"Truyện Cực Ngắn Trung Quốc - Mời Tình Địch Ăn Cơm - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Cực Ngắn Trung Quốc - Mời Tình Địch Ăn Cơm - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Truyện Cực Ngắn Trung Quốc - Mời Tình Địch Ăn Cơm
Nhiều Tác Giả
NXB Văn Học (2012)
Từ khóa: Shortstory
40 truyện về người ốm, mẹ chồng nàng dâu, người nghèo, kẻ yếu thế, cư xử của vợ có chồng đi ngoại tình... tất cả đều là tình huống đời thường được đưa vào tuyển "Truyện cực ngắn Trung Quốc". Tình tiết nhẹ, câu chuyện ngắn đem lại những trải nghiệm thi vị, bổ ích cũng như thêm một cách ứng xử ở đời. "Truyện cực ngắn Trung Quốc" dường như phục vụ cho những độc giả đang sống trong một cuộc sống gấp gáp, cần một chút thông tin, một ít văn học, nhưng mà thời gian lĩnh hội thì... thật ngắn!
Thông tin ebook
Mời tình địch ăn cơm - truyện cực ngắn Trung Quốc Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh Ngày hoàn thành: 29/03/2012
Thư viện Tinh Tế
Dự án ebook định dạng epub chuẩn cho mọi thiết bị di động Tinhtebook.wordpress.com
Sắc thái cuộc sống khi "Mời tình địch ăn cơm"
Tất cả đều là tình huống hết sức đời thường...
Chỉ là những mẩu chuyện ngắn về cuộc sống giản dị thường ngày, nhưng sao ta thấy đâu đó thật gần tựa như chính ta đang ở trong những mẩu chuyện đó.
Với lối viết nhẹ nhàng và không cần bình luận, các tác giả trong tuyển tập “Truyện cực ngắn Trung Quốc” đã đem đến cho người đọc cảm giác thật thú vị, và đôi khi là cả những suy ngẫm về một thế giới được miêu tả bằng lời.
Chắc hẳn độc giả vẫn còn nhớ sự ấm ức, buồn bực của A Đình, khi cô phát hiện ra chồng mình đang si mê một cô gái khác, mà người đó lại là bạn thân của mình. Lại càng không thể ngờ được, ngay sau đó cô lại có một quyết định gây bất ngờ và đầy kịch tính: “mời tình địch ăn cơm”. A Đình bình tĩnh và nhẹ nhàng trong suốt bữa cơm, lại còn ân cần nhắc nhở cho “tình địch” về làm vợ của chồng mình. Cuộc đối thoại khiến người đọc không khỏi cuốn người đọc vào sự tò mò, mà cho đến kết thúc chuyện mới “bàng hoàng” tỉnh ra khi A Tình- tình địch của cô lên tiếng.
Ảnh bìa cuốn sách
"Anh Nguyên thật may mắn có được một người vợ chu đáo như chị chính là phúc phận của anh ấy! ... Chị Đình yên tâm, em sẽ rời xa anh ấy..."
A Đình đã khiến tình địch chẳng còn sự lựa chọn nào tốt hơn là bày tỏ lòng cảm kích trước thái độ của cô, và khôn ngoan rút lui vô điều kiện. Câu chuyện nhẹ nhàng có pha chút sự hài hước, nhưng cũng không quên nhắc mỗi chúng ta hãy luôn nhớ tới như một kinh nghiệm để giữ gìn hạnh phúc sau này.
Đọc tuyển tập "Truyện cực ngắn của Trung Quốc” cũng là dịp để chúng ta được nhìn lại và được cùng suy ngẫm về cuộc sống, về tình thương giữa hơi thở gấp gáp của cuộc sống hiện đại. Một bức thư của người cha để lại
cho con gái của mình trước khi qua đời (Của quý để dành), một câu nói đã đem lại sức mạnh cho những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo (Chúng tôi cần anh sống), hay câu chuyện về cách sống “Làm người" như đang nhắc nhở chúng hãy luôn làm ấm cuộc sống này hơn nữa bằng chính sự thương yêu và tình cảm chân thành.
Đề cập đến cả những vấn đề còn bức xúc trong xã hội. Các tác giả Liêu Quân với truyện ngắn “Dù nghèo đến mấy cũng không thể để...”, tác giả Hám Lôi với câu chuyện “ Bắt cóc tống tiền”, tác giả Úc Thanh với truyện “ Giấy chứng nhận “người””...đã thật nhẹ nhàng nhưng không để đọc giả thoảng qua câu chuyện của mình, khi đề cập tới những vấn đề xã hội còn nóng bỏng với những tình tiết được đưa ra, nhìn nhận và đối diện một cách thẳng thắn, và nghiêm túc.
Sẽ còn rất nhiều điều thú vị cho những ai còn muốn tìm hiểu về cuốn sách này, những tiếng cười hài hước, sự ngây ngô đáng yêu, đặc biệt là những tình huống gây tranh cãi... tất cả đó như muốn nhắc chúng ta giá trị của cuộc sống luôn nằm ở mỗi con người.
Làm người
Tác giả: Dương Hán Quang
Dịch giả: Thúy Ngọc
Mẹ tôi bị ốm phải nằm viện, tôi được giao nhiệm vụ chăm sóc mẹ.
Có rất nhiều người đến thăm mẹ, người nào cũng mang theo hoa quả và thức ăn bổ dưỡng. Gặp ai mẹ cũng nói: “Bác (anh, chị) có lòng đến thăm tấm thân già này, tôi cảm động lắm rồi, còn mang quà cáp làm gì? Hãy mang về cho các cháu ở nhà”.
Tất nhiên chẳng ai trong số họ mang quà về. Mẹ bảo tôi đưa lại cho họ nhưng họ đều lén để lại trên bàn rồi ra về.
Mẹ không thể ăn hết được số hoa quả và thức ăn bổ dưỡng đó bèn bảo tôi ăn cùng. Vừa ăn mẹ vừa hỏi tôi:
- Có ngon không?
Tôi nói:
- Ngon ạ.
Hai ngày sau, anh họ tôi đến thăm mẹ. Anh đi người không, không có hoa quả cũng không có thức ăn bổ dưỡng, tuy nhiên, trước khi về anh rút ra tờ bạc một trăm đồng đặt bên cạnh gối của mẹ. Mẹ vội cầm tiền lên trả lại anh, nhưng anh họ đã quay người bước ra cửa. Mẹ đưa tiền cho tôi, chỉ theo bóng anh họ và nói:
- Nhanh lên!
Tôi cầm tiền rồi chạy đuổi theo, một lúc lâu sau mới đuổi kịp. Anh họ một mực không chịu cầm lại tiền. Tôi cứ nhất quyết nhét tiền vào túi anh, nói:
- Anh cầm lấy đi, đừng để mẹ em thêm buồn nữa.
Anh họ lắc đầu, không biết làm thế nào, đành nói:
- Dì quả là một người tốt.
Tôi hoàn thành nhiệm vụ và trở về phòng. Mẹ hỏi:
- Sao con đi lâu thế?
Tôi nói:
- Anh họ đi nhanh quá, con phải đuổi mãi ra tận gốc cây ngọc lan ngoài kia. - Thế tiền đâu?
- Con trả lại cho anh họ rồi.
Mẹ đang nằm vội ngẩng đầu lên:
- Thế anh ấy có nhận không?
- Anh ấy nhất định không nhận nhưng con cứ đút trả vào túi anh ấy.
Mẹ nằm phịch xuống, không nói gì cả, chỉ thở dài thườn thượt. Tôi lại gần mẹ:
- Mẹ đau ở đâu ạ?
Mẹ đưa bàn tay gầy guộc, xoa lên mặt tôi và nói:
- Đến bao giờ con mới biết làm người?
Tôi hoang mang hỏi mẹ:
- Con đã làm sai gì ạ?
Mẹ chép miệng, dường như cười mà không cười, nói:
- Mẹ là dì của anh họ con, giờ bệnh tật như thế này, anh ấy cho mẹ một trăm đồng chẳng lẽ không xứng đáng sao?
Tôi chợt hiểu ra, quay người định đuổi theo anh họ. Mẹ kéo áo tôi lại, nói: - Con lại sai rồi!
Chúng tôi cần anh sống
Tác giả: Lưu Chí Học
Dịch giả: Thúy Ngọc
Cùng một lúc bệnh viên tiếp nhận thêm hai bệnh nhân mới.
Bệnh tình của bệnh nhân trung tuổi không nặng: viêm gan. Bác sĩ nói bệnh này không đáng ngại lắm, chỉ cần chữa trị một thời gian là có thể ra viện.
Bệnh tình của bệnh nhân già rất nặng: ung thư gan. Bác sĩ nói tình trạng hiện nay đã nguy kịch lắm rồi, có chữa cũng vô ích, cần chuẩn bị gì thì nên lo liệu trước đi là vừa.
Bệnh nhân trung tuổi mang trên mình một trọng trách rất nặng, anh quản lý một phòng ban hơn chục người. Anh nói rằng cơ quan không thể thiếu vắng mình được.
Bệnh nhân già cũng có một gánh nặng trên vai. Ông là trụ cột của một gia đình hơn mười miệng ăn. Ông nói gia đình càng không thể thiếu vắng ông.
Sau khi hai bệnh nhân này nhập viện, phòng bệnh dường như nhộn nhịp hẳn lên. Người nhà, lãnh đạo, đồng nghiệp của bệnh nhân trung tuổi lần lượt mang hoa, thực phẩm bổ dưỡng đến thăm anh.
Bệnh nhân trung tuổi rất tự hào. Anh nói với ông bạn bệnh nhân già: “Tôi không thể nằm xuống được! Cả cơ quan và gia đình còn đang phải trông cậy vào tôi”.
Bệnh nhân già ngoài người nhà, chẳng có ai đến thăm nom cả, cũng bởi vì ông không sống ở thành phố. Ông ngưỡng mộ nhìn đoàn khách ra vào không ngớt của bệnh nhân trung tuổi và nói: “Đúng vậy, đúng vậy, không có anh thì họ biết làm thế nào?”.
Đồng nghiệp của bệnh nhân trung tuổi thay nhau đến chăm sóc anh, hơn nữa, người nhà anh lúc nào cũng túc trực bên cạnh. Cả ngày anh chỉ nằm trên giường, không buồn động chân động tay, ngay đến cơm ăn cũng không cần cầm đũa vì đã có người bón tận miệng cho rồi.
Bệnh nhân già chỉ có một đứa con trai đến thăm nom. Cậu ta chưa đến thành phố bao giờ, ngay cả đi mua cơm cũng có lúc lạc đường, nhiều khi ông cụ phải tự làm lấy.
Bệnh nhân trung tuổi tỏ ra rất hài lòng.
Cứ như vậy, ngày lại qua ngày trôi đi nhanh chóng.
Người nhà, lãnh đạo, đồng nghiệp và bạn bè thân thiết của bệnh nhân trung tuổi vẫn ngày ngày đến thăm anh ta. Họ đến và lặp đi lặp lại những lời nói giống nhau.
Người nhà nói: “Anh không phải lo lắng gì cả, cứ yên tâm dưỡng bệnh, việc học hành của con cái đã có người lo liệu”.
Lãnh đạo nói: “Anh không phải lo lắng gì cả, cứ yên tâm dưỡng bệnh. Công việc ở cơ quan, chúng tôi đã thay nhau sắp xếp ổn thỏa cả rồi”.
Đồng nghiệp của anh nói: “Anh không phải lo lắng gì cả, cứ yên tâm dưỡng bệnh. Mọi việc từ nhỏ đến lớn trong nhà anh như nộp tiền gas, tiền điện… đã có anh em chúng tôi lo liệu”.
Vẫn không một ai đến thăm nom người bệnh nhân già, trừ bà vợ của ông. Cách vài ngày bà đến thăm một lần. Mỗi lần đến thăm bà lại đem những việc mà bệnh nhân trung tuổi cho là việc vặt vãnh ra để hỏi ý kiến chồng.
“Năm nay nhà mình ít tiền, giống lúa mạch này bớt đi một chút phân bón được không ông?”
“Con lợn nhà mình bán được rồi, bao nhiêu thì bán được hả ông?”
“Con gái nói là muốn đi làm thuê cùng lũ bạn để kiếm tiền chữa bệnh cho ông, ý ông thấy thế nào?”
“Nhào Tư Nạo mới sinh con, mình sắm bao nhiêu quà thì vừa hả ông?”
Ngay cả việc mua cho thằng cháu cái kẹo, bà cũng phải hỏi ý kiến ông: “Tôi lên thành phố đã mấy lần rồi mà vẫn chưa mua được gì cho cu Bảo. Tôi thấy trên phố người ta có bán kẹo xâu, cũng không đắt lắm, khoảng năm hào một xâu, tôi mua cho nó một xâu nhé?”. Thấy ông lão gật đầu, bà lão háo hức như được nhận một chỉ thị quan trọng, yên tâm cắp cái túi da đã rách về.
Thời gian lại trôi đi từng ngày, từng ngày một…
Bệnh nhân trung tuổi từ viêm gan nay đã dẫn tới báng nước, do bị báng nước nhưng không chữa nên tình trạng ngày càng trầm trọng. Cuối cùng anh được đưa vào nhà xác. Trong phút lâm chung, anh đã nắm chặt tay người bạn già và nói: “Tôi… là một người vô dụng, bọn họ không cần đến tôi nữa rồi… tôi… còn thiết sống làm gì nữa…”.
Người bệnh nhân già bị ung thư gan vẫn sống tiếp như một kỳ tích. Cuối cùng ông đã xuất viện trong niềm tự hào và hạnh phúc. Trước khi về, ông nắm chặt tay bác sĩ, nói:
- Cho dù khó khăn thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng phải sống. Không có tôi, bọn họ biết làm thế nào đây?
Từ đó về sau, mỗi lần chữa trị cho các bệnh nhân nặng, bác sĩ thường an ủi họ rằng: “Bạn cần phải sống, người nhà, họ hàng, bạn bè của bạn đều cần đến bạn…”.
Con vịt
Tác giả: Hám Lôi
Dịch giả: Thúy Ngọc
Một hôm, phu nhân của Trưởng phòng Hậu cần họ Chu đem hai con vịt do người nhà ở dưới quê biếu xuống nhà bếp nhờ ông Triệu – nhân viên nhà bếp – giết thịt hộ.
Ông Triệu nói:
- Con vịt đực này gầy quá; con vịt cái này lại sắp đẻ, nếu đem giết thịt thì thật là uổng. Chi bằng cứ nuôi ở đây cho chúng ăn cơm thừa canh cặn. Tôi sẽ trông nom chúng giúp chị.
- Phải, phải. – Phu nhân Trưởng phòng đương nhiên là đồng ý – Mọi việc tôi nhờ cả vào anh đấy!
Ít lâu sau, mỗi tháng ông Triệu đều đem đến nhà Trưởng phòng ba mươi quả trứng.
Tháng này sang tháng khác cứ thế trôi đi.
Một hôm, phu nhân Trưởng phòng nói với chồng:
- Ông Triệu này quả là không tồi. Lẽ ra, với một con vịt mới đẻ, mỗi tháng ông ta chỉ cần đem mười hay hai mươi quả trứng tới cũng không ai dám chê ít. Nhưng ông ta lại không làm vậy mà đem tất cả tới. Con người thật thà như vậy rất hiếm có. Chẳng phải anh đã nói là phải thay nhân viên thu mua ở nhà bếp hay sao? Hãy để ông Triệu làm việc đó đi.
Một thời gian sau, ông Triệu quả nhiên được nhận chức nhân viên thu mua.
Khi ông Triệu dọn khỏi khu tập thể nhà bếp, việc “chăm sóc” hai con vịt được giao cho Tiểu Đinh.
Sáng sớm, Tiểu Đinh ra mở lồng, cho vịt ăn và nhặt trứng nhưng không thấy quả trứng nào cả. Cậu lật đi lật lại người con vịt để tìm nhưng vẫn không thấy gì.
Một ngày rồi lại một ngày nữa trôi đi như vậy.
Cuối cùng Tiểu Đinh cũng hiểu ra. Cậu tức giận, định đi ngay đến nhà Trưởng phòng để vạch trần bộ mặt của ông Triệu. Nhưng sau đó cậu lại thay đổi ý định.
Cuối tháng, Tiểu Đinh vẫn đem trứng đến nhà Trưởng phòng như thường lệ. Nhưng lần này không phải là ba mươi quả mà là sáu mươi quả!
Tiểu Đinh nói:
- Vốn dĩ là sáu mươi quả mà.
- Chẳng phải ông Triệu nói một con vịt là đực hay sao?
- Không, không, hai con đều là vịt cái.
Buổi tối, phu nhân Trưởng phòng đem chuyện này nói với chồng:
- Hóa ra từ trước đến nay chúng ta bị cái lão Triệu đó lừa. Xem ra, Tiểu Đinh mới là người thật thà.
Trưởng phòng Chu cho rằng vợ nói có lý. Vài ngày sau Tiểu Đinh được cất nhắc lên thay chức vụ thu mua của ông Triệu.
Lần này, nhiệm vụ “chăm sóc” hai con vịt được trao cho Tiểu Ngải.
Sáng sớm, Tiểu Ngải lại ra mở lồng, cho vịt ăn và nhặt trứng. Nhưng chẳng thấy quả trứng nào cả.
