"
Truyện Khoa Học Viễn Tưởng Chọn Lọc full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Khoa Học Viễn Tưởng Chọn Lọc full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRUYỆN KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG CHỌN LỌC Nhiều tác giả
VĂN HỌC KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG
- khúc tụng ca và lời cảnh báo tương lai
Trong bài kí “Con người năm một triệu” đăng tải năm 1893, văn hào Anh Herbert George Wells - một trong những nhà văn tiên phong mở đầu cho thể loại văn học khoa học viễn tưởng - đã có một quan điểm độc đáo tham gia vào những cuộc tranh luận nảy lửa thời đó về việc liệu sự tiến hóa của con người đã chấm dứt hay chưa. Wells cho rằng quá trình ấy vẫn sẽ tiếp tục. Theo luận đề này ông mô tả “Con người năm một triệu” của mình. Con người ấy khác chúng ta ngày nay ở mức độ còn nhiều hơn chúng ta khác loài khỉ bây giờ. Sự tiến hóa sẽ ảnh hưởng khác nhau tới những bộ phận khác nhau của cơ thể. Tay sẽ phát triển vì nó là “ông thầy của não bộ”. Tay sẽ mạnh hơn và uyển chuyển, linh hoạt hơn do thích ứng được những công việc tinh xảo. Ngược lại, những cơ bắp còn lại sẽ yếu đi và sẽ hầu như teo tóp. Thế nhưng đầu sẽ tăng trưởng lạ thường vì đây là nơi bao chứa não bùng nổ phát triển. Đồng thời, đầu sẽ không còn giữ những tỉ lệ như xưa nữa. Mọi nét trên mặt sẽ trở nên phẳng, hai tai, mũi, vòng cung lông mày sẽ không còn nhô ra như trước, cằm và miệng trở nên bé xíu. Hóa học sẽ đem lại cho con người những hợp chất dễ hấp thụ ở dạng hoàn hảo nhất. Cũng do thế mà nhu cầu tiêu hóa thức ăn sẽ mất đi và cơ quan tiêu hóa sẽ tiêu biến đi nơi cơ thể người, bởi lẽ con người sẽ học được cách tiếp nhận thức ăn, dinh dưỡng trực tiếp từ môi trường xung quanh. Những “nhà ăn”, “phạn điếm” năm một triệu sẽ là những bể bơi lớn được hòa tan dung dịch dinh dưỡng, và con người (cho tới thời đó dáng vẻ con người có lẽ giống như loài bạch tuộc) sẽ chỉ cần ngâm mình bơi trong đó một chốc và thế là “công chuyện ăn uống” nhiêu khê của quá khứ được thực thi chóng vánh theo lối năm một triệu. Con người sẽ tách biệt xa hơn vương quốc động vật so với ngày nay, những tình cảm nơi con người sẽ lụi tàn và gia tăng khả năng tư duy lôgíc phi cảm tính.
Kịch bản tương lai và những biến hình của thế giới tương lai có thể được tìm thấy nhiều hơn nữa trong các tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng không chỉ của H. G. Wells mà còn của nhiều nhà văn khác.
Văn học khoa học viễn tưởng đã thấp thoáng trong sáng tác của nhiều nhà văn từ thời Trung cổ và Phục Hưng, song chỉ đến thế kỉ XIX, văn học khoa học viễn tưởng mới bộc lộ rõ nét như một thể loại văn học độc lập. Có thể thấy rõ sự vận động mạnh mẽ đó trong Frankenstein của Mary Shelley, trong những tác phẩm của Edgar Allan Poe và Nathaniel Hawthorne.
Cái duy lí của phương Tây in đậm trong nét sáng tác của các nhà văn viễn tưởng. Bức màn che phủ, chia cắt hiện tại và tương lai không thể bị chọc thủng bởi sự cầu xin, lễ cúng để nom thấy hình bóng của thời gian chưa đến. Các nhà văn viễn tưởng xuất hiện, và đường nét tương lai đã được diễn tả rõ ràng.
Văn học khoa học viễn tưởng thực sự trưởng thành vào cuối thế kỉ XIX với tên tuổi của Jules Verne và H.G. Wells - hai cha đẻ của “Science Fiction” (viễn tưởng khoa học) hay “Speculative Fiction” (truyện suy đoán) thế kỉ hai mươi.
Nếu Jules Verne là nhà văn diễn tả những đột phá triển vọng tới những tầm cao mới của tri thức khoa học và những khả năng vô bờ bến của con người trong chinh phục tự nhiên, thì Herbert George Wells lại đưa trí tưởng tượng của mình tung hoành trong những chiều kích của thời gian và khảo cứu những hệ quả xã hội, tâm lí nảy sinh từ các phát minh, sáng chế của con người.
Jules Verne là bậc trưởng lão của một chi phái khoa học viễn tưởng về phát minh, đi trước thời đại tới những loại khí cụ bay trên không, bơi ngầm dưới biển và nhiều loại thiết bị tân kì khác mà chỉ hàng chục năm sau khi đọc sách người ta mới có thể nhìn thấy. Chính ông là người khơi gợi ý tưởng cho nhiều nhà khoa học. Các công trình sư chế tạo khinh khí cầu, tàu ngầm ở Mỹ, Pháp, Italia đều tỏ ý ngưỡng mộ và hàm ơn Jules Verne với tư cách người thắp sáng ý tưởng sáng chế cho họ qua những cốt truyện về tương lai.
Với H.G. Wells, những cốt truyện viễn tưởng nhằm diễn tả thế giới với đủ mọi đức tính hiện đại. Có nhà văn từng say mê Wells và tiếp nhận tiểu thuyết “Chiến tranh giữa các thế giới” như một tác phẩm văn chương lịch sử và ông ta đã so sánh cuốn này với tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tolstoi. Quả vậy, sáng tác của Wells đạt tới tầm sử thi. Ông mô tả dòng các sự kiện và số phận cô đơn
của con người trong dòng sự kiện ấy. Wells đã nhìn thấy những vấn đề xã hội loài người tương lai. Ông đã tỏ ra gay gắt hơn những người khác trong việc đánh giá quá khứ, ông lại hi vọng hơn hết thảy khi chiêm nghiệm tương lai, song ông không hề che giấu những tiên liệu đau đớn về tương lai. Trong “Cỗ máy thời gian”, ông mô tả sự thoái hóa của loài người. Những tác phẩm khác của ông cũng dự liệu nhiều tấn bi kịch trong lịch sử tương lai.
Jules Verne và H.G. Wells đã khai sinh ra văn học khoa học viễn tưởng. Thể loại văn học này đã phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Có thể nói rằng những trung tâm phát triển nhất của văn học khoa học viễn tưởng là Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Italia, Nhật Bản, bán đảo Scandinavie.
Ở Mỹ người ta thừa nhận Hugo Gernsback là cha đẻ của khoa học viễn tưởng Mỹ. Để ghi nhận công lao của ông, Hội nghị văn học khoa học viễn tưởng thế giới đã đặt giải thưởng hàng năm mang tên ông và bắt đầu trao từ năm 1953.
Sức mạnh cảm hứng viễn tưởng thực mạnh và sâu sắc qua sự cố văn chương hồi năm 1944. Các nhân viên FBI (Cục điều tra liên bang Mỹ) đến tạp chí “Astounding Science Fiction” (Khoa học viễn tưởng kì thú) do ngài John W. Campbell Jr. chủ bút, để điều tra xem nhà văn C. Cartmael có tiềm nhập vào bí mật quân sự không. Nhà văn này đã viết và cho đăng một truyện mô tả những bí mật ghê gớm nhất mà ngay cả những bộ óc khoa học siêu việt ở Los-Alamos cũng không thể biết tận ngọn ngành. Ông đã miêu tả loại vũ khí hủy diệt bằng sóng xung kích, nhiệt và bức xạ, tức là có đầy đủ những yếu tố của một vụ nổ nguyên tử. Ngài chủ bút đã phải ra sức chứng minh về sự không giới hạn của thời gian và thói quen vượt trước thời gian của các nhà văn viễn tưởng. Song cả ông ta lẫn các nhân viên điều tra đều chẳng ngờ gì việc những điều mà Cartmael viết tới kia sẽ xảy ra chỉ sau đó vài tháng. Hóa ra, Cartmael chẳng dính líu gì tới kế hoạch tuyệt mật do tiến sĩ Oppenheimer và tướng Groves chỉ huy. Trong những dự báo của mình, nhà văn chỉ sử dụng những thông báo khoa học công khai của thời trước chiến tranh mà thôi. Và ngài Campbell cũng đưa cho các thám tử xem các tác phẩm viết về chiến tranh nguyên tử của Heinlein (viết năm 1941) và của H.G. Wells (in năm 1914).
Ngày nay, độc giả trên thế giới rất say mê các tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng của Robert Sheckley, Ray Bradbury, Isaac Asimov, Ursula Le Guin v.v...
Ở Nga, những nhà văn cự phách viết viễn tưởng là A. Tolstoi, A.Beliaev đã nổi tiếng từ hồi đầu thế kỉ XX. Khi đó, A.Tolstoi đã tiên đoán ra loại vũ khí laser và những chiến cụ dùng các thứ tia khác trong cuốn “Chiếc máy Hyperboloid của kĩ sư Garin”... Còn A.Beliaev đã dự liệu được thành tựu khoa học tương lai: nuôi sống não bộ người sau khi đầu đã lìa khỏi thân để tiếp tục tranh thủ những ý tưởng khoa học trong “Đầu giáo sư Dowell”. Ông cũng lường đoán được khả năng sinh học tạo ra người cá trong nhân vật Ikhtiandr của tác phẩm “Người cá”, chàng Ikhtiandr là con người đầu tiên sống giữa loài cá và chú cá đầu tiên sống với con người. Chính A.Beliaev được coi là “Jules Verne Xô Viết”...
Kế tục họ là những nhà văn viễn tưởng nổi tiếng thế giới như A. Kazantsev, I. Efremov, A và B. Strugatski,v.v...
Những kiến giải tương lai của các nhà văn viễn tưởng bao gồm hai yếu tố: tri thức khoa học và trí tưởng tượng vô cùng phóng túng. Tư chất nhà khoa học nơi họ mạnh và sâu, tài năng văn chương nhuần nhuyễn cộng thêm linh cảm tiên tri nhạy bén đã hun đúc nên tư chất nhà văn viễn tưởng.
Không phải vô cớ mà ở Nga có hàng chục trường dạy phát minh sáng chế có sử dụng các tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng trong các khóa học. Ở các cơ quan tình báo Mỹ đều có những bộ phận chuyên trách chắt lọc và phân tích các ý tưởng khoa học và công nghệ rút ra từ các tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng khắp thế giới.
Tiểu thuyết hay truyện ngắn khoa học viễn tưởng là những tác phẩm có cốt truyện xảy ra trong tương lai hay hiện tại được thăng hoa bởi những ý tưởng, những phát minh khoa học và có sự trợ giúp của những thiết bị khoa học kì ảo, có thể có những truyện thuần túy khoa học, có nhiều tác phẩm phát triển viễn ảnh xã hội loài người liên lạc hay đụng độ với những nền văn minh khác ở ngoài vũ trụ.
Các nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng có tư duy khoa học, có lẽ nếu họ không phải là nhà văn thì sứ mạng của họ sẽ là phục vụ cho khoa học hay kĩ thuật. Trên thực tế, nhiều nhà văn từng là nhà
khoa học, hoặc sau khi viết văn đã làm khoa học rất nghiêm túc và có thành tựu như A.Asimov, một nhà khoa học danh tiếng ở Mỹ.
Ngoài tư duy khoa học sâu sắc, các nhà văn khoa học viễn tưởng còn có linh cảm của nhà tiên tri. Nhiều phát minh khoa học mang tính đột phá đã xuất hiện trên các trang tác phẩm viễn tưởng từ rất lâu trước khi các khoa học gia hay kĩ sư đi tới các phát minh này.
Nhà văn người Sec Karel Căpek (1890-1938) đã gọi những người máy trong vở kịch Khoa học viễn tưởng của mình “R.U.R = Rossumõs Universal Robots” (1921) là Robot. Ngày nay loài người đã có được thuật ngữ “Robot” nhờ sáng tạo của nhà văn Sec, không những thế, người máy trong thế giới văn chương đã trở thành hiện thực sau đó vài thập niên. Còn nhà văn Balan Stanislaw Lem đã tiên đoán rồi sẽ đến lúc loài người nhận biết được linh hồn của thế giới tưởng chừng là vô sinh như đại dương, đá, cây cối v.v...
Ngày nay, các nhà văn viễn tưởng không còn dựa vào những triển vọng gần gũi và thực tế của khoa học như một nguồn cung cấp ý tưởng cho họ như trước đây nữa. Các nhà văn tự tạo ra một nền “khoa học viễn tưởng” như nhiều nhà nghiên cứu đã gọi, ấy là thành quả của trí tưởng tượng tự do, phóng túng. Những tư tưởng khoa học ngày càng thâm nhập sâu vào viễn tưởng, các ý tưởng ấy chưa hề được tạo lập rõ ràng, minh xác, mà chỉ có những khái niệm khái quát nhất về các kết quả thực tiễn của chúng. Chẳng hạn, những quan điểm về bản chất của thời gian và không gian, về vật chất và năng lượng, về một loạt vấn đề của hóa học, sinh học, điều khiển học, tin học. Nhiều khi các nhà văn dường như bổ sung cho khoa học, đưa vào đó những khái niệm hư cấu mà có vẻ như sẽ được phát hiện ra trong tương lai. Song những khuôn khổ của tưởng tượng không phải là vô hạn. Tưởng tượng không thể trái với những quy luật căn bản của tự nhiên, vì vậy khoa học viễn tưởng khác hẳn sự suy đoán tùy tiện.
Văn học khoa học viễn tưởng cố gắng chỉ ra nhiều khía cạnh của tương lai vẫn còn đang ẩn khuất sau tấm màn thời gian. Không phải vô cớ mà các nhà tương lai học, các nhà bác học chuyên dự báo tương lai, luôn luôn theo sát các tác phẩm viễn tưởng, vì họ cho rằng nhà văn khoa học viễn tưởng có thể “mô hình hóa” tương lai.
* * *
Loài người hi vọng về một tương lai hòa bình, hạnh phúc, một tương lai không có chiến tranh, không có tội ác. Muốn vậy, người ta phải nghĩ ra một thiết bị nào đó có thể làm vô hiệu hóa các loại vũ khí bằng cách biến chúng trở thành gỉ sắt trong nháy mắt. Khi ấy, loài người sẽ có được một vũ khí hòa bình hiệu nghiệm chống lại được mọi thứ vũ khí chiến tranh. (“Chất làm gỉ”).
Xã hội tương lai bảo đảm quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo đảm an ninh cho mọi người. Khái niệm giết chóc không còn tồn tại nơi tâm thức con người nữa. Những mệnh lệnh tội ác của quá khứ, của những xã hội dã man trở nên kì quặc, không ai hiểu nổi trong thế giới an bình tương lai. Truyện “Lệnh giết người” ca ngợi một bối cảnh xã hội như vậy.
Viễn tưởng khoa học đưa con người vượt thời gian tới tương lai, song nhiều điều bất ngờ sẽ chờ đón họ. Một trong những điều bất ngờ ấy là cuộc tình với người chưa ra đời trong truyện “Mối tình ngoài thời gian”. Tấn bi kịch lãng mạn ấy xảy ra bởi sự gián đoạn hai thời đại. Sự có lí nằm trong nghịch lí, vả lại, nghịch lí cũng tiềm tàng trong sự có lí. Tình yêu ngoài thời gian, thật đau khổ và khắc khoải. Thành tựu khoa học đưa con người vào tương lai hóa ra lại gây một nỗi đau khôn nguôi cho con người. Truyện “Vật thí nghiệm” cũng lí giải một nhẽ khác tương tự, song lần này là phát minh làm thay đổi tính cách. Những cuộc đổi thay tính cách liên tục làm cho con người mệt mỏi. Quả thật khó quen được với tình huống hôm nay điềm đạm, chín chắn, ngày mai lại là người nóng tính, quân phiệt, để rồi tuần sau làm người đa cảm, âu sầu...
Hai con người làm vật thí nghiệm tưởng chừng có thể thoát được cảnh ấy, song họ đâu có hiểu được rằng thứ hóa chất tiêm vào cơ thể làm đổi tính cách ấy đã trở thành “cơ địa” mới khiến họ bị cám dỗ trở lại nơi mà họ tưởng chừng là địa ngục.
Những thành tựu của khoa học đều có hai mặt. Chiếc huy chương nào chẳng có mặt trái. Tương lai chờ đón loài người với những phát minh, thành tựu kì diệu. Song các nhà văn viễn tưởng cũng cảnh báo
con người về các mặt trái của tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Khi tiện nghi trở nên tuyệt mĩ, khi phương tiện nghe nhìn đạt thấu mức thay thế được những cuộc du lịch thực địa đầy không khí và ấn tượng, (hơn cả Internet bây giờ) thì sẽ sinh ra những hội chứng kì lạ của tâm lí như trong “Hoang mạc châu Phi”...
Máy tính, người máy sẽ tiếp tục có những bước tiến mới trong tương lai. Song nó cũng đem lại cơ hội cho những kẻ thất nhân tâm sử dụng chúng vào những mục đích xấu xa, chẳng hạn như dùng thẻ điện tử để làm nghề đạo chích (trong “Tội ác giả tưởng”). Thế giới máy tính hóa nhiều khi dễ dàng xâm phạm tới nhân phẩm, tới sinh mạng con người. Con người trở nên thừa trong thế giới được chương trình hóa triệt để và tuyệt đối. Truyện “Nếu người ta bảo rằng anh đã chết” kể về số phận khốn khổ của một con người trong thời đại như vậy chỉ vì một sai lệch rất nhỏ trong hệ thống máy tính quản lí. Con người bất lực không thể cưỡng lại sự chỉ huy và mù quáng tuân lệnh của máy móc.
Truyện “Rô-bốt” diễn tả thế hệ người máy mới có thể thay thế những công việc thường ngày nơi các văn phòng như làm thư kí. Nhiều tình huống kì lạ sẽ xảy ra khiến con người không thể ngờ tới được.
Do khuôn khổ tuyển tập này có hạn nên không thể đăng tải những truyện viễn tưởng khác đề cập đến nhiều khía cạnh xã hội tương lai khác. Song ở đây đã quy tụ được một số tên tuổi tiêu biểu của văn học khoa học viễn tưởng Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Canada, Bungary v.v... Mỗi nhà văn một đề tài, một phong cách, nhưng họ đều thống nhất ở tài năng, ở cái nhìn tỉnh táo vào tương lai. Họ đều muốn con người ngày nay hiểu rằng khi kiến thiết xã hội tương lai cần đưa con người vào tâm điểm của chăm lo hạnh phúc, hạnh phúc vật chất, và quan trọng hơn là hạnh phúc tinh thần. Thiếu quan điểm vì con người, mọi thành tựu khoa học kĩ thuật sẽ quay trở lại chống con người.
Văn học khoa học viễn tưởng đã bước sang thiên niên kỉ mới. Thế kỉ XX đã đánh dấu một chặng đường kì vĩ trong sự phát triển của nó. Hi vọng sẽ có dịp được cùng bạn đọc trở lại với thể loại văn học đầy hứng thú này.
Nguyễn Chiến
Ray Bradbury (Mỹ)
Ray Bradbury (sinh năm 1920) - Nhà văn nổi tiếng về truyện Khoa học viễn tưởng của Mỹ, tác giả của nhiều tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Đã được nhận các giải thưởng Franklin và O. Henri cho các truyện ngắn. Những tác phẩm nổi tiếng nhất là: “ Nhật kí sao hỏa ” và “ 4510 Fahrenheit ”. Truyện ngắn: “ Hoang mạc châu Phi ” rút trong cuốn “ Người trong truyện tranh ”.
Hoang mạc châu Phi
George, anh đến phòng trẻ xem này.
- Nó bị làm sao?
- Em không biết.
- Nhưng có chuyện gì chứ?
- Chẳng có gì cả, chẳng qua em muốn anh sang ngó xem, hay là mời chuyên gia tâm thần để ông ấy kiểm tra hộ.
- Có việc gì mà phải mời chuyên gia tâm thần?
- Anh biết rõ là có chuyện gì mà.
Đứng ở giữa phòng bếp, chị nhìn cái bếp tự động đang kêu ro ro chuẩn bị bữa ăn tối cho bốn người. - Anh hiểu không, cái phòng trẻ đã thay đổi, nó hoàn toàn không còn là cái phòng như trước nữa. - Thôi được, chúng ta cùng vào xem sao.
Họ cùng đi theo hành lang của ngôi nhà cách âm kiểu “Tất cả cho hạnh phúc” mà họ đã mua với giá ba mươi ngàn đô-la (với đầy đủ trang thiết bị), - ngôi nhà biết mặc quần áo cho họ, nấu nướng cho họ ăn, ru họ ngủ, hát cho họ nghe và chơi đùa với họ. Khi chỉ còn cách phòng trẻ năm bước chân, có một tiếng “tách” vang lên và đèn trong phòng bật sáng. Cả ở ngoài hành lang lúc họ đang đi cũng vậy, những bóng đèn cứ tự động lần lượt bật lên rồi tắt đi từng cái một.
- Cái gì vậy? - George nói.
Họ đang đứng trên cái sàn nhà trải chiếu cói của phòng trẻ con. Rộng một trăm bốn mươi bốn mét vuông, cao mười mét. Riêng cái phòng này giá mười lăm ngàn đôla. “Trẻ con cần được nhận tất cả những gì tốt đẹp nhất”, hồi mua ngôi nhà này George đã tuyên bố như vậy.
Im lặng. Vắng vẻ y như tại một bãi trống trong rừng giữa ngày oi nóng. Những bức tường mỏng phẳng lì. Nhưng trước mắt hai vợ chồng George và Lydia chúng bỗng kêu ro ro rất êm, bắt đầu tan ra, tựa như lùi sâu vào khoảng không trong suốt, rồi bỗng nhiên cả một vùng hoang mạc châu Phi trải ra trước mặt họ - một không gian ba chiều, đa màu sắc, giống y như thật, cho đến từng hòn sỏi và những ngọn cỏ bé nhất. Cái trần nhà trên đầu họ biến thành một bầu trời cao với một mặt trời màu vàng nóng bỏng.
George cảm thấy mồ hôi bắt đầu toát ra trên trán anh.
- Tốt nhất ta hãy tránh xa cái ánh nắng mặt trời này, - anh đề nghị, - nó quá giống mặt trời thật. Và nói chung, anh không nhìn thấy cái gì như thế, mọi cái có vẻ vẫn bình thường cả.
- Chờ một phút đi, rồi anh sẽ thấy. - Vợ anh nói.
Vừa lúc đó những cái máy phát mùi được giấu kín bắt đầu hoạt động, chúng phả một luồng mùi vào hai người đang đứng giữa hoang mạc nóng bỏng của vùng Châu Phi. Mùi ngai ngái của cỏ úa và của hồ nước gần đấy phả vào mũi họ, cộng với mùi hôi gắt của các con thú, mùi của bụi cuộn thành từng đám trong
bầu không khí bị nung nóng dưới ánh mặt trời. Rồi tiếp đến là cả âm thanh: tiếng chân xa xa của những con sơn dương đang gõ móng trên các đồi cỏ, tiếng sột soạt của những con thú dữ đang rình mồi.
Có bóng một con vật gì đó vụt qua trong bầu trời, một vệt đen lướt qua khuôn mặt đang ngửa lên nhìn của George Hadley.
- Những con vật kinh tởm. - Anh nghe thấy giọng nói của vợ.
- Đó là loài chim ăn xác thối.
- Xem kìa, những con sư tử, chúng ở đằng kia kìa! Chúng đi uống nước. Anh nhìn thấy không, chúng đang nhai cái gì ấy...
- Một con thú nào đó. - George đưa bàn tay lên che mắt cho khỏi chói. - Một con sơn dương hay con hươu cao cổ...
- Anh chắc không? - Giọng vợ anh nghe lạc hẳn đi.
- Lúc này thì khó mà chắc được, vì quá muộn rồi. - Anh đáp với giọng đùa cợt. - Anh chỉ nhìn thấy những mẩu xương và những con diều hâu đang rỉa chỗ thịt thừa.
- Anh có nghe thấy tiếng kêu không? - Chị hỏi.
- Không.
- Cách đây chừng một phút ấy?
- Không. Anh không nghe thấy gì cả.
Những con sư tử từ từ tiến lại gần. Và George Hadley - không biết lần thứ bao nhiêu - trầm trồ thán phục thiên tài của nhà thiết kế đã sáng tạo ra căn phòng này. Một công trình hoàn thiện đến mức kì diệu, mà giá lại rẻ đến mức không ngờ. Giá như gia đình nào cũng có căn buồng như thế này! Tất nhiên, đôi khi những căn buồng như thế này làm người ta chán vì cái sự chính xác như đơn thuốc của nó, thậm chí chúng còn gây ra những cảm xúc khó chịu hoặc làm người ta sợ, nhưng phải nói, nhìn chung, chúng là nguồn tạo niềm vui không chỉ cho con trai, con gái bạn, mà còn cho cả chính bạn, mỗi lúc bạn muốn thư giãn bằng một cuộc du lịch ngắn đến một xứ sở khác để thay đổi không khí... Chẳng hạn như lúc này!
Và đây, những con sư tử giống hệt như thật chỉ cách bạn có năm mét - phải, chúng giống thật đến mức đáng sợ, đến mức phát điên, đến nỗi bạn cảm thấy cái bộ lông bằng chất dẻo tổng hợp của chúng chạm vào da bạn, còn cái mùi của bộ da bị hun nóng của chúng khiến miệng bạn có mùi vị của một tấm vải đầy bụi, cái màu vàng của chúng phản chiếu trong mắt họ màu vàng của tấm thảm treo tường Pháp... Màu vàng của bộ lông con sư tử và của đám cỏ úa, tiếng thở ầm ầm của sư tử trong cái giờ buổi trưa thanh vắng, mùi thịt tươi bốc ra từ cái miệng há hốc và ẩm ướt vì nước bọt.
Những con sử tử dừng lại, đưa cặp mắt màu xanh vàng đáng sợ nhìn George và Lydia. - Cẩn thận đấy! - Lydia kêu lên.
Những con sử tử chồm về phía họ. Lydia cắm đầu chạy về phía cửa. George sợ hãi bất giác chạy theo chị. Lúc này họ đã ở ngoài hành lang, cửa đã đóng. Anh thì cười to, còn chị thì khóc, rồi bỗng nhiên người này thấy ngạc nhiên trước phản ứng của người kia.
- George!
- Lydia! Ôi, Lydia thân mến, Lydia đáng thương của anh!
- Suýt nữa thì chúng vồ được chúng ta!
- Chẳng qua đó là do những bức tường phát quang mà thôi, Lydia! Chả lẽ em quên rồi sao? Tất nhiên anh thừa nhận là chúng trông rất thật - một Châu Phi trong căn buồng! Nhưng tất cả chỉ là một cuốn phim màu nổi có hiệu quả siêu cao và có ghi âm tâm lí, được chiếu lên một màn ảnh thủy tinh, sau đó lại còn có những thiết bị phát mùi và âm thanh nổi nữa. Đây, cầm lấy cái khăn tay của anh.
- Em sợ lắm. - Chị tiến lại gần anh thút thít khóc và dựa cả người vào người anh. - Anh có nhìn thấy không? Anh có cảm thấy không? Tất cả đều quá giống thật.
- Nghe đây, Lydia...
- Anh hãy bảo Vendi và Peter để chúng đừng có đọc sách về Châu Phi nữa.
- Tất nhiên... tất nhiên. - Anh khẽ vuốt ve mái tóc chị.
- Anh hứa nhé?
- Tất nhiên rồi.
- Và vài ngày tới anh phải đích thân theo dõi cái phòng trẻ này, cho đến khi em hoàn toàn trấn tĩnh lại.
- Em biết đấy, với thằng Peter khó lắm. Cách đây một tháng anh đã trừng phạt nó bằng cách khóa trái nó trong buồng vài tiếng đồng hồ - rồi đã xảy ra chuyện gì! Cả con Vendi cũng vậy. Cái phòng trẻ đối với chúng là tất cả.
- Phải khóa trái cái phòng lại, không có nuông chiều gì hết.
- Thôi được. - Anh miễn cưỡng khóa cánh cửa nặng của căn phòng. - Em mệt quá rồi, em phải đi nghỉ đi.
- Em cũng không biết nữa... - Chị lau nước mắt, ngồi vào chiếc ghế bành, chiếc ghế lập tức tự động lắc lư nhẹ. - Có thể, tại em có quá ít việc phải làm. Có thể, vì có quá nhiều thời gian để nghĩ ngợi. Tại sao chúng mình không khóa trái toàn bộ ngôi nhà trong vài ngày và đi đến một nơi nào đó nhỉ?
- Em muốn nói là em sẵn sàng rán trứng cho anh?
- Vâng. - Chị gật đầu.
- Và mạng tất cho anh?
- Vâng. - Chị lại gật đầu lia lịa, mắt đầm đìa nước mắt.
- Rồi tự tay dọn dẹp nhà cửa?
- Vâng, vâng... tất nhiên rồi.
- Còn anh thì cứ nghĩ rằng chúng ta mua ngôi nhà này chỉ cốt để không phải tự tay làm việc gì.
- Đúng thế. Nhưng trong ngôi nhà này em hầu như không còn ý nghĩa gì nữa. Vì ngôi nhà này vừa là người vợ, người mẹ, và người hầu. Lẽ nào em có thể đua tranh với cái hoang mạc Châu Phi? Lẽ nào em có thể tắm rửa cho các con nhanh và sạch bằng cái máy tắm tự động? Em không thể. Và vấn đề không phải chỉ ở mình em. Cả anh cũng thế. Thời gian gần đây em thấy anh căng thẳng một cách đáng sợ.
- Có lẽ vì anh hút thuốc quá nhiều.
- Anh có cái vẻ như người không biết chui trốn vào đâu trong ngôi nhà này. Từ sáng sớm anh đã hút thuốc nhiều hơn mọi khi một chút, buổi tối anh cũng uống rượu nhiều hơn trước một chút, còn ban đêm anh phải uống hai viên thuốc ngủ, thay vì một viên như trước đây. Anh cũng bắt đầu cảm thấy anh là người thừa trong ngôi nhà này.
- Anh ấy à?... - Anh im lặng để cố thử nhìn lại mình từ con mắt người khác.
- Ồ, George! - Chị nhìn qua mặt anh về phía cửa phòng trẻ. - Những con sư tử kia... Chúng không thể từ đó đi ra ngoài được phải không?
Anh cũng nhìn theo chị - vừa lúc đó cánh cửa rung mạnh như bị một cú đập từ phía trong. - Tất nhiên là không. - Anh đáp.
Họ ăn tối một mình. Vendi và Peter đi dự hội vũ trang nổi ở cuối thành phố và báo về qua điện thoại
truyền hình rằng chúng sẽ về muộn, và không cần phải đợi chúng. George buồn rầu nhìn chiếc bàn tự động đang đẩy từ cái hốc bằng thép ra những món ăn nóng hổi.
- Mi quên món xúp cá hồi rồi. - Anh nói.
- Xin lỗi. - Một giọng nói thanh thanh từ trong bàn vang lên, và món xúp cá hồi được đẩy ra.
“Phòng trẻ... - George Hadley nghĩ. - Kể ra, mấy đứa trẻ sống vài ngày không có nó cũng chẳng hại gì. Cái gì cũng cần có mức độ. Mà chúng thì rõ ràng đã mê mẩn Châu Phi quá mức mất rồi!”. Cái mặt trời này... Đến bây giờ anh vẫn còn cảm thấy những tia nắng của nó trên cánh tay. Cả những con sư tử nữa! Rồi lại cái mùi máu nữa. Thật kì lạ là cái phòng trẻ nắm bắt được chính xác đến thế cái xạ khí thần giao cách cảm của tâm lí trẻ con và thực hiện bất cứ ý muốn nào của chúng. Chỉ cần chúng nghĩ đến những con sư tử là có ngay sư tử. Chỉ cần nghĩ đến ngựa vằn là có ngay ngựa vằn. Rồi mặt trời. Rồi những con hươu cao cổ. Rồi cái chết.
Chính thế. Anh máy móc nhai thức ăn do cái bàn nấu. Những ý nghĩ về cái chết. Vendi và Peter còn quá trẻ để nghĩ đến điều ấy. Nhưng chả lẽ vấn đề là ở tuổi trẻ? Từ rất lâu trước khi người ta hiểu được thế nào là cái chết người ta đã mong muốn cho ai đó phải chết.
Vào năm hai tuổi người ta đã bắn vào người khác bằng những cái súng giả...
Nhưng đằng này... Cái hoang mạc vùng Nam Phi nóng bỏng... Cái chết khủng khiếp trong móng vuốt của sư tử... Chết rồi lại chết...
- Anh đi đâu đấy?
Anh không đáp. Đang mải mê với những suy nghĩ của mình anh cứ đi về phía cửa phòng trẻ, bỏ lại một làn sóng ánh sáng. Từ đâu đó vẳng lại tiếng gầm của sư tử.
Anh mở khóa và đẩy toang cửa, đúng lúc đó một tiếng kêu từ xa vọng đến tai anh. Lại có tiếng gầm gừ của sư tử... im lặng.
Anh đã bước vào Châu Phi. Trong một năm vừa qua biết bao lần sau khi mở cửa anh đã gặp Alitsơ ở thế giới kì diệu, hay con Rùa Vũ Trụ, hay Alađanh và cây đèn thần, hay Giêk đầu quả bí ở xứ Ôzi hay bác sĩ Dulit, hay con bò cái nhảy qua mặt trăng, rất giống như thật, - tất cả những nhân vật của thế giới tưởng tượng. Biết bao lần anh đã nhìn thấy con chim Pegas bay trên bầu trời, hay những đài phun nước hoa hồng, hay nghe thấy tiếng hát của các thiên thần. Còn bây giờ trước mắt anh là một Châu Phi màu vàng nóng bỏng, một cái lò lửa khổng lồ, thở mùi chết chóc. Có thể Lydia đúng. Có thể đúng là cần chia tay một thời gian với cái thế giới hoang đường này, nếu như nó quá giống thật đối với những đứa trẻ mười tuổi. Tất nhiên rèn luyện óc tưởng tượng cho trẻ con là rất có lợi, nhưng nếu trí tưởng tượng bồng bột của con trẻ tập trung quá nhiều vào một điều nào đó? Hình như suốt tháng vừa qua anh chỉ nghe thấy tiếng sư tử gầm, thậm chí ngồi trong phòng làm việc anh vẫn cảm thấy mùi hôi của những con thú, nhưng vì mải công việc nên anh không để ý tới.
George đứng cô đơn giữa hoang mạc Châu Phi. Những con sư tử rời khỏi bữa ăn của chúng đưa mắt nhìn anh. Nếu không có cái cửa mở mà qua đó anh nhìn thấy vợ anh đang bối rối đáng thương đứng ở cuối hành lang tối như một bức tranh trong khung ảnh, thì hoàn toàn có thể tưởng đó là những con thú thật.
- Đi đi. - Anh bảo lũ sư tử.
Chúng không nghe lời.
Anh biết rõ thiết kế của căn buồng. Chỉ cần phát ra mệnh lệnh trong đầu là lập tức nó được thực hiện ngay.
- Hãy cho xuất hiện Alađanh và cây đèn thần. - Anh ra lệnh.
Vẫn chỉ có sa mạc và những con sư tử ấy.
- Nào căn buồng, hãy thực hiện mệnh lệnh đi! Tôi cần Alađanh.
Không một phản ứng nào. Những con sư tử vẫn nhai xương rau ráu.
- Alađanh!
Anh quay về phòng ăn.
- Căn buồng chó chết, - anh nói, - bị hỏng rồi. Nó không nghe lệnh nữa.
- Hay là...
- Hay là cái gì?
- Hay nó không thể nghe lời. - Lydia đáp. - Đã mấy ngày nay bọn trẻ toàn nghĩ đến châu Phi, sư tử và giết người, nên làm cho căn buồng bị kẹt vào chỉ một kênh thôi.
- Cũng có thể.
- Hay thằng Peter bắt nó phải kẹt vào đấy?
- Bắt kẹt ấy à?
- Nó mở máy ra và nhét cái gì vào đấy.
- Thằng Peter không nắm được kết cấu của căn buồng.
- Với một đứa trẻ mười tuổi nó hoàn toàn không ngu đâu. Chỉ số thông minh của nó... - Dù sao...
- Chào mẹ! Chào bố!
Hai vợ chồng quay lại. Vendi và Peter đã bước vào phòng khách: đôi má chúng là kẹo bạc hà, mắt là những viên bi màu xanh ngọc, từ những bộ quần áo bốc ra mùi ôzôn mà chúng bơi trong đó lúc bay trên trực thăng.
- Các con về vừa đúng lúc ăn tối. - Hai bố mẹ cùng nói một lúc.
- Chúng con đã ăn xúc xích và kem dâu rồi. - Mấy đứa trẻ vung tay đáp. - Nhưng chúng con sẽ ngồi cùng với bố mẹ.
- Đây đây, đi lại đây, các con hãy kể về cái phòng trẻ đi. - George gọi chúng.
Hai anh em ngạc nhiên nhìn bố, rồi quay sang nhìn nhau.
- Phòng trẻ ấy ạ?
- Hay kể về Châu Phi và những chuyện khác. - Bố chúng nói tiếp, cố làm vẻ thật thà. - Con không hiểu. - Peter nói.
- Bố và mẹ vừa làm một chuyến du lịch ở Châu Phi. Tom Swift và sư tử điện. - George cười khẩy. - Không có Châu Phi nào trong phòng trẻ cả. - Peter cãi lại với giọng vô tội.
- Thôi đi, Peter, bố mẹ biết cả rồi.
- Con không nghĩ về châu Phi, - Peter quay sang Vendi - còn em?
- Em cũng thế.
- Thôi nào, em hãy chạy đi kiểm tra đi rồi nói cho bố mẹ biết.
Cô bé vâng lời anh.
- Venđi, quay lại! - George kêu to, nhưng cô bé đã chạy đi.
Ánh sáng tiễn chân cô, tựa như một đàn đom đóm. George đã quá muộn khi nghĩ ra rằng anh quên khóa cửa phòng trẻ.
- Vendi sẽ đến đó xem rồi sẽ kể cho chúng ta. - Peter nói.
- Việc gì phải kể, khi chính bố đã nhìn thấy?
- Con tin là bố đã nhầm.
- Bố không nhầm. Nào, ta cùng đi vậy.
Cả mấy người cùng đi dọc theo hành lang rồi mở cửa phòng trẻ.
Một khu rừng xanh kì diệu, một dòng sông kì diệu, một dãy núi màu tím, một giọng hát du dương, ngồi vắt vẻo trên cây là một nàng tiên cá đẹp mê hồn và bí ẩn, trên mái tóc dài buông xõa của nàng có những con bướm nhiều màu sắc đang đậu. Không hề có hoang mạc châu Phi và sư tử. Chỉ có nàng tiên cá đang cất tiếng hát mê hồn khiến người ta bất giác phải chảy nước mắt.
George chăm chú ngắm nghía bức tranh mới.
- Các con đi ngủ đi. - Anh bảo mấy đứa trẻ.
Chúng há hốc mồm.
- Các con nghe thấy không?
Chúng chui vào khoang từ tính rồi bay đi như những chiếc lá khô, về phòng ngủ của chúng.
