"
Từ Anna - Jean Little & Lưu Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Từ Anna - Jean Little & Lưu Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi]
Ebooks
Nhóm Zalo
TỪ ANNA
—★—
Tác giả: Jean Little
Người dịch: Lưu Chi
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2020ebook©vctvegroup
Câu chuyện bắt đầu ở Đức vào năm 1933, một thời kỳ lịch sử khi nhiều công dân Đức bị khước từ quyền tự do cá nhân và bất kỳ ai dám lên tiếng chống lại sự bất công đó đều gặp nguy hiểm. Một số người Đức, như cha của Anna, trở nên vô cùng lo lắng về tương lai nên đã mang gia đình đến một thế giới mới.
Chương 1
MỘT BÀI HÁT CHO HERR[1] KEPPLER
CẦU TRỜI ĐÓ ĐÚNG LÀ PAPA, Anna khẩn thiết cầu xin trong lúc kéo mở cánh cửa trước to đùng. Cầu trời mình đúng.
Em muốn chạy xuống nhưng thềm nhà bậc cao bậc thấp, mà em thì đã từng ngã lộn cổ ở đó trước đây rồi. Đó không phải là cách để gặp Papa, hạ cánh dưới chân cha với chân lộn lên đầu cùng một mớ vết bầm tím mới. Dù vậy, ngay khi chân vừa đặt xuống đất bằng, em liền chạy. Rồi em đến đủ gần để biết chắc - và em đã đúng.
“Papa, Papa!” em reo lên sung sướng, vung tay ngang người cha và ôm cha thật chặt. Ngay sau đó em cố buông ra. Em, Anna, chưa bao giờ vồ vập người khác như thế, lại còn ở ngay ngoài đường nơi ai cũng có thể trông thấy. Nhưng Papa đã buông rơi chiếc cặp và ôm lại em chặt đến mức ta có thể đoan chắc rằng nếu cả thế giới có đang nhìn thì ông cũng không quan tâm.
“Dừng lại, dừng lại! Cha làm gãy hết xương con bây giờ,” cuối cùng Anna hổn hển nói.
Cười ha hả, cha buông em ra. Ngay lập tức, em nhấc chiếc cặp lên, lấy vạt váy lau sạch và đưa lại cho cha. Em cúi gằm mặt để cha không nhận thấy em đang vui sướng vì là người đầu tiên gặp cha, vì đã được nhận một cái ôm tuyệt vời, vì mọi thứ. Nhưng Papa đoán được. Cha với xuống nắm lấy tay em và đung đưa nó trong tay cha khi họ cất bước về phía ngôi nhà.
“Những người khác đâu rồi?” cha hỏi.
Anna xị mặt ra. Sao bốn anh chị bao giờ cũng quan trọng đến vậy? Và đương nhiên là cha sẽ hỏi rồi. Em không nhớ nổi trước đây có lúc nào em là người duy nhất gặp cha không nữa. Luôn luôn là chị Gretchen hoặc anh Rudi, anh Fritz hay chị Frieda, hay thậm chí cả bốn, cũng có mặt ở đó.
“Mấy anh chị đang bận cãi nhau về chuyện xảy ra ở trường hôm nay ạ,” em giải thích. “Nhưng con đã ngồi trên bậu cửa sổ ngóng cho đến khi thấy cha về.”
Lúc này em đang chậm chạp lê từng bước. Em thật muốn cha là của riêng mình thêm một lúc nữa.
“Ở trường có chuyện gì?” cha hỏi. Cha buông tay em ra, và cả hai cha con đều dừng bước khi cha đợi nghe chuyện. Trong vô thức, Anna đưa tay lên giật giật một bím tóc mỏng của mình. Đây là thói quen của em những khi bất an.
“Đừng làm thế, Anna,” Papa cảnh báo. “Nó sẽ bung ra mất.”
Cha đã nói quá muộn. Anna thất thần nhìn xuống dây ruy băng nhàu nhĩ trong tay mình. Đã bao nhiêu lần Mama xin em để yên cho tóc của mình. Cũng chừng ấy lần em quên béng đi mất.
“Có khi cha sửa lại được,” Papa nói. “Dù sao cha cũng cứ thử xem.”
Anna quay lưng lại và đưa dây ruy băng qua vai cho cha. Một cách vụng về, cha túm những lọn tóc lòa xòa lại thành một dải. Mẹ đã đúng khi nói rằng việc này rất khó. Những mớ tóc cứ tuột khỏi tay cha. Nhưng cuối cùng thì, trong khi Anna giữ chặt đuôi tóc, cha cũng cột được một cái nơ xiên xẹo quanh đoạn giữa. Cha cau mày nhìn. Cha không hề cố gắng tết lại và trông tóc em chẳng ra đâu vào đâu. Cũng như cha, Anna biết trông nó như thế nào, nhưng em tự nhủ rằng mình không quan tâm. Ngay cả khi vừa được chính Mama tết, nó cũng chẳng bao giờ ổn, không như những bím tóc dày dặn bóng mượt của chị Gretchen.
“Về trường học ạ, Papa,” em quay người lại, nhắc cha.
Papa cũng quên luôn chuyện tóc tai của em.
“Đã có chuyện gì?”
Trong phút chốc, Anna do dự. Thật ra đó là chuyện của chị Gretchen, không phải chuyện của em. Nhưng chị Gretchen và các anh chị khác lúc nào cũng có chuyện để kể. Còn em, Anna, thì chẳng bao giờ có chuyện gì để kể về những ngày chật vật trong lớp của Frau[2] Schmidt. Mà dù sao thì, ai bảo chị Gretchen không chờ đón Papa cơ chứ!
“Tất cả tụi con đang ở hội trường,” Anna bắt đầu tuôn ra. “Chúng con luôn có giờ tập trung ở hội trường trước khi vào lớp và lúc đó chúng con hát. Chúng con phải chọn vài bài hát. Các học sinh lớp lớn hơn, ý con là thế. Sáng nay đến lượt chị Gretchen và chị yêu cầu bài ‘Die Gedanken sind frei’. Toàn trường đều biết bài đó trừ học sinh lớp nhỏ. Con là người duy nhất trong lớp con biết tất cả các bài.”
Anna ngừng lời, tự hào về kiến thức của mình và nhớ lại cái ngày Papa dạy em bài hát đó, khi em chỉ mới có năm tuổi. Cha đã giải thích từng từ từng chữ đầy hào hùng cho đến khi em hiểu được chúng, và rồi họ vừa cùng nhau diễu hành vừa cất tiếng hát. Die Gedanken sind frei. Câu đó có nghĩa “tư tưởng là tự do”.
“Vậy rồi có chuyện gì?” Papa hỏi lại.
“Dạ, Herr Keppler… Cha biết đó, Papa, thầy ấy là hiệu trưởng mới do chính phủ cử đến sau khi Herr Jakobsohn đi.”
Papa gật đầu, và khuôn mặt cha tối sầm lại. Cha và Herr Jakobsohn là bạn bè. Họ chơi cờ với nhau. Nhưng nhà Jakobsohn đã đi Mỹ từ ba tuần trước.
“Herr Keppler chỉ nói, ‘Chúng ta sẽ không hát bài hát đó ở trường này một lần nào nữa.’ Fraulein[3] Braun đã bắt đầu chơi đoạn dạo đầu để bắt nhịp cho chúng con hát rồi và không ai biết phải làm gì. Chị Gretchen vẫn đang đứng, chị đỏ hết cả mặt và nói lớn, ‘Tại sao ạ?’ Chị ấy thật dũng cảm, Papa. Mọi người đều sợ Herr Keppler chết khiếp. Khi anh Rudi nói là ảnh không sợ, ảnh đang xạo đó ạ.”
“Herr Keppler đã trả lời chị Gretchen thế nào?” Papa nói. Giọng cha nghe có vẻ tức giận, cứ như thể cha đã biết.
“Thầy ấy hoàn toàn không trả lời chị,” Anna nói. Em vẫn còn ngạc nhiên khi nghĩ lại chuyện đó. “Ý con là, thầy ấy không nói lý do là gì. Thầy ấy chỉ nhìn chị và nói, ‘Ngồi xuống.’ “Mệnh lệnh phát ra đanh thép từ miệng Anna khi em bắt chước ông hiệu trưởng.
“Anh Rudi nói có lẽ chỉ là Herr Keppler không thích bài hát ấy và chuyện đó không có ý nghĩa gì đặc biệt…” giọng em nhỏ dần, có vẻ không chắc chắn.
“Vậy thay vào đó các con đã hát bài gì?” Papa hỏi, một lần nữa bắt đầu đi chầm chậm về phía căn nhà. Khi họ bước đi, cha không nhìn em mà nhìn xuống đất.
“ ‘Deutschland, Deutschland über alles[4].’ ”
Họ đã đến bậc cấp. Thời gian được ở riêng cùng nhau đã sắp hết. Vai Anna rũ xuống.
Rồi bất thình lình, Papa hất đầu ra sau, đứng sững lại, và cất tiếng hát. Die Gedanken sind frei,
Tư tưởng của tôi tự do đơm hoa.
Die Gedanken sind frei,
Tư tưởng của tôi cho tôi sức mạnh.
Không học giả nào có thể ghi lại.
Không thợ săn nào có thể giam cầm.
Không người nào có thể phủ nhận.
Die Gedanken sind frei.
Làm sao mà Herr Keppler lại có thể không thích những lời như thế này? Hay giai điệu này? Nó vang lên trên con phố vắng lặng. Anna hòa giọng
trong đoạn thứ hai. Em hát hết mình, y như cách Papa hát, như thể mỗi cụm từ đều quan trọng.
Nên tôi suy nghĩ như tôi muốn
Và thấy thật hạnh phúc làm sao;
Lương tâm bên trong tôi ra lệnh
Quyền này đáng trân quý xiết bao;
Hát đến đó, Anna nghe thấy tiếng họ đến - anh Rudi nhảy xuống cầu thang hai bậc một, chị Gretchen vội vã chạy theo anh, anh chị sinh đôi xô đẩy phía sau hai người. Cửa bật mở. Bốn người họ giương mắt nhìn em gái và cha. Rồi, cùng nhau, tất cả đồng thanh hát.
Tư tưởng của tôi sẽ không phục địch
Cho công tước hay kẻ độc tài,
Tư tưởng của tôi tự do tung cánh.
Die Gedanken sind frei.
“Papa, có phải Anna đã kể với cha…?” chị Gretchen cắt ngang. Nhưng Papa đã dẫn đầu đi vào nhà, vẫn không ngừng tiếng hát. Các em đi theo sau lưng cha như thể cha là Người thổi sáo thành Hamelin[5], và tất cả bọn họ cùng hòa ca trong khúc nhạc cuối tuyệt vời.
Và nếu phường bạo chúa bắt tôi
Và ném tôi vào chốn ngục tù,
Tư tưởng của tôi sẽ vùng thoát,
Như những chùm hoa nở đúng mùa.
Những nền móng sẽ vỡ tan.
Thành trì kia sẽ lụi tàn.
Và người tự do sẽ hô vang,
“Die Gedanken sind frei!”
Họ kết thúc bài hát tại sảnh dưới chân cầu thang. Mama nhô đầu ra từ trên đầu cầu thang và nhìn xuống bọn họ.
“Ernst, anh mất trí rồi à?” mẹ nghiêm giọng. “Trudi Grossman bé nhỏ đã bệnh cả ngày và Minna vừa mới dỗ con bé ngủ được xong. Anh nghĩ sao mà làm ầm ĩ lên như vậy hả?”
Lúc này họ đã đi lên đến chỗ mẹ. Papa ôm eo và hôn mẹ khiến mẹ đỏ cả mặt. Cha cười ha hả, dù cũng thấy áy náy vì có lẽ đã quấy rầy em bé. Nhưng không có tiếng khóc do bị đánh thức nào vọng lên từ căn hộ dưới nhà, nên có lẽ mọi chuyện đều ổn.
“Một cú chót thôi, Klara,” cha nói với mẹ. “Một bài hát cho Herr Keppler, người chưa thể ngăn anh ca hát cùng các con của anh.”
“Vớ vẩn!” Mama chế giễu, đẩy cha ra.
“Đúng là Anna đã nói với cha!” chị Gretchen kêu lên.
Anna nhìn xuống chân. Nhưng em vẫn mừng vì em chính là người đã nói cho Papa biết toàn bộ sự việc.
“Đúng. Anna đã kể cho cha.” Giọng Papa đột nhiên trở nên nặng nề và mệt mỏi. Cuộc vui đã kết thúc.
“Nhưng chuyện đó không có nghĩa gì cả, phải không, Papa?” anh Rudi hỏi. Trước đó anh đã rất chắc chắn, nhưng giờ giọng anh có vẻ run rẩy.
“Em bảo là có đấy.” Chị Gretchen, thường rất điềm đạm, đang chực khóc. “Không phải chỉ là cái cách thầy ấy nói với em đâu. Lẽ ra anh nên thấy ánh mắt thầy ấy nhìn Fraulein Braun. Tay cô ấy bắt đầu run lên. Em thấy mà. Em còn tưởng cô ấy sẽ không thể đàn bài quốc ca nữa cơ.”
“Và em đã cố nói với mọi người bao nhiêu lần rằng đó không phải là điều tồi tệ nhất xảy ra hôm nay,” anh Fritz thốt lên. “À thì, chắc là chuyện này cũng không phải xảy ra vào đúng hôm nay - nhưng cha của Max Hoffman đã biến mất rồi! Bốc hơi luôn! Chú ấy đã biệt tăm ba ngày rồi.”
Anh đợi mọi người há hốc mồm khi nghe tin đó. Với Fritz, cái tin ấy phấn khích đấy, nhưng có cảm giác không thật. Chính anh vẫn chưa đích thân nói chuyện với Max. Một nam sinh khác đã kể với anh. Nhưng Anna thì đã nói chuyện với Gerda, em gái của Max. Em đứng đó hồi tưởng lại khuôn mặt của Gerda, sưng lên vì khóc.
“Con đang nói nhà Hoffman nào thế?” Mama nói trong khi quay trở lại chỗ bếp lò. “Chẳng có người nào chúng ta biết lại làm một việc như thế với gia đình của mình. Điều đó thật đáng hổ thẹn.”
“Nhưng chú ấy không…” Anna mở miệng, bỗng quên mất rằng em là người nhỏ nhất nhà, mà chỉ nhớ đến đôi mắt bị tổn thương của Gerda. “Ý con là, chuyện không phải như thế. Gerda đã kể cho con nghe.”
“Ô, Anna Solden, nhìn tóc con kìa!” Mama ngắt lời.
Tâm trí em vẫn còn mải nghĩ về Gerda, Anna không hề chú ý. Em phải làm cho họ thấy, khiến cho họ hiểu. Rồi sau đó có lẽ Papa sẽ giúp được gì đó.
“Gia đình Hoffman đang đợi ăn tối. Thậm chí đã ngồi vào bàn rồi. Và họ đợi mãi mà Herr Hoffman vẫn không thấy về. Và khi Frau Hoffman đi báo, cảnh sát thậm chí còn không buồn nghe, Gerda đã nói như thế. Họ bảo bạn ấy cứ đi về nhà và giữ mồm giữ miệng về chuyện đó.”
Papa thật sự đã lắng nghe em. Trông cha cũng bận lòng như em vậy. Nhưng Mama lại cười thành tiếng.
“Cảnh sát biết là những chuyện như thế vẫn xảy ra mà,” bà nói. “Mẹ không nghĩ cô ấy là bà vợ đầu tiên đến chỗ họ để tìm ông chồng bỏ nhà đi đâu. Nhưng thật sự thì, có thể có chuyện gì xảy ra với anh ta chứ? Anh ta có thể về nhà nếu muốn - trừ phi bị tai nạn hay đau tim gì đấy. Mẹ cho là cô ấy đã kiểm tra các bệnh viện rồi chứ?”
“Con đoán vậy,” Anna lầm bầm.
Em biết quá ít, thực sự là thế.
“Chú ấy đã biến mất ba ngày rồi,” em nói thêm.
“Anh vừa nói đó,” Fritz nói.
“Vậy thì không phải là tai nạn,” Mama kết luận cho xong chuyện. Bà đặt món ăn bốc khói đang cầm trên tay xuống bàn.
“Thôi nào. Quên Herr Hoffman đi trong khi thức ăn còn đang ngon lành và nóng hổi,” mẹ nói với cả nhà. “Anh ta có lẽ đang ăn một bữa tối ngon lành ở đâu đó. Để yên cho cái nơ đó đi, Anna. Lát mẹ sẽ sửa lại sau.”
Papa ngồi xuống chiếc ghế lớn của cha. Những người khác ngồi xuống chỗ của mình. Tất cả mái đầu đều cúi xuống để cầu nguyện. Rồi, ngay khi họ nghĩ cha đã xong, ông nói thêm, “Và, thưa Đức Chúa Cha, xin hãy rủ lòng nhân từ với gia đình Hoffman tối nay, với đất nước đang gặp nhiều tai ương này và… với tất cả trẻ nhỏ, nhân danh Chúa Jesus, Amen.”
Họ đều ngẩng đầu lên và nhìn về phía cha.
Mama là người lên tiếng.
“Ernst, anh đang nói chuyện gì vậy? Đã có nhiều người mất việc làm, đúng vậy, và mọi thứ đều trở nên đắt đỏ. Nhưng thời buổi nhiễu nhương sắp kết thúc rồi. Ai cũng biết là như vậy.”
Anna nhìn cha. Cha sẽ biết. Cha rồi sẽ xoa dịu những nỗi sợ hãi của em. Cảm giác sẽ thế nào khi ngồi bên cửa sổ ngóng trông Papa mà không bao giờ thấy cha xuất hiện? Ý nghĩ đó đã ám ảnh em cả ngày. Papa chậm rãi cầm nĩa lên.
“Thời buổi nhiễu nhương…” ông nói. “Anh nghĩ nó chỉ mới bắt đầu thôi. Chúng ta chỉ đang thấy cái bóng mờ của bóng tối sắp sửa đe dọa chúng ta.”
“Anh Ernst!” Mama kêu lên, hoảng hốt trước những lời cha nói cùng vẻ đau thương trên gương mặt cha, và không hiểu chuyện hơn Anna là mấy.
“Thôi bỏ đi, Klara,” Papa nói. “Bây giờ không phải là lúc để nói chuyện.”
Nhưng Anna bị rúng động đến tận xương tủy. Cha em đang sợ hãi. Cha rốt cuộc đã không khiến em khuây khỏa chút nào. Mà em thậm chí còn chưa kể với cha mọi chuyện.
“Frau Hoffman muốn Gerda hỏi xin Herr Keppler giúp đỡ,” giờ em nói. “Nhưng Max không chịu đến gặp thầy ấy và Gerda cũng không muốn. Papa, họ phải làm gì đây?”
“Herr Keppler sẽ không giúp đâu,” Papa nói, giọng cha lại mang cái vẻ u ám em đã trông thấy trên khuôn mặt cha khi nãy. Rồi cha mỉm cười với em. Đó là một nụ cười trìu mến, nhưng không hề ẩn chứa hy vọng.
“Cha sẽ đi nói chuyện với Frau Hoffman để xem cha có thể làm được gì không,” cha hứa.
Dù vậy, cha vẫn còn sợ hãi. Anna không biết làm thế nào mà em biết được. Có lẽ bởi vì chính em cũng thường hay sợ hãi. Giá mà em có thể an ủi được cha bằng cách nào đó!
Em nhét một miệng đầy thức ăn trong lúc miên man suy nghĩ. Rồi một ý tưởng nảy lên. Em không chắc đó có phải là một ý hay không. Giờ Papa cũng đang ăn. Em lặng lẽ vươn tay ra chạm vào tay cha để cha lại quay sang nhìn em. Em không muốn những người khác nghe thấy. Họ có thể sẽ cười nhạo. Anh Rudi thường nói em bị điên.
