" Truyền Thuyết Dòng Sông - Khâu Hoa Đông full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyền Thuyết Dòng Sông - Khâu Hoa Đông full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] Ebooks Nhóm Zalo TRUYỀN THUYẾT DÒNG SÔNG (KHÂU HOA ĐÔNG) SÁCH ĐƯỢC NHÀ VĂN TRUNG QUỐC KHÂU HOA ĐÔNG CHUYỂN GIAO BẢN QUYỀN. MỌI SAO CHÉP, TRÍCH DẪN PHẢI CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA CÔNG TY VĂN HÓA PHƯƠNG NAM. CÂU CHUYỆN của tôi mùa hè năm ấy TÔI CÒN NHỚ, MỘT BUỔI HOÀNG HÔN MÙA HÈ năm 1983, chuồn chuồn từ vùng đầm lầy bay lên hàng đàn, tôi bồn chồn đi qua đồng lúa, những bông lúa vàng óng và mẩy hạt ngả nghiêng trong gió. Trong nắng chiều, bạt ngàn là châu chấu, bầu không khí rung lên ù ù inh tai. Tôi đi len lỏi men theo bờ ruộng, hoàng hôn êm ái xoa đầu tôi, tôi nhìn thấy cuộc đời mình đỏ rực như máu chảy lênh láng phía mặt trời lặn, tôi bỗng rơi vào một cảm giác xa vắng và nặng nề của trời chiều. Dòng sông thời gian chảy ào ào, những câu chuyện xa xưa theo nhau trở lại, tôi hấp tấp đi, biển lúa và hoàng hôn đều một màu vàng rực chói chang. Hồi đó tôi mới là đứa bé mười ba tuổi. Những cây bạch dương đứng thẳng bên nhau, gần gũi như anh em, bóng đen của chúng xẻ dọc vầng mặt trời sắp lặn. Đàn châu chấu và chuồn chuồn dầy đặc bay lượn, chúng vùn vụt đập vào mắt tôi, tôi rùng mình kinh hãi. Đầu óc tôi quay cuồng, tối tăm mặt mũi...Thời gian lạnh lùng đã găm chặt tôi vào buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy, chao ôi hoàng hôn, hoàng hôn vĩnh cửu của mùa hè 1983. Mùa hè năm ấy tôi học năm thứ ba trung học phổ thông. Tôi mặc bộ quần áo lính màu vàng nhem nhuốc bạc màu, ngơ ngác và hoang mang, chán nản trước tương lai, chẳng biết nhìn vào đâu. Tôi khoác chiếc túi xách bằng vải bạt rách tơi tả, sải bước trên bờ cỏ mới nhú xanh. Một làn gió ào ào lướt qua, những bông lúa trĩu hạt rung lên xào xạc quệt vào đầu vào mặt tôi. Tôi đội chiếc mũ giả lính nhem nhuốc dầu mỡ, đây là chiếc mũ tôi nhặt được trên con đường mòn dẫn ra đầm lầy vào một mùa hè khác. Nhớ lại lúc nhặt chiếc mũ, tôi cúi xuống và đúng vào khoảnh khắc tay đụng vào chiếc mũ thì như có một dòng thác cuộn lên trong tim, một mùi chết chóc xộc vào mũi, lúc đó tôi cũng chẳng nghĩ gì nhiều, chụp mũ lên đầu và đắm chìm trong cảnh sắc bao la. Sau đó vài ngày, cũng chỗ ấy, có người phát hiện ra nhiều xác chó trong ruộng ngô, những xác chó đều đã thối rữa, với mức độ khác nhau chứng tỏ chúng không chết cùng một lúc nhưng thời gian cách nhau không xa. Bao nhiêu năm đã qua đi, người làm cái việc này là Junmatri bây ́ ́ ́ giờ đã yếu còng lưng tôm, như chiếc cung sắp sửa bật cái thân xác ốm yếu của anh ta vào cái đầm lầy tối tăm này, anh ta vừa uống trà sữa ăn bánh khô vừa lầu bầu nói với tôi: Tao coi lũ chó như anh em của thằng Mahantai, chính tao giết chúng. Thằng Mahantai cướp đi Saina của tao, ôi Saina, hắn cưỡng hiếp rồi giết cô ấy! Tao giết lũ chó vì chúng nó là anh em của thằng đểu đó! Nói đến đây, anh ta khóc không thành tiếng, nước mắt đầm đìa. Tôi biết trong đó có nhiều chuyện anh ta đã không nói ra. Sau này tôi mới biết, chính tôi tham gia vào câu chuyện chết chóc này và mãi mãi bị đóng đinh vào buổi hoàng hôn đau đớn, não nề, xa vắng mà hối hả của mùa hè năm ấy. Tôi đi xuyên qua đồng lúa dạt dào trĩu hạt, đôi mắt vừa hoảng hốt vừa say mê. Tiết trời chiều tháng năm sâu lắng và nặng nề làm sao, tôi cảm thấy hơi lạnh từ lòng đất ngấm vào cơ thể. Lúc này tôi đã ngửi thấy mùi mục nát từ đầm lầy bốc lên, tâm trạng bồn chồn và lo lắng. Còn cách xa đầm lầy hơn trăm mét, cách bức tường thành đổ nát chỉ có hai mươi mét. Bất giác tôi bước nhanh hơn, vì sắp đến nhà Bình rồi, còn phải đi qua cái bãi lầy hôi thối ấy nữa. Khi cách bức tường hình vòng cung chừng năm mét, tôi thoáng nghe thấy một âm thanh đã từng làm tôi xao động khi mới bước vào tuổi mới lớn. Tôi dừng lại, như con mèo khi nghe thấy tiếng chuột đang bò, một cơn tức giận lạ lùng bùng lên. Tôi rón rén áp sát bức tường, cái âm thanh làm tôi xúc động lại càng rõ hơn. Tôi lén trườn qua lỗ tường, tim tôi như muốn nhảy ra ngoài. Khi gạt một bụi cây ra, tầm mắt tôi chạm vào một đôi giày cao gót màu đỏ chót. Có tiếng gì như tiếng mèo kêu thảm thiết trong đêm, bối rối và hồi hộp, trái tim tôi bỗng trở nên tối tăm và sũng nước. Tôi bò lên phía trước như một con chó, đến bụi cây, thò đầu lên nhìn. Một cảnh kinh hoàng: Một cô gái áo đỏ và một người đàn ông vạm vỡ đang quấn vào nhau, lăn lộn, cả hai đều rên ư ử một cách quái gở, lớp cỏ vừa bị họ nghiền nát lại bướng bỉnh ngóc dậy. Mắt tôi ướt nhòe, trong lòng sục sôi tức giận và bất an. Tôi chửi thầm: Đồ chó má! Đồ nhơ nhuốc! Bẩn thỉu! Trái tim tôi bị vấy bẩn, ngập chìm trong cảm giác tức tối và bối rối. Tôi lặng lẽ rụt đầu lại, bò đi như một con giun, nhân tiện vơ đôi giày cao gót đỏ chót nhét vào túi sách và chui qua lỗ tường. Vừa định đi ra thì cái âm thanh nọ lại xoáy vào tai tôi. Ánh mắt tôi dừng lại nơi cục gạch to và nặng. Tôi cầm lấy, vung cánh tay lên. Cục gạch vẽ một vòng cung hoàn hảo bay vào phía trong thành. Tiếp theo tôi nghe thấy một âm thanh trầm đục và tiếng kêu thảm thiết khe khẽ. Tóc gáy dựng đứng lên, tôi lo lắng và vội vã lẻn đi như một con chó đói, theo con đường dẫn đến cổng một ngôi nhà trong màu xanh biếc bạt ngàn. Bàn tay của hoàng hôn âu yếm và hiền lành vuốt ve tôi. Trong đôi mắt u tối của tôi le lói một ngọn lửa vàng rực: nhà của Bình đã hiện ra trước mắt tôi. Tôi ba chân bốn cẳng lao đi. Nhà Bình ở bên bờ sông, phía nam là mảnh đất được giao cho nhà cô canh tác. Mặt ruộng hiện lên các mảng màu xanh khác nhau của lúa mạch, ngô, đậu, ớt, dưa chuột. Lòng tôi rối bời và lo ngại. Bình có nước da trắng ngần và khuôn mặt đầy đặn. Ở lớp học, cô ta ngồi phía trước tôi, một hôm tầm mắt tôi bỗng nhiên bị hút vào cái gáy và vành tai của cô, thế là tôi ngắm mãi hai chỗ ấy, trong lòng xốn xang mê mẩn, thầy giáo gọi mấy lần cũng chẳng nghe thấy, ánh nắng buổi sáng rọi qua cửa sổ chiếu vào cánh tay mỡ màng đầy sức sống của cô, nhìn rõ lớp lông tơ mịn màng, trái tim tôi như bị ai bóp nghẹt, run rẩy ngứa ngáy làm sao. Một buổi sáng tỉnh dậy tôi bỗng thấy có điều gì không ổn. Tôi kéo quần xuống, nơi đó ướt đầm đìa và nồng nặc mùi lúa ẩm. Tôi lấy ngón tay quệt một ít soi lên ánh nắng sớm mai, chất nước dinh dính như nước mũi, hơi trong, phảng phất một hương sắc bi thương. Đó là lần đầu tiên tôi bị di tinh. Một sự thay đổi đột ngột làm tôi lúng túng, ngượng ngập. Lúc ấy tôi mới nhớ ra là vừa nằm mơ, mơ thấy đôi giày cao gót đỏ trong cỏ, bóng hai người chập làm một, cánh tay có lớp lông mịn vàng óng và cái cổ mỡ màng của Bình... Trong giấc mơ của tôi tất cả những cái đó bị cắt xén, lắp ghép lung tung, có cả đàn chuồn chuồn bay lượn, cuối cùng một người con gái gần như trần truồng ôm lấy tôi, rồi tôi lại mơ thấy tôi cưỡi một con ngựa cực kỳ dũng mãnh lao về phía đầm lầy, nơi có nhà Bình. Bây giờ nhớ lại mùa hè năm ấy, tôi mười ba tuổi ngồi ôm chăn trên giường, trong lòng thanh thản và buồn. Tôi lo lắng không biết sự thay đổi này mang lại cái gì cho tôi. Đôi mắt tôi như cục sắt bị nam châm hút chặt vào cổng nhà Bình. Nhà cô nuôi một con chó đen to, con chó này thường lẳng lặng đến gần người ta rồi đớp một cái, mà đã đớp là không bao giờ ́ trượt. Tim tôi đập thình thịch, tôi hơi sợ, sợ con chó và sợ ông bố thọt chân của Bình. Thực ra tôi mới đến nhà Bình có một lần: Mùa hè năm ngoái, sắp thi cuối học kỳ, tôi lo quá, ban đêm lẻn vào văn phòng nhà trường lấy trộm đề thi môn toán, nhưng tôi hầu như chẳng hiểu gì, cuống lên như khỉ rơi xuống nước. Thế rồi tôi quyết định đi tìm Bình, một học sinh xuất sắc. Tuy bị con chó đớp một miếng nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, cô ấy thi được nhất lớp, tôi láu cá cố tình bỏ hai đề không làm, được tám mươi điểm, xong chuyện. Tôi dán mắt vào cổng nhà Bình, vừa xúc động vừa đau khổ. Tôi giả tiếng gà kêu lên vài tiếng, lát sau Bình đi ra trong chiếc áo màu vàng cam, cô ấy lững thững đi về phía tôi, tay áo xắn cao, lấm bột trắng xóa. Bình có vẻ xấu hổ pha lẫn bực bội nhìn tôi, cô đi về phía tôi, như một bức tranh sơn dầu đậm màu, khuôn ngực nhô cao khiến tôi vừa ngưỡng mộ vừa e ngại. Tôi nấp sau một cái cây, căng thẳng nhìn Bình đến gần rồi kéo tuột cô vào phía sau cái cây, nhìn về phía sân, thấy vắng người bèn ôm lưng cô lôi đi. Những cây lau xanh biếc đong đưa buồn bã trong nắng chiều. Mặt trời đỏ rực chập chờn sắp lặn phía tây chiếu xuống hai đứa sáng rực. Tôi liếc mắt nhìn, tấm áo của Bình sáng như lửa cháy, tôi sợ bỏng vội rời tay ra. Bình khẽ hỏi tôi đi đâu, tìm cô làm gì. Trong lòng rạo rực, tôi run rẩy nói là ra bờ sông. Khi nhìn gần khuôn mặt Bình, tôi mới nhận ra đôi mày rộng và dài, đôi mắt to đen láy, thăm thẳm trong veo. Tôi thấy trong lòng xốn xang, mắt hoa, đầu óc quay cuồng. Bước chân chúng tôi nhẹ nhàng nhưng mấy con vịt giời vẫn nghe thấy, vỗ cánh bay lên ngay trước mặt. Thân hình tuyệt đẹp với dáng bay của chúng trong ánh chiều tà làm chúng tôi mê đắm. Cứ như vậy chúng tôi ra đến bờ sông. Sông không rộng nhưng rất sâu, đến hơn chục mét, nước chảy lững lờ, như đứng yên. Hai bờ mọc đầy lau lách, thì thầm trong tĩnh lặng của hoàng hôn, lao xao kể cho nhau nghe chuyện tôi và Bình đến đây. Tôi chỉ vạt cỏ bảo Bình ngồi. Bình nhẹ nhàng ngồi xuống và lại hỏi đến đây làm gì. Tôi chẳng biết nói sao, mắt nhìn vớt vát những tia nắng cuối cùng, bỗng dưng mồ hôi đổ ra lạnh toát. Tôi chợt nhớ đến đôi giày cao gót đỏ trong túi xách. Tôi lấy ra và nói: cho bạn đấy, có thích không? Mắt Bình sáng lên, hồi lâu nói nhỏ nhẹ: thích. Tôi vừa định đưa giày cho Bình thì một ý nghĩ chợt lóe lên. Tôi nói: tôi muốn ôm bạn một cái, sau đó sẽ đưa. Hai má Bình đỏ rực. Cô ngồi đó không nói, mặc cho ánh hoàng hôn chiếu khắp người, Bình e thẹn nhưng không nũng nịu, lớp lông tơ trên má sáng lên trong nắng chiều, xinh đẹp làm sao. Tôi bực mình vì chẳng biết làm gì nữa. Sau đó tôi nghĩ ra một cơ hội để khép lại màn kịch này, tôi nói: Thế thì tớ sẽ ném đôi giày xuống sông, bạn dám vớt lên thì nó là của bạn, nếu không thì... Bình cười, nói: ném đi, tớ dám nhảy xuống vớt lên... Tôi quẳng ngay đôi giày xuống sông, “tòm” một cái, đôi giày cao gót đỏ nổi lềnh bềnh rồi lững lờ trôi theo dòng nước. Bình cởi áo ngoài lao xuống sông như một con cá. Tôi nghĩ hỏng rồi, cô ấy bơi giỏi lắm, cô ấy mà vớt được thì cái mẹo của tôi coi như bỏ đi. Tôi hơi cuống. Tôi ngồi chờ trên bờ một lát, không thấy Bình lên. Lại chờ đến mười lăm phút, cũng chẳng thấy bóng dáng cô ấy đâu. Trống ngực tôi đập thình thình, mồ hôi lăn từng giọt. Thế là tôi vội vàng lủi đi như con chó trong biển lau lách bạt ngàn. Hôm sau một người đánh cá vớt được xác Bình, lão ta bảo rằng thi thể cô ta bị rong rêu quấn chặt cứng, hề hề hề , đôi mắt cô ta bị cá khoét mất, hề hề hề , cặp vú vừa mẩy vừa trắng, hề hề hề . Lão đánh cá vừa nói vừa cười một cách thô bỉ, tim tôi như bị sét đánh, tôi có cảm giác rằng sẽ không bao giờ dứt ra khỏi hình ảnh Bình mất đi đôi mắt, tấm thân bị rong rêu quấn chặt. Tiết trời đã đi vào chính hạ, ve kêu inh ỏi như từng đợt sóng vỗ trong tai. Thị trấn của tôi, hầu như mỗi năm một lần lại trình diễn một màn kịch đâm chém và chết chóc. Bọn người sống dư dả mà biếng nhác lại bàn tán sôi nổi, tìm nguồn vui và cảm giác mạnh trong những chuyện vỉa hè thật hư méo mó. Một buổi chiều nóng bức đến nghẹt thở, pháp trường được dựng trên một gò đất mé đông nam thị trấn. Hầu như tất cả trẻ con ở đây đều vui như tết, rong ruổi bám theo xe tù, tôi cũng thế. Trên xe tù, một người đàn ông lực lưỡng bị trói giật cánh khuӹu. Đó chính là Mahantai, kẻ đã hãm hiếp giết người khét tiếng thành phố, có biệt danh Ma-da-sắt. Thoạt đầu trông thấy anh ta, tôi giật thót tim, có cảm giác hơi quen. Về sau khi tôi nhìn kӻ và bất giác thấy kiêng nể: đôi mắt Mahantai rực sáng, bộ ria rậm rì, vầng ̀ ́ trán đầy đặn và rắn rỏi, hệt như nhân vật anh hùng trong sách giáo khoa. Cảnh sát quát nạt những người đang hớn hở ra mặt, họ vây ba vòng đẩy Mahantai lên đỉnh gò, nơi đã có một vòng cảnh sát khác quây tròn. Hàng ngàn người vươn dài cổ chờ đợi để lắng nghe tiếng nói của tên giết người, ai cũng run sợ, nôn nóng, bồn chồn không yên. Lúc hành hình, bỗng nhiên mọi tiếng ồn đều lắng xuống, như chìm sâu xuống đáy nước, yên tĩnh đến quái gở, đến phát sợ. Tim tôi đập thình thình, tôi nhắm mắt lại, đếm nhẩm, rồi nhìn lên trời thở mạnh một hơi. Trên không trung, từng đám mây trôi lững lờ, yên ả, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đúng vào lúc mắt tôi bắt được đám mây nhuộm màu hoàng hôn phía trời tây xa xa thì tiếng súng mà người ta nóng lòng chờ đợi vang lên, tiếp theo là mấy ngàn người dồn đẩy, huyên náo, sôi lên sùng sục. Cuộc hành hình thế là xong. Rất lâu sau tôi mới nghe được đầu đuôi vụ án là thế này: Mahantai đã hãm hiếp cô Saina xinh đẹp, nhân viên cửa hàng thực phẩm, trong đám cỏ nơi thành cổ, sau đó lại đập chết cô bằng một viên gạch. Người ta còn bảo rằng khi bị phát hiện, người ta thấy anh ta vừa khóc vừa mặc quần áo cho Saina khi cô đã chết rồi. Hầu như lần nào khai báo anh ta cũng phân trần rằng không phải anh ta giết Saina, nhưng chẳng ai tin anh ta. Đến nay, đã bao năm qua đi, tôi mới có một cảm giác tội lỗi, tôi nhớ lại từng chi tiết xảy ra trong buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy. Vậy mà hôm nay, thủ phạm thật sự là tôi đây lại đang nhởn nhơ đi trong dòng đời. Tôi biết rằng, từ vai trò tòng phạm trong câu chuyện chết người thảm khốc đó, tôi đã trở thành thủ phạm. Tôi chẳng bao giờ có thể thoát ra khỏi cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy. Giờ đây hoàng hôn đang tắt dần, tôi đã ra khỏi cánh đồng lúa trĩu bông, leo lên một con dốc. Từ đó nhìn về bốn phía, xung quanh là vùng đầm lầy bốc mùi mục nát, cánh đồng ảm đạm, sương khói buồn thảm, đàn chó chạy lang thang giữa các ngôi nhà. Xa xa những ngôi nhà cao tầng trong thành phố mờ ảo phả hơi lạnh lẽo lên không trung. Ở nơi đây tôi đã bao lần nghe Junmatri cất cao tiếng hát. Tôi không nhớ anh ta bắt đầu xuất hiện ở đây trước ́ ̀ ́ hay sau khi Saina chết, hầu như mọi người trong cái thị trấn này đều biết anh chàng bán thịt nướng Junmatri, yêu chết mê chết mệt cô nhân viên bán hàng thực phẩm xinh đẹp Saina. Nhưng cô luôn giữ một khoảng cách hờ hững với anh chàng si tình. Trong ký ức của tôi, nhiều lần vang lên tiếng đàn tôm-bô-la, anh ta đàn hát thâu đêm bên nhà cô nơi góc phố, bày tỏ mối tình si của mình với cô gái yêu. Tôi còn nghe người ta nói, có lần Junmatri bày tỏ lòng mình bằng cách chịu đau đớn đóng đế sắt vào chân mình và đã choáng ngất đi. Nhưng Saina vẫn lạnh nhạt với Junmatri, vì thế mọi người đều giận anh ta. Tôi rảo bước lên bờ đê, ở nơi này năm mười ba tuổi tôi đã thấy cảnh lộng lẫy của hoàng hôn đang tắt dần, nhiều ngày sau cái chết của Saina, tôi thấy bóng dáng u uất của Junmatri lang thang nơi đây và nghe tiếng hát lạnh lẽo mà da diết như ánh trăng của anh ta. Đàn chó hung hăng theo anh ta như hình với bóng và anh ta bỗng trở thành chúa tể của lũ chó, tôi còn nhớ thân hình càng ngày càng tiều tụy của anh ta Tôi vội vã đi qua đồng lúa nổi sóng trong ánh chiều, xác những con chó chết vẫn bốc mùi nồng nặc, căng thẳng và mê muội, như con chó đói trên đồng hoang hấp tấp tìm về cổng nhà mình. Nhà tôi như một đống cứt trâu, xập xệ nơi cuối thị trấn, từ ngoài nhìn vào rách nát mà tối tăm, bụi bặm thời gian làm cho nó chẳng còn chút hơi ấm, chỉ còn mấy hàng rau xanh mẹ tôi trồng ngoài vườn còn hiện ra chút gì đó của sự sống. Khi tôi đẩy cửa vào, lại một lần nữa bị nỗi kinh hoàng túm chặt lấy: đầu tóc rũ rượi, trong tấm áo đen, mẹ tôi bị treo lơ lửng trên xà nhà, mớ tóc dài che khuất mặt - bà đã tự tử. Giữa nhà là một đống tro tiền giấy và tem phiếu. Thân hình mẹ tôi bị mạng nhện mắc cứng vào cái khung ảnh ký ức đau thương của tôi. Lúc đó tia nắng vàng của hoàng hôn lọt vào nhà, mãi mãi ghim chặt tôi vào cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy đang vội vàng trôi đi mất. Thời gian trôi đi, đứa trẻ mười ba tuổi là tôi bắt đầu hiểu đời là thế nào. Tôi ngại ngùng và bất lực với mấy chữ “giết chóc” và “máu me”. Trong cái mùa hè năm ấy, tôi đi xuyên qua bao nhiêu là chuyện chết chóc, rồi sau đó lại bị ghim chặt vĩnh viễn vào cái buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy, ôi nặng nề và buồn thảm làm sao? ́ ́ ́ ́ Việc mẹ tôi chết có liên quan đến bố tôi. Trong ký ức, bố tôi là một người lái xe, ông có cái mũi bã rượu to tướng, mắt ác như diều hâu. Ông lúc nào cũng xách chai rượu và say khướt, và đúng vào cái ngày mẹ tôi bị mạng nhện chăng kín thì ông ấy biến mất một cách thần kỳ. Những truyền thuyết về ông thì thật nhiều như nấm mọc sau mưa, đến như tôi là đứa con đẻ mà cũng chẳng biết thực hư ra sao. Một nguồn tin đáng tin cậy nhất là ông ấy và người bạn, một người đàn bà có mười hai vạn tệ. Bà ta là một nhân viên ngân hàng đã ăn cắp tiền của nhà nước rồi cùng với bố tôi lẳng lặng cao chạy xa bay. Nhưng trong ký ức của tôi không moi đâu ra được hình ảnh người đàn bà này. Tôi cứ tưởng tượng ra bố tôi là một người như vậy và tôi chưa bao giờ yêu ông ấy. Đời là gì? Sống là gì, chết là gì? Tình yêu là gì? Chúng ta chết vì cái gì? Buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy tôi đã nghĩ về những điều này như hồi còn bé đã nghĩ tại sao người ta có hai chân. Trong ký ức, bộ mặt khắc khổ tuổi mười ba của tôi ẩn hiện trong buổi hoàng hôn u ám của mùa hè năm ấy, bị những câu hỏi đó hành hạ và dàn dụa nước mắt. Một buổi chiều sau đó ba năm, tôi nhận được một thông báo chết người không biết từ đâu gửi đến, lúc ấy tôi đã được thu nhận vào trại mồ côi, chính mình trải nghiệm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trên bản thông báo rõ ràng nhắc đến tên bố tôi. Ông đã chết trên chuyến xe lửa Thành Đô đi Côn Minh trước khi tôi nhận được thông báo này ba mươi ba ngày. Ông bị người ta sát hại, trên người có mười ba vết đâm. Hung thủ cướp đi một cái đồng hồ và một trăm bốn mươi ba tệ. Kẻ giết bố tôi năm ấy mới mười chín tuổi. Tôi biết rằng tôi không thể nào thoát ra khỏi buổi hoàng hôn mùa hè năm ấy. Khi đó tôi là một đứa trẻ già dặn, đi giữa cánh đồng trong ánh hoàng hôn, những con châu chấu xanh nhảy tanh tách, bám vào bắp chân tôi, rồi lại bắn đi như viên đạn. Tôi phóng tầm mắt về phía trước, ánh hoàng hôn rực rỡ mà nặng nề chìm dần trên đầm lầy. Những bông lúa đầy đặn thảnh