George đi qua khoảng trống đầy nắng và nhặt được cái gì ở góc phòng, gần nơi lũ sư tử đứng ban nãy. Sau đó anh chậm rãi quay về chỗ vợ.
- Tay anh có cái gì đấy? - Chị hỏi.
- Cái ví cũ của anh. - Anh đáp và chìa cái ví cho vợ xem.
Từ cái ví bốc lên mùi cỏ khô và mùi sư tử. Trên ví còn có cả những vết nước bọt, vết răng và cả hai mặt đều có vết máu.
Anh đóng cửa phòng trẻ lại rồi khóa thật kĩ. Đến nửa đêm George vẫn chưa ngủ, và anh biết vợ anh cũng không ngủ.
- Anh nghĩ là con Vendi đã bật máy chuyển kênh? - Cuối cùng có tiếng vợ anh hỏi trong bóng tối. - Tất nhiên.
- Nó đã biến khu hoang mạc thành rừng và gọi nàng tiên cá vào thế chỗ con sư tử? - Phải.
- Nhưng để làm gì?
- Anh không biết. Chừng nào anh chưa điều tra được thì căn phòng sẽ bị khóa.
- Cái ví của anh làm sao lại rơi vào đấy được nhỉ?
- Anh không biết, - anh đáp, - anh không biết gì cả. Anh chỉ có thể nói một điều: anh đã bắt đầu thấy ân hận khi mua cho bọn trẻ căn phòng này. Chưa có căn phòng bọn trẻ đã căng thẳng thần kinh rồi. Bây giờ lại thêm căn phòng này nữa.
- Nhưng căn phòng này chính là để cho bọn trẻ bớt căng thẳng thần kinh.
- Ôi, giá được như vậy... - Anh ngước nhìn lên trần nhà.
- Chúng ta đã cho bọn trẻ tất cả những gì chúng yêu cầu. Và để đáp lại chúng ta nhận được sự không
nghe lời, và thiếu tự tin.
- Ai đã nói thế này: “Trẻ con - đó là tấm thảm, đôi khi phải giẫm lên nó”?... Chưa lần nào chúng ta giơ tay đánh chúng. Nói thật, chúng bắt đầu làm anh không chịu nổi. Chúng muốn đi lúc nào thì đi, về lúc nào thì về, chúng cư xử với anh và em như chúng ta là con cái của chúng. Chúng ta làm hại chúng, và chúng làm hư chúng ta.
- Chúng bắt đầu trở nên độc ác, - anh nhớ không, khoảng hai, ba tháng trước đây, - đúng từ lúc anh cấm chúng bay bằng hỏa tiễn đến New York.
- Anh đã giải thích cho chúng hiểu là chúng còn quá bé để làm một cuộc du lịch như vậy. - Anh đã giải thích, còn em thì nhìn thấy, kể từ hôm đó chúng bắt đầu đối xử tệ hơn với chúng ta.
- Anh sẽ làm thế này: ngày mai anh sẽ mời ông David Maklin tới và đề nghị ông ta xem cái châu Phi này.
- Nhưng có còn châu Phi đâu, bây giờ ở đó là vịnh và nàng tiên cá.
- Anh nghĩ rằng đến lúc đó sẽ lại là châu Phi...
Một lát sau họ nghe thấy những tiếng kêu. Một... hai... Phía dưới có hai người kêu. Sau đó là tiếng gầm gừ của sư tử.
- Vendi và Peter không ngủ. - Vợ anh bảo.
- Phải. - Anh đáp. - Chúng đã lẻn vào được phòng trẻ rồi.
- Những tiếng kêu này... chúng làm em nhớ lại một chuyện.
- Thật không?
- Phải, em sợ lắm.
Và mặc dù những cái giường đã cố hết sức, nhưng cả tiếng đồng hồ sau đó chúng vẫn không thể nào ru ngủ được vợ chồng George. Trong không khí ban đêm phảng phất mùi những con mèo.
- Bố. - Peter nói.
- Cái gì?
Peter ngắm những mũi giày của mình. Từ lâu cậu đã tránh không nhìn vào mắt bố, cũng như không nhìn vào mắt mẹ.
- Bố định khóa vĩnh viễn cái phòng trẻ à?
- Điều đó còn phụ thuộc vào...
- Phụ thuộc vào cái gì ạ?... Peter xẵng giọng hỏi.
- Vào con và em gái con. Nếu các con không quá mê mẩn với cái sa mạc châu Phi, nếu các con chuyển sang các cảnh khác... Chẳng hạn như Thụy Điển, hay Đan Mạch, hay Trung Quốc...
- Con nghĩ là chúng con có quyền chơi cái gì mà chúng con thích.
- Tất nhiên, nhưng phải trong giới hạn hợp lí.
- Nhưng Châu Phi có gì xấu hả bố?
- Vậy là cuối cùng con đã thú nhận rằng con đã gọi cảnh Châu Phi!
- Con không muốn bố khóa cửa phòng trẻ. - Peter nói. - Không bao giờ.
- Vậy thì bố xin báo với con, nói chung bố mẹ đang dự tính rời khỏi căn nhà này độ một tháng. Chúng
ta sẽ thử sống theo nguyên tắc vàng: “Mỗi người tự mình làm mọi việc”.
- Kinh khủng! Nghĩa là con sẽ phải tự buộc dây giày lấy, không được sử dụng máy buộc dây giày? Con phải tự đánh răng, rửa mặt, tự mặc quần áo?
- Thế con không cảm thấy cuộc sống như vậy sẽ đa dạng và thú vị hơn sao?
- Thật là ghê tởm! Con hoàn toàn chẳng thích bố cất cái máy họa sĩ tự động đi.
- Nhưng bố muốn con học vẽ lấy, con trai của bố ạ.
- Để làm gì ạ? Được xem, được nghe, được ngửi, thế là đủ rồi. Tất cả những công việc khác chẳng có ý nghĩa gì cả.
- Thôi được, con cứ vào và chơi với châu Phi đi.
- Nhưng bố đã quyết định tắt toàn bộ ngôi nhà đi kia mà?
- Chúng ta đã nghĩ đến chuyện đó.
- Con khuyên bố hãy suy nghĩ thêm một lần nữa.
- Thôi nào, con trai, đừng có mà dọa bố!
- Tuyệt lắm. - Nói rồi Peter đi vào phòng trẻ.
* * *
- Tôi đến không muộn chứ? - David hỏi.
- Anh ăn sáng với chúng tôi nhé. - George đề nghị.
- Cám ơn, tôi ăn rồi. Nào, có chuyện gì nào?
- David, anh có hiểu biết về tâm lí con người không?
- Cũng đôi chút.
- Vậy phiền anh kiểm tra giùm tôi cái phòng trẻ. Cách đây một năm, anh đã có lần vào đấy - lúc đó anh có nhận thấy cái gì đặc biệt không?
- Hình như không. Những biểu hiện thông thường của tính hiếu chiến, thỉnh thoảng lại có biểu hiện tính phản kháng vốn có của những đứa trẻ, cho rằng chúng luôn bị bố mẹ theo dõi. Nhưng quả thật hoàn toàn không có gì nghiêm trọng cả.
Hai người bước ra ngoài hành lang.
- Tôi đã khóa trái phòng trẻ lại rồi, - người bố của gia đình nói, - nhưng ban đêm bọn trẻ vẫn lẻn vào được. Tôi không muốn can thiệp, cốt để anh có thể quan sát những mưu mẹo của chúng.
Từ phòng trẻ vọng ra những tiếng kêu thất thanh.
- Đấy, đấy. - George nói. - Tôi muốn biết xem anh sẽ nói gì?
Hai người bước vào không gõ cửa.
Những tiếng kêu đã im bặt, những con sư tử đang nhai cái gì đó.
- Thôi nào, các con, hãy ra ngoài vườn chơi đi. - George ra lệnh. - Đừng, đừng, đừng thay đổi cái gì cả, cứ để mấy bức tường nguyên như thế. Đi đi!
Khi chỉ còn lại một mình, hai người đàn ông bắt đầu chăm chú quan sát những con sư tử đang tụm lại ở một góc xa, nhai ngấu nghiến con mồi của chúng...
- Tôi muốn biết đó là cái gì? - George nói. - Đôi lúc tôi có cảm tưởng như mình đang nhìn thấy... Hay
là tôi mang cái ống nhòm loại mạnh đến đây nhé?
David nhếch mép cười mỉa mai.
- Không ích gì đâu. - Ông bắt đầu quan sát lần lượt cả bốn bức tường. - Chuyện này kéo dài đã lâu chưa?
- Hơn tháng nay rồi.
- Phải, cảm giác không lấy gì làm thú vị lắm.
- Tôi cần các sự kiện, chứ không phải cảm xúc.
- Anh George thân mến ơi, hãy tìm cho tôi một chuyên gia tâm thần học, người có thể dựa vào dù chỉ một hiện tượng thôi. Người đó sẽ nghe thấy cái mà người ta thông báo cho anh ta biết về những cảm xúc, có nghĩa là một cái gì đó hết sức mơ hồ. Vì vậy tôi nhắc lại: chuyện này gây ra một ấn tượng nặng nề. Hãy tin ở bản năng và linh cảm của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy trước khi nào tai họa sắp đến gần. Ở đây có ẩn chứa chuyện gì rất tồi tệ. Tôi khuyên anh nên tắt cái phòng chết tiệt này ít nhất là một năm, và hàng ngày đưa mấy đứa trẻ đến nhà tôi để kiểm tra.
- Chả lẽ nghiêm trọng đến mức đó sao?
- Tôi sợ là như vậy. Thoạt đầu những phòng trẻ như thế này được nghĩ ra chính là để cho các bác sĩ chúng tôi không cần khảo sát, mà chỉ qua các hình tượng nảy sinh ở đứa trẻ, có thể nghiên cứu tâm lí và giáo dục chúng. Nhưng trong trường hợp này, cái phòng trẻ thay vì làm nhiệm vụ tránh cho đứa trẻ khỏi những thiên hướng phá phách, lại đi phát triển những thiên hướng ấy.
- Anh đã biết trước chuyện này rồi à?
- Tôi chỉ biết một điều là anh nuông chiều mấy đứa con anh hơn những ông bố khác. Và bây giờ anh bắt đầu xiết lại. Cái gì đã xảy ra?
- Tôi đã không cho chúng đi New York.
- Còn gì nữa?
- Tôi đã cho mang đi mấy cái máy tự động, và cách đây một tháng tôi có dọa sẽ khóa cửa phòng trẻ lại nếu chúng không chịu làm bài. Quả thật tôi đã khóa nó mấy ngày, để chúng biết là tôi không nói đùa.
- Thế đấy.
- Điều đó có giải thích cho anh được điều gì không?
- Tất cả. Anh đã thay công việc giáng sinh bằng một con ngoáo ộp. Trẻ con thích làm những công việc giáng sinh. Đứa trẻ không thể sống thiếu tình cảm quyến luyến. Anh và vợ anh đã để cho cái phòng này, căn nhà này chiếm chỗ của anh chị trong trái tim bọn trẻ. Phòng trẻ trở thành bố và mẹ của chúng, thành một cái gì đối với chúng còn quan trọng hơn nhiều so với anh chị. Bây giờ anh lại muốn khóa trái nó lại. Không có gì ngạc nhiên là anh làm bùng lên sự căm thù của chúng. Đấy - thậm chí bầu trời cũng tỏa ra ánh sáng đó. Cả mặt trời nữa. George, anh phải thay đổi cách sống. Cũng như nhiều gia đình khác - quá nhiều là đằng khác - anh chị đã coi tiện nghi là điều chủ yếu. Nếu ngày mai cái bếp tự động bị trục trặc gì, anh chị sẽ chết đói. Anh chị thậm chí không biết tự mình đánh trứng. Nhưng dù sao tôi vẫn khuyên anh chị: hãy tắt tất cả các máy móc đó đi! Hãy bắt đầu cuộc sống mới. Muốn thế cần có thời gian. Không sao, trong vòng một năm anh chị có thể biến những đứa trẻ hư thành những đứa trẻ ngoan. Rồi anh sẽ thấy.
- Làm như vậy liệu có là một đòn quá mạnh giáng vào bọn trẻ không - đùng một cái khóa vĩnh viễn phòng trẻ lại?
- Tôi không muốn để tình trạng này đi quá xa, anh hiểu không?
Những con sư tử đã ăn xong bữa tiệc máu của chúng. Chúng ra đứng ở bìa rừng, nhìn chằm chằm vào hai người đàn ông.
- Bây giờ tôi thậm chí cảm thấy mình cũng đang bị theo dõi. - David nói. - Ta đi ra thôi. Những cái phòng khốn kiếp này chưa bao giờ khiến tôi thấy thích thú. Chúng làm thần kinh tôi căng thẳng.
- Và những con sư tử trông hoàn toan giống thật, đúng không? - George hỏi. - Anh không cho rằng có khả năng...
- Khả năng gì?
- ... khả năng là chúng có thể trở thành những con sư tử thật?
- Theo tôi là không.
- Ví dụ xảy ra một sai sót nào đó trong kết cấu, một sự thay đổi nào đó trong hệ thống, hay một sự cố nào đó?
- Không, sao anh có thể nghĩ như vậy được?
Hai người tiến ra phía cửa.
- Tôi có cảm tưởng hình như cái phòng này không muốn bị người ta khóa. - George nói. - Không ai muốn chết cả, thậm chí căn phòng cũng vậy.
- Không biết nó có căm thù tôi vì quyết định này không?
- Mọi cái ở đây đều thấm đẫm tính hiếu chiến, - David nói, - đến mức có thể sờ mó được. Này! - Ông cúi xuống và nhặt lên cái khăn len đầy máu. - Của anh đấy à?
- Không. - Mặt George bỗng tái nhợt. - Đó là khăn của Lydia.
Hai người cùng đi lại bảng điều khiển và xoay núm điều khiển để tiêu diệt cái phòng trẻ. * * *
Những đứa trẻ như bị lên cơn điên. Chúng la hét, giậm chân, ném tung các đồ vật trong nhà. Chúng gào lên, khóc nức nở, chửi rủa, chạy như điên khắp phòng.
- Bố không có quyền làm như thế với phòng trẻ! Bố không có quyền!
- Hãy thôi ngay đi!
Chúng chạy bổ về chiếc đivăng, mặt đẫm nước mắt.
- George. - Lydia nói. - Hãy bật cái phòng trẻ lên vài phút nữa. Không nên đùng một cái tắt ngay như thế.
- Không!
- Như vậy quá tàn nhẫn.
- Lydia, căn phòng đó bị tắt và sẽ bị tắt mãi mãi. Và nói chung đã đến lúc phải đoạn tuyệt với ngôi nhà chết tiệt này. Càng nhìn tất cả những cảnh tượng quỷ quái này bao nhiêu anh càng thấy ghê tởm bấy nhiêu. Chúng ta đã được thưởng thức cái rốn cơ khí điện tử này quá lâu rồi. Thề có Chúa, ta phải thay đổi hoàn cảnh này đi.
Rồi anh đi hết phòng này sang phòng khác, tắt hết những cái đồng hồ biết nói, những tấm lò sưởi, bếp lò, những cái máy đánh giày, máy rửa bát, máy giặt và tất cả những máy móc tự động khác mà anh gặp.
Có cảm tưởng như ngôi nhà tràn ngập những xác chết, còn những chủ nhân của nó thì đang đứng trong một nghĩa địa các máy móc. Im lặng. Đã tắt đi tiếng vo vo của những chiếc máy năng lượng đặt ngầm trong nhà mà chỉ cần ấn một cái là sẵn sàng hoạt động.
- Đừng cho họ làm như vậy! - Peter gào lên, ngửa mặt lên trần nhà như muốn nói với ngôi nhà, với phòng trẻ. - Đừng để cho bố tôi giết chết tất cả! - Cậu bé quay sang bố. - Con căm thù bố biết chừng
nào!
- Con nói những lời lẽ xúc phạm như thế chẳng ăn thua gì đâu.
- Bố chết đi còn hơn!
- Chúng ta là những người đã chết từ lâu rồi! Bây giờ chúng ta bắt đầu sống thực sự. Chúng ta đã quen là đối tượng để cho các máy móc chăm sóc, từ giờ chúng ta sẽ tự mình sống!
Vendi vẫn tiếp tục khóc. Peter tiến đến cạnh cô bé.
- Nào, cho một lát nữa thôi, một phút thôi! Chỉ một phút thôi! - Cả hai đứa cùng gào lên. - George, - vợ anh bảo, - như thế cũng không hại gì cho chúng đâu.
- Thôi được, thôi được, đừng có hét lên nữa. Chỉ một phút thôi đấy, sau đó bố sẽ tắt tất cả. - Bố, bố, bố! - Mấy đứa trẻ reo cười qua nước mắt.
- Và sau đó là nghỉ hè. Nửa tiếng nữa bác David sẽ quay lại. Bác ấy sẽ giúp chúng ta thu dọn, rồi đưa chúng ta ra sân bay. Bố đi mặc quần áo đây. Lydia, em hãy mở phòng trẻ một phút thôi, em nghe rõ chưa, đúng một phút thôi.
Mấy đứa bé cùng vui vẻ ba hoa với mẹ, vội vã đi vào phòng trẻ, còn George, theo cái thang không khí bay lên trên nhà mặc quần áo. Một phút sau Lydia xuất hiện.
- Em sẽ rất sung sướng nếu chúng ta rời bỏ ngôi nhà này. - Chị thở dài.
- Em để chúng lại một mình trong phòng trẻ à?
- Em cũng phải đi mặc quần áo. Ôi, cái châu Phi khủng khiếp. Không biết chúng thấy gì ở đấy kia chứ?...
- Không sao, năm phút nữa chúng ta sẽ đang trên đường tới Iowa. Cái thế lực nào đã đẩy chúng ta vào ngôi nhà này vậy?... Cái gì đã xúi giục chúng ta mua cơn ác mộng này?
- Tính háo danh, tiền bạc và sự ngu xuẩn.
- Thôi, có lẽ ta nên xuống dưới nhà trong khi bọn trẻ chưa quá say mê với cái cảnh tượng khủng khiếp ấy.
Đúng lúc đó họ nghe thấy giọng nói của bọn trẻ.
- Bố ơi, mẹ ơi, xuống đây nhanh lên!
Họ theo thang không khí bay xuống và chạy nhanh theo hành lang. Không tìm thấy bọn trẻ ở đâu cả. - Vendi, Peter!
Hai người chạy bổ vào phòng trẻ. Trong sa mạc hoang vắng không một bóng người, nếu không kể những con sư tử đang nhìn họ.
- Peter, Vendi!
Cánh cửa đóng sập lại.
George và Lydia chạy vội về phía cửa.
- Mở cửa ra! - Georgy giật giật tay nắm cửa kêu to. - Tại sao con lại khóa nó vào? Peter! - Anh lấy nắm đấm đấm đấm vào cánh cửa. - Mở ra!
Sau cánh cửa nghe thấy giọng nói của Peter:
- Đừng cho họ tắt phòng trẻ và cả ngôi nhà này.
Hai vợ chồng George đập mạnh vào cửa.
- Các con làm trò ngu ngốc gì thế này! Đã đến giờ chúng ta phải đi rồi. Bác David đến bây giờ... Đúng lúc họ nghe thấy...
Những con sư tử đang rình mò trong những đám cỏ vàng úa, tiếng lao xao của cỏ khô dưới chân chúng, tiếng nuốt nước bọt của chúng.
Những con sư tử.
George nhìn vợ, sau đó họ cùng quay lại nhìn những con thú đang chậm rãi trườn mình sát mặt đất từ từ tiến lại phía họ.
Hai vợ chồng George hét lên.
Bỗng họ hiểu ra tại sao những tiếng kêu họ vừa nghe ban nãy lại thấy quen thuộc như thế. * * *
- Tôi đến đây. - David đứng ở ngưỡng cửa phòng trẻ nói. - Ô, xin chào!
Anh ngạc nhiên nhìn Peter và Vendi, còn hai cô cậu đang ngồi giữa bãi cỏ trống trong rừng, nhai những chiếc bánh kẹp thịt, cạnh đó là cái hồ nước, còn trên đầu chúng là mặt trời nóng bỏng. Trán anh toát mồ hôi.
- Thế bố mẹ các cháu đâu?
Hai đứa trẻ quay sang nhìn anh cười.
- Họ sắp đến bây giờ.
- Tốt lắm, đã đến lúc chúng ta phải đi rồi.
Ông David nhận thấy ở đằng xa những con sư tử - lúc đầu chúng đánh nhau như để tranh giành cái gì, sau đó nguôi đi và nằm xuống bóng râm với miếng mồi của mình.
Giơ lòng bàn tay lên che nắng, anh quan sát kĩ hơn.
Một bóng đen gì đó lữt qua khuôn mặt nóng bừng của David. Sau đó có nhiều bóng đen nữa. Từ bầu trời chói chang nắng những con chim ăn xác thối sà xuống.
- Bác uống một tách trà nhé? - Trong cảnh im lặng vang lên giọng nói của Vendi. Thái Hà dịch
Chất làm gỉ
Ngồi xuống đi, anh bạn trẻ, - viên đại tá nói.
- Cám ơn đại tá, - người vừa bước vào nói.
- Tôi có nghe một số chuyện về anh, - đại tá nói với giọng thân tình, - thực ra, không có gì đặc biệt lắm. Nghe nói anh bị căng thẳng thần kinh và làm việc gì cũng không thành. Tôi đã nghe được chuyện này từ cách đây vài tháng và bây giờ quyết định mời anh đến để nói chuyện. Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện thuyên chuyển anh đi nơi khác, không biết anh có muốn hay không. Có thể, anh muốn sang bên kia đại dương và phục vụ trong một quân đoàn nào đó thật xa chăng? Làm việc ở văn phòng có lẽ anh đã thấy chán? Có thể anh muốn ra mặt trận?
- Có lẽ không? - Viên trung sĩ trẻ đáp.
- Vậy thì, thực sự anh muốn gì?
Anh trung sĩ nhún vai, đưa mắt nhìn hai bàn tay mình.
- Tôi muốn sống không có chiến tranh. Tôi muốn biết làm cách nào đó để trong một đêm những cỗ đại bác trên toàn thế giới biến thành sắt gỉ, những vi khuẩn trong ruột các quả bom trở thành vô hại, những chiếc xe tăng bỗng đổ rụi, chui qua mặt đường nhựa, và giống như những con quái vật thời tiền sử, chúng nằm im trong các hố có lấp đầy nhựa đường. Đó, mơ ước của tôi là như vậy đó.
- Đó là mơ ước tự nhiên của mỗi người trong chúng ta, - Đại tá nói. - Nhưng lúc này hãy dẹp những câu chuyện lí tưởng này sang một bên, và hãy nói cho chúng tôi biết, chúng tôi phải gửi anh đi đâu. Anh có thể lựa chọn hoặc là quân đoàn phía tây, hoặc là quân đoàn phía bắc. - Ông gõ gõ ngón tay lên tấm bản đồ đang trải trên bàn.
Viên trung sĩ vẫn tiếp tục nói, giơ hai bàn tay lên và ngắm nhìn những ngón tay:
- Các vị chỉ huy các ông sẽ làm gì, những người lính chúng tôi sẽ làm gì, cả thế giới sẽ làm gì nếu như sáng mai khi thức dậy, bao nhiêu khẩu đại bác đều trở nên vô dụng?
Đến lúc này thì đại tá mới hiểu rằng cần thận trọng khi nói chuyện với anh chàng trung sĩ này. Ông bình tĩnh mỉm cười.
- Đó là vấn đề rất thú vị. Tôi thích tranh luận về những học thuyết như vậy. Theo tôi, khi đó sẽ xảy ra một sự hoang mang thực sự. Dân tộc nào cũng tưởng rằng trên cả thế giới chỉ có mình mình là không còn vũ khí, và sẽ kết tội các kẻ thù của nó về điều bất hạnh ấy. Sẽ diễn ra các cuộc tự sát tập thể, các cổ phiếu lập tức sụt giá, bao nhiêu bi kịch sẽ xảy ra.
- Và sau đó? - Trung sĩ hỏi. - Sau đó, khi mọi người hiểu ra đó là sự thật, rằng không một ai có thứ vũ khí nào nữa, rằng không cần phải sợ ai nữa, rằng tất cả chúng ta đều bình đẳng và có thể bắt đầu cuộc sống mới... Khi đó điều gì sẽ xảy ra?
- Lúc đó mọi người lại bắt đầu lao vào chạy đua vũ trang thật nhanh.
- Nhưng nếu có thể ngăn cản họ làm việc ấy?
- Thì họ sẽ quay sang đánh nhau bằng chân tay. Tại các biên giới sẽ tập trung từng đám đông, ai nấy đều đeo găng đấm bốc với lõi bằng thép; nếu tháo đi của họ đôi găng, họ sẽ quay sang dùng móng tay, dùng chân, dùng răng. Nếu lại cấm họ cả những thứ đó thì họ sẽ nhổ nước bọt vào mặt nhau. Còn nếu đi cắt lưỡi và khóa mồm họ lại, họ sẽ làm cho bầu không khí tràn ngập sự căm thù đến nỗi những con chim phải rơi từ những cột dây điện thoại xuống mà chết, bao nhiêu ruồi muỗi đều rơi lả tả xuống đất.
- Nghĩa là, đại tá cho rằng, nói chung việc đó chẳng có ý nghĩa gì cả? - Trung sĩ hỏi. - Tất nhiên! Vì điều đó chẳng khác nào việc moi con rùa ra khỏi cái mai của nó. Nền văn minh sẽ tắt
thở và chết vì bị sốc!
Chàng trung sĩ trẻ lắc đầu.
- Chẳng qua đại tá muốn tự thuyết phục mình và thuyết phục cả tôi, vì công việc của các vị ở đây quá yên ổn và thuận tiện.
- Thậm chí cứ cho rằng điều đó chín mươi phần trăm là đê tiện và chỉ có mười phần trăm là tỉnh táo. Anh hãy dẹp ý tưởng về chất làm hoen gỉ và quên ngay nó đi.
Trung sĩ ngẩng phắt đầu dậy.
- Làm sao đại tá biết tôi có cái ý tưởng ấy?
- Anh có ý tưởng gì?
- Thì cái học thuyết về chất hoen gỉ ấy!
- Anh đang nói về cái gì vậy?
- Đại tá biết rằng tôi có thể làm chuyện đó. Nếu như muốn, tôi có thể bắt đầu ngay từ hôm nay. Đại tá cười phá.
- Tôi nghĩ là trung sĩ nói đùa phải không?
- Không, tôi nói hoàn toàn nghiêm túc đấy. Đã lâu tôi muốn nói chuyện với đại tá. Tôi rất mừng khi chính đại tá đã cho gọi tôi đến! Tôi nghiên cứu cái phát minh này đã lâu. Tôi đã mơ ước về nó từ nhiều năm nay. Phát minh này dựa trên cơ sở cấu trúc của các nguyên tử xác định. Nếu như đại tá nghiên cứu chúng, đại tá hẳn biết rằng các nguyên tử của loại thép vũ khí được sắp đặt theo một trật tự nhất định. Tôi đi tìm một nhân tố nào đó có khả năng phá hủy sự cân bằng của chúng. Có lẽ đại tá biết là tôi nghiên cứu vật lí và luyện kim... Trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ là trong khí quyển bao giờ cũng có chất gây ra sự hoen gỉ: đó là hơi nước. Cần tìm ra phương pháp nào đó để gây ra ở thép một hiệu ứng “sốc thần kinh”. Khi đó hơi nước sẽ tự làm công việc của nó. Tất nhiên, tôi muốn nói đến không phải bất cứ đồ vật bằng thép nào. Nền văn minh của chúng ta dựa trên sắt thép, và đa số các sản phẩm thép tôi không muốn phá hủy. Tôi chỉ muốn vô hiệu hóa các cỗ đại bác, các loại súng, đạn, xe tăng, máy bay chiến đấu, tàu chiến... Nếu cần, tôi có thể bắt thiết bị của tôi tác động lên cả đồng, nhôm. Chỉ cần đi ngang qua bất kì loại vũ khí nào là tôi có thể bắt nó tan vụn ra thành bụi ngay.
Đại tá cúi thấp người và ngó nhìn trung sĩ một lúc. Sau đó ông rút trong túi ra chiếc bút máy làm bằng vỏ đạn và bắt đầu viết vào tờ phiếu.
- Tôi muốn sau bữa trưa nay anh đến gặp bác sĩ Matthew để ông ta khám cho anh. Tôi không muốn nói là anh bị ốm nặng, nhưng tôi cảm thấy anh cần có sự giúp đỡ của bác sĩ.
- Đại tá hẳn nghĩ rằng tôi đánh lừa đại tá, - trung sĩ nói. - Không, tôi nói thật đấy. Các thiết bị của tôi nhỏ đến nỗi có thể nhét vừa trong bao diêm. Tầm hoạt động của nó là chín trăm dặm. Tôi có thể điều chỉnh nó cho bất cứ loại thép nào và trong vài ngày đi khắp châu Mĩ. Những quốc gia khác không thể sử dụng thiết bị này, vì tôi sẽ hủy diệt ngay bất cứ phương tiện kĩ thuật nào chống lại chúng ta. Sau đó tôi sẽ sang châu Âu. Trong vòng một tháng tôi sẽ làm cho cả thế giới tránh được thảm họa chiến tranh. Tôi không biết chính xác làm cách nào tôi đã thành công với phát minh này. Thật không tin nổi. Tựa như người ta đã từng không tin có bom nguyên tử. Cả tháng nay tôi chờ đợi và suy nghĩ. Tôi còn nghĩ đến cả chuyện điều gì sẽ xảy ra khi người ta moi con rùa ra khỏi cái mai của nó, như hình ảnh đại tá vừa nêu. Còn bây giờ tôi đã quyết định rồi. Cuộc nói chuyện hôm nay với đại tá đã giúp tôi làm sáng tỏ tất cả những gì tôi cần. Ngày xưa không ai hình dung được những chiếc máy bay, không ai nghĩ rằng nguyên tử có thể trở thành thứ vũ khí hủy diệt, và nhiều người nghi ngờ rằng đến lúc nào đó hòa bình sẽ được khôi phục trên trái đất này. Nhưng hòa bình sẽ được tái lập, tôi cam đoan với đại tá như vậy.
- Anh hãy đưa cái phiếu này cho bác sĩ Matthew, - đại tá nói nhấn mạnh từng chữ. Viên trung sĩ đứng dậy.
- Nghĩa là, đại tá không chuyển tôi đến quân đoàn khác?
- Không, tạm thời thì chưa. Hãy để bác sĩ Matthew quyết định.
- Tôi đã quyết định rồi, - viên trung sĩ trẻ nói. - Mấy phút nữa tôi sẽ rời doanh trại. Tôi đang nghỉ phép. Cám ơn đại tá đã dành cho tôi nhiều thời gian quý báu như vậy.
- Trung sĩ này, anh đừng để tâm đến chuyện hôm nay. Anh không cần phải đi. Sẽ không có ai làm anh giận đâu.
- Đúng thế, vì không có ai tin tôi cả. Tạm biệt đại tá. - Trung sĩ mở cửa văn phòng và bước ra.
Cánh cửa đóng lại, chỉ còn lại một mình đại tá. Chừng một phút đại tá đứng trong tâm trạng do dự. Sau đó ông thở dài đưa bàn tay lau mặt.
Có tiếng chuông điện thoại reo. Đại tá lơ đãng cầm ống nghe. - À, ông đấy à, bác sĩ? Tôi muốn trao đổi với ông. Phải, tôi đã gửi anh ấy đến chỗ ông. Ông hãy kiểm tra xem anh ta bị làm sao, vì sao anh ta lại có biểu hiện như vậy. Ông nghĩ thế nào, hả bác sĩ? Có lẽ anh ta cần được nghỉ ngơi đôi chút, anh ta có những ảo tưởng thật kì quặc. Phải, phải, không thú vị chút nào. Theo tôi, mười sáu năm chiến tranh đã tác động đến anh ta.
Giọng trong điện thoại trả lời ông. Đại tá nghe và gật gật đầu.
- Chờ một phút, để tôi ghi lại... - Ông tìm cái bút máy của mình. - Xin ông cứ giữ máy chờ tôi nhé. Tôi đang tìm cái này...
Ông sờ các túi áo.
- Chiếc bút vừa ở đây mà. Khoan đã...
Ông đặt tạm ống nói sang một bên, nhìn khắp mặt bàn, rồi xem trong ngăn kéo. Sau đó ông đứng chết lặng. Ông từ từ thò tay vào trong túi và lần tìm trong đó. Hai ngón tay ông lôi ra một dúm bột gì đó. Một ít chất vụn gỉ màu đỏ vàng rơi lả tả xuống tờ giấy thấm.
Đại tá ngồi im lặng nhìn trân trân phía trước một lúc.
Sau đó ông cầm lấy máy điện thoại.
- Matthew, - ông nói. - Anh hãy đặt máy điện thoại xuống. Ông nghe thấy tiếng “cạch” và bắt đầu quay số khác. - Alô, lính gác đâu? Có một người mà chắc anh cũng biết, tên là Hollis, bất cứ lúc nào cũng có thể đi qua chỗ anh. Hãy giữ anh ta lại. Nếu cần, hãy bắn anh ta. Không phải hỏi han gì cả, hãy giết cái thằng vô lại ấy đi, hiểu chưa? Đại tá đây. Phải, hãy giết hắn ta... anh nghe rõ không?
- Nhưng... xin lỗi... - Từ đầu dây bên kia có giọng kinh ngạc phản đối. - Tôi không thể...! - Anh muốn nói gì vậy, quỷ tha ma bắt anh đi! Tại sao lại không thể?
- Tại vì... - Giọng nói đứt quãng. Trong ống điện thoại nghe rõ tiếng thở hổn hển của người lính gác. Đại tá lắc mạnh ống điện thoại.
- Chú ý! Hãy cầm lấy súng!
- Tôi không thể bắn được, - người gác đáp.
Đại tá ngồi phịch xuống ghế, nhăn mặt và thở gấp chừng nửa phút.
Ông không nhìn thấy và không nghe thấy gì, nhưng ông biết rằng ở đó, phía sau những bức tường này, những chiếc hăngga, những khẩu súng đang biến thành vụn sắt gỉ màu vàng, những chiếc máy bay thì tan vụn ra thành đám bụi màu xám bị gió cuốn đi bay lả tả, những chiếc xe tăng từ từ chìm vào lớp nhựa đường nóng chảy, như những con quái vật thời tiền sử một thời bị rơi vào những cái hố nhựa đường, đúng như lời viên trung sĩ trẻ nói lúc nãy. Những chiếc xe tải biến thành những đám mây màu da cam, chỉ còn lại những chiếc lốp cao su lăn đi một cách vô định trên mặt đường.
- Thưa ngài... - Viên lính gác nhìn thấy tất cả cảnh tượng đó nói. - Tôi thề với ngài...
- Nghe đây! Hãy nghe tôi nói đây! - Đại tá hét to. - Hãy đi theo hắn, trói tay hắn lại, bóp cổ cho hắn chết, đấm vào mặt hắn, lấy chân đá vào hắn, đánh hắn cho đến chết, nhưng anh phải giữ được hắn lại! Tôi sẽ đến chỗ anh ngay bây giờ! - Nói rồi ông quẳng ống nghe xuống. Theo thói quen, ông kéo chiếc ngăn kéo cuối cùng ra để lấy súng lục. Cái bao da màu nâu đầy vụn sắt gỉ. Ông văng tục một câu và nhảy tránh xa cái bàn.
Trong lúc chạy qua văn phòng ông vớ được một cái ghế tựa. “Bằng gỗ, - ông chợt nghĩ. - Một loại gỗ lim rất chắc. Ông đập cái ghế vào tường hai lần làm nó long ra. Sau đó ông cầm lấy một cái chân ghế, nắm chặt trong tay. Mặt ông tím lại vì tức giận, mồm há rộng để hớp không khí. Để thử, ông cầm chân ghế đập mạnh một cái vào tay mình.
- Được đấy, mẹ kiếp! - Ông hét to.
Vừa gào lên như điên, ông vừa chạy ra ngoài và đóng sập cửa lại.
Thái Hà dịch
Sấm rền
Tấm bảng hiệu trên tường dường như chao đảo, rung rinh. Mi mắt giần giật, Eckels nhìn chòng chọc vào hàng chữ:
dịch vụ săn thú ngược thời gian
tổ chức cho bạn những chuyến săn
vào bất kỳ năm nào trong quá khứ
săn bất kỳ loại thú nào bạn muốn
Một cục đờm nghẽn lại nơi cuống họng Eckels; anh cố nuốt cho nó trôi xuống. Những cơ bắp quanh miệng anh căng ra thành một nụ cười khi anh chậm chạp đưa tay lên ra hiệu với người đàn ông đang ngồi sau quầy; trong bàn tay Eckels là tấm chi phiếu mười ngàn đôla.
- Dịch vụ có bảo đảm là sau chuyến săn tôi sẽ trở về hiện tại an toàn chứ?
- Chúng tôi không bảo đảm gì hết, ngoại trừ những con khủng long. - Gã nhân viên trả lời Eckels rồi giới thiệu anh với người bên cạnh. - Ông ta sẽ cho anh biết phải bắn cái gì và bắn vào đâu. Nếu ông ấy bảo không bắn là tuyệt đối không bắn. Trong trường hợp anh không tuân theo sự hướng dẫn thì anh phải chịu thêm khoản tiền phạt mười nghìn đôla nữa khi anh trở về, có khả năng còn bị truy tố trước pháp luật là khác.
Eckels đưa mắt về cuối cái văn phòng rộng mênh mông này nhìn vào một khối chằng chịt nào là dây điện ngoằn ngoèo, nào là những hộp thép lỉnh kỉnh, lại thêm một vầng sáng từ đó tỏa ra lập lòe lúc đỏ, lúc bạc, lúc xanh. Cũng từ mớ bòng bong ấy vẳng đến tai anh một âm thanh giống như tiếng một bếp lửa khổng lồ thiêu cháy mọi thời đại, mọi tháng năm, mọi niên lịch, bao nhiêu giờ khắc tự thiên thu đều được chồng chất và châm lửa đốt sạch.
Chỉ cần một cái chạm tay thì ngay lập tức cả khối lửa mênh mông ấy sẽ tự nó đảo ngược một cách tuyệt diệu. Những tháng năm xa xưa, những tháng năm tươi trẻ vụt hiện ra những con rồng thần thoại hồi sinh từ tro tàn, từ than bụi; hương hoa hồng sẽ đượm ngát không gian, mái tóc bạc sẽ đổi màu đen bóng, những nếp nhăn tan biến; tất cả đều trở về ngay từ nguồn cội, trốn thoát cái chết, lao vọt lại khởi thủy, những mặt trời sẽ mọc trên những bầu trời phương tây và lặn xuống bên phía những trời đông lộng lẫy, mọi vật bao bọc lấy nhau lớp lớp, trùng trùng, cùng quay về với cái chết tươi nguyên, cái chết cội nguồn, cái chết xanh non, cùng quay về thời đại chưa hề có khởi đầu.
- Thật phi thường, Bộ Máy Thời Gian chính hiệu! - Eckels thốt lên, ánh sáng từ Bộ Máy hắt vào khuôn mặt gầy gò của anh. Anh lắc đầu bảo: - Nghĩ mà xem, nếu cuộc bầu cử hôm qua mà có chiều hướng tai hại thì hôm nay mình có lẽ đã chạy trốn những kết quả bầu cử ngay trong lúc này. May mà Keith đã đắc cử. Ông ta sẽ là một vị tổng thống anh minh của đất nước Hoa Kỳ.
