"
Từ Câu Sai Đến Câu Hay - Nguyễn Đức Dân full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từ Câu Sai Đến Câu Hay - Nguyễn Đức Dân full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM
General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data
Nguyễn Đức Dân
Từ câu sai đến câu hay / Nguyễn Đức Dân. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2013.
436 tr. ; 20 cm. - (Tiếng Việt giàu đẹp)
1. Tiếng Việt -- Câu.
1. Vietnamese language – Sentence.
495.9225 -- dc 22
N573-D17
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
MỤC LỤC
MỤC LỤC
PHẦN MỘT
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1.1. Nguyên nhân viết sai: Nhìn từ phía xã hội
1.2. Nguyên nhân viết sai: Nhìn từ phía người viết
CHƯƠNG 2. CÂU SAI
2.1. Thế nào là một câu sai?
2.2. Đúng sai: Những ranh giới mong manh
2.3. Sửa câu sai thế nào?
2.4. Để lâu câu sai hóa... đúng
CHƯƠNG 3. CÂU MƠ HỒ
3.1. Tiếng Việt có mơ hồ, thiếu chính xác?
3.2. Đại cương về câu mơ hồ trong tiếng Việt
CHƯƠNG 4. DIỄN ĐẠT
4.1. Viết mơ hồ - một vũ khí ngoại giao
4.2. Nói mơ hồ - một nghệ thuật hùng biện
4.3. Diễn đạt mơ hồ trong văn học-nghệ thuật
4.4. Câu sai phong cách
4.5. Vai trò của trật tự từ
4.6. Vai trò của phương ngữ
CHƯƠNG 5. CÂU HAY
5.1. Thế nào là câu hay?
5.2. Diễn đạt theo cách nói của người Việt là diễn đạt hay 5.3. Diễn đạt đơn giản là diễn đạt hay
5.4. Câu dùng thích hợp với tình huống, phù hợp với văn hóa người Việt
5.5. Cách nói dân gian và những lời quen thuộc
5.6. Những biện pháp ngôn từ
5.7. Từ câu không chuẩn mực tới câu hay và từ câu hay tới câu thường
PHẦN HAI
CHƯƠNG 6. CHÍNH TẢ
6.1. Chữ tác đánh chữ tộ
6.2. Hiện trạng
6.3. Âm tiết
6.4. Quy định về chữ viết
6.5. Viết hoa và viết thường
6.6. Viết tắt
CHƯƠNG 7. DẤU CÂU
7.1. Mở đầu
7.2. Những dấu cuối câu
7.3. Những dấu giữa câu
7.4. Những dấu câu dùng hay
CHƯƠNG 8. TỪ VÀ NGHĨA
8.1. Sai từ và nghĩa: Những tiểu loại
8.2. ‘Từ lạ’: Những số phận khác nhau
8.3. Từ câu sai tới câu hay: phép liên tưởng 8.4. Những từ thời thượng
8.5. Dấu vết xã hội qua ngôn từ
CHƯƠNG 9. CÚ PHÁP
9.1. Câu sai ngữ pháp
9.2. Liên kết câu
9.3. Cách viết câu ngắn
CHƯƠNG 10. LÔ GÍCH TRONG TIẾNG VIỆT 10.1. Câu sai lô gích
10.2. Lô gích của vài từ cơ bản
10.3. Lô gích của những hiện tượng ‘phi lô gích’ CHƯƠNG 11. LỜI ÍT, Ý NHIỀU
11.1. Viết dư
11.2. Hàm ý ngôn ngữ
11.3. Hàm ý hội thoại
11.4. Nói vậy mà không phải vậy: ngụ ý và ám chỉ CHỮ TẮT VÀ TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
o0o
PHẦN MỘT Ở
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1.1. Nguyên nhân viết sai: Nhìn từ phía xã hội1
1.1.1. Vì sao tình trạng dùng tiếng Việt lộn xộn, tùy tiện, bừa bãi hiện nay không hề thuyên giảm mà có chiều hướng gia tăng đáng sợ? Do nhà trường, do sách giáo khoa? Do nhà nước? Do xã hội? Hay do chính chúng ta?
Có người viết rằng chúng ta đã hoàn toàn thất bại trong giảng dạy tiếng Việt do ‘sách ngữ pháp hoàn toàn thoát ly tiếng Việt’, (từ đây trở đi, chúng tôi dùng dấu ‘,’ thay cho dấu ngoặc kép) do chúng ta dạy thứ tiếng Việt ‘không hề căn cứ vào một cái gì mà một người Việt có văn hóa phải biết cả’. Thậm chí ‘nhiều giáo sư văn học phải thốt lên: mong sao sau 12 năm học phổ thông con tôi vẫn còn nói và viết được tiếng Việt như trước khi đi học’…
1.1.2. Quan sát kỹ, chúng ta thấy:
Nói và viết là hai chuyện khác nhau. Do con người có khả năng bẩm sinh trong tiếp nhận ngôn ngữ, nên trẻ em được sinh ra và lớn lên trong môi trường ngôn ngữ nào là tự chúng nói thành thạo ngôn ngữ đó. Nhưng viết lại là chuyện khác. Không học thì không biết viết. Chúng ta từng gặp những giấy tờ, thư từ do những người mới thông ‘mặt chữ’ tiếng Việt viết. Còn xa chúng mới đạt chuẩn chữ nghĩa.
Người biết một ngoại ngữ, tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Nga... thường viết chuẩn hơn, tốt hơn những người không biết ngoại ngữ nào. Ngôn ngữ là một công cụ phản ánh tư duy, con người tư duy qua ngôn ngữ. Học được một ngoại ngữ là biết thêm được cấu trúc của một ngôn ngữ, biết thêm một công cụ thể hiện tư duy. Học sinh giỏi khoa học tự nhiên thường viết chuẩn mực hơn (không kể một số rất ít những học sinh yếu về khoa học tự nhiên nhưng có năng khiếu văn học). Như vậy, năng lực tư duy chặt chẽ ảnh hưởng tới khả năng viết chuẩn xác (Tôi chưa bàn tới chuyện viết hay). Những người tư duy tốt thường viết chính xác.
Thời trước học sinh viết đúng hơn. Những người thế hệ trước, nói chung viết tốt hơn. Mà thời trước học sinh nào có được nhiều sách tham khảo về
tiếng Việt như hiện nay. Trong công trình Từ điển về từ điển (1999), Phó giáo sư Vũ Quang Hào cho chúng ta biết tới nay ở Việt Nam đã có 18 từ điển chính tả, 7 từ điển ngữ pháp, 23 từ điển thành ngữ, 10 từ điển tục ngữ, 8 từ điển đồng nghĩa, 6 từ điển trái nghĩa, 7 từ điển giáo khoa, 10 từ điển học sinh, 220 từ điển thuật ngữ, 48 từ điển tiếng Việt. Vậy không thể nói chúng ta thiếu sách, thiếu những công cụ tra cứu. Ai quan tâm tới cách dùng chuẩn mực tiếng Việt đều có thể dễ dàng tìm ra những quyển sách cần thiết.
Vậy thì, vì sao hiện nay học sinh viết sai hơn thời trước và sai quá nhiều? Vì sao trên các phương tiện truyền thông nhan nhản những lỗi về từ ngữ, câu cú? Câu trả lời có thể khác nhau, nhưng chắc chắn sách giáo khoa dở không phải là nguyên nhân duy nhất, thậm chí không phải là nguyên nhân chính.
1.1.3. Viết sai nhìn từ phía nhà nước và công luận.
Không quan tâm và không có chính sách cụ thể bảo vệ tiếng Việt chuẩn mực của những người quản lý, điều hành đất nước là nguyên nhân cơ bản tạo ra tình trạng tiếng Việt tùy tiện, lộn xộn hiện nay.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người nhiều tâm huyết với việc giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Ông có những bài nói rất hay về vấn đề này, gây được tiếng vang, tạo được sự đồng tình và quan tâm của giáo giới và giới cầm bút. Tuy nhiên, điều đó chưa đủ.
Kinh nghiệm nước ngoài
Không điếc nên sợ súng. Người nước ngoài, nhất là Pháp, Anh, Mỹ... rất sợ viết, nói những câu sai. Viết những câu sai là một điều đáng hổ thẹn. Thời nay, vì có băng ghi âm nên không còn chuyện ‘khẩu thiệt vô bằng’. Họ lo một lời thất thố, một câu viết sai là có thể bị đem ra nhạo báng dù cả chục năm sau. Sau này nếu được làm chức to hoặc muốn ra tranh cử một ghế dân biểu... lỡ có một tay nhà báo nhiễu sự hoặc không nhiễu sự nào đó đem những hành vi thiếu văn hóa hoặc lời nói không chuẩn mực và thiếu trí tuệ trước đây của mình trương lên mặt báo thì cũng phiền. Sẽ mất vài điểm tín nhiệm trong các cuộc thăm dò dư luận... ít nhất cũng làm chuyện cười, đàm tiếu về thiếu năng lực, thiếu văn hóa, kém cỏi trong tư duy. Sợ viết sai nên người Pháp thường xuyên dùng từ điển khi viết lách. Thôi thì
Ở
viết có sách, có từ điển. Ở những nước đó, quan chức càng cao càng thận trọng trong ngôn từ. Công khai hóa dư luận kể cũng tốt.
Có một giai thoại về phó tổng thống Mỹ Spiro Agnew dưới thời R. Nixon liên quan đến năng lực tiếng Anh của ông này. Trong quyển Bình đẳng, Tự do và Cười phá lên (tiếng Pháp), M. và A. Guillois kể giai thoại: Có một phóng viên hỏi Spiro Agnew ‘Tại sao ngài lại ác cảm với cánh nhà báo như vậy? Phải chăng họ hay xuyên tạc lời của ngài?’ Spiro Agnew đáp: ‘Trái lại thì có. Họ cứ đưa nguyên xi những lời của tôi lên mặt báo mà không chịu biên tập lại gì cả.’ Vậy đấy, đưa nguyên xi những lời của một quan chức lên mặt báo là một cách để xã hội nhận ra chân ‘giá trị’ của người này.
Thường dân cũng cần giữ gìn ngôn từ. Một vận động viên thể thao thường bị coi là ‘võ biền’ nhưng trước công chúng thì không được phép có những cử chỉ và lời nói thiếu văn hóa. Trong trận bán kết giải Wimbledon ngày 03.07.2009, đang trong lúc thi đấu Andy Murray bị trọng tài nhắc nhở vì có những lời nói ‘không thích hợp.’ (VTC 3)
Bên cạnh việc dùng dư luận xã hội người ta còn dùng hình thức chế tài với những người nói sai:
Chuyện viết đúng sai còn liên quan trực tiếp đến cuộc sống của bạn. ‘nhiều thanh niên Nhật thất nghiệp vì viết sai chính tả’ (Tuổi Trẻ, 19.02.2002). Viết sai thì bị loại. Trong chương trình ‘Chiếc nón kỳ diệu’, ngày 12.06.2004, có một ô 7 chữ. Một thí sinh sau khi đoán được 6 chữ ‘TIEU
AO’, đã đoán đúng đó là chữ ‘tiểu xảo’, nhưng lại nói là ‘Tôi đoán chữ S’. Là tiểu xảo chứ không phải là tiểu sảo! Thế là mất cơ hội giành phần thắng. ‘Theo Burton, để được tuyển chọn vào CIA hay tham dự các khoá đào tạo của CIA dành cho sinh viên, các thí sinh cần phải trả lời một bản câu hỏi dày 21 trang, trong đó có việc yêu cầu thí sinh phải viết một bài dài 500 chữ về một sự kiện thời sự và viết ra những câu trả lời cá nhân về những câu hỏi liên quan đến việc sử dụng ma tuý...’ (TTCN, 23.06.1996)
Theo một bộ luật mới đang được Bộ Thông tin Truyền thông Nga soạn thảo: ‘Các quan chức và chính trị gia Nga sẽ bị phạt nếu phát âm sai các từ hoặc sử dụng ngôn từ thô lỗ trong các bài trả lời phỏng vấn’. Có điều, luật này khó thực hiện vì ‘chưa có từ điển nào được dùng làm chuẩn phát âm và khái niệm thế nào là ‘thô lỗ’ cũng chưa được luật pháp quy định’. (Tuổi Trẻ, 02.07.2009)
Kinh nghiệm Việt Nam thời xưa
Người Việt cũng từng dùng dư luận xã hội để trừng trị kẻ viết sai. Từ xưa xã hội Việt Nam đã không đồng tình với lối dùng tiếng Việt tuỳ tiện, bừa bãi. Những người viết sai thường bị chê cười, phê phán. Trong Phụ san Văn nghệ, số 5.1993, Nguyễn Đức Bính kể lại chuyện sau: Hồi đó báo chí bị kiểm soát rất gắt gao, khó lòng nói được những gì muốn nói. Nhân có một ‘cụ nghè’ viết một bài công kích cộng sản. Ngô Tất Tố xem bài ấy, lấy làm giận lắm, bèn tìm cách sửa người ấy một mẻ. Sau khi tìm được một vài câu văn bất thông trong bài đó, Ngô tiên sinh liền viết một bài chỉ ra những chỗ văn dốt trong bài này rồi buộc tội ‘cụ nghè’ âm mưu phá hoại quốc văn và bôi nhọ đạo Khổng. Ông ví ‘cụ nghè’ như thầy đề trong truyện tiếu lâm sau: Viên tri huyện cử thầy đề đi tịch ký nhà một người bị án. Thầy đề, theo luật lệ, lập biên bản ghi tất cả những tài sản của nhà này. Còn lại một cái váy nâu đàn bà, thầy đề nghĩ mãi không biết ghi bằng chữ gì. Cuối cùng thầy nảy ra một ý: Cái váy nâu ở địa phương này người ta gọi là cái xống nâu. Thầy nghĩ rằng tại người ta đọc chệch chứ thật sự phải là cái sống lâu. Thầy đề bèn hạ bút đặt tên cho chiếc váy nâu: thọ nhất bức. Ngô Tất Tố kết luận rằng học lực của cụ nghè cũng xấp xỉ học lực của thầy đề. Bài công kích cộng sản của ‘cụ nghè’ làm sao mà có giá trị được nữa. Ngòi bút của Ngô Tất Tố không tha thứ cụ nghè-công kích-cộng sản bị bắt quả tang đã đổ rác ngôn từ ra xã hội.
Thời nay
Ở Việt Nam từng có người định dùng chế tài để hạn chế nạn dùng sai tiếng Việt. Theo tin từ Tuổi Trẻ, 28.12.2004, giám đốc Lê Thanh Minh (Điện lực Đà nẵng) đã mạnh dạn ra quyết định phạt tiền thưởng những ai viết sai tiếng Việt. Không rõ quyết định này có đi đến đâu không. Nếu ở đâu cũng có vài ba giám đốc như ông Lê Thanh Minh, hoặc lý tưởng hơn nữa nếu người đứng đầu tỉnh với nhận thức xả ngôn từ bậy bạ, làm hỏng tiếng Việt cũng là một hành vi chống lại cộng đồng, dám ra quyết định xử phạt những ai ‘xả rác’ ngôn từ ra xã hội thì nạn viết sai tiếng Việt chắc chắn sẽ giảm đi nhiều.
Không đưa tiêu chí ‘có khả năng dùng chuẩn mực tiếng Việt’ vào việc thi tuyển công chức, đề bạt cán bộ nên viết sai không có giá trị gì trên con đường thăng quan tiến chức. Kết quả là lời kêu gọi giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ dừng lại ở lời kêu gọi, trong thực tế hành động, các cơ quan công quyền không chú trọng tới tiếng Việt. Nhà nước cần có những chính sách thích đáng, cụ thể để hạn chế
những người dùng không chuẩn mực tiếng Việt trong cơ quan công quyền. Hãy đưa việc viết đúng tiếng Việt thành tiêu chí tối thiểu trong việc xét tuyển công chức và đề bạt cán bộ. Nếu viết sai tới một mức nào đó thì không thể trở thành công chức nhà nước, không thể đề bạt lên chức vụ cao hơn...
1.2. Nguyên nhân viết sai: Nhìn từ phía người viết2 1.2.1. Ai cũng có thể viết sai.
Không ít trường hợp sau khi viết xong chúng ta xoa tay: thế là đã có một văn bản hoàn hảo. Nhưng khi được người khác chất vấn về những lời lẽ, ý tứ trong đó chúng ta mới giật mình. Không ngờ mình lại có thể viết một câu trái ngược với ý định của chính mình đến như thế.
Nếu không lưu ý tới ngôn từ, ai cũng có thể viết ra những câu sai, những câu vô nghĩa, dư thừa thậm chí những câu trái ngược với ý nghĩ, quan điểm của mình, kể cả nhà ngôn ngữ học. Trong báo Người Hà Nội, số 29, ngày 20.07.2002, Trần Mạnh Hảo đã chỉ ra nhiều đoạn tiếng Việt không chuẩn, câu văn lủng củng, từ ngữ dùng sai hoặc dư thừa, trong một cuốn sách nghiên cứu ngôn ngữ do nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội tái bản 2001.
Ví dụ:
1) Rải rác trong các chương sách có các bảng kê và sơ đồ, chúng được đánh số theo số thứ tự của các mục tương ứng ở mỗi chương. Những ký hiệu chuyên môn được sử dụng trong sách này là phổ biến trong sách vở ngôn ngữ học, khi thực sự cần thiết, chúng sẽ được ghi chú ngay ở nơi mà chúng xuất hiện. (trích ‘Lời dẫn’ của sách)
2) Hiển nhiên là không phải tất cả mọi vấn đề có liên quan đến hiện tượng âm tiết và loại hình ngôn ngữ đều đã được đặt vào chương trình nghị sự của sách này. (trích ‘Lời kết’ của sách)
Trong đoạn 1, dư những từ gạch chân. Trong đoạn 2, dư từ tất cả và dùng sai từ nghị sự, một từ chỉ dùng trong những cuộc hội thảo chứ không dùng trong chương trình của sách nghiên cứu.
1.2.2. Không biết nên viết sai. Đương nhiên là vậy. Sau này chúng ta sẽ đề cập tới những hiện tượng viết sai cụ thể.
1.2.3. Khuynh hướng viết ra những câu sai
Viết câu ngắn thường đúng. Viết câu dài dễ sai.
Nếu viết ‘Cùng với việc ăn và ở’, mọi người sẽ hô lên sai rồi, chưa thành câu và chính người viết đọc lại cũng thấy như vậy. Ấy thế mà có báo viết ‘Cùng với việc phân công lại lao động nông nghiệp, chấn chỉnh tổ chức chăn nuôi, hoàn chỉnh và xây dựng thêm cơ sở vật chất - kỹ thuật gồm các hệ thống trạm, trại giống, cơ sở sản xuất và chế biến thức ăn, cơ sở thú y và mạng lưới phòng, chống dịch bệnh gia súc trên địa bàn huyện.’ Do viết dài nên không chăm sóc đầy đủ các từ ngữ trong câu mình viết và đi tới những câu sai.
Viết câu đơn thường đúng. Viết những câu ghép được phát triển ra nhiều tầng dễ sai.
Ví dụ:
Nhưng đối với những sinh hoạt văn hóa cho thanh niên trong ấp, dù theo bản sơ kết một năm thực hiện ấp văn hóa của huyện Bình Chánh thì ‘điểm sinh hoạt văn hóa - thể dục thể thao của ấp 4, xã Tân Túc quy tụ được nhiều thanh thiếu niên tham gia hằng đêm phục vụ nhu cầu giải trí sau những giờ lao động của bà con, đồng thời giúp bà con tìm hiểu thêm các thông tin, kiến thức về mặt khoa học kỹ thuật thông qua sách báo của điểm sinh hoạt’, nhưng theo ông Sáu, hồi trước cũng có tụ điểm sinh hoạt văn hóa cho bạn trẻ chơi bida, bóng chuyền, đàn hát (hai cây ghi ta tân nhạc, cổ nhạc), đọc sách, có tivi, đầu máy (đầu máy 110V nên chưa sử dụng được), nhưng rồi không duy trì được lâu.’ (b., 06.10.1998) Câu này dài 143 tiếng, có tới 5 liên từ: 3 nhưng, 1 dù, 1 thì. Năm liên từ này biểu hiện những quan hệ ngữ pháp nào? Thế là câu thành rối và sai. Xem cách sửa câu này ở §9.3.2.
Viết một câu thường không cần chữa lại. Nhưng viết một đoạn có nhiều câu, thường dễ lủng củng, thiếu thừa. Chúng ta thường phải điều chỉnh lại sao cho các câu trong đoạn trôi chảy, có liên kết mạch lạc với nhau.
1.2.4. Biết vẫn có thể viết sai
Có những điều đương nhiên là biết nhưng chúng ta vẫn có thể viết sai, dù chỉ viết một câu ngắn. Ví dụ: ‘Mới vào bộ đội, chúng ta thường được nghe cán bộ phổ biến: Chiến sĩ trai phải cắt tóc ngắn; chiến sĩ gái thì cuộn, tết tóc lên cao, râu phải cạo nhẵn.’
Ai chả biết nữ thường không có râu, sao lại viết ‘chiến sĩ gái [...] râu phải cạo nhẵn’? Khách quan mà xét, có lẽ chính tác giả câu này khi đọc lại cũng phải bật cười và thanh minh rằng: ‘Tôi vô ý quá, tôi không định viết thế!’ Vậy tại sao lại viết ra câu đó?
Đây là hiện tượng do không tập trung tư tưởng nên rối trong tư duy. Tư thế tác phong người lính được xem xét ở các phương diện đầu, tóc, quần áo, giày dép, đi đứng... Trong những đơn vị có cả nam lẫn nữ, nên ở từng phương diện cần cụ thể hóa cho từng giới. Nếu đãng trí sẽ sinh rối. Nếu lần lượt xét riêng nam rồi nữ thì câu trên chỉ cần đổi lại trật tự: ‘... chiến sĩ trai phải cắt tóc ngắn; râu phải cạo nhẵn. Chiến sĩ gái thì cuộn, tết tóc lên cao’ nếu muốn giữ nguyên trật tự đó thì tách phần cuối thành một câu khác: ‘... chiến sĩ trai phải cắt tóc ngắn; chiến sĩ gái thì cuộn, tết tóc lên cao. Râu phải cạo nhẵn’. Cạo râu là chuyện của nam giới nên không ai còn hiểu câu cuối liên quan đến nữ.
Không tập trung tư tưởng dẫn tới hiện tượng chuyển hướng tư duy và tạo ra những câu sai mang tên gọi ‘chập cấu trúc’. (x. §9.1.2.)
1.2.5. Viết không sai nhưng không thích hợp
(5a) Khó hiểu
Có những câu không sai nhưng khó hiểu. Ví dụ ‘Ai thực sự là cha ruột của người cha ra đời ngoài giá thú của hắn?’ (b., 10.10.1998 - Xem giải thích ở §5.3.2.)
(5b) Không diễn đạt đúng ý định
Không chú ý tới phương pháp diễn đạt chúng ta có thể viết những câu tuy không sai ngữ pháp nhưng lại ngược với ý định của mình. Thay đổi, thêm bớt một từ, một dấu câu có thể làm nội dung khác hẳn đi. Đang chê biến thành khen hoặc ngược lại (xem.§2.2. và §5.1.2). Ngôn từ thường bộc lộ quan điểm của người nói.
Có những câu mà cấu trúc của chúng bộc lộ rõ ý nghĩ, quan điểm của người nói, dù họ có muốn hay không.
Ví dụ 1: Những lời vô tình
Về vụ Năm Cam, trong cuộc gặp các nhà báo ngày 04.03.2002, trả lời câu hỏi ‘... thời gian tới, lãnh đạo Bộ Công an chỉ đạo tiếp tục làm rõ xử lý một số cán bộ cao cấp hơn trong ngành...?’ Thiếu tướng Nguyễn Việt Thành đáp: ‘... Xin thông báo thêm với các nhà báo không chỉ cán bộ, nhân dân mà lãnh đạo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến việc xử lý nội bộ.’ (Tuổi Trẻ, 05.03.2002).
Phần cuối của câu trên đây ‘Không chỉ cán bộ, nhân dân mà lãnh đạo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến việc xử lý nội bộ’ có cấu trúc ‘Không chỉ A mà B cũng...’. Cấu trúc này bộc lộ hàm ý: A thì hơn B trong vấn đề được xem xét. Câu của thiếu tướng Nguyễn Việt Thành bộc lộ một điều là cán bộ, nhân dân quan tâm hơn lãnh đạo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến việc xử lý nội bộ. Nếu quan tâm như nhau thì nói: ‘Cán bộ, nhân dân và lãnh đạo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đều rất quan tâm đến việc xử lý nội bộ’.
Ví dụ 2: Những lời cố ý
Mẹ: Thằng đó đẹp trai nhưng nghèo lắm con ơi!
Con gái: Anh ấy nghèo nhưng đẹp trai má à.
Hai mẹ con không khác nhau khi nhận xét về đặc điểm của người thanh niên nọ. Nhưng trật tự của những đặc điểm này được sắp xếp khác nhau khiến quan điểm của hai mẹ con về anh ta hoàn toàn khác nhau. Trong cấu trúc ‘A nhưng B’ từ B đứng cuối sẽ tạo ra định hướng nghĩa cho toàn câu.
+ Bàn chuyện liệu hai người có thể liên kết chống lại mình không, một người nói: ‘Đang thù nhau thật nhưng họ vẫn là anh em’.
Thông thường, ‘Anh em’ có ‘quan hệ tốt’, còn ‘thù nhau’ có ‘quan hệ xấu’. Từ nhưng khiến cho kết luận rút ra từ câu này phụ thuộc vào vế thứ hai: họ vẫn có thể có quan hệ tốt với nhau. Nghĩa là, họ vẫn có thể liên kết với nhau để chống lại mình.
+ Tranh cãi giữa công tố viên và luật sư:
Công tố viên: Xét về tình có thể lượng thứ nhưng tội không thể tha. Luật sư bào chữa: Tội không thể tha nhưng xét về tình có thể lượng thứ. Quan sát yếu tố thứ hai đứng sau từ nhưng, chúng ta thấy ngay hàm ý của công tố viên là không tha, còn hàm ý của luật sư là tha.
