"
Từ Bờ Bên Kia - Alexander Ivanovich Herzen full prc pdf epub azw3 [Chính Luận]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từ Bờ Bên Kia - Alexander Ivanovich Herzen full prc pdf epub azw3 [Chính Luận]
Ebooks
Nhóm Zalo
Từ bờ bên kia
Tác giả: Alexander Ivanovich Herzen | Người dịch: Nguyễn Văn Trọng
Nhà xuất bản Tri thức | 02/2012
Tạo ebook: tudonald78
Ngày hoàn thành: 01/05/2020
Chúc các bạn đọc sách vui vẻ!
Table of Contents
1. ALEXANDER HERZEN - NHÀ TƯ TƯỞNG NGA LỖI LẠC THẾ KỈ XIX
2. GỬI CON TRAI TÔI ALEXANDER[3]
3. I
4. II
5. III
6. IV
7. V
8. VI
9. VII
10. VIII
11. GỬI NGƯỜI ĐỒNG CHÍ CŨ[206]
1. Bức thư thứ nhất
2. Bức thư thứ hai
3. Bức thư thứ ba
4. Bức thư thứ tư
ALEXANDER HERZEN - NHÀ TƯ TƯỞNG NGA LỖI LẠC THẾ KỈ XIX
Thời kì Xô viết, hình tượng của Alexander Ivanovich Herzen (1812-1870) được tôn vinh như một nhà cách mạng tiền bối có nhiều ảnh hưởng trong thế kỉ XIX. Lenin nhận xét việc Herzen lập ra cơ quan ngôn luận tự do ở nước ngoài là một "công lao vĩ đại". Tuy nhiên, giá trị các trước tác của Herzen không được đề cao so với nhiều trước tác của các danh nhân khác cùng thời với ông. Ở phương Tây, một thời gian dài Herzen chỉ được biết đến như một người cấp tiến với niềm tin không-tưởng vào một hình thức cổ xưa của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, triết gia Anh Isaiah Berlin (1909- 1997), bằng những tiểu luận nổi tiếng của mình, đã làm thay đổi sự hiểu biết ở phương Tây về Herzen: Berlin khẳng định "Alexander Herzen là nhà văn chính trị Nga hấp dẫn nhất trong thế kỉ XIX", là "một trong ba người thuyết giảng đạo đức thiên tài của nước Nga", và là tác giả của một số trước tác sâu Sắc và hiện đại nhất về chủ đề tự do. Nhiều nội dung trong bài viết này được rút ra từ những tiểu luận của I. Berlin.
Alexander Ivanovich Herzen sinh ra Ở Moscow năm 1812, không bao lâu trước lúc Napoleon chiếm đóng thành phố. Cha ông là Ivan Yakovlev, một nhà quý tộc dòng dõi và giàu có, thuộc nhánh thứ của vương tộc Romanov. Trong một chuyến du lịch
châu Âu, Ivan Yakovlev đã đưa về nước Nga một phụ nữ người Đức. Đó là Luiza Haag, một cô gái dịu dàng quê ở Stuttgart vùng Wurttemberg, con của một viên chức cấp thấp. Ivan Yakovlev đưa cô tới Moscow, lập địa vị bà chủ cho cô ở trong gia đình, nhưng không làm lễ cưới chính thức. Luiza Haag sinh cho ông một cậu con trai, ông đặt họ cho cậu là Herzen để bày tỏ rằng ông coi cậu như đứa con của trái tim ông, nhưng vì cậu không phải là con chính thức, nên không mang họ của ông. Herzen đã nhận được một sự giáo dục đầy đủ của một nhà quý tộc vào thời của ông từ những gia sư người Đức, người Pháp mà cha ông đã lựa chọn rất khe khắt. Herzen sớm tỏ ra là một cậu bé hiếu động và thông minh. Cha ông yêu ông theo một cung cách riêng, yêu nhiều hơn cả người con trai chính thức. Herzen được học văn chương và lịch sử Nga từ một sinh viên trẻ tuổi đầy nhiệt tình, được học tiếng Pháp (mà cha ông viết thạo hơn tiếng Nga) và tiếng Đức (là ngôn ngữ Herzen nói chuyện với mẹ ông). Herzen học lịch sử châu Âu từ một gia sư người Pháp tị nạn sang Nga sau cách mạng Pháp. Herzen thường chúi mũi vào vô số sách báo trong thư viện của cha ông, say mê đọc những tác phẩm của Pháp thời Khai sáng. Khi Herzen mười bốn tuổi, xảy ra sự kiện Nga hoàng Nicholas I xử tử các lãnh tụ cuộc Khởi nghĩa tháng Chạp. Sau này, Herzen tuyên bố sự kiện ấy là bước ngoặt trong cuộc đời ông; kí ức về những quý tộc tuẫn đạo vì một nền chính trị theo hiến pháp của nước Nga trở thành biểu tượng thiêng liêng đối với ông và nhiều người cùng thế hệ ông cho đến suốt đời.
Theo năm tháng, ông trở thành sinh viên trường Đại học Tổng hợp Moscow. Ông đọc Schiller và Goethe, lao vào nghiên
cứu siêu hình học Đức - Kant và đặc biệt là Schelling, tiếp đó là trường phái lịch sử mới ở Pháp - Guizot, Augustin Thierry và cả những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - Saint Simon, Fourier, Leroux. Herzen tham gia vào nhóm sinh viên đọc các sách bị cấm và thảo luận những ý tưởng bị chính quyền Nga hoàng xem là nguy hiểm. Vì chuyện này ông đã bị bắt cùng nhiều sinh viên khác và bị kết án tù. Cha ông đã phải sử dụng ảnh hưởng của mình để cứu, nhưng Herzen vẫn bị lưu đày tới một nơi xa xôi gần biên giới ở châu Á. Ông lập gia đình trong thời gian này.
Năm 1842, ông được phép trở về Moscow, được xem như thành viên chính thức của giới trí thức trẻ cấp tiến và bắt đầu viết bài cho những tạp chí tiến bộ thời đó. Herzen luôn tập trung vào chủ đề chính: sự đàn áp con người cá nhân; sự hạ nhục và làm mất phẩm giá con người bởi chuyên chế chính trị và cá nhân; cái ách của tập quán xã hội, sự cai trị sai trái man rợ và tùy tiện cùng với sự ngu dốt tăm tối gây tàn phế và hủy hoại con người trong đế chế Nga tàn bạo và bỉ ổi.
Năm 1847, Ivan Yakovlev qua đời, để lại phần lớn tài sản cho Luiza Haag và Herzen. Với niềm tin vô bờ bến vào năng lực của mình cùng với quyết tâm làm được điều gì đó đáng kể cho thế giới, Herzen quyết định đi ra nước ngoài. Ngay trong năm đó Herzen rời nước Nga cùng với vợ ông, mẹ ông và hai người bạn, đi thăm nhiều nước châu Âu; cuối năm 1847 họ đến Paris, thủ đô của thế giới văn minh. Tại đây, Herzen lao vào cuộc sống của những người lưu vong cấp tiến và có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa đến từ nhiều quốc gia. Herzen cùng với Bakunin và Proudhon đứng ở phe cực tả cách mạng. Tiếng đồn về hoạt
động của ông loan đến chính phủ Nga hoàng, và Herzen được lệnh phải lập tức trở về nước, nhưng ông đã từ chối. Cuộc sống của ông ở Pháp bị chấn động bởi những bi kịch gia đình: vụ ngoại tình của vợ ông và sau đó là cái chết của bà, vụ tai nạn đắm tàu do bão ở gần Marseille gây nên cái chết của mẹ ông và một người con. Herzen bị suy sụp nặng. Năm 1851, ông chuyển tới sống ở London.
Cái chết của Nga hoàng Nicholas I tạo điều kiện cho người bạn thân thiết nhất của ông là Nikolay Ogarev có thể rời nước Nga đến với ông. Họ cùng nhau ra một tạp chí tiếng Nga lấy tên là Ngôi sao Bắc cực - cơ quan ngôn luận đầu tiên chuyên cổ động không khoan nhượng chống lại chế độ chuyên chế Nga hoàng. Những chương đầu của tác phẩm mang tính tự truyện Quá khứ và suy tư (Boloe i đumo) được công bố trên tạp chí này. Hoạt động chính mà vì nó Herzen hiến dâng cả cuộc đời, đó là báo chí cách mạng. Phần chủ yếu của hoạt động ấy là tạp chí Quả chuông (Kolokol) được Herzen và Ogarev thực hiện, lúc đầu ở London sau đó ở Geneva, từ năm 1857 đến 1867. Tạp chí đã thành công rất lớn. Đây là một công cụ có tính hệ thống của tuyên truyền cách mạng nhằm chống lại chế độ chuyên chế Nga hoàng, được viết với sự hiểu biết đầy thuyết phục. Herzen sử dụng những thông tin phong phú từ những nguồn cá nhân bí mật chuyển đến ông, để mô tả những hành vi tội ác của bộ máy quan liêu Nga. Tờ báo Quả chuông gọi đích danh các thủ phạm, đưa ra những bằng chứng không thể phủ nhận, đặt ra những câu hỏi hóc búa và vạch trần những mặt khuất của đời sống Nga. Nhiều du khách Nga đến thăm London chỉ để đuợc gặp những người làm báo Quả chuông. Cả những vị tuớng cùng các
quan chức cao cấp của Đế chế cũng đến để được nhìn thấy Herzen tận mắt; một số vì tò mò, số khác đến bắt tay ông để bày tỏ cảm tình. Tờ báo đạt đỉnh cao thành công cả về chính trị lẫn văn chương sau cái chết của Nga hoàng Nicholas I năm 1855. I.Berlin đã nhận xét về thành công của tờ Quả chuông như sau: "Trong tạp chí nổi tiếng nhất của Herzen tên là Quả chuông, ông đề cập đến tất cả mọi chuyện có tính thời sự. Ông vạch trần, ông tố cáo, ông chế giễu, ông thuyết giảng, ông trở thành một Voltaire của nước Nga giữa thế kỉ XIX. Ông là một nhà báo thiên tài, và các bài báo của ông được viết với sự xuất sắc, tươi tắn và đầy cảm xúc, dẫu bị cấm đoán chính thức, nhưng vẫn lưu hành ở nước Nga và được đọc bởi cả những người cấp tiến lẫn những người bảo thủ. Quả thực người ta có nói là chính Nga hoàng cũng đọc chúng; chắc chắn là một số viên chức của Nga hoàng đã đọc; vào thời vàng son của đỉnh cao danh tiếng, Herzen đã tạo nên một ảnh hưởng đích thực trong bản thân nước Nga - một hiện tượng chưa từng nghe tới của một người sống lưu vong - bằng cách vạch trần những lạm dụng xấu xa, gọi tên đích danh các thủ phạm, nhưng trên hết cả là bằng sự viện dẫn đến tình cảm tự do vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn, ngay cả ở chính trong giới quan liêu của Nga hoàng, ít nhất cũng trong khoảng thời gian từ 1850 đến I860."
Năm 1858, Herzen kêu gọi Nga hoàng mới, Alexander II, tiến hành cải cách từ bên trên, hợp tác với những người đối lập để mở ra một kỉ nguyên mới cho nước Nga. Nhưng niềm hi vọng này của Herzen đã nhanh chóng tan biến trước sự tàn nhẫn của chế độ Nga hoàng. Trung thực với những lí tưởng chính trị chống áp bức của mình, Herzen đã không do dự bày tỏ sự ủng
hộ của ông đối với cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan năm 1863, dù ông ý thức được những hậu quả nguy hại cho ông từ phía những người Nga yêu nước quá khích. Làn sóng dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi ở Nga đi kèm với cuộc đàn áp của quân đội Nga hoàng dập tắt cuộc khởi nghĩa, đã khiến Herzen mất đi cảm tình của công chúng Nga, ngạy cả ở những người thuyết giảng tự do. Tờ Quả chuông mất đi nhiều độc giả. Thế hệ mới những người cách mạng trẻ tuổi ở Nga không còn ngưỡng mộ ông nữa. Herzen rời London vào cuối những năm 60 và trở về Pháp. Ông quay lại Paris và mất ở đó vì bệnh viêm màng phổi vào năm 1870. Thi hài ông được đưa về Nice, được thiêu và chôn cất bên cạnh vợ ông.
***
Herzen thuộc về một thế hệ nhân tài đặc biệt trong lịch sử văn hóa châu Âu thế kỉ XIX. Đa số những người này sinh trưởng trong giới quý tộc, nhưng bản thân họ vươn tới tầm cao vượt trên giai cấp của mình, đạt tới một khuynh hướng tự do và cấp tiến trong tư duy và hành động. Nhà văn Turgenev gọi họ là "những người thừa". Trong tự truyện của mình, Herzen cũng mô tả tình cảnh những người trẻ tuổi Nga bị kích thích bởi những ý tưởng mới mẻ đến từ nhiều nguồn: những thuyết giảng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, triết học Đức, những sách báo đến từ phương Tây, những cuộc trò chuyện ngẫu nhiên... Nhưng họ lại phải sống trong một xã hội ngột ngạt khiến cho ngay cả việc mơ mộng tạo cho đất nước mình những định chế ôn hòa, vô hại, vốn từ lâu đã trở thành nếp sống ở phương Tây, cũng trở thành chuyện lố bịch tức cười. Tình trạng khủng hoảng tinh thần như vậy đã khiến cho nhiều người trong số họ
khi bước vào tuổi trung niên thường trở thành những điên chủ bất mãn ôn hòa, sống bằng tài sản của mình, mỗi ngày lần giở từng trang tạp chí gửi về từ nước ngoài với sự nuối tiếc những mộng mơ tuổi thanh xuân. Đó là những mẫu hình hay gặp trong các tiểu thuyết Nga thời kì này. Herzen quyết tâm không để mình rơi vào tình trạng ấy; ông khao khát làm được điều gì đó đáng ghi nhớ cho bản thân mình và cho đất nước mình.
Giống như nhiều sinh viên cùng thời, Herzen chịu nhiều ảnh hưởng của Hegel trong thời kì học Đại học Tổng hợp Moscow. Thế nhưng ông đã chuyển học thuyết của Hegel thành một thứ gì đó đặc biệt, riêng cho bản thân ông, rất khác với những kết luận lí thuyết mà những đầu óc nghiêm chỉnh và nệ quy tắc cùng thời với ông đã diễn dịch ra từ học thuyết nổi tiếng ấy. Có vẻ như học thuyết Hegel đã khiến Herzen tin rằng không có một lí thuyết chuyên biệt nào hay học thuyết đơn lẻ nào, không có một diễn giải cuộc sống nào, và trên hết, không có một sơ đồ đơn nhất, mạch lạc, hoàn hảo nào, lại có thể được quan niệm là những lời giải đích thực cho những vấn đề hiện thực. Ông là người hoài nghi, dường như ông đã tin rằng về nguyên tắc không thể có được lời giải đáp chung cuộc đơn giản nào cho bất cứ vấn đề đích thực nào của con người; rằng nếu một câu hỏi là nghiêm chỉnh và thực sự đau đớn khắc khoải, thì lời giải đáp không bao giờ có thể là rõ ràng và rành mạch, giống như các kết luận rút ra bằng cách diễn dịch từ một tập hợp các tiên đề hiển nhiên tự thân. Dường như Herzen tin rằng nếu người ta nghiên cứu cuộc sống một cách đúng mực, không thiên kiến và khách quan, rất có thể người ta có khả năng tạo ra được một độ căng nào đó, một thứ thỏa hiệp biện chứng giữa những lí tưởng đối
lập nhau; bởi vì nếu như không có lí tưởng nào có thể được thực hiện thật đầy đủ và trọn vẹn, thì cũng không có lí tưởng nào đáng bị bỏ rơi hoàn toàn; chỉ có như vậy người ta mới có thể hiểu được cuộc sống một cách sâu sắc hơn so với trường hợp cứ cam kết liều lĩnh đi theo một thứ cực đoan nào đó.
Herzen nhìn thấy sự nguy hiểm của việc lạm dụng những khái niệm đao to búa lớn nhằm kích động con người lao vào những xung đột bạo lực vô nghĩa - những thần tượng mới được đặt lên bàn thờ tương lai sẽ đòi hiến tế máu người một cách phi lí giống như máu của những nạn nhân trước đây đã bị hi sinh cho nhà thờ hay nền quân chủ phong kiến. Mọi mưu toan hiến dâng con người cho bất cứ khái niệm trừu tượng nào, dẫu cho nó thật cao quý - công bằng, tiến bộ, dân tộc - ngay cả khi nó được thuyết giảng bởi những người thật vị tha như Mazzini hay Louis Blanc hay Mill, cũng sẽ luôn luôn dẫn đến kết cục của việc đàn áp và hi sinh con người. Cuộc sống của con người và các mối quan hệ là quá phức tạp cho một công thức chuẩn mực và những lời giải rành mạch. Những toan tính làm cho các cá nhân thích ứng và khớp vào một sơ đồ duy lí lí thuyết, dù có đầy thiện ý, thì cuối cùng cũng dẫn đến việc gây tàn tật cho con người, dẫn đến việc giải phẫu sinh thể chính trị con người với quy mô ngày càng tăng. Herzen luôn cho rằng mục đích của cuộc sống chính là bản thân cuộc sống; hi sinh hiện tại cho một tương lai mơ hồ không thể tiên liệu được chính là một hình thức của ảo tưởng dẫn đến hủy hoại tất cả những gì là giá trị duy nhất nơi con người và xã hội - dẫn đến sự hi sinh vô cớ máu thịt của đời sống con người trước bàn thờ của những khái niệm trừu tượng của lí tưởng. Herzen nổi loạn chống lại những gì đang
được thuyết giảng bởi những người tốt đẹp nhất và có trái tim trong sạch nhất ở thời đại ông, đặc biệt là những nhà xã hội chủ nghĩa và công lợi chủ nghĩa. Các vị này cho rằng những đau khổ to lớn hiện nay phải được vượt qua vì hạnh phúc lớn lao không sao diễn tả nổi trong tương lai, cho nên hàng ngàn người vô tội có thể buộc phải bị chết để cho hàng triệu người có thể được hạnh phúc; họ khẳng định có một tương lai tuyệt đẹp sắp xảy ra cho loài người và điều đó được lịch sử đảm bảo, cho nên điều đó biện minh cho những sự tàn ác kinh khủng thời hiện tại - cái thuyết mạt thế chính trị quen thuộc dựa trên niềm tin vào sự tiến bộ tất yếu, đối với Herzen có vẻ như là một học thuyết đầy tai họa nhằm chống lại cuộc sống nhân bản.
Những ý tưởng trên của Herzen về chủ đề này được viết một cách sâu sắc nhất và lỗi lạc nhất trong tác phẩm Từ bờ bên kia. I. Berlin đã nhận định về tác phẩm này như sau: "Tuyệt tác vĩ đại mang tính bút chiến ấy là những tuyên ngôn trung thành và lời di chúc chính trị của ông. Giọng điệu và nội dung của nó được truyền tải rõ ràng trong trích đoạn đặc trưng (và nổi tiếng), ở đó ông tuyên bố rằng không được bắt một thế hệ phải đóng vai trò đơn thuần là phương tiện cho hạnh phúc của những con cháu xa xôi của họ, cái hạnh phúc không chắc chắn chút nào. Một mục tiêu xa vời là trò lừa bịp và lời dối trá. Những mục tiêu thực sự phải gần hơn cái - "ít nhất cũng là tiền lương hay khoái cảm trong lao động". Mục đích của mỗi thế hệ là ở trong bản thân thế hệ ấy - mỗi cuộc đời có trải nghiệm độc đáo riêng của nó; sự thực hiện những nhu cầu của nó tạo nên những nhu cầu mới, những yêu sách mới, những hình thức mới của cuộc sống."
Những suy tuởng của Herzen trong tác phẩm Từ bờ bên kia xoay quanh các biến cố lịch sử quan trọng ở châu Âu năm 1848 mà ông đuợc chứng kiến ngay tại Paris: cách mạng nổ ra ở hàng loạt các nước châu Âu như Pháp, Ý, Đức nhưng sau đó đều bị thất bại. Những biến cố ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến Herzen cũng như toàn bộ phong trào cách mạng ở Nga, dẫn đến một khuynh hướng tìm kiếm con đường riêng cho nước Nga. Họ cho rằng các đảng phái theo chủ nghĩa tự do ở phương Tây đã không hiểu và không quan tâm đến những lợi ích cơ bản của dân chúng bị áp bức. Dân chúng đói khổ cần được ăn no mặc ấm, còn các quyền chính trị và các định chế cộng hòa đều vô nghĩa đối với những con người ngu tối, man rợ và đói rách. Tuy nhiên, nhận thức của Herzen rất khác biệt với những nhà cách mạng trẻ Nga theo chủ nghĩa hư vô sau này.