thơi vẫy chào tôi. Tôi đi mãi, đi mãi, cuối cùng đã đến ngôi nhà hai tầng trước khi ánh hoàng hôn tắt hẳn. Tôi ngửi thấy mùi khói ngày nào. Tôi lặng lẽ đứng trước cổng ngôi nhà, một cảm giác xúc động vu vơ, sống mũi cay cay. Tôi đã ̀ ́ một thân một mình đi qua đồng lúa hoàng hôn để đến được đây, tôi chẳng còn chọn lựa nào khác, đành đẩy cửa bước vào. Trong nhà bài trí giản dị. Hai chiếc ghế mây, chỉ một chiếc có người ngồi, người đó quay lưng lại phía tôi, một làn khói xanh bay lên từ tay người đó. Tôi đến gần, định nói thì người đó quay lại, tôi ngây người: Đó là chính tôi sau mấy năm! Tôi bối rối hỏi: “Anh là ai?” Tiếng tôi vang lên như vọng từ đâu về. Anh ta vẩy tàn thuốc nói: Tôi là anh. Tôi chờ anh đã sáu năm, từ năm 1983 đến nay, tôi là anh sau sáu năm. Anh chờ tôi làm gì? Chẳng lẽ anh lại biết được tôi là vai chính trong câu chuyện mùa hè năm ấy? Tôi sợ hãi hỏi, tiếng tôi run rẩy và tiếng nọ đè lên tiếng kia, âm u như từ đâu dội lại. Anh ta cười và nói: Không, thủ phạm chính là thời gian. Thời gian giết chết cả hai chúng ta, hai ta đều bất hạnh. Thế thì chờ tôi làm gì? Bởi vì anh đã lạc vào mê cung của buổi hoàng hôn năm ấy. Trong ký ức của anh mọi chuyện đều chồng chéo với hoàng hôn, như các lớp màu phết đè lên nhau. Tôi giúp anh ra khỏi buổi hoàng hôn đó, không tốt sao? Anh ta cười. Tôi như trút được gánh nặng, buông một tiếng thở dài. Bây giờ anh đi soi gương xem. Tôi đến trước bức tường, soi kӻ mình trong gương. Tôi giật mình kinh hãi: Tôi bây giờ com-lê giày da, nét mặt từng trải và đầy suy tư. Rõ ràng tọa độ thời gian tôi đang tồn tại đây không phải là năm 1983 nữa rồi. Tôi quay lại, và nhận ra rằng cái ghế và cả người trên đó đều đã biến mất. Tôi ngồi vào chiếc ghế còn lại, đốt một điếu thuốc. Một tiếng nói vang lên bên tai tôi: Đã bao năm trôi qua, hôm nay sẽ có một người có cùng trải nghiệm thời gian và cùng ký ức với anh sẽ đến đây tìm anh. Xin anh hãy chuẩn bị một chiếc ghế mây. Anh ta sẽ kể cho anh nghe câu chuyện xảy ra vào một buổi hoàng hôn mùa hè của một năm nào đó và rồi anh sẽ giết sạch những người trong ký ức của anh trong một thiên tiểu thuyết. Trong làn khói xanh, tôi chìm đắm vào những chuyện xa xưa, bàn tay ấm áp và âu yếm của hoàng hôn lại vuốt ve tôi và mọi thứ trong căn buồng này. Tôi chờ đợi thời gian, kẻ đã lạnh lùng giết đi ́ ́ tất cả đến gõ cửa ngôi nhà cô đơn và lạnh lẽo của tôi trong một buổi hoàng hôn đầy bí ẩn. HÀNH hương I ẤN TƯỢNG THÁNG BA LÀ ẤN TƯỢNG CHÁY bỏng, dưới ánh nắng chói chang, mặt đất phủ tuyết bốc lên vô tận những ngọn lửa trắng, ánh nắng như thiêu đốt lưng và mặt của những người làm đồng trên mảnh đất này, không khí tràn ngập mùi lửa, sông ngòi chảy ào ào như sôi lên, tất cả như xao động, như rối loạn, đôi lúc những cánh chim vội vàng chao qua bầu trời. Tuy nhiên đến ngày thứ năm, tuần đầu tiên của tháng ba, một đám mây đen dầy đặc như những con gấu đen hung dữ từ phía chân trời lao đến bao trùm lên làng Nhật Nguyệt. Cả làng già trẻ lớn bé kinh hãi chạy ra khỏi nhà nhìn mây đen cuồn cuộn bay tới. Gió lạnh thổi, những bộ quần áo tả tơi như những lá cờ rách bay trong gió. Mây đen như một cái khăn lau khổng lồ xóa sạch những ánh nắng vừa tràn ngập trên đầu rồi căng ra che kín khắp bầu trời. Trẻ con kêu thất thanh, sợ hãi nép vào lòng cha mẹ cũng đang run cầm cập. Mây đen tràn ra như nước chảy trên mặt kính, có tiếng kêu trầm đục râm ran. Mọi người đều thấy ngột ngạt, oi bức, thở hổn hển như cá mắc cạn, kinh hãi chờ tai họa giáng xuống. Vài phút sau, những đám đen trên không trung hạ thấp dần, một cục đen rơi tọt vào trong cổ áo thằng con tám tuổi của Tài, cái cục gì bầy nhầy lạnh ngắt, vừa cựa quậy vừa kêu. Thằng bé Môsa hét lên vì sợ, nó móc ra ném xuống đất, mấy người xung quanh trố mắt nhìn: một con ếch tròn quay, dạng chân đứng hiên ngang! và cùng lúc đó những tiếng lộp bộp rộn lên, ếch rơi khắp nơi, hằng hà sa số những con ếch rơi xuống đầu dân làng Nhật Nguyệt, tiếng ếch kêu, người kêu ầm ĩ, mùi tanh lợm nồng nặc khắp nơi. Người chạy chó chạy, ếch nhảy chồm chồm, kêu inh ỏi trên mặt đất băng giá. Người ta chạy dạt như lá cây bị gió thổi, trốn vào nhà. Trời tối thêm, ếch trút xuống mỗi lúc một nhiều. Chúng giương đôi mắt lồi hung hăng nhảy trên tuyết xào xạo. Dân làng nhìn qua cửa sổ, một cảnh hùng vĩ, hàng trăm năm chưa từng gặp: Trong tia nắng chiều thoáng lóe lên, những con ếch vật nhau, ôm ́ ́ ́ lấy nhau để tìm hơi ấm mà sống, chúng túm tụm lại thành cụm, thành đống rồi thành cái gò bùng nhùng cao hơn chục mét! Cả đêm dân làng bị tiếng kêu giận dữ và thảm thiết của chúng vây kín. Sáng sớm hôm sau Tài bước ra cửa nhìn thấy trên đồng lúa ba cái núi ếch lù lù vây quanh thôn. Đột nhiên ba cái núi ếch nổ tung, ngọn lửa lan ra, những con ếch sống chết, những mảnh thịt ếch bay lên rơi rào rào như mưa, mùi thối bay trong gió. Lửa ếch cháy ba ngày, trưa ngày thứ tư lại một tiếng nổ lớn, dân làng tung cửa chạy ra, không còn bóng dáng con ếch nào, những mảnh thịt thối thịt cháy phủ kín làng không còn một chỗ hở. Sau đó họ phát hiện mấy chục dặm vuông lúa mạch vụ đông của họ đã mất sạch, xác ếch đã vùi chết hết mạ non. Không khí lạnh lẽo bao trùm, làn khói buồn thương và hoạn nạn phất phơ bay trên các mái nhà. II KHÔNG KHÍ TRÀN NGẬP MÙI CỎ MỤC, MƯA RƠI từ bầu trời u ám, sương mù bao phủ cánh đồng mênh mông, những con ưng đầu trọc lượn vòng trên không tìm xác người, xác súc vật. Xung quanh lặng như tờ, xa xa dãy núi đen sì lầm lũi vươn dài. Đứng trên cao nhìn xuống, trên cánh đồng trong mưa mù, rải rác những đầm lầy như những vết lở loét trên cơ thể, như những con mắt bị mưa sa gió táp trừng trừng nhìn lên trời. Đó là phong cảnh điển hình miền tây Thanh Hải. Từ mặt đầm nước vọng lại tiếng người: tiếng bước chân lội nước, tiếng nói lao xao, thêm chút sức sống cho miền đất heo hút này. Những bóng đen hiện lên. Năm người mệt mỏi thất thểu đi tới, hẳn là vừa qua một chặng đường dài đến đây. Họ vác những bọc nặng, tay cầm cuốc xẻng, có người đẩy cả xe cút kít. Bóng họ kéo dài ra dưới ánh mặt trời. Bỗng một người trẻ tuổi kêu thất thanh: “Người chết! chú Tài, có xác người!” Tài người cao lớn vạm vỡ, trán rộng, khuôn mặt tuấn tú, bước vội lên mấy bước, đến chỗ nước xâm xấp đã ngửi thấy mùi thối, rồi thấy cái xác nằm ngửa. Bộ mặt đã bị chim ưng rỉa nát bét, ai nhìn cũng phải quay mặt đi vì thảm quá. Tài cau mày nhìn, người này khoảng bốn chục tuổi, mặc áo lông, trên đã phủ một lớp tuyết, cánh tay lộ ra nổi những bọt khí thối rữa xanh xám, bốc mùi ̀ ́ ́ ́ nặng nề. “Người đãi vàng”. Tài thấy tay xác chết còn nắm cái cuốc chim, anh ta sa sầm nét mặt, “Nghĩa, Hải đem chôn đi”. Hải, Nghĩa chừng hai mươi và ba mươi tuổi, hai người làm bẹt xác chết rồi xúc đất đắp dần lên. Mọi người trở nên lầm lì không nói, mơ hồ cảm thấy điều chẳng lành, họ nhận ra thủ lĩnh Tài tâm trạng cũng nặng nề. Tài lim dim mắt, chân xéo bùn oàm oạp, rồi anh ta đứng thẳng người tay che nắng, nhìn ra xa. Mọi người nhìn theo, trước mặt là sương khói mênh mông, thỉnh thoảng một tiếng chim kêu thảm thiết xé ngang trời. Một đám mây đen bay qua trong mắt họ, chẳng ai biết số phận của mình ra sao. Nhìn từ xa, họ là năm bóng người lạc lõng cô đơn, như đang mặc niệm những người tử nạn, lại vừa như đang lắng nghe và tìm kiếm những gì phía chân trời. Cánh đồng hoang vẫn mênh mông, rộng lớn, thăm thẳm, vẫn thần bí khó hiểu, hầu như cái chết rình rập khắp nơi. Năm bóng người lại theo nhau bước đi. Mấy con chim ưng trọc đầu kêu như tiếng sét đánh ngang trời. III MỘT NGÀY SAU TRẬN MƯA ẾCH KỲ LẠ ĐÓ, mây đen tan đi, nắng lên, trời trong vắt không một gợn mây. Giữa trưa, mặt trời lên đỉnh đầu, chiếu xuống như muốn thiêu cháy làng Nhật Nguyệt kẹp giữa hai trái núi. Không khí nóng dần lên. Dân làng lớn bé già trẻ buồn bã ngồi ở bậc cửa nhìn ra cánh đồng lúa bị trận mưa ếch phá tan hoang, lo cháy gan cháy ruột. Trời mỗi lúc một nắng thêm, không khí khô khốc, oi bức, không một ngọn gió, xung quanh tĩnh lặng như bãi tha ma. Mùi hôi thối bốc lên, bao trùm kín làng. Mọi người vội quay vào nhà, bịt chặt mọi chỗ cho mùi hôi thối khỏi bay vào nhưng không khí xú uế vẫn tràn ngập. Tâm trạng mọi người hoàn toàn tuyệt vọng, tất cả mùa màng một năm trông chờ thế là mất sạch. Ba ngày hôi thối, cả làng không ai bước chân ra khỏi nhà, ngồi chịu đựng mà chẳng biết làm gì. Thế rồi một trận gió mạnh thổi về, chỉ nửa ngày mùi hôi hám hết sạch. Cùng lúc đó, trong lòng Tài vẫn leo lét ngọn lửa hy vọng, anh ta quay cuồng trong nhà như một con sói già, tính toán một kế hoạch. ̀ ̀ ́ Thằng bé Môsa ngồi bên lò sưởi mút tay sợ hãi nhìn bố. Cô vợ Túy Hoa ngồi một bên khâu giày, thỉnh thoảng liếc nhìn chồng lo lắng, không biết anh ta định làm cái trò gì. Cái bóng điện trên đầu Tài nổ cái đốp, Túy Hoa kêu lên, cùng lúc cửa bật mở, “Anh Tài!” Tài quay ra thấy Hải. “Anh Tài ơi, cứ thế này thì chết cả lũ. Chết đến nơi rồi anh Tài ơi. Mọi người bảo anh nghĩ cách gì đi. Anh bảo làm gì chúng tôi làm nấy”. Trong giọng nói của Hải như có nước mắt. Năm ngoái nhà Hải đã chịu một trận lũ, mất nhà, chết người, năm nay tất cả hy vọng trông vào mấy thửa ruộng thì lại mất trắng vì trận mưa ếch tai ác đó. Tài không nói, đi lại lồng lộn trong nhà. Hải ngây người nhìn, mồ hôi vã ra. Thế rồi mấy người nhận thấy mắt Tài sáng lên, từ từ quay mặt lại nhìn họ, da mặt giật giật, thoáng hiện một vẻ quả quyết. Tài bảo: “Tôi có cách rồi. Ta đi đãi vàng, đi Kakaxili”. [1] “Đãi vàng?” Hải và Túy Hoa kinh hãi đến tức ngực, há miệng mấy lần mà không nói được câu nào. Họ biết tính Tài đã định làm gì là lay không chuyển. Họ đều biết đãi vàng, hai tiếng ấy có nghĩa là gì. “Không còn cách gì, chỉ có đi đãi vàng. Cậu đi bàn với anh em”. Tài nói. Hải do dự một chút rồi chạy như bay ra khỏi nhà. Ba ngày sau, tất cả đàn ông trong làng Nhật Nguyệt bằng lòng đi đãi vàng. Mấy ngày nay, qua đài phát thanh họ biết nông dân lũ lượt đi đến vùng núi Kakaxili, tỉnh Thanh Hải để đãi vàng. Nhà nào cũng chăm chú nghe đài, muốn tìm thấy chút ánh vàng lấp lánh trong mỗi câu mỗi chữ. Theo lời kêu gọi đầy uy lực của Tài, mọi người trong làng rục rịch chuẩn bị. Trong tưởng tượng của họ, cả đồng cỏ Kakaxili lấp lánh toàn vàng là vàng, tha hồ nhặt như nhặt thóc. Cả thôn, nhà nào có đàn ông đều bỏ ra số tiền đã vất vả tích cóp được để sắm cuốc xẻng, lều bạt, lương thực, xe cút kít, thậm chí có nhà còn sắm cả máy kéo bánh nhỏ. Đâu đâu cũng hừng hực không khí chiến đấu, các bà vợ thì tất tả sửa soạn cho chồng. Cũng hôm đó một đàn ong mật từ đông nam theo gió bay đến lượn vòng mấy tiếng đồng hồ trên không trung rồi lại bay đi, không khí ngào ngạt mùi phấn hoa. “Cầu trời, mong sao đây là điềm báo tốt lành cho chúng con!” Tài ngẩng mặt lên bầu trời xanh thăm thẳm khấn thầm. Trong ̀ ́ ́ bầu không khí sặc mùi phấn hoa, anh ta chia hơn bốn chục người thành bảy nhóm, mỗi nhóm năm đến mười người, có một nhóm trưởng. Ngày thứ hai, tuần cuối tháng ba, Tài dẫn nhóm năm người đi trước, sáu nhóm sau xuất phát cách nhau ba ngày. Khúc ca bi tráng lơ lửng trên bầu trời làng Nhật Nguyệt. Nhóm của Tài gồm: Tài, Hải, Nghĩa, Thọ, Tuấn xuất phát trong ánh mắt tiễn đưa bi hùng và vui vẻ của toàn thể dân làng. Bước đầu tiên đặt chân ra khỏi làng, trong lòng họ như vang lên một tiếng chuông, Kakaxili đầy mơ ước và cũng đầy khủng khiếp. Tuy nhiên họ đã lên đường như một tín đồ. Hành hương! Hãy đến Kakaxili, vàng lấp lánh trên đồng cỏ như lúa chín! Hãy đi hành hương! Vì sự sống còn, vì hạnh phúc sáng tươi, hãy lên đường hành hương! Hãy hành hương đến lãnh địa của vàng! IV GIỞ CUỐN “ĐỊA LÝ TRUNG QUỐC” XUẤT BẢN LẦN thứ 5, năm 1983 của Nhà xuất bản Bản Đồ, trang 32 “Tỉnh Thanh Hải”, trên cao nguyên Thanh Tạng màu nâu, kẹp giữa dãy Côn Sơn và dãy núi Zulkenula, ta sẽ thấy mấy chữ Kakaxili. Vùng này có hồ Kakaxili, hồ Huodon, hồ Kusai, hồ Dinhai, hồ Chamso, hồ Hulu và rất nhiều hồ khác trên cao nguyên, ngoài ra còn các hồ băng trên núi cao. Giữa các hồ và sông băng có nhiều đồng cỏ xen lẫn. Nơi đó chính là thánh địa của những người đãi vàng, tức là nơi vàng lấp lánh đầy đồng trong ảo tưởng của họ. Mùa hè năm 1989 hơn mười vạn nông dân bán hết gia sản, lái hàng ngàn xe máy hoặc đi bộ đẩy xe cút kít đến đây, từ đó viết nên một trang bi tráng trong lịch sử đãi vàng của Trung quốc: Tháng sáu năm đó mưa tuyết liên miên, đường đi lầy lội, hàng vạn người mắc kẹt ở đó và gần ngàn người đã chết. Chính phủ phải huy động một số lượng lớn nhân lực vật lực để ứng cứu, kể cả sử dụng máy bay trực thăng quân sự. Vậy mà những người đãi vàng vẫn như điên dại, đi xe đi bộ tiến sâu vào Kakaxili. Bởi vì có một ý thức chi phối họ, đó là ý thức sinh tồn cơ bản nhất của con người. Họ vững bước thẳng tiến như các tín đồ hành hương, chỉ để có được vàng, để có một cuộc sống hạnh phúc, no đủ. Do đó mùa hè ́ ́ ́ năm 1989 Kakaxili là nơi tập kết của tất cả các giấc mơ đẹp của con người. Đợt sóng thần người đào vàng ập đến Kakaxili năm 1989 thực tế là một chuyến hành hương tinh thần của lớp nông dân nghèo khổ dưới đáy xã hội của Trung quốc. Bởi vì đa số họ cuối cùng đã trở về tay không. Nhưng giấc mơ chưa chết, ước vọng cầu mong cuộc sống hạnh phúc chưa chết cho nên mới diễn ra tấn bi kịch này. Những người đi đãi vàng, những người nét mặt lấp lánh ngọn lửa hy vọng và kiên nhẫn vẫn tiến lên, vẫn lặn lội đi dưới bầu trời u ám để thực hiện cuộc hành hương của họ. V TÀI CÚI ĐẦU ĐI TRƯỚC, THEO SÁT ANH TA LÀ Nghĩa, cậu đàn em tuấn tú, sau đó là Thọ béo lùn, Tuấn gầy yếu, mấy người cõng ba lô lương thực, quần áo. Hải đi sau cùng đẩy xe cút kít. Bỗng nhiên tuyết bay đầy trên không, khi một bông tuyết quay tròn rồi bay vào cổ áo Tài thì anh ta run lên, ngước mắt nhìn trời, mây đen như tấm vải liệm đang kéo phủ bầu trời. Khi họ chia tay vợ con và những người thân đang đứng trên sườn dốc đất đỏ vẫy tay đưa tiễn, khi vượt qua ngọn núi Nhật Nguyệt quanh năm tuyết phủ, nhìn về phía Kakaxili xa mờ trong sương khói thì họ đã biết rằng chuyến đi này sẽ gian nan cực khổ. Trước tiên họ lên chiếc xe quân sự, đi qua sa mạc Gôbi hàng ngàn dặm rồi chia tay người lái xe giải phóng quân tốt bụng, họ bắt đầu tiến vào núi. Họ nhanh chóng vượt qua núi Côn Lôn. Đối với Thọ vượt qua núi Côn Lôn lại là một kӹ niệm sâu sắc. Chuyện xảy ra sáu ngày trước, khi họ vượt qua mấy cái đồi cỏ mọc thưa thớt thì núi Côn Lôn hùng vĩ sừng sững hiện ra, Côn Lôn cao chót vót, hiểm yếu, quanh năm đội vương miện băng tuyết, ngạo nghễ nhìn xuống bầy núi vây quanh. Họ ngây người chiêm ngưỡng vì ngọn núi quá lớn và quá hiểm trở. Nhưng họ biết rằng phải leo qua nó thì mới có hy vọng đến được Kakaxili. Khi leo núi, Thọ ngất đi mấy lần vì thiếu ôxy nhưng họ bắt buộc phải vượt qua đèo băng, nơi quanh năm phủ kín băng rắn chắc, phản chiếu ánh nắng một màu xanh thẳm ngàn đời không đổi. ̀ ́ ́ Bỗng nhiên Thọ ngã lăn ra rồi cứ thế trượt xuống theo mặt dốc, cái ba lô nặng sáu bảy chục kí lăn lông lốc như hòn đá xuống vách băng. “Ôm lấy tảng đá kia! Ôm lấy mau lên!” Tài và Tuấn gào lên, Thọ cứ sàn sạt trượt xuống, rồi giang tay ra ôm được một tảng đá nhô lên. “Anh ơi, cứu em với!” Thọ kêu lên yếu ớt. Mấy người thả dây chão xuống cho Thọ nắm lấy rồi kéo dần lên. Sau sự căng thẳng tột độ, Thọ rã rời cả tinh thần lẫn thể xác, các vết xây xát, xanh tím đầy mình. Kể từ khi xuất chinh, đây là lần gặp nạn đầu tiên, mà đường còn xa, họ bước đi lòng đầy lo lắng. Từ lúc đó Thọ lầm lì chẳng nói chẳng rằng, rõ ràng tinh thần bị tổn thương nặng nề. Chốc chốc anh ta lại rùng mình: Trời ơi thần chết đã vỗ vai con, cầu trời cho con sống để về gặp lại vợ! Thọ nghĩ vơ vẩn. Từ lúc đến đầm lầy, anh ta hắt hơi liên tục, rõ ràng bị cảm rồi. Khi anh ta thấy những bông tuyết rơi xuống mặt thì cũng là lúc thấy đầu nặng trĩu. Mấy ngày nay Thọ chìm trong ảo giác. Đó là trên trời lúc nào cũng có đàn chim ưng trọc đầu, lũ quái vật đen sì chuyên ăn xác chết đó lúc nào cũng lượn vòng bám theo và trừng trừng nhìn họ. Nhưng khi Thọ nhìn lên thì chỉ có mây đen vần vũ, ngoài ra chẳng có gì, khi anh ta cúi đầu xuống thì những cái cánh đen sì của chúng lại vùng vẫy trong đầu, hơn nữa anh ta cảm thấy như có ai lấy ống tiêm bơm đầy nước vào đầu mình, đau đến muốn nổ tung. Thọ thận trọng bước đi theo vết chân của Nghĩa, anh ta hắt hơi liên tục, cố nén để khỏi nôn thốc ra. “Anh Tài ơi, em cứ nghĩ mãi đến cái xác chết hôm qua. Em thấy như anh ta chết vì cái dây thừng thắt cổ”. Nghĩa, chàng trai hăm ba tuổi bỗng nhiên nói với Tài, cắt ngang tiếng hắt hơi của Thọ. Thọ thấy cổ họng như cứng lại, cố nén cơn nôn, nói: “Người xưa bảo, cái gì cũng có bóng đen, vàng cũng thế, bóng của vàng lại càng đen, cái xác ấy đúng là xác người đãi vàng, anh ta nếu không chết vì làm giàu thì cũng chết vì đánh lộn. Vàng thì ai chẳng thích? Nhưng để có được vàng, mạng con người ta chỉ đáng mấy đồng bạc. Đúng vậy không anh Tài?” Một bông tuyết lạnh bay xuống, Tài bỗng cảm thấy điều chẳng lành sắp giáng xuống đầu, nhưng không biết là cái gì, một tia sáng màu da cam lóe lên trong mắt. Lẽ nào ta cứ phải gặp rủi mà không thể khác sao? Năm ngoái dân đãi vàng trúng to, lúc đó hạn nặng, tất cả đầm lầy đều khô nẻ, người ta lũ lượt kéo nhau đi Kakaxili một cách dễ dàng, ai cũng phát tài, khi về ít nhất cũng được nửa kí vàng cám, có người còn được hai kí vàng khối thiên nhiên, được lên cả ti-vi. Tiên sư nó, Tài tức giận lẩm bẩm. Anh ta nhìn phía trước mây khói mịt mù, đầm nước đầy cỏ loang loáng ánh chớp, xung quanh không một hình bóng của sự sống, một không khí lạnh lẽo thối rữa bao trùm. Mùi bùn tanh và cỏ mục xộc vào mũi, những mạch máu trên cổ cuộn lên từng hồi như giun bò. Câu hỏi của Nghĩa phá tan bầu không khí câm lặng của buổi sáng, Tài ngừng một lát, nhìn đúng một mô đất, bước lên và nói: “Có thể là như vậy. Nhưng hình như ta là người đãi vàng đầu tiên vào đến Kakaxili thì phải. Thường thì tháng năm người mới đông, bây giờ mới tháng tư, chưa đến lúc đông. Tớ cũng thấy cái xác đó giống người đãi vàng, cậu xem, anh ta đi giầy mũi to, mặc áo lông ngắn, tay còn ôm một cái túi da rỗng. Tớ đoán là anh ta đi tìm vàng mà thiệt thân thôi. Ôi chao, thật đáng thương. Khi chết chẳng được nhìn mặt người thân, cầu trời cho anh ta được an vui trên thiên đàng!” Tài ngẩng mặt nhìn trời, thở dài, nhìn những bông tuyết bay bay rồi lấy sức nhảy qua một vũng nước. Tuấn bốn mươi tuổi, là người nhiều tuổi nhất ở đây, anh ta gầy gò như một cây táo đen, trầm mặc hồi lâu mới nói: “Ông