"Truyện Đọc Đêm Khuya Tập 3: Nụ Hôn Cuối Cùng - Vũ Quang Hùng full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Đọc Đêm Khuya Tập 3: Nụ Hôn Cuối Cùng - Vũ Quang Hùng full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup 23-04-2018 LỜI MỞ ĐẦU Truyện trinh thám luôn là một thể loại được các bạn đọc giả yêu thích. Tính chất hấp dẫn của thể loại truyện này không còn phải bàn cãi. Cốt truyện gay cấn, bố cục chặt chẽ, tiến triển nhanh, gọn, bất ngờ, cách xử lý thông minh, chính xác… là ưu điểm của thể loại truyện trinh thám. Tuy nhiên, không phải độc giả nào cũng có đủ thời gian và sự tập trung để theo dõi một cốt truyện điều tra gay cấn kéo dài. Chính vì vậy, NXB Trẻ sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm mới với bộ sách “Truyện đọc đêm khuya”. Không còn những câu chuyện căng thẳng kéo dài. Không tốn nhiều thời gian cho theo dõi cho một quá trình điều tra căng thẳng. Bộ sách này quy tụ những câu chuyện trinh thám ngắn gọn, súc tích, nhưng không kém phần gay cấn. Mỗi câu chuyện là một tình huống khác nhau, đầy bất ngờ và lôi cuốn. Với bộ “truyện đọc đêm khuya” do tác giả Vũ Quang Hùng dịch và phóng tác, NXB Trẻ hi vọng sẽ mang lại món ăn tinh thần tuyệt vời trước khi ngủ cho các fan của truyện trinh thám. KỶ NIỆM NGÀY HÈ Những ngày nghỉ hè, mặt trời, tắm biển, vui chơi... và đó cũng là khoảng thời gian người ta có thể buông thả. Sự buông thả này đôi khi theo đuổi bạn suốt cả cuộc đời, thậm chí dẫn bạn đến cái chết trong tuyệt vọng. Patrick Longchamp không ngừng bị ám ảnh bởi ý nghĩ trên. Từ ít năm nay, khi 15 tuổi, cậu hay hỏi mẹ: — Mẹ ơi, mẹ nói con nghe với, con đã đủ lớn rồi mà. Cha con là ai vậy? Patrick sống với mẹ tại vùng ngoại ô Paris. Héloise Longchamp là thư ký cho một hãng vận tải. Lương bà đủ sống và cho con trai ăn học. Patrick muốn trở thành kỹ sư nông nghiệp. Bà tránh né: — Mẹ chưa thể nói. Con chỉ cần biết rằng con ra đời do một tai nạn, đúng hơn trong một lúc mẹ buông thả. Lúc đó mẹ còn trẻ, mơ ước gặp một người vừa ý. Tuy nhiên mẹ đã lầm. Cha con dễ thương, thông minh, nhưng sống không mấy nghiêm túc. Chín tháng sau con ra đời. — Nhưng người đàn ông ấy, cha con, mẹ không tìm cách gặp lại, có biết rằng con hiện diện trên cõi đời này hay không? — Không, mẹ không muốn gặp lại ổng, vì ổng nói rõ với mẹ rằng ổng sẽ không bao giờ lập gia đình. Đó là một người đàn ông của các phụ nữ, và ổng chẳng chút khó khăn khi thay mẹ bằng những phụ nữ khác trẻ hơn, đẹp hơn. — Mẹ biết rành ổng là ai. Mẹ biết cả tên ổng. Nếu mẹ không gặp lại ổng thì tuỳ mẹ, nhưng con có thể gặp ổng được chớ. Chỉ để xem con có giống ổng không, và có cảm tình với ổng không, vậy thôi. Con sẽ không nói với ổng con là ai đâu. — Có ích gì đâu? Ổng thậm chí không biết con hiện diện trên cõi đời này. Hãy để ổng sống trong thế giới của ổng... Patrick lại lao vào học. Rồi cậu đậu vào đại học nông nghiệp. Năm cuối, mùa hè đến, và cậu nghĩ, cần thay đổi không khí. — Mẹ ơi, hè này con muốn nghỉ ở đảo Corse cùng các bạn trong trường. Mẹ đã khi nào đến đảo Corse chưa? — Sao bỗng dưng con nghĩ đến đảo Corse vậy? — Con cũng chẳng biết nữa! Tự nhiên đảo quyến rũ con. Anh bạn Branchini học cùng lớp là người sinh trưởng ở Corse từ lâu kể cho con nghe về đảo với những bãi biển tuyệt vời và mùi hương thoang thoảng của đầm lầy... Héloise suy nghĩ trong giây lát, lục tìm trong ngăn kéo tủ, rút ra một cuốn album cũ: — Con coi này, Patrick, mẹ có vài tấm hình nghỉ mát trên đảo Corse. Mẹ đã có thời gian sống hạnh phúc ngắn ngủi tại đó, với những kỷ niệm không bao giờ quên. — Con hiểu rồi! Cha con sống trên đó, phải không? — Phải. Giấu con nữa làm gì? Con đã trưởng thành rồi. Năm tháng qua đi... đời mẹ đã hết, đời con đang bắt đầu. Héloise lấy trong album ra một tấm ảnh trắng đen. Patrick nhận ngay ra mẹ mình: lúc ấy bà còn để tóc dài, chiếc váy hoa bó sát thân hình mảnh khảnh, da sạm nắng. Cậu chỉ tay vô ảnh, hỏi: — Người để ria mép đang quàng vai mẹ là ai vậy? — Người có ria mép? Chính ổng đấy, cha con, tên Sampiero Carucci. — Mẹ, mẹ thấy con có giống ổng không? — Giống, từ khi con trở thành một chàng thanh niên. Chính vì vậy mẹ không muốn con để ria mép. Patrick do dự một lát: — Ổng ở đâu, làm gì trên đảo? — Khi ấy ổng ở Piana, có một trang trại, nuôi ngựa cho du khách thuê. Ổng còn tổ chức chụp ảnh, nướng thịt cho du khách ăn tại nhà. — Cuộc sống thú vị thiệt... Rồi... sao xảy ra việc ấy vậy mẹ? — Một buổi tối trong làng tổ chức vũ hội. Ổng nhờ mẹ. Ổng nhảy rất cừ, cặp mắt xanh cười cười mãi, giống y như con. Rồi ông mời mẹ đến thăm nhà ổng... Sáng hôm sau mẹ mới về. Trong suốt thời gian còn lại trên đảo ổng như muốn tránh né mẹ. Mãi khi trở về nhà mẹ mới biết mình mang thai... Patrick trở lại vấn đề: — Mẹ còn nhớ địa chỉ của ổng không? — Sampiero Carucci ở Piana. Ở đó ai cũng biết ổng. Hai tháng sau Patrick đến đảo Corse. Cậu vội đến Piana, xem thử “ổng” có còn ở đó không, nhìn ổng tận mắt, và, có thể, nói sự thật cho ổng nghe. Vừa gặp ổng, cậu vô đề ngay: — Xin chào! Ông là Sampiero Carucci? Tôi tên Patrick Longchamp. Tôi từ đất liền đến đây nghỉ hè. Sampiero trông già khá nhiều so với tấm hình trong album của Héloise. Ông nhìn chàng thanh niên, không rõ lắm do ngược ánh mặt trời: — Chào anh bạn. Cậu muốn thuê ngựa phải không? — Phải, nhưng tôi chưa cưỡi ngựa bao giờ. — Cậu không phải người đảo Corse? — Cũng không hẳn. Tôi... tôi không dám chắc. Sampiero tỏ ra có cảm tình với chàng thanh niên mới gặp, ông nhìn chàng một lát, nói: — Lạ đấy, nhưng nhìn cậu quen quen. Trông cậu có nét giống ông anh Francois của tôi. Thời gian trôi qua và tình cảm giữa Patrick và Sampiero ngày càng gắn bó. Nhưng Patrick không bao giờ nói lên sự thật. Cậu chỉ hài lòng với việc ngắm nhìn cha của mình. Patrick và bạn bè dựng lều gần nhà Sampiero. Nhiều du khách nước ngoài khác cũng vậy. Đang giữa mùa du lịch. Trong số đó có một gia đình từ Dusseldorf, Đức, tới – gia đình Steinerweck gồm: Helmut, người cha; Greta, người mẹ; và cô con gái, Frieda. Họ nói tiếng Pháp và tỏ ra mến Patrick: — Năm nào chúng tôi cũng tới đây nghỉ hè, từ suốt 20 năm nay. Với chúng tôi, Corse là một thế giới diệu kỳ, cách biệt hẳn với những gì xô bồ tại Đức. Patrick đồng ý. Và cô gái Frieda mới dễ mến làm sao! Hai người thường đến thăm trang trại của Sampiero, thuê ngựa cưỡi đi dạo, ngắm nhìn mặt trời lặn, rồi cùng nhau khiêu vũ, thỉnh thoảng trao nhau những nụ hôn... Frieda kể: — Cha em thích Piana lắm. Nhất là bắn cá dưới biển. Mẹ em muốn thay đổi nơi nghỉ hè. Bà nói bà như chịu áp lực khi tới đây, do không hiểu rõ tâm lý dân đảo Corse. Thật vậy, bà ít tiếp xúc với dân ở đây lắm. Em thì em thích đảo, và có cảm tưởng mình sẽ ở lại đây suốt đời... Anh thì sao? — Sống trên đảo Corse, tại sao không? Với điều kiện có nghề để sống. Khi anh có bằng về canh nông, anh xin việc ở đây được lắm chớ. — Với em thì khó hơn, vì em là người Đức. — Trừ phi em trở thành người Pháp. — Sao cơ? — Kết hôn với một người Pháp, như anh chẳng hạn. — Anh nói nghiêm túc chớ? Nhưng chúng ta mới quen nhau chưa bao lâu. Cha mẹ em chiều em lắm, vả lại anh cũng đâu có gì đang chê trách. — Có đấy, nhưng đừng lo. Và anh cho em biết một bí mật. Đừng nói với bất ai: Anh là con trai của Sampiero, chủ trang trại. — Con trai Sampiero! Thảo nào trông anh giống ổng quá! Em có linh tính... Dễ sợ thật. Nhưng anh đâu có sống ở đây. Còn ông ta nghĩ sao? — Không. Sampiero không biết gì cả. Mẹ anh chờ anh 25 tuổi mới chịu nói sự thật. Bà có cuộc phiêu lưu tình cảm một đêm và đôi ba ngày với ổng, trong một dịp nghỉ hè. Bà không bao giờ gặp lại Sampiero. Frieda vẻ trầm tư: — Cuộc đời thật kỳ lạ! Hãy nghĩ thử, nếu không có cuộc phiêu lưu ấy anh sẽ không hiện diện trên cõi đời này. Anh có định nói cho ổng biết không? — Có. Anh rất mến ổng. Anh rất sung sướng khi ổng là cha của anh. Nhưng phải đợi lúc nào thuận tiện. — Còn má anh? Bà nghĩ thế nào về ổng? — Anh không nghĩ bả muốn quay trở lại quá khứ. Thôi, giờ chúng ta đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa. Ra bãi biển dạo chơi đi. — Patrick, sao anh không đến Đức vào mùa đông này? Mẹ anh có thể cùng đi với anh. Nhà của ba má em lớn lắm. Chúng ta cùng đón Noel. Chính ba má em mời đấy. Ba má em nói vầy: Patrick rất dễ thương, và hẳn má cậu ấy cũng thế. Ông bà ấy biết chuyện của bọn mình rồi, và em tin rằng họ coi anh như con rể vậy. — Được thôi, cứ thế đi! Vả lại chúng mình còn viết thư, điện thoại cho nhau nữa kia mà. Nghỉ hè xong, ít lâu sau, qua điện thoại, hai kẻ yêu nhau đề ra những dự định cho tương lai, nhưng một bữa kia Frieda thì thầm giọng khó nghe: — Patrick à, em phải nói anh nghe ngay mới được: Em đã mang thai! Em chưa nói gì cho ba má biết cả. — Vậy sao? Anh mừng đến muốn điên lên được. Dĩ nhiên việc này phải chi xảy ra sau khi chúng mình cưới nhau thì hay hơn, nhưng dẫu sao cũng chẳng có gì nghiêm trọng. Noel tới nhanh. Patrick và mẹ dẫn nhau sang Đức. Gia đình Steinerweck tiếp đón họ thật nồng hậu. Frieda nói riêng với Patrick: — Em vẫn chưa nói gì với ba má. Héloise tỏ ra có cảm tình với Greta, mẹ Frieda. Họ có nhiều sở thích chung. Rồi họ tin cậy lẫn nhau đến nỗi một ngày kia bà thiếu phụ người Pháp quyết định thổ lộ với bà sui gia tương lai: — Tôi phải nói thật với chị: Cha của Patrick không phải là vô danh đâu. Cha cháu là một người Corse, sống tại Piana, nơi mà anh chị cũng biết đó. Chính vì vậy cháu nó mới tới đó nghỉ hè. Có thể anh chị cũng biết ông ta nữa, ông ta có một trang trại trên đảo, tên ông ta là Sampiero. Greta xanh mặt: — Sampiero Carucci? Cũng tối hôm ấy, cặp thanh niên nam nữ nắm tay nhau, hơi lúng túng, báo tin quan trọng: — Frieda đã mang bầu. Ba má và mẹ sẽ là ông bà nội ngoại. Chúng con sẽ làm lễ cưới càng nhanh càng tốt. Mọi người đều ôm nhau chúc mừng. Nhưng Greta hình như rất buồn. Bà nói: — Mẹ cảm thấy mệt quá. Xin lỗi, mẹ phải đi nằm sớm. Khi chồng bà lên phòng ngủ sau đó hai giờ, bà đã nằm trong bồn tắm, cắt đứt mạch máu, người lạnh giá, tim ngừng đập. Trên bàn ngủ là lá thư tuyệt mệnh vỏn vẹn mấy chữ: “Frieda cũng là con gái của Sampiero Carucci. Như Patrick. Định mệnh đã trói buộc chúng ta. Chúng là hai anh em cùng cha nay lại có con với nhau. Lỗi tất cả do tôi. Hãy tha thứ cho tôi.” (Theo “Souvenirs de vacances” của Bellemare) KHÔNG MỘT DẤU VẾT Diễm Thuý đang nằm trong bồn tắm. Khi cần suy nghĩ về một vấn đề gì, chị có thể nằm trong bồn tắm hàng giờ. Và chị đang suy nghĩ về Lê Tuấn, người tình đầy quyến rũ… Chợt chị nhổm người dậy. Có tiếng chồng chị gọi ở bên phòng ngủ. Chị la lớn: — Vũ Cường, sao anh trở về nhà vào giữa giờ làm việc vậy? — Anh bị một tai nạn nho nhỏ. Diễm Thuý khoác vội áo choàng. Chồng chị nằm trên chiếc giường đôi trong phòng ngủ, chân trái băng bó đến tận mắt cá. Vũ Cường giải thích: — Một chiếc xe hơi cán ngang bàn chân anh. Em nhớ con hẻm phía sau văn phòng không? Diễm Thuý bất giác rùng mình: — Làm sao anh về nhà? — Chị Nguyệt Hồng lấy xe hơi chở anh vô bệnh viện băng bó và đưa anh về. Chị ấy đang kiếm thức uống trong nhà bếp. — Anh có nhìn thấy tay tài xế lái xe cán phải anh không? Vũ Cường lắc đầu: — Không. Cả số xe cũng không thấy. — Anh có tính nằm bệnh viện không? — Bác sĩ nói khỏi cần. Nằm nhà anh có thể tiếp tục làm việc được. Mỗi ngày chị Nguyệt Hồng tới đây giúp anh. Diễm Thuý thấy hơi rối: Nguyệt Hồng, thơ ký của chồng chị, là vợ Lê Tuấn. * * * Diễm Thuý chọn chiếc áo đầm màu đỏ, chiếc mà chị thích nhất. Để gặp anh ta lần cuối. Chị quyết định như vậy vì cuộc tình vụng trộm giữa hai người ngày càng trở nên nguy hiểm. Nhất là khi Lê Tuấn đã liều đến mức định cán chết Vũ Cường. Mọi chuyện bắt đầu cách nay bốn tháng, khi chuông điện thoại trên đầu giường chị reo vang: — Tôi là Lê Tuấn. Tôi muốn nói chuyện với chị, về vấn đề vợ tôi làm thơ ký cho chồng chị. Diễm Thuý mời Lê Tuấn đến nhà ngay. Chị thường nghe chồng khen cô thơ ký mới vừa giỏi vừa đẹp. Đàn ông, ai mà biết được… Lê Tuấn đến. Nhưng anh thú thật lý do: Anh thấy hình Diễm Thuý đăng