Herzen nhìn thấy mô thức xã hội phương Tây hiện hữu ở thế kỉ XIX đã bước vào thời kì suy tàn vì những mâu thuẫn nội tại của nó. "Chúng ta đau lòng thú nhận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới đã trở nên lẩn thẩn, già nua, tàn tạ, rõ ràng đã mất hết sức lực và tư cách để vươn lên tầm cao tư tưởng của chính nó...". Nhưng ông đánh giá cao những thành tựu của văn minh phương Tây trong quá khứ, mặc dù nó đã đạt được trên cơ sở bất công xã hội: "Toàn bộ học vấn của chúng ta, sự phát triển văn chương và khoa học của chúng ta, tình yêu của chúng ta đối với cái đẹp, những công việc bận rộn của chúng ta đòi hỏi phải có môi trường luôn được dọn sạch bởi những người khác; cần có lao động của ai đó để cho chúng ta có được sự thư nhàn, cần thiết cho sự phát triển tâm lí của chúng ta, cái sự thư nhàn ấy, cái vô tích sự đầy hoạt động ấy, vốn làm cho nhà tư tưởng có khả
năng tập trung bản thân, làm cho thi sĩ mơ mộng, làm cho người hưởng lạc được tận hưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển rực rỡ, đỏng đảnh, thơ mộng, phong phú của các cá nhân quý tộc chúng ta." Ông tin rằng những định chế bất công của xã hội sẽ bị xóa bỏ, nhưng ông tiếc thương cho nền văn minh xưa cũ vì ông biết rằng đám quần chúng sẽ không tiếc thương nó; bởi nó chẳng đem lại gì cho họ ngoài nước mắt, sự thiếu thốn và sự hạ nhục. Những nhà cách mạng Nga dân túy theo chủ nghĩa hư vô sau này sẽ không còn tiếc thương nền văn minh xưa cũ bởi vì nó đã không phục vụ cho quần chúng nhân dân; xét từ quan điểm chủ nghĩa công lợi bị thổi phồng thì nền văn minh đỉnh cao ấy chẳng có giá trị gì. Nhà cách mạng Pisarev sẽ nói rằng toàn bộ các vở kịch của Shakespeare không có giá trị bằng một đôi ủng. Những người trong phong trào "Prolekult" (Văn hóa vô sản) sau cách mạng 1917 sẽ đòi đoạn tuyệt với di sản văn hóa của bọn bóc lột để xây dựng một nền văn hóa riêng cho những người vô sản.
Herzen không tôn quần chúng nhân dân lên vai trò của Thượng Đế như các nhà cách mạng dân túy sau này. Ông phê phán những người thuyết giảng tự do đã "bịa đặt ra dân chúng hơn là nghiên cứu dân chúng". Ông tỉnh táo nhận xét: "Các khối quần chúng muốn chặn bàn tay trâng tráo giật miếng bánh mì mà họ làm ra, - đó là nhu cầu chủ yếu của họ. Họ thờ ơ với tự do cá nhân, độc lập ngôn luận; quần chúng ưa thích quyền uy, sự choáng lộn đầy nhục nhã của quyền lực vẫn còn làm cho họ lóa mắt, con người đứng độc lập vẫn còn sỉ nhục họ; họ hiểu bình đẳng là cái ách chia đều; trong khi e ngại độc quyền và đặc quyền, họ vẫn lườm nguýt tài năng và bắt ép người ta phải làm
theo những gì mà đám quần chúng đang làm. Quần chúng mong muốn một chính phủ xã hội cai trị họ vì họ, chứ không chống lại họ như chính phủ hiện nay. Tự quản lí bản thân là chuyện họ chưa hề nghĩ tới". Ông còn nhận xét: "Người ta cứ tưởng rằng chỉ cần chứng minh chân lí, như chứng minh định lí toán học, là người ta sẽ tiếp thu nó; chỉ cần tự mình tin tưởng là những người khác cũng tin tưởng. Hóa ra hoàn toàn khác, một số người nói một điều, còn những người khác lắng nghe họ và hiểu ra điều khác, bởi vì sự phát triển của họ khác nhau. Những người Kitô giáo đầu tiên đã rao giảng cái gì và đám đông đã hiểu thành cái gì? Đám đông đã hiểu tất cả những gì không thể hiểu được, tất cả những gì phi lí và huyền bí; nhưng tất cả những gì là sáng tỏ và giản dị thì nó không tiếp thu được; đám đông tiếp nhận tất cả những gì ràng buộc lương tâm nhưng không tiếp nhận những gì giải phóng con người. Cũng theo cách thức như vậy mà sau này nó đã hiểu cách mạng chỉ là một cuộc trừng phạt đẫm máu, là máy chém, là sự trả thù..."
Herzen bác bỏ mọi quan niệm cứu cánh luận về lịch sử - những quan niệm cho rằng lịch sử loài người hướng tới một mục đích nào đó. Ông đặt ra câu hỏi: Giả sử một sao chổi đâm vào chúng ta và kết liễu cuộc sống trên trái đất thì sao? Liệu lịch sử có không là vô nghĩa nữa chăng? Liệu đó sẽ không phải là một lời nhạo báng độc ác cho tất cả những nỗ lực của chúng ta, tất cả những máu, mồ hôi và nước mắt của chúng ta hay chăng? Herzen đáp lại rằng suy nghĩ theo dạng thức ấy là một sự thô thiển rất lớn, sự thô thiển của những con số đơn thuần. Cái chết của một con người đơn lẻ cũng phi lí và không thể hiểu nổi như cái chết của toàn thể loài người; đây là sự huyền bí mà chúng ta
chấp nhận; đơn thuần nhân nó lên thật lớn và hỏi "giả sử như hàng triệu con người chết đi?" thì cũng không làm nó huyền bí hơn nữa hay đáng sợ hơn nữa. Ông viết: "Trong thiên nhiên cũng giống như trong tâm hồn con người có vô số những sức mạnh, những khả năng đang lim dim ngủ; chỉ cần hội đủ những điều kiện, chúng phát triển và sẽ phát triển đến cực độ, chúng sẵn sàng tràn ngập thế giới, nhưng chúng cũng có thể vấp ngã giữa đường, chuyển sang hướng khác, dừng lại, bị hủy diệt... Thiên nhiên thì thế nào cũng vậy thôi... [Nhưng anh có thể hỏi] tất cả những thứ ấy để làm gì vậy? Cuộc sống của các dân tộc trở thành một trò chơi vớ vẩn, kết nặn lại, kết nặn lại từng viên đá một, từng hạt cát một, rồi ngay sau đó mọi thứ lại đổ sập xuống đất, người ta bò lê lết dưới đống đổ nát, bắt đầu dọn dẹp đất trống để dựng những túp lều bằng lau sậy, từ những tấm ván và cây cột đã đổ, bằng lao động dài lâu nhiều thế kỉ - rồi lại sụp đổ. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare đã nói rằng lịch sử là một câu chuyện tẻ nhạt do một gã ngốc kể lại.[1]
... [Đáp lại điều này tôi nói rằng] anh giống những con người đa cảm không cầm được nước mắt nói rằng "con người sinh ra là để chết đi". Cứ nhìn vào sự kết thúc mà không nhìn vào sự việc - ấy là sai lầm to lớn nhất. Vành hoa kia rực rỡ, hương thơm kia ngây ngất mà để làm gì, khi nó vô ích? Thế nhưng thiên nhiên đâu có buồn tẻ đến thế và cũng chẳng coi thường người đi ngang qua đích thực, thiên nhiên ở mỗi điểm đều đạt được tất cả những gì khả dĩ đạt được... Ai mà lại giận dữ thiên nhiên vì những bông hoa sớm nở tối tàn, vì hoa hồng và hoa huệ không có sự bền chắc của đá lửa? Và chúng ta còn muốn đưa cái nhìn tầm thường thảm hại ấy sang thế giới lịch sử nữa! ... thế nhưng
cuộc sống không có bổn phận phải thực hiện những điều tưởng tượng và những ý tưởng [của nền văn minh]... cuộc sống ưa thích điều mới lạ...
... Lịch sử hiếm khi lặp lại, nó sử dụng đủ thứ bất ngờ, cùng lúc gõ vào cả ngàn cánh cửa... những cánh cửa nào sẽ mở ra... ai mà biết được?"
Rồi ông lại viết: "Con người có tình yêu bản năng với chuyện duy trì mọi thứ anh ta thích; sinh ra là muốn sống trường thọ; có tình ý là muốn yêu và được yêu suốt đời, cứ mãi như giây phút tỏ tình đầu tiên... cuộc sống không bảo đảm cả cuộc sống lẫn khoái cảm, không có trách nhiệm kéo dài chúng mãi. Vì thế mà mỗi giây phút lịch sử đều đầy đặn, khép kín theo cách thức của nó, giống như năm nào cũng có mùa xuân và mùa hạ, mùa đông và mùa thu, với dông bão và trời đẹp. Vì thế mà mỗi thời kì đều mới mẻ, tinh khôi, chan chứa những hi vọng của mình, tự mang trong nó niềm hạnh phúc và nỗi đau buồn, hiện tại thuộc về nó, nhưng người ta vẫn thấy thế còn ít, người ta còn muốn cả tương lai cũng là của họ nữa...
Thế mục đích của bài ca mà cô ca sĩ đang hát là gì?... Nếu như anh, ngoài việc tận hưởng chúng, lại kì vọng sau khi ca sĩ hát xong anh vẫn còn lại hoài niệm và nỗi ân hận, nếu anh thay vì lắng nghe lại cứ chờ đợi điều gì đó... Những phạm trù đánh lạc hướng anh, chúng nắm bắt cuộc sống rất tệ. Anh hãy suy nghĩ xem: cái mục đích ấy là gì, [ông có ý nói Mazzini, những người thuyết giảng tự do và những người xã hội chủ nghĩa] là cương lĩnh, là mệnh lệnh chăng? Ai đã soạn ra nó, nó tuyên cáo cho ai, nó có nhất thiết phải vậy hay không? Nếu đúng vậy thì chúng ta là gì, là những con rối hay là người, là những, hữu thể tự do về
đạo đức hay là những bánh xe trong cỗ máy? Đối với tôi thì sẽ dễ dàng hơn, nếu xem cuộc sống, và do đó cả lịch sử nữa, là mục đích đã thành tựu chứ không phải là phương tiện cho thành tựu."
Và còn nữa: "Chúng ta cứ tưởng mục đích của trẻ con là tuổi thành niên, trong khi mục đích của trẻ con có lẽ là chơi đùa, tận hưởng, làm trẻ con. Nếu như nhìn vào giới hạn, thì mục đích của mọi sự sống là cái chết."
Đây là luận đề chính trị và xã hội chủ yếu của Herzen, và do đó nó đi vào dòng chảy của tư duy cấp tiến Nga như một liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa công lợi bị thổi phồng. Goethe đã bảo chúng ta rằng không có đảm bảo, không có an toàn. Đáng lẽ con người phải hài lòng với hiện tại, nhưng con người lại cứ muốn sở hữu cả tương lai nữa. Đó là câu trả lời của Herzen cho Mazzini, hay những nhà xã hội chủ nghĩa vào thời của ông, kêu gọi những hi sinh và đau khổ cao nhất vì dân tộc, vì nền văn minh nhân bản, vì chủ nghĩa xã hội, công bằng, nhân đạo - nếu chưa phải cho hiện tại, thì cũng cho tương lai.
I. Berlin đã bình luận về lập trường của Herzen trong vấn đề này như sau: "Herzen bác bỏ kịch liệt điều này. Mục đích của cuộc đấu tranh cho tự do không phải là cho tự do của ngày mai, đó là tự do của hôm nay, tự do cho những cá nhân đang sống với những mục đích riêng của họ, những mục đích mà họ vận động và đấu tranh và có thể chết vì chúng, những mục đích là thiêng liêng đối với họ. Nghiền nát tự do của họ, những mưu cầu của họ, phá hủy những mục đích của họ vì một hạnh phúc lớn lao mơ hồ nào đó trong tương lai, là thứ không thể đựợc đảm bảo, chúng ta không biết gì về nó, nó chỉ đơn thuần là sản phẩm của
một tòa nhà siêu hình khổng lồ nào đó mà chính tòa nhà ấy cũng chỉ đứng trên cát, không có một đảm bảo logic, hay đảm bảo thường nghiệm, hay bất cứ đảm bảo duy lí nào - làm như thế trước hết là mù quáng, bởi vì tương lai là bất định, thứ nữa làm như thế là xấu xa độc ác, bởi vì nó vi phạm vào những giá trị đạo đức duy nhất mà chúng ta biết; bởi vì nó giẫm đạp lên những nhu cầu nhân bản nhân danh những khái niệm trừu tượng - tự do, hạnh phúc, công bằng - là những khái quát cuồng tín, những âm thanh huyền bí, những tập hợp ngôn từ được sùng bái."
Herzen cho rằng một trong những tai họa sâu sắc nhất thời hiện đại là bị kẹt vào những khái niệm trừu tượng thay cho hiện thực. Và ông giữ quan điểm này chủ yếu để chống lại người bạn thân của ông là Bakunin, người kiên trì kích động nổi loạn bạo lực, lôi kéo theo sự tra tấn và tuẫn đạo vì những mục tiêu lờ mờ, lộn xộn và xa xôi. Đối với Herzen, một trong những tội ác lớn nhất mà con người có thể phạm phải, ấy là trút gánh nặng trách nhiệm đạo đức từ vai của chính mình sang vai của một trật tự tương lai không thể tiên đoán, và nhân danh một thứ gì đó có khi chẳng bao giờ xảy ra, phạm những tội ác mà ai cũng cho là ghê tởm nếu nó làm vì một mục đích vị kỉ nào đó, nhưng lại không phải thế chỉ vì nó được chuẩn y bởi lòng tin vào một Không tưởng xa xôi, không ai hiểu thấu. Vì tất cả sự căm ghét của ông đối với nền chuyên chế, nhất là chế độ chuyên chế Nga, suốt cuộc đời mình, Herzen đã nhận ra rằng, những nguy cơ đầy tai họa đe dọa cũng đến từ phía các đồng minh xã hội chủ nghĩa và cách mạng của chính ông. Vì rằng chính Herzen cũng đã có lần tin vào những nền tảng ấy (dù chưa bao giờ với niềm
tin đơn giản và tuyệt đối) và bởi vì niềm tin ấy đã đổ nhào và bị phá hủy hoàn toàn trong những biến cố khủng khiếp của năm 1848 và 1849, trong những biến cố ấy hầu như mọi thần tượng của ông đều chứng tỏ họ có chân bằng đất sét. Ông nhận xét: "Khổ nỗi là ý tưởng luôn chạy lên trước, dân chúng không theo kịp các ông thầy của mình; lấy ví dụ như thời bây giờ: một vài người đề cập đến cuộc lật đổ mà cả chính họ lẫn dân chúng đều không đủ sức làm. Những người tiên tiến cứ tưởng rằng chỉ cần họ hô lên: "Hãy vùng lên và đi theo chúng tôi" - thế là mọi sự chuyển động; họ đã lầm, nhân dân ít hiểu họ cũng hệt như họ ít hiểu nhân dân, người ta không tin họ. Không nhận ra là chẳng có ai đi theo mình, những người này cầm đầu, tiến lên phía trước; khi chợt tỉnh ra, họ la hét những người ở lại sau, vẫy tay, kêu gọi, trách móc họ - nhưng đã muộn rồi, khoảng cách quá xa, tiếng nói không tới được, ngôn ngữ lại cũng không phải là thứ mà quần chúng vẫn nói." Ông còn nói: "Các anh cứ tưởng rằng ngoài những con đường do các anh phát hiện ra thì thế giới không sao cứu rỗi được; các anh muốn vì sự tận tụy của các anh thì thế giới phải nhảy múa theo điệu nhạc của cây sáo mà các anh thổi, và chỉ vừa thấy nó có bước đi và có nhịp điệu khác là các anh nổi giận, các anh tuyệt vọng, các anh thậm chí không thèm tò mò nhìn điệu nhảy múa của nó." Ông kết luận: "Căm ghét vương miện còn chưa đủ, cần phải không kính trọng cả kiểu mũ Phrygie nữa..."[2]
Ông khiếp hãi những kẻ đàn áp, nhưng ông cũng khiếp hãi cả những người giải phóng nữa. Ông khiếp hãi những người giải phóng bởi vì đối với ông, họ là những người kế thừa thế tục của những kẻ mang niềm tin tôn giáo mù quáng ở thời đại của đức
tin - những kẻ duy có một sơ đồ khô cứng, một cái áo trói buộc muốn áp đặt lên loài người như một phương thuốc duy nhất khả dĩ chữa mọi bệnh tật. Ông cũng biết rằng lời biện minh không ngớt của chính ông cho tự do cá nhân, chứa đựng những mầm mống của việc biến xã hội thành tập hợp các nguyên tử, rằng một thỏa hiệp cần phải có cho hai nhu cầu xã hội vĩ đại - cho sự tổ chức và cho tự do cá nhân - một sự cân bằng không bền vững nào đó khả dĩ gìn giữ được một không gian tối thiểu mà ở trong đó cá nhân có thể tự thể hiện mình mà không bị "nghiền nát thành bột". Và ông đã phát biểu rất lôi cuốn về cái mà ông gọi là giá trị của thói vị kỉ. Cái mà những người giảng đạo đức cố sức phủ nhận chính là cái thành trì nội tâm vĩ đại của nhân phẩm con người. "Họ muốn... biến con người thành những tạo vật mau nước mắt, ủy mị, tẻ nhạt, cầu xin được làm nô lệ... Thế nhưng lấy đi thói vị kỉ khỏi trái tim con người là đánh cắp những nguyên tắc sống của anh ta, làm mất đi hương thơm và vị mặn nơi bản ngã của anh ta".
Những vấn đề nhân bản quá ư phức tạp để có thể đòi hỏi những lời giải giản đơn, ngay cả công xã nông dân ở Nga mà Herzen đã từng tin tưởng sâu sắc như một "lối thoát sáng sủa", bởi vì ông đã tin rằng những người nông dân Nga ít nhất cũng không bị nhiễm những thói xấu méo mó của đô thị như là giai cấp vô sản và tư sản châu Âu. Ông chỉ ra rằng công xã nông dân cũng không giữ nổi nước Nga khỏi tính cách nô lệ: "Xin đừng quên rằng con người ưa thích tuân phục, nó luôn luôn tìm đến dựa dẫm vào cái gì đó, núp sau một thứ gì đó, trong nó không có bản sắc kiêu hãnh của thú dữ. Con người lớn lên trong sự phục tùng gia đình, bộ tộc; các nút thắt của đời sống xã hội ràng buộc
nó theo cách càng phức tạp, khắc nghiệt hơn, thì nó càng rơi vào tình trạng nô lệ nhiều hơn; người ta đã bị đè nén bởi tôn giáo - thứ đã siết họ lại do tính hèn nhát của họ, và bởi những người cao tuổi nhất - thứ đã siết họ lại theo tập quán."
Tự do không phải là sở thích của số đông mà chỉ là sở thích của những người đã được giáo dục. Ông nhận xét: "Sự phụ thuộc của con người vào môi trường, vào thời đại là chuyện không còn ai hoài nghi nữa... Môi trường, nơi con người sinh ra và thời đại mà con người sống trong đó, sẽ lôi kéo con người tham gia vào những gì xảy ra xung quanh anh ta, tiếp tục làm những gì mà những người cha đã khởi đầu; một cách tự nhiên anh ta quyến luyến với những gì vây quanh anh ta, bản thân anh ta không thể nào lại không phản ánh thời đại của mình, môi trường sống của mình. Thế nhưng chính trong hình tượng của sự phản ánh hiện ra tính độc đáo. Phản ứng đối kháng lại được kích thích" nên trong con người đối với những thứ xung quanh, ấy là câu trả lời của bản ngã anh ta đáp lại ảnh hưởng của môi trường. Câu trả lời ấy có thể đầy những cảm thông cũng như đầy những đối kháng. Tính độc lập về nhân cách của con người cũng là chân lí và thực tại hiển nhiên, không khác gì sự phụ thuộc của con người vào môi trường, điểm khác biệt là nó ở trong quan hệ ngược lại với môi trường: càng nhiều ý thức thì tính độc đáo càng lớn; càng kém ý thức thì sự ràng buộc với môi trường càng chặt chẽ hơn, môi trường càng nuốt mất bản ngã nhiều hơn."