nội và bố tớ đều là dân đãi vàng, các cậu biết cả rồi. Các ông ấy từng đãi vàng ở Antai Tân cương từ đời nhà Thanh, đến thời quốc dân đảng, về già thường bảo với tớ là tim người đãi vàng có màu đen. Ông bảo có một hôm, những người ở một bãi vàng bỗng trở mặt, chẳng ai còn nhận ra ai nữa, đánh lộn một hồi cuối cùng chẳng còn ai sống sót. Tất cả đều do vàng gây ra, chao ôi, thời buổi này khó sống quá, nếu không phải làm nhà tớ thèm vào đi đãi vàng”. Tuấn thở dài thườn thượt. Tất đều im lìm, không ai nói một câu. Xung quanh chết lặng như tờ, tất cả đều u ám, trời u ám, đất u ám, lòng người u ám. Thỉnh thoảng một con chim hốt hoảng từ bụi cỏ bay vù lên, biến vào không trung. Đầm lầy úng nước mưa lâu ngày cho nên chỗ nào cũng nguy hiểm, lỡ chân một chút là thụt xuống cái bẫy chết người. “Ta nghỉ ăn cơm”. Tài thấy mọi người lên hết cái gò nhỏ mới dừng lại nói. Tốp người đi cách quãng chừng năm mét bây giờ mới ̀ ̀ ́ co lại như cái lò xo rồi quây lại thành vòng tròn, ngồi xuống, lục tục giở ba lô lấy bánh nướng và thịt khô ra ăn. Hải lật nghiêng cái xe cút kít trên mặt cỏ rồi ngồi xuống ăn. Một luồng gió rất lạnh thổi đến như con rắn chết cóng chui vào lòng, anh ta vốc nước lên định uống thì thấy trong nước đầy những con bọ đỏ, ghê quá, đành cố nuốt miếng bánh như nuốt cát. Tuyết vẫn bay trên đồng cỏ mênh mông làm cho đầm lầy thêm giá lạnh. Hải bỗng cay đắng nhớ lại, năm ngoái vay tiền mua được trăm con dê, nửa năm, từ mùa xuân đến mùa thu, đàn dê lớn lên trông thấy, nào ngờ một đêm tháng chín, bỗng sét đánh ầm ầm, trời đổ mưa sầm sập. Anh ta và vợ đang ngủ, vùng dậy bật đèn thì thấy nước đã ngập bậc cửa tràn vào nhà. Bỗng nhớ đến chuồng dê ở mảnh đất trũng cách nhà chừng năm mươi mét bèn mang đèn pin chạy ra, ngã lên ngã xuống bùn lấm be bét, đến nơi thấy hàng rào đã bị dòng nước trên núi đổ xuống cuốn băng đi. Một trăm con dê, một trăm con! chỉ còn ba con đứng trên mô đất kêu be be. Dòng nước vàng đục cuồn cuộn sủi bọt cuốn theo cây lá như đang chế nhạo anh ta, bởi vì không ngờ ở đây lại có lũ. Ba chục năm trời đã bao giờ có nước ở đây đâu. Anh ta ngã vật xuống. Hải ốm nằm bẹp suốt cả mùa đông, trạm tín dụng của xã thúc trả nợ, bạn bè cho vay, nếu không còn mấy mẫu khoai thì không sống qua khỏi mùa đông. Nghĩ đến đây Hải ứa nước mắt. Tiên sư nó, trời có mắt như mù! Năm nay anh ta đổi sang trồng lúa mì, chỉ mong sao vụ đông thu hoạch khá một chút, đâu ngờ trận mưa ếch xoá sạch mọi ước mơ. Trời già có mắt như mù! anh ta nổi giận, mắt ngầu đỏ như hòn than. “Đi thôi, trời mát cố đi thêm vài dặm!” Tài chậm rãi đứng dậy nói. Anh ta vừa cao vừa to, ngay tầm mắt của Hải. Mình đem cả gia sản đến đây, nửa đời sau là trông chờ vào chuyến đãi vàng này. Bán hết cả đi rồi, thế nào cũng phải kiếm được vàng mang về. Hải cầm lấy xe loạng choạng đứng dậy, anh ta đứng trong bùn, ra sức đẩy theo sau mọi người. “Giãn cự ly ra mười lăm mét!” Tài nói. Họ đi cách xa nhau ra như những anh du kích lẻ loi. Nghĩa, anh chàng đẹp trai suýt dẫm vào bụi hoa dại, giật mình bèn tránh chân ra. Cậu ta nhớ đến cô vợ chưa cưới thân hình đẫy đà, cặp ́ ́ ̀ ̀ ̀ ́ mắt quyến rũ. Lần này có tiền về nhất định phải cưới. Cậu ta cất giọng hát. Mây trên trời đen dần, hạt mưa rơi to dần, các cô bé lớn lên, lớn lên rồi khó nói thành lời... Mọi người cười ầm lên, có người nói to “Hát tiếp đi! Tiếp đi!” “Ra ruộng ăn cắp dưa, chủ ruộng đến chạy thôi, chạy đến nhà cô bé, chủ ruộng hỏi mày ăn cắp dưa của tao, tôi đùa người của tôi, mấy lần đến nhà ông rồi”.. Giọng hát của Nghĩa đẹp như những sợi lông chim mượt mà bay lên. Hải đi sau cùng nghe Nghĩa hát cũng lâng lâng vui lây. Chiếc xe chỉ chở đồ đạc chừng năm mươi kí, nhưng đẩy thật vất vả vì đường đi ngập bùn lầy, phải đạp lên cỏ mà đẩy đi. Mày đúng là con lừa bướng bỉnh, anh ta bảo cái xe. Vợ của mình mới tuyệt vời làm sao, nghĩ đến đây khuôn mặt của cô ấy lại hiện lên xinh tươi mơn mởn, trong lòng rạo rực. Cô ấy như con ngựa hay, anh ta nghĩ, mình cưỡi cả đêm cô ấy không mệt mà mình lại sướng lăn quay. Em yêu của lòng anh, chuyến này anh nhất định phải mang vàng về đặt trong lòng bàn tay em, con ngựa trắng của anh, ôi sao thế này, Hải thấy mình đổ nghiêng sang bên, một chân hụt hẫng, rồi ùm một cái rơi vào một đống gì mềm nhũn, trong nháy mắt, bùn đã ngập đến ngực. Hải hất vội cái xe lên trước chưa kịp kêu thì bùn đã ngập đến cổ. “Cứu! anh Tài ơi, Tuấn ơi...cứu”.. Nghe tiếng kêu của Hải, mọi người quay lại nhìn thì thấy phía sau cái xe nằm chỏng gọng, bùn đang ùng ục sủi bọt, còn Hải vừa sống sờ sờ ra đó thì chẳng thấy bóng dáng đâu nữa. “Hải!” Cả mấy người đều gào lên như điên dại, nhưng chẳng làm gì được. Hải đã bị đầm lầy nuốt chửng mãi mãi như thế đó, ở nơi còn cách rất xa mơ ước của mình. Giờ đây anh ta như cái cây đứng chìm sâu trong lòng đất, trở thành vị thổ thần rồi. Thọ và Nghĩa khóc nức nở. Trời nổi gió đùng đùng. Gió rít như xé không khí, u u như tiếng sáo, mây đen kịt như mực kéo đến đầy trời. Da mặt Tài sạm đi, anh ta đưa tay chùi nước mắt, bước tới, lấy đồ trên xe đưa cho Tuấn, rồi gầm lên như con hổ, hai tay nâng bổng chiếc xe quật xuống, chiếc xe tan ra từng mảnh. Anh ta lấy ́ những thanh gỗ của cái xe vỡ nát cắm quanh vũng bùn. Những thanh gỗ dựng thành hàng rào vây lấy mảnh đất Hải đã bỏ mình. Tuyết vẫn bay, như những tờ tiền giấy tiễn đưa người đã khuất. Mấy người bạn đứng lặng đi rất lâu, tuyết đọng đầy dần trên vai. “Ta đi thôi, để cậu ấy yên nghỉ tại đây. Ta chẳng biết làm thế nào nữa”. Tuấn lau nước mắt khuyên mọi người. Họ lại lên đường, vẫn đi giãn đội hình, vẫn là những bóng dáng kiên nhẫn và cô đơn. Họ vẫn cảm thấy hương vị cỏ thơm của mảnh đất Kakaxili tràn ngập ánh vàng lóng lánh. Nhưng sự im lặng bao trùm lên tất cả, sự im lặng làm tâm trạng họ trở nên nặng nề. Họ không thể biết rằng cái gì đang chờ đón, là những cái chết liên tiếp hay là vận may lấp lánh ánh vàng. Một tiếng chim kêu thảng thốt chói tai, tiếng chân bì bõm xéo trên cỏ ướt nghe tối tăm và buồn thảm làm sao. VI ĐẦM LẦY RỘNG HÚT TẦM MẮT, NĂM NÀY QUA năm khác lặng lẽ lan rộng ra tứ phía. Bốn cái chấm đen lầm lũi di động trên nền xám xịt của mảnh đất mênh mông không một bóng người trông sao mà hoang vu và nhỏ bé. Không khí ẩm ướt, giá lạnh và đặc quánh, gây cho họ cảm giác nghẹt thở. Đầm lầy không ngừng bốc hơi mờ mịt, mây đen vẫn trôi, không còn tiếng sấm, bước chân họ bước qua những giọt bùn lấm tấm bắn lên lá cỏ và những bông hoa tử huệ tím nhạt. Đường đi có vẻ khô dần, báo cho họ biết sắp ra khỏi đầm lầy. Lớp mây đen mỏng dần, mặt trời như một trái cây màu trắng lấp loáng trên không. Tài ngẩng lên lẩm bẩm điều gì không ai biết, họ chỉ thấy một ngọn núi cách đó không xa. Sẫm tối họ đến chân núi. Trời bỗng quang mây, ráng chiều đỏ như máu loang lên bầu trời và mảnh đất phía tây. Đất trời một màu đỏ máu, phải chăng đang báo hiệu và tạo màu nền cho tấn bi kịch. “Cái thời tiết chó chết, ta sắp ra khỏi đầm lầy rồi cái đồ chó chết mới chịu hửng lên”. Tài hắt hơi thật to vừa chửi vừa nhìn quanh tìm củi nấu ăn. Họ dựng lều vào một chỗ trũng ở chân núi để cho khuất gió. “Hôm nay có thể đánh một giấc ngon lành đây”. Tuấn ngồi bệt ́ ́ xuống đất ẩm cởi đôi giày nặng trịch và nói. Nghĩa nhóm lò ngoài lều nồi khoai tây luộc đang sôi lục cục, hương vị mộc mạc của khoai tây tỏa ra, sắc trời sẫm dần. Thọ cho thêm củi vào lò, say sưa nhìn ngọn lửa, lát sau cậu ta bảo: “Nghĩa ơi, vợ chưa cưới của cậu đẹp lắm, lại là người có văn hóa trong làng mình. Đàn bà con gái chỉ nhắm một cái cu thôi, cậu trúng số độc đắc đấy”. Nghĩa là một chàng trai bẽn lẽn, nghe Thọ nói vậy thì cười xấu hổ, khuôn mặt cô vợ chưa bước qua ngưỡng cửa lại hiện lên. Cô ấy là người giỏi giang, đã học năm năm trung học trường huyện, sau đó nhất quyết thi vào đại học, thi trượt mới chịu về quê. Một hôm cô ấy ra sau núi cắt cỏ cho dê. Nghĩa cũng chăn dê ở đó bỗng nghe tiếng con gái hát véo von: “Mặt trời í a, leo mà leo lên núi í a nhìn xuống mà nhìn xuống í a thung sâu”... Hát đến đó, cô bé quay lại vừa lúc nhìn thấy Nghĩa, tiếng hát im bặt rồi lại cất lên “có một anh chàng í a đứng bên kia mà bên kia!” Nghĩa thấy rạo rực trong tim, tâm hồn bay bổng, hương thơm ngào ngạt ứa nước mắt, trong lòng bừng bừng như lửa cháy, chàng cất tiếng hát: Đường về Lan châu, qua cửa Gia cốc sang Túc châu Đường đi vòng vèo chẳng đến được nơi em… Cô gái lại cất cao giọng: Con kiến thành con ve sầu, giơ tay lên bắt, em gái chẳng bắt được câu hát, sao anh không hát. Nghĩa biết cô gái bảo anh hát không hay, trong lòng mừng thầm, lại có hứng hát lên: Em gái như dòng suối, hát chẳng hay anh uống luôn nước suối! Em gái như trái đào tiên, hái tặng anh đi, nắng đã lên đầu cành rồi! Đang hát thì đàn dê của cô phá đàn, có thể gặp phải rắn, chúng ào ào lao xuống núi như điên, Nghĩa đứng ngây người, nhìn đàn dê và cô gái đi xuống. Cô gái thấy Nghĩa chặn ngang đường, lại hát: “Anh tránh sang bên đường, chuyện đâu rồi có đó!” vừa hát, cô gái vừa ào qua như cơn gió, theo đàn dê xuống núi, khi qua bên Nghĩa ́ ́ đôi mắt đẹp liếc xéo qua làm anh chàng choáng váng, thẫn thờ nhìn theo... Về sau cô cậu hay hát đối đáp nhau trên sườn dốc. Cỏ cây cũng ngóc đầu lên nghe. Sau này Nghĩa biết cô bé tên Yến, là cô bé duy nhất trong làng học hết trung học. Nhờ người đến hỏi, bố mẹ cô gái đòi lễ chạm ngõ một ngàn năm trăm tệ. Nghĩa dốc hết vốn liếng trong nhà đưa trước chạm ngõ, nhưng muốn cưới thì ba ngàn nữa, bí quá, chỉ còn cách theo mọi người đi đãi vàng. Ngọn lửa bập bùng bỗng cắt ngang dòng suy nghĩ của Nghĩa, cơm cũng đã chín, họ chui vào lều đánh một bữa no căng. Ăn xong, Tuấn lấy ít tro nóng bảo mọi người lấy vải gói lại ủ vào bụng: “Cái này chữa vị hàn, khi đóng quân ở Tân cương chúng tớ hay làm vậy, đêm nay nằm trên đất ẩm không cẩn thận lạnh bụng hỏng dạ dày đó”. Mọi người làm theo, cảm thấy toàn thân nóng ran rất dễ chịu. Đêm xuống dần, Nghĩa thò cổ ra khỏi lều nhìn trời sao rực rỡ. Sao lấp lánh như những hạt ngọc gắn vào màn trời xanh ngắt, đây là lần đầu tiên trong đời Nghĩa thấy trời đẹp đến thế. Tiếng hót chim đêm thoảng trong gió nghe cô đơn lạnh lẽo, mùi sen cạn phảng phất đâu đây. Tài, Tuấn, Thọ mỗi người cuốn một điếu thuốc, Tài nói: “Nghĩa này, cậu cũng làm một điếu đi”. Nghĩa lắc đầu, nhìn trời, vẩn vơ với ý nghĩ: Không biết lần này mang được vàng về liệu có cưới được Yến không. Mấy đốm lửa thuốc lá lập lòe trong lều. “Tớ từng là lính đóng quân ở Tân Cương, làm lính lái xe”, Tuấn nói “Tân Cương kinh khủng lắm, mùa đông rét đến độ đái ra là thành băng, mùa hè thì nóng kẽ đít lúc nào cũng ròng ròng mồ hôi, cực vô cùng....Tớ đem vợ từ Tân Cương về, thôi không kể chuyện vợ, tớ kể chuyện ông tớ đãi vàng cho mà nghe”. Đốm lửa thuốc lá sáng lập lòe, ngừng một lát Tuấn nói: “Năm ấy ông tớ mang bố tớ đi Antai Tân Cương đãi vàng. Họ vừa đào vàng cục vừa đãi vàng cám, có lúc còn đào được cả vàng đầu chó”. “Vàng đầu chó là gì?” “Vàng đầu chó là vàng thiên nhiên nguyên khối, vớ được là phát tài to. Đãi vàng cám cực lắm, cả ngày ngâm trong nước đến tận bẹn, nước núi băng lạnh buốt, ông tớ và bố tớ đãi một năm, cái ấy đếch cứng được nữa”. ́ ́ “Nước buốt quá chim đông béng nó lại”. Thọ cười ha hả. “Tuấn ơi, may mà cậu đã chui ra rồi chứ không thì nhà cậu mất giống”. “Đúng thế thật. Người đãi vàng thật cơ cực, lỡ một tí là chết toi. Cậu Hải chết thảm quá, lần này về mỗi đứa mình phải góp lại cho vợ cậu ấy một ít, được không?” “Tất nhiên rồi. Gia cảnh cậu ấy tội nghiệp lắm mà lại còn nợ mấy ngàn”. “Hồi ông và bố tớ đào vàng thường xảy ra chuyện giết nhau vì vàng. Cái bóng của vàng có màu đen, để có vàng người ta có thể làm bất cứ chuyện gì”. Tâm tư Tài nặng trĩu. Hơi lạnh dưới lưng thấm vào người, Tài nói “Thôi, ngủ đi”. Tất cả chìm vào yên lặng, lát sau đã nghe tiếng ngáy khò khò. VII BỖNG NHIÊN TÀI THẤY LỀU BỊ GIẬT MẠNH. ANH ta bật dậy vớ lấy cái mai, tối mò mò. Mấy tiếng rú dài trầm trầm đằng xa, tiếng rú lạnh lẽo và hung hãn. Tài nhận ra tiếng tru của sói. Tuấn bay lên như chiếc lá, kêu to: “Sói, sói, có chó sói!” Mọi người tỉnh hẳn, cuống quít trong đêm tối. “Đừng sợ!” Tài dằn giọng quát, “Lấy cuốc xẻng ra, chúng nó đông đấy”. Tài xem đồng hồ, một giờ đêm, sáu tiếng nữa trời mới sáng. Xem ra quãng thời gian đó là gay go đây. Theo kinh nghiệm, Tài biết rằng chúng thực sự là sói hoang cao nguyên, cao to, khỏe mạnh, hung dữ, chạy giỏi và đi thành đàn rất khó đối phó. “Anh Tài, em váng đầu quá, làm thế nào bây giờ?” Thọ cuống lên. “Đừng sợ, xem chúng có động tĩnh gì”. Mọi người nín thở cầm lấy dụng cụ chăm chú lắng nghe. Một trận gió thổi đến hơi tuyết lạnh buốt. Lúc này hình như âm thanh đã tạm lắng xuống. Không lâu sau đó tiếng sột soạt gần lại rồi mất. Tài lắng nghe bỗng có tiếng xoẹt, cái lều bị giật một cái, cái lều vốn chẳng lấy gì làm chắc chắn bị gió giật tung lên, rõ ràng bị kéo từ bên ngoài, tấm vải lều bay vèo qua đầu mọi người như mảnh giấy, tất cả vùng đứng dậy, dưới ánh trăng nhìn rõ mấy chục cái bóng đen, đó là những con sói cao nguyên hung dữ. “Quây lại thành vòng tròn, mỗi người trông một phía!” Tài hạ giọng hô. Bốn người quay lưng vào nhau, mai xẻng cuốc chim trong ́ ́ tay lăm lăm. “Đừng cuống!” Tài lại thấp giọng nói, Nghĩa, Thọ sợ quá, đôi chân run bần bật, Thọ đái cả ra quần. Tuấn phát ra tiếng gì lạ, anh ta trấn tĩnh múa cái mai: “Đồ khốn, đến đông thế, chắc là đói vàng mắt rồi đây. Nào, xông vào đi, giết một là hòa vốn, giết hai lãi một, lũ khốn”. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, bốn người và bầy sói đang căng thẳng đối địch với nhau. Mấy con sói vừa lẻn vào giật tung lều bây giờ nhảy lui lại. Cả bầy sói, con nào mắt cũng xanh lè dữ tợn. Chúng túm năm tụm ba thành mười mấy tốp vây chặt bốn người trong khoảng chu vi năm mươi mét. Ở ngoài xa có một con sói cao to lạ thường, nó ngồi trên tảng đá, uy phong lẫm liệt, lặng lẽ quan sát tình hình, xung quanh nó mười mấy con đứng ngồi hoặc xếp thành hàng! Tài lạnh sống lưng, nghĩ con này là vua của cả bọn đây. Đánh rắn phải đánh trúng đầu. Đúng lúc đó nó ngửa mặt lên nhìn trăng tru lên mấy tiếng dài, lũ sói nhộn nhạo. Mấy con gần nhất lấy chân trước cào tung đất và cũng tru lên. Đột nhiên một con nhảy vọt lên, điệu đà dừng một chút trên không rồi rơi xuống, bước nhảy xa đến năm mét. Lúc con sói nhảy lên nhằm vào cổ họng Tuấn để đớp, Tuấn nhanh tay vung chiếc mai lạnh lùng bổ vào con thú đang giơ nanh múa vuốt trên không, một tiếng xé không khí, nhưng trượt, con sói rất khỏe vẫn nhẹ nhàng đáp xuống, ngoạm vào bắp chân Tuấn. Anh ta cảm thấy như dao đâm vào chân, nghe rõ cả tiếng thịt rách, đau buốt tận óc và kêu thất thanh, ngã lăn ra. Đúng lúc đó cuốc chim của Tài bổ xuống, con sói vỡ toang đầu chết thẳng cẳng. Tuấn quỳ một chân, rên rỉ. Lũ sói trông thấy một con chết bèn lùi lại một quãng. Hai bên lại tiếp tục cầm cự. “Chú Tuấn có sao không?” Nghĩa quì xuống xem, vết thương của Tuấn máu thịt be bét, tanh tưởi. “Lấy băng ra mau lên, lấy thuốc bột Vân Nam!” Tài thét lên. Nghĩa vội giở ba lô. Dưới ánh trăng mờ ảo, con sói đầu đàn lại ngửa mặt lên trời tru lên đến hai phút, tiếng kêu trầm trầm như tiếng chuông lan xa trên đồng cỏ mênh mông giữa đêm đen. Thọ căng thẳng sợ đến thót tim, đái ướt cả quần, “Anh...Tài ơi, chúng nó lại xông đến kìa”... ́ ́ Hơn ba chục bóng đen vây lại, những đôi mắt xanh lè lấp lánh. Tài sực nhớ chó sói rất sợ lửa, đang định châm lửa thì lũ sói lại xông vào. Những con gần nhất nhảy bổ vào bốn người ở bốn phía. Mười mấy con nhe nanh từ trên lao xuống, tình hình vô cùng nguy khốn. Trong đêm chỉ nghe những tiếng cuốc thuổng va đập vào thân mình những con sói, tiếng người hò hét, tiếng sói kêu thảm thiết, thỉnh thoảng bóng một con sói rơi bịch xuống, giãy giụa rên rỉ. Trong cuộc hỗn chiến bầy sói xô đẩy bốn người thành hai cặp, mỗi cặp tả xung hữu đột giữa bầy sói như hòn đảo trơ trọi. Nghĩa và Thọ ở cạnh nhau, Thọ thở hổn hển, trong đầu kêu u u như có đàn ong, bụng dưới nặng như chì, muốn đái mà không đái được, cậu ta vung lưỡi mai vù vù, có lúc trúng con sói đang xông vào. Cậu ta vừa hắt hơi vừa ra sức chém giết. Một tiếng sói hú dài, Nghĩa cảm thấy bụng đau quặn từng hồi, toàn thân run bắn như bị điện giật, lớn từng ấy rồi nhưng cậu ta chưa gặp cảnh này bao giờ. Cái cuốc trong tay cậu ta vung lên vụng về, quyết đấu với lũ sói đang liều chết xông vào. Đúng là trận quyết đấu giữa người và thú, trận quyết đấu sinh tử! Bầy sói không ngừng rú lên man rợ, thê thảm và đau đớn vì trúng đòn. Trên bầu trời mảnh trăng non u buồn, lạnh lẽo hắt chút ánh sáng xuống cõi nhân gian và dửng dưng nhìn trận chiến đấu đẫm máu vì sự sống còn giữa người và thú. Xa xa bóng núi nhấp nhô như một dải băng kéo dài. Gió bỗng mạnh lên. Tài và Tuấn vừa đánh vừa lui về chỗ trũng. Họ cảm thấy lực bất tòng tâm. Lũ sói cao nguyên này coi bộ đói lắm, đói phát điên rồi, chúng không ngừng lao vào họ trong tiếng tru của con đầu đàn. Tài bỗng lạng người đi, một con sói chồm tới đớp vào vai. Tuấn đang bị thương quay người vung lưỡi mai chém một nhát, con sói ngã vật xuống. Đúng lúc đó một con khác vọt qua đầu Tài, ngoạm chặt vào cổ họng Tuấn! Chỉ nghe một tiếng như bóng bay xì hơi, Tuấn đau đớn gào lên, Tài quay mình đập một nhát vào lưng con sói rồi xỉa tiếp một nhát, con sói chết, Tuấn đổ xuống như một khúc gỗ. “Anh Tuấn!” Tài thét lên một tiếng như điên dại, nhưng chỉ nghe họng Tuấn phát ra những tiếng kỳ lạ, cổ họng sùi bọt máu, toàn thân co giật, giãy giụa một lát rồi ngừng thở, dưới ánh trăng hai ́ ́ ́ ́ mắt mở trừng trừng, đánh dấu sự gắng sức cuối cùng để giành giật sự sống. Tài gào lên: “Lũ sói chó chết, chúng mày lại đây! Xông cả vào đi!” Giọng Tài vang xa trên đồng cỏ, đánh động cả thế giới xung quanh. Bầy sói bị một chấn động nào đó rên rỉ tru lên rồi lui lại. Tài thở hồng hộc, giơ chiếc mai, tóc rối bời đứng uy nghi như bức tượng thần núi. Bầy sói theo nhau rút đi. Nghĩa cầm thanh củi cháy cùng Thọ chạy đến bên Tài, thấy Tuấn nằm chết, gào lên: “Chú Tuấn!” rồi khóc nức nở. Lại một người bạn nữa chết thảm thương. Anh không còn kể những chuyện sinh động về đãi vàng, anh cũng không còn hát những câu hát vui nhộn nữa. Anh chết rồi. Các bạn theo nhau chết bất đắc kỳ tử làm mọi người dao động, hoang mang. Họ bất chợt hiểu ra trong tầng sâu cuộc sống một cái gì đó khuấy động tâm tư của họ. Ai cũng thấy giữa cái chết và sự sống là một khoảng cách thật nhỏ nhoi. Thọ không còn thấy tức bụng nữa, nước tiểu trút