Nhưng món bắp cải cuộn thịt của Mama quá ngon không thể cưỡng lại nổi, bất kể cuộc sống đang trầm trọng đến thế nào. Không ai chú ý đến em trừ cha.
“Tư tưởng là tự do, Papa,” Anna khẽ nói.
Papa ngẩng đầu lên. Cha mỉm cười với chính em, lần này là một nụ cười trọn vẹn, và khum bàn tay to lớn của cha quanh bàn tay bé nhỏ của em, siết chặt nó đầy thương mến.
“Dù cho cha có phải làm gì, cha sẽ giữ lấy điều đó cho con, Anna của cha,” cha hứa với em.
Em không biết ý cha là gì. Cha có thể phải làm chuyện gì nhỉ? Ý cha là nói chuyện với Frau Hoffman ư? Hay là chuyện gì khác?
Em không thể tự mình giải đáp nhưng em biết em đã nói một điều đúng đắn. Không phải anh Rudi hay chị Gretchen hay anh Fritz hay chị Frieda, mà là em, Anna! Vậy là em vui vẻ ăn thêm một miếng nữa.
Chương 2
THỜI BUỔI NHIỄU NHƯƠNG
“CHA CÓ ĐỊNH đến nhà Gerda tối nay không, Papa?” Anna hỏi.
“Không phải tối nay,” Papa nói với em. Trông cha rất bất an. “Tối mai cha sẽ đi, Liebling[6] à. Có lẽ đến lúc đó mọi việc đều đã ổn.”
Anna biết cha nói như thế vì em là một đứa trẻ. Bản thân cha không tin mọi việc sẽ ổn. Anna cầu trời rằng cha đã sai.
Sáng hôm sau Gerda đi học nhưng cô bé không nói chuyện với bất kỳ ai. Anna đứng gần Gerda khi em có thể làm thế mà không lộ vẻ mất tự nhiên. Em suýt nữa đã nói, hơn một lần, rằng, “Đừng lo, Gerda. Tối nay cha mình sẽ đến nhà bạn. Cha sẽ tìm ra cách nào đó để giải quyết mọi chuyện. Cha sẽ tìm ra được cha bạn đang ở đâu.”
Nhưng em nhớ lại vẻ mặt cha, như thể cha biết nhiều hơn những gì cha nói. Em không muốn Gerda hy vọng nếu thực sự không có chút hy vọng nào.
Gerda dường như không trông thấy Anna lảng vảng gần mình. Suốt cả ngày mặt cô bé trông như đang bị rèm che.
“Tập trung nào, Gerda,” Frau Schmidt nổi cáu.
Một giây im lặng. Rồi giọng Gerda vang lên một cách máy móc, “Vâng, thưa Frau Schmidt.”
Tối hôm đó, ngay khi gia đình Solden ăn tối xong, Papa đi đến nhà Hoffman.
“Có lẽ đây là việc nguy hiểm đấy, anh Ernst,” Mama nói ngay khi cha chuẩn bị ra khỏi nhà.
“Có lẽ anh giúp được,” cha nói và đi mất.
Cha trở về nhà quá sớm. Khi cha mở cửa, Anna quanh quẩn ở đó, hy vọng, hy vọng vô cùng, rằng em có thể nhìn ra được điều gì trên khuôn mặt cha cho thấy rằng Herr Hoffman đã về nhà an toàn.
“Họ đã đi khỏi Frankfurt,” thay vào đó cha nói. “Giá mà cha đi sớm hơn… nhưng cha không nghĩ như vậy sẽ có gì khác biệt.”
Ngày hôm sau ở trường, Anna Solden ngồi im thin thít lắng nghe những lời đồn râm ran.
“Herr Hoffman đã mang hết tiền đi.”
“Họ đã đến nhà dì của bạn ấy ở Rotterdam.”
“Tớ nghe nói họ đã đi Berlin.”
“Cả hai cậu đều điên rồi. Chính Johann Mitter nói với tớ là họ đã đi Anh.”
Mọi người đều cố nén cười khi nghe câu đó. Johann là ông trùm bịa chuyện.
“Nó nói dối đấy, như mọi lần,” Else Kronen chế giễu. “Anh trai tớ đã nói chuyện với hàng xóm nhà Hoffman, Frau Hoffman đã để lại một lá thư nhờ đưa cho Herr Hoffman nếu chú ấy xuất hiện và tìm cả nhà. Cô ấy thậm chí còn không nói gì với hàng xóm là sẽ đi đâu. Nhưng các cậu biết là Gerda đã kể về cái nông trại ở Áo mà nhà bạn ấy thường đến vào mùa hè…”
Mình không nói gì đâu, Gerda, Anna nghĩ. Mình vẫn là bạn của bạn.
Em ngồi im phăng phắc chờ đến giờ tập trung. Thật tuyệt khi Gerda chỉ chọn riêng mình em để tâm sự. Đương nhiên, từ đầu đã không có ai khác ở đó và có lẽ Gerda cảm thấy yên tâm khi nói chuyện với em vì chẳng có ai khác làm vậy cả. Dù sao cũng không thường xuyên. Em quá ngờ nghệch.
Chuyện bắt đầu ngay từ ngày đầu tiên, cách đây lâu lắm rồi, khi Anna bắt đầu cuộc chiến của em với bảng chữ cái. Với em, nhiều chữ cái trông y hệt
nhau. Nếu các chữ cái chịu nằm yên trên giấy thì có lẽ sẽ dễ phân biệt chúng với nhau hơn, nhưng khi Anna nhìn vào, chúng cứ nhảy múa. Em đã mong sẽ có ai đó nói gì về chuyện này. Nhưng không ai nói gì cả, và bản thân Anna thấy sợ phải tự mình nêu ra. Nên em cầm sách gần mắt hơn và gần hơn nữa, cố bắt đám chữ cái phải cư xử đàng hoàng.
Rồi Frau Schmidt đã gọi em lên trước lớp để đến lượt em đọc lại những gì đã học. Cô giáo dùng một cái que chỉ vào những con chữ trên bảng đen.
“Đây là chữ gì, Anna?” cô hỏi.
Anna không biết. Em thậm chí còn không thể nhìn rõ. Em đứng đó ngậm tăm, cảm thấy xấu hổ và không hó hé một tiếng nào.
“Em có phải là Anna Solden không?” giáo viên hỏi.
Anna gật đầu, vẫn không thể nói gì.
“Em gái của Rudolf và Gretchen và hai anh em sinh đôi?” Anna lại gật đầu. Hai má em nóng bừng.
“Đứng thẳng lên, cô bé, và trả lời cho tử tế vào. Em nên nói, ‘Vâng, thưa Frau Schmidt.’ ”
Bằng cách nào đó, em dựng thẳng người lên. “Vâng, thưa Frau Schmidt,” em lí nhí.
Cô giáo tặc lưỡi một cách thiếu kiên nhẫn.
“Không phải nói lí nhí như thế. Nói to lên,” cô ra lệnh.
Cô chờ đợi. Lúc này Anna đã run lẩy bẩy. Em tự hỏi liệu có khi nào em sẽ ngã khuỵu trước mặt cả lớp hay không. Em đã không ngã.
“Vâng, thưa Frau Schmidt,” em lặp lại, ước gì như vậy là ổn rồi. “Lần nữa,” cô giáo quát.
“Vâng, thưa Frau Schmidt,” Anna nói.
“Giờ để cô xem em có thể đọc được chữ này chưa,” Frau Schmidt nói.
Anna không thể đọc được chữ đó. Em tuyệt vọng đoán bừa nhưng em đoán trật lất hết cả.
“Ôi, thôi ngồi xuống đi,” cuối cùng cô giáo nói. Cô nhìn Anna loạng choạng đi về bàn. Rồi cô nói thêm với vẻ châm chọc, “Cô được biết cha của em là thầy giáo tiếng Anh tại một trong những trường hàng đầu. Có lẽ ông ấy có thể dạy em chút gì đó!”
Cả lớp cười ầm lên. Có lẽ họ không dám không cười, nhưng Anna không nghĩ ra điều ấy. Em vẫn còn nhớ tiếng cười của họ.
Chuyện đó xảy ra đã hơn một năm trước. Anna vẫn chưa học đọc được. Papa đã cố giúp em nhưng cha dạy tiếng Anh cho nam sinh trung học. Cha không hiểu được có vấn đề gì giữa Anna và bảng chữ cái. Nhưng nếu em không đọc được, thì giờ đây em đã có thể đứng thẳng người. Em không còn run sợ nữa. Em đứng cứng ngắc, trả lời mạch lạc, và ghét cay ghét đắng Frau Schmidt.
Và em cũng ghét môn đọc. Em không quan tâm việc em không đọc được. Em không muốn đọc. Mà tại sao em lại phải làm thế? Papa sẽ đọc cho em nghe và Papa vẫn yêu thương em y như vậy, dù em có biết đọc hay không. Em sẽ không bao giờ đọc và em sẽ không bao giờ làm bạn với những đứa đã cười nhạo em.
Dẫu vậy, trong thâm tâm, em thực sự thấy buồn vì Gerda thậm chí còn không nói lời từ biệt. Em đã thấy đau lòng biết bao cho sự cô đơn và sợ hãi của Gerda. Và không một lần nào em, Anna, tham gia vào những cuộc ngồi lê đôi mách tàn nhẫn về tung tích của Herr Hoffman.
“Chú ấy đã bỏ trốn với một nữ diễn viên, Johann Mitter bảo thế,” là một trong những câu chuyện như vậy.
Anna ngay lập tức lên tiếng phản đối chuyện đó.
“Chú ấy không làm thế,” em nói.
Những người khác thảy một loạt các câu hỏi về phía em, một lần hiếm hoi họ thực sự nhìn thẳng vào em.
“Làm sao cậu biết?”
“Vậy giờ chú ấy ở đâu?”
“Ai bảo cậu thế?”
Anna ngang ngạnh nhìn họ nhưng không lên tiếng. Em không có bằng chứng. Em chỉ biết vậy. Cha của Gerda sẽ không làm thế.
“Ôi, nó chả biết cái gì đâu,” Olga Muller gạt em sang một bên. “Như mọi khi,” con bé nói tiếp.
Rồi bọn họ quay đi đầy khinh bỉ.
Nhưng Anna tin chắc rằng mình đúng. Hẳn đã phải có chuyện gì đó tồi tệ lắm xảy ra nên Herr Hoffman mới không thể về nhà. Một phần của “thời buổi nhiễu nhương” mà Papa đã nói.
“Anna, em không thể cứ ngồi đó mà mơ mộng được đâu,” Frau Schmidt gắt. “Nếu em còn muốn hoàn thành chương trình vỡ lòng.”
“Vâng, thưa Frau Schmidt,” em nói máy móc.
Em giở ra quyển sách mà em không thể đọc và chuẩn bị cho một ngày nữa ở trường.
Một tuần sau, em thức giấc giữa đêm và nghe thấy Mama đang gào lên. “Rời nước Đức! Anh Ernst! Làm sao chúng ta có thể?”
Có tiếng cha rầm rì đáp lại. Anna lắc lắc đầu, vẫn còn lơ mơ vì ngái ngủ, và cố dỏng tai lên nghe.
“Nhưng đây là nhà của chúng ta!” Anna chưa bao giờ thấy Mama cáu giận đến vậy. “Chúng ta đã sống ở đây cả đời rồi. Anh Ernst, nơi em chào đời cách chính ngôi nhà này chưa đến ba dãy nhà. Bạn bè của chúng ta ở đây. Còn em gái anh thì sao?”
Papa lại nói, nhưng dù Anna đã căng tai lên, em chỉ nghe được loáng thoáng chữ này chữ nọ.
“… phải dũng cảm… nghĩ về gia đình Hoffman… em không hiểu sao…”
Cha còn nói gì đó về tháng Sáu nữa. Anna nhớ lại khi ấy cha đã tức giận đến mức nào với một đạo luật mới. Điều gì đó về việc người Do Thái không được làm việc trong chính quyền… Ôi, em không nhớ nổi mặc dù em có thể hình dung cha đi tới đi lui, hai mắt cha long lên. Em đã không biết rằng cha có thể tức giận đến mức ấy.
Mama vẫn đang tranh luận.
“Nhưng chúng ta sẽ đi đâu? Ernst, anh không suy nghĩ gì cả. Chuyện học hành của bọn nhỏ thì sao? Anna yêu quý của anh bây giờ còn đang không theo được đấy.”
Cô bé đang nghe lỏm nở nụ cười trong bóng tối. Em không theo được chương trình thì đã làm sao? Ngay cả Mama cũng biết em là “Anna yêu quý” của Papa.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với con bé nếu nó phải rời bỏ quê hương? Còn Rudi có thể sẽ trở thành huynh trưởng học kỳ tới. Mà dù gì đi nữa chúng ta cũng không có đủ tiền.”
Cuối cùng giọng Papa vang lên mạnh mẽ xuyên qua bức tường.
“Anh biết rõ tất cả những chuyện đó như em, Klara. Nhưng anh còn biết hơn thế nhiều. Em không hiểu là nếu không phải anh đang làm việc cho một trường tư thục thì anh đã thất nghiệp ngay lúc này rồi hay sao? Mất bao lâu để chế độ mới bắt đầu dòm ngó nhân viên ở một trường tư? Hãy nhớ rằng chồng của Tania là người Do Thái.”
“Nhưng chồng của em gái anh thì có liên quan gì đến chúng ta?” Trong cơn giận dữ, giọng Mama nghe có vẻ bối rối.
“Ôi, Klara, nghĩ mà xem. Hãy nghĩ về gia đình Hoffman. Chuyện gì đã xảy ra với anh ấy, anh thật không dám đoán. Hãy nghĩ về Nathan Jakobsohn. Hãy nghĩ về gia đình Wechsler. Và hôm nay anh nghe nói Aaron Singer đã bị cho nghỉ việc.”
“Anh Ernst, không thể thế được. Tiến sĩ Singer đã giúp công ty đó nổi tiếng mà.”
“Mọi người đều biết chuyện đó. Nhưng kể cả như vậy thì ông ấy vẫn bị sa thải. Không có lý do nào cả. Ông ấy sẽ cố gắng rời khỏi nước Đức. Chẳng bao lâu nữa thôi, anh chắc chắn, sẽ càng khó để đi. Không chỉ có người Do Thái gặp nguy hiểm đâu, Klara. Bất kỳ người nào bất đồng, bất kỳ ai lên
tiếng quá lớn…”
Có một sự im lặng đầy căng thẳng. Anna cắn nắm tay của mình.
“Nhưng anh trai Karl của anh là họ hàng duy nhất của anh không ở Đức - và anh ấy đang ở Canada!” Mama rền rĩ.
Anna biết rằng với Mama, Canada quá xa xôi và lạ lẫm. Mama không ưa bất kỳ cái gì “ngoại quốc”.
Đột nhiên Papa ngáp một cái, to đến mức Anna nghe thấy tiếng khớp hàm của cha kêu răng rắc.
“Đủ rồi. Anh mệt quá, Klara. Nhưng chúng ta phải nghĩ. Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra, chúng ta sẽ cần phải sẵn sàng. Anh cầu Chúa rằng anh đã sai về tất cả những chuyện này.”
“Em chắc chắn là anh sai,” Mama nói.
Anna nghe tiếng mẹ trở mình. Chiếc giường kêu kẽo kẹt. Rồi Papa nói thêm, khẽ đến mức Anna suýt nữa đã bỏ lỡ, “Anh có một lời hứa với Anna mà anh phải giữ.”
“Anh hứa với Anna cái gì? Rằng anh sẽ lôi cả nhà đi tha hương sao?” “Không, không phải như thế,” Papa mệt mỏi nói.
Anna giờ áp cả tai vào tường, để em có thể nghe được ngay cả khi cha đã hạ giọng.
“Anh nói với con bé rằng nó sẽ lớn lên ở nơi những suy nghĩ được tự do,” cha nói.
Cha đã hứa với em như thế ư? Ồ, đúng rồi. Bài hát mà Herr Keppler sẽ không hát. Nhưng Mama lại nổi cơn tam bành lần nữa.
“Vậy là tất cả chúng ta phải thay đổi cuộc sống chỉ vì Anna của anh sao! Trời đất, trong đám trẻ con bé là đứa cần phải ở yên đây nhất. Con bé chỉ vừa mới bắt đầu học. Frau Schmidt nói nó rất cứng đầu… nhưng dù có chuyện gì, thì việc bắt nó phải bắt đầu lại ở một nơi mới sẽ là điều tồi tệ nhất trên đời với con bé!”
Anna rùng mình. Lần này, Mama nói đúng. Frau Schmidt rất khủng khiếp, nhưng một người xa lạ nào đó thì…!
Làm ơn, Papa, em thầm van xin cha, xin hãy để chúng ta ở đây đi ạ.
Rồi, bất ngờ, bà Klara Solden cười phá lên, tiếng cười như thường ngày với vẻ thoải mái và trêu chọc.
“Ernst, anh đã quên rằng chúng ta mờ nhạt thế nào rồi sao,” mẹ nói, khiến cho mọi thảo luận nãy giờ trở thành vô nghĩa. “Trời đất, chuyện gì có thể xảy ra với chúng ta chứ? Có thể vợ Herr Hoffman là một người hay cằn nhằn. Có thể tiến sĩ Singer sẽ làm việc trở lại theo cách nào đó hoặc ông ấy đã quá già rồi. Nhưng chúng ta chẳng là ai cả. Ôi, chân em đang lạnh cóng. Để chân anh qua đây nào.”
“Klara, Klara,” Papa rên rỉ, nhưng giọng cha vẫn thoáng có ý cười, “thật hết cách với em.”
Giọng họ trầm xuống thành tiếng thì thầm. Anna trượt lại xuống giường, băn khoăn không biết có nên lo lắng hay không. Cuối cùng em chìm lại vào giấc ngủ.
Em thức dậy một lần trước khi trời sáng hẳn. Không nghe tiếng gì phát ra từ phòng của cha mẹ. Trong thoáng chốc, cảm giác sợ hãi lại trào lên trong em. Rồi em nghĩ về hai bàn chân lạnh cóng của Mama và mỉm cười khi em cuộn người chui gọn vào tấm chăn ấm áp của riêng mình.
Mama sẽ không để cho Papa làm chuyện gì tồi tệ đâu, em nghĩ.
Trong bữa sáng mọi chuyện vẫn diễn ra như thường ngày. Anna thấy nhẹ cả người, dù không hiểu sao lại cũng thấy hơi thất vọng. Thế rồi đến bữa tối Papa đưa ra một thông báo. Đó không phải điều gì như Anna tưởng. Nhưng cũng đủ làm em thất kinh.
“Gia đình ta sẽ học nói tiếng Anh,” cha nói.
Vợ con ông trợn tròn mắt nhìn ông. Cha mỉm cười đáp lại nhưng có điều gì trong nụ cười đó chẳng ai thích cả.
“Chúng ta sẽ bắt đầu ngay bây giờ,” cha nói tiếp, chứng minh rằng nỗi sợ khủng khiếp nhất của họ đã đúng. “Kể từ giờ phút này, vào mỗi tối, chúng ta sẽ chỉ nói duy nhất tiếng Anh trong bữa tối. Tất cả các con, trừ Anna, đã học một ít tiếng Anh ở trường, nên mấy đứa có thể bắt đầu nói được rồi,” cha động viên họ.
“Em không biết tiếng Anh,” Mama nói, mặt đanh lại.
“Em sẽ học, Klara,” Papa nhẹ nhàng nói. “Chúng ta sẽ bắt đầu ngay bây giờ. Nghe kỹ nhé. Rudi, con chuyền cho cha lọ muối được không?”