trên số báo Chủ nhật vừa rồi. Và chị đã cho phép anh ở lại ăn bữa tối với chị, vì bữa ấy Vũ Cường vắng mặt qua đêm, mãi tối hôm sau mới trở về. Người hầu phòng ngay sáng hôm sau bị cho nghỉ việc với số tiền thưởng hậu hĩnh kèm theo điều kiện không được tiếp tục làm việc tại thành phố. Diễm Thuý đã mất nhiều người giúp việc theo kiểu này. Lê Tuấn không bao giờ đặt chân trở lại nhà của Vũ Cường. Họ thuê một căn phòng ở phía tây thành phố, một vùng ngoại ô nơi bảo đảm không ai biết mặt Diễm Thuý. Và giờ đây Diễm Thuý tới đó để báo cho Lê Tuấn hay mọi việc thế là chấm dứt. Không quanh co, chị đi ngay vào vấn đề: — Lê Tuấn, tôi đến để báo cho anh biết tôi không còn yêu anh nữa. — Sao? Em nói sao? — Bữa trước nghe anh bảo sẽ cán chết chồng tôi, tôi tưởng anh nói giỡn, ai dè… — Thì anh lái xe đến thăm Nguyệt Hồng, vừa lúc thấy Vũ Cường đi bộ từ hẻm ra, nên anh tính giúp em trở thành một goá phụ giàu có. — Vũ Cường không ngốc đâu. Anh ấy sẽ biết anh là thủ phạm, nếu không ở văn phòng thế nào chẳng có ai đó nhận ra anh. Chưa biết chừng lúc này cảnh sát đang kiếm anh. — Em lo cho anh, làm như anh là con nít không bằng. — Không phải lo cho anh mà là cho tôi. Nếu Vũ Cường biết chuyện, anh ấy sẽ ly dị tôi. Giờ tôi phải về chăm sóc cho chồng tôi bị thương. Còn anh, tốt nhất là về với Nguyệt Hồng ngay. — Không, anh không muốn về với Nguyệt Hồng. Cô ấy chán ngắt. — Vậy anh ở yên trong phòng này, cấm đi đâu. Tiền thuê phòng tôi đã trả trước đến hết tháng. — Nằm trong phòng một mình buồn lắm. Anh muốn đi Vũng Tàu tắm biển, nhưng kẹt nỗi không còn một đồng xu dính túi. À, ra anh chàng này giờ muốn làm tiền. Đành phải chiều gã để gã cút đi cho rảnh nợ: — Được rồi. Sáng mai tôi sẽ đến ngân hàng rút tiền. Đây, anh lấy một triệu xài đỡ. * * * Sáng hôm sau Diễm Thuý đang ăn điểm tâm thì Nguyệt Hồng tới, mặt buồn xo. Diễm Thuý lên tiếng: — Vũ Cường đang ngủ. Chị dùng cà-phê nghen? Nguyệt Hồng bật khóc: — Tôi cần giải thích với chị. Thà để tôi nói với chị và anh Vũ Cường rõ sự việc. Cái thằng nhỏ ấy, nó kể lung tung. — Thằng nhỏ nào? Kể cái gì? — Phát, thằng nhỏ chạy vặt ở văn phòng. Khi sáng tôi mua báo đọc. Ai mà ngờ được chính chồng tôi là thủ phạm gây tai nạn cho chồng chị. Phát đứng ở đầu hẻm, nó nhìn thấy tai nạn và nghĩ rằng chồng tôi lái xe rất nhanh… Diễm Thuý nói không ra hơi: — Rất nhanh? Nhưng tại sao chồng chị lại muốn cán chồng tôi? Nguyệt Hồng đỏ mặt: — Chắc chị không tin lý do mà Phát nói với mọi người trong văn phòng. Nó nói chồng chị ghen vì nghi tôi và chồng chị có mối quan hệ tình cảm bất chính. Diễm Thuý thở phào nhẹ nhõm: — Ồ! Tầm bậy. Tôi chẳng tin vậy đâu. Chị yên tâm đi. — Cám ơn chị. Tối qua, Phát kể với cảnh sát rằng chồng tôi là thủ phạm. Họ đến nhà tôi khi hôm, nhưng Lê Tuấn đã bỏ đi cả tuần nay, mà tôi quả thực không rõ anh ấy hiện đang ở đâu. Tôi cho họ số xe của Lê Tuấn. Có thể tôi làm vậy là không phải, nhưng đâu còn cách nào khác? Họ không nhắc đến lời cáo buộc của Phát, nhưng tôi nghĩ đó chẳng qua là một tai nạn. Lê Tuấn hay chạy xe như điên và tôi từng nói sẽ có ngày anh ấy tự giết mình. Diễm Thuý đứng dậy: — Xin lỗi, tôi có một cuộc hẹn. Tôi sẽ báo với Vũ Cường rằng chị đã tới. Diễm Thuý vội vàng ra khỏi nhà. Chị cần phải nói chuyện với Phát. Nếu Phát chưa nói gì hơn, chị vẫn còn cơ may mua chuộc thằng nhỏ để nó giữ mồm giữ miệng. Chị cẩn thận gọi điện thoại đến văn phòng của Vũ Cường từ một trạm điện thoại công cộng, nói chị muốn gặp thằng nhỏ chạy việc vặt. Chị cố nói nho nhỏ: — Phát, đừng kêu lớn tên tôi. Bà Vũ Cường đây. Tôi cần nói chuyện riêng với cậu chút đỉnh. Gặp cậu ở đâu cho tiện? Phát nói địa chỉ một quán nước. Chị cẩn thận ghi địa chỉ vô sổ tay, nói thêm với Phát mình đang đội chiếc mũ đỏ rất dễ nhận ra, rồi kêu tắc-xi. Phát ra tận lề đường đón Diễm Thuý, dẫn chị đến chiếc ghế cao bên quầy giải khát. Phát có đôi mắt láo liên, coi bộ dễ mắc mồi. Diễm Thuý ướm thử: — Tôi muốn cậu giúp tôi một việc. Hình như cậu kể với mọi người ở văn phòng về câu chuyện của chồng tôi với Nguyệt Hồng? Phát tránh ánh mắt Diễm Thuý: — Chỉ là tôi nghĩ thế thôi. — Nghĩ thế mà lại đúng đấy! Lâu nay chính chúng tôi cũng nghĩ vậy. Ý tôi muốn nói tôi và ông Lê Tuấn. Vài tháng trước ông ấy đã gọi điện bảo tôi về chuyện này. Từ đó chúng tôi luôn tự hỏi mình phải làm gì, hy vọng rằng chuyện chỉ như gió thoảng qua. Với bất cứ giá nào, chúng tôi muốn tránh đưa câu chuyện ra công luận, bởi địa vị của chồng tôi và kể cả công việc của Nguyệt Hồng. Phát, có thể nói cậu thò mũi vào chuyện người khác đấy. — Xin lỗi, tôi nói hơi nhiều. — Không chỉ thế. Ông Lê Tuấn rất buồn vì cậu gắn chuyện nọ vào chuyện kia. Không phải ông ấy muốn cán chồng tôi, chẳng qua chỉ là một tai nạn. Phát nghiến răng: — Phải tống ổng vô tù. Ổng lao thẳng xe vô ông Vũ Cường. Tôi đứng ở đầu hẻm thấy rõ hết. Diễm Thuý ngập ngừng một lát: — Tôi không nói rằng, một cách nào đó, cậu có lý. Rất có thể, do ghen tức, ông Lê Tuấn đã nhấn ga một cách vô ý thức; nếu đúng vậy, ông ta phải hối hận sâu sắc về việc làm của mình, và rất mong cậu quên những gì cậu đã nhìn thấy. Cậu chỉ việc nói lại với mọi người trong văn phòng rằng cậu nói giỡn chơi và đừng khai báo với cảnh sát. Cậu hứa chớ? Phát nhìn Diễm Thuý, ánh mắt dò hỏi: — Tôi hứa, nhưng… — Tôi hiểu. Cậu đang muốn học thêm lớp buổi tối phải không nào? Cậu cần bao nhiêu tiền? Phát gãi gãi cằm: — Ồ, không bao nhiêu… Hai mươi triệu là đủ. Diễm Thuý không mặc cả. Vũ Cường có nhiều tiền: — Để tôi nói lại với ông Lê Tuấn. Chắc chắn ông ấy sẽ đồng ý thôi. Tối nay cậu lại gặp ông ấy nghen. Khoảng tám giờ được không? Khoảng giờ ấy trời đã tối, Lê Tuấn có thể ra khỏi phòng mà không sợ ai trông thấy. Về phần chị, chị không muốn để lại bất kỳ dấu vết nào. Không dại gì đưa địa chỉ của Lê Tuấn cho Phát. Gần phòng chị thuê cho Lê Tuấn ở có một khách sạn-nhà hàng Hy Lạp mà chị chưa hề bước chân vô. Nếu rủi câu chuyện có bề gì, chẳng ai có thể gắn tên chị với Lê Tuấn ngụ ở gần đó. Chị xé một trang trong sổ tay, viết tên khách sạn “Galliopolis” kèm theo địa chỉ trao cho Phát. Rồi chị móc ví lấy ra 200.000 đồng: — Cậu cầm đỡ đi tắc-xi. Nhớ đúng hẹn. Ông Lê Tuấn sẽ chờ cậu ở lề đường ngay trước nhà hàng. Diễm Thuý cảm thấy yên tâm khi đến ngân hàng rút 20 triệu đồng. Lê Tuấn đang ngủ lúc chị bước vô phòng. Chị đánh thức anh ta và dặn dò mọi việc. * * * Đêm ấy Diễm Thuý ngủ ngon và bị chuông điện thoại đánh thức vào lúc gần sáng. Chị nhấc máy, có người từ văn phòng gọi đến và muốn gặp Vũ Cường. Chị đưa máy cho chồng. Hầu như liền đó chị nghe Vũ Cường kêu lên: — Thiệt dễ sợ! Chồng chị nói thêm ít câu trong khi Diễm Thuý hồi hộp không rõ chuyện gì vừa xảy ra. Vũ Cường gác máy, quay sang vợ: — Tội nghiệp cho Nguyệt Hồng. Chị ta chịu đủ thứ bất hạnh. Ông chồng Nguyệt Hồng thiệt kỳ quặc! Mới bữa trước làm anh suýt gãy chân, thì khi hôm lại tự gây tai nạn chết ngắc trên đường đến Vũng Tàu. Diễm Thuý ngồi bật dậy: — Sao? Lê Tuấn chết rồi à? Chị nằm lại, nghiêng người trên gối, mỉm cười mãn nguyện. Một khi Lê Tuấn chết, chị chẳng việc gì phải lo nghĩ nữa. Vũ Cường nói thay vì trả lời: — Nhưng vợ Lê Tuấn thì cừ đấy. Giá như người khác hẳn đã sụp đổ tinh thần. Còn Nguyệt Hồng vẫn cố sắp xếp để làm việc. Chị ấy báo với nhân viên văn phòng rằng chị chỉ đến nhà mình hơi trễ thôi. Diễm Thuý vừa kêu người giúp việc dọn bữa điểm tâm thì Nguyệt Hồng đến. Chị tiến lại gần giường đưa cho Vũ Cường tờ báo buổi sáng. Vũ Cường lên tiếng: — Chị Nguyệt Hồng, chúng tôi thành thật chia buồn cùng chị về mọi chuyện vừa xảy ra. Chúng tôi có thể làm gì giúp chị được không? Chị có cần ứng trước tiền lương để tiêu xài đột xuất không? — Không, cám ơn. Lê Tuấn giữ trong người một số tiền khá lớn, cảnh sát đã trao lại cho tôi 20 triệu đồng. Tay Diễm Thuý đang cầm tách cà-phê bỗng run lẩy bẩy như bị lên cơn sốt. Lê Tuấn đã bỏ trốn, không chi tiền cho Phát! Phát không thoả mãn yêu cầu, hẳn sẽ không chịu giữ lời. Vũ Cường không để ý đến vợ, lập lại: — Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Bởi chị là thơ ký của tôi… chị thấy có cần đặt vòng hoa cho anh ấy không? Hoặc bất kỳ việc gì khác… — Cám ơn ông. Nhưng tôi nghĩ mẹ của Phát hẳn sẽ rất cảm động nếu nhận được vòng hoa. Ông đã nghe tin có chuyện không hay xảy đến với Phát chưa? Diễm Thuý tập trung toàn bộ can đảm để cố giữ chiếc tách. Cà-phê đã sóng sánh tràn ra trong dĩa. Vũ Cường hỏi: — Chuyện gì nữa vậy? — Cậu bé bị đâm chết lúc tối. Người ta phát hiện xác Phát gần nhà hàng-khách sạn Galliopolis. Tôi vừa đọc báo thấy tin này. Diễm Thuý không thể không lên tiếng: — Chị có nghi cho ai đã giết Phát không? Nguyệt Hồng ngơ ngác: — Thưa chị muốn nói gì? — Sao chị không nghĩ đến chồng mình? Còn ai có động cơ tốt hơn để giết Phát? Phát đã đi rêu rao khắp nơi về chuyện chồng chị muốn cán chết anh Vũ Cường. Nguyệt Hồng đưa bàn tay lên che mặt. Vũ Cường xen vào: — Diễm Thuý, em sao vậy? Người phụ nữ đáng thương này… Nguyệt Hồng đã tự chủ trở lại, cắt ngang: — Cám ơn ông Vũ Cường, khỏi cần lo cho tôi. Thưa bà Vũ Cường, bà không nên kết tội một người đã khuất, vì người ấy không thể tự bào chữa. Thật ra, cảnh sát đang truy tìm một người đàn bà. Khi sáng cảnh sát đã tới văn phòng. Họ được một chủ quán nước mà Phát thường lui tới cho biết hồi xế bữa qua Phát ngồi uống nước với một phụ nữ đội mũ đỏ, trạc 30 tuổi. Trên thi thể của cậu bé, người ta còn thấy một mẩu giấy trên có chữ viết tay của phụ nữ, ghi địa chỉ nhà hàng-khách sạn gần chỗ Phát bị giết. Nguyệt Hồng mở tờ báo, lật qua trang sau: — Và đây là bản phô-tô tờ giấy ấy. Nguyệt Hồng đưa tờ báo cho Vũ Cường. Vũ Cường với tay lấy kiếng lão. Diễm Thuý đặt tách cà-phê xuống, tính chạy ra khỏi phòng. Thật ngốc nghếch. Vũ Cường biết nét chữ của chị. Chị chạy đâu bây giờ? Vũ Cường nhìn vợ qua tờ báo xếp lại: — Diễm Thuý, tại sao em lại gởi mẩu giấy này cho Phát? Nói anh nghe! Diễm Thuý không biết trả lời sao cho phải. Sự thật? Nếu chị nói sự thật, Vũ Cường chắc chắn sẽ ly dị chị. Nguyệt Hồng làm bộ chăm chú đọc xấp thư mà chị mang từ văn phòng tới. Vũ Cường quay sang Nguyệt Hồng: — Không có lý do gì khiến tôi bắt chị phải mang gánh nặng của gia đình chúng tôi. Chị có thể về. Mọi công việc sẽ hoãn lại đến ngày mai. Nguyệt Hồng lầm thầm vài tiếng không rõ tỏ vẻ cám ơn và đứng dậy. Diễm Thuý bỗng cản lại: — Nguyệt Hồng, mời chị ở lại. Tôi có chuyện cần nói với chị. Sự thật. Cần phải nói ra sự thật, dù Vũ Cường sẽ đòi ly dị và không chia cho chị một đồng cắc teng. Nếu không, hầu như chắc chắn chị sẽ phải ngồi tù. Người ta sẽ cáo buộc chị đã đâm chết Phát, hoặc đã dẫn dụ cậu ta đến chỗ bị đâm chết. Giọng Diễm Thuý khô khốc: — Lê Tuấn là tình nhân của tôi. Không phải tôi tìm đến với anh ấy mà là anh ấy quyến rũ tôi. Anh ấy đã tới đây, từ nhiều tháng trước để dụ tôi. Tôi cố kháng cự, nhưng anh ấy đã lợi dụng tôi trong giây phút yếu lòng và tôi đành thúc thủ. Xế hôm qua, Lê Tuấn gọi điện thoại tới, doạ sẽ kể hết cho chồng tôi nghe nếu tôi không sắp xếp cho anh ấy gặp Phát. Tôi tưởng rằng anh ấy muốn đưa tiền cho Phát nhằm mua chuộc ngăn cậu bé nói. Nếu tôi biết Lê Tuấn muốn giết Phát thì… Vũ Cường ngắt ngang: — Diễm Thuý, cô nói láo. Cô đã lợi dụng cơ hội Lê Tuấn bị tai nạn để gỡ tội. Tôi không tin anh ta dính líu gì đến vụ Phát. Tôi không tin cô quen Lê Tuấn nữa kìa! — Em có thể chứng minh… Diễm Thuý bỗng ngừng bặt. Chị chứng minh bằng cách nào? Nhờ người giúp việc nghỉ đã bốn tháng nay? Nhưng biết bà ta hiện ở đâu? Nhờ chủ phòng chị thuê cho Lê Tuấn? Nhưng chị đưa tiền cho Lê Tuấn để anh ta trả tiền và chị luôn lén lút tới đó để không ai hay biết. Chỉ còn có Nguyệt Hồng. Phải, may ra… Diễm Thuý quay sang Nguyệt Hồng: — Chị Nguyệt Hồng, chị biết rành chồng chị. Điều tôi vừa nói có đúng không? Nguyệt Hồng lắc đầu: — Chồng tôi không chạy trốn, không giết Phát. Tai nạn xảy ra khiến anh ấy chết cách đây gần 100 cây số, chỉ sau khi Phát bị giết chưa đầy một giờ. Cảnh sát nói thế. — Nhưng anh ấy thích lái xe nhanh dữ lắm mà. — Không. Anh