ra xối xả, cậu ta thở dài rồi khóc rưng rức. Tài tiếp củi vào đống lửa, củi nổ tí tách, hoa lửa bay ngùn ngụt lên trời, vẽ thêm một hình ảnh bi tráng trong màn đêm giữa cánh đồng cô quạnh. Thế là người thứ hai ngã xuống trên đường hành hương tìm vàng, mà phía trước đường còn xa thăm thẳm. Họ đang đứng trước một thử thách sống còn. Trong ánh lửa rực hồng lấp loáng, tâm trạng của họ đầy buồn thương và nặng nề, không biết đến bao giờ con chim cú báo điềm dữ mới thôi bay lượn trên đầu họ. Bầy sói thấy đống lửa không dám bén mảng đến nữa, chúng lởn vởn từ xa, vây họ, tru lên giận dữ và tuyệt vọng. Đến khi chân trời nhờ nhờ trắng bụng cá chúng mới kéo nhau đi theo con đầu đàn gian manh và hung hãn. Trời sáng, xung quanh họ có hơn chục xác chó sói. Họ dùng tấm thảm len quấn xác Tuấn và chôn, xác những con chó sói chôn xung quanh thành một vòng tròn. “Để chúng nó làm lính gác cho anh”. Tài nghĩ. Họ đứng mặc niệm trước mộ một lát. Xế trưa, tiếp tục lên đường. Trước mặt họ vẫn là đồng cỏ bao la hút tầm mắt. VIII É Ò Ầ MỘT CON THỎ HOANG LEN LÉN THÒ ĐẦU RA khỏi hang, đôi mắt lanh lợi nhìn xung quanh rồi nhẹ nhàng chui ra. Nó đang cào cái gì trong đám cỏ, lát sau nó lôi ra một cái rễ rồi nhai rau ráu. Ngẩng lên nhìn không thấy bóng diều hâu, nó bắt đầu đào. Đột nhiên có tiếng động, nó nhỏm đầu lên, đôi mắt tròn nhìn quanh, hình như nó thấy cái gì bèn rụt cổ lại chui tọt vào hang đất mất dạng. Chân trời hiện dần lên mấy bóng người kèm theo tiếng chân bước. Một người gục trên vai người kia, người thứ ba cõng hai cái ba lô to. Mấy con chim ưng bay lượn và kêu quàng quạc, chúng theo họ suốt chặng đường. Họ bước đi chuệnh choạng mỏi mệt. Đến trước cái hang thỏ, họ dừng lại. Tài buông Thọ xuống, cậu ấy vẫn rên hừ hừ. Sau trận đánh nhau với sói hai ngày trước đây, cậu ta bị cảm, sáng nay lại sốt cao, người nóng như hòn than. Tài cõng anh ta suốt dọc đường. Họ sắp xếp lại đồ lề, vứt bỏ những thứ tạm thời chưa cần đến, lại đi tiếp hai ngày nữa trên đồng hoang. Trong hai ngày họ đã gặp đám người Tây Tạng chăn ngựa, hai bên chẳng biết tiếng nhau, sau khi đứng nhìn và hiểu nhau, họ xin được một ít thức ăn, bây giờ số thức ăn đó chẳng còn bao nhiêu. Thọ mắt lờ đờ, hơi thở nóng hầm hập, mặt đỏ gay trông thật đáng sợ. Tài đặt Thọ xuống để dựa vào ba lô. Nghĩa cũng ngồi xuống nghỉ. “Chú Tài, bao giờ thì đến Kakaxili?” Nghĩa lo lắng hỏi. Tài cởi giày, nhìn dãy núi xa xa: “Mình đoán leo qua triền núi kia là đến. Sắp rồi, độ hai ngày nữa thôi”. Tài đập mạnh chiếc giày cho hết bùn đất rồi dốc sỏi cát ra. Anh ta nhìn Nghĩa thấy cậu ta tiều tụy quá rồi. Nghĩa ngẩng mặt nhìn trời không nói. Thọ đang nằm trên đất nói qua hơi thở hổn hển: “Nước... tôi khát nước quá... muốn ăn thịt”... có thể sốt cao quá và gây ra ảo giác, Tài nghĩ, anh ta lấy bi đông quân sự ghé vòi vào môi Thọ, bảo uống đi một chút. Tài đứng dậy, toàn thân cơ bắp ê ẩm đau nhừ, nheo mắt nhìn ra xung quanh, đột nhiên thấy cái hang thỏ cách đó chừng hai mét, sướng quá, bảo Nghĩa bít một cửa chặn một cửa khác rồi bắt đầu đào. Không bao lâu, một con thỏ nâu xám béo tròn lao ra, Tài nhanh tay đập một nhát mai chết ngay. Lúc đó Nghĩa đang chặn một cửa khác cũng kêu lên : “Ra rồi, ra rồi!” Một con thỏ to béo vọt ra chạy bạt mạng trong lớp cỏ, Tài và Nghĩa vây đánh, một lát ́ ́ sau con thỏ bị đập chết. Lúc đó cửa hang lại thập thò bốn con thỏ con, thế là cả nhà thỏ bị tóm. Ngọn lửa lem lém liếm trên sáu con thỏ đã lột da móc ruột, thịt thỏ nướng kêu xèo xèo bốc mùi thơm ngào ngạt, họ vừa bỏ thêm củi vừa nuốt nước bọt ừng ực. Đã hơn hai chục ngày họ chưa biết đến mùi vị thịt. Trong con mắt của Nghĩa, những con thỏ lột da xiên vào que để nướng trông giống xác người, hình ảnh xác người và xác thỏ cứ đổi qua đổi lại chập chờn chồng lên nhau. Thịt thỏ nướng vàng, mỡ rỏ xuống làm ngọn lửa chốc chốc lại bùng lên, cậu ta đau đớn nhắm mắt lại. Con người mới bé nhỏ làm sao, chỉ như con kiến trơ trọi không biết dựa vào đâu trên cái đồng cỏ mênh mông bát ngát này. Để tồn tại thật khó khăn quá, Nghĩa còn trẻ quá, cậu ta đau đớn chảy nước mắt. Tài nghĩ, các tốp người khác của làng Nhật Nguyệt chắc cũng đã lần lượt xuất phát rồi, đang trên đường rồi chăng? Nếu họ cũng thế này thì tội quá! Con người ta sống không dễ dàng chút nào, sống cho no đủ càng khó. Hồi nào mình cũng lên Đông bắc, đi Tân Cương, xuống Quảng Châu đều là để kiếm tiền, lặn lội bốn năm năm mới kiếm được vài ngàn. Một lần vợ ốm nặng, bao nhiêu tiền trôi sạch như nước. Mấy gian nhà dột, mỗi lần mưa, nước vào như tháo cống, muốn sửa mà chẳng kiếm đâu ra tiền. Mùi thịt nướng cắt ngang dòng suy nghĩ, Tài lấy một xâu thịt vàng bóng những mỡ đưa cho Nghĩa rồi cầm một xâu cắn một miếng nếm thử mới đưa vào miệng Thọ đang mê man bất tỉnh. Thọ mấp máy môi rồi nói: “nước...nước”... “Ăn tí thịt đã, nước còn ít lắm. Thọ ơi, cứ yên tâm, chúng tớ có thì cậu cũng có.” Thọ cố há miệng, vất vả cắn một miếng rồi nhai chầm chậm. Bỗng dưng ứa nước mắt. “Đàn ông sao lại khóc?” Tài nói. “Anh Tài ơi, em chắc không qua được đâu, bỏ em lại đi, em làm phiền mọi người quá”... “Nói bậy!” Tài trừng mắt. “Cậu còn sống thì mình còn cõng đi, đi thôi, sắp đến Kakaxili rồi”. Nghĩa hai mắt hơi sưng nói: “Chú Tài ơi, còn ba con thỏ, để bữa sau nhé, còn đến mấy ngày nữa, biết có còn gặp may như thế này nữa không”. Tài gật đầu. ̀ ̀ ́ Mây đen vẫn vần vũ trên đầu, xóa đi chút nắng còn lại. Tài bỗng nhớ lại, kể từ khi xuất phát, đã gần hai chục ngày, chưa một ngày nắng ráo, trời lúc nào cũng u ám như vận rủi liên tiếp rơi vào họ. Xung quanh vẫn mù mịt, không khí buốt giá và ẩm ướt, kèm theo mùi bùn tanh lợm. Cỏ vàng dưới chân ngả nghiêng, gió mỗi lúc một mạnh thêm, rít lên vi vút bên tai. Những con chim ưng trọc đầu theo họ bao nhiêu ngày, chắc là cảm thấy sự gan góc của những sinh vật dưới kia đành chịu thua và tản đi hết. Cách nơi nghỉ của họ không xa có một đống xương dê, giữa đồng không mông quạnh cảnh này trông thật hãi hùng. Vậy mà phía trước còn bao xa thì chính Tài cũng chẳng biết. Sau một giờ nghỉ ngơi, họ lại lên đường. Tài cõng Thọ đi trước, Nghĩa đeo chiếc ba lô to tướng theo sát phía sau. Thọ bắt đầu run toàn thân, người nóng bỏng như đá nung, rên hừ hừ trên lưng Tài. “Anh Tài ơi, chắc em không qua được đâu. Em thấy em... sắp chết rồi”. Thọ thấy lồng ngực giật lên như bị ai cào xé, tim đập loạn xạ, mồ hôi trên trán vã ra đầm đìa. “Anh Tài ơi, người em mang tội nhất trên đời này là vợ em. Năm ấy... em lấy cô ấy mất mấy ngàn, coi như bố mẹ cô ấy phang em một búa. Em lấy cô ấy về tự nhủ trong lòng, mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng, mấy ngàn mua được con vợ phải hành cho đến nơi đến chốn, không thì thiệt. Ngày đánh đập cô ấy, đêm hành hạ cô ấy. Mấy năm đầu mới cưới, cô ấy suốt ngày mang thương tích, vậy mà cô ấy không kêu ca, cũng không cãi một câu, cả ngày lo cơm nước cho chồng, lo việc đồng áng, còn đẻ cho em hai đứa con trai. Em cảm thấy ân hận quá, định chuyến này kiếm ít tiền mua cho vợ cái máy khâu, đỡ vất vả. Trời ơi, vợ em nó tốt quá, em có tội với cô ấy nhiều lắm. Chẳng may em có làm sao, có dịp nào rỗi rãi thế nào anh cũng phải năng đến nhà em thăm vợ em, hai thằng con em... anh nhé...” Thọ khóc nấc lên như đứa trẻ. “Thọ ơi, cậu không chết được đâu, cậu cao số lắm đấy. Cố lên, nghe rõ chưa? cố hết hôm nay là khỏi thôi”. Tài nói mà nước mắt đầm đìa. “Em chưa nói hết, em, cũng làm nhiều điều thất đức lắm. Cô Hoa vợ của Vương em cũng vụng trộm mấy lần. Anh Vương suốt ngày đi buôn cây thuốc, bỏ vợ ở nhà không trông nom, năm ngoái cô ấy nhờ em đi cắt lúa giúp mấy hôm, thế là nảy sinh tình ý. Một ́ ́ đêm em đến cưỡng bức cô ta. Sau đó em thấy có lỗi với anh Vương, có lỗi với vợ em, cô Hoa cũng không tố giác, chuyện rồi cũng qua đi. Trời ơi, em thật là...” Thọ lại khóc hu hu. “Thôi, được rồi, Thọ ơi, ai chẳng làm đôi ba chuyện xấu trong đời? Cậu cũng đừng cầu toàn mà tự trách mình quá”. Nghĩa cũng nói xen vào: “Anh uống nước nhé? em lấy nước anh uống”. Cậu ta đưa bi đông vào miệng Thọ, Thọ uống mấy ngụm rồi lại nói: “Chưa hết đâu, con chó vàng nhà anh Tuấn em cũng đánh bẫy ăn thịt. Em ăn cắp dê của Hải, em...” Thọ không nói hết câu. Mấy con chim đen trong bụi cỏ trước mặt bỗng vỗ cánh bay lên. Nghĩa chợt nghe tiếng động lạ. Tài vừa định nhấc chân thì thấy một con rắn to bằng bắp tay bơi đi ngay bên dưới, anh hoảng hốt lùi lại, lúc đó mới thấy vô số rắn đủ loại sặc sỡ, tụ tập thành một dòng suối rắn, từ từ bơi đi. Bầy rắn như những đợt sóng, lớp lớp tràn đi, chúng bơi đến đâu cỏ đổ rạp đến đó và một mùi hôi tanh tưởi bốc lên. Những cặp mắt rắn ánh lên cái nhìn coi khinh mọi thứ. Làn sóng rắn trôi đi đến mười lăm phút mới hết. Liên tiếp gặp những chuyện quái gở làm cho Tài kinh ngạc mãi. Nhiều ngày nay, kể từ trận mưa ếch, anh ta cảm thấy luôn bị một sức mạnh vô hình bủa vây, cái chết của Hải và Tuấn càng chứng minh sự tồn tại của sức mạnh thần bí đó. Tài do dự một lát rồi móc túi lấy ra năm que diêm trong gói giấy dầu, anh ta xếp xuống đất thành một hình lạ, cầm một hòn đá giơ cao lên. Hòn đá rơi xuống, cả năm que diêm đều gãy! Tài buồn bã, rơi nước mắt. Nghĩa hỏi: “Chú Tài, thế là thế nào?” Tài không trả lời, xốc Thọ lên vai và đi. Trời tối sầm, rồi mưa đổ xuống như trút nước, trên nền trời thỉnh thoảng luồng sét hình rễ cây màu đỏ xé tan không trung, cơn mưa dữ dội đổ xuống đầu xuống lưng ba người. Đôi lúc tiếng sấm vang lên chát chúa, tiếng sấm từ tầng tầng lớp lớp mây đen nổ tung và dội xuống, mùi thuốc súng tràn ngập không khí. Họ rảo chân bước, tìm được một chỗ trũng, họ căng lều lên. Thọ sốt cao, lại ngấm nước mưa, bệnh càng nặng, sùi bọt mép, không bao lâu anh ta bắt đầu nói mê: “Tôi... cưỡi con dê leo lên một cái cây, thấy cô tiên kiến, cô tiên kiến đẹp lắm, tôi mới đè xuống... Ông trời ơi, tôi không ăn cắp dê của Hải, không hái trộm thuốc lá của Kiệt, tôi... đang bay lên trời, nhiều chuồn chuồn cùng bay với tôi... tôi phải lên mặt trăng... tôi sắp thấy mặt trời rồi, ̀ ̀ mặt trời như đồng tiền vàng sáng chói, tôi đang bơi trong dòng sông mật ong, bơi mệt thì tôi uống mật. Đói thì tôi hái bánh mì trên cây ăn, vợ tôi cưỡi xe mô tô đến đón tôi, trên đầu cô ấy đầy những con bướm bằng vàng! vàng! đầy núi đầy đồng toàn là vàng! Các bạn thấy chưa, đâu đâu cũng là vàng, trứng vàng, cục vàng, đỗ vàng, nhặt đi mau lên, vàng nhiều quá! Lấy túi ra mau lên...” Thọ thở hồng hộc, hai mắt nhắm chặt, hoa chân múa tay. Tài và Nghĩa ngồi bên đành bó tay. Trời tối dần, đêm đó trong tiếng mưa ào ào xối xả, Thọ trút hơi thở cuối cùng. Thọ mang theo giấc mộng vàng, bay vào không trung như một làn khói. Sáng sớm hôm sau, ánh nắng rực rỡ, trời trong vắt không một gợn mây. Tài và Nghĩa lần thứ ba làm lễ an táng và mặc niệm kể từ ngày đặt chân trên con đường “hành hương”. Lại một người bạn ngã xuống, trái tim họ bị vò xé thành đám bùn nhão đặc sệt. Một nấm đất vàng đánh dấu sự kết thúc một cuộc đời khốn khổ, một dấu chấm hết của một đời người. Họ ăn một bữa cháo bột rang, nghỉ nửa ngày rồi lại lên đường. Đi hành hương! Đến Kakaxili đầy vàng! Trên đồng hoang mênh mông, hai bóng người, một cao một thấp, mệt mỏi và cũng vô cùng rắn rỏi bước đi. Gió mỗi lúc một mạnh lên, bóng họ khuất dần rồi mất hẳn trong màn sương mờ ảo bồng bềnh. IX TRỜI VỪA TANG TẢNG SÁNG HAI NGƯỜI ĐÃ tỉnh giấc, họ ngồi dậy ngáp dài nhìn xung quanh, vẫn là một thế giới hồng hoang. Ánh nắng ban mai rất đẹp nhuộm cả thế gian một màu vàng cam. Bóng dáng bé nhỏ và chênh vênh của họ hiện lên đồng cỏ hoang vắng, như những con thằn lằn thở dốc, mệt mỏi và cô đơn bơi trong biển cát sa mạc dưới trời nắng cháy. Nghĩa hỏi: “Chú Tài ơi, tại sao mãi không đến nơi?” Tài nói: “Sắp rồi, qua mấy cái đồi này là gần đến rồi”. Gió buổi sáng lạnh như cắt da, cái rét làm mất hẳn cơn buồn ngủ. Họ đứng lên cuốn lều nhóm lửa nấu ít đậu và xào mì, ăn ngon lành. “Nghĩa này, bao giờ cậu cưới vợ?” Tài hỏi. ̀ ́ ́ “Đãi được vàng thì em về cưới, nếu không có vàng thì mất vợ”. Làn da vốn trắng trẻo của Nghĩa bây giờ bong từng mảng, môi nổi mụn sưng vều. “Thời nay ở nông thôn lấy vợ khó lắm. Lấy vợ chẳng qua là tìm chỗ ở cho cái cu. Đàn bà thì thực ra chẳng cần mà cũng chẳng là gì. Tại sao cứ phải cưới vợ đẻ con? Cái thế giới này người nhiều quá rồi, Trung Quốc hơn một tӹ người rồi, khó sống lắm. Nước sắp hết rồi phải không?” “Còn hai bình lớn. Hôm qua ở chỗ suối nước nóng em lấy đủ rồi”. “Ta đi tiếp đi”. Hai người đứng dậy, Tài huơ tay: “Khoan đã, ta vái Hải, Tuấn, Thọ một vái đã”. Hai người quay lại phía sau khấn vái một hồi rồi lên đường. Xa xa đàn dê chạy như bay trên đồng hoang, bụi cuồn cuộn bốc lên như thiên binh vạn mã đang hành tiến. Nắng dịu sáng long lanh, bóng họ xa dần. Chẳng mấy chốc họ phát hiện lạc mất đường một phần do nhiều mây, không định hướng theo mặt trời được, một phần do đi vào vùng đồi núi địa hình quá phức tạp, loanh quanh mất hướng. Hai người cảm thấy họ đã nằm trong bàn tay của tai họa rồi. Tài quyết định đi về phía đồi thấp. Trong vùng cao nguyên mênh mông vô tận của miền tây Thanh Hải, họ như hai con kiến trèo đèo lội suối, vượt núi băng ngàn, tiếng bước chân rơi trong hoang vắng. Hình như thế giới này chỉ còn hai người, xung quanh là những địa tầng, vách đá trải qua gió bào mưa xối từ thuở hồng hoang, họ cảm thấy mình như là người của lịch sử. Trên đường đi, đói thì ăn chuột, ăn rắn, ăn thỏ để sống và để có sức mà đi, làm cho họ có đủ can đảm, nghị lực và lòng tin. Thật ra có đến được Kakaxili hay không, Tài cũng không quá hy vọng, chỉ hy vọng và hơn nữa tin rằng mình có thể đi một cách gan góc. Có thể khả năng trở về nhà cũng chẳng còn, nhưng giờ đây, có một sức mạnh giành giật lấy sự sống chế ngự họ, họ tin rằng cuối cùng chuyến đi của họ có thể thực hiện được một điều gì đó. “Nếu gặp được người thì tốt quá”. Nghĩa sờ nắn đôi chân sứt sẹo, nhìn những đám mây trôi qua trên đầu, than thở. ́ “Đúng thế, mình cứ hy vọng qua núi sẽ gặp được những người chăn gia súc”. Tài vừa đào hang chuột vừa nói. “Chú Tài ơi, nhìn xem cái gì kia?” Nghĩa chỉ làn sương khói bốc lên trong thung lũng, hỏi Tài. Tài nhìn theo, thấy làn hơi màu đỏ bốc lên. Nhìn mãi không biết là cái gì, Tài bảo: “Đi, ta đi xem nó là cái gì”. Hai người từ trên cao xuống, đi vào một thung lũng dài và hẹp. Thung lũng đầy đá lởm chởm hình thù kỳ quái, cỏ thì vàng úa, một bầu không khí chết chóc. Họ rảo bước đi, thấy một vạt cỏ lau, đến gần thấy một nguồn nước nóng chu vi đến mấy trăm mét, hơi nước chính từ đây bốc lên. Nước nóng chảy ra ùng ục dưới những tảng đá lớn, hơi nóng bốc lên hừng hực. Xung quanh nguồn nước lau mọc xanh rì. Bên cạnh có mấy bộ xương đà điểu. “Hay quá, có nước uống rồi!” Nghĩa reo lên, buông ba lô xuống đất rồi đi xuống. Cậu ta vui sướng như một con nai, xuống suối rửa mặt rồi vốc nước uống ừng ực. Tài nghĩ, bao nhiêu cỏ lau thế này tha hồ làm củi, nấu một bữa ăn ra trò, đun bát nước uống. Tài vung mai chặt, lau ngả xuống rào rào. Bỗng nghe Nghĩa kêu to: “Chú Tài ơi, cháu... đau bụng quá!” Tài vội quay lại, thấy Nghĩa ôm bụng mắt trợn lên, hốt hoảng chạy lại, chưa đến nơi đã ngã lăn ra, tai mắt mũi mồm ứa máu ra, chết ngay. Tài lập tức hiểu ra, đây là nguồn nước độc, nhìn kӻ mắt Nghĩa thấy đồng tử dãn to, biết là hết cách cứu rồi. Sự việc diễn ra quá ư đột ngột, một cảm giác bi phẫn trào lên trong tim, mắt Tài mờ đi, đầu choáng váng, khuӷu chân quì xuống. Những khuôn mặt sống động của Hải, Tuấn, Thọ, Nghĩa sáng lóe lên trước mắt Tài. Đời người như một làn khói, một nắm tro, người ta thậm chí chưa cảm thấy nó tồn tại thì nó đã lặng lẽ biến thành hư không. Tài ngẩng mặt nhìn lên, mây đen vẫn cuồn cuộn như sóng dồn, chồng chất đầy trời như tai ương của con người trong cái thế giới này. Buổi chiều, ngọn lửa trắng bùng lên, gió và lửa cuồn cuộn, đám cỏ lau ngùn ngụt cháy. Trong đám lửa, xác Nghĩa bọc trong tấm vải cũng đang cháy, luồng khói đặc bốc thẳng lên trời rồi đột ngột ngả về phía tây bay đi. ̀ ́ Dưới bầu trời bao la, một bóng người cô độc đứng trên dốc núi cao, lặng lẽ nhìn ngọn lửa nuốt dần vạt lau, làn khói trắng đục cuồn cuộn bốc lên không trung thăm thẳm. X CUỐI CÙNG TÀI ĐÃ VƯỢT QUA DÃY NÚI VÀ đứng trên cái dốc cuối cùng, tay che trên mắt, nhìn ra xa. Tiếng người lao xao trong gió, cùng lúc đó Tài nhìn rõ mồn một, trên cánh đồng rộng hút tầm mắt, một đoàn người đang đi! Phải chăng ta đã đến Kakaxili? Tài hoài nghi, một ý nghĩ lóe lên, Tài vô cùng phấn chấn, rạo rực trong người và chạy xuống núi như một cơn gió. Bước chân Tài thụt tõm xuống nước, tâm trạng cũng hẫng hụt theo, một cảm giác tuyệt vọng trào lên. Bây giờ thì Tài hiểu: Anh đã đi theo một vòng tròn lớn để quay lại đầm lầy! Tài buồn vô hạn, nhìn ra xa dòng người chập chờn đi dưới bầu trời u ám, như những con giòi lúc nhúc trong rãnh bùn. Tiếng cãi cọ, chửi rủa, kêu gào khi trầm khi bổng, tạo thành một bản giao hưởng vô tận. Tài lê đôi chân nặng nhọc và buồn bã đi về phía họ, tự chửi rủa mình, chửi trời không có mắt, chết đến bốn người, rồi lại quay về chỗ cũ, lẽ nào số phận chúng ta phải thế? Trong trái tim của Tài đầy những tro bụi và tuyệt vọng. Tài đi từng bước về phía họ, anh biết rằng đó là đại quân đãi vàng đi tiếp sau mình. Xe tải, máy kéo, xe cút kít, xe lừa, xe ngựa, xe đạp tất cả đều sa vào đầm lầy, tiếng người ồn ào, những nét mặt giận dữ và thất vọng. Tài bước tới, mắt mờ đi. Từng ấy con người, tất cả đều đi tìm vàng, thế thì chỉ có ở nước Chúa, ha, ha, ôi cái đồ con người! Cái số người ta sao mà khổ thế? Trước mặt Tài vô số những khuôn mặt già nua có, non nớt có, lướt qua như những bông hoa. Tuyết lại rơi, đám người lại giận dữ chửi trời. Những chiếc xe sa lầy, không cựa quậy, đứng im lìm như xác chết. Đâu cũng thấy đầu người lắc lư, mây đen như miếng giẻ lau căng khắp trời Tài nhìn thấy những nét mặt thành kính của người hành hương mà anh đã từng có. Hành hương, ha ha, nhưng chúng ta đây chưa tới được, vàng cách ta xa lắm. Tài bực bội lê đôi chân, anh thấy còn nhiều, còn nhiều người nữa kéo đến. Họ ngây người nhìn anh chàng cao lớn đang đi ngược chiều, những ánh mắt dò hỏi nhưng lập tức bị sự cuồng nhiệt xóa đi. Họ vẫn còn say sưa lắm, Tài nghĩ, nhưng số phận không cho ta vàng, ́ ̀ ́ thâm tâm anh muốn kêu lên: Các anh em, về đi, chẳng có ai lấy được vàng đâu! Bỗng có tiếng gọi: “Anh Tài ơi!” Quay lại Tài thấy Đại xồm ngồi trên chiếc máy kéo bốn bánh đang vui mừng giơ tay vẫy. Tài lim dim mắt, vuốt nước