Một ngày rồi lại một ngày trôi đi như vậy.
Tiểu Ngải không thể không đi đến nhà Trưởng phòng để trình bày sự việc.
Kỳ lạ, cùng là hai con vịt, lúc thì đẻ ba mươi quả trứng, lúc lại để sáu mươi quả, có lúc lại không đẻ quả nào. Việc này rốt cuộc là thế nào?
Trưởng phòng Chu liền bắt hai con vịt về nhà nuôi để quan sát.
Một hôm, trong lúc phu nhân Trưởng phòng đang sờ nắn đít con vịt thì người nhà ở quê ra chơi. Trông thấy vậy liền hỏi:
- Con vịt này làm sao vậy?
- Tôi sờ xem nó có trứng không?
- Chị thật là… Đây là hai con vịt đực, tôi biếu chị để giết thịt ăn, sao có thể đẻ trứng được.
Chuyện kể của mẹ chồng và nàng dâu
Tác giả: Thường Lang
Dịch giả: Thúy Ngọc
Tôi đến nhà bạn chơi, bạn lại không có nhà. Linh – vợ của bạn – đang bón cơm cho cậu con trai năm tuổi. Trẻ con hay đòi hỏi; mẹ không kể chuyện, nó nhất định không ăn. Thế là mẹ nó đành vừa bón cơm vừa kể:
“Ngày xửa ngày xưa, có một bà mẹ chồng, con trai bà đi làm xa, mọi việc nặng nhọc đều do cô con dâu gánh vác, bà chỉ lo nấu cơm. Nhưng bà mẹ này là người không tốt, mỗi lần nấu cháo xong đều hớt lớp nước loãng phía trên cho con dâu ăn, còn mình ăn lớp cháo đặc ở đáy nồi. Không ngờ, nửa năm sau, bà mẹ cứ ngày càng xanh xao vàng vọt, thường xuyên bị ốm, trong khi đó thì da dẻ cô con dâu ngày càng hồng hào, khỏe mạnh. Tại sao vậy? Tại vì mọi chất dinh dưỡng có trong cháo đều tập trung ở lớp nước loãng phía trên, lớp cháo đặc phía dưới chỉ là bã gạo mà thôi.”
Câu chuyện kể ra quả thật có hiệu quả, cậu bé chăm chú lắng nghe và há miệng to để mẹ bón cơm. Đúng lúc đó bà nội cậu bé đi chợ về. Linh nói có việc gấp phải đi, bảo bà cho cháu ăn tiếp. Cậu bé lại khóc đòi bà kể chuyện. Bà nội vừa bón cho cháu ăn vừa kể:
“Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái sau khi lấy chồng, chồng cô đi làm ăn xa, cô ở nhà với mẹ chồng. Mọi việc nặng nhọc đều do bà mẹ chồng làm, cô chỉ phải lo nấu cơm. Nhưng cô con dâu lại là một người không tốt, mỗi lần nấu cháo xong đều hớt lớp nước loãng phía trên cho mẹ chồng ăn còn mình thì ăn lớp cháo đặc ở đáy nồi. Không ngờ nửa năm sau, cô con dâu cứ ngày càng xanh xao vàng vọt, rất hay bị ốm, còn bà mẹ chồng thì da dẻ hồng hào, khỏe mạnh. Tại sao vậy? Tại vì…”
Cậu bé chớp chớp mắt ngạc nhiên. Chẳng hiểu thế nào nữa. Cuối cùng thì bà mẹ chồng và nàng dâu, ai là người tốt, ai là kẻ xấu?!
Dù nghèo đến mấy cũng không thể để…
Tác giả: Liêu Quân
Dịch giả: Thúy Ngọc
Chủ tịch huyện Thôi vừa mới nhận chức, ông bèn dẫn theo một số cán bộ cấp dưới và các nhà báo đi thị sát tình hình. Đến trường tiểu học xã Đông Sơn, thấy đám trẻ phải ngồi học trên những chiếc ghế bằng đất nung, ông liền cau mày lại, nói với Chủ tịch xã Lưu cùng đi:
- Các đồng chí làm ăn kiểu gì vậy? Tại sao lại để trường học như thế này? Chủ tịch xã Lưu nói:
- Báo cáo anh, xã chúng tôi là xã nghèo, thành ra không còn cách nào khác. Chủ tịch Thôi nói:
- Giáo dục là gốc rễ của một đất nước phát triển. Cho dù nghèo đến mấy cũng không thể để trẻ em phải chịu thiệt thòi… – Chủ tịch Thôi vừa nói xong, trong phòng học vang lên tràng pháo tay hưởng ứng nhiệt liệt.
Ngay ngày hôm sau, câu nói đó của Chủ tịch huyện Thôi đã được in đậm trên trang nhất của các báo trong huyện.
Vài hôm sau, Chủ tịch huyện Thôi lại đến thăm một gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Đó là nhà ông Vương, công nhân của xưởng cơ khí huyện. Nhà ông Vương chỉ có bốn bức tường trống, trong nhà chẳng có đồ đạc gì cả, vợ ông ốm nằm liệt giường nhưng cũng không có tiền chạy chữa, thật là khó khăn hết mức. Chủ tịch Thôi quay sang nói với Giám đốc xưởng cơ khí cùng đi:
- Đồng chí làm giám đốc kiểu gì vậy? Đến đời sống của cán bộ công nhân cũng không quan tâm?
Giám đốc xưởng cơ khí vội nói:
Báo cáo anh, xưởng cơ khí chúng tôi mấy năm gần đây làm ăn thua lỗ, chúng tôi đang rất nghèo, không còn cách nào khác ạ.
Chủ tịch huyện lại nói:
- Công nhân chính là người chủ của công xưởng, là chủ lực để phát triển sản xuất, cho dù công xưởng có nghèo đến mấy cũng không thể để công nhân rơi vào cảnh nghèo! – Nghe được những lời đó, ông Vương cứ nắm chặt tay Chủ tịch Thôi, xúc động không nói nên lời.
Trong cuộc họp cán bộ toàn huyện, sau khi đọc báo cáo, Chủ tịch huyện Thôi nói tiếp:
- Huyện của chúng ta vẫn còn nghèo, cần phấn đấu xóa đói giảm nghèo, mà cán bộ chính là những nhân tố quyết định. Chúng ta cần phải tăng lương cho cán bộ, nâng cao mọi chế độ đãi ngộ dành cho cán bộ nhằm cải thiện cuộc sống và điều kiện làm việc cho cán bộ… Tôi xin tổng kết bằng một câu như thế này, cho dù huyện của chúng ta có nghèo đến mấy cũng không thể để cho cán bộ sống nghèo khổ.
- Chủ tịch Thôi vừa dứt lời, các đại biểu đứng hết cả lên, nhiệt tình vỗ tay hưởng ứng.
Sau khi họp xong, Chủ tịch văn phòng Hồ nói với Chủ tịch huyện:
- Báo cáo Chủ tịch, anh phát biểu hay quá! Cần cải thiện cuộc sống cho cán bộ, cho dù nghèo đến mấy cũng không thể để Chủ tịch nghèo, dạ, em thấy xe ô tô mà Chủ tịch đi cũng đã đến lúc phải thay cái mới rồi đấy ạ…
Một năm sau, lũ trẻ ở trường học của xã Đông Sơn vẫn phải ngồi học trên những chiếc ghế bằng đất nung như trước đây; nhà ông Vương vẫn không có tiền chữa bệnh cho vợ; lương và mọi chế độ đãi ngộ đối với cán bộ trong huyện vẫn vậy, chỉ có chiếc xe ô tô của Chủ tịch Thôi là đã được đổi từ xe sản xuất trong nước thành xe đời mới nhập từ nước ngoài về.
Chủ tịch Thôi vẫn thường ngồi trên chiếc ô tô đời mới đi đến các nơi trong huyện thị sát; bất cứ nơi đâu, trong bài phát biểu của mình, ông cũng nhắc đi nhắc lại: “ Dù nghèo đến mấy cũng không thể để…”. Có điều, ông không quay trở lại xã Đông Sơn, không quay lại thăm nhà ông Vương… mà chỉ tiếp tục đi đến những nơi khác.
Và một điều rất kỳ lạ là, ở bất cứ nơi đâu, sau khi phát biểu xong, Chủ tịch Thôi cũng đều nhận được những tràng pháo tay cổ vũ nhiệt tình.
Mời tình địch ăn cơm
Tác giả: Hà Văn
Dịch giả: Thúy Ngọc
Một năm trở lại đây, A Đình phát hiện ra Nguyên – chồng mình – thay đổi rất nhiều, nếu không phải là ấp a ấp úng thì cũng nói trước quên sau. Đó là còn chưa kể đến chuyện thường xuyên về muộn, gần nửa đêm mới thấy về nhà, vừa vào đến cửa, chẳng thèm rửa tay chân mặt mũi đã nằm ngay xuống giường ngáy khò khò. A Đình hỏi chồng có phải công việc không thuận lợi, anh lắc đầu; có phải ai phản đối anh, anh đáp: “Ai dám chống đối anh?”.
Bằng cảm nhận riêng, A Đình hiểu rằng chồng mình đang mắc một căn bệnh tinh thần nào đó. Thế là cô ngấm ngầm theo dõi mọi hành tung của chồng và phát hiện anh đã mê cô bạn nhảy. Tìm hiểu kỹ, A Đình mới biết chồng mình dan díu với A Tình – cô bạn nhảy đó – từ lâu rồi. Cô gái thông minh A Đình đã hiểu tất cả. A Tình vốn là bạn học thời phổ thông của A Đình; ngày đó, A Tình đã nổi tiếng là hoa khôi của trường. Năm ngoái, A Tình ly hôn chồng, đến giờ vẫn chưa tái hôn, nay lại quan hệ với chồng cô, rõ ràng là đã trở thành tình địch của cô rồi. A Đình cảm thấy vô cùng ấm ức, chồng đi ngoại tình mà cô không hề hay biết. Sau mấy đêm mất ngủ, A Đình định sẽ đến bắt quả tang cả hai rồi làm mọi chuyện ầm ĩ cả lên. Nhưng sau đó cô lại nghĩ, làm như vậy không được, nhất định sẽ ảnh hưởng tới danh tiếng và tiền đồ của chồng mà chính cô cũng bị mất mặt. Cuối cùng cô nghĩ ra một cách, cố gắng kiềm chế sự tức giận, làm ra vẻ như chưa biết gì, càng ngày càng tỏ ra dịu dàng, chiều chuộng chồng hơn. Một hôm, cô mua về rất nhiều thức ăn, nói với chồng: “Em định mời A Tình đến ăn cơm, anh ở nhà cùng ăn cho vui nhé!”. Chồng A Tình nghe xong đã ngầm đoán được ý định của cô, xem ra phen này lành ít dữ nhiều, vì vậy anh ngập ngừng mãi không nói được lời nào. A Đình lại nói: “Anh yên tâm, em sẽ không làm bạn nhảy của anh bị tổn thương đâu”. Chồng A Đình đành phải gật đầu đồng ý.
A Tình cảm thấy rất ngạc nhiên khi A Đình mời cô đến nhà ăn cơm, bình tĩnh một chút, A Tình nghĩ chắc A Đình đã biết chuyện của mình và chồng cô ấy. Việc đã đến nước này thì đành nói toạc ra cho xong. Cô chuẩn bị tinh thần của một người sẵn sàng ứng chiến, đến nhà A Đình ăn cơm. Không ngờ thái độ của A Đình rất niềm nở, tự nhiên; trong lúc ăn hết gắp thức ăn cho chồng lại tiếp rượu cho A Tình, vừa cười vừa nói cứ như hai chị em gái lâu ngày gặp nhau. Ăn xong, A Đình nhờ chồng rửa bát và nói rằng mình với A Tình cần tâm sự riêng một chút. Mặc dù trong lòng rất thấp thỏm nhưng chồng A Đình vẫn phải nghe theo chủ ý của vợ.
A Tình thấy A Đình kéo mình vào phòng trong thì rất lo sợ. Không lẽ cô ấy định làm gì mình? Đã đến nước này, thôi thì đành liều vậy.
Ai ngờ A Đình nói với A Tình một cách rất chân tình: “A Tình này, có lẽ tôi phải gọi cô là em Tình thì đúng hơn. Chuyện giữa cô và anh Nguyên, tôi đã biết từ lâu rồi. Cả hai chúng ta đều yêu anh ấy, nhưng anh ấy chỉ có thể chọn một trong hai mà thôi. Tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa, anh ấy sẽ trở thành chồng của cô, tôi chỉ có một vài câu muốn căn dặn cô: Thứ nhất, anh Nguyên hay ra mồ hôi chân nên có mùi rất khó chịu, mỗi ngày đều phải thay giặt tất một lần, thay tất xong phải lấy rượu trắng lau phía trong của giày, nếu không ngày hôm sau sẽ bốc mùi rất thối. Thứ hai, anh ấy bị đau dạ dày, hằng ngày, ngoài việc ăn ít ăn nhiều ra, cứ nửa đêm lại phải dùng túi chườm đựng nước muối nóng chườm vài lần, một lần cũng không được thiếu. Điều cuối cùng là anh ấy mắc bệnh mộng du, những lúc như vậy, cô phải đi cùng anh ấy và nhất định là không được đánh thức anh ấy”.
A Tình càng nghe càng ngạc nhiên. Cô cảm kích nói: “Anh Nguyên thật may mắn; có được một người vợ chu đáo như chị chính là phúc phận của anh ấy! Những điều chị căn dặn, em không thể làm được. Chị Đình, chị yên tâm, em sẽ rời xa anh ấy, em sẽ để anh ấy quay lại với chị”.
Từ đó, chồng A Đình lại trở về là anh chàng Nguyên như trước đây.
Buổi họp lớp của vợ
Tác giả: Trương Dương
Dịch giả: Thúy Ngọc
Trương Dương và vợ là bạn học từ thời đại học; anh biết vợ mình có mấy cô bạn thân, họ đã hẹn trước với nhau, sau khi ra trường, cách vài năm lại gặp gỡ nhau một lần.
Lần gặp đầu tiên là hai năm sau khi tốt nghiệp, lúc đó Trương Dương và vợ vừa mới tổ chức lễ cưới. Được gặp lại bạn học cũ, vợ Trương Dương hết sức vui mừng, cô nói mấy người bạn thân trước đây chọn người yêu đều chẳng ra gì, đến khi họp lớp đem ảnh người yêu ra khoe, nhưng chẳng có ai đẹp trai bằng Trương Dương của cô, trình độ học vấn cũng không bằng, đặc biệt là Lý Linh Linh, cô ấy còn yêu một anh công nhân mới tốt nghiệp tiểu học, không hiểu cô ấy đang nghĩ gì nữa. Lúc bấy giờ Trương Dương vừa thi đỗ nghiên cứu sinh, khỏi phải nói cũng biết vợ anh vui sướng tới mức nào. “Hóa ra em vẫn là người có con mắt tinh tường nhất, tìm được một ông chồng tốt.” Vợ Trương Dương quá vui nên đã uống hơi quá chén, vừa về đến nhà, bất chấp ánh mắt của hàng xóm, cô ôm chầm lấy chồng và hôn chụt một cái.
Lần gặp mặt thứ hai là năm năm sau khi tốt nghiệp, lúc bấy giờ Trương Dương vừa hoàn thành luận văn nghiên cứu sinh và được phân công giảng dạy tại một trường đại học. Vợ anh đi họp lớp về, hình như có gì đó băn khoăn. Cô nói chồng của Lý Linh Linh ra ngoài làm ăn, kiếm được nhiều tiền lắm. Buổi liên hoan hôm nay do Lý Linh Linh bao. Nhìn cách trả tiền của cô ấy mới hòa phóng làm sao. Nghe nói chồng của Trương Tiểu Nha đã lên chức trưởng phòng, lại rất giỏi giang, được lòng cấp trên. Chồng Vương Diễm Lệ lại có người thân ở nước ngoài, nghe đâu đang lo thủ tục để cả nhà cô ấy ra nước ngoài. Vợ Trương Dương hết đứng lại ngồi, luôn miệng ca ngợi các ông chồng của bạn khiến mạch suy nghĩ của Trương Dương đối với đống tài liệu đang chỉnh lý cứ rối tung cả lên.
Lần gặp mặt thứ ba là tám năm sau khi tốt nghiệp, lúc này Trương Dương đã là tổ trưởng một bộ môn ở trường đại học; đồng thời mấy cô bạn của vợ anh cũng đang phát tướng, chỉ có vợ anh là vẫn giữ được vóc dáng thon thả. Đi họp lớp về, nhìn nét mặt vợ anh đầy vẻ ấm ức. Cô nói anh chồng chỉ tốt nghiệp tiểu học của Lý Linh Linh giờ đã là tỷ phú, chồng của Trương Tiểu Nha đã là Giám đốc sở; hôm nay lúc hào phóng chiêu đãi mọi người, Tiểu Nha nói cứ ăn uống thoải mái, bao nhiêu cô ấy cũng thanh toán hết, lại còn khoe một đống đồ trang sức và bộ quần áo đang mặc trên người đều là của những người chịu ơn chồng cô mang đến biếu cả. Vương Diễm Lệ thì không ngớt khoe chồng cô mỗi tháng gửi về bao nhiêu là tiền, lại còn giục vợ nhanh chóng làm thủ tục sang đó với mình. “Chỉ có em là khổ thôi, lấy phải anh giáo nghèo, mỗi tháng đưa cho vợ được vài nghìn bạc, không đủ cho người ta ăn một bữa.” Vợ Trương Dương buồn bã than thở, càng nói càng não nề, một lúc sau đã thấy ngân ngấn nước mắt. Chỉ khổ Trương Dương phải an ủi vợ đến tận đêm khuya.
