"
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Johnson Kostova full prc, pdf, epub, azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truy Tìm Dracula - Elizabeth Johnson Kostova full prc, pdf, epub, azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Dành tặng cha!
Người đầu tiên kể lại cho tôi một số những câu chuyện này. ★★★
“Một lượng kiến thức sâu rộng trong lòng một câu chuyện ma.”
• New York Magazine
“Vừa là chuyện kinh dị, vừa là lịch sử, vừa là chuyện tình lãng mạn… Kostova có một khả năng kể chuyện sắc sảo, cùng một câu chuyện kỳ diệu để thuật lại với chúng ta.”
• Victoria A. Brownworth, Baltimore Sun
“Bạn hãy ngồi xuống và thưởng thức một văn phong cuồn cuộn sức sống, sự hồi hộp đầy trí tuệ, cốt truyện thông minh, và những nhân vật chính đáng yêu. Elizabeth Kostova chính là một nhà văn hàng đầu.”
• Susan Balee, Philadelphia Inquirer
“Truy tìm Dracula hấp dẫn nhờ công phu nghiên cứu thấu đáo của tác giả, từ đó lý giải về những gì góp phần tạo ra và lý do tồn tại của cái ác.”
• Jessica Treadway, Chicago Tribune
"Cuốn tiểu thuyết hoành tráng với một phụ nữ thông minh vừa là nhân vật chính vừa là người kể chuyện sẽ kéo bạn vào từng trang sách, bạn sẽ đọc suốt đêm và sẽ thoáng rùng mình khi những cơn gió mùa rền rĩ bên ngoài cửa sổ.”
• Uma Mahadevan Dasgupta, Indian Express
“Kostova đã tái tạo một Dracula vừa kinh hoàng vừa đáng sợ như hình ảnh ma cà rồng hút máu đã từng in đậm trong truyền thống văn hóa dân gian qua câu chuyện kể của Bram Stoker từ năm 1897… Nhưng trong phần kết thúc, có lẽ Kostova còn xuất sắc hơn cả Stoker.”
• USA Today
“Mê hoặc như thôi miên… Gần như không thể bỏ cuốn sách xuống được… Một cảm giác rùng mình ớn lạnh xuyên suốt câu chuyện.”
• Brian Richard Boylan, Denver Post
“Truy Tìm Dracula là loại sách mà người ta không thể nửa chừng bỏ xuống được.” • Charles Matthews, San Jose Mercury News
“Gần như không thể bỏ Truy Tìm Dracula xuống một khi đã đụng đến gáy sách.” • Michael D. Clark, Houston Chronicle
“Một bí ẩn lịch sử đồ sộ… với tham vọng can thiệp vào lịch sử, căng thẳng hồi hộp, lãng mạn, đầy tri thức… Kostova đã dần dần làm sáng tỏ truyền thuyết về ma cà rồng.”
• Sherryl Connelly, New York Times News
“Không chỉ là câu chuyện lịch sử súc tích, phong phú đậm chất văn hóa và phiêu lưu, Truy tìm Dracula còn là một truyện trinh thám thần bí thông minh và đáng đọc.”
• Lev Grossman,Time
GIỚI THIỆU
Một cuộc truy lùng làm nghẹt thở hàng loạt độc giả. Quá đỗi hấp dẫn là Truy Tìm Dracula, cuốn tiểu thuyết với một khối lượng kiến thức khổng lồ, với ba phần đan cài nhau giữa quá khứ và hiện tại, trải ra trên khắp các bối cảnh từ các thành phố lớn đến những vùng hẻo lánh nhất châu Âu, với nữ nhân vật chính là một sử gia. Trên hành trình phân tích các dấu hiệu và văn bản bí mật, giải mã những bí ẩn nằm sâu trong truyền thống văn hóa nặng chất tu viện của châu Âu Trung Cổ, đồng thời trốn chạy khỏi những kẻ thù giấu mặt luôn bám theo khắp chốn để bảo vệ sức mạnh cổ xưa của Dracula, cô đã đến gần hơn bao giờ hết bí mật quá khứ của chính cô, đồng thời đối diện bản chất của cái Ác.
Sau mười năm thai nghén, Truy Tìm Dracula ra đời với tư cách tiểu thuyết đầu tay của Elizabeth Kostova. Tác phẩm gần như một kỳ tích trong ngành xuất bản khi tác giả của nó, khi ấy còn là một nhà văn vô danh, đã nhận được hai triệu đôla Mỹ nhuận bút ứng trước, gấp nhiều lần mức trung bình dành cho một tác giả ở cùng tầm cỡ. Trong Truy Tìm Dracula, người đọc được đắm chìm trong vô vàn những chi tiết từ kinh viện đến bình phàm. Còn tác giả thì đóng góp thêm cho nền tiểu thuyết thế giới một cuốn sách kỳ thú nằm phân vân giữa các thể loại phiêu lưu, trinh thám, Gothic, du ký, ly kỳ. Một lần nữa Dracula huyền thoại lại hiện về – trong vai một bạo chúa, một “Kẻ Xiên Người", cũng đồng thời là nhân vật giúp ngăn chặn người Ottoman xâm nhập Wallachia. Truy Tìm Dracula đã là một thành công vang dội với vô số giải thưởng và hàng triệu bản in lưu hành tại nhiều quốc gia trên toàn cầu.
Elizabeth Johnson Kostova sinh năm 1964 tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Yale và lấy bằng Thạc sĩ Văn chương tại Đại học Michigan. Truy Tìm Dracula là tác phẩm đầu tay của cô, được dịch ra 28 thứ tiếng, giành giải Hopwood Award cho Tiểu thuyết đang hoàn thành (2003), Quill Award cho Tác phẩm đầu tay (2005), Book Sense Award cho Tiểu thuyết xuất sắc nhất (2006). Năm 2007, Sony đã mua bản quyền dựng phim tác phẩm này và dự kiến bộ phim sẽ ra mắt sớm.
Tháng Năm 2007, Elizabeth Kostova thành lập một quỹ mang tên cô. Quỹ này sẽ hỗ trợ việc sáng tác và dịch thuật các tác phẩm văn học đương đại của Bungari, đồng thời tăng cường tình hữu nghị giữa các tác giả Bungari và các tác giả Anh, Mỹ.
Elizabeth Kostova vừa ra mắt tiểu thuyết mới nhất, “The Swan Thieves”, vào ngày 12 tháng 1 năm 2010 vừa qua.
LỜI NGỎ
Câu chuyện sau đây là câu chuyện tôi không bao giờ có ý định viết ra. Tuy nhiên, gần đây, một việc, có lẽ là một cú sốc, đã thôi thúc tôi nhìn lại những giai đoạn rắc rối nhất của cuộc đời mình, cũng như của cuộc đời những người mà tôi thương yêu nhất. Đây là câu chuyện kể về tôi, khi còn là một cô gái mười sáu tuổi, đã đi tìm cha mình và quá khứ của ông, chuyện ông đã lao đi tìm kiếm vị giáo sư thông tuệ của mình, lần lại quá khứ của vị giáo sư đó như thế nào, và chuyện tất cả chúng tôi bằng cách nào đã tình cờ tìm thấy chính mình đi chung một trong những lối mòn tăm tối nhất dẫn vào lịch sử. Đây là câu chuyện về những người còn sống sót sau hành trình tìm kiếm đó, về những người không trở về, và lý do vì sao. Là một sử gia, tôi đã học được rằng, trên thực tế, không phải bất kỳ ai cũng có thể sống sót sau cuộc lần tìm về quá khứ. Và không phải chỉ hành động truy ngược lại lịch sử mới gây nguy hiểm cho chúng ta; đôi khi bản thân lịch sử cũng lạnh lùng vươn những móng vuốt đen tối của nó về phía trước chực tóm lấy chúng ta.
Trong ba mươi sáu năm kể từ khi những biến cố này diễn ra, cuộc đời tôi tương đối yên bình. Tôi đã dành trọn đời mình cho việc nghiên cứu, cho những chuyến du lịch yên ả, cho sinh viên và bằng hữu, cho việc viết những cuốn sách đậm chất lịch sử và hầu như khô khan, và cho những công việc của trường đại học mà tôi đã xem như nơi trú ẩn tối hậu của mình. Trong quá trình nhìn nhận lại quá khứ, tôi thật may mắn khi được quyền sử dụng những tài liệu riêng tư có liên quan, bởi nhiều năm qua chúng vẫn thuộc sở hữu của tôi. Khi cảm thấy thích hợp, tôi đã ghép nối chúng lại với nhau thành một chuyện kể liên tục, thỉnh thoảng cũng bổ sung đôi điều từ những hồi tưởng của riêng mình. Mặc dù đã thuật lại nguyên văn những câu chuyện đầu tiên của cha tôi, nhưng tôi vẫn lấy khá nhiều chi tiết từ các lá thư của ông, và một số trong đó trùng khớp với nội dung những câu chuyện ông kể.