trên mặt mới nhìn rõ, đấy là mấy người cùng làng, Khoan, Vương, Ngọc, Quân. Tim Tài giật thót và ngã lăn ra. “Không sao chứ Tài? anh em đâu cả rồi?” Vương phủi tuyết trên người Tài hỏi, họ xúm lại nhìn, chờ đợi. Tài sa sầm nét mặt, hồi lâu mới nói: “Các cậu ấy... chết cả rồi, chết hết cả rồi!” Ngọc nói: “Bọn này là tổ bốn, sáu người cũng chết mất hai rồi. Cậu Phá bị cảm chết, cậu Tuyền bị xe đâm...” anh ta khóc nấc lên. Mọi người lặng đi, không nói được gì trước sự đau thương to lớn như thế. Họ đều như nghe thấy tiếng kêu của con chim cú mang điềm dữ bay qua. “Các cậu đến đây từ bao giờ?” Tài hỏi. “Đến đây ba ngày rồi, cứ đứng chết ở đây, tiến không được, lùi không xong. Chẳng có tin tức gì hết, đằng sau còn rất đông người dồn đến, nhiều người hết cái ăn rồi. Tài, tại sao lại quay về?” Khoan hỏi. “Tớ... dào ôi, tớ đi một vòng tròn, lại quay về chỗ cũ. Tớ tưởng là đến Kakaxili rồi kia. Mẹ nó chứ, bọn này cực quá, chịu thôi. Các cậu định làm gì?” “Đi tiếp!” Quân nói, “Mẹ nó chứ, đã đến đây còn không đi tiếp thì sao, quay về làm gì, chỉ tổ mẹ con nó cười cho. Sống chết gì cũng một kiếp nghèo này thôi, đi tiếp!” “Các cậu còn cái ăn không?” Tài hỏi. “Còn không bao nhiêu, qua đầm lầy mất mẹ nó một bọc. Nhiều người quá, hầu hết là vùng hải đông, đánh nhau luôn, vừa rồi đánh nhau chết hai mạng. Tài ơi, cậu làm gì bây giờ?” Khoan hỏi Tài. “Tớ... về. Tớ khuyên các cậu về hết. Không còn cách nào đâu, cái số nó thế rồi!” Tài thở dài. “Tớ không về! Có một mạng thôi, chết bỏ, dù sao tớ cũng cứ đi, tớ không về. Ngựa hay không ăn cỏ đằng sau, tớ quyết không về!” Quân nói như đóng đinh. ́ ̀ Tài không nói gì, đến bên máy kéo, đứng trên mũi xe nhìn về phía sau, người vẫn kéo đến như nước lũ. Gió mạnh và tuyết mù trời, đám người chửi rủa, cãi nhau ầm ĩ, tiếng động cơ xe, tiếng gió gào, bấy nhiêu thứ âm thanh trộn vào nhau và bao trùm lên tất cả là mây đen ùn ùn giăng kín trên đầu như tấm vải liệm xác chết. “Không tiến lên là đồ bỏ đi! Thằng nào có cu thì đi tiếp, vứt xe đi, ta cuốc bộ!” Quân nói. Mọi người nhìn Khoan, anh ta là tổ trưởng. Khoan nhìn Tài lẳng lặng nhảy xuống khỏi xe, không nói. Bỗng có tiếng ầm ầm trên không, mọi người ngẩng lên nhìn, mười chiếc máy bay trực thăng quân sự mở hết tốc độ lao tới, bầu không khí bị quấy động. “Đảng cộng sản đến cứu ta rồi!” “Quân giải phóng đến cứu ta rồi!” có người hoan hô. Mọi âm thanh lắng xuống, tất cả chăm chú nhìn máy bay lần lượt hạ cánh trên một túi cát lớn. Tất cả im phăng phắc, gió thổi đầu tóc quần áo bay tung, mọi người đứng như tượng gỗ. Một người tay cầm loa từ máy bay bước xuống, nói to: “Các anh em đãi vàng! Theo chỉ thị của chính phủ, năm nay Kakaxili không thể đãi vàng được, nguy hiểm đến tính mạng, xin mọi người lên máy bay quay về! Mọi người hãy nghĩ cách rời khỏi đây!” Anh ta lặp đi lặp lại lời kêu gọi, tiếng anh ta vang vang khắp nơi xa gần, nhưng tất cả đều như người cổ đại, chẳng ai động đậy, gần một vạn người lặng im không nói. Họ không muốn giấc mơ vàng của họ tan vỡ dễ như thế. Đúng lúc đó Tài rời khỏi đám người, không nói không rằng, khập khiễng bước về phía máy bay. Tài đi rất chậm, tất cả chăm chú nhìn anh ta đến gần máy bay, thế rồi một người, hai người... rất nhiều người đi về phía đó. Máy bay lại ầm ầm bốc lên không trung, từ trên cao, Tài nhìn xuống qua cửa sổ, trên đầm lầy vẫn còn vô số người kiên nhẫn tiến bước. Tài nhắm mắt lại, nước mắt ứa ra giàn giụa. XI TÀI NHẢY MỘT BƯỚC LÊN SƯỜN NÚI, GIỜ ĐÂY anh ta đã nhìn thấy làng Nhật Nguyệt, nơi anh ta đã sinh ra và lớn lên. Làng Nhật Nguyệt vẫn rách nát như một bãi cứt trâu kẹp giữa hai trái núi, lưng ́ ́ ̀ dựa vào mặt dốc đất đỏ, đầu đội trời xanh. Mặt trời rọi những tia nắng như kim đâm vào mắt Tài làm chảy nước mắt, anh ta lững thững xuống núi đi về làng. Từ xa có người trông thấy, cất tiếng gọi, Tài rảo bước, đất đỏ xào xạo dưới chân. Tài nhìn thấy nhiều người đi ra khỏi những căn nhà đất thấp bé và tồi tàn, đàn bà trùm khăn sặc sỡ, đàn trẻ con chân đất cũng chạy ào ra. Họ tụ tập ở cổng làng nghển cổ vẫy tay đi về phía Tài. Trước những cặp mắt đau đáu trông chờ của mọi người, Tài đi dần xuống, nắng như đốt cháy thịt da, đôi mắt đẫm nước, mờ ảo. Dưới bầu trời thênh thang rộng lớn, Tài tiến về phía bà con dân làng, mái tóc dài bay bay trong gió. [1] Kakaxili: tên núi thuộc tỉnh Thanh Hải, phía nam Tân Cương. BÃO tuyết THẰNG CẨU LÀ NGƯỜI CÓ KÝ ỨC SỚM NHẤT về cái thị trấn bắc tây bắc này. Nó còn nhớ rõ lắm, năm ấy vừa mới bước vào tháng chín tuyết đã bắt đầu rơi nhiều, tuyết rơi cũng thật lạ lùng, bắt đầu là những cục tuyết to ném xuống từ bầu trời u ám, trước kia khi bắt đầu rơi, tuyết chỉ nhẹ như những đám lông ngỗng. Năm ấy Cẩu mười tuổi, nó nhớ không sai, lúc đó nó đứng dưới một gốc cây du có dáng dữ tợn, nhìn ngước lên, trên trời tích tụ đầy mây xám, những đám mây dồn ép nhau, đảo lộn cuồn cuộn. Mặt thằng Cẩu giá buốt như quả cà chua nát, những vết lở vì lạnh trên mặt nó nổi màu trong gió rét. Nó luôn miệng lẩm bẩm điều gì, toàn thân run lập cập, nó có thể cảm thấy được dưới lớp áo bông, da thịt đang nổi gai khắp người và lớp vải trong tay áo bông cứng ngắc đang chà xát lên những cái gai đó, nó rùng mình từ bàn chân đến tận sâu trong lồng ngực. Cái áo bông của nó đã rách nhiều chỗ, gió lạnh cứ tha hồ luồn vào những lỗ thủng như những con rắn. Nó vẫn nhìn lên trời, nhìn những đám mây đang chen nhau, đẩy nhau dữ dội, những bông tuyết vụn và cứng đập vào mặt nó đau đớn và lạnh buốt. Nó cảm thấy lạnh ngắt từ trong ngực, nó hơi nhúc nhích, trong người nó hình như có tiếng rạn vỡ. Chẳng mấy chốc, tuyết đã phủ kín bàn chân nó, và lên dần đến đầu gối. Nó ngây dại nhìn trời, có vẻ như đang mê say. Hôm ấy những bông tuyết bay lượn mù mịt trong không trung làm nó đầu váng mắt hoa. Nó nhìn chằm chằm vào một bông tuyết đang lao nhanh xuống, nó thấy bóng dáng của bông tuyết nở to lên rất nhanh trong con ngươi mắt nó, thế rồi, “độp” một cái, đập vào mặt nó, lúc ấy nó cảm thấy một niềm vui sướng chưa hề có bao giờ. Bông tuyết vỡ tan tành trên mặt gây cho nó một cảm giác sung sướng. Nó cười ha hả, hai giọt nước mũi trong veo rơi xuống, nó lấy tay áo quệt ngang. Lúc đó nó nghe thấy tiếng gọi: “Cẩu ơi, đi về!” Thằng Cẩu ngơ ngác quay đầu lại, mẹ nó đang lom khom bước ra khỏi cổng. Đầu tóc rối bù, đôi mắt buồn rầu, mẹ nó đang ́ ̀ cõng cái sàng to tướng, trên vai còn khoác cái túi giữ ấm bằng da nhân tạo. Thằng Cẩu biết mẹ nó lại đi sàng cát trên sông Quý Tiết bên ngoài thành phố, trong túi giữ ấm có bánh bột cứng với khoai tây rán đủ ăn cho một ngày. Nó ngây người ra rồi đi đến bên mẹ. Mẹ nó sắc mặt tím tái, buồn bã nói: “Về đi con, về lấy sách ra học đi. Mấy ngày nữa được nghỉ rồi đi sàng cát với mẹ. Đi, về đi!” Thằng Cẩu rụt cổ lại như con chó vâng lời, đầu nhận một cái cốc điếng người. Khi nó quay đầu lại thì mẹ nó đã đi xa rồi. Trong gió tuyết mù mịt, xa xa hai bên đường, rất nhiều người đàn bà ăn mặc như mẹ nó đang đợi. Trong giá rét, các bà xoa tay dậm chân, tất cả cùng một kiểu áo đen quần bông nặng chịch, trên đầu quấn một cái khăn vải bông dày cộp, lưng cõng cái sàng đan bằng dây thép. Khi ô tô đến, họ xếp thành hàng như những con sếu bay đi trú đông, loạng choạng leo lên xe, mất hút trong gió tuyết. Thằng Cẩu quay lại đi vào, trong nhà cái lò than đang cháy rừng rực, ấm áp. Con bé em bảy tuổi của nó đang vùi đầu làm bài trên cái bàn gỗ đẽo gọt nham nhở, nó bỗng thấy choáng váng, nhổ một bãi nước bọt và chống tay vào tường. Bố nó ốm nặng nằm trên giường thở hổn hển như sắp chết. Thấy cái vẻ ốm yếu của bố, nó bực bội vơ lấy túi xách và cả hai cái đĩa nhôm vàng khè quay ngoắt ra khỏi nhà đi về phía trường học. Nhiều năm sau, thằng Cẩu vẫn còn nhớ như in đó là năm xuất hiện đĩa bay, năm 1977, năm đó nó nhìn thấy đĩa bay. Đĩa bay báo trước một vài thay đổi trên trái đất, điều đó mãi sau này nó mới hiểu thật sự. Đêm nay tuyết bỗng ngừng rơi một cách lạ lùng. Mọi khi tuyết rơi như vậy phải kéo dài vài ngày. Tan học về đến nhà, nó cùng với em nấu cơm với món canh viên bột. Thằng Cẩu ăn ngon lành. Hai anh em bón cơm cho bố, thằng Cẩu đi ra sân. Nó nhìn lên trời, màu trời hôm nay thật lạ, một màu xanh tím, hắt ánh sáng ma quái xuống lớp tuyết ngập đến đầu gối. Nó bỗng thấy sợ, nhưng không sao nhấc được chân, lúc đó tiếng gió bỗng mạnh lên, như trăm ngàn con thú đang gào rú, một cơn lốc cuộn vào sân, cuốn lên một đợt sóng tuyết dựng lên như một cánh ̀ ̀ ́ tay khổng lồ quật vào người nó. Thằng Cẩu ngã lăn ra đất, nó kêu lên: “Mẹ ơi”... rồi cắm đầu chạy vào nhà. Hôm đó gió thổi rất mạnh, suốt đêm không ngừng, có điều lạ là đâu đâu cũng nghe thấy tiếng mèo kêu rùng rợn. Tiếng kêu rên rỉ kéo dài, thê thảm, nghe như tiếng kêu phát ra khi chúng bò lê trong tuyết giá kéo theo trái tim đỏ máu. Thằng Cẩu suốt đêm không ngủ. Nó giương đôi mắt, bịt chặt hai tai mà vẫn nghe tiếng mèo kêu. Tim nó đập rối loạn như ong bò vẽ vỡ tổ. Nửa đêm, cùng với tiếng mèo kêu, cửa bật mở. Thằng Cẩu thét lên một tiếng vội vàng bật đèn, thấy mẹ đã về. Mặt mẹ nó hồng rực, chân tay tê cứng. Mẹ nó nói: “Con ơi, lấy tuyết xát người cho mẹ, mau lên”. Nó biết mẹ nó bị nhiễm lạnh nặng rồi, nó chạy ra sân bê một chậu tuyết vào xát lên người mẹ nó. Bên ngoài, mèo vẫn kêu thảm thiết khắp nơi. Gió và tuyết chẳng có dấu hiệu ngừng lại. Thằng Cẩu chăm chú xát tuyết cho mẹ, nó xát lên khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn, xát lên bộ ngực chảy xệ mềm nhẽo, xát lên đôi chân gầy như que củi, xát lên bàn chân bàn tay khẳng khiu như cẳng gà của mẹ. Hôm sau thằng Cẩu đi học, gió và tuyết đã ngừng hẳn. Trên không trung tràn ngập ánh nắng. Trời nắng đẹp nhưng rất lạnh. Nước đái của thằng Cẩu vừa đái ra lập tức đóng thành băng hình vòng cung. Nhưng điều làm cho nó kinh hãi nhất là trên mỗi cành cây trơ trụi hai bên đường đều lủng lẳng một xác mèo lạnh cứng. Những xác mèo các loại, các màu lông mỗi con một khác, toát ra màu sắc lạ kỳ dưới ánh nắng. Nó hiếu kỳ thử đếm những con mèo chết như những trái cây lủng lẳng trên cành nhưng không thể nào đếm xuể. Nó nhớ rõ, năm ấy, suốt cả một mùa đông, xác mèo không hề rơi xuống, cho đến tháng tư năm sau, tuyết tan khắp cả vùng, xác mèo mới lả tả rơi xuống, cả thị trấn chìm ngập trong mùi hôi thối nồng nặc suốt ba tuần liền. Rất nhiều năm sau, thằng Cẩu vẫn chưa quên, cái cảnh buổi sáng hôm ấy, vừa đi vừa đếm xác mèo, lúc đến trường, nó nghe thấy tiếng chuông vào lớp, cùng lúc đó nó thấy thằng Thuận, tên lóng là thằng “Mướp đắng” đang đổ tuyết vào cổ một đứa con gái. Thằng Thuận là con lão đội trưởng đội làm đường, đơn vị của bố nó. ̀ ́ ́ Thằng Cẩu quát: “Mướp đắng, mày đừng có bắt nạt con gái!” Mướp đắng nói: “Thằng Cẩu, mẹ mày chứ, việc gì đến mày? tao muốn đánh đứa nào thì đánh, làm gì được tao? Bố tao còn sai bảo bố mày kia, tiên sư mẹ mày chứ, tránh ra!” Thằng Cẩu hầm hầm xông tới, húc một cái, thằng Mướp đắng ngã lăn ra đất. Cô bé chạy đi, Mướp đắng nhỏm dậy. Trận này hai đứa đều vều môi sưng má, thằng Cẩu còn gãy hai cái răng. Ba ngày sau tuyết lại rơi, trên phố tuyết đọng lại đã ngập đến đầu gối. Bố thằng Cẩu vẫn nằm trên giường, khắp người run rẩy, mắt đỏ ké, trông phát khiếp. Mẹ vẫn đi sàng cát, tối mới về, hai anh em rất lo. Hai đứa xúm lại bên bố, cuống lên chẳng biết làm thế nào. Chúng nghe thấy bố nghiến răng nói: “Bố... thèm ăn quýt... quýt...” Thằng Cẩu nghĩ, giữa ngày đông tháng giá thế này, mua quýt ở đâu bây giờ. Mùa đông 1977, ai có quýt mà ăn? Thằng Cẩu xót xa nhìn khuôn mặt méo xệch vì đau đớn của bố. Bỗng nhiên nó nhanh trí nói: “Chúng mình ra cửa hàng mua quýt đóng hộp!” Nó rút một đồng từ áo gối của mẹ rồi vội vàng kéo em chạy đi. Rất nhiều năm sau, thằng Cẩu vẫn nhớ như in một ngày mùa đông năm ấy trong nhà xảy ra một chuyện. Hai anh em ra khỏi nhà, tuyết hắt ánh nắng chói chang làm chảy nước mắt. Đi không quá ba mươi mét nó nghe thấy đằng sau có một âm thanh lạ thường, nó giật mình quay lại, há hốc miệng: ngôi nhà của nó sụp đổ tan tành, gạch gỗ bay tứ tung, một luồng tuyết buốt lạnh thổi ập tới, nó loạng choạng, em nó thét lên: “Bố...” Hai anh em chạy trở lại, điên cuồng bới đống gạch vụn, trước mắt nó một luồng ánh tuyết sáng lóe lên... Bố thằng Cẩu được các bạn đồng nghiệp bới lên từ đống đổ nát của ngôi nhà, xác ông đã cứng lại, lớp tuyết màu đỏ phủ lên đôi mắt mở trừng trừng, che lấp ô cửa tìm biết thế giới của ông. Mùa đông năm 1977 bố của thằng Cẩu đã chết như thế đó. Mẹ nó đến tối mịt mới về, lúc ấy đội trưởng Ngưu đã sắp xếp hai anh em nó vào căn lều dựng tạm. Nghe được tin, mẹ nó lặng đi ứa nước mắt. Thằng Cẩu biết rằng bố mẹ nó đã cùng nhau đi qua nạn đói năm 1960, cuộc đấu đá năm 1966 và thiên tai nhân họa năm 1974, cuối cùng, năm 1977 cái chết đã chia lìa họ. ̀ ́ Đúng vậy, thằng Cẩu biết những chuyện đó, nhưng nó không để rơi một giọt nước mắt. Đội trưởng Ngưu có bộ mặt dài như mặt ngựa, trên mặt lại chi chít những chấm tàn nhang, ông ta đến bên mẹ thằng Cẩu: “Cô em, bây giờ cô được tự do rồi nhé”. Đôi mắt không mấy tử tế của ông ta dò xét mẹ thằng Cẩu. Nó nghĩ: “Mẹ mày chứ, mày mà ức hiếp mẹ tao, tao giết!”. Thằng bé mười tuổi, vào mùa đông năm 1977 đã có ý định giết người như thế đó, nhìn theo đôi vai rộng của đội trưởng Ngưu mờ dần trong màn tuyết trắng, trong lòng nó trào lên mối hận thù đối với mùa đông và quyền lực. Đêm hôm đó, thằng Cẩu bị mẹ đánh thức dậy, ánh mắt mẹ nghiêm nghị và tin cậy, mẹ nói: “Con ơi, vài hôm nữa đi sàng cát với mẹ, bố con mất rồi, từ nay về sau mẹ con ta phải tự nuôi sống mình thôi.” Thằng Cẩu cảm thấy từ tối hôm đó nó bắt đầu khôn lớn, một cái gì dâng lên trong cổ nó đắng ngắt, đôi mắt nó bỗng mờ đi trong dòng nước mắt nóng bỏng. Bố nó được chôn ở khu nghĩa địa bên bờ sông Quý Tiết ngoài thị trấn, một nơi âm u vắng vẻ. Thằng Cẩu từ dòng người đưa tang nhìn lại phía sau, vùng đất xung quanh sạch sẽ tinh khôi, chỉ có con đường như một dải băng đen chạy xuyên qua một màu trắng mênh mông. Sông Quý Tiết chảy từ khe núi trong dãy Thiên Sơn xa tít, như cái lưỡi của người khổng lồ thè ra. Hằng năm, vào mùa hè, con sông vốn khô cạn này lại ào ào nước lũ, đó là nước băng tan trên đoạn tây bắc của dãy Thiên sơn. Sông Quý Tiết chảy một mạch đến sa mạc rộng lớn, rồi mất hút trong biển cát. Vào mùa khô, lòng sông có những vũng nước chưa cạn hết, ở đó có cá lóc và cá thầu dầu. Thuở nhỏ thằng Cẩu lớn lên bên bờ sông Quý Tiết này. Bây giờ thì tuyết trắng làm nó chói mắt, chẳng nhìn rõ cái gì cả, vì thế khi chiếc quan tài đen của bố nó từ từ hạ xuống lòng huyệt thì nó mới nhìn thấy những người sàng cát trong lòng sông. Bóng đen của họ nổi lên rõ ràng, như những con kiến đang cặm cụi làm việc. Trong suốt thời gian chôn cất bố, thằng Cẩu không rỏ một giọt nước mắt. Mọi người lần lượt bỏ đi, họ muốn ra về từ lâu ̀ ̀ ̀ rồi. Mẹ nó bảo: “Về đi con”. Nó ngây người nhìn dòng sông đầy ngập tuyết, thấy trong đầu trống rỗng. Mấy hôm sau, thằng Cẩu mặc bộ quần áo bông dày cộp, khoác một cái sàng nhỏ, mẹ nó dắt nó đi, cùng với những người đàn bà khác như đàn sếu trong gió tuyết tiến về phía con sông. Giữa rất đông những người đàn bà áo đen, trông nó như một con nghé tội nghiệp. Cát trong lòng sông đóng băng rắn đanh, nhát cuốc chim bổ xuống còn tóe lửa, hứng chịu những trận gió lạnh, mặt thằng Cẩu bong từng mảng da, nó ra sức hất cái xẻng, hạt tuyết và sạn rơi xuống ào ào, phía sau cái sàng là một lớp cát mịn, đó là cát để bán lấy tiền. Năm 1977, tất cả phụ nữ trong đội làm đường đều đi sàng cát, bởi vì thu nhập của những người chồng không đủ nuôi cả nhà. Vì thế, mùa đông năm ấy, thằng Cẩu thản nhiên tham gia vào đội sàng cát. Nó đã quá sớm nếm trải những cay đắng của đời người. Trong khi làm việc, cái đầu nhỏ bé ngây thơ của em gái cứ hiện lên trong óc, đôi tay yếu đuối của nó ra sức hất cát lên, hất lên bầu trời âm u năm ấy. Một tháng sau, trong khi nấu cơm, em nó vô ý làm cháy lều, con bé cũng chết cháy theo, tấm thân nhỏ bé cùng với khói đen cuồn cuộn bay lên trời... Thằng Cẩu cố sức vung xẻng lên, xa xa, cái bóng đen sì của dãy Thiên Sơn cứ lặng lẽ, lặng lẽ vươn dài ra mãi. Một hôm, những người đàn bà trên đường cái chia thành hai đội dàn trận. Mẹ nó bảo: “Cẩu ơi, đi xem xảy ra chuyện gì”. Thẳng Cẩu rụt đầu lại, chui giữa những người đàn bà áo đen, biết được một cuộc chiến mới sắp nổ ra. Đám đàn bà trong đội làm đường chia thành hai phe, một phe là những người bình thường, phe bên kia là những người ít nhiều có máu mặt, trong đó có mẹ thằng Mướp đắng, cậy quyền của chồng chiếm trước những chiếc xe để đổ cát của mình vào. Họ trợn mắt cãi nhau, phun cả nước bọt lẫn với tuyết xuống đầu xuống cổ thằng Cẩu. Đánh! Đánh! Đánh! Các mẹ ra tay rồi, vợ lão Ngưu đội trưởng, mẹ thằng Mướp đắng - người đàn bà mông xệ có hàm răng vàng khè dữ tợn ra tay trước. Đám đàn bà xúm lại một cục. ̀ ́ Hoảng sợ quá, thằng Cẩu nhanh chân lủi đi, bỗng có tiếng quát hung hãn: “Thằng nhãi ranh, chạy đâu?” Một nhát xẻng ngay đỉnh đầu, thằng Cẩu tối mắt lại, dập mặt xuống tuyết. Nó ôm đầu, cảm thấy một dòng chảy nóng dọc theo lưng, nó chạy đến trước mặt mẹ khóc và nói: “Bọn họ đánh con...” Mẹ nó đứng im phăng phắc như bức tượng, không nói một câu, ánh mắt lạnh băng và phẫn nộ. Thằng Cẩu quay lại nhìn, những người đàn bà đang xâu xé nhau, vật lộn nhau, cuốc xẻng khua vung lên, nhiều người từ hố cát như những cái huyệt nhảy lên, xông vào cuộc hỗn chiến... Hôm sau, đội trưởng Ngưu ra lệnh, mọi người phải học tập tư tưởng một tháng, cắt lương nửa tháng. Sông Quý Tiết là nơi thằng Cẩu sống thời thơ ấu, khi các bà phải ở nhà học tập thì nơi đây trở thành sân trượt băng, có một khoảng rộng bằng phẳng. Bọn trẻ con cũng chia thành hai bên, một bên là thằng Mướp đắng, con đội trưởng Ngưu, một bên là thằng Cẩu và vài đứa khác. Hết trượt băng lại đánh nhau, cục tuyết của thằng Cẩu ném trúng đầu thằng Mướp đắng, bọn chúng hoan hô. Mướp đắng lau tuyết trên đầu và mặt, nhìn rõ thằng Cẩu bèn lao đến vật nhau với nó. Thằng Cẩu nhớ rõ, nó và thằng Mướp đắng đánh nhau rất lâu, từ sáng sớm đến trưa, vì không đứa nào chịu thua. Bọn trẻ chia thành hai phe đứng xem. Cuối cùng thằng Cẩu bị Mướp đắng đè xuống đất. Thằng Cẩu chẳng nhìn thấy gì vì hai mắt bị đánh sưng húp, thằng Mướp đắng tát túi bụi, dùng mũi giày đá vào bụng rồi cởi quần đái vào mặt thằng Cẩu, vừa đái vừa nói: “Mẹ mày nhá! thằng Cẩu, mẹ mày bị bố tao xài rồi, mày còn làm bộ cái cứt!” Thằng Cẩu đã kiệt sức, mặc cho nước