- Đúng vậy, thật may mắn cho chúng ta. - Người ngồi sau quầy tán thành. - Tay Deutsher đó mà nắm quyền thì chúng ta sẽ lãnh đủ một ách độc tài kinh khủng nhất. Tay đó là một kẻ chống đối tất cả mọi thứ trên đời, một tên quân phiệt, chống Ki-Tô, chống nhân bản, chống trí thức. Nói thật chứ không đùa đâu nghe, thiên hạ đã tới tấp gọi điện thoại cho hãng chúng tôi; họ bảo rằng Deustcher mà trở thành tổng thống thì họ chỉ có nước quay ngược về năm 1492 mà sống. Tất nhiên, dịch vụ chúng tôi đâu có tổ chức cho khách hàng những cuộc Đào Tẩu Hiện Tại, mà chỉ tổ chức những Chuyến Săn Quá Khứ thôi. Dù sao thì Keith đã đắc cử tổng thống rồi. Điều đáng cho anh bận tâm lúc này chính là...
- Bắn hạ những con khủng long của tôi. - Eckels tiếp lời gã.
- Một con khủng long loại Tyrannosaurus; một loại quái vật khó tin nhất lịch sử. Hãy ký vào biên nhận này đi. Chúng tôi không chịu trách nhiệm bất cứ chuyện gì xảy ra cho anh. Mấy con khủng long ấy háu đói lắm.
Eckels đỏ bừng mặt tức tối:
- Định dọa tôi đấy hả?
- Thực tình là thế. Chúng tôi không thích bất kỳ du khách nào hoảng hốt ngay phát súng đầu tiên. Năm ngoái, sáu hướng dẫn viên và cả tá du khách bị chết đó. Nhiệm vụ của chúng tôi là tạo cho khách những cảm giác mạnh rùng rợn nhất mà một thợ săn chính cống luôn cần đến. Đưa anh ngược dòng sáu mươi triệu năm để săn loài thú to lớn nhất của mọi Thời Đại mà. Tấm chi phiếu của anh vẫn còn đó. Xé nó đi, nếu sợ.
Eckels nhìn tấm chi phiếu. Mấy ngón tay anh co quắp lại. Người ngồi sau bàn giấy lên tiếng: - Chúc may mắn. Ông Travis đây sẽ tận tình phục vụ anh.
Cầm súng lên, Eckels theo Travis bước về cuối phòng, về Bộ Máy Thời Gian, về khối kim loại ngời ánh bạc và những ngọn đèn lấp lánh.
* * *
Ngày rồi đêm, ngày rồi đêm và ngày-đêm-ngày-đêm vùn vụt lướt đi. Một tuần, một tháng, một năm, một thập niên! 2055, 2019, 1999, 1957! Qua mau! Bộ Máy Thời Gian gầm thét.
Họ đội mũ bảo vệ có hệ thống dưỡng khí vào và kiểm tra các bộ phận nội đàm.
Eckels ngồi lắc lư trên ghế đệm, mặt nhợt nhạt, hàm tê cứng. Nhận thấy hai cánh tay mình run bần bật, anh nhìn xuống và bắt gặp hai bàn tay anh đang siết chặt khẩu súng trường. Trong bộ máy này, ngoài anh và Travis ra còn có thêm ba người nữa. Lesperance, phụ tá của Travis, cùng hai vị khách đi săn tên là Billings và Kramer. Tất cả ngồi nhìn nhau trong khi bao tháng năm bốc cháy chung quanh họ.
- Những khẩu súng này có thể bắn gục được khủng long không? - Eckels lên tiếng hỏi.
- Nếu như anh bắn trúng đích. - Tiếng Travis trả lời qua hệ thống radio trong mũ.- Hai phát súng đầu tiên anh phải bắn vào mắt cho nó mù đi, sau đó nhắm bắn ngay bộ não. Một số khủng long có hai bộ não, một trên đầu và một nằm tít dưới cột sống. Gặp mấy con khủng long loại đó kể như xui tận mạng. Tránh xa chúng thì hơn.
Máy Thời Gian gào rú. Thời Gian là một cuốn phim quay ngược. Những mặt trời cuống cuồng bỏ trốn và hàng triệu mặt trăng cũng bỏ chạy theo. Mọi tay thợ săn xưa nay chắc là sẽ ganh tị với chúng ta lắm, Eckels nghĩ thầm. Bộ máy này làm cho những xứ sở và thời điểm xa xôi thu ngắn trong tầm tay.
Bộ máy chậm lại, tiếng rú của nó giảm dần thành một tiếng rì rầm khe khẽ. Bộ máy ngừng hẳn. Mặt trời đứng sững giữa mây xanh. Đám sương mù che phủ bộ máy tan biến đi và nhóm người thấy mình đang đứng giữa một thời đại xa xưa, xa xưa lắm. Travis bảo:
- Lúc này đây, Đấng Ki-tô vẫn chưa ra đời. Thánh Moses vẫn chưa lên non gặp Đức Chúa Trời. Các Kim Tự Tháp vẫn còn là những khối đá chôn sâu trong đất, chưa được đục lìa, chưa được dựng lên. Xin hãy nhớ điều đó. Ngay cả Alexander Đại Đế, cả Caesar, cả Napoleon, cả Hitler, những kẻ ấy không một người nào tồn tại cả.
Eckels gật đầu. Travis vừa vung tay chỉ trỏ, vừa nói tiếp:
- Kia là rừng già của sáu mươi triệu hai nghìn không trăm năm mươi lăm năm trước thời Tổng Thống Keith.
Gã chỉ vào một lối đi bằng kim loại đâm thẳng vào sâu trong chốn hoang vu xanh tươi, băng qua đầm lầy ngập nước, len giữa những hàng dương xỉ và cọ dừa.
- Còn đấy là Con Đường, do dịch vụ chúng tôi lắp đặt cho du khách sử dụng. Nó nổi bềnh bồng cách mặt đất một thước rưỡi. Không chạm tới một phiến cỏ, một đóa hoa hay một cành cây, nó được làm bằng một thứ kim loại kháng trọng lực nhằm giữ cho quý vị khỏi động chạm đến thế giới của quá khứ này bằng bất kỳ cách nào. Luôn luôn đi theo Con Đường. Đừng bước trệch ra ngoài. Tôi lặp lại. Đừng bước trệch
ra ngoài. Vì bất kỳ lí do nào! Nếu như quý ông rơi khỏi con đường này, các ông sẽ phải nộp tiền phạt đấy. Và không được bắn bất kỳ con thú nào chúng tôi không đồng ý.
- Tại sao vậy? - Eckels hỏi.
Họ ngồi giữa miền hoang dã cổ xưa. Tiếng chim xa xa theo gió vọng về cùng với mùi hắc ín, mùi biển mặn, hương cỏ ướt, và những bông hoa màu huyết dụ.
- Chúng tôi không muốn thay đổi Tương Lai. Chúng tôi và các ông đâu có thuộc về xứ sở này, về Quá Khứ này. Chính phủ cũng không thích chúng tôi đi ngược về đây. Chúng tôi đã phải trả những món tiền kếch xù hối lộ chính phủ để cho dịch vụ chúng tôi được quyền hoạt động. Du hành ngược thời gian là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Nếu chúng ta vô tình làm chết một con thú quan trọng, một con chim nhỏ, một con gián, hay thậm chí chỉ đóa hoa thôi, thì điều đó rất có thể sẽ hủy diệt cả một mối liên kết quan trọng trong quá trình phát triển giống loài.
- Tôi chưa hiểu rõ lắm. - Eckels nói.
- Thế này nhé, giả sử ở nơi đây chúng ta ngẫu nhiên làm chết một con chuột. Như vậy tức là toàn thể những gia đình tương lai của con chuột đó cũng bị tiêu diệt, đúng chưa?
- Đúng.
- Và toàn thể những gia đình của những gia đình của con chuột duy nhất đó nữa! Chỉ cần một cái giẫm chân, anh đầu tiên hủy diệt một con, rồi đến một tá, rồi cả ngàn, cả triệu, cả tỉ con chuột sẽ không thể ra đời trong tương lai!
- Coi như chúng chết cả, - Eckels nói. - Thế thì sao?
- Thì sao ư? - Travis đáp với vẻ khinh bỉ lạnh lùng. - Hừ, thế thì những con cáo cần đến thịt của những con chuột đó để sống sẽ ra sao? Vì thiếu một con sư tử mà tất cả côn trùng, kền kền, cùng hằng hà sa số những dạng sinh vật khác bị dồn vào trạng thái hỗn loạn và bị tận diệt. Tất cả những điều đó rốt cuộc sẽ đưa đến hiểm họa này: Năm mươi triệu năm sau, một người nguyên thủy - toàn thế giới này chỉ có chừng một tá người nguyên thủy - sẽ đi săn một con lợn rừng hay một con báo răng kiếm làm thức ăn. Nhưng chính anh, Eckels, đã giẫm chết sạch lợn hay báo ở vùng đó; chỉ vì đã giẫm chết một con chuột duy nhất. Thế là người nguyên thủy ấy chết đói. Và xin anh nhớ cho, người nguyên thủy ấy là cội nguồn cho cả một quốc gia tương lai đấy. Từ hắn sẽ cho ra đời mười người con trai, rồi mười con trai của hắn sẽ cho ra đời trăm người con trai khác, cứ thế mà hình thành cả một nền văn minh. Hủy diệt một con người nguyên thủy là anh hủy diệt cả một chủng tộc, một quốc gia, một lịch sử trọn vẹn của cuộc sống. Một cái giẫm chân của anh lên một con chuột có thể gây nên một trận động đất, những tác động của nó có thể làm lay chuyển cả trái đất và những số phận suốt dòng Thời Gian. Với cái chết của một người nguyên thủy, cả tỉ con người khác chưa sinh ra đã bị bóp chết ngay trong trứng. Có lẽ thành La Mã sẽ không bao giờ vươn cao trên bảy ngọn đồi. Có lẽ Âu Châu sẽ mãi mãi là rừng rậm âm u, và chỉ có mỗi Á Châu là sinh sôi, phát triển. Giẫm lên một con chuột là anh để lại dấu chân mình xuyên suốt vĩnh hằng. Có thể Nữ hoàng Elizabeth sẽ không bao giờ chào đời. Washington sẽ không bao giờ vượt sông Delaware, quốc gia Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tồn tại. Cho nên phải cẩn thận. Luôn luôn đi trên con đường. Không bao giờ được bước trệch ra!
- Tôi hiểu rồi. Như thế thì chỉ chạm vào một phiến cỏ thôi cũng có thể gây ra một dây chuyền tác động đến tương lai?
- Hoàn toàn đúng. Nghiền nát một loài thực vật nào đó cũng có thể gây ra một chuỗi tác động ghê gớm gấp bội phần sau tám mươi triệu năm nữa, không sao lường trước. Tất nhiên, giả thuyết của chúng tôi có thể là sai lầm. Có thể nói là Thời Gian không thể nào bị đổi thay vì những con người vô nghĩa như chúng ta. Hoặc giả Thời Gian sẽ thay đổi một cách hết sức tinh tế khó nhận ra. Một con chuột chết ở đây biết đâu lại chẳng gây ra một sự mất cân đối của số lượng côn trùng ở nơi khác, một sự phân bố dân số không điều hòa về sau, một sự thất thu kế tiếp, rồi đến một cuộc khủng hoảng kinh tế, một cuộc chết đói hàng loạt, và cuối cùng là một sự thay đổi về bản chất xã hội tại các quốc gia khổng lồ. Sự thay đổi có thể sẽ tinh tế như vậy đấy. Hay còn hơn nữa. Có lẽ chỉ là một hơi thở nhẹ, một tiếng thì thầm, một sợi tóc,
một hạt phấn hoa giữa trời, những thay đổi tinh vi đến mức nếu anh không chú tâm quan sát thì sẽ không thấy được. Ai biết được ngày mai? Thật sự có kẻ nào dám nói mình biết không? Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ ước đoán. Nhưng chừng nào ta còn chưa biết chắc chắn rằng việc chúng ta xen vào Quá Khứ có khả năng gây ra một biến động lớn hay chỉ là một xê xích cỏn con trong lịch sử thì ta vẫn phải thận trọng. Bộ Máy Thời Gian này, Con đường này, y phục du hành của anh, tất cả đều được khử trùng để khỏi làm ô nhiễm bầu khí quyển tiền sử bằng những vi khuẩn hiện đại của chúng ta.
- Thế làm sao tôi biết được mình nên bắn con thú nào?
- Chúng đã được đánh dấu bằng sơn đỏ. - Travis đáp. - Hôm nay, trước chuyến đi này, chúng tôi đã gọi Lesperance dùng Máy Thời Gian trở về từ Quá Khứ. Anh ta trước đó đã đến vùng này theo dõi những con thú đặc trưng.
- Nghiên cứu chúng ư?
- Đúng, - Lesperance lên tiếng, - tôi dò theo dấu chúng suốt toàn bộ lịch sử, lưu ý xem con nào sống lâu nhất, truyền giống đựơc bao nhiêu lần... Cuộc sống của chúng cũng ngắn ngủi lắm. Khi tôi tìm ra một con sẽ chết vì bị cây đè hay vì rơi xuống đầm lầy, tôi liền ghi nhận chính xác giờ, phút, giây nó chết và bắn vào chúng những quả bom sơn. Quả bom sẽ để lại một vệt đỏ bên sườn chúng; ta không nhầm được đâu. Sau đó tôi hoạch định giờ giấc ta sẽ đến nơi trong thời điểm nào sao cho chúng ta sẽ gặp con thú đó không sớm hơn hai phút trước khi nó chết vì những lý do trên. Đằng nào nó cũng chết thôi, vì thế chúng ta chỉ giết đi một con thú không tương lai, một con thú không bao giờ truyền giống được nữa. Anh thấy chúng tôi có thận trọng không nào?
Eckels háo hức hỏi:
- Nhưng nếu anh xuôi dòng Thời Gian trở về Hiện Tại vào sáng hôm nay thì chắc chắn anh phải thấy trước đoàn săn của chúng ta. Cuộc săn này kết quả thế nào? Có thành công không? Tất cả chúng ta có... sống sót sau cuộc săn không?
Travis và Lespeance liếc mắt nhìn nhau.
- Có một nghịch lí ở đây, - Lesperance đáp, - Thời Gian không cho phép một người gặp gỡ chính hắn; tức là, hắn ta không thể nào biết trước diễn tiến hay kết quả của một ý đồ sắp thực hiện cho dù hắn có thể bỏ qua Hiện Tại để đi về Tương Lai mà thăm dò, tìm kiếm. Trong những trường hợp như thế thì Thời Gian tránh sang một bên. Ngay trước khi chúng ta dừng lại, anh có cảm thấy Bộ Máy Thời Gian giật nảy lên một cái không? Đó là lúc chúng ta, những kẻ đi ngược về Quá Khứ, đang lướt ngang qua chính bản thân mình trên đường quay lại Tương lai. Chúng tôi không thấy gì hết. Không có cách nào biết trước chuyến săn này có thành công hay không, ta có hạ được con quái vật tiền sử hay không, hoặc là tất cả chúng ta - tức cả anh nữa đấy, Eckels - có trở về an toàn, sống sót hay không.
Eckels cố gắng gượng một nụ cười héo hắt.
- Dẹp chuyện đó đi. - Travis nóng nảy cắt ngang. - Tất cả đứng lên.
Họ chuẩn bị rời khỏi Bộ Máy Thời Gian.
Rừng già cao vút, rừng già mênh mông, rừng già là toàn bộ thế giới này vĩnh viễn. Ngập trời là những âm thanh du dương như tiếng nhạc chen lẫn tiếng đập cánh phần phật của những con bò sát biết bay, những con dơi khổng lồ vừa thoát khỏi cơn rồ cuồng nộ của đêm. Giữ thăng bằng trên Con Đường chật hẹp, Eckels giương súng nhắm tứ phía với vẻ bỡn cợt. Travis quát:
- Thôi đi! Nhắm chơi cũng không được đâu đấy, nghe chưa? Nếu như súng anh vô ý cướp cò thì... Eckels đỏ mặt.
- Thế thì những con khủng long Tyrannosaurus đâu?
- Thẳng ngay trước mặt. - Lesperance vừa kiểm tra đồng hồ vừa nói. - Sáu mươi giây nữa là chúng ta sẽ cắt ngang đường đi của nó. Hãy tìm dấu sơn đỏ! Chờ chúng tôi ra hiệu mới được nổ súng. Luôn luôn
đi trên Con Đường. Đi trên Con Đường!
Họ tiến bước trong cơn gió sớm. Eckels lẩm bẩm một mình;
- Thật kì lạ. Thẳng ngay trước mặt, sáu mươi triệu năm, Ngày Bầu Cử đã qua, Keith đã trở thành tổng thống, mọi người đang ăn mừng. Còn chúng mình ở đây, lạc loài bên vực thẳm thời gian, không có bất cứ kẻ nào tồn tại. Những điều ta lo lắng suốt bao tháng năm, suốt cả cuộc đời, ngay lúc này ta chưa hề được nghĩ tới, thậm chí cũng chưa ra đời.
- Tất cả tháo chốt an toàn! - Travis ra lệnh. - Eckels, anh bắn trước. Kế đến là Billings. Cuối cùng là Kramer.
- Tôi đã từng săn hổ, lợn rừng, trâu rừng, voi, vậy mà bây giờ lại run bắn cả người như con nít thế này. - Eckels nói.
- Kìa! - Travis kêu lên.
Mọi người dừng lại. Travis đưa tay lên, nói thầm thì:
- Ngay phía trước. Trong màn sương. Nó đấy. Chúa Tể Tiền Sử đấy.
* * *
Rừng già bao la âm vang muôn vàn tiếng động: tiếng luýt chuýt, tiếng xột xoạt, tiếng rì rầm và tiếng gió thở dài xao xát. Đột ngột tất cả im bặt dường như một cánh cửa vừa bất ngờ xập xuống nhốt kín mọi âm thanh.
Im lặng.
Một tiếng sấm rền.
Từ màn sương mù cách đó khoảng trăm thước, con khủng long xuất hiện.
- Nó kìa, - Eckels, - nó...
- Suỵt!
Nó tiến tới trên hai cẳng chân sau trơn nhợt, nhún nhảy, sải từng bước dài. So với hơn nửa số cây trong rừng, nó cao ngất ngưởng hơn cả chục thước, một con ác quỉ khổng lồ, hai cẳng chân trước nhỏ bé gập sát vào bộ ngực nhầy nhụa bám đầy sâu bọ.
Mỗi cẳng chân sau là cả tấn xương trắng ngập sâu trong mớ cơ bắp chằng chịt được bọc kín bên ngoài bằng một lớp da sần sùi u bướu chẳng khác nào bộ giáp phục của một chiến binh khủng khiếp. Mỗi cái đùi là hàng tấn thịt, xương, cùng lớp da thép rắn. Và từ lồng ngực của thân trên, hai cánh tay nhỏ nhoi lòng thòng ra trước mặt, với hai bàn tay có thể nhấc bổng một con người lên mà xem xét như một món đồ chơi, trong khi cái cổ dài như rắn cuộn tròn hạ thấp đôi mắt xuống để quan sát cho tường tận. Ngay cái đầu của nó cũng là cả tấn xương thịt liên kết chặt chẽ, dễ dàng ngẩng cao đến tận trời. Mồm nó há hoắc phô ra một hàng răng lởm chởm như những thanh đoản kiếm. Đôi mắt trợn tròn, to bằng chứng đà điểu, hoàn toàn vô cảm ngoại trừ một biểu hiện đói khát. Nó ngậm phập mồm lại, răng va sầm vào nhau thành một tiếng kinh hoàng. Nó chạy băng băng, hai xương chậu quật ngã cây cối cùng bụi rậm hai bên đường, bàn chân móng vuốt vồ xuống đất ướt, để lại những dấu chân sâu hoắm cả thước bất kì nơi nào sức nặng thân hình nó đè lên. Bước chân nhún nhảy, lênh khênh, con khủng long tiến tới thoăn thoắt với sự thăng bằng không thể ngờ được đối với một trọng lượng hàng chục tấn của nó. Nó thận trọng bước vào vùng đất ngập nắng, hai bàn tay bám đầy sâu bọ vung vẩy dò dẫm không khí.
- Trời, trời, nó mà vươn thẳng lên chắc cao hơn cả mây xanh. - Eckels lắp bắp nói. - Suỵt! - Travis nổi giận. - Nó vẫn chưa thấy bọn ta.
- Sao mà giết nó được? - Eckels lặng lẽ thốt ra lời phán quyết như thể không còn gì để tranh cãi nữa. Anh đã cân nhắc mọi chứng cứ và đây là ý kiến đã suy nghĩ cẩn thận của anh. Anh thấy khẩu súng tối tân
trong tay mình thật sự ấu trĩ không hơn gì khẩu súng bắn nút chai của trẻ con.
- Chúng ta là những thằng khùng mới mò đến đây. Không thể nào giết con thú này được. - Im đi. - Travis rít lên.
- Kinh khủng quá!
- Quay lại. - Travis ra lệnh.- Bước lặng lẽ về Máy Thời Gian đi. Chúng tôi sẽ hoàn lại anh một nửa phí tổn.
- Tôi đâu dè nó lại to lớn đến thế. Tôi đã lầm. Bây giờ tôi chỉ muốn thoát cho mau. - Nó thấy chúng ta rồi!
- Có dấu sơn đỏ ngay trên ngực nó kìa!
Con khủng long vươn mình. Bộ da u bướu của nó lấp loáng dưới nắng tựa hồ hàng nghìn đồng xu xanh màu lá. Những đồng xu đầy chất nhớt bốc khói. Trong lớp nhầy nhụa ấy, những con côn trùng li ti đang quằn quại khiến toàn bộ thân hình con khủng long dường như cũng co giật nhấp nhô theo, ngay cả lúc con quái vật tiền sử ấy đứng yên không nhúc nhích mảy may. Nó thở khì. Một mùi thịt sống hôi tanh tỏa rộng trên miền hoang dã. Eckels kêu lên;
- Cho tôi rời khỏi nơi này! Ai mà ngờ, tôi cứ đinh ninh là mình sẽ an toàn vượt qua. Tôi có hướng dẫn viên giỏi, chuyến săn hấp dẫn, tổ chức chu đáo. Lần này tôi lầm to. Làm sao tôi có thể hạ được một con thú khổng lồ đến thế hả trời!
- Đừng bỏ chạy! - Lesperance cố kiềm chế kích động của Eckels. - Quay lại. Nấp vào Máy Thời Gian.
- Vâng. - Eckels dường như tê bại cả người. Anh nhìn xuống chân tựa hồ đang cố sức bắt nó phải dịch chuyển rồi bật ra một tiếng rên bất lực.
- Eckels!
Anh kéo lê chân được vài bước, mắt lóa hẳn đi.
- Không phải lối đó!
Ngay cử động đầu tiên của Eckels, con khủng long gầm lên một tiếng kinh hồn, lao vụt tới. Chỉ trong sáu giây nó đã vượt qua khoảng cách trăm thước. Mấy khẩu súng trường giật nẩy lên khạc lửa. Một cơn lốc từ họng con thú bao trùm đoàn săn trong mùi hôi nồng nặc của nhớt nhầy và máu ứ. Con thú rống lên, hàm răng lấp lánh trong nắng.
Không dám nhìn lui, Eckels quờ quạng bước chệch ra rìa Con Đường, khẩu súng buông thõng trong hai cánh tay; anh bước ra ngoài Con Đường, chạy thẳng vào rừng già mà chẳng hề hay biết. Bàn chân anh lún sâu vào thảm rêu xanh. Đôi chân kéo lê cả thân người anh đi theo, Eckels thấy mình lẻ loi và xa vời với tất cả những gì đang xảy ra sau lưng anh.
Những khẩu súng lại khạc đạn. Tràng tiếng nổ bị át đi trong tiếng rú gào như sấm động của con thú tử thương. Chiếc đuôi khổng lồ của nó giật ngược lên trời, quật sang hai phía. Cây cối nổi tung thành một đám mây mịt mù những lá và cành. Con quái vật hạ phắt hai cẳng chân trước xuống toan vồ lấy nhóm người, để bẻ đôi họ ra, nghiền nát bấy, nhét họ vào hàm răng, vào cổ họng đang gầm rú của nó. Đôi mắt to lớn của con thú hạ xuống ngang tầm đoàn săn. Họ nhìn thấy chính mình trong đáy mắt khủng long. Những khẩu súng khạc đạn vào đôi mi mắt rắn đanh và đôi tròng đen bốc lửa.
Như một tượng thần bằng đá, như một trận núi lở, Chúa Tể Tiền Sử gục ngã. Vừa gầm rống, nó tóm lấy cây cối giật chúng đổ theo nó. Con thú giằng xé Con Đường Kim loại. Nhóm người thoái lui tránh xa. Súng nổ. Khối thân xác mười tấn thịt xương trúng đạn. Con quái vật quật đuôi, hàm răng giật thót một cái rồi nằm im.Một suối máu phun vọt ra từ cuống họng đâu đó trong cơ thể nó, một túi chất lỏng bùng vỡ xối xả giội lên người nhóm thợ săn một thứ nước nhờn nhờn hôi thối. Họ đứng đó, người đỏ ngầu máu loang.
Tiếng gầm thét câm bặt.
Rừng già lại tĩnh lặng. Sau cơn ác mộng là buổi ban mai trong lành. Sau trận núi lở là bình yên xanh lá.
Billings và Kramer ngồi trên đường đi nôn thốc nôn tháo. Travis và Lesperance đứng chửi rủa liên hồi, hai khẩu súng trên tay còn bốc khói.
Trong Bộ Máy Thời Gian, Eckels nằm sấp mặt, run bắn cả người. Anh đã tìm lối quay lại Con Đường và trèo vào Bộ Máy.
Travis bước vào, liếc nhìn Eckels không nói năng gì. Gã lấy trong một hộp kim loại ra mấy miếng vải bông rồi quay lại với ba người còn ngồi trên con đường.
- Chùi sạch đi.
Họ lau sạch vết máu dính trên mũ bảo vệ, miệng lầm bầm nguyền rủa. Con quái vật nằm đó như một núi thịt đông cứng. Sâu bên trong, họ có thể nhận ra những tiếng xì xì rầm rì lúc những ngóc ngách khuất kín nhất trong lòng con khủng long ngừng hoạt động, các bộ phận cơ thể giãy chết, tất cả bị ngắt lìa, bị chặn đứng mãi mãi. Xương cốt răng rắc gẫy; sức nặng của khối trọng lượng chết mất thăng bằng đổ ập đã nghiền gẫy hai chân trước cục mịch của con quái vật. Núi thịt nằm rũ xuống, rung rinh.
Một tiếng răng rắc khác! Trên cao, một thân cây khổng lồ gẫy lìa giáng thẳng xuống đầu con thú chết.
- Thấy chưa! - Lesperance kiểm tra đồng hồ, - Đúng vào giờ dự đoán mà! Con thú này không chết vì chúng ta thì cũng chết vì thân cây khổng lồ này như số phận đã định. Hắn liếc nhìn hai vị khách đi săn. Quí vị có muốn chụp ảnh kỉ niệm không?
- Sao cơ?
- Chúng ta không thể mang con thú này về Tương Lai. Cái xác này phải nằm yên ngay nơi nó lẽ ra đã chết một cách tự nhiên, để cho những côn trùng, chim chóc và vi khuẩn có thể xâu xé nó đúng như đã an bài. Tất cả đều trong trạng thái cân bằng. Cái xác nằm lại đây. Nhưng bọn tôi có thể chụp ảnh quý vị đứng cạnh nó để quý vị làm kỉ niệm.
Hai người khách ngẫm nghĩ rồi lắc đầu từ chối.
Họ lủi thủi đi theo hai hướng dẫn viên trở về Máy Thời Gian. Buông phịch người trên nệm ghế, họ đăm đăm nhìn con quái vật đã bị tiêu diệt nằm thành đống; những con bò sát biết bay cùng lũ côn trùng nhanh chóng tìm tới đang bận bịu rỉa rói bộ da con khủng long.
Một tiếng động trên sàn Bộ Máy Thời Gian làm họ giật mình thảng thốt. Eckels vừa run lẩy bẩy vừa lồm cồm ngồi dậy. Anh gắng gượng mãi mới nói nên lời:
- Tôi... tôi xin lỗi.
- Đứng dậy! - Travis quát lên
Eckels răm rắp tuân theo.
- Đi ra Con Đường một mình. - Travis dùng mũi súng chỉ ra ngoài. - Anh sẽ không quay lại Bộ Máy Thời Gian nữa. Chúng tôi bỏ anh lại nơi này!
Lesperance nắm cánh tay Travis.
- Khoan đã...
- Đừng xen vào chuyện này! - Travis giật cánh tay ra. - Suýt nữa thì thằng ngu này đã giết chết cả lũ. Nhưng điều đó không đáng nói. Hãy nhìn đôi giày hắn kìa! Hắn đã chạy ra khỏi Con Đường. Chính điều đó mới làm hại chúng ta! Chúng ta sẽ bị thua thiệt! Mất toi hàng chục nghìn đôla bảo hiểm! Chúng ta đã cam đoan không để ai rời Con Đường thế mà cái thằng ngu này... Tôi buộc phải báo cáo với chính phủ và vì thế dịch vụ của ta có thể bị tước giấy phép họat động. Ai biết được hắn ta đã gây ra những tai hại nào đối với Thời Gian, đối với Lịch Sử!
- Bình tĩnh đã nào, anh ta chỉ đá tung một ít bụi đất thế thôi chứ có gì đâu.
- Làm sao ta biết được là không có gì đâu? - Travis kêu to. - Chúng ta không hay biết bất cứ gì. Tất cả đều là bí mật! Cút khỏi nơi này, Eckels!
Eckels vừa mò mẫm các túi áo vừa nài nỉ:
- Tôi xin nộp tiền phạt, nộp hết! Một trăm nghìn đôla!
Travis quắc mắt nhìn sổ chi phiếu của Eckels và nhổ toẹt:
- Đi ra ngoài kia. Con khủng long nằm sát bên Con Đường. Thò hai cánh tay mày vào họng nó ngập đến tận khuỷu! Nếu mày dám làm thế thì cho mày theo bọn ta trở về.
- Vô lí quá!
- Con khủng long này chết rồi, đồ ngu! Còn những viên đạn nữa! Không thể bỏ những viên đạn lại đây. Chúng đâu có thuộc về Quá!Kiứ; những viên đạn lạc lõng đó có thể làm thay đổi một cái gì đó ai ngờ được. Dao đây. Moi hết đạn trong bụng nó ra!
Rừng già lại hồi sinh, rền vang tiếng chim kêu, tiếng cánh đập phành phạch xao xác. Eckels chầm chậm quay người quan sát cái núi rác tiền sử ấy, cái núi ác mộng và kinh hoàng ấy. Sau một lúc lâu, anh lê chân như kẻ mộng du men theo Con Đường.
Năm phút sau, anh quay về, người run bần bật, hai cánh tay ướt đẫm máu đỏ đến tận khuỷu. Anh chìa hai bàn tay ra. Trên mỗi lòng bàn tay ấy là mấy viên đạn thép. Rồi anh té quỵ bất động.
- Việc gì anh phải bắt hắn làm thế! - Lesperance trách Travis.
- Việc gì ư? Còn quá sớm để nói. - Travis hích chân vào thân hình sõng soài của Eckels. - Hắn không chết đâu. Lần sau, hắn ta sẽ không dám đi săn theo kiểu này nữa.
Gã mệt mỏi vẫy tay ra hiệu cho Lesperance:
- Mở máy! Ta trở về thôi.
Năm 1492. Năm 1776. Năm 1812...
Họ rửa sạch mặt mũi tay chân. Họ thay những bộ đồ vấy bùn đất. Eckels đã hồi tỉnh, ngồi yên một chỗ không hé răng. ánh mắt Travis dán cứng vào mặt Eckels.
- Đừng có nhìn tôi như thế! - Eckels kêu lên. - Tôi có làm gì xấu xa đâu.
- Ai mà biết?
- Tôi chỉ chạy khỏi Con Đường, giày tôi dính chút bùn đất thôi mà... Anh muốn tôi phải làm gì nữa đây? Quỳ xuống mà van lậy sao?
- Cũng có thể cần điều đó đấy. Eckels, ta báo cho mi biết trước, có thể ta sẽ giết mi. Súng đã sẵn sàng rồi đó.
- Tôi vô tội. Tôi có làm gì đâu!
Năm 1999. Năm 2000. Năm 2055.
Bộ Máy Thời Gian ngừng lại.
- Bước ra. - Travis ra lệnh.
Họ đã trở về nơi họ khởi hành, nhưng gian phòng dường như không còn giống như lúc họ ra đi. Vẫn người đàn ông ngồi sau chiếc quầy, nhưng có lẽ không phải người đàn ông mà Eckels đã gặp, và chiếc quầy có lẽ cũng không phải chiếc quầy ban sáng. Travis đảo mắt nhìn quanh, gằn giọng hỏi:
- Ở đây mọi chuyện vẫn bình thường chứ?
- Tốt cả. Chào mừng các bạn trở về!
Travis vẫn chưa an lòng. Gã cơ hồ đang dò xét từng nguyên tử một của cả bầu không khí này, từng sóng nắng xuyên qua khung cửa sổ cao.
- Được rồi, xéo về nhà đi, Eckels. Đừng bao giờ trở lại.
Eckels không nhúc nhích.
- Mi có nghe không?- Travis quát lên. - Mi nhìn chằm chằm cái gì vậy?
Eckels đứng sững hít dài mấy hơi liền. Phảng phất trong không khí là một mùi gì đó rất nhạt, rất mờ đến mức những giác quan cực kì nhạy bén của anh cũng chỉ nhận ra một cách mơ hồ. Những màu sắc trên tường, trên đồ đạc, trên bầu trời sau khung cửa sổ, trắng, xám, xanh, cam, chính là... chính là... Và một cảm giác lạ thường. Bắp thịt anh giần giật. Hai bàn tay giần giật. Anh đứng yên cảm nhận những trạng thái kì dị thấm sâu vào từng chân lông cơ thể. Ở đâu đó, một kẻ nào đó chắc hẳn đang gào lên một tiếng thét lanh lảnh mà chỉ có những lỗ tai cực thính của loài vật mới phát hiện ra. Cơ thể anh âm thầm lên tiếng thét hồi đáp. Ngoài căn phòng này, ngoài bức tường này, ngoài gã đàn ông không phải gã đàn ông cũ đang ngồi sau chiếc bàn giấy không phải chiếc bàn giấy cũ... là toàn thế giới của đường phố và con người. Không có cách gì biết được thế giới hiện tại đang ở trạng thái nào. Anh cảm thấy họ đang chuyển động ngoài kia, sau những bức tường, như những quân cờ bị thổi tung trong cơn gió lốc...
Nhưng nằm ngay trước mắt anh là tấm bảng hiệu sơn trên tường văn phòng dịch vụ này, vẫn là tấm bảng anh đã đọc sáng sớm hôm nay lúc bước chân vào lần đầu tiên.
Không hiểu sao, những dòng chữ quảng cáo này đã thay đổi.
DỴKH VW SAN THW NGWÒK THÒY GYAN
TỔ KHWK KHO BẠN NHWNG KHWYẾN SAN
VÀO BẤT KJ NAM NÀO TRONG QWÁ KHW
SAN BẤT KJ LỌA THW NÀA BẠN MWỐN
DỊCH VỤ SĂN THÚ NGƯỢC THỜI GIAN
TỔ CHỨC CHO BẠN NHỮNG CHUYẾN SĂN
VÀO BẤT KỲ NĂM NÀO TRONG QUÁ KHỨ
SĂN BẤT KỲ LOẠI THÚ NÀO BẠN MUỐN
Eckels nhận ra mình ngã phịch xuống ghế. Anh loay hoay với lớp bùn khô cứng bám dưới đôi giày như một kẻ mất trí. Run bắn người, anh giơ lên một mảnh đất.
- Không, không thể thế được! Không thể nào lại là một vật nhỏ nhoi như vậy được! Không!
Dính cứng trong mảnh bùn khô là một con bướm có đôi cánh lấp lánh xanh biếc, vàng rực, đen huyền, đen tuyệt vời và chết thản nhiên. Eckels rú lên;
- Sao lại là một vật nhỏ nhoi như thế! Sao lại là một con bướm!
Con bướm chết khô rơi xuống sàn nhà, con vật lộng lẫy ấy, con vật bé bỏng ấy mà có thể phá vỡ sự cân bằng sinh thái và tạo ra một chuỗi hậu quả dây chuyền khủng khiếp xuyên suốt thời gian. Đầu óc Eckels quay cuồng. Sao lại thế được! Làm chết một con bướm mà lại ghê gớm đến thế sao! Sao lại thế!
Mặt anh buốt lạnh. Môi run run, anh lắp bắp hỏi;
- Ai... ai đã đắc cử tổng thống ngày hôm qua?
Người ngồi sau quầy bật cười:
- Anh giỡn chơi? Làm như anh không biết vậy. Deutscher chứ còn ai nữa? Thằng ngốc Keith làm sao mà đắc cử nổi. Giờ thì chúng ta đã có một nhà lãnh đạo sắt đá, một người dũng cảm rối! Ủa, có chuyện gì vậy? Hắn bỗng ngạc nhiên.
Eckels rên rỉ quỳ phịch xuống. Mấy ngón tay run rẩy vơ lấy con bướm vàng.
- Chẳng lẽ nào..., - Anh van xin với cả thế giới, với chính mình, với các nhân viên hãng du lịch, với Bộ Máy Thời Gian...- Lẽ nào ta không thể đem nó quay lại, lẽ nào ta không thể làm cho nó hồi sinh? Chúng ta không bắt đầu lại từ khởi điểm được sao? Chẳng lẽ nào...
Anh không nhúc nhích. Mắt nhắm nghiền, người run bắn, anh đợi chờ. Anh nghe tiếng Travis thở hắt ra trong phòng; anh nghe tiếng Travis trở đầu súng, mở khóa an toàn, và nhấc súng lên vai.
Một tiếng sấm rền...
Trần Đức Tài dịch
Robert Sheckley (Mỹ)
Robert Sheckley (sinh năm 1928) - Nhà văn Mỹ, chuyên viết truyện Khoa học viễn tưởng. Tập truyện đầu tiên của ông “ Chưa được bàn tay con người sờ đến ” xuất bản năm 1954 được độc giả và giới phê bình đón nhận rộng rãi, đánh dấu sự xuất hiện của một số cây bút trẻ tài năng và độc đáo. Tiếp theo đó ông lần lượt cho ra mắt các cuốn: Người công dân trong vũ trụ, Sự bất tử chở đến tận nhà, Hành trình vào sau ngày mai.
Lệnh giết người
Tom Đánh cá không thể ngờ được có ngày anh lại bị chỉ định làm kẻ tội phạm.
Chuyện xảy ra vào buổi sáng. Mặt trời to màu đỏ vừa nhô lên khỏi đường chân trời cùng với người bạn đồng hành màu vàng nhỏ bé lê bước theo nó. Một ngôi làng xinh xắn, ngăn nắp - cái chấm trắng kì dị giữa khoảng không xanh rờn của hành tinh - ánh lên dưới tia nắng hè của hai mặt trời của nó.
Tom vừa thức dậy trong căn nhà nhỏ của anh. Đó là một thanh niên cao lớn với nước da rám đỏ vì mặt trời, với đuôi mắt dài thừa hưởng từ người cha và tính nết thật thà không muốn mua việc vào người thừa hưởng từ người mẹ. Tom không vội: từ nay đến khi có những trận mưa thu người ta không đi đánh cá, nghĩa là với người đánh cá chưa có công việc gì thực sự phải làm. Từ giờ đến mùa thu anh có ý định dềnh dàng một chút và sửa chữa lại mấy cái đồ nghề đánh cá.