Thế hệ thanh niên cách mạng "mới" ở nước Nga những năm 60 đã tấn công gay gắt tất cả "những người của năm 40" và đặc biệt là nhắm vào Herzen, người mà họ đánh giá là đại diện xuất
chúng nhất và ghê gớm nhất. Những nhà cách mạng mới đầy hung bạo đã đả kích ông vì tình yêu luyến tiếc phong cách sống cũ xưa, vì ông là nhà quý tộc, giàu có, sống đầy đủ tiện nghi, và ngôi ở London mà quan sát từ xa cuộc đấu tranh cách mạng của nước Nga, vì ông thuộc thế hệ chỉ đơn thuần nói chuyện ở các phòng khách, rồi suy tưởng và triết lí, trong khi khắp xung quanh họ là tình cảnh bẩn thỉu và khốn khổ, rét mướt và bất công. Họ trách cứ ông đã không tìm kiếm sự cứu rỗi trong một công việc lao động chân tay nghiêm chỉnh nào đó - như đốn cây hay đóng giày, hay làm việc gì đó "cụ thể" để đồng hóa bản thân mình với quần chúng đang đau khổ, thay cho việc nói chuyện không dứt trong những phòng khách của các quý bà phong lưu với những người trẻ tuổi khác sinh ra trong gia đình quý tộc, được học cao, và cũng vô trách nhiệm như thế - tự buông thả và thoát li thực tế, nhắm mắt làm ngơ trước những điều kinh khủng và sự thống khổ của thế giới.
Herzen hiểu được những người phản bác ông và ông khước từ thỏa hiệp. Ông thừa nhận rằng ông không thể thay đổi được bản tính ưa thích sạch sẽ hơn bẩn thỉu, ưa thích sự tề chỉnh, phong nhã, đẹp đẽ tiện nghi hơn là bạo lực và khắc khổ, ưa thích văn chương hay hơn là văn chương dở, ưa thích thi ca hơn là văn xuôi. Ông khước từ việc thừa nhận rằng chỉ có những tên vô lại mới có thể thành công, rằng để đạt được cuộc cách mạng giải phóng loài người và tạo nên hình thức mới mẻ và cao quý hơn cho cuộc sống trên trái đất thì người ta phải nhếch nhác, bẩn thỉu, hung bạo và đầy bạo lực, rồi giẫm đạp lên nền văn minh và các quyền con người. Ông không tin điều đó, và không thấy có lí do nào để ông phải tin vào điều đó cả.
I. Berlin nhận xét: "Về phần thế hệ mới của các nhà cách mạng, họ cũng không phải bỗng nhiên bật dậy từ hư không: họ là lầm lỗi mà thế hệ của ông đã sản sinh ra bằng những cuộc nói chuyện vô bổ trong những năm 40 - "thứ bệnh giang mai đối với những đam mê cách mạng của chúng tôi". Thế hệ mới rồi sẽ nói với thế hệ cũ: "các anh là bọn đạo đức giả, chúng tôi sẽ vô liêm sỉ; các anh ăn nói giống như bọn giảng đạo đức, chúng tôi sẽ ăn nói như bọn vô lại; các anh lễ độ đối với cấp trên, vô lễ đối với cấp dưới của các anh; chúng tôi sẽ vô lễ đối với tất cả; các anh khom lưng mà trong lòng không có cảm xúc kính trọng, chúng tôi sẽ xô đẩy và chen lấn mà chẳng xin lỗi..." Ông đã cảnh báo: Thói côn đồ có tổ chức chẳng giải quyết được chuyện gì hết. Chỉ khi nào gìn giữ được văn minh - thừa nhận sự khác biệt giữa tốt và xấu, cao quý và đê tiện, xứng đáng và không xứng đáng - chỉ khi nào có được những người nào đó vừa tinh tế vừa can đảm, được tự do nói ra những gì họ muốn nói, không hi sinh cuộc đời của họ dưới một bàn thờ nào đó to lớn và vô danh, và không làm đắm chìm bản thân vào một đám đông rộng lớn, vô bản diện, tẻ nhạt của những kẻ man khai đang tiến đều bước đi phá hủy. Ý nghĩa của cách mạng là gì? Cách mạng có thể đến, dù chúng ta thích hay không thích. Thế nhưng vì sao chúng ta phải hoan nghênh, rồi lại còn phải làm việc cho sự thắng lợi của những kẻ man khai, là những kẻ sẽ quét sạch cái thế giới cũ xấu xa tội lỗi chỉ để bỏ lại những đống hoang tàn và nỗi thống khổ mà ở trên đó chẳng thể xây dựng nên cái gì ngoài một nền chuyên chế mới? "Bản cáo trạng to lớn mà nền văn học Nga đã thảo ra chống lại đời sống Nga" không hề đòi hỏi một tình trạng thô kệch ngu đần mới thay chỗ cho cái cũ. "Đau buồn, hoài
nghi, châm biếm... ba sợi tơ đàn của cây đàn Nga" gần gũi với hiện thực nhiều hơn cái chủ nghĩa lạc quan thô kệch và tầm thường của những kẻ theo chủ nghĩa duy vật mới."
Mục tiêu không thay đổi của Herzen là gìn giữ tự do cá nhân. Điều làm cho ông trở thành nhân vật độc đáo của thế kỉ XIX, ấy là sự phức tạp trong cách nhìn của ông. Ông đã hiểu quá rõ sự áp bức, vô nhân đạo, nỗi thống khổ, những tiếng gào thét cay đắng đòi công lí ở nơi những phần tử dân chúng bị nghiền nát dưới chế độ cũ, đồng thời ông cũng biết rằng cái thế giới mới đã đứng lên trả thù cho những sai trái ấy, nếu để cho nó được tùy ý, sẽ lôi cuốn hàng triệu người vào việc tiêu diệt lẫn nhau. I. Berlin đã bình luận như sau: "Tính chất hai chiều thật lạ kì, sự đan xen của việc bênh vực đầy phẫn nộ cho cách mạng và dân chủ chống lại việc lên án sự tự mãn của những người thuyết giảng tự do và những người bảo thủ, cùng với những đả kích không kém phần say mê chống lại những nhà cách mạng, nhân danh tự do cá nhân; việc bảo vệ cho những yêu sách của cuộc sống và nghệ thuật, cho sự tề chỉnh của con người, cho sự bình đẳng và nhân phẩm, với sự ủng hộ cho một xã hội mà ở đó con người sẽ không bóc lột và giẫm đạp lên nhau, ngay cả nhân danh công bằng hay tiến bộ hay văn minh hay dân chủ hay các khái niệm trừu tượng nào khác đi nữa - cuộc chiến trên hai mặt trận, đôi khi còn nhiều mặt trận hơn nữa, dù là ở đâu, dù ai là kẻ thù của tự do đi nữa, rốt cuộc có thể đã biến Herzen thành một chứng nhân hiện thực nhất, cảm thông sâu sắc nhất và thuyết phục nhất đối với cuộc sống và những vấn đề xã hội ở thời đại của ông. Tài năng lớn nhất của ông nằm ở sự thấu hiểu không bị ràng buộc: ông thấu hiểu giá trị của những người Nga được gọi là những
người "thừa" đầy lí tưởng của những năm 40, bởi vì họ được tự do một cách khác thường, đầy hấp dẫn về đạo đức, và tạo thành một giới xã hội giàu trí tưởng tượng, tự phát, tài năng, văn minh và rất lí thú mà ông chưa từng biết đến. Đồng thời ông cũng hiểu được sự phản đối chống lại họ của những thanh niên cấp tiến nổi loạn, khó chịu vì những lời huyên thuyên thiếu suy nghĩ và vô trách nhiệm nơi các quý tộc vô công rồi nghề, không biết đến sự tức tối to lớn của đám quần chúng đầy ảm đạm nơi những người nông dân bị áp bức và các viên chức cấp thấp, mà một ngày nào đó sẽ quét sạch họ và thế giới của họ trong một con sóng thủy triều của lòng căm thù đầy bạo lực, mù quáng, nhưng được biện minh, lòng căm thù ấy là công việc của cuộc cách mạng đích thực gây kích động và trực tiếp. Herzen đã hiểu rõ sự xung đột ấy, và tự truyện của ông truyền tải sự căng thẳng giữa các cá nhân và các giai cấp, các nhân vật và các ý kiến cả ở nước Nga và ở phương Tây, với sự sinh động và chính xác tuyệt vời."
NGUYỄN VĂN TRỌNG
GỬI CON TRAI TÔI ALEXANDER[3]
Xasha[4] của cha,
Cha tặng cho con cuốn sách này là vì cha đã không viết được gì hay hơn nó, và có lẽ cũng sẽ chẳng viết được gì nữa hay hơn; là vì cha yêu cuốn sách này như yêu kỉ niệm của cuộc đấu tranh mà ở đó cha đã phải hi sinh nhiều thứ nhưng không hi sinh sự can đảm của tri thức; cuối cùng là vì cha không chút e sợ trao vào bàn tay niên thiếu của con lời phản kháng, đôi chỗ khá táo tợn, của một bản ngã độc lập chống lại quan điểm lạc hậu, mang tính nô lệ và đầy dối trá, chống lại những thần tượng xằng bậy thuộc về một thời khác biệt đang sống nốt những ngày tàn vô nghĩa giữa chúng ta, gây trở ngại cho một số người này, gây sợ hãi cho một số người khác.
Cha không muốn lừa dối con, con hãy biết chân lí như cha hằng biết; dẫu cho con có được chân lí ấy không phải trải qua những sai lầm đau đớn, những nỗi thất vọng tê dại, mà chỉ đơn giản là theo quyền thừa kế.
Trong cuộc đời con sẽ có những câu hỏi khác, những cuộc đụng độ khác... sẽ chẳng thiếu những đau khổ và công việc. Con mới 15 tuổi - nhưng con đã nếm trải những đòn đánh kinh hoàng.
Con đừng tìm những lời giải đáp trong cuốn sách này - không có chúng ở trong đó và nói chung con người đương đại không có
lời giải đáp. Cái đã giải đáp rồi thì đã kết thúc, cuộc biến chuyển lớn cho mai sau chỉ vừa mới bắt đầu.
Chúng ta không xây dựng, chúng ta đang đập vỡ, chúng ta không tuyên cáo mạc khải mới mà chỉ xóa bỏ sự dối trá xưa cũ. Con người đương đại, người dựng những cây cầu vĩ đại[5] buồn bã, chỉ dựng nên cây cầu - một người khác, người còn chưa ai biết, người thuộc tương lai sẽ đi trên cây cầu ấy. Có thể con sẽ được nhìn thấy... Con đừng ở lại nơi bến bờ cũ... Thà chết cùng nó còn hơn là được cứu thoát trong sự che chở của phản động.
Tôn giáo cải tạo lại xã hội mai sau - tôn giáo mà cha di chúc lại cho con, tôn giáo ấy không có thiên đường, không có đền đáp, chỉ có ý thức của chính mình, chỉ có lương tâm... Đúng thời cơ con hãy về quê nhà thuyết giảng tôn giáo ấy; ở đó người ta đã từng yêu mến ngôn ngữ của cha, có thể sẽ còn nhớ tới cha.
... Cha chúc phúc cho con trên con đường ấy nhân danh lí trí con người, nhân danh tự do cá nhân và tình thương yêu huynh đệ!
Cha của con
Twickenham, ngày 01 tháng 01 năm 1855.
[DẪN NHẬP][6]
Từ bờ bên kia[7] - là cuốn sách đầu tiên tôi xuất bản ở phương Tây; một loạt các bài báo soạn thành cuốn sách ấy đã được viết bằng tiếng Nga vào các năm 1848 và 1849. Tôi đã tự đọc chúng cho nhà văn trẻ F. Kapp bằng tiếng Đức.
Giờ đây nhiều thứ trong đó không còn mới mẻ nữa[8]. Năm năm khủng khiếp đã dạy được đôi điều cho những người bướng
bỉnh nhất, cho những kẻ tội lỗi không hối cải nhất bên bờ của chúng ta. Vào đầu năm 1850 cuốn sách của tôi đã gây xôn xao ở nước Đức; người ta khen ngợi nó và phê phán nó gay gắt, bên cạnh những ý kiến nhận xét còn hơn cả lời tán dương của những người như Julius Frobel, Jacoby, Fahnereyer thì những người đầy tài năng và tận tụy lại phẫn nộ đả kích nó.
Người ta đã buộc tội tôi là thuyết giảng sự tuyệt vọng, là không hiểu biết nhân dân, là hờn giận[9] chống lại cách mạng, là thiếu tôn trọng nền dân chủ, thiếu tôn trọng quần chúng, thiếu tôn trọng châu Âu...
Ngày 02 tháng 12 đã trả lời họ còn lớn tiếng hơn cả tôi[10]. Năm 1852, ở London tôi được gặp đối thủ sắc sảo nhất của tôi là Solger; - ông ta đang sắp xếp để mau chóng đi Mĩ; ông ta thấy mình chẳng có việc gì để làm ở châu Âu cả. Tôi nhận xét: "Tình hình có vẻ như đã thuyết phục được ông rằng tôi cũng không hoàn toàn sai phải không?". Solger hiền hậu cười đáp lại: "Tôi không cần nhiều đến như thế này để nhận ra rằng những điều tôi đã viết ra hồi ấy thật quá nhảm nhí".[11]
Mặc dù có lời thú nhận dễ thương này, kết luận chung của những phán xét vẫn nghiêng về phía chống lại tôi. Liệu có phải điều này biểu lộ cảm giác tức giận - sự cận kề với nguy hiểm, nỗi sợ hãi trước tương lai, mong muốn che giấu sự yếu ớt của mình, tuổi già đỏng đảnh và chai cứng?
... Số phận kì lạ của những người Nga - nhìn xa hơn các láng giềng, nhìn u ám hơn và dũng cảm nói ra ý kiến của mình, - những người Nga, "những người câm lặng" ấy, như Michelet nói. [12]
Đây là những gì đã được viết ra trước tôi bởi một trong những đồng bào của chúng ta:
"Ai là người đã tán dương hơn chúng ta về ưu điểm của thế kỉ XVIII, về ánh sáng của triết học, về sự dịu bớt của các tập quán, về sự truyền bá khắp nơi tinh thần xã hội, về sự ràng buộc chặt chẽ và thân ái nhất của các dân tộc, về sự dịu hiền của việc cai trị? ... Dù cho vẫn còn những đám mây đen nào đó ở chân trời của nhân loại, nhưng tia sáng rạng rỡ của hi vọng đã nhuộm vàng những miền biên khu ấy. Chúng ta tôn kính sự kết thúc của thế kỉ này như sự kết thúc những tai họa chủ yếu nhất của loài người và đã tưởng rằng tiếp đến sẽ là sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, giữa những suy luận và hành động... Cái hệ thống làm yên lòng ấy nay ở đâu rồi? Nó đã bị phá hủy đến tận gốc; thế kỉ XVIII đang kết thúc và lòng bác ái khốn khổ đang sắp bước xuống nấm mồ của nó, nằm xuống đấy với trái tim xé nát bị lừa dối của mình và nhắm mắt lại vĩnh viễn.
Ai mà ngờ được, dự đoán được, thấy trước được? Ở đâu rồi, những người mà chúng ta đã từng yêu mến? Thành quả của khoa học và sự minh triết đang ở đâu? Thế kỉ của khai sáng, ta không nhận ra mi; những lá cờ đẫm máu ở giữa những giết chóc và tàn phá, ta không nhận ra mi.
Bọn người lãnh cảm hân hoan. ''Đây là thành quả khai sáng của các anh đấy - chúng nói - thành quả khoa học của các anh đấy; triết học hãy chết đi!" - và con người khốn khổ không chốn nương thân, không có cha, không có con hay bạn bè, đang lặp lại: hãy chết đi!
Cuộc đổ máu không thể kéo dài mãi. Tôi tin là cánh tay vung gươm chém giết rồi sẽ mỏi, lưu huỳnh thuốc súng sẽ cạn trong lòng đất, và sấm sét rồi sẽ im tiếng, sớm muộn gì sự tĩnh lặng sẽ đến, nhưng nó sẽ như thế nào? - liệu nó có chết chóc, lạnh lẽo, u ám...
Sự sa sút của khoa học tôi thấy không những là khả dĩ mà còn là không tránh khỏi, thậm chí đã cận kề rồi. Khi các khoa học sa sút, khi tòa nhà tuyệt diệu của chúng sụp đổ, những cây đèn thánh thiện tắt đi - điều gì sẽ đến? Tôi kinh hoàng và cảm thấy trái tim mình run rẩy; cứ cho là một vài đốm lửa còn sống sót dưới tro tàn; cứ cho là có một số người sẽ tìm thấy chúng và sẽ dùng chúng để chiếu sáng cho những túp lều hẻo lánh lặng lẽ của họ, - thế nhưng thế giới này rồi sẽ ra sao?
Tôi lấy tay che mặt!
Không lẽ loài người lúc này đã đi đến bậc tột cùng của sự khai sáng và sẽ phải chìm đắm một lần nữa vào tình trạng dã man để rồi lại lần từng bước mà đi ra khỏi nó, giống như tảng đá mà Sisyphus (là thần nhân trong thần thoại Hi Lạp - ND) vần lên đỉnh núi, khi gần tới đỉnh lại tuột khỏi tay lăn xuống do sức nặng của nó và rồi bàn tay của người lao động vĩnh hằng lại đưa nó lên đỉnh núi hay chăng? - Một hình tượng thật buồn bã!
Giờ đây tôi cảm thấy tựa như bản thân sử biên niên đang chứng minh cho ý kiến này. Chúng ta hầu như không biết đến tên tuổi của các dân tộc châu Á cổ đại và các vương quốc, nhưng qua một vài giai đoạn lịch sử rời rạc chúng ta có thể thấy rằng những dân tộc này đã từng không phải là man khai... Các vương quốc sụp đổ, các dân tộc biến mất, từ tro bụi của họ lại sinh ra
các bộ tộc mới, sinh ra trong bóng tối lờ mờ, trong ánh sáng chập chờn, lớn lên thành hài nhi, học hỏi và kết hợp lại. Có lẽ những kỉ nguyên lịch sử chìm đắm trong cõi vĩnh hằng, một đôi lần bừng sáng ban ngày trong trí tuệ người ta, một đôi lần đã phủ bóng tối ban đêm vào tâm hồn, trước khi Ai Cập tỏa sáng.
Khai sáng Ai Cập kết hợp với Hi Lạp. Những người La Mã đã học hỏi trong ngôi trường vĩ đại này.
Cái gì sẽ tiếp theo sau thời đại sáng chói này? Tình trạng dã man nhiều thế kỉ.
Từ từ giảm bớt đi, bóng tối dày đặc từ từ tan dần. Cuối cùng mặt trời bừng sáng, những con người tốt bụng và cả tin thu được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhìn thấy mục tiêu hoàn thiện đã cận kề và sung sướng reo lên: đến bờ rồi! nhưng đột nhiên bầu trời mây kéo đến và số phận loài người lại lẩn vào đám mây đen của dông tố! Hỡi các hậu thế! số phận nào đang đợi các người?
Đôi khi nỗi buồn không sao chịu nổi siết chặt trái tim tôi, đôi khi tôi sụp quỳ xuống dang tay hướng tới vô hình... Không có lời đáp! - đầu tôi gục xuống trái tim.
Chuyển động vĩnh cửu trong một vòng tròn, lặp lại mãi mãi, vĩnh viễn hết ngày lại đêm và hết đêm lại ngày, một giọt niềm vui và một biển nước mắt. Bạn của tôi ơi! Tôi, bạn và mọi người sống vì điều gì đây? Tổ tiên chúng ta đã sống vì điều gì? Con cháu chúng ta sẽ sống vì điều gì?
Tinh thần của tôi đầy chán nản, yếu đuối và buồn bã!"[13] Những dòng chữ đau đớn, bốc lửa và tràn đầy nước mắt ấy được viết ra vào cuối những năm chín mươi [thế kỉ XVIII] bởi
N.M. Karamzin.
Trong lời dẫn nhập bản viết tay tiếng Nga, tôi đã có đôi lời gửi tới các bạn bè ở nước Nga - những lời ấy như sau: VĨNH BIỆT!
(Paris, ngày 01 tháng 03 năm 1849)
Sự li biệt của chúng ta sẽ còn kéo dài - có thể là mãi mãi. Lúc này tôi không muốn trở về, sau này thì tôi không biết liệu điều đó có khả dĩ hay không. Các bạn đã chờ đợi tôi, lúc này đang chờ đợi, cần phải giải thích chuyện là thế nào. Nếu như có ai đó buộc tôi phải tường trình về sự vắng mặt của mình, về các hành động của mình, thì người đó, tất nhiên rồi, chính là các bạn, những bạn bè của tôi.
Sự kinh tởm không chế ngự nổi và một giọng nói mạnh mẽ từ bên trong vang lên như lời tiên tri, không cho phép tôi vượt qua biên giới nước Nga, đặc biệt là vào lúc này, khi đế chế trở nên hung hãn và hoảng sợ trước tất cả những gì xảy ra ở châu Âu, với sự nhẫn tâm gấp đôi bóp nghẹt mọi phong trào trí tuệ và thô bạo tách rời sáu mươi triệu người khỏi nhân loại đang giải phóng, dùng bàn tay sắt đen đúa ngăn chặn ánh sáng yếu ớt cuối cùng chiếu xuống một số ít trong họ, bàn tay ấy đã nhuốm máu của người Ba Lan. Không đâu, các bạn của tôi, tôi không thể bước qua biên giới vương quốc của bóng tối, của chuyên quyền độc đoán, của sự bóp chết lặng lẽ, của cái chết vô tung tích, của sự tra tấn với miệng bị nhét giẻ. Tôi sẽ đợi chờ cho tới lúc chính quyền mệt mỏi, bị suy yếu bởi những nỗ lực không có kết quả và bởi sự phản ứng lại do bị kích động, sẽ phải thừa
nhận điều gì đó xứng đáng với sự kính trọng trong con người Nga!
Xin các bạn đừng vội nhầm lẫn; tôi chẳng tìm ở đây một niềm vui, một sự khuây khỏa, một sự nghỉ ngơi, thậm chí cả sự an toàn cho cá nhân nữa; mà tôi cũng không biết liệu có ai lúc này tìm được ở châu Âu một niềm vui, một sự nghỉ ngơi, - nghỉ ngơi trong thời gian đang động đất, niềm vui trong lúc tranh đấu tuyệt vọng. - Các bạn đã nhìn thấy nỗi buồn trên mỗi dòng chữ trong các bức thư của tôi; cuộc sống ở đây rất nặng nề, sự độc ác cay nghiệt hòa lẫn vào tình yêu, sự tức giận hòa lẫn với nước mắt, sự bất an đầy căng thẳng hành hạ toàn bộ cơ thể. Thời kì những ngộ nhận và hi vọng [hão huyền] trước đây đã qua rồi. Tôi chẳng tin vào bất cứ cái gì ở đây ngoài một nhúm người, một ít các ý tưởng và tính bất khả của việc dừng lại phong trào; tôi nhìn thấy cái chết không tránh khỏi của châu Âu già nua và tôi chẳng tiếc thương một thứ gì đang hiện tồn, kể cả học vấn đỉnh cao, cả những định chế của nó... tôi chẳng yêu mến gì trong thế giới này ngoài những gì thế giới này đang theo đuổi, tôi chẳng kính trọng điều gì ngoài thứ thế giới này đang khai tử, - và tôi ở lại... tôi ở lại đau khổ gấp đôi, đau nỗi đau của mình và đau nỗi đau của thế giới này, có lẽ tôi sẽ chết trong sự tàn phá và hủy hoại hết tốc lực của cái thế giới này.
Tôi ở lại làm gì?
Tôi ở lại vì cuộc đấu tranh là ở đây, vì bất chấp máu và nước mắt, ở đây đang giải quyết những vấn đề xã hội, vì ở đây những khổ đau là quá mức, là nóng bỏng, nhưng công khai, cuộc đấu tranh là không che đậy, không ai ẩn nấp. Đau khổ cho những kẻ bại trận, nhưng họ không vì bại trận mà không chiến đấu,
không bị cắt lưỡi trước khi nói ra lời; bạo lực là ghê gớm, nhưng phản kháng cũng vang dội, các chiến sĩ thường bước lên thuyền chiến với chân tay bị trói, nhưng đầu ngẩng cao và lời nói tự do. Nơi nào lời nói chưa bị hủy diệt, nơi đó sự nghiệp còn chưa tiêu vong. Vì cuộc đấu tranh công khai ấy, vì lời nói ấy, vì sự công khai ấy - tôi ở lại đây; vì nó tôi hiến dâng tất cả, tôi hiến dâng các bạn cho nó, một phần tài sản của tôi, và có thể, tôi sẽ hiến sinh mạng trong hàng ngũ của thiểu số đầy năng động, "bị truy đuổi nhưng không thể bị quật ngã".
Vì lời nói [tự do] ấy tôi tạm thời cắt đi, hay nói đúng hơn, tạm thời dằn nén lại mối liên hệ máu thịt của tôi với nhân dân, trong nhân dân ấy tôi tìm được thật nhiều lời nhận xét về những mặt sáng cũng như những mặt tối của tâm hồn tôi, bài ca và ngôn ngữ của nhân dân ấy là bài ca và ngôn ngữ của tôi, và tôi ở lại cùng nhân dân mà trong cuộc sống của nhân dân ấy tôi cảm thông sâu sắc với tiếng khóc cay đắng của một người vô sản và sự dũng cảm tuyệt vọng của bạn bè anh ta.
Tôi đau xót rất nhiều khi phải quyết định... các bạn biết rõ tôi mà... và xin hãy tin tôi. Tôi dằn nén nỗi đau bên trong mình lại, tôi đã trải qua nhiều đau đớn trong tranh đấu và tôi quyết định không phải như cậu thiếu niên đang phẫn nộ, mà như một con người đã suy xét kĩ việc mình làm, những mất mát nào mình phải chịụ... Tôi đã cân nhắc nhiều tháng ngày, đã từng dao động và cuối cùng tôi hi sinh tất cả cho:
Phẩm giá con người,
Tự do lời nói.
Tôi không bận tâm tới những hậu quả, chúng không ở trong quyền lực của tôi, chắc là chúng ở trong quyền lực của sự đỏng đảnh tùy tiện đã lơ đãng đến nỗi dùng compa vẽ ra không chỉ những lời chúng ta nói mà cả những bước chúng ta đi. Không tuân phục theo là ở trong quyền lực của tôi - và tôi đã không tuân phục theo.
Tuân phục theo mà chống lại niềm tin của mình (trong khi có cơ hội để không tuân phục theo), ấy là vô đạo đức. Sự tuân phục đầy khổ đau hầu như bất khả. Tôi đã có mặt ở hai cuộc chính biến, tôi đã sống thật tự do rồi lại có thể để cho người ta trói buộc mình; tôi đã trải nghiệm những làn sóng phản đối của nhân dân, tôi đã quen với tự do ngôn luận và tôi không thể lại biến mình thành nô lệ nữa, ngay cả để cùng đau khổ với các bạn. Nếu giả sử như cần phải tự giết mình cho sự nghiệp chung, có lẽ tôi cũng đủ sức làm; nhưng ngay lúc này thì sự nghiệp chung của chúng ta đang ở đâu? Ở quê nhà nơi các bạn không có miếng đất để con người tự do có thể đứng được. Liệu như thế thì các bạn còn có thể kêu gọi được ư? ... Đi tranh đấu - chúng ta đi; nhưng đi chịu hành hạ, đi chịu sự im lặng vô ích, đi tuân phục theo - thì không chấp nhận dưới bất cứ hình thức nào. Hãy đòi hỏi ở tôi bất cứ điều gì, nhưng xin đừng đòi hỏi tôi sống hai mặt, xin đừng bắt tôi phải giả bộ làm một thần dân trung quân, xin hãy tôn trọng sự tự do nhân bản ở bên trong tôi.
Tự do của một bản ngã cá nhân - là điều vĩ đại nhất; dựa trên nó, và chỉ trên nó mà thôi, mới có thể vun đắp nên ý chí thực sự của nhân dân. Mỗi con người phải kính trọng tự do của mình và kính trọng nó như [kính trọng tự do] trong những người thân cận và trong nhân dân. Nếu như các bạn cũng tin vào điều này
thì các bạn phải đồng ý rằng ở lại nơi đây là quyền của tôi, là nghĩa vụ của tôi; đây duy nhất là sự phản kháng có thể tạo nên một bản ngã nơi chúng ta, vật hi sinh ấy phải hiến dâng cho nhân phẩm của mình. Nếu các bạn gọi sự đi xa của tôi là cuộc chạy trốn thì xin các bạn thứ lỗi nhân danh tình yêu của các bạn, điều đó có nghĩa là các bạn vẫn còn chưa hoàn toàn tự do.
Tôi biết tất cả những phản đối từ quan điểm của chủ nghĩa yêu nước lãng rhạn và sự gượng gạo công dân, nhưng tôi không thể chấp nhận những quan điểm cổ hủ ấy; tôi đã trải qua chúng rồi, tôi đã đi ra từ chỗ chúng và tôi đang tranh đấu chống lại chúng. Những tàn tích được hâm nóng lên ấy của các hồi ức La Mã và Kitô giáo gây cản trở nhiều nhất cho việc tiếp thu những khái niệm đích thực về tự do, - những khái niệm lành mạnh, sáng rõ, đã trưởng thành. May thay, ở châu Âu những tập quán và sự phát triển lâu đời đang bù đắp phần nào cho những lí thuyết và luật lệ xằng bậy. Những con người ở đây đang sinh sống trên miếng đất được bồi đắp bởi hai nền văn minh; con đường mà tổ tiên của họ đã đi hai nghìn rưỡi năm không phải vô ích, rất nhiều nhân tính đã được hun đúc nên, không phụ thuộc vào cấu trúc bề ngoài và trật tự chính thống.
Vào những thời kì tồi tệ nhất của lịch sử châu Âu, chúng ta vẫn thấy có sự kính trọng nào đó đối với bản ngã cá nhân, một sự thừa nhận nào đó đối với tính độc lập - những quyền nào đó được nhân nhượng cho tài năng. Bất chấp tất cả sự xấu xa của chính quyền Đức hồi đó, người ta đã không bắt Spinoza đi đày, không cắt cổ Lessing hay tống ông vào quân ngũ. Ở trong sự tôn kính ấy, không phải đối với một sức mạnh vật chất mà đối với sức mạnh đạo đức, ở trong sự thừa nhận không chủ tâm ấy đối
với bản ngã cá nhân - là một trong những nguyên lí nhân bản vĩ đại nhất của đời sống châu Âu.
Ở châu Âu, người ta không bao giờ coi một người sinh sống ở nước ngoài là tội phạm và một người di cư sang Mĩ là kẻ phản bội.
Ở nước ta chẳng có gì giống như thế cả. Ở nước ta bản ngã cá nhân lúc nào cũng bị đè nén, bị nuốt chửng, thậm chí không cố bộc lộ ra. Lời nói tự do ở nước ta lúc nào cũng bị coi là táo tợn, tính đặc sắc - là nổi loạn chống đối; con người mất hút trong nhà nước, tiêu tan trong công xã. Cuộc lật đổ của Piôt I đã thay thế sự cai trị nước Nga theo kiểu địa chủ lạc hậu bằng một trật tự thư lại kiểu châu Âu; tất cả những gì có thể sao chép lại từ các bộ luật của Thụy Điển và của Đức đều được sao chép hết, tất cả những gì có thể chuyển sang từ kiểu [quản trị] thị chính của nước Hà Lan tự do đều được chuyển sang hết; thế nhưng cái quyền lực bất thành văn, mang tính kiềm chế về mặt đạo đức, sự thừa nhận mang tính bản năng các quyền của bản ngã cá nhân, quyền được tư duy, những chân lí, thì không thể chuyển sang được và đã không được chuyển sang. Tính nô lệ ở nước ta gia tăng thêm cùng với học vấn; nhà nước lớn mạnh lên, được cải thiện hơn, nhưng bản ngã cá nhân không được lợi lộc gì; ngược lại, nhà nước càng mạnh lên thì bản ngã cá nhân càng suy yếu đi. Những hình thức cai trị và tòa án, các định chế quân sự và dân sự theo kiểu châu Âu ở nước ta đã phát triển lên thành một thứ chuyên chế kinh khủng, không lối thoát.
Nếu giả sử như nước Nga không rộng mênh mông đến thế, nếu giả sử như định chế quyền lực theo kiểu nước ngoài không được thiết lập mù mờ đến thế và không được hoàn tất một cách
vô tô chức đến thế, thì sẽ không quá lời nếu nói rằng ở nước Nga không một người nào hiểu biết đôi chút về nhân phẩm lại có thể sống nổi.
Chính quyền được nuông chiều, không gặp bất cứ phản kháng nào, đôi khi không còn chút kiềm chế nào, tình trạng này chưa từng thấy bao giờ trong lịch sử. Các bạn biết được chừng mức của tính được nuông chiều ấy từ các trần thuật về nhà thơ - Nga hoàng Pavel. Hãy loại bỏ đi những thứ đỏng đảnh, hoang đường ở Pavel và các bạn sẽ nhìn thấy ông ta chẳng độc đáo gì, và cái nguyên lí cổ súy ông ta chỉ duy nhất là cùng một thứ, vốn có trong mọi triều đại, trong mỗi viên tỉnh trưởng, trong mỗi viên xã trưởng, trong mỗi tên địa chủ. Say đắm quyền chuyên chế bao trùm lên tất cả cái tôn ti lừng danh gồm mười bốn bậc. Trong mọi hành động của chính quyền, trong mọi quan hệ của cấp trên đối với cấp dưới đều bộc lộ tính ngạo mạn vô liêm sỉ, thói khoe khoang trâng tráo, tính vô trách nhiệm của mình, ý thức mang tính lăng nhục cho rằng bản ngã cá nhân sẽ chịu đựng được hết thảy: quân dịch ba lần, luật về cấp giấy thông hành đi nước ngoài, phạt đánh roi trong trường dạy nghề. Cứ như thế, vùng Tiểu Nga chịu đựng tình trạng nông nô ở thế kỉ XVIII; cứ như thế, toàn bộ nước Nga cuối cùng đã tin rằng có thể mua bán con người, mà chẳng bao giờ có ai hỏi cơ sở pháp luật nào cho phép việc làm này, - ngay cả những ngươi bị bán đi cũng không hỏi. Chính quyền ở nước ta tự tin hơn, phóng túng hơn so với [chính quyền] ở Thổ Nhĩ Kì và Ba Tư, nó chẳng từ việc gì mà không dám làm; nó chối bỏ truyền thống của mình, châu Âu không liên quan gì đến nó, nó chẳng thèm tôn trọng tính nhân dân, nó không biết đến tính nhân bản toàn nhân loại, nó
chỉ chiến đấu với hiện tại. Trước kia chính phủ ít nhất cũng còn xấu hổ với các láng giềng, còn chịu học hỏi họ, giờ đây thì nó tự xem mình được trao sứ mệnh làm gương cho tất cả lũ áp bức; giờ đây nó dạy dỗ kẻ khác.
Tôi và các bạn đã nhìn thấy sự phát triển kinh khủng nhất của đế chế. Chúng ta lớn lên dưới sự khủng bố, dưới những cặp cánh đen của mật vụ, ở trong móng vuốt của chúng; chúng ta bị làm cho què quặt đi dưới cái ách vô vọng và chỉ nhờ vào may rủi mà được lành lặn. Thế còn chưa đủ hay sao? Chẳng phải đã đến lúc tháo bở sự trói buộc đôi tay và lời nói để hành động, để nêu gương, chẳng phải đã đến lúc thức tỉnh ý thức đang ngủ say của nhân dân hay sao? Nhưng lẽ nào chúng ta có thể thức tỉnh nhân dân bằng những lời nói thì thầm, những lời bóng gió xa xôi, khi mà ngay cả tiếng thét và lời nói thẳng họ cũng hầu như chẳng nghe thấu được? Cần những hành động công khai, thẳng thắn; ngày 14 tháng Chạp[14] đã lay chuyển toàn thể nước Nga non trẻ mạnh đến thế là bởi vì nó xảy ra ở quảng trường Isaakievskaja. Bây giờ thì chẳng những quảng trường mà ngay cả sách, bục giảng cũng không thể có ở nước Nga nữa. Chỉ còn lao động cá nhân trong lặng lẽ hay phản kháng cá nhân từ nơi xa mà thôi.
Tôi ở lại đây không phải chỉ vì tôi kinh tởm việc vượt qua biên giới để đeo gông cùm một lần nữa, mà còn là vì để làm việc. Khoanh tay mà sống thì ở đâu cũng được; ở đây tôi không có công việc gì khác ngoài sự nghiệp của chúng ta.
Người nào suốt hơn hai mươi năm mang trong lòng một ý tưởng, người nào đau khổ vì ý tưởng ấy, lang thang trong các nhà tù và những nơi lưu đày, người nào đã tìm được những phút giây tốt đẹp nhất trong đời mình, những cuộc gặp gỡ xán lạn
nhất, người ấy sẽ không bỏ lại ý tưởng ấy, người ấy sẽ không để nó phụ thuộc vào tất yếu ngoại tại và đường kinh tuyến vĩ tuyến địa lí. Hoàn toàn ngược lại, tôi ở đây có ích hơn, tôi ở đây là phát ngôn không bị kiểm duyệt của các bạn, là cơ quan [ngôn luận] tự do của các bạn, người đại diện tình cờ của các bạn.
Tất cả những điều này chỉ có chúng ta là thấy có vẻ mới mẻ và kì lạ, thực ra ở đây chẳng có gì là chưa hề có tiền lệ cả. Ở tất cả các nước vào lúc khởi đầu cuộc chính biến, khi ý tưởng vẫn còn yếu ớt, còn chính quyền vật chất đang lúc [như con ngựa] bất kham, thì những người hoạt động tận tụy đã đi ra nước ngoài, tiếng nói tự do của họ vang lên từ phương xa, và chính cái từ phương xa ấy đem lại sức mạnh và quyền uy cho lời nói, vì đằng sau lời nói ấy ta thấy rõ được những hành động và sự hi sinh. Sức mạnh diễn từ của họ tăng lên theo khoảng cách, giống như lực cắm xuống tăng theo viên đá buông từ tháp cao. Di cư ra nước ngoài là dấu hiệu đầu tiên của cuộc chính biến đang tiến lại gần.
Những người Nga ở nước ngoài còn có một sự nghiệp nữa. Đã đến lúc phải giới thiệu nước Nga với châu Âu. Châu Âu không biết chúng ta; châu Âu biết chính phủ của chúng ta, cái bộ mặt của chúng ta và ngoài ra không biết gì hơn; hoàn cảnh để giới thiệu đang rất thuận lợi, châu Âu giờ đây có vẻ như không còn dáng vẻ kênh kiệu, oai nghiêm cuốn mình trong chiếc áo khoác không thèm biết đến ai; châu Âu không còn hợp với bộ mặt cao ngạo coi thường[15] nước Nga kể từ khi nó được nếm trải thói chuyên chế quê mùa và đám lính Kozak hoang dã, kể từ khi nó lâm vào tình thế bị vây hãm từ sông Danube cho đến Đại Tây Dương, kể từ khi các nhà tù, các thuyền chiến đầy những người
bị xua đuổi vì chính kiến... Hãy để châu Âu biết nhiều hơn về một dân tộc mà châu Âu đã đánh giá được sức mạnh niên thiếu của nó trong chiến trận, khi nó là người chiến thắng; chúng ta sẽ kể cho châu Âu về dân tộc hùng mạnh và khó đoán định này, một dân tộc đã lặng lẽ tạo thành nhà nước sáu mươi triệu dân, một dân tộc đã mạnh mẽ lớn lên kì diệu mà không đánh mất đi khởi nguyên công xã và là dân tộc đầu tiên giữ được nó trải qua những cuộc chính biến sơ kì của sự phát triển nhà nước; về một dân tộc đã giữ được bản sắc một cách diệu kì dưới ách của bầy Mông cổ và bọn thư lại Đức, dưới cây gậy cai đội của kỉ luật trại lính và dưới ngọn roi nhục nhã của bọn Tartar; một dân tộc đã giữ được những nét oai nghiêm, trí tuệ sinh động và tính phóng khoáng rộng rãi của một bản chất phong phú dưới ách của tình trạng nông nô và để đáp lại lệnh của Nga hoàng trau dồi học vấn - đã trả lời sau một trăm năm bằng hiện tượng vĩ đại Pushkin. Hãy để cho những người châu Âu nhận biết người láng giềng của họ; họ mới chỉ sợ hãi anh ta, họ cũng cần biết họ sợ hãi điều gì.