Lời khuyên đầu tiên:
Khi viết cũng như khi nói bạn hãy đặc biệt chú ý tới trật tự từ ngữ.
(5c) Không chuẩn
Trên phim ảnh cũng như trong thực tế, không ít trường hợp viết xong lại vò vất đi và viết lại, rồi lại vò xé đi... Ấy là người viết không hài lòng với nội dung cũng như cách diễn đạt, không nói được những điều cần nói nhưng lại viết những điều không nên nói. Đấy là những câu không sai, nhưng không thích hợp. Không thích hợp với tình huống, với hoàn cảnh... Chúng ta đã viết những câu sai về phong cách.
Đứng riêng một câu có thể không sai. Nhưng trong một hoàn cảnh ngôn ngữ cụ thể, một câu không sai có thể trở thành không chuẩn. Diễn đạt thời gian không chuẩn. Câu dưới đây trích từ một hồi ký: ‘Tối nay, theo đúng hẹn tôi mang bộ ảnh phong cảnh đất nước đến giới thiệu để cụ xem.’
‘Đây là lần đầu tiên trong đời bố nói dối.’ (Phim Người mất ngủ) Sự việc trong hồi ký đều là nhớ lại. Trong phim, người bố cũng nhớ lại. Nhớ lại chuyện đã qua thì phải dùng các từ ấy, đó, đấy: ‘Tối ấy, theo đúng hẹn...’; ‘Đó (/Đấy) là lần đầu tiên...’
‘Một ngày gần đây, Đỗ Huy Hoàng và các đồng sự ở văn phòng Microsoft Việt Nam đã ngồi nghe thầy Thọ trình bày phần mềm của mình.’ (b., 21.01.2008) Nhận xét: ‘Một ngày gần đây,’ nói điều sẽ xảy ra trong tương lai, những đã lại chỉ điều đã xảy ra. Do vậy, câu trên sai. Sửa: ‘Sau đó ít ngày...’ hoặc ‘Trước đây vài ngày...’
‘Cho đến ngày tôi sẽ chết’ (Tít, 19.01.2008)
‘Tôi sẽ chết’ là câu đúng. Nhưng ‘tôi sẽ chết’ là tôi chưa chết. Ngữ cảnh không cho biết thời điểm tôi chết nên ‘Cho đến ngày tôi sẽ chết’ không thể trỏ một thời điểm xác định được. Từ sẽ làm tít trên thành câu sai. Chỉ có thể nói, như câu kết cuối bài ‘nhưng tôi quyết định sẽ tranh tài với nó cho đến ngày tôi chết.’
Trong khi đó, do thiếu từ sẽ nên tít ‘Bêlarut: không thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu ý dân’ và câu ‘ngày 12.11, Chủ tịch Ủy ban bầu cử trung ương Bêlarut V. Gôncha từ chối thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu ý dân sắp tới... dự định tiến hành ngày 24.11’ (b. 14.11.1996) thành sai vì cuộc trưng cầu ý dân chưa tổ chức thì làm gì có kết quả.
(5d) Gây hiểu lầm, trái với ý người viết
Ví dụ 1: ‘Không gian của lão nhà văn Từ Ngọc độc một phòng...’
(Một người đáng chiêm ngưỡng, báo, 03.07.1999)
Sao lại gọi ‘một người đáng chiêm ngưỡng’ là lão? Vì lão là cách gọi người khác với ý nghĩa xem thường (lão thầy bói, lão ăn mày,...). Trật tự này trùng với trật tự của cụm từ theo trật tự Hán-Việt lão nhà văn, tức là nhà văn già. Vậy, nên đổi ‘lão nhà văn Từ ngọc’ thành ‘nhà văn lão thành Từ Ngọc’.
Trong cuộc thi tài năng âm nhạc Vietnam Idol, ca sĩ Siu Black ngồi trong ghế giám khảo. Khi thí sinh Sơn Lâm (khuyết tật) bị loại, Siu Black nói: ‘Nếu trong chương trình của người khuyết tật, em muốn hát cho mọi người nghe, em sẽ thành công’.
Sơn Lâm phản ứng: ‘Giám khảo nên nhớ, tôi đã có hai bằng đại học’. (Vnexpress, 17.07.2010) Siu Black cho rằng cô rất cảm kích, nên ngay sau khi Sơn Lâm hát, cô có nói ‘chị có thể ôm em được không?’ và nói tiếp một câu động viên nhưng Sơn Lâm lại cho rằng câu nói đó xúc phạm tới người khuyết tật nên đã gửi đơn kiện đến các cơ quan có thẩm quyền.
Lời ca sĩ nọ được Sơn Lâm hiểu như sau: Trong chương trình cho người bình thường (không khuyết tật) em đã không thành công. Nhưng [nếu] trong chương trình của người khuyết tật, em sẽ thành công’. Lý lẽ ngầm ẩn: giọng hát được xếp theo thang độ. Cùng một giọng hát, không thành công ở mức A (với người bình thường) Nhưng thành công ở mức B (với người khuyết tật) thì mức độ B thấp hơn mức độ A. Sơn Lâm phản ứng là phải.
Nhân ngày thế giới chống ma túy, nhiều người nói và nhiều khẩu hiệu ‘phòng chống lạm dụng ma túy’. Có hai điều cần bàn:
Lạm dụng là ‘dùng quá mức, quá giới hạn đã định’. Câu trên dẫn tới một hàm ý là cho phép dùng ma túy, chỉ chống dùng quá mức thôi! b) Sao lại ‘phòng’? Từ này làm cách nói phòng chống có hàm ý thụ động. Thái độ chúng ta là kiên quyết chống. Vậy chỉ nên nói gọn mà rõ ý: kiên quyết chống ma túy.
‘Còn ở ta, các tập đoàn hoạt động trong một cơ chế kiểm soát lỏng lẻo và không có quyền tự chủ, một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn kinh tế thực thụ’ (b., 27.01.2008). Từ ‘không’ gây ra hiểu lầm, làm trái ý của tác giả:
‘không có quyền tự chủ là một điều kiện tiên quyết để...’(?) Bạn có thể không có ngụ ý gì, nhưng... Những câu mơ hồ cũng có thể gây ra những cách hiểu ngược với ý của người viết.
Nhẹ là những câu như ‘hai người phụ nữ [...] tình nguyện chăm sóc những em bé còn đỏ hỏn bị cha mẹ vô tình vứt bỏ’ (b., 07.05.2011). Sao cha mẹ lại có thể ‘vô tình’ vứt bỏ con? Hẳn nhà báo muốn nói những cha mẹ nhẫn tâm (bạc tình) vứt bỏ?
Hiểu lầm nặng hơn là ‘[...] thái độ quyết tâm cao chống tệ nạn buôn lậu của chính phủ’. Sao lại viết ‘tệ nạn buôn lậu của chính phủ’? Vậy cần sửa lại trật tự: ‘thái độ quyết tâm cao của chính phủ chống tệ nạn buôn lậu.’ Như vậy, muốn diễn đạt đúng ý nghĩ của mình, bên cạnh việc dùng thận trọng những câu có thể gây ra hàm ý, cần tránh viết những câu mơ hồ, những câu có nhiều cách hiểu. Do vậy cũng cần biết cách chuyển những câu mơ hồ thành những câu chỉ có một cách hiểu. Về vấn đề này, xem chương 3.
(5e) Những lời vô nghĩa sẽ làm hỏng một câu
MC: ‘Xin hỏi... được nhận giải (/được lọt vào vòng chung khảo/được đứng trên sân khấu)... có vui không ạ?’ Chả lẽ trả lời ‘không vui’ nếu thực sự không hài lòng? Lời hỏi của MC vô duyên. Không nên hỏi một điều đương nhiên xảy ra. Những kiểu hỏi vô duyên tương tự: ‘Được hạng nhất có vui không?’; ‘Được về thăm bố mẹ có vui không?’; ‘Phải xa nhà trong 3 năm có buồn không? Có nhớ nhà không?’; ‘Bị thua có buồn không?’ là những câu hỏi vô duyên.
1.2.6. Kết luận
Để tránh hiện tượng này không gì tốt hơn là mỗi khi viết xong chúng ta đọc lại bài đã viết. Nhờ vậy sẽ sửa được những lỗi ngớ ngẩn không đáng có. Có điều, trong không ít trường hợp tìm ra những lỗi sai thì dễ nhưng sửa chúng lại không đơn giản chút nào.
Trong bài nói về ‘Cách viết’, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Viết rồi thì phải đọc đi đọc lại. Thấy cái gì thừa, chữ nào thừa thì bỏ bớt đi. Đọc đi đọc lại bốn năm lần đã đủ chưa? Chưa đủ. Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại... Cách viết truyền đơn cũng thế, viết báo cũng thế, viết báo cáo, viết gì cũng thế.
Bạn hãy đọc lại bài viết của mình. Để dễ nhận ra những lỗi cần sửa, bạn hãy đọc to và đọc bằng con mắt của người khác.
CHƯƠNG 2. CÂU SAI
2.1. Thế nào là một câu sai?
Câu không đúng chuẩn mực tiếng Việt là câu sai. Có những loại câu sai nào?
Sai chính tả là câu viết không đúng những quy định về chính tả, không đúng quy tắc về dấu câu, không đúng quy tắc viết tắt.
Viết ‘Trần thị hòa’ là sai về quy tắc viết hoa tên người, sai về quy tắc bỏ dấu thanh điệu (xem thêm 6.3.2.2.). Cần viết là ‘Trần Thị Hoà’. Viết ‘Lẩn quẩn cối xay’ là sai chính tả. Viết sai phần vần. Viết đúng là: ‘Luẩn quẩn cối xay’.
Viết ‘hóc xương gà, xa cành khế’ (Đại Từ điển Tiếng Việt, tr. 695) cũng là sai chính tả. Đúng chính tả phải là ‘sa cành khế’. Có người bình luận: ‘Xương gà hóc phải thì nguy
Còn xa cành khế có gì mà lo?’
Sai ngữ pháp là câu viết không đúng quy tắc ngữ pháp, nghĩa là viết không đúng cấu trúc câu. Thường là những câu cụt, thiếu chủ ngữ hay vị ngữ, thậm chí thiếu cả hai. Ví dụ ‘Trong xã hội cũ, cái xã hội làm cho con người chỉ biết sống vì mình.’ Câu này mới chỉ có trạng ngữ, thiếu cả chủ ngữ lẫn vị ngữ. Câu ‘Không nên đến gần hơn được đâu’ cũng sai ngữ pháp. Đã viết theo cấu trúc khuyên bảo ‘Không nên đến gần hơn’ thì đừng chuyển thành cấu trúc nhận định ‘Không đến gần hơn được đâu’.
Sai từ vựng là câu mà giữa các từ trong đó không tương hợp về nghĩa. Ví dụ:
(1) Mặc cho máy bay địch bắn phá, các ông bụt chùa Tây Phương vẫn phớt lờ ngồi trầm tư suy nghĩ.’ hai từ ‘ông bụt’ và ‘phớt lờ’ không tương hợp về nghĩa. (x. §8.3)
(2) ‘Trời xanh, trăng sáng, cao vằng vặc’ (b., số 24, 15.06.2002) hai từ ‘cao’ và ‘vằng vặc’ không tương hợp với nhau. Nên viết ‘Trời xanh, trăng sáng, cao vòi vọi’ hoặc ‘Trời xanh, trăng sáng vằng vặc.’
Sai lô gích là một câu viết không đúng quy tắc lô gích và tư duy. Ví dụ: Câu ‘Các loại áo nam, nữ, đơn giản nhưng họa tiết nhẹ nhàng thì người Pháp ưa chuộng, màu sắc trên quần áo sặc sỡ người Châu Âu lại hay mua.’ Sai lô gích vì người Pháp không phải là người Châu Âu sao?
Có lần văn hào Pháp A. Daudet viết: ‘Con lạc đà phi nước kiệu, theo sau là 3 nghìn người Ả Rập phô sáu trăm nghìn chiếc răng trắng nhởn.’ Câu này cũng sai lô gích vì tính ra mỗi người có tới... 200 chiếc răng. Ở những lần xuất bản sau người ta chữa ‘sáu trăm nghìn’ thành 6 nghìn. Như vậy lại hóa ra quá ít: mỗi người phô ra có... 2 chiếc răng?! (Con số hay gây ra những câu chứa mâu thuẫn lô gích)
Câu ‘Chú tôi bị thương hai lần, một lần ở đùi, một lần ở Khe Sanh.’ không sai ngữ pháp, cũng không sai từ vựng. Câu này sai vì đã chuyển hướng tư duy từ nơi bị thương trên cơ thể sang địa điểm bị thương. Thế cũng là sai lô gích.
Sai phong cách là câu viết không đúng quy tắc về phong cách. Ví dụ: ‘giọng ca solo, top mười, show ca nhạc, các best-seller được sản xuất trên dây chuyền...’ Câu này theo phong cách nửa Tây nửa ta. Thế là sai phong cách. Trong tiếng Việt có cách diễn đạt tương đương và đơn giản: ‘giọng đơn ca, tốp mười, chương trình ca nhạc, các đĩa bán chạy nhất được sản xuất trên dây chuyền...’
Sai tri thức là câu viết không đúng với thực tế hoặc không đúng với những kiến thức khoa học đã biết. Viết ‘[...] dù quân hiệu không còn gắn trên ve áo bạc màu’ là sai kiến thức vì quân hiệu đã gắn nhầm chỗ. Quân hiệu bao giờ cũng gắn trên mũ. Chỉ có phù hiệu (chỉ cấp bậc, binh chủng, quân chủng) mới gắn trên ve áo.
Dùng tiếng nước ngoài mà ‘chữ tác đánh chữ tộ’ thì tự nó sẽ tố cáo trình độ ngoại ngữ của tác giả. Có những lỗi tác giả có thể đổ thừa cho người đánh vi tính: ‘Miếng paté ung ủng mùi sông Tô Lịch’ (paté ← pâté); ‘Bãi xe ngập đầy những Autor và Moto’ (Autor ← auto).
Nhưng có những lỗi người viết không thể đổ thừa cho ai cả: - Tâm rút trong túi áo Bluson chai Henessy dẹt. (Bluson ← blouson) - Một vài kẻ làm ra baremt chuẩn cho toàn bộ xã hội. (baremt ← barème)... - ‘Fabregas là người Tây Ban Nha và thuộc tuýp tiền vệ trung tâm mà Real rất cần.’ (b., 07.05.2008) Lẽ ra là típ (type - kiểu); còn tuýp (tube - ống), như quần ống tuýp, tuýp thuốc đánh răng...
2.2. Đúng sai: Những ranh giới mong manh
2.2.1. Nhìn nhận hiện tượng sai không đơn giản
Có những cơ quan nhà nước đầy quyền hành về chữ nghĩa cũng có những quyết định không chuẩn.
Lấy lại tên gọi sau 99 năm
Lấy tên người đặt cho tên một vùng đất, một con kênh, một thị trấn... là chuyện bình thường. Nhưng viết thế nào mới đúng? Bang California (Mỹ) có một thị trấn được đặt theo tên ông Smart, người xây dựng tòa nhà đầu tiên của thị trấn vào năm 1856. Theo ngữ pháp tiếng Anh, lẽ ra ‘thị trấn của ông Smart’ viết là Smart’s ville thì người ta lại viết Smartsville. Năm 1909 Cơ quan Bưu điện Mỹ tuyên bố chữ S thứ hai trong Smartsville là sai ngữ pháp. Từ đó, thị trấn này được gọi bằng Smartville. Từ nhiều năm qua người dân thị trấn này đấu tranh giành lại tên gốc, giành lại ‘nguồn gốc, danh dự và sự nổi tiếng’ của thị trấn. Tháng 05.2008, Cơ quan phụ trách các tên gọi địa lý Mỹ phán quyết rằng, thị trấn có quyền sử dụng tên gốc Smartsville của mình. (Tuổi Trẻ, 28.05.2008). Vậy là thị trấn này được phép lấy lại tên cũ sau khi mất chữ S thứ hai trong suốt 99 năm qua. Vậy là có những cơ quan nhà nước đầy quyền hành về chữ nghĩa cũng có những quyết định không chuẩn.
Không có khái niệm sai về tên đặt ra trong giấy khai sinh. Cũng không có khái niệm sai về bút danh, bí danh. Ai muốn viết như thế nào mặc lòng. Tên gọi ‘nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa’ là đúng, mặc dù theo trật tự Hán-Việt có người cho rằng phải đảo lại trật tự mới chuẩn.
Có câu, người này cho là sai nhưng người khác lại thấy đúng. Câu ‘Với đồng lương hưu không đủ sống, từ những năm 1987, anh đã viết hàng chục lá đơn...’ (nhà báo và Công luận, 09-10/1993) đã bị T. Nh. phê là chỉ có một năm 1987, sao lại dùng từ những? Và nhà báo và Công luận đã cám ơn. Ấy thế nhưng chúng ta có thể hỏi: Phải chăng câu trên đây không sai? Trong tiếng Việt từ những còn được dùng với ý nghĩa nhiều: ‘Tôi cao những 1m8’, ‘Ông ấy có những 3 biệt thự’. Khi người bố hỏi ‘Tối qua con đi những đâu?’, người con có thể đáp vào từ những: ‘Có đâu mà những! Con chỉ sang ôn bài ở nhà Bé Ba’. Vậy nếu người viết muốn nói từ nhiều năm rồi, từ những năm 1987, thì câu trên đâu có sai?
- Hoa cúc đẹp nhưng hoa ngâu thơm hơn. (Tiếng Việt, lớp 5, tập I) Có báo phê câu này dùng sai từ nhưng vì đẹp đâu có đối lập với thơm. Thật ra câu này hoàn toàn bình thường. Đây là cách so sánh một điều tường minh, rõ ràng với một điều ngầm ẩn: ‘hoa cúc đẹp (nhưng không thơm)
còn hoa ngâu (tuy không đẹp, nhưng) lại thơm’. Từ nhưng trong câu trên cho biết người nói trọng mùi thơm của hoa hơn là hình thức đẹp của nó. Lối so sánh này hay gặp lắm:
- Tôi nghĩ là nên chọn cô A.
- Chúng ta cần người thông minh nên tôi chọn cô B. Cô A xinh đẹp nhưng cô B thông minh’
Không sai nhưng dễ tưởng là sai.
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận viết:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi...
Có bạn đã từng hỏi về câu thơ này: Mặt trời khuất núi, xuống núi chứ sao lại ‘xuống biển’? Rất đơn giản vì Huy Cận sáng tác bài thơ này trong chuyến đi thực tế ở đảo Cát Bà, Hải Phòng. Ở đảo thì bốn bề là biển, mặt trời lặn xuống phía Tây thì vẫn là xuống biển.
Một chuyên gia tiếng Việt, tiến sĩ người Séc Ivo Vasiljev nhận xét: ‘Ở một cửa hàng trên đường Lê Thánh Tôn, Q.1 (Tp. HCM) có hàng chữ giới thiệu ‘hàng mới về’. Trước đó, hàng không có ở đây mà bây giờ lại ‘về’? (Tuổi Trẻ, 24.10.2010)
Thật ra trong tiếng Việt cách dùng ‘gió bấc tràn về’, ‘Đưa hàng về phục vụ bà con’; ‘mang ánh sáng về bản làng’; ‘Về đâu, về đây khi gió mùa thơm ngát/ôi cánh chim giang hồ?’ (Đàn chim Việt)... đã được người Việt dùng bình thường. Từ về không chỉ còn nghĩa ‘trở về cội nguồn, trở về nơi từ đó ra đi’. Nó đã thêm một nét nghĩa mới ‘chuyển động có mục đích tới một nơi nào đó’.
Lại nữa, có người cho rằng trong các phiên họp Quốc hội, nhiều quan chức đã dùng sai từ ‘tỷ trọng’, như: ‘Trong năm 2010 sản lượng lúa xuất khẩu đạt x triệu mỹ kim chiếm tỷ trọng y% tổng số kim ngạch xuất khẩu.’ Ở đây phải dùng từ tỷ lệ mới đúng. Phê phán như vậy, tác giả đã đòi hỏi dùng từ tỷ trọng đúng theo khái niệm vật lý: đem trọng lượng một khối vật chất chia cho trọng lượng của một khối vật chất đối chứng (thường lấy chất đối chứng là nước) sẽ được tỷ trọng của chất đó. Nói tỷ trọng của sắt là 7,8 có nghĩa là sắt nặng gấp 7,8 lần nước. Tuy nhiên, từ đời thuở nào đó người ta đã dùng sai từ tỷ trọng với nghĩa là ‘tỷ lệ của một phần nào đó so với tổng thể’. Vì vậy, có thể chấp nhận được câu dẫn trên đây của các đại biểu Quốc hội.
2.2.2. Không sai nhưng lại là... sai. Không sai nhưng trái ý người viết
Trên tuần báo P. có bài ‘người Hà Nội mù chữ’. Bài này chỉ nêu lên hiện tượng có một số người Hà Nội mù chữ, thế mà lại viết ‘người Hà Nội’. Viết vậy hóa ra: Mọi người Hà Nội đều mù chữ. Đầu đề này mang định hướng chê người Hà Nội, ngược với ý tác giả bài phóng sự. Bây giờ chúng ta thử đổi thành: ‘Người Hà Nội cũng mù chữ?’ Do dùng kiểu hỏi, đầu đề này thể hiện được sự ngạc nhiên chứ không còn là lời chê nữa. Từ cũng trong câu hỏi này tạo nên ý sau: Người vùng nào mù chữ còn hiểu được chứ ‘người Hà Nội mà cũng mù chữ’ thì không thể tin được. Kết quả là trong thâm tâm có ý đánh giá cao Hà Nội về dân trí. Vậy là, thêm một từ hư chúng ta chuyển một câu sai thành câu đúng.
Từ hư còn có thể giúp phát hiện ra những nội dung sai lầm. Trong một luận văn thạc sĩ ở đại học C., học viên X viết:
‘Ở An giang có một cù lao mang tên Cù lao Ông Chưởng. Ba phen quạ nói với diều,
Cù lao Ông Chưởng còn nhiều cá tôm.’
Sao lại ‘còn nhiều’? Cụm từ ‘còn nhiều’ này ngầm nói về một điều khác: Nhiều nơi khác mất dần cá tôm. Điều này đúng trong thực tế. Nhưng đây là ca dao. Việt Nam chưa có những ca dao đề cập tới môi trường. Do vậy suy ra câu ‘sưu tầm’ trên là sai. Nhiều khả năng sai ở từ còn. Nhờ vậy, đoán được có lẽ câu ca dao đúng nói về một đặc sản vùng cù lao Ông Chưởng là:
‘Ba phen quạ nói với diều,
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.’
Khen cái này lại phủ định cái kia, điều mà người viết không muốn những hàm ý từ trạng ngữ.
Trên tivi, có MC nói: ‘Không như những chương trình khác, chương trình Việt Nam - đất nước - con người được dàn dựng công phu, ngôn ngữ chọn lọc, trau chuốt...’ (29.06.2008)
Câu trên đây đề cao chương trình Việt Nam - đất nước - con người, nhưng vô tình mà tạo ra hàm ý hạ thấp giá trị của những chương trình khác. Loại hàm ý này liên quan đến trạng ngữ của câu. Chức năng của trạng ngữ là giới hạn tính đúng đắn của câu trong khuôn khổ trạng ngữ đó. Điều này ngầm ẩn nói rằng người nói không chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của
nội dung được đề cập ở ngoài phạm vi trạng ngữ. ‘Không như những chương trình khác’ là một trạng ngữ so sánh chương trình này khác biệt tất cả các chương trình khác. Chương trình này công phu thì những chương trình khác sẽ không công phu...
Có bài viết ‘Khác với Dế mèn phiêu lưu ký, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đã đem lại nhiều tiếng vang lớn cho nhà văn Tô Hoài’. Câu trên ca ngợi truyện Vợ chồng A Phủ’ nhưng vô tình đã hạ thấp Dế mèn phiêu lưu ký. Thế là khen cái này, nếu vô ý về câu chữ có thể dẫn tới chê cái kia, điều mà người viết không muốn. Cụm từ ‘khác với’ mở đầu trạng ngữ của câu đã tạo ra hàm ý không mong muốn đó. Chỉ cần thay ‘khác với’ bằng ‘giống như’ chúng ta sẽ được một câu ca ngợi cả hai tác phẩm: ‘Giống như Dế mèn phiêu lưu ký, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cũng là một tác phẩm đã đem lại nhiều tiếng vang lớn cho nhà văn Tô Hoài’. Trên báo H., có người viết về tình cảm với Xuân Diệu của nhà thơ Trần Đăng Khoa như sau: ‘Hồi nhỏ, Trần Đăng Khoa rất kính trọng nhà thơ Xuân Diệu.’
Đọc dòng trên độc giả sẽ hỏi: Hồi nhỏ là vậy còn hiện nay thì sao? Đã khẳng định ‘hồi nhỏ rất kính trọng’ thì hiện nay không thể là ‘rất kính trọng’ được nữa vì nếu trước sau vẫn luôn luôn rất kính trọng thì cần gì tới trạng ngữ ‘hồi nhỏ’? Ấy thế là hồi nhỏ rất kính trọng còn hiện nay thì khác... Nghĩa là không rất kính trọng nữa! Ca ngợi như vậy thì bằng mười phụ nhau.
Những câu sau cũng gây ra những hiểu lầm tai hại cho dù người viết có thể không có ngụ ý gì:
- Hồi trước, ông ấy liêm khiết lắm.
- Nó đã từng là người tử tế.
- Mấy năm trước cô ấy xinh lắm.
- Hiện tượng các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng tiêu tốn hàng chục tỉ, trăm tỉ, ngàn tỉ đồng vừa hoàn công (thậm chí chưa hoàn thành thủ tục hoàn công, quyết toán) đã hư hỏng hoặc không thể sử dụng được [như...] không phải chuyện cá biệt ở Việt Nam. (b., 26.10.09)
Trong câu trên trạng ngữ ở Việt Nam đặt cuối khiến câu trở thành mơ hồ mà nghĩa thứ hai là: ‘không phải cá biệt ở Việt Nam mà ở nhiều nước khác cũng vậy’ nghĩa này dẫn tới cảm nhận rằng bài báo này bào chữa cho những sai phạm trong xây dựng hạ tầng ở Việt Nam. Chỉ cần đảo thứ tự, đưa trạng ngữ lên đầu, thì hiện tượng mơ hồ trên sẽ bị mất đi.