Nhằm phục hồi nguyên vẹn những nguồn tư liệu này, tôi đã thử đi hết mọi nẻo đường sưu tầm và nghiên cứu, đôi khi phải về thăm một địa điểm xưa cũ để làm sáng tỏ lại một số vùng ký ức đã nhạt phai của mình. Một trong những niềm vui lớn nhất của công việc này là các cuộc phỏng vấn - và trong vài trường hợp là những trao đổi qua lại bằng thư từ - mà tôi thực hiện với một số ít học giả hiện vẫn còn sống có liên quan đến các sự kiện được kể ra trong câu chuyện này. Ký ức của họ là nguồn bổ sung vô giá cho những nguồn tư liệu khác của tôi. Ngoài ra, tác phẩm này của tôi còn nhận được sự đóng góp của nhiều học giả trẻ thuộc nhiều lĩnh vực.
Còn có một nguồn tư liệu cuối cùng mà tôi viện đến khi cần thiết nữa - trí tưởng tượng. Tôi đã làm việc này một cách rất cẩn thận, chỉ tưởng tượng ra cho độc giả những gì mà tôi biết rõ là rất có khả năng xảy ra, và ngay cả trong trường hợp đó tôi cũng chỉ tưởng tượng khi một suy đoán có căn cứ có thể đưa những hư cấu này vào văn cảnh thích hợp. Ở những chỗ không thể giải thích được sự kiện hoặc động cơ, tôi đã để chúng lại mà không giải thích, do tôn trọng những thực tại bị che khuất của chúng. Với những chi tiết lịch sử lâu đời hơn trong câu chuyện này, tôi đã nghiên cứu rất cẩn thận, như làm với bất kỳ tác phẩm hàn lâm nào. Những chỗ nhắc qua về mâu thuẫn tôn giáo và lãnh thổ giữa một phương Đông Hồi giáo và phương Tây Do Thái-Thiên Chúa giáo sẽ quen thuộc đến đau lòng đối với độc giả hiện đại.
Đối với tôi, thật khó tỏ lòng tri ân thích đáng tất cả những người đã góp phần giúp đỡ việc hình thành tác phẩm này, nhưng ít nhất tôi cũng xin phép nêu tên một vài người. Lòng biết ơn sâu sắc của tôi xin gửi đến những vị sau đây, trong số nhiều người khác nữa: Tiến sĩ Radu Georgescu - Viện Bảo tàng Khảo cổ học thuộc Đại học Bucharest, Tiến sĩ Ivanka Lazarova - Viện Hàn lâm Khoa học Bungari, Tiến sĩ Petar Stoichev - Đại học Michigan, tập thể cán bộ và nhân viên rất nhiệt tình của Thư viện Anh quốc, các nhân viên thư viện của Viện Bảo tàng Văn học Rutherford và Thư viện Philadelphia, Cha Vasil của Tu viện Zographou trên núi Athos, và Tiến sĩ Turgut Bora - Đại học Istanbul.
Niềm hy vọng lớn lao của tôi khi viết câu chuyện này là nó có thể tìm được ít nhất một độc giả hiểu được câu chuyện thực sự là gì: một tiếng gọi từ trái tim. Xin được gửi đến bạn, độc giả tri kỷ, câu chuyện của đời tôi.
Oxford, nước Anh
Ngày 15 tháng Một, năm 2008
PHẦN I
Trình tự sắp xếp những tài liệu này sẽ trở nên rõ ràng trong khi đọc. Mọi vấn đề không cần thiết đã được loại bỏ, sao cho một câu chuyện hầu như mâu thuẫn với những khả năng mà người đời sau tin tưởng có thể hiên ngang đứng vững như một sự thật giản đơn. Tuyệt đối không có sự khẳng định nào về những điều xảy ra trong quá khứ, những điều có thể sai lạc do trí nhớ, bởi tất cả các ghi chép được chọn ở đây đều hoàn toàn mang tính đương thời, được đưa ra từ quan điểm và trong phạm vi kiến thức của những người tạo ra chúng.
• Bram Stoker, Dracula, 1897
1
◄○►
Năm 1972, tôi bước vào tuổi mười sáu - cha bảo tôi hãy còn quá nhỏ, chưa thể đi cùng cha trong những chuyến công cán ngoại giao. Cha muốn biết chắc là tôi đang ngồi nghe giảng chăm chú trong lớp tại Trường Quốc tế Amsterdam hơn; thời kỳ đó cơ quan của cha tôi đặt tại Amsterdam, nên thành phố ấy trở thành nhà của tôi trong một thời gian dài, đến độ tôi hầu như quên hẳn cuộc sống ở Mỹ trước đó. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy kỳ lạ là mình đã ngoan ngoãn đến thế suốt thời niên thiếu: trong khi những người khác cùng thế hệ đều đắm chìm trong ma túy, hoặc biểu tình phản đối cuộc chiến tranh đế quốc ở Việt Nam, tôi đã lớn lên trong một thế giới được bảo bọc kỹ đến độ cuộc sống thành niên trong giới tri thức của tôi cũng có vẻ gì đó sặc mùi phiêu lưu mạo hiểm. Tôi vốn mồ côi mẹ, nhưng được cha chăm sóc chu đáo bằng một ý thức trách nhiệm gấp đôi mà nếu không có nó ông đã chẳng bảo bọc tôi tuyệt đối đến thế. Mẹ tôi mất khi tôi còn rất nhỏ, trước khi cha thành lập Trung tâm vì Dân chủ và Hòa bình. Cha không bao giờ nói về mẹ và thường lặng lẽ nhìn đi nơi khác mỗi khi tôi hỏi han; từ nhỏ tôi đã hiểu rằng đối với cha, đó là một chủ đề quá đau đớn để bàn luận. Thay vào đó, cha đích thân đặc biệt chăm nom tôi, đồng thời cung cấp cho tôi một loạt nữ gia sư và quản gia - tiền bạc không thành vấn đề đối với cha trong những việc liên quan đến chuyện giáo dục tôi, cho dù chúng tôi chỉ sống giản dị đắp đổi qua ngày.
Người quản gia sau cùng là bà Clay, đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc căn nhà chật hẹp kiểu thế kỷ mười bảy của chúng tôi bên bờ kênh Raamgracht, con kênh chính giữa trung tâm thành phố cổ kính này. Hàng ngày, bà Clay mở cửa cho tôi vào nhà khi tôi đi học về và thế vai phụ huynh của tôi khi cha đi xa, đây là việc bà phải thường xuyên đảm nhiệm. Bà là người Anh, lớn tuổi hơn mẹ, khéo léo với cây phất trần nhưng vụng về với bọn trẻ tuổi loi choi chúng tôi; đôi khi, nhìn gương mặt già nua lộ vẻ thương hại của bà ở phía bên kia bàn ăn, tôi có cảm tưởng bà hẳn đang nghĩ mình là mẹ tôi và tôi đâm ra ghét bà vì điều đó. Khi cha đi vắng, ngôi nhà xinh đẹp cũng vắng lặng. Không còn ai có thể giúp tôi học môn đại số, không còn ai chiêm ngưỡng chiếc áo khoác mới hay bảo tôi lại đây ôm cha một cái nào, hoặc tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy tôi cao bổng lên quá nhanh. Khi quay về từ một địa danh nào đó có tên ghi trên tấm bản đồ châu Âu treo trên tường phòng ăn, người cha toát ra hương vị của những thời đại và những nơi chốn xa lạ, mùi gia vị và sự mệt mỏi. Chúng tôi đã từng đi nghỉ ở Paris và Rome, chăm chú quan sát các địa điểm mà cha nghĩ tôi nên xem, nhưng tôi chỉ khao khát được đến những nơi mà cha thường biệt tăm ở đó, những chốn kỳ lạ cổ xưa mà tôi chưa từng đến bao giờ.