Cho đến nay chúng ta đã tỏ ra khiêm tốn một cách không thể tha thứ được, trong khi ý thức rõ về tình trạng nặng nề vô pháp luật của mình, chúng ta đã quên mất tất cả những gì tốt đẹp, đầy hi vọng, đã quên mất đời sống nhân dân là thế nào. Chúng ta phải chờ một người Đức để giới thiệu mình với châu Âu[16], chẳng phải là đáng xấu hổ hay sao?
Liệu tôi có kịp làm được điều này hay không?.. Tôi không biết, tôi hi vọng!
Như vậy, xin vĩnh biệt các bạn, vĩnh biệt mãi mãi... xin các bạn đưa tay cho tôi, cho tôi sự trợ giúp, tôi cần cả hai thứ ấy.
Chuyện sau này thế nào, ai mà biết được, vừa mới đây chúng ta cũng đã thấy đủ mọi chuyện đó thôi! Biết đâu cái ngày chúng ta sẽ lại hội họp cùng nhau như đã từng làm thế ở Moscow, cũng không phải là xa xôi nữa và chúng ta sẽ cùng nhau cụng li hô vang không e sợ: "Vì nước Nga, vì ý chí thiêng liêng!"
Trái tim tôi khước từ việc tin rằng ngày ấy sẽ không đến, chết lặng đi trong ý nghĩ xa cách vĩnh viễn. Tựa hồ như tôi sẽ không còn được nhìn thấy những đường phố tôi đã hằng đi qua, lòng tràn đầy những mộng ước tuổi thanh xuân; những căn nhà ấy gắn bó thân thuộc với những kí ức, những làng quê Nga của chúng ta, những người nông dân của chúng ta mà tôi - ở tận niềm Nam nước Ý đang thương nhớ? Không thể nào như thế được! - Còn nếu như? - Khi đó tôi sẽ di chúc lại cho con cái tôi chén rượu mừng ấy, trong khi nhắm mắt nơi quê người tôi vẫn giữ niềm tin vào tương lai của nhân dân Nga và chúc phúc cho họ từ chốn lưu đày tự nguyện xa xăm của tôi!
I
TRƯỚC CƠN DÔNG TỐ[17]
(Cuộc trò chuyện trên boong tàu)[18]
Thượng Đế, con người và thế giới - không lẽ tất cả đều là bí ẩn lớn? Không đâu, nhưng người ta không thích nghe về chúng - và bí ẩn đầy tăm tối.
GOETHE[19]
... Tôi đồng ý là trong quan điểm của anh có nhiều dũng cảm, sức mạnh, sự thật, thậm chí hài hước nữa; nhưng tôi không thể chấp nhận nó được; có thể là do cấu tạo [cơ thể], hệ thần kinh. Sẽ không có người tán thành đi theo anh đâu, trừ phi anh học được cách thay máu trong huyết quản.
- Có thể là vậy. Tuy nhiên, anh đã bắt đầu ưa thích quan điểm của tôi, anh tìm kiếm những nguyên nhân sinh lí học, anh hướng đến tự nhiên.
- Chỉ có điều không phải để tự trấn an, để lẩn tránh những nỗi đau khổ, để dửng dưng nhìn ngắm từ đỉnh cao oai nghiêm trên núi Olympe, giống như Goethe, trông xuống thế gian đầy xao xuyến, ngắm nghía chuyển động của đám hỗn loạn ấy đang cố sức ổn định lại một cách bất lực.
- Anh đang trở nên bực tức, nhưng không liên quan đến tôi; nếu tôi đã cố thấu hiểu cuộc đời thì trong việc này tôi đã không
có mục đích nào hết, tôi muốn nhận thức được điều gì đó, tôi muốn nhìn thấy được xa hơn nữa một chút; những gì được nghe, được đọc đã không làm tôi thỏa mãn, đã không giải thích được gì cho tôi, ngược lại, còn dẫn tôi đến những mâu thuẫn, những điều phi lí. Tôi đã không tìm kiếm cho mình cả sự an ủi lẫn sự tuyệt vọng, đó là vì lúc ấy tôi còn trẻ; giờ đây mỗi niềm an ủi thoáng qua, mỗi phút giây vui sướng tôi đều rất quý trọng, chúng mỗi lúc một ít đi. Hồi đó tôi chỉ đi tìm chân lí vừa sức với sự hiểu biết; tôi đã thấu triệt được nhiều hay chăng, tôi đã hiểu ra được nhiều hay chăng, tôi cũng không biết nữa. Tôi không nói là quan điểm của tôi đem lại nhiều an ủi, nhưng tôi trở nên bình thản hơn, thôi không còn tức giận cuộc đời vì nó không đem lại điều mà nó không thể đem lại, - đấy là tất cả những gì tôi tạo ra được.
- Về phần mình thì tôi không muốn thôi cả tức giận lẫn đau khổ, đây là cái quyền con người mà tôi không định khước từ; sự giận dữ của tôi là sự phản kháng của tôi; tôi không muốn cam chịu.
- Cũng chẳng có ai để anh phải cam chịu với người ta. Anh nói là anh không muốn thôi đau khổ; có nghĩa là anh không chấp nhận chân lí như nó vốn mở ra cho tư duy của chính anh, - biết đâu nó không đòi hỏi anh phải đau khổ; anh ngay từ đầu đã khước từ logic, anh tự cho mình lựa chọn chấp nhận hay bác bỏ các hệ lụy. Hẳn anh còn nhớ gã người Anh suốt đời không chịu thừa nhận Napoleon là hoàng đế, điều đó vẫn không ngăn được Napoleon hai lần đăng quang. Trong cái nguyện vọng kiên trì cắt đứt với thế gian - chẳng những thiếu nhất quán mà còn rất vô nghĩa; con người ưa thích gây ấn tượng, đóng vai diễn, nhất
là vai diễn bi thảm, đau khổ, cao thượng, hàm ý sự bất hạnh. Thế vẫn còn chưa hết - con người còn vô số
tính hèn nhát. Do sợ hãi nhận ra sự thật mà nhiều người chuộng đau khổ hơn là phân tích [sự việc]: đau khổ làm sao nhãng, gây bận rộn, tạo an ủi... phải, phải, chính là an ủi; điều cốt yếu là, như bất cứ sự bận rộn nào, nó ngăn cản con người đi sâu vào nội tâm mình, đi sâu vào cuộc sống. Pascal đã nói rằng người ta chơi bài để khỏi phải ở một mình với chính mình. Chúng ta luôn luôn tìm kiếm những cuộc chơi bài thế này hay thế khác, thậm chí bằng lòng bị thua, chỉ cốt sao quên được sự việc. Cuộc đời chúng ta là cuộc chạy trốn liên tục thoát khỏi bản thân mình, cứ như là những cắn rứt lương tâm truy đuổi chúng ta, làm chúng ta sợ hãi. Con người vừa biết đứng trên đôi chân mình là bắt đầu la hét để khỏi nghe thấy tiếng nói vang lên từ nội tâm; anh ta buồn - anh ta đi tìm khuây khỏa; anh ta chẳng có việc gì để làm - anh ta bịa ra sự bận rộn; vì căm ghét sự cô đơn mà anh ta làm bạn với tất cả mọi người, đọc mọi thứ, quan tâm đến những chuyện của người khác, lấy vợ qua quýt. Đây là bến đậu, cuộc sống gia đình và những mâu thuẫn nội tại của nó không có nhiều chỗ cho tư duy; người có gia đình mà suy nghĩ nhiều thì cũng khó coi; anh ta không nên vô công rồi nghề đến thế. Ai mà không đạt được cuộc sống như vậy thì uống rượu say bí tỉ, sưu tập tiền cổ, bài bạc, đua ngựa, bồ bịch, keo kiệt tích góp, làm từ thiện; lao vào mê tín dị đoan, chơi trò tráo trở, tự trút cho mình những nhọc nhằn kinh khủng, nhưng anh ta vẫn cảm thấy những thứ đó còn dễ chịu hơn là cái chân lí nào đó đầy đe dọa đang lim dim ngủ trong nội tâm anh ta. Trong nỗi sợ hãi ấy, thám sát để khỏi nhìn ra sự nhảm nhí của đối tượng
thám sát, trong sự bận rộn giả tạo ấy, trong những nỗi bất hạnh ngụy tạo ấy, gây phức tạp cho mỗi bước đi bằng những trói buộc bịa đặt, chúng ta đi qua cuộc đời nửa mơ nửa tỉnh và chết trong mê muội của sự vô nghĩa và những điều vặt vãnh. Thật quá lạ lùng: trong mọi chuyện không liên quan đến những vấn đề nội tâm mang tính sống còn thì người ta rất thông minh, dũng cảm, sáng suốt; chẳng hạn như người ta tự xem mình là ngoài cuộc đối với thiên nhiên và nghiên cứu thiên nhiên thật thấu đáo; ở đây có phương pháp khác, thủ thuật khác. Sợ sự thật, sợ nghiên cứu đến thế thì có đáng thương hại hay không? Cứ cho là rất nhiều mơ ước sẽ héo tàn, sẽ nặng nề hơn, nhưng dù sao vẫn là đức hạnh hơn, xứng đáng hơn, dũng cảm hơn là cư xử như trẻ con. Nếu giả sử người ta chịu nhìn vào nhau giống như nhìn vào thiên nhiên, cười vui mà bước xuống khỏi tượng đài và ngai vàng, nhìn vào cuộc đời một cách giản dị hơn, thôi không tức giận vì cuộc sống không chịu thi hành những mệnh lệnh đầy kiêu ngạo và những hoang tưởng cá nhân của họ. Như anh chẳng hạn, anh đã trông đợi ở cuộc đời hoàn toàn không phải điều mà nó đã đem lại; thay vì đánh giá được điều mà cuộc đời đã đem lại cho anh, anh lại phẫn nộ với nó. Có lẽ sự phẫn nộ này là tốt, là chất men lôi cuốn con người tiến lên phía trước, tiến tới hành động; nhưng đó chỉ là một cú hích khởi đầu, không nên chỉ có phẫn nộ, suốt đời cứ buồn bực khóc than những thất bại trong tranh đấu. Xin anh hãy nói thẳng: dựa vào đâu mà anh tin chắc rằng những đòi hỏi của anh là chân lí?
- Tôi không bịa ra những đòi hỏi ấy, chúng bất giác sinh ra trong lòng tôi; sau này càng suy xét chúng nhiều hơn, thì tính đúng đắn và hợp lí của chúng càng khai mở rõ ràng hơn cho tôi
- đó là sự chứng minh của tôi. Đó hoàn toàn không phải là tật dị dạng, bệnh mất trí; hàng ngàn người khác, toàn bộ thế hệ chúng ta hầu như đều bị thế cả, kẻ ít người nhiều, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trình độ phát triển - càng phát triển nhiều thì càng nặng hơn. Đau buồn khắp nơi - đây là đặc trưng gay gắt nhất của thời đại chúng ta; nỗi buồn chán nặng nề gieo vào tâm hồn con người đương đại, ý thức về sự bất lực đạo đức giày vò anh ta, sự thiếu vắng niềm tin vào bất cứ điều gì khiến anh ta già đi trước tuổi. Tôi xem anh là ngoại lệ, hơn thế nữa, tôi thấy sự vô cảm của anh thật khả nghi, nó lẫn lộn với sự tuyệt vọng bị lạnh giá đi, với sự vô cảm của con người chẳng những đã mất đi hi vọng mà còn cả sự tuyệt vọng nữa; đó là sự bình thản không tự nhiên. Thiên nhiên chân thực trong mọi chuyện, như anh đã nhiều lần nhắc lại, nó phải chân thực cả trong hiện tượng đau buồn, nặng nề này, tính toàn thể của nó cho nó một quyền nào đó. Anh hãy thừa nhận đi, chính từ quan điểm của anh thì khó mà phản đối lại điều này.
- Có gì mà nhất thiết phải phản đối; tôi chẳng đòi gì hơn là đồng ý với anh. Trạng thái nặng nề mà anh nói tới hiển nhiên là có quyền có được sự biện minh lịch sử và lại càng có quyền hơn nữa để tìm ra lối thoát cho nó. Nỗi khổ đau - ấy là lời thách thức tranh đấu, đó là tiếng kêu cảnh báo chúng ta của cuộc sống về mối nguy hiểm. Thế giới mà chúng ta sống ở đó, đang chết dần, tức là các hình thức mà cuộc sống bộc lộ ra đang chết; không thuốc nào tác động được lên cái thân thể đã tàn tạ của nó; để cho các hậu duệ được dễ thở hơn thì phải chôn cất nó, thế mà người ta lại cứ nhất định chữa chạy cho nó và trì hoãn cái chết. Chắc là anh đã từng thấy nỗi buồn, sự bất định não nề đầy lo âu
bao phủ khắp căn nhà, nơi có người đang hấp hối; sự tuyệt vọng gia tăng bởi hi vọng, đầu óc mọi người đầy căng thẳng, những người khỏe mạnh thành đau ốm, mọi chuyện đều lộn xộn. Cái chết của người bệnh làm nhẹ lòng những người còn lại; nước mắt chan hòa, nhưng không còn sự chờ đợi ghê gớm nữa, nỗi bất hạnh ở ngay trước mắt với tất cả tầm vóc của nó, không đảo ngược được nữa, cắt đứt mọi hi vọng, và cuộc sống bắt đầu chữa trị, hòa giải, bắt một nhịp mới. Chúng ta đang sống trong thời gian của một cuộc hấp hối lớn đầy khó khăn, điều này đủ để giải thích nỗi buồn của chúng ta. Thêm vào đó, những thế kỉ trước đã đặc biệt dạy dỗ chúng ta về nỗi buồn, sự giày vò não nề. Ba trăm năm trước mọi chuyện đều đơn giản, lành mạnh, những gì sống động còn chưa bị đè nén; tư tưởng còn chưa dám cất cao giọng nói của mình, thân phận của nó còn đang giống như đám người Do Thái thời Trung cổ, xảo quyệt, hèn mọn, đảo mắt ngó nhìn xung quanh. Dưới những ảnh hưởng ấy, trí tuệ của chúng ta đã hình thành, lớn lên ở bên trong một môi trường không lành mạnh; từ tính thần bí Thiên Chúa giáo nó chuyển thành chủ nghĩa duy tâm tự nhiên và giữ lại nỗi sợ hãi mọi thứ mang tính tự nhiên, những cắn rứt lương tâm bị lừa dối, những khao khát các phúc lợi bất khả; nó vẫn ở trong sự bất hòa với cuộc sống cùng nỗi buồn lãng mạn, nó tự giáo dục mình đau khổ và giằng xé. Liệu đã lâu chưa, chúng ta - những kẻ bị dọa nạt từ tấm bé - đã thôi không còn chối bỏ những khích động hồn nhiên nhất? Liệu đã lâu chưa chúng ta đã thôi không còn run sợ khi phát hiện ra trong tâm hồn mình những cảm hứng cuồng nhiệt không xếp được vào danh mục định suất lãng mạn? Anh vừa mới nói là các đòi hỏi giày vò chúng ta đã phát triển một
cách tự nhiên; nó vừa đúng như thế mà vừa không hẳn như thế - tất cả đều thật tự nhiên, bệnh tràng nhạc sinh ra do ăn uống bậy bạ, khí hậu xấu, thế nhưng chúng ta vẫn xem nó là một thứ dị vật nào đó của cơ thể. Nền giáo dục đã đối xử với chúng ta giống như cha của Annibal đối xử với con trai mình[20]. Nền giáo dục ấy bắt chúng ta thề nguyền trước khi chúng ta có được ý thức, trói buộc chúng ta vào vòng nô lệ đạo đức mà chúng ta coi là nhất thiết phải thế do sự nhã nhặn sai lệch, do khó thể thoát khỏi những gì được tập cho từ quá sớm, do lười biếng không chịu phân tích xem thực chất là gì. Nền giáo dục lừa dối chúng ta trước khi chứng ta có thể nhận thức được, quả quyết với lũ trẻ con về những chuyện bất khả, cắt đứt quan hệ tự do và trực tiếp của chúng đối với sự vật. Khi lớn lên chúng ta thấy rằng mọi việc không trôi chảy: cả tư duy, cả thực tại; những thứ người ta dạy dỗ chúng ta dựa vào đó thì có gì đó đã thối rữa, dễ vỡ, còn những thứ người ta cảnh báo chúng ta phải lánh xa như tránh, thuốc độc thì lại có lợi cho sức khỏe; khiếp nhược và bị lừa gạt, được huấn luyện tuân theo quyền uy và mệnh lệnh, theo năm tháng chúng ta bước ra tự do, mỗi người tùy theo sức mình mà mò mẫm tới chân lí trong tranh đấu và lầm lẫn. Bị giày vò bởi khao khát hiểu biết, chúng ta nghe trộm bên cánh cửa, cố nhìn qua khe hở, chúng ta giả dối, vờ vĩnh, xem sự thật là tội lỗi và xem sự khinh miệt dối trá là sự táo tợn. Có lạ lùng gì đâu, sau những chuyện đó chúng ta không biết làm cho sinh hoạt cả nội tâm lẫn ngoại tại được trôi chảy, cứ đòi hỏi những điều không nên, cứ hi sinh những thứ không đáng phải hi sinh, bỏ qua điều khả dĩ và giận dữ vì điều bất khả dĩ coi thường chúng ta, phẫn nộ chống lại những điều kiện tự nhiên của cuộc sống và khuất
phục trước điều nhảm nhí tùy tiện. Toàn bộ nền văn minh của chúng ta là như thế, nó lớn lên trong cuộc tương tàn đạo đức; thoát ra khỏi trường học và nhà tu kín, nó không đi vào cuộc sống mà lướt qua cuộc sông, giống như Faust, để ngó qua, phản ứng lại một chút và sau đó lánh khỏi đám đông thô bạo, đi vào các phòng tiếp khách, vào viện hàn lâm, vào sách vở. Nó hoàn tất quãng đường của mình với hai lá cờ trong tay; "chủ nghĩa lãng mạn cho trái tim" được viết trên một lá cờ, "chủ nghĩa duy tâm cho trí tuệ" - trên lá cờ còn lại. Đấy là nguyên nhân của phần lớn những trục trặc trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta không yêu thích những gì giản dị, chúng ta không quý trọng thiên nhiên theo truyền thuyết, chúng ta muốn điều khiển thiên nhiên, chúng ta muốn chữa trị bằng thần chú và ngạc nhiên thấy người bệnh không bớt đau; vật lí học xúc phạm chúng ta bởi tính độc đáo độc lập của nó, chúng ta muốn thuật giả kim, ma thuật; thế nhưng cuộc sống và thiên nhiên cứ thản nhiên đi theo cách của mình, chỉ khuất phục con người trong chừng mực con người học được cách hành động theo phương tiện của chính chúng mà thôi.
- Hình như anh xem tôi là nhà thơ Đức, mà lại còn thuộc thời đại trước đây nữa, là những người đã giận dữ vì có thân thể của mình, vì phải ăn uống, vì tìm kiếm những cô gái thần tiên, "có bản thể khác, của mặt trời khác"[21]. Tôi không muốn cả ma thuật lẫn điều huyền bí, tôi chỉ muốn thoát ra khỏi trạng thái tâm hồn mà anh vừa trình bày còn gay gắt hơn tôi gấp mười lần; thoát khỏi tình trạng bất lực đạo đức, thoát khỏi tình trạng khốn khổ không thể sử dụng được những điều tin tưởng, thoát khỏi tình trạng hỗn loạn khiến chúng ta rốt cuộc không hiểu được ai
là thù ai là bạn: tôi kinh tởm thấy nhìn đi đâu cũng có những người hoặc bị tra tấn, hoặc tra tấn [người khác]. Phải cần tới phép phù thủy để giảng giải cho mọi người rằng chính họ có lỗi trong việc họ sống tệ hại đến thế, giải thích cho họ rằng không nên cướp đoạt của người nghèo hèn, rằng ăn uống phè phỡn bên cạnh kẻ đang chết đói là khả ố, rằng giết người lén lút lúc ban đêm trên đường cái và giết người công khai trên quảng trường lớn với kèn trống vang lên thì cũng đáng kinh tởm như nhau; rằng nói một đằng làm một nẻo là đểu cáng... tóm lại là tất cả những chân lí mới mẻ mà người ta vẫn nói, nhắc đi nhắc lại, công bố ra từ thời thất hiền của Hi Lạp, - mà tôi cho rằng ngay từ thời đó thì những chân lí ấy cũng đã rất xưa cũ rồi. Bọn giảng đạo đức, các cha cố cao giọng hên bục giảng, luận bàn về đức hạnh, tội lỗi, đọc kinh thánh, đọc Rousseau - chẳng có ai phản đối và chẳng có ai thực hiện.