ấy chẳng bao giờ lái xe chạy quá 65km/giờ. — Chị dám thề vậy? — Tôi sẵn sàng thề nếu cần. Diễm Thuý kêu lên một tiếng đầy thất vọng trước khi ngất xỉu. (Phóng tác từ “No Trace” của Parker Johns) BÍ MẬT CỦA CHA TÔI Tôi ra khỏi nhà mẹ tôi vào lúc 8g sáng để đến ga xe điện ngầm nằm tại quảng trường Sloane. Một người đàn ông trong bộ vét xám mới nhưng rẻ tiền và không vừa với khổ người cao gầy của ông ta, một mình đứng chờ ở trạm xe buýt chăm chú nhìn tôi. Khi tới gần, tôi bỗng cảm thấy bối rối trước cái nhìn của người lạ mặt, và ông ta đột ngột hỏi: — Cậu là Timothy Pullman? — Phải. — Tôi biết cha cậu. — Thật vậy sao? Một chiếc xe buýt hai tầng trờ tới. Ông ta nói vội trước khi bước lên xe: — Trước khi tôi giết cậu, cậu sẽ hiểu rõ hơn. Xe buýt chạy đi, tôi còn nhìn thấy đôi mắt ông ta nhìn tôi qua cửa sổ ở tầng trên. Cha tôi chết cách nay đã 11 năm. Ngược với điều người lạ mặt vừa nói, tôi không hiểu tại sao ông ta muốn giết tôi. Ý nghĩ thật kỳ dị. Hẳn do nhận dạng lầm. Nhưng sao ông ta lại biết tên tôi? Tôi là con trai của Burgess Pullman, phóng viên truyền hình đài CFCF ở Montreal. Ba năm trước khi tôi chào đời, ông sang sinh sống tại London – ông nội tôi quê ở Glasgow. Tại London, ông làm biên tập viên cho đài BBC. Cách nay 11 năm, khi tôi 17 tuổi, Burgess Pullman qua đời do chứng nhồi máu cơ tim. Ngồi trên xe điện ngầm, nghĩ lại dĩ vãng, tôi phải thừa nhận cha tôi là một con người bí mật: Ông không bao giờ kể về cuộc sống của ông khi còn ở Montreal. Nhưng tại sao người đàn ông lạ mặt lại biết cha tôi và doạ giết tôi? Âm sắc của ông ta phải chăng là của người Pháp ở Canada? Tôi cũng xin nói qua về mẹ tôi, Margaret Pullman. Ít khi tôi tâm sự với mẹ tôi những chuyện rắc rối do bà đang lo ngại chờ kết quả sinh thiết về khối u trong lồng ngực. Với Suzi Whitfield lại là chuyện khác. Nàng là người yêu của tôi và tôi đã hẹn đi ăn với nàng vào trưa nay, tại tiệm The Grapes trên đường Kensington. Nàng đang sống cùng bà dì, bà này chăm sóc cho đứa con gái 4 tuổi của nàng, Keitha, đứa con toà án giao cho nàng nuôi dưỡng khi nàng ly dị với Hugo. Tôi tới tiệm ăn trước, chưa kịp uống hết ly bia thì Suzi đã bước vào. Nhìn tôi, nàng đoán ngay có chuyện khiến tôi lo lắng và nàng nói: — Anh có chuyện gì vậy, kể em nghe với. Tôi thuật lại câu chuyện về người lạ mặt ở bến xe buýt khi sáng. Nàng chăm chú nghe, cau mày. Khi tôi kể xong, Suzi hỏi: — Anh có định kể cho mẹ nghe không? — Mẹ có thể giúp gì cho anh? — Có thể bà biết đôi điều về cuộc sống của cha anh tại Montreal, và giải thích về gã lạ mặt kia. Còn báo với cảnh sát thì chẳng đi đến đâu. — Anh cũng nghĩ vậy. Họ không thể hành động khi chưa xảy ra tội ác. Đây chỉ là lời doạ mơ hồ từ một kẻ xa lạ. Họ không thể cho người theo bảo vệ anh. — Hãy quên đi, vui lên. Có khi chỉ là một gã vớ vẩn nào đó và anh chẳng bao giờ gặp lại gã. Thế là chúng tôi vui vẻ chuyển đề tài trong bữa ăn. Nhưng tôi gặp lại gã. Ngay chiều hôm ấy. Khi tôi trở về nhà vào khoảng 5g30, tôi thấy gã đang ngồi ngay trên chiếc ghế tôi thường ngồi trong phòng khách, trước mặt là tách trà nóng và chiếc bánh xăng-uých. Mẹ tôi tỏ ra vui vẻ hẳn, kêu tôi lại giới thiệu: — Tim, đây là Christophe Soubliere từ Montreal tới. Ổng từng làm việc cùng với cha của con. Mẹ với ổng vừa nhắc lại những chuyện xưa. Tôi không biết làm gì khác hơn là bắt tay ông ta và ngồi uống trà. Soubliere nói chuyện có duyên. Có thể tôi nghe nhầm câu ông ta nói khi sáng chăng? Ông kể ông thuộc đội điều tra cảnh sát Montreal. Ông nghỉ hưu non do bị bệnh. Ông quen cha tôi khi cha tôi làm phóng sự truyền hình hàng tuần về hoạt động của cảnh sát Montreal. Soubliere nhớ lại: — Ông ở sát bên tôi khi tôi chặn bắt một tay thu thuế cầu đường. Bọn này có súng và lúc ấy đạn đã lên nòng… Nhiều kỷ niệm với cha cậu lắm… Trước khi cáo biệt, Soubliere vô toa-lét. Còn mình tôi với mẹ, tôi thì thầm: — Ông ấy qua đây làm gì? — Ổng đang nghỉ hè – Bà nhìn tôi với ánh mắt dò hỏi, người mẹ nào cũng hiểu rõ con mình – Có chuyện gì vậy? — Ổng tới bất ngờ quá. Sao ổng có địa chỉ nhà mình? — Coi bộ con bắt đầu cảnh giác hơn cả cha con rồi đấy. Tôi tiễn chân Soubliere ra trạm xe buýt. Vừa ra tới cửa, ông ta biến đổi thành con người khác hẳn, lầm lì và đầy nghi vấn. Tôi hỏi: — Khi sáng tôi có nghe lộn không đấy? — Về chuyện giết cậu? Không đâu. Tôi đã lên kế hoạch trả thù từ nhiều năm, lúc bị nhốt tù, trong khi cha của cậu thoải mái tiêu xài tiền đáng lẽ là của tôi. — Nhốt tù? Nhưng ông là cảnh sát mà. — Cảnh sát lạng quạng cũng vô tù. Xe buýt chưa tới. Ông ta ngồi xuống ghế chờ, còn tôi đứng kế bên: — Hãy nói tôi nghe rõ hơn cha tôi đã làm gì ông. — Có một vụ buôn lậu ma tuý. Tôi chịu trách nhiệm bắt. Cùng với rất nhiều cocain, chúng tôi thấy cả tiền mặt. Ba triệu USD. Tôi bỏ túi ba trăm ngàn. Chuyện thường xảy ra. Cảnh sát phải chịu liều thân mà lương lậu đâu bao nhiêu… Nhưng rồi cấp trên nghi, và họ chẳng tìm ra chứng cứ nào. — Vậy đâu liên quan tới cha tôi? — Burgess Pullman, cha cậu, là một phóng viên điều tra cừ. Và hãy nhớ lại, chúng tôi là bạn. Chúng tôi cùng đi ăn tối, cùng uống bia. Tôi tin ổng. Và ổng khám phá tôi đã “thó” tiền, tìm ra cả nơi tôi giấu. Cha cậu liền làm hai điều: Nẫng gần hết; xong trở ngược chứng cứ cung cấp cho cấp trên của tôi, kể cả băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi, khiến tôi bị bắt, ra toà. Tôi lãnh án 35 năm tù giam, vừa được thả cách nay sáu tháng, sau khi ngồi nhà đá hơn 30 năm. Tôi đứng chết trân, buồn bã, bối rối, kinh hoảng bởi hành động của cha tôi mà tôi không thể ngờ. Tôi hỏi: — Làm sao ông biết tôi ở đây? — Những mối quan hệ với cảnh sát vẫn còn sau khi tôi vô tù. Tôi được biết Pullman đã chuyển sang London. Tôi được biết ổng đã cưới vợ và có một đứa con trai. Tôi được biết ổng đã qua đời. — Cha tôi là người duy nhất phản lại ông, ổng chết đã lâu. Tại sao ông theo đuổi tôi? — Ba mươi năm bị giam giữ, thời gian đẹp nhất đời người đã trôi qua. Bộ tôi điên hay sao mà không đòi lại món nợ? Xe buýt trờ tới. Lúc Soubliere bước lên xe, tôi hỏi thêm: — Khi nào? — Khi cậu ít để ý nhất. Xe chưa kịp khuất thì thêm một xe buýt nữa ghé vô trạm. Xe này trống trơn. Tôi vội bước lên xe, móc ra một xấp tiền đưa tài xế, nói ông ta chạy theo xe phía trước. Tôi muốn biết tay cảnh sát nghỉ việc hiện đang cư ngụ tại đâu. Việc này thế nào chẳng có ích đối với tôi. Vậy ra đâu phải tôi không có tiền. Tiền của cha tôi kiếm được, dù có hợp pháp hay không. Lẽ ra tôi có thể vô một trường đại học tốt, thay vì phải sớm ra đời kiếm sống… Xe buýt phía trước vừa dừng tại một trạm và Soubliere bước xuống. Tôi cũng kêu tài xế ngừng, xuống xe, đi sau Soubliere một khoảng cách an toàn. Kìa, ông ta dừng chân trước một căn nhà, rút chìa khoá trong túi, mở cửa, bước vô. Tôi nhìn số nhà, toan quay lại trạm xe buýt thì chợt thấy một chiếc taxi thắng gấp trước nhà. Một dáng người quen quen từ taxi bước ra, tiến đến căn nhà, dùng chìa khoá riêng mở cửa… Đó chính là Suzi Whitfield! * * * Khi tôi về lại nhà thì mẹ tôi đã lên giường nhưng đèn vẫn còn sáng và bà chưa ngủ. Bà hỏi: — Sao con đi lâu vậy? — Con mắc nói chuyện với Soubliere. Ổng nói chuyện có duyên lắm. Mẹ tôi có vẻ vui: — Mẹ mong gặp lại ổng. Thật thú vị khi gặp lại người quen với cha con. — Mẹ ạ, con phải kiếm việc gì làm thay vì đi cà nhổng. — Mẹ thấy con suốt ngày bám theo cô bé làm nghề uốn tóc. — Suzi đâu còn bé. Nàng 31 tuổi rồi đấy. — Người phụ nữ nào tới chừng ấy tuổi mà còn tô son trát phấn đầy mặt hẳn có điều gì đó muốn giấu nhẹm. Tôi trở về phòng riêng, cảm thấy mình có lỗi. Mẹ tôi nói đúng. Tôi đã chẳng làm gì nên thân nên nết. Trước khi đi vào giấc ngủ tôi còn tự hỏi không biết chừng nào Soubliere mới thanh toán tôi. Và nữa, câu hỏi lớn hơn là Suzi Whitfield có mối quan hệ ra sao với kẻ lạ mặt đầy nguy hiểm nọ? * * * Giữa sáng hôm sau tôi gọi điện tới tiệm làm đầu của Suzi. Chúng tôi không hẹn gặp nhau bữa nay nên giọng Suzi có vẻ ngạc nhiên: — Có chuyện gì vậy? — Anh cần gặp em gấp. — Mẹ anh phải không? — Không. Anh phải nói chuyện với em. Đi ăn trưa với anh. Anh sẽ ghé tiệm đón em vào quãng 12 giờ. Khi tôi tới, Suzi đã chờ sẵn. Thật bất thường vì tôi luôn phải đợi nàng, có khi hàng giờ đồng hồ. Trên đường tới nhà hàng, nàng bảo: — Trông anh ghê ghê. Chắc có chuyện gì? Tôi chờ ngồi xuống ghế, gọi xong ly rượu, mới lên tiếng: — Tối khi hôm anh tới Earl Court, theo dõi kẻ doạ giết anh. Anh thấy em đi taxi tới đó. Em vào nhà của ông ta. Suzi, em là đồng bọn của Christophe Soubliere phải không? Suzi nghiêm mặt, cố tự chủ: — Đúng vậy. — Tại sao em lại đến với ông ta? Anh sắp bị giết! — Chỉ là doạ thôi. Để anh tỉnh ra. Tim, anh chịu khó nghe và cố hiểu. Soubliere là người Pháp-Canada nhưng chưa hề là cảnh sát hồi nào. Ổng là thợ sửa ống nước. Tôi bật cười. Sau ly rượu thứ hai, tôi ít giữ lời ăn tiếng nói hơn: — Ông ta ở nhà anh chiều qua. Có thể ổng đang lởn vởn quanh đây, quan sát chúng ta. Suzi tỏ vẻ không mấy thoải mái: — Em dựng chuyện đấy, từ những gì em biết chút xíu về cha của anh. Chris ở London từ nhiều năm rồi. Em kêu ổng mỗi khi ống nước trong tiệm bị trục trặc… — Tiếp. — Em tính doạ anh. Rồi Chris sẽ nói với anh ổng đã nghĩ lại. Rằng anh không đáng chết do việc làm của cha anh. Nhưng do tiền của ổng bị chiếm đoạt và ổng bị tống vô tù, ổng phải được bồi thường. Ba mươi ngàn bảng là đủ. — Tại sao lại nhắm vào anh? — Bởi em cần tiền. Chồng cũ của em cứ mãi quấy rầy. Ảnh cứ đòi bắt Keitha. Em có thể đến một thị trấn ở Scotland, nơi em có nhiều bạn bè, mở tiệm làm đầu và sống bình yên với Keitha. Nhưng em cần tiền để làm chuyện này. Có thể Suzi nói thật vì Hugo đã nhiều phen gây rối. Nhưng tôi chưa thật tin: — Sao em không hỏi thẳng anh? — Anh đâu có tiền. — Anh có thể xin mẹ anh. — Chẳng đời nào mẹ anh đưa anh bằng ấy tiền, nhất là để giúp em, người mà coi bộ bả không mấy ưa. Nhưng để cứu mạng sống cho đứa con trai duy nhất của bả lại là chuyện khác. Thức ăn trở nên lạt nhách trong miệng tôi. Tôi cạn ly thứ ba. Cửa hàng ăn lúc này đông khách, nhưng tôi cóc để ý đến họ nữa: — Em nhét vào đầu anh câu chuyện bực mình về cha của anh. — Chưa biết chừng ổng còn tệ hơn thế. Tôi đứng bật dậy, ói tùm lum, bước vội đến bên cửa hông gần nhất, lao ra ngoài. Tôi không ở đây một mình: Soubliere xuất hiện trước cửa nhà hàng, bước vội đến, đứng chặn ngang. Tôi giễu cợt: — A! Soubliere thuộc đội điều tra cảnh sát Montreal! — Cậu có điên không đấy? Tính đi báo cảnh sát hả? — Có thể. — Về tội tống tiền bằng cách doạ giết? Vậy cảnh sát sẽ nói sao nào? — Họ nói sao rồi ông sẽ biết. — Lời nói của cậu không dễ tin bằng của tôi và của Suzi. — Cứ thử xem. Tôi là một công dân tốt chưa hề có tai tiếng. Ông là một di dân, còn Suzi vừa ly dị chồng, chồng lại hay gây rối. Soubliere cảnh báo: — Tốt nhất là cậu đừng nói gì. Có thể họ đuổi tôi về Canada. Tôi sẽ không thể trở lại Anh nữa. Ông ta vừa nói vừa rút ra khẩu súng ngắn. Bình thường chắc tôi sẽ nói chuyện tiếp, nhưng rượu khiến tôi dễ gây sự. Tôi nhào tới, hai tay nắm chặt cổ tay đối thủ và cả khẩu súng. Soubliere cố kháng cự, nhưng tôi đã chiếm thế thượng phong. Tôi không rõ ai đã bóp cò, nhưng khẩu súng rớt xuống và Soubliere té xuống đất. Suzi chạy tới, cúi xuống đỡ Soubliere đang rên rỉ. Nàng kêu lên thảng thốt: — Trời, anh làm gì vậy? Ổng bị đạn bắn trúng vai rồi. — Anh không thể làm gì khác. — Để em gọi xe cấp cứu. Và xem thử chúng ta nên khai báo ra sao. — Thì em và Soubliere tống tiền anh. Ông ta rút súng doạ… — Làm ơn đừng, em van anh. Còn Hugo, chồng cũ của em. Nếu em gặp rắc rối, Hugo sẽ giành quyền nuôi Keitha. Tôi thở dài, đưa khẩu súng cho Suzi: — Em cầm lấy. Vậy chúng ta sẽ khai báo ra sao? — Như vầy. Em có hai bạn trai, anh và Chris. Ông ta ghen, tới cửa hàng, gọi anh ra ngoài. Ông ta có súng, và hai người đánh lộn… — Liệu Chris có chịu khai giống thế? Soubliere rên lên: — Tôi chịu hết. Tôi đau quá, cứu tôi với! * * * Tôi không thể nào tiên đoán diễn biến của sự việc. Vết thương của Soubliere