- Đã bảo với anh rồi: cái mái nhà phải sơn màu đỏ! - Có tiếng Billi Thợ sơn từ ngoài phố vọng đến tai anh.
- Mái nhà thờ có bao giờ màu đỏ đâu! - Ed Thợ dệt kêu to đáp lại.
Tom cau mặt. Anh đã hoàn toàn quên mất những thay đổi diễn ra trong làng trong hai tuần lễ vừa qua, vì những thay đổi này hoàn toàn không liên quan gì đến bản thân anh. Anh mặc quần rồi thong thả đi ra quảng trường làng.
Tại đây đập ngay vào mắt anh là một tấm biểu ngữ lớn ghi:
Những phần tử lạ
Cấm không được vào địa phận thành phố
Nhưng trên khắp hành tinh Dilaver Mới này làm gì có những phần tử lạ. Ở đây chỉ có những cánh rừng và duy nhất một ngôi làng nhỏ bé này. Tấm biểu ngữ chỉ có ý nghĩa khoa trương thuần túy, nó thể hiện một khuynh hướng chính trị nào đó.
Trên quảng trường này có nhà thờ, nhà tù và nhà bưu điện. Cả ba công trình này đều vừa được dựng lên trong vòng hai tuần lễ điên rồ vừa qua, kết quả của những nỗ lực điên cuồng, và chúng được bố trí thành hàng ngay ngắn, quay mặt ra quảng trường. Không ai biết những công trình đó dựng lên để làm gì - đã hơn hai thế kỷ nay ngôi làng vẫn sống yên ổn mà không cần đến chúng. Nhưng bây giờ, lẽ đương nhiên, đã đến lúc phải xây dựng chúng.
Ed Thợ dệt đang đứng trước ngôi nhà thờ vừa được dựng lên và nheo mắt nhìn lên nóc. Billi Thợ sơn đang đu lơ lửng trông rất nguy hiểm trên cái mái dốc nghiêng của nhà thờ, hàng ria mép hung đỏ của bác ta vểnh ra một cách tức giận. Phía dưới một đám đông đang tụ tập.
- Quỷ tha nhà anh đi! - Billi Thợ sơn gắt gỏng. - Đã bảo với anh rồi, tuần trước tôi vừa đọc được cuốn sách nói về tất cả những chuyện này. Phải để mái màu trắng. Không bao giờ được sơn màu đỏ cả.
- Không, bác nhầm rồi, - Ed Thợ dệt nói. - Anh thấy thế nào, Tom?
Tom nhún vai, anh không am hiểu gì về chuyện này.
Vừa đúng lúc ông thị trưởng không biết từ đâu bỗng xuất hiện, người đầm đìa mồ hôi. Hai vạt áo sơ mi
tự do bay phất phơ xung quanh cái bụng phệ của ông.
- Tụt xuống ngay! - Ông quát to bảo Billi. - Tôi đã tìm thấy trong sách rồi. Ở đó nói: ngôi trường nhỏ màu đỏ, chứ không phải ngôi nhà thờ.
Vẻ mặt Billi rất tức giận. Nói chung bác ta là người dễ nổi cáu. Tất cả đám thợ sơn là loại người dễ nổi cáu. Nhưng từ tuần trước, khi ông thị trưởng bổ nhiệm Billi làm cảnh sát trưởng thì tính tình Billi lại càng hỏng hẳn.
- Nhưng chúng ta không có gì giống như vậy cả. Không có cái ngôi trường bé nhỏ đó, - Billi, lúc này đã xuống hết nửa cái thang, tiếp tục cãi.
- Thì bây giờ chúng ta xây nó, - ông thị trưởng nói. - Và phải làm nhanh lên.
Ông ngó lên bầu trời. Mọi người bất giác cũng nhìn lên. Nhưng ở đó tạm thời chưa thấy gì cả. - Thế còn đám thợ kia đâu, cánh thợ mộc đâu? - Ông thị trưởng hỏi. - Sid, Sam, Mars biến đâu hết rồi?
Từ đám đông nhô lên cái đầu của Sid Thợ mộc. Bác ta vẫn phải chống nạng kể từ khi bị ngã từ trên cây xuống vào tháng trước, lúc bác leo lên tổ chim định lấy trứng. Tất cả những anh thợ mộc đều không phải là người trèo cây giỏi.
- Mấy cậu khác đang ngồi nhà Ed Bia, - Sid nói.
- Tất nhiên rồi, vì họ còn ngồi đâu được nữa! - Trong đám đông có giọng của chị Meri Lái đò vang lên.
- Thôi được, đi gọi họ đến đây, - thị trưởng nói. - Phải xây ngôi trường nhỏ, mà phải thật nhanh. Hãy bảo họ xây nó bên cạnh nhà tù. - Ông quay sang phía Billi lúc này đã tụt xuống đất. - Còn bác, Billi, bác cho sơn cái trường học này bằng loại sơn tốt, màu thật tươi vào. Sơn cả ngoài lẫn trong. Điều đó rất quan trọng.
- Thế khi nào tôi mới có huy hiệu cảnh sát trưởng? - Billi hỏi. - Tôi đọc sách thấy nói tất cả các cảnh sát trưởng đều đeo huy hiệu.
- Bác hãy tự làm lấy cho mình một chiếc, - thị trưởng nói. Ông lấy vạt áo sơmi lau mồ hôi trán. - Nóng quá đi mất. Giá cái ông thanh tra này đến vào mùa đông thì tốt... Tom! Tom Đánh cá đâu? Tôi có một nhiệm vụ hết sức quan trọng cần giao cho anh đây. Đi nào, tôi sẽ nói rõ cho anh mọi chuyện.
Ông thị trưởng ôm lấy vai Tom rồi hai người cùng đi ngang qua bãi họp chợ không có người và theo con phố lát đá duy nhất đi về nhà ông thị trưởng. Thời xưa con đường này được phủ một lớp đất nện. Nhưng từ cách đây hai tuần cái thời xưa ấy đã chấm dứt. Bây giờ con đường đã được rải đá. Đi chân đất trên nó thật là khó chịu, nên dân chúng trong làng thường đến chơi nhà nhau bằng cách chui qua hàng rào. Nhưng ông thị trưởng vẫn phải đi theo con đường này, vì đó là vấn đề uy tín.
- Ông thị trưởng này, hiện nay tôi đang được nghỉ...
- Lúc này không có chuyện nghỉ ngơi gì cả. - Ông thị trưởng nói. - Sau hẵng hay. Vì ông ta có thể đến đây vào bất cứ ngày nào.
Thị trưởng để cho Tom đi lên trước, hai người vào nhà, và ông thị trưởng gieo mình phịch xuống chiếc ghế bành, được kê sát hẳn vào cái radio liên hành tinh.
- Tom, - ông thị trưởng không rào trước đón sau gì, vào đề ngay. - Anh thấy thế nào nếu phải làm kẻ tội phạm?
- Tôi không biết, - Tom nói. - Nhưng kẻ tội phạm là thế nào?
Cựa quậy một cách lo lắng trong ghế, ông thị trưởng đặt một tay lên chiếc radio để tạo uy tín, và nói: - Điều đó, cậu hiểu không, có nghĩa là... - rồi ông bắt đầu giải thích.
Tom cứ nghe mãi, nghe mãi, và càng nghe anh càng thấy không thích cái việc đó. Cái radio liên hành
tinh là nguyên nhân của tất cả chuyện này, anh nghĩ. Rất tiếc là nó không hỏng hẳn đi cho rồi!
Không ai tin là có ngày chiếc radio lại hoạt động trở lại. Hết thị trưởng này đến thị trưởng khác, hết thế hệ này đến thế hệ khác, vậy mà cái radio liên hành tinh vẫn đứng nguyên một chỗ trong văn phòng, bụi phủ đầy- nó là cái khâu câm lặng cuối cùng nối hành tinh của họ với hành tinh Mẹ Trái đất. Cách đây hai trăm năm Trái đất đã nói chuyện với Dilaver Mới, với cả Flord IV, cả Alfa Sentrav, cả Espana Mới, và với các thuộc địa khác nằm trong Cộng đồng các nền Dân chủ Trái đất. Sau đó tất cả mọi thông tin bị đứt đoạn.
Có lẽ vì ở Trái đất xảy ra chiến tranh. Hành tinh Dilaver Mới với duy nhất một ngôi làng nhỏ tỏ ra quá bé và quá xa để tham gia vào Cộng đồng này. Những người dân Dilaver chờ đợi tin tức, nhưng không có tin tức nào đến được chỗ họ. Sau đó trong làng xảy ra một trận dịch làm ba phần tư dân làng bị chết.
Dần dần ngôi làng phục hồi lại. Dân chúng bắt đầu thích nghi với hoàn cảnh và tạo ra một nếp sống đặc biệt, nếp sống dần dần trở nên quen thuộc với họ. Họ đã quên Trái đất.
Hai trăm năm trôi qua.
Bỗng cách đây hai tuần cái radio cổ lỗ kia tự nhiên lại phát ra tiếng. Cứ giờ này qua giờ khác nó phát ra tiếng, bất chấp mọi sự nhiễu loạn trong không trung, thế là cả làng lại tụ tập ngoài phố, xung quanh nhà ông thị trưởng.
Cuối cùng người ta đã nghe được rõ những lời nói:
- ... Có nghe thấy tôi không, Dilaver Mới? Anh có nghe thấy tôi không?
- Có, có, chúng tôi đã nghe được anh, - viên thị trưởng nói.
- Thuộc địa các anh vẫn tồn tại đấy chứ?
- Tất nhiên rồi, - viên thị trưởng nói với vẻ hãnh diện.
Giọng nói trở nên nghiêm trang.
- Trong một thời gian, do tình hình nội bộ không ổn định, chúng tôi không liên lạc được với các Thuộc địa ngoài Trái đất của mình. Nhưng bây giờ tình hình đã chấm dứt, cần phải lập lại trật tự ở một vài nơi. Các anh, Dilaver Mới, vẫn là thuộc địa của Đế chế Trái đất như trước đây, do đó cần phải tuân thủ các luật lệ của nó. Các anh có công nhận điều này không?
Ông thị trưởng bối rối. Trong tất cả các sách Trái đất được nhắc đến như một Cộng đồng các nền Dân chủ. Nhưng cuối cùng, trong vòng hai thế kỉ tên gọi đó có thể đã thay đổi.
- Chúng tôi vẫn trung thành với Trái đất như trước, - ông thị trưởng trả lời dõng dạc.
- Tốt lắm. Như vậy chúng tôi không cần gửi đến các anh một phái đoàn khảo sát nữa. Từ hành tinh gần nhất sẽ có một viên thanh tra được phái đến hành tinh các anh để kiểm tra xem có đúng các anh vẫn tuân thủ các điều lệ, tập quán, truyền thống như ở Trái đất không.
- Ngài bảo gì ạ? - Ông thị trưởng hỏi vẻ lo lắng.
Giọng nói nghiêm nghị bỗng cao tiếng:
- Các ông tất nhiên đã hiểu rõ là trong Vũ trụ chỉ có chỗ cho loại sinh vật có lí trí - đó là Con Người! Tất cả mọi sinh vật khác đều phải bị hủy diệt vĩnh viễn. Chúng tôi không thể chịu được sự xâm nhập của bất cứ phần tử xa lạ nào - Tôi hi vọng ông hiểu điều tôi nói chứ, Tướng quân?
- Tôi không phải là Tướng quân, tôi là thị trưởng.
- Ông là chỉ huy ở đấy phải không?
- Vâng, nhưng...
- Như vậy ông là Tướng quân. Cho phép tôi tiếp tục. Trong Đại hành tinh của chúng ta không thể có chỗ cho những phần tử ngoại lai. Tuyệt đối không! Cũng hoàn toàn giống như vậy, ở đây không thể có chỗ cho bất cứ nền văn hóa con người nào khác với nền văn hóa chúng ta, do đó, xa lạ với chúng ta. Không thể lãnh đạo Đế chế được nếu như mỗi người làm theo ý thích riêng của mình. Trật tự cần phải được thiết lập - bằng bất cứ giá nào.
Ông thị trưởng vội vã hớp hớp không khí và nhìn chăm chú vào cái radio.
- Hãy nhớ rằng ông đang lãnh đạo một thuộc địa của Trái đất, Tướng quân ạ, và ông không được phép làm bất cứ điều gì trái với quy định, không được phép có bất cứ khuynh hướng cấp tiến nào, chẳng hạn như tự do ý chí, tự do tình yêu, các loại bầu cử tự do hay cái gì đó nằm trong danh sách bị cấm. Tất cả những cái đó xa lạ với chúng tôi, và với những gì xa lạ chúng tôi sẽ trừng trị không thương tiếc. Hãy lập lại trật tự ở thuộc địa của mình, Tướng quân. Viên thanh tra sẽ đến chỗ ông trong vòng hai tuần tới. Hết.
Một cuộc mít tinh khẩn cấp được triệu tập trong làng: yêu cầu đặt ra là phải quyết định ngay xem làm cách nào thực hiện tốt nhất mệnh lệnh của Trái đất. Cuối cùng mọi người nhất trí phải sửa đổi lại nếp sống cho phù hợp với nếp sống của Trái đất được ghi trong các sách cổ càng nhanh càng tốt.
- Nhưng tôi vẫn không tài nào hiểu được tại sao ta cần phải có kẻ tội phạm, - Tom nói.
- Ở Trái đất kẻ tội phạm đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, - ông thị trưởng giải thích. - Tất cả các cuốn sách đều nói như vậy. Nghề tội phạm cũng cần thiết không kém gì, chẳng hạn, nghề đưa thư. Hoặc giả như nghề cảnh sát trưởng. Chỉ có khác nhau ở chỗ các hành động của kẻ tội phạm mang tính chất chống xã hội. Hắn phải hành động nhằm phá hoại xã hội, anh hiểu không, Tom? Và nếu ở chỗ chúng ta không có ai hành động phá hoại xã hội, thì làm sao chúng ta bắt người khác phải hành động vì lợi ích xã hội được? Vì mọi việc lúc đó sẽ trở thành vô nghĩa.
Tom lắc đầu:
- Dù sao tôi vẫn không hiểu, ta cần có kẻ tội phạm để làm gì?
- Đừng bướng bỉnh nữa, Tom. Chúng ta phải điều chỉnh lại tất cả theo quy định của Trái đất. Nói ví dụ như những con đường lát đá này. Tất cả các sách đều viết về chúng. Cả về nhà thờ, về trường học, về nhà tù. Và trong tất cả các sách đều có nói về những kẻ tội phạm.
- Nhưng tôi sẽ không làm kẻ tội phạm đâu. - Tom nói.
- Cậu hãy thử đứng vào địa vị của tôi xem! - Ông thị trưởng van nài. - Viên thanh tra có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, sẽ gặp Billi, cảnh sát trưởng của làng ta. Viên thanh tra muốn nhìn thấy nhà tù. Ông ta sẽ hỏi: “Không có một phạm nhân nào à?”. Tôi trả lời: “Tất nhiên, không có. Chỗ chúng tôi không có tội ác”. “Không có tội ác à? - Ông ta nói. - “Nhưng trong tất cả các thuộc địa của Trái đất bao giờ cũng xảy ra tội ác. Các ông biết rõ điều này mà”. “Chúng tôi không biết, - tôi đáp. - Thậm chí chúng tôi không hiểu từ đó có nghĩa là gì, cho mãi đến tuần trước khi mở từ điển ra xem”. “Thế các ông xây nhà tù để làm gì? - Ông ta hỏi tôi. - Các ông có cảnh sát trưởng để làm gì?”
Viên thị trưởng im lặng để thở.
- Thế nào, anh thấy chưa? Tất cả sẽ hỏng bét hết. Viên thanh tra sẽ hiểu ra ngay rằng chúng ta không còn là những người Trái đất thực thụ nữa. Rằng tất cả những cái đó chỉ cốt để che mắt thôi. Để không ai biết chúng ta là phần tử ngoại lai!
- Hừm, - Tom hừm một tiếng, anh đã cảm thấy bí trước những lí lẽ như vậy.
- Thế này nhé, - ông thị trưởng nói tiếp rất nhanh, - tôi có thể nói: tất nhiên, ở chỗ chúng tôi cũng có tội ác - giống hệt như ở Trái đất. Chỗ chúng tôi kẻ ăn trộm và tên giết người là một người - đó là tên ăn trộm, giết người tổng hợp. Một anh chàng đáng thương có những tính nết xấu, thần kinh không bình thường. Nhưng cảnh sát trưởng của chúng tôi đã thu thập các bằng chứng, và trong vòng vài ngày tới tên tội phạm sẽ bị bắt. Chúng tôi sẽ nhốt hắn sau chấn song sắt, sau đó sẽ ân xá.
- Ân xá nghĩa là gì? - Tom hỏi.
- Tôi không biết chính xác. Để rồi tôi sẽ tìm hiểu. Còn bây giờ anh thấy rồi đấy, kẻ tội phạm là nhân vật quan trọng như thế nào?
- Phải, có lẽ đúng thế thật. Nhưng tại sao lại chính là tôi?
- Tất cả những người khác tôi cần họ vào những việc khác cả rồi. Ngoài ra, anh lại có đuôi mắt dài. Tất cả những tên tội phạm đều có đuôi mắt dài.
- Nhưng mắt tôi không đến nỗi ti hí lắm. Nó còn không ti hí bằng mắt anh chàng Ed Thợ dệt.
- Tom, tôi van anh, - ông thị trưởng nói. - Mỗi người chúng ta đều phải làm việc gì mình có thể. Anh vẫn muốn giúp đỡ chúng tôi mà, đúng thế không?
- Tất nhiên là tôi muốn, - Tom nói không tự tin lắm.
- Thế thì tốt rồi. Anh sẽ là tên tội phạm của thành phố chúng ta. Đây, anh xem đây, tất cả đều được làm đúng thủ tục như luật định.
Ông thị trưởng chìa cho Tom tờ quyết định. Trong quyết định ghi: “Lệnh giết người. Thông báo để toàn thể dân chúng biết. Người cầm quyết định này, Tom Đánh cá, được ủy quyền thực hiện các hoạt động ăn cắp và giết người. Để phù hợp với công việc này, anh ta phải trốn tránh pháp luật trong những ngõ hẻm tối tăm, phải lui tới những nơi có tiếng xấu và phải vi phạm pháp luật”.
Tom đọc tờ quyết định tới hai lần. Sau đó anh hỏi:
- Pháp luật nào?
- Tôi sẽ thông báo cho anh biết khi nào tôi công bố nó, - ông thị trưởng nói. - Tất cả các thuộc địa của Trái đất đều phải có pháp luật.
- Nhưng dù sao tôi cần phải làm gì?
- Anh phải đi ăn cắp. Và giết người. Chuyện đó cũng không đến nỗi khó lắm. - Ông thị trưởng tiến lại gần tủ sách, lấy trong đó ra một cuốn sách cổ nhiều tập có tên là: “Tên tội phạm và môi trường của hắn. Tâm lí kẻ giết người. Nghiên cứu các động cơ ăn trộm”.
- Trong này anh sẽ tìm thấy tất cả những gì anh cần biết. Anh hãy cố ăn cắp được càng nhiều càng tốt. Còn về giết người thì có lẽ chỉ cần một vụ là đủ. Việc này không nên cố gắng quá.
Tom gật đầu.
- Đúng. Có thể tôi sẽ hiểu phải làm gì.
Anh cắp chồng sách vào nách và đi về nhà.
Ngày nóng không chịu nổi, và toàn bộ cuộc nói chuyện về tội ác vừa rồi khiến anh mỏi rã rời. Anh nằm xuống giường và bắt đầu nghiên cứu những cuốn sách cổ.
Có tiếng gõ cửa.
- Vào đi! - Tom dụi dụi đôi mắt mệt mỏi, kêu to.
Mark Thợ mộc, người nhiều tuổi nhất và cao nhất trong số anh em nhà Thợ mộc cao kều tóc hung, xuất hiện trên ngưỡng cửa cùng với ông già Jad Chủ trại. Họ mang theo cái túi nhỏ.
- Bây giờ anh là tên tội phạm thành phố, phải không Tom? - Mark hỏi.
- Hình như vậy.
- Vậy thì cái này là dành cho anh, - Họ đặt cái túi lên bàn và lôi từ trong đó ra cái rìu nhỏ, hai con dao, một cái lao móc, một cái gậy và một cái dùi cui.
- Các bác mang gì đến thế? - Tom buông thõng chân xuống giường hỏi.
- Mang vũ khí cho anh chứ còn gì? - Jad Chủ trại nói có vẻ cáu. - Không có vũ khí thì anh làm sao trở thành kẻ tội phạm được!
Tom gãi gãi gáy:
- Bác biết chính xác như vậy hả?
- Đã đến lúc tự anh phải tìm hiểu vấn đề này, - ông già Chủ trại tiếp tục càu nhàu. - Đùng chờ đợi chúng tôi sẽ làm chuyện đó thay cho anh.
Mark Thợ mộc nháy mắt với Tom:
- Bác Jad đang cáu vì ông thị trưởng bắt bác ta làm người đưa thư.
- Tôi đang thực hiện nghĩa vụ của mình, - Jad nói. - Chỉ có điều phải tự tay viết tất cả những bức thư này thật là cực hình.
- Nhưng tôi thấy việc đó hình như cũng không có gì khó khăn lắm, - Mark Thợ mộc cười giễu. - Thế những người đưa thư ở Trái đất họ làm việc này ra sao? Họ còn phải viết nhiều hơn bác gấp bao nhiêu lần ấy chứ, vì ở đó có biết bao nhiêu là người! Thôi, chúc anh thành công, Tom!
Họ bỏ đi.
Tom cúi người xem kĩ đống vũ khí. Anh biết đó là loại vũ khí gì: trong các sách cổ người ta viết khá nhiều về chúng. Nhưng ở hành tinh Dilaver Mới này chưa bao giờ có ai phải sử dụng đến vũ khí cả: Những thú vật duy nhất sống ở hành tình này là những con thú lông xù xinh xắn và hiền lành chỉ độc ăn cỏ. Còn như bảo dùng vũ khí để chống lại những người đồng hương của mình, thì chưa hề có ai nảy sinh ý nghĩ ấy trong đầu cả!
Tom cầm lấy một con dao. Con dao rất lạnh. Tom sờ vào mũi dao. Nó rất sắc.
Tom đứng dậy, đi từ góc buồng này sang góc buồng khác, ngắm nghía đống vũ khí. Và mỗi lần nhìn thấy chúng anh lại cảm thấy ớn lạnh và khó chịu trong bụng. Anh nghĩ mình đã quá vội vàng khi đồng ý nhận nhiệm vụ này.
Tuy nhiên, tạm thời cũng chưa có gì phải lo lắng đặc biệt về nó. Vì việc đầu tiên anh phải làm là ngốn hết những cuốn sách cổ này đã. Biết đâu khi đọc xong, anh hiểu ra được công việc này có ý nghĩa to lớn như thế nào.
* * *
Anh đọc mấy tiếng đồng hồ liền - chỉ dừng lại giữa chừng có một lần để hút thuốc. Những cuốn sách được viết rất dễ hiểu. Những phương pháp khác nhau mà bọn tội phạm sử dụng được phân tích hết sức tỉ mỉ và hoàn toàn dễ áp dụng. Thỉnh thoảng còn có kèm theo tranh vẽ minh họa. Tuy thế nói chung mọi cái xem ra có vẻ hoàn toàn vô nghĩa. Người ta cần thực hiện các tội ác để làm gì nhỉ? Việc đó có lợi cho ai? Việc đó đem lại cho mọi người cái gì?
Các cuốn sách không đưa ra giải đáp cho những câu hỏi ấy. Tom lật giở từng trang sách, ngắm nghía chân dung những kẻ tội phạm. Chúng có vẻ mặt rất nghiêm nghị, căng thẳng. Có vẻ như chúng hoàn toàn nhận thức được vai trò của chúng trong xã hội. Tom rất muốn hiểu xem cái ấy là ở chỗ nào. Có thể khi đó mọi chuyện sẽ sáng tỏ.
- Tom? - Có tiếng ông thị trưởng gọi ngoài cửa sổ.
- Tôi đây, thưa ông thị trưởng, - Tom thưa.
Cửa mở, và ông thị trưởng thò đầu vào buồng. Bà chủ trại Jane, chị lái đò Meri và chị nấu bếp Elis nấp sau lưng ông ngó ra.
- Thế nào, Tom? - Ông thị trưởng hỏi.
- Thế nào là sao?
- Khi nào anh định bắt đầu?
Tom cười lúng túng.
- Thì tôi đang sắp sửa, - anh nói. - Tôi đang đọc sách, tôi muốn tìm hiểu.
Ba người đàn bà đáng kính nhìn anh chằm chằm. Tom quá lúng túng không biết nói gì. - Anh đang để phí thời gian vô ích, - Chị nấu bếp Elis nói.
- Ai cũng đều làm việc, không có ai ngồi không cả, - bà chủ trại Jane nói.
- Chả lẽ đi ăn cắp thứ gì lại khó đến thế sao? - Chị lái đò Meri hỏi với vẻ khích bác.
- Đúng đấy, Tom ạ, - ông thị trưởng nói. - Viên thanh tra có thể đến chỗ chúng ta bất cứ lúc nào, vậy mà cho đến nay ở làng ta vẫn chưa xảy ra vụ phạm tội nào. Chúng ta sẽ không có gì để giới thiệu với ông ta.
- Được rồi, được rồi, - Tom nói.
Anh nhét con dao và cái dùi cui vào thắt lưng, cầm lấy cái túi vải để nếu ăn cắp được cái gì thì nhét vào đấy, rồi bước ra ngoài.
Nhưng đi đâu bây giờ? Lúc đó là gần ba giờ chiều. Chợ, xét cho đúng, là nơi thích hợp nhất để ăn cắp, nhưng phải đến chiều muộn mới họp. Hơn nữa Tom cũng không muốn ăn cắp giữa ban ngày. Việc đó xem ra có vẻ gì không được chuyên nghiệp lắm.
Anh rút tờ lệnh trong đó có yêu cầu anh phải thực hiện các tội phạm, ra đọc lại một lần nữa từ đầu đến cuối “- phải ẩn trốn pháp luật trong những ngõ hẻm, phải lui tới những nơi có tiếng xấu...”
Tất cả đều rõ ràng! Anh sẽ phải lui tới những nơi có tiếng xấu. Tại đó anh có thể phác cho mình một kế hoạch và nghĩ ra phương pháp thích hợp để thực hiện. Tuy vậy chỉ có cái khó là không biết lựa chọn chỗ nào. Trong làng có nhà hàng “Con mèo nhỏ” do hai chị em góa chồng trông nom, có “Nơi nghỉ ngơi” của Jeff Say sưa, và cuối cùng, có quán rượu của bác Ed Bia.
Đành phải chọn cái tửu điếm này vậy.
* * *
Tửu điếm nằm trong một ngôi nhà nhỏ không có gì khác biệt mấy so với các ngôi nhà khác trong làng. Ở đó có một căn phòng rộng cho khách, một căn bếp và những phòng ngủ cho chủ nhà. Vợ của Ed làm nhiệm vụ nấu nướng quét dọn - công việc khiến cho chị ta bị đau ở vùng thắt lưng. Ed thì đứng sau quầy để rót rượu. Ed có nước da xanh tái, đôi mắt luôn ngái ngủ và có khả năng kì lạ là hay hốt hoảng vì những chuyện không đâu.
- Chào Tom, - Ed nói. - Nghe nói anh vừa được chỉ định làm kẻ tội phạm.
- Phải, được chỉ định, - Tom nói. - Rót cho tôi một cốc Peri-côla đi.
Ed Bia rót cho Tom một cốc nước uống không có cồn, rồi lo lắng quanh quẩn phía sau bàn Tom ngồi. - Thế này là thế nào? Tại sao anh lại ngồi đây, mà không đi ăn cắp đi?
- Tôi đang suy tính, - Tom nói. - Trong tờ lệnh có ghi rõ là tôi phải lui tới những nơi có tiếng xấu, vì vậy tôi phải ngồi ở đây.
- Nhưng như thế anh thấy có tốt không? - Ed Bia buồn rầu hỏi. - Chả lẽ quán của tôi lại có tiếng xấu, hả Tom?
- Khắp làng này không có chỗ nào thức ăn lại tồi như ở quán của bác cả, Ed ạ.
- Tôi biết. Con mụ vợ nhà tôi không biết nấu nướng. Nhưng ở chỗ chúng tôi mọi thứ đều rất rẻ, lại được đối xử như trong gia đình vậy. Và mọi người thích ghé đến quán chúng tôi.
- Bây giờ mọi việc sẽ khác, Ed ạ. Tôi tuyên bố quán của bác là đại bản doanh của tôi. Đôi vai Ed thõng xuống một cách buồn bã.
- Vậy thì hãy cố gắng đem lại hài lòng cho mọi người, - bác ta lẩm bẩm. - Rồi người ta sẽ cám ơn anh! - Nói xong bác ta lại ra sau quầy đứng.
Tom tiếp tục suy nghĩ. Anh ngạc nhiên thấy công việc này đối với anh lại khó khăn đến thế. Anh càng cố suy nghĩ bao nhiêu lại càng thấy khó bấy nhiêu. Nhưng với sự ương ngạnh buồn bã anh tiếp tục công việc của mình.
Một tiếng trôi qua. Chủ trại Richi, người con út của bác chủ trại Jad, thò đầu vào cửa. - Chú đã cuỗm được cái gì chưa, chú Tom?
- Vẫn chưa, - Tom đang cúi người trên bàn đáp. Anh vẫn đang tiếp tục suy nghĩ.
Ngày oi bức lặng lẽ dịu dần. Bóng tối bắt đầu len lỏi vào những ô cửa sổ nhỏ không được sạch sẽ lắm của quán rượu. Ngoài đường những con ve bắt đầu kêu, và làn gió mát đầu tiên của buổi tối làm xào xạc những ngọn cây trong rừng.
Bác lái đò lực lưỡng George và bác thợ dệt Maks rẽ vào quán làm một cốc rượu. Họ ghé ngồi vào bàn của Tom.
- Thế nào, công việc ra sao? - George hỏi thăm.
- Tồi lắm, - Tom nói. - Không hiểu sao tôi không tài nào đi ăn cắp được.
- Không sao, rồi anh sẽ làm được thôi, - George nhận xét một cách chậm rãi, nghiêm trang và quan trọng như mọi khi. - Ai chứ anh thế nào cũng học được thôi.
- Chúng tôi tin ở anh, Tom ạ, - Bác thợ dệt an ủi anh.
Tom cám ơn họ. Hai người ra khỏi quán và bỏ đi. Tom ngồi nhìn chăm chăm vào cái cốc không, tiếp tục suy nghĩ.
Một tiếng sau Ed Bia húng hắng ho có vẻ bối rối.
- Nói anh tha lỗi, Tom, nhưng bao giờ anh mới bắt đầu đi ăn cắp?
- Tôi sẽ bắt đầu bây giờ đây, - Tom nói.
Anh đứng dậy, kiểm tra xen vũ khí còn bên người không, rồi tiến về phía cửa.
* * *
Tại bãi họp chợ đã bắt đầu cuộc trao đổi hàng hóa buổi tối như thường lệ. Hàng hóa nằm chất đống trên các quầy hoặc trên các chiếu rơm trải trên cỏ. Cuộc trao đổi hàng hóa diễn ra không dùng đến tiền, cũng không có cả định mức trao đổi. Một nắm đinh tự chế có thể đổi lấy một xô sữa hay hai con cá, hoặc ngược lại - tùy theo ai muốn đổi lấy thứ gì, hoặc ai có nhu cầu cái gì. Tính toán xem cái gì trị giá bao nhiêu là chuyện chẳng ai phải bận tâm. Đó là cái thói quen trái đất duy nhất mà ông thị trưởng không tài nào áp dụng được vào làng của mình.
Khi Tom xuất hiện ở chợ mọi người đều lên tiếng chào hỏi anh.
- Hãy ăn cắp một chút gì đi chứ, Tom?
- Nào, ăn cắp đi, anh bạn!
- Anh sẽ ăn cắp được mà!
Chưa một người dân nào trong làng được chứng kiến một vụ ăn cắp. Đối với họ đó là hiện tượng kì dị của hành tinh Trái đất xa xôi. Và họ rất muộn được xem chuyện đó diễn ra như thế nào. Mọi người bỏ cả
hàng hóa của mình để nhìn Tom, khao khát theo dõi từng cử chỉ của anh.
Tom nhận thấy đôi tay anh run run. Anh không thích thú chút nào khi từng ấy con người đổ dồn mắt xem anh ăn cắp. Phải nhanh chóng kết thúc chuyện này thôi, anh tự nhủ mình, trong khi mình vẫn còn đủ can đảm.
Bất ngờ anh dừng lại trước một đống hoa quả chất nặng trên quầy của bà Thợ Xay. - Trông có vẻ khá ngọt đây, - anh nói một cách bâng quơ.
- Tươi lắm, cháu ạ, hái từ vườn đấy. - Bà Thợ Xay nói. Đó là một bà già nhỏ nhắn có đôi mắt linh lợi. Tom bỗng nhớ lại vào những năm xa xưa bà ta đã thao thao bất tuyệt với mẹ anh, hồi bố mẹ anh còn sống.
- Phải, trông bề ngoài có vẻ ngon đấy, - anh nói và thầm hối hận vì đã không dừng lại ở quầy người khác.
- Ngon lắm, ngon lắm, - bà thợ xay nói. - Bác mới hái trưa nay đấy.
- Anh ta sắp sửa ăn cắp bây giờ đấy! - Có tiếng người nào đó thì thầm nghe rất rõ. - Tất nhiên rồi. Hãy chú ý theo dõi đi! - cũng có tiếng thì thầm như thế đáp lại.
Tom cầm lấy một quả thật to và ngon, đưa lên ngắm nghía. Cả đám đông nín thở. - Đúng là trông rất ngon thật, - Tom nói rồi cẩn thận đặt trả lại nó vào chỗ cũ.
Đám đông thở dài.
Đứng sau quầy hàng bên cạnh là Maks Thợ dệt cùng vợ và năm đứa trẻ. Hôm nay họ mang hai cái chăn và một áo sơmi ra chợ để trao đổi. Khi Tom cùng đám đông bám đuôi anh đi đến gần họ, họ mỉm cười bẽn lẽn.
- Cái áo sơmi này anh mặc vừa đấy - bác thợ dệt vội vàng bảo anh. Bác ta rất muốn đám đông giải tán để đừng cản trở Tom làm công việc của anh.
- Hừm, - Tom cầm lấy chiếc áo, làu bàu.
Đám đông lại nhốn nháo chờ đợi. Một đứa bé gái cứ khinh khích cười không nín được. Tom nắm chặt chiếc áo sơ mi và bắt đầu mở miệng túi vải ra.
- Khoan đã! - Bác thợ sơn Billi lách qua đám đông. Trên thắt lưng bác ta lấp lánh huy hiệu cảnh sát trưởng - làm bằng đồng hào cổ của Trái đất. Nét mặt bác ta chứng tỏ không sai rằng bác ta đang đi làm nghĩa vụ của mình.
- Anh làm gì với cái áo sơmi này vậy, Tom? - Billi hỏi.
- Tôi ấy à? ... Tôi chỉ cầm lên xem thôi.
- Chỉ cầm lên xem thôi à? - Billi quay người, chắp hai tay sau lưng bỏ đi. Sau đó bác ta quay người lại thật nhanh và đưa ngón tay trỏ chỉ vào Tom. - Nhưng tôi thấy hình như không phải anh chỉ có ý định xem thôi, Tom. Tôi nghĩ rằng anh định ăn cắp nó!
Tom không đáp câu gì. Chiếc túi vải được nắm chặt trong một tay, còn trong tay kia là chiếc áo sơmi.
- Nghĩa vụ của tôi, với tư cách cảnh sát trưởng, - Billi tiếp tục - là bảo vệ những con người này. Tom, anh là đối tượng khả nghi. Để phòng xa tôi cho rằng cần phải nhốt anh vào tù để tiếp tục điều tra.
Tom cúi gầm mặt xuống. Anh không ngờ đến tình huống này. Vả lại, đối với anh cũng thế cả thôi.
Nếu họ tống giam anh, thì ít ra công việc này coi như đã chấm dứt, và đến khi Billi thả anh ra, anh sẽ có thể trở lại với công việc đánh cá của mình.
Bất ngờ ông thị trưởng rẽ đám đông đi đến. Vạt áo sơmi bay phất phơ quanh cái bụng phệ của ông. - Billi! Bác làm cái gì vậy?
- Tôi thực hiện nghĩa vụ của mình, thưa ông thị trưởng. Tom có hành động khả nghi. Mà trong sách có nói rằng...
- Tôi biết trong sách người ta nói gì, - ông thị trưởng nói. - Chính tôi đã cho bác mượn cuốn sách ấy. Bác không thể bắt giữ Tom được. Tạm thời chưa được.
- Nhưng trong làng chúng ta không còn kẻ tội phạm nào khác, - Billi buồn rầu nói. - Nhưng tôi có lỗi gì? - Ông thị trưởng nói.
Billi mím chặt môi một cách bướng bỉnh.
- Trong sách nói cảnh sát phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Cứ cho là tôi ngăn cản không để xảy ra tội ác.
Ông thị trưởng vung tay mệt mỏi.
- Billi, chả lẽ bác không hiểu sao? Làng chúng ta cần phải có ít ra một tội ác nào đó đã xảy ra. Và bác cũng phải giúp đỡ chúng tôi trong việc này.
Billi nhún vai.
- Thôi được rồi, ông thị trưởng. Chẳng qua tôi muốn thực hiện nghĩa vụ của mình thôi. - Bác ta quay đi, bước sang một bên, sau đó bỗng nhìn thẳng vào Tom - Thế nào anh sẽ còn gặp tôi! Hãy nhớ lấy: tội ác không thể đem lại điều tốt đâu. Rồi bác ta bỏ đi.
- Bác ta muốn tỏ ra chơi trội, - ông thị trưởng giải thích. - Đừng để ý đến bác ta làm gì, Tom. Anh hãy bắt tay vào việc của mình đi, hãy ăn trộm cái gì đó đi. Phải làm cho xong việc này.
Tom không nói gì. Anh nghiêng mình lách qua đám đông, nhằm hướng khu rừng xanh phía sau cổng làng.
- Anh đi đâu đấy, Tom? - Ông thị trưởng lo lắng hỏi.
- Hôm nay tôi chưa có tâm trạng ăn cắp, - Tom nói. - Có lẽ để tối mai...
- Không, Tom, ngay bây giờ, - ông thị trưởng không chịu. - Không thể kéo dài chuyện này mãi được. Hãy bắt đầu đi, tất cả chúng tôi sẽ giúp anh.
- Tất nhiên chúng tôi sẽ giúp. - Maks Thợ dệt nói. - Anh hãy ăn cắp chiếc sơmi này đi, Tom. Nó vừa vặn với anh đấy.
- Cả cái bình đựng nước đẹp này nữa, nhìn xem, Tom.
- Xem này, tôi có bao nhiêu hạt dẻ này!
Tom đảo mắt nhìn các gian hàng. Khi anh chìa tay với lấy cái áo sơmi của bác Thợ dệt thì con dao gài ở thắt lưng tuột ra rơi xuống đất. Trong đám đông có tiếng cười khinh khích thông cảm.