đái khai mù chảy trên đầu trên cổ và trong hốc mắt. Nhưng nghe thấy câu nói đó, nó bỗng lấy lại sức, vùng dậy quật thằng Mướp đắng xuống đất, bọn trẻ lại bắt đầu lao vào hỗn chiến. Thằng Cẩu đứng lên đi về nhà, nó muốn giết lão đội trưởng Ngưu, giết! giết! bên tai nó chỉ vang lên tiếng nói đó và cắm đầu đi. Thằng Mướp đắng thấy yếu thế cũng lên xe đạp phóng đi. Thằng Cẩu leo lên bờ sông, nhìn về phía xa, những người đàn bà lại đi như đàn sếu, họ đã học tập xong, lại bắt đầu đi làm. Những ́ ́ ́ người đàn bà không quản gió tuyết xếp hàng đi làm cho nó muốn rơi nước mắt. Đúng lúc đó trên không vang lên tiếng rít xé tai, nghe khủng khiếp, át đi mọi âm thanh, thằng Cẩu sợ run, nhìn lên trời. Một quả cầu lửa xé không khí lao đến, nó quay tròn, gầm rú, bay vun vút. Nó phụt lửa ra xung quanh như cái lưỡi đỏ, bầu trời mang một vẻ dữ tợn, âm u mà điên dại. Quả cầu từ từ bay xuống lòng sông. Thằng Cẩu sợ chết đứng, nó khiếp hãi há hốc mồm, bởi vì quả cầu đang bay xuống nơi có mấy chục đứa trẻ đang đứng! Thế rồi một tiếng nổ vang lên, quả cầu nổ tung trong lòng sông. Trong nháy mắt giữa biển lửa bọn trẻ biến thành làn khói bay lên trời, một luồng không khí thốc mạnh, thằng Cẩu ngã vật xuống. Đúng là một năm tai họa vì tuyết, thằng Cẩu nhìn thấy rất nhiều bà mẹ khóc con, họ vứt hết cuốc xẻng chạy đến như điên như dại, tất cả đều nhìn về phía dòng sông bừng bừng lửa cháy kêu khóc ầm ĩ. Chỉ có mẹ nó đứng ôm đứa con sống sót, nét mặt rầu rĩ nhìn đống lửa và khói đen cuồn cuộn, không nói một lời, tuyết đã bám dầy trên đầu, băng đóng lấp lánh trên mặt. Mặt trời hắt ra một thứ ánh sáng ảm đạm sau lớp mây mờ. VẾT MÁU trên đường phố “MÀY BẢO NÓ CŨNG CÓ MỘT CÁI MŨ LÍNH PHẢI không?” “Vâng ạ, chúng nó bảo không phải chỉ một cái đâu, chúng nó bảo nó có ba cái mũ lính chính hiệu”. Người đứng dưới đất ngẩng mặt lên nói với người trên tường. “Mày nói như cứt, trên cái phố này chỉ có tao có mũ lính chính hiệu.” “Chúng nó cho em xem rồi ạ, em thấy đúng là mũ lính thật.” “Mày xem cả ba cái chứ?” “Không ạ, thưa thủ lĩnh, chúng nó chỉ cho em xem một cái, em thấy nó giống mũ lính thật, y hệt cái mũ của anh.” “Không thể thế được.” Người ngổi xổm trên tường lột mũ ra đưa cho người ở dưới, “đây, mày giương mắt chó của mày lên mà nhìn, xem nó có giống hệt thế này không?” “Giống hệt ạ, không sai vào đâu được ạ, thưa thủ lĩnh.” “Thế có nghĩa là thằng Mướp đắng cũng có một cái mũ lính chính hiệu.” Người ngồi trên tường thoáng sa sầm mặt, ai nhìn bộ mặt nó lúc này đều biết sắp có chuyện. Lúc đó tất cả chúng tôi ngồi cả dưới đất, chỉ có Tân ngồi xổm trên tường, hắn là thủ lĩnh của chúng tôi. Vừa nãy là Tân và Chó xám nói chuyện, thằng này là thám tử của bọn tôi, chuyên làm cái việc nghe ngóng mọi chuyện mới nhất trên cái phố này. Chúng tôi đang ngắm bầu trời năm 1983, một năm u ám, không có lấy một ngày sáng sủa, trên không trung, mây đen be bét như bãi nước đái. Tâm trạng chúng tôi cũng điên khùng bấn loạn. Lúc đó Tân là một gã thâm hiểm tàn bạo nhất khu phố chúng tôi, hắn là vua nhóc ở cái phố này, chúng tôi đều phải nghe nó. Thường ngày nó đội cái mũ lính màu xanh, tay trái cầm một cái xích sắt sáng loáng, ngón giữa tay phải đeo một chiếc nhẫn sắt có góc cạnh. Cái thứ này, nếu tống vào mặt người ta thì khỏi phải nói sẽ ra sao. Đi theo Tân có khoảng ba mươi đứa, chúng tôi cũng đội mũ lính, nhưng chỉ có mũ của hắn là mũ lính thật, cái mũ đó là nó cướp được ́ ́ của một người lính. Một đêm chúng tôi trông thấy hắn đánh người lính ngất đi rồi lấy cái mũ. Năm ấy, ở cái phố này, ai cũng thích đội mũ lính, nhưng chẳng mấy ai có mũ lính thật, chúng tôi thường nghe chuyện cướp mũ chết người, nhưng không ai dám cướp mũ của thằng Tân, tôi nói rồi, nó là thủ lĩnh của chúng tôi. Chúng tôi không chỉ có thủ lĩnh, chúng tôi còn có biểu tượng, đó là một cái dải băng trắng thêu một con châu chấu quàng trên cổ. Con châu chấu là biểu tượng của chúng tôi. Bọn Mướp đắng ở khu phố khác cũng có biểu tượng, đó là phù hiệu tay áo màu trắng, thêu con cóc. Có cóc màu đỏ không? Có đấy, chính là bọn Mướp đắng. Chúng tôi thường chế nhạo chúng nó chỉ là bọn cóc đỏ. Chúng tôi đi mọi người phải tránh đường vì họ sợ bọn tôi, điều này làm chúng tôi cảm thấy rất oách, chúng tôi như đàn châu chấu ào qua đường phố. Thế mà bọn Mướp đắng khoe với người của chúng tôi là chúng nó có ba cái mũ lính chính hiệu, vậy không phải là chúng cố tình gây chuyện với chúng tôi rồi sao? Khi thằng Tân nhảy từ trên tường xuống là chúng tôi biết phải làm gì rồi. Vào cữ xuân sang hè, đồng ruộng ngoại thành có rất nhiều châu chấu, chúng ôm nhau ùn ùn chui ra từ bờ ruộng, từng cục từng cục như nấm mọc, những đôi mắt long lanh lóe sáng. Lúc đó, chúng tôi, những người lấy châu chấu làm biểu tượng, theo Tân ra ruộng để xem châu chấu sinh sôi nảy nở. Đó là ngày hội của chúng và là nghi thức của chúng tôi. Chúng tôi chăm chú xem ấu trùng loang loáng chui ra từ lớp đất, không ai nói một lời, nét mặt ai cũng nghiêm trang. Chẳng mấy chốc, chúng biến thành châu chấu biết bay, bay qua cánh đồng, bay qua thành phố, bay qua sông Quí Tiết, đến nơi khác ăn lúa. Thằng Tân cho chúng tôi xem nghi thức châu chấu đẻ hẳn là có ý để chúng tôi học tập tính đoàn kết và bất khuất. Bởi vì bọn châu chấu đựợc nuôi dưỡng dưới đất cả một mùa đông. Tất nhiên đó là thằng Tân bảo thế, cứ như nó nói “Đ. mẹ, bọn này khá! Chúng đi kiếm ăn nơi khác, không ăn lúa đồng nhà”. ́ ́ ̀ ̀ Chúng tôi sắp phải nói chuyện với bọn Mướp đắng rồi. Thằng Tân sai chúng tôi liên tục đến khu phố chúng nó nghe ngóng thực hư. Thông tin nhận được là quân số bọn chúng đã tăng lên, chúng nó có hơn năm chục đứa, đặc biệt là có thằng Burati, người Kadắc mới gia nhập đội ngũ bọn cóc đỏ. “Một con cóc đỏ Kadắc à?” Thằng Tân nghe tin cười phá lên, bởi vì trong mấy con phố chính của cái thị trấn này chưa có người Kadắc nào gia nhập các băng người Hán cả. “Thủ lĩnh, thằng Burati này cao một mét tám nhăm, học trường trung học dân tộc, mẹ nó chứ mới mười lăm tuổi mà cao thế.” Chó xám nói. “Nhưng nó vẫn chỉ là con cóc.” Thằng Tân quả quyết, “sẽ đến lúc mày biết nó là cái gì”. Trên phố, chúng tôi hay gặp những người Kadắc chăn cừu từ trên núi xuống mua rượu uống, họ hay uống đến say mèm trong quán rượu rồi ôm thêm một chai nhảy phắt lên ngựa trở lên núi, chưa bao giờ gây chuyện gì với chúng tôi. Chúng tôi ngồi xổm trên hè đường tại một ngã tư, họ không nhìn chúng tôi, mà tôi biết, nếu họ liếc mắt một cái là có chuyện ngay. Nhưng xem ra Burati lại khác, nó là một thằng Kadắc muốn ngang tàng ở cái thành phố này. Chúng tôi đã biết tuyến đường hàng ngày nó phải đi, sẽ có lần phục kích nó. Chúng tôi có bốn đứa mai phục tại góc đường nơi thằng Burati sắp qua, khi nó quặt qua góc đường, chúng tôi bất thần xông ra lấy gạch phang vào đầu và cướp cái mũ lính của nó. Nói thật lòng, tôi rất khoái cái tiếng trầm đục của cục gạch đập vào đầu người ta, nó tựa như tiếng vỡ của cái chai chôn dưới đất, âm thanh rất gọn, sau đó đối thủ của chúng tôi ngã xuống như một đống bùn. Cái mũ lính của thằng Burati là đồ rởm, thằng Tân đái vào rồi sai Chó xám mang trả bọn Mướp đắng. Nhưng Chó xám trở về mang theo một cái tin khó hiểu, Mướp đắng chuẩn bị bắt tay giảng hòa với chúng tôi, nó chuẩn bị mời chúng tôi chén một bữa gà mâm tại một quán ăn không ở khu phố thuộc phạm vi hoành hành của chúng tôi cũng không thuộc phạm vi khống chế của chúng nó. ́ ́ Gà mâm là món gà miếng và mì sợi trắng, để trên cái mâm to bằng cái chậu rửa mặt, trộn lên ăn. Chúng tôi cho rằng đây là món ngon nhất. Trong chuyện này nhất định có âm mưu gì đó, chúng tôi không tin Mướp đắng lại dễ dàng giảng hòa với chúng tôi như vậy. Về mức độ hung dữ bạo tàn thì Mướp đắng và thằng Tân so với nhau chẳng đứa nào kém cạnh. Burati bị chúng tôi xử lý, mất hai cái răng, không thấy lộ mặt nữa. Nhưng Mướp đắng lại muốn bắt tay giảng hòa, có cái bẫy gì không? Thằng Tân quyết định dẫn chúng tôi đi dự tiệc, nó nói “Tao rất muốn xem cái mũ lính của thằng Mướp đắng có phải là đồ thật không, đây là một cơ hội”. Bữa tiệc gà mâm được tổ chức trong một quán mì của người Hồi. Thằng Tân đem theo hơn chục người đắc lực nhất của chúng tôi, người của Mướp đắng đã đến, chúng nó có hơn hai chục đứa. Thằng Tân và thằng Mướp đắng gặp nhau vồn vã một cách giả tạo. Hai đứa bắt tay nhau rồi ngồi xuống. "Bọn mình hãy bắt tay với nhau, đừng đánh nữa." Mướp đắng nói "Người của chúng tớ cộng thêm người của các cậu thì tất cả các phố ở đây đều thuộc về ta." “Cho tớ xem cái mũ lính của cậu đã, được không?” Thằng Tân đưa yêu cầu một cách trịch thượng. Mướp đắng cười ha hả lột mũ đưa cho thằng Tân. Chúng tôi ngồi sát hai bên Tân, đang ở trên địa bàn của chúng nó nên chúng tôi phải cẩn thận. Thằng Tân quay nhẹ cái mũ, xem một cách chăm chú, xem đi rồi xem lại, cuối cùng nói “Cái mũ lính này là đồ thật, cậu kiếm đâu ra thế?” Mặt Mướp đắng đầy trứng cá, chi chít những nốt sần đỏ to tướng, trông rất ghê. Nó nói: “Anh rể tớ là đại đội trưởng thuộc phân khu, cái mũ này là ông ấy cho. Nếu cậu thích thì cầm lấy mà dùng”. Thằng Tân cười nhạt: “Tao chỉ cần những thứ cướp được, tao không có ông anh rể đi lính để liếm đít”. Vẻ mặt căng thẳng của chúng tôi cũng nứt ra được nụ cười. Nó xứng đáng là anh cả, trên địa bàn của chúng nó mà vẫn rất ngang ngạnh. Bọn chúng lập tức thọc tay vào túi và vào sau vạt áo. Chúng tôi biết trong đó là xích sắt, là dao. Nhưng Mướp đắng vẫn làm lơ, “Tân này, cậu xem nếu hai cánh mình liên kết lại thì có thể dẹp được bọn Muhutar ở vùng cổng thành. Đó là suy nghĩ thật sự của tớ khi hai bên chúng mình bắt tay với nhau.” Muhutar là người dân tộc Uygua xưng hùng xưng bá nơi các phố vùng cổng thành, nó rất đẹp trai, nghe nói cùng cỡ tuổi chúng tôi, mới mười lăm tuổi nhưng đã xài một trăm đứa con gái rồi. Bọn nó có hơn sáu chục đứa, hoạt động tại vùng cổng thành. Người của chúng tôi ra đó thường bị đánh gãy vài cái răng. Chúng tôi đánh nhau luôn. “Cái đó được đấy.” Thằng Tân có chút động lòng, bọn Muhutar vẫn làm nó đau đầu. “Nhưng tao không tin mày! Mày có cách gì?” Khi nói, môi thằng Tân đang đảo điếu thuốc cháy đỏ, nó có thể dùng lưỡi lật điếu thuốc cháy đỏ vào trong mồm mà không làm ướt, cũng không làm bỏng môi. Chúng tôi đều không biết làm cái trò này, luôn làm bỏng môi bỏng lưỡi. “Cậu tài thật.” Mướp đắng nói, nó khâm phục nhìn thằng Tân cầm điếu thuốc tiếp tục hút. Lúc đó mâm thịt gà được bưng ra, Mướp đắng mỉm cười, nó nói: “Tớ cũng có một trò.” Nó lấy đũa gắp một sợi mì nhỏ và dài, trắng nõn mút vào trong mồm, sợi mì dài ngoằng biến mất, dừng lại một chút, từ hai lỗ mũi, hai sợi mì chui ra, thò vào đĩa nước chấm trên bàn, xong rồi lại chui vào mũi. Mẹ nó chứ, tuyệt chiêu này tởm quá, chúng tôi thấy ghê người, bọn Mướp đắng thì vỗ tay. Cái kiểu ăn mì này chúng tôi chẳng ai làm được, thằng Tân cũng cười: “Mướp đắng, mày cừ lắm!” Thế là chúng tôi bắt đầu ăn. Chúng tôi đã bắt tay giảng hòa, tiếp theo là bàn chuyện đánh dẹp bọn Muhutar. Cái trò lật thuốc lá trong môi và dùng mũi hút mì ngay lập tức truyền đi khắp thành phố, bọn loai choai thấy hai cái trò này rất khoái, theo cách nói bây giờ là rất “độc”, trên phố chúng nó đua ́ nhau học, nhưng băng châu chấu của chúng tôi và băng cóc đỏ của Mướp đắng thì đang lên kế hoạch hành động đối với bọn Muhutar. Mùa hè năm 1983 sắp xảy ra một chuyện có thể coi như một cơn bão. Chỉ có điều là chẳng ai nhận ra. Người của chúng tôi ở khắp nơi. Sau khi hai băng chúng tôi bắt tay nhau thì, mọi khu phố trong thị trấn này đều là người của chúng tôi. Cả thằng Burati cũng đã giảng hòa với chúng tôi. Để xử lý bọn Muhutar, chúng tôi lên kế hoạch cả một tuần, chúng tôi đã chọn ngày xuất kích. Hôm đó đẹp trời, cả ngày không xảy ra chuyện gì, đến tối, tất cả chúng tôi đều ra tay. Thằng Muhutar tối hôm đó dẫn đàn em đến rạp xem một bộ phim ca múa Ấn Độ, chúng tôi chuẩn bị hành động tại cửa rạp. Chúng tôi có hơn trăm người, chúng nó ba bốn chục, chúng tôi nấp trong chỗ tối, thấy thằng Muhutar dẫn theo bạn gái, con bé có bộ tóc xoăn, lẳng lơ hết chỗ nói. Tôi nghĩ lát nữa cũng cho mày hưởng chút hương vị của chúng tao. Chúng nó ngồi ở cửa rạp hút thuốc, một tiếng huýt gió lanh lảnh vang lên, người của chúng tôi từ các chỗ nấp ào ào xông ra, vung đồ chơi trong tay, vây chặt bọn Muhutar. Công bằng mà nói, Muhutar cũng là tay chơi được, lúc ấy nó rất bình tĩnh, người của hắn quây kín quanh hắn, nhưng chúng tôi đông quá, vũ khí trong tay chúng tôi vung lên, chúng tôi bắt đầu dọn dẹp chúng nó. Bọn Muhutar rất ngoan cường, nhưng khắp nơi là người của chúng tôi, chúng tôi đã đánh chúng nó ngã sấp mặt, chúng tôi còn mang con bồ lẳng lơ của thằng Muhutar đi. Chúng nó lôi con bé vào khóm rừng bên cạnh để làm thịt. Chúng tôi hoàn toàn thắng lợi, nhiều đứa chúng nó trở nên tàn phế, trước khi cảnh sát đến chúng tôi đã dẹp xong chúng nó. Từ đó, thằng Muhutar có tên là “Muhutar què”. Cảnh sát chậm chạp như con gái có kinh, lúc họ đến nơi thì chúng tôi đã rút đi hết rồi. Chúng tôi triệt tận gốc bọn Muhutar, người của chúng nó về sau gia nhập băng chúng tôi, người của chúng tôi ngày càng đông, tối đến chúng tôi lang thang trên phố, uống rượu, đánh nhau, trêu con gái hoặc đi cướp mũ lính, vì chẳng có bất cứ cái gì làm chúng tôi ́ ̀ phải quan tâm, chúng tôi cứ cả ngày lang thang như thế. Về sau trên phố đâu đâu cũng có vết máu của các cuộc đánh lộn của chúng tôi. Nhưng mũ lính không còn hợp thời nữa. Bây giờ chúng tôi thích loại mũ lính nhúng dầu chải đầu. Trong mũ chúng tôi độn thêm một vòng giấy, mép mũ là một cái đai tròn, màu dầu xanh sẫm nơi vòng tròn phía trên, hồi đó chúng tôi cảm thấy cái mà hôm nay gọi là “độc”. Chúng tôi chẳng mấy khi đi học, hầu như ngày nào cũng cúp cua, bởi vì rồi ra số phận cũng không khác gì những ông bố mà chúng tôi coi chẳng ra gì. Cuộc đời của họ có hơn gì con chó? Ngay hôm qua đây, thằng Trứng trâu còn ngồi với chúng tôi trên ghế xi măng nơi hè phố, bây giờ chúng tôi đã học được cái trò dùng lưỡi lật thuốc lá rồi cầm lấy hút tiếp. Cũng do buồn tẻ mà thằng Trứng trâu quyết định đi ăn cướp, ngay trước mặt chúng tôi nó đã chặn đường sáu người, dí dao đòi tiền, nhưng cướp sáu người được tổng cộng có hai mươi lăm tệ. Họ không có tiền đưa cho nó thì chúng tôi cũng chẳng có tiền. Chẳng bao lâu thằng Tân và Mướp đắng xảy ra xung đột, nghe nói bố chúng là tử thù của nhau trong “cách mạng văn hóa” thì bây giờ, dẹp xong Muhutar rồi, hai đứa lại kình địch với nhau. Đó là chuyện sớm muộn gì cũng phải xảy ra, chúng nó bất hòa vì chuyện xăm mình. Thằng Tân muốn chúng tôi xăm hình con châu chấu thì xảy ra cãi nhau với Mướp đắng, thằng này muốn chúng tôi xăm hình con cóc. Nhưng chúng tôi đều không muốn xăm con cóc lên người mình, nếu cứ phải xăm thì xăm con châu chấu, vì thế suýt nữa thì hai đứa rút dao ra. Sau đó hai đứa nghi ngờ nhau. Một hôm thằng Tân nghe tin thằng Mướp đắng định đánh què nó, thế là nó ra tay trước, thằng Tân tay đeo nhẫn sắt đấm què thằng Mướp đắng và còn làm nó hỏng một con mắt. Thằng Mướp đắng trốn biệt, hắn bỏ thành phố chẳng biết đi đâu. Bây giờ, người của chúng tôi mỗi ngày một đông, như châu chấu. Chúng tôi đều xăm hình con châu chấu, mỗi người xăm một chỗ khác nhau trên mình, ai thích xăm ở đâu thì xăm. Mọi người gọi chúng tôi là “băng châu chấu”, nhưng vào cái năm 1983 này chúng tôi chỉ là cái bọn trẻ con mới lớn, vô công rỗi nghề mà thôi. Chúng tôi đều không thích châu chấu nhưng ai dám từ chối việc xăm một con châu chấu lên mình? Vào cái năm ấy, thị trấn có chuyện kỳ quặc là ban ngày thì châu chấu quấy nhiễu, tối đến thì chúng tôi hành động. Cả thị trấn trở thành giang sơn của châu chấu, hai loại châu chấu khác nhau. Cái giống châu chấu không đẻ ra ở thành phố, cho nên ban ngày chúng điên cuồng bay ra từ các chỗ ẩn nấp ban đêm, gặm sạch tất cả những gì màu xanh trong thành phố, so với chúng tôi, chúng nó ghê gớm hơn nhiều. Chúng tôi kinh hãi quá, thằng Tân đã từng nói, bọn châu chấu thích đi kiếm ăn ở thành phố khác kia mà! Cũng như chúng tôi chỉ đi gây sự ở các khu phố khác. Chúng tôi hỏi thằng Tân, nó nghĩ mãi, không trả lời. Có thể nó cũng thấy chuyện này là kỳ lạ. Buổi tối ngày 28 tháng 8 năm ấy, chúng tôi đang lang thang trên phố như mọi ngày bỗng tiếng còi xe cảnh sát hú lên khắp thành phố, họ đi bắt người. Chúng tôi nhanh chân chạy, lâu lắm mới dám quay lại nhưng đa số đã bị bắt. Sau này chúng tôi nghe nói, cái đợt gọi là “nghiêm trị” đó là nhằm vào chúng tôi. Thằng Tân thủ lĩnh bị bắt, Trứng trâu cũng bị bắt. Họ cũng tóm đựơc Mướp đắng ở Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc lôi về. Thì ra nó chạy xa thế. Ba đứa chúng nó cùng hơn chục đứa nữa bị xử tử hình. Trong đó có hai đứa giết người để cướp một cái mũ lính, bây giờ cũng tiêu luôn. Thực ra những người xử chúng nó đều mù luật, nhưng gặp phải đợt “nghiêm trị” thì chúng nó phải chịu thôi. Lúc bắn chúng nó, trên phố là cả một biển người, mấy đứa nhẹ tội lọt lưới chúng tôi trà trộn vào đám đông để xem. Chúng tôi trông thấy thằng Tân và Mướp đắng bị điệu đi trên chiếc xe giải phóng đến nơi hành hình, vẻ mặt hai đứa thản nhiên nhưng cái biển tử hình trên cổ thì thật sự to quá. ́ ́ “Hệt như lúc bố chúng nó bị bắn trong cách mạng văn hóa mười lăm năm trước, y hệt”. Tôi nghe người lớn nói trong đám đông. Thằng Trứng trâu thì suy sụp, nó khóc một cách đáng xấu hổ trên xe. Nó cướp hai mươi lăm tệ của sáu người, vì thế bây giờ bị trừng phạt. Về sau, lũ châu chấu ban ngày và “băng châu chấu” ban đêm chúng tôi đều biến mất chẳng để lại dấu vết gì, như cỏ bị châu chấu ăn sạch lại nhú lên màu xanh. Mấy năm sau, trên phố toàn người mới tinh. Thậm chí họ cũng chẳng nghe nói gì về chúng tôi. Máu chúng tôi rơi trên đường phố cũng chẳng còn mùi gì nữa. BÔNG HỒNG xăm trên da BỌN NHÓC TRÊN PHỐ GỌI CÁI VIỆC ĐUỔI THEO con gái là “ve gái”, mỗi lần nói đến cái từ này là chúng hớn hở ra mặt, kích động xen lẫn ngưỡng mộ và mất tự chủ. Chúng nó đã mười ba mười bốn tuổi, đến cái tuổi “ve gái” rồi, ngồi trên phố chúng bí hiểm nói với nhau về chuyện đã có “gấu” rồi. Khi chưa có “gấu”, thì thằng Cường, con một người thợ xăm mình đã quá cố, không hiểu “gấu” là gì. Nhưng bọn bạn nó thì đã biết, một hôm, có đứa đã biểu diễn cho nó xem, “gấu” là cái thứ nhầy nhầy như nước mũi, chảy ra từ chim con trai. Người biểu diễn là thằng Cẩu, nó vừa vuốt cái của nó đã sưng to lên vừa kêu a a và bắn ra cái gọi là “gấu”. Cái của thằng Cường