Câu chỉ còn hàm ý phê phán:
- Ở Việt Nam, hiện tượng các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng tiêu tốn hàng chục tỉ, trăm tỉ, ngàn tỉ đồng vừa hoàn công (thậm chí chưa hoàn thành thủ tục hoàn công, quyết toán) đã hư hỏng hoặc không thể sử dụng được [như...] không phải chuyện cá biệt.
Vai trò của tiền giả định trong hàm ý:
Ông nhớ không, hồi chưa cưới tôi lúc nào ông cũng bảo ‘mỗi ngày chỉ cần gặp em một vài phút là anh đã thấy sung sướng lắm rồi’.../ Bây giờ tôi cũng chỉ muốn được như vậy thôi bà ơi! (TTCT, 27.11.2011) Chưa cưới có tiền giả định thời gian không gặp nhau nhiều gấp bội thời gian gặp nhau. Vì vậy ‘mỗi ngày chỉ cần gặp em một vài phút’ có hàm ý mong muốn được gặp nhau.
Đã thành vợ chồng, hàng ngày chung sống, có tiền giả định thời gian gặp nhau nhiều gấp bội thời gian không gặp nhau. Vì vậy ‘mỗi ngày chỉ cần gặp em một vài phút’ có hàm ý mong muốn không phải gặp nhau. Không sai nhưng không thích hợp với tình huống.
Nói năng trong giao tiếp bạn bè khác giao tiếp trước công chúng. Trò chuyện trên bàn ăn khác giao tiếp nghi lễ chính thống.
Có những quốc gia quy định về ngôn ngữ văn hóa trong những môi trường nhất định. Tại Quốc hội Israel (Knesset), một quy định về ‘đạo đức lời nói’ bắt đầu có hiệu lực từ 21.06.2001. Ông nghị nào vi phạm sẽ bị... chế tài. Theo quy định này có một danh sách các từ cấm kị mà các ông nghị không được dùng trong Quốc hội. Đó là những từ thô tục, là những từ mà người Israel cho là lăng nhục họ, như ‘kẻ phản bội’, ‘tên thất học’, ‘tên độc ác’, ‘kẻ giả dối’... và là những từ mang màu sắc chính trị hoặc tôn giáo như ‘bài Do Thái’, ‘phát xít’, ‘tên khủng bố’, ‘chính phủ của những kẻ giết người’... (Tuổi Trẻ, 23.06.2001).
Một vận động viên thể thao thường bị coi là ‘võ biền’ nhưng trước công chúng thì không được phép có những cử chỉ và lời nói thiếu văn hóa. Trong trận bán kết giải Wimbledon ngày 03.07.2009, đang trong lúc thi đấu Andy Murray bị trọng tài nhắc nhở vì có những lời nói ‘không thích hợp.’ (VTC 3). Ngoài đường phố, trong quán cà phê, khi ‘tám’ với bạn bè có thể dùng ngôn ngữ đường phố, dùng tiếng lóng, nhưng trong nghị trường thì không thể nói ‘Tôi đồng ý xử nghiêm [...]. Nghiêm ở đây không có nghĩa sai là ‘chặt chém’ ngay, như vậy thì hết người, không có người để làm.’ (Tuổi Trẻ, 13.06.2010)
ẳ
Thay đổi, thêm bớt một từ, một dấu có thể làm nội dung câu khác hẳn đi. Câu đúng đấy nhưng vẫn có thể... sai.
2.2.3. ‘Sai’ nhưng lại là... đúng
Có những câu đứng riêng rẽ thì sai nhưng đặt trong ngữ cảnh thích hợp thì lại đúng. Ví dụ: ‘Bà nổi tiếng là một người đàn ông nghiêm nghị’ (PNVN, số 30, 1984). Có đọc cả bài mới biết người viết câu này có cái lý của mình. Đây là câu chuyện viết về bà De James người nước Anh, đóng giả trai và trở thành đại tướng quân y. Mãi tới năm 1865 khi bà mất người ta mới biết viên tướng này là một phụ nữ. Kể chuyện về một phụ nữ nên phải viết ‘Bà nổi tiếng là...’, nhưng nhà báo viết theo điểm nhìn của người đương thời với vị tướng này... là người đàn ông nghiêm nghị’. Thế là thành câu trên, một câu có thể chấp nhận được.
Từ câu đúng tới câu sai
Một văn bản, một câu nói chuẩn, nhưng dưới góc độ một cán bộ biên tập thì lại không đạt yêu cầu về sự chính xác ở một vài từ ngữ nào đó, nên đã biên tập lại. Người ta thay thế từ ngữ được biên tập lại này bằng những từ ngữ khác nhưng ít chú ý tới những biến đổi ngữ pháp khi thay thế từ. Một từ này không đòi hỏi giới từ nhưng từ thay thế cho nó lại đòi hỏi giới từ, hoặc ngược lại, thế là dẫn tới những câu sai. Chẳng hạn, khi trả lời phóng viên báo T, một vị phó chủ tịch thành phố nói: ‘Vấn đề là chúng ta đang thiếu năng lực điều hành’. Dùng câu này làm tiêu đề cho bài phỏng vấn, nhưng có lẽ phóng viên nọ cho rằng từ ‘thiếu’ là một nhược điểm quá nặng, vì ‘thiếu’ là không có, nên đã giảm nhẹ đi bằng từ ‘hạn chế’. Vậy là có bài báo với hàng tít rất lớn đặt ngay đầu trang nhất ‘Vấn đề là hạn chế năng lực điều hành’ (b., 20.02.2006). Tít này sai ngữ pháp. Nói ‘hạn chế’ có nghĩa là ngăn lại, không cho vượt qua một mức nào đó. Lẽ ra, cần đặt tít là ‘Vấn đề là năng lực điều hành còn (/bị) hạn chế’; ‘Vấn đề là hạn chế về/trong năng lực điều hành’.
2.3. Sửa câu sai thế nào?
2.3.1. Nhìn nhận hiện tượng sai thế nào?
Có nhiều ý kiến xác đáng khi bàn về câu sai. Song không khỏi có những ý kiến khiến người đọc băn khoăn khó chấp nhận. Có những điều đơn giản, mọi người vẫn nói như thế nhưng sao có nhà nghiên cứu lại cứ làm rắc rối ra rồi bảo là thừa, là sai, là thiếu lô gích? Lại có những câu sai mà mỗi nhà ngôn ngữ phân tích lỗi theo một cách. Bởi vậy phân định đúng sai và nguyên nhân dẫn tới những câu sai là cần thiết nhưng cũng không đơn giản.
Đã có người viết trên báo rằng lối nói ‘cấm không được hút thuốc lá’ là sai vì nó mâu thuẫn, không có lô gích: Đã cấm sao lại còn không được? nói vậy chả hóa ra cho phép hút thuốc lá hay sao? Và tác giả này đã đề nghị hoặc nói ‘không được hút thuốc lá’ hoặc là nói ‘cấm hút thuốc lá’. Sự thực, cả ba lối nói ‘cấm không được hút thuốc lá’, ‘không được hút thuốc lá’ và ‘cấm hút thuốc lá’ đều đúng. Chúng ta chứng minh được điều này.
Hiện tượng ngôn ngữ nào được nhiều người dùng ấy là đã được xã hội chấp nhận. Cái đúng của ngày hôm nay có thể được hình thành từ cái sai của ngày hôm qua. Và cũng hàng loạt cái đúng của ngày hôm qua thì nay lại không dùng nữa. Có thể chỉ ra hàng loạt từ ngữ mà thời Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng nhưng nay không dùng như vậy. Chuẩn mực ngôn ngữ là một hiện tượng động. Và xảy ra hiện tượng ‘để lâu câu sai hóa đúng’ (x.§ 2.4). Có những nghiên cứu đòi hỏi biết từ nguyên của từ ngữ, nhưng thông thường chỉ cần biết nghĩa hiện dùng của từ là đủ. Biết thêm gốc Hán-Việt của từ càng tốt nhưng không nên lấy gốc Hán làm căn cứ quan trọng nhất để phán xét đúng sai cho một từ.
Trở lại với cấm và cấm không được. Hàng loạt động từ như quên, thôi, kiêng, tránh,... cũng giống hệt như cấm. Chúng đều có những cách nói ‘mâu thuẫn’ nhau, người nói cách này, người dùng cách kia: quên mang sách/quên không mang sách, kiêng ăn mỡ/kiêng không ăn mỡ, thôi bán hàng/thôi không bán hàng, tránh gặp nhau/tránh không gặp nhau...
2.3.2. Có nhiều cách sửa một câu sai
Có nhiều cách phân tích, nhìn nhận một hiện tượng sai. Do vậy dẫn đến những cách sửa khác nhau. Chỉ ra đúng nguyên nhân của một câu sai sẽ giúp chúng ta sửa câu sai đó một cách hợp lý nhất.
Viết những câu ngắn thường đúng. Ai cũng cảm nhận được quy tắc ngữ pháp của chúng. Viết những câu dài là đã mở rộng các thành phần của câu
ra tầng tầng lớp lớp. Viết những câu dài do đưa nhiều ý vào một câu thì dễ quên những điều đã viết, và cũng dễ quên mối liên hệ giữa các thành phần chính và mối liên hệ giữa mỗi thành phần chính với những thành phần phụ. Kết quả là dễ dẫn tới những câu sai ngữ pháp. gặp câu dài, bạn hãy tìm cách gỡ dần dần đưa nó về câu ngắn nhất.
Chúng ta thực hiện các bước sau:
a) Tìm câu lõi của câu đó:
- Những từ nào trong câu này có thể làm vị ngữ?
- Những từ đó có quan hệ với nhau thế nào? (chú ý tới vai trò của từ hư trong thể hiện quan hệ)
- Từ nào có thể là vị ngữ cốt lõi?
b) Nghĩ tới những câu thật đơn giản dùng động từ trung tâm đó. c) Quan hệ giữa động từ trung tâm và những động từ còn lại thế nào? d) Đối chiếu sự khác biệt giữa những câu đơn giản này cùng mối liên hệ giữa chúng với câu cần sửa bạn sẽ phát hiện ra những chỗ ‘vênh’. Từ đó chỉ ra được lỗi và cách sửa câu đang xem xét.
Ví dụ 1: Một câu sai có nhiều cách phân tích lỗi khác nhau (1) ‘Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.’
Các nhà ngôn ngữ học, người cho rằng đây là câu thiếu chủ ngữ; người thì quy kết do chưa nắm vững cách dùng quan hệ từ: hoặc coi là dư từ trong, hoặc coi là dư từ của. Có người lại phân tích do không biết dùng trạng ngữ: đã lẫn phần phụ với chủ ngữ.
Chúng ta theo cách sau:
Bước 1: Tìm câu cốt lõi. Câu trên có một động từ là miêu tả. Câu cốt lõi là câu chứa động từ này. Ai miêu tả? Tác giả truyện Kiều, tức là Nguyễn Du. Vậy câu cốt lõi là ‘Nguyễn Du đã miêu tả...’
Bước 2: So với câu này thì câu 1 thiếu một từ đặt trước động từ miêu tả làm chủ ngữ. Vậy thử thêm Nguyễn Du hoặc ông vào câu 1: (1a) Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông, Nguyễn Du đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
(1b) Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông, ông đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
Hai câu này đều đúng, nhưng còn nặng nề. Dư từ ‘của ông’. Vậy bỏ đi: (1c) Trong toàn bộ Truyện Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
(1d) Trong toàn bộ Truyện Kiều, ông đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
Sửa tới đây, bạn có thể dừng lại. Nhưng nếu muốn diễn đạt theo cách khác? Chúng ta lưu ý tới cách chuyển cấu trúc chủ động thành cấu trúc bị động: ‘miêu tả xã hội phong kiến...’ chuyển thành ‘xã hội phong kiến... được miêu tả’.
(1e) Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông, xã hội phong kiến thối nát đã được miêu tả một cách sâu sắc.
(1g) Trong toàn bộ Truyện Kiều, xã hội phong kiến thối nát đã được Nguyễn Du miêu tả một cách sâu sắc.
Để nhấn mạnh bổ ngữ ‘xã hội phong kiến thối nát’ thì đưa nó lên đầu câu và chuyển trạng ngữ xuống cuối:
(1h) Xã hội phong kiến thối nát đã được Nguyễn Du miêu tả một cách sâu sắc trong toàn bộ Truyện Kiều.
(1i) Xã hội phong kiến thối nát đã được miêu tả một cách sâu sắc trong toàn bộ Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Từ cách nhìn nhận ‘chưa nắm vững cách dùng quan hệ từ’ sẽ dẫn tới kết luận câu đó dư từ trong hoặc của. Để sửa câu này, chỉ việc bỏ đi từ dư trong hoặc của:
(1k) Toàn bộ Truyện Kiều của ông đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
(1l) Trong toàn bộ Truyện Kiều, ông đã miêu tả một cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
Ví dụ 2: Lỗi về ‘trạng ngữ’ - loại lỗi đã thành cố tật ở những câu không dài: (2) Theo bài báo cho biết vấn đề này rất phức tạp.
Câu này có hai từ có thể làm vị ngữ: cho biết và rất phức tạp. Trật tự thông thường trong câu nói: cho biết một điều rất phức tạp. Vậy cho biết là động từ cốt lõi. Chúng ta so sánh nó với những câu có động từ cho biết làm vị ngữ mà ai cũng thấy là đúng:
(2) Theo bài báo cho biết vấn đề này rất phức tạp.
(3) Hùng cho biết vấn đề này rất phức tạp.
(4) Quần chúng cho biết vấn đề này rất phức tạp.
Chủ ngữ trong các câu 3 và 4 là những danh từ (Hùng, bài báo). Trong khi đó phần đầu của câu 2 ‘theo bài báo’ lại không phải là danh từ. Bỏ từ ‘theo’ thì còn lại danh từ ‘bài báo’. Và chúng ta có câu đúng.
(2a) Bài báo cho biết vấn đề này rất phức tạp.
Cách sửa thứ hai. Đặt lại vấn đề: Có loại câu nào bắt đầu bằng‘Theo bài báo’, ‘Theo + DANH TỪ’ mà ai cũng thấy là đúng không? - Có. (5) Theo ông Hùng thì vấn đề này rất phức tạp.
(6) Theo quần chúng thì vấn đề này rất phức tạp.
Hai câu trên có khuôn: ‘Theo + DANH TỪ + thì + CÂU’. Trong câu 2, thử bỏ từ cho biết rồi thêm thì xem có ‘xuôi’ không:
(2b) Theo bài báo thì vấn đề này rất phức tạp.
Câu này nghe được. Vậy 2b là cách sửa thứ hai của câu 2. Cách sửa thứ ba. Có thể lược bỏ từ ‘thì’ trong các câu 2b, 5, và 6. Lúc đó, khi nói, cần ngừng một chút trước khi đọc tiếp ‘vấn đề này rất phức tạp’. Cái chỗ ngừng khi nói được thay bằng dấu phẩy khi viết. Vậy có thể viết lại các câu 2b, 5, và 6 như sau:
(2c) Theo bài báo, vấn đề này rất phức tạp.
(5a) Theo ông Hùng, vấn đề này rất phức tạp.
(6a) Theo quần chúng, vấn đề này rất phức tạp.
Phần đầu trong mỗi câu trên là trạng ngữ.
Ví dụ 3: Câu vừa sai vừa dư:
(3) Nhiều bệnh viện công cấm viện trợ về chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí cấm hỗ trợ cả máu cho bệnh nhân ở các bệnh viện tư. (Lời Ô. NVN, dẫn lại theo TTCT, 23.12.2007) Trong câu này, có hai từ sai: hỗ trợ, ở. Nguyên nhân: 1) hiểu sai từ Hán-Việt ‘hỗ trợ’; 2) do áp lực tránh lặp lại hai từ ‘cho’ nên đã thay từ cho thứ hai bằng từ ở. Kết quả là ‘cấm viện trợ về chuyên môn... ở các bệnh viện tư’. Cách nói ‘hỗ trợ cả máu cho bệnh nhân ở các bệnh viện tư’ là dư. Vì hỗ trợ máu cho bệnh viện cũng là hỗ trợ máu cho bệnh nhân. Chỉ cần nói ‘trợ giúp máu cho bệnh viện’ là đủ. Câu trên cần được sửa thành ‘nhiều bệnh viện công cấm viện trợ về chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí cấm trợ giúp cả máu cho các bệnh viện tư’.
Ví dụ 4: Một câu sai ‘hỗn hợp’: vừa sai ngữ pháp, vừa sai từ vựng, vừa sai phong cách.
(4) Thi thể người mẹ được con gái 11 tuổi phát hiện ở phòng ngủ của bà và bà ngoại của em đã vội thông báo cho cảnh sát. (b., 18.11.2010) Bước 1: Tìm câu cốt lõi
Câu trên có những động từ nào? - phát hiện và thông báo. Phát hiện và thông báo có liên quan mật thiết với nhau về nghĩa. Sau khi phát hiện sự kiện mới thông báo sự kiện. Vậy phát hiện và thông báo là hai động từ tạo ra mối quan hệ nhân quả làm nên câu cốt lõi.
Ai phát hiện, ai thông báo? - Đứa con.
Phát hiện gì? - Thi thể người mẹ.
Ở đâu? - Ở phòng ngủ của bà và bà ngoại.
Thông báo cho ai? - Cho cảnh sát.
Quan hệ cốt lõi là: ‘Đứa con phát hiện thi thể người mẹ... và (/rồi/liền) thông báo cho cảnh sát’. Tới đây có ba cách căn bản để sửa câu trên: Hoặc tạo ra một câu ghép lỏng nối với nhau bằng dấu phẩy hoặc dùng dấu chấm tạo ra 2 câu kế tiếp nhau:
(4a) Đứa con phát hiện..., đứa con thông báo...
Hoặc tạo ra một câu nhân quả nối với nhau bằng từ liền.
Hoặc từ và (ở trường hợp này, tôi không gọi là câu có thành phần đẳng lập):
(4b) Đứa con phát hiện... liền thông báo...; Đứa con phát hiện... và thông báo...
Hoặc tạo ra một câu đơn có trạng ngữ:
(4c) Phát hiện thi thể..., đứa con liền thông báo...
Sao đứa con 11 tuổi lại gọi mẹ là người mẹ, là bà? Người viết đã chuyển điểm nhìn của đứa con thành điểm nhìn của phóng viên. Vậy cần thay từ người mẹ và từ bà thứ nhất thành từ mẹ: Thi thể mẹ ở phòng ngủ của mẹ và bà ngoại.
Sửa theo cách b), chúng ta được:
(4b) Đứa con phát hiện thi thể mẹ ở phòng ngủ của mẹ và bà ngoại, đứa con liền thông báo cho cảnh sát.
Sửa về phong cách.
1) Từ thông báo còn có thể dùng trong tình huống cơ quan nhà nước thông báo cho dân một chính sách. Vậy thay vì thông báo nên dùng từ báo cho nghĩa hẹp hơn.
2) Con gái là một từ chỉ loài, nên thêm từ đứa để đứa con gái 11 tuổi thành người con xác định.
3) Một câu khi lặp lại sẽ thành nặng nề. Vậy nên dùng từ nó, em thay thế cho từ đứa con lặp lại. Thế là ít nhất chúng ta cũng được 3 câu sửa theo các cách a, b, c:
(a1) Đứa con gái 11 tuổi phát hiện thi thể mẹ ở phòng ngủ của mẹ và bà ngoại. Em vội báo cho cảnh sát.
(b1) Đứa con gái 11 tuổi phát hiện thi thể mẹ ở phòng ngủ của mẹ và bà ngoại liền báo cho cảnh sát.
(c1) Phát hiện thi thể mẹ ở phòng ngủ của mẹ và bà ngoại, đứa con gái 11 tuổi liền báo cho cảnh sát.
2.3.3. Có nhiều mức độ sai, nhiều mức độ sửa câu sai hiện tượng sai có thể xảy ra ở nhiều mức độ. Do vậy có nhiều mức độ khi sửa một câu sai.
Mức độ 1: Những câu sai không sửa không được. Đó là những câu sai ngữ pháp, sai lô gích, sai tri thức, câu sai chính tả.
Mức độ 2: Những câu dư, sai trong phiên âm, câu không hợp về phong cách như dùng phương ngữ không đúng chỗ, dùng những từ khó, dùng thuật ngữ, dùng từ vay mượn không cần thiết... Những câu không hợp với cách nói người Việt. Đây là những câu có thể tạm chấp nhận được.
Mức độ 3: Những câu gọi là sai cũng được mà bảo không sai cũng được. Những câu dùng từ chưa đạt, không ‘đắt’ vì có thể chọn những từ gần nghĩa chính xác hơn. Đây là những câu có thể viết chính xác hơn, hay hơn. Ví dụ 1: ‘ngày 04-08-1442, sau khi đi tuần ở miền Đông [...], Lê Thái Tông được Nguyễn Trãi đón về.’
Câu trên có hai chỗ nhầm. Thứ nhất, lẫn âm lịch và dương lịch. ‘Lê Thái Tông được Nguyễn Trãi đón về ngày 4 tháng 8 năm nhâm Tuất, tức 07-09- 1442’. Lỗi này ở mức độ 1, nhất thiết phải sửa.
Thứ hai, vua đi tuần thú. Chỉ có lính trơn mới đi tuần. Đây là lỗi dùng từ cổ không thích hợp với vai vua. Ngày nay không còn dùng từ này nữa nên lỗi này ở mức độ 2 và có thể châm chước.
Ví dụ 2: ‘Ông (một trung tá ngụy) đã kêu gọi toàn bộ sĩ quan, binh sĩ trong trung đoàn buông súng trở về với quân giải phóng để tránh hy sinh không đáng phải xảy ra.’ (b., 02.05.2002)
Câu trên sai ở mức độ 2. Kẻ địch chết thì không nói... hy sinh. Nói vậy hóa ra tôn vinh địch.
Ví dụ 3: ‘Hãy cho tôi tiền rồi tôi sẽ giúp ông trốn thoát.’ Đây là cách nói theo tiếng Anh (give me some money and I’ll help you escape). Trong trường hợp này, người Việt thường nói: ‘Có tiền không? Tôi sẽ giúp ông trốn thoát.’
Mặc dù có thể nói như tiếng Anh (The ball reached the white line) Nhưng không nên viết ‘Trái banh chạm vào cái vạch màu trắng’ khi tường thuật một trận quần vợt vì người Việt nói đơn giản ‘Banh chạm vạch (trắng)’.
Những tục ngữ dịch theo nghĩa đen tuy không sai nhưng không phải là cách nói của người Việt. Loại sai này ở mức độ 3.
Ví dụ 4: ‘Người này sục bụi cây nhưng người khác lại vớ được chim’ (One beat the bushes and another catches the bird).
Trong trường hợp này, nên dịch là ‘Thằng còng làm thằng ngay ăn’ hay ‘Cốc mò cò xơi’.
Ví dụ 5: Rải rác trong các chương sách có các bảng kê và sơ đồ, chúng được đánh số theo số thứ tự của các mục tương ứng ở mỗi chương. Những ký hiệu chuyên môn được sử dụng trong sách này là phổ biến trong sách vở ngôn ngữ học, khi thực sự cần thiết, chúng sẽ được ghi chú ngay ở nơi mà chúng xuất hiện [...] hiển nhiên là không phải tất cả mọi vấn đề có liên quan đến hiện tượng âm tiết và loại hình ngôn ngữ đều đã được đặt vào chương trình nghị sự của sách này. (dẫn theo Trần Mạnh Hảo, Người Hà Nội, 20.07.2002)
Đoạn này có hai loại sai. Mức độ 2: Dư từ tất cả và dư những từ gạch chân. Mức độ 1: Sai từ nghị sự, một từ chỉ dùng trong những cuộc hội thảo chứ không dùng trong chương trình của sách nghiên cứu.
Ví dụ tổng hợp: (1) Số đỏ là kiệt tác số một trong giới văn xuôi của Vũ Trọng Phụng.
Mức độ 1: Sửa sai về lô gích (sai từ giới)
Các từ họ, nhóm, ngành, bộ, giới... trỏ những tập hợp dùng trong phân loại đối tượng. giới văn xuôi = những người viết văn xuôi. Trong khi đó kiệt tác (tác phẩm kiệt xuất) không phải là người. Nên Số đỏ và giới văn xuôi thuộc hai loại khác nhau. Nhất thiết phải sửa điểm sai lô gích này.
(1a) Số đỏ là kiệt tác số một trong những tác phẩm văn xuôi của Vũ Trọng Phụng.
Mức độ 2: Sửa yếu tố dư:
a) Vũ Trọng Phụng chỉ sáng tác văn xuôi. Vậy câu trên dư từ văn xuôi: (1b) Số đỏ là kiệt tác số một trong những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Hầu như không có ai mà mỗi tác phẩm đều là một kiệt tác. Do vậy dư cụm từ ‘trong những tác phẩm’:
(1c) Số đỏ là kiệt tác số một của Vũ Trọng Phụng.
Mức độ 3: Sửa phong cách
Không có thói quen xếp loại kiệt tác thành số 1, số 2, số 3... Cần bỏ số một.
(1d) Số đỏ là kiệt tác của Vũ Trọng Phụng.
Mức độ 4: Chính xác hóa tư duy
Để diễn đạt ý ‘Vũ Trọng Phụng có nhiều kiệt tác’ thì cần thêm từ một: (1e) Số đỏ là một kiệt tác của Vũ Trọng Phụng.
b) Mặc nhiên có tiền đề ‘Văn xuôi Việt Nam có nhiều kiệt tác, trong đó có Số đỏ’. Vậy nên đảo lại trật tự từ:
(1g) Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một kiệt tác.
2.3.4 Câu sai do chập cấu trúc (x. §9.1.2.)
2.4. Để lâu câu sai hóa... đúng3
Nhà ngôn ngữ học người Pháp gốc Thụy Sĩ Charles Bally viết: ‘Ngôn ngữ ngày mai được chuẩn bị trong một loạt những cái sai của ngôn ngữ ngày hôm nay’. Điều này có nghĩa là những cách nói sai hiện nay nếu không phê phán, quyết liệt ngăn cấm dùng kịp thời thì sẽ trở thành những cách nói đúng trong tương lai.