khá nghiêm trọng nhưng không đe doạ đến tính mạng. Cảnh sát vào cuộc, dĩ nhiên. Nhưng cả tôi lẫn Suzi đều không muốn dính vô báo chí. Khẩu súng, không đăng ký, là một trở ngại. Đã có lúc dường như Soubliere sẽ phải nộp tiền phạt và trục xuất về lại Canada. Tuy nhiên quan toà đổi ý khi Margaret Pullman lên tiếng thay mặt cho bị cáo. Mẹ tôi ngỏ ý muốn tái giá và kết hôn với Soubliere. Không chỉ nộp tiền phạt, bà còn bảo đảm mọi hành vi của ông trong tương lai. Mẹ tôi trông vui vẻ và tươi tỉnh hơn bao giờ hết, hơn cả khi được tin kết quả sinh thiết khối u trong ngực bà lành tính. * * * Sau đám cưới ở nhà thờ, tôi có dịp gặp riêng nói chuyện với Soubliere. Tôi hỏi: — Ông còn nghĩ mình là nhân viên cảnh sát nghỉ hưu ở Montreal nữa hay không? — Tất nhiên. Bà ấy biết tôi nhờ vậy mà. Và khi ống nước trong nhà có bị hỏng, tôi sẽ ra tài cho biết. Vẫn còn đó một vấn đề nghiêm trọng khi Suzi thì thầm: — Em rất cần 30.000 bảng. Keitha và em phải xa lánh Hugo mới yên nổi. — Cứ để đó anh lo. Ngồi trong xe hơi trên đường đến dự tiệc cưới ở nhà hàng, tôi nói với mẹ tôi: — Mẹ à, con cần một số tiền. — Sao con cần tiền? — Suzi và con sẽ đến Scotland sinh sống. Mẹ và Chris chắc chắn không cần đến con trong nhà. — Để làm gì? — Cưới vợ – Tôi và Suzi nắm chặt tay nhau, Suzi sẽ gật đầu. — Bao nhiêu? — Ba chục ngàn bảng. — Dễ thôi. Còn có nhiều tiền hơn thế mà cha con gởi trong ngân hàng với tài khoản mang tên con. Có tới 120.000 đô-la Mỹ – phân nửa số tiền ổng bí mật kiếm được, nửa kia phần mẹ. Mẹ không bao giờ nói tới chuyện này, vì cha con dặn chỉ cho con khi nào con cưới vợ. Thì ra cha tôi có một số tiền bí mật thực sự, mà biết đâu, phải, biết đâu Soubliere đoán đúng… (Phóng tác một truyện của William Bankier) CÔ BẢO MẪU TÓC VÀNG Đó là căn nhà đầu tiên mà Paula nhìn thấy trong suốt 10 phút qua. Căn nhà nhỏ, cách mặt đường khoảng 50m, với bức tường và những cửa sổ nhỏ lờ mờ trong ánh sáng của những vì sao, không phải ánh trăng. Gã đàn ông tự xưng tên Collins cũng thấy căn nhà cùng lúc với cô, và gã ngừng xe: — Chúng ta đã tới nơi. Paula, ngồi trên băng sau xe hơi, từ hơn nửa giờ qua, sốt ruột vò mẩu giấy mà cô vô tình quơ được trên xe trong lòng bàn tay, đáp: — Nghe rồi. Ông có đợi tôi không? Lúc mở cửa xe, tay tài xế quay nửa đầu về phía cô, mắt chợt ánh lên vẻ giễu cợt và độc ác mà ngay khi đó cô không hiểu nổi, vì kể từ lúc bước lên xe, cô chẳng nghĩ đến gì khác ngoài đứa bé. Đến trước nhà, cô thấy tấm bảng chữ lớn “Nhà bán, 6 phòng.” Vừa lúc có tiếng động cơ gầm lên phía sau lưng cô, và Collins đã lao xe đi với tốc độ chóng mặt, vẫn chỉ bật một đèn pha giống như khi chở cô tới đây. Paula đứng chết trân, miệng há hốc, trong lúc tiếng động cơ xa dần… Đã gần một giờ, kể từ lúc Collins gặp cô khi cô vừa bước ra khỏi rạp chiếu bóng. Đó là một thanh niên hơi cao, gầy, trong bộ đồ xám mà cô chưa bao giờ gặp. Hắn tự giới thiệu tên, nói hiện là tài xế cho công ty Standard, được lệnh đến tìm cô vì cháu bé Joel do cô chăm sóc lâm bệnh thình lình. Hình như cháu trúng gió sau khi cô ru cháu ngủ và bỏ đi xem phim. Cháu đã được xe cấp cứu chở đến nhà người cô của cháu, rồi người ta nhờ công ty đưa xe và tài xế tới rạp chiếu bóng tìm cô để chở cô tới với Joel. Lúc ấy Paula không kịp nghĩ gì khác ngoài cháu bé, vội vàng lên xe ngay. Cách nay một tháng, cô là nữ điều dưỡng tại bệnh viện, chăm sóc cho cháu bé Joel Bannister, mới ba tuổi, bị bệnh đường hô hấp. Khi cháu bình phục, trở về nhà, cô được gia đình tỉ phú Bannister nhờ tới nhà tiếp tục trông nom cháu vì cháu còn rất yếu. Bệnh viện đồng ý với đề nghị trên và thế là Paula trở thành cô bảo mẫu. Sáng sớm hôm ấy nhà tỉ phú Bannister ra nước ngoài do công việc kinh doanh, để cháu bé cho cô bảo mẫu và gia đình ông quản gia già Hansen. Không còn ai khác trong nhà vì mẹ cháu bé đã qua đời hồi năm ngoái trong một tai nạn giao thông. * * * Lúc này, trong màn đêm yên tĩnh, cạnh ngôi nhà bỏ hoang, Paula mới bình tĩnh đặt ra một loạt câu hỏi: Tại sao cháu bé lại được đưa đến nhà người cô thay vì tới bệnh viện? Tại sao Hansen không đích thân đi tìm cô mà phải nhờ một tài xế lạ mặt? Tại sao cô lại bị bỏ rơi ở nơi hẻo lánh này? Hẳn Collins đã nói dối cô, nhưng để làm gì? Cô đi bộ ngược con đường tìm lối về lại thành phố. Đường rất vắng, dễ tới hơn nửa tiếng không hề có bóng xe qua lại. Mãi sau mới có một xe tải chạy ngang và tài xế cho cô quá giang. Khi cô đón tắc xi , ngừng trước biệt thự Bannister thì đã 5 giờ sáng. Lúc này, cháu bé Joel đã biến mất từ lâu. Hẳn cháu bị bắt cóc vào khoảng 11 giờ đêm, khi gia đình Hansen, tưởng đâu Paula đã trở về nhà sau lúc xem phim, nên đi ngủ. Trên gối của cháu bé là mẩu giấy yêu cầu trả 200.000 USD tiền chuộc, dặn dò kỹ thời gian, địa điểm và cách trao tiền. Trước khi nói chuyện với Hansen, cô gọi điện thoại báo cảnh sát, không quên nói luôn cả cảnh báo của bọn bắt cóc cấm cô tiết lộ với bất cứ ai. Cảnh sát đến ngay. Họ hỏi cô suốt ngày mà không ghi nhận được chi tiết đáng giá nào. Sau bữa ăn tối, họ tiếp tục thẩm vấn cô ngay tại văn phòng nhỏ kế bên phòng ăn. Một người to con tên Monahan có vẻ là chỉ huy trực tiếp hỏi cô; và một nhân viên mặc thường phục, cao gầy, có khổ người gần giống với Collins, tên Mc Coy, ngồi ghi chép. Monahan tỏ ra bực bội: — Cô cố nhớ lại xem còn quên gì chưa khai hay không. Để tôi lập lại, nếu có chỗ nào sai sót, cô sửa hoặc bổ sung ngay: Một người lạ mặt tới kiếm cô tại rạp hát, gọi đúng tên cô, dựng đứng câu chuyện cháu Joel bị bệnh. Vậy là cô tin gã, lên xe hơi, chiếc xe không có gì đặc biệt để cô nhớ nổi… — Xe màu đen… — Và có bốn bánh – Monahan gắt – Gã chở cô tới một khu cô không nhớ rõ. Hai giờ sau, cô theo một xe tải về lại thành phố. Cô chẳng nhớ gì về xe tải cũng như xe của Collins. Nghe đây, cô gái. Cô nói láo! Cô tưởng đánh lừa tôi được chắc! Đúng là cả đêm cô không ở nhà, nhưng để tạo cơ hội cho bọn bắt cóc, và không ai nghi ngờ cô. Bây giờ cô phải khai thật, đồng bọn của cô là ai? Mac Coy không nói gì, anh ta nhìn Paula vẻ thông cảm, rót ly nước trà đưa cho cô: — Uống đi, và cô cố nhớ lại xem mình có quên gì hay không. Cửa văn phòng độ ngột mở, một cảnh sát bước vào: — Bannister vừa về tới! Ổng đã đến sân bay và đang đợi ngài, Monahan! Paula kêu lên: — Tôi muốn gặp ông Bannister. Tôi muốn nói với ổng… Monahan lớn giọng: — Cái gì? Kể với ổng rằng con ổng đã bị bắt cóc rồi hay sao? Rồi cả ba người bỏ ra ngoài. Paula ngồi trong văn phòng thêm một lát, không nghe động tĩnh gì, cô đứng dậy mở cửa thông ra hành lang: nhà trống trơn. Cô nhìn đồng hồ: đã 11 giờ đêm. Cô bước ra khỏi nhà mà không biết mình định đi đâu… * * * — Cô đi đâu vào giờ này vậy? Giọng nói phía sau lưng khiến Paula giật mình, quay lại. Đó chính là Mc Coy. Anh thân mật: — Có phải cô nghĩ đến cháu bé bị bắt có không? — Liệu người ta có làm hại cháu bé… — Không nếu chúng nhận được tiền. Cháu bé mới ba tuổi, ở tuổi này cháu chưa thể nhận mặt được những kẻ bắt cóc cháu. Với người lớn, lại là chuyện khác. — Anh có nghĩ tôi liên quan… — Không chút nào. Có điều cô hơi hoảng loạn nên không nhớ đầy đủ mọi chi tiết khiến người ta sinh nghi, vậy thôi. Paula cảm thấy như được an ủi rất nhiều. Cô sực nhớ tới Collins: — Gã tài xế chở tôi đi có khổ người hơi giống anh. Xe hơi màu đen, lớn nếu so với xe du lịch bình thường. — Nếu vậy rất có thể đó là loại xe Stevens. Cô còn nhớ gì nữa không? — Collins luôn chỉ chạy với một đèn pha – chợt Paula kêu lên – Còn, tôi vô tình quơ đụng mẩu giấy trên xe hơi, giữ nó lại và bỏ quên trong túi. Cô run rẩy thọc tay vô túi, rút ra mẩu giấy nhàu nát. Mac Coy thận trọng vuốt mẩu giấy, đọc dưới ánh sáng chiếc hộp quẹt: “Công viên đậu xe Jefferson – 2 USD/giờ – 10 USD trọn ngày.” Người thám tử chở Paula lại ngay công viên Jefferson. * * * Mc Coy dừng xe gần công viên. Người coi bãi đậu xe bước tới. Mac Coy đưa thẻ cảnh sát, hỏi: — Anh có thấy một người thường lái chiếc xe hơi lớn màu đen, có lẽ hiệu Stevens. Ông ta trạc tuổi tôi, khổ người cũng tương tự. Sao, anh có biết ông ta hay không? Hiện ông ta có ở đây hay không? — Có lẽ… Tôi chỉ coi xe, không để ý người… Mac Coy móc ra tờ 10 đô-la: — Anh cố nhớ lại coi thử. — À, à… Tôi nhớ ra rồi. Ông ta thường uống cà-phê trong tiệm đàng kia kìa. Xe hơi chạy lại tiệm cà-phê. Mac Coy nhận xét: — Không có chiếc xe hơi đen nào… Nếu tôi là Collins, tôi cũng không dại gì lái chiếc xe ấy vào hôm nay. Cô sẽ đi cùng tôi vô tiệm cà-phê nhận dạng Collins. — Tôi… tôi sợ lắm. Anh vào một mình, nếu thấy ai nghi nghi thì nói với tôi sau… Tôi chờ ở ngoài này được rồi. Paula đang đứng gần cột điện thì thấy một bóng người từ phía sau bước nhanh đến. Cô quay người lại để vừa kịp nhận ra Collins đúng lúc gã nhảy bổ tới, một tay kẹp cổ, một tay bụm miệng cô, thì thầm: — Câm miệng! Ai nói với cô tôi ở đây? Cô đi với ai? Cô cố vùng vẫy, định kêu lên báo động cho Mac Coy nhưng cô cảm thấy nghẹt thở. Collins kéo tuột cô lại gần chiếc xe hơi đậu gần đó, mở cửa xe, tống cô vào, rút ra khẩu súng ngắn: — Cô mà la lên tôi bắn liền! Và cứ thế, một tay lái xe, một tay chĩa súng vào Paula, Collins cho xe lao vút đi. Paula, vào phút chót khi quay đầu lại, còn kịp thấy Mac Coy bước vội ra khỏi tiệm cà-phê. Chạy được một đoạn, gặp đèn đỏ, Collins ngoặt sang phải và cho xe lao theo con đường dọc bờ sông. Luôn nhìn vào kiếng chiếu hậu, gã cho xe chạy rất nhanh khiến Paula bỗng hy vọng Mac Coy đang bám theo phía sau. Liệu anh có kịp nhận ra cô bị bắt hay không? Liệu anh có đuổi theo để giải thoát cho cô hay không? Collins bỗng tắt bớt một đèn pha, rẽ vào một con đường hẹp đầy bóng cây, chắc tính chạy theo đường tắt. Nhưng gã thắng gấp sau một xe tải đậu lù lù cạnh đống đất cao nghệu, chặn ngang con đường. Collins càu nhàu trước chướng ngại vật không thể vượt qua, đành cho xe quành trở lại đại lộ dọc bờ sông, vẫn luôn nhìn kiếng chiếu hậu. Xe đã ra vùng ngoại ô. Đường vắng tanh, chỉ phía trước tuốt đằng xa mờ mờ nhấp nháy hai đèn sau của một chiếc xe hơi nào đó. Chạy khoảng một cây số, gặp ngã ba, Collins chạy chậm lại, ngoặt vô con đường đầy vườn cây, dọc theo ngôi nhà nhỏ có tường bao quanh, không một bóng đèn. Gã dừng xe trước sân ngôi nhà này, xuống xe trước, tay luôn lăm lăm khẩu súng. Gã lặng lẽ đẩy Paula đi trước, leo qua ít bậc tam cấp, bước vào một căn phòng có ngọn đèn dầu lửa lờ mờ, trong đó chỉ có một chiếc bàn, một chiếc ghế và chiếc giường nhỏ dọc theo bức tường. Joel đang nằm trên giường, thân hình nhỏ bé run lật bật dưới chiếc áo khoác lớn mà ai đó đưa cho cháu dùng làm mền đắp. Paula vội nhào lại phía Joel, ôm cháu trong vòng tay. Lúc này cô mới nhận ra còn một người nữa trong phòng. Hắn có vẻ lớn tuổi và to con hơn Collins, chiếc mũ dạ sụp tới tận mắt nên không thể nhìn rõ mặt. Collins kể tóm tắt sự việc vừa xảy ra trong khi gã lạ mặt không ngừng quan sát cô bảo mẫu, phán: — Chắc chắn cô ả không đi một mình đâu. Cô ả nói láo! – và gã quay sang Paula – Có ai đi với cô không nào? Một tên cớm? Và y theo cô tới tận đây? — Phải – Cô mạnh dạn trả lời, hy vọng khiến chúng sợ – Đúng vậy. Và ông ta biết các anh đang ở đây. Nhưng Collins đã lên tiếng: — Ben, nghe đây! Không ai theo dõi tao cả. Tao luôn để ý đến kiếng chiếu hậu. — Mày đã gọi Bannister chưa? Khi nào ông ta xì tiền ra? — Rồi. Mọi việc đã được sắp xếp ổn thoả, Ben. Ông ta nói với tao như thế. — Tốt. Như vậy sắp xếp đồ đạc và chuồn khỏi đây lẹ lên. Đừng để quên thứ gì. Coi chừng bọn cớm theo dõi mày kéo tới đây cả đám liền bây giờ! — Nghe rồi, Ben. Collins lủi xuống ngả bếp, trong khi Ben đến bên cửa sổ hé cánh cửa. Cháu bé Joel ấp úng gì đó trong giấc ngủ, hình như sắp tỉnh dậy. Gã tên Ben quan sát đứa nhỏ và Paula, gằn giọng: — Một giờ sau khi nhận được tiền, cô và đứa nhỏ sẽ trở về nhà. Paula biết gã nói láo khi cô sực nhớ lại điều Mac Coy đã nói. Joel sẽ thoát bởi cháu còn quá nhỏ để nhớ nổi mặt mũi của những kẻ bắt cóc cháu. Nhưng cô… Cô không dám nghĩ tiếp vừa lúc giọng Collins cất lên: — Xong cả rồi, Ben! Chuẩn bị đầy đủ cả. — Tốt lắm. Ra xe hơi, cho xe nổ máy. Tao sẽ bước ra ngay khi nghe tiếng động cơ. Paula không biết mình nên làm gì bây giờ. Linh tính, ánh mắt Ben nhìn cô khiến cô đoán gã sẽ giết cô trước khi gã rời ngôi nhà. Tiếng động cơ đã nổ dòn. Ben rút khẩu súng ngắn dấu trong người ra. Paula lên tiếng, cố giữ vẻ bình thản: — Đừng làm hại Joel khi giết tôi. Ben vẫy vẫy khẩu súng, ra lệnh: — Ẵm thằng bé đi ra, và câm họng! Đi trước tao, nhanh lên! Gã thổi tắt ngọn đèn dầu lửa. Paula đoán chừng gã không muốn giết cô trong nhà, sẽ gây tiếng động lớn, mà sẽ hạ cô tại một con đường vắng vẻ thuộc miền quê, trên đồi… Và còn Mac Coy? Ngày mai Mac Coy sẽ tìm thấy xác cô, lúc ấy anh ta nghĩ sao? Cô bước ra khỏi cửa, trong ánh sáng lờ mờ của những vì sao, cô thấy một bóng người giống như Collins đang leo lên bậc tam cấp, súng cầm sẵn. Phải chăng Collins tính giết cô trước khi bọn hắn bỏ đi? Tuy nhiên cô có cảm tưởng người kia không phải Collins. Cô kêu lên: — Chờ đã! Tôi đang ẵm cháu bé, không thể đi nhanh nổi! Vừa lúc một tiếng súng vang lên, khô khốc trong màn đêm yên tĩnh. Cô thấy mình không hề hấn gì, Joel vẫn nằm gọn trong vòng tay cô. Phía sau cô, một bóng người sụm xuống. Paula quay lại, thấy Ben ngã khuỵu xuống sàn nhà, khẩu súng rớt ngay sát chân cô. Cô đá mạnh khẩu súng để tên cướp không thể chụp trở lại vừa lúc bóng người lên khỏi tam cấp và cô nhận ra đó chính là Mac Coy. * * * Về sau, mãi về sau, khi cô tạm biệt anh tại nhà ông Bannister, Mac Coy mới giải thích mọi chuyện. Anh cũng lao vào con đường tắt y như Collins, nhưng thay vì cho xe quành lại, anh tránh chiếc xe tải và đống đất, cho xe chạy lên bãi cỏ khoảng vài chục mét, tiếp tục theo đường tắt nên lợi đường hơn tên cướp. Nhờ vậy, khi trở lại bờ sông, xe anh chạy trước xe Collins. Anh kể: — Cô nói với tôi Collins chạy xe ban đêm chỉ bật một đèn pha nên tôi nhìn qua kiếng chiếu hậu và nhận ra ngay. Vậy là tôi cứ ung dung chạy trước xe hắn. Đến khi mất dạng Collins, tôi vội quay xe lại, đoán chừng hắn chỉ có thể rẽ theo con đường nhỏ bên trái, nhưng tìm mãi vẫn không thấy ngôi nhà. Chỉ tới khi nghe tiếng xe hơi nổ máy tôi mới xác định được địa điểm. Cũng may đồng bọn của hắn lại cứ tưởng tôi là Collins. Paula kêu lên: — Em cũng vậy! – Tự nhiên Paula xưng em với Mac Coy như thể họ đã thân quen tự hồi nào – Ngay từ đầu em đã nói khổ người Collins hao hao giống anh mà! Nhưng rồi em biết là anh vì luôn biết thế nào anh cũng tới cứu em. (Phóng tác một truyện của Thomas Walsh) TẬP THƠ QUÁ DỞ Thanh tra Ghote vội choàng khăn quanh người, bước ra khỏi phòng tắm khi nghe vợ nói có một người Anh cần gặp anh gấp trên điện thoại bàn. Người Anh nào lại qua Bombay, Ấn Độ? Chuyện khẩn nữa? — Ghote đây. — Ah! Ah! Lạy Chúa tôi. Anh đấy à. Henry Reymond đây. Henry Reymond… tên nghe quen quen, nhưng… — Thanh tra Ghote, anh còn đó không? Nghe tôi nói không? — Có, có, tôi đang nghe. Anh nhớ ra rồi. Phải, cách nay nhiều năm anh đã gặp nhà thơ kiêm nhà văn người Anh thích viết truyện hình sự này. Chỉ một lần. Ông ta đến Bombay thăm một người bạn. Và đã xảy ra vụ giết người trong căn hộ kế nơi ông ta thuê. Vụ án do anh đảm trách và Henry bám sát, lấy tư liệu làm nền cho một tiểu thuyết trinh thám. — Reymond, xin chúc mừng ông đã đến Bombay. — Không, tôi đang ở Delhi, New Delhi. Tôi đi theo tour của Hội đồng Anh. Ba thi sĩ chúng tôi. — Vậy ông sẽ đến Bombay chớ? — Ồ… có điều tôi đã bị bắt giữ, thành thử phải nhờ anh. — Sao? Tại sao ông lại bị bắt? — Họ nghĩ tôi phạm tội giết người, nạn nhân là Giáo sư V. V. Goswami. — Vậy à? Ông có thể kể qua điện thoại được không? — Tôi gọi điện thoại cũng vì vậy. Không ai chịu nghe tôi. Rồi tôi nhớ đến anh, sĩ quan cảnh sát Ấn Độ duy nhất mà tôi quen biết. Anh có thể đến Đội Cảnh sát Hình sự ở đây, nói rằng chuyện họ bắt tôi thật tức cười. Ghote, một thanh tra cảnh sát tầm thường ở Bombay, sao có thể gọi điện thoại đến Đội Cảnh sát Hình sự Trung ương nói rằng việc họ bắt Reymond đáng tức cười, nhất là khi anh còn chưa hay biết gì nội dung. — Nhưng, ông Reymond, điều ông yêu cầu quả là không thể, trăm phần trăm không thể… Một quãng yên lặng bên kia đầu dây. Rồi giọng nói chậm rãi đến tai anh khác hẳn nãy giờ, đầy vẻ nghiêm trọng: — Thanh tra… Thanh tra, làm ơn. Hãy làm ơn. Tôi không hề giết người. Thanh tra, anh biết tôi mà. Chúng ta là bạn, chẳng phải sao? Anh biết đấy, tôi không thể giết bất cứ ai. Vả lại, tôi giết người làm gì chớ? Ghote suy nghĩ. Nếu vụ việc đúng sự thật thì không sao, nhưng nếu Reymond bị oan? Một thi sĩ, một nhà viết truyện trinh thám nổi tiếng của Vương quốc Anh bị Ấn Độ bắt về một tội giết người mà ông ta không hề phạm, chắc chắn báo chí Anh, và Ấn Độ nữa, sẽ đưa ra khắp thế giới. Vậy mà, trong khi cả Ấn Độ chỉ mình anh biết Reymond, anh lại làm ra vẻ bận công chuyện nên bỏ qua, không can thiệp. Nhưng anh có thể làm gì? Điều duy nhất là đến báo cáo với sếp anh. Anh cũng đoán trước sếp sẽ điện thoại đến Đội Cảnh sát Hình sự Trung ương, đồng thời khuyên anh cần hết sức, hết sức thận trọng. — Ông Reymond – anh đáp – Tôi sẽ cố làm hết sức mình. Hãy chịu khó chờ. * * * Hơn 3 giờ đồng hồ sau, Ghote đã lên máy bay đến Delhi. Nhưng anh vẫn chưa biết rõ mình nên làm gì. Tất nhiên, trước hết anh sẽ đến Ban Chỉ huy Đội Cảnh sát Hình sự thủ đô, nhưng làm sao minh oan cho ông bạn Reymond? Còn hai thi sĩ người Anh nữa cùng đi với Reymond thì sao? Giáo sư Goswami đã bị giết chết như thế nào? Máy bay đã hạ cánh. Anh ra khỏi sân bay. Thời tiết New Delhi lạnh giá, trời lất phất mưa. Anh vẫy taxi: — Đến Đội Cảnh sát Hình sự. Đội trưởng Brian Quayne, đã được sếp của Ghote báo trước, vui vẻ tiếp anh. Ông cũng vui vẻ kể tóm tắt vụ án: — Như vầy. Có buổi tiếp 3 thi sĩ người Anh tại nhà Giáo sư Goswami. Họ chỉ uống nước cam vắt, ăn thức ăn nhẹ. Rồi mỗi người khách được tặng, đúng ra bị nhét vô tận tay, một cuốn thơ của bà Namita Rai nào đó, tựa đề “Những bước đi âm thầm”. Nhưng bà ta chỉ gởi sách tặng mà không tới dự buổi tiếp tân. Các du khách, dĩ nhiên chẳng ai muốn đọc thơ khi tới Ấn Độ tham quan. Vậy là mỗi người đều tìm cách bỏ lại cuốn sách được gọi là thơ ấy cho qua chuyện. Một người “bỏ quên” trên trường kỷ; một nhét đại vô giá sách nhỏ ở phòng khách; còn một để ở tủ chén dĩa. Nhưng, người phục vụ mẫn cán nhanh chóng tìm ra đủ cả ba quyển sách. Anh ta cho rằng họ vô ý để quên sách; sách lại có chữ tác giả ký tặng từng người nên ai nấy đều được trao lại tận tay và đành phải cầm món quà tặng bất đắc dĩ ấy về khách sạn. Đêm hôm ấy, Giáo sư Goswami bị giết chết tại nhà. Người ta thấy một tập thơ “Những bước đi âm thầm” trên giá sách. Tập thơ có chữ ký của tác giả ghi tặng ông Reymond. Người phục vụ khai đã đưa tận tay sách cho ba ông khách bỏ quên. Nên mọi nghi vấn đổ dồn vào ông ta là thủ phạm: Ông ta đã trở lại nhà Giáo sư Goswami gây án. * * * Ghote gặp hai nhà thơ cùng đi với Reymond trong chuyến thăm Ấn Độ. Cả hai đều cho rằng thơ của bà Rai chán phèo, thơ chẳng ra thơ mà đúng hơn là thẩn, và kể lại sự việc đúng như những gì Quayne từng kể, nhưng họ không hay biết gì về cuốn thơ có chữ ký tặng Reymond trên giá sách nhà Giáo sư Goswami. — Các ông có thấy Reymond rời khách sạn sau khi trở về không? — Mỗi người một phòng, nên chúng tôi không thể biết. Nhưng cả hai đều quả quyết Reymond là con người hiền lành, tính tình lại nhút nhát, không thể nào giết người. Vả ông ta giết Goswami để làm gì khi giữa họ mới chỉ gặp nhau một lần, không thù không oán? Ghote xin phép được gặp Reymond, chuyện không mấy khó khăn. Được hỏi về tập thơ tặng mình, Reymond nói liền: — Tôi biết, chính tôi đặt nó trên giá sách mà. — Khi nào, có ai thấy không? — Ngay sau khi nhận lại tập thơ từ người phục vụ, tôi nản quá, nhất quyết phải làm sao bỏ nó. Vậy là tôi nhét sách vô bụng, giả vờ đi vào nhà vệ sinh. Ngang qua giá sách, tôi để đại lên đó. — Có ai thấy ông để sách lên giá không? Nhà thơ ngồi suy nghĩ yên lặng một lát, chỉ một lát. Rồi ông ta đâm hoảng: — Không ai thấy cả, lạy Chúa. Tôi đã cẩn thận nhìn trước ngó sau, chắc chắn không thấy ai mới để quyển sách đáng ghét đó lên, do sợ lại phải nhận sách lần nữa. Bây giờ tôi ước gì có người trông thấy. Làm sao tôi biết được đêm hôm ấy ông Goswami bị giết để hành động khác đi… — Ông có nhớ cụ thể mình để sách ở chỗ nào không? — Không, chỉ biết đâu đó trên giá sách. Đã nói tôi ngó quanh không thấy ai là đặt vội sách lên cho xong chuyện mà. Có điều tôi biết chắc chắn là Giáo sư Goswami vẫn sống nhăn và khoẻ mạnh khi tôi rời nhà ông. Tôi nhớ còn buộc phải lịch sự nói tôi rất thích quyển thơ được tặng và bắt tay tạm biệt ông trước khi ba chúng tôi lên taxi về khách sạn. Vậy làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ? Ngay cả Ghote cũng không biết làm sao bây giờ, dù lúc này đây, cũng như hai nhà thơ bạn của Reymond, tự thâm tâm anh tin chắc ông ta không thể là thủ phạm. Anh đành gặp lại Đội trưởng Quayne trình bày quan điểm của mình. Quayne vẫn vui vẻ tiếp anh: — Sao, thanh tra? Nhân viên của tôi có gì cần chỉ bảo không? — Không, thưa ngài. Có điều, xin hãy tin tôi. Hai nhà thơ đi cùng với Reymond biết ổng rất rành, đều nói ổng không phải hạng người phạm tội sát nhân, một trăm phần trăm. — Cùng trong nghề, hẳn thanh tra dư biết, mọi người ai cũng có thể phạm tội. Điều chúng ta cần là chứng cứ. Anh căn cứ vào đâu mà nói Reymond không thể phạm tội? — Không, thưa ngài không. Tôi không nói vậy. Nhưng tôi tin rằng ông Reymond không giết Giáo sư Goswami vì không có động cơ chính đáng. — Có thể đấy, thanh tra. Các nhà thơ thường nghèo. Họ lại hay cần tiền để uống rượu, gái gú, nhảy đầm… Cũng có thể chuyện Giáo sư Goswami đưa lại quyển sách cho Reymond khiến ông ta cho là bị xúc phạm và nổi giận. Nào ai biết được. — Vâng, thưa ngài. Nhưng hãy nghĩ lại. Henry Reymond không chỉ là nhà thơ. Ông ấy còn viết truyện trinh thám, nhà văn rất nổi tiếng. Ông ta kiếm bộn tiền chính nhờ loạt sách trinh thám. Tôi còn biết ông ta không phải thứ văn nghệ sĩ chơi bời trác táng. — Không, thanh tra. Không đâu. Hãy bỏ quách, đừng nên coi những điều anh vừa nói là chứng cứ. Quyển sách. Tìm thấy tại hiện trường vụ án. Đó là chứng cứ hàng đầu – Quayne vừa nói vừa đưa ra cuốn thơ Những bước đi âm thầm. Ghote, với phản xạ tự nhiên, đưa tay cầm cuốn sách, lật qua xem thử. Biết đâu có khi không có chữ viết tay đề tặng Henry Reymond trong sách, mà đề tặng một người nào khác… Nhưng không, ngay trang đầu là hàng chữ “Thân tặng nhà thơ nổi tiếng, ông Henry Reymond, với tất cả lòng kính mến. Namita Rai”. Nếu Reymond muốn giết Goswami, ông ta chỉ việc xé bỏ quách trang này là xong. Ghote nghĩ khi anh lật qua vài trang nữa đọc mấy câu thơ xem thử. Anh nhăn mặt. Thơ dở thật, dù anh chẳng biết thưởng thức gì mấy về văn chương, với những câu đại khái “Đường vào thành phố cong cong. Tại sao lại phải đi vòng quanh co…” hoặc “Âm thầm em bước chân đi. Mặc em anh hỏi làm gì hỡi anh”… Thảo nào cả ba nhà thơ đều vội vàng “bỏ của chạy lấy người”. Quayne lên tiếng: — Sao thanh tra có ý kiến gì không? – Ghote vừa lắc đầu, Quayne tiếp – Hãy nghe tôi nói đây. Trừ phi anh có điều gì mới kể cho tôi thay vì những nhà thơ không cần tiền và bạn của anh không thể là kẻ sát nhân, tôi sẽ ra văn bản cáo buộc ông ta. — Thưa ngài, không. Nhưng… thưa ngài, hãy cho tôi thêm chút ít thời gian. Tôi sẽ nói chuyện thêm với ông ta. Cố tìm xem thử có chứng cứ ngoại phạm nào không. — Chứng cứ ngoại phạm à? Ồ phải, và ông ta đã khai gì với chúng tôi? Ngủ một mình trong phòng tại Khách sạn Imperial. Không có cả đến một phụ nữ kế bên. Chẳng hiểu ông ta là thi sĩ loại gì. — Thưa ngài, ông ta hơi nhút nhát. — Ê, nhút nhát, nhút nhát hả? Nhút nhát mà dám giết người? Nhưng được, dù sao cũng là bạn anh, mà anh là người trong ngành cả. Vầy nhé thanh tra: Tôi sẽ cho anh thời gian từ nay tới 10 giờ đêm. Nghĩa là anh có 12 tiếng đồng hồ. Hãy trở lại gặp tôi nếu anh tìm được chứng cứ đàng hoàng và tôi sẽ xem xét lại vụ án. Đồng ý? — Vâng thưa ngài. Ghote bắt