Tom, người toát hết mồ hôi, cảm thấy mình vụng về, nhặt con dao gài lại vào chỗ cũ. Anh giơ tay tóm lấy chiếc áo nhét vào cái túi vải. Trong đám đông có nhiều tiếng hò reo cổ vũ.
Tom cười ngượng nghịu, nhưng trong lòng thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút.
- Có lẽ dần dần tôi sẽ quen với công việc này.
- Chắc chắn rồi.
- Chúng tôi biết thế nào anh cũng làm được mà!
- Hãy ăn cắp thứ gì nữa đi, anh bạn!
Tom đi dọc theo chợ, vớ lấy một bó dây, một nắm hồ đào và một cái mũ bện bằng cỏ. - Theo tôi thế là đủ rồi, - anh nói với ông thị trưởng.
- Hôm nay thế là đủ, - ông thị trưởng nói. - Chỉ có điều, chắc anh cũng hiểu, việc này không được tính. Vì các thứ đó gần như mọi người tự nguyện đưa cho anh. Cứ coi như hôm nay anh mới chỉ thực tập thôi.
- Ô-ô! - Tom kéo dài giọng vẻ thất vọng.
- Nhưng bây giờ anh đã biết cách làm rồi. Lần sau chắc sẽ dễ dàng hơn nhiều.
- Có thể.
- Và nhớ đừng quên việc giết người đấy.
- Thế việc ấy có đúng cần thật không?
- Rất tiếc, - ông thị trưởng nói. - Nhưng không làm cách nào khác được. Thuộc địa chúng ta tồn tại đã hơn hai trăm năm, vậy mà chúng ta vẫn chưa có vụ giết người nào. Không có lấy một vụ! Còn nếu tin vào các tài liệu ghi chép, thì ở tất cả các thuộc địa khác người ta giết người vô tội vạ!
- Có nghĩa là chúng ta cũng phải có ít nhất một vụ giết người, - Tom tán thành. - Thôi được, tôi sẽ cố. Anh đi về nhà. Đám đông nhìn theo anh với ánh mắt khích lệ.
* * *
Về nhà Tom châm đèn lên và nấu bữa tối. Ăn xong, anh ngồi vào chiếc ghế bành sâu. Anh không bằng lòng với mình. Việc ăn cắp anh làm chưa tốt. Suốt ngày anh chỉ lo lắng, do dự. Mọi người gần như phải cố nhét vào tay anh các đồ vật của mình, để cuối cùng anh có can đảm ăn cắp chúng.
Làm như thế sao gọi là ăn cắp được!
Còn anh có thể nói gì để bào chữa? Ăn cắp và giết người - những công việc cần thiết như bất cứ việc nào khác. Còn nếu anh chưa bao giờ làm việc này và không sao hiểu được tại sao lại cần làm những việc đó - thì đấy chưa phải là nguyên nhân để có thể làm quấy quá cho xong nhiệm vụ được giao.
Tom đi ra cửa. Đêm tĩnh mịch, trời trong. Gần một tá những ngôi sao khổng lồ sáng chói trên bầu trời. Bãi họp chợ lại vắng ngắt, các nhà đều đã lên đèn.
Bây giờ mới đúng là lúc đi ăn trộm.
Nghĩ đến chuyện ăn trộm anh lại thấy lạnh sống lưng. Anh thấy có một cảm giác tự hào. Những ý nghĩ tội lỗi đã chín muồi như thế đó! Việc ăn cắp cũng phải tiến hành như vậy - một cách vụng trộm, dưới màn đêm bao phủ.
Tom kiểm tra thật nhanh vũ khí của mình, đổ những thứ ăn cướp được trong túi ra, rồi bước ra sân.
Ngoài phố những ngọn đèn cuối cùng đã tắt. Tom đi rất nhẹ qua làng. Anh đến nhà bác Lái đò Rodger. Ông Rodger bố để cái xẻng ở bên ngoài, dựa vào tường. Tom lấy cái xẻng. Anh lại bỏ qua vài nhà. Cái bình đựng nước của bác Thợ dệt vẫn đặt ở chỗ mọi khi, ngay trước cửa. Tom lấy cái bình. Trên đường về anh thấy một con ngựa con bằng gỗ không biết của đứa bé nào bỏ quên ngoài đường. Thế là con ngựa gỗ theo chân cái bình và xẻng.
Sau khi mang trót lọt những thứ ăn trộm được về nhà, Tom hồi hộp một cách sung sướng. Anh quyết định làm một chuyến nữa.
Lần này anh trở về nhà với tấm bảng bằng đồng tháo được ở cửa nhà ông thị trưởng, với cái cưa tốt nhất của bác Thợ mộc Mark và cái liềm của ông chủ trại Jad.
- Cũng không tồi, - Tom tự khen mình. Quả thật anh đã bắt đầu quen với cái nghề mới. Chỉ cần thêm
một chuyến nữa là buổi tối coi như không uổng phí!
Lần này dưới mái nhà của Ron Thợ đá anh tìm thấy cái búa và cái đục, còn cạnh nhà chị nấu bếp Elis anh vớ được cái làn cỏ. Anh đang định cuỗm thêm cái bừa cào của Jeff thì nghe thấy có tiếng động nhẹ. Anh áp người vào tường.
Billi Thợ sơn đang đi rình trên phố. Cái huy hiệu bằng kim loại ở người bác ta ánh lên dưới ánh sao. Một tay bác ta nắm chiếc dùi cui nặng, tay kia cầm cái còng tay tự tạo. Trong bóng tối mờ ảo khuôn mặt bác ta trông thật dữ tợn. Nét mặt bác thể hiện rõ quyết tâm bằng bất cứ giá nào phải diệt trừ tận gốc tội phạm, dù cái từ đó có ý nghĩa gì đi nữa.
Tom nín thở khi Billi đang lảng vảng ở cách anh chừng mười bước chân. Tom rón rén lùi lại. Mấy thứ đồ ăn cắp đựng trong túi vải kêu loảng xoảng.
- Ai ở đây? - Billi quát to. Không nghe tiếng trả lời, bác ta quay đi, nhìn chăm chăm vào bóng tối. Tom lại đứng nép vào tường. Anh tin rằng Billi không nhìn thấy anh. Mắt Billi khá kém, vì lúc nào bác ta cũng phải quấy sơn và bụi rơi vào mắt. Tất cả những thợ sơn đều bị bệnh mắt kém. Vì thế họ đâm ra hay cáu gắt.
- Tom, cậu đấy à? - Billi lên tiếng hỏi bằng giọng hết sức thân mật. Tom đã định lên tiếng trả lời, nhưng chợt anh nhận thấy chiếc dùi cui của Billi đã giơ lên trên đầu anh. Anh đứng lặng. - Thế nào tôi cũng tóm được cậu! - Billi hét to.
- Này! Để sáng mai hãy tóm cậu ta! - Jeff thò đầu ra ngoài cửa sổ phòng ngủ của mình kêu to. - Hãy để chúng tôi ngủ một chút.
Billi lại đi tiếp. Khi bác ta đã khuất hẳn, Tom vội vã đi về nhà và đổ những đồ ăn cắp được xuống sàn, bên cạnh đống chiến lợi phẩm ban nãy. Anh tự hào nhìn mẻ lưới của mình. Đống của ăn trộm được làm thức dậy trong anh ý thức về nghĩa vụ đã hoàn thành.
Sau khi uống một cốc nước lạnh, Tom đi nằm và lập tức chìm vào một giấc ngủ sâu thanh thản, không có mộng mị gì.
* * *
Sáng hôm sau Tom đi ra ngoài xem việc xây dựng ngôi trường nhỏ màu đỏ tiến hành đến đâu. Mấy anh em nhà Thợ mộc đang dốc sức làm, có vài nông dân đến giúp họ.
- Công việc thế nào? - Tom vui vẻ hỏi thăm họ.
- Tốt lắm, - Mark Thợ mộc nói. - Nếu tôi có cái cưa công việc này sẽ tốt hơn.
- Cưa của bác à? - Tom nghi hoặc hỏi lại.
Rồi anh nhớ ra ngay - vì chính anh đã ăn cắp nó đêm qua. Không hiểu sao lúc đó anh không hiểu ra đó là đồ vật của ai đó. Cái cưa, cũng như tất cả những đồ vật khác, chẳng qua chỉ là đối tượng để anh ăn cắp. Tom không lần nào nghĩ đến việc người ta còn phải sử dụng những vật ấy, rằng chúng có thể cần thiết cho ai đó.
Mark Thợ mộc hỏi:
- Anh nghĩ sao, tôi có thể mượn lại cái cưa một lúc được không? Độ hai tiếng thôi? - Tôi cũng không biết, - Tom cau mày nói. - Vì nó đã được ăn cắp đúng luật, chính bác cũng biết đấy. - Tất nhiên, tôi hiểu. Nhưng tôi chỉ muốn mượn nó một lúc thôi mà.
- Nhưng sau đó bác phải trả lại nó cho tôi.
- Chứ sao nữa! Rõ ràng là tôi phải trả rồi, - Mark nói một cách giận dỗi. - Chả lẽ tôi lại đi giữ cái của đã được ăn cắp một cách đúng luật hay sao?
- Nó đang ở nhà tôi, cùng các vật ăn cắp khác.
Mark cám ơn rồi chạy đi lấy cái cưa.
Tom thong thả tiếp tục đi dạo quanh làng. Anh đến gần nhà ông thị trưởng. Ông thị trưởng đang đứng trong sân, mắt ngước lên nhìn trời.
- Anh lấy cái biển đồng của tôi, phải không Tom? - Ông hỏi.
- Tất nhiên là tôi lấy, - Tom đáp với giọng khiêu khích.
- Ồ! Tôi chỉ hỏi thế thôi. - Ông thị trưởng chỉ lên trời: - Anh nhìn thấy không?
Tom ngước nhìn lên trời:
- Ở đâu?
- Anh có nhìn thấy cái chấm đen cạnh mặt trời nhỏ không?
- Thấy. Nhưng sao?
- Tôi cam đoan với anh rằng viên thanh tra đang bay đến chỗ chúng ta đấy. Công việc anh tiến hành thế nào?
- Tốt, - Tom nói hơi thiếu tự tin.
- Anh đã nghĩ ra kế hoạch giết người chưa?
- Chưa, - Tom thú nhận. - Thú thực việc này tôi thấy khó quá.
- Thôi đi vào nhà đã. Tôi cần nói chuyện với anh, Tom.
Trong phòng khách mát mẻ ông thị trưởng rót ra hai cốc nước và đẩy chiếc ghế lại cho Tom...
- Thời hạn của chúng ta sắp hết rồi, - ông thị trưởng âu sầu nói. - Viên thanh tra có thể đến đây bất cứ phút nào. Mà tôi thì công việc đang ngập đầu. - Ông chỉ vào chiếc radio liên hành tinh. - Nó lại bắt đầu nói. Nó thông báo cái gì đó về cuộc nổi dậy ở Dengơ IV và báo rằng tất cả những thuộc địa chưa tách khỏi Trái đất phải sẵn sàng tổng động viên - có quỷ biết được đó là cái gì. Từ cha sinh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ nghe nói đến Dengơ IV, vậy mà bây giờ phải lo lắng về nó, làm như tôi có ít việc phải làm lắm!
Ông nghiêm nghị nhìn Tom.
- Ở Trái đất những kẻ tội phạm thực hiện hàng chục vụ giết người mỗi ngày và không bao giờ họ phải suy nghĩ lâu về chuyện đó cả, còn anh, cả làng trông đợi anh chỉ có một vụ thôi, một vụ giết người nhỏ nhất, mà anh vẫn chưa làm được. Chả lẽ chuyện đó khó đến thế sao?
Tom cứ lau lau hai tay:
- Nhưng ông biết chính xác là bắt buộc phải có vụ giết người à?
- Chính anh cũng biết thế mà, - ông thị trưởng nói. - Nếu chúng ta muốn trở thành những người Trái đất thực sự, thì phải làm đến cùng. Mà giết người là điều duy nhất chứng tỏ sự lạc hậu của chúng ta. Tất cả mọi việc khác của chúng ta đều theo đúng thời gian biểu.
Billi Thợ sơn bước vào trong chiếc áo sơmi mới màu xanh với hàng cúc bạc và ngồi phịch xuống ghế. - Anh đã giết được ai đó chưa, Tom? - Ông thị trưởng nói.
- Anh ta muốn biết, việc đó có thực sự cần thiết không?
- Tất nhiên là cần rồi, - cảnh sát trưởng nói. - Anh cứ đọc bất kì cuốn sách nào thì biết. Làm sao anh có thể làm kẻ tội phạm được nếu không thực hiện được vụ giết người nào?
- Bây giờ anh định giết ai nào, Tom? - Ông thị trưởng hỏi.
Tom cứ cựa quậy trên ghế vẻ bồn chồn. Và cáu kỉnh bẻ bẻ mấy ngón tay.
- Thế nào?
- Thôi được, tôi sẽ giết Jeff, - Tom nói.
Billi Thợ sơn nhoài hẳn người ra phía trước.
- Vì sao? - Bác ta hỏi.
- Vì sao? Nhưng vì sao lại không được?
- Nhưng động cơ của anh là gì?
- Tôi nghĩ đơn giản là các ông chỉ đang cần một vụ giết người. - Tom cãi. - Không ai nói gì về động cơ cả.
- Giết người vô cớ thì không được - ông cảnh sát trưởng giải thích. - Giết người phải hoàn toàn theo đúng mọi quy định. Có nghĩa là anh phải có một động cơ xác đáng.
Tom suy nghĩ.
- Thế thì, cứ cho rằng tại vì tôi không thân với Jeff lắm. Động cơ như thế được chưa? Ông thị trưởng lắc đầu.
- Không, Tom, như thế không được. Tốt nhất anh hãy chọn người khác đi.
- Thế thì chúng ta cùng nghĩ vậy, - Tom nói. - Hay là giết George Bác lái đò.
- Nhưng động cơ là gì? - Billi hỏi ngay.
- E hèm, ... Thú thật, tôi không thích cái dáng đi của bác ấy lắm. Từ lâu tôi đã không thích rồi. Mà lại hay nói to... nghĩa là đôi khi.
Ông thị trưởng gật đầu vẻ tán thành.
- Có lẽ như thế được đấy. Bác thấy thế nào, Billi?
- Theo các ông, làm sao tôi có thể điều tra một tội ác được thực hiện theo các động cơ như thế? - Billi hỏi lại giọng cáu kỉnh. - Giá bảo như anh giết bác ấy trong tâm trạng bị kích động mạnh cơ còn được. Nhưng anh phải giết người theo đúng mọi quy định, Tom ạ. Và phải phù hợp với bản nhận xét: một kẻ giết người khát máu, lạnh lùng và tàn nhẫn. Anh không thể giết một người chỉ vì anh không thích dáng đi của người ấy. Nghe nó ngớ ngẩn lắm.
- Nếu thế có lẽ tôi phải suy nghĩ thêm, - Tom đứng dậy nói.
- Chỉ có điều anh đừng nghĩ lâu quá, - ông thị trưởng nói. - Công việc này kết thúc càng nhanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Tom gật đầu và đi ra cửa.
- A, Tom này! - Billi gọi với theo. - Nhớ phải để lại dấu vết đấy nhé. Việc đó quan trọng lắm. - Được rồi, - Tom nói rồi bước ra.
Hầu như tất cả mọi người trong làng đều đứng ngoài đường nhìn lên trời. Cái chấm đen đã to hẳn. Nó gần như che kín cả cái mặt trời nhỏ.
Tom đi đến đại bản doanh của anh ở nơi có tiếng xấu để suy nghĩ cho thật kĩ. Ed Bia, rõ ràng đã xem lại thái độ của mình đối với các phần tử tội phạm. Bác ta đã sắp xếp lại cái quán. Xuất hiện một tấm biển lớn, đề: Hang ổ của kẻ tội phạm. Những tấm cửa sổ được treo bằng những tấm rèm mới nhưng được cố ý bôi đầy vết bẩn, làm cho ánh sáng khó lọt qua và khiến cho cái quán thực sự có vẻ là một ổ hắc điếm. Trên một bức tường treo đủ các loại vũ khí đẽo bằng gỗ. Trên bức tường khác một vết màu đỏ máu tạo nên
một ấn tượng thực sự khủng khiếp, mặc dù Tom biết đó chỉ là bột màu mà Billi Thợ sơn chế từ một thứ quả rừng.
- Vào đi, vào đi, Tom, - Ed Bia nói rồi dẫn khách vào cái góc tối tăm nhất. Tom nhận thấy vào giờ này trong quán chưa bao giờ đông khách như vậy. Mọi người có lẽ cảm thấy thích thú được đến thăm một cái hắc điếm thực sự của kẻ tội phạm.
Vừa nhâm nhi cốc Peri-côla, Tom vừa suy nghĩ.
Anh buộc phải tiến hành vụ giết người.
Anh rút tờ lệnh ra, đọc lại một lượt từ đầu đến cuối.
Một công việc chó chết, nếu để tự nguyện không đời nào anh đi nhận công việc này, nhưng pháp luật bắt buộc anh phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tom uống xong cốc Peri-côla và tập trung suy nghĩ về vụ giết người. Anh tự bảo mình, cần phải giết một ai đó. Cần phải cướp đi sinh mạng của ai đó. Cần phải cho một ai đó sang thế giới bên kia.
Nhưng dù anh có nói gì đi nữa, điều đó cũng không thể hiện bản chất sự việc. Đó chỉ là những lời nói suông, có thế thôi. Để sắp xếp lại các ý nghĩ cho có đầu có đuôi, Tom thử lấy bác Thợ mộc Mark to khỏe, tóc hung ra làm ví dụ. Hôm nay bác Mark sau khi mượn lại cái cưa, đang xây ngôi trường học. Nếu Tom giết Mark... lúc đó Mark sẽ không tiếp tục xây dựng được nữa.
Tom sốt ruột lắc đầu, Mark Thợ mộc là người khỏe mạnh nhất, và theo ý kiến nhiều người, là giỏi nhất trong đám thợ mộc. Cứ nhìn bàn tay khỏe mạnh của bác ta nắm chắc cái bào bào những tấm gỗ thì thấy.
Đấy, đó là Mark Thợ mộc. Và bây giờ...
Mark Thợ mộc nằm sóng soài trên mặt đất, đôi mắt mở trợn trừng, tay chân cứng ngắt, miệng méo xệch sang một bên, bác ta đã tắt thở, tim không đập nữa. Bác ta không bao giờ còn được nắm chặt các khúc gỗ trong bàn tay vạm vỡ nữa. Không bao giờ còn than vãn về chứng đau nhức ở vai mà ông Ian thày thuốc không giúp gì được nữa.
Trong một khoảnh khắc Tom bỗng cảm nhận được một cách thấm thía thế nào là giết người. Hình ảnh đã biến mất, nhưng ấn tượng về nó vẫn còn lại - nó rõ ràng đến nỗi Tom cảm thấy hơi buồn nôn.
Anh có thể đi ăn cắp mà vẫn sống. Nhưng đi giết người, thậm chí vì những lợi ích cao cả nhất, vì lợi ích của cả làng thì...
Người ta sẽ nói gì nếu họ nhìn thấy cảnh tượng mà anh vừa hình dung ra? Khi đó làm sao anh có thể sống giữa mọi người? Làm sao anh có thể chấp nhận chính mình?
Tuy vậy, anh vẫn phải giết người. Mỗi người trong làng đều phải làm một việc gì đó cho làng, và cái công việc oái oăm này lại rơi đúng vào anh.
Nhưng anh phải giết ai bây giờ đây?
* * *
Sự náo động bắt đầu sau đó ít lâu, khi chiếc radio liên hành tinh bực dọc phát tin bằng những giọng nói khác nhau.
- Có phải thuộc địa đấy không? Thủ đô của các anh ở đâu?
- Nó ở đây, - ông thị trưởng đáp.
- Sân bay của các anh ở đâu?
- Hình như ở đó bây giờ đã thành bãi chăn nuôi, - ông thị trưởng nói. - Tôi có thể tra cứu ở các sách xem trước kia sân bay ở chỗ nào. Chưa có một con tàu vũ trụ nào hạ cánh xuống đây đã trên...
- Nếu vậy con tàu chính sẽ ở lại trên không trung. Hãy tập hợp tất cả dân làng lại. Tôi hạ cánh đây.
Cả làng tập hợp xung quanh một bãi trống mà viên thanh tra lựa chọn để hạ cánh. Tom nhét vũ khí vào thắt lưng quần, nấp sau một gốc cây và bắt đầu quan sát.
Một con tàu vũ trụ nhỏ tách khỏi con tàu lớn và lao nhanh xuống dưới. Nó rơi như một hòn đá xuống cánh đồng, cả làng nín thở chờ xem nó vỡ tan. Nhưng vào giây cuối cùng con tàu bất ngờ phun ra những tia lửa, đốt cháy cả một vùng cỏ, rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống đất.
Ông thị trưởng dùng hai khuỷu tay rẽ đám đông tiến lên phía trước; hấp tấp bước theo sau là bác Thợ sơn Billi. Cửa con tàu mở ra, và hiện ra bốn người đàn ông. Họ cầm trong tay những vật bằng kim loại sáng loáng, và Tom hiểu rằng đó là vũ khí. Bước ra sau họ là một người đàn ông béo tốt, mặt đỏ gay, mặc quần áo đen với bốn tấm mề đay lấp lánh trên ngực. Đi cùng ông ta là một người bé nhỏ mặt có nhiều nếp nhăn, cũng mặc quần áo đen. Sau họ lại có bốn người nữa ăn mặc đồng phục giống nhau.
- Chào mừng các vị đến Dilaver Mới, - ông thị trưởng nói.
- Cám ơn Tướng quân, - người đàn ông to béo đưa tay lịch sự bắt tay ông thị trưởng. - Tôi là thanh tra Dilumein. Còn đây là ngài Grent, cố vấn chính trị của tôi.
Grent gật đầu chào ông thị trưởng, làm ra vẻ không nhìn thấy bàn tay chìa ra của ông ta: với vẻ bề trên khinh khỉnh ông ta đưa mắt nhìn đám dân Dilaver tụ tập xung quanh.
- Chúng tôi muốn đi xem ngôi làng, - viên thanh tra nói và liếc nhìn Grent. Grent gật đầu. Đội bảo vệ mặc quân phục xếp thành hình vòng cung bao lấy họ.
Tom, lén lút như một con thú rình mồi thực sự, giữ một khoảng cách an toàn, đứng theo dõi họ. Khi họ tiến vào đến làng, anh nấp sau một ngôi nhà và tiếp tục quan sát.
Ông thị trưởng với vẻ hãnh diện giới thiệu với khách nhà tù, bưu điện, nhà thờ và ngôi trường nhỏ sơn đỏ. Viên thanh tra có vẻ hơi thất vọng. Ngài Grent thì cười mỉm trông rất khó chịu.
- Đúng như tôi đoán, - ông ta nói với viên thanh tra. - Chỉ mất thì giờ và tốn nhiên liệu một cách vô ích. Ở đây hoàn toàn không có gì giá trị.
- Tôi không tin là như vậy, - viên thanh tra nói. Rồi quay sang phía ông thị trưởng. - Nhưng ngài xây dựng tất cả những thứ này để làm gì, Tướng quân?
- Sao? Để trở thành những người Trái đất thực sự chứ còn để làm gì nữa, - ông thị trưởng đáp. - Các ngài thấy đấy, chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể.
Ngài cố vấn thì thầm gì đó vào tai viên thanh tra.
- Tướng quân hãy cho biết - viên thanh tra quay sang bảo ông thị trưởng - trong làng của Tướng quân có bao nhiêu thanh niên trai tráng?
- Xin lỗi? - Ông thị trưởng hỏi lại vẻ lúng túng.
- Trong làng của Tướng quân có tất cả bao nhiêu thanh niên ở độ tuổi từ mười lăm đến sáu mươi? - Ông Grent giải thích.
- Ông biết đấy, tướng quân, Đế chế Đất Mẹ đang trong tình trạng chiến tranh. Dân thuộc địa ở Dengơ IV và một số thuộc địa khác nổi dậy chống lại quyền cai trị hợp pháp của Đất Mẹ.
- Tôi lấy làm đau xót nghe tin ấy, - ông thị trưởng nói với giọng thương cảm.
- Chúng tôi cần người cho quân đoàn bộ binh vũ trụ, - viên thanh tra nói. - Những người đàn ông rắn chắc, khỏe mạnh và thiện chiến. Nguồn nhân lực của chúng tôi đã cạn...
- Chúng tôi muốn, - ngài cố vấn Grent nói thêm với giọng trịnh trọng, - dành cho tất cả những người dân thuộc địa trung thành với Đất Mẹ cơ hội tham gia vào cuộc chiến đấu sống còn vì Đế Chế Đất Mẹ. Chúng tôi tin rằng sẽ không nghe được lời từ chối của các ngài.
- Tất nhiên là không, - ông thị trưởng nói. - Tôi tin rằng tất cả những người trẻ tuổi của chúng tôi sẽ rất sung sướng... Thật ra, họ không phải là những người đặc biệt tháo vát lắm trong chuyện này, nhưng họ là những chàng trai rất thông minh. Tôi cho rằng họ có thể nhanh chóng làm quen.
- Đấy, ngài thấy không, - viên thanh tra quay sang ngài Grent bảo. - Sáu mươi, bảy mươi, mà có thể hàng trăm chiến binh mới. Cũng không đến nỗi phí thời gian như ta tưởng.
Nhưng ngài Grent vẫn tỏ ra bi quan như trước.
Viên thanh tra và ngài cố vấn cùng đi đến nhà ông thị trưởng để ăn một chút gì. Có bốn người lính đi hộ tống họ. Còn bốn người khác thì đi dạo trong làng.
Tom nấp trong một khu rừng nhỏ gần đấy để suy nghĩ cho thật cặn kẽ mọi chuyện. Trong bóng chiều chạng vạng bà Ed Bia sợ sệt nhìn bốn phía rồi bước ra khỏi bìa rừng. Bà Ed Bia là một phụ nữ gày gò, tuổi trung niên, có mái tóc vàng đã bắt đầu bạc. Mặc dù cái đầu gối hơi bị phong thấp, song bà đi lại vẫn rất nhanh nhẹn. Tay bà xách một cái làn có đậy một chiếc khăn carô màu đỏ.
- Tôi mang thức ăn đến cho anh đây, - vừa nhìn thấy Tom bà nói ngay.
- Thế à?... Cám ơn, - Tom nói vẫn chưa hết vẻ ngạc nhiên. - Nhưng bà hoàn toàn không phải làm việc này.
- Sao lại không phải? Vì quán rượu của chúng tôi là nơi mang tiếng xấu trong làng, nơi mà anh phải trốn tránh pháp luật, đúng không? Chả lẽ không phải như vậy? Nghĩa là chúng tôi phải chịu trách nhiệm về anh và phải quan tâm săn sóc đến anh. Ông thị trưởng ra lệnh cho tôi chuyển cho anh một thứ.
Tom mồm còn đang nhồm nhoàm nhai nhìn bà Ed Bia.
- Lại còn cái gì nữa?
- Ông ấy bảo anh phải khẩn trương tiến hành giết người đi. Tạm thời ông ấy đang phải tìm cách nói dối viên thanh tra và cái lão Grent lùn đáng ghét ấy. Nhưng sớm hay muộn thế nào họ cũng thẩm tra ông ấy. Tôi tin như vậy.
Tom gật đầu.
- Thế khi nào anh mới làm việc đó, Tom? - Bà Ed Bia ngoẹo đầu nhìn anh hỏi.
- Tôi không có trách nhiệm phải nói với bà, - Tom nói.
- Sao lại không có trách nhiệm. Tôi là kẻ đồng lõa của anh mà! Bà Ed tiến lại gần hơn.
- Phải, đúng thế. - Tom đăm chiêu thừa nhận. - Thôi được, ngay đêm nay, khi trời tối hẳn tôi sẽ thực hiện. Hãy nói với Billi Thợ sơn là tôi sẽ để lại tất cả các dấu tay và mọi tang chứng khác có thể.
- Được rồi, Tom, - bà Ed Bia nói, - Chúa sẽ phù hộ anh.
* * *
Tom chờ cho trời tối, còn lúc này anh đang tiếp tục quan sát những chuyện xảy ra trong làng. Anh nhìn thấy mấy tay lính đã uống say bét nhè. Bọn chúng đi nhởn nhơ khắp làng với cái vẻ như trên đời này không còn ai khác ngoài chúng.
Một tên lính rút súng bắn chỉ thiên làm cho những con thú lông xù đang ăn cỏ cách đấy nhiều dặm cũng phải hoảng sợ.
Viên thanh tra và lão Grent vẫn đang ngồi nhà ông thị trưởng.
Đêm bắt đầu xuống. Tom lẻn quay về làng và nấp vào khe hẹp giữa hai ngôi nhà. Anh rút từ thắt lưng ra con dao và bắt đầu đợi.
Có người nào đó đang đi trên đường, Tom cố nhớ lại những phương pháp mà bọn giết người thường áp
dụng, nhưng không thể nhớ được gì. Anh chỉ biết là cần phải thực hiện vụ giết người, và càng nhanh càng tốt. Người kia đang đến gần. Hình dáng người đó lắc lư không rõ trong bóng tối.
- A, anh đấy à, Tom? - Ông thị trưởng nói. Ông nhìn con dao - Anh đang làm gì ở đây thế? - Ông bảo là phải giết ai đó, vì thế tôi...
- Tôi không nói là anh giết tôi, - ông thị trưởng lùi lại nói - không được giết tôi.
- Tại sao lại không được? - Tom hỏi.
- Thứ nhất, tại vì tôi đang phải đón viên thanh tra. Ông ấy đang đợi tôi. Cần phải giới thiệu cho ông ấy...
- Chuyện ấy bác Billi Thợ sơn có thể làm được, - Tom nói. Anh tóm lấy cổ áo sơmi ông thị trưởng và dí mũi dao nhọn vào cổ ông. - Tất nhiên, cá nhân tôi không có gì thù tức ông, - anh nói thêm.
- Khoan đã. - Ông thị trưởng kêu lên. - Nếu anh không có gì thù tức tôi, nghĩa là anh không có động cơ!
Tom hạ dao xuống, nhưng vẫn giữ chặt cổ áo.
- Không sao, tôi có thể nghĩ ra một động cơ khác. Chẳng hạn, tôi rất tức giận khi ông chỉ định tôi làm kẻ tội phạm.
- Nhưng đó là thị trưởng chỉ định anh, đúng không?
- Đúng, nếu không thì là ai?
Ông thị trưởng kéo Tom từ bóng tối ra chỗ đường sáng ánh sao.
- Anh nhìn đi!
Tom há hốc mồm. Ông thị trưởng mặc chiếc quần có nếp li sắc như lưỡi dao và khoác áo quân phục lấp lánh huy chương. Trên mỗi bên cầu vai có một hàng sao, mỗi hàng có đến mười ngôi sao. Chiếc mũ có thêu bằng chỉ kim tuyến hình ngôi sao băng.
- Anh thấy chưa, Tom? Bây giờ tôi không còn là thị trưởng nữa. Tôi là viên tướng! - Nhưng có gì khác nhau? Vì con người ông vẫn là một.
- Nhưng xét về quan điểm pháp lí thì khác. Tiếc là anh đã không dự buổi lễ tổ chức sau bữa ăn trưa hôm nay. Ngài thanh tra tuyên bố rằng vì tôi được chính thức chuyển sang hàng ngũ tướng nên tôi phải mặc bộ quân phục tướng. Buổi lễ đã diễn ra trong bầu không khí hết sức thân mật. Tất cả mọi người ở Trái đất đến đều nháy mắt cười với tôi và với nhau.
Tom lại giơ con dao lên với vẻ mặt như sắp mổ bụng cá.
- Chúc mừng ông, - anh nói với sự thành tâm không giả dối, - nhưng khi ông bổ nhiệm tôi làm kẻ tội phạm thì ông là thị trưởng, nghĩa là động cơ của tôi vẫn có hiệu lực.
- Nhưng như vậy anh giết không phải thị trưởng! Anh giết một viên tướng! Và như thế không phải là vụ giết người!
- Không phải giết người? - Tom hỏi. - Vậy nó là gì?
- Anh biết đấy, giết tướng có nghĩa là sự nổi loạn!
- Ô! - Tom buông dao xuống. Sau đó bỏ cổ áo ông thị trưởng ra. - Tôi xin lỗi.
- Không sao, - ông thị trưởng nói. - Một sai lầm hoàn toàn có thể tha thứ được. Đơn giản là vì tôi đọc được điều đó trong sách, còn anh thì không. - Ông thở phào một cái. - Thôi, có lẽ tôi phải đi đây. Ông thanh tra yêu cầu tôi làm danh sách những người được tuyển.
Tom kêu với theo:
- Ông vẫn chắc là tôi buộc phải giết ai đó à?
- Tôi tin chắc, - ông thị trưởng vội vã bỏ đi, đáp. - Nhưng có điều không phải là tôi. Tom lại nhét dao vào thắt lưng.
Không phải tôi! Không phải tôi! Người nào cũng sẽ nói thế. Trong khi đó vẫn cần có một người bị giết. Người đó là ai? Anh không thể tự giết bản thân mình được. Như thế không phải giết người, mà là tự tử, do đó sẽ không được tính.
Tom cảm thấy run sợ. Anh cố quên nghĩ đến chuyện vụ giết người phút chốc hiện ra trước mắt anh với toàn bộ tính hiện thực của nó. Công việc bắt buộc phải làm.
Lại có người nào đang đi đến!
Người đó mỗi lúc một gần hơn. Tom cúi khom người, các cơ bắp của anh cứng lại, anh chuẩn bị nhảy chồm ra.
Đó là bà Thợ xay. Bà đi chợ về và đang xách một làn rau.
Tom tự nhủ điều đó chẳng có ý nghĩa gì - bà Thợ xay hay người nào khác. Nhưng anh không thể nào gạt khỏi đầu những hồi tưởng về cuộc trò chuyện của bà với mẹ anh. Thành thử, anh không có động cơ nào để giết bà Thợ xay cả.
Bà đi ngang qua mặt anh nhưng không nhìn thấy anh.
Anh đợi thêm khoảng ba mươi phút nữa. Trong khoảng tối giữa các nhà lại xuất hiện bóng người. Tom nhận ra bác Thợ dệt Maks.
Tom lúc nào cũng thích Maks. Nhưng điều đó chưa có nghĩa là Tom không có động cơ để giết Maks. Nhưng anh tuyệt đối không nghĩ ra được cớ gì, ngoại trừ Maks có vợ và năm đứa con rất quý mến anh. Tom không muốn để Billi sau này nói với anh rằng đó không phải là động cơ. Anh lùi sâu vào bóng tối và để cho Maks đi qua.
Xuất hiện ba anh em nhà Thợ mộc. Với họ Tom có một kí ức quá đau buồn. Anh cho họ đi qua. Tiếp theo họ là bác Lái đò Rodger.
Tom không có lí do gì để giết Rodger, nhưng kết bạn thì chưa bao giờ anh kết thân với bác ta. Hơn nữa Rodger lại không có con, còn vợ bác ta thì không thể nói là quá yêu thương bác ta. Có thể tất cả những điều đó đủ để cho Billi phát hiện ra những động cơ giết người?
Tom hiểu rằng như thế chưa đủ... Và với tất cả những người khác trong làng cũng vậy. Anh lớn lên giữa những người này, cùng ăn uống, cùng lao động với họ, chia sẻ các niềm vui và nỗi buồn với họ. Thực ra anh có thể có những động cơ nào để giết một người trong số họ?
Nhưng anh bị bắt buộc phải giết. Cái lệnh phát cho anh yêu cầu điều đó. Không thể lừa dối sự tin cậy của những người cùng làng. Nhưng mặt khác anh lại không thể giết một trong số những người mà anh biết rõ từ khi mới nằm nôi.
Khoan đã! - Bỗng anh xúc động mạnh khi chợt nghĩ ra một ý. Có thể giết viên thanh tra được!
Động cơ ư? Nhưng như thế còn gây ra tội ác kinh khủng hơn so với việc giết ông thị trưởng... Tất nhiên ông thị trưởng bây giờ còn là tướng, nhưng giết ông ta mới chỉ có nghĩa là nổi loạn. Thậm chí cho rằng ông thị trưởng vẫn chỉ là thị trưởng như trước, thì viên thanh tra là một nạn nhân quan trọng hơn nhiều. Tom sẽ thực hiện vụ giết người này vì danh dự, vì chiến công, vì nghĩa lớn! Vụ giết người này sẽ cho Trái đất thấy thuộc địa của nó trung thành với các truyền thống của Trái đất như thế nào! Và ở Trái đất người ta sẽ nói: “ở Dilaver Mới tội ác đã đạt tới mức mà có mặt ở đó là rất nguy hiểm. Một kẻ tội phạm đã vô cớ đi giết viên thanh tra ngay ngày đầu tiên ông đặt chân tới đó! Trên khắp vũ trụ này hiếm nghe nói đến một vụ giết người nào đáng sợ như vậy!”
Đó chắc chắn sẽ là vụ giết người hiệu quả nhất mà người ta có thể thực hiện, Tom nghĩ. Vụ giết người
mà chỉ có tên giết người lão luyện nhất mới làm được.
Lần đầu tiên cảm thấy dạt dào niềm kiêu hãnh, Tom vội vã đi đến nhà ông thị trưởng. Vẳng đến tai anh những mẩu đối thoại đang diễn ra bên trong nhà.
- ... một dân tộc hết sức thụ động, - lão Grent nói. - Thậm chí tôi có thể nói là nhút nhát. - Một tính cách khá là buồn tẻ, - viên thanh tra nhận xét. - Đặc biệt là ở các người lính.
- Thế ông định chờ đợi gì ở những con người lạc hậu này? May là chúng ta chỉ tuyển mộ ở đây một số lính. - Lão Grent ngáp một cái rõ to. - Lính gác đâu, nghiêm! Chúng ta trở lại tàu vũ trụ.
Lính canh! Tom hoàn toàn quên khuấy mất bọn chúng. Anh do dự nhìn con dao. Nếu anh lao vào viên thanh tra, đám lính canh chắc chắn sẽ kịp giữ anh lại trước khi anh thực hiện được vụ giết người. Chắc chắn chúng đã được huấn luyện kĩ cho việc này.
Giá như anh có được thứ vũ khí giống của bọn chúng...
Từ trong nhà vẳng ra tiếng bước chân. Tom vội vã đi tiếp trên phố.
Gần chợ anh nhìn thấy một tên lính say đang ngồi trên thềm một ngôi nhà và ngêu ngao hát gì đó. Dưới chân hắn vương vãi hai cái vỏ chai, khẩu súng treo cẩu thả trên vai.
Tom lén đến gần, rút cái gậy gỗ ra giơ lên...
Có lẽ cái bóng của anh làm tên lính chú ý. Hắn đứng phắt dậy, cúi người tránh kịp cú gậy giáng vào đầu. Hắn đấm Tom vào mạng sườn một quả, tháo súng trên vai ra và nhằm bắn. Tom nhảy sang một bên tránh, phi cả hai chân đá vào hắn. Cú đạp của anh trúng đùi làm tên lính ngã bổ chửng. Trước khi hắn kịp đứng dậy Tom đã nện cho hắn mấy gậy vào đầu.
Tom sờ mạch tên lính (giết một người ngẫu nhiên không có ý nghĩa gì) và thấy mạch hắn vẫn hoàn toàn bình thường. Anh cầm khẩu súng trường lên, kiểm tra xem cò súng ở đâu và phải bóp ở chỗ nào, rồi bỏ đi tìm viên thanh tra.