Khi cha đi công tác, tôi chỉ đi học rồi lại về nhà, vứt đánh bịch chiếc cặp lên chiếc bàn bóng láng kê ngoài sảnh. Cả bà Clay lẫn cha đều không cho tôi ra ngoài vào buổi tối, ngoại trừ vài dịp đặc biệt họ cho phép tôi xem một bộ phim được kiểm duyệt cẩn thận cùng vài đứa bạn cũng được kiểm duyệt cẩn thận, và - thật ngạc nhiên khi hồi tưởng lại - tôi chưa bao giờ xem thường những quy định này. Dù sao tôi cũng thích sự cô độc; đó là môi trường mà tôi đã lớn lên, đã thoải mái ngụp lặn trong đó. Tôi xuất sắc trong học tập nhưng trong cuộc sống xã hội thì không. Bọn con gái cùng tuổi làm tôi kinh sợ, đặc biệt cái đám sành điệu ăn nói đanh đá, hút thuốc luôn mồm trong nhóm con cái gia đình ngoại giao chúng tôi - ở bên bọn chúng, tôi luôn cảm thấy chiếc váy mình đang mặc quá dài hoặc quá ngắn, hoặc mình nên mặc một thứ gì đó khác hẳn. Đám con trai thì làm tôi bối rối, mặc dù tôi cũng mơ hồ tơ tưởng đến cánh đàn ông. Thực ra, tôi thấy hạnh phúc nhất khi được ở một mình trong thư viện của cha, một căn phòng lớn và trang nhã ở tầng một trong nhà.
Thư viện của cha có lẽ một thời từng là phòng khách, nhưng một khi cha ngồi xuống thì chỉ là để đọc sách, nên ông xem trọng một thư viện lớn hơn một phòng khách lớn. Từ lâu, cha đã cho tôi được tự do sử dụng bộ sưu tập của ông. Suốt những lần cha vắng mặt, tôi ngồi làm bài tập hàng giờ đồng hồ tại chiếc bàn gỗ dái ngựa hoặc lục lọi trên các kệ sách kê dọc tường. Sau này, tôi hiểu đó là vì cha hoặc suýt quên mất có thứ gì trên các ngăn trên cùng - hoặc nhiều khả năng hơn - cho rằng tôi sẽ không bao giờ có thể với tới đó; nên một đêm khuya nọ tôi đã lấy xuống không chỉ một bản dịch cuốn Kama Sutra mà còn cả một cuốn sách cũ hơn thế nhiều và một phong bì có chứa những trang giấy ố vàng.
Thậm chí đến nay, tôi vẫn không thể nói điều gì đã khiến tôi kéo chúng xuống. Nhưng hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy ở giữa cuốn sách kia, cái mùi vị của năm tháng bốc lên từ đó, và phát hiện của tôi rằng những tờ giấy kia là những lá thư riêng, tất cả đều lôi cuốn óc tò mò của tôi dữ dội. Tôi biết mình không nên lục lọi những giấy tờ riêng tư của cha, hoặc của bất kỳ ai khác, vả lại tôi cũng sợ bà Clay có thể bất chợt vào phòng để lau chùi chiếc bàn không một chút bụi kia - đó hẳn là điều đã khiến tôi phải ngoái nhìn lại cửa ra vào. Nhưng tôi không thể cưỡng lại việc được cầm lấy lá thư trên cùng, đọc đoạn đầu tiên của nó trong lúc vẫn đứng bên giá sách.
Tháng Mười hai năm 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Tôi thấy rất tiếc khi hình dung ra cảnh bạn, dù bạn là ai, đang đọc bản miêu tả mà tôi phải viết dưới đây. Nỗi hối tiếc ấy cũng phần nào dành cho chính bản thân tôi - bởi chắc chắn, nếu lá thư này đang ở trong tay bạn, thì hẳn ít nhất tôi đang gặp rắc rối, có thể đã chết, hoặc có lẽ còn tồi tệ hơn. Nhưng tôi cũng tiếc cho bạn, người bạn mà giờ tôi còn chưa quen biết, bởi vì chỉ có người nào vô cùng cần đến thông tin khủng khiếp này thì một ngày nào đó mới đọc lá thư này. Nếu bạn không phải là người thừa kế của tôi, theo một cách hiểu khác, thì chẳng bao lâu nữa bạn sẽ là người thừa kế của tôi - tôi cảm thấy đau khổ vì đã truyền lại cho một sinh linh khác trải nghiệm của chính tôi, có lẽ là ghê tởm và không thể nào tin được, về cái ác. Tôi không biết vì sao bản thân mình lại thừa hưởng điều đó, nhưng hy vọng rốt cuộc sẽ khám phá được lý do - có thể trong thời gian viết cho bạn hoặc cũng có thể trong tiến trình các sự kiện khác sau này.
Đến lúc này, cảm giác phạm tội - và một điều gì khác nữa - đã khiến tôi vội vã nhét lá thư vào lại phong bì, nhưng tôi cứ nghĩ về nó suốt ngày hôm đó và cả những ngày kế tiếp. Cuối cùng, khi cha trở về sau chuyến công tác, tôi mong chờ có cơ hội để hỏi cha về những lá thư và cuốn sách kỳ lạ kia. Tôi chực chờ lúc cha rảnh rỗi, lúc chỉ có riêng hai cha con, nhưng hồi đó lúc nào cha cũng bận rộn, vả lại có điều gì đó ở những gì tôi phát hiện ra khiến tôi ngần ngại tiếp cận cha. Sau cùng, tôi đã nài nỉ cha cho tôi đi cùng trong chuyến công tác kế tiếp. Đó là lần đầu tiên tôi che giấu cha mình một điều bí mật và cũng là lần đầu tiên khăng khăng nài xin một việc gì.
Cha miễn cưỡng đồng ý. Ông đã nói chuyện với bà Clay và các giáo viên của tôi, cũng như nhắc nhở tôi rằng sẽ có vô khối thời gian cho tôi làm bài tập trong khi ông tham gia hội họp. Tôi chẳng hề ngạc nhiên; vì là con của một nhà ngoại giao, tôi đã quen với việc luôn phải chờ đợi. Tôi gói ghém đồ đạc vào chiếc vali màu xanh nước biển, mang theo những cuốn sách giáo khoa và một mớ tất sạch, loại dài đến đầu
gối. Sáng hôm đó, thay vì rời nhà đến trường, tôi đã khởi hành cùng cha, yên lặng và sung sướng bước bên ông đến nhà ga. Một chuyến tàu đưa chúng tôi đến Vienna; cha ghét máy bay, ông nói chúng đã tước đoạt cái thú đi lại của những chuyến du hành. Ở đó, chúng tôi đã trải qua một đêm ngắn trong một khách sạn. Một chuyến tàu khác đưa chúng tôi đến rặng Alps, ngang qua tất cả những đỉnh núi màu trắng xanh có tên trên tấm bản đồ ở nhà chúng tôi. Bên ngoài một nhà ga vàng vọt và bụi bặm, cha khởi động chiếc xe vừa mới thuê, còn tôi thì nín thở cho đến khi xe quẹo vào cổng một thành phố mà cha đã tả cho tôi nghe nhiều lần đến độ tôi đã từng mơ thấy nó.
Mùa thu đến sớm dưới chân dãy Alps ở đoạn thuộc Slovenia. Cho dù chưa đến tháng Chín, những vụ mùa bội thu đã được nối tiếp bằng những cơn mưa dầm bất chợt, kéo dài hàng ngày và làm lá rụng đầy trên đường làng. Giờ đây, đã ở tuổi năm mươi, tôi nhận ra cứ đôi ba năm một lần, tôi vẫn lang thang hướng về phương trời đó, hồi tưởng lại cái nhìn đầu tiên của mình về miền quê Slovenia. Đó là một xứ sở cổ kính. Mỗi mùa thu đến lại khiến nơi đây đằm thắm hơn một chút, in aerternu,[1] mùa thu nào cũng bắt đầu cùng với ba sắc màu: phong cảnh màu xanh cây, điểm xuyết đôi chiếc lá vàng rơi xuyên qua nền chiều xám. Tôi nghĩ, dân La Mã - những người đã để lại những bức tường thành ở đây và những đấu trường khổng lồ ở phía Tây, trên vùng duyên hải - hẳn cũng đã từng chứng kiến cùng cái mùa thu đó và cũng từng có cảm giác rùng mình như vậy. Tôi cảm thấy vô cùng thích thú khi xe chạy qua cổng những khu cổ kính nhất trong các đô thị từ thời Julius Ceasar. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm thấy choáng ngợp trước niềm phấn khích của một lữ khách khi được chiêm ngưỡng khuôn mặt tinh tế của lịch sử.