1. Cách nói ‘chiếc đồng hồ mới cứng’ hiện nay được coi là đúng. Ấy thế nhưng cách đây 40 năm nó bị coi là sai, vì lúc đó mới cứng chỉ dùng cho tiền giấy bạc mới in, còn cứng. Một từ khác: Cách nói ‘hỗ trợ cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn’ hiện nay được coi là bình thường. Trước đây, đó là cách nói sai. Vì hỗ là lẫn nhau (mutual), là từ hai phía. Hỗ trợ là sự giúp đỡ nhau từ hai phía. Lẽ ra phải nói ‘Trợ giúp (/giúp đỡ) cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn’.
Ngay từ đầu những cách nói sai mới cứng, hỗ trợ không bị phê phán, uốn nắn nên dần dần được nhiều người dùng. Kết cục thành cách nói được xã hội chấp nhận.
Những từ ngữ sai bắt nguồn từ quy định của cơ quan công quyền thì hết cách sửa, vì nó đã thành thuật ngữ của một khái niệm pháp lý. Ví dụ: Khi xe mô tô có dung tích xi lanh trên 50 cm3thì ngành công an gọi là ‘xe phân khối lớn’. Mọi người phải chấp nhận thuật ngữ này. Học trò tiểu học cũng biết rằng không có khái niệm phân khối lớn và phân khối nhỏ. Bây giờ không ai sửa được cái từ ngữ ‘xe phân khối lớn’ vô nghĩa về khái niệm này nữa!
2. Dùng từ ngữ dư thừa cũng là sai. Chúng ta nêu ở đây một kiểu dư thừa rất hay gặp trong cấu tạo từ ghép có một yếu tố Hán-Việt và nay đã thành ‘đúng’: cây đại thụ, đường quốc lộ, người nông dân,...
Từ Hán-Việt thụ là cây. Thế nên cách nói ‘Ông là một cây đại thụ trong giới sử học’ là dư. Nhưng cách nói này hiện nay được coi là đúng. Và đúng tới mức không thể bỏ từ cây. Nghe câu ‘Ông là một đại thụ trong giới sử học’ lại bị coi là không bình thường (!) Từ Hán-Việt nông dân là ‘người lao động sống bằng nghề làm ruộng’ (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên). Vậy thì ‘người nông dân’ cũng là dư. Những cách nói dư này đã trở thành bình thường đến nỗi đã đi vào những bài thơ nổi tiếng. Trong bài Viếng bạn, hoàng Lộc viết: ‘Hôm qua còn theo anh/ Đi ra đường quốc lộ/ Hôm nay đã chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ’. Vậy là câu dư để lâu cũng thành đúng.
Sở dĩ biểu thị điều sắp nêu ra là nguyên nhân, lý do giải thích tại sao có điều sẽ nói đến ngay sau đó. ‘Cuộc họp sở dĩ hoãn lại, là vì việc chuẩn bị chưa tốt’ (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên). Thực ra chỉ cần nói ‘Cuộc họp hoãn lại, là vì việc chuẩn bị chưa tốt’ là đủ. Cách nói dư ‘sở dĩ A là vì B’ đã được đưa vào một quyển từ điển có uy tín vì đã trở thành một ‘chuẩn’ mới!
3. Có những kiểu câu sai ngữ pháp nay cũng thành đúng. Năm 1977, trong mục Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên báo Nhân Dân, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Thản với bút danh Vương Thịnh đã viết về một loại lỗi ngữ pháp ‘Qua thực tế, cho thấy...’. Kiểu lỗi này được nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp tục thảo luận với tên gọi ‘sai về trạng ngữ’, nhưng không được xã hội và nhất là các cơ quan truyền thông và công quyền lên án mạnh mẽ nên nó tiếp tục được ‘duy trì’ và nay thành căn bệnh khó chữa. Trên các trang báo, trong các bài viết, xuất hiện không hiếm những câu như ‘Theo khảo sát mới đây của các nhà nghiên cứu, cho thấy nạn tự tử ở nhật Bản ngày càng...’ (Chào Buổi Sáng, 14.09.2010)
4. Thành ngữ ‘Chân đăm đá chân chiêu’ nói về dáng đi của người say rượu chân phải đá chân trái. Ngày nay không mấy người biết tiếng Việt cổ: đăm là phải, chiêu là trái như trong tục ngữ ‘Tay chiêu đập niêu không vỡ’. Nhưng từ ‘chiêu’ gần âm với từ ‘xiêu’, người ta liên tưởng tới hình ảnh người say thì đi xiêu vẹo lảo đảo. Thế là thành ngữ trên được nhiều người nói thành chân nam đá chân xiêu.
5. Khi một lỗi sai nào trở nên phổ biến thì chúng ta hãy dè chừng, chúng dễ trở thành những từ đúng trong tương lai. Một kiểu nói sai, nếu để lâu từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà càng về sau thì những người rõ cội nguồn (etymology) của nó càng ít đi nên họ dễ lầm tưởng là đúng.
Những từ ngữ sai nào dễ được chấp nhận? Đó là những từ ngữ sai có điểm tựa là ‘cơ sở lô gích về nghĩa’, là ‘từ nguyên dân gian’ có vẻ hợp lý. Chiều 09.07.1995 một nhân viên tòa soạn báo nọ hỏi tôi, viết xán lạng hay viết sáng lạn? Cách viết nào đúng? Tôi cười: Cả hai, mỗi cách viết đều sai một nửa, đúng một nửa. Một mặt, do không biết gốc của xán lạn nên nhiều người liên tưởng tới ánh sáng, tới sáng sủa, sáng rực rỡ trên những ngọn núi cao của từ xán lạn, nên đã viết xán lạn thành phải là sáng lạn. Mặt khác, ngoại trừ xán lạn, trong tiếng Việt không còn từ nào mà tiếng thứ hai là lạn, trong khi đó từ lạng là một đơn vị trọng lượng thì gặp hàng ngày. Ấy thế là xán lạn thành xán lạng!
Có chuyện sau: Chiều 16.05.1999, trên đài truyền hình trung ương, nhạc sĩ HK giới thiệu về chèo giảng giải: Nếu hát chèo có dở nhưng nếu có tiếng trống đệm hay, thì sẽ cứu vãn được cho ca sĩ. Đó là vụng chèo khéo trống (!) (dẫn Văn Nghệ, 04.07.1999). giải thích như vậy không xuôi. Người Nam Bộ có hát chèo đâu mà thành ngữ này vẫn dùng rất phổ biến? Thực ra trong vụng chèo khéo chống, hai từ chèo, chống liên quan đến mái chèo và cây sào, nghĩa đen của thành ngữ này nói về chuyện đi lại trên sông nước, còn nghĩa bóng lại là ‘làm thì dở, kém nhưng lại khéo biện bạch, chống chế’.
Tuy nhiên, một thành ngữ hay tục ngữ trong quá trình sử dụng nhiều khi được biến đổi theo kiểu ‘từ nguyên dân gian’cho phù hợp, thích hợp với những ngành nghề, những công việc nhất định. Vì vậy, quả là trong ngành biểu diễn người ta hay nói vụng chèo khéo trống. Thế là thành ngữ vụng chèo khéo chống có một biến thể mới. Con đường hình thành nhiều biến thể của một tục ngữ, thành ngữ phải chăng là như vậy? Cứ lối giải thích này, với thành ngữ trên người ta có thể ‘sáng tác’ ra những biến thể mới: Vụng trèo (cây) Nhưng khéo chống (thang), vụng trèo (cột mỡ) Nhưng khéo trống (đánh trống để cổ vũ)!
Con đường của một câu sai thành đúng như sau: Một cách nói A lúc đầu bị coi là sai. Do không sửa ngay, dần dần A trở thành cách nói tranh chấp với cách nói B vốn được coi là đúng. Tế bào lạ A này dần dần chiếm ưu thế và đẩy B trở thành cách nói ‘cổ’ ít dùng. Cuối cùng A hoàn toàn thắng thế và trở thành chuẩn mới.
Hiện tượng sai nào vừa mới ló ra, có nguy cơ trở thành ‘đại chúng hóa’, nếu được phân tích kịp thời và thích đáng thì có thể dẹp được. Chẳng hạn, đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước, có một tờ báo trong một loạt bài bàn về văn
hóa tốc độ có rất nhiều câu dùng từ tốc độ một cách vô nghĩa như: ‘nhịp sống tốc độ’, ‘thời đại tốc độ’, ‘chạy theo tốc độ’, ‘hãy tốc độ lên’, ‘tôi từng bị choáng vì tốc độ’... Tôi có trực tiếp góp ý kiến, toà soạn tiếp nhận một cách thiện chí, không dùng nữa. Tới nay, hầu như không còn kiểu nói tắt ‘tốc độ cao’, ‘tốc độ nhanh’ thành ‘tốc độ’ nữa. Thế là một lối sai theo kiểu nói tắt ‘nhà em hoàn cảnh lắm’, ‘đơn vị này có vấn đề’... đã được loại đi.
Một khi những cách dùng sai đã trở thành đúng thì các nhà ngôn ngữ học không thể áp đặt kiểu ‘nói đúng phải là...’. Lúc đó người ta không theo nữa. Dạy con từ thuở còn thơ. Lỗi sai cũng phải được nghiêm khắc phê phán ngay từ lúc chúng mới bơ vơ vào tiếng Việt.
Để lâu sai thành đúng, do vậy có những câu đúng hiện nay được hình thành trên cơ sở những cái sai. Suy ra trong không ít câu không thể biết được tính lô gích của nó. Một vài ví dụ:
(1) Từ ‘ngăn đe’ xuất hiện khoảng thập kỷ 60 thế kỷ trước, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, do từ deterrence response - ‘phản ứng ngăn đe’. Nay thành răn đe. Ai viết ngăn đe thường bị coi là sai (!) (2) Thông thường, có cặp đối lập ứng cử/đề cử. Ấy thế nhưng, ‘Việt Nam đã được bầu vào Ủy ban nhân quyền (nhiệm kỳ 2001-2003) [...] sau khi tự ứng cử trong cuộc họp hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hiệp Quốc ngày 03.05.’ (b., 09.05.2000)
Cụm từ ‘tự ứng cử’ này xuất hiện những lần đầu trong các kỳ bầu cử quốc hội Việt Nam và hội đồng nhân dân. (những người được các đoàn thể hiệp thương chỉ định, giới thiệu ra ứng cử thì được gọi là ứng cử. Do vậy những người ứng cử thực sự thì được gọi là tự ứng cử (!?)
(3) Bằng tốt nghiệp
Tất nghiệp là hoàn tất một công việc hay một sự nghiệp. Theo nghĩa này mà tạo ra cụm từ ‘bằng tất nghiệp’. Nhưng nó đã bị dùng sai thành bằng tốt nghiệp. Và nay chúng ta coi bằng tốt nghiệp là một cụm từ đúng.
CHƯƠNG 3. CÂU MƠ HỒ
3.1. Tiếng Việt có mơ hồ, thiếu chính xác?4
Trong phần này chúng ta chỉ đề cập tới hiện tượng mơ hồ - một câu có ít nhất hai cách hiểu, chứ chưa bàn tới kiểu người khôn ăn nói ‘nửa chừng’, hay làm trai cứ ‘nước hai’ mà nói. Thứ tiếng nào cũng có những câu mơ hồ. Tiếng Việt không là ngoại lệ.
Đã từng có quan niệm ‘tiếng Việt là thứ tiếng của thi ca, tiếng Anh - thứ tiếng của thương mại, tiếng Pháp - thứ tiếng của ngoại giao’. Quan niệm xưa cũ này vừa khen lại vừa chê tiếng Việt: một thứ ngôn ngữ nhiều hàm ý thích hợp với đặc thù ‘ý tại ngôn ngoại’ của ngôn ngữ thơ ca, nhưng cũng chính vì thế mà thiếu chính xác, mơ hồ trong diễn đạt.
Ngôn ngữ nào cũng mơ hồ
Hẳn bạn biết không ít chuyện cười do có những câu không biết hiểu thế nào cho đúng. Nghe câu ‘Ba về làng hỏi vợ’ quả là chúng ta không biết Ba về làng để cầu hôn hay xin ý kiến bà xã.
Sự kết hợp các chuỗi mơ hồ làm khả năng mơ hồ tăng lên. Năm 1969, trong một quyển sách nghiên cứu về ngữ pháp tạo sinh trong tiếng Anh, R. Jacobs và P. Rosenbaum đã chỉ ra câu tiếng Anh sau đây có 6 cách hiểu: ‘The seniors were told to stop demonstrating on campus’.
1) On campus có thể làm rõ nghĩa cho 3 hành động tell (nói); stop (dừng lại), demonstrate (biểu tình): Nói ở khu trường, dừng lại ở khu trường, biểu tình ở khu trường;
2) Kết hợp với hai cách hiểu về chủ thể của hành động biểu tình: sinh viên hay những người khác? sẽ thành 6 cách giải thích.
Iu. Aprexjan, nhà ngôn ngữ học Nga, trong quyển sách Những quan niệm và phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc hiện đại xuất bản năm 1966, đã đưa ra một câu tiếng Nga có tới 32 cách giải thích khác nhau kia đấy. Theo phép chuyển tự chữ Nga sang chữ Latinh câu này như sau: ‘Splochenie rabochikh brigad vyzvalo osuzhdenie tovarishcha ministra’ (sự hợp nhất - của công nhân - của các đội - đã gây ra - sự phán xét - của đồng chí - của bộ trưởng).
32 cách giải thích như sau:
1) Đầu tiên, splochenie rabotchikh có hai cách hiểu vì nó đồng thời là kết quả của phép danh ngữ hóa hai câu khác nhau: Nekto splachivaet rabotchikh (có ai đó hợp nhất công nhân lại) và Rabochie splachivajutsija (công nhân tự hợp nhất lại). Tương tự, splochenie brigad cũng có hai cách hiểu. Cho nên hợp hai danh ngữ này lại sẽ tạo thành danh ngữ ‘splochenie rabochikh brigad’ có tới 4 cách hiểu.
2) Lập luận hoàn toàn tương tự, danh ngữ osuzhdenie tovarishcha ministra cũng có 4 cách hiểu.
3) Bốn cách hiểu của danh ngữ thứ nhất kết hợp với 4 cách hiểu của danh ngữ thứ hai tạo ra 16 cách hiểu.
4) Cả hai danh ngữ trên đều là giống trung nên đều có thể làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu đang xem xét. Do vậy thành 16x2 = 32 cách giải thích.
Có sự mơ hồ do những từ đồng âm. Khi ông thầy bói gieo cho bà lão móm tính chuyện đi bước nữa một quẻ ‘Lợi thì có lợi (nhưng răng không còn)’ ấy là ông đã chơi chữ trên hai từ lợi đồng âm. Số lượng từ đồng âm trong nhiều ngôn ngữ lớn gấp nhiều lần so với tiếng Việt. Tiếng Hàn chẳng hạn. Trong tiếng Hàn có rất nhiều từ gốc hán. Tiếng Hán có 4 thanh, còn tiếng àn thì không. Mà chữ àn là thứ chữ ghi âm. Thế là rất nhiều từ án cùng vần khác thanh khi vào tiếng àn liền trở thành những từ đồng âm. Người Hàn đọc chữ Hàn nhiều khi cũng chẳng hiểu đích thực nghĩa. Ví dụ: có nhiều tiếng Hàn phát âm là sung nên khi viết từ Samsung công ty này đã phải chua chữ Hán tinh vào sau chữ sung để người đọc hiểu rằng Samsung là tam tinh. Logo trước đây của Samsung là ba ngôi sao.
Giữa các ngôn ngữ tự nhiên có những kiểu mơ hồ giống hệt nhau. Mơ hồ ở cấp độ cụm từ. Một cụm từ có thể dùng thể hiện nhiều kiểu quan hệ ngữ pháp khác nhau. Đây là hiện tượng mơ hồ ngữ pháp. Khi viết ‘Sự phê bình truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan’ chúng ta đã tạo ra một cụm từ mơ hồ. Người đọc không biết nên hiểu là ‘Nguyễn Công Hoan viết bài phê bình các truyện ngắn’ hay ‘người ta phê bình các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan’. Tương tự, danh ngữ tiếng Anh the shooting of the hunters, tiếng Pháp le tir des chasseurs hoặc tiếng Nga strel’ba okhotnikov đều có thể hiểu là sự bắn là của người đi săn mà cũng có thể hiểu là sự bắn người đi săn. Mơ hồ ở cấp độ câu. Lấy câu so sánh làm ví dụ.
Khi viết (1) ‘Tôi cũng thích trà như cà phê’, thì trà và cà phê là hai đối tượng mà tôi thích như nhau. Khi viết câu (2) ‘Tôi cũng thích trà như anh’, thì trà là đối tượng mà cả anh và tôi đều thích. Còn câu (3) ‘Tôi cũng thích cô ấy như anh’, chấp nhận cả hai cách giải thích nên nó thành mơ hồ. Hoặc là cô ấy và anh là hai người mà tôi thích như nhau. Hoặc là tôi và anh thích cô ấy như nhau. Trong tiếng Pháp và tiếng Anh, lối so sánh này cũng mơ hồ y hệt như vậy.
Có thể dẫn ra hàng loạt kiểu mơ hồ giống nhau giữa các ngôn ngữ tự nhiên.
Tuy nhiên, ngôn ngữ nào cũng có những kiểu mơ hồ đặc thù. Cách đây hơn 50 năm, nhà văn hóa Phan Khôi đã ‘kiểm thảo đại danh từ’ tiếng Việt. Theo ông, nó rắc rối quá. Vào một nhà lạ chẳng biết xưng hô thế nào với từng người cho phải phép, cho hợp với quan hệ tôn ty của họ trong gia đình ấy. Nhưng chính vì cách xưng hô khá tinh tế và mang màu sắc tôn ty, trọng-khinh, thân-sơ... Này mà số lượng những câu mơ hồ liên quan đến lớp đại từ sở hữu ở tiếng Việt ít hơn hẳn so với các tiếng Nga, Anh, Pháp - những ngôn ngữ có lớp đại từ trung hòa về sắc thái nghĩa. gặp câu (A) ‘Max told Robert that his wife is beautiful’, (P) ‘Marcel a dit à Robert que sa femme était jolie’, chúng ta không biết Max khoe vợ mình xinh đẹp hay khen vợ Robert hay vợ ai đó xinh đẹp. [Tôi muốn lưu ý là những câu tiếng Anh, Pháp, Nga dẫn trong mục này chỉ là những cách nói có thể chứ không phải là cách nói duy nhất và càng không phải là cách nói hay nhất.]
Vì sao nói tiếng Việt chính xác?
Thực tế, chúng ta đã và đang dùng tiếng Việt để diễn đạt chính xác những văn bản quan trọng về ngoại giao, quân sự, thương mại, luật pháp... Tiếng Việt có đầy đủ khả năng diễn đạt chính xác những điều cần bộc lộ. Nếu thiếu từ ngữ diễn đạt những khái niệm mới thì chúng ta vay mượn. Điều này đã và đang xảy ra với mọi ngôn ngữ.
Vấn đề còn lại chỉ là khả năng diễn đạt chính xác của tiếng Việt. Tuy có những hiện tượng mơ hồ, nhưng phần lớn khi đặt trong tình huống giao tiếp cụ thể hiện tượng mơ hồ đều mất đi.
Hãy lấy hai câu khác nhau đúng một phụ âm cuối:
a) Chú tôi bị Mỹ bắn trong lúc đi càn.
b) Chú tôi bị Mỹ bắn trong lúc đi cày.
Về lý thuyết hai câu trên đều mơ hồ: Mỹ hay chú tôi đi càn/ đi cày? nhưng trong thực tế không có chuyện ‘Mỹ đi cày’ ở Việt Nam nên câu (b) là rõ ràng.
Tiếng Việt có những phương thức diễn đạt chính xác và rõ ràng nội dung cần thông báo. Đó là phương thức dùng dấu câu, dùng trật tự từ, dùng từ hư, từ đồng nghĩa, thay đổi cấu trúc câu... Một ví dụ:
(1) Ba đã biếu thầy giáo chủ nhiệm lớp 7 quyển sách mới mua hôm qua. Nếu muốn nói rõ ‘7 quyển sách’ chứ không phải là ‘Thầy giáo chủ nhiệm lớp 7’, và đây là ‘sách mới’ chứ không phải là ‘mới mua’ thì chỉ cần thêm hai dấu phẩy:
(1b) Ba đã biếu thầy giáo chủ nhiệm lớp, 7 quyển sách mới, mua hôm qua. Nếu muốn nói là ‘biếu hôm qua’ chứ không phải ‘mua hôm qua’ thì chỉ việc đảo trật tự:
(1c) Hôm qua Ba đã biếu thầy giáo chủ nhiệm lớp, 7 quyển sách mới mua. Nếu muốn nhấn mạnh tới mới mua thì hãy dùng cách thêm (/thay) từ: (1d) hôm qua Ba đã biếu thầy giáo chủ nhiệm lớp, 7 quyển sách vừa mới mua.
Thực tế, chúng ta đã và đang dùng tiếng Việt để diễn đạt chính xác những văn bản quan trọng về ngoại giao, quân sự, thương mại, luật pháp... Tiếng Việt có đầy đủ khả năng diễn đạt chính xác những điều cần bộc lộ. Ở đây chưa bàn đến cách khai thác hiện tượng mơ hồ trong ngôn từ nghệ thuật.
3.2. Đại cương về câu mơ hồ trong tiếng Việt
3.2.1. Có những câu mơ hồ cần thiết và những câu mơ hồ tai hại
Một yêu cầu quan trọng trong giao tiếp, nói cũng như viết, là cần rõ ràng và chính xác. Nếu không chú ý, chúng ta có thể tạo ra những câu sai, những câu tối nghĩa, những câu mâu thuẫn nhau hoặc những câu có thể hiểu thế nào cũng được. Loại câu cuối này được gọi là câu mơ hồ.
Có những câu mơ hồ vô hại, có những câu mơ hồ cần thiết (trong những văn bản ngoại giao, thương mại...) Nhưng cũng có những câu mơ hồ tai hại, phản lại ý mình.
Khăn giấy ướt của cửa hàng ăn X&N trên đường Đặng Thái Mai, Tây Hồ, Hà Nội, có tên (in hoa) SEN ĐẦM TRỊ vì cửa hàng bên Đầm Trị đầy sen ngát hương. Sen của Đầm Trị nổi tiếng để ướp trà. Nhưng nếu hiểu từ trị theo nghĩa Hán-Việt là đường lối, chính sách, như trong gia trị, quốc trị, pháp trị... thì tên trên sẽ thành ‘sen đầm trị’ một nghĩa mà chủ hàng không mong muốn!
(1) Còn ở ta, các tập đoàn hoạt động trong một cơ chế kiểm soát lỏng lẻo và không có quyền tự chủ, một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn kinh tế thực thụ. (b., 27.01.2008)
Cụm từ ở sau dấu phẩy có thể dùng giải thích cho cụm từ trước nó. Thế là từ không gây ra hiểu lầm, tạo ra một câu trái ý tác giả ‘... không có quyền tự chủ là một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn kinh tế thực thụ’?
(2) Thái độ quyết tâm cao chống tệ nạn buôn lậu của chính phủ. (3) Tại cuộc hội đàm của Tổng thống B. Enxin với Chủ tịch Trung Quốc giang Trạch Dân, Chủ tịch Giang Trạch Dân cũng đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố và chủ nghĩa cực đoan tại Chesnia của Nga và trừng trị phong trào ly khai ở cộng hoà này. (b., 11.12.1999) Câu trên đây còn có thể hiểu: ‘chủ nghĩa cực đoan tại Chesnia của Nga’. Lẽ ra nên viết ba câu trên như sau:
(1a) Còn ở ta, các tập đoàn hoạt động trong một cơ chế kiểm soát lỏng lẻo và không có quyền tự chủ. Một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn kinh tế thực thụ là quyền tự chủ.
(2a)... thái độ quyết tâm cao của chính phủ chống tệ nạn buôn lậu. (3a) ... Hoàn toàn ủng hộ cuộc chiến của Nga chống khủng bố và chủ nghĩa cực đoan tại Chesnia, và trừng trị phong trào ly khai ở cộng hoà này. (4) Ấn Độ đã đề ra nhiều hạng mục mua vũ khí chống tàu ngầm, trong đó có máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-81 tiên tiến nhất của Mỹ. (b., 28.06.2009) ‘P-81 là tàu ngầm tiên tiến nhất của Mỹ’?
Dư ‘chống tàu ngầm’ 2.
Sửa: ‘Ấn Độ đã đề ra nhiều hạng mục mua vũ khí chống tàu ngầm, trong đó có máy bay tuần tra P-81 tiên tiến nhất của Mỹ.’
(5) Theo kết quả bầu cử, nhiều thành viên chính phủ không tham gia Ban chấp hànhTrung ương khóa XI như: [...] Bên cạnh đó, nhiều ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (là ủy viên Trung ương khóa X) cũng không tham gia Ban chấp hành Trung ương khóa XI như:... (b., 19.01.2011)
Cách viết ‘Theo kết quả bầu cử, nhiều thành viên... không tham gia’ là mơ hồ: ‘không tham gia’ là ‘không trúng...’ hay là ‘không có tên trong danh sách’?
(6) Nạn nhân tri hô, ngay lúc đó ba anh H., H. và L. có mặt kịp thời đã đuổi bắt được hai tên trên, thu phương tiện gây án và tài sản trả người bị thiệt hại. Hiện CA Q.5 đang lập hồ sơ xử lý các đối tượng này. (b., 13.07.1999) Câu trên mơ hồ: Sao lại đưa phương tiện gây án cho người bị hại? Công an thành phố đang lập hồ sơ xử lý những ai?
Vì vậy, tìm hiểu về hiện tượng mơ hồ trong tiếng Việt và các cách diễn đạt rõ ràng là một công việc cần thiết và có lợi ích thiết thực với mọi người.
3.2.2. Thế nào là một câu mơ hồ?
Những câu vừa nêu và những câu dưới đây là mơ hồ:
(7) Chả ngon lắm.
(8) Người sinh viên mới đi tới.
(9) Hai người mua ba quyển sách.