tay viên đội trưởng, bước ra. Rất vội. Trời New Delhi vẫn lạnh buốt, mưa vẫn lắc rắc. Nhưng nghĩ tới nghĩ lui, tuy thấy có những điểm đáng nghi ngờ trong vụ án này, Ghote vẫn thấy lý lẽ mình đưa ra chưa thể đủ sức thuyết phục. Nếu Reymond lẻn ra ngoài Khách sạn Imperial trong đêm lạnh, trời mưa, thể nào áo khoác của ông ta chẳng ướt sũng. Đi giết người mang theo sách để làm gì? Phải, Henry Reymond chắc chắn không thể là thủ phạm. Nhưng chứng cứ ngoại phạm? Anh cứ mãi nghĩ về chứng cứ đã buộc tội Henry, tập thơ dở hạch của bà Namita Rai đáng thương hay đáng nguyền rủa nào đó. Quyển sách khiến cả ba nhà thơ thứ thiệt phải vội vàng bỏ đi. Làm thơ dở mà cũng in thành sách, bắt người khác phải đọc. Quả là cực hình khi đọc những vần thơ dở! Phải chi bà ta biết được điều này. Chợt một tia sáng loé lên trong đầu Ghote. Phải chi bà ta biết được điều này. Có thể bà ta biết lắm chớ. Vả lại, nếu không cho bà ta biết, một khi báo chí miêu tả chi tiết vụ án giết một Giáo sư, thủ phạm lại là nhà thơ người Anh nổi tiếng, liên quan đến tập thơ của bà, khi ấy thể nào bà cũng sẽ biết. Không. Anh phải tự mình kể cho bà Rai nghe mọi chuyện. Ngay bây giờ. Nói sao cho khéo đừng để bà bị sốc. Ghote vội quay trở lại Đội Cảnh sát Hình sự, mượn cuốn niên giám điện thoại. Hoá ra nhà bà Namita Rai cách đó không xa. Chỉ 15 phút sau anh đã có mặt tại nhà tác giả tập thơ “Những bước đi âm thầm”. Và chỉ năm phút sau, anh tràn đầy sung sướng khi tìm ra chứng cứ ông bạn anh, Henry Reymond, đã đặt quyển sách lên giá sách nhà Giáo sư Goswami trước lúc ra về, khi nghe bà Rai buồn rầu kể: — Thanh tra, tôi biết tập thơ của tôi không được thi sĩ Reymond thích đọc. Ngay sau khi những vị khách người Anh ra về, Giáo sư Goswami, khi đi ngang giá sách, thấy có một cuốn thay vì xếp ngay ngắn lại lòi đến phân nửa ra ngoài, ông rút ra định sắp xếp lại thì nhận ngay ra tập thơ “Những bước đi âm thầm” mà tôi ghi tặng nhà thơ Henry Reymond. Ông ấy gọi điện thoại cho tôi hay liền. Ông ấy còn kể trước đó ba nhà thơ “để quên” tập thơ của tôi. Chắc người Anh không mấy thích đọc thơ của tôi. Nhân đây, tôi tặng thanh tra một cuốn đọc thử… Không, Ghote còn lòng dạ nào mà đọc. Đồng hồ đã chỉ 9 giờ khuya. Anh phải quay lại Đội Cảnh sát Hình sự gặp Quayne gấp. Vả lại, thơ chẳng ra thơ, thẩn chẳng ra thẩn… (Phóng tác từ “A Cold Coming” của H. R. F. Keating) AI THỦ ĐOẠN HƠN Khi Gilbert Stinson quyết định rời xa bà vợ Gloria của mình, anh ta bỏ ra không tới 10 giây để nghĩ về chuyện ly dị. Đơn giản anh biết nếu chủ động ly dị anh sẽ chẳng được chia một đồng cắc teng nào trong số tài sản của Gloria theo thoả thuận trước khi kết hôn. Mà tài sản của Gloria lại chính là nguyên nhân khiến anh cưới cô. Ý nghĩ phải mất một số tiền để ra toà xin ly dị càng khiến anh đau lòng. Vậy là anh không còn lựa chọn nào khác. Đây là một cuộc kết hôn chỉ kết thúc “cho đến khi ít nhất một trong hai người nhắm mắt xuôi tay,” như họ đã từng thề thốt khi còn yêu nhau tha thiết kia mà. Ý tưởng không hoàn toàn khiến anh hài lòng. Nhưng biết làm sao khi Gilbert ngày càng cảm thấy Gloria lấn lướt anh, muốn “chỉ huy” anh từ những công việc nhỏ nhặt nhất, khiến cuộc chiến trong nhà ngày càng trở nên thường xuyên – cuộc chiến không có ngừng bắn, hoãn binh hay ngơi nghỉ. Cuộc chiến khiến anh trở nên mệt mỏi không thể nào chịu đựng nổi thêm được nữa. * * * Trong lúc suy nghĩ và sắp xếp âm mưu để Gloria biến mất khỏi cõi đời này, Gilbert không hề ngờ rằng vợ anh cũng có ý nghĩ giống như anh. Lý do cũng hệt như vậy. Rốt cuộc, cá tính của mỗi người đều hình thành trên cùng nền tảng, trừ trước khi lập gia đình Gloria thuộc dòng dõi danh giá – con gái duy nhất của một đô đốc Hải quân. Cô cầm ly rượu vang, mơ màng nhìn màu rượu Chardonnay vàng óng, nghĩ cách nào an toàn nhất để kết thúc âm mưu “xài tiền chùa” và cả thân xác cô của chồng cô. Cô quyết định sắp xếp sao cho chỉ một lần là xong hết. * * * Gilbert lập tức gạt sang một bên ý định thuê người. Anh không thể nào tưởng tượng nổi mình mà lại nói chuyện trong đêm hôm khuya khoắt dưới chân cây cầu bẩn thỉu với một gã râu ria xồm xoàm, mắt la mày lét. Hơn nữa, những hạng người như vậy đâu chịu nhận thẻ tín dụng hay ngân phiếu. Chúng đòi tiền mặt. Mà tiền mặt thì anh hiếm khi có quá 500 USD trong túi. Vả thói quen bủn xỉn do xuất thân từ nhà nghèo khiến anh khó bỏ ra cả chục ngàn để trả cho kẻ nào nhận lời giết chết Gloria. Nội ý nghĩ bỏ ra một số tiền lớn đủ khiến anh lạnh người. Rồi chắc gì việc anh thuê kẻ giết mướn chẳng lộ ra. Việc đã đến tai người thứ hai thì rất có thể đến người thứ ba, và cứ thế lan truyền… Vấn đề là chỉ nên “một mình mình biết, một mình mình hay.” Cho nên tốt nhất là hãy vạch kế hoạch tự mình thực hiện. Cứ thong thả từng bước, vừa khỏi tốn tiền, vừa không sợ lộ bí mật. Anh cũng lập tức bỏ qua những phương pháp thông dụng như dùng súng, dao hoặc siết cổ. Những cách này đều đòi hỏi chứng cứ ngoại phạm mạnh, hầu như không thể bố trí nổi. Thông thường khi người vợ chết bất đắc kỳ tử, cảnh sát trước hết đặt nghi vấn vào thủ phạm là người chồng. Điều anh cần phải là một cái chết từ từ như ngấm thuốc độc mạn tính chẳng hạn, hoặc có thể là một tai nạn bất ngờ. Để khử Gloria an toàn cần nghiên cứu và phân tích, thậm chí dùng máy vi tính để lên sơ đồ về tỉ lệ thành công. Phải, với một chuyên gia vi tính như anh tại sao lại không nhờ đến sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ tiên tiến này? * * * Gloria cũng gạt sang một bên ý định dùng người thứ ba. Không chỉ vì cô trong tình trạng giống Gilbert, nhưng một mệnh phụ phu nhân không lẽ lén lút gặp một tên vô lại giữa đêm khuya? Cô quyết định phải tự tay mình thực hiện. Cô có đủ sức sáng tạo mà. Bạn bè cô chẳng từng thán phục cô về những ý nghĩ đầy tính sáng tạo đó sao. Cô cân nhắc, gạt phắt chuyện dùng súng hay dao, và vũ khí nói chung. Tất nhiên vũ khí mang lại hiệu quả cao, nhưng thiếu sáng tạo. Vả lại nếu cô có đủ sức mạnh để siết cổ Gilbert – nặng hơn cô đến gần 20 kg – hẳn cô đã siết từ lâu rồi. Không, cô sẽ thực hiện cách nào không cần đến chứng cứ ngoại phạm, khiến cảnh goá bụa của cô gây cảm tình trước mắt mọi người. Vấn đề là cần nghiên cứu thật kỹ. Cô tiếc là mình không giỏi vi tính như Gilbert. Và cô tới thư viện, ngay sáng hôm sau. Suốt buổi sáng lướt qua sách hình sự, coi cả vi phim vẫn chưa học hỏi được gì, cô tình cờ lật quyển sách phân tích các cuộc chiến tranh. Và đây rồi, phát biểu của vị tướng lãnh hải quân – chính là ông cố của cô – khiến cô tâm đắc: Không kẻ địch nào mà không có điểm yếu. Hãy tìm ra điểm yếu và khai thác. Điểm yếu của Gilbert, cô thừa biết, chính là bơi lội rất tồi, nhất là so với cô, vốn quen sóng nước từ thuở thiếu thời với truyền thống gia đình là lính thuỷ. Cần phải khai thác điểm này. Cô gấp sách để lại trên kệ, bất giác mỉm cười… * * * Gilbert ngồi trước máy vi tính trọn buổi. Anh đã tìm ra câu châm ngôn của người xưa có thể ứng dụng vào hoàn cảnh của anh hiện nay: Hãy tập trung sức mạnh của mình vào điểm đối thủ dễ bị tổn thương nhất. Mà điểm dễ bị tổn thương nhất của Gloria chính là cô thích lái xe chạy rất nhanh. Mỉm cười trên đường lái xe về nhà, anh xem thử nên bố trí tai nạn xảy ra tại đâu. Không thể trong thành phố – việc này rất khó thực hiện – mà sẽ tại một con đường rộng thuộc ngoại thành, nơi vợ anh thường biểu diễn tốc độ. Anh cần một tai nạn mà không thiết bị an toàn nào giữ được mạng sống cho Gloria. Anh cười tươi hơn: Có một khúc quanh mà tỉ lệ tai nạn không cao, nhưng tỉ lệ người sống bằng không, bởi không xe hơi nào được trang bị ghế tự động bắn ra ngoài và có dù giống như máy bay. Đó là khúc quanh của con đường dẫn tới nơi Gloria để chiếc thuyền buồm của cô, khúc quanh vòng theo vách đá dựng đứng, bên cạnh là vực sâu hơn 30 mét, dưới là vũng nước xoáy. Gilbert bất giác tự khen mình. Anh tính toán tiếp. Với một kỹ sư tin học, nổi tiếng giỏi toán từ khi còn nhỏ như anh, mọi bài toán khó đều có lời giải. Phải rồi, một bộ phận cảm ứng. Anh sẽ lắp một con chip bên đường, ngay khúc quanh. Một con chip nữa ngay vô-lăng xe hơi của Gloria cùng với lượng chất nổ chỉ cần bằng cục kẹo chewing-gum. Con chip bên đường luôn phát ra làn sóng điện, nhưng tất nhiên mọi xe hơi khác chạy ngang đều không bị bất kỳ ảnh hưởng nào. Chỉ tới khi xe Gloria đi qua, hà hà… cô ta hay lái xe bạt mạng, mất tay lái, xe lao xuống vực, hoạ có trời biết! * * * Chờ Gilbert về ăn bữa tối, Gloria đã kết luận xong cách tốt nhất để khiến anh chết đuối ngoài biển khơi. Thừa hưởng truyền thống gia đình, cô bơi giỏi và thích chơi thuyền buồm. Giờ nếu cô và Gilbert cùng đi thuyền, thuyền bị lật cách bờ biển dăm bảy cây số hầu như chắc chắn Gilbert không thể nào sống nổi, nhưng cô dư sức bơi, và chẳng ai đặt chút nghi vấn nào. Cô bất giác mỉm cười tự khen mình. Cô sẽ đề nghị một chuyến nghỉ cuối tuần lãng mạn với đi thuyền buồm, ăn tối trong ánh đèn cầy, và uống rượu sâm-banh. Nhìn Gilbert bước ra khỏi xe, cô tự hỏi sao anh cũng mỉm cười có vẻ vui tươi. Anh vốn thường trở về nhà với vẻ mặt của một người bị đau răng kia mà. * * * Đề nghị của vợ khiến Gilbert ngạc nhiên, nhưng anh cố giữ bình tĩnh, mừng thầm vì cô rơi đúng chiếc bẫy của mình, nên anh không hỏi gì thêm. Chỉ có điều anh nói mỗi người tự lái xe của mình. Gloria đồng ý không chút do dự. Mỗi khi để anh lái xe cô thường bực mình vì anh lái chậm như rùa. Còn khi cô lái, anh ngồi cạnh tay cứ bấu chặt vào thành ghế, nét mặt căng thẳng khiến cô phát cáu, đã vậy mỗi khi cô đạp thắng xe, anh làm như cũng đạp phụ cô vậy! * * * Chiếc thuyền buồm bắt gió chạy xuyên ngang vịnh, xa bờ dần. Biển chỉ hơi gợn sóng và mặt trời toả sáng, thật là một ngày lý tưởng để ra khơi. Gloria nhìn chồng, nhớ tiếc những ngày họ cùng chung hưởng hạnh phúc trong những chuyến đi như vầy. Anh luôn sợ biển và cô thường trêu chọc anh về việc này. Hễ xuống đến thuyền là cô phải ra lệnh cho anh: kéo hoặc hạ dây buồm, bẻ lái về phía nào… Buồm bỗng căng phần phật: gió ngoài khơi lồng lộng khiến thuyền lướt nhanh hơn. Cô liếc qua Gilbert. Anh có vẻ hơi sợ, ngồi ngay giữa lòng thuyền, phía dưới buồm. Cô biết, nếu cô bất ngờ đảo buồm, thuyền sẽ lật úp ngay. Vừa lúc có chiếc thuyền một buồm chạy rất nhanh từ phía sau tiến đến ngang với thuyền của họ, và thật bất ngờ, chiếc thuyền này quay một vòng rồi lật úp. Đôi thanh niên nam nữ trong thuyền chới với trong làn nước biếc, rồi cả hai trồi lên khỏi mặt nước, sải tay về phía thuyền của Gloria, vừa bơi vừa cười giỡn, có vẻ đều là những tay bơi cự phách. Gloria quyết định rất nhanh. Gió lật một chiếc thuyền thì cũng sẽ dễ dàng lật thêm chiếc thuyền thứ hai, càng khiến không ai nghi ngờ thủ đoạn của cô. Thế là thuyền của Gloria cũng nghiêng sang một bên, hất văng cả Gilbert lẫn Gloria xuống biển. Gloria lặn một hơi thật sâu trước khi trồi lên khỏi mặt nước, và khi cô trồi lên thì không thấy Gilbert đâu nữa. Cô làm bộ la lớn, vùng vẫy, lặn thêm nhiều lần để cố tìm Gilbert, nhưng tất cả đều vô ích… * * * Đến chiều hôm ấy người ta vẫn chưa tìm thấy xác Gilbert, dù đã huy động cả đội quân cứu hộ bãi biển và nhiều phương tiện hiện đại. Ở gần vùng nước thuyền bị lật có một dòng nước ngầm khá mạnh có lẽ đã mang xác anh đi xa. Với nét mặt cố làm ra vẻ buồn rầu, Gloria lái xe về trở lại thành phố. Cô không còn việc gì phải làm tại nơi nghỉ mát này. Không một ai tỏ ra nghi ngờ cô, dù chỉ chút xíu. Lời kể của đôi thanh niên nam nữ trên chiếc thuyền một buồm đánh tan tất cả mọi câu hỏi, nếu có. Con đường rộng ít xe, lại đang trong tâm trạng thoải mái khiến Gloria phóng xe càng lúc càng nhanh. Bình thường cô vẫn chạy với tốc độ hơn 120km/giờ trên quãng đường này. Đã đến khúc quanh bên bờ vực thẳm, nhưng Gloria chỉ giảm xuống còn 100km. Nhưng vừa lúc xe định ôm cua thì Gloria nghe một tiếng nổ rất nhỏ ngay tay lái xe hơi. Cô chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì chiếc xe, thay vì tuân lệnh bàn tay cô quẹo phải theo con đường, lại cứ thế chạy thẳng. Cô la lớn, cố