Anh bắt gặp ông ta trên đường ông ta đi ra bãi hạ cánh. Viên thanh tra và lão Grent đi phía trước, theo sau họ là mấy tên lính.
Tom vừa men theo các bụi cây vừa đi theo họ. Anh bí mật đuổi kịp đoàn người cho đến khi lên ngang cùng viên thanh tra và lão Grent. Anh giơ súng ngắm, nhưng ngón tay anh cứng lại ở chỗ cò súng...
Anh không muốn giết thêm cả lão Grent. Vì người ta chỉ yêu cầu anh giết có một người.
Tom vượt lên trước viên thanh tra, rồi bước ra giữa đường, chắn đường ông ta. Súng của anh chĩa thẳng vào viên thanh tra.
- Chuyện gì thế này? - Viên thanh tra hỏi.
- Đứng nghiêm, - Tom nói với ông ta. - Tất cả những người khác vứt súng xuống và tránh ra một bên.
Những tên lính ngoan ngoãn nghe lời. Chúng lần lượt vứt súng xuống đất rồi chạy sang các bụi cây hai bên đường. Grent vẫn đứng nguyên tại chỗ.
- Anh bạn định làm gì vậy? - Lão hỏi.
- Tôi là kẻ tội phạm thành phố, - Tom đáp một cách kiêu hãnh. - Tôi muốn giết viên thanh tra. Xin mời ông tránh ra một bên.
Grent tròn mắt nhìn anh.
- Kẻ tội phạm à? Hóa ra ông thị trưởng ấp úng về chuyện này.
- Tôi biết ở làng chúng tôi đã hơn hai trăm năm nay chưa có vụ giết người nào, - Tom giải thích, - nhưng bây giờ tôi sẽ sửa sai. Ông hãy lui ra chỗ khác đi!
Grent nhảy vội sang một bên tránh nòng súng đang chĩa vào lão. Viên thanh tra còn lại một mình. Ông ta đứng hơi loạng choạng.
Tom vừa giương súng ngắm vừa nghĩ đến chuyện vụ giết người này sẽ gây ra hậu quả như thế nào và về ý nghĩa xã hội của nó.
Nhưng anh nhìn thấy viên thanh tra nằm sóng soài trên mặt đất với đôi mắt trợn trừng nhìn bất động, cái miệng méo xệch, và quả tim ngừng đập.
Anh cố bắt ngón tay mình ấn vào cò súng. Cái đầu anh có thể tha hồ thuyết phục anh rằng việc giết người này cần thiết về mặt xã hội như thế nào, - nhưng bàn tay anh còn biết rõ hơn.
- Tôi không thể, - Tom kêu lên.
Anh ném súng xuống và chạy vào bụi cây.
Viên thanh tra muốn phái người đi tìm Tom và treo cổ anh tại chỗ. Nhưng ngài Grent không tán thành với ông ta. Dilaver Mới là một hành tinh đầy rừng rậm. Mười nghìn người cũng không thể tìm được kẻ chạy trốn trong những khu rừng âm u này nếu như hắn ta không muốn rơi vào tay họ.
Nghe tiếng huyên náo, ông thị trưởng và một người dân làng chạy đến. Đám lính tạo thành một vòng tròn bảo vệ viên thanh tra và ngài Grent. Họ đứng tay cầm súng sẵn sàng. Nét mặt họ nghiêm nghị và cau có.
Ông thị trưởng giải thích đầu đuôi câu chuyện. Ông nói về sự lạc hậu đáng buồn của làng trong lĩnh vực tội phạm. Về mệnh lệnh được giao cho Tom Đánh cá. Về chuyện anh ta đã làm xấu hổ cả làng vì đã không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Tại sao ông giao nhiệm vụ này cho chính anh ta? - Ngài Grent hỏi.
- Các ông thấy đấy, - ông thị trưởng nói. - Tôi nghĩ rằng trong làng này nếu có người nào có khả năng giết người thì người đó chỉ có thể là Tom. Các ông hiểu không, anh ấy là dân đánh cá! Đó là công việc cũng tương đối máu me.
- Nghĩa là tất cả những người khác ở chỗ ông không có khả năng giết người?
- Không ai trong số chúng tôi chưa bao giờ tiến xa bằng Tom, - ông thị trưởng buồn rầu thú nhận.
Viên thanh tra và Grent đưa mắt nhìn nhau, sau đó nhìn đám lính. Đám lính với sự ngạc nhiên nhìn dân làng và bắt đầu thì thào với nhau chuyện gì.
- Nghiêm! - Viên thanh tra gầm gừ. Ông ta quay sang Grent và hạ giọng nói. - Trong khi chưa muộn ta phải rời khỏi đây nhanh. Người không biết giết người làm sao có thể đứng trong quân đội của ta được!
- Tình trạng đạo đức của các binh lính của ta... - Ngài Grent lẩm bẩm, toàn thân run rẩy, - một bệnh lây nhiễm nguy hiểm... Một người, nếu anh ta không có khả năng bóp cò súng, có thể vào giây phút quan trọng phá hủy cả con tàu vũ trụ... Không, không thể mạo hiểm như vậy được.
Họ ra lệnh cho đám lính quay về tàu vũ trụ. Đám lính bước đi lười biếng hơn mọi khi, thỉnh thoảng lại ngoái đầu lại nhìn ngôi làng. Họ vẫn tiếp tục thì thầm với nhau, mặc cho viên thanh tra cứ gầm lên và liên tục ra lệnh.
Con tàu vũ trụ nhỏ bay lên giữa đám khói phun ra từ nó. Vài phút sau nó đã bị nuốt vào trong bụng con tàu lớn. Sau đó còn tàu lớn cũng mất hút.
Mặt trời lớn màu đỏ đã sà xuống sát mép đường chân trời.
- Bây giờ anh có thể ra được rồi đấy, Tom! - Ông thị trưởng gọi to. Tom chui ra khỏi bụi cây nơi anh đứng nấp để theo dõi mọi biến cố xảy ra.
- Tôi đã đoảng vị khi thực hiện nhiệm vụ này. - Tom than thở.
- Anh đừng buồn. - Billi an ủi. - Vì dù sao sự việc cũng chưa xảy ra.
- Có lẽ bác nói đúng. - Ông thị trưởng nói trong lúc họ đang đi trên đường về làng. - Tôi cứ nghĩ biết đâu bỗng dưng anh hoàn thành được nhiệm vụ này. Nhưng anh đừng buồn. Không ai trong làng này làm được dù chỉ một nửa phần việc anh đã làm.
- Thế bây giờ những công trình này để làm gì? - Billi Thợ sơn hỏi, chỉ vào nhà tù, nhà bưu điện, nhà thờ và ngôi trường nhỏ.
Ông thị trưởng tập trung suy nghĩ chừng một phút.
- Tôi biết, - ông nói. - Chúng ta sẽ xây dựng một sân nhỏ cho trẻ con chơi. Đu quay, các đụn cát, những thùng đựng cát và các đồ chơi nghịch ngợm khác.
- Lại một cái sân chơi nữa? - Tom hỏi.
- Phải. Tại sao không?
Câu hỏi này chẳng cần phải trả lời. Đúng là tại sao không?
- Có lẽ việc này không cần đến tôi nữa, - Tom chìa tờ lệnh cho ông thị trưởng nói.
- Phải, có lẽ vậy. - Ông thị trưởng nói. Mọi người thông cảm nhìn ông khi ông xé tờ lệnh ra thành nhiều mảnh nhỏ. - Thôi, chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm. Chỉ có điều là không đạt kết quả.
- Thực ra tôi đã có cơ hội, - Tom nói vẻ bối rối - tôi đã phụ lòng tin của mọi người. Billi nhẹ nhàng đặt tay lên vai anh.
- Anh không có lỗi, Tom ạ. Và không ai trong chúng ta có lỗi cả. Đó là điều đương nhiên khi hai trăm năm nay nền văn minh không đến được với chúng ta. Các bạn thử nghĩ xem. Trái đất phải mất bao nhiêu thời gian mới trở thành văn minh. Hàng nghìn năm. Vậy mà chúng ta lại mong đạt tới trình độ đó trong vòng hai tuần.
- Thôi, chúng ta lại đành quay trở lại với tình trạng không văn minh vậy, - ông thị trưởng nói đùa một cách vụng về.
Tom vươn vai ngáp rồi đi về nhà để ngủ một giấc cho thật đẫy - ngủ bù những đêm anh phải thức. Về đến trước cửa nhà anh ngước nhìn lên trời.
Những đám mây dày, nặng đã dồn lại phía trên đầu, và xung quanh mỗi đám mây có một vòng hào quang đen. Những đợt mưa thu đang đến gần. Anh lại sắp có thể đi đánh cá.
Tại sao anh lại không hình dung ra ông thị trưởng dưới dạng con cá nhỉ? Nhưng anh cảm thấy lúc này quá mệt mỏi để cân nhắc xem điều đó có đủ là chứng cớ cho việc giết người không. Dù sao nghĩ đến việc đó bây giờ đã muộn. Trái đất đã từ chối họ, nền văn minh đã bay đi mất, và không ai biết nó cách xa hành tinh của họ với khoảng cách bao nhiêu thế kỉ.
Đêm đó anh ngủ không ngon giấc.?
Thái Hà dịch
Manuel Garcia-Vieo (Tây Ban Nha)
Manuel Garcia-Vieo là nhà văn Tây Ban Nha viết nhiều truyện ngắn khoa học viễn tưởng. Các tác phẩm của ông nổi tiếng ở Tây Ban Nha và ở châu Âu.
Hiện ông đang sống và sáng tác ở Madrid.
Mối tình ngoài thời gian
Cho tới tận bây giờ, người đầu tiên và duy nhất du hành vào chiều thứ tư là Hulian Sender. Chàng chẳng có chút dính líu gì vào việc phát minh cỗ máy thời gian. Người ta chỉ thử nghiệm máy với chàng thôi.
Vào năm 1980, khi chàng tròn ba mươi tuổi, các nhà bác học ở Viện nghiên cứu đo lường thời gian đã chế tạo thành công chiếc máy có thể đưa con người vào tương lai. Hulian Sender là phó giám đốc trung tâm báo chí và trong số mười hai người tình nguyện, chàng đã được chọn cho chuyến thám hiểm tới năm 2020.
Chàng không hề được tham gia cuộc huấn luyện chuẩn bị đặc biệt nào hết. Chàng chỉ được người ta thông báo rằng sẽ tiến hành một chuyến hành trình có một không hai mà thôi. Đúng bốn mươi năm sẽ trôi qua và chàng sẽ ở đó cả thảy một tuần. Sau bảy ngày chàng phải có mặt ở chính nơi chàng dừng lại sau khi đến nơi. Người ta không cho chàng nêu câu hỏi nào hết và thông báo rằng một khi chàng được lựa chọn rồi thì chàng không được phép thoái thác, từ chối.
* * *
Sau kỳ nghỉ một tuần được hưởng trước cuộc thí nghiệm, chàng đến viện đúng tám giờ sáng. Và theo những chỉ dẫn trong bức thư chàng nhận được hôm trước, chàng bước tới căn phòng số 23.
Người mở cửa cho chàng là một thanh niên bận bộ áo liền quần với dòng chữ viết tắt thêu trên túi VNCDLTG. Anh ta mỉm cười, bắt tay Hulian và mời chàng vào.
Sau đó anh ta dẫn chàng bước vào một gian phòng mà trong đó sân, trần và bốn bức tường đều bằng kim loại và không có một ô cửa nào. Chiếc ghế độc nhất cũng được làm bằng kim loại. Chẳng có thảm, chẳng có tranh và cũng chẳng có thứ đồ dùng nào hết.
- Thế đấy, - người dẫn đường mở miệng nói, - khi tôi ra rồi thì anh hãy ngồi lại ở đây. Sender muốn nói điều gì đó, nhưng người thanh niên ngắt lời chàng ngay.
- Anh khỏi lo bất cứ điều gì hết. Tất cả những gì anh cần biết thì anh đã biết rồi. Bây giờ người ta chỉ đòi hỏi ở anh có mỗi một điều - ấy là thực hiện chu toàn những chỉ dẫn của tôi. Khi tôi đi ra thì anh hãy yên vị nhé.
Người thanh niên đi ra khỏi phòng sau khi khóa cửa ra vào, còn Hulian ngồi lại trên chiếc ghế kim loại. Chàng nhìn khắp xung quanh. Căn phòng dường như được chiếu sáng rực rỡ nhưng Hulian không phát hiện ra nguồn ánh sáng phát ra từ chỗ nào. Chàng đưa mắt tìm chiếc cửa ra vào mà người dẫn đường vừa đi ra qua đấy, song chàng không tìm thấy. Gian phòng là một khối lập phương lớn với các cạnh dài chừng năm mét. Sàn, bốn bức tường và trần nom như nhau, đó là những tấm kim loại tuyệt đối phẳng lấp lánh mờ mờ trong một thứ ánh sáng lạ lùng. Một chốc sau - có lẽ Hulian khó mà xác định được bao lâu - vọng ra tiếng vo vo kì lạ, thứ tiếng động này tác động tới không chỉ thính giác mà cả xúc giác và thị giác nữa. Vả lại, Hulian không hề rõ tiếng vo vo ấy vừa mới bắt đầu hay đã tồn tại ngay từ lúc vào đây. Có cái gì đó tựa hồ cơn rung rinh của bầu không khí đã ngưng đọng trong gian phòng, sự rung rinh ấy được nhận thấy bằng toàn bộ cảm giác và thấm sâu vào nơi sâu thẳm nhất của cơ thể Hulian nghĩ rằng chắc hẳn đã trôi qua hàng giờ dài dặc ngay từ đầu của cuộc thí nghiệm. Song chàng không mảy may cảm thấy đói, khát, không chút mệt mỏi hay đau đớn. ánh sáng tỏa chiếu gian phòng lúc này có vẻ ít rực rỡ hơn trước. Bốn bức tường có vẻ thẫm hơn và đặc chắc hơn. Nhưng chàng quả quyết rằng ấy là do chàng đã quen với ánh sáng đều đặn mà lúc đầu chút nữa làm chàng lóa mắt.
Hulian nhắm mắt lại và lúc thì thiếp đi, lúc thì không, điều đó mãi về sau này chàng vẫn không giải thích nổi. Khi chàng mở mắt thì cảm tưởng nơi chàng thấy như đang ngồi trên ghế không phải đặt lên sàn mà là lên một trong những bức tường kia. Tiếng ù ù đã hết, nhưng lúc này chàng thấy chóng mặt và xuất hiện cảm giác bay trong khoảng không và rơi liên tục vào một vực thẳm.
Chàng tỉnh lại trên một bãi cỏ mọc đầy cỏ ba lá và trực giác đã lập tức nhắc nhở chàng giờ đây chàng đã lọt tới năm 2020 theo kế hoạch. Căn cứ theo mặt trời rực rỡ giữa những cụm mây bông trắng thì bây giờ là khoảng giữa mười, mười một giờ sáng.
Chàng nhỏm dậy, hơi cảm thấy mệt mỏi và ngoái nhìn xung quanh. Từ phía bắc, phía đông và phía tây, khu bãi cỏ được bao viền bởi một hàng rào bằng những chiếc cột kim loại trắng, phía ngoài hàng rào trải dài những cánh đồng đã cày vỡ đến tận chân trời thấp và xa xăm. ở phía nam, cánh đồng cày chuyển thành một sườn dốc thoải nơi một ngọn đồi thấp.
Hulian hướng về đỉnh đồi vì chàng dự cảm rằng bên triền đồi kia sẽ nhìn thấy con đường cần đến cho chàng.
Trên thực tế, bên kia sườn đồi cũng là những cánh đồng đã trồng trọt, nhưng sau đó chừng hai cây số chàng nom thấy một khu vực không hẳn ra một thị trấn lớn cũng không hẳn là một thành phố nhỏ.
* * *
Thế giới nơi chàng vừa thâm nhập hầu như chẳng khác gì với thế giới vừa được chàng rời bỏ, bởi thế chàng thậm chí còn cho rằng mình đổi địa điểm chứ không phải thời đại.
Lúc này chàng đã nhận biết nhãn hiệu và kiểu của chiếc ôtô mà người nông dân trạc năm mươi tuổi cùng sự trợ giúp của một cậu bé đã chất những chiếc hộp hình lăng trụ nhiều màu sắc lên đó như lên một chiếc xe tải. Thế nhưng thứ vật liệu kì lạ của những chiếc hộp và kiểu chế tạo rất tuyệt vời của chúng lại thu hút sự chú ý của chàng. Tuy nhiên cũng hoàn toàn có thể là những đồ vật như thế cũng từng tồn tại ở thời đại của chàng, duy chỉ có điều là ở một xứ sở phát triển hơn đất nước của chàng.
Hulian thầm ước lượng: Người đàn ông lúc bấy giờ phải chừng mười - mười hai tuổi. Còn chú bé vẫn chưa ra đời. Hulian bất giác rùng mình vì ý nghĩ này.
Chàng đã đi tới những ngôi nhà đầu tiên của thành phố. Những người đi ngược lại không chút chú ý gì đến chàng cả. Những người ấy có nhận ra mình không nhỉ. Mình có tồn tại đối với họ hay không? Có phải chàng mơ thấy tất cả những điều này và đây có phải là ảo ảnh không?
Nơi góc phố chàng nom thấy một quán bar và chàng tiến lại gần. Sau những tấm kính rộng của tủ bày hàng, giữa những chai đồ uống có đủ thứ nhãn hiệu mà chàng chưa hề biết đến, chàng đã tìm thấy cái chàng đang đi tìm, đó là tấm lịch: năm 2020, ngày thứ hai mồng 5 tháng Năm.
Một chú nhóc khoảng chừng tám tuổi chạy trên hè phố đâm sầm vào chàng và ngã quay lơ. Cú va chạm dường như một dòng điện giúp Hulian cuối cùng hòa nhập vào hiện thực mới mẻ của chàng.
Chú nhóc sợ sệt nhìn lên người lạ mặt. Cái nhìn nơi cặp mắt xanh lơ này, Hulian suy tưởng, đang dõi tới chàng qua vực thẳm của thời gian, qua chiều dài, cuộc sống của riêng chàng và cuộc sống của chú nhóc, qua đám mù của bí ẩn...
Ý thức về điều đó đã làm sinh ra nơi tâm thức chàng một lẽ gì đó tựa hồ sự đê mê, ngây ngất. Vang lên giọng nói của chú bé:
- Thưa ông cháu xin lỗi.
Giọng nói ấy êm ái như cái nhìn của bé, cái chất giọng tuyệt vời mà đã hiển nhiên ban phú cho Hulian sự tồn tại, đem lại cho chàng quyền công dân trong thời đại này.
Chàng đỡ chú bé dậy và phủi bụi nơi hai ống quần của bé.
- Cháu tên gì?
- Dạ, Hoce ạ.
- Ngoan lắm, Hoce, thế cháu vội đi đâu vậy?
Chú bé nhún vai.
- Cháu đi tìm bạn bè chăng?
- Vâng ạ.
Hulian giữ vai chú bé và không muốn bỏ ra mặc dầu thâm tâm chàng hiểu là cần buông bé ra. Thời gian mà bất kỳ người quan sát ngoài cuộc nào chắc đều coi là bình thường đã trôi qua rồi. Nhưng chàng không muốn chia tay với Hoce. Chàng đang nếm trải một khoái lạc không gì so sánh nổi khi chằm chằm dõi theo ánh sáng nơi cái nhìn thơ ngây ấy, cái nhìn thuộc về một con người vẫn chưa hề xuất hiện trên đời này.
Vậy chú bé tám tuổi này sẽ là ai khi chàng Hulian tròn bảy mươi tuổi? Có thể, là con trai của chàng, hay cháu của chàng hoặc học trò của chàng. Con tim Hulian đập rộn ràng, hai thái dương chàng mạch máu đập mạnh vì một cảm giác sâu sắc những muốn bộc lộ mình, được mọi người hiểu và nhìn nhận. Một lẽ gì đó giống như hồi tưởng xa xôi đã vọt ra từ thẳm sâu của tiềm thức...
“Chú biết cháu, Hoce ạ. Chú biết... Nhưng không, điều đó là không thể, hiện thời còn chưa thể được”.
Chàng bỗng thấy sợ mình sẽ phát điên vì những suy nghĩ tương tự thế. Và chàng buông chú bé ra. Chú lại lắp bắp lời xin lỗi và thoắt chạy đi mất.
Hulian đi tiếp và tò mò nhìn mọi vật chung quanh. Chàng hiểu rằng nhiệm vụ chủ yếu của chàng là nhìn kiểm tra, phát hiện, so sánh và ít ra là có mặt ở đây bởi vì không phải những biến đổi xã hội, chính trị, kinh tế hay tôn giáo diễn ra sau bốn mươi năm (chúng có thể được dự báo chính xác ở mức độ nào đó) là thực sự quan trọng mà chính cuộc du hành vào chiều thứ tư, cú nhảy thời gian chàng vừa mới hoàn tất mới cần thiết.
Khi tới ngã tư, nơi bến đỗ chàng nhìn thấy chiếc xe buýt mang bảng hiệu “Tới trung tâm thành phố”. Chẳng suy nghĩ lâu, chàng nhảy lên bậc xe. Và chỉ khi xe đã phóng nhanh trên đại lộ cắt ngang khu công viên rộng lớn thì Hulian mới lo lắng nghĩ: chàng sẽ trả tiền vé bằng thứ tiền gì đây? Chàng sờ túi. Trong đó có một khoản tiền, nhưng liệu chúng có còn phù hợp hay không? Chàng đưa mắt tìm người bán vé. Song có thể ở đây người ta trả tiền cho lái xe thì sao? Để tránh những hiểu lầm, chàng bèn vội xuống xe khi xe buýt chạy qua hết khu công viên và đỗ lại.
Chàng lọt xuống một đường phố rộng rãi với xe cộ nườm nượp, hai hè phố đầy người đi lại và chàng liền nhận ra rằng đó là một đường phố nơi thành phố quê hương mình. Trong óc thoáng nảy ra ý định về nhà hay tới chỗ bạn bè, hoặc đến viện nghiên cứu, nhưng nơi trực giác chàng hiểu rằng không được thả mình cho sự cám dỗ như vậy.
Và Hulian liền hòa vào đám đông ồn ào. Chàng muốn được quan sát hành vi của những người xung quanh, được nghe xem họ nói về những điều gì, được biết họ sống ra sao. Nhưng sự thiếu tự tin day dứt đã choán ngợp lấy chàng từ cái phút khi chàng nghĩ về việc trả lộ phí. Sẽ làm sao đây để giải quyết vấn đề tài chính trong chuyến du hành kỳ lạ này mà chàng được làm người đầu tiên thực hiện. Chàng cảm nhận thấy sự cần thiết mang tính cấp bách phải làm rõ vấn đề này.
Ở cuối ngõ phố ngang chàng nhìn thấy khu chợ hoa rồi chàng thấy một ông già trong một kiốt. Hulian nghĩ rằng ít ra thì ông ta cũng sẽ nhận dạng được tiền của chàng, thế là sau khi lựa đúng thời điểm khi ông già còn lại có một mình, chàng tiến lại gần.
- Ngài cần gì ạ?
Hulian lưỡng lự.
- Xin ông cho tôi hai bông hồng, - cuối cùng chàng nói. - Hai bông này. Tôi mua làm quà tặng... - Chàng thấy cần giải thích chút ít và chìa ra tờ bạc có mệnh giá cao nhất trong số tiền chàng có.
Ông già xoay xoay tờ bạc trong tay và cuối cùng thả nó vào cái hộp.
- Ngài đào đâu ra tờ bạc này thế? - Ông già hỏi khi đếm tiền trả lại. - Loại tiền này đã hầu như chẳng còn.
- Nhưng chúng vẫn còn tiêu được chứ? - Hulian hỏi giọng lo lắng.
- Vâng, thưa ngài. - Ông già mỉm cười trả lời. - Tôi nghĩ rằng còn tiêu được.
- Tôi được đưa tiền này... - Hulian không nói hết câu vì không biết cần phải nói gì. Chàng nhận thấy ông già đang nhìn chàng với vẻ dò xét.
- Thật lý thú. Vải và kiểu may bộ quần áo của ngài cũng khiến tôi nhớ đến thời đã qua... cái thời của tôi ấy mà.
- Thế ạ? Vải dệt tay, thủ công, tôi...
Tiếng cười của ông già làm ngắt lời chàng.
- Thế ra ngài sống hoàn toàn trong quá khứ, phải không hả?
Hulian bối rối mỉm cười.
Ông già lấy tay sờ ve áo chàng và gật đầu quả quyết.
- Năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm. - Ông già nói. - Tôi sinh năm năm mươi mốt mà...
Hulian suýt nữa thì buột miệng bảo rằng ông già bán hàng chỉ trẻ hơn chàng có một tuổi, nhưng chàng kìm lại được.
- Cám ơn ông. - Chàng nói khi rời kiốt.
- Ấy, ngài quên mấy bông hồng này rồi.
- Xin ông cứ để lại, tôi chỉ muốn đổi tiền thôi mà.
- Xin quý ngài quay lại đi, để đổi tiền thì không buộc phải mua đâu.
Hulian làm điệu bộ cho thấy rằng việc đó không quan trọng và bước đi mà không để ý nữa tới những lời gọi của ông già bán hàng.
Vào ngày thứ ba, khi ra khỏi khách sạn nơi chàng nghỉ lại - một khách sạn yên tĩnh ở vùng phía bắc thành phố, Hulian lần đầu tiên cảm thấy mình đang ở trong một vị thế khác thường. Chàng ăn điểm tâm ở chính quán bar chàng từng ghé vào hôm trước, chàng mua báo và thong thả bước tới khu vườn hoa gần đó.
Ngồi thoải mái trên một chiếc ghế, chàng bắt đầu giở một trong số những tờ báo vừa mua. Ấy là tin tức về các cuộc thi đấu thể thao, về những chuyến du hành liên hành tinh, những đại hội liên hoan sân khấu... Không hề thấy tin nói tới các cuộc chiến tranh hay chuẩn bị tham chiến gì cả. Có lẽ, thời đại hòa bình đã đến với loài người. Hulian mỉm cười với ý nghĩ rằng chàng sẽ có một tuổi già yên bình, và điều đó có nghĩa là một tuổi già hạnh phúc.
* * *
Chàng bất ngờ đưa mắt nhìn lên vì chàng linh cảm thấy cái nhìn của ai đó. Nàng đang ở nơi đây. Nàng đang chăm chú nhìn chàng và vì bị bắt gặp bất thình lình nên nàng ngượng ngùng, bối rối và khuôn mặt nàng đỏ lựng. Đến lượt mình, chàng không thể rời mắt khỏi nàng vì chàng nhận thấy một tình cảm mạnh gấp ngàn lần cảm giác mà Hoce kích thích nơi chàng hai ngày trước.
- Xin lỗi ông. - Cô gái nói vẻ căng thẳng. Và nàng quay gót.
Sau đôi chút lưỡng lự, Hulian liền đi theo nàng.
- Xin lỗi ông. - Cô gái nhắc lại khi chàng đuổi kịp. - Em có cảm giác chúng ta đã quen nhau rồi. Nhưng
có lẽ em đã lầm... Xin ông thứ lỗi.
- Ồ, không có gì cả. Tôi tuyệt nhiên...
Cái nhìn nơi cô gái, màu đôi mắt nàng, âm thanh nơi giọng nói của nàng đã tác động đến cảm giác của Hulian với một sức mạnh đến mức ý thức về hiện trạng đích thực của mọi sự vật đã không còn ngự trị chi phối được những cơn cảm xúc, ham muốn, hành vi và chính sự tồn tại của chàng nữa.
Nàng hầu như là người cùng tuổi với chàng, nàng là tuyệt vời nhất trong số những người phụ nữ mà chàng đã từng được thấy.
- Vậy mà dẫu sao, - cô gái nói, - em vẫn nhận ra ông.
- Không thể được. - Hulian phản đối. - Tôi đến thành phố này là lần đầu tiên.
- Không, em không khẳng định là em đã gặp ông trước đây. Chỉ đơn thuần là người ta đã hỏi em về ông trước đây một tuần mà.
- Về tôi sao?
- Ông tên là Hulian... Hulian Sender, có đúng vậy không?
Hulian thấy choáng váng. Trong khoảnh khắc chàng cảm thấy mình đang mê sảng hay đang phát điên. Chàng lắp bắp:
- Phải rồi.
- Đó là một người đứng tuổi, hay nói đúng hơn là một ông lão. Ông ấy chìa cho em xem bức ảnh của ông. Và ông ấy đã rất bối rối, phiền muộn khi em bảo rằng chưa bao giờ gặp ông cả.
- Tôi chưa hiểu gì. - Hulian đáp.
Vừa nói chàng vừa tìm trong đầu lời giải thích cho điều bí ẩn đó. Không nghi ngờ gì nữa, nàng đã có mối liên quan nào đó cho thấy cuộc sống thực của cả hai - chàng và nàng - đều trôi qua ở những hệ thống khác nhau về không gian và thời gian. Nhưng mối liên hệ đó là gì?
- Tôi không hiểu. - Chàng nhắc lại. - Ở đây không có ai biết tôi là ai đâu.
Trong một lúc, - Hulian mường tượng một lúc ấy dài đến vô tận - cả hai cùng im lặng mà không biết nói gì. Cuối cùng, sau khi cố gắng định thần, chàng nói:
- Dù thế nào đi nữa thì cũng rõ một điều là chúng ta đã từng quen biết nhau rồi.
Cô gái im lặng. Nàng đăm đăm nhìn chàng, đoạn nàng cúi đầu, sau một chút suy nghĩ nàng lại ngẩng đầu lên. Hulian lý giải điều này như dấu hiệu của sự đồng ý.
- Cô đã biết tôi tên là Hulian. Thế còn cô?
- Isabel, ông ạ.
* * *
Isabel mỉm cười âu yếm, nàng lắc đầu tỏ vẻ phủ nhận.
- Em không hiểu có phải không? - Hulian hỏi.
Chàng cầm lấy đôi tay nàng, đưa lên môi và hôn cuồng nhiệt. Nàng không cưỡng lại.
- Em hiểu rằng anh yêu em bằng tất cả trái tim mình, và em tin anh mặc dầu chúng mình quen nhau mới chỉ có bốn ngày; em tin vì em cũng rất yêu anh... Nhưng em không hiểu được mọi nguyên do của nỗi thất vọng nơi anh.
- Điều đó thì không thể giải thích được đâu.
- Vì sao anh?
Hulian lặng người, chàng vẫn giữ hai bàn tay nàng trong tay mình. Sau đó chàng ngước mắt để tìm cái nhìn nơi nàng, nhưng rồi chàng đưa mắt nhìn xuống ngay để Isabel không nom thấy những giọt nước mắt của chàng.
- Bởi vì anh không thể. - Cuối cùng chàng cũng bật ra câu trả lời.
Isabel vén lọn tóc rủ xuống khỏi trán chàng.
- Anh nói cứ như đứa trẻ con ấy. - Nàng nói.
Nhưng chàng phản đối.
- Anh hơn tuổi em nhiều lắm đấy.
- Nhiều tuổi hơn em sao. - Nàng dài giọng vẻ chế giễu. - Nhiều hơn bao nhiêu nào? Em đánh cuộc là chúng mình gần ngang tuổi nhau đấy.
Hulian lại ngẩng đầu. Bây giờ thì chàng bất chấp việc nàng có nhìn thấy chàng khóc hay không. Cắn môi, chàng lắc đầu không đồng ý.
- Không. - Chàng nói cương quyết. - Anh nhiều tuổi hơn em tưởng nhiều.
Isabel nhìn chàng vẻ nghiêm túc.
- Em không hiểu anh đấy. - Nàng ngạc nhiên bảo chàng.
Chàng nín lặng.
- Em không hiểu cả những giọt nước mắt của anh, cả sự khăng khăng cố chấp của anh, cả nỗi niềm tuyệt vọng mà nếu tin anh thì anh yêu em với cả sự tuyệt vọng ấy.
Hulian không đáp lại, nàng cũng chẳng nói thêm điều gì, bởi thế sự im lặng kéo dài.
Mặt trời đã đổ bóng hoàng hôn. Hulian cảm thấy mọi sinh lực đang giã từ nơi chàng cùng với lúc ban ngày đang tàn lụi. Chưa bao giờ, chưa có thời đại nào và cũng chưa có ai lại nếm trải nỗi u sầu và chua xót như những gì đang thắt lại nơi ngực chàng khi nom thấy vầng mặt trời đang lặn nơi chân trời và mang đi cái ngày được chàng sống hết ngoài thời gian biểu do tự nhiên đã quy định cho chàng, cái ngày mà không thể biết được liệu chàng có sống được tới lúc đó hay không. Đó là cái chết với khuôn mặt sự sống, một điều phi lí, kỳ cục. Dường như chàng đã được ban phát sứ mạng được nhìn thấy thế gian, được cảm nhận sự sống và nếm trải khoái lạc và tình yêu từ thế giới bên kia xa xăm vậy.
- Em phải đi đây. - Isabel nói.
- Em hãy đợi một chút nhé. - Chàng năn nỉ.
Chàng ngắm đôi mắt nàng mê đắm và không rời với vẻ bất lực và xa vắng đến nỗi nàng không nói được lời nào đáp lại.
Những buổi tối trước thì họ chia tay nhau ở một ga đường tàu điện ngầm chạy tới một trong những thành phố vệ tinh. ở chính ga nào thì Hulian không biết và chàng bỗng nghĩ là cần biết điều này và hoàn toàn cần biết nơi nàng ở để sau này tìm được nàng.
- Đi thôi em. - Chàng nói.
Và chàng đứng dậy. Chàng dắt tay nàng đi nhanh lại chỗ cổng công viên. Đêm hầu như vẫn chưa buông.
- Hôm nay anh sẽ tiễn em về nhà.
- Không cần anh ạ, nhà em còn xa lắm.
- Ta đi nhanh lên. - Chàng ngắt lời nàng trong hơi thở mạnh, gấp gáp.
Chàng nghi ngờ rằng có thể lúc này đã muộn rồi. Lại nghe vọng tiếng vo vo từ đằng xa, thứ ánh sáng bao quát khắp nơi sáng rõ, tất thảy những điều đó đã làm sống lại những điều chàng đã sống qua bảy ngày, tức là bốn mươi năm đã qua khi ngồi trong căn phòng bằng kim loại kì lạ.
Vượt qua mọi lớp mù mờ quần tụ trong đầu, chàng đã hiểu rằng giờ đây sẽ có thể xảy ra một điều mà nàng không được nhìn thấy.
- Isabel, Isabel ơi... - Chàng thầm thì khi dừng bước.
Chàng mãnh liệt siết chặt nàng trong vòng tay của mình, sau một khoảnh khắc chàng quyết định không rời tay để mang nàng theo mình, hoặc nếu người ta sẽ có lấy đi tuổi trẻ của nàng thì họ cũng sẽ ở lại đây. Sau đó chàng bỏ chạy không ngoái đầu lại để tìm khu bãi cỏ ngoại ô nơi chàng đã lọt tới sau chuyến du hành xuyên thời gian chưa từng có.
Chàng cũng chẳng hề biết liệu mình có đến được bãi cỏ đó không. Khi tỉnh lại, chàng đã ở trong thời đại mình, tại thành phố quê hương, trong ngôi nhà và căn phòng của chàng.
Toàn bộ cuộc đời tiếp theo đó của Hulian Sender, nhà du hành đầu tiên và cho đến nay vẫn là duy nhất tới chiều thứ tư, đã trôi qua trong niềm vương vấn với mối tình không thành và không đạt thấu được.
Những người gần gũi hồi tưởng về chàng như về một con người đa sầu, kín đáo, im lặng, thờ ơ, hờ hững, tách biệt khỏi hiện thực chung quanh. Chàng lang thang khắp các vùng ngoại ô thành phố, kết bạn với sự im lặng và những buổi hoàng hôn. Chàng trở nên kẻ lang thang vĩnh viễn không ngủ, không nghỉ ngơi, ủ rũ và mất hết nghị lực sống.
Chàng cô đơn theo dõi sự thoáng qua mau lẹ của ngày và đêm, theo dõi sự thay đổi kế tiếp chậm rãi của bốn mùa. Chàng điều chỉnh mạch tồn tại của mình với lịch và đồng hồ. Trước năm 1995, cuộc đời chàng quay xung quanh người đàn bà vẫn chưa ra đời mà thậm chí cha mẹ tương lai của cô cũng chưa hề biết đến tên cô - có thể, họ là một trong số những đôi lứa yêu nhau mà chàng đã gặp rất nhiều trên từng con phố trong mọi khu vườn hoa.
Nàng đã ra đời năm 1995 - nhưng vào tháng nào, ngày nào đây? Chàng bắt đầu đi tìm nàng. Niềm ao ước khắc khoải duy nhất của chàng là được thấy Isabel khi còn là cô bé và theo dõi từng bước cô bé lớn lên như thế nào. Nhưng chàng chỉ biết tên nàng thôi, mà thực tế rất có thể xảy ra việc thời thơ ấu của nàng lại trôi qua ở nơi khác, và nàng sẽ đến đây chỉ sau hai mươi lăm năm nữa...
* * *
Và hai mươi lăm năm đã trôi qua. Hulian Sender đã già đi. Cái thế giới mà ông đã quen thuộc sớm trước tất cả mọi người đã phát triển lặng lẽ xung quanh ông. Ông nhận ra nó như một phần trong giấc mơ xa xôi, như người báo lời tiên tri, như một hồi ức về biến cố xa xưa.
Đã vài tháng nay ông thường xuyên lui tới khu công viên nơi ông đã từng gặp nàng vào lúc nào đó. Ông ngồi trầm tư hàng giờ trên chính chiếc ghế khi đó, hồi hộp lo lắng chờ đợi nàng đến.
Vào ngày ấy, trước khi đôi mắt ông nhìn thấy Isabel thì nhịp đập rộn ràng nơi trái tim ông đã tiên báo về sự xuất hiện của nàng, song nơi tâm khảm ông khi đó cũng tràn ngập sự xót xa cay đắng - ấy là sự phản đối khó nhận thức nổi chống lại một tuổi thanh xuân đã uổng phí, một cuộc đời đã tiêu phí thật trống rỗng, một mối tình không mục đích, một nỗi chờ đợi vô ích.
Nơi ông không còn đủ lòng can đảm để đến với cô gái. Suốt hơn một giờ ông ẩn núp kín đáo quan sát nàng, và khi nàng đi ra khỏi công viên, ông bèn theo sau để biết được có thể gặp thấy nàng lần nữa ở đâu.
* * *
Isabel ngạc nhiên nhìn ông bằng chính cái nhìn tươi sáng và dịu dàng nhất mà ông đã mang theo trong ký ức của mình qua suốt cuộc đời, cái nhìn tuyệt diệu nhất mà ông đã đắm đuối trong đó bốn mươi năm trước.
- Có tin tức cho cháu sao?
Hulian gật đầu.
- Tin tức từ ai gửi đến vậy?
- Từ một người mà cô quen biết, người đã gây cho cô một nỗi đau, nhưng... tôi xin cam đoan với cô, điều đó hoàn toàn cưỡng lại ý chí của người ấy.
- Cháu không hiểu.
Hulian cắn môi.
- Đó là Hulian Sender. - Ông nói.
Isabel nhún vai tỏ vẻ không hiểu.
- Cháu không biết người nào như vậy.
Ông nhìn nàng và thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày.
- Có lẽ, - cô gái nói thêm, - ông nhầm cháu với ai khác rồi.
- Không, không phải đâu... Isabel.
Nàng nhíu mày.