Những từ tiếng Anh nghe chẳng có nghĩa gì với Anna. Rudi nhìn mấy lọ tiêu, muối và mù tạt. Tay anh đưa ra chầm chậm. Nó cứ lơ lửng trên không. Rồi, một cách không chắc chắn, nó hạ xuống. May mắn đã đứng về phía anh. Anh quả đã đưa cho cha lọ muối.
“Cảm ơn, con trai,” Papa nói, đón lấy nó.
Vẻ lo lắng trên khuôn mặt Rudi biến mất ngay tức thì. Anh đưa mắt nhìn quanh một lượt để chắc rằng cả nhà không bỏ lỡ sự tài giỏi của mình. Mọi người trông thán phục đúng như mong đợi.
Nhưng Papa chỉ mới bắt đầu.
“Hôm nay đi học thế nào, Gretchen?” cha hỏi.
Nếu là bất kỳ thời điểm nào khác, thấy chị Gretchen bối rối thế này hẳn là vui lắm.
“Như nào… như nào… con biết không,” chị lắp bắp.
“Tốt ạ, Papa,” Rudi đỡ lời thật nhanh, thật điêu luyện.
Nhưng Gretchen đã trấn tĩnh lại. Chị bắn về phía anh trai một ánh mắt cáu kỉnh.
“Ở trường ổn ạ, Papa,” chị nói.
Câu này đúng còn câu kia sai à? Anna chẳng hiểu mô tê gì. Sẽ tuyệt làm sao nếu anh Rudi vừa mắc lỗi. Nhưng nếu mà Papa quay sang em, Anna, tiếp theo thì sao?
Việc này tệ hơn cái bảng chữ cái đó một triệu lần, Anna rầu rĩ nghĩ. Em cố tụt người thấp xuống trên ghế để Papa không nhìn thấy em.
Với cha thì chuyện này đương nhiên là dễ dàng rồi. Cha thật lòng yêu thích tiếng Anh. Cha đã học đại học ở một nơi gọi là Cambridge. Anna đã xem ảnh dòng sông nơi đó, ảnh những cái cây vĩ đại nghiêng ngả và ảnh những thanh niên tươi cười nhìn vào máy chụp ảnh. Papa có rất nhiều sách tiếng Anh và cha đọc chúng để giải trí. Cha thậm chí còn đặt mua tạp chí tiếng Anh và cha dạy tiếng Anh suốt cả ngày cho các nam sinh tại trường Thánh Sebastian.
Chỉ thực hành một chút, anh Rudi và chị Gretchen đã làm tốt một cách đáng kinh ngạc. Nhưng đó không hẳn chỉ là do anh chị thông minh, theo như anh Rudi tự nhận. Anh đã học tiếng Anh ở trường được bốn năm rồi còn chị Gretchen là ba năm. Hai anh chị sinh đôi mới học một năm và họ mắc hàng trăm lỗi. Mama và Anna là hai người duy nhất hoàn toàn không biết một chút gì.
Lúc đầu họ vẫn nói tiếng Đức với nhau trước mặt Papa mà vẫn được miễn tội. Trong những ngày đó, có một sự khăng khít giữa hai mẹ con mà Anna chưa từng cảm nhận được từ khi em còn là một đứa bé. Em biết rằng ngày
đó Mama đã ôm ấp em và hát cho em. Có những bức ảnh chụp em nằm trên đầu gối Mama và nụ cười Mama dành cho em thật đẹp. Anna yêu những bức ảnh đó. Nhưng em không thể nhớ được, hoặc chỉ nhớ mơ hồ, có lúc nào mà em không phải là một sự thất vọng đối với mẹ.
Chuyện đã bắt đầu ngay cả trước khi em đi học. Anna không thể chạy mà không vấp ngã vì những chỗ nhô lên trên vỉa hè gập ghềnh. Anna không thể nhảy dây. Anna không bao giờ có thể bắt bóng trừ phi nó lăn trên mặt
đất về phía em. Em có thể học thuộc thơ. Papa thích nghe em đọc thơ. Nhưng Mama không có thì giờ cho thơ thẩn. Mẹ muốn một đứa con gái ít nhất là có thể phủi bụi đồ đạc một cách tử tế.
“Anna, nhìn đám bụi đó mà xem!” mẹ sẽ la lên khi Anna nghĩ em đã làm xong.
Anna sẽ nhìn và, dù em chẳng thấy có chút bụi nào, em sẽ cúi đầu vì hổ thẹn.
Nhưng giờ mọi chuyện đã khác. Hai mẹ con sẽ ngồi nghe chị Frieda ráng hết sức để nói, “Thank you.”
“Tank you, Papa,” chị sẽ nói thế.
“Đặt lưỡi con giữa hai hàm răng đi, Frieda, như thế này này. Nhìn cha này. Th… th…” Papa làm mẫu.
Kể cả anh Rudi cũng gặp khó khăn với âm “th” này.
Rồi, ngay giữa chừng, Anna sẽ thì thầm với mẹ em là em muốn uống thêm sữa. Em thì thầm bằng tiếng Đức, đương nhiên, và Mama trả lời, “Ja, ja, Liebling[7],” và đưa sữa qua ngay tức khắc. Papa sẽ cau mày nhưng Anna sẽ nhấp từng ngụm món sữa, cảm thấy mình thật đặc biệt và gần như không thèm quan tâm, dù em yêu cha rất nhiều.
“Đứa con Đức duy nhất của mẹ,” Mama âu yếm nói vào những buổi tối đầu tiên đó. Còn Anna thì đắm chìm trong vẻ rạng rỡ của nụ cười Mama được chừng nào hay chừng đó.
Chẳng mấy chốc, em biết, Mama sẽ lại muốn dạy em đan len. Hay là may vá! Cái đó còn tệ hơn. Chị Gretchen và chị Frieda rất nhanh nhẹn. Nhưng Anna thì đơn giản là không thể nhìn thấy những gì Mama nói. Chẳng hạn
như, em không hiểu bằng cách nào mà Mama xỏ sợi chỉ qua cây kim được. Khi Anna nhìn cây kim mảnh trong tay mình, không có cái lỗ nào ở đó đợi em cả.
Em suýt đã nói được với Mama chuyện đó, không chỉ một lần. Nhưng lúc nào cũng vậy, ngay khắc tiếp theo, Mama đã luồn sợi chỉ qua và nhìn đứa con gái út của bà một cách bực bội đến mức Anna không biết làm sao để giải thích.
Trên cây kim của Mama, lúc nào cũng có một cái lỗ.
Có lẽ nếu em cầm món đồ gần hơn nữa…
“Không, không, con,” Mama nói, “con sẽ bị căng mắt nếu làm vậy. Giữ nó trên đùi con như thế này.”
Một lần nữa mẹ em nghe có vẻ vô cùng chắc chắn. Anna tiếp tục chật vật mà vẫn không đâu vào đâu cả. Chẳng mấy chốc, tất cả mọi người đều đã dần quen với em mặc dù họ chưa bao giờ ngừng cố gắng cải thiện em.
“Để chị, Anna,” chị Gretchen sẽ thở dài, đón lấy miếng nhấc nồi từ tay em. “Làm sao em có thể móc những mũi len to thế hả?”
“Đây, Anna. Để mẹ sửa. Thực lòng mẹ không thể hiểu nổi con. Mẹ đã đan vớ cho các anh em của mẹ khi mẹ mới bảy tuổi.”
Đó là Mama. Sự ủ dột bao trùm lấy Anna. Em mím chặt môi và không để tay run rẩy. Y như chuyện ở trường và cái bảng chữ cái đó. Nhưng em không thèm quan tâm. Em là cục cưng của Papa kể cả khi không phải là của Mama. Mọi người đều biết chuyện đó, cũng hệt như việc họ biết Mama yêu anh Rudi nhất, dù mẹ cứ chối đây đẩy.
Nhưng giờ đây, ít nhất là trong lúc này, Anna là đứa con Đức duy nhất của Mama. À thì, Mama vẫn cau mày và thường xuyên lắc đầu vì em nhưng mẹ cũng hát cho em nghe những bài hát tiếng Đức, và cả hai mẹ con đều vờ như không tồn tại cái gọi là thời buổi nhiễu nhương.
Anna cố không nhớ đến Gerda, không tự hỏi bạn ấy giờ đang ở đâu và liệu cha bạn ấy có tìm được gia đình không.
Em không còn giật mình thức giấc và nghe thấy cha mẹ cãi nhau nữa.
Đó là một mùa đông tươi đẹp, một mùa xuân đáng yêu. Em mặc nhiên cho rằng bão tố đã qua, và rằng rồi thì Papa thậm chí sẽ quên cả những bài học tiếng Anh.
Rồi một sáng sớm tháng Sáu, năm 1934, một lá thư được gửi đến từ Canada. Thư không phải của bác Karl; nó được gửi từ luật sư của bác.
Và sau một đêm, cái thế giới đôi lúc vui vẻ, thường xuyên không vui, nhưng luôn luôn quen thuộc của Anna đã hoàn toàn đảo lộn.
Chương 3
ANNA ẤM Ớ
SÁNG HÔM ĐÓ trên đường xuống bếp ăn sáng, Anna gặp Papa ở hành lang.
“Có chuyện gì không ổn vậy, bé con?” Papa hỏi khi thấy mặt em phụng phịu.
Chuyện không ổn chẳng phải điều gì mới hay khác biệt. Chỉ là Anna đang cảm thấy mình xấu xí. Em luôn thấy mình xấu xí khi Mama hoàn tất việc kéo căng và bện tóc em lại thành hai bím vừa chặt vừa tong teo. Em phải ngồi yên để mẹ làm, ngay trước tấm gương của mẹ, và em không thể không nhìn thấy chính mình.
Những người còn lại trong gia đình thật đẹp. Chị Gretchen và anh Rudi thì cao và trắng như Papa. Tóc anh chị không chỉ sáng bóng, mà còn dễ bảo nữa. Mắt của họ có màu xanh nhạt. Má họ hồng hào. Không phải đỏ ửng, nhưng cũng không nhợt nhạt đơn điệu như má Anna. Anh Fritz và chị Frieda thì giống hệt mẹ với mái tóc xoăn đen nhánh, đôi mắt nâu lanh lợi và khuôn mặt tinh quái đầy sức sống.
Thế rồi đến Anna, trán em dô, tóc em thì lưa thưa xỉn màu, đôi mắt em màu xanh nhưng lại ngả xám và ti hí. Tai và mũi em trông cũng được nhưng chẳng có gì đặc biệt. Còn miệng của em lại trông…
“Ương bướng,” Mama sẽ nói thế, hoặc “hờn dỗi”.
“Không vui,” Papa sẽ nói.
Xấu xí, Anna cáu kỉnh nghĩ, và khi tóc đã tết xong, em nhảy ra khỏi ghế cái bịch, đùng đùng đi ra hành lang và đụng trúng Papa.
Anna không nói với cha có chuyện gì không ổn vì chuyện đó giờ đã không còn đúng nữa; không ai có thể cảm thấy xấu xí khi ở cạnh Papa. Cha vươn
tay lấy một bông hoa từ cái bình đặt ở hành lang và cài vào sau tai cô con gái. Nước từ cành hoa nhỏ xuống lưng em nhưng em bật cười. Papa có đôi khi ngớ ngẩn như vậy đấy. Một cách hấp tấp, ngay cả khi em nhoẻn miệng cười với cha, em để bông hoa lại chỗ cũ, hy vọng Mama sẽ không chú ý.
“Ừm, con với Frau Schmidt thế nào rồi?”
Nụ cười của Anna biến mất.
“Ổn cả ạ,” em lúng búng.
Anna biết mình không đời nào gạt được Papa. Cha đã nói chuyện với Frau Schmidt vào Ngày Tham quan[8]. Nhưng chẳng bao lâu nữa là đến kỳ nghỉ rồi.
“Anna, Anna của cha, con có thể giúp cha một việc đặc biệt này được không?” đột nhiên cha hỏi em.
Anna nhìn cha.
“Có liên quan gì đến Frau Schmidt không ạ?”
Cha lắc đầu nhưng mắt cha hấp háy. Anna không tin cha cho lắm. Ngay cả những người lớn tốt bụng nhất đôi khi cũng chơi khăm.
“Không liên quan gì đến Frau Schmidt hết, cha hứa!” Papa để tay lên ngực và trông vô cùng trang nghiêm.
“Vậy đó là chuyện gì ạ?” Anna dò hỏi, đánh trống lảng.
“Hứa với cha trước rồi cha sẽ nói với con,” cha dỗ dành. “Ôi Anna, chẳng lẽ con không tin cha ruột của con sao?”
Anna không tin lắm nhưng em yêu cha hơn bất kỳ ai trên đời. Em không thể từ chối cha được.
“Vậy con hứa,” em làu bàu dù không muốn. “Giờ nói con nghe đó là chuyện gì đi?”
“Cha muốn con cố thử nói tiếng Anh,” Papa nói.
Anna đứng hình. Em cảm thấy bị phản bội. Nhưng cha đang mỉm cười với em như thể những lời cha nói chẳng hề đáng sợ đến thế.
“Cha không nghĩ nó sẽ khó đến mức như con tưởng tượng đâu,” cha dịu dàng nói với em. “Hãy nhớ. Con là cô gái đã học cả bài ‘Die Gedanken sind frei’ chỉ trong một buổi chiều.”
“Nhưng đó là tiếng Đức!” Anna phản đối, biết rằng em đã hứa rồi nhưng vẫn hy vọng cha để chừa một kẽ hở cho em lách qua.
“Nhưng khi đó con mới có năm tuổi. Giờ con đã lớn hơn rất rất nhiều và thông minh hơn rất rất nhiều… và cha nghi ngờ, mặc dù cha có thể sai, rằng con đã biết nhiều tiếng Anh hơn là con thể hiện.”
Làm thế nào mà cha đoán được? Anna cảm thấy hai gò má đỏ bừng bán đứng chính mình. Em cúi đầu để không chạm phải ánh mắt thích thú của cha. Điều đó hoàn toàn đúng. Từ lâu em đã bắt đầu tích lũy trong đầu mình một ít những từ ngữ xa lạ đó, mặc dù em chưa bao giờ dám nói ra thành tiếng. Đến giờ này em đã có thể khiến cha kinh ngạc, nếu em muốn. Em có nên không?
“Anh Ernst! Anna! Con sắp bị muộn học rồi,” Mama gọi. “Với lại có một lá thư gửi đến cho anh từ Canada đấy, anh Ernst, trông có vẻ quan trọng.”
Họ bước đi. Lá thư nằm ở chỗ của Papa. Cha mở nó ra đọc. Rồi bàn tay cha siết chặt, làm tờ giấy nhăn nhúm lại.
“Chuyện gì vậy?” Mama kêu lên, vội vã đến gần cha.
Papa phải đợi trong chốc lát. Anna thấy cha nuốt khan.
“Anh trai Karl của anh đã qua đời,” khi đó cha nói. “Anh ấy bị lên cơn đau tim. Anh ấy để lại cho anh mọi thứ anh ấy sở hữu.”
Những giọng nói nổi lên rì rào.
“Ôi, Papa, thật khủng khiếp!” Gretchen nói, chị nhớ bác Karl từ hồi chị còn nhỏ và bác đã đến Đức ở cùng họ.
“Papa, vậy là chúng ta sắp giàu ạ?” Đó là Rudi.
“Giàu,” Fritz lặp lại đầy mong đợi, nhưng anh khựng lại ngay chỗ đó. Có gì đó trên gương mặt cha đã khiến anh câm nín.
“Tội nghiệp Papa,” Frieda nói chen vào, đá Fritz.
Đó là lúc Papa nói ra một điều không thể tin nổi. Ông không hỏi bất kỳ ai. Ông chỉ đưa ra một tuyên bố, tuyên bố một sự thật trần trụi.
“Không, Rudi, chúng ta sẽ không giàu. Bác Karl chỉ là một chủ tiệm tạp hóa với một cửa hiệu nhỏ, và nước Đức không phải là quốc gia duy nhất bị ảnh hưởng bởi một cuộc khủng hoảng. Nhưng đây là cơ hội của chúng ta. Chúng ta sẽ đi Canada.”
“Canada!”
Trong giọng của mỗi người đều có cùng loại cảm xúc mà Anna đã nghe thấy trong giọng của Mama nhiều tháng về trước. Canada không phải là nơi để đi đến; Canada là một bài học địa lý.
“Ông Menzies đề nghị chúng ta đến vào tháng Chín.” Papa nói tiếp như thể cha không hề nghe thấy những tiếng ca thán.
“Ai là ông Menzies? Ông ấy thì biết gì về việc chúng ta làm?” câu hỏi của Mama rít lên qua không khí như một tiếng còi.
“Ông ấy là luật sư của anh Karl. Lúc trước anh có trao đổi thư từ với anh Karl, hỏi về những cơ hội chúng ta có thể có ở Canada. Ông ấy có ngỏ lời đón chúng ta đến ở cùng nhưng anh muốn công việc làm ăn riêng. Ông ấy nói không có chỗ cho một giáo viên tiếng Anh người Đức. Nhưng giờ anh
sẽ là chủ tiệm tạp hóa. Anh không muốn nhận lòng từ thiện của anh Karl nhưng dù sao thì có vẻ anh ấy cũng đã trao nó cho anh.”
Papa đứng lên, cầm lá thư trong tay và sải bước ra khỏi phòng. Có nước mắt trên gò má của cha. Anna đã thấy. Em không thể nhúc nhích. Em không thể suy nghĩ. Nhưng Mama thì lại bắt đầu đi theo cha. Rồi, vào phút cuối, mẹ thấy cái đồng hồ, há hốc miệng và dừng lại để xua cả lũ đến trường, từ chối không trả lời bất kỳ câu hỏi nào.
“Đi! Đi!” mẹ gần như quát vào mặt mấy anh chị em. “Làm như mọi chuyện chưa đủ tồi tệ với cái thứ ở trong đầu cha các con vậy!”
Đột nhiên, mẹ bắt gặp Anna, nãy giờ vẫn ngồi im như phỗng trên ghế. Mẹ nhìn em chằm chằm - và đó không phải là ánh mắt ấm áp đã tuyên bố Anna là “đứa con Đức duy nhất” của mẹ. Anna co rúm người lại, không hiểu mô
tê gì, cho đến khi Mama nổi cơn tam bành, “Tại sao nước Đức lại không đủ tốt với con hả? Một miền đất nơi suy nghĩ được tự do! Hừ! Ôi, thật không thể chịu đựng nổi. Ông ấy không thể nào nghiêm túc được.”
Rồi mẹ xoay người rời đi, bỏ cả đám lại mà không nói lời “Chào các con”. Khi Anna đã ra ngoài, khép cửa lại sau lưng mình, em có thể nghe tiếng Mama xuyên qua những bức tường.
“Anh Ernst, anh Ernst, em sẽ không đi. Em nói cho anh biết em sẽ không đi!”
Và rồi, ngừng một lúc, em nghe Papa nói, không lớn tiếng, nhưng với giọng đanh thép.
“Tất cả chúng ta đều đi, Klara. Bất kể em có hiểu hay không, bất kể em có sẵn lòng hay không, chúng ta sẽ đi. Em phải bắt đầu chuẩn bị đi.”
Ở trường ngày hôm đó, Anna không để ý những lời chế nhạo của Frau Schmidt. Em không quan tâm người ta hát gì trong giờ tập trung. Em đi ngang qua Herr Keppler trên hành lang, suýt nữa đụng vào ông ta mà thậm chí không hề nhận ra.
Họ, gia đình em, sắp đến Canada sống. Và em đã hứa sẽ cố gắng nói tiếng Anh. Có phải tất cả mọi người ở Canada đều nói tiếng Anh không?