Bởi thành phố này là nơi câu chuyện của tôi bắt đầu, tôi sẽ gọi nó là Emona, danh xưng theo tiếng La Mã, để giấu nó ít nhiều khỏi đám du khách chỉ chăm chăm theo đuổi các phế tích khắp nơi cùng một cuốn sách hướng dẫn du lịch. Emona được xây dựng trên những tàn tích Thời đại Đồ Đồng, dọc theo một dòng sông mà hiện nay đôi bờ đã kín những công trình kiến trúc kiểu tân nghệ thuật xếp nối tiếp bên nhau. Suốt vài ngày sau đó, chúng tôi bách bộ qua tòa thị chính, ngang qua những ngôi nhà mang phong cách thế kỷ mười bảy được điểm tô những khóm hoa huệ màu bạc, ngang qua mặt sau màu vàng chóe của một ngôi chợ lớn với các bậc thang nối từ những cánh cửa cũ kỹ có then cài nặng nề dẫn xuống tận bờ sông. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, nơi đây đã phát triển ngành vận tải đường sông để nuôi sống thành phố. Và trên bờ, nơi những túp lều nguyên sơ từng mọc lên như nấm sau mưa, loài sung dâu - cây tiêu huyền của châu Âu - giờ đây mọc thành một vòm bát ngát trên những bức tường bao dọc bờ sông, buông những cụm vỏ cây quăn queo xuống dòng nước.
Gần khu chợ, quảng trường chính của thành phố trải rộng dưới bầu trời u ám. Emona, giống như những thành phố chị em của mình ở phương Nam, phô bày những đường nét hoa mỹ của một quá khứ lắm đổi thay và nhiều màu sắc: phong cách kiến trúc Viennese Deco ở khắp các tòa nhà dọc theo đường chân trời, những ngôi nhà thờ đồ sộ màu đỏ thời Phục hưng của dân Thiên Chúa giáo nói tiếng Xlavơ, những nhà nguyện nhỏ thời Trung cổ màu nâu thấp lè tè với những đặc trưng của kiến trúc Quần đảo Anh. (Thánh Patrick đã phái các nhà truyền giáo đến khu vực này để đưa tín ngưỡng còn mới mẻ ở đây đi đúng một vòng, về lại cội nguồn Địa Trung Hải của nó, để thành phố này có lịch sử Thiên Chúa giáo xưa nhất Âu châu). Đây đó, người ta bắt gặp một nét kiến trúc Ottoman ở những cửa ra vào hoặc trong một khung cửa sổ nhọn đầu. Kế bên các khu đất chợ, một ngôi nhà thờ nhỏ kiểu Áo rung chuông báo đã đến buổi cầu nguyện chiều. Đàn ông và đàn bà, mặc áo khoác lao động vải bông xanh, cầm dù che trên túi xách, đang trở về nhà sau một ngày làm việc. Khi xe vào trung tâm Emona, chúng tôi băng qua sông trên một cây cầu cổ xinh đẹp với những chú rồng da xanh bằng đồng đứng canh gác ở hai đầu.
“Lâu đài kia kìa,” cha nói, cho xe chậm lại bên rìa quảng trường và trỏ tay qua màn mưa. “Cha biết con sẽ muốn tham quan lâu đài đó.”
Tôi rất muốn xem. Tôi rướn người hết cỡ, nghển cổ cho đến lúc thấy được khung cảnh tòa lâu đài qua những cành cây sũng nước - những ngọn tháp cũ kỹ trên một đồi dốc giữa trung tâm thành phố. “Thế kỷ mười bốn,” cha thì thầm. “Hay là mười ba nhỉ? Cha không rành lắm về những phế tích thời Trung cổ này, không nhớ chính xác đến thế kỷ. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy trong sách hướng dẫn.” “Chúng ta có thể lên đó thám hiểm chút được không cha?”
“Chúng ta có thể khám phá nơi đó vào ngày mai, sau các buổi họp của cha. Những ngọn tháp kia trông có vẻ như chỉ cần một con chim đậu vào thôi cũng không trụ nổi, nhưng ai mà biết được.” Dừng xe lại trong bãi đậu xe gần tòa thị chính, và bằng bàn tay xương xẩu vẫn còn mang găng tay da, cha giúp tôi ra khỏi xe với vẻ lịch thiệp. “Còn khá sớm để đăng ký phòng khách sạn. Con có muốn uống một chút trà nóng không? Hoặc chúng ta có thể dùng một bữa ăn nhẹ tại cái gastronomia[2] kia. Trời đang mưa to hơn đấy,” cha nghi ngại nói tiếp, nhìn vào chiếc áo khoác và váy len của tôi. Tôi vội vàng lôi ra chiếc áo choàng có mũ trùm đầu không thấm nước mà năm ngoái cha đã mang từ Anh về cho tôi. Chuyến tàu từ Vienna mất gần một ngày và tôi đã lại đói bụng, dù đã được ăn trưa trên tàu. Nhưng thứ cám dỗ chúng tôi không phải là cái gastronomia, với những ngọn đèn nội thất xanh đỏ lập lòe chiếu qua một khung cửa sổ xám xịt, những cô phục vụ bàn mang xăng đan cao gót đế bục màu xanh lính thủy - chắc thế - và bức chân dung sưng sỉa của Đồng chí Tito. Lúc đang tìm đường lách qua đám đông ướt sũng, bất chợt cha lao về phía trước. “Đây rồi!” tôi chạy theo, chiếc mũ trùm đầu bay lật phật làm tôi gần như không thấy gì. Cha đã tìm thấy lối vào một quán trà xây theo kiểu tân nghệ thuật, một cửa sổ cuốn lớn có hình những cánh cò đang lặn lội ngang qua, những cánh cửa bằng đồng có hình dạng một trăm cuống hoa súng. Cửa nặng nề đóng lại phía sau chúng tôi và cơn mưa mờ dần thành một màn sương, không hơn gì chút hơi nước trên kính cửa sổ, nhìn qua những cánh chim màu bạc kia giống như một màn nước mờ ảo. “Thật đáng ngạc nhiên khi quán này vẫn tồn tại được suốt ba mươi năm qua.” Cha trút bỏ ‘lớp sương mù thành Luân Đôn' của mình. “Chủ nghĩa xã hội không phải lúc nào cũng tử tế với những kho báu của mình như thế.”
Tại một bàn ăn gần cửa sổ, chúng tôi uống trà chanh, hơi nóng tỏa qua chiếc cốc dày cộp, ăn một mạch hết mớ cá trích cùng bánh mì trắng phết bơ và thậm chí ráng thêm vài lát torta. “Chúng ta nên dừng ở đây,” cha nói. Gần đây, tôi đâm ra ghét cái cách cha cứ thổi phù phù để làm nguội tách trà của mình và khiếp sợ cái khoảnh khắc không thể tránh khỏi khi cha nói chúng tôi nên ngừng ăn, một việc làm thú vị, để dành bụng cho bữa tối. Nhìn cha trong chiếc áo vest vải tuýt trang nhã và áo len cổ lọ, tôi có cảm tưởng bản thân cha đã từ chối dấn thân vào mọi cuộc phiêu lưu trong cuộc sống, ngoại trừ nghề ngoại giao, thứ đã nuốt trọn đời ông. Lẽ ra cha đã có thể sống vui hơn một chút, tôi nghĩ; với cha, mọi chuyện đều nghiêm túc quá.
Nhưng tôi đã im lặng, bởi tôi biết cha không thích lời bình phẩm này nọ của tôi, vả lại tôi cũng đang có chuyện để hỏi. Trước tiên, tôi để cha uống xong tách trà, rồi ngả người ra sau, tựa lưng vào thành ghế, vừa đủ để cha không thể bảo tôi đừng có ngả ngớn thế. Qua khung cửa sổ lốm đốm ánh bạc, tôi có thể nhìn thấy thành phố ướt át, u ám trong bóng chiều dần buông và những bóng người vội vã băng đi dưới màn mưa. Quán trà, lẽ ra phải đông nghẹt các quý bà trong những bộ đầm dài bằng vải sa mỏng màu ngà, hoặc các quý ông với những bộ râu nhọn hoắt mặc áo khoác nhung cổ lọ, giờ đây vắng tanh.
“Cha không ngờ việc lái xe lại làm cho mình kiệt sức đến như vậy,” cha đặt cốc xuống và đưa tay chỉ tòa lâu đài, chỉ thấy lờ mờ qua màn mưa. “Kia là hướng chúng ta vừa đến từ đó, sườn bên kia ngọn đồi. Từ trên đỉnh đồi, chúng ta có thể nhìn thấy dãy Alps.”