Lần gặp thứ tư là mười năm sau khi tốt nghiệp. Vợ Trương Dương về nhà, buồn bã, không nói câu nào. Trương Dương – một chuyên gia nghiên cứu trẻ có uy tín lúc bấy giờ cảm thấy rất ngạc nhiên, liền hỏi vợ xem có chuyện gì. Vợ anh thở dài một cái rồi nói mấy người bạn của cô giờ đã ly hôn hết rồi. Chồng của Lý Linh Linh có nhiều tiền sinh hư, bao mấy cô gái trẻ rồi vui thú ở bên ngoài. Chồng Trương Tiểu Nha mắc tội tham ô; khi công an điều tra còn phát hiện có vợ bé, thậm chí còn có một đứa con với cô ta. Vương Diễm Lệ thì mỏi mòn chờ chồng về, không ngờ anh ta gửi đơn xin ly hôn và nói rằng sắp cưới một cô gái người nước ngoài.
Một buổi tối hai tuần sau đó, ăn cơm xong, khi vợ bê bát đĩa đi rửa, cậu con trai của Trương Dương nheo mắt nhìn bố, nói: “Bố này, gần đây con thấy mẹ đối xử với bố rất âu yếm và dịu dàng”.
Trương Dương mỉm cười cốc nhẹ vào đầu con: “Trẻ con, không được để ý chuyện của người lớn”.
Đóng dấu
Dương Thanh Thảo
Giám đốc Sở Văn hóa sắp đi công tác; trước khi đi, ông giao con dấu lại cho bí thư Tiểu Dương và nói: "Ngày mai cậu em họ tôi tên là Chu Văn sẽ đến xin dấu chúng nhận, cậu hãy đóng dấu giúp tôi nhé!
Hôm sau, quả nhiên có một người tên là Chu Văn đến xin dấu chứng nhận. Để có một tờ giấy chứng nhận, người xin chứng nhận trước hết phải viết đơn, sau đó đưa Sở Văn hóa ký xác nhận, đóng dấu, cuối cùng mới mang đến ủy ban Tuyên truyền của thành phố để ký xác nhận và đóng dấu. Chu Văn đã viết xong đơn, Tiểu Dương sau khi đọc qua lá đơn của anh ta bèn viết hai chữ: "Đồng ý", rồi đóng dấu của Sở Văn hóa lên đó. Chu Văn cầm lá đơn đã được đóng dấu và đi ngay sang ủy ban Tuyên truyền của thành phố.
Tiểu Dương vốn cho rằng chuyện này chẳng có gì to tát cả, không ngờ, gần hết giờ làm việc,
Chu Văn lại đến tìm anh. Chu Văn nói: "Người ở ủy ban Tuyên truyền nói, lá đơn này không đạt yêu cầu, cần viết lại". Tiểu Dương cẩm tờ đơn, đọc kỹ lại lấn nữa rói nói: "Lá đơn này của anh chẳng có vấn đề gì cả! Người bên ủy ban nói chỗ nào không đạt yêu cầu cơ chứ?". Chu Văn nói: "Họ không nói chỗ nào không đạt yêu cầu, chi nói là về viết lại lá đơn khác". Tiểu Dương đành xé bỏ lá đơn cũ và giúp Chu Văn viết lại một lá đơn khác. Lẩn này, Tiếu Dương viết một lá đơn theo đứng những quy cách mà anh đã được học. Trên lá đơn mới, anh vẫn viết hai chữ ''Đổng ý" rổi đóng dấu của Sô Văn hóa lên đỏ.
Thật không ngờ, ngay ngày hôm sau, Chu Văn lại đến, lần này, người trên ủy ban Tuyên truyền nói rằng lá đơn vẫn chưa đạt yêu cầu. Tiểu Dương nói: "Không thếthếđược, lá đcm rất đúng quy cách mà". Chu Văn nói: "Chẳng lẽ tôi lại nói dối anh? Tôi chạy đi chạy lại hai ngày nay cũng đú mệt lắm rồi, chân tôi sắp gãy ra rồi đây này". Tiếu Dương lại hòi: "Thế
Ủ
người trên Ủy ban Tuyên truyền có nói chỗ nào cần sửa không?". Chu Văn nói; "Họ cũng không nói rõ". Tiếu Dương nói: "Sao anh không hỏi họ?". Chu Văn nhân mặt đau khổ: "Tôi không những đã hỏi, mà còn hỏi mấy lần, nhưng họ đều không trả lời".
Tiếu Dương và Chu Văn cùng nhau xem lại lá đơn một lượt, cả hai đều không tìm ra được chỗ nào không đạt. Đơn viết đúng quy cách, nội dung rõ ràng, văn phong trôi chảy, không có lỗi chính tả, con dấu cũng được đóng một cách ngay ngắn, thật chẳng có chỗ nào không đạt cả. Tiểu Dương mất hết cả kiên nhẫn, nói: "Đây rõ ràng là một lá đơn đạt tiêu chuẩn, lại còn phải sửa chỗ nào nữa cơ chứ?". Chu Văn bèn hiến một kế: "Hay là anh thử gọi điện lên ủy ban Tuyên truyền hỏi xem". Tiểu Dương nói: "Không được, nếu họ muốn nói rõ thì đã nói với anh từ trước rồi. Hơn nữa, nếu gọi điện thoại hỏi họ, chẳng phải là tôi tự nhận lá đơn của mình có vấn đề hay sao?". Chu Văn nóng lòng nói: "Thế thì phải làm thế nào? Tôi đang cần dùng tới giấy chứng nhận này". Tiểu Dương nói: "Để tôi hỏi anh họ anh xem thế nào".
Tiểu Dương vội gọi điện thoại cho giám đốc, hỏi ông xem phải sửa lá đơn kia như thế nào. Giám đốc nói: "Lá đơn chắc chắn không có vấn đề gì, tôi tin vào trình độ của cậu. Cậu xem lại xem có phải dấu của Sở Văn hóa đóng cao quá không?". Tiểu Dương xem lại, đúng là dấu đóng cao quá, anh vội nói lại với giám đốc. Giám đốc nói: "Thế là không được rồi. Người của ủy ban có ý kiến là đúng. Hãy viết lại lá đơn khác, nhớ đóngdấu của Sờ Văn hóa lùi xuống một chút, nhường chỗ cho con dấu của ủy ban Tuyên truyền".
Tiếu Dương và Chu Văn vội viết ngay một lá đơn khác, lần này, Tiểu Dương đóng con dấu của Sở Văn hóa ở gần cuối tờ giấy. Chu Văn cầm tờ đơn viết lại lần thứ ba lên Ủy ban Tuyên truyền, cuối cùng cũng đă đượcthông qua.
Thúy Ngọc dịch
Giá
Liễu Luyến Xuân
Buổi chợ sớm phía nam thành phố.
Thủy Sinh đặt đôi quang gánh xuống, lấy tay áo lau mồ hôi.
- Này, cá khô bán thế nào? - Một phụ nữ trung tuổi tay xách làn đi tới và hỏi.
Thủy Sinh hơi ngẩn người một chút. Hai năm rồi chưa vào thành phố. Lần này...
Anh đưa mắt nhìn xung quanh. Sau đó, anh bỗng cảm thấy thất vọng. Lại xuất hiện thêm người khách thứ hai, thứ ba...
Rất nhanh, mọi người xúm quanh gánh cá khô của anh, có người đã bắt đầu chọn cá rồi cho vào làn cùa mình.
- Này, cá khô bán thế nào đây?
- Tám đồng. - Thủy Sinh nghĩ một lát rồi ra giá.
- Tám đồng? - Vị khách đầu tiên trợn tròn mắt.
- Tám đồng? - Những vị khách khác bắt đầu dừng tay đang chọn cá lại.
- Thì các bác trả được bao nhiêu? - Thủy Sinh cảm thấy hối hận vội bổ sung thêm.
- Được mặc cả à? Cá này có bệnh à? - Người phụ nữ trung tuổi nhìn Thủy Sinh đầy nghi hoặc.
- Không...
- Hừ! Theo tôi, có khi cá bị chết do thuốc sâu, nếu không sao lại rẻ thế? - Chẳng biết ai trong số khách hàng đứng quanh đã thốt ra câu nói đó nữa.
Chỉ biết rằng sau khi nghe thấy vậy, mấy bà mấy cô bắt đầu đưa cá lên mũi ngửi:
- ừ, hình như có mùi thuốc sâu!
Trời đất, rõ ràng là cá mình đi bắt ở sông về, làm sao mà có mùi thuốc sâu được cơ chứ?
- Thật là thất đức! - Mọi người không ai nghe Thủy Sinh giải thích, tât cà đều đổ cá vào thúng cùa anh. Có người sau khi đã đổ cá trà lại còn lật đi lật lại trong làn xem có sót con cá nào không, dường như họ đều sợ bị nhiễm phải thứ thuốc sâu quái quỷ đó.
Mọi người tản đi hết, cũng từ đó, chẳng ai hỏi tới gánh cá khô của Thủy Sinh nữa.
Buổi chợ trưa phía tây thành phố.
Thúy Sinh đặt đôi gánh xuống đất, lấy tay áo lau mồ hôi. - Này, cá khô bán bao nhiêu? - Một phụ nữ trung tuổi xách làn đi tới. - Mười tám đồng. - Thủy Sinh nói một cách dứt khoát.
- Mười tám đồng? - Người phụ nữ trung tuổi trợn tròn mắt.
- Tiền nào của nấy. Bác cứ nhìn con cá mà xem, vừa phơi được nắng lại vừa được sắc.
Lại xuất hiện thêm người khách thứ hai, thứ ba...
Rất nhanh, mọi người lại đứng vây kín hai thúng cá của Thủy Sinh. Mọi người bắt đẩu chọn cá rồi bỏ vào làn của mình.
- Ôi trời! Đừng chen nữa! Đùng chen nữa! -Người phụ nữ trung tuổi ban nãy thấy mọi người nhặt nhanh quá liền kêu lên, chị ta cũng vội vàng chọn cá cho vào làn của mình.
- Theo tôi, đừng có tham rẻ, chẳng biết thế nào mà lần. - Mọi người bàn tán trong lúc chọn cá.
- Đúng thế đây bác ạ. - Thủy Sinh thêm vào.
Cân. Trả tiền. Nhận tiền. Cứ thế Thủy Sinh bận tíu tít cả lên.
Nhoáng một cái, hai thúng cá đã hết bay. Sau khi tiễn người khách cuối cùng, cảm xúc trong lòng Thủy Sinh cứ lẫn lộn, không thế nói rõ là vui hay buồn.
Ôi! Đúng là con người!
Thúy Ngọc dịch
Thực ra tôi chỉ gọi cô ấy một tiếng
Tác giả: Từ Xã Văn
Dịch giả: Thúy Ngọc
Gần hết giờ làm việc, một người bạn gọi điện thoại cho tôi báo tin vợ anh K bị tai nạn xe máy đã qua đời, rủ tôi đi viếng. Tôi quá đỗi ngạc nhiên, không thể như vậy được, thật không ngờ, tôi phải đi, nhất định phải đi rồi.
Sau khi được các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, vợ anh K nằm yên lặng trong chiếc quan tài có một ô kính, khuôn mặt trắng bệch nhưng vẫn rất đẹp. Mặc dù thấy được vẻ vui mừng trên nét mặt đau buồn của K nhưng chúng tôi vẫn phải khuyên anh hãy bớt đau buồn, người đã mất thì không thể sống lại được nữa. Người đằng nhà vợ anh K, ai nấy đều sụt sùi không ngớt, người nhà anh K cũng ngậm ngùi thương xót nàng dâu xấu số.
Trên đường về, nghe bạn bè nói, mấy hôm trước anh K cứ một mực đòi ly hôn nhưng vợ không chịu, bây giờ thì hay rồi, tất cả đều đã kết thúc, cô ấy quả là người phụ nữ tốt, chẳng hiểu cái anh chàng K này đang nghĩ gì nữa. Không biết người đàn ông đi cùng vợ anh K là ai, tại sao cô ấy lại ngồi sau xe anh ta, mà tại sao xe lại đâm vào cột điện? Chẳng có lý do nào cả. Chẳng lẽ lại có âm mưu từ trước? Tôi nói rằng không nên đoán mò làm gì, xưa nay số phận con người vẫn khó lường mà.
Ngày hôm sau báo chí đưa tin, phía cảnh sát đang nỗ lực xác định nguyên nhân vụ tai nạn và tìm kiếm nhân chứng có mặt tại hiện trường lúc bấy giờ. Có nguồn tin khác từ phía bạn bè và báo chí còn cho biết, phía nhà vợ anh K cứ một mực cho rằng chính anh K là người mưu sát vợ, lý do là trước đó anh cứ nhất quyết đòi ly dị nên đã thuê tên lưu manh kia thực hiện ý đồ của mình. Kết quả là mặc dù anh K luôn miệng phủ nhận việc mưu sát vợ nhưng cũng không giải thích nổi tại sao vợ mình lại ngồi sau xe người đàn ông kia và tại sao xe lại đâm vào cột điện. Anh K chỉ dám nghĩ thầm, có lẽ hôm đó cô ấy đi theo mình, hoặc là cô ấy muốn lấy cái chết ra để thách thức mình.
Thực ra, không thể trách anh K, không thể trách vợ anh K, và lại càng không thể trách tôi. Hôm đó, sau khi viết được vài chữ, xem xong mấy tờ báo, làm hai cốc trà ấm, cảm thấy người mỏi mệt, tôi bèn rời khỏi văn phòng, bước ra nhìn đường phố, ngắm từng cặp nam thanh nữ tú đi lại nhộn nhịp trên đường. Lúc đó, một chiếc xe máy phóng vụt qua trước mắt tôi, một nam một nữ, tràn đầy hạnh phúc. Cô gái đó tóc dài, bộ váy rất đẹp, tôi dường như còn ngửi thấy mùi hương hoa nhài tỏa ra từ người cô. Tôi cao hứng gọi tên cô, cô giật mình quay lại. Cũng chính lúc dó, một bi kịch xảy ra. Chiếc xe máy lao vào cột điện bên đường. Cả hai ngã xuống đất. Khi tôi gọi tên cô, cô đang mãn nguyện ôm chặt người đàn ông kia, mặt ghì sát vào lưng anh ta; nhìn cảnh ấy, không ai nghĩ là họ đang cãi nhau về việc ly hôn. Nhưng khi tôi nhìn thấy vẻ hoảng hốt của cô ấy thì cũng chính là lúc tôi phát hiện ra người đàn ông điều khiển chiếc xe máy kia không phải là anh K.
Đoan Mễ
Lư Lê Doanh
Ba ngày đầu sau khi kết hôn, Nê vẫn còn chịu khó ở nhà săn sóc người vợ trẻ còn mơn mởn tuổi xuân. Ba ngày sau, Nê lại muốn ra ngoài cho khuây khỏa. Trước khi lấy vợ, Nê rất mê "chui tổ". Người dần thôn Liễu thường gọi việc đánh bạc là "chui tổ". Nê nghe các bạn cờ bạc nói rằng, ngay từ đầu nếu không lấn lướt nổi vợ thì cả đời này coi như bỏ đi. Vợ cũng giống như cây cỏ, tức là nếu có nhổ đi rồi đem để vào khe đá thì nó vẫn mọc lại được, đó là một loài chỉ cần sống nhờ gió trời cũng được.
Cô dâu mới Đoan Mễ thì lúc nào cũng tươi cười, vui vẻ làm hết việc này đến việc khác. Cơm nấu xong, cô vui vẻ nói: "Ăn cơm thôi!". Cơm xới ra bát, cô nhường chồng ăn miếng đầu tiên rồi tươi cười hỏi: "Mặn hay nhạt?". Nê làu bàu: "Lắm điều quá! Nấu được tí cơm tí canh thì bắt người ta cung cung kính kính, cứ như là bà lớn không bằng!".
Đoan Mễ liền cầm đũa, im lặng ăn cơm. Nê vừa ăn vừa cảm thấy không phải với vợ bèn góp chuyện: "Cơm dẻo nhỉ!". Đoan Mễ im lặng không nói. Nê lại nói: "Thức ăn thơm nhỉ!". Đoan Mễ vẫn ngồi im. Nê tức quá vứt bát cơm xuống đất, ôm đầu đập đập vào bàn ăn, hét lên: "Đoan Mễ, tôi khó chịu lắm rồi, Đoan Mễ!".
Đoan Mễ đỡ đầu anh, dọn sạch những mảnh bát vỡ dưới đất.
Nê nói: "Đoan Mễ, cô không phải là cây cỏ. Cô là một quả bóng tròn xoe khiến người khác muốn cắn cũng không tìm được chỗ để ngoạm vào".
Đoan Mễ nói: "Anh muốn đi đâu thì cứ đi đi".
