, tất cả đều vũ trang sẵn sàng. Tôi thoáng thấy vài ba đặc điểm
của đồng phục Thượng Quân - những chiếc quần kiểu mẫu nhét trong đôi bốt da bò, áo khoác bộ binh thiếu mất dãy cúc bằng đồng thau. Thật khó để nhận ra họ đang vận chuyển thứ gì. Hàng hóa được che phủ bởi những tấm chăn cho ngựa và cột chặt vào giường xe bằng dây thừng. “Dân quân?” Tamar thì thầm.
“Có thể,” Mal nói. “Nhưng tôi không chắc một dân quân có thể lấy súng liên châu ở đâu.”
“Nếu là dân buôn lậu thì tôi không biết ai trong số họ cả.” “Tôi có thể bám theo họ,” Tolya đề nghị.
“Hay để em ra nhảy một điệu valse giữa đường nhé?” Tamar chế giễu. Tolya chẳng bao giờ đi nhẹ nói khẽ được.
“Anh tiến bộ hơn rồi,” Tolya bào chữa. “Và…”
Mal liếc nhìn khiến họ im bặt. “Không theo đuổi, không can hệ.” Trong lúc Mal dẫn chúng tôi vào sâu trong rừng hơn, Tolya lầm bầm, “Em thậm chí còn chả biết nhảy valse.”
Chúng tôi cắm trại ở khoảng đất trống gần một nhánh nhỏ của Sokol, con sông bắt nguồn từ Petrazoi và là trung tâm thương mại trong phố cảng. Chúng tôi mong mình đã ở đủ xa khỏi thị trấn và đường cái để không cần lo nghĩ về chuyện bị ai đó bắt gặp nữa.
Theo như lời cặp sinh đôi, nơi hẹn gặp của những gã buôn lậu là một quảng trường đông đúc nhìn ra sông ở Ryevost. Tamar đã có sẵn la bàn và bản đồ trong tay. Dù cô ấy cũng kiệt sức như những người còn lại thì vẫn phải rời đi ngay lập tức để đến kịp thị trấn trước buổi trưa.
Tôi ghét phải để cô ấy đi vào một nơi có thể là cái bẫy, nhưng cả bọn đều đồng ý rằng cô ấy là lựa chọn thích hợp. Vóc dáng của Tolya khiến anh ta dễ bị phát giác và không ai trong số chúng tôi biết cách hoạt động của bọn buôn lậu hay làm thế nào để nhận ra họ. Tuy vậy, tôi vẫn có linh cảm không lành. Tôi chưa bao giờ thấu hiểu đức tin của cặp sinh đôi và
giới hạn mà họ sẽ mạo hiểm vì nó. Nhưng vào thời khắc chọn lựa giữa tôi và Lão Tư Tế, họ đã chứng tỏ lòng trung của mình một cách kiên định. Tôi siết vội tay Tamar. “Đừng làm gì mạo hiểm.”
Nadia cứ quanh quẩn bên cạnh từ nãy giờ. Giờ cô ấy hắng giọng và hôn lên hai má Tamar. “Cẩn thận nhé,” cô nói.
Tamar nở nụ cười đậm chất Độc Tâm Y. “Nếu ai đó muốn gây rối,” cô ấy bảo, phất áo khoác ra sau để lộ ra thắt lưng giắt rìu của mình, “thì tôi có hàng mới đây.”
Tôi nhìn sang Nadia. Tôi có cảm giác Tamar đang cố thể hiện. Cô ấy kéo mũ trùm đầu chạy xuyên qua rừng cây.
“Yuyeh sesh,” Tolya nói với theo bằng tiếng Shu.
“Ni weh sesh” cô ấy ngoái lại hét lên. Rồi cô biến mất.
“Nghĩa là gì vậy?”
“Đấy là một câu mà cha dạy chúng tôi,” Tolya đáp. “Yuyeh sesh: ‘hãy khinh miệt trái tim.’ Nhưng đấy là nghĩa trực dịch. Ý nghĩa thật sự của nó thì giống như ‘làm những gì cần thiết - hãy tàn nhẫn nếu bắt buộc.’” “Còn câu kia?”
“Ni weh sesh? ‘Tôi không có tim.’”
Mal nhướng mày. “Cha anh chắc vui lắm.”
Tolya nở nụ cười phảng phất vẻ điên loạn khiến anh ta trông giống hệt em gái mình. “Đúng vậy.”
Tôi nhìn về phía Tamar vừa đi. Đâu đó bên kia rừng cây và những cánh đồng bạt ngàn là Ryevost. Tôi gửi đến cô lời nguyện cầu của mình: Hãy đem về tin tức của một hoàng tử, Tamar. Tôi không nghĩ mình có thể gánh vác chuyện này một mình.
Chúng tôi trải đệm xếp và phân chia thức ăn. Adrik và Nadia bắt đầu dựng lều trong khi Tolya và Mal đi trinh sát xung quanh, chọn vị trí canh gác. Tôi nhìn thấy Stigg cố thuyết phục Sergei ăn một chút. Tôi đã mong việc trở lên mặt đất sẽ giúp anh ta bình tĩnh hơn, nhưng dù Sergei trông có vẻ đỡ hốt hoảng, tôi vẫn có thể nhận thấy từng đợt căng thẳng toát ra từ anh ta.