(10) Con có ăn chiếc bánh mẹ mua sáng nay không?
Câu 7 được hiểu là lời khen về món chả (nem), mà cũng có thể hiểu là lời chê một món ăn nào đó chả (/chẳng) Ngon. Chúng ta nói đó là hiện tượng mơ hồ từ vựng: Có hai từ ‘chả’ đồng âm trong câu này.
Các từ ngữ trong câu 8 đều rõ ràng, nhưng chúng ta lại không rõ từ ‘mới’ kết hợp với yếu tố đứng trước nó (người sinh viên mới đi tới) hay là với yếu tố đứng sau nó người (sinh viên mới đi tới). Chúng ta nói câu 8 đã mơ hồ về cấu trúc.
Các từ ngữ trong câu 9 đều rõ ràng, cấu trúc cú pháp cũng rõ ràng nhưng chúng ta lại không rõ là cả hai người mua tổng cộng là 3 quyển sách hay mỗi người mua 3 quyển sách. Vì thế, câu 9 được gọi là mơ hồ về lô gích. Câu 10 hoàn toàn rõ ràng về từ vựng, về cấu trúc và về lô gích. Nhưng câu này mơ hồ một cách tiềm năng. Nó có thể được dùng cho hai loại câu hỏi: Một câu hỏi về nguyện vọng và một câu tra xét, tra hỏi về sự kiện. Là một câu hỏi về nguyện vọng, người mẹ muốn biết đứa con có muốn ăn chiếc bánh hay không. Thấy không còn chiếc bánh, người mẹ hỏi, tra xét xem đứa con có ăn hay không. Câu 10 được gọi là mơ hồ về ngữ dụng. Lại có hiện tượng trên chữ viết thì rõ ràng nhưng khi nói thì mơ hồ. Mặt khác, có những câu mơ hồ khi viết nhưng khi nói lại trở thành rõ ràng nhờ
cách nhấn âm và ngắt giọng. Trong sách này chúng tôi chỉ giới thiệu câu mơ hồ trên cấp độ chữ viết.
Định nghĩa: Câu mơ hồ là câu có ít nhất hai cách hiểu.
3.2.3. Mơ hồ là hiện tượng tất yếu của ngôn ngữ tự nhiên
Không phải chỉ tiếng Việt mới có câu mơ hồ. Các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh rằng ngôn ngữ tự nhiên nào cũng có hiện tượng mơ hồ. Có nhiều công trình khảo cứu về hiện tượng mơ hồ trong ngôn ngữ tự nhiên. Ngày nay, việc nghiên cứu về tính mơ hồ trong ngôn ngữ còn có ý nghĩa rất quan trọng vì nó được ứng dụng để giải quyết vấn đề dịch máy nói riêng và những vấn đề ngôn ngữ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence) Nói chung.
Mỗi ngôn ngữ đều có những đặc điểm nhất định. Vì vậy, bên cạnh những kiểu mơ hồ thường gặp, mỗi ngôn ngữ lại có những kiểu mơ hồ riêng. Dưới đây chúng ta nêu một vài ví dụ về những câu mơ hồ trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga để những bạn quan tâm tới vấn đề này tham khảo. Mơ hồ từ vựng:
(1A) Bill proposes John to paint the picture. Hiểu câu trên thế nào? Ai vẽ tranh? Bill hay John?
(1P) Je propose à mon fils de sortir. Hiểu câu trên thế nào? Ai ra đi? Tôi hay con trai tôi?
Mơ hồ cú pháp:
+ Về cụm danh từ:
(2A) The shooting of the hunters
(2P) Le tir des chasseurs
(2n) Strel’ba okhotnikov
(Trong các câu 2, người đi săn thực hiện hành động bắn hay người đi săn là đối tượng của hành động bắn?) + Về trạng ngữ:
(3A) I saw the man in the street.
(3P) J’ai vu l’homme dans la rue
(Trong các câu 3, người đàn ông ở trên đường hay tôi ở trên đường?) + Về phạm vi tác động:
(4A) Old men and women... (4n) Starye muzchiny I zhenshiny... Hiểu câu 4 thế nào? ‘những ông lão và những bà lão’ hay ‘những ông lão và những phụ nữ’?
(5A) John doesn’t beat his child because he loves him.
(5P) Jean ne bat pas son enfant parce qu’il l’aime.
(Trong các câu 5, John có đánh con hay là không đánh con?) Mơ hồ lô gích:
+ Về đại từ:
(6A) Ivan told Pierre that his book is interesting.
(6P) Ivan a dit à Pierre que son livre est intéressant.
(6n) Ivan skazal Petru, chtou nego interesnaja kniga
(Trong các câu 6, quyển sách của ai thì lý thú? Của Ivan, của Pierre hay của một người thứ ba nào đó?) + Về số từ:
(7A) Three rules on this page.
(7P) Trois règles dans cette page.
(7n) Tri pravila na etoy stranice.
(Trong các câu 7, trang sách này có hơn 3 quy tắc hay chỉ có đúng 3 quy tắc?) + Về liên từ:
(8A) If John is present or Williams up for our proposal and Stark doesn’t come out, it will be adopted. (Ví dụ của S.C. Kleene trong Mathematical Logic)
[(8V) Nếu John có mặt hoặc là nếu Williams ủng hộ đề nghị của chúng ta và nếu Stark không phản đối thì đề nghị của chúng ta sẽ được chấp nhận.] Câu (8A), (8V) mơ hồ về phạm vi tác động của hai liên từ or và and, hoặc và và. Hai cách diễn đạt lô gích của chúng là:
(8a) ((J ∨ W) ∧ ¬ S) ⇒ A
(8b) (J ∨ (W ∧ ¬ S)) ⇒ A
3.2.4. Những kiểu mơ hồ thường gặp: từ vựng, cấu trúc, lô gích 3.2.4.1. Mơ hồ về từ vựng
Trong một câu, nếu một từ có thể được hiểu theo hai nghĩa thì chúng ta nói câu đó đã mơ hồ (về) từ vựng.
Có hai loại mơ hồ từ vựng: sự đồng âm của từ đơn và sự đồng âm của chuỗi từ.
(1) Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại,
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi.
(Câu đối của Nguyễn Khuyến tặng Bảng Long, viên quan võ chột mắt)
Từ ngươi có hai nghĩa, sự đồng âm của hai từ khác nhau: (con) ngươi và (nhà) ngươi.
(2) (hai cô vào một nhà sách, mua xong, một cô nói):
Chồng mày mày ôm, chồng tao tao ôm.
(3) Đừng có qua mặt ông ấy.
Trong câu trên, qua mặt có hai nghĩa: a) đi qua trước mặt, b) coi thường, không đếm xỉa gì đến.
(4) Thứ thuốc độc nhất.
Trong câu trên, độc nhất có hai nghĩa: a) duy nhất, b) độc hại nhất. Một số ví dụ khác:
- Cành táo đầu hè. (hè ← mùa hạ/hè sân);
- Chân trạng nguyên. (chân ← cẳng/đích thực);
- Bác được mấy cháu? (Cháu ← con/con của con mình);
- Ba bảo Năm đi Vũng Tàu. (bảo ← nói rằng/ ra lệnh cho) - Con chó cắn con mèo chết. (chết←cắn chết/cắn chết mất!) - Lớp trưởng có bầu không? (bầu ← bầu cử/mang bầu)
- Tiếng Huế nghe được không chị? (được ← hay/rõ)
- Chiều nay nó phải có mặt ở Đà Lạt rồi. (phải ← nghĩa vụ bắt buộc/chắc chắn)
- Thời gian học đại học tôi mới dám viết thư về xin chị lấy chồng. (xin ← đề nghị/xin phép)
3.2.4.2. Mơ hồ về cấu trúc
Sự mơ hồ của liên từ và giới từ làm cho từ ngữ trong câu có những chức năng ngữ pháp khác nhau, những vai ngữ nghĩa khác nhau. - Quà tặng của Thu Phương.
Danh ngữ trên có thể hiểu:
a) Thu Phương là người tiếp nhận quà.
b) Thu Phương là người tặng quà.
Sự kết hợp của nhiều tiếng thành những cấu trúc khác nhau. Những câu dưới đây mơ hồ vì đều có hai cách hiểu:
- Cần thiết lập lại trật tự nơi đây.
(a) Lập lại trật tự nơi đây là cần thiết.
(b) Cần phải thiết lập lại trật tự nơi đây.
- Đêm hôm qua cầu gãy.
(a) Đêm hôm đi qua cầu gãy.
(b) Cầu gãy đêm hôm qua.
- Bác nông dân ranh mãnh đáp.
Từ ranh mãnh kết hợp với danh từ hay với động từ?
(a) Bác nông dân ranh mãnh đáp.
(b) Bác nông dân ranh mãnh đáp.
• Phép chêm câu và hiện tượng mơ hồ
Từ một câu đơn có thể mở rộng thành một câu phức. Một trong những cách mở rộng là dùng phép chêm câu: đem một câu B chêm vào sau một thành phần nào đó của câu A để mở rộng câu A.
Phép chêm câu có thể dẫn tới những câu mơ hồ. Ví dụ:
A = Anh ấy đã gặp con.
B = Anh ấy trên đường về chợ.
Để mở rộng thành phần ‘anh ấy’ của câu A ta đem câu B đặt vào sau thành phần này trong câu A. Sau đó thực hiện rút gọn yếu tố lặp lại sẽ được câu: A (+B) = Anh ấy - Anh ấy trên đường về chợ - đã gặp con.→ (a) Anh ấy trên đường về chợ đã gặp con.
Để mở rộng thành phần ‘anh ấy’ của câu B ta đem câu A đặt vào sau thành phần này trong câu B. Sau đó thực hiện rút gọn yếu tố lặp lại sẽ được câu: B (+A) = Anh ấy - Anh ấy đã gặp con - trên đường về chợ. → (b) Anh ấy đã gặp con trên đường về chợ.
Câu b có hai cách hiểu mà cách thứ nhất chính là câu a.
Xuất hiện cách hiểu thứ hai:
(c) Anh ấy đã gặp con trên đường con về chợ.
Ở câu b còn một cách hiểu nữa liên quan đến từ ‘con’: con của anh ấy. Có hàng loạt câu mơ hồ về cấu trúc liên quan đến phép chêm câu. • Sự phủ định
Những từ dùng để phủ định, như không, không phải, chưa, chẳng, hay những từ dùng để ra những mệnh lệnh không được thực hiện một hành động nào đó, như: cấm, không được, và cả những lời khuyên không nên thực hiện một hành động nào đó, như: không nên, đừng, chớ,... thường gây ra những hiện tượng mơ hồ về cấu trúc. Nguyên nhân: Người ta không rõ phạm vi tác động (scope) của những từ phủ định, cấm đoán hay khuyên bảo này tới đâu. Ví dụ:
- Quận 6, toàn bộ các tuyến đường không được kẻ vạch báo giao thông. (tít báo - chưa được kẻ vạch hay cấm kẻ vạch?)
- Cấm lái xe có mùi bia rượu. (có thể hiểu: xe có mùi bia rượu?) Kiểu mơ hồ về phạm vi tác dụng của từ ‘không’:
1) Anh Bang không phải là ba thằng Mão như cô Thìn đã nói. a) Đồng ý với lời cô Thìn ‘anh Bang không phải là ba thằng Mão’. b) Bác bỏ lời cô Thìn ‘Anh Bang là ba thằng Mão’.
Có thể viết rõ ràng theo nghĩa a): ‘Đúng như cô Thìn đã nói anh Bang không phải là ba thằng Mão’ hoặc theo nghĩa b): ‘Cô Thìn nói ‘anh Bang là ba thằng Mão’ là không đúng.’
2) Một ông vừa tục huyền nói với cô vợ mới:
- Em yêu, anh có một nhược điểm lớn là hay ghen vô cớ lắm! - Anh yên tâm đi, em sẽ không bao giờ để anh phải ghen vô cớ đâu! Câu trả lời tạo ra sự mơ hồ do phạm vi tác động của cụm từ không bao giờ. Có thể cô vợ muốn nói ‘em sẽ không bao giờ để anh phải ghen’ nhưng người đọc thường hiểu thành ‘em sẽ không bao giờ để anh phải ghen vô cớ’ (!)
3) Vì những bà mẹ này không may mắn gặp được nữ hộ sinh tốt bụng như tôi. (b., 26.07.2009) Những bà mẹ này không may mắn như tôi gặp được nữ hộ sinh tốt bụng hay tôi là nữ hộ sinh tốt bụng?
3.2.4.3. Lưu ý
Một câu có thể chứa nhiều kiểu mơ hồ khác nhau. Trong những trường hợp này, câu thường có nhiều hơn hai cách hiểu. Ví dụ:
(1) Mẹ con đi chợ chiều mới về.
Những cách hiểu câu 1:
Con chào mẹ để đi chợ: Mẹ! Con đi chợ, chiều mới về.
Con chào mẹ khi về nhà: Mẹ! Con đi chợ chiều mới về.
Con trả lời bố (hoặc người trên): Mẹ con đi chợ, chiều mới về. Con thông báo cho bố là mẹ đã đi chợ: Mẹ con đi chợ chiều mới về. Bố trả lời con: Mẹ con đi chợ, chiều mới về.
Bố báo cho con: Mẹ con đi chợ chiều mới về.
Người Hàng xóm nói với nhau: Mẹ con (nhà ấy) đi chợ chiều mới về. Ễ
CHƯƠNG 4. DIỄN ĐẠT
4.1. Viết mơ hồ - một vũ khí ngoại giao5
Phẩm chất của những người cầm bút: Viết chính xác, viết không mơ hồ. Điều này đặc biệt quan trọng với những ai soạn thảo văn bản chính trị, quân sự, ngoại giao, thương mại.
Ý thức được tầm quan trọng của cách viết rõ ràng, chính xác, có tác giả khi không tránh được một câu mơ hồ đã tìm cách ghi chú thêm cho câu rõ nghĩa. Đổng lý văn phòng triều đình cuối cùng nhà Nguyễn, ông Phạm Khắc Hoè, trong hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc đã viết: ‘năm (5) tháng trước, khi bản thảo dụ ‘Dân vi quý’ được nhà vua phê chuẩn [...]’ (tr. 62). Rõ ràng là ông e rằng nếu viết ‘năm tháng trước’ có thể làm người đọc hiểu lầm thành ‘những năm, những tháng trước...’. Ông bèn chua số 5 vào trong ngoặc đơn để mọi người đều hiểu ông viết chính xác là ‘5 tháng trước...’.
Một câu mơ hồ có thể là nguyên nhân của một cuộc chiến tranh! Đó là câu chuyện tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan. Sau khi giành được độc lập từ tay thực dân Anh vào năm 1947, bán đảo Ấn Độ được chia thành hai nước là Ấn Độ (đa số là người Hindu) và Pakistan (đa số là người Hồi Giáo). Hồi đó thủ lĩnh của người Hồi Giáo vùng Kashmir là Hari Singh kêu gọi độc lập cho vùng đất này. Vì phải đối phó vất vả với tộc người Pastun được Pakistan hậu thuẫn, Hari Singh kêu gọi sự giúp đỡ của Ấn Độ và chấp nhận dưới quyền thống trị của Ấn Độ. Thế là nổ ra cuộc chiến đầu tiên giữa Ấn Độ và Pakistan. Năm 1949, một hiệp định ngừng bắn đầu tiên được ký kết. Theo đó, vùng Kashmir được chia làm hai phần với đường biên kéo dài từ phía tây Kashmir tới gần hết vùng đất có tranh chấp là Siachen Glacier, tên một dòng sông băng trên đỉnh núi. Phần lãnh thổ hình tam giác còn lại được hiệp định phân chia rất mập mờ là ‘cứ tiếp tục như vậy về phía sông băng’ tại khu vực. Từ đó nảy sinh bi kịch. Hai thập kỷ tiếp theo hiệp định đó, chỉ có sự tranh chấp của những người vẽ bản đồ. Nhưng từ đầu thập kỷ 70, khi những người leo núi đầu tiên tới thám hiểm vùng này, người ta nảy sinh ý nghĩ: Tại sao quân đội lại không thể lên đây? Ngày 13.04.1984 quân đội Ấn Độ đặt chân lên đây, lên đỉnh núi và triển khai quân đội quanh sông băng Siachen.
ẳ
Từ đó có cuộc chiến dai dẳng cho tới nay.
Phải chăng tai họa xảy ra vì dịch sai một từ?
Giai thoại: Tối hậu thư Potsdam gửi cho Nhật do Mỹ, Anh và Trung Hoa ký được công bố ngày 26.07.1945. Bức tối hậu thư buộc Nhật phải chọn một trong hai con đường: hoặc đầu hàng, hoặc bị tiêu diệt. Hội đồng bộ trưởng Nhật đã họp để thảo luận về tối hậu thư này. Cạnh phe chủ hoà còn có phe chủ chiến như bộ trưởng Bộ chiến tranh Anami và các tham mưu trưởng nên chỉ đi đến một quyết định tương đối thuận lợi cho con đường hoà bình: Chính phủ không có ý định bác bỏ các yêu cầu của đồng minh.
Tuy nhiên, trong cuộc họp báo vào ngày 28.07.1945, thủ tướng Nhật đương thời là Kantaro Suzuki đã tuyên bố một câu là ‘hội đồng bộ trưởng tạm thời áp dụng chính sách mokusatsu’. Trong các thứ tiếng Châu Âu, không có một từ nào đồng nghĩa chính xác với từ mokusatsu. Ngay trong tiếng Nhật, nghĩa của từ này cũng rất mập mờ: Nó có thể chỉ sự bác bỏ, mà cũng có nghĩa là lảng tránh, không bình luận. Do vậy các nhà phiên dịch của Thông tấn xã Nhật Domei không làm cách nào biết được ý định thực sự của thủ tướng Suzuki. Và bản dịch sang tiếng Anh của họ đã phạm phải một sai lầm quan trọng khi loan tin là chính phủ Nhật quyết định không xem xét tối hậu thư Potsdam.
Thế là trên tờ Times, cùng ngày 28.07.1945 có ngay một bản tin đặc biệt: ‘Hạm đội đồng minh tấn công ngay vào lúc Tokyo bác bỏ các điều kiện hoà bình.’ (Thế giới mới, số 35, tr.54 - 56).
Thực hư như thế nào là công việc của các nhà lịch sử.
Bản lĩnh của nhà ngoại giao và chính khách: biết dùng câu mơ hồ Câu chuyện về lựa chọn từ ngữ cho một bản kiến nghị (viết bằng tiếng Pháp và đã đăng trên tờ Le Monde của Pháp, ngày 22.04.1954) Tháng 03.1954, một nhóm trí thức yêu nước Hà Nội quyết định viết một bản kiến nghị gửi tới chính phủ Pháp (nhưng lại với danh nghĩa một nhóm trí thức trung lập ở Hà Nội) yêu cầu điều đình với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà để lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Trong bản thảo đầu tiên có đoạn ‘Chính phủ Pháp phải điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh’. Có người không tán thành. Từ ‘phải’ sẽ tố cáo rằng đây không phải là nhóm trí thức trung lập.
Có người đề nghị đổi thành ‘yêu cầu hai bên gặp nhau để...’. Viết vậy cũng không ổn vì đã gạt chính phủ bù nhìn của Pháp ra ngoài và chắc chắn phía Pháp không đồng ý.
Nhưng cũng không thể viết là ‘yêu cầu ba bên gặp nhau để...’. Viết vậy hóa ra chúng ta gián tiếp công nhận chính phủ bù nhìn của Pháp. Cuối cùng nhờ sự khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Pháp đã tìm ra chữ ‘các bên’ (les parties): ‘yêu cầu các bên gặp nhau để...’. Với tiếng Việt, viết các bên thường phải hiểu là ít nhất có ba bên. Tiếng Pháp, viết ‘les parties’ là đạt yêu cầu vì chỉ hai bên là phải dùng les (các) rồi. Viết les parties, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. (Hà Nội Mới, 01.10.1989)
Chọn cách viết mơ hồ cho bản hiệp định: Quốc quân là gì? - Chiều ngày 26.02.1946, đoàn đại biểu Đảng cộng sản Trung Quốc do Chu Ân Lai dẫn đầu đã ký ‘Phương án cơ bản về việc biên chế lại quân đội và thống nhất biên chế bộ đội Trung Cộng thành Quốc quân’. Từ Quốc quân được Chu Ân Lai dùng mập mờ. Tưởng Giới Thạch biết rằng, chữ ‘Quốc quân’ là quân đội quốc gia, chứ không phải quân đội của Quốc dân đảng và do đó ông đã kiên quyết phản đối, ký thì ký, còn tấn công vẫn cứ tấn công, và không khí nội chiến ngày càng tăng. (Kiến Thức ngày nay, 20.12.1995) Làm thế nào giảm căng thẳng ngoại giao: Sorry nghĩa là gì? - Ngày 01.04.2001, máy bay do thám Mỹ xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc và đụng rớt máy bay quân sự của nước này. Mỹ đã vi phạm độc lập, chủ quyền của Trung Quốc nên gây ra một không khí rất căng thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung... Chính phủ Trung Quốc đòi hỏi Mỹ phải giải thích và xin lỗi. Khi bộ trưởng quốc phòng Mỹ Ronald Rumsfeld xuất hiện trên truyền hình nói về vụ này có nhắc tới từ ‘sorry’ thì mối quan hệ này mới bớt căng thẳng đi và lắng dịu lại. Phía Trung Quốc hiểu rằng như vậy là Mỹ đã ‘xin lỗi’. Nhưng sau đó Ronald Rumsfeld giải thích rằng sorry chỉ có nghĩa là ‘lấy làm tiếc’. (Chào Buổi Sáng, 27.12.2001)
Dùng câu mơ hồ để phê phán tế nhị
Wilson khi làm thống đốc bang New Jersey nhận được cú điện thoại từ Washington, D.C. Nói rằng một nghị sĩ bang New Jersey - bạn thân của ông - đã qua đời. Ông rất xúc động và huỷ mọi cuộc hẹn trong ngày. Sau mấy phút, ông lại nhận được cú điện thoại của một chính trị gia New Jersey. Người ấy lắp bắp nói:
- Ông thống đốc, tôi... tôi hy vọng có thể thay thế vị trí của ông nghị sĩ nọ. Wilson rất bực với thái độ quá ‘nhanh nhẹn’ của y. Ông bèn chậm rãi trả lời:
- Được lắm, nếu nhà quàn đồng ý thì cá nhân tôi cũng nhất trí.
4.2. Nói mơ hồ - một nghệ thuật hùng biện6
Nhà hùng biện thành công nhờ tài lập luận (argumentation). Trong không ít trường hợp dùng những yếu tố mơ hồ khi nói năng lại là phương kế giao tiếp thành công.
Người khôn ăn nói nửa chừng,
Để cho người dại nửa mừng nửa lo. (Ca dao)
Làm trai cứ nước hai mà nói. (Tục ngữ)
Đó là nói những câu không xác định: Ngoài những câu mơ hồ có nhiều cách hiểu còn là những câu không có địa chỉ, ở đó không xác định được các yếu tố ai, ở đâu, khi nào, việc gì.
Có một ông vua hiếu chiến muốn đánh nhau với nước Ba Tư, nhưng không tin lắm vào khả năng mình chiến thắng.
Ông bèn tới cầu ở một ngôi đền nổi tiếng linh thiêng để xin lời phán của thần linh. Thần phán như sau: Nếu đánh nhau với Ba Tư, một vương quốc hùng mạnh sẽ bị phá tan tành.
Ông vua ngu ngốc này cả mừng, vội đem quân tiến đánh Ba Tư. Nhưng đã đại bại. Chỉ mình ông trốn thoát. Buồn rầu, hối hận và căm tức, ông ta lén gửi thư đến trách thần linh đền nọ đã phán sai với bút danh người cầu xin tức giận. Ít lâu sau, người coi đền nọ gửi thư trả lời:
Thần linh đâu có nói sai. Chẳng phải là một vương quốc hùng mạnh - vương quốc mà ông trị vì - đã bị phá tan tành đó sao!
‘Một vương quốc hùng mạnh’ là cụm từ không có địa chỉ: vương quốc nào vậy? Từ một và những từ chỉ số lượng sẽ làm danh từ đi sau nó thành không xác định. Các đối tượng trong truyện cổ tích không xác định nên người ta dùng từ một: Ngày xưa, có một ông vua, có một mụ phù thủy trong một khu rừng, ở một làng nọ có một ông lão, có một chàng trai, có một gia đình... Thế là câu‘Một vương quốc hùng mạnh sẽ bị phá tan tành’ thành mơ hồ. Nếu Ba Tư thua thì câu của thần linh vẫn đúng.
Dùng những từ ngữ trống rỗng, không có thông tin đích thực cũng là cách nói nước đôi.
Có người hỏi Pistalos, một nhà giáo dục học nổi tiếng người Thụy Sĩ: - Ngài có thể nhận ra một đứa trẻ lớn lên sẽ thành người thế nào không? Pistalos: Đương nhiên rồi. Một bé gái lớn lên sẽ thành một phụ nữ. Một bé trai lớn lên sẽ thành một đàn ông.
Câu trả lời trên đúng có điều không trúng ý người hỏi, nhưng người ta không thể bác bỏ được. Trong ngoại giao người ta hay dùng cách trả lời này, những ngôn từ trống rỗng vĩ đại.
Muốn biết về năng lực làm việc hiện nay của một nhà khoa học, một người lại đặt câu hỏi: Từ năm 1970 đến nay, thầy có gì không đổi và thay đổi những gì?
Trước một câu hỏi quá chung chung, giáo sư có cớ đưa ra một câu trả lời vô bổ:
- Điều không đổi là lúc trước người ta gọi tôi bằng tên gì thì nay vẫn gọi tôi bằng tên đó. Điều thay đổi là năm 1970 tôi là một thanh niên ngoài 30 thì nay là một ông già U - 80.
♦ Nói nước đôi để thoát hiểm, né tránh những điều khó nói Né tránh bằng từ ngữ lẫn lộn lớp, loài của đối tượng. Khi nói ‘Trâu là loài nhai lại’ thì trâu chỉ lớp, tức là tập hợp các con trâu. Còn ‘nhà anh chín đụn, mười trâu’ thì trâu chỉ một phần tử của tập hợp các con trâu. Nhiều từ ngữ vừa được dùng để chỉ tập hợp, vừa chỉ phần tử của một tập hợp. Theo cách này, Lưu Đường đã trả lời được những câu hỏi khó của vua Càn Long:
Càn Long: Chín cửa kinh thành, mỗi ngày đi ra bao nhiêu người và đi vào bao nhiêu người?