còn mềm oặt, nó chưa có “gấu”, nhưng bọn vô công rỗi nghề trên phố đã lần lượt có cả, lúc cho “gấu” ra, mặt chúng nó méo xệch đi. Chúng nó cũng theo nhau đi “ve gái”. Đối với thằng Cường, chưa có “gấu” thì cũng chẳng có hứng thú, chẳng có lý do và tư cách đi ve gái, cho nên nó mong sao sớm có được “gấu”. Cứ là con trai thì phải có “gấu”, bây giờ thì thằng Cường đã có, đó là một tối mùa hè năm 1983, vừa tỉnh dậy, nó thấy quần mình ướt, “gấu” của nó như một thứ sơn dầu kiêu hãnh, đã bôi vẽ và sửa sang lại cái tuổi trẻ của nó. Thế là nó cũng phải biểu diễn “thả gấu” cho chúng nó xem, cho cái màu trắng sữa vừa trong vừa đục ấy phun ra trước mặt chúng nó, một cuộc “thả gấu” ngoạn mục đã diễn ra. Bọn lưu manh vô lại lớn tuổi hơn lúc không ve gái bảo với chúng nó rằng, “gấu” của thằng con trai là dùng để bắn vào cái lỗ giữa hai đùi của người con gái, sau đó nếu nhiệt độ và ẩm độ thích hợp thì trong bụng người con gái sẽ nảy mầm một bé con. “Nếu mày không muốn con bồ của mày phải mang bé con, thì mày phải dùng cái gọi là áo da”. Thằng lưu manh nói với chúng nó một cách bí hiểm, rồi chìa cái “áo da” trong tay ra chào hàng. ̀ ́ ̀ Khi thằng Cường có “gấu” rồi thì trạng thái tâm lý của nó có một chút thay đổi. Nó thấy hai đầu vú nổi cục, đụng vào rất đau. Ngoài ra giữa hai đùi nó, xuất hiện rất nhiều lông màu vàng nhạt mọc xung quanh khúc cây của nó mà bất kỳ lúc nào cũng có thể kiêu hãnh dựng lên không duyên không cớ. Hơn nữa cổ họng của nó cũng nhô ra, tiếng nói thì trầm đục, chúng nó ngồi trên phố nói cái giọng rất lạ, vì chúng nó là những đứa vừa có “gấu”, vì thế mọi người gọi chúng là đàn gà trống choai. Đúng thế, giọng của chúng thật là giống tiếng gà, một vài đứa trên mặt còn nổi lên “trứng cá tuổi mới lớn”, những thay đổi đó có liên quan chặt chẽ đến “gấu” của chúng nó. Nghe nói con trai có “gấu” sẽ có sức hấp dẫn và sức công phá đối với con gái. Thằng Cường cảm thấy rất rõ sức phá hoại trong huyết quản chúng nó. Bây giờ, con trai ve gái trên phố đã thành phong trào, vì chúng nó đều đã có “gấu”. Không chỉ có con trai đi lang thang hàng đàn trên phố, tối đến bọn con gái hứng tình cũng phất phơ đi dạo từng nhóm ba bốn đứa, liếc mắt đưa đẩy kích thích lũ trống choai đứng bên đường, sẵn sàng cho chúng nó “ve”. Đó hoàn toàn là bản năng trời cho. Mùa hè năm 1983 có lắm chuyện bức bối, cho nên con trai con gái đứa nào cũng muốn mau mau đánh giáp lá cà. Chúng nó đều nhận thấy sự xao động trong lòng, sức chống cự giả vờ với cái xao động ấy thực ra đã đầu hàng từ lâu rồi. Thằng Cường và cái Mai đánh giáp lá cà vào mùa hè 1983. Tiết xuân còn lạnh mà cái Mai đã lôi tất cả váy trong hòm ra để giặt là, chuẩn bị mặc. Cái Mai thấy kinh lần đầu trước đó một tháng, lúc đó đang ngủ, nó mơ thấy mình bơi trong một dòng sông đỏ. Buổi sáng tỉnh dậy, phát hiện tấm trải giường loang đỏ, nó sợ quá kể với mẹ, mẹ nó là một kӻ sư trong nhà máy, mẹ nó bảo đó là giai đoạn phải qua để trở thành con gái trưởng thành. Sau khi có kinh, nó cảm thấy hiểu được cái gì trong ánh mắt của bọn con trai khi nhìn nó. Cho nên mặc dù mẹ nó cấm ra phố vào buổi tối, nó vẫn phải đi để xem bọn “chó đực” ấy, đó là cái tên mẹ nó gọi bọn con trai lang thang kiếm cớ gây chuyện trên phố. ́ ̀ Mai là học sinh giỏi nhất toàn năm học, lần thi nào cũng đứng đầu một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ nó có một sự thèm muốn, muốn được thấy ánh mắt thèm khát của bọn con trai nhìn nó, nhất là huýt sáo gọi nó. Lúc đó nó không thèm nhìn, ngẩng cao đầu, mỉm cười kiêu hãnh, thế là nó sẽ sướng cả ngày. Nhưng một lần đi qua chỗ bọn thằng Cường, cái Mai bị chúng nó trêu đến phát khóc. Từ xa Mai đã thấy chúng nó ngồi trên ghế xi măng bên đường, vừa hút thuốc vừa cười đùa, trong đám này có thằng Cường. Mai trấn tĩnh, như sắp bước lên sân khấu diễu qua mặt chúng nó, vì vậy nó bất giác ngẩng cao đầu, bước đi kiểu catwalk, cái mốt biểu diễn thời trang mà nhiều năm sau khá thịnh hành. Không nhìn, nhưng Mai biết chúng nó đã thấy mình, chúng nó không nói chuyện nữa, chăm chú nhìn nó đi đến. Bây giờ Mai đã đi sát chúng nó. Nhưng hôm nay có vẻ không ổn, chúng nó không nhìn mặt như mọi khi mà nhìn xuống chân nó. Mai cảm thấy bước đi chuệch choạc, có lúc không nhấc được chân lên mà đi nữa. Chúng nó cười ha hả chế nhạo. Đúng vào cái lúc cam go đó, nó trấn tĩnh lại, bình tĩnh bước tiếp, mặc kệ chúng nó trêu chọc, Mai cứ đi, cuối cùng thoát ra khỏi tầm nhìn của chúng nó. Đi đã khá xa, nó vẫn bực dọc nhìn xuống chân và đùi, nhưng không thấy có gì khác lạ. “Thôi, đừng nhìn nữa, chân và đùi bạn không sao cả, chúng mình chỉ cười để đánh đòn tâm lý bạn thôi, thực ra chỗ nào của bạn cũng rất tuyệt”. Giọng nói con trai phía sau. Mai quay lại, thấy Cường. Lập tức nó thấy rõ vừa rồi là chúng nó chơi xỏ. Nó không cảm ơn thằng Cường đã cho nó biết cái bí mật này, thậm chí nó càng thêm xấu hổ và tức giận. “Cút!” Mai quát lên. Thằng Cường cười, nó thấy cái vẻ tức giận của con gái thật là dễ thương. “Bạn đừng giận, tôi là Cường, tôi thích bạn, làm bạn tôi nhé”. Nó đứng trước mặt, chắn đường Mai. Nhưng cả hai đứa đều thấy lúc này nói những câu đó là ngốc không để đâu cho hết. “Cút!” Mai quát to, lần này nó cáu thật sự. ̀ ́ ́ Thằng Cường không nhúc nhích, nhưng thấy cái áo trắng cảnh sát đang đi đến, thế là nó tránh ra. “Tao có chết cũng không thèm làm bạn mày!” Mai hấp tấp bước đi còn ném lại một câu. Cường bây giờ suốt ngày chỉ nghĩ đến Mai, nó bắt đầu bám theo, khi Mai đi học hoặc trở về nhà, Cường chỉ mất chút thời gian là nắm được qui luật đi lại của Mai. Nhưng nó không để Mai phát hiện nó bám theo, đối với Mai, nó có một niềm khao khát, khi ngủ nó thường mơ thấy Mai. Nó bắt đầu thủ dâm và đối tượng tình dục tưởng tượng của nó là Mai. Sau mỗi lần thủ dâm nó đều có mặc cảm tội lỗi nặng nề, cảm thấy không xứng đáng với Mai, vì vậy mỗi lần trông thấy Mai là một lần chuộc tội, cái tội tình dục tưởng tượng mà nó giấu kín. Cứ như thế đến nỗi bây giờ ngày nào nó cũng phải nhìn thấy đèn ngủ của Mai tắt thì nó mới rời chỗ ẩn nấp trong bóng tối của một cái cây xa xa, về nhà đi ngủ. Mai không hề biết rằng có một người, tức là Cường, ngày ngày bám theo. Cho đến một ngày Cường phải che chở cho nó thì câu chuyện mới lái sang một hướng khác. Vào tháng sắp sang hè, cả thành phố chìm đắm vào bầu không khí bức bối và bất an. Tối đến, bọn lưu manh ranh con đi đầy đường, mẹ đã cấm Mai ra đường. Thời gian đó đã lưu truyền tin một số thiếu nữ bị hiếp, bị giết. Tất nhiên Mai cũng phải cảnh giác, nhưng ở cái nơi đầy rẫy những lưu manh thì thế nào cũng có ngày rơi vào tay chúng. Đó là cái thời mà bọn Mướp đắng gây sự khắp nơi, mà Mướp đắng thì chưa đến lúc bị “nghiêm trị” và xử tử. Một hôm Mai tham gia biểu diễn văn nghệ của trường, về muộn, lại đúng hôm mẹ không đón, tại một khu phố tối đèn, nó bị bọn lưu manh Mướp đắng chặn lại. Mai bị chúng nó lôi vào trong một nhà máy bỏ hoang, một nơi rộng rãi, tối tăm, là nơi bọn lưu manh tụ tập. Khi bọn ranh con lôi Mai đến đây, bọn Mướp đắng vừa ăn xong một con chó thui, bộ xương chó lóc hết thịt còn treo trên giá sắt lửa cháy bùng bùng, trông phát khiếp. “Lột truồng nó ra!” Mướp đắng ra lệnh. Nghe nói bọn chúng đã cưỡng hiếp mấy chục đứa con gái rồi, giờ đây Mai là người mới ́ ́ ̀ nhất bị đưa lên giàn tế. Trong cơn giãy giụa điên cuồng, Mai đã bị lột sạch. “Đẹp đấy, da mịn lắm”. Thằng Mướp đắng xấn đến sờ bộ ngực của Mai, Mai run bắn người. “Đứa nào thích chơi?” Mướp đắng hỏi bọn xung quanh đang rỏ dãi lòng thòng. “Em!” “Em!” “Cho em chơi trước!”, chúng nó nhâu nhâu. “Cả lũ tránh ra! Mẹ chúng mày, tao hỏi thế, chúng mày tưởng thật à, tao chưa làm, chúng mày dám chấm mút à?” Thằng Mướp đắng vừa chửi vừa cởi quần áo. Nó sai hai đứa đè Mai xuống, còn nó kéo hai đùi Mai rộng ra, nhưng Mai lại bắt đầu giãy giụa, có thể là trong tình cảnh này, các cô gái mạnh mẽ đều chống cự như thế, mấy đứa đều không giữ nổi, Mai nghiến răng cắn đứt tai thằng Mướp đắng rơi xuống đất. Mướp đắng đau quá kêu rống lên, nó xách quần lùi lại, một tay bịt cái tai bị thương, cái tai rơi xuống đất nhảy tưng tưng như một con cóc. Mấy đứa vồ lấy cái tai như vồ con cóc đang chạy trốn, cuối cùng cũng vồ được. “Mẹ mày! Cái l. mày cứng nhỉ”. Mướp đắng tức điên. Lúc này Mai mới thấy sợ vì thằng Mướp đắng vớ được cái ống đèn nêông thật dài. “Xem cái l. của mày cứng đến đâu, tao lấy cái này thọc chết mẹ mày!” Đau đến méo mồm méo miệng, mắt đỏ đòng đọc, thằng Mướp đắng, định lấy cái ống đèn thọc vào giữa hai đùi Mai. “Khoan đã!”, thằng Cường xuất hiện như anh hùng cứu người đẹp trong phim ảnh, “Mướp đắng! Đừng cư xử như vậy với con gái, tao là bạn nó, nó là bồ của tao, mày muốn sao cũng được, cứ thả nó ra đã.” “Mẹ mày chứ! Nhìn tai tao đây này!” Thằng Mướp đắng xòe tay ra, nửa cái tai đỏ lòm nằm trên tay hắn, trông như con cóc chết. Mướp đắng và Cường có quan hệ khá tốt, vì Cường là tay cao thủ, nổi tiếng gần xa trong nghề xăm hình. Trong cái thành phố này nhiều người mang kiệt tác của nó trên mình. Thằng đầu sỏ lưu manh tận thành phố Lan Châu xa lắc cũng đến nhờ nó, Cường là một nhân vật đặc biệt mà mọi người kiêng dè, nể mặt. “Bây giờ đi bệnh viện đi, có thể kịp vá lại, chậm trễ là hỏng việc, tiền viện phí tao chịu hết. Mướp đắng, tao với mày quen nhau bao ̀ ̀ ̀ lâu rồi, mày đánh lộn với thằng Tân, đều có người của tao giúp, bây giờ tao xin mày, thả nó ra”. “Mẹ mày chứ, sao có thể thế được? Bây giờ mày chặt đi một ngón tay, tao sẽ thả nó ra.” Mướp đắng nói. Thằng Cường chẳng nói chẳng rằng giơ tay trái ra: “Mày cần ngón nào?” “Tao làm, thật chứ? Thế thì ngón út.” Thằng Cường rút con dao ở thắt lưng ra, vung lên chém xuống, ngón tay út rơi khỏi bàn tay. Nó cũng kêu lên, tiếng kêu vừa đau đớn vừa ra oai, nó đau đến cau mặt lại, đưa ngón tay cho Mướp đắng. “Mẹ nó chứ, Cường, mày dẫn nó đi, mẹ mày chứ!” Mướp đắng cầm lấy cái ngón tay, thích thú ngắm nghía, lúc đó Mai vừa mặc quần áo vừa bật khóc vì kinh hãi thật sự. Thằng Cường dẫn Mai đi. Mướp đắng đi bệnh viện vá tai. Từ lúc đó thằng Cường chỉ còn chín ngón tay, danh tiếng của nó truyền đi mấy khu phố. Mướp đắng bỏ cái ngón tay vào lọ cồn cất giữ, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghía, nhưng mấy tháng sau, đó lại là một trong các bằng chứng để bị kết án tử hình. Còn Mai thì quyết chí theo Cường, nó đã yêu thật rồi. Khi biết tin này, thằng Tân thủ lĩnh băng Châu chấu tìm đến, rủ Cường nhập hội, nhưng nó đã quyết định rửa tay gác kiếm. Nay nó đã có Mai, nó chẳng thiết cái gì nữa. Cái thời đó, mọi người trong thành phố này đều thích xăm hình, một số đàn ông thì xăm mấy con rồng. Khi có bạn gái thì lại thích xăm hình cho bạn mình. Bây giờ thì Mai ở bên Cường suốt ngày. Thầy giáo và bố mẹ đều phản đối hai đứa còn bé đã cặp kè với nhau, nhưng Mai không nghe. Không chỉ vì một ngón tay mà Cường được tình yêu của Mai, nhất định còn cái gì khác nữa, đó là cái gì thì chỉ có Mai biết. Một hôm, say đắm nhìn Cường, Mai nói: "Em cũng muốn anh xăm hình cho em." “Xăm hình? Tại sao vậy?” Cường hỏi. “In một dấu ấn của anh.” Đôi mắt Mai vẫn say đắm. “Anh không muốn xăm cho em. Như thế không hay với em, nhỡ sau này em lấy người khác thì sẽ ảnh hưởng đến em.” ́ ̀ “Anh mà nói thế à?” Mai tức giận, “Em chọn anh rồi, sao anh lại có thể nghĩ khác được?” Mai khóc tức tưởi. Cường ôm lấy Mai, “Anh sẽ không xa em, nhưng chúng mình mới mười mấy tuổi đầu, ai mà biết được chuyện sau này thế nào.” “Anh mà tính chuyện bỏ em, em sẽ tự tử!” Mai dọa, đôi mắt long lên. Hai đứa chọn ngày Cường sẽ xăm hình cho Mai. Mai quyết định xăm hình ở vùng mu trên cửa mình, lệch trái một chút. Đây là một nơi đặc biệt, khi Mai hồi hộp thở và cởi hết quần áo nằm trên giường tại một khách sạn thì Cường vẫn không muốn, nó cảm thấy xăm hình cho Mai sẽ ảnh hưởng đến tương lai của Mai. Cường có một bộ dụng cụ xăm hình tiếp nhận từ bố, bây giờ nó sẽ xăm hình cho bạn gái của mình, mà lại ở vùng mu. Thời gian xăm không lâu cũng không mau, nhưng Cường vẫn không thỏa mãn được một yêu cầu của Mai, tức là xăm cả tên Cường lên vùng mu. Cường đã xăm một bông hồng rực rỡ lên đó, khi xăm xong, Mai quyết định hiến tấm thân trong trắng của mình cho Cường, nhưng Cường kiên quyết: “Để sau đi, khi em đã lấy anh.” Tiếp theo cuộc “nghiêm trị” năm 1983, Mướp đắng và thủ lĩnh của rất nhiều băng đảng bị bắn, Cường được khoan hồng vì đã cứu Mai khỏi tay thằng Mướp đắng, không bị truy cứu bất kỳ trách nhiệm hình sự nào, trong khi tất cả những đứa thuộc rất nhiều băng đảng bị sa lưới. Qua tháng chín, phố xá vắng tanh, như một thành phố chết. Với Cường và Mai thì năm 1983 là năm đẹp nhất, sau đó hai đứa yêu nhau không chút ưu tư. Cho dù bố mẹ và thầy chủ nhiệm của Mai ngăn cản thế nào, quan hệ hai đứa vẫn không hề thay đổi. “Bụng em đã có bông hồng anh xăm cho em, em mãi mãi thuộc về anh.” Mai rất kiên định và cố chấp. “Tất nhiên rồi!” Cường cũng khẳng định như vậy. Từ đó, mọi người trên phố hầu như thay đổi cả một thế hệ, đến mùa hè năm 1987, Cường không còn nhận ra bộ mặt nào quen thuộc nữa. Năm đó Cường và Mai đều tốt nghiệp trung học, nhưng đều không đỗ vào đại học. Cuộc tuyển quân mùa thu, mọi tiêu chuẩn Cường đều đạt yêu cầu, nhưng vì thiếu một ngón tay, không thể tham gia quân đội, về sau, làm một chân giúp việc tại đồn cảnh sát khu phố, còn Mai đạt mọi tiêu chuẩn, nhập ngũ và đi Urumuxi. Hai người thỏa thuận chờ Mai ra quân sẽ cưới nhau. Chuyện của họ kết thúc vào năm 1988, năm đó, một lần nữ đồng đội ngẫu nhiên phát hiện trên vùng mu của Mai có xăm hình, hình bông hồng nở mà Cường đã xăm, bèn cáo giác với chính ủy, mà chính ủy lại nhận được tin nói rằng Mai đã từng là một thành viên của một băng lưu manh, nay thế là đã có chứng cứ. Chẳng cần nói gì nhiều, chỉ cần nữ bác sĩ kiểm tra là việc Mai xăm hình được xác nhận, Mai lập tức được trả về khu phố. Khi Mai trở về, một tin khác làm cô chết đứng. Mấy hôm trước, khi truy đuổi phạm nhân bỏ trốn, Cường đã bị hắn sát hại. Ba ngày sau, Mai uống thuốc ngủ quá liều, rời bỏ cái thế giới chán ngắt này. Một bác sӻ pháp y trẻ mổ tử thi của Mai đã rất ngạc nhiên, không những Mai còn trinh mà trên vùng mu còn xăm một bông hồng tuyệt đẹp. Theo di chúc, tro thi hài của Mai được rắc trên vùng cỏ linh lăng mọc um tùm ở ngoại thành, nơi Cường bị sát hại. Như vậy hai người hầu như vẫn được ở bên nhau mãi mãi. Năm đó họ chưa đến hai mươi tuổi. HỒNG KỲ nằm dài mười tám năm “TAO PHẢI LỘT DA CHÚNG NÓ”. TÌM THẤY MỘT bãi phân người chưa khô trên bờ sông Quý Tiết, hắn vừa dùng gậy hất đống phân ướt vừa tức giận nói. Xa xa là ảo ảnh bồng bềnh của sa mạc Gôbi, tay trái của hắn vẫn lăm lăm một con dao sáng loáng. Mười tám năm sau, Hồng Kỳ kể cho chúng tôi nghe tất cả đầu đuôi việc truy lùng họ. Năm ấy Hồng Kỳ mới mười tám tuổi, đó là năm 1983, Hồng Kỳ còn nhớ như in cuộc truy lùng mùa hè năm ấy. “Chúng nó men theo sông Quý Tiết chạy về phía Thiên Sơn, tao đuổi theo chúng nó như một con chó săn. Bắt được chúng nó tao sẽ lột da chúng nó. Lúc đó tao cầm một con dao tốt nhất. Tao thề sẽ lột da chúng nó. Tao cầm con dao sắc nhất.” Nhưng hắn vẫn không bắt được họ, chỉ tìm thấy cứt. Hắn chỉ gạt mấy cái là biết đấy là họ, hắn biết họ ăn cái gì, lại còn biết cả họ ỉa cứt gì. “Cứt của Hồng Hồng, tao ngửi là biết ngay, cứt của nó có mùi quả du, tao biết con ranh khoái ăn quả du, khi đi thế nào cũng mang theo một túi quả du. Ngoài ra, sa mạc Gôbi còn có rất nhiều cứt người, nhưng cứt của những người chăn cừu thì có mùi hoi, thoáng ngửi là tao biết ngay.” Sau mười tám năm, Hồng Kỳ kể với chúng tôi như thế. Nhưng hắn không thể ngờ rằng mùa hè năm ấy hắn còn quay về, cũng không thể ngờ rằng từ đó hắn không thò mặt ra khỏi cửa mà nằm bẹp trên giường, không thiết làm cái gì cả. “Đầu mùa hè năm ấy, sông Quý Tiết chưa có lũ về, tao cứ theo sông mà truy chúng nó”. Hồng Hồng, bạn gái của hắn chạy theo một thằng di cư, người Tứ Xuyên, cho nên hắn phải đuổi theo. Hắn còn nhất định phải giết họ. Chỉ ngửi cứt họ để lại để đoán hướng của họ chạy là chưa đủ, còn phải ngửi gió. “Trong gió có đủ các thứ mùi, trong gió thổi trên đồng hoang có mùi chạy trốn của chúng nó. Tao nghĩ chúng nó không thoát được.” Sông Quý Tiết chảy bên cạnh thành phố chúng tôi, đến mùa hè, lũ từ núi băng đổ về rất lớn, cuốn trôi tất cả chỗ ở của những ́ ̀ người sàng cát dựng lên, những cái ổ chìm một nửa dưới đất, cả đồ đạc cũng bị trôi sạch. “Cùng chạy với Hồng Hồng là một thằng sàng cát trên sông Quý Tiết, là một thằng lùn tịt dân di cư người Tứ Xuyên, mày thử coi tao còn mặt mũi nào?” Đúng thế, năm 1983 trên phố đầy những người từ các tỉnh phía trong ra, họ tràn đầy ngành xây dựng và ngành dịch vụ vừa mới ngóc đầu lên, cướp đi miếng cơm của dân sở tại, mà thời ấy là cái thời hỗn loạn nhất, chúng tôi thường xuyên đánh lộn với chúng nó trên đường phố. Chúng nó đông như ruồi nhặng, mà cũng làm người ta khó chịu như ruồi nhặng. Thế mà bạn gái Hồng Kỳ, cô bé xinh đẹp nhất phố, Hồng Hồng lại trốn đi với một thằng cha di cư, đây là một cái tin gây chấn động khu phố chúng tôi. Cái tin này vừa mới bắt đầu lan ra, chúng tôi biết có trò vui để xem rồi, chúng tôi biết Hồng Kỳ là cái thằng xấu tính xấu nết, có thể làm mọi chuyện, trên phố thế nào cũng có máu đổ. Hồng Kỳ cũng tuyên bố nếu thằng cha đó nội ba ngày không cuốn xéo khỏi thành phố thì hắn sẽ giết trước mặt bàn dân thiên hạ. Đồn cảnh sát cũng biết chuyện này, họ cũng khuyên anh chàng nọ rời đi, vì ở cái thành phố này ai cũng biết chẳng thể nào ngăn chặn nổi một vụ án giết người đã được tính toán. “Ba ngày sau hai đứa cùng trốn đi, điều này tao không hề nghĩ đến, không hiểu cái con hôi thối ấy nó định giở trò gì.” Lúc ấy chúng tôi cũng không hiểu tại sao Hồng Hồng lại bỏ Hồng Kỳ mà để ý cái thằng di cư từ Tứ Xuyên đến. Hoặc là buồn chán, hoặc là cố tình trêu tức Hồng Kỳ để xem anh ta yêu cô đến đâu. Tất nhiên bây giờ chúng tôi biết là đã đoán nhầm, chúng tôi không hiểu được đàn bà, và đàn bà sẽ làm cái gì khi điên lên. Dù sao thì Hồng Kỳ, Hồng Hồng và cái anh chàng Tứ Xuyên di cư đã biến mất vào cùng một buổi sáng, chỉ còn mùi quả du ngạt ngào khắp phố. Chuyện vỉa hè thì nhiều vô kể, một số người đi tìm xác chết, vì có người bảo đã xảy ra một vụ án mạng, rất có thể đã có hai hoặc ba xác chết nằm đâu đó rồi. ́ Nhưng họ chẳng tìm thấy gì, ngoài xác chó xác mèo. “Một buổi sáng tinh mơ khi tao đi tìm giết chúng nó, dưới màu trời trắng bụng cá, tao thấy chúng nó chạy về