Thật tình chuyện này cũng chẳng có gì đáng tiếc. Tất cả những học thuyết và lời thuyết giảng ấy phần nhiều đều không đúng, khó mà thực hiện được và rối rắm hơn việc sinh hoạt giản dị thường ngày. Khổ nỗi là ý tưởng luôn chạy lên trước, dân chúng không theo kịp các ông thầy của mình; lấy ví dụ như thời bây giờ: một vài người đề cập đến cuộc lật đổ mà cả chính họ lẫn dân chúng đều không đủ sức làm. Những người tiên tiến cứ tưởng rằng chỉ cần họ hô lên: "Hãy vùng lên và đi theo chúng tôi" - thế là mọi sự chuyển động; họ đã lầm, nhân dân - ít hiểu họ cũng hệt như họ ít hiểu nhân dân, người ta không tin họ. Không nhận ra là chẳng có ai đi theo mình, những người này cầm đầu, tiến lên phía trước; khi chợt tỉnh ra, họ la hét những người ở lại sau, vẫy tay, kêu gọi, trách móc họ - nhưng đã muộn
rồi, khoảng cách quá xa, tiếng nói không tới được, ngôn ngữ lại cũng không phải là thứ mà quần chúng vẫn nói. Chúng ta đau lòng thú nhận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới đã trở nên lẩn thẩn, già nua, tàn tạ, rõ ràng đã mất hết sức lực và tư cách để vươn lên tầm cao tư tưởng của chính nó; chúng ta thương xót cái thế giới xưa cũ, chúng ta đã quá quen thuộc với nó như với ngôi nhà của mình, chúng ta nâng đỡ nó trong khi cố phá hủy nó, rồi chúng ta cố ghép những tín điều của mình vào những hình thức đã hết khả năng của nó mà không thấy là xê dịch nó một chút chính là tuyên án tử hình cho nó. Chúng ta mặc quần áo may không theo kích thước của chúng ta, mà theo kích thước các cụ cố của chung ta, trí não của chúng ta hình thành dưới ảnh hưởng của những tình huống xảy ra trước đó, nó không kham được nhiều, nó nhìn nhiều thứ dưới góc độ sai lệch. Người ta đã khó khăn lắm mới đạt được sinh hoạt đương đại mà họ thấy như bến đậu thật hạnh phúc sau sự điên rồ và ách áp bức đần độn của thời phong kiến, nên họ e ngại thay đổi nó, họ trở nên nặng nề trong những hình dáng của nó, thích nghi với chúng, thói quen thay thế sự gắn bó, chân trời thu hẹp lại... tầm vóc tư duy trở nên bé nhỏ, ý chí suy nhược đi.
- Một bức tranh thật tuyệt; hãy bổ sung thêm vào bên cạnh những người được thỏa mãn ấy - những người kham được trật tự đương đại, một bên là nhân dân nghèo khó, chưa phát triển, hoang dã, lạc hậu, đói ăn, phải đấu tranh tuyệt vọng cho nhu cầu, phải làm việc kiệt sức mà không nuôi được bản thân, một bên nữa là chúng ta, những người đã bất cẩn chạy lên phía trước, những người đạc điền cắm những cột mốc của thế giới mới, - và là những cột mốc mà chúng ta sẽ không bao giờ nhìn
thấy được, ngay cả cái nền dành để cắm mốc nữa. Từ tất cả những trông đợi, từ toàn bộ cuộc đời đã trôi tuột khỏi bàn tay (mà còn trôi tuột đi ra sao nữa chứ), nếu như có còn lại thứ gì đó thì đấy là niềm tin vào tương lai; một khi nào đó, rất lâu sau cái chết của chúng ta, ngôi nhà, mà chúng ta đã dọn sạch chỗ để xây nó, rồi sẽ được xây nên, và trong ngôi nhà ấy - những người khác sẽ được thoải mái.
- Tuy nhiên, chẳng có lí do để cho rằng thế giới mới sẽ được xây theo đồ án của chúng ta...
Người trẻ tuổi lắc đầu tỏ vẻ không hài lòng và trong giây lát ngước nhìn ra biển - trời vẫn tiếp tục đứng gió thật im; mây đen nặng nề gần như không chuyển động treo trên đầu thật thấp, đến nỗi khói tàu bay lượn hòa lẫn vào nó, - biển tối sầm, không khí không làm mát. Im lặng một chút, anh ta nói:
- Anh cư xử với tôi giống như bọn cướp với những người đi đường; sau khi cướp sạch mọi thứ của tôi rồi, anh thấy vẫn còn chưa đủ, anh lần từ cái áo lót che cho tôi khỏi bị cảm lạnh cho đến đầu tóc tôi; anh đã bắt tôi phải hoài nghi nhiều thứ, tôi còn lại tương lai - anh lấy mất nốt, anh cướp mất những hi vọng của tôi, anh giết đi những giấc mơ, giống như Macbet.
- Tôi cứ tưởng là tôi giống với nhà phẫu thuật nhiều hơn, người cắt đi khối u.
- Có lẽ còn hay hơn nữa, nhà phẫu thuật cắt bỏ bộ phận đau của cơ thể mà không thay vào đó bộ phận lành.
- Và tiện đường cứu sống đước con người, giải thoát anh ta khỏi nọc độc của căn bệnh quá lâu ngày.
- Tôi biết quá cái việc giải thoát của anh. Anh mở cửa nhà tù và muốn đẩy tù nhân ra đồng cỏ, khẳng định anh ta được tự do; anh đập bỏ Bastille nhưng chẳng dựng nên cái gì thay thế nhà tù, chỉ còn một bãi trống.
- Giá mà được như anh nói thì đã thật tuyệt vời; chuyện tệ hại là những đống đổ vỡ, rác rưởi gây cản trở trong mỗi bước đi. - Cản trở cái gì kia chứ? Thực ra thì chí hướng của chúng ta, lá cờ của chúng ta đang ở đâu? Chúng ta tin vào cái gì, không tin vào cái gì?
- Tin vào mọi thứ, không tin vào bản thân; anh đi tìm kiếm lá cờ, còn tôi tìm cách đánh mất nó; anh muốn có mệnh lệnh, còn tôi thấy đến một độ tuổi nào đó mà còn đọc theo mệnh lệnh thì thật đáng xấu hổ. Anh vừa nói là chúng ta đang cắm cột mốc cho thế giới mới...
- Rồi tinh thần phủ định và phân tích đang nhổ chúng lên khỏi mặt đất. Anh nhìn thế giới u ám hơn tôi rất nhiều và sự an ủi của anh chỉ là để bày tỏ một cách nghiêm trọng hơn nữa sự nặng nề đương đại này. Nếu cả tương lai cũng không là của chúng ta, thì nền văn minh của chúng ta là sự dối trá, là sự mộng mơ của cô gái tuổi mười lăm, mà khi đến tuổi hai mươi lăm cô sẽ cười nhạo nó; những việc làm của chúng ta là chuyện vớ vẩn, những nỗ lực của chúng ta là đáng tức cười, những trông đợi của chúng ta giống như những kì vọng của bác nông dân ở sông Danube[22]. Tuy nhiên, biết đâu có thể chính anh muốn nói để cho chúng ta quẳng đi nền văn minh của mình, chối bỏ nó, quay trở về với lạc hậu.
- Không đâu, từ chối phát triển là chuyện bất khả. Làm sao có thể để tôi không biết cái tôi đã biết? Nền văn minh của chúng ta là tinh hoa tốt đẹp nhất của đời sống đương đại, ai lại hi sinh sự phát triển của mình? Nhưng chuyện này thì liên quan gì đến việc thực hiện những lí tưởng của chúng ta, là nơi có sự tất yếu để cho tương lai diễn ra theo chương trình đã định?
- Vậy là, tư duy của chúng ta đưa chúng ta đến với những hi vọng hão huyền, những kì vọng phi lí; cùng với tất cả những thứ như là thành quả công việc ấy, chúng ta bị sóng đánh vào con tàu đang chìm. Tương lai không phải của chúng ta, hiện tại chúng ta chẳng có việc gì để làm; chẳng thoát đi đâu được, chúng ta sống chết gắn bó với con tàu, chỉ còn việc khoanh tay chờ đợi tới khi nước tràn vào, - người nào thấy chán chuyện này, người nào can đảm hơn, người đó có thể nhảy xuống nước.
... Thế giới đang chìm đắm,
Con tàu già nua, bị tất cả các con sóng đánh vào,
Nó đang chìm - nhảy xuống bơi thoát đi![23]
- Tôi không đề nghị điều gì hay hơn, chỉ là có sự khác nhau giữa bơi thoát và chết chìm, số phận của những người thanh niên mà anh nhắc tới trong bài thơ ấy thật kinh khủng; những người chịu đau khổ rất lớn, những người tuẫn đạo không có niềm tin, cái chết của họ cứ để cho môi trường kinh khủng mà họ sống trong đó gánh chịu, cứ vạch mặt nó, thóa mạ nó; nhưng ai bảo với anh là ngoài cái chết ra không có lối nào khác thoát ra khỏi cái thế giới của sự già nua và hấp hối? Anh đang sỉ nhục cuộc sống. Hãy bỏ lại cái thế giới mà anh không thuộc về nó, nếu như thực sự anh cảm thấy nó xa lạ. Chúng ta không cứu nó
- hãy cứu lấy bản thân mình thoát khỏi những mảnh vỡ đầy đe dọa; trong khi cứu mình, anh sẽ cứu được tương lai. Anh có gì chung với thế giới này - nền văn minh của nó chăng? Nhưng nền văn minh ấy đang thuộc về anh mà, đâu có thuộc về thế giới đã sản sinh ra nền văn minh này, hay nói đúng hơn là từ thế giới đó người ta đã sản sinh ra nền văn minh này, thế giới đó không có lỗi ngay cả trong việc hiểu thấu nền văn minh này; lối sống của thế giới đó khiến anh căm ghét, mà thật ra cũng khó mà yêu mến được một thứ xằng bậy như thế. Thế giới đó chẳng hề ngờ tới những đau khổ của anh, nó thấy lạ lùng trước các niềm vui của anh; anh còn trẻ, thế giới đó đã già; anh hãy nhìn xem nó thật hốc hác thế nào trong bộ đồng phục quý tộc đã cũ sờn, nhất là sau năm ba mươi mặt nó bị phủ một lớp tái xanh mờ đục. Đấy là cái mặt nạ của Hypocrat[24] mà các thầy thuốc căn cứ vào đó nhận ra được thần chết đã mang lưỡi hái tới. Đôi khi nó cố gắng một cách bất lực để níu lấy cuộc sống, chiếm đoạt cuộc sống một lần nữa, thoát khỏi bệnh tật, hưởng thụ cuộc sống - nhưng nó không thể và rơi vào tình trạng trầm kha. Ở đây người ta bàn luận về các khuynh hướng, các nền dân chủ, chủ nghĩa xã hội, nó nghe mà chẳng hiểu gì hết - đôi khi nó mỉm cười với các diễn từ ấy, lắc đầu và nhớ lại những mộng mơ mà thuở nào đó nó đã từng tin vào, rồi sau đó tỉnh ngộ ra và đã từ lâu không còn tin nữa... Do đó mà nó thản nhiên một cách già nua ngó nhìn những người cộng sản và bọn tráo trở, các mục sư và đám Jacobin, anh em nhà Rothschild[25] và những người đang chết đói; nó ngó nhìn tất cả những gì diễn ra truớc mắt, nắm chặt trong tay vài quan tiền mà vì chúng, nó sẵn sàng chết hay trở
thành kẻ sát nhân. Hãy để cho lão già sống nốt những ngày tàn trong ân phúc, anh chẳng làm được gì cho lão ta đâu. - Chuyện này không dễ dàng như thế đâu, ấy là chưa nói đến nó thật đáng ghê tởm, chạy đi đâu? Miền đất Pennsylvania mới ấy ở đâu, có sẵn sàng không?
- Cho những ngôi nhà mới xây từ những viên gạch cũ hay sao? William Penn[26] đem theo mình thế giới cũ đặt vào miền đất mới; Bắc Mĩ là phiên bản có sửa chữa của văn bản cũ chứ không có gì hơn. Nhưng các tín đồ Kitô giáo ở La Mã đã thôi không còn là người La Mã - cuộc ra đi nội tại này có ích hơn.
- Ý tưởng tập trung vào chính mình, bứt bỏ chiếc cúc áo kết nối chúng ta với tổ quốc, với tính đương đại, ý tưởng ấy rao giảng đã lâu rồi, nhưng được thực hiện kém cỏi; nó xuất hiện ở người ta sau mỗi thất bại, sau mỗi niềm tin bị đánh mất, những nhà huyền học, đám hội viên Tam điểm, các triết gia và những người khai sáng; tất cả đều chỉ vào cuộc ra đi nội tại - nhưng chẳng ai đi cả. Rousseau ư? - cả ông ta cũng ngoảnh mặt đi với thế giới; trong khi yêu nó tha thiết, ông ta cố bứt mình khỏi nó, chính là vì ông ta không thể thiếu nó được. Các đệ tử của ông ta đã tiếp tục cuộc sống của ông ta ở Hội nghị Quốc ước, đã tranh đấu, đã đau khổ, đã xử tử những người khác, đã đưa đầu mình lên đoạn đầu đài, nhưng vẫn không rời bỏ nước Pháp, cũng không rời bỏ những hoạt động sôi sục.
- Thời đại của họ cùng không giống lắm với thời đại của chúng ta. Họ đã có vô số những trông đợi ở phía trước. Rousseau và các đệ tử của ông ta đã hình dung là, nếu ý tưởng tình huynh đệ của họ không thực hiện được thì đó là do những trở ngại vật chất - ở chỗ kia lời nói bị gò bó, ở chỗ này hành động
không được tự do - và họ hoàn toàn nhất quán xông lên đưa ngực ra chống lại những gì đã cản trở ý tưởng của họ; nhiệm vụ thật kinh khủng, thật hoành tráng, nhưng họ đã chiến thắng. Sau khi thắng lợi, họ đã nghĩ: giờ đây là lúc... nhưng cái giờ đây là lúc ấy đã dẫn họ tới máy chém, và đó là điều tốt nhất khả dĩ xảy ra với họ: họ đã chết với niềm tin toàn vẹn, họ đã bị con sóng bão tố cuốn đi giữa chiến trận, giữa công việc, giữa cơn say; họ đã tin tưởng rằng khi yên tĩnh trở lại thì lí tưởng của họ sẽ được thực hiện mà không có họ, nhưng nhất định sẽ được thực hiện. Cuối cùng thì cơn lặng gió đã đến. Thật may mắn biết bao là những người đầy phấn khích ấy đã được chôn cất từ lâu rồi! Giả sử như họ được nhìn thấy là sự nghiệp của họ chẳng hề nhúc nhích mảy may, rằng các lí tưởng của họ vẫn còn là lí tưởng, rằng đập tan ngục Bastille để biến những tù nhân thành người tự do là không đủ. Anh so sánh họ với chúng ta mà quên rằng chúng ta biết rõ các sự kiện xảy ra suốt năm mươi năm sau cái chết của họ, rằng chúng ta là những người chứng kiến tất cả mọi trông đợi của các bộ óc lí thuyết đã bị nhạo báng ra sao, khởi đầu lịch sử đầy ma quỷ đã cười to giễu cợt khoa học, tư duy, lí thuyết của họ ra sao, từ nước cộng hòa đã tạo ra Napoleon, từ cách mạng năm 1830 đã tạo ra chu chuyển chứng khoán thế nào. Là những người chứng kiến tất cả những gì đã xảy ra, chúng ta không còn có thể có những hi vọng của các vị tiền bối của chúng ta nữa. Sau khi đã nghiên cứu những vấn đề cách mạng, giờ đây chúng ta đòi hỏi nhiều hơn những gì họ đã đòi hỏi, nhưng ngay cả những đòi hỏi của họ thì vẫn còn chưa được thực hiện y như trước đây. Một mặt, anh nhìn thấy tính nhất quán logic của tư duy, thành tựu của nó; mặt khác, anh
cũng nhìn thấy sự bất lực của tư duy đối với thế giới - cái thế giới điếc đặc, câm lặng, không đủ sức nắm lấy ý tưởng giải cứu nó, - không biết có phải vì ý tưởng bày tỏ ra không rõ, hay là vì nó chỉ có ý nghĩa lí thuyết, sách vở, giống như nền triết học La Mã chưa bao giờ vượt ra khỏi một giới nhỏ những người có học vấn.
- Theo anh thì ai có lí - là tư duy hình thành và phát triển theo lịch sử, nhưng có ý thức, hay là thực tại của thế giới đương đại, cái thực tại bác bỏ tư duy và cũng đại diện cho kết quả tất yếu của quá khứ, giống như tư duy vậy?
- Cả hai đều hoàn toàn có lí. Toàn bộ sự rối rắm phức tạp này là do cuộc sống có sự phôi thai của mình không trùng hợp với biện chứng của lí trí thuần túy. Tôi hồi tưởng lại thế giới cổ đại, đây là một ví dụ cho anh: thay vì thực hiện nền cộng hòa của Plato và chính trị của Aristotle, nó lại thực hiện nền cộng hòa La Mã và chính trị của những kẻ xâm lăng; thay vì các xã hội không tưởng của Cicero và Seneca lại là các hầu quốc Langobard và pháp luật Đức.
- Anh định tiên đoán nền văn minh của chúng ta cũng sẽ tiêu vong giống như văn minh La Mã chăng? - một ý tưởng đầy an ủi và một triển vọng tuyệt vời...
- Chẳng tuyệt vời mà cũng chẳng tệ hại. Sao anh lại ngạc nhiên với một ý tưởng mà ai cũng biết, đến mức là chuyện tầm thường, rằng mọi thứ trên thế gian này đều là phù du? Tuy nhiên, các nền văn minh không tiêu vong, chừng nào loài người còn tiếp tục sống mà không có sự gián đoạn hoàn toàn, - người ta có kí ức thật tốt; chẳng phải đối với chúng ta nền văn minh La Mã vẫn đang sống hay sao? Và nền văn minh ấy cũng hệt như
nền văn minh của chúng ta đã vươn ra xa, vượt khỏi ranh giới cuộc sống xung quanh; chính vì thế mà một mặt nó phồn vinh rực rỡ tuyệt diệu đến thế, nhưng mặt khác nó lại không thực hiện trên thực tại được. Nó đem cái của nó cho thế giới đương đại, nó đem lại cho chúng ta nhiều thứ, nhưng tương lai gần của La Mã lại sống lay lắt trên những đồng cỏ khác - trong những hầm ngầm dưới đất (catacomba), nơi những tín đồ Kitô giáo bị truy đuổi ẩn náu, trong những khu rừng, nơi các bộ tộc Germain hoang dã đang du cư.
- Làm sao mọi thứ trong tự nhiên vốn hợp lí đến thế, mà nền văn minh, nỗ lực cao nhất, đỉnh cao của thời đại, lại thành ra vô mục đích, lạc lõng với thực tại và cuối cùng thì tàn lụi, để lại một kí ức không đầy đủ? Trong khi ấy nhân loại thoái lui về phía sau, lao sang một bên và khởi đầu trở lại cố vươn lên một lần nữa để rồi vẫn kết thúc bằng cùng một bông hoa xấu xí - rực rỡ nhưng không có hạt... Trong triết lí lịch sử của anh có gì đó gây xáo động tâm hồn - những nỗ lực ấy để làm gì vậy? - cuộc sống của các dân tộc trở thành một trò chơi vớ vẩn, kết nặn lại, kết nặn lại từng hạt cát một, từng viên đá một, rồi ngay sau đó mọi thứ lại đổ sập xuống đất, người ta bò lê lết dưới đống đổ nát, bắt đầu dọn dẹp đất trống để dựng những túp lều bằng lau sậy, từ những tấm ván và những cây cột đã đổ, bằng lao động dài lâu nhiều thế kỉ - rồi lại sụp đổ. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare đã nói rằng lịch sử là một câu chuyện tẻ nhạt do một gã ngốc kể lại.