Tôi nhớ lại những sườn núi phủ đầy tuyết trắng và cảm thấy như chúng đang thở phập phồng bên trên thành phố. Bây giờ, chỉ còn mình chúng tôi bên nhau trên phía triền xa của chúng. Tôi ngần ngại, hít vào một hơi. “Cha sẽ kể cho con nghe một câu chuyện chứ?” Những câu chuyện kể là một trong những nguồn an ủi mà cha vẫn thường hay dành cho đứa con mồ côi mẹ của ông; một số câu chuyện được cha rút ra từ thời thơ ấu hạnh phúc của ông ở Boston, một số từ những chuyến du hành hải ngoại. Một số được cha ứng khẩu hư cấu nên, nhưng gần đây tôi đã chán ngấy, nhận ra chúng chẳng có gì lạ lùng, hay ho như tôi từng nghĩ.
“Một câu chuyện về dãy Alps nhé?”
“Dạ không.” Tôi cảm thấy dâng trào một cảm giác sợ hãi không thể giải thích. “Con muốn hỏi về vài thứ mà con đã tìm thấy.”
Cha quay lại nhìn tôi dịu dàng, đôi hàng lông mày bạc nhướng lên trên đôi mắt màu xám. “Ở trong thư viện của cha,” tôi nói. “Con xin lỗi… con đã lục lọi lung tung và tìm thấy vài thứ giấy tờ
và một cuốn sách. Con đã không xem… gì nhiều… mấy giấy tờ ấy. Con nghĩ…” “Một cuốn sách?” Cha vẫn dịu dàng, tìm kiếm trong cốc một giọt trà cuối cùng, chỉ nghe một cách lơ đãng.
“Chúng có vẻ… cuốn sách đó rất cũ, ở giữa có in hình một con rồng.”
Cha ngồi nghiêng về phía trước, thinh lặng, rồi rõ ràng cha rùng mình. Thái độ kỳ lạ này đánh động tôi ngay tức khắc. Nếu đây lại là một câu chuyện, hẳn nó sẽ chẳng giống bất kỳ câu chuyện nào mà cha đã từng kể với tôi. Cha liếc nhìn tôi dưới hàng lông mày bạc, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy cha có vẻ vô cùng buồn rầu và chán nản.
“Cha giận à?” đến lượt tôi cũng nhìn vào tách trà của mình.
“Không đâu, con yêu.” Cha thở ra thật dài, một âm thanh nghe như nỗi sầu khổ nào đó đang được khơi gợi lại. Cô hầu bàn tóc vàng nhỏ nhắn lại rót đầy những chiếc tách rồi để chúng tôi lại một mình, và một cách khó nhọc, cha bắt đầu.
2
◄○►
Như con đã biết, cha nói, trước khi con ra đời cha từng là giáo sư tại một trường đại học Mỹ. Trước đó, cha đã học hành, nghiên cứu nhiều năm trời để trở thành một giáo sư. Thoạt tiên, cha nghĩ sẽ theo học ngành văn chương. Tuy nhiên, sau đó cha nhận ra mình yêu thích những chuyện có thực hơn là những chuyện hư cấu. Tất cả những câu chuyện văn chương mà cha đọc đều dẫn dắt cha tới, gần như thế, việc thám hiểm lịch sử. Vậy nên rốt cuộc cha đã dành cả đời cho nó. Và cha cũng rất vui vì con cũng quan tâm đến lịch sử.
Vào một đêm mùa xuân, lúc cha vẫn còn là nghiên cứu sinh, cha đang ở trong ngăn làm việc riêng của mình tại thư viện trường đại học, ngồi một mình giữa hàng hàng lớp lớp sách vở. Ngẩng lên từ chỗ làm việc, cha chợt nhận ra có ai đó đã để lại một cuốn sách, cha chưa thấy nó xuất hiện giữa những cuốn sách giáo khoa xếp trên ngăn kệ phía trên bàn mình bao giờ. Gáy cuốn sách lạ này có hình một con rồng nhỏ xinh xắn, màu xanh lá trên nền bìa da xám nhạt.
Cha không nhớ đã bao giờ thấy cuốn sách này ở chỗ đó, hoặc bất kỳ nơi nào khác, vì vậy cha lấy nó xuống, đọc lướt qua, thực sự chẳng mấy để tâm. Bìa sách làm bằng da mềm, đã bạc màu, những trang bên trong có vẻ đã khá cũ. Cuốn sách mở ra ngay trang chính giữa rất dễ dàng. Trên hai trang ấy, cha nhìn thấy một bức tranh khắc gỗ in hình một con rồng xòe cánh, đuôi dài cong lên, một con mãnh thú nhe nanh múa vuốt đầy vẻ thịnh nộ. Móng vuốt của con rồng lủng lẳng một tiêu đề chỉ có một chữ độc nhất viết bằng mẫu tự Gothic: DRAKULYA.
Cha hiểu ngay chữ đó và liên tưởng đến cuốn tiểu thuyết của Bram Stoker dù chưa từng đọc qua, liên tưởng đến những đêm thời thơ ấu của mình trong rạp chiếu bóng gần nhà: Béla Lugosi[3] đang chực chờ phía trên chiếc cổ trắng ngần của một diễn viên trẻ nào đó. Nhưng cách viết của từ đó thật kỳ lạ và cả cuốn sách rõ ràng rất xưa. Hơn nữa, vì là một học giả quan tâm sâu sắc đến lịch sử châu Âu nên sau khi đăm đăm nhìn nó một lát, cha nhớ lại một vấn đề đã từng đọc qua. Danh xưng đó thực sự xuất phát từ nguồn gốc Latin của chữ dragon - rồng hoặc devil - ác quỷ, danh hiệu cao quý dành cho Vlad Ţepeş - biệt danh “Kẻ Xiên Người” - của Wallachia, một lãnh chúa phong kiến vùng núi Carpates, chuyên tra tấn thần dân và tù binh chiến tranh của hắn bằng những phương cách tàn bạo khó có thể tin được. Hồi đó cha đang nghiên cứu về chủ đề giao thương ở Amsterdam thế kỷ mười bảy, vì vậy cha thấy không có lý do gì một cuốn sách như vậy lại có thể để lẫn lộn được giữa những sách chuyên môn của mình, và liền cho rằng hẳn nó đã bị bỏ ở đó một cách tình cờ, có lẽ bởi một người nào đó đang nghiên cứu về lịch sử Trung Âu, hoặc về những biểu tượng thời phong kiến.
Cha lật tiếp những trang còn lại - đối với những người thường xuyên đụng đến sách vở hàng ngày như cha, mỗi cuốn sách mới là một người bạn và cũng là một cám dỗ. Trước sự ngạc nhiên của cha, phần còn lại của cuốn sách - tất cả những trang giấy xinh đẹp màu ngà cổ xưa ấy - hoàn toàn trống trơn. Thậm chí một trang bìa giả cũng không có và dĩ nhiên chẳng có thông tin nào về địa điểm và thời gian cuốn sách được in, không bản đồ, không trang trắng đầu hay cuối sách, không hình minh họa. Nó cũng không có dấu vết gì của thư viện trường đại học, không thẻ hay dấu đóng hay nhãn sách.
Nhìn chăm chăm thêm một lúc lâu, cha đặt cuốn sách lên bàn và đi xuống tủ thẻ danh mục sách ở tầng một. Ở đó quả thực cũng có một thẻ mục về chủ đề “Vlad III (Ţepeş) xứ Wallachia, từ 1431 đến 1476 - xem thêm Wallachia, Transylvania và Dracula.” Cha nghĩ trước tiên mình phải tra lại bản đồ đã; cha nhanh chóng phát hiện ra Wallachia và Transylvania là hai khu vực cổ hiện thuộc nước Rumani. Transylvania trông có vẻ nhiều núi non hơn, Wallachia nằm tiếp giáp ở phía Tây Nam Transylvania. Trên các giá sách,
cha tìm thấy cái có vẻ là nguồn tra cứu quan trọng duy nhất về chủ đề này. Một bản dịch tiếng Anh ngắn, kỳ lạ, có từ những năm 1890 của một số sách nhỏ nói về “Drakula”. Nguyên bản những cuốn sách này được in ở Nuremberg vào các thập niên 1470 và 1480. Nhắc đến Nuremberg, cha chợt rùng mình; vài năm trước đó thôi, cha từng theo dõi sát sao các phiên tòa xét xử lãnh tụ Đức Quốc xã diễn ra ở đó. Khi chiến tranh kết thúc, cha hãy còn quá trẻ và còn một năm nữa mới đủ tuổi phục vụ trong quân đội, vì vậy cha đã nghiên cứu những hậu quả của cuộc chiến với tất cả nhiệt tâm của một người ngoài cuộc. Các cuốn sách nhỏ đó có một bức tranh ở trang bìa, một bức phác thảo khắc gỗ bán thân một người đàn ông, cổ như cổ bò mộng, hai mắt đen híp lại, râu mép dài, đội mũ có gắn lông chim. Bức tranh sinh động một cách kỳ lạ, dù phương tiện in ra nó lúc ấy chắc hẳn còn rất thô sơ.