Nê lại tìm đến tổ cờ bạc của mình, hễ thua bạc là chạy về nhà lấy trộm thóc đem bán. Mỗi lần lấy một bao nhỏ, thùng thóc vơi đi trông thấy. Một lần, do vội vàng hâp tấp, Nê vấp vào bục cửa ngã tím cả một bên mặt. Đoan Mễ vừa bôi thuốc cho chồng vừa nói: "Anh thích mang đi đâu thì mang, em
không ngăn cản anh đâu". Được thế, Nê ngày càng ngang nhiên hơn. về sau, mỗi lần lấy thóc, Nê đều vác một bao đầy. Có những lúc Nê một mình cho thóc vào bao mệt quá, Đoan Mễ còn đến giữ miệng bao giúp. Nê hăng hái múc từng gáo, từng gáo một. Chà, một gáo, lại một gáonữa. Đáy thùng đã bắt đầu lộ ra. Trước đây, khi mẹ Nê còn sống, bà không bao giờ đê thùng thóc phải lộ đáy. Bà nói với Nê, cái thùng thóc này nhà mình đã dùng được mấy đời rồi, chả bao giờ phải vét đến đáy. Có những đận thiên tai đói kém, cho dù phải ăn rau dại, vỏ cây cũng quyết không vét hết thóc ở thùng. Tay cầm gáo của Nê run run như bị rút mất gân. Đoan Mễ nhấc thử cái bao rồi nói: "Còn nhét thêm được mười gáo nữa". Nê lúc đó chỉ muốn đập cái gáo vào mặt Đoan Mễ. Trong lòng Nê bắt đầu cảm thấy lo lắng. Đôi tay Nê cứ run rẩy trước mặt Đoan Mễ như một chiếc lá khô trong cơn gió mùa thu. Đoan Mễ lại nhấc cái bao lên, nói: "Còn nhét thêm được hai gáo nữa đấy". Nê bèn vứt cái gáo xuống đất, dùng chân giẫm cho nát ra. Nê nói: "Đoan Mễ, sao cô lại như vậy? Ngay cả trưởng thôn cũng chẳng làm cho tôi sợ đâu". Đoan Mễ nói: "Anh thấy người ta đánh bạc thì ngứa tay à?". Nê nói: "Nếu sau này còn đi đánh bạc, tôi sẽ chặt đứt cả hai tay của mình cho cô xem".
Nê theo vợ ra đồng làm cỏ. Người dân thôn Liễu thấy cảnh tượng lạ đó bèn nói: "Trời ơi, thằng Nê ra đồng làm việc kìa, con vợ nó quả là có tài!".
Nê chăm chỉ lo việc đổng áng được một tuần thì chân tay bắt đẩu ngứa ngáv. Một hôm, nhânlúc Đoan Mễ về nhà lấy thêm phân bón, Nê vội chuồn điẺ Nê thua bạc trở về nhà, tìm con dao và bảo vợ: "Đoan Mễ, tôi chặt tay cho cô xem''.
Đoan Mễ đang ngồi bóc lạc, đến mí mắt cũng không buồn ngước lên một chút.
Nê buông con dao xuống, chạy ra sau nhà tìm sợi dây thừng, trói con chó mà nhà vẫn đang nuôi lại. Trong nháy mắt, hai chân trước của con chó đã bị Nê chặt đứt rời.
Nê nói: "Đoan Mễ, nếu lần sau còn di đánh bạc nữa, chắc chắn tôi sẽ chặt đứt hai chân của minh cho cô xem".
Nê vẫn không làm chủ được bản thân. Sau khi thua bạc trở về nhà, cầm con dao trên thớt, Nê nói: "Đoan Mễ, tôi chặt chân cho cô xem đây. Tôi chặt thật đấy". Đoan Mễ đang ngồi trộn cám cho gà trước cửa chuồng gà. Nê thò tay tóm lây một con gà, nhoáng cái đã chặt đứt hai chân của nó.
Cũng có lúc Nê thắng bạc. Nhũng lúc như thế Nê lại thật thà đưa số tiền kiếm được ra trước mặt Đoan Mễ, nói: "Đoan Mễ, cô xem, có đúng như vậv không? Lá cây còn có lúc gặp nhau, chẳng lẽ con người lại không có lúc gặp may sao?".
Đoan Me gạt tay ra và nói: "Tôi sợ bẩn tay lắm".
Nhiều người trong thôn hỏi Đoan Mễ: "Đoan Mễ, cô tốt như vậy, sao không cắt đứt với thằng Nê cho rồi?".
Đoan Mễ nói: "Con người rồi cũng có lúc thay đổi".
"Vậy sao cô không ngăn thằng Nê mà còn mở đường cho nó đi đánh bạc?"
Đoan Mễ nói: "Con dâu nhà Thiết Khóa chẳng phải do can ngăn chồng đánh bạc mà bị đánh què tay hay sao?".
"Cô không sợ nó đem hết gia tài đi đánh bạc à?"
Đoan Mễ nói: "Mất nhà mất cửa nhưng vẫn còn cái mạng của tôi. Nê có là người gan đồng dạ sắt thì tôi cũng cảm hóa được".
Mọi người đành thở dài, nói: "Xưa nay tuấn mã vẫn thường cõng kẻ ngu si, người vợ đẹp thì suốt đời mất ngủ mà thôi".
Một buổi chiều chạng vạng mưa phùn, Nê đang đứng ngây ra nhìn thùng thóc trống rỗng, Đoan Mễ ướt như chuột lột loạng choạng bước vào nhà. Đoan Mễ rút từ trong túi ra hai trăm tệ đưa cho Nê và nói: "Anh Nê, bây giờ chỉ còn lấy cái mạng tôi ra mà đánh bạc thôi cứ đánh cho tới
giọt máu cuối cùng trong người tôi đi". Nê cầm tiến, mấy đồng bạc được kẹp giữa tờ hóa đơn bán máu, mắt Nê tối sầm lại, anh dùng hai bàn tay thô
ráp tát như điên vào mặt mình cho đến khi mặt mũi tím bầm.
Mùa xuân, cây cối đâm chổi nảy lộc. Trong thời gian ngắn, cảnh vật - từ sườn núi, rừng cây, cho đến mái nhà... đều thay đổi hẳn. Nê mở một hiệu sửa chữa đồng hồ ở thị trấn, Đoan Mễ thì làm chủ một cửa hàng may. Hiệu sửa đồng hổ làm ăn rất phát đạt. Mọi người ở khắp nơi đều muốn đến hiệu đồng hồ xem cái anh chàng Nê năm xưa thay đổi thế nào. Cửa hàng may của Đoan Mễ còn đông khách hơn vì các bà, các chị ai cũng muốn nhìn cho rõ cái cô Đoan Mễ kia có phải ba đầu sáu tay hay không mà giỏi giang thế.
Cũng có người hỏi Đoan Mễ có tuvệt chiêu gì không, cô chỉ mỉm cười, nói: "Trong đời mỗi người đều gặp rất nhiều trắc trở mà không phải ai cũng gạt bỏ được hết rồi đi tiếp. Tôi chỉ có một câu này thôi: nước chảy thì đá cũng phải mòn".
Thúy Ngọc dịch
Tin nhắn thần bí
Tác giả: Trương Hợp Nghĩa
Dịch giả: Thúy Ngọc
Đinh Hoa, vợ của Lý Thăng, đi họp ở Bắc Kinh, nhà chỉ còn mình anh.
Lý Thăng được sống vài ngày như thần tiên, không nấu cơm, không đi chợ, không tắm rửa, vì vậy cũng chẳng phải giặt quần áo. Công việc hằng ngày của anh sau giờ làm chỉ là ngồi trước máy vi tính và lên mạng.
Một hôm, Lý Thăng nhận được một tin nhắn lạ trên mạng: “Thăng, anh còn nhớ em không? Còn nhớ thời gian chúng ta bên nhau không?”. Người gửi là Linh Linh. Lý Thăng nghĩ mãi vẫn không nhớ nổi Linh Linh là ai, nhưng trong lòng cũng khấp khởi phần nào.
Hai ngày sau, Lý Thăng lại nhận được tin nhắn của Linh Linh: “Thăng, giờ em rất cô đơn, rất cần có anh ở bên cạnh, lẽ nào anh không còn nhớ tới em nữa?”. Lần này thì Lý Thăng trả lời ngay: “Xin lỗi, anh không còn nhớ nổi em là ai, em có thể nói rõ hơn được không? Hy vọng sẽ sớm liên lạc được với em”. Ngay sau đó, trên màn hình lại hiện lên dòng chữ: “Em hơi thất vọng vì anh chẳng nhớ gì đến người đã say đắm yêu anh. Tuy nhiên em rất muốn gặp anh, anh thấy thế nào?”. Lý Thăng vô cùng cảm kích, không ngờ mình vẫn còn hấp dẫn đến vậy, trong lòng bỗng thấy tự hào. Lý Thăng vội vàng gõ: “Anh cũng là kẻ si tình, sao anh có thể quên quãng thời gian lãng mạn đó chứ? Anh cũng rất mong gặp em, hãy cho anh biết địa chỉ của em”. Viết xong những câu đó, Lý Thăng lại kiên trì ngồi bên máy vi tính chờ đợi, thế nhưng vài ngày trôi qua mà vẫn không thấy Linh Linh trả lời.
Hai tuần sau, Lý Thăng lại nhận được tin nhắn: “Anh Thăng thân yêu, hai tuần qua em bận quá, không liên lạc với anh được, hãy thông cảm cho em. Em quyết định sẽ đi tàu đến thăm anh, đúng mười giờ sáng mai, anh ra ga đón em nhé. Nhớ anh nhiều. Linh Linh”. Lý Thăng bỗng cảm thấy người
mình nóng rực lên. Không ngờ mình lại đào hoa như vậy, cuộc đời thật đẹp biết bao!
Mười giờ sáng hôm sau, Lý Thăng bồn chồn đứng trong sân ga chờ đợi. Bỗng nhiên, Đinh Hoa, vợ anh, xuất hiện trong dòng người đông đúc; vừa nhìn thấy Lý Thăng, cô vội vã chạy tới véo tai chồng, nói: “Đúng là một kẻ si tình, cũng đúng hẹn đấy nhỉ, còn không mau xách hành lý cho tôi, về nhà rồi biết tay tôi”. Lý Thăng vội chữa ngượng: “Anh mới đi xem bói, thầy bói nói hôm nay em về”. “Thầy bói tên là Linh Linh phải không?”, Đinh Hoa liếc xéo Lý Thăng. Lý Thăng bỗng chột dạ, không biết làm thế nào, đành ngoan ngoãn xách va li đi theo vợ.
Giấy chứng nhận "người"
Úc Thanh
Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách: -Vé tàu!
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.
Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:
- Đây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bằng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
-Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
-Anh là người tàn tật?
-Vâng, tôi là người tàn tật.
-Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
-Tôi… không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em
Cô soát vé cười gằn:
-Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên – Tôi chỉ còn một nửa bàn chân.
Cô soát vé liếc nhìn, bảo:
- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ “Giấy chứng nhận tàn tật”, có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật!
Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định…
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.
Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật …
Trưởng tàu cũng hỏi:
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho Trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.
Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có bốn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này
cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.
Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được.
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ. Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:
- Cũng được.
Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:
- Anh có phải đàn ông không?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không? - Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?
- Đương nhiên tôi là đàn ông!
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?
Mọi người chung quanh cười rộ lên.
Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:
- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành: - Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi. Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:
- Cô hoàn toàn không phải người!
- Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì? Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói: Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận “người” của cô ra xem nào… Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.
Chỉ có một người không cười. Đó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn chân chân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.
Bắt cóc tống tiền
Hám Lôi
Lúc nhập nhoạng tối ngày Chủ nhật, một minh Cục trưởng Đàm lái chiếc
xe con hiệu Audi từ nhà quê về thành phố. Khi đi qua núi Bàn Long, Trà Nhĩ Sơn, ông bị mấy tén thổ phỉ mai phục trong rừng bắt cóc cả người lẫn xe.
Bọn phỉ lái xe Audi của Cục trưởng Đàm vào sâu trong rừng. Sau khi bẻ cành thông che lấp, chúng ra đường cái xóa hết mọi dấu vết rồi giải Cục trưởng Đàm vào hang núi, nói:
- Dùng máy điện thoại di động của mình, ông làm hai việc: Một là báo cho cơ quan của ông rằng ông bị ốm, xin nghỉ ba ngày, không đi làm được. Hai là báo cho gia đình, bảo họ đem năm mươi vạn tệ tiền mặt đến chỗ cây đa lớn ở cửa rừng Linh Phong để chuộc ông vào bốn giờ chiều ngày mai. Ông phải nói rõ cho người nhà biết chớ có đi báo công an. Của cải nhà ông đều doÔng tham ô, nhận hối lộ mà có. Nếu báo công an, coi như chính ông đi tự thú, tự dâng tài sản của gia đình cho Tòa án. Lúc đó, người bị thẩm vấn đầu tiên sẽ là ông. Nếu ngày mai người nhà ông không ngoan ngoãn nộp năm mươi vạn tệ tiền chuộc, hang núi này sẽ là mồ chôn ông!
Hôm sau, tại địa điểm và thời gian hẹn trước, sau khi nhận va li chứa năm mươi vạn tệ tiền mặt từ tay phu nhân Cục trưởng một cách suôn sẻ, tên cầm đầu băng phỉ nói:
- Bà đã giữ lời hứa, chúng tôi cũng giữ lời hứa. Tối nay Cục trưởng Đàm sẽ lái xe Audi về nhà đoàn tụ với gia đình.
Nói xong, tên cầm đầu băng phi móc điện thoại di động, nói với phu nhân Cục trường Đàm:
- Tôi gọi điện thoại thông báo cho anh em trên núi, bảo chúng lập tức thả người.
- Khoan đã! - Phu nhân Cục trưởng nói - Các ông đừng vội tha người. Tôi còn cho các ông một cơ hội kiếm tiền nữa. Nếu các ông làm việc tôi yêu cầu, tôi sẽ cho các ông năm mươi vạn tệ tiền mặt.
- Việc gì? - Tên cầm đầu băng phỉ hỏi.
Bà Cục trưởng lấy từ trong túi ra một lọ nhỏ; nói:
Ông cầm những viên thuốc này về, tìm cách cho Cục trưởng Đàm uống vào khoảng bảy, tám giờ tối nav.
- Ồng nhà có bệnh gì? Đây là thuốc gì?
- Đây là thuốc ngủ. Sau khi uống, chồng tôi sẽ ngủ li bì tới khoảng nửa đêm. Các ông khiêng ông ấy vào xe, do người của các ông lái, rồi đứng lại ở chỗ hiểm yếu nhất trên con đường vòng qua núi. Lúc này người lái ra khỏi xe, trong xe chỉ còn một mình ông ấy đang ngủ say. Sau đó người của các ông hất xe, để cả người và xe từ vách núi rơi xuống vực. Xong việc, ông dùng máy di động gợi điện báo cho tôi. Sáng sớm ngày mai, ông lại đến đây, dẫn tôi đến xem hiện trường chỗ xe lao xuống vực. Tôi sẽ trả ngay ông năm mươi vạn tệ tiền mặt nữa.
Tên cầm đầu băng phỉ nói:
- Việc này... bọn tôi không làm được.
- Tại sao? Chê ít phải không? ít tôi có thể trả thêm.
- Không, không phải. Việc này không liên quan đến tiền nhiều hay ít. Chúng tôi làm nghề này, cũng chỉ nhằm mục đích kiếm tiền. Bất đắc dĩ lắm mới phải giết con tin. Vô cớ giết hại con tin,
không những làm trái lời thầy dạy, mà còn có thể dẫn đến tai họa chết người. Sau khi nhận đủ tiền chuộc, chúng tôi không thể giết con tin. Bà cứ đòi chúng tôi giết người giúp bà, nhất định phải cho chúng tôi biết rõ nguyên do.
- Xem ra, ông là người rất hiểu lý lẽ. Được, tôi sẽ cho ông biết lý do. Đúng như các ông đã biết, trong nhiệm kỳ của mình, ông nhà tôi kiếm được khá nhiều tiền. Việc này, đến những người ngoài cuộc như các ông còn biết, không lẽ ủy ban Kiểm tra Kỷ luật và Giám sát lại không biết? Theo tin tức đáng tin cậy, ông nhà tôi sẽ bị bắt vào một ngày gần đây. Ông ấy đã gây nhiều tội lỗi rồi. Cho dù ông ấy có ba đầu sáu tay thì cũng không thể thoát được.
Tên cầm đầu băng phỉ nói chen vào:
- Tại sao bà biết rõ như thế?
Phu nhân Cục trường trả lời:
- Không dám giấu ông, những việc ông nhà tôi làm, hầu như đều bàn với tôi.
- Bây giờ bà trà lời tôi, tại sao phải hại tính mạng Cục trường Đàm?