Những câu hỏi không có lời giải đáp cứ đập dồn dập trong đầu em cho đến khi em cảm thấy chóng mặt buồn nôn. Cuối cùng thì cũng đến giờ về nhà.
Nhưng nhà cũng không phải là một nơi tốt đẹp gì. Không có lối thoát nào ở nhà hết.
Khi Papa nói cả nhà sẽ đi, cha thực sự nghiêm túc. Rudi đã thử tranh luận, như hai người đàn ông. Papa lắng nghe.
“Thế nên, cha thấy đó, Papa, chúng ta không thể đi được,” Rudi kết thúc.
“Chúng ta sẽ đi, Rudi ạ,” cha nói và tiếp tục thu xếp. Gretchen đã khóc vì chị sẽ phải rời bạn Maria của chị. “Con chưa từng có được người bạn nào như Maria cả, Papa,” chị nức nở. Gretchen, người luôn chững chạc và điềm tĩnh đến vậy.
Papa để chị ngồi trên đùi dù chị đã quá lớn. Chị ngả đầu lên vai cha. Nước mắt chị làm ướt đẫm cổ áo sơ mi của cha khiến nó mềm rũ xuống.
“Con sẽ tìm được một người bạn khác thôi, Gretel của cha,” Papa nói. Gretchen vùng ra khỏi cha và chạy đi gào khóc trên giường của chị.
Papa đã mua vé cho cả nhà. Họ sẽ đi bằng tàu thủy. Chuyến đi lẽ ra sẽ rất phấn khích. Với Fritz và Frieda thì là như thế. Hai người bắt đầu ba hoa.
Nhưng Papa thậm chí đã chấm dứt chuyện đó, ngay khi cha phát hiện ra.
“Cha không muốn các con nói gì về chuyện gia đình ta sắp đi,” cha nói với cả nhà.
“Chỉ khi cha giải thích cho bọn con, Papa,” anh Rudi nói, “để tụi con biết phải nói gì. Người ta thắc mắc với bọn con, cha biết đó. Cả Herr Keppler cũng đã hỏi con sáng nay, nhưng rồi ông ta không có thời gian ở lại nghe. Ông ta sẽ lại hỏi nữa thôi.”
“Ôi, khổ thân anh Rudi,” chị Frieda thì thầm.
Rudi hất đầu.
“Lão ta không dọa được anh đâu,” anh khẳng định.
“Ông ta nên thế,” Papa thấp giọng nói. Nhưng trước khi họ có thể hỏi ý của cha lần này là gì, cha đã ra lệnh bằng giọng dứt khoát đến mức cuộc thảo luận kết thúc ngay tức khắc.
“Các con có thể nói với mọi người rằng bác các con đã qua đời và chúng ta được để lại một công việc kinh doanh ở Canada. Nói rằng cha phải đi để trông coi nó. Các con không cần phải nói nhiều hơn thế. Cha không muốn các con nói nhiều hơn mức cần thiết. Nếu Herr Keppler có hỏi nữa, hãy cẩn thận và nhớ rằng - chuyện cha đang nói với các con là rất quan trọng. Nói nhiều quá sẽ không an toàn đâu.”
Giọng Papa có vẻ rất trầm trọng. Lũ con hiểu rằng có nhiều chuyện cha không nói với chúng. Mama nghĩ cha đã sai, nhưng ngay cả Rudi cũng tin tưởng Papa. Bản thân cha cũng rất không vui nếu phải làm chuyện đó vì một lý do ngớ ngẩn. Cha thậm chí còn cố lôi kéo em gái của cha là cô Tania và chồng cô cùng đi. Cô chú đồng ý rằng gia đình Solden nên đi, nhưng bản thân họ không muốn đi cùng.
“Tụi em không có con cái để mà phải lo nghĩ, anh Ernst,” chú Tobias trầm ngâm nói. “Đức là đất nước của chúng ta, của em cũng như của anh. Em sẽ không ruồng bỏ nó vào lúc này.”
“Có lẽ chú sẽ sớm không còn chọn lựa nào khác, Tobias,” Papa nói, vô cùng lo lắng.
“Vợ chồng em biết điều đó,” cô Tania nói nhẹ nhàng. “Nhưng nếu tất cả những người hiểu lý lẽ đều rời khỏi đất nước, ai sẽ nói lên sự thật đây?”
Papa im lặng khi nghe câu đó. Đó là lúc Anna biết chính cha cũng không muốn đi, rằng cha đi là vì lời hứa với em và vì tình yêu thương của cha dành cho cả nhà - anh Rudi, chị Gretchen, anh chị sinh đôi, và cả Mama dù mẹ vẫn không ngừng phản đối cha.
Tội nghiệp Papa!
Tiếng Anh! Em có thể nói tiếng Anh vì cha. Việc đó có lẽ sẽ khiến cha vui lên. Em đã định thử nói tiếng Anh suốt nhiều ngày qua nhưng em vẫn sợ. Mọi người sẽ cười. Dẫu vậy, em có thể thử. Ngay tối nay, em sẽ thử.
Bữa tối đã được chuẩn bị gần xong. Anh Rudi đang ngồi ở chiếc bàn tròn lớn, mái tóc hoe vàng rũ xuống trên quyển từ điển Đức-Anh. Anh đang dạy các em từ mới trong lúc chúng làm việc. Các anh chị bước quanh anh một cách nhẫn nại. Họ đã quen với việc anh viện cớ để ngồi xuống khi đến giờ làm việc. Mama mím môi im lặng khi anh đọc, nhưng những người còn lại giờ đây đều biết họ sẽ thật sự cần ngôn ngữ mới này, nên họ đều dỏng tai lên nghe.
“Âm u” là từ vừa rồi. Anna thầm lặp lại từ đó, cố gắng nhớ kỹ. Anh Rudi đọc tiếp xuống trang giấy.
“ ‘Ấm ớ.’ Từ gì mà dị thế,” anh nhận xét. “Nó có nghĩa là ‘vụng về’.”
Không hiểu sao - Anna không bao giờ hiểu - mà chiếc đĩa xúc xích em đang đặt lên bàn lại chọn ngay lúc ấy để trượt khỏi những ngón tay em và vỡ tan tành trên sàn ngay cạnh chân anh Rudi.
Anh kêu lên oai oái như thể em vừa mới bắn đại bác vào anh. Rồi anh nhận ra đó chỉ là Anna và anh cảm thấy mình như thằng ngốc. Cố chữa thẹn thật nhanh, anh quay sang em.
“Ấm ớ,” anh nói to. “Vậy sẽ rất dễ nhớ. Mọi người chỉ cần nghĩ đến mày thôi. Anna Ấm Ớ!”
Anna đang quỳ gối dọn đống lộn xộn, không nhìn lên. Nếu không ai đáp lại anh, có lẽ anh sẽ thôi. Nhưng Frieda, do không phải là người gặp nguy hiểm, lại không cẩn thận đến thế.
“Chính anh cũng vừa mới làm vỡ một cái cốc tuần trước mà, anh Rudi,” chị kêu lên. “Sao anh có thể xấu tính như thế! Anh đừng có mà cả gan gọi
em ấy như vậy.”
Rudi có gan cho mọi chuyện. Anh không thích người ta nhắc lại những lỗi lầm của anh. Và không một đứa con gái mười một tuổi nào có thể ra lệnh cho anh mà yên thân được.
“Nhưng hãy nghĩ xem chuyện đó sẽ giúp chúng ta học tiếng Anh như thế nào, Frieda thân yêu,” anh nói, giọng mượt như kem.
Anna thấy lạnh người.
Anh không nói thêm gì nữa. Thay vào đó, anh lại chúi mũi vào quyển từ điển. Đến khi bữa tối sẵn sàng, anh đã tìm thấy tên cho cả ba anh chị kia.
Frieda Phũ Phàng có tên trước tiên. Chị Frieda hất đầu khinh bỉ khi nghe tên đó. Rồi đến Fritz Phởn Phơ. Fritz cười toe toét sau khi anh dò xem từ đó nghĩa là gì. Gretchen Gần Gũi là tên thứ ba. (Anh Rudi phải lấy đại từ đó vào phút chót vì Mama bảo đã đến lúc đi rửa tay ăn tối.) Chị Gretchen chỉ cười.
Tuy nhiên sau đó, chị tự tra từ và đến bữa sáng chị đáp trả lại Rudi bằng câu, “Anh có muốn thêm sô cô la không, Rudi Rắc Rối?”
Ngay cả anh Rudi cũng nhe răng cười và những cái tên đều rơi vào lãng quên - trừ tên của Anna. Chính em cũng biết tại sao nó còn ở lại. Anh Fritz đã nói lý do ra thành lời khi em ngã cắm đầu vì vấp vào cái đôn vài ngày sau đó.
“Xong đời Anna Ấm Ớ,” anh bình luận. Rồi anh có vẻ xấu hổ. “Chỉ vì cái tên hợp quá thôi ạ,” anh biện hộ với Papa.
Chẳng bao lâu sau mọi người đều chấp nhận cái tên đó. Họ nói ra với một cái lắc đầu. Họ thậm chí gọi nó một cách trìu mến. Nhưng vẫn là gọi. Anh Rudi gọi thường xuyên nhất; anh đoán được nó có thể gây tổn thương thế nào. Chỉ mỗi Papa không bao giờ gọi; cha cũng đoán được như vậy.
Anna không thể thắng được anh Rudi. Em đã biết thế từ hồi còn nhỏ xíu.
Giờ đây em không còn muốn gây ấn tượng với Papa bằng kiến thức tiếng Anh của mình nữa. Tiếng Anh đã bị buộc vào cái từ khủng khiếp cứ đi theo em khắp nơi đó.
Ấm Ớ. Ấm Ớ.
Sao em ghét cái từ đó thế không biết! Sao em cứ tin nó là thật!
Dù bản thân không muốn, em tiếp tục học từ vựng mới trong suốt nhiều tuần. Mama, một cách đột ngột và trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người, đã đầu hàng và bắt đầu nói ngôn ngữ mới cùng cả nhà. Sự im hơi lặng tiếng của Anna không còn là điều đặc biệt nữa. Nó khiến mẹ em tức giận.
“Con thôi cứng đầu được rồi đấy, Anna,” mẹ nói. “Mẹ già rồi nhưng mẹ vẫn học đây. Chúng ta phải làm việc cần làm.” Nước mắt trào lên mi khi mẹ nói.
Anna quay đi. Mama sẽ không bao giờ hiểu được. Và Anna không cần phải cảm thấy tội lỗi vì đã làm mẹ khóc. Dạo này Mama khóc mỗi ngày. Mẹ khóc khi mẹ sắp xếp hành lý.
“Em không thể đem theo tất cả đâu, Klara,” Papa nói với mẹ, và cha bắt mẹ cho cô Tania cái liễn xúp.
Anna nghĩ việc đó thật ngớ ngẩn. Khóc vì một liễn xúp. Nó còn xấu hơn cả em, với những thần tình ái bé xíu ngu ngốc đỡ lấy cái quai, với chân đế uốn lượn và với một sự ấm ớ to tướng.
Lại là cái từ đó nữa!
“Em đã có nó từ khi em kết hôn đấy,” Mama thổn thức, và cô Tania cùng thổn thức với mẹ.
Sau đó, Papa phải chịu thua vụ cái đồng hồ trên lò sưởi, thứ mà cứ mười lăm phút lại đánh chuông một lần. Nó từng thuộc về bà ngoại. Papa biết khi nào thì cha bị đánh bại. Lần này thì Anna thấy mừng. Em yêu tiếng chuông
đồng hồ. Nằm dài trên giường lắng nghe âm thanh đó là một trong những điều đầu tiên em nhớ được.
Ngày học cuối cùng đã tới.
“Vậy, Anna à, thế là em sẽ rời xa chúng tôi,” Frau Schmidt nói. Cô không có vẻ gì là tiếc nuối cả. “Cô hy vọng em sẽ học chăm hơn vì giáo viên mới của em.”
Giọng cô nói rằng cô nghi ngờ việc đó. Anna chỉ nói, “Dạ, thưa Frau Schmidt.”
Nhưng khi em đang đi dọc hành lang với đồ đạc trên tay, một giọng nói khác khiến em dừng chân.
“Anna,” Fraulein Braun đuổi theo em, “cô hy vọng em sẽ không đi mà không nói lời từ biệt.”
Anna ngây người nhìn cô. Fraulein Braun dạy âm nhạc, và Anna thích âm nhạc. Nhưng em chưa từng tưởng tượng giáo viên dạy nhạc sẽ chú ý đến em.
“Cô sẽ nhớ em,” Fraulein Braun dịu dàng nói. “Em có một chất giọng rất hay, Anna, và em hát từng lời đều thật chân thành.”
“Em… cảm ơn cô,” Anna lắp bắp. “Em chào cô, Fraulein.”
Trong một thoáng, em cảm thấy tiếc nuối khi phải bỏ lại ngôi trường phía sau.
Rồi cuối cùng cũng đến lúc. Họ sẽ đi vào ngày mai, rời xa mái ấm của họ, đến một miền đất nơi mọi người nói tiếng Anh.
Anna đã lập một lời thề rằng sẽ không bao giờ, không bao giờ nói tiếng Anh, bất kể em đã hứa gì với Papa. Nhưng làm sao em có thể giữ được lời thề đó ở Canada đây?
Tất cả đồ đạc đã được đóng gói xong. Họ ngồi trên những cái thùng để ăn bữa ăn cuối cùng của họ ở Frankfurt.
“Ở đây thấy cô đơn quá,” Frieda thầm thì, mắt chị mở to.
Đột nhiên Papa cười lớn. Cứ như thể cha đã sợ không dám cười thành tiếng trong một thời gian dài, nhưng giờ đây, bất thình lình, nỗi sợ của cha đang tan biến. Ông có thể nhìn thấy nơi mà ông đang đưa họ đến, và đó là một nơi an toàn, tốt đẹp.
“Chúng ta hãy đừng thấy cô đơn,” cha trấn an mọi người. “Trời đất, chúng ta còn có nhau mà. Chúng ta có thể cùng nhau tạo ra một khởi đầu mới, gia đình Solden này. Chúng ta chỉ cần một chút can đảm. Bài hát dũng cảm nhất mọi người biết là gì nào?”
Chị Gretchen là người lên tiếng, không phải Anna.
“ ‘Die Gedanken sind frei,’ Papa,” chị kêu lên.
Anna thấy can đảm hơn nhiều khi giọng của họ đẩy lùi bóng tối và lấp đầy sự trống rỗng bằng những âm thanh tươi vui.
Die Gedanken sind frei,
Tư tưởng của tôi tự do đơm hoa.
Die Gedanken sind frei,
Tư tưởng của tôi cho tôi sức mạnh.
Không học giả nào có thể ghi lại.
Không thợ săn nào có thể giam cầm…
Đột nhiên, giọng mẹ nghẹn ngào và ngắt quãng. Không ai nhìn thấy, nhưng Mama lại khóc nữa. Gò má mẹ ướt đẫm nước mắt. Khi những người khác lướt tiếp qua đoạn hai tuyệt vời và đoạn kết hân hoan, Anna một lần nữa
cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Rồi em trông thấy cha cười với mẹ và em lại nhìn sang mẹ.
Nước mắt vẫn còn đó nhưng Mama đang hát thật hào hùng như tất cả mọi người.
Chương 4
“PAPA SAI RỒI!”
NGÀY ĐẦU TIÊN TRÊN BIỂN, mọi người đều không khỏe trừ Anna. Papa, trông tái nhợt và không muốn ăn uống gì, vẫn ráng đứng vững và đi cùng với đứa con út đến ăn tối trong phòng ăn lớn. Nhưng những người khác, kể cả anh Rudi, đều nằm rên rỉ trên giường.
Anna không hiểu nổi. Bản thân em thấy hoàn toàn ổn. Còn ổn hơn cả ổn ấy chứ. Tuyệt vời! Em thích giữ thăng bằng khi cái sàn lắc lư dưới chân em. Trên đất liền em luôn vấp váp và trượt chân, nhưng ở đây, khi con tàu tròng trành, em để cơ thể mình đong đưa cùng nó, thay đổi trọng tâm cơ thể cho phù hợp với nhịp điệu của nó. Em chưa bao giờ phải vịn vào bất cứ thứ gì để đứng vững. Trên đôi chân của chính mình em vững vàng hơn bất cứ ai, kể cả Papa. Giá mà những người khác không quá say sóng để có thể nhận ra điều đó!
Em cũng yêu thích tiếng rừm rừm của động cơ tàu và cảm giác khác lạ ở khắp mọi nơi. Có lẽ em chính là một Anna mới, một Anna khác. Trong phòng ăn, khi gọi món từ quyển thực đơn to đùng mà em không đọc được, em ngồi thẳng lưng như một bà hoàng, và em cảm thấy mới lạ và quyền lực, bất chấp cái thực đơn ngu ngốc.
“Ăn cùng con cái gì đó nha, Papa,” em cố dụ.
Papa mỉm cười khi nhìn thấy niềm hạnh phúc không che đậy của em nhưng ông lắc đầu ngay khi vừa nhắc đến thức ăn. Anna ăn thật nhanh, đoan chắc rằng nếu cha phải ngồi nhìn món thịt bò của em một lúc lâu, cha có lẽ sẽ bỏ
em lại mất. Tệ quá. Ở đây chỉ có hai cha con với nhau, thế mà lại thành ra mất vui. Lúc này cha em đã thật sự nhắm mắt lại!
Đột nhiên, em có một ý tưởng. Em vẫn chưa bắt đầu dùng tiếng Anh, dù họ đang càng ngày càng đến gần Canada, em biết em không thể trì hoãn thêm được bao lâu. Sao không thử luôn bây giờ? Đây là một thời điểm hoàn hảo,
ở đây chỉ có Papa nghe được, ông sẽ vui và sẽ không cười em nếu em mắc lỗi.
Em suy nghĩ rất lung. Em có thể hỏi, “Khi nào thì chúng ta đến Canada ạ?”
Không. Cha sẽ biết rằng em đã thừa biết câu trả lời. Một câu gì đó khác, một câu gì đó thông minh…
“Con ăn xong chưa, Anna?” cha em nói khi thấy em đã dừng ăn và đang nhìn chằm chằm vào khoảng không. Cha lùi ghế của mình ra sau một chút. “Cha muốn đi xem mẹ con thế nào.”
Anna biết chính xác Mama thế nào. Mẹ đang cuộn tròn lại như một quả bóng và mẹ không muốn ai nói gì với mình. Lúc ở nhà, khi Mama bị đau đầu, chị Gretchen thường xoắn xuýt quanh mẹ, mang cho mẹ nước uống, lật gối cho mẹ, kéo rèm xuống. Nhưng giờ chính chị Gretchen cũng ốm. Anna, đột nhiên trở nên quan trọng nhưng lại thấy ngượng ngùng về việc đó, đã hỏi bằng một giọng lí nhí e dè, “Mama, mẹ có muốn uống chút nước không ạ?”
Mama không buồn quay đầu lại. “Không, không. Để cho mẹ yên đi,” mẹ rên rỉ. Rồi mẹ nói thêm, “Và nói tiếng Anh đi, Anna.”
Giờ Papa đang đợi em đi cùng. “Anna, con có nghe cha không?” cha hỏi khi em không nhúc nhích.
Sự phấn khích đang bung nở bên trong con gái của ông đã khép chặt lại như một bông hoa khi bóng đêm đến gần. Anna đẩy ghế ra phía sau và đứng lên.
“Con xong rồi,” em nói cụt lủn bằng tiếng Đức.
“Bị say sóng thật sự là quá khó khăn với cả nhà,” cha em bình luận khi ông đi trước dẫn đường qua một mê cung những cái bàn.