Dù biết mình cần trở lại làm tiếp việc đang dở nhưng cha đã không thể ngăn mình đọc đoạn mở đầu của một trong những tập sách mỏng kia. Đó là bản liệt kê một số tội ác của Dracula đối với người dân nước hắn, cũng như đối với vài nhóm người khác. Cha có thể kể lại những gì có trong bản liệt kê đó, theo trí nhớ, nhưng cha sẽ không kể - chúng cực kỳ kinh khủng. Cha đóng ập cuốn sách nhỏ lại và trở về ngăn làm việc của mình. Thế kỷ mười bảy lại thu hút hết tâm trí của cha cho đến gần nửa đêm hôm ấy. Cha để cuốn sách kỳ lạ lại trên bàn, hy vọng hôm sau chủ nhân của nó sẽ tìm thấy nó ở đó, rồi trở về nhà để ngủ.
Buổi sáng cha phải tham dự một lớp học khác. Mệt nhoài vì thức khuya, nhưng sau buổi học cha uống hai cốc cà phê rồi trở lại ngay với công trình nghiên cứu của mình. Cuốn sách cổ vẫn còn đó, và mở ra ngay chỗ con rồng cuộn tuyệt vời kia. Sau một giấc ngủ ngắn và bữa trưa khó chịu chỉ toàn cà phê, cha tỉnh người lại, theo kiểu những cuốn tiểu thuyết xưa thường nói. Cha lại nhìn cuốn sách, cẩn thận hơn. Tấm hình ở giữa rõ ràng là một bức tranh khắc gỗ, có lẽ là một mẫu thiết kế thời Trung cổ, một ví dụ tinh tế của nghề làm sách. Cha nghĩ có thể nó có giá trị về phương diện tiền bạc, hoặc có thể cũng có giá trị riêng tư đối với một số học giả nào đó, bởi vì rõ ràng nó không phải là sách của thư viện.
Nhưng trong tâm trạng đó, cha không thích vẻ bên ngoài của cuốn sách. Cha nóng nảy đóng ập nó lại và ngồi viết về phường hội thương nhân đến tận chiều muộn hôm đó. Trên đường ra khỏi thư viện, cha đã dừng lại ở quầy trước và trao cuốn sách cho một thủ thư, ông hứa sẽ đặt nó vào ngăn sách thất lạc.
Tám giờ sáng hôm sau, lúc cha hấp tấp đến ngăn làm việc của mình để nghiên cứu thêm một chút thì lại thấy cuốn sách đã nằm trên bàn, mở ngay ra chỗ hình minh họa dữ tợn và độc nhất của nó. Cha cảm thấy khá bực mình - có lẽ người thủ thư kia đã hiểu nhầm cha. Cha để lại nó lên giá sách, rồi cứ đi đi về về suốt ngày mà không thèm để mắt đến nó. Cuối chiều hôm đó, cha có hẹn với giáo sư hướng dẫn, và khi thu xếp mớ giấy tờ cha đã lôi cuốn sách lạ lùng kia ra để thêm nó vào chồng sách sẽ mang theo. Đây là một hành động bột phát; cha không có ý muốn giữ cuốn sách, nhưng giáo sư Rossi là người rất thích các bí ẩn của lịch sử, nên cha nghĩ có thể ông sẽ vui khi thấy cuốn sách. Ngoài ra, với kiến thức đồ sộ về lịch sử Âu châu của mình, biết đâu ông còn có thể nhận dạng được cuốn sách nữa.
Cha có thói quen gặp giáo sư Rossi khi ông đã kết thúc bài giảng buổi chiều, cha thích lẻn vào giảng đường trước khi bài giảng kết thúc để nhìn ông làm việc. Học kỳ này, ông giảng về vùng Địa Trung Hải cổ, và cha đã nghe được đoạn cuối của nhiều bài giảng, đoạn nào cũng xuất sắc và gây ấn tượng mạnh mẽ, thể hiện rõ rệt năng khiếu hùng biện tuyệt vời của ông. Lúc đó, cha rón rén đến một chỗ ngồi cuối giảng đường, vừa kịp nghe ông kết thúc cuộc thảo luận về việc Ngài Arthur Evans trùng tu cung điện Minoan ở đảo Crete. Giảng đường sáng mờ mờ, một thính phòng khổng lồ kiểu Gothic chứa năm trăm sinh viên. Cả sự tĩnh lặng của nó cũng rất giống với một giáo đường. Không một ai cử động; tất cả mọi cặp mắt đều dán chặt vào hình dáng thanh mảnh ở phía trước.
Một mình thầy Rossi đứng trên bục giảng sáng ánh đèn. Đôi lúc, ông thơ thẩn đi tới đi lui, lẩm bẩm những ý tưởng trong đầu, tựa như đang một mình trầm ngâm suy tưởng trong phòng làm việc riêng. Đôi lúc, ông bất chợt ngưng bài giảng, nhìn trừng trừng vào đám sinh viên, một cử chỉ đầy tính thuyết phục, một lời tuyên bố gây sửng sốt. Ông chẳng cần bục giảng, không cần micro, chẳng bao giờ ghi bảng, dù thỉnh thoảng vẫn dùng máy chiếu, sử dụng một cái gậy chỉ trỏ lên màn hình khổng lồ để trình bày rõ quan điểm của mình. Đôi lúc, ông kích động đến độ đưa cả hai cánh tay lên trời mà chạy băng qua một phần bục giảng. Có giai thoại rằng có lần ông đã té nhào về phía trước trong lúc đang say sưa giảng về sự khai hoa nở nhụy của nền dân chủ Hy Lạp, sau đó ông vừa lồm cồm bò dậy vừa tiếp tục bài giảng, không ngắt
quãng chút nào. Cha chẳng bao giờ dám hỏi ông chuyện đó có thật hay không.
Hôm đó, ông có vẻ rất suy tư, đi tới đi lui, hai tay chắp sau lưng. “Xin nhớ cho là, Ngài Arthur Evans đã xây dựng lại lâu đài của Vua Minos ở Knossos một phần theo những gì được ông ta tìm thấy ở đó và một phần theo trí tưởng tượng của riêng ông ta, theo nhận thức của ông ta về cái đã từng là nền văn minh Minoan.” Ông ngẩng đầu lên nhìn chăm chú vào mái vòm giảng đường. “Tư liệu còn lại rất ít và tản mác, Ngài Arthur đã phải đối phó với rất nhiều vấn đề bí ẩn. Thay vì bám theo sự chính xác có giới hạn này, ông đã sử dụng trí tưởng tượng của mình để sáng tạo một kiểu mẫu cung điện cực kỳ ngoạn mục - và thiếu sót. Phải chăng ông ta đã sai khi hành động như vậy?”
Đến đây giáo sư Rossi dừng lại, đăm chiêu nhìn xuống một biển những mái đầu bù xù, bò liếm, húi cua, những chiếc áo khoác thể thao mài sờn rách và những khuôn mặt trai trẻ nghiêm nghị (con nên nhớ, thời đó chỉ con trai mới được học tại một trường đại học như vậy, mặc dù con, con gái yêu của cha, hiện nay có thể đăng ký học tại bất kỳ trường đại học nào con thích). Năm trăm đôi mắt nhìn chăm chăm vào ông. “Tôi để các bạn suy nghĩ về câu hỏi đó.” Thầy Rossi mỉm cười, đột ngột quay đi, rời khỏi ánh đèn sân khấu.
Một khoảnh khắc nín thở; rồi các sinh viên bắt đầu cười nói, thu dọn sách vở. Thầy Rossi thường đến ngồi ở rìa bục giảng sau mỗi buổi dạy, một số sinh viên háo hức chạy đến bên ông để thắc mắc, hỏi han này nọ. Ông giải đáp cặn kẽ cho tất cả, theo một cách vừa nghiêm túc vừa dí dỏm, cho đến khi sinh viên cuối cùng tạm biệt, đó là lúc cha tiến đến chào hỏi ông.