Tài thánh cũng không biết chính xác được, Lưu Đường né tránh: Bẩm hai. Càn Long: Sao lại chỉ có hai người?
Lưu Đường: Thưa thánh thượng, thần không nói hai người mà là hai loại người: một là nam và một là nữ.
Càn Long: Vậy thì một năm đẻ ra bao nhiêu và chết đi bao nhiêu người? Lưu Đường: Muôn tâu thánh thượng, cả nước Đại Thanhmỗi năm đẻ 1 và chết đi 12.
Càng Long: Cứ vậy rồi sẽ hết người hay sao?
Lưu Đường: Thần nói trên lý số sinh tử. Ai sinh vào năm Thìn thì mang tuổi Thìn. Nên thần nói là mỗi năm sinh một. Ai chết vào giờ nào thì cũng không thoát khỏi 12 con giáp. Nên thần nói là mỗi năm chết 12 (theo Triệu Truyền Đống).
♦ Để bảo vệ công lý, chấp nhận dùng mẹo cài bẫy mơ hồ Chuyện kể rằng ở một làng nọ, một nhà giàu có con là Lý Chính Tần từ nhỏ đã đính hôn với tiểu thư họ Trang. Sau vì đám cháy làm họ Lý mất sạch cơ nghiệp. Thế là Trang tiểu thư lại đi đính thân với tú tài họ Tiền
giàu có. Họ Lý lên kiện Bao Công. Bao Thanh Thiên khuyên cô gái họ Trang nên giữ lời ước cũ, nhưng cô không chịu. Thế là Bao Công đành lập mẹo khi xét xử: Tạo tình huống để cô gái nói câu mơ hồ rồi Bao Công giải thích theo ý mình. Ông làm như sau: Đưa ba người ra công đường và bắt tú tài họ Tiền, Trang tiểu thư và Lý Chính Tần theo thứ tự quỳ một hàng dọc. Ông nghiêm trang nói với Trang tiểu thư:
- Trên công đường không nói chơi, cô muốn lấy tiền phu hay hậu phu, cho cô chọn. Nhưng đã chọn rồi thì không được chữa lại, phải lập bằng cớ ngay.
Trang tiểu thư ngẩng đầu nhìn, thấy phía trước là tú tài họ Tiền, bèn đáp: - Tiểu nữ xin lấy tiền phu.
Bao Công cười lớn. Sau khi tiểu thư nọ ký vào văn bản vừa lập về lời của tiểu thư, ông nói: ‘Trang tiểu thư rốt cuộc là người hiền huệ, không tham giàu, vẫn muốn lấy người chồng trước.’ Tiểu thư lúc này mới vỡ lẽ: tiền phu không phải là người đàn ông phía trước như cô hiểu mà là người chồng trước.
Thật ra nếu cô gái nọ có nói muốn lấy hậu phu thì Bao Công cũng xoay sang ‘Trang tiểu thư muốn lấy người đàn ông phía sau’(!). ♦ Cử chỉ mơ hồ: giải thích sao cũng được
Để có thể đảo lộn phải trái, người nguỵ biện còn dùng những hành động mơ hồ để người nghe không biết đường nào mà hiểu cho đúng. Hiểu xuôi cũng được, có hiểu ngược lại cũng đúng. Nếu ai tìm ra một điều gì đó phù hợp, tương đồng thì họ thích thú. Còn ai không hiểu thì sợ bị chê dốt nên không dám bình phẩm, chỉ im lặng hoặc phụ họa.
Trước khi trẩy kinh ứng thí, 3 anh đồ đến nhà một đạo sĩ nổi tiếng về tướng số đốt nhang khấn vái xin quẻ. Đạo sĩ nhắm mắt ra hiệu bằng một ngón tay. Ba anh đồ xin đạo sĩ giảng rõ. Ông từ chối: Đi đi, đến lúc đó sẽ hay. Đấy là thiên cơ, không nói trước được.
Khi bọn học trò đi rồi, tiểu đồng hỏi:
- Sư phụ, rốt cuộc ai đỗ?
- Ngón tay ta đã nói rồi.
- Ngón tay của thầy nói rằng chỉ đỗ có một?
- Đúng.
- Nếu hai người đỗ thì sao?
- Vậy ngón tay nói rằng chỉ một người trượt.
- Nếu cả ba người đỗ thì sao?
- Thì ngón tay là tất cả đỗ.
- Còn nếu cả ba đều trượt?
- Thì ngón tay tức là tất cả đều trượt.
Tiểu đồng ngộ ra: Té ra đó là thiên cơ!
4.3. Diễn đạt mơ hồ trong văn học-nghệ thuật
Những hiện tượng mơ hồ ngữ dụng thường được tận dụng để gây cười. Ví dụ. Mẩu chuyện cười dưới đây dựa trên hai cách hiểu khác nhau về câu hỏi ‘có... không...?’:
Đại tá, sĩ quan tuyển quân, hỏi nguyện vọng tân binh.
Đại Tá: John, anh muốn vào binh chủng nào?
John: Tôi muốn vào hải quân.
Đại Tá: Được, tôi chấp nhận. Jacques, anh có nguyện vọng gì? Jacques: Tôi muốn vào pháo binh.
Đại Tá: Được. Còn Bill, anh muốn vào binh chủng nào?
Bill: Tôi muốn làm tham mưu trưởng khối NATO.
Đại Tá: Bill, anh có điên không đấy?
Bill: Lại cần điều kiện ấy nữa à?
Đại tá đã hỏi một câu mơ hồ. Ông ta dùng cách hỏi ‘có... không...’ để phê phán Bill là điên khùng. Nhưng Bill láu cá lại cố tình hiểu thành câu hỏi về điều kiện, kiểu câu hay dùng để hỏi người đi xin việc: ‘Chị có bằng C tiếng Anh không?’, ‘Anh có bằng trung cấp tin học không?’, ‘Anh có bằng lái ô tô không?’...
Những cách gây cười dựa trên hiện tượng mơ hồ ngữ dụng thường có tính trí tuệ, hóm hỉnh và sâu sắc.
Giai thoại về Pushkin:
Hồi trẻ một lần dự dạ hội, anh mời một quý bà ăn mặc sang trọng khiêu vũ. - Quý bà: Tôi không thể khiêu vũ với một đứa trẻ.
- Pushkin nhanh trí: Xin lỗi, tôi không biết bà đang mang bầu! Trong câu trên, quý bà nọ dùng từ với theo nghĩa ‘Tôi không thể khiêu vũ cùng anh - một đứa trẻ’, còn Pushkin lại hiểu theo một nghĩa khác. Những ví dụ tương tự:
- Xuất giá xin đừng giữ chữ trinh. (Khuyên xuất giá hay khuyên giữ chữ trinh?)
- Phó hồi cải giá bất đắc phu cựu. (Cho phép hay cấm đi bước nữa?) - Ngưu canh tác bất đắc thực nhục. (Cấm hay cho phép mổ trâu đánh chén?)
Tận dụng mơ hồ ngữ dụng để gây cười
Cán bộ thanh tra xuống một trường học và thăm lớp. Thấy trong lớp có một quả địa cầu liền hỏi học sinh: ‘Tại sao quả địa cầu lệch một góc 23,50?’ Học sinh A: Thưa thầy em không làm hỏng. Học sinh B: Thưa thầy em mới vào lớp, các bạn đều biết.
Giáo viên địa lý đứng lớp: Lớp này các em nghịch quá, tôi vừa mới quay đi mà đã như vậy.
Thầy hiệu trưởng: Báo cáo Đoàn thanh tra, kinh phí Sở rót xuống trường eo hẹp quá nên đành phải mua những thứ như vậy (!)
Vì sao gây cười? Câu ‘tại sao A?’ có hai cách hiểu:
1. Lý do (/nguyên nhân) dẫn tới điều A.
2. Chất vấn với hàm ý: ‘Để xảy ra A là một điều đáng tiếc.’ Thầy trò trường nọ, kể từ hiệu trưởng đã hiểu câu hỏi kiểm tra kiến thức địa lý thành câu chất vấn phê phán đã xảy ra một sự việc xấu: làm lệch quả cầu đi. Đây là tiếng cười về năng lực, trình độ thầy trò trường nọ.
4.4. Câu sai phong cách
4.4.1. Câu sai phong cách là những câu viết không đúng những quy tắc về phong cách.
Mỗi thể loại văn bản đòi hỏi một phong cách ngôn ngữ riêng. Mỗi tình huống giao tiếp cần có một lối nói thích hợp. Mỗi giai tầng xã hội cũng có lối nói và dùng những lớp từ vựng đặc thù. Mỗi thời đại lại có những lớp từ khác nhau. Tiếng Việt có lối diễn đạt khác với lối diễn đạt của những ngôn ngữ khác. Có những câu không sai ngữ pháp nhưng nếu không diễn đạt đúng với thể loại văn bản, không diễn đạt đúng với tình huống giao tiếp hoặc không diễn đạt đúng với cách nói của người Việt thì vẫn là sai về phong cách.
+ Hoàng thượng dạo này [...] thiếu quyết đoán để đưa ra những chỉ thị cần thiết. (TV, 22.07.2011; p. Huyền sử thiên đô, tập 28) Vua không ra chỉ thị mà ra chiếu, chỉ, dụ!
+ Phong cách liên quan đến quan điểm người nói. Một sĩ quan trong quân đội Pháp ở Hà Nội (1950) Nói ‘Một viên tướng mới ở Pháp sang, nhận nhiệm vụ tư lệnh trưởng quân đội viễn chinh ở miền Bắc.’ (ST, Miền đất lạ, tr.67) Viên tướng viễn chinh Pháp không nói ‘miền Bắc’ mà nói Bắc Việt.
(1) Ngoài Bớc-sét mà tôi đã quen ở Việt Nam, tôi còn được giới thiệu với hai nhà báo Pháp đã nổi tiếng là Mađơlen Riphô và giăng Lacutuya. Một hôm, trước ngày chia tay, Bộ trưởng Hâu Xeng tổ chức một cuộc họp thân mật giữa hai bạn Pháp và tôi. Chuyện trò ‘mày tao’ thoải mái. (b., số 23, 12.1995)
Người Pháp, khi thân mật thì dùng đại từ xưng hô theo kiểu tu, toi (mày), je, moi (tao), tiếng Pháp gọi là tutoyer. Dù thế nào chăng nữa, đây là sự xưng hô giữa những người có cương vị cao trong báo giới ở những nước khác nhau, cách nói của người Việt trong tình huống này là ‘Chuyện trò cậu - tớ thoải mái’ chứ không phải chuyện trò mày, tao.
Với ngần ấy sính lễ, so với mức sống người dân nông thôn thì vượt quá tầm tay họ.
Trước hết, câu này sai ngữ pháp: Từ ‘với’ làm cho câu không có chủ ngữ. Bỏ từ với đi, chúng ta được một câu đúng ngữ pháp nhưng cách diễn đạt vẫn còn nặng nề:
(2b) Ngần ấy sính lễ, so với mức sống người dân nông thôn, vượt quá tầm tay họ. Nên diễn đạt đơn giản hơn:
(2c) Ngần ấy sính lễ vượt quá khả năng của người dân nông thôn. (2d) Ngần ấy sính lễ vượt quá khả năng của nông dân.
4.4.2. Có những thể loại văn bản nào?
Thể loại văn bản thường được phân loại theo chức năng.
Phong cách phụ thuộc vào chức năng. Có phong cách khẩu ngữ (văn nói) và phong cách bút ngữ (văn viết). Có các thể loại văn bản viết sau: hành chính - công vụ; khoa học; văn học - nghệ thuật; thông tấn - báo chí; ngôn ngữ trong sinh hoạt thường ngày.
Chúng ta chỉ minh họa hai thể loại văn bản.
4.4.2.1. Phong cách văn bản khoa học
Văn bản khoa học có chức năng chứng minh, phân tích, suy luận, lý giải, nhận xét, đánh giá, trình bày những hiện tượng và quy luật của thế giới tự nhiên cũng như xã hội.
Loại văn bản này đòi hỏi tính lô gích, nhất quán, chặt chẽ, chính xác, khách quan, tường minh, không mơ hồ. Ngôn ngữ súc tích, ngắn gọn, không chứa đựng những thông tin dư. Rất ít từ ngữ thuộc lớp khẩu ngữ. Cấu trúc của các đoạn văn rất rõ ràng.
Về ngữ pháp, trong văn bản khoa học thường là những câu đầy đủ các thành phần.
Là thể loại chứng minh, nên có nhiều câu phức và câu ghép. Văn bản khoa học trung hoà về phong cách. Người viết không đưa cái ‘tôi’ vào văn bản khoa học. Chủ ngữ thường là ‘chúng ta’ hoặc ‘người ta’, ‘nó’. Nhiều câu vô nhân xưng, chủ ngữ không xác định.
Có những tiểu loại văn bản khoa học quy định nghiêm ngặt về quy cách trình bày và chuẩn mực ngôn ngữ. Ví dụ: đồ án tốt nghiệp, luận án khoa học, quy cách tóm lược một văn bản khoa học.
4.4.2.2. Phong cách văn bản hành chính - công vụ
Văn bản hành chính - công vụ là những văn bản pháp lý của các cơ quan công quyền với chức năng điều hành xã hội, chi phối hành động mỗi cá nhân và mỗi tổ chức xã hội, và cũng là văn bản của mỗi cá nhân gửi tới cơ quan công quyền. Ngôn ngữ loại văn bản này là trung tính, nghiêm túc, khách quan, đơn giản, rõ ràng, không mơ hồ mà chính xác và nhất quán. Không dùng từ ngữ địa phương.
Trong loại văn bản này ngầm ẩn tồn tại một quan hệ tôn ty, thứ bậc giữa các vai - vai của người tạo lập văn bản và vai của đối tượng tiếp nhận văn bản.
Đây là ngôn ngữ viết. Trong thể loại văn bản này, có những quy định rõ ràng về danh xưng, nghi thức lời nói, khuôn mẫu từ ngữ, văn bản. Chú ý: Cần xưng hô đúng vai, và nhớ: xưng thì khiêm, hô thì tôn. Lưu ý 1: Phong cách về phương diện số lượng.
Dùng nhiều hay ít một một số từ ngữ nào đó cũng biểu hiện phong cách ngôn ngữ của tác giả và thể loại. Lấy các từ tình thái đặt cuối câu à, ạ, ơi, nhỉ... làm ví dụ:
Trong 180 nghìn lượt từ ở ngôn ngữ Hồ Chủ Tịch, những từ này được dùng rất ít: ơi được dùng 3 lần, từ ạ được dùng 5 lần, từ nhỉ được dùng 2 lần. Trong khi đó ở 60 ngàn lượt từ thơ ca, từ ơi được dùng 129 lần; trong 60 nghìn lần ở ngôn ngữ kịch, từ ạ được dùng 184 lần; từ nhỉ được dùng 35 lần trong 60 nghìn lượt từ ở ngôn ngữ thiếu nhi.
Lưu ý 2: Dù ở thể loại nào thì cũng cần viết đúng theo cách nói của người Việt. Mỗi dân tộc thường có những cách nói khác nhau. Chúng liên quan đến đến đặc điểm của từng nền văn hóa, của từng ngôn ngữ. giữa các ngôn ngữ có những từ ngữ cùng trỏ một đối tượng, cùng trỏ một quan hệ ngữ pháp khiến chúng ta tưởng rằng cách dùng của chúng giống nhau. Nhưng nhiều khi lại khác hẳn nhau. Chúng ta minh họa qua liên từ ‘và’ và ‘and’ (tiếng Anh). Thông thường, dùng từ ‘và’ để dịch từ ‘and’, và ngược lại. Nhưng không ít trường hợp sẽ làm sai lạc nghĩa.
Với câu ‘Sam and Sally got married’ nếu chúng ta dịch là ‘Sam và Sally đã lập gia đình’ thì không ổn. Ở câu tiếng Anh, người ta thường hiểu là ‘Sam and Sally married each other’ (Sam và Sally lấy nhau). Còn câu tiếng Việt lại được hiểu là Sam đã lập gia đình, Sally đã lập gia đình nhưng không phải họ lấy nhau.
Tương tự, câu ‘Jack and Bill went up the hill’ có thể được hiểu là ‘Jack đi lên đồi và Bill đi lên đồi’ mà cũng có thể hiểu là ‘Jack và Bill đi lên đồi với nhau’. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai người Việt lại thường nói ‘Jack đi lên đồi với Bill’. Những khác biệt như thế này rất nhiều.
4.5. Vai trò của trật tự từ
4.5.1. Trật tự từ là một phương tiện ngữ pháp
Trong tiếng Việt trật tự từ ngữ có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó vừa là công cụ thể hiện ngữ pháp, vừa là công cụ thể hiện ngữ nghĩa. Năm 1948, Lê Văn Lý cho ví dụ: Với 5 tiếng nó, bảo, sao, không, đến có thể tạo ra trên 30 câu khác nhau: Nó bảo sao không đến; nó bảo sao đến không; nó bảo đến không sao; nó bảo đến sao không; nó bảo không sao đến; bảo nó đến không sao; bảo nó đến sao không; bảo nó sao không đến; bảo nó sao đến không;...
Đầu tiên cần chú ý tới sự khác biệt về trật tự từ giữa ngữ pháp tiếng Việt và ngữ pháp tiếng Hán. Một cụm từ, theo ngữ pháp tiếng Việt thì yếu tố
chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau. Ví dụ: điểm yếu, điểm mạnh, điểm đỏ, điểm sáng, điểm tốt... Còn theo ngữ pháp tiếng Hán yếu tố phụ đứng trước yếu tố chính đứng sau. Ví dụ: yếu điểm, ưu điểm, nhược điểm, khuyết điểm, tâm điểm... Như vậy, ‘yếu điểm’ là ‘điểm quan trọng’ chứ không phải là ‘điểm yếu’. Chú ý tới điều này, chúng ta dễ dàng phân biệt được nghĩa của nhiều từ ngữ và tránh được những hiểu lầm đáng tiếc.
Mặt khác nhờ phương thức trật tự chúng ta biết cách chuyển một cụm từ theo cấu tạo Hán-Việt sang cấu tạo thuần Việt. Ví dụ: Trong các từ điện năng, hóa năng, quang năng, nhiệt năng... thì ‘năng’ có nghĩa là ‘năng lượng’. Như vậy các từ trên đồng nghĩa với năng lượng điện, năng lượng hóa học, năng lượng ánh sáng, năng lượng nhiệt...
Trật tự từ và cách nói thuận tai
- Biện pháp chống nạn tràn ngập đơn thư khiếu tố tại Tp. Hồ Chí Minh. (Tít báo, 28.06.1999)
Cách tường thuật sự kiện đã xảy ra theo trật tự chủ vị ‘đơn thư khiếu tố tràn ngập’ nghe thuận tai hơn cách đảo ngược trật tự ‘tràn ngập đơn thư khiếu tố’. Vậy thì chỉ cần đảo vị trí ‘tràn ngập’ xuống cuối là được một tít báo thuận tai: ‘Biện pháp chống nạn đơn thư khiếu tố tràn ngập tại Tp. Hồ Chí Minh’
- Hiện nay ở Thừa Thiên Huế vẫn còn số gia đình sinh con thứ ba cao. (đ., 25.12.2003)
Cách diễn đạt này làm đứt mạch văn ‘vẫn còn cao’. Hãy đẩy ‘vẫn còn’ xuống cuối: ‘hiện nay ở Thừa Thiên Huế số gia đình sinh con thứ ba vẫn còn cao’.
Đảo trật tự từ giúp tránh được những câu mơ hồ tai hại hoặc những câu gây hiểu sai nghĩa.
- Barack Obama không là con người mềm yếu như ông đã cho thấy. (b., 08.06.2008)
Đặt cụm từ so sánh ở cuối câu khiến người đọc có thể hiểu lầm câu trên thành ‘Barack Obama không là con người mềm yếu như bề ngoài của ông’. Nên đảo lại trật tự: ‘Barack Obama đã cho thấy ông không là con người mềm yếu’.
- Kết quả giải bóng đá Ý đêm qua (30.04): Juventus chỉ còn cách Lazio 2 điểm. (b., 01.05.2000)
Tít trên gây hiểu lầm là Lazio đang dẫn đầu giải và Juventus đã gần đuổi kịp. Sự thực ngược lại, Juventus đang dẫn đầu giải. Có hai cách sửa:
a) Đảo trật tự: Lazio chỉ còn cách Juventus 2 điểm.
b) Muốn giữ nguyên trật tự thì cần thay cách bằng hơn: Juventus chỉ còn hơn Lazio 2 điểm.
- Kinh tế tăng trưởng 2 tốc độ. (Tít báo, 01.01.2011)
Đọc tít trên độc giả không hiểu bài báo muốn nói gì. Người ta nói mức tăng trưởng 2 chữ số, nghĩa là tăng trưởng trên 10%. Nhưng thế nào là tăng trưởng 2 tốc độ? Bài báo viết rằng kinh tế toàn cầu có tăng trưởng nhưng thấp thôi, còn giá cả thì tăng vọt. Hóa ra 2 ‘tốc độ’ là như vậy. Phải chăng nên đảo lại trật tự 2 tốc độ “tăng trưởng” kinh tế? Cái từ tăng trưởng đứng trong ngoặc kép khiến người đọc hiểu ngay được giá cả tăng vọt thì không phải là tăng trưởng.
- Giải ngoại hạng Anh chỉ duy nhất có ở Việt Nam trên VTC (Chương trình quảng cáo trên tivi, 25.08.2009). Giải ngoại hạng Anh thì phải đá ở Anh rồi truyền hình ở Anh chứ sao lại ‘chỉ duy nhất có ở Việt Nam’? Đưa trạng ngữ ‘ở Việt Nam’ lên đầu, câu sẽ mất mơ hồ:
‘Ở Việt Nam, giải ngoại hạng Anh chỉ duy nhất có trên VTC’. Đặt trạng ngữ ở cuối câu dễ dẫn tới những câu mơ hồ vì không rõ trạng ngữ đó bổ nghĩa cho động từ nào.
- Các cuộc biểu tình phản đối việc bắt giữ ông Julian Assange, hiện đang ở trong nhà giam của Anh, vì các cáo buộc cưỡng hiếp diễn ra trên khắp Tây Ban Nha. (b., 13.12.2010)
Điều gì diễn ra trên khắp Tây Ban Nha? Các cuộc biểu tình hay các cáo buộc cưỡng hiếp? Vì để vị ngữ ‘diễn ra’ đứng cách quá xa chủ ngữ ‘các cuộc biểu tình’ làm đứt mạch văn và để cụm từ ‘trên khắp Tây Ban Nha’ đứng cuối khiến câu thành mơ hồ. Chỉ cần đảo lại trật tự là câu trở nên rõ ràng và thanh thoát:
- Các cuộc biểu tình diễn ra trên khắp Tây Ban Nha phản đối việc bắt giữ ông Julian Assange, hiện đang ở trong nhà giam của Anh vì các cáo buộc cưỡng hiếp.
Nhớ sai trật tự ‘mục đích - kết quả’ khiến câu sai:
- Suy nghĩ mãi, Thế tử Hữu mới tìm ra được một kế, quyết ‘di thân thí pháp’. (dùng thân mình liều với pháp luật - sách) Đúng ra phải là ‘thí thân di pháp’ - hy sinh thân mình (thí thân) để mong sửa đổi được pháp luật hà khắc (di pháp). Thế tử hữu dám liều mình để xin vua cha là Ngô Phù Sai bãi bỏ quân pháp ‘kẻ nào dám can ngăn vua xuất binh đánh Tề bị xử tử’. Ở
đây, chữ dùng sai, chú thích càng sai: đâu phải chuyện dùng thân mình liều với pháp luật!
Đảo trật tự từ, cấu trúc cú pháp thay đổi, câu có thể trúc trắc và dài ra vô ích.
Câu ‘nốt ruồi trên người em anh nhớ từng vị trí một, em còn giấu anh điều gì!’ (p.CTT, TV, 03.8.2011) dài dòng. Viết theo trật tự thuận sẽ đơn giản và ngắn hơn: ‘Anh nhớ từng nốt ruồi trên người em, còn giấu anh làm gì!’ Câu ‘... điều tra gần đây cho thấy tuổi thọ bình quân ở Nam Phi được dự kiến sẽ giảm gần 20 tuổi đến năm 2010 do HIV/AIDS’. (b., 27.09.2003) Câu này trúc trắc vì không chú ý tới vị trí trạng ngữ và cách diễn đạt câu theo quan hệ nhân quả ‘do... mà...’. Chúng ta sửa:
Hoặc ‘... điều tra gần đây cho thấy do HIV/AIDS, [mà] đến năm 2010 tuổi thọ bình quân ở Nam Phi được dự báo sẽ giảm gần 20 tuổi’. Hoặc ‘... điều tra gần đây cho thấy do HIV/AIDS, tuổi thọ bình quân ở Nam Phi đến năm 2010 được dự báo sẽ giảm gần 20 tuổi.’ Chú ý về vị trí của bổ ngữ:
Thường thì không nên để các thành phần khác xen giữa vị ngữ và bổ ngữ làm đứt mạch văn và tạo ra những câu khó hiểu.
- Ở trên cao họ có thể nhìn thấy tốt hơn so với mặt biển những gì có ở dưới nước.
Câu này khó hiểu vì cụm từ ‘so với mặt biển’ đã xen giữa động từ ‘nhìn thấy’ và bổ ngữ ‘những gì có ở dưới nước’. Vậy chỉ cần chuyển nó lên đầu câu hoặc xuống cuối câu:
- Ở trên cao họ có thể nhìn thấy những gì có ở dưới nước tốt hơn so với (ở trên) mặt biển.
- So với ở trên mặt biển, ở trên cao họ có thể nhìn thấy những gì có ở dưới nước tốt hơn.