phía sông Quý Tiết. Hồng Hồng mặc cái áo đỏ, thằng kia mặc đồ đen. Chúng nó chạy rất nhanh, nhoáng một cái đã không thấy đâu, biến mất trên đồng hoang, nhưng cứt chúng nó bảo cho tao biết chúng nó chạy đằng nào.” Đầu hạ năm ấy trời bỗng nóng dữ dội, Hồng Kỳ truy đuổi trên vùng Gôbi, chịu nóng thấu trời, mồ hôi chảy dòng dòng xuống khe đít. “Sông Quý Tiết về phía thượng lưu đến thẳng suối băng của Thiên Sơn. Chúng nó chạy đến đấy để làm mồi cho gấu hay sao?” Hồng Kỳ nghĩ, tức sôi máu. Nhưng đến chỗ sông Quý Tiết vào núi, Hồng Kỳ quay lại nhìn hoang mạc Gôbi phía sau, biết đích xác họ đã chạy sâu vào Thiên Sơn rồi. “Tao nghe nói năm ấy Thiên sơn có rất nhiều gấu nâu, về sau khi truy đuổi chúng nó, quả nhiên tao trông thấy hai con, một con to một con bé. Có vẻ như hai mẹ con, sau này tao không đem đựợc Hồng Hồng về mà đem con gấu con về.” Dãy Thiên Sơn như một con thú rừng cổ xưa khổng lồ nằm chết ở đây, thân hình đen trũi của nó nằm trên mặt đất trông xa vẫn rất dũng mãnh. Bộ xương của nó thật đồ sộ, các kẽ xương là các thung lũng, suối băng tan thành nước, chảy trong các thung lũng này, hình thành một con sông nước đá lạnh buốt. Dòng nước chảy ra khỏi Thiên Sơn đến cánh đồng hoang Gôbi, thành sông Quý Tiết. Phần nhiều thời gian sông ngừng chảy, hoang mạc Gôbi như cái thân dưới khô cằn tham lam của đàn bà, hút không biết chán những dòng sông trong xanh nho nhỏ như vậy. “Tao bám theo ba ngày trên con đường nhỏ dọc theo sông Quý Tiết rồi mới vào núi, tối chui vào một cái chăn lính để ngủ. Đêm hoang mạc ẩm ướt, không có chó sói nhưng có cáo, lúc ngủ tao ngửi thấy cái mùi hôi nồng nặc của nó. “Chúng nó tất nhiên cũng nghỉ đêm, chúng nó bị tao truy đuổi cũng mệt lử. Ban ngày tao thấy chỗ ngủ đêm đầu tiên của chúng nó, có cả vết tích đốt lửa. Chúng nó ăn bánh bột nướng, uống thì uống nước sông Quý Tiết, cái này thì tao rất biết. Chúng nó làm ́ ́ ́ tao mất mặt, ở cái thành phố này không thể để mất mặt, cho nên tao phải giết chúng nó. “Nhưng hình như chúng nó biết tao đuổi theo, chúng nó chạy vào núi cũng rất nhanh, không chậm hơn tao tí nào. Nhưng chúng nó chạy sai hướng, chạy vào núi chỉ có chết, chẳng nhẽ chúng nó lại không biết điều ấy?” Sau mười tám năm Hồng Kỳ nói với tôi như vậy. Vì ở trong nhà lâu quá nên bây giờ da nó trắng phếch, như người bị bệnh bạch biến, nhưng không phải bệnh. “Mày xem tao có giống như người bị bệnh bạch biến không? Lúc đó da tao rất đen, người ta đều gọi tao là Hồng Kỳ đen, tao đen thế nào mày biết rồi đó.” Sau mười tám năm nằm giường, Hồng Kỳ nói với tôi như vậy. Hồng Kỳ và Hồng Hồng là hàng xóm láng giềng của nhau, cùng lớn lên từ những ngày mặc quần thủng đít. “Bố mẹ Hồng Hồng làm nghề bán thịt ướp, nhà họ suốt ngày bốc mùi thịt lợn muối, cái mùi khen không được mà chê cũng chẳng dám, nhưng ngột ngạt kinh người, đến nỗi chim bay trên trời cũng rơi bộp xuống ngay vào sân nhà tao.” “Ê này, mùi thịt thối nhà cô bốc lên chim cũng chết, rơi vào nhà tôi đây này, cô bảo làm sao bây giờ?” Lúc ấy Hồng Kỳ đứng ở đầu nhà nói với Hồng Hồng như vậy. “Thật à? Ồ chắc là lông nó đẹp lắm, cho tôi đi.” Hồng Hồng nói vẻ khó chịu. “Cô cần nó làm gì? Người nhà cô là cái giống đao phủ.” “Tôi sẽ chôn nó ngoài ruộng, anh thấy có được không?” Sau đó hai đứa đều đem con chim đi chôn. "Có điều kỳ lạ là, bố mẹ cô ấy cả ngày đụng vào thịt lợn muối, họ đi ngoài đường, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi rồi, nhưng Hồng Hồng thì lại có hương thơm nhè nhẹ, thoang thoảng như mùi hoa linh lăng, mày nhất định cũng đã ngửi mùi này, là một mùi thanh khiết đặc biệt." “Tôi đã ngửi cái mùi ấy, rất dễ chịu, thế trên người cô ấy có mùi ấy à?” “Đúng mùi ấy, cô ta đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn , cho nên từ bé chúng tao luôn ở bên nhau.” “Hồng Kỳ, tôi muốn nói với anh chuyện này.” ̀ ̀ ́ “Hồng Hồng, chuyện gì thế?” “Tôi không biết nói thế nào, tôi... tôi thích người khác rồi, chuyện là thế, cho nên phải chia tay với anh thôi.” “Cô đùa đấy à? Người đó là ai?” “Là người mà anh chẳng coi ra gì đâu, là người Tứ Xuyên làm nghề sàng cát.” “Tiên sư nó! Là thằng Tứ Xuyên di cư à?! Cô nói thật chứ?” “Thật, hơn nữa tôi định vài ngày nữa đi Tứ Xuyên với anh ấy.” “Tiên sư nó, cô thật là... tiên sư nó...” Khi Hồng Hồng mới nói đến chuyện này thì hắn chưa tin là thật, nhưng thái độ thành thật của cô làm cho hắn hiểu rằng đúng là như vậy. “Bây giờ mình chẳng biết tung tích chúng nó ở đâu nữa.” Hồng Kỳ nghĩ khi đang đứng chỗ tiếp giáp giữa sông Quý Tiết với thung lũng Thiên Sơn. “Mẹ nó chứ, nhất định chúng nó đã qua sông rồi, đi về phía thung lũng kia rồi, cứ như là để thoát khỏi chó săn vậy.” Thế là hắn qua sông, kết quả là thấy vết tích của họ. Lúc đó hắn thấy những người Kadắc đang chăn cừu trên dốc núi. “Những người Kadắc chăn cừu có nhìn thấy họ không?” Tôi hỏi Hồng Kỳ đang nằm trên giường. “Tao không hỏi, tao chỉ mua của họ một điếu thuốc, đã mấy ngày phải nhịn thuốc rồi, tao quên mang thuốc đi. Tao biết chúng nó đi về phía nào rồi.” “Cô định nhẫn tâm chia tay với tôi thật sao? Tôi kém cái thằng Tứ Xuyên di cư ấy ở chỗ nào? Hồng Hồng, cô nói tôi nghe.” “Có thể chúng ta quen nhau đã quá lâu chăng.” Hồng Hồng nói với hắn, “Tôi không có cảm giác gì mới.” “Tiên sư nó, mày xem, có phải tất cả, mả mẹ nó bọn đàn bà con gái đều là bọn đĩ thỏa không? Thế rồi tao không thèm đếm xỉa gì đến nó nữa. Tao chỉ muốn giết chết cái thằng Tứ Xuyên thôi.” Đối với Hồng Kỳ thời đó, chuyện này thật đơn giản, hơn nữa ở cái thành phố chúng tôi, cái cách suy nghĩ thô lậu, sống sượng, thậm chí man rợ loại đó cũng được coi là rất bình thường. Cho nên câu chuyện Hồng Kỳ, Hồng Hồng và cái anh chàng Tứ Xuyên nọ sẽ chỉ có một kết cục, là nhất định có người phải trả giá bằng máu cho chuyện này. ́ ́ ́ “Mày thấy không, cái con c. người ta gây ra lắm chuyện lắm.” Sau mười tám năm, Hồng Kỳ nói với tôi, “Cái con c. của thằng Tứ Xuyên di cư đó đã chuốc lấy vạ, làm sao tao có thể tha cho nó được?” Hồng Kỳ men theo thung lũng của dãy Thiên sơn đi sâu vào trong núi, chốc chốc lại đứng ngửi mùi gió. “Có mùi của chúng trong gió, tao ngửi thấy rồi, tao sắp đuổi kịp chúng nó rồi.” Dãy núi Thiên Sơn rất cao, đó là một ngọn núi lớn, thung lũng dài hàng trăm cây số và lên cao dần, vươn tới lớp tuyết và vùng suối băng vĩnh cửu trên đỉnh núi. “Người chúng có mùi hôi hám nhiều ngày không tắm, tao ngửi thấy rồi, Hồng Hồng lại có kinh nữa, tao cũng ngửi thấy rồi. Thực ra chúng nó không nên chạy nhanh quá làm gì, như thế tao sẽ không phải vất vả mà vẫn có thể cho chúng tiêu đời, vì ý tao đã quyết rồi, chúng nó sẽ không ra khỏi được lòng bàn tay tao, tính tao thế nào ai cũng biết, tao đã định làm gì thì nhất định làm bằng được. Nhưng rồi tao đã không làm được.” Nhưng lúc đó Hồng Kỳ không ngờ là hắn sẽ không làm được, vì khoảng cách đến họ đã mỗi lúc một gần. “Hồng Hồng có kinh, cô ta hầu như không bước nổi nữa, tao ngửi thấy mùi chúng nó càng rõ hơn.” Hắn vẫn ngẩng lên nhìn trời, trong dãy Thiên Sơn, cái cảm giác khi nhìn trời khác với khi ở đồng bằng. Ở đây rất nhiều thông và cây vân sam. “Đi sâu vào trong núi tao thấy mỗi lúc một nhiều những người Kadắc chăn cừu, họ đều đưa đàn cừu của mình về phía bãi thả tít trên núi cao, đâu đâu cũng thấy đàn cừu và đàn trâu, mùi nồng nặc nhưng cũng không át được mùi chúng nó.” Vào núi đến ngày thứ hai, Hồng Kỳ đã thấy họ phía xa xa, hắn gọi to, bảo họ dừng lại. “Chúng mày dừng lại đi, chúng mày chạy không thoát đâu, tao nhất định giết chúng mày, chúng mày đừng phí công vô ích nữa, tao sắp bắt được chúng mày rồi.” Nhưng họ càng chạy nhanh hơn, thoáng cái đã chạy vào rừng rồi. “Nhất định chúng nó đã kiếm được ngựa, vì tao thấy chúng nó biến mất rồi, thế là tao bỏ tiền mua một con ngựa, tiếp tục đuổi theo.” Đi sâu vào Thiên Sơn, thỉnh thoảng có trận mưa bất chợt làm cho hắn lạnh thấu xương. “Nhưng trong lòng tao nóng rực, mưa không dập tắt được ngọn lửa hận thù và ô nhục, tao chỉ muốn giết tất chúng nó.” Hồng Kỳ không thể hiểu nổi tại sao Hồng Hồng lại cặp với cái anh chàng Tứ Xuyên di cư đó, trước đó không thấy có dấu hiệu gì, thế rồi họ cặp với nhau, hai người còn định đi Tứ Xuyên cưới nhau, tất nhiên là hắn không thể chịu nổi. “Tao với Hồng Hồng cùng lớn lên với nhau, tao cảm thấy nó có thể xa tao, nhưng không phải là xa theo cái cách như thế. Nó không nể mặt tao một chút nào, tao phải giết chúng nó, không ai ngăn được, mày nói xem, ai ngăn được tao?” Trên một con đường trong núi, đúng là đã có hai người chặn Hồng Kỳ lại, họ là cảnh sát lâm nghiệp, một người Kadắc, một người Hán, “Họ bắt tao nộp bao diêm mang trong người, nhưng không có diêm thì làm sao đốt lửa sưởi? Tao quật ngã chúng nó. Tao nói rồi, không ai có thể ngăn cản tao giết chúng nó”. Hồng Kỳ tiếp tục đi, bây giờ đã sắp đến gần mép lớp tuyết. Lớp tuyết là ranh giới của suối băng vĩnh cửu, đi tiếp lên thì không thấy còn loại cỏ cây nào cả, lúc đó hắn đã đuổi kịp họ. “Tao đuổi kịp chúng nó, nhưng tao thấy trước mặt chúng nó có một con gấu, một con gấu nâu đang nhìn họ mà gầm lên. Con gấu rất to, cạnh nó còn một con gấu con, chúng nó và tao gặp chuyện phiền phức rồi.” Lúc đó họ hoảng thật sự, trước mặt là con gấu, đằng sau là Hồng Kỳ mắt ngầu đỏ, rồi sau hắn thấy con gấu xông vào hai người. “Lúc đó, theo bản năng tao bước lên, dùng cây gậy đánh nhau với nó, nhưng tao biết con gấu chỉ muốn bảo vệ con nó, cho nên chỉ muốn đuổi người đi. Khi tao đang đánh nhau với con gấu thì chúng nó tiếp tục chạy về phía trước.” Hồng Kỳ không lằng nhằng với con gấu nữa, hắn vòng qua con gấu và đuổi theo họ “Hồng Hồng, hãy đứng lại đã, không được chạy nữa.” “Anh sẽ giết chúng tôi.” ̀ Hồng Kỳ lúc này đã nhìn rõ anh chàng người Tứ Xuyên, anh ta là một thanh niên tuấn tú, nhưng không hề sợ hắn. “Theo tôi về, tôi sẽ không giết.” Họ vẫn tiếp tục đi lên núi, lúc ấy họ đã đến chân núi băng. Lớp băng xanh trong phủ lên đá núi đen, “Trước đây tao chưa nhìn gần suối băng bao giờ, bây giờ đã thấy, đẹp vô cùng, lại xanh kia chứ, thật kỳ lạ.” Nhưng kỳ lạ hơn nữa là họ vẫn đi lên suối băng, Vậy thì họ định đi đâu? Vượt qua một cái dốc lớn, họ tiếp tục chạy. Nơi đây đã rất lạnh, xung quanh là một thế giới băng tuyết. “Tao cảm thấy như trong mơ, quang cảnh nơi đây đúng là chỉ có trong mơ.” Hồng Kỳ sững người trước suối băng lộng lẫy, trong khoảnh khắc hắn quên mất mục đích đến đây, chỉ chăm chú vào việc ngắm suối băng. Sau đó hắn thấy họ đang bò lên núi phía xa xa. “Hồng Hồng, thế mày định đi đâu?” “Đến cái nơi mà anh không bắt được chúng tôi nữa!” Hồng Hồng nói kiên quyết. “Mày thật sự thích nó à?” Hắn hỏi một cách đau khổ. “Tất nhiên, chúng tôi chết cũng không rời nhau!” “Tiên sư mày! Mày nói thật không đấy?” Không ai có thể trả lời câu hỏi này nữa, phía trước mặt không xa, xảy ra tuyết lở. Trận tuyết lở nhỏ thôi nhưng đủ để vùi kín hai người, Hồng Hồng và anh chàng người Tứ Xuyên. Tiếng rền âm ầm qua đi, một luồng hơi lạnh buốt suýt quật ngã Hồng Kỳ. Mặt đất cũng rung chuyển. Khi tất cả yên tĩnh trở lại, cái thế giới băng tuyết trước mắt hắn đã thay hình đổi dạng. “Chúng nó đã biến đi như thế, bị băng tuyết nuốt chửng rồi.” Mười tám năm đã trôi qua, khi kể lại đầu đuôi câu chuyện với tôi, hắn vẫn rất ủ rũ “Tao bới tìm cả một ngày nhưng không thấy chúng nó đâu. Cuối cùng chúng nó chết bên nhau, nhưng không phải tao giết chúng nó.” Khi xuống núi, Hồng Kỳ nhìn thấy xác con gấu lớn đó trong cái bẫy của một người đi săn, cuối cùng đã có người giết nó. Con gấu con cuống quýt kêu gào bên cái bẫy, “Tao đã mang nó xuống núi, đem cho một con bé con bị hen suyễn.” ̀ ́ Hồng Kỳ xuống núi, như đã bị một đòn đánh thật sự. Từ đó hắn chỉ nằm bẹp trên giường, nằm mười tám năm trời. Bố hắn đã chết, hắn sống với mẹ, không bao giờ bước chân qua cửa buồng. CÁI CÂY hình vành khuyên Ở CÁI THỊ TRẤN PHÍA BẮC TÂY BẮC NÀY, MEN theo sông Quý Tiết đi về phía Thiên sơn, đi sâu vào núi Thiên Sơn, sẽ gặp khu cư trú và bãi chăn thả của những người Kadắc. Uzman sống ở đây, sống trong sự ôm ấp của Thiên Sơn. Nhưng nó lúc nào cũng muốn xem cái thế giới bên ngoài, nhất là khi nó phát hiện ra con chim xanh đó. Con chim xanh đó bay lượn, líu lo trong ánh nắng mờ ảo như khói mây. Không khí ẩm ướt có cảm giác như sờ vào mặt rêu. Mình phải bắt con chim ma quái đó. Đứa bé mười hai tuổi, Uzman nghĩ vậy. Mấy hôm đó, lúc nào cũng có con chim xanh bay lượn trong đầu nó. Con chim có cặp mắt ghép với hàng ngàn mắt nhỏ đó cứ im phăng phắc nhìn xoáy vào nó. Nó cảm thấy có một dấu hiệu không tốt lành, đám mây vàng nhạt trên đầu đang xoay tròn. Phải bắt con chim ma quái đó. Con chim xanh biếc, xanh đến long lanh, xanh đến choáng lộn, xanh đến chói chang, xanh đến huy hoàng. Con chim trong veo một cách lạ thường, cả lục phủ ngũ tạng, cả máu chảy lấp lánh trong huyết quản cũng nhìn rõ mồn một. Móng vuốt con chim nhẹ nhàng xé trái tim nó gây cho nó cảm giác chìm ngập trong sữa, gợi cho nó nhớ lại rất lâu về những ngày trước. Hồi đó, nó còn nhỏ hơn bây giờ nhiều, mới cao bằng cái thùng sữa. Nó ì ạch bê một cái ghế vuông, đứng lên nhìn vào trong thùng sữa dê, nó nhớ rõ lắm, nó đã cười, cười một cách thích thú, sảng khoái. Nó thấy bóng một cái đầu với một khuôn mặt nhỏ bồng bềnh. Bây giờ nó hiểu ra, khuôn mặt mà nó nhìn thấy lúc đó không phải là nó mà là con chim xanh này hóa thân vào. Nó lấy tay vớt, nhưng khuôn mặt tan mất như sương khói. Nó lại vớt, lần này bỗng thấy trời và đất đổi chỗ cho nhau, huӷch một cái tối tăm mặt mũi, thật khó quên. Lát sau trong sữa lại ẩn hiện một cái đầu, khuôn mặt trẻ con, ướt đầm đìa, lướt thướt như con dê con vừa ra khỏi bụng mẹ. Hôm nay nó nhớ lại cái đầu nho nhỏ ấy mới là nó. Cái đầu nho nhỏ ấy nhìn quang cảnh bên ngoài thùng sữa với ánh mắt nghi hoặc, như nhìn thế giới chia nhỏ trong mắt kiến. Nhưng có điều ́ ̀ lạ là, trong một con mắt toàn là cây xanh, mặt người đỏ hồng, và bao la bát ngát là cỏ biếc, còn trong con mắt kia là cây màu xám, những con cừu trắng tinh và mặt người màu vàng. Bỗng nhiên mặt vàng và mặt người đỏ xoắn lại với nhau, nó nghe thấy một âm thanh, cái âm thanh chưa từng nghe bao giờ. Trên cái mặt lồi lõm xù xì đó mọc đầy râu như thông mọc hai bên sườn núi. Bây giờ nó nhớ lại đó là khuôn mặt của chú Junmatri. Hồi đó chú Junmatri chán nản, tay cầm roi da vung vẩy, sải bước đến chỗ nó, đôi giày da to tướng nặng như chì xéo bừa lên đám cỏ ba lá. Nó ngơ ngác nhìn chú đang đi đến. Ngay sau cái khoảnh khắc ấy, nó bỗng cảm thấy mọc ra đôi cánh và bay lên không trung, hay là lơ lửng trên không trung, nó thấy trong lúc bay đã chạm vào tia nắng và phát ra tiếng lanh canh, đụng vào bầu không khí nhàn tản trôi xung quanh, tia nắng như vô vàn những mảnh thủy tinh theo nó rơi xuống và không khí rung rinh xao động. Đầu nó chạm đất trước, sau đó nó cảm thấy mắt trái, tức là con mắt đầy những cây xanh, cừu trắng và chú Junmatri mặt đỏ, bị một cái sừng dê đâm vào cùng với một tiếng vỡ chói tai. Nó cố sức mở đôi mắt, lúc đó con mắt bên kia nhìn thấy những cái cây màu xám, cừu trắng và khuôn mặt chú màu vàng. Bây giờ nó nhớ rõ là sở dĩ thế giới trong mắt nó có hai màu, là vì một con mắt của nó đã bị sữa tràn vào, còn con mắt kia bị một cái sừng dê rất nhỏ đâm vào làm tụ máu vĩnh viễn. Tên nó là Uzman trở thành “Uzman mắt hoa”. Từ bầu không khí trong suốt, tiếng hót của con chim xanh dội đến như sóng nước, va đập vào cành thông làm bật ra những tia lửa xanh sáng lóa. Phải bắt lấy nó, Uzman nghĩ. Nó vẫn ngồi trên phiến đá màu da cam, khoác tấm áo lông cừu hoi nồng. Nó cảm thấy ấm áp, cảm thấy tim đập một cách lạ kỳ, nó đứng dậy, quẳng cái roi da đi, hai tay nó gạt không khí như người bơi gạt nước, nó đuổi theo tiếng hót của con chim. Tao phải bắt được mày, chim ơi. Nó nghĩ và đôi chân nó đã như vó ngựa phi lên dốc núi. Nó xuyên qua cánh rừng thông thân thuộc như anh em, tìm bắt tiếng hót đang chảy như nước khe. Phải bắt lấy nó. Nó như con báo tuyết chạy như bay giữa những tảng đá lô nhô. Tiếng hót của con chim dẫn dắt nó như thần chăn nuôi Arimuxin trên trời. Nó ́ ̀ cảm thấy có một ngọn núi lửa nhỏ đang chầm chậm phun trào nham thạch đặc sánh, hai tay nó bơi bơi trong không khí, nó cảm nhận được niềm sung sướng khi nắm bắt được sóng âm thanh của tiếng chim. Khi nhảy qua một tảng đá, nó ngã nhào, thân thể nó như một miếng bánh pho mát rơi trên thảm cỏ dày. Đúng lúc ấy, tiếng chim bỗng nhiên im bặt một cách thần bí, nó cảm thấy mệt rã rời, lồng ngực phập phồng như kéo bễ. Nó nhắm mắt, dùng tâm trí để bắt cánh chim, cơ thể đau nhừ như bị Thiên Sơn dập xuống. Sau đó mở mắt ra, như trước đây, màu sắc của thế giới lại hiện lên không thật, trong hai con mắt không cùng một màu của nó. Ánh nắng như thác nước trút xuống qua những cành thông chỗ thưa chỗ mau, dội vào người nó, đột nhiên nó cảm thấy nó như con dê tế thần. Nó lại nghe thấy tiếng chim hót sao mà nồng nàn, sao mà bay bổng, mà xao xuyến không yên. Nó bật dậy, nhưng vẫn không thấy con chim đâu. Tiếng chim lại dạt dào như sóng nước. Nó lại bắt đầu chạy nhảy trong thung lũng, trong rừng cây, giữa những mỏm đá. Gió vuốt ve khuôn mặt có bộ tóc dài bay quanh của nó, nó không ngừng chạy không ngừng nhảy. Tiếng hót của con chim xanh vẫn đang dẫn dụ nó. Có lúc nó dừng lại vì từ sau bụi cây thò ra một cái đầu với bốn con mắt hiếu kỳ và hiền lành (sau này nó mới nhận ra trên đôi mắt là cặp lông mày đen kỳ dị nửa tối nửa sáng mà nó tưởng nhầm là đôi mắt thứ hai). Đó là một con hươu, đôi mắt hiếu kỳ của nó lấp lánh hai cục lửa màu da cam. Con hươu đứng gần nó đến nỗi cả hai đều căng thẳng, lát sau con hươu chạy đi. Tiếng vó lốp cốp nhỏ dần rồi mất hẳn. Nó cảm thấy mất đi một cái gì. Bất giác nó nhận ra chỉ còn cách đỉnh núi chừng hai chục mét, nhưng tiếng chim vẫn lảnh lót phía trước, gọi nó, dẫn dắt nó. Nó tiếp tục khom người, như con mèo đi lên. Khi nó xuất hiện trên đỉnh núi, tiếng hót như sát cạnh thì bỗng nhiên nó ngây người. Một niềm phấn khích, xúc động bóp nghẹt nó. Đỉnh núi phẳng lì như không một ngọn cỏ. Đất màu nâu đỏ, hiện giữa trời một vẻ tĩnh mịch, chu vi ba chục mét, ở giữa mọc một cái cây, cành rậm rạp, lá toàn một màu xanh da trời, sáng lóng lánh. Cây cao đến lạ lùng, nó chưa thấy bao giờ. Cặp mắt kỳ quặc của nó trở lại bình thường, nó cố mở mắt thật to thật tròn. Điều lạ lùng nữa là tất cả các cành, cành to cành con đều có hình vành khuyên. Vòng nọ móc vào vòng kia, từng vòng từng vòng liên kết với nhau, kết ̀ ̀ """