Thật ra, chúng tôi đều bồn chồn. Dù được nằm dưới tán cây và chiêm ngưỡng bầu trời một lần nữa rất thú vị, nhưng đồng thời cũng vô cùng bất an. Cuộc sống ở Giáo Hội Trắng tồi tàn, nhưng dễ dàng. Trên đây, tất cả như vĩ đại hơn, vượt khỏi tầm tay tôi. Dân quân và thuộc hạ của Hắc Y tản mác khắp nơi. Dù có tìm ra Nikolai hay không, chúng tôi cũng đã quay về với chiến tranh, nghĩa là nhiều trận đấu hơn, nhiều người tử nạn hơn. Bất
thình lình, thế giới dường như đã rộng lớn trở lại. Tôi không chắc mình có thích nó hay không.
Tôi nhìn về phía trại: Harshaw sớm đã ngủ vùi với Oncat nằm trên ngực; Sergei, nhợt nhạt và cảnh giác; David, lưng tựa vào thân cây, trên tay là một quyển sách trong khi Genya gối đầu lên đùi anh mà ngủ; Nadia và Adrik chật vật với cột chống và vải bạt trong khi Zoya nhìn theo và chẳng buồn giúp đỡ.
Hãy khinh miệt trái tim. Tôi muốn thế. Tôi không muốn tiếc thương thêm nữa, không muốn thấy mất mát hoặc hối lỗi, hoặc lo âu. Tôi muốn mình cứng rắn, mưu toan. Tôi muốn mình can đảm. Bên dưới mặt đất, điều đó có vẻ khả thi. Ở đây, trong khu rừng này, với những con người này, tôi lại không dám chắc.
Một lát sau, có lẽ tôi đã thiếp đi, vì khi tôi tỉnh giấc thì đã xế trưa và mặt trời đương chiếu xiên qua vòm cây. Tolya đứng bên cạnh. “Tamar về rồi,” anh ta nói.
Tôi ngồi thẳng dậy, tỉnh giấc hoàn toàn. Nhưng vẻ mặt của Tolya trông thật nghiêm trọng.
“Không ai tiếp cận cô ấy sao?”
Anh ta lắc đầu. Tôi thẳng lưng hơn. Tôi không muốn ai nhìn thấy nỗi thất vọng của mình. Tôi nên biết ơn vì Tamar đã an toàn trở về sau chuyến đi vào thành phố.
“Mal biết chưa?”
“Chưa,” Tolya trả lời. “Cậu ta đang ở nhánh sông để đổ đầy nước vào chai. Harshaw và Stigg đang đứng gác. Tôi có nên gọi họ không?” “Chờ một chút cũng được.”
Tamar đang tựa vào một thân cây, uống nước ừng ực từ cốc thiếc trong lúc mọi người vây xung quanh để nghe cô báo cáo.
“Có rắc rối gì không?” tôi hỏi.
Cô ấy lắc đầu.
“Em có chắc là mình đến đúng chỗ không?” Tolya nói.
“Phía tây của khu chợ quảng trường. Em đến đó sớm, ở lại trễ, thông báo với chủ tiệm, xem một vở kịch rối chết tiệt những bốn lần. Nếu trạm
buôn lậu vẫn còn hoạt động thì đã có ai đến bắt chuyện với em rồi.” “Ngày mai chúng ta có thể quay lại lần nữa,” Adrik đề nghị. “Để anh đi,” Tolya nói. “Em ở đó cả ngày hôm nay rồi. Nếu em xuất hiện lần nữa, người khác có thể sẽ chú ý.”
Tamar quẹt miệng bằng mu bàn tay. “Nếu em rút dao đâm gã điều khiển rối thì có gây sự chú ý quá không?”
“Nếu cô làm thế trong im lặng thì không,” Nadia đáp lại.
Gò má cô ửng hồng khi chúng tôi quay lại nhìn. Tôi chưa bao giờ nghe Nadia nói đùa hết. Cô ấy toàn làm khán giả cho Marie.
Tamar rút dao găm khỏi cổ tay và xoay nó, giữ cho mũi dao thăng bằng trên một đầu ngón tay. “Tôi có thể im lặng,” cô ấy nói, “và nhân từ. Tôi có thể tha mạng cho lũ rối.” Cô ấy nuốt thêm một ngụm nước. “Tôi cũng nghe được một vài tin. Tin quan trọng. Tây Ravka đã tuyên bố ủng hộ Nikolai.” Điều này khiến chúng tôi chú ý.
“Họ đang chặn đường bờ biển phía tây của Vực Tối,” cô ấy tiếp tục. “Nên nếu Hắc Y muốn vũ khí hay đạn dược…”
“Hắn ta phải đi qua Fjerda,” Zoya kết câu.
Nhưng sự kiện này còn quan trọng hơn thế. Nó có nghĩa là Hắc Y đã mất đường bờ biển phía Tây Ravka, hải quân của nó, cửa khẩu thông thương vốn dĩ đã nhỏ nhoi của Ravka.
“Bây giờ là Tây Ravka,” Tolya nói. “Có lẽ tiếp theo sẽ là Shu Han.” “Hoặc Kerch,” Zoya bổ sung.
“Hoặc cả hai!” Adrik reo lên.
Tôi thoáng thấy tia hy vọng len lỏi trong hàng ngũ của cả đoàn. “Giờ thì sao?” Sergei hỏi, lo lắng kéo tay áo.
“Chờ thêm một ngày nữa vậy,” Nadia đề nghị.
“Tôi không biết nữa,” Tamar nói. “Tôi không ngại quay lại. nhưng hôm nay trong quảng trường có cả oprichniki.”
Không tốt chút nào. oprichniki là cận vệ riêng của Hắc Y. Nếu bọn chúng lảng vảng quanh khu vực, đấy sẽ là lý do thích đáng để chúng tôi lên đường càng nhanh càng tốt.
"""