bẻ ngoặt vôlăng nhưng vô ích, chiếc xe như con ngựa bất kham lao ra khỏi đường nhựa, lao luôn ra khỏi vách núi, rơi thẳng xuống vực sâu thăm thẳm ven biển trong tiếng thét kinh hoàng của Gloria. Cô cố tông cửa xe, nhảy ra ngoài, nhưng mọi việc đều đã quá trễ. * * * Người ta tìm thấy xác Gloria kế bên đống sắt vụn của chiếc xe hơi. Lạ lùng thay, cũng lúc đó người ta tìm ra tử thi của Gilbert tại vịnh nước kế ngay vực thẳm nơi xe của Gloria rơi xuống. Hình như dòng nước ngầm đã cuốn xác anh về đây để gặp lại xác người vợ mà định mệnh khiến họ không thể rời xa nhau. (Phóng tác từ “Marital maneuvers” của Stephen Wasylyk) NỤ HÔN CUỐI CÙNG Vào đúng lúc nụ hôn cuối cùng, nụ hôn vĩnh biệt… Nụ hôn đau khổ của cặp tình nhân trên màn ảnh truyền hình… Những cây viết feuilleton cho màn ảnh nhỏ sáng tác ra những câu chuyện tình rắc rối, mãi không đi đến đoạn kết, trong đó các nhân vật gặp nhau, yêu nhau, xâu xé nhau, giận nhau, chia tay nhau… Guillermo, hai mươi ba tuổi, chàng trai trẻ mạnh khoẻ đầy nam tính, với nụ hôn nóng bỏng, vừa bước vào bộ phim. Anh ta đã vượt qua cả bức tường của sự tưởng tượng. Giọng điệu của các nhà báo Brazil, nhất là ở Rio de Janeiro, viết gần như vậy. Tin chạy năm cột trên trang nhất về tội ác được giới thông tin đại chúng chú ý nhất tại Nam Mỹ vào tháng 12 năm 1992 đã viết như vậy. Cần phải hiểu những nhà sản xuất novellas lớn nhất – novellas có nghĩa feuilleton Brazil – theo kiểu Brazil. La Globo, nhà sản xuất feuilleton khổng lồ, đưa lên phim giống như tiểu thuyết ảnh, được viết như tiểu thuyết ảnh, có những chỗ thắt nút mở nút, và người ta dựng phim ghi cảnh hàng loạt, và trong đó các diễn viên không nhất thiết luôn là những ngôi sao. Nhưng họ có thể trở thành ngôi sao qua các cuộc phiêu lưu trên màn ảnh nhỏ của chính họ. Và như vậy, Daniela, hai mươi hai tuổi, nguyên là vũ nữ, vợ của một diễn viên kịch và cũng là nhà soạn nhạc kịch, đã trở thành ngôi sao màn ảnh nhỏ nổi tiếng của Brazil vào năm 1992. Cô đang diễn vai chính trong một bộ phim truyền hình nhiều tập: Daniela trở thành Yasmina, một thiếu nữ xinh tươi, mà ba chàng trai say mê đến điên cuồng. Một trong ba chàng trai đó do là bác sĩ, hôn phu của cô gái. Nhưng than ôi, gia đình đôi bên không đồng ý… Tuy nhiên anh kiên quyết vượt qua mọi trở ngại, đòi cưới cô bằng được. Trong khi ấy, Yasmina có những cuộc phiêu lưu tình cảm khác, trong đó xuất hiện một tài xế xe buýt đẹp trai, trẻ trung, gợi cảm. Vai này được trao cho Guillermo. Guillermo, hai mươi ba tuổi, tài diễn xuất chẳng là bao, cặp mắt luôn quá vô hồn mỗi khi cần biểu lộ xúc động, nhưng ngoại hình của anh ta xứng hợp với vai diễn. Guillermo là dân đến từ tỉnh lẻ, bắt đầu kiếm sống bằng nghề múa khoả thân trong một hộp đêm nổi tiếng bất hảo ở Copacabana dành cho những kẻ giả trang và đồng tính luyến ái. Anh ta vẫn tiếp tục “nghề” này, bởi tiền cát-sê feuilleton, 800 USD/tháng, không đủ để anh ta nuôi vợ – con gái của một thương gia giàu có tại Rio. Cô mê Guillermo như điếu đổ, sau khi gặp anh ta trong một hộp đêm, biết anh là một ngôi sao “đang lên”. Nhưng cô không đóng vai nào trong feuilleton. Trong feuilleton chỉ có Daniela là người mà Guillermo yêu đến chết được. Và Guillermo thể hiện hàng ngày trên màn hình. Anh ta ôm siết cô, hôn cô say đắm… Nhưng anh ta còn muốn vượt lên, từ vai diễn hạng ba trở thành hạng nhất, thành ngôi sao. Có thể Guillermo đã yêu Daniela thật sự – có tin đồn như vậy, nhưng không ai dám chắc. 28 tháng Mười Hai 1992, ngày xảy ra một khúc quanh trên phim truyện truyền hình của Globo. Người ta ghi hình một cảnh hết sức quan trọng, say đắm, đầy kịch tính, cảnh đổ vỡ tình yêu, cảnh cuối cùng của Guillermo. Mẹ Daniela quyết định ra lệnh cho con gái bà chấm dứt mối tình với người yêu là tài xế xe buýt. Daniela và Guillermo, tên trong phim là Yasmina và Bira, ôm hôn nhau lần cuối, với những lời thoại cũ rích theo kiểu: “Em không yêu anh nữa, chúng ta phải xa nhau thôi… – Nhưng anh yêu em, chúng ta sẽ không bao giờ xa cách…” Cảnh chia ly, theo đạo diễn, cũng chẳng có gì đặc biệt cho lắm, chẳng qua theo nguyên tắc phải có những quãng cách đều đều để mối tình gặp chuyện bi thảm và thêm chút mắm muối vào từng thời kỳ tiến triển của tình yêu. Như vậy, rất có thể, trong cảnh tiếp theo mãi sau đó, anh chàng tài xế xe buýt tình cờ gặp lại người yêu xưa, họ lại rơi vào vòng tay của nhau, với những lời thoại cũng cũ rích theo kiểu: “Anh tưởng rằng có thể quên em… – Em chẳng bao giờ quên anh được…” Nhưng Guillermo lại không hay biết gì về điều này. Cũng như tất cả các nghệ sĩ, anh ta hoài nghi về những vòng nguyệt quế trong tương lai. Vậy là, ngày hôm ấy, trong cảnh yêu đương cuối cùng với ngôi sao của mình, Guillermo rất xúc động, căng thẳng. Anh ta nhập vai làm như đó là lần cuối trong cuộc đời. Thậm chí anh ta “bốc” lên, biến cảnh nụ hôn từ biệt này trở thành hơn cả cảnh thật… Và khi đèn chiếu tắt hết, người ta thấy anh ta đứng khóc tại trường quay. Có nhiều giả thiết được đặt ra. Anh khóc bởi anh lo rằng sẽ không còn có dịp xuất hiện trên màn ảnh nhỏ trong một thời gian dài. Và nếu ống kính truyền hình quên mất anh, cũng có nghĩa chẳng tạp chí nào còn nhớ tới anh. Giả thiết thứ hai: anh khóc bởi anh muốn nhân cảnh này để bộc lộ tình cảm thật, điên rồ của anh, chớ không phải của diễn viên trong phim, đối với Daniela không chấp nhận anh nữa. Hoặc, giả thiết thứ ba: anh khóc do tội ác đã được hoạch định sẵn. Anh biết chắc anh sẽ làm đạo diễn đoạn tiếp theo của vở kịch, và đó là cái chết của Daniela xinh đẹp. Tối hôm diễn cảnh ấy, Daniela không khóc. Cô là một diễn viên chuyên nghiệp, nhất là những phim feuilleton. Cô gọi điện thoại cho chồng – hai người vốn là một cặp vợ chồng lý tưởng. Họ quen biết nhau cách nay hai năm, khi Daniela vừa được lăng-xê. Anh chính là người đã lăng-xê cô, và cả hai từ nhạc kịch chuyển sang lãnh vực truyền hình. Daniela nói với chồng: “Đóng xong, em về nhà ngay.” Lúc đó là 21 giờ. Tiếp đó Daniela điện thoại cho một cô bạn, nói về dự tính làm ăn, và rời trường quay. Một tiếng rưỡi sau cuộc gọi điện thoại cuối cùng này, Daniela vẫn chưa trở về nhà khiến chồng cô lo ngại. Anh đến nhà đạo diễn, ông này cũng không hay biết gì khiến anh càng lo hơn. Rio không phải là một thành phố yên bình vào ban đêm. Ngay ban ngày cũng vậy… Gọi điện tới người thực hiện feuilleton, ông xác nhận đã thấy Daniela tại bãi đậu xe của trường quay, nói chuyện với hai bạn đồng diễn: một cô gái và Guillermo. Cô gái chưa về nhà, nhưng Guillermo trả lời qua điện thoại. Với giọng bình tĩnh, anh xác nhận đúng là anh có mặt tại bãi đậu xe của trường quay cùng với Daniela và một nữ diễn viên nữa. Anh tạm biệt họ vào lúc nhiều người hâm mộ đến xin ảnh và đòi chụp hình chung. Chờ đợi bắt đầu. Cảnh sát được thông báo, một nhân chứng kể về chiếc xe hơi chạy ra khỏi bãi đậu của trường quay đúng lúc Daniela rời nơi đây; theo ông ta xe hơi này mang bảng số rất lạ, rõ ràng là bảng số giả. Cảnh sát chạy vòng quanh bãi đậu, những khoảng đất trống gần đó. Đến khoảng nửa đêm thì họ phát hiện thi thể của Daniela, giấu trong một bụi cây rậm rạp. Cô đã chết. Mười bảy nhát đâm, bằng lưỡi lê hoặc dao nhọn. Mười bảy… Sau khi khám nghiệm kỹ hơn, các bác sĩ pháp y xác nhận thật ra hung khí là kéo. Bốn mũi đâm ngay cổ, tám mũi cắt đứt cuống họng, năm mũi đâm xuyên qua phổi. Giả thiết đầu tiên cho đây là một tội ác bạo dâm. Nhưng rồi không hề có dấu hiệu bị hiếp dâm, tuy nhiên cái chết hẳn đến với Daniela một cách khủng khiếp, rất đau đớn và bất ngờ. Đến ba giờ sáng, tất cả các nhân chứng, bạn bè cùng diễn, mẹ, chồng nạn nhân đều có mặt tại trụ sở cảnh sát. Từng người kể lại để xác định thời gian xảy ra tội ác. Và để biết ai là người cuối cùng thấy cô gái khi cô còn sống. Guillermo nhanh chóng bị lún vào những chuyện kể rắc rối, mỗi lần mỗi thay đổi. Và anh ta bị các nhân chứng khác vạch rõ những lời dối trá qua mỗi lần kể. Trưa hôm sau, Guillermo đầu hàng, yêu cầu có luật sư, và đưa ra một lời kể hoàn toàn mới: “Vợ tôi mang thai đã bốn tháng, nói Daniela đã bỏ bùa tôi, khiến tôi mê cô ấy, nên tôi phải khử cô; đó cũng là bằng chứng cho thấy tôi yêu vợ. Đó là thoả thuận giữa hai chúng tôi, tôi xin thề. Và nụ hôn chia tay trong phim là nụ hôn cuối cùng thật sự của tôi với Daniela, nụ hôn vĩnh biệt.” Tin này được đưa ngay lên các phương tiện truyền thông Brazil, gây cảm xúc mãnh liệt. Một phim feuilleton mới bắt đầu, dựa theo phim feuilleton vừa chiếu trên truyền hình. Và những bình luận, những giả thiết và lời kể của nhân chứng chật kín các trang báo mỗi sáng, hình thành một câu chuyện khác, trong đó người ta nói về tình dục, về phù thuỷ, về thoả hiệp với quỉ sứ, về tội ác do bị ảnh hưởng… Thêm một phát hiện: Vào buổi xế quay cảnh phim cuối cùng, Guillermo và vợ cùng đi xâm hình giống hệt nhau, tại chỗ kín, với dấu hiệu biểu trưng yêu nhau đến chết. Nhưng còn Daniela, cô gái xinh đẹp, vui tươi, với bao nhiêu khán giả truyền hình mến mộ, đặt kỳ vọng nơi cô, cô cũng đã chết, bị hy sinh. Liệu feuilleton trên màn ảnh nhỏ Brazil có tiếp tục sống sau khi cô chết? Vẫn sống. Ngược lại là khác. Báo chí Brazil nhanh chóng thông báo, kể từ đầu năm 1993, rằng những bộ phim nhiều tập tiếp tục ra mắt để thoả mãn mọi “fan”, rằng cảnh quay được sắp xếp sao đó để người ta có thể thấy lại Daniela, với biệt danh nổi tiếng Yasmina, trong một loạt những cảnh hồi tưởng phức tạp, để đến phút cuối, Yasmina cũng biến mất, nhưng như trong trò phù thuỷ, người ta không bao giờ thực sự chết trong novellas. Guillermo bị xử tù. Vợ anh ta cũng vậy. Mỗi người tất nhiên đều bị nhốt riêng để tha hồ ngắm hình xăm của mình, một mình. Người ta chưa bao giờ chứng kiến một tình yêu điên cuồng đến thế. Guillermo yêu vợ bằng xương bằng thịt, hay yêu người yêu trên màn ảnh nhỏ hơn? Hay anh ta chỉ yêu có chính mình… (Theo “Le dernier baiser” của Bellemare) BUỔI PHÁT THANH ĐẶC BIỆT Hallam Lucas không trở lại Fort Worth từ khi chưa đầy 30 tuổi. Trong một thập niên rưỡi, nơi này đã thay đổi biết bao. Chụp chiếc mũ phớt bằng dạ mềm lên đầu, tay xách va-li, Hallam dẫn Beth, con gái anh, bước ra sân ga. Beth tỏ ra ngạc nhiên: — Ba không nói với con Fort Worth lớn đến vậy! Hallam thật tình: — Thì chính ba cũng đâu ngờ. Khi họ xa thành phố này, Beth mới bốn tuổi, nên mọi ký ức của cô về nơi chôn nhau cắt rún hết sức mơ hồ. Có tiếng phụ nữ khiến anh dừng lại, nhìn quanh: — Lucas! Chị đây nè! Người phụ nữ trạc lục tuần nhưng vẫn còn nét đẹp quí phái và mạnh khoẻ tiến nhanh lại phía anh. Anh vòng tay quanh vai chị mình, kêu lên: — Chào chị Sarah. Sarah hôn lên má em trai mình, rồi quay sang cô gái: — Không thể là Beth ! Sao lớn dữ vậy? Cô gái bối rối trong khi Hallam lên tiếng: — Chào cô Sarah đi, Beth! Sarah ôm vai Beth, giúp cô gái bớt bối rối, rồi quay sang Hallam: — Cám ơn em đã tới đây. Chị không biết mình phải làm gì nếu em không tới. Khi cảnh sát tới bắt Johnny về tội giết người, chị chỉ biết… Beth lộ rõ vẻ kinh ngạc, và Hallam nháy mắt. Cô gái chỉ biết họ đến Fort Worth để gặp họ hàng và thăm lại chốn xưa. Cha cô không hé môi về chuyện giết người. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã lộ tẩy, Hallam vỗ vai chị: — Chị đừng lo, Sarah, chúng ta sẽ tìm cách làm rõ mọi chuyện. — Johnny không giết ai cả. Cháu đã thề với chị, và chị biết cháu nó không nói dối. — Tất nhiên Johnny không giết người. Giờ chị chở Beth về nhà trước, em sẽ tới trại giam thăm cháu. — Con muốn đi với ba. — Để khi khác đã. * * * Beth nhìn toà nhà bằng đá xám, hỏi: — Bộ đây là nhà tù sao ba? Hallam gật đầu: — Phải. Con ngồi trong xe với cô nghen. Anh không thể thuyết phục Beth về nhà cùng Sarah, nhưng họ thoả thuận Sarah sẽ lái xe đưa họ tới trại giam và mình Hallam vào thăm Johnny. Thủ tục dễ dàng do Sarah đã báo trước bà có người em ruột tên Hallam Lucas. Chỉ ba phút sau, Johnny được dẫn ra. Chàng thanh niên kêu lên: — Cậu Lucas? Hallam đi thẳng vào vấn đề: — Mẹ cháu nói cháu không giết người đàn ông ấy? — Vâng, không hề. Cậu tin cháu chớ? — Cậu không biết cháu nhiều như mẹ cháu để khẳng định. Nhưng với quan hệ họ hàng, cậu rất muốn tin cháu. Giờ hãy kể đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe thử. Johnny nuốt nước miếng: — Cậu biết đài phát thanh chớ? – Hallam gật đầu, trong khi Johnny tiếp – Đó chỉ là một trò lừa đảo. Ward kêu cháu đầu tư buôn bán gia súc với ông ta, nhưng cháu phải hùn một phần vốn vào đài. Khi mọi chuyện xấu đi, cháu mất đài phát thanh. Mãi sau này cháu mới biết Ward sang tên làm chủ tự hồi nào, cũng như ổng mua, bán gia súc cho chính mình. Một tên bịp, đồ… — Cháu phải biết có nhiều tên bất lương trong buôn bán gia súc. Đáng lẽ cháu phải để mắt theo dõi kỹ hơn. — Cậu nói đúng. Nhưng cháu còn quá trẻ… Rồi Ward bán đài phát thanh cho người khác. Cháu đề nghị ổng trả cháu một ít tiền hoặc để cháu quản lý công việc mua bán, nhưng ổng từ chối. Vậy là cháu nổi nóng, muốn đánh ổng một trận. Cháu theo ổng đến tận Four Treys, sòng bài nằm tại Jacksboro. Nhưng Buckston, chủ sòng bài, và toán bảo vệ nơi đây ngăn cản cháu. Ward lên xe hơi bỏ đi, cháu cũng vậy. Đó là lần cuối cùng cháu nhìn thấy ổng. Khuya hôm ấy người ta phát hiện tử thi Ward, lỗ chỗ vết đạn bên bờ hồ Eagle. Cảnh sát cho là cháu đi theo ổng, bắn chết ổng. Nhưng cháu không giết ổng, cháu thề với cậu. Cậu cứu cháu với. Cháu đã đọc các bài báo nói cậu từng khám phá nhiều vụ án mạng lớn… Hallam lắc đầu: — Đừng vội tin những gì cháu nghe hay đọc. * * * Tối hôm ấy Hallam mượn xe hơi của chị mình. Anh không cho Beth theo bởi biết đây không phải là nơi dành cho một thiếu nữ. Sòng bài Four Treys nằm ngay trên đỉnh đồi nhìn xuống xa lộ Jacksboro. Nơi này có vẻ ăn nên làm ra do bãi đậu xe chật cứng và Hallam nghe thấy tiếng nhạc xen lẫn tiếng cười nói khi anh tiến tới gần cổng chính. Gã gác cổng, có lẽ do thấy anh là người lạ nên hạch hỏi đủ điều, đang lúc Hallam toan nổi nóng thì có tiếng la lớn: — Lucas! Anh trở về thành phố hồi nào vậy? Gã gác cổng tròn mắt: — Ông biết người lạ mặt này, thưa ông Buckston? — Tất nhiên. Mời vô. Xin được đãi anh ly bia. Ngồi bên quầy rượu, Hallam hỏi bạn cũ: — Buckston, hẳn anh biết vì sao tôi trở về đây? — Biết. Để thăm cháu anh. — Phải. Nó nói nó không giết Ward. Buckston nhún vai: — Hầu hết kẻ sát nhân đều nói vậy. — Tôi tin Johnny. Từ những gì tôi nghe, Ward chơi trò lừa đảo và hẳn không khỏi có những người muốn ông ta chết. — Có thể Ward có nhiều kẻ thù, nhưng tôi không tìm hiểu làm gì vì đó không phải công việc của một chủ sòng bài. — Nhưng có thể anh đã nghe. Buckston do dự một lát, rồi cau mày: — Anh có thể gặp một cô gái tên Raeann Jordan. Cha cô ta có bộn tiền nhờ dầu mỏ và khí đốt. Tôi nghe nói Ward và cổ có mối tình lăng nhăng và cãi lộn sao đó. Nhà cô ta ở… * * * Mai mình hãy tới gặp Raeann Jordan, Hallam quyết định trên đường lái xe về nhà Sarah. Anh biết mình sẽ minh mẫn hơn sau một đêm ngủ đẫy giấc. Anh bật radio trong xe hơi và nhận ra máy gài sẵn sóng của đài phát thanh mà Johnny từng làm chủ trước khi bị Ward lừa sang tên mất. Hallam tò mò nghe thử. Đó là một chương trình nhạc khiêu vũ, xong tới phần tin tức. Tiếp theo là tiếng xướng ngôn viên “Bây giờ là những con số đặc biệt cho đêm nay. Đó là 17, 39, 54, 66 và 93. Chúc mọi người may mắn và trúng lớn!” Hallam lắc đầu. Chẳng bao giờ anh tin những con số chơi đề này. Nếu đoán đúng, hẳn chủ đài phát thanh đã trở thành tỉ phú từ lâu rồi. Beth vẫn chưa ngủ. Cô vốn thích radio, và đang nghe thử đài địa phương ra sao. Hallam nói với con gái: — Mai ba sẽ tới đài phát thanh, nơi mà Johnny từng làm chủ. — Ba cho con đi theo với. Con chưa khi nào được tới đài xem thử họ làm việc ra sao. — Đài địa phương của tư nhân nhỏ lắm. Chỉ là toà nhà với ít máy móc. — Kệ. Con vẫn thích xem. — Lúc mới có đài phát thanh, người ta gọi là vô tuyến truyền thanh vì không cần dây. Chỉ việc vặn một chiếc nút, là tiếng nói, giọng hát… truyền qua không khí nhờ tần số âm thanh. Đơn giản vậy thôi, đâu có gì mà xem. — Mặc kệ. Cả ngày nay ba đi một mình không cho con đi theo rồi. Hallam đành chiều con, với điều kiện chiều mai cô phải đi Sở thú với Sarah để anh đi gặp cô bạn gái của Ward. * * * Đài phát thanh nằm bên bờ sông Trinity. Cô tiếp tân trẻ, xinh đẹp dẫn họ vào một phòng nhỏ nằm cạnh toà nhà lớn và nói trên điện thoại một lát, rồi đưa họ đi dọc theo hành lang, hai bên là những cửa sổ lớn bằng kiếng. Qua lớp kiếng, Hallam và Beth có thể nhìn thấy trang thiết bị gởi những tín hiệu vào không trung. Chưa bao giờ Beth nhìn thấy nhiều bộ phím, máy móc, cần gạt và ánh sáng lấp lánh đến thế. Có cả một số phòng thu âm với các micro để đứng trên sàn nhà. Beth tròn mắt ngạc nhiên. Khi họ đi ngang cửa sổ một căn phòng bên trong người giới thiệu chương trình đang đọc tin, Hallam phải kéo cô đi cho nhanh. Ánh sáng ngọn đèn nhỏ màu đỏ trước phòng nhắc anh biết đang có chuyện quan trọng diễn ra bên trong, có thể là phát thanh trực tiếp. Một người đàn ông cao, gầy, trạc ngũ tuần, mặt gãy, đang chờ họ trong văn phòng. Ông ta đứng dậy, đưa tay qua bàn giấy: — Ông Hallam? Tôi là William Gruber, chủ và cũng là tổng quản lý. Hallam bắt tay ông ta: — Đây là Beth, con gái tôi. Gruber mỉm cười: — Chào Beth. Cô có thích radio không? — Rất thích, thưa ông. Gruber quay qua cô tiếp tân: — Janice, cô dẫn Beth đi một vòng thăm đài phát thanh giùm tôi với. Beth nhìn Hallam: — Con đi được không ba? — Con đi đi. – Cuộc nói chuyện giữa anh và Gruber không nên để con gái anh nghe. Khi Beth và Janice đã bước ra, Hallam vào thẳng vấn đề: — Ông mua đài phát thanh này của Kenneth Ward? — Phải. Và Ward mua nó từ cháu của ông, John Reeves, sau một vụ làm ăn thất bại giữa đôi bên. Hallam cau mày: — Sao ông biết tôi là cậu của Johnny? — Tôi luôn tìm hiểu những gì có thể ảnh hưởng tới việc kinh doanh của tôi. Sau khi ông gọi điện sáng nay hẹn gặp tôi, tôi đã tìm hiểu đôi chút về ông. Và tôi đoán ông trở về Fort Worth chỉ bởi vì cháu ông đang gặp rắc rối. — Đúng. Cháu không giết Ward. Tôi đang cố tìm xem ai là thủ phạm. — Chúc ông tìm ra, nhưng tôi không thể giúp ông. Tôi không rành Ward lắm, và chưa hề gặp John Reeves. — Ông mua đài phát thanh này từ Ward bằng cách nào? — Tôi đang tìm một cơ hội đầu tư trong lãnh vực truyền thông. Ward đến gặp tôi với tư cách công ty sở hữu vài đài phát thanh địa phương và có ý bán một trong số đó. — Ông có nghĩ có người nào muốn Ward bị giết hay không? — Không. Chúng tôi tiếp xúc trong thời gian ngắn và chỉ thuần kinh doanh. Tuy nhiên tôi có thể nói Ward có nhiều điều mờ ám. Nếu ông tìm hiểu kỹ, có thể sẽ khám phá ra điều cần tìm. Chúc ông may mắn. Gruber đứng dậy, dấu hiệu cuộc nói chuyện đã xong. Hallam cũng đứng dậy, nhưng trước khi cáo biệt, anh nói: — Có một điều tôi muốn biết, nhưng tôi e xúc phạm tới ông, ông Gruber. — Cứ hỏi. Tôi sẽ không coi là bị xúc phạm đâu. — Được rồi. Với mọi việc hiện đang diễn ra tại châu Âu, lúc này không nên sử dụng một cái tên Đức. Tên có ảnh hưởng gì tới việc làm ăn của ông hay không? — Có thể, nếu tôi để mối quan hệ giữa tôi với đài phát thanh cho mọi người biết. Nhưng đứng tên chính thức là tổ hợp Paragon Communications, và William Gruber chỉ là một cổ đông. Hallam thấy Beth và cô tiếp tân tại một trong những phòng thu âm. Beth đang đóng vai một phát thanh viên và nói trước chiếc micro đứng. Khi họ ngồi vào xe hơi, Beth quay qua Hallam, nói với vẻ nghiêm trọng: — Cha có biết cái ông Gruber này là một tay gián điệp Đức hay không? Hallam kinh ngạc: — Do đâu con nghĩ vậy? — Ổng là người Đức, mặt mũi giống y như tên do thám, và gởi tin bằng mật mã. Khi hôm con nghe thấy những con số được phát qua đài. Con biết đây là một dạng mật mã mà. Hallam chỉ cười. Gruber gây ấn tượng nơi anh là một gã lạnh lùng trong công việc làm ăn, nhưng điệp viên Đức Quốc xã thì không. Anh chở Beth về nhà Sarah, mình anh lái xe tới gặp Raeann Jordan. Đó là một cô gái xinh xắn tóc nâu trạc 30 tuổi. Cô kể tối bữa Ken Ward bị ám sát cô mắc dự sinh nhật một người bạn, và cho biết: — Tôi không bao giờ xen vào việc kinh doanh của Ken. Quan hệ giữa chúng tôi chỉ giới hạn trong vấn đề xã hội. Hallam hỏi thêm: — Nhưng có khi nào anh ấy nói điều gì khiến cô ngạc nhiên hay không? Raeann cau mày cố tập trung: — Tôi nhớ có một lần Ken tỏ ra rất lo lắng. Anh ấy chỉ nói đơn giản ảnh sẽ không dễ để người ta qua mặt. — Cô có kể với cảnh sát điều này không? — Không, vì họ không hỏi. Họ chỉ hỏi tôi có khi nào thấy John Reeves đe doạ Ken hay không, và buổi tối xảy ra vụ án tôi ở đâu. Vậy thôi. Vụ việc vẫn chưa sáng tỏ gì thêm, nhưng cần tìm hiểu Gruber kỹ hơn, Hallam quyết định. Buổi xế hôm ấy, anh đã có thêm nhiều thông tin cần thiết, nhờ một tay phóng viên tờ báo địa phương vốn là bạn học cũ của anh. Anh bật radio trên xe hơi trong khi đưa xe vào bãi đậu ngay trước đài phát thanh. Không thấy cô tiếp tân xinh đẹp khi sáng, anh tiến thẳng đến văn phòng của William Gruber. Trong khi đi dọc hành lang, anh để ý nhìn qua cửa sổ kiếng thấy Gruber đang một mình trong phòng thu âm. Ngọn đèn đỏ ngoài cửa không sáng, và anh đẩy cửa bước vào. Gruber đang cầm một tờ giấy, ngạc nhiên khi nhận ra Hallam: — Ủa, sao ông trở lại đây vậy? Hallam đóng cửa, đáp: — Tôi cần gặp ông để hỏi thêm đôi điều. — Về Kenneth Ward? Tôi không còn gì để nói thêm nữa cả. Hallam hơi nghiêng người về phía đặt máy móc và khéo léo bỏ chiếc mũ phớt mềm xuống, để mũ che khuất vài bộ phím và cần gạt: — Khi sáng ông không nói gì về việc ông hùn với Ward để kinh doanh gia súc. — Bởi vì tôi không làm chuyện ấy. Tôi chỉ kinh doanh đài phát thanh, chẳng biết gì về bò cả. — Chắc vậy không? Dễ kiếm tiền từ bò lắm. Cho nên người ta mới cướp chúng. — Ông nói về chuyện thời xưa phải không? — Chuyện thời nay. Như chuyện Ward có bốn xe chở đầy bò bị cướp mất trong tháng trước khi ông ta chết. Một xe trên xa lộ 67, một trên đường cao tốc 281, hai xe khác trên các xa lộ liên bang 77 và 80. Gruber bối rối: — Tôi đang phải làm việc. Những chuyện vớ vẩn ấy không mắc mớ gì đến tôi. Giờ xin lỗi… — Để tôi nói xong đã. Tôi nghĩ Ward có một người cùng hùn làm ăn trong chuyện buôn bò. Tay này qua mặt Ward để phỗng tay trên hết số bò bằng cách báo tin cho bọn cướp. Và tay này chính là ông, William Gruber! — Tôi sẽ gọi cảnh sát nếu ông không cút khỏi đây ngay! — Chính tôi sẽ gọi cảnh sát. Ông thông báo kịp thời cho đồng bọn cướp xe bằng cách đọc trên đài phát thanh những con số theo kiểu chơi số đề. Tờ giấy ông đang cầm trên tay rất có thể là một bằng chứng. Gruber thở mạnh, vẻ mặt thoáng bối rối, quay người đặt tờ giấy lên bàn. Khi quay lại, trên tay ông ta là khẩu súng ngắn: — Chẳng ai tin ông đâu. Mọi quan hệ giữa tôi với Ward đều rất kín kẽ. Ông chỉ là một thằng điên do cố tìm cách cứu đứa cháu nhưng không được. Đó là nếu tôi để ông ra khỏi nơi đây. Hallam vẫn bình tĩnh: — Ông với Ward đã cùng làm ăn khá lâu rồi, phải không nào? — Ward là một tay buôn bán giỏi, nhưng chính tôi mới đưa ra ý tưởng và giữ phần hùn lớn. Nên tôi hưởng lợi nhiều là điều hợp lý. — Do đó ông cướp tiền của Ward? — Chẳng có một chứng cứ nào về việc này, ngoài lời nói của tôi mà chỉ có ông nghe được. Hallam lắc đầu: — Không chỉ mình tôi nghe – anh nhấc chiếc mũ phớt lên – Nãy giờ tôi đã bật nút cho máy phát thanh hoạt động và câu chuyện giữa chúng ta đã được rất rất nhiều thính giả nghe qua buổi phát thanh đặc biệt này. Gruber quắc mắt đầy giận dữ, đưa mũi súng ngay người Hallam. Nhưng trước khi ông ta kịp bóp cò thì đã bị Hallam quăng chiếc mũ ngay mặt và tiếp đó là cú đấm cực mạnh khiến Gruber gập đôi người lại… * * * — Con nghe hết mọi chuyện qua radio rồi! – Beth kêu lên, giọng đầy phấn khích khi Hallam trở về nhà tối hôm đó, chở theo cả Johnny Reeves – Gruber có định bắn ba không? — Có thể, nếu ba không kịp phản ứng. — Con đã nói với ba đó là một gã tồi tệ mà! — Con nói gã là một tên gián điệp, dùng mật mã. — Có thể con sai. Nhưng con nói vậy có giúp ba để ý và nhờ thế giải được mật mã này hay không nào? Hallam thừa nhận: """