- Đây là cách nhìn thật buồn bã của anh. Anh giống như những thầy tu mỗi khi gặp nhau là chẳng có gì tốt hơn để nói ngoài một câu đầy u ám hãy nhớ tới cái chết[27], hay là giống
những con người đa cảm không cầm được nước mắt nói rằng, "con người ta sinh ra là để chết đi". Cứ nhìn vào sự kết thúc mà không nhìn vào sự việc - ấy là sai lầm to lớn nhất. Vành hoa kia rực rỡ, hương thơm kia ngây ngất mà để làm gì, khi nó vô ích? Thế nhưng thiên nhiên đâu có buồn tẻ đến thế và cũng chẳng coi thường người đi ngang qua đích thực, thiên nhiên ở mỗi điểm đều đạt được tất cả những gì khả dĩ đạt được, đi tới cực độ, đi tới hương thơm, đi tới khoái cảm, đi tới ý nghĩa... đi tới chỗ sẽ một lần đụng chạm tới giới hạn phát triển và cái chết, là thứ kìm lại, làm giảm bớt đi trí tưởng tượng quá thơ mộng và sự sáng tạo mãnh liệt của thiên nhiên. Ai mà lại giận dữ thiên nhiên vì những bông hoa sớm nở tối tàn, vì hoa hồng và hoa huệ không có sự bền chắc của đá lửa? Và chúng ta còn muốn đưa cái nhìn tầm thường thảm hại ấy sang thế giới lịch sử nữa! Ai lại giới hạn nền văn minh chỉ trong tính ứng dụng của nó? - bờ rào của nó là ở chỗ nào? Nó vô hạn như tư duy, như nghệ thuật, nó vẽ nên những lí tưởng cho cuộc sống, nó mơ ước thần thánh hóa sự tồn tại của bản thân, thế nhưng cuộc sống không có bổn phận phải thực hiện những điều tưởng tượng và những ý tưởng của nó, hơn nữa đó cũng chỉ là một phiên bản được cải tiến của cùng một thứ, trong khi cuộc sống ưa thích điều mới lạ. Nền văn minh La Mã ở vị trí cao hơn và nhân bản hơn rất nhiều so với trật tự hoang dã; thế nhưng trong sự xộc xệch của trật tự ấy lại chứa đựng mầm mống của sự phát triển những khía cạnh hoàn toàn chưa hề có trong văn minh La Mã, và sự hoang dã đã chiến thắng, bất chấp bộ luật dân sự[28], bất chấp quan niệm minh triết của các triết gia La Mã. Thiên nhiên vui mừng trước những gì đạt được và cố đạt được cái cao nhất; nó không muốn
làm mếch lòng cái hiện hữu; cứ để cái hiện hữu còn sống chừng nào còn có sức lực, chừng nào cái mới mẻ còn đang lớn lên. Đó là lí do vì sao mà những tác phẩm của thiên nhiên lại khó kéo dài ra thành một đường thẳng đến thế, thiên nhiên không thích dàn hàng, nó lao ra tứ phía và không khi nào hành tiến thẳng hàng về phía trước. Những người Germain hoang dã trong sự mộc mạc của mình, về mặt tiềm năng[29], là cao hơn những người La Mã có học vấn.
- Tôi bắt đầu ngờ rằng anh đang chờ đợi cuộc xâm lăng của những người hoang dã và sự di cư của các dân tộc. - Tôi không ưa đoán mò. Không có tương lai, tương lai tạo thành từ tập hợp cả ngàn điều kiện, tất yếu và ngẫu nhiên, mà cả ý chí con người cũng đem lại những kết cục bất ngờ, những chuyển cảnh bất ngờ[30]. Lịch sử ứng tấu ngẫu hứng, hiếm khi lặp lại, nó sử dụng đủ thứ bất ngờ, cùng lúc gõ vào cả ngàn cánh cửa... những cánh cửa nào sẽ mở ra... ai mà biết được. - Có thể là những người vùng Baltic - khi ấy nước Nga sẽ ùa vào châu Âu chăng?
- Rất có thể.
- Đấy, chúng ta triết lí hão thật lâu rồi lại đi đến cái vòng chơi của con sóc, lại đi đến nước triều lên và nước triều xuống[31] của ông già Vico[32]. Lại quay trở về với nữ thần Rhéa đau khổ vì những đứa con được sinh ra bị thần Cronos ăn thịt. Chỉ có điều, bây giờ Rhéa đã không tráo trẻ sơ sinh bằng những hòn đá, mà cũng chẳng đáng phải làm thế vì trong những đứa con ấy không có cả Jupiter lẫn Mars...[33] Tất cả những chuyện đó nhằm mục đích gì? Anh bỏ qua vấn đề ấy mà không giải quyết nó; các đứa
con liệu có đáng sinh ra hay không để cho ông bố nuốt chúng, mà có đáng làm vậy hay không?
- Đáng lắm chứ! Nhất là khi anh không phải là người phải trả giá cho chuyện ấy. Anh băn khoăn là không phải tất cả các cuộc chơi đều chơi đến cùng, nhưng giả sử không như vậy thì thật chán nản. Goethe từ lâu lắm rồi đã lí giải rằng vẻ đẹp qua đi bởi vì chỉ những gì phù vân mới khả dĩ là đẹp được, - điều này chọc giận người ta[34]. Con người có tình yêu bản năng với chuyện duy trì mọi thứ anh ta thích; sinh ra là muốn sống trường thọ; có tình ý là muốn yêu và được yêu suốt đời, cứ mãi như giây phút tỏ tình đầu tiên. Anh ta giận dữ cuộc sống vì thấy vào lúc năm mươi tuổi anh ta đã không còn sự tinh khôi của những cảm xúc, không còn sự ngân vang ấy của chúng như vào lúc đôi mươi. Thế nhưng sự bất động tĩnh tại như thế là đáng ghê tởm với tinh thần của cuộc sống, - cuộc sống chẳng để dành thứ gì mang tính cá biệt riêng tư, - mỗi lần nó đều thố lộ ra hết mình vào giây phút đích thực và phú cho người ta khả năng tận hưởng khoái cảm trong chừng mực có thể, nhưng nó không bảo đảm cả cuộc sống lẫn khoái cảm, không có trách nhiệm kéo dài chúng mãi. Trong sự chuyển động liên tục của tất cả những gì sống động, trong những biến đổi ở khắp mọi nơi ấy, thiên nhiên tự làm mới mình, sống, và trẻ mãi bằng những điều đó. Vì thế mà mỗi giây phút lịch sử đều đầy đặn, khép kín theo cách thức của nó, giống như năm nào cũng có mùa xuân và mùa hạ, mùa đông và mùa thu, với dông bão và trời đẹp. Vì thế mà mỗi thời kì đều mới mẻ, tinh khôi, chan chứa những hi vọng, tự mang trong mình hạnh phúc và nỗi đau buồn, hiện tại thuộc về nó, nhưng
người ta vẫn thấy thế còn ít, người ta còn muốn cả tương lai cũng là của họ nữa.
- Con người đau khổ vì cả trong tương lai nó cũng không nhìn thấy bến đậu mà nó hướng tới. Nó lo âu buồn bã nhìn vào con đường vô tận trước mặt mình và nhận ra rằng sau tất cả những nỗ lực, nó vẫn cách xa mục đích giống như một ngàn năm trước, giống như hai ngàn năm trước.
- Thế mục đích của bài ca mà cô ca sĩ đang hát là gì? ... những âm thanh, âm thanh thoát ra từ ngực của cô, những âm thanh chết vào phút giây nó vang lên. Nếu như anh, ngoài việc tận hưởng chúng, lại kì vọng sau khi ca sĩ hát xong anh vẫn còn lại hoài niệm và nỗi ân hận, nếu anh thay vì lắng nghe lại cứ chờ đợi điều gì đó... Những phạm trù đánh lạc hướng anh, chúng nắm bắt cuộc sống rất tệ. Anh hãy suy nghĩ xem: cái mục đích ấy là gì, là cương lĩnh, là mệnh lệnh chăng? Ai đã soạn ra nó, nó tuyên cáo cho ai, nó có nhất thiết phải vậy hay không? Nếu đúng vậy thì chúng ta là gì, là những con rối hay là người, là những hữu thể tự do về đạo đức hay là những bánh xe trong cỗ máy? Đối với tôi thì sẽ dễ dàng hơn, nếu xem cuộc sống, và do đó cả lịch sử nữa, là mục đích đã thành tựu chứ không phải là phương tiện cho thành tựu.
- Vậy tức là, mục đích của thiên nhiên và lịch sử đơn giản chính là chúng ta, anh và tôi?
- Phần nào là như vậy, mà phải cộng thêm vào đó cái hiện tại của mọi thứ hiện hữu, bao gồm tất cả mọi thứ: cả di sản của tất cả nhứng nỗ lực trước kia, cả những mầm mống của tất cả những gì sẽ có; niềm hứng khởi của một nghệ sĩ, cả năng lực của một công dân, cả khoái cảm của cậu thiếu niên vào đúng
lúc cậu ta đang mò tới chỗ hẹn hò thầm kín ở đâu đó, nơi cô bạn gái đang đợi chờ và dâng hiến hết thảy cho hiện tại, chẳng nghĩ ngợi gì đến tương lai lẫn mục đích... cả niềm vui của con cá đang quẫy mình dưới ánh trăng... cả sự hài hòa của toàn bộ Thái dương hệ... tóm lại, sau những tước hàm thời phong kiến tôi có thể yên tâm đặt vào ba cái "vân vân và vân vân"...
- Anh hoàn toàn có lí về chuyện thiên nhiên, nhưng tôi thấy hình như anh quên rằng có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả những đổi thay và rối rắm của lịch sử, kết nối lịch sử thành một thể thống nhất, sợi chỉ đỏ ấy là sự tiến bộ, hay là anh không chấp nhận cả tiến bộ?
- Tiến bộ là đặc tính không tách rời của sự phát triển có ý thức, là sự phát triển không bị gián đoạn; đó là kí ức hành hoạt và sự hoàn thiện sinh lí học của người ta bởi cuộc sống xã hội.
- Không lẽ cả ở đây anh cũng không nhìn thấy mục đích? - Hoàn toàn ngược lại, tôi nhìn thấy hệ lụy ở đây. Nếu sự tiến bộ là mục đích thì chúng ta đang làm việc cho ai đấy? Ai là kẻ Ác thần mà càng đến gần hắn thì những người lao động thay vì được ban thưởng lại phải thoái lui; và đám đông đã kiệt sức và buộc phải chết đang hô vang: "Chúng tôi đi đến cái chết đây, xin chào mừng Ngài[35]." Hắn chỉ biết đáp lại bằng sự nhạo báng đầy cay đắng để an ủi rằng, sau cái chết của họ thì trên trái đất này sẽ thật tuyệt diệu? Không lẽ cả anh cũng bắt những người đương đại phải chịu số phận tội nghiệp của những cây cột nhà chạm hình các cô gái chống đỡ sân trời, nơi một ngày nào đó những người khác sẽ tới đây khiêu vũ... hay phải chịu làm những công nhân bất hạnh, chân ngập trong bùn để kéo chiếc thuyền chở lông cừu đầy bí ẩn với hàng chữ hiền lành "Sự tiến
bộ trong tương lai" trên mạn thuyền? Những người mệt lử gục ngã trên đường, những người khác với sức mạnh tươi tắn nắm lấy dây kéo, mà con đường thì như anh đã nói, vẫn còn xa chừng ấy như lúc khởi đầu, bởi vì tiến bộ là bất tận. Chỉ một điều này thôi hẳn cũng đủ cảnh giác người ta rồi; mục đích mà xa bất tận thì không phải là mục đích nữa, - nếu anh muốn, chỉ là mánh khóe thôi; mục đích thì phải gần hơn, ít nhất cũng như tiền lương hay khoái cảm trong lao động. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ, mỗi cuộc đời đều đã và đang có sự đầy đủ của nó, trên đường đi có phát triển thêm những đòi hỏi mới mẻ, những thử thách, những phương tiện mới, một số khả năng này được hoàn thiện nhờ vào những khả năng khác, cuối cùng thì chính cái chất trí não được hoàn thiện... anh cười gì kia chứ? ... phải, phải, cái chất não tủy ấy được hoàn thiện... Sao mà tất cả những gì tự nhiên lại cứ làm các anh căng thẳng, khiến các anh ngạc nhiên, những nhà mơ mộng lí tưởng, hệt như thuở nào những hiệp sĩ đã ngạc nhiên là những nông dân lãnh ruộng canh tác nộp tô cũng muốn có quyền con người! Hồi Goethe ở Ý, ông ta đã so sánh hộp sọ của con bò thời cổ đại với hộp sọ con bò thời nay và thấy rằng hộp sọ con bò thời nay xương mỏng hơn, nhưng dung tích các bán cầu não rộng lớn hơn; hiển nhiên là con bò thời cổ đại mạnh hơn con bò thời nay, còn con bò thời nay đã phát triển hơn về phần não bộ trong sự phụ thuộc vào con người. Vì sao mà anh lại cho là con người kém khả năng phát triển hơn con bò? Cái sự phát triển giống loài ấy không phải là mục đích như anh tưởng, mà là đặc tính của sự tồn tại thừa kế của các thế hệ. Mục đích đối với mỗi thế hệ là ở trong bản thân thế hệ ấy. Thiên nhiên chẳng những không bao giờ lấy các thế hệ làm phương
tiện cho thành tựu của tương lai, mà còn tuyệt nhiên không lo lắng gì đến tương lai; thiên nhiên sẵn sàng như Cleopatre, bỏ viên ngọc vào rượu, chỉ để mua vui trong hiện tại, thiên nhiên có trái tim của vũ nữ và tửu thần.
- Và thiên nhiên tội nghiệp không thể thực hiện được thiên chức của mình!... tửu thần đang ăn kiêng, vũ nữ đang chịu tang! ... Thời nay, thiên nhiên thực ra có vẻ giống với nàng Magdalina đang hối lỗi nhiều hơn. Hay là, biết đâu đấy, trí não có thể bị lệch đi.
- Thay vì lời nhạo báng, anh đã nói ra một điều xác đáng hơn là anh tưởng. Sự phát triển chỉ một mặt bao giờ cũng đi kèm với sự thui chột[36] những mặt khác. Trẻ em quá phát triển về mặt tâm lí, sẽ chậm lớn, thân thể yếu đuối; hàng thế kỉ sinh hoạt mất tự nhiên chúng ta đã giáo dục cho mình thói mộng mơ lí tưởng, cuộc sống nhân tạo và đã phá hủy sự cân bằng. Chúng ta đã từng vĩ đại và mạnh mẽ, thậm chí đã hạnh phúc trong sự lạnh lùng của mình, trong lạc thú lí thuyết của mình, nhưng giờ đây chúng ta đã vượt qua mức độ ấy, cuộc sống đối với chúng ta trở nên không thể chịu đựng được nữa; trong khi ấy sự đứt đoạn với phạm vĩ thực tiễn trở nên trầm trọng; chẳng ai có lỗi hết, cả từ phía này lẫn phía kia. Thiên nhiên căng hết các cơ bắp của mình để vượt qua sự hạn chế con vật trong con người; và con người đã vượt qua được: một chân đã hoàn toàn bước ra khỏi sinh hoạt tự nhiên, - và nó đã làm được thế vì nó tự do. Chúng ta cứ giảng giải mãi về ý chí và thật tự hào về nó, nhưng đồng thời lại thấy bực mình vì chẳng có ai cầm tay dắt đi, vì mình bước lùi lại và gánh chịu hậu quả của việc mình làm. Tôi sẵn sàng nhắc lại lời của anh là trí não bị lệch đi vì thói mơ mộng lí tưởng,
người ta bắt đầu nhận ra điều này và bây giờ đi theo hướng ngược lại; họ sẽ chữa khỏi bệnh mộng mơ lí tưởng giống như đã từng chữa khỏi những căn bệnh lịch sử khác - khỏi căn bệnh hiệp sĩ, khỏi căn bệnh Thiên Chúa giáo, khỏi căn bệnh Tin Lành...
- Tuy nhiên, anh hãy đồng ý rằng con đường phát triển bằng những bệnh tật và lệch lạc thì thật quá lạ lùng.
- Phải, nhưng con đường đâu có được định trước... thiên nhiên bằng những chuẩn mực chung chung nhất chỉ hơi khẽ gợi ý những thể dạng của mình và trao mọi thứ chi tiết cho ý chí của người ta, của các tình huống, của khí hậu, của muôn ngàn cuộc đụng độ. Cuộc đấu tranh, sự tương tác của các lực lượng tự nhiên và lực lượng ý chí mà các hệ lụy của nó không sao biết trước được, đem lại một sự thú vị đầy hấp dẫn cho mỗi thời đại lịch sử. Giả sử nhân loại mà đi thẳng tới một kết quả nào đó thì đã chẳng có lịch sử mà chỉ có logic, thì loài người ắt đã dừng lại thành một thứ sẵn có trong một nguyên trạng (statu quo) mộc mạc giống như súc vật. May thay, tất cả chuyện này là bất khả, là không cần thiết, là tệ hại hơn cái hiện hữu. Cơ thể súc vật từ từ phát triển trong nó bản năng, trong con người sự phát triển đi xa hơn... hình thành nên lí trí, và hình thành nên một cách khó khăn, chậm chạp, - lí trí không hề có sẵn cả ở trong tự nhiên lẫn ở bên ngoài tự nhiên, cần phải đạt tới nó, cùng nó thu xếp cuộc sống trong tình thế buộc phải gặp, bởi vì kịch bản (librretto) là không có. Giả như có kịch bản thì lịch sử đã mất hết thú vị, trở thành không cần thiết, tẻ nhạt, đáng tức cười; nỗi cay đắng của Tacitus[37] và niềm hân hoan của Colombus biến thành trò tinh nghịch, thành trò hề; các vĩ nhân bị hạ xuống
cùng hàng với các nhân vật sân khấu, dù có diễn dở hay diễn hay thì rồi cũng đi đến kết cục đã biết. Ở trong lịch sử mọi thứ đều là ứng tấu ngẫu hứng, đều là ý chí, đều là tức thì không có chuẩn bị[38], phía trước không có giới hạn, không có lộ trình nào hết, chỉ có các điều kiện, sự lo âu thần thánh, ngọn lửa của cuộc sống và sự thách thức vĩnh cửu đối với các chiến sĩ muốn thử sức, muốn đi tới nơi xa xăm theo ý muốn, muốn đi đến chỗ vẫn còn có đường đi, - nơi nào chưa có đường, thì ở đó thoạt tiên thiên tài sẽ mở đường.
- Thế nếu chẳng may không tìm ra được Colombus thì sao? - Thì Cortés[39] sẽ làm thay ông ta. Những thiên tài hầu như khi nào cũng có, mỗi khi cần đến họ; tuy nhiên, cũng chẳng nhất thiết phải có họ, dân chúng cũng sẽ đến được Colombus sau đó, bằng con đường khác, khó khăn hơn; thiên tài - ấy là đồ xa xỉ của lịch sử, là bài thơ của lịch sử, là cuộc đảo chính[40] của lịch sử, là bước nhảy vọt của lịch sử, là chiến thắng của sự sáng tạo của lịch sử.
- Tất cả mọi thứ đều thật hay, nhưng tôi thấy với kiểu bất định, phóng đãng như thế thì lịch sử có thể cứ tiếp tục đời đời kiếp kiếp hoặc sẽ kết thúc ngay ngày mai.
- Chắc chắn là thế rồi. Người ta không chết vì buồn chán, nếu như loài người sống được quá lâu; mặc dù có lẽ người ta cũng sẽ đụng phải những giới hạn nào đó ở ngay trong bản chất con người, những điều kiện sinh lí mà nếu vẫn còn là con người thì không vượt qua được; nhưng thực ra thì sẽ không thiếu công việc và sự bận rộn, ba phần tư những gì chúng ta đang làm là lặp lại những gì người khác đã làm. Từ đó anh sẽ thấy là lịch sử có thể tiếp tục hàng triệu năm. Mặt khác, tôi cũng chẳng có gì
để phản đối sự kết thúc của lịch sử ngay ngày mai. Mọi thứ đều có thể xảy ra! Một sao chổi lớn có thể va vào Trái đất, thảm họa địa chất sẽ xảy ra trên bề mặt của nó, xáo trộn hết mọi thứ, một sự bốc hơi khí gì đó trong vòng nửa giờ sẽ làm cho loài người không thở được - đấy, một hồi kết lịch sử cho anh đó.