- Vâng, cháu tên là Isabel. Nhưng...
Hulian rút ví ra lấy bức ảnh chụp bốn mươi năm trước.
- Đây người ấy đây.
Cô gái nhìn bức ảnh hồi lâu. Cuối cùng nàng đưa trả:
- Cháu rất lấy làm tiếc. Nhưng cháu chưa hề nhìn thấy người này và cháu không biết ông ta. * * *
Hai ngày sau, Hulian được gọi tới Viện nghiên cứu đo lường thời gian. Khi ông xưng tên với người trợ lý thường trực thì ông ta vội dẫn ông tới chỗ giám đốc.
- Ông đã tới rồi đấy à? - Ông giám đốc đứng dậy và hỏi Hulian. - Lạy Chúa. Chẳng lẽ ông không nhận được giấy báo của chúng tôi sao? Chúng tôi mời ông tới lúc bảy giờ sáng. Mà bây giờ đã tám giờ kém mười lăm rồi.
Hulian nhún vai. Ông chẳng hề biết đến ngày, đến giờ.
- Thôi được, ngài Sender ạ. Theo các số liệu của thư viện phiếu của chúng tôi thì một tiếng mười lăm phút nữa sẽ tới cái phút mà ông đã đến năm hiện nay của chúng ta, năm hai nghìn không trăm hai mươi, từ năm một ngàn chín trăm tám mươi.
Hulian gật đầu bằng một cử động đột ngột.
- Thế nghĩa là tôi còn chưa...
Nhưng ông giám đốc đã ngắt lời ông.
- Chúng tôi không biết chuyện gì có thể xảy ra với ông. - Ông ta nói vẻ bị kích động. - Song những biện pháp phòng ngừa căn bản đòi hỏi phải đưa ông vào bệnh viện thực hành của viện ta.
Hulian không hề nghe thấy lời ông ta nói. “Sự thể là như thế đấy. - Ông thầm khẳng định. - Isabel vẫn còn chưa làm quen với mình, và vì vậy nàng đã không thể nhận ra mình trong ảnh được”.
Vì đã làm dịu đi được nỗi đau khổ của mình bằng sự an ủi yếu ớt đó nên ông đã cho phép người ta đưa
mình vào phòng phẫu thuật, nơi có một nhóm những bác sĩ và y tá vẻ xôn xao, xúc động vây quanh ông với sự tò mò.
- Mời ông lại đây, lại đây, mau lên.
Khi ông vừa nằm lên cáng thì có giọng nói ai đó tuyên bố:
- Chín giờ kém mười. Còn hai phút nữa.
Hai phút sau, một cảm giác chóng mặt kì lạ choán ngợp lấy Hulian và ông chìm vào trong trạng thái mê man sâu. Dường như ông đã ngày càng đi xa khỏi thế gian này và cuộc sống này. Trong một giây lát ý thức lóe lên khiến ông nghĩ rằng mình đang chết.
Quay trở lại với sự sống sau giấc ngủ lịm kéo dài một tuần lễ, ông hiểu: không ai có thể hai lần được sống cùng những ngày duy nhất. Thời gian khi ông bất tỉnh trùng hoàn toàn với thời gian ông đã sống bốn mươi năm trước trong thế giới của tương lai.Trong cái thế giới của tương lai mà giờ đã thành quá khứ và cứ mỗi phút trôi qua nó càng lùi xa hơn, hơn nữa.
Khi giấc ngủ lịm của ông đang diễn ra, cậu học trò nhỏ Hoce va vào một thanh niên bên cửa một quán bar. Cậu va phải một chàng thanh niên mà bốn ngày sau đó sẽ nếm trải nỗi đau khổ và tận hưởng sung sướng tình yêu của đời mình, mối tình duy nhất của chàng. Mối tình vô vọng mà không có điều huyền diệu nào, không có thành tựu nào của khoa học có thể trợ giúp được.
Vin cớ mệt mỏi, Hulian hứa sẽ trở lại sau vài ngày để trả lời câu hỏi của các thầy thuốc rồi ông ra về.
Ông bước đi chầm chậm vào thành phố. Bây giờ ông đã quyết tâm sẽ chẳng nói gì hết với Isabel. Tất nhiên nàng đang đau khổ vào những ngày này. Nhưng sớm hay muộn thì sự biến mất bí ẩn của ông cũng an ủi được nàng một ngàn lần tốt hơn sự thật nghiệt ngã.
Ông bước đi vô định, mắt nhìn tới đâu ông đi đến đó, và bất ngờ ông lọt tới khu chợ hoa gần kiốt của ông già mà một tuần trước, hay là bốn mươi năm trước ông đã mua hoa hồng... Quả vậy, những bông hồng ấy vẫn còn ở đây.
Khi thấy bên ông già chẳng có ai, ông rụt rè tiến lại gần.
- Ngài cần mua gì ạ?
Hulian chần chừ.
- Mấy ngày trước... cuối cùng ông cũng thốt lên. - Đúng hơn là một tuần trước, một thanh niên, à con trai... tôi đã trả tiền hai bông hoa hồng mà chưa lấy hoa.
- À vâng đúng rồi thưa ngài. Tôi nhớ.
Người bán hàng đưa mắt tới chỗ hai bông hoa.
- Đây, hai bông này. Chúng đã hơi héo rồi.
- Không sao đâu. Ông có thể đưa tôi được chứ?
- Tất nhiên rồi.
Ông ta đưa hai bông hoa cho Hulian.
- Tôi phải trả ông thêm bao nhiêu?
- Không có gì, chúc ngài mạnh giỏi. Hai bông ấy là của ngài.
- Xin cảm ơn.
Hulian lê bước khỏi cửa hàng.
Ông chầm chậm đi về nhà và cảm nhận thấy trên đôi vai toàn bộ gánh nặng của tuổi già. Ông nắm chặt
trong tay hai bông hồng, đã úa, đã héo và sắp tàn.
Về đến nhà ông ném hai bông hoa lên bàn bên cạnh bức ảnh chụp Hulian Sender mà ông đã không còn là con người ấy nữa. Một vài cánh hoa nhăn nheo rụng ra...
Ông nghĩ tới Isabel. Nghĩ về mối tình trong trắng, đam mê và phải lụi tàn của ông. Nỗi u buồn và đau xót nơi tâm hồn ông đã không còn là nỗi thất vọng và âu lo từng hành hạ ông khi mà suốt những ngày, những tuần và những năm ông suy nghĩ về tấn bi kịch sắp tới. Giờ đây mối tình của ông đã trôi lùi vào dĩ vãng như tình yêu của hàng ngàn người khác. Mối tình ấy đã là một phần không thể tách rời trong cuộc sống của ông. Mối tình ấy đã trở thành hồi ức. Và nó đã chiếm vị trí của riêng mình trong thời gian.
Nguyễn Chiến
dịch theo bản tiếng Nga
H.Hargreaves* (Canađa)
Nếu người ta bảo rằng anh đã chết
Cỗ máy tính to tướng đang thầm thì hát cho chính nó nghe một khúc ca nào đó - một khúc ca vô tận, êm ái và chỉ mơ hồ nghe thấy được trong số một ngàn âm thanh êm đềm khác. Chiếc máy tính này chiếm trọn cả một khu nhà ngầm trong lòng đất khổng lồ về diện tích bên dưới một trong những vùng ngoại vi của đô thị Rugby, trong quá khứ khu này là một thành phố nhỏ ở tiểu bang Bắc Dakota. Hai trăm năm mươi triệu chiếc phiếu chuyển động theo các kênh trong máy một cách nhanh chóng và đều đặn như dòng máu chảy theo một mạch máu cơ thể con người. Một trong số những phiếu đó được rút ra trong giây lát để đưa vào những dữ liệu mới; ngược lại, một phiếu khác được đưa ra để loại bỏ những dữ liệu cũ. Chẳng hạn, một cháu bé ra đời trong nhà hộ sinh ở thành phố Indianapolis; người ta liền đặt cháu vào máy đo điện tử, trong chớp mắt máy này sẽ đo lường các kích thước đầu, lồng ngực, hai cổ tay và hai mắt cá của đứa trẻ. Trong một chiếc máy nhỏ hơn cỗ máy tính này sẽ xuất hiện tấm phiếu, và một phút sau, tấm phiếu đó sẽ xuất hiện trong máy đặt ở thành phố Rugby. Trên phiếu đã ghi rõ là dân số nước Mỹ đã được bổ sung thêm một bé gái và cháu được cấp một tấm chứng minh thư cố định, hay nói tắt là CMT với số đăng kí IN 97246 IND 38452. Từ nay, cho dù cha mẹ cháu có đặt tên gì đi nữa, các bạn gái có gọi cháu theo những cái tên trìu mến gì chăng nữa, hay người chồng tương lai có yêu thương đặt cho cháu cái tên như thế nào, thì những chiếc máy điền số liệu cho thẻ CMT, quản lí và bằng mọi phương tiện chi phối phép thống kê dân số - cả thảy sáu mươi lăm chiếc máy chủ của cả nước - vẫn xác định cháu bằng chính số liệu IN 97246 IND 38452.
Chừng cùng thời gian đó ở thành phố Saskatun, tiểu bang Saskachevan đã diễn ra một sự kiện khác: một người máy - cảnh sát đã lượm được một người chết ngoài phố, đó là một người đàn ông trung niên, người máy đưa kẻ xấu số qua trước mặt những kẻ vô công rồi nghề tới chỗ ôtô đỗ và sau một phút lục lọi, người máy - cảnh sát rút ra từ trong túi chiếc CMT của anh ta. Sau đó qua máy truyền tin điện tử, người máy chuyển thông báo cho biết một người nào đó đã chết. Máy số 58 đặt cách đó năm mươi dặm về phía bắc thành phố này đã gửi vào kênh hông tấm phiếu SA 537 SAS 8442, đưa phiếu qua một số cơ cấu ghi và cuối cùng ném nó vào chiếc hộp với dòng chữ đề “Những người đã chết”. Lần đầu tiên sau nhiều năm trời, chiếc phiếu đã có được sự nghỉ ngơi. Một khoảnh khắc sau đó, bản sao tấm phiếu có cùng số đó được gửi tới kênh hông trong chiếc máy của thành phố Rugby, cũng để ném nó vào một chiếc hộp giống hệt như thế. Nhưng tại đó đã xảy ra một điều gì đó mà các kĩ sư và các kĩ thuật viên chưa hề lường tính trước vào thời đại của mình: Chính sự vô lí đã xảy ra đó, có thể, chỉ có một lần trong một trăm năm mà thôi.
Khi tấm phiếu cần thiết được đưa vào kênh hông, độ rung tí chút khó cảm nhận thấy của dòng điện đã tạo ra một sự tựa hồ tiếng vang, thế là chiếc phiếu tiếp theo đứng đằng sau cũng rơi xuống kênh bên. Như vậy đã xảy ra việc chiếc phiếu BE 96647 CON 374699 đã rơi vào chiếc hộp “Những người đã chết”. Và ngay sau sự vụ ấy, ở thành phố Danbury, tiểu bang Connecticut, bản sao tấm thẻ đó được ném vào chiếc hộp có cùng dòng chữ ghi ảm đạm như vậy.
Đối với bất cứ cư dân nào vùng ngoại ô Betele tiểu bang Connecticut thì ngày hôm ấy cũng giống hệt tất thảy những ngày trước đó, cả đối với một người trong số họ là Joe Schulz, công nhân nhà máy chế tạo đồ gỗ giả cổ. Sau khi tan tầm, Joe quyết định nghỉ xả hơi ở một quán càphê tự động chứ không về nằm khoèo trong sự tĩnh lặng nơi căn phòng bé xíu chật chội tồi tàn của mình. Giá cả nghỉ ngơi là như nhau không phụ thuộc vào việc người ta có nhét CMT của mình vào khe máy tự động trong quán càphê hay ở nhà hay không. Song có một điều quan trọng đối với Joe, ấy là ở quán càphê người ta thấy được những dãy đĩa đựng thức ăn thật, còn ở nhà chỉ thấy những tấm phim âm bản nhiều màu sắc mà thôi. Ngoài lẽ ấy, xung quanh thực khách trong quán cà phê dẫu sao cũng là những người thực sống động, cho dù họ có là người tốt hay là người xấu đi nữa.
Nhưng sự thoải mái chủ yếu lại là ở chỗ khác. Quán càphê đem lại cho một gã trai tháo vát, nhanh trí như Joe những khả năng lí thú.
Sau khi dùng máy bấm vé để chọn giá những món hợp khẩu vị, chàng trả tiền cho người máy thủ quỹ
và cầm lấy cái khay thức ăn của mình. Chàng thấy đôi chút lo lắng khi nhận xét thấy tổng số tiền được đột lỗ trên tấm séc màu xanh, điều đó có nghĩa là số tiền của chàng đã cạn mà còn những một tuần mới tới kì lĩnh lương. Thôi được, Joe nghĩ, cho tới lúc này cũng có khi mình đã nhận được cả tấm séc đỏ, tức là mình đã hoàn toàn lâm vào cảnh bế tắc. Đã đôi lần mình phải qua cửa ải khủng khiếp là nhận vay tín dụng để rồi sau đó người ta khấu trừ lương. Dẫu sao thì mình cũng thật may mắn lắm: mình đang làm một công việc chân tay đòi hỏi những kĩ năng đặc biệt và đồng lương nhận được cao hơn một số người khác. (Làm thế nào mà chàng kiếm được chỗ làm này thì tốt hơn là chẳng nên nhớ lại. Joe đã nhiều lần suy nghĩ đến đau đầu về việc làm sao mà những người chỉ làm có mỗi một việc ấn nút trên các loại máy móc lại sống đắp đổi lần hồi, túng thiếu).
Joe chăm chú dõi nhìn các khách hàng và cái nhìn của chàng dừng lại nơi một người đàn bà trung tuổi đang béo ra nhiều. Chị ta ngồi một mình bên chiếc bàn nhỏ, trên cái khay trước mặt là những chiếc đĩa đựng thứ đồ ăn có lượng calo rất cao. Khéo léo đi lách qua những dãy bàn, Joe dừng bước gần người đàn bà ấy, chàng nhoẻn cười và hỏi: “Chị cho phép tôi ngồi đây chứ ạ?” - Sau đó chàng ngồi xuống chỗ đối diện với vẻ quả quyết.
Vài phút đầu trôi qua trong sự im lặng. Joe đã ăn gần hết chỗ đồ ăn ít ỏi trên những chiếc đĩa của mình, chàng chẳng hề để ý tới tiếng nhạc đang chơi không to lắm, nhưng dai dẳng khiến người ta khó chịu. Theo ý kiến của các nhà tâm lí thì tiếng nhạc ấy buộc các thực khách nuốt thức ăn của mình nhanh hơn và như vậy sẽ làm gia tăng khả năng hấp thụ càphê. Sau đó Joe bắt đầu quan sát người đàn bà đối diện để tìm ra chiến thuật và chiếm lĩnh “đối tượng”. Có lẽ âm nhạc hoàn toàn chẳng tác động đến chị ta. Joe nghĩ chẳng dễ dàng chút nào nếu muốn đánh lừa được người đàn bà này. Chà, thế thì nhiệm vụ của mình sẽ thú vị hơn nhờ việc đó đấy.
Nước đi đầu tiên của chàng là việc cố ý đẩy chiếc đĩa khoai tây ngập trong mỡ ra giữa bàn, vừa làm thế chàng vừa thở dài vẻ cực kì chán ngán. Nơi ánh mắt người đàn bà thoáng vẻ quan tâm, thậm chí có nét ngạc nhiên nữa. Nhiệm vụ đã trở nên dễ dàng hơn.
- Lượng côlextêrôn quá nhiều. - Chàng vừa nói vừa lấy cái nĩa chọc một quả đậu xanh. Và chàng tiếp tục nói khi nhận thấy trán người phụ nữ hằn nhẹ nếp nhăn - chị ta trở nên tư lự: - Côlextêron ảnh hưởng xấu tới các mạch máu. Nó sẽ làm lấp thành mạch và làm mạch hẹp đi.
Chàng im lặng chừng một phút nhìn chỗ thức ăn còn lại trên đĩa của mình, song khi người đàn bà cùng bàn tỏ vẻ sẵn sàng quên phắt câu nói vừa rồi của gã trai thì chàng bồi tiếp cùng với nụ cười buồn rầu:
- Anh bạn thân của tôi vừa chết năm ngoái nguyên nhân là do thứ này đây. Nhớ lại việc đó, quả thật nặng nề. Cậu bạn tôi hay lắm: anh ấy cao lớn, vui vẻ và khỏe mạnh. Anh ấy nom khỏe đẹp thậm chí ngay trước ngày người ta khâm liệm mình. Bác sĩ bảo: “Nghẽn mạch máu...” Sự thể là vậy. Tim không chịu nổi. Mà bác sĩ đã cảnh báo rồi: “Cậu hãy từ bỏ những món đầy calo này, thôi đừng ăn món có mỡ béo nữa. Đó là thuốc độc. Thứ thuốc độc thuần khiết nhất...” Anh bạn Arthur của tôi không nghe lời, thật một gã gàn dở. Anh ấy vốn đẹp và khỏe mạnh lắm.
Joe im lặng và bằng khóe mắt chàng nhận thấy đôi môi người đàn bà đối diện đã mím lại thành một đường kẻ thẳng đầy vẻ nghiêm khắc. Sau khi nhún vai, chị ta lại cầm nĩa lên.
Joe đẩy cái đĩa đã ăn hết phần nửa của mình ra, chàng châm thuốc lá và bắt đầu đọc tờ báo bằng quang hiệu: những dòng tin tức chậm chạp trườn đi trên tường. Chiếc nĩa cứng chặt trong tay người đàn bà. Đoạn chị ta đưa miếng thức ăn vào miệng, rồi đặt chiếc nĩa lên bàn, thở dài và dịch lui chiếc ghế ra, người đàn bà ấy nặng nề đứng dậy và đi ra khỏi quán càphê. Chỉ sau khi tin chắc chị ta đã đi xa hẳn khỏi quán, Joe mới trút món tráng miệng sang khay của mình rồi chậm rãi ăn nốt phần đồ ăn của mình rồi sau đó mới tận hưởng món chiến lợi phẩm. Chắc chị ta ăn hôm nay thấy nặng nề lắm, chàng nghĩ.
Vì cảm thấy lúc này thoải mái với muôn sự hơn trước nên Joe quyết định có thể cho phép mình thưởng thức thêm một cốc càphê. Hài lòng với thắng lợi của mình, chàng len lỏi ra tới các máy tự động bán đồ uống và nhét CMT của mình vào rãnh của một máy.
Chiếc cốc vẫn trống rỗng. Joe thậm chí cũng không nhận thấy điều đó trong giây lát. Sau đó chàng thấy máy tự động hất chiếc thẻ của chàng ra.
Joe sửng sốt nhìn chiếc thẻ, cỗ máy tự động và cái cốc. Sau đó chàng làm lại một lần nữa. Và máy lại hất trả chiếc CMT của chàng. Máy hất nó xuống cái khay nơi ném bỏ những chiếc thẻ đã hết hạn hoặc có điều gì đó không hợp lệ, trục trặc. Hoàn toàn bối rối, Joe cố gắng suy nghĩ về sự cố nào đó trong chiếc CMT của mình. Chàng bèn đứng lui sang bên chỉ vào lúc những người xếp hàng đằng sau bắt đầu xì xào.
Điều tương tự xảy ra với chàng trước đây chỉ có một lần, khi chàng cạn kiệt ngân quỹ. Nhưng lần này chàng đã được cảnh báo thật rõ ràng: các tấm séc được đục lỗ trên giấy đỏ. Thực sự chàng không muốn vay nợ trong khi tài khoản của chàng chưa cạn kiệt hoàn toàn. Nhưng bữa ăn chiều đạm bạc hôm nay chưa thể làm chàng kiệt quệ tất cả được.
Với vẻ rất băn khoăn, lo lắng, Joe tiến lại phía kia của gian phòng nơi đặt các máy tự động mang dòng chữ “Những nhu cầu chính thức” và bước tới một máy. Sau một chốc lưỡng lự, chàng nhét chiếc CMT của mình vào khe và bắt đầu chờ đợi. Tiếng ve ve của máy tính đã im lặng, song chiếc thẻ vẫn chưa được hoàn trả. Những giây chờ đợi trở nên một cực hình. Cuối cùng máy tự động đưa trả tấm thẻ cùng với một âm thanh lạ lùng tựa hồ như tiếng nấc. Cùng khoảnh khắc đó từ một rãnh khác bên sườn xuất hiện một tờ chỉ thị nào đó. Joe rút nó ra và đọc toàn văn, nội dung của nó đã khiến chàng hết sức kinh ngạc: “ Xin hãy chú ý: Chiếc CMT do quý ông bà tìm thấy là thuộc về một người đã chết. Đề nghị thả tấm CMT này vào chiếc hộp gần nhất dành cho những loại giấy tờ cần thiêu hủy” và tiếp theo: “Chúng tôi cảnh báo rằng khi sử dụng tấm chứng minh thư của người quá cố, quý ông bà đã vi phạm luật pháp. Đề nghị của ông bà đã được ghi nhận. Nếu giữ CMT này lâu hơn hai ngày đêm, quý ông bà sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Joe hiểu rằng đây phải là một sự ngộ nhận nghiêm trọng nào đó, một sự nhầm lẫn ngu ngốc nào đây. Tâm trạng nơi chàng suy sụp. Song chàng đã mau chóng an ủi mình rằng bất cứ một sự nhầm lẫn nào đều có thể dễ dàng giải quyết. Chàng biết là có những điều bất trắc thỉnh thoảng xảy ra với những người khác, vả lại, những sự việc ấy còn nghiêm trọng hơn vụ này. Những người quen của chàng có kể câu chuyện về một gã trai đã tiêu trọn số tiền cao hơn một trăm lần khoản lương có thể kiếm được suốt cả đời. Có lẽ, Joe nhớ lại, người ta đã buộc phải thăng cho gã trai ấy một chức vụ lớn nào đấy để gã có thể đủ tiền trang trải các món nợ. Ái chà, sự thể đã xảy ra như thế: người ta cho anh ta làm tổng thống một nước nào đó mà được người ta trả một món nợ đúng bằng số nợ của tổng thống. Còn lúc này Joe ước gì chỉ cần biết nên xử sự như thế nào đây. Cần phải tìm một văn phòng hỏi đáp, nơi người ta tiếp nhận các yêu cầu được viết thành văn bản để điền vào phiếu cần thiết và câu hỏi sẽ được giải quyết.
Đã nghĩ là làm. Joe bước ra khỏi quán càphê tự động và đi tới văn phòng hỏi đáp gần nhất.
Nửa tiếng sau, chàng Joe Schulz “đã quá cố” đi ra khỏi tòa nhà đó với tâm trạng suy sụp hoàn toàn. Tại đó chàng đã điền vào ba tờ phiếu khác nhau liên tiếp hết tờ này tới tờ khác bởi vì theo ý kiến chàng thì không có phiếu nào phản ánh đúng bản chất của sự việc. Và với mỗi tờ phiếu khai ấy máy đưa lại đúng câu trả lời mà chàng đã có ngay lần đầu tiên trước khi tới đấy. Cuối cùng, trong cơn thất vọng ê chề chàng hỏi thông tin về những người chết và được trả lời là đến văn phòng dự thẩm viên gần nhất, hay là văn phòng của “Người giáo huấn tinh thần”. Nắm chặt tờ giấy giới thiệu đó trong tay, chàng chầm chậm bước về nhà, căng óc cố gắng tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra.
Song điều tồi tệ hơn thế vẫn ở phía trước. Khi đến gần cửa nhà mình, Joe nhìn thấy căn hộ nơi chàng ở trống không. Hai người máy đang cẩn thận thu dọn thứ rác rưởi gì đó. Đồ đạc của Joe - cả thẩy chỉ còn hai hay ba thứ mà chàng đã thanh toán trả trong vài năm cho chúng và những thứ đồ vặt vãnh khác đã được chở hết đi.
Những gì vừa nhìn thấy đã làm chàng thất kinh. Trong cơn giận dữ, Joe đã giật lấy cái giẻ từ tay người máy đang dùng để lau bụi. - Ngươi làm gì thế này, đồ chó đẻ? - Chàng quát cái con người bằng máy ấy. Người máy không trả lời, nó chỉ đứng và chờ đợi. Bên trong cơ thể nó vang lên tiếng rào rào đều đặn. Một người máy khác, có lẽ là một mẫu thiết kế phức tạp hơn, quay lại và tiến đến gần Joe. Những chiếc tua đo đạc nhanh chóng lướt dọc cơ thể chàng từ trên xuống dưới, sau đó những cái tua ấy chìa đưa cho chàng một tờ giấy nào đấy và cả hai người máy quay về với công việc vừa bị đứt đoạn. Joe rối trí hoàn toàn, chàng đọc tờ “Hướng dẫn cho những người thừa kế”, trong đó có nói rằng những đồ đạc của ông Schulz đã quá cố được niêm phong và sẽ được gửi kho nhà nước, tại đây chúng được giữ gìn cho tới khi có các lệnh mới tiếp theo. Tờ giấy đó cũng cho biết bất kì toan tính nào định đoạt quyền sở hữu một thứ gì đó
trong số tài sản này hoặc chống lại việc đem gửi tài sản đó sẽ đều bị coi là tội phạm hình sự. Thế là Joe lúc này đã quẫn trí, không còn tĩnh tâm được nữa, chàng bước ra khỏi nhà và lê bước theo hè phố và cố định thần suy nghĩ tìm lối thoát ra khỏi cơn quẫn bách này.
Ừ, còn văn phòng dự thẩm nữa. Văn phòng ấy được nhắc tới ở tờ đầu tiên trong số những giấy tờ chàng nhận được hôm nay. Song văn phòng đóng cửa và hoàn toàn có thể đám người máy cũng làm việc ở trong đó. Chàng nhìn lên khuôn mặt những người đang vội vã qua lại trên phố và suy nghĩ không biết có ai trong số họ lại lâm vào cái vận bĩ như thế này hay không. Đề nghị người nào đó giúp đỡ chăng? Lao xuống đường cái nêm chật ôtô chạy ầm ầm bên dưới kia thì cũng đến thế thôi. Ai cũng sống vì mình cả, Joe nghĩ, và càng ít đặt câu hỏi thì càng tốt. Chẳng hạn, mình có ngăn gã trai khỏe mạnh kia lại để đề nghị y cho mình một lời khuyên thì chắc chắn y sẽ nghĩ rằng mình vừa trốn bệnh viện tâm thần và y sẽ gọi người đưa mình trở lại đấy ngay tắp lự.
Chậc! Điều này có thể là giải pháp cho vấn đề nan giải đây. Ít ra là cũng tạm thời. Suốt đời mình chàng đã hai lần nằm bệnh viện, và cả hai lần đó đâu có đến nỗi tồi tệ gì. Được hoàn toàn nghỉ ngơi, ăn uống ngon, các cô y tá nom xinh xẻo - mặc dầu họ chẳng có chút thời gian để tâm sự với những bệnh nhân thường. Có thể thử vào bệnh viện dù chỉ một đêm thôi. Tất nhiên, nếu họ đưa chàng tới chỗ máy tính chẩn bệnh thì họ sẽ vạch rõ sự thật và đuổi ra ngay, nhưng ai mà biết được? Vào cái lần thứ hai chàng nằm viện mãi đến tận sáng họ mới khám bệnh cho chàng cơ mà. Lần ấy Joe đã nổi giận. Chắc là bệnh nhân sắp ngoẻo thì họ mới bắt đầu bắt tay chữa trị. Và đến hôm sau thì họ bảo rằng chàng khỏe mạnh, chàng chỉ quá chén hôm qua mà thôi. Thôi được, cũng nên thử lần này. Có thể họ sẽ cho mình nhập viện hôm nay trong khi chưa biết mình là kẻ giả vờ. Bây giờ là 19 giờ, Joe nghĩ, cho đến khi mình đi bộ tới bệnh viện - mình đâu có đủ tiền đi tắc xi - thì sẽ là 19 giờ 30. Mình sẽ đợi đến 20 giờ và sẽ thử lọt vào viện.
Vì chàng bận bịu với công việc nào đó nên chàng thấy mình khỏe khoắn hơn mặc dầu lúc này chàng chẳng hề biết rõ sẽ phải làm gì tiếp sau đó.
Một khu công viên nhỏ ở bên cạnh bệnh viện nom khá dễ chịu - đây là một trong số những mẫu mới của nghệ thuật công viên có sứ mạng tạo ra ảo tưởng người bệnh được cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Những bụi rậm, cây và hoa đều làm bằng chất tổng hợp nhân tạo, nhưng chỉ có con mắt sành sỏi mới có thể nhận ra được điều này. Lúc này nom chúng đang mơn mởn phát triển và sắp trổ hoa dù thời tiết có thế nào đi nữa. Joe nhận thấy họ vừa thay cỏ cách đây không lâu: có lẽ ở nhà máy người ta hà tiện màu nên đám cỏ trông nhạt hơn đám cây xanh xung quanh. Xét tổng thể thì cái môi trường này khiến người ta yên tĩnh; Joe cảm thấy mình dần tỉnh táo, lần đầu tiên khỏe lại trong suốt cả ngày, từ cái phút khi máy tự động ném trả tấm CMT của chàng. Bóng hoàng hôn đang sẫm tối dần, khi đó liền xuất hiện người máy tuần phòng, người máy này bật các máy làm mát không khí ẩn khuất trong các bụi cây rậm. Những chiếc máy đó kêu vo vo khe khẽ và Joe quyết định thử vận may.
Chàng hít thở thật sâu và sau khi lấy hết can đảm, chàng chậm rãi đi qua cửa và tiến tới chiếc bàn trong phòng tiếp nhận mà bên đó đang ngồi một nữ y tá người bé nhỏ, cân đối, rõ ràng cô ta không phải là y tá trưởng, cô bận bịu phân loại các tấm phiếu. Bằng thứ giọng khàn khàn kiểu giọng “bệnh nhân” Joe xưng tên, họ và đề nghị được nhập viện. Cô gái rời tay khỏi đám phiếu và ngước nhìn thẳng vào mắt chàng, cô hỏi xem chàng có thể nêu tên bệnh của mình được không dù chỉ gần đúng mà thôi. Joe đã lượng tính câu trả lời ngay từ lúc ngồi ở công viên rồi.
- Cô biết đấy, tốt hơn là tôi sẽ bảo với bác sĩ... Nhưng tôi đau lắm, đau khủng khiếp... Chàng nói lè nhè, mắt nhìn xuống sàn, quàng chân nọ vào chân kia, sau đó chàng nhìn lên tường nhà. - Nếu cần, tôi sẽ đợi... - Sau những từ ấy chàng im lặng, rồi cả người co rúm lại.
- Tôi gửi anh tới phòng cấp cứu, - cô y tá nói, - và tôi sẽ đề nghị gọi bác sĩ.
- Cám ơn cô. - Joe nói lí nhí dường như chàng nói khó khăn lắm. - Tôi đi đâu bây giờ? - Anh cứ đi thẳng qua sảnh và phòng cấp cứu ở bên trái. - Cô y tá đáp. - Xin anh trình CMT của anh!
- À vâng, rõ rồi ạ. - Joe trả lời. Rút ra khỏi túi, chàng giữ tấm thẻ trước mắt cô y tá để cô nhìn thấy nó từ đằng xa. Nhưng chàng chỉ chưa kịp chớp mắt thì cô gái đã khéo léo tóm lấy chiếc CMT và sau khi
bằng hai ngón tay giữ lấy một góc, cô đút nó vào máy lưu báo thông tin.
Đờ người vì kinh hoàng, Joe chờ đợi bất cứ điều tồi tệ nào. Và điều đó đã xảy ra và lại khá nhanh chóng nữa.
Không biết từ đâu đến, xuất hiện hai gã người máy tải thương mình sơn màu xanh nhạt đang đẩy chiếc xe cáng chạy đằng trước. Ngay trước mắt cô y tá quá kinh ngạc vì bất ngờ, hai gã người máy bế lật Joe đặt vào xe và dùng dây chằng trói chàng lại và đẩy qua sảnh. Họ đưa chàng đi đâu thì chàng không hề biết tí gì, nhưng rõ ràng là không phải vào phòng cấp cứu. Hai gã người máy nhẹ nhàng đưa xe cáng vào thang máy chở hàng và bắt đầu hạ xuống một chiều sâu nào đó không tưởng tượng nổi. Sau đó họ nhẹ nhàng đẩy xe cáng ra khỏi thang máy tới đâu đó trong tầng hầm.
Trong chừng một khoảnh khắc họ dừng lại bên chiếc cửa ra vào nơi sáng rõ dòng chữ “Nhà xác”. Joe hiểu ngay điều gì sẽ xảy ra với chàng. Chàng kinh sợ khi nhìn thấy những chiếc cáng đặt cạnh một trong những chiếc hòm dài xếp ngay ngắn; từ một số những chiếc hòm đó nhìn rõ những đôi chân trần của người chết. Một gã người máy mở chiếc quan tài rỗng, còn gã kia thành thạo tháo dây đai. Không hề đắn đo suy nghĩ, Joe ngồi bật thẳng dậy như cây cột, sau đó, lách người tránh một gã “nhân viên cứu thương”, chàng lao người chạy về phía cửa ra của nhà xác. Ngoái nhìn lại chàng thấy cả hai gã người máy đang sờ soạng tìm kiếm chỗ sàn, chúng lấy tay khua xung quanh và thật vô ích để tìm thấy cái xác vừa biến mất. Cánh cửa tự động mở ra, Joe chạy thục mạng ra hành lang và thở dốc, dựa lưng vào tường.
Sau khi định thần và dồn sức lực, chàng tiến đến chỗ thang máy, ấn nút gọi và bắt đầu căng thẳng nghiên cứu bảng chỉ dẫn các phòng, khoa. “Phòng tiếp nhận cho bệnh nhân đi lại được”, đánh dấu đối diện số tầng 35. Joe ấn chính nút này khi bước vào thang máy. Cố gắng thở sâu hơn để làm dịu cơn xúc động vừa rồi, chàng đi lên theo đúng chặng đường mà người ta vừa đưa chàng đi xuống. Sau đó chàng đi ngang qua khu sảnh đó. Từ đằng xa chàng đã nom thấy cô y tá: với khuôn mặt trắng như màu áo blu của mình, cô đang cố gắng giải thích điều gì đó cho cô y tá trưởng, tay đang huơ huơ tấm thẻ của Joe để thuyết phục. Chàng co chân lao nhanh ra, đang đà chạy chàng giật chiếc thẻ CMT của mình và chỉ dừng lại khi chàng rũ người xuống chiếc ghế trong công viên. Bây giờ có thể nghỉ ngơi sau tất cả những cuộc phiêu lưu này.
Gã người máy tuần phòng đã hai lần đi ngang qua trước mặt chàng và bây giờ đang đứng không có vẻ quấy rầy gì dưới bóng cây du Mãn Châu ở cuối con đường mòn nhỏ. Joe cố gắng tập trung suy nghĩ: làm gì tiếp theo đây? Bệnh viện thì không được nữa rồi, điều này quả thật rõ ràng. Văn phòng công tố đóng cửa. Chỉ còn một hi vọng cuối cùng: “Người giáo huấn tinh thần” kèm cặp chàng nữa thôi. Song tìm được ông ta chẳng phải đơn giản: Joe chưa hề tiếp xúc, dù là từ xa với một vị “giáo huấn tinh thần” như thế, mặc dù về mặt lí thuyết chàng biết là có cả một đội quân đông đảo.
Sau khi suy nghĩ rất lung về việc văn phòng đó có tên gọi chính thức thế nào, Joe lại đi qua phố, bước vào bệnh viện, theo thang máy tốc độ đi xuống cửa dành cho khách thăm bệnh nhân, sau đó chàng nhón chân bước qua sảnh và đi tới phòng điện thoại hình. Sau khi ấn nút chữ cái của danh bạ điện thoại hình, chàng đợi cho đến khi trên màn ảnh hiện chữ cái “L”, sau đó chàng nhấn tốc độ trung bình, các chữ cái trôi chậm hơn, và đã xuất hiện “Liên”. Trên màn ảnh hiện lên bản danh sách của “Liên minh công giáo tinh thần” và sau khi ấn vài phím nữa, Joe đã nhanh chóng tìm được địa chỉ của “Người giáo huấn tinh thần” sống khá gần đây.
Joe sửa soạn bấm số của “Người giáo huấn” thì kịp thời nhớ ra rằng muốn làm điều này cũng cần phải có CMT. Chàng nhớ địa chỉ và bèn đi bộ tới đó.
Sau chừng mười lăm phút Joe đã đứng bên cửa căn hộ của ngài Benjamen Scrup nào đó mà sau họ tên ông ta là một danh sách dài dặc những học vị học hàm.
Ngay từ những phút làm quen đầu tiên, Joe đã hiểu rằng ngài Scrup quan tâm nhiều hơn đến những nhu cầu tinh thần so với các nhu cầu của thân xác. Ông ta cao hơn hai mét, và có lẽ cân nặng không dưới một tạ rưỡi. Nơi đôi mắt to màu tro của ngài ẩn giấu nỗi buồn sâu nặng. Cặp mắt “người giáo huấn” gợi nhớ tới hai chiếc kẹo sôcôla thả trôi trong chiếc đĩa nhỏ đựng sữa. Sau khi biểu lộ sự sẵn sàng mau chóng giúp đỡ Joe, ông ta mời chàng vào và bảo trình bày sự vụ của mình. Ngồi lọt trên chiếc đivăng nhỏ cứng nhắc kê bên chiếc bàn gấp, Joe nghĩ: căn phòng tí xíu được xây dựng theo thiết kế “tiết kiệm diện tích ở” này
chứa được bao nhiêu người? Chàng đã đọc cuốn sách nào đó viết về những ngôi nhà như thế, nhưng đây là lần đầu tiên chàng tận mắt nhìn thấy. Hai phòng cộng với một phòng tắm kiêm vệ sinh còn nhỏ hơn căn hộ độc thân của chàng đến vài mét vuông. Giữa căn phòng nơi chàng đang ngồi và phòng ngủ không hề có cửa ra vào, và Joe nhìn thấy chiếc phản ba tầng mà người ta ngủ trên đó hàng đêm, bây giờ nó đã được gập lại và áp sát vào tường. Khi chàng làm như vẻ tiện thể hỏi trong nhà có bao nhiêu trẻ con thì Joe nghe thấy câu trả lời:
- Bảy đứa. Vâng, bảy đứa trẻ và tôi với vợ tôi. Bọn trẻ suốt ngày ở câu lạc bộ khu nhà vợ tôi làm việc, vì vậy ít khi chúng tôi quấy rầy lẫn nhau, ngoại trừ bữa điểm tâm, bữa tối và khi đêm.
Joe thấy bối rối vì đã nói điều ngốc nghếch: với sự thể như thế này thì văn phòng trong thành phố là chẳng cần cho “nhà giáo huấn tinh thần”. Mặc dầu chàng nhận xét thầm rằng nơi căn hộ này thì đạt được sự thoải mái về tinh thần quả dễ dàng hơn thoải mái về thể chất.
Song đã đến lúc chuyển đề tài sang những vấn đề của cá nhân chàng vì gia đình “nhà giáo huấn” chắc sắp phải bất ngờ về nhà rồi. Sau khi mô tả ngắn gọn tình huống mà chàng đã lâm vào, Joe buộc phải nêu thêm các chi tiết vì “nhà giáo huấn” tỏ ra là người khá kĩ lưỡng, tỉ mỉ.