- Hôm qua, sau khi nhận được điện thoại của chồng tôi từ hang núi gọi về, tôi và các con
đã khẩn cấp họp gia đình. Cả nhà đều khóc, cuối cùng đưa ra một quyết định đau lòng. Để ông nhà tôi bị cách chức, bị bắt và xử tử hình sẽ để lại tiếng xấu là một kẻ tham ô, chẳng thà xin các ông giúp một tay để ông ấy chết "bất ngờ". Rơi xuống vực mà chết trong lúc ngủ say là kết cục tốt nhất đối với ông ấy. Đơn vị biết ông ấy chết do tai nạn ô tô, không những sẽ không truy cứu vụ án có liên quan, mà còn đăng cáo phó và tổ chức lễ truy điệu cho ông ấy. Như thế' không chi giữ được thanh danh người đầy tớ liêm chính của nhân dân cấp thành phố, mà còn giữ được mấy tòa biệt thự và khoản tiền lớn gửi tiết kiệm của nhà tôi. Là vợ góa cùa ông ấy, tôi có thể được lĩnh trợ cấp suốt đời. Còn các ông giúp tôi làm xong việc này, không những có thêm năm mươi vạn tệ, mà còn tránh được nguv cơ bị gia đình nạn nhân tố giác. Tôi nói hết ý định của mình ra là hy vọng mọi việc được vẹn toàn.
Nghe xong, tên cầm đầu băng phỉ thở dài:
- Người đời ai cũng bảo bọn bắt cóc tông tiền độc ác. Nhưng hôm nay tôi mới biết, gan ruột của mọi người trong nhà bà còn hiểm độc hơn thổ phỉ rất nhiều! Đã thế, bây giờ bà hãy ngoan ngoãn theo chúng tôi lên núi và dùng máy di động báo
ngay cho các con bà đem một triệu đến chuộc! Tôi rất muốn xem liệu con trai, con gái bà có lại trả giá hai triệu để xin bọn tôi cũng vứt bà từ vách đá cheo leo xuống vực thẳm hay không!
Vũ Công Hoan dịch
Bố cũng đang đợi
Tác giả: Diệp Tân
Dịch giả: Vũ Công Hoan
Tổng Giám đốc Tề đang ngồi họp trong phòng, đột nhiên thư ký riêng hớt hơ hớt hải, không kịp gõ cửa, xông thẳng vào nói:
- Thưa Tổng Giám đốc, Tiểu Dự vừa gọi điện, bảo là bị tai nạn trên quốc lộ 106. Mấy điện thoại di động của Tổng Giám đốc đều không mở, cậu ấy đang cuống lên, lo lắm ạ.
Sắc mặt tái đi, Tổng Giám đốc Tề hỏi:
- Người thế nào? Có bị thương không?
Tiểu Dự là con trai ông.
- Người không sao. Xe của cậu ấy húc vào đuôi xe khác, bị gãy thanh bảo hiểm. Cậu ấy gọi Tổng Giám đốc đến xử lý ngay.
Tổng Giám đốc Tề để tài liệu xuống, mở máy di động. Đang bấm số thì Tiểu Dự gọi:
- Bố ơi, bố đến nhanh lên. Xe của con bị đâm nát rồi, sốt ruột lắm bố ạ! - Báo cảnh sát chưa?
- Chưa ạ.
- Thương lượng với chủ xe đằng trước chưa?
- Chưa.
- Thế con đang làm gì?
- Con đang chờ bố. Con không biết nên làm gì. Cảnh sát giao thông chắc chắn sẽ phạt tiền, sẽ đục lỗ, không biết có treo bằng lái xe không? Con ở ngã ba quốc lộ hướng đi Bắc Kinh. Bố đi xe hai mươi phút là tới.
Im lặng hai, ba phút, đột nhiên, Tổng Giám đốc Tề ngắt điện thoại, tắt máy di động. Ông quay lại bảo thư ký riêng:
- Tiểu Dự còn gọi đến, cứ bảo tôi đi vắng.
Thư ký riêng ngạc nhiên nhìn Tổng Giám đốc Tề. Tiểu Dự là con một, được ông rất mực thương yêu. Với cương vị Tổng Giám đốc, việc này, ông chỉ cần cử trợ lý đi là được.
Tổng Giám đốc Tề ngồi cả ngày trong phòng làm viện; như mọi ngày, ông xử lý tài liệu, triệu tập cấp trưởng các bộ phận đến họp, cười đùa với cán bộ nhân viên, thần sắc không hề thay đổi.
Bảy giờ tối, Tổng Giám đốc Tề về đến nhà. Tiểu Dự đang ngồi thẫn thờ trong phòng khách, mặt sa sầm, trông như kẻ mất hồn.
- Không sao chứ? – Ông Tề hỏi con trai.
- Con chờ bố cả ngày. Suốt một ngày! Bố vẫn còn là bố của con chứ? Tiểu Dự đứng dậy. Mắt đỏ hoe. Hậm hực nói to.
Ông Tề tươi cười, không trả lời.
- Hôm nay bố có việc gì quan trọng đặc biệt thế? Mà việc quan trọng đến mấy đi nữa, liệu có hơn con không? Trong mắt bố, con có hay không cũng thế hay sao? Con là con trai của bố, con hy vọng được giải thích một cách hợp lý.
Thấy bố im lặng, Tiểu Dự xúc động, càng được thể nói to. Ông Tề bình tĩnh vỗ vỗ vai con, ngồi xuống, nói:
- Con ạ, đúng là bố có việc quan trọng phải làm. Công ty không quan trọng bằng con. Tiền cũng không quan trọng bằng con. Nhưng vấn đề là ở chỗ hôm nay bố gặp một bài toán khó, không biết nên giải quyết như thế nào?
Con trai nhìn bố. Cứ nhìn bố chằm chằm.
- Bởi vì bố không biết giải quyết vấn đề như thế nào, nên đành phải ngồi chờ trong phòng làm việc. Bố chờ ông nội con. Chờ ông nội đến bảo bố làm thế nào. Bố chờ suốt cả ngày.
Tiểu Dự cứ ngồi đực mặt ra. Lâu lắm. Chợt hiểu hàm ý trong lời nói của bố, cậu cúi gằm mặt xuống. Ông nội qua đời cách đây đã mười năm.
Đầu trọc
Tác giả: Vương Mông
Dịch giả: Vũ Công Hoan
Đang giữa mùa hè oi ả, ông Vương đang định đi cắt tóc. Ông hỏi vợ: - Tôi húi cái đầu trọc được không bà?
Bà Vương giãy nảy, can lia lịa, không được, không được. Bà phân tích, điều kiện tiên quyết của người húi đầu trọc là đầu phải tròn, nhẵn mà tròn, tròn mà nhẵn, phải thế cơ! Còn đầu ông, như quả bí đao, như quả cà dái dê, như cái đầu đạn, cạo trọc đi trông chối lắm, ảnh hưởng xấu đến xã hội. Hơn nữa, bây giờ đâu có phải như mấy năm làm “cách mạng văn hóa”. Mấy năm ấy, ông cắt trọc là để tụi vệ binh đỏ không túm được tóc. Bây giờ chính trị trong sáng, xã hội ổn định, nhà nào cũng phấn đấu để có mức sống trung bình, người nào cũng vái thần tài, ông húi đầu trọc làm gì? Có mà điên!
Ông Vương hậm hực, tại sao húi cái đầu trọc cho mát mẻ cũng không được? Hơn bảy mươi tuổi rồi, có để cái đuôi sam nho nhỏ cũng không ảnh hưởng đến xã hội. Hôm trước, khi tâm sự với một đồng nghiệp cũ, ông nói: “Bây giờ mình có khiêm tốn cũng chẳng tiến bộ, có kiêu ngạo cũng chẳng lạc hậu…”. Lẽ nào người không cần khiêm tốn, không cần kiêu ngạo, lại sợ húi cái đầu trọc?
Để giữ hòa khí, ông đành hoãn “công trình” cắt tóc lại. Chủ nhật, ông bàn với các con. Chúng lập tức chia thành hai phe. Phe tán thành phân tích, giống như để tóc chấm vai, đầu trọc đang là mốt thời thượng. Vua nhảy cầu nước Mỹ đầu trọc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao đầu trọc, một nguyên thủ quốc gia nào đó đầu trọc, rồi một học giả nào đấy cũng đầu trọc. Đầu trọc là độc quyền của cánh đàn ông, là sức hấp dẫn của cảm giác tính dục, là biểu hiện của già nhưng không yếu, là biểu tượng của tự do,
nghĩa là nó là thắng lợi của ý chí tự do của bố, một trong những biểu hiện của tiến bộ xã hội và văn hóa đa nguyên…
Phe phản đối bác lại, cho rằng mỹ quan là yêu cầu số một của đàn bà và của cả đàn ông. Mỹ quan là thanh xuân, càng là quyền lợi, đặc biệt là nghĩa vụ của người già. Cái răng cái tóc là góc con người. Mái tóc là phần đẹp nhất của nhân loại, giống như bộ lông của con công và các thứ lông giữ ấm trên thân người. Roosevelt là người bị bại liệt, phải ngồi xe lăn, nhưng vì ông là Roosevelt nên ngồi xe lăn vẫn đẹp, ngồi xe lăn vẫn phong độ! Còn bố mình, cả đời không làm nên công trạng gì, cuối cùng lại cắt một kiểu tóc chẳng ra làm sao, sẽ bị người ta chê cười. Tại sao không suy xét vấn đề một cách thực sự cầu thị?
Nghe ớn cả lỗ tai, ông già liền đánh liều đi vào một hiệu làm đầu gần nhà. Buồn giận, ông nói với thợ làm đầu, cộc lốc: “Cạo trọc!”.
Cô thợ làm đầu đang độ thanh xuân hơn hớn, có vẻ như không nghe thấy lời ông, lại còn động viên ông:
- Tóc bác còn đen lắm, nhuộm một chút thuốc, hấp một chút dầu thơm, thưa bác!
… Thế là, không những ông Vương không húi đầu trọc, mà còn nhuộm đen tóc, hấp dầu thơm. Đầu bóng mặt phấn, ông bấm bụng rút ví chi trả những hơn một trăm tệ, rồi ra về. Lão Vương bảo vợ, ở đấy có cô thợ cắt tóc xinh, trẻ, y như diễn viên nổi tiếng Hồng Kông vậy.
Dạ hội hóa trang
Cát Quốc Xuân
Trưởng phòng Hồ vừa đi thăm cấp trên đang nằm viện về thì có điện thoại của người bạn thân,hiện đang là ông chủ của một khách sạn mới khai trương trong thành phố,nói rằng tối nay ở khách sạn có buổi dạ hội hóa trang,mời anh và vợ cùng tới dự cho vui.
Thế ra "Dạ hội hóa trang" cũng có nhiều kỳ thú. Chưa hết còn có những chuyện mà khi ngã ngũ rồi, cười cũng chẳng được mà... mếu cũng chẳng xong.
Ông Tạo quả là hay... lỡm các quý ông, quý bà, nhất là với quý bà hay... ghen.
Thì có vậy mới là "Dạ hội hóa trang".
Tuấn Vinh
Trưởng phòng Hồ mới cưới vợ, tên là Chiêm Hiểu Mẫn. Hiểu Mẫn là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, đa tình. Hai vợ chồng ăn cơm sớm rồi sửa soạn đến dạ hội. Trưởng phòng Hồ chọn bộ đồ hóa trang có mặt nạ làm bằng nhựa dẻo, đang chuẩn bị dắt xe ra thì Hiểu Mẫn bỗng cảm thấy choáng váng, cô nói với chồng: "Em mệt quá, phải ngồi nghỉ một chút, anh cứ đi một mình đi!".
Hiểu Mẫn quay vào phòng, thoa chút dầu gió, một lát sau đã thấy khá hơn. Cô bèn thay một bộ quần áo mà từ trước đến nay chồng cô chưa hề nhìn thấy, gọi xe đến khách sạn. Bước vào phòng dạ hội, trong ánh đèn màu rực rỡ, ai nấy đều đeo mặt nạ với những hình thù khác nhau và nhịp bước bên nhau trong tiếng nhạc du dương.
Cô nhận ra chồng mình bởi bộ đồ hóa trang và mặt nạ hình gấu trúc bằng nhựa dẻo đang đứng nói chuyện tình tứ với hai cô gái khác. Ngọn lửa ghen
tuông trong lòng Hiểu Mẫn cứ lớn dần. Hiểu Mẫn cố gắng kiềm chế, cô đeo mặt nạ, quyết định làm phép thử với ông chồng mới cưới.
Cô bước lại gần chồng, dáng điệu lả lướt, sau vài lời ỡm ờ, cô còn kéo chồng lên một phòng trống trên tầng ba, cả hai mây mưa một hồi và nhất quyết không bỏ mặt nạ ra. Gần nửa đêm, buổi dạ hội hóa trang cũng sắp kết thúc, trong khi mọi người cùng tháo mặt nạ ra thì Hiểu Mẫn lặng lẽ đi về trước. Chồng cô mãi tận bốn giờ sáng hôm sau mới về.
"Anh này, buổi dạ hội thế nào?" Hiểu Mẫn đứng đón trước cửa hỏi chồng.
"Chẳng ra làm sao cả, cứ nhảy đi nhảy lại phát chán cả lên. Toàn trò trẻ con, chẳng có hứng thú chút nào", chồng cô mệt mỏi, vừa ngáp vừa trả lời.
"Thế cả đêm anh làm gì mà giờ này mới về?" Hiểu Mẫn hỏi, giọng nghi hoặc.
"Nói thật với em nhé", chồng cô nói, "sau khi anh đến khách sạn, thấy mấy người bạn cũng không đi cùng vợ bèn rủ họ vào phòng ông chủ đánh bài. Bọn anh ở đó chơi mạt chược đến giờ luôn".
"Chơi đến giờ này mới về?" Hiểu Mẫn hét lên.
"Đúng vậy, trước khi vào chơi bài, anh còn cho cậu Thẩm phó phòng mượn bồ đồ hóa trang. Buổi dạ hội kết thúc, lúc trả quần áo, cậu ấy còn không ngớt huyên thuyên, nói rằng đêm nay là một đêm tuyệt vời nhất trong đời cậu ta!".
"Hả!" Hiểu Mẫn kinh hoàng kêu lên, đôi môi xinh xinh của cô cứ há ra mãi, không khép lại được...
Thúy Ngọc (dịch)
Chỉ khác có một chữ
Mã Trường Sơn
Tôi là một nhà thơ của tỉnh H, năm nay sáu mươi chín tuổi. Theo cách đánh giá riêng, tôi nghĩ sáng tác thơ của mình phải đứng hàng đầu trong tỉnh. Nhưng mấy tay trong giới phê bình lại xếp tôi thứ ba.
Bảo tôi nhận mình thứ ba cũng được, nhưng vấn đề là các anh phải thừa nhận công sức của hai vị trước quả thực không bằng tôi. Không, tôi đã bố trí hai học trò của mình viết bài, lần lượt phê phán văn chương của hai anh chàng kia.
Tuần trước, hai học trò nộp bài, đề nghị tôi thẩm duyệt. Nào ngờ tôi lại lăn ra ốm.
Tôi biết mình bị ung thư, chỉ sống một tuần nữa.
Vợ con tôi khóc ầm ĩ.
- Đồ hèn! Đừng khóc nữa!
Tôi quát to. Cả nhà bỗng im như thóc.
"Đời người xưa nay ai chẳng chết". Tôi vừa khóc vừa ngâm câu thơ cổ, rồi lại nói:
- Nhưng phải chết nặng như núi Thái Sơn.
Tôi nặng lẽ gọi vợ, ghé vào tai nói mấy câu.
Vợ tôi nuốt lệ gật đầu, nói: "Người sắp chết nói điều gì cũng đúng. Cho dù người ta đòi hái sao trời, cũng phải thề hái bằng được".
Đúng như dự đoán của bệnh viện, một tuần sau tôi qua đời.
Hội Nhà văn tỉnh long trọng tổ chức tang lễ cho tôi. ông Lý, Phó Chủ tịch tỉnh phụ trách văn hoá giáo dục đích thân đến viếng, vái trước thi thể tôi ba vái. ông Lưu, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn tỉnh đọc điếu văn bằng cái giọng nhỏ trầm mà khàn khàn. Giọng ông khàn khàn là có thật, còn nhỏ trầm là giả dối. Điều này thì tôi biết. Thằng cha ấy vẫn hay coi thường thơ tôi. Đương nhiên, tôi càng coi thường tản văn của hắn.
"Sự ra đi của đồng chí Trương Tam làm một tổn thất trọng đại của giới thơ ca tỉnh nhà...".
Quả nhiên, không ngoài dự liệu của tôi, thằng cha ấy đã dám dùng hai chữ "trọng đại" thay cho "cự đại" (1). "Sức nặng" của hai từ này khác hẳn nhau!
Vợ con tôi vừa nghe thấy ông Lưu Phó Chủ tịch đọc bốn chữ "tổn thất trọng đại", liền gào toáng lên.
Ông Lưu Phó Chủ tịch không thể đọc tiếp.
Mấy cán bộ của Hội Nhà văn tỉnh bước ngay đến an ủi gia đình tôi, đồng thời cũng muốn để ông Lưu Phó Chủ tịch đọc tiếp.
"Sự ra đi của đồng chí Trương Tam làm một tổn thất trọng đại của giới thơ ca tỉnh nhà...".
Ông Lưu Phó Chủ tịch tỉnh đọc lại một lượt nữa. Đương nhiên, đúng như các bạn đoán, người nhà tôi lại khóc ầm lên.
Ông Lưu Phó Chủ tịch không đọc tiếp được.
Ông Lưu Phó Chủ tịch trầm tư hai giây, bước đến trước mặt vợ tôi, khẽ hỏi:
- Bác Vương, trước khi nhắm mắt, đồng chí Trương Tam có để lại cho tổ chức lời nhắn nhủ gì không?