- Ôi chà, thật khủng khiếp! Anh dọa tôi như dọa trẻ con vậy, nhưng tôi quả quyết với anh là chuyện đó sẽ không xảy ra. Mất ba ngàn năm phát triển với tương lai tươi sáng thế, rồi bị ngạt thở bởi thứ khí lưu huỳnh gì đó bốc lên! Làm sao mà anh lại không thấy đó là chuyện phi lí nhỉ?
- Tôi thấy ngạc nhiên là đến tận bây giờ mà anh vẫn còn chưa quen được với những con đường của cuộc sống. Trong thiên nhiên, cũng giống như trong tâm hồn con người có vô số những sức mạnh, những khả năng đang lim dim ngủ; chỉ cần hội đủ những điều kiện cần thiết để kích thích chúng là chúng phát triển và sẽ phát triển đến cực độ, chúng sẵn sàng tràn ngập thế giới, nhưng chúng cũng có thể bị vấp ngã giữa đường, chuyển sang hướng khác, dừng lại, bị hủy diệt. Cái chết của một người cũng không ít phi lí hơn cái chết của toàn thể loài người. Ai bảo đảm với chúng ta sự vĩnh cửu của hành tinh? Nó cũng khó chống đỡ được với cuộc cách mạng nào đó trong Thái dương hệ, giống như Socrates chống đỡ với thuốc độc vậy, - nhưng, cũng có thể người ta không cho nó thứ thuốc độc ấy... cũng có thể... tôi đã khởi đầu từ đó mà. Thực chất, đối với thiên nhiên thế nào thì cũng vậy thôi, nó sẽ chẳng mất mát gì, không rút ra được gì từ nó cả, tất cả là ở trong nó dù có thay đổi thế nào đi nữa, - và sau khi chôn cất loài người với tình yêu vô hạn, nó sẽ lại bắt đầu từ những cây dương xỉ dị dạng, từ những con thằn lằn có chiều
dài nửa dặm - có lẽ còn có những cải tiến nào đó lấy từ môi trường mới và những điều kiện mới.
- Nhưng mà đối với người ta thì còn lâu mới thế nào cũng vậy được; tôi cho rằng Alexander Macedon chẳng vui chút nào khi biết mình bị đem làm chất keo trát thùng rượu, - như lời Hamlet nói.[41]
- Về chuyện Alexander Macedon thì anh cứ yên tâm, - ông ta sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó đâu. Còn đối với con người thì tất nhiên là hoàn toàn không phải thế nào cũng vậy được, cái chuyện sống hay không sống; từ điều này có một chuyện rõ ràng, ấy là cần phải sử dụng cuộc sống thời hiện tại; không phải vô tình mà thiên nhiên bằng tất cả những ngôn ngữ của mình liên tục vẫy gọi đến với cuộc sống và thì thầm vào tai câu nói hãy nhớ đến cuộc sống[42] của mình.
- Một công việc vô ích. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đang sống qua nỗi đau đớn thầm kín, qua nỗi tức giận làm mòn mỏi trái tim, qua tiếng chuông đồng hồ đơn điệu... Khó mà tận hưởng, tự làm say đắm mình được, khi biết rõ toàn thể thế giới bên cạnh ta đang sụp đổ, và sẽ đè lên anh ở đâu đó. Vậy mà ở đâu ta cũng thấy, ngay cả khi chết già, là những bức tường cũ nát đang lung lay vẫn không chịu đổ. Tôi không biết trong lịch sử có thời buổi nào ngột ngạt đến như thế này không; trước đây cũng đã từng có tranh đấu, đã từng có những đau khổ, nhưng còn có sự thay thế nào đó, còn có thể hi sinh - ít nhất cũng với niềm tin, - chúng ta bây giờ chẳng có gì để vì nó mà chết và vì nó mà sống... đúng là thời buổi để tận hưởng cuộc sống!
- Thế anh tưởng rằng ở La Mã lúc đang sụp đổ người ta đã được dễ dàng hơn ư?
- Tất nhiên rồi, sự sụp đổ của nó thật hiển nhiên, giống như thế giới đến thay thế nó vậy.
- Hiển nhiên đối với ai kia chứ? Không lẽ anh cho rằng những người La Mã đã nhìn vào thời đại của họ giống như chúng ta nhìn vào nó chăng? Gibbon đã không thể thoát khỏi ấn tượng quyến rũ mà La Mã cổ đại tác động lên mỗi tâm hồn mạnh mẽ. Anh hãy nhớ lại cơn hấp hối của nó kéo dài bao nhiêu thế kỉ; thời kì ấy đối với chúng ta bị giản lược đi vì sự nghèo nàn các biến cố, vì sự nghèo nàn các nhân vật, vì sự đơn điệu tẻ nhạt! Chính những thời kì như thế là câm lặng, xám xịt và kinh khủng đối với những người đương thời; bởi vì những năm trong các thời kì ấy cũng vẫn có ba trăm sáu mươi lăm ngày, bởi vì cả thời ấy nữa cũng vẫn có những con người với tâm hồn nồng cháy rồi bị héo tàn, bị bối rối bởi sự đổ nát của những bức tường. Những âm thanh đau đớn nào khi ấy đã thoát ra từ lồng ngực con người, - tiếng rên la của họ giờ đây vẫn còn gây kinh sợ cho tâm hồn!
- Họ đã có thể làm dấu thánh giá.
- Tình cảnh của các tín đồ Kitô giáo hồi đó cũng rất đau buồn, suốt bốn trăm năm họ trốn trong các hầm ngầm, sự thành công tưởng chừng như không thể có được, những hi sinh đang ở trước mắt.
- Nhưng niềm tin cuồng tín đã nâng đỡ họ - và niềm tin ấy đã tỏ ra là đúng.
- Chỉ có điều ngay sau ngày chiến thắng đã xuất hiện dị giáo, thế giới dị giáo đã đột nhập vào sự tĩnh lặng thần thánh của tình huynh đệ của họ, và các tín đồ Kitô giáo nước mắt lưng tròng lui
trở về những thời kì bị truy đuổi và đọc sự tích các vị tuẫn đạo để chúc phúc cho kí ức về những thời kì ấy.
- Hình như anh bắt đầu an ủi tôi bằng cách nói rằng mọi thời đại cũng đều tệ hại như bây giờ thôi.
- Không đâu, tôi chỉ muốn nhắc anh rằng thế kỉ của chúng ta không giữ độc quyền đau khổ và anh đã đánh giá thấp những đau buồn đã qua. Trước đây tư duy cũng đã vội vã, nó ghét chờ đợi, - nhưng cuộc sống không thỏa mãn với những ý tưởng trừu tượng, không chịu vội vã, chậm chạp trong từng bước đi, vì rằng những bước đi của nó khó mà chỉnh sửa được. Từ đó sinh ra tình thế bi thảm của những kẻ suy tư... Nhưng để khỏi lại bị lạc đề, cho phép tôi hỏi anh, do đâu mà anh cảm thấy rằng thế giới bao quanh chúng ta lại vững chắc và trường tồn đến thế?
Đã từ lâu những giọt nước mưa to và nặng rơi xuống chúng tôi, những tiếng sấm rền vang trở nên lớn hơn, ánh chớp chói sáng hơn; rồi mưa đổ xuống như trút nước... mọi người chạy vào trong cabin; con tàu kêu ken két, sự tròng trành không sao chịu nổi, - cuộc nói chuyện đã không tiếp diễn.
Roma, via del Corso
31 tháng 12 năm 1847
II
SAU CƠN DÔNG TỐ
Hãy cứ tiêu vong đi![43]
Phụ nữ khóc cho nhẹ đi nỗi lòng; chúng ta không biết khóc. Thay cho nước mắt tôi muốn viết - không phải để mô tả, giải thích những biến cố đẫm máu, mà chỉ đơn giản nói về chúng để được mặc sức nói ra, khóc thương, suy tư, trút cơn giận dữ. Ở đây còn gì mà mô tả, thu thập dữ liệu, thảo luận nữa! - Bên tai còn vang rền tiếng súng, tiếng vó ngựa của kị binh đang lao đi, tiếng động trầm trầm, nặng nề của bánh xe kéo pháo trên những đường phố chết chóc; trong trí nhớ thấp thoáng những chi tiết rời rạc - người bị thương nằm trên cáng tay giữ lấy cạnh sườn, một vài giọt máu chảy trên đó; những chiếc xe ngựa chất đầy tử thi, những tù nhân tay bị trói, những khẩu pháo trên quảng trường Bastille, trại lính ở cổng St. Denis, trên đại lộ Champs Élysées và tiếng thét u ám "Lính gác - hãy cảnh giác!..." [44] Mô tả cái gì ở đây nữa, đầu óc quá kích động, máu dồn lên gay gắt.
Ngồi khoanh tay trong phòng, không có cơ hội ra khỏi cửa và nghe ngóng ở gần đó, khắp xung quanh, ở phía xa là những tràng súng nổ, pháo sáng, tiếng la hét, tiếng trống trận và biết rằng ở gần đó máu đang đổ, đang đâm chém nhau, rằng ở gần đó người ta đang chết, - tôi có thể chết đi được, phát điên lên
được, vì tất cả những chuyện đó. Tôi đã không chết, nhưng tôi già hẳn đi, tôi bình phục lại sau những ngày tháng Sáu như là sau cơn bệnh nặng.
Mọi chuyện khởi đầu rất trang nghiêm. Ngày hai mươi ba, khoảng bốn giờ trước bữa ăn trưa, tôi đã đi dọc bờ sông Seine đến Tòa thị chính[45], các cửa hàng đều đóng cửa, những đoàn lính vệ binh với những khuôn mặt hung dữ đi theo những hướng khác nhau, bầu trời phủ đầy mây đen, trời mưa nhỏ. Tôi dừng lại bên cầu Font Neuf, một tia chớp lóe lên từ sau đám mây đen, sấm rền vang liên tiếp và giữa lúc ấy vang lên tiếng chuông báo động đều đặn, kéo dài từ tháp chuông St. Sulpice, tiếng chuông mà người vô sản bị lừa dối một lần nữa kêu gọi các anh em của mình cầm lấy vũ khí. Nhà thờ và các ngôi nhà dọc bờ sông được chiếu sáng thật bất thường bởi vài tia nắng chói lọi ló ra từ sau đám mây; tiếng trống vang lên từ mọi phía, pháo binh đổ về quảng trường Vòng ngựa gỗ.
Tôi lắng nghe tiếng sấm, tiếng chuông báo động và nhìn không chán mắt toàn cảnh Paris, tựa như tôi đã giã từ với nó; vào giây phút ấy tôi yêu Paris thật say đắm; đây là dâng hiến cuối cùng cho thành phố vĩ đại - sau những ngày tháng Sáu nó trở nên đáng ghét đối với tôi.
Từ phía bên kia sông trên khắp các đường phố và góc phố các chiến lũy đã được dựng lên. Tôi cứ tưởng như lúc này đang còn nhìn thấy những khuôn mặt đăm chiêu ấy, những người đang vần những tảng đá; trẻ em, phụ nữ phụ giúp họ. Trên một chiến lũy có lẽ vừa hoàn tất xong, một chàng trai thợ kĩ thuật bước lên giương cao lá cờ và khẽ cất lên tiếng hát trang trọng u buồn bài Marseillaise; tất cả những người làm việc cùng hát theo, và tiếng
đồng ca bài hát vĩ đại ấy vang lên từ sau những tảng đá của chiến lũy làm xúc động tâm hồn... tiếng chuông báo động vẫn vang rền. Trong lúc đó pháo binh đang lọc cọc qua cầu, và tướng Bédaux từ trên cầu chiếu ống nhòm nhìn vào vị trí quân thù...
Vào lúc đó vẫn còn có thể cứu được nền cộng hòa, cứu được tự do của toàn châu Âu, khi đó vẫn còn có thể hòa giải. Cái chính phủ đần độn và vụng về đã không biết làm được điều đó, Quốc hội đã không muốn, bọn phản động tìm cách trả thù, gây đổ máu, muốn đòi đền bù cho ngày 24 tháng Hai, những thức ăn của "National" đã đem lại cho chúng những kẻ thừa hành.[46]
Nào, các vị sẽ nói gì nhỉ, thưa ngài hầu tước đáng mến Radetzky[47] và bá tước Paskevich- Erivansky[48] đại nhân? Các vị thật chẳng đáng làm phụ tá cho Cavaignac[49]. Metternich[50] và tất cả các thành viên Ban thứ ba của văn phòng riêng đều chỉ là những chú bé hiền lành, những cậu bé dễ thương[51] nếu so sánh với bầy lũ chủ quán đang nổi giận.
Buổi tối ngày 26 tháng Sáu, sau chiến thắng của "National" trước Paris, chúng tôi đã nghe thấy những loạt súng bắn cách nhau đều đặn... Chúng tôi đã ngoảnh mặt nhìn vào nhau, tất cả các khuôn mặt đều xanh mét... "Vậy là chúng đang xử bắn", - chúng tôi đồng thanh nói và ngoảnh mặt đi. Tôi ép trán vào tấm kính cửa sổ. Vì những giây phút ấy người ta căm thù suốt mười năm, báo thù suốt cuộc đời. Khốn khổ thay cho những kẻ tha thứ những phút giây như thế!
Sau cuộc tàn sát kéo dài bốn ngày đêm là sự tĩnh lặng và nền hòa bình của tình trạng vây hãm; các đường phố vẫn còn bị vây chặn, người ta hiếm khi gặp đuợc cỗ xe ngựa ở đâu đó; đội vệ
binh vênh váo với vẻ hằn thù dữ tợn và đần độn trên mặt, bảo vệ cho các quán, đe dọa bằng lưỡi lê và báng súng; những đám đông hân hoan của đội quân cơ giới đang say ruợu, đi khắp các đường phố, hát vang bài Chết vì tổ quốc[52], những cậu nhóc con mười sáu, mười bảy tuổi khoe khoang về máu của những người anh em của mình vấy trên tay bọn chúng; những cô gái thị dân chạy từ các quán ra ném hoa cho bọn chúng để chúc mừng những kẻ chiến thắng. Cavaignac ngồi trên xe chở theo một tên ác ôn nào đó đã giết được mười người Pháp. Tầng lớp tư sản hân hoan đắc thắng. Còn những căn nhà khu St. Antoine vẫn đang bốc khói, những bức tường bị đạn pháo bắn vỡ đổ xuống, nội thất các căn phòng phơi ra những vết thương, những bàn ghế gãy đang cháy âm ỉ, những mảnh gương vỡ lấp lánh phản chiếu... Thế những chủ nhân, những cư dân đang ở đâu? - Chẳng ai nghĩ về họ cả... đôi chỗ người ta đã đổ cát lên, nhưng vết máu vẫn lộ ra... Người ta ngăn không cho đến khu lăng danh nhân (Panthéon) bị đạn pháo bắn vỡ nát, các lán trại dựng lên theo các đại lộ, những con ngựa gặm nhấm các cây cỏ được chăm bón ở Champs Élysées, khắp nơi trên quảng trường Concorde lăn lóc những nắm cỏ khô, áo giáp binh, yên ngựa; trong vườn Tuileries binh lính đang nấu xúp bên hàng rào. Ngay cả vào năm 1814, Paris cũng chưa từng có cảnh tượng như thế.
Một vài ngày trôi qua - cảnh quan Paris có lại dáng vẻ xua quen thuộc, những đám đông lễ hội lại xuất hiện trên những đường phố, những quý bà bận trang phục lễ hội đi trên những cỗ xe ngựa lớn, nhỏ ngắm nhìn những căn nhà đổ nát và những dấu vết của trận chiến tuyệt vọng... chỉ có những đội tuần tiễu
và những nhóm người bị bắt giữ là gợi lại những ngày kinh khủng, chỉ khi ấy những chuyện đã qua mới trở nên sáng tỏ. Byron có mô tả một trận chiến ban đêm; những chi tiết đẫm máu của nó bị màn đêm che phủ; lúc bình minh, khi trận chiến đã kết thúc, mới thấy rõ những tàn tích của nó, lưỡi dao, áo quần đầy máu[53]. Chính là cái bình minh ấy giờ đây đã đến trong tâm hồn, nó soi sáng sự trống rỗng khủng khiếp. Phân nửa những hi vọng, phân nửa những niềm tin đã bị giết chết, những ý tưởng phủ định, tuyệt vọng lởn vởn trong đầu óc, bén rễ ăn sâu vào đó. Không thể cho rằng trong tâm hồn chúng ta, đã trải qua biết bao thử thách như thế, được trải nghiệm bởi chủ nghĩa hoài nghi đương đại, mà lại vẫn còn thật nhiều thứ chưa bị hủy diệt.
Sau những chấn động như thế con người bằng xương bằng thịt không thể vẫn còn như trước nữa. Tâm hồn nó trở nên nhiều chất tôn giáo hơn, với sự ngoan cố đầy tuyệt vọng cố níu giữ lấy những niềm tin của mình, tìm thấy niềm an ủi ngay cả trong nỗi tuyệt vọng nhất, và con người xanh tươi trở lại, bị mê đắm bởi cơn dông tố, mang theo cái chết trong lòng, - hoặc là anh ta dũng cảm và kìm nén lòng mình lại để hiến dâng những trông đợi cuối cùng của mình, hoặc là anh ta trở nên tỉnh táo hơn nữa và không giữ lại những chiếc lá yếu ớt cuối cùng bị gió mùa thu dữ dội cuốn đi.
Điều nào là tốt hơn? Thật khó nói được.
Một thứ dẫn đến sự hoan lạc của mất trí.
Thứ kia dẫn đến nỗi bất hạnh của sự hiểu biết.
Hãy tự mình lựa chọn. Một thứ thật vô cùng vững chắc, bởi vì nó lấy đi hết thảy. Thứ kia chẳng có gì là đảm bảo, nhưng lại cho được rất nhiều. Tôi chọn lựa sự hiểu biết, và mặc cho nó lấy đi của tôi những niềm an ủi cuối cùng. Tôi sẽ như kẻ ăn mày đức hạnh đi khắp thế gian, - nhưng nhổ đi tận gốc rễ những niềm hi vọng ấu trĩ, những trông đợi lúc thiếu thời! - Lôi tất cả chúng ra trước phiên tòa xét xử của lí trí!
Ở bên trong con người có tòa án thường trực, có một Fouquier-Tinville không biết thương xót[54], và điều chủ yếu là có máy chém. Đôi khi các quan tòa ngủ quên, máy chém bị han gỉ, những thứ giả dối, nhất thời, lãng mạn, yếu ớt ngóc đầu dậy, thích nghi với cuộc sống, rồi đột nhiên một đòn đánh man dại nào đó đánh thức vị quan tòa sơ suất, gã đao phủ đang lim dim ngủ, và khi ấy sẽ bắt đầu cuộc trừng phạt tàn khốc - một chút nhượng bộ, thương tiếc, xót xa nhỏ bé nhất dẫn đến quá khứ cũng bị xiềng xích lại. Không có lựa chọn: hoặc là xử tử và tiến lên phía trước, hoặc là khoan hồng và vấp ngã giữa đường.
Ai mà lại không nhớ cuốn tiểu thuyết logic của mình, ai mà lại không nhớ cái ý tưởng hoài nghi đầu tiên, sự dũng cảm đầu tiên của việc khảo cứu đã lọt vào tâm hồn mình ra sao - và nó đã lôi cuốn mỗi lúc một nhiều hơn, đã chạm tới những tài sản thiêng liêng nhất của tâm hồn ra sao? Đó chính là tòa án khủng khiếp của lí trí. Xử tử niềm tin thật không dễ dàng như người ta tưởng; thật khó khăn để giã từ với những ý tưởng mà chúng ta đã lớn lên cùng với chúng, đã nhập vào chúng và chúng đã từng âu yếm, an ủi chúng ta - hi sinh chúng đi thì có vẻ như thật vô ơn. Thế nhưng ở trong cái môi trường có tòa án đó, ở đấy không có sự biết ơn, ở đấy không có sự thiêng liêng, và nếu như cách
"""