4.5.2. Trật tự từ là một phương tiện ngữ nghĩa
Chúng ta quan sát một đề báo của Trần Bạch Đằng: ‘Mậu Thân và tuổi trẻ Sài Gòn. Tuổi trẻ Sài Gòn và Mậu Thân’. (Tuổi Trẻ, 29.01.2003) Trong tít trên, vế sau chỉ là vế trước đảo lại trật tự. Điều này cho thấy trật tự từ ngữ chuyển tải được ý nghĩa. Nếu không tác giả đã không cần thêm vế sau nữa.
Trật tự từ ngữ dù là trật tự giữa hai mệnh đề, giữa hai vế trong một câu ghép hay giữa các thành phần trong một câu luôn luôn ảnh hưởng tới nghĩa của câu.
- Bà bị cáo buộc sao chép 25% luận văn của mình về cải cách tiền tệ để nhận bằng tiến sĩ năm 2000. (b.,27.4.2011)
Sao lại ‘sao chép 25% luận văn của mình’? Hẳn là cần viết theo trật tự ‘25% luận văn của mình là sao chép’:
- Bà bị cáo buộc 25% luận văn của mình về cải cách tiền tệ là sao chép để nhận bằng tiến sĩ năm 2000. (b.,27.04.2011)
Thay đổi trật tự từ giữa hai mệnh đề mang lại cảm nhận chủ quan khác nhau.
- Hai sinh viên tranh cãi nhau về chuyện có thể đồng thời học triết học và hút thuốc lá được không. Không ai chịu ai. Họ phải nhờ giáo viên triết phân xử.
A: Thưa thầy, trong khi học triết học Mác-Lênin thì có được hút thuốc lá không ạ?
Thầy giáo triết học (không bằng lòng): Bậy nào, hút thuốc sao được. B bèn nói với A: Cách hỏi của anh sai rồi, để tôi hỏi lại thầy xem. B: Thưa thầy, trong khi hút thuốc lá thì có được học triết học Mác-Lênin không ạ?
Thầy giáo triết học (hài lòng): Đương nhiên là được rồi.
Vậy là hai cấu trúc ‘trong khi A thì B’ và ‘trong khi B thì A’ mang lại những sắc thái nghĩa khác nhau. Ở cấu trúc thứ nhất A là điều đã tồn tại và người ta nói về B, còn ở cấu trúc thứ hai B là điều đã tồn tại và người ta nói về A.
Trật tự giữa hai vế trong một câu ghép
- Có câu chuyện sau: Theo lệnh hoàng đế, Tăng Quốc Phiên (đời nhà Thanh) mang quân triều đình đi đàn áp nghĩa quân Thái Bình Thiên Quốc, tuy nhiên mấy lần đều thất bại. Ông ta định cầu nhà vua cho viện binh. Trong tờ tấu này, tất nhiên không thể nói dối vua, nên ông đã viết ‘đánh mãi mà vẫn thua’. Một mưu sĩ thấy câu này không ổn vì trước đây cũng có một đại tướng đi dẹp loạn không thành đã tâu lên vua một câu đại loại như thế để xin tăng viện. Hoàng đế nổi giận, bảo viên tướng nọ bất tài không dẹp nổi loạn, bèn giáng chức đại tướng và đày ra biên ải. Mưu sĩ này liền bày mẹo đổi lại trật tự trong tờ tấu ‘thua mãi mà vẫn đánh’ làm ý nghĩa câu nói thay đổi hẳn.
Quả nhiên khi đọc tờ tấu này, hoàng đế tươi cười khen: Tăng Quốc Phiên kiên cường lắm, không nhụt ý chí, thua mãi mà vẫn đánh. Trẫm cho thêm viện binh! (dẫn Triệu Truyền Đống)
Vậy là có thể thay đổi trật tự từ ngữ để nguỵ biện, để dẫn dụ người nghe theo một quan điểm nào đó.
Đảo trật tự từ là quan điểm thay đổi: Trọng tâm ngữ nghĩa rơi vào phần đứng sau từ nhưng.
Ví dụ:
a. Ngành này dễ kiếm việc làm nhưng khó học lắm.
b. Ngành này khó học lắm nhưng dễ kiếm việc làm.
Chúng ta đều cảm nhận được người nói câu (a) Ngại học ngành khó còn người nói câu (b) coi dễ kiếm việc làm là quan trọng nhất, nên sẵn sàng chấp nhận học ngành khó.
Trật tự giữa các thành phần trong một câu
Thay đổi trật tự từ để tạo ra điểm nhấn của câu, trọng tâm ngữ nghĩa sẽ thay đổi.
- Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo kiểm tra việc báo Nhân Dân nêu về thực hiện Chương trình 135 ở Cao Bằng. (Tít, Nhân Dân, 28.01.2005) Viết như trên, độc giả có thể hiểu điểm nhấn của câu là ‘kiểm tra xem việc báo Nhân Dân nêu có đúng hay không’. Lẽ ra nên viết: ‘Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện Chương trình 135 ở Cao Bằng mà báo Nhân Dân đã nêu’. Sửa như vậy, độc giả sẽ hiểu rằng ‘Thủ tướng Chính phủ cho rằng không ít thì nhiều vấn đề mà báo Nhân Dân nêu là đúng. Vậy cần kiểm tra xem mức độ của nó thế nào’.
- Nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV viết: a. Xây dựng Việt Nam thành nước công nông nghiệp hiện đại. b. Xây dựng các huyện thành những huyện nông công nghiệp hiện đại. Câu trên cho biết công nghiệp hiện đại là mục tiêu trọng tâm trong việc xây dựng đất nước. Câu dưới lại thể hiện ý nông nghiệp hiện đại là mục tiêu trọng tâm trong việc xây dựng cấp huyện.
- Tôi đã từng có cô ấy, mà có lẽ đúng hơn là cô ấy đã từng có tôi. (Rừng na-uy, tr.15)
Với từ từng và chuyển chủ ngữ thành bổ ngữ khiến hai câu ‘Tôi đã từng có cô ấy’, ‘cô ấy đã từng có tôi’ có hàm nghĩa khác nhau.
Có nhiều lỗi về trật tự từ khi dùng từ Hán-Việt. (x. §8.1 Lỗi từ vựng)
4.6. Vai trò của phương ngữ
4.6.1. Phương ngữ làm phong phú thêm ngôn ngữ toàn dân, mang lại sắc thái vùng miền mà ngôn ngữ toàn dân khó diễn tả nổi. Những biến thể ngữ âm do phương ngữ, do kiêng kị, do khẩu ngữ như mồng/mùng (một/tơi); nhật/nhựt; bảo/ bửu... được dùng trong những tình huống thích hợp giúp tạo ra những cách nói ấn tượng.
Có một người Đức mê nhạc Trịnh Công Sơn, tự đặt tên Việt là Trịnh Công Duy viết thế này: ‘Tôi học tiếng Việt trong các trường ở vỉa hè,[...], ngôn ngữ ngoài vỉa hè giàu hơn và đời hơn. [...] Tôi làm việc cho một dự án trồng cà phê của người Đức ở Buôn Ma Thuột - Buôn Ma Thuột... buồn thấy mẹ’. (TTCN, 19.10.2003). Ông Tây này dùng khẩu ngữ Nam Bộ thật tuyệt: Người Bắc Bộ nói buồn nẫu ruột nhưng chỉ Nam Bộ mới buồn thấy mẹ!
Phương pháp cơ bản của viết tiểu phẩm châm biếm là lý lẽ ngược đời, là nói ngược: ‘nói vậy nhưng không phải vậy’. Nói ngược theo cách nói dân gian dễ gây hiệu quả nhất. Vì vậy, tiếng địa phương, kể cả những từ nước ngoài theo biến thể địa phương, được dùng để miêu tả những sự kiện trái khoáy, ngược đời, để nói ngược và bình ngược.
Phương ngữ làm giàu thêm các biện pháp tu từ. Mỗi phương ngữ thường phát âm chuẩn ở bộ phận này của âm tiết nhưng lại sai ở một bộ phận khác. Nhờ phát âm không phân biệt d~/gi~; d~/r~... Nên sĩ phu Bắc hà mới nghĩ ra được câu miêu tả đời sống cán bộ thời bao cấp thật là sang: ‘Đi xe cố vấn; Mặc áo chuyên gia; Ăn uống qua loa; Là anh cán bộ’. Nghĩ lại mới thấy cay: Xe đạp của cán bộ, nếu không cố mà vấn mà buộc thì ruột xe lòi ra nổ tung. Vải thiếu, áo rách hở cả da thịt nên được phong là áo chuyên da. Ăn uống thì sao? Cứ nghe qua đài, qua loa... thì vẫn no đủ.
Những thủ pháp chơi chữ như nói lái thì Nam Bắc giống nhau, nhưng nhờ không phân biệt hai âm đầu d~/r~ nên chuyện cười sau đặc Bắc Bộ: Bố vợ hay nói lái, con rể ‘theo gương’ bố cũng hay nói lái, đùa ra đùa, nhiều khi quá trớn. Bữa ấy bố vợ tổ chức mừng ông thượng thọ 70. Khách khứa đông. Bữa ăn gần xong, anh con rể:
- Ới bô, bây giờ con đi ‘rửa bô’ nhé?
Khách khứa sững sờ. Bố vợ tức quá mắng:
- Đang ăn uống mà anh nói năng gì lạ thế? ‘Rửa bô?’ có mà rửa bố anh thì có.
Chàng rể lễ phép lui ra, gọi to bảo vợ:
Bố bảo không ‘rửa bô’, mà ‘rửa bố’. Để dưa lê đấy! Chạy ù ra chợ mua ít dứa về ngay!
Người Bắc Bộ nói lái bổ dưa thành rửa bô, bổ dứa (bổ thơm) thành rửa bố, còn bố ơi thành lời kêu cái bô ới bô!
4.6.2. Có những câu sai mang dấu ấn phương ngữ
Phát âm sai dễ dẫn tới những sai chính tả. Không có địa phương nào phát âm hoàn hảo cả. Từ đây, mỗi vùng phương ngữ đều có những lỗi chính tả đặc thù. Dấu vết của loại sai chính tả này để lại khá nhiều trong văn học. Trong Cours de Vietnamien (Giáo trình tiếng Việt) của Antoine Dauphin, nxb Asiathèque, Paris, 1978, có câu ‘Anh hùng đâu cứ phải mài dao’. Ở đâu ra cái thuyết người anh hùng phải giỏi võ nghệ, cung kiếm, nên thường mài dao kiếm? hóa ra ông dẫn câu thơ ‘Ra thế to gan hơn béo bụng/ Anh hùng đâu cứ phải mày râu.’ (Tố Hữu) Nhưng sao mày râu lại thành mài dao? Đây là dấu vết của phương ngữ Nam Bộ, ở đó phát âm không phân biệt ay/ai và au/ao. Và mày râu đọc thành mài rao. Nghe đọc mài rao hẳn là ông người Pháp này đã suy luận mài rao là sai chính tả. Sửa là ‘Anh hùng đâu cứ phải mài dao’ mới đúng (?!)
Trên Tuổi Trẻ (26.07.2009), có hai bài viết rất cảm động về Bruce Weigl đã giáo dục con gái nuôi tên Hạnh của mình tình yêu cội nguồn Việt Nam như thế nào. Ông đón bé Hạnh trong một trại trẻ ở Hà Nam. Khi ấy, ông hứa: ‘hôm nay, tôi nhận của quý vị một đứa bé Việt Nam, tôi hứa sau này sẽ trả lại quý vị một cô gái Việt Nam’. Trong tập thơ xuất bản cuối tháng 06.2009 với tựa đề ‘Declension in the village of Chung Luong’ có bài thơ mang tựa đề tiếng Việt không dấu là Con gai bo (Con gái bố). Trong bài thơ này có câu (được dịch sang tiếng Việt là) ‘những dòng sông của Bình Lục vẫn chảy êm đềm.’ Vậy đây là xã ‘Chung Lương’ của Bình Lục. Nhưng huyện này chỉ có xã Trung Lương. Tựa đề tập thơ này để lại một dấu vết của phương ngữ Bắc Bộ, ở đó phát âm không phân biệt hai âm đầu ch~/tr~. Thế là xã Trung Lương đã thành Chung Lương. Hẳn một ai đó ở Hà Nam đã ghi nơi sinh Trung Lương của bé hạnh thành Chung Lương?
4.6.3. Phương ngữ và... tín ngưỡng dân gian
Vì sao trên bàn cúng gia tiên ngày Tết, mâm ngũ quả của miền Nam hoặc là 5 loại trái mãng cầu, dừa, xoài, đu đủ (có thể thêm thơm) hoặc là chùm sung, trái mãng cầu, trái xoài, trái đu đủ?
Có thể giải thích bằng lý do... phương ngữ: Do không phân biệt âm đầu v~/d~; âm cuối~n/~ng nên dừa đọc thành vừa, mãng cầu đọc thành mãn cầu, còn xoài biến âm thành xài. Với niềm tin và cầu ước giản dị, người Nam Bộ thể hiện lời khấn ‘cầu vừa đủ xài’ qua 4 loại trái cây: mãng cầu, dừa, đu đủ, và xoài, thêm trái thơm càng tốt? Cũng vậy, thể hiện lời cầu ước ‘sung mãn đủ xài’ không gì tốt hơn chùm sung, trái mãng cầu, trái đu đủ và trái xoài?
4.6.4. Phương ngữ làm ngôn từ thêm sâu sắc nhiều trường hợp từ địa phương rất có ích cho bài viết. Nhờ từ địa phương mà câu mất tính mơ hồ không có lợi.
Trong một bài viết về những nữ sinh viên kiếm thêm tiền ăn học bằng cách đi bán hoa hồng ở các khách sạn, một tờ báo đặt tít theo nghĩa đen: ‘Tôi đi bán hoa!’ Tít này gây ra nghĩa bóng không thể chấp nhận được: Vào khách sạn bán hoa khác gì... ‘Tôi đi bán dâm’? Phương ngữ Nam Bộ có từ bông đồng nghĩa với từ hoa. Do vậy, nên chăng sửa lại thành ‘những cô gái bán bông’?
Trong một số tình huống, một từ địa phương, một từ cổ lại chứa nhiều thông tin ‘đắt’ hơn thông tin của từ toàn dân.
Trưa 08.10.2001, sau khi bom đã rơi xuống Afghanistan, cố vấn an ninh quốc gia Condolezza Rice họp báo tại phòng số 450 trong toà nhà D.D. Eisenhower thuộc khuôn viên nhà Trắng. Nhà báo Randy hỏi: ‘Tôi muốn hỏi về thời điểm. Có một lý do riêng nào đó để chọn ngày Chúa Nhật để tấn công?’ (TTCN, số 40.2001)
Câu hỏi này không phải ‘vô hại’ mà là một cái bẫy. Tại sao? (nếu không dùng phương ngữ Chúa Nhật mà dùng Chủ Nhật, bạn đọc bình thường, nhiều khả năng không thấy điều ám chỉ trong câu hỏi.)
Khi mới mở màn trận chiến này, trong khi phe Taliban hò hét ‘thánh chiến’ (Jihad) thì tổng thống Bush đã buột miệng gọi đây là một ‘crusade’ làm cả
thế giới hồi giáo bàng hoàng: Crusade là cuộc thập tự chinh của những người Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ để giành lại Đất Thánh từ tay những người theo đạo hồi. Người Do Thái và người theo đạo Cơ đốc hiểu hơn ai hết tên gọi thứ bảy và Chủ Nhật. Tuần lễ Do Thái gọi ngày thứ bảy là Sabbath, ngày nghỉ cuối tuần. Đạo Cơ đốc thừa hưởng tuần lễ kiểu Do Thái nhưng lại coi ngày tiếp sau ngày Sabbath mới là ngày nghỉ và đó là ngày của Chúa (Chúa Nhật). Câu chất vấn của Randy hàm chứa ám chỉ ‘Phải chăng đây chính là kế hoạch crusade của tổng thống Bush?’ nữ cố vấn an ninh Rice đã né tránh: ‘Thật ra, đó chỉ là do đúng vào lúc mà mọi công tác chuẩn bị đều đã sẵn sàng, nên cứ thế bắt đầu kế hoạch thôi’.
CHƯƠNG 5. CÂU HAY
5.1. Thế nào là câu hay?
5.1.1. Câu hay là những câu lệch chuẩn tiếng Việt nhưng có thể chấp nhận được trong những tình huống, những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể và thường được sáng tạo ra một cách ý thức.
Bài thơ Mắt Lý Công Uẩn (1994) của Huy Cận như sau:
Mắt chứa thời gian, chứa không gian
Nhìn trước nghìn năm mắt địa bàn
Vạn dặm phù sa bồi lịch sử
Dời đô, đất nước đã sang trang.
Hình như chưa ai dùng ‘mắt địa bàn’. Thế là câu thứ hai lệch chuẩn. Có người thẩm thơ cho rằng câu thứ hai phải là ‘nhìn trước nghìn năm mắt đại bàng’. Đúng là mắt loài đại bàng rất tinh, có thể nhìn xa vài dặm. Nhưng dẫu sao cũng chỉ là con mắt sinh vật trần tục, sao mà chứa thời gian, nhìn trước nghìn năm được? ‘Mắt địa bàn’ là một từ lệch chuẩn đắc địa. Chỉ mắt địa bàn mới nhìn thấu thời gian và không gian, làm nền cho câu thứ hai và cho cả một bài thơ hay.
Cũng nói về con mắt, câu ‘Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười’ (Tố Hữu) là hay. Miệng cười là chuyện bình thường. Còn ‘mắt cười’ là kết hợp lạ, nhưng cách dùng này hợp lý. Nó phản ánh nhận thức con mắt là cửa sổ của tâm hồn, vui buồn hiện ra trong ánh mắt.
Câu hay và bản gốc. Câu gốc có thể không ‘hay’ nhất, nhưng cần phải tôn trọng. Huỳnh Văn nghệ trong bài thơ Nhớ Bắc, viết từ 1946-1948, có câu thơ hay:
‘Từ độ mang gươm đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long’
Không nên sửa lại như Huy Cận, rồi Tuyển thơ Việt Nam, 2004, và một vài báo khác: - Từ thuở mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. - Từ độ mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. (ANTĐ, 27.11.2004)
Trong khuôn khổ sách này, chúng ta chỉ đề cập tới loại câu hay mà một người bình thường có thể tạo ra được.
Câu hay là một câu đúng và có giá trị thẩm mỹ ngôn từ.
Đó là những câu đơn giản, không dư thừa, có hình ảnh, súc tích, lời ít ý nhiều, diễn đạt theo cách nói của người Việt, dùng thích hợp với tình huống, phù hợp với văn hóa người Việt và tạo ra cảm hứng thích thú nơi người đọc qua những biện pháp ngôn từ như so sánh, ẩn dụ, ngụ ý, ám chỉ, chơi chữ... để tạo ra thông điệp cần thiết. Những câu như vậy, nếu thêm yếu tố bất ngờ lại càng hay.
Câu nêu triết lý hợp với cảm nhận của nhiều người hay ít nhất cũng được nhiều người chia sẻ và ưa thích rồi dùng theo là câu hay.
Chẳng hạn, ‘Cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền’ (Lời Thuyết ‘buôn vua’ trong vụ Năm Cam). Câu này có vẻ như tự mâu thuẫn. Thực ra, sự đối lập giữa tiền/rất nhiều tiền chỉ là đối lập bề ngoài, còn bản chất chỉ là sự đối lập giữa không nhiều tiền và rất nhiều tiền. Câu này bộc lộ triết lý có tiền mua tiên cũng được nhưng được nói theo giọng con buôn: Không gì không mua được bằng tiền. Chỉ thay từ có thể bằng từ phải, câu trên được chuyển thành lời luật sư Ngọc Hoàn ‘Cái gì không mua được bằng tiền thì phải mua bằng rất nhiều tiền’. (p. Bản lĩnh người đẹp, tập 8) Đó cũng là triết lý của bà Hằng ‘Cái gì không mua được bằng tiền sẽ mua được bằng rất nhiều tiền’(p. CTT, t.1) Đối lập tiền/rất nhiều tiền biểu trưng cho đối lập không nhiều tiền và rất nhiều tiền trở thành một khuôn ngôn ngữ: ‘Chuyện của Công Minh không phải vì tiền mà là vì rất nhiều tiền’. (TV, 22.09.2011)
Có nhiều lý do khiến chúng ta sử dụng cách nói có hàm ý. Đầu tiên là ‘nói thật mất lòng’. Nói thật cũng làm ‘mất thể diện’, gọi nôm na là ‘mất mặt’. Nhưng có những sự việc vẫn cần phải nói thật. Lúc đó nên chọn cách nói gián tiếp. Những hàm ý, ngụ ý thích hợp với tình huống là ngụ ý ‘đắt’ và hay.
- Ông... ủng hộ tổng biên tập Lê Hoàng gỡ cái vật cản ngay dưới chân mình để đòi một ‘phương thức lãnh đạo tốt nhất là tạo điều kiện để báo Tuổi Trẻ vươn lên xứng tầm quốc gia và khu vực. (b., 03.09.2007) Nếu thay ‘vật cản ngay dưới chân’ bằng ‘vật cản ngay trước mặt’ thì ngụ ý sẽ thay đổi và mất hay. Dưới chân và trước mặt tạo ra hai sự liên tưởng khác nhau. ‘Chân’ là thấp và liên quan tới bước đi. Đối lập lại ‘mặt’ là cao và liên quan tới tầm nhìn. Vật cản ngay dưới chân tạo ngụ ý cái vật cản ngáng đường và thấp kém. Cái đoạn tiếp theo ‘đòi một phương thức lãnh đạo tốt nhất’ khiến người đọc hiểu rõ và hiểu ngay cái ‘vật cản’ dưới chân này ngụ ý điều gì.
Dùng những ‘câu hỏi khéo’ cũng là cách nói hay.
- Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kể: ‘Có lần sang thăm một nước ở Bắc Âu, khi dàn nhạc binh cử quốc thiều hai nước, phía bạn thì từ vua đến các thành viên chính phủ đều hát, còn đến lượt ta chỉ có nghe tiếng nhạc mà không có tiếng người, khiến người đứng đầu nước chủ nhà hỏi khéo:
‘Thế nước bạn quốc ca không có lời à?’ (Tuổi Trẻ, 29.10.2010) Những sự thật xấu xa thì cần được phơi bày. Châm biếm là một phương thức tốt, nhằm bộc lộ sự thật một cách hiệu quả. (x. §5.7.2) Đoạn văn hay là đoạn văn mạch lạc, giữa các câu có liên kết chặt chẽ về hình thức cũng như nội dung.
Viết sao cho độc giả tự phát hiện ra ý tứ của mình cũng là viết hay. 5.1.2. Câu đúng, câu hay: Ranh giới mong manh
Thay một chữ, từ câu hay có thể chuyển thành câu bình thường hoặc một câu dở. Thay một chữ, câu hay chuyển thành câu dở. Nhưng sự khác biệt này nhiều khi rất khó thấy. Khi tả Kiều tắm, ‘Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.’ được coi là nguyên tác, nhiều bản Kiều in như vậy. Nhưng có một bản Kiều lại viết ‘Rõ màu trong ngọc trắng ngà’. Chuyển từ rõ ràng sang rõ màu, Nguyễn Khắc Bảo bình luận: ‘Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, khác đi một chữ ra người... phàm phu’ (NNĐS, 3.2003, t. 44) Xem thêm: §6.1 Chữ tác đánh chữ tộ.
Câu không hay là những câu dài dòng, những câu có thể viết ngắn hơn mà vẫn đồng nghĩa, vẫn giữ nguyên sắc thái.
(1) Trên mạng Internet dấy lên những lời đồn đại Choi Jil Sil đã cho Ahn, một người bạn của cô, vay tới 2,5 tỉ won. (b., 03.10.2008) Trong câu trên, danh từ Ahn được định rõ bằng một chú giải một người bạn của cô. Phong cách khoa học thường dùng cách viết này, nhưng lời nói thường ngày người ta nói giản dị hơn ‘bạn cô là Ahn’ nghĩa là có thể viết phần cuối của câu 1 như sau:
(2) ‘... Choi Jil Sil đã cho bạn cô là Ahn vay tới 2,5 tỉ won’. Câu 2 hay hơn câu 1.
Cách nói súc tích chứa nhiều lượng thông tin trong môi trường trí thức cũng được coi là hay. Năm1996 cố vấn Phạm Văn Đồng tròn 90 tuổi, một giáo viên hỏi:
- Thưa Bác, Bác sinh ngày nào ạ?
- Thỉnh thoảng mới có một ngày sinh.
Người nghe chưa hiểu ngay. Thủ tướng giải thích thêm ‘Bốn năm mới được sinh nhật một lần’. Suy ra ông sinh ngày 29.02.1906.
5.2. Diễn đạt theo cách nói của người Việt là diễn đạt hay
Nói đúng, nói chính xác là một phương châm quan trọng trong giao tiếp. Để giao tiếp có hiệu quả, cần nói năng dễ nghe, dễ hiểu. Muốn vậy, cần nói như người Việt thường nói.
5.2.1. Người Việt thường nói thế nào? Nhà văn hóa Phan Khôi cho ví dụ: Trên đường về, nghe hỏi ‘Anh đi đâu về đấy?’ người thợ săn Việt Nam sẽ trả lời:
(1) Tôi đi săn về.
Người thợ săn Pháp lại lấy cái việc chính mình đang làm (tôi trở về...) để trả lời:
(2) Tôi trở về từ sự đi săn. (Je reviens de la chasse)
Vậy là người Việt trả lời theo cách kể lại tuần tự những việc đã xảy ra: tôi đi - tôi săn - tôi về, và thành ‘Tôi đi săn về’.
Người Việt nói ‘từ A trở về’,‘từ A đến B’,... còn ‘trở về từ A’, ‘B đến từ A’... là cách diễn đạt mượn của tiếng Anh, tiếng Pháp. Không nên viết ‘Rất nhiều kỹ sư vi tính trẻ đang trở về từ Hoa Kỳ để tiến hành hoạt động kinh doanh Internet tại quê hương’. Nên viết ‘Rất nhiều kỹ sư vi tính trẻ đang từ Hoa Kỳ trở về tiến hành hoạt động kinh doanh Internet tại quê hương’.