- Có - Vợ tôi nhìn tôi, mồm tôi hơi động đậy, ám chỉ bảo bà ấy là theo kế hoạch. Bà ấy đành phải liều nói tiếp - Trong lòng bàn tay ông ấy có viết
một chữ. Ông ấy bảo cho chữ này vào trong điếu văn.
- Để lại một chữ ư? Mau xem xem - ông Lưu Phó Chủ tịch sải bước đến bên thi thể, mở một bàn tay tôi. Không có. Ông vội vàn mở tay kia. Một chứ "cự" viết bằng mực đang nằm lặng lẽ trong lòng bàn tay trái của tôi.
Ông Lưu Phó Chủ tịch hiểu ý. Ông ấy biết, tôi muốn thay "tổn thất trọng đại" thành "tổn thất cự đại".
- Bác Vương - Ông Lưu Phó Chủ tịch vô cùng lúng túng nói - Đánh giá về đồng chí Trương Tam là do lãnh đạo Hội Nhà văn tỉnh thảo luận rồi thống nhất, cá nhân tôi không có quyền sửa đổi.
Người nhà tôi lại gào khóc ầm lên.
Ông Lưu Phó Chủ tịch bối rối khó xử. Điều này tôi biết. Thằng cha ấy tuy coi thường tôi, nhưng không có mâu thuẫn căn bản với tôi. Đối đầu thật sự với tôi chính là hai lão: Phùng, Chủ tịch và Trần, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn tỉnh. Hai vị này được các nhà phê bình thổi phồng lên thành nhà thơ số một và số hai của tỉnh H. Khi tôi còn sống, chính hai lão này đã ra sức đả kích, chèn ép tôi. Bây giờ tôi chết rồi mà họ vẫn không buông tha.
Ông Lưu Phó Chủ tịch sải bước ra khỏi nhà tang lễ, rút máy điện thoại di động gọi cho ông Phùng Chủ tịch đang đi khảo sát ở mãi tận Mỹ xa xôi. ông Phùng Chủ tịch không đồng ý sửa lời điếu. Ông Lưu Phó Chủ tịch lại gọi điện thoại cho ông Trần Phó Chủ tịch đang ở thăm nước Nga. Ý kiến của ông Trần Phó Chủ tịch và ông Phùng Chủ tịch hoàn toàn giống nhau.
- Bác Vương - nét mặt mệt mỏi, ông Lưu Phó Chủ tịch nói với vợ tôi - chữ "cự" mà đồng chí Trương Tam để lại rất khó thêm vào.
Người nhà tôi lại lăn ra khóc, ướt sũng như chuột lột.
Vô cùng lo lắng, ông Lưu Phó Chủ tịch vội vàng bước ra ngoài cửa nhà tang lễ.
Đột nhiên mắt ông sáng bừng lên, ông lại gọi điện thoại cho ông Phùng Chủ tịch và ông Trần Phó Chủ tịch.
Tôi liếc mắt nhìn theo, thấy ông Lưu Phó Chủ tịch hớn hở.
Ông Lưu Phó Chủ tịch thoăn thoắt đến trước micro, với giọng thống thiết, ông đọc tiếp:
"Sự ra đi của đồng chí Trương Tam làm một tổn thất cự đại của giới thơ ca tỉnh nhà...".
Sao vậy? Nói sửa là sửa được ư? Điều này nằm ngoài dự kiến của tôi khi còn sống. Tốt quá! Không kìm nổi, tôi xúc động chảy nước mắt.
Người nhà tôi há hốc mồm, khóc không thành tiếng. Người ta đã sửa rồi, còn khóc làm gì nữa. Thế là tôi yên trí vào lò thiêu.
Trước khi vào lò thiêu, tôi nghe thấy cuộc đối thoại giữa ông Lý Phó Chủ tịch tỉnh và ông Lưu Phó Chủ tịch Hội nhà văn.
Anh làm thế nào mà đả thông được tư tưởng cho anh Phùng và anh Trần? Ông Phó Chủ tịch Lưu trả lời:
- Thưa anh, tôi nói với hai anh ấy, sau này khi hai anh ấy về thế giới bên kia, trong lời điếu sẽ viết, sự ra đi của họ "là một tổn thất cực kỳ cự đại của giới thơ ca tỉnh nhà".
Vũ Công Hoan dịch
(1) "Cự": Rất to lớn; khi dùng ghép với chữ "đại" (cũng có nghĩ là to lớn) thì "cự đại" (vô cùng to lớn) sẽ mang hàm nghĩa nhấn mạnh hơn so với từ "trọng đại".
Của quý để dành
Khâu Trường Hải
Cầm giấy chẩn đoán ung thư gan di căn của chồng, bà lau nước mắt trở về buồng bệnh, nói với ông:
- Không sao, bác sĩ bảo không sao, người già, phụ tùng máy móc tránh sao khỏi trục trặc chỗ này chỗ kia, tĩnh dưỡng rồi sẽ khỏi.
Về đến nhà, đeo tạp dề, bà lão sửa soạn nấu cơm. Ông lão giục: - Khỏi phải vào bếp, mình thử ra khách sạn một lần bà ạ!
Đến khách sạn ông lão gọi ba món ăn. Một món là khoai tây thái nhỏ xào dấm ớt bà thích ăn. Một là món cật súc vật xào giòn ông thích ăn. Còn một món sườn chua ngọt con gái cưng Kiểu Kiểu thích ăn.
Nhìn thức ăn, không nén nổi, bà lão khóc. Ba món ăn đọng lại nỗi buồn vui của gia đình. Từ nhỏ, con gái thích ăn món sườn chua ngọt. Đi làm về ông thường mua một suất sườn chua ngọt. Nhìn con gái ăn ngấu ăn nghiến ngon lành, bố mẹ cũng không muốn đụng đũa. Những tháng ngày hạnh phúc theo bước con gái từ khi vào vườn trẻ cho đến trước khi lấy chồng. Bây giờ thằng cháu ngoại đã lên lớp hai Món sườn chua ngọt của bố mẹ đã mất sức hấp dẫn với nó.Sống trong cùng một thành phố, đầu năm con gái đưa cháu ngoại đến ở một buổi sáng rồi đi .Bây giờ năm sắp hết, Tết sắp đến mà vẫn chẳng nhìn thấy mặt con cháu, ngay đến một cuộc điện thoại nó cũng không thèm gọi về.
Hai ông bà già lẳng lặng nhìn nhau ăn cơm, không ai nói với ai câu nào. Cũng chẳng cai đụng đến món sườn chua ngọt.
Sáng sớm hôm sau ông lão đi đâu đến trưa mới về. Nhìn bà già đang sốt ruột, ông bảo:
- Đưa tôi!
- Cái gì?-bà già hỏi.
- Cái hôm qua mình xem ấy!- ông nói.
Ông lão lấy trong túi một cái hộp xinh xắn, cẩn thận đặt vật kia vào rồi khoá lại, bỏ chìa khoá vào túi áo sát người, chậm rãi nói:
- Tôi đã đến cơ quan của Kiểu Kiểu. Nó bảo nay hoặc mai nó sẽ về.
Ngày hôm ấy cả gia đình con gái về. Nằm trên giường, ông lão nói với con:
- Con ơi, bố không còn sống được mấy nữa. Những năm qua bố mẹ dành dụm được tí chút, không nhiều không ít, nhưng cũng đủ cho cháu Bảo Nhi đi du học.
Cầm chìa khoá nhét vào tay bà già, ông lại nói:
- Sau khi bố ra đi, mẹ con không được động vào cái này. Sau khi mẹ con ra đi, các con hãy mở ra. Nhớ lời bố. Nếu không bố chết không nhắm mắt.
Ông lão không sống được đến Tết. Con gái hờ khóc vật vã, chết đi sống lại, người ta bảo, con gái quý không uổng công yêu thương .
Nhoáng cái đã mười năm trôi qua. Bà già sống mười năm hạnh phúc với con gái. Bảo Nhi sắp sửa thi vào đại học. Trên đường đem cơm cho cháu, bà bị tai nạn ôtô thông, được đưa vào bệnh viện.
Con gái, con rể biết tin vội tìm đến. Bà già nắm tay con gái nước mắt lưng tròng:
- Con ơi, mẹ xin lỗi các con.
Tay bà run run, cởi được chiếc chìa khoá luôn mang bên người thì tắt thở .
Con rể nhoáng nhoàng chạy về nhà lấy hộp, mở ra xem. Bên trên là một bức thư giấy đã ố vàng:
Kiểu Kiểu
Khi con đọc bức thư này, bố mẹ đã đoàn tụ ở Thiên Quốc. Suốt cuộc đời này niềm vui duy nhất của bố mẹ là con, bận tâm duy nhất là con, day dứt duy nhất cũng là con - ở đây bố mẹ xin con lượng thứ.
Những năm qua, ngoài việc chu cấp cho con vào đại học, gia đình mình không dành dụm được mấy. Sau khi con lập gia đình, bố mẹ khám, bệnh mua thuốc cũng khá tốn kém, cho nên không để lại cho con chút tài sản nào.
Dưới bức thư này là một cái lọ đựng sữa của mẹ con. Ngày xưa bố mẹ đựng sữa vào lọ chỉ xuất phát từ lòng hiếu kỳ. Bố mẹ cảm thấy chất lỏng màu trắng sữa thật thần kì, có thể nuôi một sinh mệnh nhỏ nhoi, mềm mại, yếu ớt thành một thiếu nữ xinh đẹp.
Đêm hôm bố phát hiện ra bệnh, trong khi lục tìm đồ dùng, đã vô tình tìm thấy lọ sữa này, vừa nhìn vào bố mẹ không khỏi giật mình ngạc nhiên…
Con gái vội vàng lấy lọ sữa ra xem, vô cùng sửng sốt - Trải qua bốn mươi năm lắng đọng, sữa đã ngả sang màu nâu đỏ, nghiễm nhiên là một lọ máu.
Nhưng trên đời này, hỏi có mấy đứa con hiểu rõ mình đã được nuôi lớn bằng máu?
Nhưng trên đời này, hỏi có mấy đứa con hiểu rõ mình đã được nuôi lớn bằng máu? Máu của những bậc làm cha làm mẹ...
Ngân hàng đau đớn
Tạ Phong Vinh
- Nghe người ta giới thiệu chỗ các chị có một ngân hàng đau đớn phải không?
- Anh không trông thấy tấm biển to đùng kia sao?
Cô gái tỏ vẻ ngạo mạn. Kể ra cũng khó trách. Cả thế giới chỉ có ngân hàng này, không có chi nhánh khác. Anh hỏi dò:
- Nghe nói các chị có thể hoán chuyển sự đau đớn?
- Ngân hàng đau đớn có hai loại nghiệp vụ chủ yếu. Loại thứ nhất anh có thể gửi đau đớn giống như gửi tiền tiết kiệm, sau đó anh có thể lấy ra vào lúc anh cho là thích hợp nhất, gửi lẻ lấy cả, gửi cả lấy lẻ đều được. Đương nhiên anh phải chi trả một khoản chi phí cho việc này. Hơn nữa anh phải lấy hết khi còn sống nếu không sẽ cưỡng chế người ruột thịt của anh phải gánh chịu. Thứ hai, anh có thể chuyển đau đớn của anh cho người khác như chuyển tiền, với điều kiện người ấy phải tình nguyện tiếp nhận. Cô gái thao thao bất tuyệt giới thiệu như đọc thuộc lòng lời nhắc kịch.
Anh đang định hỏi thủ tục chuyển như thế nào thì có hai người đến. Một người cao lớn đẩy anh ra, bám bệ cửa sổ, hỏi to:
- Tôi làm thủ tục chuyển tiền.
Cô gái liếc nhìn anh ta một cái, nhếch mép cười:
- Vâng, nếu tôi không nhớ nhầm, anh đã đến làm thủ tục chuyển tiền lần thứ 3.
- Tôi có tiền.
Người cao lớn vỗ túi bồm bộp.
- Ngân hàng của các cô tiện lắm. Mấy hôm trước dạ dày của tôi đau ghê gớm, đến đây làm thủ tục chuyển gửi, thánh thật, bây giờ uống 7-8 chai bia liền tù tì vẫn ngon thơm!
- Nhưng một người khác sẽ bị đau. - Cô gái ngắt lời anh. - Thưa anh chúng tôi đã nhận được đơn thưa của người tiếp nhận đau dạ dày của anh. Anh nên biết, một khi anh uống nhiều thì người kia miệng nôn, trôn tháo, dạ dày đau đớn vô cùng. Anh không nên vi phạm hợp đồng hai bên đã ký.
- Vâng, nhất định lần sau tôi sẽ chú ý.
Anh chàng cao to biết lỗi của mình. Cô gái hỏi:
- Xin anh cho biết lần này cần làm thủ tục chuyển loại đau đớn nào?
- Kể cũng hơi khó nói, tôi là người không sợ gì hết … chỉ sợ về nhà bà xã thượng cẳng chân hạ cẳng tay, hì hì, cho nên …
Cô gái khinh miệt nhìn anh chàng cao lớn, rồi đưa mắt nhìn anh chàng đằng sau anh ta. Đó là một thanh niên nông thôn có vẻ hiền lành, chất phác, ăn mặc giản dị, xem ra đang rất cần tiền.
- Được rồi, tôi xin đọc bản hợp đồng cho hai anh nghe trước đã, suy nghĩ xong thì ký vào, rồi mới đến trung tâm chuyển tiền ở đằng kia.
Cô gái in ra một bản hợp đồng. Nay có bên A xxx, bên B xxx. Bên A bằng lòng bỏ ra hai ngàn đô la chẵn, chuyển cho bên B tất cả các đau đớn do vợ mình đánh mắng gây nên. Sau khi nhận khoản tiền này, bên B phải gánh chịu những đau đớn nói trên. Điều cần chú ý: Bên A không được cố ý tạo đau đớn bắt bên B phải gánh chịu. Một khi phát hiện, bên B có thể đến ngân hàng kiện, thậm chí đề nghị chấm dứt hợp đồng.
Anh lặng lẽ đứng một bên quan sát. Cậu thanh niên nông thôn tay run run, có vẻ hạ quyết tâm lớn lắm, nghiến răng nghiến lợi ký vào bản hợp đồng.
- Còn anh đến làm gì? Đưa mắt tiễn hai người kia sang “Trung tâm chuyển tiền” cô gái quay sang anh hỏi:
- Tôi cũng muốn làm thủ tục chuyển tiền. Từ nhỏ hai mẹ con tôi đã sống nương tựa vào nhau. Qua bao nhiêu năm vật lộn, mới có được cuộc sống đầy đủ hạnh phúc như ngày nay. Nhưng cách đây không lâu, tôi phát hiện ra mình bị ung thư. Mẹ tôi nhiều năm sầu muộn, tinh thần luôn hoảng loạn, lại còn bị bệnh tim, thường xuyên tức ngực, lúc nào cũng có thể nguy hại đến tính mệnh… Nghe kể về ngân hàng của các chị, tôi nghĩ, nhân lúc bệnh chưa chuyển sang giai đoạn cuối, tôi muốn chuyển mọi đau đớn của mẹ tôi sang tôi. Như thế tôi có thể tận hiếu, mà mẹ tôi lại được sống thanh bình những năm cuối đời.
Nói xong anh khẽ thở dài.
Làm xong thủ tục anh về nhà. Anh không biết nói với mẹ như thế nào. Với thần sắc không bình thường, hình như mẹ anh cũng có điều gì muốn nói với con. Cuối cùng anh đã nói trước:
- Thưa mẹ, ở đường Thành Tây mới xây dựng một bệnh viện, Thiết bị điều trị vô cùng tiên tiến. Ngày mai con đưa mẹ đi khám, tiện thể con cũng kiểm tra bệnh của mình luôn.
Anh biết mẹ mình mù chữ. Anh không nói thật, sợ mẹ không đồng ý. Mẹ anh không nói gì, chỉ lặng lẽ gật đầu.
Hôm sau, hai mẹ con cùng đi vào ngân hàng đau đớn.
Cô gái ở cửa sổ nghiệp vụ sốt sắng, chào hỏi hai mẹ con:
- Chào bà, bà đã đến, chào anh, anh cũng đã đến. Xin mời hai mẹ con sang bên kia.
Hai mẹ con cùng đến “Trung tâm chuyển tiền”. Cửa đóng sầm một tiếng. Trong ánh sáng đỏ tối mờ mờ, mấy nhân viên mặc áo blu trắng đang bận rộn làm việc.
Công việc hoán đổi sắp bắt đầu. Anh nằm trên bàn trong lòng thầm cầu khẩn:
- Mẹ ơi, con xin chúc mẹ mạnh khỏe!
Đột nhiên anh thấy nhẹ hẳn người, y như thay xương đổi da. Anh ngồi dậy nhìn thì thấy mẹ nằm vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Anh không hiểu, kêu toáng lên, sà đến chỗ mẹ. Phẫn uất, anh thét lên: - Thế này là thế nào? Thế này là thế nào?
- Thưa anh, chúng tôi đã đồng ý giữ bí mật cho mẹ anh. Thật ra mẹ anh đã đến đây làm thủ tục chuyển tiền trước. Bà yêu cầu chúng tôi chuyển toàn bộ đau đớn của anh sang bà.
Một nhân viên nhẹ nhàng nói với anh.