Những từ ngữ đó là tiếng Anh. Bây giờ Papa gần như không nói tiếng Đức. ẳ
Cha hẳn phải biết là mình hiểu, Anna nghĩ khi em theo sau cha dọc lối đi.
Tuy nhiên chỉ duy có lần đó, từ nhiều tuần trước, cha bảo em cố nói tiếng Anh. Và em đã hứa em sẽ cố gắng. Em không thể nhớ được đã từng có bao giờ em hứa với Papa chuyện gì đó rồi không giữ lời hay không. Sao cha không nói gì cả, nhắc em chẳng hạn, thậm chí là la rầy em?
Cha biết rằng mình vẫn nhớ, Anna nghĩ. Nhưng cha đoán là mình sợ.
Nói thành tiếng những từ đầu tiên, đó là điều dường như em không thể làm được. Em đã cố, nhưng lần nào chúng cũng cứ tắc trong cổ họng. Em tin chắc rằng khi em thực sự nói thành tiếng, tiếng Anh của em sẽ bật ra một cách vặn vẹo và ngớ ngẩn. Mama mắc những lỗi tệ hại suốt. Cả nhà cố không cười mẹ, nhưng thỉnh thoảng họ cũng không kiềm nổi. Anh Rudi sẽ không nương tay khi đến lượt Anna.
Nên em định hình những câu tiếng Anh trong đầu và đôi lúc còn thì thầm thật khẽ khi em chỉ có một mình, nhưng khi có ai đang nghe thì em lại tiếp tục nói tiếng Đức.
Sáng hôm sau, mặt trời chiếu rọi, biển lặng, và nhà Solden đã hồi phục. Sau bữa sáng, năm đứa trẻ kéo nhau đi khám phá con thuyền. Papa cau mày khi trông thấy bọn nhỏ đi. Ông không thích cái cách Anna lẽo đẽo theo sau mà không đi bên cạnh các anh chị. Mấy đứa lớn đang đối xử tệ với con bé à?
Cha yên vị trên chiếc ghế xếp và giở một quyển sách ra. Bà Klara, duỗi người bên cạnh ông, đang lơ mơ ngủ trong ánh nắng.
Cô ấy rốt cuộc đã hồi phục, ông nhẹ người nghĩ. Như thế sẽ khiến mọi việc dễ dàng hơn cho Anna.
“Có chuyện gì vậy, anh Ernst?” mẹ lười biếng hỏi.
“Không có gì,” cha nói với mẹ. Rồi, dù không muốn, ông nói thêm, “Chỉ là Anna thôi. Mấy đứa kia có vẻ không muốn có nó đi cùng.”
Đôi mắt của Klara Solden thoắt mở bừng.
“Và tại sao mà tụi nó lại phải muốn con bé?” mẹ thách thức. “Mấy ngày nay con bé hơi chút là giận dỗi. Nó không cố gắng điều chỉnh chút nào… Mà nó không nghe thấy em nói đâu, phải không?” Khuôn mặt mẹ bỗng hiện lên vẻ lo lắng khi bà chống khuỷu tay nhỏm dậy và nhìn xung quanh.
“Không, không đâu. Bọn nhỏ đi cả rồi,” chồng của bà cam đoan.
Cha mỉm cười khi mẹ nằm xuống và để mắt nhắm lại lần nữa. Nhưng một lúc sau, cha đặt quyển sách xuống và đứng dậy.
“Lại gì nữa?” vợ ông hỏi khi ông đi ra ngoài.
“Anh chỉ đi kiểm tra xem bọn nhỏ tính làm gì thôi,” Papa nói vọng lại, bước nhanh hơn một chút. “Fritz là đứa không thể lường trước được.”
Anna đang đi theo các anh chị, cũng không có gì bất mãn. Vẫn chưa. Ngày hôm nay quá sức rực rỡ. Màu xanh thẳm và sự rộng lớn của bầu trời khiến em muốn hát. Và mọi thứ vẫn còn mới tinh. Em vẫn còn cơ hội để không phải là Anna Ấm Ớ nữa.
Rồi anh chị sinh đôi phát hiện ra mấy cái tay vịn kim loại. Ngay lập tức, bốn đứa trẻ ganh đua với nhau như những diễn viên nhào lộn trong rạp xiếc. Họ treo người bằng tay và rồi bằng đầu gối. Họ lộn người qua hai tay, lật mình một cách dễ dàng. Họ nâng chân lên không trung và đi hết chiều dài thanh vịn chỉ bằng hai tay. Fritz leo lên một cái cột, quấn mình quanh cột như một cái bánh quy xoắn.
“Thử đi, anh Rudi!” cậu gào xuống.
Anna đứng nhìn. Em quá mải ngưỡng mộ các anh chị mình nên không cảm thấy tội nghiệp cho bản thân. Những sinh vật nhanh nhẹn, táo bạo đang đu đưa và cười vang và leo trèo trong ánh nắng này là người một nhà với em, mặc dù em không hề giống họ.
Papa cất tiếng nói ngay sau lưng em, khiến em giật mình suýt chút nữa thì mất thăng bằng.
“Sao con không chơi cùng các anh chị, Anna?” cha hỏi.
Anna ngước nhìn cha với vẻ bất lực. Em không giải thích được. Em phải nói gì đây? Rằng em quá ngốc nghếch? Rằng em sẽ ngã? Rằng em không biết làm thế nào?
Cha đang đợi câu trả lời. Sự rực rỡ của buổi sáng lụi dần.
Gretchen, mặt đỏ bừng vì treo ngược người, chạy ào qua xem Papa muốn gì và cứu em.
“Sao các con không cho Anna cùng chơi?” Papa hỏi trước khi Gretchen kịp nói gì.
Đó không phải là một câu hỏi công bằng. Gretchen nhìn cô em gái to bè. Anna nên lên tiếng và nói cho Papa biết rằng em sẽ không chơi. Cũng không phải các anh chị đã rủ em chơi lần này, nhưng họ cũng đâu có rủ nhau.
Anna không nói gì cả. Em hơi xoay đầu đi.
“Đâu có ai cấm em ấy chơi, Papa,” Gretchen nói. “Thật sự và sự thật là, con không nghĩ em ấy muốn chơi. Em ấy dở tệ những trò như thế này. Em ấy quá to… hoặc có lẽ quá nhỏ.”
Gretchen ngưng bặt. Anna không được cao như chị Frieda nhưng em vẫn, theo một cách nào đó, quá to. Tất cả bọn họ đã trông thấy em ngã nhiều lần. Em tiếp đất nặng nề và thường gượng dậy một cách vụng về đến mức sẽ té ngã một lần nữa.
Khi Gretchen đã bỏ cuộc trong vô vọng, Fritz nhảy vào ngay tức thì. Anh đã hóng hớt vừa đủ để đưa ra một ý kiến nhanh.
“Nếu Anna luyện tập, như con và Frieda, nó sẽ giỏi hơn. Nhưng nó không luyện, nên tự nó biến nó thành Anna Ấm Ớ thôi.”
Fritz chạy vù đi trước khi Papa kịp nói gì. Gretchen cũng muốn đi, Anna biết, nhưng chị đợi.
“Con nên nhớ Anna là em út và hãy giúp đỡ em, Gretel,” Papa nói. Mặt Gretchen càng lúc càng đỏ hơn.
“Tụi con đã cố mà!” chị bật ra. “Papa, nó đâu có muốn làm những việc của tụi con. Thực sự là nó không muốn.”
Cuối cùng sự im lặng của Anna khiến cha chú ý. Ông đang làm gì với em thế này? Bỏ qua Gretchen, cha quay sang và nhẹ nhàng hỏi em, “Anna, con có muốn đi dạo với Papa của con không?”
Anna không muốn sự thương hại, kể cả là từ cha.
“Con có việc khác phải làm bây giờ,” em nói dối, không nhìn cha lẫn chị gái. Ngẩng cao đầu, thẳng sống lưng, em bước đi. Một con thuyền cứu sinh nằm gần đấy. Em rảo bước vòng qua nó. Ngay khi đã khuất tầm mắt, em đứng sững lại, chẳng có nơi nào để đi, chẳng có việc gì để làm, trừ nỗi đau bên trong.
Rồi em phát hiện em vẫn còn trong tầm nghe.
“Ôi, Papa,” em nghe Gretchen rền rĩ. “Sao Anna cứ khiến con cảm thấy mình nhỏ nhen dù con không hề như thế?”
Anna căng mình, sẵn sàng nhận thêm tổn thương.
“Cha biết không phải lúc nào chuyện cũng dễ dàng,” Papa nói chậm rãi, suy nghĩ theo cách của ông. “Nhưng, Gretchen này, có một điều gì đó đặc biệt ở Anna của chúng ta. Một ngày nào đó con sẽ thấy rằng cha đúng. Con bé có thật nhiều tình thương khóa chặt bên trong.”
“Dạ, Papa,” Gretchen nói, giọng lạnh nhạt.
Ở
Nhưng Anna đã quên đi chị gái của mình. Ở phía bên kia chiếc tàu cứu sinh, em đang đứng ở một thế giới mới, nơi những lời của cha đã đưa em đến.
Em có nghe đúng lời Papa không?
Đặc biệt!
Em không chắc lắm về phần còn lại nhưng em biết chắc Papa đã dùng từ đó để nói về em, Anna.
Không phải “khác biệt”. Em ghét mình khác biệt. Nhưng mà đặc biệt thì khác. Nó có nghĩa là tuyệt vời, phải không? Nó có nghĩa là tốt hơn những người khác.
Một cách chậm rãi, Anna đi thơ thẩn dọc boong tàu, nghĩ mãi về cái từ kỳ diệu đó. Nó tỏa sáng. Nó hát ca trong lòng em. Nó khiến ngày hôm đó trở nên tươi đẹp thêm lần nữa.
Nhưng có thật không?
Em lại đứng sững, gắng suy nghĩ.
Em không có vẻ ngoài đặc biệt, em biết. Em quá to bè và không xinh xắn một tẹo nào.
Và rồi có đủ thứ việc em không làm được: khâu vá hay đan lát hay phủi bụi cho vừa ý Mama, chơi trò chơi, đọc, dù là những quyển sách dễ.
Em có thể hát đúng nốt. Em thậm chí còn có một chất giọng hay. Fraulein Braun đã nói thế. Nhưng tất cả những bạn khác cũng hát được như em.
Nhưng Papa đã nói “một điều gì đó đặc biệt”.
Đột nhiên, ngay phía trước em, em trông thấy một tay vịn khác giống cái mà các anh chị đã chơi. Lúc nãy em đã không thể chơi thử trước mặt các anh chị, nhưng giờ đây khi những lời của Papa vẫn vang vọng trong tim em cùng cảm giác mới mẻ mà việc ở trên tàu đem lại cho em, và vì không có ai
nhìn thấy để mà cười cợt, có lẽ em có thể làm được. Sau đó em có thể quay lại và cho các anh chị thấy. Em sẽ không nói một lời nào. Em sẽ chỉ quăng mình qua như thể em đã làm thế suốt.
Có lẽ.
Anna Solden hùng dũng bước đến tay vịn kim loại. Em nắm nó thật chặt, lòng bàn tay em trơn trượt vì căng thẳng. Quơ quào hai chân, em cố gắng lộn người qua giữa hai tay giống như các anh chị đã làm. Em đã nhấc được một chân lên - và cảm thấy bản thân đang trượt đi.
“Mình làm được. Mình có thể. Mình có thể!” em lầm bầm khẩn thiết.
Nhưng có điều gì đó sai trong cách em nắm tay. Chắc phải có mánh khóe nào đấy. Tay em không giữ được nữa và em rơi xuống sàn tàu cứng thành một đống bầm giập tay chân.
Em nằm im, trong chốc lát, tự hỏi có nên thử lại lần nữa không. Nhưng em không biết lần đầu em đã mắc phải lỗi gì.
Em nhanh chóng đứng dậy và giật phẳng áo váy. Rồi em cứ thế mà chạy, chạy đi, chạy đến bất kỳ đâu. Em va vào một cái cột và làm bầm tím cẳng chân vì một chồng ghế xếp nhưng em vẫn không dừng lại. Cuối cùng em cũng đến một khu trống trên boong tàu nơi không một bóng người, dù chỉ là một người lạ ở tít đằng xa. Thở hổn hển, em dựa người vào tường.
Mặt trời vẫn rực rỡ. Bầu trời vẫn rộng và xanh như thế. Nhưng niềm vui trong Anna đã chết rồi.
“Papa sai rồi,” em gào lên với lũ mòng biển đang lượn qua. “Papa đã sai về mình rồi.”
Có một niềm đau thương trong giọng nói của em nhưng lũ mòng biển không mảy may để ý và không có ai ở đủ gần để nghe được cả - dù Anna, không hề nhận ra, đã cất lên thành tiếng những từ tiếng Anh đầu tiên của mình.
Chương 5
ANNA TÌM THẤY MỘT NGƯỜI BẠN “ÔNG MENZIES NÓI ông ấy sẽ ở đây,” Papa nói.
Gia đình Solden, vừa xuống xe lửa, mệt mỏi nhìn quanh. Đâu đâu cũng là người lạ. Không một ai bước đến nói rằng ông ấy là ông Menzies, luật sư của bác Karl cả.
“Menzies,” Mama lẩm bẩm. “Đó không phải là một cái tên Đức.”
“Klara, bây giờ chúng ta đang ở Canada,” Papa nói. Sự cáu gắt trong giọng cha khiến mấy đứa con đang mệt mỏi phải giật mình. Papa không phải là người hay gắt lên như vậy.
“Ông ấy hẳn đang ở đâu quanh đây thôi,” cha nói tiếp sau một thoáng im lặng căng thẳng.
Cả gia đình đứng giữa một đám đông nhốn nháo gần thanh chắn trong phòng đợi ở ga Toronto Union. Sau khi xuống tàu tại Halifax, họ đã đi quãng đường còn lại bằng xe lửa. Không có đủ tiền cho toa giường nằm, Anna đã ngồi suốt ba mươi sáu giờ đồng hồ, dựa vào Papa khi thấy buồn ngủ, và giờ em đang nghiêng ngả trên hai chân. Giá mà em được nằm xuống đâu đó!
“Ông ấy sẽ đến ngay thôi,” Papa lại nói, lo lắng nhìn quanh khuôn mặt của những người ở gần họ.
Anna đã để mí mắt nặng trĩu của em được khép lại trong giây lát. Lúc này em mở to mắt vì kinh ngạc. Papa vừa mới nói tiếng Đức!
Chắc hẳn cha thấy lo lắng lắm.
Anna không dừng lại để tự hỏi liệu mình có đúng hay không. Em chỉ giải cứu cha theo cách duy nhất mà em biết, dán chặt vào cha như một chú dê
con vô phép, để cho cha biết em đang ở ngay đây.
“Cẩn thận chứ Anna,” Mama la rầy. “Nếu con mệt quá không đứng được, thì ngồi lên cái va li to kìa.”
Thế nhưng Papa lại mỉm cười nhìn xuống khuôn mặt lo âu của cô con gái. “Ông ấy cao và có tóc đỏ,” cha khẽ nói với em.
Anna quay đầu tìm kiếm, nhưng trước khi em kịp nhìn thấy gì ngoài một rừng những đôi chân chen chúc cùng hành lý, ông Menzies đã xuất hiện.
“Ông Ernst Solden?”
“Vâng, vâng. Ông hẳn là ông Menzies.”
Hai người đàn ông bắt tay. Ông Menzies đúng là cao nhưng tóc ông thì bạc nhiều hơn là đỏ.
“Vợ tôi, Klara,” Papa bắt đầu giới thiệu họ. “Con trai cả Rudolf… Gretchen… Fritz và Elfrieda, hai đứa sinh đôi… và đây là Anna.”
Anna chớp chớp mắt khi nghe anh Rudi và chị Frieda được gọi bằng tên đầy đủ. Ông Menzies mỉm cười lịch sự.
“Hai cháu hẳn là trông rất giống cha,” ông nói với anh chị lớn. “Và hai cháu sinh đôi rất giống bà, thưa bà Solden.”
Anna lại giật mình lần nữa. Em chưa bao giờ nghe thấy mẹ được gọi là Bà bao giờ. Dĩ nhiên, nó có nghĩa như từ Frau thôi, nhưng nó khiến Mama nghe như một người lạ.
“Anna,” Papa nói nhanh, “may mắn là trông không giống ai cả trừ chính bản thân con bé.”
Ông luật sư nhìn đứa con út của gia đình Solden và hắng giọng. Ông ấy không biết phải nói gì tiếp theo, Anna bĩu môi nghĩ.
“Tất nhiên rồi,” người đàn ông cao lớn lúng túng nói và quay sang Papa. “Gia đình ta đã ăn gì trên xe lửa chưa?”
Cuộc nói chuyện của người lớn tiếp diễn phía trên đầu Anna. Không có gì thú vị cả. Người Canada này cũng giống như hầu hết những người lớn em đã gặp. Ông ta không thích em. Ờ, em cũng đâu có thích ông ấy.
Di chuyển một cách máy móc, em đi theo những người khác ra khỏi nhà ga, băng qua đường và đi vào một nhà hàng. Ở đó, em nhai nhóp nhép một cái bánh mì kẹp - món em chưa từng ăn trước đây - và uống từng ngụm sữa đựng trong một cái ly cao.
“Mà ông có chắc là ông không muốn ở khách sạn cho đến ngày mai không?” ông Menzies hỏi.
“Trong nhà còn có người à?” Papa hỏi.
Có người trong nhà mới của họ sao? Anna gần như tỉnh hẳn để nghe câu trả lời.
“Không. Những người thuê nhà của ông Solden đều đã dọn đi vào tuần trước - và tôi đã mua lại được một ít đồ đạc của họ, như ông mong muốn. Họ rất hài lòng khi nhận tiền. Đồ cũng không tốt lắm…”
Ông luật sư có vẻ lo lắng. Ernst Solden cười to.
“Ngay lúc này, tất cả những gì chúng tôi muốn là có đủ giường cho tất cả. Tốt, xấu, hay thường thường, chúng tôi không quan tâm, đúng không Klara?”
Mẹ lúng búng đồng ý, nhưng có vẻ bà không chắc chắn và thoải mái về chuyện đó như Papa.
“Hai cái rương lớn có đến cùng chăn ga và chén đĩa rồi chứ?” mẹ hỏi.
“Đúng, tôi đã cho người đưa đến nhà rồi. Nếu không phải là vợ tôi đang ốm,” ông Menzies tiếp tục lo lắng, “thì bà ấy đã tạt qua xem nhà cửa đã
sạch sẽ chưa. Những người mà ông Karl cho thuê nhà ở đó đều là người ngoại quốc, ông biết đó. Họ…”
Ông ta im bặt và đỏ mặt. Papa lại cười vang.
“Người ngoại quốc phải không?” cha nhắc lại. “Không sao đâu, ông Menzies. Chúng tôi cũng nói vậy trong tiếng Đức. Nếu nhà đã trống và chăn màn đã đến, chúng tôi sẽ ổn thôi. Chúng tôi có thể dọn dẹp ngôi nhà.”
“Thức ăn có vị dị nhỉ?” lúc đó Frieda thì thầm với Anna, và Anna thôi không cố theo dõi câu chuyện của những người lớn nữa.
Em gật đầu và nhăn mặt khi cắn miếng tiếp theo, mặc dù thật ra em không thấy đồ ăn có vấn đề gì cả.
“Em điên rồi,” Fritz nói với em sinh đôi của mình. “Đây. Đưa cho anh.”
Thức ăn là một trong một số ít những điều mà cặp sinh đôi khác biệt nhau. Fritz ngốn sạch bất cứ món gì được để trước mặt anh. Frieda thì hay càu nhàu và nhấm nhẳng. Tuy vậy cả hai người đều gầy và dẻo dai. Anna, đứa ăn nhiều hơn chị Frieda nhưng ít hơn anh Fritz, lại chắc nịch và có xương to.