Một trong các cách nói của người Việt là trật tự thời gian các hiện tượng, sự việc đã xảy ra thế nào thì trật tự từ ngữ phản ánh chúng cũng như vậy. Xét thêm câu:
(3)... Tùng bài bạc gì đó thua hết tiền, lại bán xe máy mẹ vợ vay tiền mua cho làm phương tiện kiếm sống. (b., 20.03.2009)
Câu trên do hai câu đơn giản hơn hợp lại:
(3a) Tùng bài bạc gì đó thua hết tiền, lại bán xe máy.
(3b) Mẹ vợ vay tiền mua (xe máy) cho làm phương tiện kiếm sống. Ở mỗi câu (3a), (3b), chúng ta gặp những chuỗi động từ theo đúng trật tự thời gian xảy ra nên vẫn nghe được: (3a) bài bạc - thua hết - bán; (3b) vay - mua - cho - làm - kiếm.
Cách diễn đạt theo trật tự thời gian dẫn tới hiện tượng tiếng Việt dùng nhiều động từ đi thành chuỗi, dùng nhiều động từ, dùng ít danh từ. Ví dụ: (4) Tôi đi tìm mua một số sách tặng học sinh giỏi.
Câu trên đã xâu bốn động từ đi, tìm, mua, tặng thành chuỗi. Cách xâu chuỗi động từ kiểu này khiến tiếng Việt có nhiều động từ ghép theo quan hệ nhân quả: bệnh tật; đổ vỡ (có đổ mới vỡ); nghèo hèn (vì nghèo nên hèn); giàu sang; cổ kính (có cổ mới kính)...
Thường thì câu càng ít những từ sự, việc càng dễ nghe hơn, càng hợp với lỗ tai của người Việt hơn. Người Việt không nói:
(5) Sự có mặt của giám đốc làm chúng ta rất phấn khởi.
Từ ‘sự’ làm câu này thành tĩnh, chuyển danh ngữ ‘Sự có mặt của giám đốc’ thành cụm chủ vị ‘giám đốc đến’ câu bớt được sự và của, ngắn hơn và trở nên động, phù hợp với đặc điểm ‘rất phấn khởi’ hơn:
(5b) Giám đốc đến (làm) chúng ta rất phấn khởi.
Quan hệ ‘thua hết tiền - bán xe’, ‘giám đốc đến - chúng ta phấn khởi’ là những quan hệ nhân quả. Thông thường người ta dùng câu ghép nguyên nhân - kết quả, điều kiện - kết quả thể hiện quan hệ này. Có thể dùng động từ khiến, làm cho... để nêu quan hệ này trong một câu đơn giản như 3, 5b.
Cũng vậy, danh từ ‘tính tiêu cực’ làm câu sau đây nặng nề: (6) Mặt khác, phe chính trị đối lập Israel cũng đòi điều tra chính thức những lời cáo giác về Iraq do Mossad đưa ra vì điều này phản ánh tính tiêu cực lên tính trung thực trong thông tin tình báo của Israel. (b., 23.12.2003). Chuyển nó thành động từ thì câu thuận hơn:
(6b) ... vì điều này phản ánh tiêu cực đã chi phối tính trung thực trong thông tin tình báo của Israel.
Vì sao câu 7 dưới đây khó hiểu?
(7) Nếu chuyên viên không ngay ngắn và thiếu am hiểu sâu sắc công việc để kiểm tra của lãnh đạo thường phát sinh tiêu cực ở khâu nghiên cứu, trình xử lý. (b. 17.07.2003)
Từ của làm câu trên nặng nề.‘Công việc để kiểm tra của lãnh đạo’ là một danh ngữ nghe lạ tai. Thường nói ‘lãnh đạo kiểm tra công việc’. Cũng có thể chuyển thành một danh ngữ: công việc để (/mà) lãnh đạo kiểm tra. Cho nên, nếu dùng kết cấu chủ - vị ‘lãnh đạo kiểm tra’ để mở rộng từ kiểm tra thì câu nghe ‘thuận’ hơn, nhẹ nhàng hơn:
(7b) Nếu chuyên viên không ngay ngắn và thiếu am hiểu sâu sắc công việc để (/mà) lãnh đạo kiểm tra, thường phát sinh tiêu cực ở khâu nghiên cứu,
trình xử lý.
(8) Mục tiêu để giám sát bất cứ khi nào ra khỏi tầm mắt của họ chính là các ông chồng. (b., 15.10.2011)
Câu (8) Nghe rất lủng củng. Mục đích là giám sát. Chúng ta hỏi: giám sát ai - khi nào? Theo trật tự ấy, ta viết:
(8b) Mục tiêu giám sát chính là các ông chồng bất cứ khi nào ra khỏi tầm mắt của họ.
Viết như trên vẫn dài vì ‘bất cứ khi nào’ là ‘mỗi khi’. Vậy có thể nói ngắn hơn nữa:
(8c) Mục tiêu giám sát chính là các ông chồng mỗi khi ra khỏi tầm mắt của họ.
Chú ý tới cách diễn đạt câu theo luật nhân quả chúng ta sẽ bớt đi những cách nói nặng nề:
(9) Không khí trong cuộc họp trở nên rất căng thẳng. Trước tình hình đó, ông Ba bỏ ra ngoài.
‘Trước tình hình đó’ khiến vế sau nặng nề. Người dân bình thường sẽ dùng quan hệ ‘nhân quả’ vì vậy, thấy vậy:
(9b) Không khí trong cuộc họp trở nên rất căng thẳng. Thấy vậy, ông Ba bỏ ra ngoài.
Có những cách nói vay mượn, nghe mãi cũng thành quen. Nhiều xướng ngôn viên trên tivi nói ‘Cám ơn sự quan tâm theo dõi của các bạn’. Nhưng ‘Cám ơn các bạn đã quan tâm theo dõi’ vẫn thuận tai hơn.
5.2.2. Trong câu nhân quả thì nguyên nhân, điều kiện xảy ra trước kết quả xảy ra sau.
Nguyên nhân xảy ra rồi kết quả mới xảy ra. Vậy cách nói ‘Vì A nên B’; ‘Do A mà B’ thuận tai hơn cách nói ‘B bởi A’; ‘Sở dĩ B vì A‘. Câu ‘nếu chăm sẽ giỏi’ nghe thuận tai hơn ‘Sẽ giỏi nếu chăm’. Câu ‘nếu có tiền tôi sẽ mua xe Honda’ dễ nghe hơn câu ‘Tôi sẽ mua xe Honda nếu có tiền’.
Viết kết quả trước, nguyên nhân sau nên câu dưới đây khó hiểu: (10) Thế nhưng khi những tay cá cược mê Manchester City sắp ‘dọn nhà’ ra vỉa hè ở vì... Anelka, thì tiền đạo này lại cất tiếng hát: từ đầu mùa bóng đến nay Anelka liên tục ghi bàn cho Manchester City. (b., 27.09.2003) Nên sửa lại như sau:
(10b) Thế nhưng khi những tay cá cược vì Anelka mà ‘bắt’ Manchester City sắp ‘dọn nhà’ ra ở vỉa hè, thì tiền đạo này lại tỏa sáng: từ đầu mùa bóng đến nay anh liên tục ghi bàn cho Manchester City.
Cũng vậy, cách nói ‘Tuy A nhưng B’ phổ biến hơn, nghe thuận tai hơn cách nói ‘B tuy A’.
Nguyên tắc trật tự từ ngữ phản ánh trật tự thời gian các hiện tượng, sự việc đã xảy ra cũng được dùng trong những kiểu câu khác như câu hỏi, câu mệnh lệnh...
Nếu việc chưa xảy ra chúng ta hỏi:
(11) Nếu tôi bật tivi có làm phiền anh lắm không?
Nếu việc đã xảy ra rồi thì hỏi:
(11b) Tôi bật tivi có làm phiền anh lắm không?
Kiểu hỏi sau đây khó nghe:
(11c) Có làm phiền anh lắm không nếu tôi bật tivi?
5.2.3. Ai, nào, sao, gì, đâu, bao giờ,... - những từ phiếm định độc đáo của tiếng Việt.
Ngoài chức năng để hỏi, những từ trên đây còn dùng để tạo ra những câu thể hiện ý tuyệt đối theo phương thức tác động tới yếu tố phiếm định là tác động tới tất cả. Thế nào là ‘tác động tới yếu tố phiếm định’? Một số ví dụ: Trong các câu ‘Ai cũng vậy thôi’ (TY, 39); ‘Ở đời cái gì cũng thế’ (TY, 260) từ cũng đã đối chiếu với yếu tố phiếm định ai, gì... Nên tạo ra những
câu có ý nghĩa tất cả: mọi người đều vậy, ở đời mọi thứ đều thế. Những câu sau đây đều là những câu chất vấn yếu tố phiếm định để tạo ra ý nghĩa bác bỏ tuyệt đối:
(A) Tôi về bao giờ? (→ tôi chưa hề về)
(B) Các ông có mất gì đâu. - Ngô Tất Tố (→ các ông không mất gì cả) - Tôi nói đâu nào? (→ tôi không hề nói)
- Bác bán rẻ thế còn đâu ra tiền lời. (→ không còn tiền lời) - Làm gì chẳng xong. (→ chắc chắn xong)
- Ông là người Êđê, có học, lẽ nào ông quên câu nói đó. (Xuân Du) (→ ông không thể quên)
- Được là được thế nào? (MĐLNNM, 77) (→ không được) - Tôi nói điều đó để làm gì kia chứ? (→ tôi không nói)
- Sao lại không liên quan đến ai? (TY, 510) (→ có liên quan đến người khác)
- Thoát khỏi thế nào được! (→ không thể thoát được)
- Còn gì nữa đâu mà yêu. - Lê Lựu (→ không còn gì nữa) - Nào ai còn dám nói năng một lời. - Kiều (→ không ai dám nói). (C) Trong các câu ‘Chẳng ai đến cả’; ‘Không đời nào họ cho anh vay’; ‘Chẳng sao cả’; ‘Không đâu còn thứ hàng này’... từ ‘chẳng’ đã phủ định yếu tố phiếm định ai, đời nào, sao, đâu... để tạo ra những câu có ý nghĩa phủ định tuyệt đối: mọi người đều không đến, chắc chắn họ không cho anh vay, mọi nơi đều không còn hàng này,...
Những phương thức (A), (B), (C) không thấy ở tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác, nên khi dịch những kiểu diễn đạt đặc Việt Nam này, hoặc người ta tìm những cách diễn đạt khác, hoặc chỉ dịch ý hoặc người ta né và bỏ qua. Chúng tôi đã kiểm tra điều này qua tuyển tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh (2003) - và bản dịch có uy tín Love after war (2003) - của Wayne Karlin và Hồ Anh Thái (chủ biên).
‘Tỉnh người ta thiếu gì?’ ‘Thiếu gì’ nghĩa là không thiếu gì nên được dịch ý là ‘Tỉnh người ta có đầy người như vậy’. ‘Đâu còn thì giờ lo chuyện nhà cửa’ (TY, 35); ‘Đâu còn thì giờ’ nghĩa là không còn thì giờ, nên được dịch ý là ‘quá bận’: she was too busy’ (LAW,19); ‘Dời đi đâu? Tiền đâu mà dời?’ (TY, 35). Chất vấn ‘tiền đâu?’ tức là không có tiền, nên được dịch ý là quá nghèo: Evacuate to where?... our village is real poor’ (LAW,19). ‘Nào có thấy nhà em về đâu ạ! Chờ hết nước hết cái mà hoài công, anh ơi!’ (TY, 23). ‘Nào có thấy’ tức là tuyệt đối không thấy. Thế là được dịch thành ‘he’s nowhere to be seen...’ (LAW,6); ‘nếu không thì lo gì tôi’ (TY, 116). ‘Lo gì tôi’ tức là ‘không phải lo cho tôi’. Và đã được dịch thành một mệnh đề ghép phủ định ‘If you’re not, then don’t worry about me’.
Tương tự, những cách so sánh cực cấp nhất dưới đây cũng là kiểu diễn đạt đặc Việt Nam vì không thấy ở mấy ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga. Câu ‘Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng?’ có nghĩa là nhi đồng yêu Bác Hồ Chí Minh nhất. Câu ‘Mẹ không thương con thì thương ai?’ có nghĩa là mẹ thương con nhất. Câu ‘Anh ta mà giỏi thì còn ai không dốt?’ có nghĩa là anh ta dốt nhất.
Chú ý tới quy tắc trên đây sẽ tránh được những câu dư thừa. (12) Tôi không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ đội bóng nào muốn gặp chúng tôi vào lúc này. (b., 24.06.2012) hai lỗi trong câu trên là:
a) Câu này bày tỏ ý kiến của người nói. Vậy nên viết ‘Tôi nghĩ rằng [không...]’. Nếu bác bỏ ý kiến người khác thì mới viết ‘Tôi không nghĩ rằng...’
b) Chỉ cần viết ‘không đội bóng nào’ là đã diễn tả được ý phủ định tuyệt đối ‘mọi đội bóng đều không...’. Câu trên đã dư từ ‘bất kỳ’. Chúng ta sửa lại:
(12b) Tôi nghĩ rằng không có đội bóng nào muốn gặp chúng tôi vào lúc này.
5.2.4. Trong tiếng Việt có những cấu trúc hay dùng. Người Việt thích dùng câu chủ động, ít dùng câu bị động.
Cách thể hiện ý bị động cũng khác. Đó là phương thức đảo bổ ngữ lên đứng ở đầu câu và có thể không cần dùng trợ từ thể hiện phương thức bị động ‘bởi’, ‘bằng’ như ở nhiều ngôn ngữ khác. Còn lại, trật tự tác nhân - hành động (trật tự chủ ngữ - vị ngữ trong câu chủ động) vẫn giữ nguyên.
Ở dạng chủ động chúng ta nói:
(a) Ba buộc một con trâu ở bụi tre.
(b) Ba tặng sách cho Năm.
Chuyển sang dạng bị động, người Anh hay người Pháp sẽ nói: ‘Một con trâu bị (/được) buộc ở bụi tre bởi Ba’; ‘Năm được tặng sách bởi Ba’. Nói vậy không sai ngữ pháp nhưng không là cách nói của người Việt. Chúng ta nói:
(a’) Một con trâu (bị/được) Ba buộc ở bụi tre.
(a’’) Một con trâu buộc ở bụi tre.
(b’) Năm được Ba tặng sách.
Cũng vậy, không nên nói: ‘hàng nghìn nạn nhân đã bị giết chết bởi bom nguyên tử (Tivi, 08.01.2006). Nên nói: hàng nghìn nạn nhân đã bị bom nguyên tử giết chết.
Nên sửa câu dưới đây thế nào?
(13) Bằng cách này, chính quyền Mỹ có thể hạn chế những lời chỉ trích đến từ Israel và những người Mỹ gốc Do Thái vì đã nghiêng về phía Palestine. Có ba điều lưu ý về bổ ngữ của câu trên:
a) giới ngữ đến từ... không thuận tai.
b) Chuyển danh ngữ ‘những lời chỉ trích đến từ Israel...’ thành câu chủ động ‘Israel... chỉ trích’ sẽ dễ nghe hơn.
c) ‘Lời chỉ trích... vì đã...’ là cách diễn đạt kết quả-nguyên nhân ngược với trật tự nhân quả. Thay ‘vì’ bằng ‘là’ sẽ chuyển thành cách diễn đạt sự kiện giải thích. Vậy:
(13b) Bằng cách này, chính quyền Mỹ, có thể hạn chế Israel và những người Mỹ gốc Do Thái chỉ trích là đã nghiêng về phía Palestine. Thuận cấu trúc tiếng Việt là thuận theo trật tự hành động như ‘giao ai làm việc gì’. Có giao việc rồi mới làm việc, vậy là thuận. Bằng cách đảo trật tự, chúng ta tạo một câu đồng nghĩa ‘giao việc gì cho ai (làm)’, nhưng ít người dùng cách nói này vì không ‘thuận tai’ người Việt.
Trong quá trình hội nhập hợp tác quốc tế, nhiều văn bản thương mại, văn hóa, khoa học,... được soạn theo hai thứ tiếng. Trong những trường hợp này lại càng cần chú ý viết tiếng Việt theo cách nói của người Việt. Không nên gò tiếng Việt theo khuôn tiếng Anh hay tiếng nước ngoài nào khác. Trên báo Tuổi Trẻ ngày 24.04.2002 dẫn nhiều ví dụ về lời văn trong hiệp định thương mại Việt-Mỹ sao mà ‘xa lạ, khó hiểu và mơ hồ’ khiến nhiều doanh nghiệp nói họ không nắm hết các ý của bản hiệp định này.
Ví dụ:
1) Thương mại hàng dệt và sản phẩm dệt. (khoản 4, điều I, chương I) Sao không viết ‘mua bán mặt hàng dệt’?
2) Giao lưu biên giới. (khoản 3, điều I, chương I)
Sao không viết ‘buôn bán tiểu ngạch’ hay ‘biên mậu’?
3) Giao hàng từ cửa đến cửa. (door to door delivery)
Sao không dùng cách nói quen thuộc ‘giao hàng tận nhà’ của người Việt? 4) Mỗi bên điều hành các biện pháp thuế quan và phi thuế quan có ảnh hưởng tới thương mại để tạo cho hàng hóa của bên kia những cơ hội cạnh tranh có ý nghĩa đối với các nhà cạnh tranh trong nước. (Điều 2, chương I) Chúng ta không nói ‘điều hành các biện pháp thuế quan’, mà cũng không nói ‘nhà cạnh tranh trong nước’. Cho nên, lẽ ra điều trên cần được viết là ‘Mỗi bên áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan tác động đến thương mại sao cho tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng đối với sản phẩm của bên kia so với sản phẩm trong nước’.
5.2.5. Trật tự bình thường trong một câu tiếng Việt là: trạng ngữ - chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ - công cụ.
(14) Ngày 20.03, cựu nữ hoàng Juliana, người cai trị Hà Lan trong 32 năm (1948 - 1980), đã qua đời do nhiễm trùng phổi tại cung điện Soestdijk, Hà Lan, thọ 94 tuổi. (b., 22.03.2004)
Cách viết trên mơ hồ vì đứt mạch văn: chết tại cung điện Soestdijk chứ không phải do nhiễm trùng phổi tại cung điện. Chúng ta sửa bằng cách đảo lại trật tự thành phần câu: Đưa trạng ngữ chỉ nguyên nhân ‘do nhiễm trùng phổi’ lên đầu câu:
(14b) Do nhiễm trùng phổi, ngày 20.03, cựu nữ hoàng Juliana, người cai trị Hà Lan trong 32 năm (1948 - 1980), đã qua đời tại cung điện Soestdijk, Hà Lan, thọ 94 tuổi.
(15)... đàn ông thường xuyên tập thể dục có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt giảm so với người không có hoạt động thể chất. (b., 04.12.2010)
(16)... đàn ông và phụ nữ tham gia vào các hoạt động thể chất vừa phải và mạnh có tỷ lệ mắc bệnh ung thư phổi giảm. (b., 04.12.2010) hai câu trên đã diễn đạt ngược trật tự vị ngữ-bổ ngữ. Giảm gì? - giảm nguy cơ mắc bệnh. Vậy nói ‘Có nguy cơ mắc bệnh giảm...’ là ngược trật tự, khiến người đọc nhanh vội lầm tưởng là ‘có nguy cơ mắc bệnh...’. Nên sửa là:
(15b)... đàn ông thường xuyên tập thể dục giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
(16b)... đàn ông và phụ nữ tham gia vừa phải các hoạt động thể chất mạnh, giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư phổi.
Chúng ta nói theo trật tự trạng ngữ - nguyên nhân - kết quả: (17) Hôm qua ở quận Ba, vì hỏng thắng một chiếc xe tải đã tông vào một xe Honda.
Không nên đưa trạng ngữ xuống cuối câu, như:
(17b) Vì hỏng thắng một chiếc xe tải đã tông vào một xe Honda hôm qua ở quận Ba.
(17c) Vì hỏng thắng, hôm qua một chiếc xe tải đã tông vào một xe Honda ở quận Ba.
5.2.6. Liên tục trong cấu trúc
Không theo luật liên tục trong cấu trúc (còn gọi là liên tục trong mạch văn) thường dẫn tới những câu trúc trắc, khó hiểu.
(18) Đội tuyển bóng rổ Thành phố Hồ Chí Minh đã mất chức vô địch quốc gia ngay trên sân nhà, sau trận thua Không quân vào tối 21.10, đã chấm dứt một chuỗi dài liên tục nhiều năm liền thống lĩnh bóng rổ Việt Nam. (b., 24.10.1996)
Câu trên nghe trúc trắc vì đã vi phạm tính liên tục trong cấu trúc. Nên nói theo trật tự ‘mất chức... và đã chấm dứt’. Hơn nữa, sau khi thua mới mất chức. Vậy nên đưa trạng ngữ chỉ thời gian lên đầu câu:
(18b) Sau trận thua Không quân vào tối 21.10, Đội tuyển bóng rổ Thành phố Hồ Chí Minh đã mất chức vô địch quốc gia ngay trên sân nhà và đã chấm dứt một chuỗi dài liên tục nhiều năm liền thống lĩnh bóng rổ Việt Nam.
Câu dưới đây được viết trong tình huống Nga và Pháp kêu gọi phong trào ‘Một máy bay cho Iraq’, bất chấp lệnh cấm vận của Liên hiệp Quốc đối với Iraq:
(19) Đặt những diễn biến này trong lời đe doạ của ngoại trưởng Mỹ M. Albright ngày 02.10, nhân chuyến thăm Paris, rằng ‘bất kỳ nước nào cho máy bay bay tới Iraq cũng sẽ bị mất quyền bay tới Hoa Kỳ’ (gazeta.ru), sẽ thấy ý nghĩa không nhỏ của các hành động của Nga và Pháp. (b., 05.10.2000)
Vì sao câu trên đây khó hiểu? Một phần vì viết dài (tới 55 tiếng). Nhưng khó hiểu chủ yếu do cấu trúc. Lẽ ra nên dùng cấu trúc thông thường ‘có A mới B’ cho kiểu câu trên. Câu cũng vi phạm nguyên tắc liên tục trong mạch văn (lời nói của M. Albright bị ngắt ra để chen vào đoạn ‘nhân chuyến thăm Paris, rằng’). Vậy nên sửa lại như sau:
(19b) Có đặt những diễn biến này trong lời đe doạ ‘bất kỳ nước nào cho máy bay bay tới Iraq cũng sẽ bị mất quyền bay tới Hoa Kỳ’ (gazeta.ru) của ngoại trưởng Mỹ M. Albright ngày 02.10 nhân chuyến thăm Paris mới thấy ý nghĩa không nhỏ của các hành động của Nga và Pháp.
(20) Chín trong số 10 nhà khoa học có mặt tại cuộc họp chiều 03-03 của hội đồng khoa học bảo tồn di tích Bộ Văn hóa - Thông tin để lấy ý kiến tham mưu cho bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin về việc Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế quyết định xây khách sạn trên đồi Vọng Cảnh đã bày tỏ chính kiến kiên quyết phản đối việc xây dựng này. (b., 04.03.2005)
Câu trên dài quá. Chủ ngữ đứng cách vị ngữ quá xa làm đứt mạch văn. Kết quả là thông tin chủ yếu ‘9/10 nhà khoa học phản đối’ bị chìm đi. Nên tách thành 2 câu. Câu 1: trạng ngữ mục đích - chủ ngữ - vị ngữ ; câu 2: Kết quả.
(20b) Để lấy ý kiến tham mưu cho bộ trưởng, chiều 03-03 hội đồng khoa học bảo tồn di tích Bộ Văn hóa-Thông tin có cuộc họp về quyết định xây dựng khách sạn trên đồi Vọng Cảnh của Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chín trong số 10 nhà khoa học có mặt đã kiên quyết phản đối việc xây dựng này.
(21) Làm sao trả lời được dư luận khi mà khối thuốc nổ nay được biết là đã được chôn ngay dưới lòng đường và trong một cái cống chỉ vài ngày trước đó trong một vụ đào đường sửa ống cống? (b., 05.03.2005) Câu trên khó hiểu cũng do đứt mạch văn: một mặt,câu được viết theo dạng bị động, bổ ngữ ‘khối thuốc nổ’ đặt ở trước; mặt khác, phụ ngữ địa điểm ‘trong một cái cống’ đứng cách xa vị ngữ ‘chôn’; hơn nữa trật tự những thông tin trực tiếp về cái cống ở đâu (ngay dưới lòng đường), và vì sao chôn được (trong một vụ đào đường sửa ống cống) rồi thông tin về vụ đào đường ‘chỉ vài ngày trước đó’ được đặt khá tùy tiện. Do vậy, nên đưa chúng xuống cuối cùng. Và chúng ta có thể sửa:
(21b) Làm sao trả lời được dư luận khi mà nay được biết là khối thuốc nổ đã được chôn trong một cái cống ngay dưới lòng đường trong một vụ đào đường sửa ống cống chỉ vài ngày trước đó.
5.2.7. Tuy nhiên, trong nói năng còn có những quy tắc khác. Điều muốn nhấn mạnh sẽ được đưa lên đầu câu.
Nếu muốn nhấn mạnh một xe Honda bị tai nạn, chúng ta sẽ dùng một trật tự ngược với trật tự thông thường. Đưa bổ ngữ này lên đầu câu dùng để nhấn mạnh và chúng ta nói theo lối bị động: ‘Một xe Honda đã bị một chiếc xe tải hỏng thắng tông vào’. Nếu muốn nhấn mạnh tới việc mua xe Honda chúng ta không nói theo kiểu câu điều kiện - kết quả ‘nếu có tiền tôi sẽ mua xe Honda’ mà đưa kết quả lên trước: ‘Tôi sẽ mua xe Honda nếu có tiền.’
Vì lý do tu từ, nên tránh các từ lặp lại đứng gần nhau.
(22) Nhân tiện, tôi giới thiệu với tất cả các bạn quyển ‘Đường vào khoa học của tôi’ của giáo sư Tôn Thất Tùng. (b., 26.09.2000)
Câu trên trúc trắc vì có hai từ của đứng gần nhau. Đặt hai từ này cách xa nhau, câu sẽ dễ nghe hơn:
(22b) Nhân tiện, tôi giới thiệu với các bạn quyển sách của giáo sư Tôn Thất Tùng: ‘Đường vào khoa học của tôi’.
"""