“Chào anh bạn Paul! Ta nghỉ ngơi và thực tập nói tiếng Hà Lan đi nào.” Ông thân mật vỗ vai cha và hai người chúng ta cùng bước đi.
Phòng làm việc của thầy Rossi luôn làm cha thích thú vì nó đối lập hẳn với những gì người ta vẫn nghĩ về phòng làm việc của một giáo sư: sách vở xếp đặt ngay ngắn trên giá, một ấm nhỏ đun cà phê kiểu hiện đại đặt bên cạnh cửa sổ, sẵn sàng đáp ứng thói quen của ông, cây cảnh trang trí cho bàn làm việc không bao giờ thiếu nước tưới, và bản thân ông lúc nào cũng chỉnh tề với quần vải tuýt, áo sơ mi trắng tinh luôn kèm cà vạt. Gương mặt ông có đường nét lạnh lùng của người Anh, góc cạnh với đôi mắt xanh biếc; có lần ông thổ lộ cùng cha là đã thừa hưởng tính thích ăn ngon từ cha của mình, một người Tuscan di cư đến Tussex. Nhìn mặt thầy Rossi, người ta có thể thấy một sự chuẩn xác và trật tự thường có ở những phiên đổi gác của vệ binh Cung điện Buckingham.
Nhưng tâm trí ông lại là chuyện hoàn toàn khác. Thậm chí sau bốn mươi năm miệt mài mài giũa chính mình, nó vẫn còn sôi sục với những gì còn lại của quá khứ, cháy bỏng với những vấn đề chưa được giải quyết. Từ lâu, các tác phẩm bách khoa toàn thư của ông đã mang lại cho ông danh tiếng trong thế giới xuất bản rộng lớn, chứ không chỉ giới hạn trong những ấn phẩm học thuật chuyên ngành. Ngay khi hoàn thành một công trình nào đó, ông chuyển ngay qua một công trình khác, và thường là một sự chuyển hướng đột ngột. Kết quả là, sinh viên từ đủ mọi chuyên khoa đều đổ xô tìm đến ông, và cha được xem là may mắn khi được ông hướng dẫn. Ông cũng là người bạn tốt nhất và nồng nhiệt nhất mà cha có được.
“Thế nào,” ông lên tiếng, bật ấm đun cà phê rồi vẫy tay mời cha ngồi xuống ghế. “Tác phẩm nghệ thuật đến đâu rồi?”
Cha nộp cho ông kết quả công trình của nhiều tuần lễ làm việc, và hai thầy trò đã có một cuộc tranh luận ngắn về vấn đề giao thương đầu thế kỷ mười bảy giữa Utrecht và Amsterdam. Ông rót thứ cà phê hảo hạng vào cốc sứ rồi cả hai tựa lưng vào ghế, có điều ông ngồi phía sau bàn làm việc. Vào giờ đó, căn phòng vẫn tràn ngập thứ ánh sáng lờ mờ dễ chịu, khi mùa xuân vào độ chín thì buổi tối cũng thường tới muộn hơn. Rồi cha chợt nhớ đến món tặng phẩm cổ xưa của mình. “Thầy Rossi, tôi mang đến cho thầy một thứ của hiếm đây. Ai đó đã để nhầm trong ngăn làm việc của tôi một thứ khá kỳ quái, đã hai ngày rồi và hôm nay tôi không ngại mượn tạm để mang nó đến cho thầy xem.”
“Đưa tôi xem nào.” Ông đặt chiếc cốc mỏng manh xuống và chìa tay đón lấy cuốn sách. “Bìa sách tốt đấy. Loại da này có thể đúng là da thuộc thô. Gáy sách chạm nổi.” Một cái gì đó trên gáy sách làm khuôn mặt thường vẫn bình thản của ông cau lại.
“Thầy thử mở ra xem,” cha đề nghị. Cha không thể hiểu được cái nhịp đập rộn ràng của tim mình trong khi chờ ông lặp lại cái việc mà cha đã từng làm với cuốn sách hầu như trắng trơn kia. Cuốn sách mở
ra ngay chính giữa dưới đôi tay đầy kinh nghiệm của ông. Cha không thể nhìn thấy những gì ông thấy, phía sau chiếc bàn, nhưng cha biết ông thấy điều gì đó. Gương mặt ông bỗng sa sầm - bất động, một vẻ mặt mà cha chưa từng nhìn thấy. Ông lật qua những trang khác, lật đi lật lại, như cha đã từng làm, nhưng vẻ nghiêm trọng không biến thành sự ngạc nhiên. “Đúng thế, trắng trơn.” Ông để mở cuốn sách trên bàn. “Hoàn toàn trắng trơn.”
“Đó không phải là một điều kỳ lạ sao?” Ly cà phê đã lạnh ngắt trong tay cha.
“Và khá cổ. Nhưng trắng trơn không phải vì cuốn sách chưa hoàn thành. Chỉ là sự trắng trơn đáng sợ, để làm nổi bật cái hình ở giữa.”
“Đúng. Đúng vậy, tựa chừng như con vật ở giữa đã ngốn sạch mọi thứ chung quanh.” Cha hăm hở ở phần đầu câu, nhưng đến cuối thì chầm chậm lại.
Thầy Rossi hình như không thể rời mắt khỏi tấm hình giữa cuốn sách đang mở ra trước mặt. Sau cùng, ông gấp cuốn sách lại một cách dứt khoát, khuấy cốc cà phê của mình mà chẳng buồn nhấp môi. “Anh vớ được thứ này ở đâu?”
“À, như tôi đã nói, ai đó đã tình cờ bỏ nó lại trong ngăn làm việc của tôi, hai hôm trước. Tôi nghĩ mình nên mang nó đến trao cho Bộ phận Sách Hiếm ngay, nhưng tôi đã không làm vì thật tình nghĩ nó thuộc quyền sở hữu của một ai đó.”
“Ồ, đúng vậy,” Rossi nói, nheo mắt nhìn tôi, “Nó thuộc sở hữu cá nhân của một ai đó.” “Vậy thầy biết nó là của ai?”
“Phải. Nó là của anh.”
“Không, tôi muốn nói là tôi chỉ tìm thấy nó trong…” Nét biểu lộ trên khuôn mặt ông khiến cha phải ngưng lại. Trông ông có vẻ già thêm mười tuổi dưới ánh sáng mờ mờ chiếu xuyên qua khung cửa sổ bụi bặm. “Ý thầy là sao, cuốn sách này là của tôi?”
Thầy Rossi chậm rãi đứng dậy, đi đến một góc phòng phía sau bàn làm việc, trèo lên hai bậc thang và lấy từ tủ sách xuống một cuốn sách nhỏ màu đen. Ông đứng nhìn cuốn sách cả phút, tựa như không muốn trao nó cho cha. Nhưng cuối cùng ông vẫn trao. “Anh thấy cuốn sách này sao?”
Cuốn sách nhỏ, bên ngoài bọc một lớp vải nhung cũ màu nâu, giống như một cuốn kinh cầu nguyện cổ hoặc Kinh Nhật Tụng, chẳng có gì trên gáy hoặc bìa sách để nhận dạng. Nó có một chiếc móc khóa màu đồng, phải hơi mạnh tay một chút mới mở ra được. Cuốn sách sau đó bật mở ra ngay chính giữa. Ở đó, trải rộng trên hai trang giữa cuốn sách, là con rồng của cha - cha nhấn mạnh là của cha - lần này hình con rồng trải rộng ra đến rìa mép trang sách, giương móng vuốt, há họng nhe nanh, cũng với một tiêu đề mẫu tự Gothic kia.
“Dĩ nhiên,” Rossi giải thích, “Tôi từng dành thời gian tìm hiểu, và đã nhận dạng được cuốn sách này. Đó là một cuốn sách theo kiểu mẫu Trung Âu, in năm 1512 - vì vậy anh thấy rất có thể là suốt từ đầu đến cuối nó được in bằng loại mực dễ phai, nếu có bất kỳ một văn bản nào được in trong đó.”
Cha chậm rãi lật từng trang sách mềm mại. Chẳng có tiêu đề nào trên những trang đầu tiên - không hề, cái này thì cha đã biết trước. “Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ.”