“Như một con bê,” Mama thỉnh thoảng sẽ trêu.
“Franz Schumacher nói là anh ấy sẽ gặp chúng ta ở đây,” ông Menzies giải thích cho cha mẹ em. “Anh ấy là một người bạn tuyệt vời của Karl.”
Mama rạng rỡ hẳn lên. Schumacher là một cái tên Đức hay. Franz cũng vậy.
“Chúng ta sẽ cần hai chiếc xe ô tô để chở cả gia đình và hành lý về nhà. Anh ta đến trễ. Bệnh nhân giờ chót, tôi nghĩ vậy.”
Những từ ngữ nhòe đi trong đầu Anna. Em làm rơi cái bánh mì kẹp đang ăn dở. Đến khi bác sĩ Schumacher vội vã đi vào, em đã ngủ ngon lành trên ghế của mình. Lần này, em đã bỏ lỡ phần giới thiệu. Em đã không dậy nổi
cho đến khi một giọng nói trầm thấp cất lên, ngay cạnh em, “Tôi sẽ bế cô bé này.”
Mama phản đối. “Con bé nặng lắm, không bế nổi đâu. Đánh thức nó dậy đi. Anna… Anna!”
Con không dậy nổi, Anna lơ mơ nghĩ, mắt vẫn nhắm chặt. Một đôi tay mạnh mẽ nâng bổng em lên.
“Cô bé không nặng chút nào cả,” bác sĩ Schumacher nặng nhọc nói, nhấc em một chút để bế chắc hơn. Anna khẽ hé mắt trong một tích tắc, chỉ đủ để nhìn thấy khuôn mặt to đùng thân thiện. Chú ấy đã nói gì nhỉ? Có phải em đã thực sự nghe thấy không?
Nếu bác sĩ có biết em đã thức, thì chú cũng không tỏ dấu hiệu gì. “Nhẹ tựa lông hồng - thật đấy!” bác sĩ nói với Mama.
Anna nằm im ru trên tay bác sĩ. Em vẫn nhắm tịt mắt lại và em không mỉm cười.
Nhưng em đã yêu chú Franz Schumacher từ giây phút đó.
Chương 6
MỘT NỬA NGÔI NHÀ
FRANZ SCHUMACHER đã thở hổn hển trước khi chú đến được chỗ cái xe của mình, nhưng chú không để Anna xuống.
Khi họ đi theo chú, Frieda chọc chọc Fritz. “Nó có ngủ thật đâu,” em thì thầm.
“Ai mà chẳng biết,” Fritz đồng ý. Rồi anh nhún vai. “Với Anna thì, ai mà biết tại sao?” anh lẩm bẩm.
Frieda gật đầu và vội vã để theo kịp những người khác.
“Tôi sẽ chở ông Solden cùng mấy cậu bé và hai chiếc túi lớn,” ông Menzies đề nghị khi bác sĩ Schumacher, vẫn đang bế Anna, dừng lại nhìn chiếc xe của mình một cách vô vọng.
“Cửa xe khóa rồi,” chú giải thích.
Mama không phí nhiều lời. Mẹ túm lấy cánh tay đang đung đưa của Anna và lắc thật mạnh.
“Đủ rồi đấy, Anna,” mẹ cáu kỉnh nối bằng tiếng Đức. “Con đâu có ngủ gì. Xuống ngay và tự đứng đi.”
Anna mở mắt chậm hết mức mà em dám. Em ngáp thật to, thật vô tội, như một chú mèo con. Rề rà lâu nhất có thể, đến tận giây cuối cùng em mới thả người xuống vỉa hè. Bác sĩ Schumacher mỉm cười với em khi chú thả em xuống, nhưng Anna nhận thấy được sự khinh thường của gia đình em.
“Ai cũng sẽ kiệt sức sau một chuyến đi dài như thế mà,” bác sĩ nói, đỡ em đứng thẳng. Giọng chú có vẻ nghiêm túc nhưng đôi mắt chú hấp háy.
Chú ấy biết mình không thực sự ngủ, Anna nghĩ, và chú ấy không bận tâm.
Bác sĩ Schumacher xoay người chuẩn bị mở cửa xe.
“Trong này này, Anna,” chú hướng dẫn. “Chú sợ là cháu sẽ phải ép người lại để đủ chỗ.”
Anna cố ép người, nhưng vẫn không có đủ chỗ. Mama kéo em. “Đến đây. Con sẽ phải ngồi lên đùi mẹ,” mẹ nói.
Anna vâng theo nhưng lần này em biết là em quá nặng. Em cố làm cho bản thân nhẹ hơn, chỉ ghé vào một chút trên đùi mẹ. Chiếc xe khởi động với một cú giật. Anna tuột về phía sau, và Mama hộc lên khi không khí bị tống ra khỏi người mẹ. Cô bé sẵn sàng tinh thần bị ăn mắng nhưng mẹ em, khi đã có đủ hơi để nói, đã kiểm soát được cơn giận của bà. Bà mím chặt môi và nhích người để điều chỉnh bản thân cho phù hợp với trọng lượng của Anna.
Họ cứ đi và đi mãi. Ánh sáng hắt ra từ trong những ngôi nhà họ đi qua nhưng chúng đã bị làm mờ vì những tấm rèm cửa khép chặt. Đường phố vắng vẻ và u ám trong buổi chạng vạng. Anna nheo mắt nhìn ra bóng tối bên ngoài, nhưng em không trông thấy thứ gì dễ chịu, không một thứ tươi sáng nào nói, “Chào mừng đến Canada!” Cổ họng em chợt đau vì một sự khổ sở bất ngờ.
“Trông cô đơn quá,” Mama lẩm bẩm.
Gretchen, ngồi ở giữa với hành lý ở phía bên kia, không nói gì đáp lại. Có lẽ chính chị cũng đang nhớ lại những con phố nhỏ ở Frankfurt nơi gia đình Solden đã quen thuộc và ai cũng biết rõ. Ngay cả Frau Meyer mập ú, người
hay phàn nàn này nọ về tiếng ồn khi các em chơi trên phố, cũng cứ như một người bạn khi mà giờ đây họ sẽ không bao giờ gặp lại bà ấy nữa.
Trong một thoáng, tâm trí Anna suy nghĩ vẩn vơ, hình dung ra những người hàng xóm của họ - Trudi, em bé ở tầng dưới, vẫn chưa đi vững khi họ ra đi; Maria Schliemann, bạn thân của chị Gretchen; Herr Gunderson…
Đột nhiên, tâm trí em lại giật nhanh về hiện tại. Có phải Mama thực sự đã nói “trông cô đơn” không? Chị Frieda đang tán gẫu với bác sĩ Schumacher. Chiếc xe cũ kêu lách cách và ầm ầm. Có lẽ em chỉ tưởng tượng ra mình nghe thấy Mama nói thôi.
Em hơi xoay người và cố đọc biểu cảm trên mặt mẹ. Nếu mẹ thấy cô đơn, Anna không biết phải làm gì đây.
Khuôn mặt mẹ vẫn ẩn đi trong bóng tối.
Chị Gretchen, nói gì đó với Mama đi, Anna thầm ước.
Rồi chiếc xe dừng lại ở một ngã tư, ngay dưới một ngọn đèn đường. Klara Solden ngẩng đầu lên và mỉm cười tươi tắn với Anna và cả với Gretchen.
“Chúng ta sẽ đến nơi nhanh thôi, mấy con, rất nhanh thôi,” mẹ nói với họ bằng thứ tiếng Anh nhát gừng của mẹ. “Chúng ta gần đến nhà mới rồi.”
Làm như bọn con không biết chuyện đó vậy! Anna giễu thầm trong lòng, một lần nữa quay lưng về phía mẹ.
Giọng nói ồn ào vui vẻ quá mức của mẹ khiến buổi chạng vạng càng thêm hiu hắt hơn bao giờ hết.
“Các con hẳn là phấn khích lắm nhỉ, cả hai đứa,” Mama lấn tới. “Đây là một cơ hội tuyệt vời cho con, Gretchen… và cả Anna nữa… nhìn thấy một đất nước khác… trong khi các con chỉ mới còn rất nhỏ.”
Mama không có vẻ gì là tin vào lời do chính mình nói ra, dù chỉ một từ. Anna nhìn ra ngoài con đường tăm tối. Không đến lượt em trả lời, kể cả khi em biết phải nói điều gì. Chị Gretchen sẽ làm điều đó. Gretchen, cục cưng của Mama, sẽ biết chính xác cần nói gì để xoa dịu mẹ của các em. Anna chờ đợi.
Gretchen không nói gì cả.
Quên Maria đi, Anna mắng chị mà không gây ra tiếng động nào. Nói gì đi chứ. Nói gì đó với Mama đi.
Gretchen ho, một tiếng ho khẽ khô khốc.
Rồi, chậm mất vài giây, chị rốt cuộc cũng đáp lại bài diễn văn động viên của Mama.
“Đúng vậy, Mama, tất nhiên là tụi con phấn khích rồi,” chị nói. “Mọi thứ sẽ rất tốt đẹp, con chắc chắn thế.”
Giờ đến lượt giọng của Gretchen lớn một cách mất tự nhiên, cố ra vẻ vui vẻ, y như giọng của Mama. Anna cứng người vì giận hai người họ. Sao họ không thể là những người điềm đạm và khó ưa như bình thường chứ? Sao họ phải dũng cảm đến thế làm gì?
Frieda, trong lúc đang kể cho bác sĩ Schumacher chuyện em và Fritz đã thắng một cuộc thi hát năm bảy tuổi như thế nào, quay đầu nhìn chị gái mình qua vai.
“Chị nói gì vậy, chị Gretchen?” Frieda hỏi.
“Chị đang nói chuyện với Mama.” Giọng Gretchen lúc này nghe dửng dưng.
“Mama có nói gì ạ?” Frieda chất vấn, không muốn bị cho ra rìa.
“Không có gì đâu, Frieda. Thôi kệ đi,” mẹ đáp. Rồi mẹ vươn tay ra siết chặt tay Gretchen, lúc này đang nắm chặt lại trên đùi.
“Cảm ơn con, con gái,” mẹ nói nhẹ nhàng. “Mẹ biết con đang cố gắng. Ngay lúc này… ngay lúc này, con là đứa con thân yêu nhất.”
Đó là giọt nước làm tràn ly. Lâu lắm rồi Mama không gọi ai là “đứa con thân yêu nhất”, và Anna cảm thấy biết ơn vì điều đó, dù không để bản thân nghĩ về nó. Đó là một truyền thống của gia đình, một điều Mama đã từng làm từ trước cả khi Anna có thể nhớ được. Mama luôn cam đoan với các
em rằng mẹ yêu từng đứa ngang nhau. Cả năm đứa con đều quý báu. Không có đứa nào là đứa mẹ thích nhất cả. Tuy nhiên đôi khi, một đứa sẽ làm một chuyện gì đó cực kỳ đặc biệt và trở thành “đứa con thân yêu nhất” của Mama trong lúc đó.
Ai cũng thích điều này - tất cả mọi người trừ Anna.
Em biết, và cả những người khác cũng biết, rằng em chưa bao giờ thực sự là “đứa con thân yêu nhất” cả. À thì thỉnh thoảng mẹ cũng gọi em như thế, nhưng luôn luôn là những khi Anna làm một việc mà Mama yêu cầu em làm, như chuẩn bị bàn ăn hay ra tiệm mua đồ. Anna cố gắng không quan tâm, dĩ nhiên. Em thường tự nói với mình rằng em chẳng quan tâm tẹo nào. Tuy vậy, vẫn thật tốt khi Mama đã thôi không nghĩ đến nó nữa. Kể từ khi Papa thông báo rằng gia đình họ sẽ đi Canada, Mama dường như không còn để ý đến những khoảnh khắc đặc biệt.
Và lần này thì có gì tuyệt vời đến thế ở chị già Gretchen ngu ngốc chứ? Anna thầm hỏi cả thế giới. Chị ấy ngoan là có mục đích cả mà.
Mama và chị Gretchen đang nói chuyện khe khẽ bằng tiếng Đức nhưng Anna sẽ không nhượng bộ mà lắng nghe. Em không muốn nghe Gretchen ra vẻ…
Trưởng thành, Anna nghĩ.
Nhưng chuyện đó thật ngớ ngẩn. Gretchen mới mười ba thôi. Trưởng thành cái gì chứ.
“Chúng ta đến nơi rồi,” bác sĩ Schumacher nói và đậu xe. Họ rời nhau ra và trèo xuống xe.
“Ở đó,” bác sĩ đưa tay chỉ.
“Cả ngôi nhà sao?” Mama há hốc.
Đã nhiều năm họ không có được một ngôi nhà cho riêng mình. Từ khi Gretchen còn là một đứa bé, họ từng sống trong một ngôi nhà nhỏ xíu.
Nhưng Frieda nhìn kỹ hơn.
“Chỉ có một nửa ngôi nhà thôi ạ,” em nói. “Có người ở nửa bên kia.”
“Đúng vậy. Gia đình mình chung tường với nhà hàng xóm,” bác sĩ đồng ý. “Nhưng nó thật sự là một ngôi nhà riêng biệt.”
Mama đột nhiên thở dài. Nghe gần như một tiếng nức nở. Lần này, Gretchen đã có sẵn lời hay để nói.
“Trông sẽ khá hơn khi có ánh đèn sau cửa sổ đó ạ, Mama,” em nói. “Mẹ biết,” Klara Solden đáp, gắng hết sức để nghe có vẻ bị thuyết phục.
Rồi một chiếc xe nữa tấp vào và Papa xuất hiện. Khi Mama quay về phía cha, bằng cách nào đó, mẹ đã nở ra một nụ cười thật sự.
“Nhà mới của chúng ta, anh Ernst,” mẹ nói.
Giờ Papa đứng nhìn chằm chằm vào lát cắt cao và mỏng dính tức ngôi nhà của họ.
“Anh Karl muốn làm gì với một nơi có kích thước thế này chứ?” cha thắc mắc thành tiếng.
“À, ông ấy không sống ở đây. Ông ấy cho thuê nó. Ông ấy ở cùng một gia đình ngay cạnh cửa hàng. Tôi không biết tại sao ông ấy mua nơi này nhưng tôi e là nó cũng khá xuống cấp rồi,” ông Menzies giải thích.
Papa trầm ngâm gật đầu.
“Vâng, dĩ nhiên, tôi nhớ rồi. Karl đã định kết hôn nhiều năm trước. Cô Gerda Hertz… nhưng cô ấy đã không đợi. Chúng ta đi vào đi.”
Đó là một ngôi nhà bẩn thỉu. Nó tối thui và nghe có mùi bí bách và ẩm mốc. Chân họ nghiến lên sàn lạo xạo khi họ chen nhau đi vào sảnh dưới nhà. Anna lại chen đến gần Papa, lần này vì chính em muốn được trấn an. Cha đặt chiếc va li to đang xách xuống đất và đặt một bàn tay lên đầu em. Tay cha để yên đấy chỉ trong một thoáng. Vậy là đủ rồi. Anna nhanh chóng lỉnh đi trước khi những người khác kịp nhận thấy.
Ông Menzies đi từ phòng này qua phòng khác, bật các ngọn đèn lên. Gia đình Solden theo sát phía sau. Đây không phải là ngôi nhà ta nên khám phá một mình.
Mọi người lên lầu được vài phút rồi mới phát hiện ra họ bị thiếu một phòng ngủ. Có một phòng dưới nhà với một cái giường đôi thật to. Đó rõ ràng là phòng của Mama và Papa. Có một phòng nhỏ ở mặt trước của tầng trên căn nhà. Nó nhỏ vì phòng tắm ngay cạnh đã lấn vào diện tích của nó. Nó cũng có một chiếc giường đôi - và gần như không có chỗ cho bất kỳ cái gì khác. Một cái tủ áo chen vào phía sau chiếc giường nhưng ta chỉ có thể mở các ngăn tủ ra một nửa. Không ai muốn căn phòng đó.
Rudi giành ngay cái phòng ngủ duy nhất còn lại, ngay khi họ bước vào. “Đây hẳn là chỗ của Fritz và con rồi,” anh nói.
Anh ném hết những đồ đạc lỉnh kỉnh trên tay xuống cái giường đơn trông có vẻ đỡ tồi tàn hơn trong hai cái.
“Nhưng mà, anh Rudi,” Gretchen lên tiếng.
Chị bỏ dở câu nói. Rudi là anh cả mà.
“Được rồi. Thôi nào, Frieda,” chị thở dài, liếc mắt về căn phòng đầu tiên ở đằng xa.
“Nhưng Papa,” lúc đó Frieda nói. “Cha xem. Không có chỗ nào cho Anna cả.”
Chương 7
CHỖ CỦA ANNA
NGAY SAU ĐÓ FRIEDA lộ vẻ áy náy.
“Không phải là chị không muốn chung phòng với em, Anna,” chị vội vã nói, đôi mắt nâu của chị hy vọng cô em gái sẽ hiểu. “Nhưng chỉ có một cái giường - mà chị đã chung giường với em suốt đoạn trên tàu thủy đó.”
Chị nhe răng cười, cố gắng khiến Anna cười theo.
“Chị có thể cho em xem mấy vết bầm tím,” chị nói.
Anna không thể trả lời. Có gì để nói đây? Em biết em có nết ngủ rất xấu. Trên tàu Frieda thường phải huých em thức dậy và bảo em thôi đạp xung quanh trên chiếc giường chật hẹp mà hai chị em chia nhau.
Ở đây hẳn phải có chỗ nào đó chứ. Chắc phải có.
“Tôi tìm thấy cái này,” bác sĩ Schumacher gọi to. Giọng chú vang vọng một cách kỳ dị đến chỗ họ từ phía hành lang tối mò. Cảm thấy nhẹ cả người, họ đi nhìn xem. Anna đi chậm chạp, lưng em rất thẳng, đầu em ngẩng cao hơn cả cao.
Đó không thật sự là một căn phòng. Nó là một phần lẹm vào của hành lang với một mặt hở, một không gian nằm giữa hai phòng ngủ kia.
“Một hốc tường,” ông Menzies nói.
Anna nuốt khan. Trong đó tối om và không có cửa sổ. Nhưng có một cái giường đơn hẹp kê sát tường. Ai đó đã từng dùng nơi này như phòng ngủ.
“Anna còn quá nhỏ để có thể ngủ ngoài đây một mình,” Mama nói, giọng mẹ lộ rõ vẻ lo âu.
“Nó không thể ngủ với Frieda và con được, nếu đó là điều mẹ đang nghĩ,” Gretchen phát tiết. Chị đã quá mệt mỏi với việc phải ra vẻ là một người chị lớn tốt bụng, dũng cảm. Chị nói một cách gay gắt, không có chút lòng thương nào. “Mẹ biết nó như thế nào mà, Mama. Thỉnh thoảng nó còn rên rỉ nữa cơ!”
Cơn giận bùng lên trong Anna, cứu rỗi em. Có cái gì đó như là sự thương hại trên khuôn mặt của bác sĩ Schumacher giúp đổ thêm dầu vào lửa.
“Con muốn ngủ ở đây. Con muốn được ở một mình,” em tuyên bố một cách quyết liệt. “Con ghét phải ở chung - nhất là với mấy chị!”
Cơn giận của Klara Solden cũng bắt lửa nhanh như Anna.
“Tốt thôi,” mẹ gắt lên, tất cả vẻ dịu dàng biến mất. “Chỗ này sẽ là phòng của Anna. Và không ai được làm phiền em. Nhớ đấy. Chúng ta sẽ đợi con năn nỉ.”