Niềm vui bất ngờ
Tác giả: Lạc Lăng Thu Phong
Dịch giả: Vũ Công Hoan
Hôm nay là Tết Trung thu, cũng là ngày mừng thọ Giáo sư Tịch lên lão sáu mươi. Ngay từ sáng sớm, Giáo sư Tịch và người vợ trẻ đã bận tíu tít. Mấy hôm trước, con trai, con gái lần lượt gọi điện hẹn Tết Trung thu năm nay sẽ về nhà chúc thọ bố, hôm đó chúng sẽ đem về một món quà đặc biêt, dành cho bố niềm vui bất ngờ.
Vừa lau nền nhà, Giáo sư Tịch vừa nghĩ: Con trai làm nghiên cứu sinh ở mãi San Francisco, quà đem về chắc chắn phải mang màu sắc bên kia bờ Thái Bình Dương. Con gái sau khi tốt nghiệp đại học đã đi Thâm Quyến, quà mang về chắc chắn cũng thể hiện dòng thác thời đại. Lúc này vợ giáo sư bưng món ăn đầu tiên lên mâm. Ông Tịch hỏi vợ:
- Mình thử đoán xem, các con sẽ đem về cho anh món quà đặc biệt gì?
- Không biết. – Vợ Giáo sư lắc đầu. – Nhưng nhất định không sửng sốt bằng niềm vui bất ngờ anh đem đến cho chúng.
- Đương nhiên. – Giáo sư Tịch tươi cười.
Một lúc sau, con trai, dáng vẻ mệt nhọc về trước. Giáo sư Tịch ra đón. Trông thấy con trai bế một đứa trẻ tóc quăn mắt xanh, Giáo sư hỏi:
- Con ai vậy?
Đưa đứa trẻ ra trước mặt Giáo sư Tịch, con trai nói:
- Thưa bố, đây là quà mừng thọ đặc biệt con đem về cho bố – cháu nội của ông!
Giáo sư Tịch sửng sốt:
- Bố còn nhớ con chỉ nói đã yêu một cô gái người nước ngoài, chứ có bảo cưới nhau đâu.
Con trai nhởn nhơ đáp:
- Chưa cưới đâu bố ạ. Nhưng bên đó không cho phá thai như ở nước mình.
Không biết làm thế nào hơn, Giáo sư Tịch đưa tay đón nhận sản phẩm góp vốn đầu tư giữa trong và ngoài nước, miệng nựng đứa cháu lai:
- Gọi ông nào, gọi ông nào!
Con bé mới được hơn tám tháng, chưa biết nói. Nhưng đã kịp tặng cho ông nội món quà gặp mặt thú vị – tè một bãi ướt cả áo lẫn quần Giáo sư.
Đúng lúc ấy con gái cũng về đến nơi. Con gái đi xe riêng. Một người đàn ông đứng tuổi, đầu hói đi sau con gái. Giáo sư Tịch đon đả chào hỏi:
- Chú lái xe, mời chú vào trong nhà xơi nước.
Con gái lên tiếng:
- Rõ chán cho bố, giáo sư giáo siếc gì mà mắt kém thế. Anh ấy là ông chủ của con, cũng là bạn trai của con, thưa bố!
Giáo sư Tịch kinh ngạc tới mức suýt nữa ngồi phịch xuống đất. Thế này mà được à? Anh ta cũng xấp xỉ tuổi mình. Thấy sắc mặt bố tai tái, con gái vội vàng nói:
- Bố cứ yên tâm đi. Con không lấy anh ấy đâu. Hết hợp đồng chúng con sẽ chia tay.
Nghe vậy, Giáo sư Tịch trợn tròn mắt lên:
- Hợp đồng ư? Lẽ nào con làm vợ hai?
Con gái tỉnh bơ trả lời:
- Vâng, mỗi năm năm mươi vạn. Thời hạn hợp đồng ba năm. Đến lúc đó con trở thành một triệu phú trẻ, có gì mà không tốt?
Giáo sư Tịch tức run lên, thét:
- Mất mặt! Mất mặt!
Đứng bên cạnh, người con trai dàn hòa:
- Thôi đừng cãi nhau. Thật ra chuyện này ở nước ngoài cũng thường thôi. Hy sinh hai năm tuổi trẻ để khỏi phải phấn đấu hai mươi năm, đáng!
Nói đến đây, chợt nhớ ra điều gì, người con trai cất tiếng hỏi: - Ồ, phải rồi, mẹ con đâu? Sao từ nãy đến giờ không thấy mẹ đâu? - À, bà ấy đang làm thức ăn trong bếp. – Giáo sư Tịch trả lời. Con gái xông vào bếp gọi:
- Mẹ ơi, bỏ đấy hẵng, ra nói chuyện đã nào?
Cửa bếp mở. Một người đàn bà trẻ bưng đĩa tôm nõn đi ra. Chị cúi gằm mặt, có vẻ căng thẳng. Người con trai nhận ra đĩa tôm nõn, nói:
- Vội gì Tiểu Lệ, gọi mẹ tôi ra đây.
Tiểu Lệ là người giúp việc trước khi ra nước ngoài anh đã tìm về để giúp gia đình, không ngờ hơn ba năm rồi mà cô ta vẫn còn ở đây.
Lúc này, Giáo sư Tịch nói với các con:
- Hôm nay các con về nhà chúc thọ bố, món quà đặc biệt mà các con mang về đã khiến bố sửng sốt vô cùng. Vậy thì bây giờ bố cũng đem đến cho các con một niềm vui bất ngờ không kém. – Nói rồi Giáo sư Tịch nắm tay Tiểu Lệ kéo đến trước mặt, trịnh trọng tuyên bố với con trai, con gái – Bố đã ly hôn. Bây giờ Tiểu Lệ là mẹ mới của các con!
Mảnh đất này
Doãn Toàn Sinh
Từ sau khi thực hiện “bầu cử dân chủ”, hai vị trưởng thôn do người làng Vương tự bầu ra đều chẳng ra gì, bị bà con nguyền rủa mắng nhiếc là quan tham, quan ngu. Nhưng, đã làm quan rồi vẫn phải ngu đầy túi, tham đầy túi, đầy túi rồi mới cúp đuôi về vườn.
Dân làng Vương đều trách mình không có tầm mắt, nhìn nhầm quạ đen thành phượng hoàng, coi người xấu thành người tốt. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, muốn hiểu thấu con người đâu có phải chuyện dễ? Tục ngữ nói rất đúng: “Vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương, biết người biết mặt khó biết lòng” mà!
Có bài học của hai lần bầu cử trước, lần thứ ba bầu cử trưởng thôn, dân làng Vương đã thận trọng lại càng thận trọng hơn, người người lau mắt cho thật sáng, thề thốt thật sự nhắm trúng mới bầu, dứt khoát phải bầu ra viên quan thanh liêm thật sự!
Chọn lựa ai đây? Người trong làng túm năm tụm ba trên bờ ruộng, trước sau nhà, bí mật chuẩn bị hơn nửa tháng. Ngày sắp sửa bầu cử, ánh mắt của mọi người đều tập trung vào Vương Thực Tại. Anh chàng Vương Thực Tại ngay từ nhỏ đã thành thực hiền lành, vui vẻ giúp người, chấp hành nghiêm mọi phép nước lệ làng, lễ phép lịch sự, gặp ai cũng mặt đỏ lựng chào cụ cả, chào thím hai, chào bà ba trước rồi nói gì mới nói. Lớn lên, Vương Thực Tại thi đỗ vào học ở trường phổ thông trung học trên huyện lỵ, tốt nghiệp lại trở về làng vừa làm ruộng vừa tự học hàm thụ đại học, bây giờ đã cầm được “bằng đỏ” đại học rồi! Một chàng trai tốt như thế làm trưởng thôn là thích hợp quá rồi.
Cuộc bầu cử dân chủ lần thứ ba tiến hành rất thuận lợi, Vương Thực Tại được bầu làm trưởng thôn của làng Vương với 100% số phiếu. Bà con làng Vương mặt mày hớn hở, gào lên “làng Vương có quan thanh liêm
rồi!” Mọi người vây quanh Vương Thực Tại ở giữa hội trường, như sao xúm quanh mặt trăng.
Thực Tại ơi, bà con tin tưởng anh! Từ nay về sau mọi việc bà con đều nghe theo anh!
Anh muốn gì thì làm vậy, anh bảo bà con làm gì, bà con sẽ làm vậy. Cả làng lớn bé mấy ngàn người đều dựa cả vào anh đấy.
Vương Thực Tại cán bộ mới nhận nhiệm vụ, hăng hái sôi nổi làm được nhiều việc tốt: mở rộng diện tích trồng ngô lai, phổ biến bón phân theo khoa học, cải thiện điều kiện nước ăn cho dân làng, thay đổi tình trạng giao thông của thôn Vương... đều được lòng người, mọi người hết lời ca ngợi.
Nhưng, tục ngữ nói rất đúng: trong rừng sâu, tiếng hót của loài chim nào cũng có, ngày tháng lâu dần, những lời bàn tán ta thán Vương Thực Tại cứ vụng trộm lan truyền ra.
Mấy người hay lẻo mách, nói Vương Thực Tại ngày càng ra vẻ quan cách, nhìn thấy mọi người không chào hỏi bác cả, cụ cả, thím hai, bà ba thân mật như trước nữa, có việc gì đến nhà nhờ vả anh ta, anh ta còn sờ râu trố mắt nữa! Những kẻ lẻo mách ấy bị bà con thôn Vương chỉ trích rầm rầm: “Anh ta là trưởng một thôn các người có hiểu không? Làm quan làm sao mà không được quan cách chứ? Xưng hô anh anh em em với các người còn ra thể thống gì nữa? Hai trưởng thôn trước chửi bới các người đến tổ tông tám đời, tại sao các người không lẻo mách? Lý trưởng ngày xưa muốn trói ai thì trói người ấy, muốn đánh ai thì đánh người ấy, Trưởng thôn Vương đã trói người đánh người chưa? Người ta phải biết điều chứ!..”.
Mấy kẻ thối miệng nói: Vương Thực Tại phản bội vợ mình, lằng nhằng này nọ với hội trưởng phụ nữ trẻ đẹp, tận mắt nhìn thấy hai người “hô hấp nhân tạo” ở trong rừng... Những người thối miệng cũng bị dân làng nhao nhao phản đối chê trách: “Nói năng như đánh rắm! Trưởng thôn Vương làm sao có thể là người như thế? Nói rằng trưởng thôn Vương cùng hội trưởng phụ nữ làm “hô hấp nhân tạo” chắc chắn là chuyện vu khống, nếu
thật có chuyện ấy thì đã sao? Hai trưởng thôn trước còn bỏ cả vợ đấy! Nhớ lại ngày xưa, ai làm quan mà chẳng năm thê bảy thiếp...”.
Còn có mấy kẻ tiểu nhân đa nghi như Tào Tháo, hoài nghi Vương Thực Tại biểu lận tiền công xây nhà riêng, ăn chơi phè phỡn. Những kẻ tiểu nhân ăn ốc nói mò ấy càng bị dân làng thôn Vương quở trách: “Chúng ta đã chứng kiến quá trình trưởng thành của trưởng thôn Vương, lúc nhỏ đến một quả táo của nhà khác cũng không dám hái, bây giờ làm sao lại biểu lận công quĩ? Trưởng thôn ăn sung mặc sướng hơn một chút thì quan hệ chi đến cha mẹ họ. Hồi bầu trưởng thôn các người chẳng phải là những người ủng hộ nhất đó sao? Bây giờ lại trở mặt nghi ngờ người ta vì cớ gì nào? Lấy bụng của kẻ tiểu nhân đo bụng của người quân tử, chẳng ra cái thá gì! Lý trưởng ngày xưa...”.
Dân làng thôn Vương đưa Vương Thực Tại ngồi lên ghế trưởng thôn, và sau khi nhận định anh ta là quan thanh liêm, thì cho rằng đã làm xong việc của mình, nên an phận thủ thường làm người dân lành; Và khi quyền lực trưởng thôn bị động chạm, dân làng bèn không làm ngơ, hăng hái đóng vai người bảo vệ trung thành, như ong thợ gặp lúc tổ ong bị động chạm, nguy cấp đến ong chúa, thì chúng bèn lao hết ra khỏi tổ xông đến đốt những kẻ xâm phạm.
Hai năm sau xẩy ra một chuyện bất ngờ: đội thầu được trưởng thôn Vương cho nhận thầu nhiều công trình xây dựng đã vi phạm pháp luật. Đội trưởng thầu khoán, bị thẩm tra, cung khai Vương Thực Tại đã đòi và nhận hối lộ năm vạn đồng (tương đương 100 triệu đồng Việt Nam –ND). Năm vạn đồng lấy từ tiền trả thêm cho công trình chính là những đồng tiền xương máu mồ hôi của nhân dân thôn Vương!
Xe cảnh sát rú còi chạy vào thôn Vương, còng số tám sáng loáng khóa lên cổ tay Vương Thực Tại! Thôn Vương chấn động bàng hoàng ngạc nhiên! Ngạc nhiên đến mức tiếng đồng hồ đầu tiên toàn thôn yên ắng không một tiếng chim nhỏ, mọi người trố mắt há mồm; tiếng đồng hồ thứ hai toàn thôn ồn ã, ai ai cũng chỉ nói một câu: “Có thể nhầm lẫn, bắt sai người không? Không thể như vậy!”. Tiếng đồng hồ thứ ba cả làng cứ như nồi nước sôi, ai ai cũng rướn cổ gào lên: “Trời ơi, chuyện gì xẩy ra đây?”.
Xe cảnh sát giải Vương Thực Tại đi, cuốn bụi mờ mịt mấy dặm đường, để lại phía sau là dân làng Vương như một đàn ong đột nhiên mất ong chúa, căm phẫn tuyệt vọng bay tứ tung khắp vùng trời rộng mấy chục cây số vuông:
- Chó thật! Ai biến thành muỗi, ai hút máu người đây?
Biến gì mà biến, e rằng vốn dĩ đã là muỗi rồi.
Đừng có thối miệng! Vương Thực Tại, vốn là một người quá tốt vừa thật thà vừa thực tế mà.
Chẳng nhẽ mảnh đất này của chúng ta không thể sinh sản nuôi dưỡng được quan thanh liêm ư?
Lớp học chống tham nhũng của vợ lãnh đạo Tứ Mao
Thị trưởng thành phố A đề nghị Tứ Mao “hiến kế chống tham nhũng”. Với kiến nghị của Tứ Mao, thành phố A thành lập “Lớp học của vợ lãnh đạo”.
Định mức khóa đầu tiên là năm mươi học viên, nhưng chỉ lèo tèo có mấy người ghi tên theo học. Tứ Mao bí quá, đành đề nghị Thị trưởng chỉ định phu nhân của một số lãnh đạo bắt buộc phải tham gia, cộng với vợ của Tứ Mao nữa thì mới tạm đủ số lượng.
Buổi đầu tiên Tứ Mao giảng về sự nguy hại của tham nhũng. Tứ Mao giảng bài ở trên, các bà phu nhân lãnh đạo ở bên dưới túm lại rầm rầm, có người đang dùng điện thoại di động tán gẫu, vợ Tứ Mao suốt đêm qua đánh bài mạt chược cũng đang gục mặt trên bàn ngáy khò khò.
Tứ Mao nhăn nhó cười, lắc đầu lia lịa tuyên bố tan học, các vị phu nhân lãnh đạo hoan hô rào rào, quây lại với nhau tâm tình. Nhìn thấy tình hình ấy cảnh tượng ấy, Thị trưởng bất giác thở dài thườn thượt, nghĩ: “chống tham nhũng, chống hủ bại, không khéo lớp học này còn làm cho tham nhũng, hủ bại càng phát sinh mạnh thêm!”.
Lớp học mở khóa thứ hai, số đăng ký lên tới mấy trăm người, nguyên do là vợ các vị lãnh đạo cho rằng nhờ đi học mà có thể mở rộng mạng lưới quan hệ. Lớp học được cán bộ địa phương sở tại nói đùa là: “Trường Đảng của các phu nhân”. Mỗi khi phu nhân vào vào học trường Đảng thì mạng lưới quan hệ càng thêm phong phú.
Người ghi tên đông mà chỉ tiêu học viên có hạn, Tứ Mao đành phải nâng tiêu chuẩn, nếu trước đây từ vợ cấp phó phòng trở lên được học thì bây giờ phải bắt đầu từ vợ cấp trưởng phòng, thế mà vẫn “cung” không đủ “cầu”. Tứ Mao lại suy nghĩ, các ngành công thương, thuế vụ là mảnh đất béo bở dễ nẩy sinh tham nhũng nhất, nên đã ưu tiên nhận vợ của các vị
lãnh đạo thuộc những nghành này. Phải mấy ngày xét đi xét lạisuốt mấy ngày, khó khăn lắm mới bước đầu xác định được danh sách học viên.
Tục ngữ có câu: “Tai vách mạch rừng”, không rõ tại sao danh sách do Tứ Mao dự kiến lại lộ ra ngoài, những người có tên trong danh sách mang quà đến “cảm ơn” Tứ Mao, những người không có tên trong danh sách càng hăng hái đem quà, phong bì đến cầu cạnh nịnh nọt Tứ Mao
Bỗng nhiên cổng nhà Tứ Mao náo nhiệt như họp chợ, vợ đắc ý nhìn Tứ Mao.