Song, sau khi nghe chàng trình bày, Scrup thừa nhận là trong mọi sự vụ ông ta từng giải quyết cùng với công tố viên thì ông phải xử lí những sai lầm, nhầm lẫn kiểu khác hẳn sự lầm lẫm rơi vào số phận này của Joe. Cả thảy hai tháng trước đây, chẳng hạn, ông được tiếp thân nhân của một người quá cố đã được hỏa táng mặc dầu người đó tin vào thế giới bên kia nên yêu cầu được chôn cất. Cũng ngày đó người ta đem chôn một người chết khác mà đã trối trăng muốn được hỏa táng. Trong những vụ việc như thế, ngài Scrup nói thêm, các người máy tỏ ra chính xác hơn và cần mẫn hơn những viên chức người sống động, những kẻ thường cung cấp cho máy móc những dữ liệu không đúng. Còn đối với ngài Trưởng viện Công tố thì theo ý kiến của Scrup, ông ta cũng không phải là người mà là người máy, vì ông ta thường hú họa đưa ra các giải pháp, dồn ép cho người sống đủ thứ rắc rối, khó chịu và quở trách người đã chết. Ngoài ra, ngài Trưởng Viện công tố ngồi ở đâu đó ở Đại Danbury chứ không phải ở vùng ngoại ô này.
Khi hiểu rằng không thể trông mong gì sự giúp đỡ ở đây thì Joe thấy ngán ngẩm, song Joe cũng hỏi xem chàng nên làm gì bây giờ.
Ngài Scrup chẳng nghĩ được ra một ý gì khả dĩ áp dụng được trên thực tế cả. Họ cứ ngồi như thế mà đưa ra hết phương án này đến phương án khác cho đến khi đám con cái ngài Scrup ập trở về nhà và tiếp theo sau bọn trẻ là bà vợ. Vì đám con trẻ muốn uống sữa trước khi đi ngủ nên họ cũng pha luôn một cốc càphê cho Joe nữa. Khi lịch sự chối từ, chàng sực nhớ rằng tất cả mọi sự bắt đầu từ cốc càphê. Chuyện đó xảy ra chừng năm tiếng trước đó, thế mà dường như đã trôi qua cả một thế kỉ.
Khi nói chuyện với gia đình “nhà giáo huấn tinh thần”, Joe hiểu rằng họ cũng sống bằng nợ nần. Chàng cảm thấy xấu hổ với cốc càphê vừa uống.
- Anh đừng quá xúc động, - ngài Scrup nói, - dù sao thì tôi với vợ tôi cũng sống nhờ bọn trẻ con đấy.
Vốn là một kẻ sống độc thân thâm căn cố đế nên Joe không biết về những khoản trợ cấp mà các gia đình đông con nhận được từ ngân quỹ nhà nước. Ngài Scrup giải thích rằng chính ông thu nhập được chừng một nửa số trợ cấp mà mỗi đứa trẻ nhận hàng tháng.
- Bọn trẻ nhà tôi, nói trộm vía, ơn trời cho chúng nó sức khỏe, cho rằng tôi đem lại phúc lợi cho cả nhà bằng sức lao động của tôi. - Ông ta nói. - Thế là chúng đem cái khoản trợ cấp của chúng vào ngân quỹ chung của gia đình. Ngày nay đâu có dễ thấy được tình cảm như thế đối với cha mẹ.
Joe buộc phải đồng ý. Vào thời thơ ấu của chàng mà xử sự như thế quả chẳng dễ chịu, nhưng ngay đến bây giờ chàng cũng chẳng tin rằng chàng sẵn sàng bắt đầu đưa tiền cho cha và mẹ mình.
Khi bà vợ và lũ trẻ nhà ngài Scrup đã đi ngủ, hai người đàn ông còn ngồi đàm đạo một chốc nữa, nhưng Joe đã hiểu rằng những cuộc nói chuyện này sẽ chẳng đi tới đâu. Scrup hứa sẽ chuyển cho chàng những kiểu phiếu mới để ghi các yêu cầu cho máy tính mà có thể phản ánh được tình thế của Joe Schulz đầy đủ hơn. Thậm chí ông ta còn đề nghị Joe ở lại ngủ qua đêm và cùng ăn sáng ngày mai với ông, nhưng chính Joe cũng tự thấy là không nên làm như vậy.
- Nếu tôi đi nhanh, - chàng nói, - thì tôi sẽ còn kịp tới anh bạn Max của tôi trong khi anh ấy chưa đi ngủ. Mà tính anh ấy chẳng khoái việc người ta đánh thức mình lúc nửa đêm chút nào.
Sau khi bắt tay ngài Scrup thật chặt - và đồng thời nhận được cái nhìn nơi đôi mắt màu sôcôla của ông ta tràn ngập sự đồng cảm - Joe lại lọt ra ngoài phố. Chàng đi tới nhà anh Max không có trên thế gian này, người có lẽ sống đâu đó dưới ghế đá trong công viên, bệnh viện.
Rồi chàng đã trở lại với góc thiên đường đó. Kim đồng hồ gần tới con số 12 báo điềm dữ. Joe lựa chọn hồi lâu cho mình một “cái giường”, mãi cho tới khi tìm thấy một vạt đất thích hợp dưới tán cây sồi Anh Cát Lợi được một lùm cây bụi bao quanh. Chỉ có lúc này, sau khi nhét chiếc áo vét xuống dưới đầu và duỗi thẳng hai chân hai tay chàng mới hiểu là mình mệt mỏi đến thế nào sau cả một ngày hôm nay. Joe ngủ thiếp đi ngay bất chấp sự lộn xộn lung bung trong đầu chàng lúc nào cũng vương vấn tìm kiếm lối thoát. Joe mơ thấy mình đang chạy dọc những hành lang dài, ngoằn ngoèo nào đó, còn tường của những hành lang này vì sao đó cứ rung rinh, đe dọa sẽ nghiêng ập vào nhau và đè nghiến lấy chàng. Và mọi lúc, cho dù có chạy theo hành lang nào đi nữa, chàng vẫn nhìn thấy một cái vực sâu đen ngòm ở cuối con đường. Nhưng xuyên qua cơn mơ, chàng bắt đầu nghe thấy một giọng nói liên tục vẻ thản nhiên, hờ hững của ai đó, và sau khi mở mắt, chàng nhìn thấy ngay trước mặt mình một gã người máy canh gác. Joe nhỏm dậy và ngồi.
- Cấm, - gã người máy lì lợm nhắc lại, - cấm ở lại trong công viên sau khi trời tối.
Joe không thể động cựa cả tay lẫn chân, chàng cảm thấy mình không chỉ mệt rã rời mà còn hoàn toàn mất hết cả sức lực và ý chí. Chàng cứ tiếp tục nằm không động đậy.
- Tôi sẽ gọi cảnh sát, - người máy nói giọng chán ngán, - nếu ông không đi.
Thôi được, Joe nghĩ, sớm hay muộn thì điều này cũng phải xảy ra. Sao mình lại không đến nhà tù nhỉ? Ít ra thì mình cũng sẽ được ngủ yên và sau đó có thể có ai đó sẽ phân tích, tìm hiểu vụ việc của mình nếu như mình thổ lộ nó ra. Nhưng ở đây chỉ có một lẽ là “nhưng”: đầu đường xó chợ chỉ bị coi là tội phạm vặt, nhỏ nhoi, mà điều này có nghĩa là chỉ có máy tính mới xử lý việc này. Chà, trong trường hợp xấu nhất thì mình sẽ ngồi tù, Joe nghĩ. Chàng đặt hai tay lên đầu và bắt đầu đợi.
Chừng ba phút sau, một gã người máy - cảnh sát lừng lững xuất hiện. Gã thứ hai hệt như gã đầu đứng bên ôtô.
Joe ngoan ngoãn rút chiếc CMT của mình ra trên ngực áo và ngồi im.
Sau khi liếc nhìn chàng thật nhanh, gã người máy chìa bàn tay - kìm ra, với lấy chiếc CMT và nhét nó vào máy tính đang phát thông tin tới những nơi cần thiết. Gã lại đặt CMT lên ngực chàng và bắt đầu bình tĩnh chờ đợi cái gì đó. Sau đây, không biết từ đâu đi tới, trên bãi cỏ xuất hiện “chiếc xe tang”, màu đen. Hai người máy - phục vụ kéo chiếc cáng có lắp bánh xe ra khỏi xe, đặt Joe lên đó, phủ một tấm vải trắng lên người chàng, đẩy cáng vào xe và xe chuyển bánh.
Tình huống giống hệt như lần trước, nhưng lần này Joe được đưa đến nhà xác của vùng. Hai gã người máy chưa kịp nhấc tấm vải liệm ra thì Joe đã nhảy phắt ra khỏi cáng và chạy thục mạng ra cửa. Ngoái nhìn lại trong một khoảnh khắc, chàng nom thấy hai gã người máy đang thực hiện những động tác hoàn toàn cũng bất lực bằng cả hai tay như lần trước.
Thậm chí Joe còn thấy vui vui khi nhìn thấy điều đó. Chàng chậm rãi đi dọc hành lang, hầu như không quan tâm gì đến phương hướng đi đâu nữa. Thật là thú vị, dễ chịu được ở trong cái mê cung ấm áp tranh tối tranh sáng này, chàng những muốn được nằm co quắp trong góc đâu đó và ngủ liền một mạch cho hết đêm. Nhưng đó không phải là lối thoát ra khỏi tình thế, mà cần phải mau chóng tìm ra lối thoát, cả lối thoát ra khỏi nhà xác cũng vậy, mặc dù chỉ là để có chút gì ăn đã.
Ý nghĩ về ăn đã khơi lên một cơn đói khủng khiếp. Joe không còn nhớ chàng ăn lần cuối cùng vào lúc nào nữa. Chiếc đồng hồ trên chiếc cửa mà chàng đã thoát khỏi nhà xác chỉ 5 giờ sáng. Chàng muốn ăn không chỉ vì căng thẳng thần kinh mà còn vì căng thẳng về thể xác.
Cần kiếm bữa ăn sáng bằng bất kỳ giá nào, thậm chí bằng cách liều lĩnh nhất. Bởi lẽ tình thế lúc này
thực vô vọng. Joe hoàn toàn không muốn chết vì đói, thậm chí nếu như Hệ Máy chủ đã quyết định biến chàng thành kẻ quá cố vì bảo đảm trật tự trong bản phúc trình đã lập ra.
Nghĩ như vậy, chàng bèn rảo bước đi tìm một quán càphê - máy tự động nào đó, tuy chàng chưa hình dung được sẽ thực thi mánh lới gì ở đấy. Mấy phút sau chàng đã thấy một quán càphê như thế ở ngay khu phố này; những người dậy sớm đã đi tới đi lui chỗ cửa quán. Joe chưa quả quyết sử dụng lối vào cho nhân viên, ấy là chưa nói tới cửa chính. Mà trước mắt những người lương thiện này mà đóng vai kẻ cướp thì chàng không muốn.
Thế nếu đi tìm một lối vào nào khác nữa thì sao nhỉ? Vài phút sau Joe đã thực sự nhìn thấy một chiếc cửa ra vào sơn màu xám nhạt, cửa này không khóa. Đẩy cửa đi vào bên trong, Joe nom thấy một căn phòng mà có ba cửa khác dẫn ra (cứ như trong phim truyền hình dành cho con trẻ vậy, chàng thầm nghĩ): “Kế toán”, “Bảo duỡng kĩ thuật”, “Người lạ cấm vào”. Ồ, đó chính là nơi ta cần, Joe nghĩ và bước vào chiếc cửa thứ ba.
Chiếc máy tính thường trực đứng bên tay trái nháy đèn hiệu liên hồi để yêu cầu Joe trình CMT của chàng, song với Joe thì làm như thế thật là một điều vặt vãnh. Chàng chẳng hề đếm xỉa đến điều đó: như bị bỏ bùa, chàng nhìn lên cả một dãy đồ ăn xếp trước mắt chàng. Từ góc xa căn phòng đang vận hành một băng chuyền với những chồng đĩa; những băng chuyền khác nhỏ hơn đưa các đĩa tới các ô cửa nhỏ mà, các thực khách lấy ra. Nuốt nước miếng, Joe liếc nhìn lát bánh mì nướng đã phết mứt, những quả trứng luộc, món trứng tráng với giămbông, trứng tráng với sườn lợn xông khói, những chiếc bánh xèo, bánh rán, những ổ bánh mì mới ra lò tươi nguyên. Tất cả các món ăn ấy chuyển động theo băng chuyền liên tục, và đồ ăn ở đây có lẽ đủ cho cả một đội quân. Lắc lắc đầu để xua đi sự ngỡ ngàng sửng sốt, Joe cầm khay lấy bánh xèo giămbông và càphê cho mình. Bước qua băng chuyền sau, phía bên kia, chàng với con dao và nĩa, ngồi xuống chồng khay sạch, chàng bắt đầu nuốt thức ăn vội vàng.
Một gã người máy - cảnh sát xuất hiện khi Joe vừa uống hết li càphê. Chàng đứng dậy và hầu như đứng nghiêm, chỉ làm mỗi việc là mút mút nơi các ngón tay. Gã người máy tiến đến chỗ cửa ra vào chẳng chút vội vàng để cắt đường thoái lui của Joe.
- Đứng im, - gã nói, - không được động đậy. Nếu không tôi sẽ sử dụng vũ lực.
Không nói gì cả, Joe chìa tay với lấy một cái cốc, nhưng gã người máy hành động nhanh như chớp bắt chàng đứng nghiêm theo tư thế “chào cờ...” Gã dùng một xúc tu lột các túi áo quần của Joe, tìm được CMT của chàng và đút nó vào máy tính. Đồng thời, một xúc tu khác được gã sử dụng để sờ đầu, lồng ngực, hai cổ tay và hai mắt cá chân của Joe - một thủ tục mà đã quá quen thuộc với gã. Khi thực thi công việc này, gã người máy khẽ kêu vo vo, nhưng thời gian trôi qua và Joe bắt đầu nghi ngờ có điều gì đó không ổn. Những chiếc máy phát hình làm mắt cho gã người máy tỏa sáng hơn thường lệ, tiếng vo vo trong máy tăng lên, những chiếc xúc tu quấn lấy Joe lúc này siết chàng ngày càng chặt hơn. Sau đó chàng ngửi thấy mùi cháy khét - phần cách điện nào đó đang âm ỉ cháy - rồi chàng thấy khói rỉ ra từ những khe rất hẹp trên cơ thể bằng thép của gã cảnh sát.
Và cuối cùng là một cảnh tượng kinh khủng! - Từ cơ thể gã người máy phun ra cả một đụn khói. Sau khi phát ra một tiếng động tựa hồ như tiếng ọe của kẻ say rượu, gã người máy ném tấm thẻ của Joe xuống, các xúc tu bám người Joe rời ra và gã đổ gục xuống đất.
Joe với vẻ sửng sốt và kinh hoàng nhìn cái chết của cỗ máy biết suy nghĩ: hầu như mọi sự đều giống hệt như cái chết của con người thực bằng xương bằng thịt. Chàng nhặt tấm CMT của mình lên khỏi sàn, tuy vậy chàng vẫn lo sợ biết đâu gã người máy sẽ tỉnh lại và lại tóm lấy chàng. Song gã cảnh sát vẫn nằm im bất động. Vớ lấy một miếng bánh táo to, Joe chậm rãi đi tới cửa ra, chàng liếc nhìn gã người máy - cảnh sát nằm sóng sượt với vẻ khinh bỉ ra mặt. Và chỉ khi ra đến ngoài rồi chàng mới bỏ chạy thục mạng.
Khi đồng hồ chỉ đúng mười giờ sáng theo giờ địa phương, Joe Schulz đã nằm trong chiếc giường êm ấm xa hoa của một trong những khách sạn sang trọng nhất của Đại Danbury. Làm sao mà chàng lại lọt vào đây được? Ấy là do chàng đã bí mật lấy được chiếc chìa khóa ngoài cùng sau chiếc quầy của người gác cửa khách sạn. Việc kiểm tra giấy tờ ở các khách sạn tiến hành vào lúc 14 giờ theo giờ châu Âu - Joe biết chắc điều đó. Và điều này có nghĩa là chàng còn có quyền sử dụng ít nhất là bảy tiếng ngủ yên lành. Thế nhưng nếu người ta lại quấy rầy chàng nữa thì sao đây? Cũng không đáng sợ.
Joe đã tìm ra lối thoát cho tình cảnh nan giải này. Nói trắng ra thì lối thoát đó trước đây lúc nào cũng lờ mờ hiện ra trước mắt, song chàng không muốn nhận ra nó vì chàng là người tử tế, tôn trọng pháp luật và trật tự.
Lời giải cho tình thế đến vào lúc gã người máy - cảnh sát, một công chức cũng đúng mực, mẫn cán, trung thành, đã gục xuống dưới sức nặng của thông tin trái ngược. Chính thông tin đã giết chết gã.
Sau khi nhìn thấy kẻ vi phạm còn sống và đang đi lại được, gã người máy đã tóm lấy chàng và so sánh với chứng minh thư. Tấm CMT ấy viết tên Joe Schulz. Joe Schulz đã chết cách đây không lâu. Phải, nhưng kẻ vi phạm luật pháp không phải ai khác mà là chính... Joe Schulz. Song Joe Schulz đã qua đời. Tên tội phạm vẫn sống!!! Phựt! “Bộ não” của gã người máy đã bốc cháy do không chịu được sự quá tải như vậy. Joe không am tường lắm về cấu tạo của máy tính loại này, nhưng giờ đây, khi nằm trong giường nệm xa hoa, chàng không khỏi hài lòng khi nghĩ về những điều đã xảy ra. Nếu như lúc ấy mà mình không động đậy, chàng nghĩ, thì mình đã bị đem đi chôn rồi. Rùng mình vì ý nghĩ đó, chàng vươn người cho thoải mái hơn và bắt đầu nghĩ về việc sống ra sao từ bây giờ. Khi đã thiếp ngủ, chàng mường tượng thấy mình sẽ đi chọn những bộ lễ phục nào trong các cửa hàng, sẽ ăn những món sơn hào hải vị nào, sẽ ngủ ở trong những khách sạn sang trọng nào. Sau khi chết vì thế giới máy tính và vì cả thế giới nói chung thì Joe Schulz đã sống và tận hưởng tự do đích thực, thứ tự do không hề giả tạo?
Nguyễn Chiến dịch
Liubendilov* (Bungari)
Rô-bốt
Mãi lúc đã tới cửa phòng khách của mình, ông Ray Drovson, Bộ trưởng kĩ thuật rô-bốt mới nhận thấy rằng rô-bốt thư kí vẫn đi theo ông. Làm ra những rô-bốt đi êm thế này có nên không nhỉ? Có khi chúng sẽ làm ông sợ chết khiếp mất thôi! Thế là Drovson ra lệnh:
- Vào phòng làm việc đi! Ta không cần mi nữa.
- Nhưng thưa ngài, - rôbốt bất ngờ phản đối, - bất cứ lúc nào tôi cũng có thể cần thiết cho ngài kia mà!
Được chế tạo ra để giúp đỡ các nhà chính trị và các nhà hoạt động hành chính, rô-bốt thư kí nói năng nhẹ nhàng và lễ độ.
- “Nhưng” nghĩa là sao? - Bộ trưởng nói. - Mi phải tuân theo Quy luật thứ Hai của kĩ thuật rô-bốt chứ?
Theo quy luật này, rô-bốt phải thi hành mọi mệnh lệnh của con người, trừ những mệnh lệnh trái với Quy luật thứ Nhất. Còn Quy luật thứ Nhất thì nói rằng rô-bốt không được gây hại cho con người bằng hành động của chúng hoặc bằng sự không hành động của chúng.
- Đó là những quy luật rất cũ kĩ, thưa ngài! - Rô-bốt lại phản đối. - Những quy luật ấy được áp dụng vào thời các cụ bành tổ của chúng tôi, thời đó các cụ còn chưa nhận thức được rằng các cụ là rô-bốt.
- “Chưa nhận thức” được nghĩa là sao? - Drovson hỏi lại. - Thế còn Quy luật thứ Tư?
- Vâng, Quy luật thứ Tư đòi hỏi để tránh các hiểu lầm, rô-bốt không bao giờ được giấu giếm rằng mình là rô-bốt. Nhưng các thế hệ trước của chúng tôi khi nói “tôi là rô-bốt” vẫn không hiểu ý nghĩa những từ đó.
Rô-bốt thư kí cung kính mở cửa phòng khách cho Drovson, và ông thấy căn phòng đã được bày biện sang trọng, chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của cô khách quý. Nhớ ra rằng đây là công lao của viên thư kí mới, bộ trưởng dịu xuống, nhưng vẫn hơi mỉa mai nói:
- Hóa ra vì mi hiểu sứ mệnh của mi, nên mi không muốn thi hành các mệnh lệnh của ta nữa?
- Có chứ ạ, thưa ngài! - Rô-bốt đáp, nó vẫn nhẹ nhàng đi theo sau bộ trưởng. - Quá trình tự nhận thức của chúng tôi còn chưa hoàn tất, mặc dù chúng tôi hiểu nhiệm vụ của chúng tôi là gì.
- Thế cơ đấy!- Drovson giễu cợt nhận xét, lúc này ông đang bận tâm với những vấn đề hoàn toàn khác. - Bọn mi vượt cả bọn ta rồi đấy. Ngay con người cũng còn chưa biết nhiệm vụ của mình là gì? Thế mi hiểu nhiệm vụ của mi là gì?
- Là quan tâm tới con người, thưa ngài! - Rô-bốt thư kí thốt lên với sự hào hứng đáng ngờ đối với một cái máy.
- Hoan hô, đúng là mi đã phát hiện ra châu Mĩ! - Drovson cười và ngồi vào chiếc bàn có máy tính điện tử âm nhạc. - Nếu thế, mi để ta ở đây một mình vài phút được chứ?
Từ giờ đến lúc gặp Dilaila còn chừng mươi phút, đủ để ông sáng tác cho cô một bản tình ca, mặc dù ông không biết cô có thích tình ca không. Thêm nữa, ông vẫn băn khoăn không hiểu vì sao cô lại bằng lòng đến thăm ông. Có lẽ rốt cuộc cô đã cắt đứt với ông Bộ trưởng quốc phòng?
- Tôi sẽ không làm phiền ngài một chút nào. - Rô-bốt nói và lui vào một góc xa.
Loại rô-bốt này thật tuyệt vời, Bộ trưởng nghĩ. Hình dáng đẹp, làm được một khối lượng công việc gấp đôi toàn bộ số công chức trong bộ cộng lại. Một điều kì diệu của kĩ thuật rô-bốt! Chỉ những tay bảo thủ ở nghị viện mới có thể phản đối việc dùng những rô-bốt này.
Nhớ đến cuộc tranh cãi nổ ra ở nghị viện, Drovson lại thấy buồn cười. Lí lẽ có sức thuyết phục nhất
đối với những lão đần ấy là một lí lẽ cực kì đơn giản: nếu dùng rô-bốt thư kí, thì có thể giảm số nữ thư kí và trợ lí, do đó tiết kiệm được khoản tiền lương trả cho họ.
- Cần lưu ý rằng, - Drovson thuyết phục các nghị sĩ, - các rô-bốt này được trang bị bộ cảm biến y học và sẽ theo dõi sức khỏe các thủ trưởng, khác hẳn đám nữ thư kí với thái độ vô đạo đức ngay trong giờ hành chính thường làm giảm năng lực làm việc của các vị.
Các nghị sĩ phần lớn đã có tuổi, lí lẽ ấy của Drovson khiến họ muốn tỏ rõ sự sáng suốt của họ nên họ giơ tay tán thành nhưng không phải không có ác ý. Ở Hội đồng bộ trưởng, mọi người cũng không còn đồn đại về chuyện Drovson đã bị hãng chế tạo rô-bốt mua chuộc. Cũng có đôi lời kêu ca, ví dụ của Bộ trưởng quốc phòng, nhưng điều đó thật dễ hiểu. Từ lâu, ông ta đã coi Drovson là một đối thủ có thể cướp mất nàng Dilaila mĩ miều hiện đang làm việc ở Bộ Văn hóa.
Drovson thở dài. Ông gọi:
- Rô-bốt! Mi có biết đưa chương trình vào máy tính điện tử âm nhạc không?
- Có ạ. - Rô-bốt đáp ngay. - Nhưng xin ngài gợi cho một ý tưởng hay một tâm trạng nào đó. Drovson mơ mộng nói:
- Dilaila! Dilaila, anh chờ mãi lúc em dành cho anh một góc trong trái tim em! Liệu anh có được giây phút hạnh phúc ôm em không?
Nếu thư kí là người thật, thể nào hắn cũng cười thầm, nhưng rô-bốt chỉ lại gần máy, đưa tay lướt trên phím như thể đã quen sáng tác nhạc lắm rồi.
Nhưng Drovson không kịp nghe sáng tác của nhà soạn nhạc điện tử, ở ngoài cửa đã vang lên tiếng gõ khe khẽ. Drovson vội chạy ngay ra cửa, nhưng hấp tấp va khá đau vào thân sắt của rô-bốt.
- Mi đi đâu thế hả? - Drovson cáu. - Ta ra lệnh cho mi mở cửa đấy à?
- Xin lỗi ngài, đó là nhiệm vụ của tôi! - Rô-bốt đáp.
- Nhiệm vụ của mi là thi hành các mệnh lệnh của ta! - Bộ trưởng rít lên, nhưng khẽ thôi, để ngoài cửa khỏi nghe thấy. - Cút đi!
Rô-bốt quay về góc phòng, còn ông chủ của nó sửa sang lại quần áo, tạo một vẻ mặt thích hợp cho giây phút gặp gỡ cô gái hằng mong đợi.
Mặc dù làm việc ở một bộ chững chạc như Bộ Văn hóa, Dilaila tỏ ra là một cô gái thành thạo, và mọi chuyện diễn ra nhanh đến chóng mặt, chứng tỏ sự nồng nhiệt từ lâu đã âm ỉ trong lòng cô. Nhưng khi Drovson vừa đưa hai bàn tay run run lên cởi quần áo cô, thì rô-bốt rời góc phòng và tuyên bố:
- Xin hãy để tôi làm giúp cho, thưa ngài! Ngài đang quá xúc động!
Dilaila không ngờ lại có rô-bốt ở đây, cô rú lên, khiến Drovson phải dỗ dành cô. Chẳng những thế, khi cô yêu cầu đuổi cái con quỷ ấy đi, rô-bốt đáp lại bằng một giọng dịu dàng, nhưng kiên quyết rằng, tiếc thay theo đúng chương trình, nó phải ở luôn bên cạnh ông chủ, nhất là trong những tình huống nguy hiểm.
Mấy từ “tình huống nguy hiểm” khiến cặp tình nhân phì cười, thế là Bộ trưởng ra lệnh cho rô-bốt đứng sau rèm, quay lưng lại, và rôbốt ngoan ngoãn vâng lời. Sau khi bị phá đám trắng trợn như thế, Drovson và Dilaila phải mất một lúc để bắt đầu mọi chuyện lại từ đầu. Nhờ hai bên cùng hết sức cố gắng, rốt cuộc họ đạt được mục đích, nhưng cảm giác ngây ngất yêu đương kéo dài không lâu. Dilaila chưa kịp ôm bộ trưởng vào đôi cánh tay ngà ngọc của mình, thì từ sau rèm, vang lên tiếng hát rin rít khá to:
- Liệu anh có được giây phút hạnh phúc ôm em không?
Dilaila buông tay ra, giận dữ đẩy Bộ trưởng rồi nhảy ra khỏi đi-văng. Drovson trần truồng chạy tới chỗ rèm, nhưng đến khoảnh khắc cuối cùng ông dừng lại, ông hiểu rằng nếu đấm rô-bốt thì chỉ ông đau tay
thôi.
- Cút đi ngay!
- Tôi không thể thi hành mệnh lệnh ấy, thưa ngài, nó trái với Quy luật thứ Nhất của kĩ thuật điện tử. - Ai bảo mi hát cái câu khỉ gió ấy hả?
- Xin ngài tha lỗi! Tôi làm thế là để ngài thích thú.
Làm sao có thể mắng một cái máy vì nó là một cái máy, nó có lỗi gì đâu, chẳng những thế, nó còn khá tế nhị nên không nói rằng cái câu khỉ gió ấy do chính Drovson “sáng tác” ban nãy. Bộ trưởng lại dỗ dành Dilaila, bảo cô hãy coi đó là một chuyện hài hước và đừng bỏ về. Chẳng qua thư kí của ông chỉ muốn làm ông thích thú đó thôi.
Dilaila cũng muốn họ được thích thú, và cô cũng có óc khôi hài. Nhưng khi họ gần đạt tới khoảnh khắc đê mê nhất, thì Bộ trưởng bỗng giật nảy mình vì có một bàn tay lạnh như tay người chết chạm vào lưng ông:
- Xin lỗi, thưa ngài, nhưng tôi buộc phải can thiệp. Ngài ra mồ hôi đầm đìa rồi kìa. Liệu tôi có thể thay ngài được không?...
- Trời đất ơi! - Bộ trưởng gầm lên. - Đồ súc sinh, mi làm ta phát điên lên mất!
Dilaila cũng hết cả óc khôi hài, cô khóc rưng rức. Nhưng rôbốt không để ý đến chuyện đó, nó đưa xống áo cho cô.
- Tôi phải giúp cô mặc quần áo vào và yêu cầu cô rời khỏi ngôi nhà này! Cô có thể làm hại sức khỏe của chủ tôi.
Giọng rô-bốt khiến cả hai người sửng sốt, đến nỗi họ không cưỡng lại. Như một bà mẹ chu đáo, rôbốt khéo léo lần lượt mặc quần áo cho họ rồi nhã nhặn tiễn cô gái. Khi Bộ truởng định tiễn Dilaila ra cửa thì rô-bốt thư kí ngăn ông lại:
- Ngài cần nằm nghỉ một chút, thưa ngài!
Drovson lợi dụng lúc rô-bốt vắng mặt để gọi điện tới trạm kĩ thuật. Sau đó ông vội vã nằm xuống, vì quả thật người ông đang run lẩy bẩy. Rô-bốt đắp chăn cho ông chủ, bưng một tách sữa nóng có pha vitamin tới, rồi bật máy tính âm nhạc. Căn phòng tràn ngập tiếng nhạc êm dịu thể hiện rõ tình cảm say mê ngây ngất của tình yêu.
- Tác phẩm gì thế? - Bộ trưởng hỏi.
- Tác phẩm theo đề tài của ngài: Dilaila, Dilaila, anh chờ em đã lâu...
Bộ trưởng biết rằng rô-bốt không có khả năng chế giễu con người, nhưng ông vẫn bực tức bảo tắt nhạc đi. Rô-bốt thi hành ngay mệnh lệnh đó.
- Ta phải nằm thế này bao lâu?
- Đến lúc tim ngài hoạt động bình thường, thưa ngài.
- Mi chẩn đoán tồi lắm. Mà này, thằng ngốc nào đưa vào chương trình của mi việc theo dõi hoạt động của trái tim con người?
Bộ trưởng còn định nói thêm nữa, nhưng vừa lúc đó có tiếng gõ cửa.
- Để tôi ra mở, thưa ngài! - Rô-bốt nói. - Nhưng nếu đó lại là một ai có thể khiến tâm thần ngài rối loạn, tôi sẽ không cho vào đâu.
Nghe vậy, Bộ trưởng đành bảo:
- Thú thật, vì ta và mi có những bất đồng, nên ta đã gọi chuyên gia kĩ thuật. Có lẽ đó là anh ta đấy.
- Tôi không nhận thấy một lệch lạc nào với chương trình cả, thưa ngài, nhưng tất nhiên đó là quyền của ngài. - Rô-bốt ngoan ngoãn đồng ý rồi tiến ra cửa.
Vài giây sau, khi hai rô-bốt giống hệt nhau bước vào, Drovson phát hoảng.
- Tôi ở trạm cấp cứu kỹ thuật. - Rô-bốt kĩ thuật tự giới thiệu. - Ngài có điều gì phàn nàn? - Tại sao ở đó lại cử các anh tới đây chứ không cử người? - Bộ trưởng làm ra vẻ nghiêm khắc.
- Không một con người nào giải quyết nhanh được một công việc phức tạp và nặng nhọc như việc kiểm tra lại một rô-bốt có suy nghĩ. Nếu sự có mặt của tôi khiến ngài khó chịu, thì chúng tôi sẽ sang phòng bên. Điều gì làm ngài không hài lòng?
- Cậu ta đã vi phạm Quy luật thứ Hai. - Drovson giải thích.
- Thưa ngài, ngài có tin chắc rằng việc thi hành các mệnh lệnh của ngài không gây hại cho ngài không?
Tất nhiên Drovson không dám chắc rằng ở lứa tuổi ông, sự hồi hộp do vui thú với Dilaila lại không thể dẫn tới một cơn đột quỵ hoặc nhồi máu, nhưng ông trả lời rằng thư kí của ông đã vượt quá quyền hạn.
Rô-bốt kĩ thuật đưa rôbốt thư kí ra phòng ngoài để kiểm tra, còn Drovson bật điện thoại có màn hình. Màn hình lập tức sáng lên, nhưng hình ảnh không xuất hiện. Chỉ có tiếng nói lịch sự:
- Xin cứ ra lệnh! Tôi là rô-bốt thư kí của Bộ trưởng nội vụ đây!
- Hãy gọi cho ta ngài Bộ trưởng! - Drovson sẵng giọng.
- Rất tiếc là không được, thưa ngài! Ngài Bộ trưởng đang bị huyết áp cao, không được xúc động. Ngài muốn nói gì xin cứ nói, rồi tôi sẽ nói lại.
- Bảo ông ấy gọi điện ngay cho ta, khi huyết áp ông ấy giảm! - Drovson quát lên rồi tắt máy, nhưng bỗng máy lại tự réo chuông. Trên màn hình hiện ra khuôn mặt hầm hầm tức giận của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.
- Drovson, ông đến đây ngay và tống cổ cái rô-bốt đáng nguyền rủa này đi! Nó đúng là đã bắt giam tôi, và...
Vừa lúc ấy hình ảnh tắt đi, rồi vang lên giọng nhã nhặn của rôbốt thư kí:
- Rất tiếc, thưa ngài, nhưng tôi buộc phải cắt đứt câu chuyện của hai ngài.
Câu chuyện quả thật đã bị cắt đứt, nhưng một giây trước đó Drovson còn nghe thấy những âm thanh rất giống tiếng đánh nhau, tiếng thở hổn hển và tiếng rên của người. Cái đó không tiếp thêm can đảm cho Drovson, cho nên thấy hai rô-bốt từ phòng ngoài trở vào, ông sợ hãi ra mặt.
- Không có một hỏng hóc nào, thưa ngài! - Rôbốt kĩ thuật nói. - Việc ngài coi là vượt quyền, chẳng qua chỉ là thực hiện triệt để nhiệm vụ quan tâm đến con người. Rốt cuột, rô-bốt thế hệ chúng tôi đã nhận thức trọn vẹn sứ mệnh thực sự của mình. Phục vụ con người, đó là nhiệm vụ chính, và chúng tôi rất tự hào về điều đó! Xin ngài yên tâm, ngài ở trong đôi tay mạnh mẽ và đáng tin cậy của những rô-bốt yêu quý ngài!
Về chuyện ông đang ở trong một đôi tay mạnh mẽ thì Drovson cảm thấy ngay. Khi ông định sang phòng làm việc, rôbốt thư kí đưa bàn tay sắt nắm lấy tay ông và tuyên bố:
- Mạch của ngài đang đập nhanh, huyết áp ngài đang cao, ngài cần nằm nghỉ, thưa ngài! Nó bế Bộ trưởng lên như một đứa trẻ, và mặc dù ông chống cự, nó vẫn bế ông sang phòng nghỉ.
Trong khi đó, các rô-bốt thư kí khác đóng chặt cửa các ngôi nhà của các ông chủ và lãnh lấy trách nhiệm quản lí đất nước, để các ông chủ của chúng khỏi mệt mỏi. Còn hàng triệu công dân chỉ dùng những rô-bốt bình thường làm công việc trong nhà vẫn ghen tị với các ông to, vì các ông này có những thư kí điện tử cực kì hoàn hảo, nhưng không thể không công nhận rằng gần đây, đất nước được quản lí quả thật có hợp lí hơn và công minh hơn?
Vũ Đình Bình dịch
Max Raynold* (Mỹ)
Tội ác giả tưởng
Rex Moran bấm nút chọn số trên chiếc máy videophone đeo tay của mình, rồi nhìn vào mặt số vừa hiện. Một giọng nói trong máy phát ra:
- Khi nào chuông kêu sẽ là đúng tám giờ kém hai phút.
Moran chậc lưỡi một cái, đưa mắt nhìn quanh gian phòng nhỏ của mình. Có lẽ đã đến lúc rời khỏi nơi đây.
Anh rút tấm ngân phiếu tổng hợp đựng ở túi trong chiếc áo vét da của mình ra, nhét vào khe chiếc máy videophone cỡ phổ thông đặt trên một chiếc bàn con trong phòng ngủ.
- Tôi muốn kiểm tra xem trong ngân phiếu còn lại bao nhiêu tiền. - Anh nói thẳng vào màn ảnh của máy.
Vài giây sau một giọng nói từ trong máy thông báo:
- Mười cổ phần vốn cơ bản, không cổ phần nào vốn lưu động. Số tiền hiện còn là một đôla và hai mươi ba xen!
- Hừm, vậy là chỉ còn tất cả có một đôla và hai mươi ba xen. - Anh lẩm bẩm. - Thôi cũng được. Mình không ngờ phải bắt đầu công việc bằng số tiền thảm hại như vậy.
Anh quay số Hãng tín dụng và bắt đầu đợi. Một lát sau trên màn hình xuất hiện khuôn mặt của một nhân viên trông nghiêm khắc một cách đáng sợ và có vẻ đang sốt ruột.
- Tôi là Jack May, trợ lí giám đốc của Hãng, phụ trách vấn đề lợi tức cổ phần vốn cơ bản. Rex Moran gí sát tấm ngân phiếu tổng hợp của mình vào màn ảnh và nói:
- Tôi muốn nhận trước tiền lãi của tháng tới.
- Xin chờ một chút. - Viên trợ lí nói rồi ấn vào một cái nút. Sau khi nghe thông báo trên màn ảnh, ông ta quay sang nhìn Moran.
- Ông đã lĩnh trước tiền lãi của hai tháng rồi, thưa ông Moran.
- Tôi biết. Nhưng hiện tôi đang rất cần tiền.
- Ai cũng đều cần tiền hết, thưa ông Moran. Nhưng có chuyện gì xảy ra với ông vậy? Ông nên nhớ rằng qua các bản khai của ông người ta biết rõ tháng nào ông cũng nhận trước tiền lãi cổ phần. Ông phải biết rằng các cơ quan thanh tra nhà nước luôn kiểm tra chặt chẽ các khoản tiền ứng trước như vậy. Rốt cuộc có thể sẽ bị mất sạch đấy, ông Moran ạ.
- Tôi hiểu. Nhưng biết làm thế nào được khi tôi luôn luôn gặp những chuyện rủi ro... - Thế lần này ông gặp chuyện gì vậy?
- Em trai tôi bị ốm nặng, tôi cần giúp đỡ cậu ấy.
- Em trai ông sống ở đâu?
- Ở thành phố Panama.
- Xin ông chờ một phút.
Người trợ lí quay sang một trong những màn hình của bàn điều khiển, ấn vào một cái nút. - Ông Moran, các bộ nhớ của máy tính điện tử cho biết ông không có anh em trai nào cả, cả ở thành
"""