Những người khác lầm bầm tán thành một cách khó khăn. Mấy đứa lớn đột nhiên bận rộn nhìn chân chúng. Có gì đó trong sự cô đơn của Anna khiến chúng không muốn phải nhìn. Papa hắng giọng.
“Papa,” Anna gằn giọng trước khi cha kịp nói gì.
Cha im lặng, đưa mắt xuống nhìn em, và lại hắng giọng.
“Chuyện gì vậy, anh Ernst?” Mama bực bội hỏi.
“Không có gì,” Papa nói. “Chúng ta sẽ mua cho con một cái tủ thật đặc biệt để con đựng đồ nhé, Anna?”
“Được ạ,” Anna nói bằng giọng uể oải vô vị, như thể chuyện đó thế nào cũng không quan trọng.
Đột nhiên Papa đứng ra chỉ đạo.
“Mọi người đi tắm cả đi, Klara,” cha ra lệnh. “Anh sẽ tìm thùng đựng đồ trải giường cho em. Mấy đứa nhóc này ngủ đứng luôn rồi.”
“Em cần cái gì đó để chùi rửa bồn tắm,” Mama đáp, dũng cảm bắt đầu cố gắng làm điều bất khả. “Gretta, con đến giúp mẹ. Ôi, nơi này cần được dọn dẹp.”
“Ngày mai chúng ta sẽ ổn định nhà cửa hơn,” Papa nói với theo mẹ. “Trông sẽ khá hơn dưới ánh sáng ban ngày… Còn thức ăn cho bữa sáng thì sao?” cha nhớ ra, quay lại hỏi ông Menzies.
Ông Menzies trông có vẻ vô vọng. “Vợ tôi…” ông nói rồi dừng lại. Bác sĩ Schumacher trả lời thay.
“Anh sẽ tìm thấy rất nhiều ở cửa hàng,” ông nói. “Anh có chìa khóa không, John? Giờ chúng ta có thể đi luôn.”
Ông Menzies đưa chìa khóa ra, và ba người đàn ông đi đến cầu thang.
“Khi nào anh đã ổn định và cảm thấy thoải mái hơn một chút,” bác sĩ nói, “mang mấy đứa nhỏ đến văn phòng của tôi để khám sức khỏe nhập học nhé.”
“Đi học ạ!” Fritz lặp lại, giọng kinh hãi.
Bác sĩ quay lại nhìn cậu nhóc và cười to.
“Đúng rồi, đi học,” chú nói. “Bắt đầu từ thứ Ba tuần sau.” Fritz kêu trời.
Mấy người đàn ông đi xuống lầu, bác sĩ Schumacher giải thích về địa chỉ văn phòng của chú trên đường đi.
“Đi nào, Fritz,” Rudi ra lệnh. Hai cậu bé biến mất vào phòng mới của họ. Frieda chạy theo họ.
Anna đứng một mình ngoài hành lang. Em có thể nghe thấy giọng mấy người đàn ông rì rầm dưới nhà, tiếng Rudi đang nói với hai đứa em sinh
đôi phòng “của anh” phải được sắp xếp thế nào, tiếng nước đang chảy vào bồn tắm.
Gretchen quay lại đi qua hành lang. Mama bảo chị đi kiếm khăn tắm.
Cô chị suýt nữa thì vấp phải Anna, lúc này vẫn đang đứng một mình trong hốc tường nơi sẽ là phòng ngủ của em. Gretchen khựng lại. Chị nhìn cô em gái. Đứng ở đó, một mình, cô bé dường như đang kêu khóc cầu xin giúp đỡ. Nhưng Gretchen biết Anna. Không dễ dàng như thế. Nhóc con đó cũng khó lại gần như một con nhím. Hỏi nó có chuyện gì thì cũng như không mà thôi. Nó sẽ không bao giờ nói.
Hơn nữa, Gretchen nghĩ, có quá nhiều điều không ổn. Mình cũng ghét chỗ này. Chúng ta lẽ ra không bao giờ nên đến nơi kinh khủng này.
“Gretchen, con có qua không đấy?” Mama gọi.
“Dạ, Mama. Một phút nữa ạ!” Gretchen nói to đáp lại.
Chị đi hai bước về phía cầu thang. Phía sau lưng chị, Anna đứng im bất động, không nói một lời. Dù lòng không muốn, dù biết rằng chỉ vô ích mà thôi, Gretchen vẫn quay lưng lại.
“Anna à, chuyện cũng không tệ đến vậy đâu…” chị mở lời.
“Mama đợi chị kìa,” Anna ngắt lời. “Chị nên đi đi. Với lại chị đang đứng trong phòng em, mà em đâu có mời chị vào.”
“Em… thật là… hết thuốc chữa!” Gretchen ném những lời đó vào cô bé. Chị xoay người đi và chạy xuống cầu thang.
“Papa!” Anna nghe chị gọi. “Mama cần mấy cái khăn tắm.”
Em lại chỉ còn một mình. Em lùi lại và cẩn thận ngồi xuống mép chiếc giường đơn ọp ẹp. Em ngồi im lìm, đôi cánh tay ôm vòng lấy chính mình.
Đi học - thứ Ba tuần sau!
Tất nhiên, lẽ ra em phải biết chuyện đó. Lẽ ra em phải thấy trước rằng chuyện sẽ đến. Thế mà không hiểu sao, giữa tất cả những sự vội vàng của việc đóng gói hành lý và nhiều tuần di chuyển, em chưa bao giờ nghĩ xa đến mức đó. Chưa từng một lần em tưởng tượng ra việc bản thân mình sẽ đi học ở một đất nước xa lạ.
Việc đến trường đã đủ tồi tệ ở Frankfurt rồi. Anna ngồi trong bóng tối và nhớ đến Frau Schmidt. Giờ việc đó sẽ bắt đầu lại lần nữa, chỉ là lần này nó sẽ tồi tệ hơn gấp một trăm lần. Nó sẽ diễn ra bằng tiếng Anh.
Cho đến khi Mama xông vào tìm em, Anna vẫn chưa hề nhúc nhích.
“Anna Elisabeth Solden, đứng lên khỏi chỗ đó rồi cởi đồ đi tắm ngay. Con bị làm sao vậy hả?” Mama kéo em, khiến em phải đứng lên. “Mẹ sẽ chuẩn bị giường sẵn sàng cho con khi con tắm xong. Đây, để mẹ giúp.”
Anna giằng thoát ra. “Con tự làm được,” em nói.
Hai tay Mama buông thõng. Bà thở dài. Rồi bà cau mày. Anna đang di chuyển - nhưng thật rề rà.
“Nói tiếng Anh đi,” đột nhiên mẹ em ra lệnh.
Có lẽ cả mẹ cũng đang nghĩ về năm học sắp bắt đầu. Có lẽ mẹ cũng lo lắng cho Anna, đứa con Đức duy nhất của mẹ.
“Con không nói,” Anna nói bằng tiếng Đức. Từng lời nghiến kèn kẹt trong cổ họng em.
Rồi em quay lưng về phía mẹ và kéo váy lên qua đầu. Bất kể Mama có nói gì sau đó, em cũng không thể nghe được.
Chương 8
PHÁT HIỆN CỦA BÁC SĨ SCHUMACHER
PHÒNG CHỜ CỦA BÁC SĨ SCHUMACHER cũ kỹ và đông đúc. Khi gia đình Solden đến, hai cậu con trai phải đứng dựa vào tường cùng với cha vì không có đủ ghế.
“Nào,” bác sĩ Schumacher cười, “ai trước?”
Rudi bước lên. Mama đứng dậy để đi cùng anh.
Anh cau có nhìn mẹ.
“Con không phải là con nít,” anh làu bàu, nghe y như Anna.
“Để thằng bé tự vào đi, Klara,” Papa nói. “Đi đi, Rudi.” Cha bước qua và ngồi xuống ghế băng bên cạnh vợ, cho Anna ngồi vào lòng để lấy chỗ.
“Sẽ ổn thôi mà,” cha nói với mẹ. “Cứ đợi xem. Em sẽ thấy.”
Mama không tin. Bà đã quen với việc chỉ đưa lũ con đi bác sĩ khi chúng bị ốm. Gretchen đã phải mổ amidan khi chị mới ba tuổi. Fritz thì bị đau tai rất tệ. Còn Rudi bị gãy tay do té xuống từ một cái cây mà trước đó anh đã được dặn là không được leo. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, Mama không cần một bác sĩ bảo bà phải làm những gì. Mẹ có phương thuốc của riêng mẹ cho chứng đau họng và trầy đầu gối, đau bụng, và thậm chí cả bệnh sởi. Họ đều đã tiêm ngừa trước khi đến Canada, nhưng chuyện diễn ra quá gấp gáp nên mẹ đã không có thời gian để nghĩ về nó. Nhỡ mà cái ông bác sĩ bà không quen biết này phát hiện ra một trong những đứa con của bà có một căn bệnh ghê gớm nào đó thì sao?
“Em không tin tưởng mấy ông bác sĩ ngoại quốc này,” mẹ làu bàu với Papa.
“Klara, chúng ta mới là những người ngoại quốc ở đây!” cha nhắc nhở mẹ, giọng khẽ nhưng không bận tâm tới mức phải thầm thì. “Hơn nữa, Franz Schumacher cũng là người Đức như em thôi.”
Mama lắc đầu - nhưng Rudi đã đứng đó, miệng cười toe toét.
“Một đứa khỏe mạnh!” bác sĩ Schumacher nói. “Cháu tiếp theo - Gretchen, phải không?”
Lần này Mama ngồi im, dù đôi mắt của mẹ dõi theo Gretchen từng bước cho đến khi cánh cửa khép lại sau lưng cô bé.
“Anh có nghĩ là trông con bé hơi xanh xao không?” mẹ hỏi Papa.
Ernst Solden cười phá lên, một tiếng cười tràn ngập căn phòng. “Gretchen - xanh xao á! Hai má con bé như hoa hồng và em biết rõ như thế mà.”
Anna rúc sát vào người cha hơn và cũng cười. Thật hài hước khi nghĩ Gretchen xanh xao.
“Chị ấy xanh mét lúc ở trên tàu đấy ạ,” em phát biểu.
“Nào, Anna, vậy là không tế nhị,” cha em nói. “Chỉ vì con là người duy nhất tỉnh táo…”
Mama nghiêm khắc suỵt cả hai người.
Papa cười nhẹ lần nữa và ôm chặt Anna một cái.
Gretchen quay trở lại, đôi má vẫn đỏ hồng như mọi khi. Frieda đi vào và đi ra. Fritz lâu hơn vài phút.
“Chắc Fritz bị cái gì rồi…” Mama nói, đôi mắt mẹ mở lớn.
“Bác sĩ cho con nghe tiếng tim của con,” Fritz khoe, nhảy tưng tưng ra phòng chờ.
“Nhà Solden, một gia đình hoàn toàn khỏe mạnh,” bác sĩ Schumacher nói to, chìa một bàn tay xòe rộng về phía Anna. Em lập tức trượt khỏi đầu gối của cha, và đặt tay mình vào tay bác sĩ. Papa nhoẻn miệng cười. Vậy là một người khác đã phát hiện ra cách để đến gần Anna của ông!
Khi họ biến mất, Mama thở ra một hơi đầy nhẹ nhõm.
“Không phải anh đã nói với em rồi sao?” chồng bà trêu.
Bà phải gật đầu. Chỉ còn lại Anna - mà Anna thì chưa từng bị bệnh gì nghiêm trọng suốt từ bé đến giờ.
“Cho chú nghe cháu đọc những chữ trên bảng này nhé,” bác sĩ Schumacher nói với đứa con út nhà Solden.
Anna cứng người! Đọc! Em không thể…
Em nhìn chỗ bác sĩ đang chỉ. Tại sao, chỉ có một chữ cái ở đó thôi mà. Quá dễ! Giờ em đã biết gọi tên các chữ cái rồi.
“E,” em nói với bác sĩ.
“Và hàng tiếp theo ở dưới?” bác sĩ hỏi.
Anna nhướng mày lên. Đúng ha, có những chữ khác nữa. Giờ em có thể nhìn thấy chúng, khi em nheo mắt. Chúng trông như những con bọ màu xám nhỏ xíu, đang ngọ nguậy.
“Chữ nhỏ quá, cháu không đọc được ạ,” em nói.
Mười phút sau, khi đã đảm bảo vô cùng chắc chắn, bác sĩ ra ngoài phòng đợi cùng cô bé.
“Quý vị có biết đứa bé này không thể nhìn thấy không?” chú hỏi với giọng nghiêm khắc.
Khuôn mặt ngơ ngác của ông Ernst và bà Klara Solden đã cho chú câu trả lời. Bỗng cảm thấy áy náy, bác sĩ cố nhẹ giọng, dù chú vẫn còn tức giận
thay cho Anna.
“Ít nhất là cô bé không thấy được nhiều,” chú sửa lại câu nói khi nãy.
Mama chộp lấy Anna. Giá mà Anna biết, ngay khoảnh khắc đó em chính là người quan trọng duy nhất. Lần đầu tiên em thực sự là “đứa con thân yêu nhất”. Nhưng Anna không đoán. Em giằng nhẹ ra khỏi đôi bàn tay lo âu của mẹ em và đứng ngoài tầm với.
“Dĩ nhiên là con bé nhìn thấy!” Klara Solden nói hổn hển, quay đầu khỏi Anna và nhìn sang vị bác sĩ ngoại quốc mà ngay từ đầu bà đã không tin tưởng. “Ý anh là gì? Đừng có nực cười như vậy!”
Bác sĩ nhìn từ cha sang mẹ của Anna.
“Mắt cô bé rất kém, thực sự rất kém,” bác sĩ nói. “Cô bé nên đeo kính. Lẽ ra cô bé nên đeo kính từ hai, ba năm trước rồi. Nhưng trước khi chúng ta đi sâu hơn, tôi muốn cho cô bé khám với một bác sĩ nhãn khoa… một bác sĩ về mắt.”
Lần này Mama không chịu bị bỏ lại. Những người khác ở lại phòng chờ của bác sĩ Schumacher trong khi Anna được dẫn lên lầu để gặp bác sĩ Milton. Mama khịt mũi xem thường khi nghe thấy cái tên này, nhưng bà quá sợ hãi nên không làm thêm hành động phản đối nào.
Tất cả mọi chuyện đều như một cơn ác mộng với Anna. Một lần nữa, em phải đọc những chữ cái trên một tấm bảng tít đằng xa. Một lần nữa, em chỉ có thể thấy chữ E to. Vị bác sĩ mới soi kỹ mắt em với một cái đèn nhỏ rất
sáng. Ông ta bắt em nhìn qua một loạt những thấu kính. Bất thình lình, những chữ cái khác hiện ra.
“F… P,” Anna đọc nho nhỏ. “T… O, cháu nghĩ là… Z.”
“Giờ đến những chữ này,” bác sĩ Milton nói, chỉ vào hàng chữ tiếp theo. Nhưng chúng quá nhỏ.
Bác sĩ Milton tặc lưỡi. Ông bắt đầu nói với Mama bằng thứ tiếng Anh siêu tốc. Mama vung hai tay lên và đáp trả ông ta bằng một tràng tiếng Đức. Bác sĩ Milton dẫn họ xuống văn phòng của bác sĩ Schumacher và hai vị bác sĩ trao đổi với nhau. Gia đình Solden hồi hộp chờ đợi, Anna trông có vẻ phụng phịu, giống như con người khó bảo, dễ hờn giận mọi ngày của em. Trong lòng em đang cố gắng vờ như em không có ở đó. Không có tác dụng gì cả.
Bác sĩ Schumacher sau đó lại dẫn em đến một phòng khác, nơi em ngồi xuống một chiếc ghế và đeo thử những cái gọng kính.
“Thật là một cô bé dễ thương,” nhân viên đo thị lực nói đầy trìu mến. Anna trừng mắt.
“Ngay cả khi đeo kính, cô bé cũng sẽ không có thị lực bình thường,” Franz Schumacher giải thích khi họ đã quay lại văn phòng của chú. Những người lớn ngồi xuống ghế. Anna đứng gần Papa nhưng em không nhìn cha. Thay vào đó em di mũi giày tới lui trên tấm thảm cũ. Có lẽ em có thể đục một cái lỗ trên nó. Điều đó sẽ dạy cho bác sĩ Schumacher một bài học.
“Cô bé sẽ phải học một lớp đặc biệt, lớp Bảo vệ Thị lực,” bác sĩ nói tiếp. “Chương trình học ở đó được thiết kế dễ hơn cho những đứa trẻ có thị lực kém.”
“Không đi học cùng với các anh chị nó sao!” Mama kêu than, hy vọng rằng mẹ hiểu sai.
Bác sĩ Schumacher đổi sang nói tiếng Đức. Chú nói ân cần, dịu dàng.
“Đó là một nơi rất tốt. Cô bé sẽ thích chỗ đó. Cháu sẽ thích, Anna ạ. Cháu sẽ rất thích nơi đó,” bác sĩ kết thúc.
Ngay từ lúc ban đầu, chú đã bị thu hút bởi cô bé gai góc này. Giờ đây, khi mường tượng ra cuộc sống của cô bé đã khó khăn thế nào từ khi cô bé bắt đầu đi học, chú muốn được làm bạn với cô bé hơn bao giờ hết.
Tất cả những điều này đều nằm trong giọng nói của chú khi chú nói chuyện trực tiếp với cô bé. Chú không chỉ cố trấn an em về lớp học đặc biệt, chú còn nói, dù không thực sự thành lời, rằng chú, Franz Schumacher, yêu mến em, Anna Solden.
Anna vẫn tiếp tục di giày tới lui trên cái chỗ trơ trụi nơi tấm thảm của bác sĩ. Em không nhìn lên hay nói năng gì cả. Chú đã trở thành một phần của giấc mơ tồi tệ mà em bị kẹt trong đó. Em gần như không nghe chú nói gì. Cái mà em nghe được, em lại không tin. Làm sao em có thể thích trường học được?
Trong những ngày sau đó, gia đình Solden bận rộn ổn định cuộc sống trong ngôi nhà mới của họ. Mama và Gretchen lau chùi và đánh bóng, phơi phóng và phủi bụi. Papa kiểm kê tất cả hàng hóa trong tiệm, tìm xem cha có gì, cố gắng quyết định xem cha cần đặt thêm món nào. Từ sau khi Karl Solden qua đời, cửa tiệm vẫn được quản lý bởi nhân viên thuê ngoài, nhưng giờ Papa định sẽ tự mình chăm nom cho nó.
“Anh nghĩ cha đang lo lắng về cửa tiệm,” Rudi nói với các em.
Anna cũng nghĩ thế. Cha em dường như không có một phút rảnh rỗi nào, không có một nụ cười đặc biệt nào. Em lẽo đẽo theo sau cha, cố giúp một tay. Cả hai người đều ngạc nhiên khi em thực sự rất có ích. Em đếm những hộp đào, những hộp bánh quy bột dong. Em rất giỏi đếm. Khi Papa kiểm tra lại, em luôn luôn đúng. Một ngày nọ Frieda cũng tới; chị em đã đếm nhầm.
“Con vội vàng quá, con gái,” Papa nói với Frieda.
Anna nghe mà trừng to mắt. Vậy nghĩa là chậm chạp đôi khi cũng là một điều tốt sao?
Rồi, ba ngày trước khi nhập học, mắt kính mới của Anna được gửi đến. Ngự trên chóp mũi của em, nó trông giống hai mặt trăng tròn. Em đã muốn giật nó xuống mà ném vào một góc khuất nào đó. Nhưng thay vì vậy, em nhìn chòng chọc qua kính một cách đầy hoài nghi.
Trong một khoảnh khắc bất ngờ, một biểu cảm hoàn toàn mới mẻ hiện ra trên khuôn mặt đơn giản bé nhỏ của em, một ánh nhìn vô cùng sửng sốt và kinh ngạc. Em đang nhìn thấy một thế giới mà em chưa bao giờ biết là có tồn tại.