- Vất vả nửa đời người, rốt cuộc cũng có được cơ hội béo bở này, may mà tôi linh hoạt, khéo léo nửa kín nửa hở tiết lộ danh sách ông dự kiến, nên mới nhận được nhiều quà biếu như vậy, thế thì chống tham nhũng làm gì nào, trong khi tham nhũng tốt quá như thế!
Sau khi khai giảng lớp học khóa hai, Tứ Mao chủ yếu nói về những cái tốt của tham nhũng.
Vừa nghe thấy Tứ Mao nói đến tên bài giảng, các phu nhân lãnh đạo đã lập tức thay đổi thái độ: người rỉ tai nói chuyện riêng im bặt, người tán gẫu trong điện thoại di động vội tắt máy, người ngủ gà ngủ gật cũng bị không khí khác thường làm tỉnh như sáo, ai nấy đều lắng tai nghe như nuốt từng lời giảng của Tứ Mao
- Tham nhũng có thể làm cho chúng ta có thêm rất nhiều của cải vật chất, cuộc sống sung túc. Nhưng, không biết các chị có nghe qua một câu tục ngữ này chưa: “Đàn ông có tiền thì biến thành xấu, phụ nữ biến thành xấu thì có tiền”. Đức ông chồng của các bà, các chị đều là cán bộ lãnh đạo đứng ở các cương vị riêng, một khi lợi dụng tham nhũng thì sẽ trở thành người có tiền. Cổ nhân nói rằng: “No cơm ấm cật rậm rật chân tay”, hơn nữa lại có biết bao phụ nữ hư hỏng do muốn có nhiều tiền sẽ lôi kéo chồng của các bà, các chị”. Nói đến đây, Tứ Mao thấy rất nhiều vợ của lãnh đạo mặt mày biến sắc. Ông lấy ví dụ một số cán bộ lãnh đạo của thành phố mình mà mọi người đều biết rõ sau khi có tiền đã nuôi “dì hai”, lại còn vanh vách kể tên những cục trưởng A, vụ trưởng B, hay chủ nhiệm C gì gì đó.
Các quí phu nhân đều chăm chú nghe và tỏ rõ căm phẫn tột độ. Có bà đứng phắt dậy hô lớn: “Phải kiên quyết chống tham nhũng!”.
Trở về đến nhà, vợ Tứ Mao yêu cầu Tứ Mao phải trả lại hết những quà cáp phong bì đã nhận lần trước, Tứ Mao vội vàng làm theo. Xem ra chiêu này lập tức thu được hiệu quả rõ rệt.
Phong trào xây dựng đời sống chính trị liêm khiết trong sạch của thành phố A thu được thành quả đáng kể, mấy năm liền không có một vụ án nhận hối lộ nào, cá biệt có cán bộ lãnh đạo muốn nhận hối lộ bị vợ ông ta tố cáo nên đã chủ động giao nộp của hối lộ.
Từ đó về sau, người ghi tên theo học các “lớp học của vợ cán bộ lãnh đạo” hàng năm tăng vùn vụt, ban đầu mỗi khóa mở một lớp, giờ tăng lên mỗi khóa ba lớp.
Nghèo cũng phải là nghèo có tính báo chí
Lưu Xa
Một em học sinh nghèo khó, năm nay thi đỗ đại học, nhưng vì gia đình bần hàn, không sao nộp được học phí. Bố mẹ đi vay tiền tứ xứ, mà không có một ai chịu cho mượn tiền.
Cuối cùng, hai người nông dân thật thà như đếm tìm đến giới báo chí, hy vọng báo chí có thể giúp đỡ họ.
Có một ký giả nhiệt tình tiếp họ.
Nhà báo hỏi: “Con trai bác thi đỗ vào trường đại học nào?”. Họ nói: ”Khối thứ ba, trường Tây An…”.
Ký giả lẩm bẩm: “Nếu trúng vào đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa thì tốt”.
Nhà báo hỏi: “Con trai bác có điểm gì đặc biệt không? Ví dụ như có tàn tật không? Trước đây có chuyện này chuyện nọ không?…”.
Họ nói: “Con trai tôi chẳng có gì đặc biệt, rất mạnh khỏe, rất ngoan ngoãn …”.
Nhà báo lẩm bẩm:” Giá con trai của bác đặc biệt hơn thì tốt!”. Nhà báo hỏi: ”Thế thì hai bác vẫn mạnh khỏe chứ?”
Họ đáp:”Hai chúng tôi rất mạnh khỏe!”.
Nhà báo lẩm bẩm:” Trong hai bác nếu có một người thân thể đặc biệt thì tốt!”.
. . . . . .
Nhà báo hỏi một câu hỏi cuối cùng:
- Con trai bác có phải là sinh viên đầu tiên ở làng ta không? Họ đáp:
- Không phải! Năm ngoái đã có ba cháu thi đỗ!
Nghe xong nhà báo thở dài thườn thượt, nói:
- Cháu không có cách nào giúp các bác, cháu nghĩ tất cả các nhà báo cũng đều không có cách nào giúp đỡ các bác được đâu!
Họ hỏi: ”Tại sao thế?”.
Nhà báo nói: “Bởi vì mọi chuyện của các bác đều không có tính chất báo chí!”.
Họ vẫn không hiểu, nhà báo nói:
- Nghèo cũng phải là nghèo có tính chất báo chí thì mới viết được!
Tặng em một nửa phần quà
Tác giả: Vương Đạo Trang
Dịch giả: Vũ Phong Tạo
Gần đến mười hai giờ trưa mà một hội nghị đặc biệt của thành phố Đông Hải vẫn chưa kết thúc. Người đàn ông trên diễn đàn đã nói gần hai tiếng đồng hồ rồi. Phía dưới hội trường toàn những phụ nữ trẻ đẹp – vợ của các cán bộ lãnh đạo – họ im lặng nghe, thỉnh thoảng lắc đầu thở dài.
Người diễn giảng là Trương Đông Hải. Một năm trước Trương Đông Hải còn là Thị trưởng của thành phố Đông Hải, vì nhận hối lộ nên bị xử ba năm tù giam. Hôm nay, hội nghị đặc biệt có tên “ Sự hối hận của tôi”, là do Trương Đông Hải ở trong tù nhiều lần đề nghị, sau khi được Tỉnh ủy phê chuẩn đã được Cục Chống tham nhũng thành phố tổ chức.
Vợ của Trương Đông Hải là Vương Tiểu Hoa cũng tham gia, bà ngồi ở giữa hàng ghế đầu. Ngay từ lúc Trương Đông Hải lên bục bày tỏ sự ăn năn, hối hận của mình, bà vợ cũng cúi đầu và âm thầm sám hối: “Nếu như mình không tỉ tê thuyết phục thì liệu anh ấy có đến nông nỗi này không?”. Từ lúc bước chân vào hội trường, Vương Tiểu Hoa đã không dám nhìn thẳng vào mắt chồng mà chỉ thỉnh thoảng liếc trộm. Điều khiến cho bà ta thắc mắc là hôm qua, những người tổ chức hội nghị còn thông báo riêng rằng, Trương Đông Hải yêu cầu bà nhất định phải có mặt, phải đến hội trường sớm và ngồi ngay hàng ghế đầu. Nhưng hội nghị sắp kết thúc mà tại sao chồng bà vẫn không liếc nhìn bà lấy một cái nhỉ? Giữa lúc thấp thỏm bất an, bà bỗng nghe thấy người chủ trì hội nghị nói:
- Sau đây, Trương Đông Hải muốn tặng vợ một món quà. Anh ấy muốn tặng mình một món quà? Quà gì đây?
Vương Tiểu Hoa ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng và Trương Đông Hải. Trương Đông Hải nhìn vợ, nặng nhọc gật đầu. Thế là Vương Tiểu Hoa cúi
đầu, chậm rãi bước lên sân khấu.
Quà để ở trong khay, phía trên phủ một miếng vải đen, Trương Đông Hải hai tay bưng khay chìa ra. Giữa lúc Vương Tiểu Hoa định bước tới nhận, đột nhiên ông ta rụt tay lại, đặt khay lên bàn.
Ông ta làm gì vậy? Trước sự nghi hoặc của mọi người, Trương Đông Hải cầm lấy micro nhìn xuống hội trường, nói từng tiếng một:
- Nhân hội nghị sám hối hôm nay, tôi có một món quà muốn tặng vợ tôi! Trương Đông Hải kéo tay Vương Tiểu Hoa lại nói:
- Bà xã, mong em nhận cho!
Vương Tiểu Hoa run run mở mảnh vải đen phủ trên khay. Mảnh vải vừa mở ra, toàn hội trường ngạc nhiên, Vương Tiểu Hoa trố mắt há miệng: trong đó là một chiếc còng tay. Trương Đông Hải cầm chiếc còng tay lên nói với Vương Tiểu Hoa:
- Anh nhận quà, nhận hối lộ, cuối cùng nhận còng số tám. Nhưng món quà đặc biệt này, đáng lẽ cũng có một nửa của em. Bà xã, anh phải tặng em một nửa phần quà này!
Cả hội trường lặng im, không một tiếng động.
Đôi cánh của thiên sứ
Tác giả: Dật Danh
Dịch giả: Vũ Phong Tạo
Huy Tử rất tự ti, bởi vì trên lưng cậu nổi hẳn lên hai vết sẹo to tướng. Hai vết sẹo này như hai vết nứt nẻ màu đỏ sẫm, kéo dài từ cổ xuống lưng. Cho nên, Huy Tử rất sợ tiết thể dục, lúc mà tất cả các bạn nhỏ đều vui vẻ cởi bộ quần áo đồng phục vừa bó sát người vừa không thoải mái. Mỗi lần thay quần áo, Huy Tử đều len lén nấp vào một góc, ghé sát lưng vào tường, vội vã thay quần áo, vì sợ người khác phát hiện ra. Song lâu dần, cậu vẫn bị các bạn nhỏ khác phát hiện ra vết sẹo trên lưng.
“Sợ quá!”
“Quái vật!”
Câu nói thơ ngây và vô tâm thường làm đau lòng người. Sau khi chuyện này xảy ra, mẹ Huy Tử dắt cậu đến gặp cô giáo.
- Khi mới chào đời Huy Tử đã bị bệnh nặng! – Mẹ Huy Tử nói, mắt đỏ hoe. – May mà khi ấy có vị thầy thuốc giỏi cứu sống sinh mạng nhỏ này, song trên lưng cháu vẫn còn hai vết sẹo dài.
Mẹ quay lại bảo Huy Tử:
- Đến đây con! Vạch lưng ra cho cô giáo xem!
Chần chừ một lát, Huy Tử mới cởi áo ra, để cô giáo nhìn rõ hai vết sẹo đáng sợ này, đó cũng là minh chứng cho cuộc chiến đấu sống còn từng diễn ra trong đời cậu. Cô giáo ngạc nhiên nhìn hai vết sẹo, xót xa hỏi:
- Còn đau không em?
Huy Tử lắc đầu:
- Thưa cô, không ạ!
Cô giáo xoa đầu Huy Tử, nói:
- Tiết thể dục ngày mai, dứt khoát em phải cùng các bạn thay quần áo nhé! Những giọt nước mắt long lanh trào ra từ hai mắt của Huy Tử: - Nhưng, các bạn sẽ cười em, nói em là quái vật!
- Yên trí, cô đã có cách, không có người nào cười em đâu. Thật đấy!
Ngày hôm sau, tiết thể dục, Huy Tử rụt rè nấp vào một góc, cởi áo ra, quả nhiên không ngoài dự đoán, cả đám bạn lại lộ vẻ kinh hoàng và nói những lời khó nghe: “Ôi! Buồn nôn quá!”.
Hai mắt Huy Tử mở to, nước mắt chực ứa ra. Lúc ấy, cửa phòng học đột nhiên mở ra, cô giáo xuất hiện. Mấy bạn học chạy ngay đến gần cô giáo, nói:
- Thưa cô! Cô nhìn này, lưng bạn ấy đáng sợ quá, trông cứ như con sâu róm!
Cô giáo không nói gì, chỉ từ từ đến bên Huy Tử, sau đó tỏ vẻ kinh ngạc.
- Không phải là sâu đâu! – Cô lim dim mắt, chăm chú nhìn lưng của Huy Tử nói. – Ngày trước cô được nghe một câu chuyện, các em có muốn nghe không?
Các bạn nhỏ thích nhất là nghe kể chuyện, bèn ùa lại quây quanh cô giáo. Cô kể:
- Truyền thuyết kể rằng, mỗi bạn nhỏ đều do một thiên sứ ở trên trời biến thành; hầu hết các thiên sứ khi biến thành trẻ con đã nhanh chóng cởi bỏ đôi cánh; nhưng cũng có thiên sứ bé bỏng, động tác chậm hơn thì không kịp cởi bỏ đôi cánh của mình. Khi ấy, trên lưng những em do các thiên sứ bé bỏng, chậm chạp biến thành đều có hai vết sẹo như thế!
- Ôi! – Các bạn nhỏ đều kinh ngạc kêu lên – Chỗ ấy là dấu vết của đôi cánh thiên sứ ư?
- Đúng thế! – Cô giáo nở nụ cười thần bí nói – Các em có muốn kiểm tra xem có bạn nào còn đôi cánh chưa rụng hết như bạn Huy Tử không nào?
Nghe cô giáo nói vậy, tất cả các bạn nhỏ đều vội vội vàng vàng kiểm tra lưng của nhau, nhưng không ai có vết sẹo rõ như của bạn Huy Tử cả.
- Thưa cô! Chỗ này của em có vết sẹo nho nhỏ phải không ạ? – Một bé đeo kính vui vẻ giơ tay nói.
- Không phải đâu! Chỗ này của em cũng đo đỏ, mới đích thị là thiên sứ! ***
Các bạn nhỏ tranh nhau thừa nhận trên lưng mình có sẹo, quên hẳn chuyện chê cười Huy Tử. Hai mắt Huy Tử lúc trước đỏ hoe, giờ không còn chảy nước mắt nữa.
Đột nhiên, một bé gái nhỏ nhẹ nói:
- Thưa cô! Em có thể sờ đôi cánh của tiểu thiên sứ không ạ?
- Điều này phải hỏi tiểu thiên sứ có đồng ý không chứ! – Cô giáo tủm tỉm cười nháy mắt với Huy Tử.
Huy Tử mạnh dạn hẳn lên, ngượng nghịu nói: “Được!”.
Bé gái nhẹ nhàng sờ tay vào vết thương ở trên lưng Huy Tử, mừng rỡ nói to:
- Ồ! Mềm lắm! Mình đã sờ thấy đôi cánh của thiên sứ rồi! Bé gái thét to làm cho tất cả các bạn cuống cả lên, ai cũng hét lớn: - Mình cũng muốn sờ!
Trong phòng học thể dục bỗng diễn ra một cảnh tưởng đặc biệt, mấy chục em học sinh xếp thành một đội hình dài, chờ đến lượt sờ vào lưng của Huy Tử!
Sau đấy, Huy Tử lớn dần lên. Đến khi học trung học phổ thông, Huy Tử còn tham gia thi bơi toàn thành phố, được giải Á quân. Huy Tử đã dũng cảm chọn thi môn bơi bướm, vì em tin tưởng rằng hai vết sẹo trên lưng mình là Đôi cánh của thiên sứ mà cô giáo có tấm lòng nhân ái đã chúc mừng hạnh phúc cho em.
Chúng mình đã từng uống rượu
Hạ Thanh Hoa
Tiểu Dương là nhân viên văn thư của nhà máy phân đạm, gần đây, nhà máy được trên điều đến một bí thư Đảng ủy mới họ Hầu. Tiểu Dương nghĩ, nhân dịp bí thư mới đến nhận nhiệm vụ, nhất định phải để lại cho ông ta một ấn tượng tốt đẹp, thì sau này công tác sẽ thuận lợi. Nhưng làm thế nào mới gây được ấn tượng tốt đẹp với ông ấy đây?
Nghĩ mãi, Tiểu Dương mới nghĩ ra bố mình. Bố của Tiểu Dương là giám đốc sở Tư pháp, lãnh đạo một ngành tưởng chừng không ghê gớm lắm. Tiểu Dương nghĩ: Đều là những người hoạt động chốn quan trường, thế nào mà bí thư Hầu chẳng có dịp gặp mặt bố mình, dù cho chưa từng gặp mặt thì cũng nghe nói đến tên nhau chứ! Đúng rồi, phải chắp mối quan hệ từ đây.
Chiều nay, Tiểu Dương mang tài liệu đến phòng làm việc của bí thư Hầu. May mắn đúng lúc bí thư Hầu cũng không bận việc gì, nên bảo Tiểu Dương ngồi xuống nói chuyện. Tiểu Dương nghĩ bụng: “Thời cơ đã đến.”
Chuyện nọ xọ chuyện kia một lát, Tiểu Dương bèn lái câu chuyện sang chuyện liên quan đến bố mình.
Tiểu Dương nói:
- Bí thư Hầu ạ! Bố cháu thường nhắc đến chú đấy. Bố cháu nói
ông đã từng cùng chú uống rượu, nói rằng tửu lượng của chú rất khá, uống nửa lít mà vẫn chưa say…
Bí thư Hầu hỏi:
- Đồng chí ư? Bố đồng chí là…
Tiểu Dương vội giới thiệu rằng:
"""