“Ô, Anna, nhìn em giống con cú quá,” Frieda cười ngất, không hề có ý xấu.
Vẻ ngạc nhiên rời bỏ khuôn mặt Anna ngay tức khắc. Em quay lưng về phía cả nhà và giậm chân ầm ầm lên cầu thang về hốc tường của em, nơi không một ai có thể đi theo vào nếu không được cho phép. Vậy nhưng Papa vẫn một mình đi lên vài phút sau đó.
“Con có thích nó không, Anna?” Papa khẽ hỏi.
Lúc đó em suýt nữa đã nói với cha. Em gần như đã nói, “Con chưa bao giờ biết cha có nếp nhăn quanh mắt như thế, Papa. Con biết mắt cha màu xanh nhưng con đã không biết chúng sáng như thế.”
Nhưng em lại nhớ đến những lời cười cợt của Frieda. Em ghét bị người ta cười vào mặt!
“Con có cần phải luôn luôn đeo kính không, Papa?” em buột miệng. Papa trông có vẻ thương hại em nhưng cha gật đầu.
“Con phải đeo kính toàn thời gian và không được nghịch ngợm vớ vẩn đâu đấy,” cha nói cương quyết.
Anna hơi đỏ mặt. Thật không phải khi gạt Papa như thế này. Nhưng em vẫn chưa sẵn sàng để chia sẻ những điều đã xảy ra với em. Ngay cả cha em cũng có thể sẽ không hiểu. Đến chính em còn cảm thấy khó mà tiếp nhận được.
“Được rồi, Papa,” em nói, để từ ngữ kéo lê thê.
Vì muốn an ủi em, cha đặt tay lên cái đầu đang cúi xuống của em. Em lúng túng ngọ nguậy. Cha để em đi.
“Con có muốn quay lại cửa tiệm với cha không?” cha hỏi.
Anna gật đầu. Rồi em nói với giọng nghèn nghẹn, “Con sẽ xuống ngay ạ. Cha xuống nhà đi.”
Ernst Solden toan rời đi. Rồi ông quay lại, đột nhiên cúi người xuống, và hôn em.
“Con sẽ quen với kính nhanh thôi, Liebling,” cha an ủi em. “Cứ đợi mà xem.”
Anna cảm thấy khuôn mặt đỏ bừng của em trở nên nóng hơn. Em mừng là ánh sáng trong hốc tường của em khá mờ.
Khi cha đi rồi, em nhấc tay phải đưa lên trước mặt. Em nhúc nhích những ngón tay và đếm chúng. Ngay cả trong ánh sáng yếu ớt, em vẫn có thể nhìn thấy cả năm. Em xem xét móng tay mình. Chúng hơi bóng lên và có những nửa mặt trăng be bé ở phía dưới. Rồi em chồm tới nhìn chiếc chăn len màu đỏ của em. Nó đầy lông. Em có thể trông thấy những sợi lông, hàng trăm sợi.
Mọi thứ, ở bất kỳ nơi nào em nhìn đến, đều trông mới mẻ, trông khác biệt, trông diệu kỳ.
Cuối cùng, biết chắc rằng mình đã an toàn, Anna nhoẻn miệng cười.
Chương 9
SỰ KHỞI ĐẦU
“ANNA, NHANH LÊN CON,” Mama gọi.
Anna kéo bên vớ nâu dài còn lại lên và móc vào chiếc dây đai choàng qua vai em. Em với tay lấy cái váy lót Mama đã chuẩn bị sẵn. Chưa gì em đã thấy nóng bức rồi. Em cảm thấy ngột ngạt trong mớ váy áo. Đầu tiên là món đồ lót dài đến tận đầu gối, rồi những cái dây giữ mấy cái móc, rồi đến đôi vớ có gân ngứa ngáy đáng ghét và giờ là váy lót.
Mama vén sang một bên tấm rèm treo ngang phía cuối hốc tường của Anna. “Nhanh lên,” mẹ lại hối.
Anna mặc chiếc áo cánh màu trắng của mình vào và cài nút lại. Có nếp hở giữa những hàng nút áo.
Mama thở dài. “Con lớn nhanh quá,” mẹ nói.
Anna cũng thở dài. Em sẽ ngừng lớn nếu em biết cách. Em cảm thấy mình đã quá to rồi. Tuy vậy, trái tim em nhẹ bẫng khi em vươn tay lấy chiếc áo chẽn mới.
“Một món đồ mới cho mỗi đứa để mặc trong ngày khai trường,” Papa đã quyết định.
Trước đây, các em luôn có nguyên một bộ đồ mới cho ngày khai giảng, nhưng đến giờ thì các em đã quen dần với những thay đổi.
Gretchen đã chọn một cái áo cánh màu vàng khiến mái tóc sáng màu của chị ánh lên như vàng ròng. Mấy cậu con trai thì chọn quần nhung. Khi về đến nhà, các cậu nhảy nhót vòng quanh trong bộ quần mới, khiến vải vóc
kêu lên rít rít. Một lần hiếm hoi, Rudi trông ngốc y như Fritz vậy. Frieda và Anna chọn áo chẽn.
ẳ
“Con ghét nó,” Frieda giận đùng đùng. “Nó chán òm và xấu tệ. Chẳng khác gì đồng phục!”
“Con mặc trông đẹp mà,” Mama khẳng định, trong lúc lờ đi những chiếc váy sáng sủa đắt tiền hơn. “Gấu to nên sau này có thể hạ được và nó là vải nỉ séc. Nó sẽ bền muôn đời.”
Nghe đến đó, Frieda rên lên như thể Mama vừa cắm một con dao vào người chị.
Nhưng Anna lại yêu thích chiếc áo chẽn của mình vô cùng. Em thích lướt ngón tay mình dọc xuống những đường xếp sắc sảo. Em thậm chí còn thích sự đơn giản của nó. Nó thật giống một bộ đồng phục. Anna đã luôn thầm muốn một bộ đồng phục.
“Ngồi thẳng dậy,” Mama nói, “trong lúc mẹ sửa tóc cho con.” Khi đã xong xuôi, mẹ bảo Anna đi khoe với Papa.
Anna vội vội vàng vàng cho đến khi em tới chân cầu thang. Đoạn đường còn lại em bước đi ung dung, vì em cảm thấy mình trông thật đặc biệt và xinh xắn. Em xuất hiện một cách tự hào trước mặt cha.
Papa nhìn em. Anna chờ đợi.
“Klara,” cha gọi, “thêm ruy băng lên tóc cho con bé thì thế nào?”
Anna vẫn đứng thẳng như trước nhưng cảm giác tự hào trong em đã sụp đổ. Em biết Mama sẽ nói gì. Mama đến và nói ra điều đó.
“Ruy băng không nằm yên trên tóc Anna được,” Mama khẳng định. “Nhưng em sẽ thử lại lần nữa. Gretchen, chạy đi lấy cho mẹ cái dây ruy băng kẻ ô mới của con đi.”
Khi bác sĩ Schumacher đến đón Mama và em đến trường mới, Anna đã sẵn sàng với một chiếc nơ tươi sáng trên mỗi bím tóc mỏng của em.
“Cháu trông dễ thương quá, Anna,” bác sĩ mỉm cười.
Anna nhìn đi chỗ khác. Em biết không phải thế.
“Anh thật tốt bụng vì đã giúp đưa Anna đến trường này,” Mama rối rít, mặc áo khoác cho chính mình và cho Anna.
“Có gì to tát đâu,” bác sĩ Schumacher nói, “tôi quen cô Williams. Tôi có thể giúp vụ tiếng Anh nữa. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu.”
Ba người họ không tìm được chuyện gì để nói với nhau trên suốt đường đi. Khi họ bước xuống xe phía trước ngôi trường, Anna sải chân đi giữa mẹ em và bác sĩ. Em cố tỏ vẻ như đây là chuyện em vẫn làm hằng ngày, như thể tim em đang không đập thình thịch trong lồng ngực đến đau cả xương sườn. Franz Schumacher đưa bàn tay to ấm áp của chú xuống và nắm gọn bàn tay bé nhỏ lạnh ngắt của em. Anna cố giật tay ra nhưng bác sĩ giữ lại. Em nuốt khan và tiếp tục bước đi: chân này… chân kia. Bàn tay bác sĩ cảm giác như tay của Papa. Em để yên tay mình nơi đó và cảm thấy can đảm hơn.
Cô Williams là điều bất ngờ đầu tiên trong một ngày đầy ắp những điều bất ngờ.
“Thật vui khi có em ở đây, Anna,” cô nói khi bác sĩ Schumacher kéo Anna về phía trước để giới thiệu em và Mama.
Cô giáo có một giọng nói khàn khàn trầm thấp, không giống giọng của Frau Schmidt một chút nào. Và nụ cười của cô quá đỗi chân thành đến mức ngay cả Anna cũng không thể nghi ngờ thành ý của cô. Cô cũng xinh đẹp nữa. Tóc cô sáng rực như tóc chị Gretchen. Cô nhìn Anna gần giống cách Papa nhìn em.
Tại cô chưa biết mình đó thôi, Anna nhắc nhở bản thân, không cười đáp lại. Cô chưa nghe thấy mình đọc.
“Lần này anh mang đến cho em một thử thách thực sự đây, Eileen,” bác sĩ Schumacher nói nhỏ.
Thử thách.
Anna không biết từ đó. Có phải nó có nghĩa là “một đứa ngốc” không? Nhưng không, không thể nào. Bác sĩ Franz Schumacher vẫn đang nắm tay em trong tay chú và sự ân cần trong cái nắm tay của chú vẫn không thay đổi khi chú nói ra từ đó. Anna giữ lại từ mới đó trong đầu mình. Khi em về nhà, em sẽ hỏi Papa.
Mười lăm phút sau em đã ngồi tại bàn học mới của mình, nhìn mẹ em và bác sĩ Schumacher rời khỏi lớp học.
“Đừng bỏ con lại!” Anna suýt nữa thì kêu lên với họ, dũng khí đã rời bỏ em rồi.
Thay vào đó, em đưa một tay lên để cảm nhận nếp uốn trên chiếc ruy băng của chị Gretchen. Một chiếc nơ đã rơi mất. Anna kéo nốt cái kia xuống và nhét nó đi khuất mắt vào trong hộc bàn.
Em không được khóc. Em không được!
Rồi chính cái bàn lại khiến em chú ý và khiến em phân tâm. Em chưa bao giờ nhìn thấy một cái bàn như thế này. Nó có bản lề ở bên cạnh và ta có thể nâng nó lên để sách ở gần mắt hơn. Em nhìn quanh đầy hiếu kỳ. Cái bàn không phải là thứ duy nhất khác lạ. Chiếc bút chì nằm trong rãnh to hơn ngón tay cái của em. Những tấm bảng đen không hề đen một chút nào - chúng màu xanh lá; và phấn cũng to bự, có màu vàng thay vì màu trắng.
Cả học sinh cũng khác. Hầu hết họ lớn hơn Anna.
“Chúng ta có các khối lớp từ lớp Một đến lớp Bảy trong phòng học này,” cô Williams đã giải thích với Mama như thế.
Bàn học không được xếp thẳng hàng và đóng đinh xuống sàn. Chúng được đẩy vào những nhóm riêng biệt. Cô Williams xếp Anna ngồi vào chỗ ngay cạnh bàn của cô gần phía trước lớp.
“Em có thể ngồi cạnh Benjamin,” cô nói. “Ben vẫn luôn cần có ai đó giữ bạn ấy lại mặt đất, đúng không Ben?”
Anna không biết em có thể giữ Benjamin lại mặt đất như thế nào. Em liếc nhìn chân cậu ấy. Chúng trông có vẻ hoàn toàn bình thường.
Đó là một câu nói đùa chăng?
Anna không cười. Em không cảm thấy đó là một câu nói đùa.
Rất nhanh chóng, cô Williams cho cô bé học trò mới biết tên của tất cả những học sinh khác trong lớp: Jane, Mavis, Kenneth, Bernard, Isobel, Jimmy, Veronica, Josie, Charles. Những cái tên bay vòng quanh tai Anna như những chú chim, mỗi con đều vụt thoát đi khi em nghĩ rằng em đã bắt nhốt được nó.
“Em sẽ không nhớ được phần lớn những cái tên ngay đâu,” cô giáo nói, khi nhìn thấy vẻ hoảng loạn trong mắt cô bé. “Em sẽ phải làm quen với mọi người từng chút một. Bernard là học sinh lớn tuổi nhất, nên em sẽ sớm biết cậu ấy vì cậu ấy chỉ huy hết tất cả chúng ta.”
Giống Rudi vậy, Anna tự nhủ. Em sẽ tránh xa Bernard ra, nếu em có thể. Chỉ là em không chắc người nào là Bernard.
“Cô nghĩ em và Ben có thể sẽ học cùng nhau,” cô Williams nói tiếp.
“Giới thiệu em ấy với Ben hẳn hoi đi ạ, cô Williams,” một cậu trai cao kều, có lẽ chính là Bernard, đề nghị.
“Anna, cho phép cô được giới thiệu Benjamin Nathaniel Goodenough,” cô Williams trịnh trọng.
Anna nhìn chằm chằm cậu nhóc có mái tóc đen bù xù và khuôn mặt tinh quái. Cậu nhóc đó còn thấp hơn Anna một cái đầu, dù mắt kính của cậu ấy cũng to như của em. Phía sau cặp kính, đôi mắt cậu ánh lên lấp lánh.
“Tớ được đặt tên theo cả hai người ông của tớ,” cậu giải thích.
“Giờ em đã biết mọi người đủ để có thể bắt đầu,” cô giáo nói. “Đến lúc chúng ta bắt tay vào việc rồi.”
Anna, người đang thoải mái ngồi dò xét Benjamin Nathaniel, chợt đông cứng. Giờ sao đây? Em có phải đọc không? Em ngồi im như một con thú bị mắc bẫy trong khi cô Williams đi đến chiếc tủ ở góc lớp. Trong chốc lát, cô đã quay lại.
“Đây là một ít bút sáp màu, Anna,” cô nói. “Cô muốn em vẽ một bức tranh. Bất kỳ cái gì em thích. Để cô giao bài cho các bạn đã rồi sẽ có thời gian rảnh để xem em học đến đâu rồi.”
Anna không cầm lấy chỗ bút sáp. Em không biết phải vẽ bất kỳ cái gì cả. Em cũng không có học hành đến đâu cả. Em muốn có Papa ghê gớm.
Và “thử thách” có nghĩa là gì vậy?
“Hãy vẽ gia đình của em đi, Anna,” cô Williams nói.
Cô nói bằng một giọng vô cùng dịu dàng nhưng cũng rất chắc chắn, như thể cô biết, còn hơn cả Anna, rằng cô bé này có thể làm những gì. Cô cầm lấy bàn tay mập mạp vuông bè của Anna và khép những ngón tay của Anna quanh hộp bút chì sáp.
“Hãy vẽ cha em và mẹ em, các anh và các chị của em - và cả em nữa, Anna. Cô muốn thấy cả nhà em.”
Cảm giác của chiếc hộp, rắn chắc và chân thật, đem dũng khí của Anna quay lại. Những cây bút sáp màu to và tươi tắn. Chúng trông rất hấp dẫn. Cô giáo để giấy trên bàn, thứ giấy nham nhám màu kem. Loại giấy rất hợp để vẽ. Có sáu tờ là ít nhất!
“Em cứ từ từ,” cô Williams nói khi rời đi. “Dùng bao nhiêu giấy tùy ý nhé.”
Anna hít một hơi thật sâu. Rồi em chậm chạp chọn một cây bút sáp. Dù sao thì em cũng biết nên bắt đầu như thế nào.
Em sẽ bắt đầu với Papa.
Chương 10
MỘT THỬ THÁCH
ANNA VẼ PAPA ĐẶC BIỆT CAO. Đỉnh đầu của cha đụng cả vào mép tờ giấy. Em cho cha một đôi vai rộng và một nụ cười to đùng. Em tô mắt cha màu da trời xanh ngắt.
Rồi em đặt Mama cạnh cha, ôm cánh tay cha. Mama đứng đến vai cha. Papa thường trêu đùa về việc Mama bé nhỏ như thế nào. Cha có thể đặt cằm lên đỉnh đầu của mẹ.
Anna cũng cho Mama cười nhưng cây bút lại trượt đi khi em đang vẽ và nụ cười của Mama trở nên méo xẹo. Anna đã cố sửa lại. Em cạo lớp sáp đi bằng móng tay của mình. Nó bong ra nhưng vẫn để lại một vết lem nhem.
Em có nên vẽ lại từ đầu không nhỉ - hay kệ?
Anna nhìn xuống Papa, rất cao, rất vui vẻ. Em vẽ một nụ cười mới trên mặt Mama đè lên vết méo khi nãy. Lần này nụ cười trông ổn hơn nhưng ta vẫn có thể nhìn thấy chỗ em đã vẽ sai.
Mình biết rồi, Anna nghĩ, đột nhiên thấy phấn khích. Mình sẽ vẽ mẹ bị rám nắng và che chỗ đó đi.
Một cách cẩn thận, em tô màu toàn bộ khuôn mặt của Mama cho đến khi nó đỏ hồng đến tận phần tóc của mẹ. Có tác dụng rồi đấy.
Họ đang đi nghỉ mát, Anna tự nhủ, cuối cùng thì em đã cười lên một chút. Em tô mặt Papa cho khớp.
Em dừng một chút và suy nghĩ. Đến thời điểm này em đã quên bẵng đi phần còn lại của lớp học. Đôi mắt em sáng lên và em lại cúi đầu xuống bức tranh một lần nữa.
Em đặt cái xô của anh Fritz vào tay Papa. Dù không nhìn thấy, nhưng Anna biết trong cái xô đó có một con cá nhỏ.
Sau đó em vẽ anh Rudi và chị Gretchen. Họ cũng cao và bị rám nắng. Họ có mái tóc vàng hoe và đôi mắt xanh sáng. Họ đang mặc đồ bơi. Rudi đang cầm cái vợt bắt bướm của anh. Nó là cái vợt mới và anh rất tự hào về nó. Chị Gretchen cầm cái xô của chị Frieda, bên trong đầy vỏ sò. Hai anh chị đang đi bên cạnh Papa.
Hai anh chị sinh đôi chiếm hầu hết chỗ trống bên cạnh Mama. Họ đang chạy, chân họ đá lên cao. Tai anh Fritz nhô ra như cái quai cốc. Cả hai người đều trông có vẻ quá hoạt náo để có thể tự cầm xô của họ. Anna cho họ đi chân trần.
Em tô cát màu nâu nhạt thành một dải ở phía dưới cùng trang giấy. Đó. Xong rồi, em nói với phần đang quan sát trong em.
Rồi em nhớ ra. “Và cả em nữa, Anna,” cô Williams đã nói thế.
Vẫn còn một ít chỗ trống ở một mé của trang giấy. Em nhét bản thân vào chỗ trống be bé đó. Em tô tóc mình màu nâu đơn sơ, mắt em màu xanh bình thường. Lại muốn làm sao trông mình cũng thú vị như những người khác trong gia đình, em cố vẽ bản thân đang mặc chiếc áo chẽn mới. Dù em đã cố gắng hết sức, cô bé trên trang giấy lại trông nhăn nhó và xấu hoắc.
Mình làm hỏng bức tranh rồi, Anna đau lòng nghĩ. Em đóng hộp màu sáp lại.
Cô Williams đến và cúi người xuống phía trên em.
“Đây là những ai vậy, Anna?” cô hỏi.
Một cách chậm chạp, Anna bắt đầu giải thích bằng tiếng Đức.
"""