“Bìa sau cuốn sách bị ố màu do nước muối, có lẽ do một chuyến hành trình trên Biển Đen. Thậm chí ngay cả viện Smithsonian cũng không thể cho tôi biết nó đã trải qua những gì trong suốt những chuyến hành trình kia. Anh thấy đấy, tôi thực sự đã cố công làm một phân tích hóa học. Tôi đã tiêu tốn ba trăm đô la chỉ để biết là vào một thời điểm nào đó - có lẽ trước năm 1700 - cuốn sách này đã ở trong một môi trường đầy bụi đá. Tôi còn cất công đi đến tận Istanbul để tìm hiểu thêm về nguồn gốc của nó. Nhưng điều kỳ lạ nhất là cách tôi có được cuốn sách này.” Ông chìa tay ra và cha sung sướng trao cuốn sách lại, cũ kỹ và mỏng manh như nó vốn từng.
“Thầy mua nó ở đâu à?”
“Tôi thấy nó trên bàn làm việc của mình, khi còn là nghiên cứu sinh.”
Cha cảm thấy thoáng rùng mình. “Bàn làm việc?”
“Trong ngăn làm việc của tôi ở thư viện. Anh biết đấy, tục lệ này bắt nguồn từ các tu viện, vào thế kỷ thứ bảy.”
“Ở đâu thầy… nó từ đâu đến? Một món quà tặng chăng?”
“Có lẽ vậy.” Thầy Rossi mỉm cười bí ẩn. Có vẻ như ông đang cố kiểm soát một cảm xúc khó diễn đạt nào đó. “Cà phê nữa chứ?”
“Vâng, sau ngần ấy chuyện,” cha nói, cổ họng khô khốc.
“Những nỗ lực của tôi nhằm tìm kiếm người chủ cuốn sách đều thất bại, thư viện cũng không thể nhận biết nó. Thậm chí, trước đây Thư viện Bảo tàng Anh quốc cũng chưa bao giờ thấy nó và đã đề nghị với tôi một cái giá đáng kể để sở hữu cuốn sách này.”
“Nhưng thầy không muốn bán.”
“Không. Như anh biết đấy, tôi thích điều bí ẩn. Học giả tự trọng nào chẳng như vậy. Được tận mắt nhìn vào lịch sử rồi ngạo nghễ nói, ‘Ta biết ngươi là ai. Ngươi không thể đánh lừa ta’, đó mới thực sự là phần thưởng của công việc.”
“Vậy cuốn sách này thì sao? Thầy có nghĩ cuốn lớn hơn này được cùng một xưởng in in ra trong cùng một thời?”
Các ngón tay của ông gõ gõ lên bậu cửa sổ. “Suốt nhiều năm qua tôi đã không để tâm nhiều đến nó, thực vậy, hoặc tôi đã cố tình như vậy, mặc dù phần nào đó tôi luôn… cảm thấy nó, đang ở đó, đè nặng trên vai mình.” Ông ra dấu chỉ lên cái hốc nhỏ tối đen giữa các cuốn sách. “Ngăn trên cùng kia là dãy chứa những thất bại của tôi. Và những thứ tôi không muốn nghĩ đến.”
“Ừm, có lẽ bây giờ tôi tìm được cho nó một người bạn, thầy có thể nối ráp các sự kiện lại tốt hơn. Chúng không thể không liên quan với nhau.”
“Chúng không thể không liên quan với nhau.” Một câu lặp lại trống rỗng, dù nó vang lên giữa tiếng rít của ấm cà phê đang sôi.
Sự thiếu kiên nhẫn cộng với cảm giác khá nóng nảy thường trực trong cha suốt mấy ngày gần đó do thiếu ngủ và kiệt quệ tinh thần đã khiến cha lên tiếng thúc giục. “Còn việc nghiên cứu tìm tòi của thầy nữa chứ? Đâu phải chỉ có cuộc phân tích hóa học kia đâu? Thầy nói đã cố tìm hiểu nhiều hơn kia mà…?”
“Tôi đã cố để biết được nhiều hơn.” Ông lại ngồi xuống, xòe đôi bàn tay nhỏ nhắn, vẻ thành thục đặt lên cả hai bên cốc cà phê. “Tôi e rằng mình nợ anh không chỉ một câu chuyện,” ông bình thản nói tiếp. “Có thể tôi nợ anh, đại loại là một lời xin lỗi - anh sẽ biết vì sao - dù tôi chẳng bao giờ chủ tâm mong muốn để lại một di sản như thế này cho bất kỳ sinh viên nào của mình. Đúng hơn là cho hầu hết các học trò của mình.” Ông mỉm cười, trìu mến nhưng buồn bã, cha nghĩ vậy. “Anh đã nghe về Vlad Ţepeş - Kẻ Xiên Người - chưa?”
“Vâng, Dracula. Một lãnh chúa phong kiến vùng Carpates, còn biết đến với cái tên Béla Lugosi.” “Đúng là ông ta - hoặc một người trong bọn họ. Họ thuộc về một dòng dõi xa xưa trước khi kẻ khó ưa nhất trong dòng dõi đó nắm được quyền lực. Trước khi ra khỏi thư viện anh đã tra cứu ngay về con người đó chứ? Có phải không? Một điềm gở. Khi cuốn sách của mình xuất hiện kỳ quặc như thế, tôi đã tra cứu chính cái từ đó, chiều hôm đó - cái tên đó, đồng thời những từ như Transylvania, Wallachia và Carpates. Ám ảnh tức thì.”
Cha băn khoăn thầm hỏi phải chăng đây là một lời khen tặng khéo léo - Rossi thích thú khi thấy các sinh viên của mình làm việc với cường độ cao - nhưng cha bỏ qua thắc mắc đó vì sợ sẽ cắt ngang câu chuyện bằng một lời bình luận vớ vẩn chẳng ăn nhập vào đâu.
“Vùng Carpates cũng vậy. Hệ thống núi non này luôn là một địa điểm bí ẩn đối với các nhà sử học. Một trong các sinh viên của Occam[4] đã du hành đến đấy - bằng lừa, tôi cho là vậy - và từ những trải nghiệm của mình, anh ta đã cho ra đời một thứ nho nhỏ khá buồn cười gọi là Triết lý về sự Kinh hoàng. Dĩ nhiên, câu chuyện căn bản về Dracula được xào đi nấu lại qua nhiều thời đại và hiện nay chẳng còn được khai thác bao nhiêu nữa. Đó là một ông hoàng xứ Wallachia, một bạo chúa vào thế kỷ mười lăm, bị cả đế quốc Ottoman và chính nhân dân của hắn căm ghét. Hắn thực sự là một trong số những kẻ độc tài hung ác nhất châu Âu thời Trung cổ. Người ta ước lượng, trong những năm cai trị của mình, hắn đã tàn sát ít nhất là hai mươi ngàn người dân xứ Wallachia và Transylvania. Dracula đại khái có nghĩa là con trai của Dracul - con trai của Rồng. Cha của hắn trước kia được Thánh đế La Mã Sigismund bổ nhiệm vào Giáo đoàn Rồng - một tổ chức bảo vệ Đế quốc La Mã chống lại đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Thực ra, có chứng cứ
cho thấy cha của Dracula đã giao hắn cho người Thổ làm con tin trong một cuộc mặc cả chính trị từ khi hắn còn rất nhỏ, và Dracula đã sở đắc phần nào tính độc ác nhờ quan sát những phương pháp tra tấn của người Ottoman.”
Thầy Rossi lắc đầu. “Dù vậy, Vlad đã bị giết trong một trận đánh chống lại quân Thổ, hoặc có thể chỉ tình cờ bị chính quân lính của hắn giết, và đã được an táng trong một tu viện trên một hòn đảo giữa hồ Snagov, bây giờ thuộc sở hữu của anh bạn xã hội chủ nghĩa Rumani của chúng ta. Ký ức về hắn đã biến thành huyền thoại, lưu truyền qua nhiều thế hệ nông dân mê tín dị đoan. Vào cuối thế kỷ mười chín, Abraham Stoker, một nhà văn tâm thần không bình thường và có khuynh hướng cường điệu đã sử dụng cái tên Dracula và cột chặt nó vào một sinh vật do ông tự nghĩ ra: Ma cà rồng. Vlad Ţepeş tuy độc ác kinh khủng nhưng dĩ nhiên không phải là ma cà rồng. Và người ta cũng không tìm được bất kỳ chi tiết nào ám về Vlad trong cuốn sách của Stoker, mặc dù câu chuyện của tác giả này kể về quá khứ vinh quang của dòng họ Dracula như là những chiến binh chống lại quân Thổ.” Rossi thở dài. “Stoker đã sưu tầm được nhiều truyền thuyết về ma cà rồng - và cả về xứ Transylvania, dù chưa bao giờ từng đến đó - thực sự, Vlad Dracula đã thống trị Wallachia, tiếp giáp với xứ Transylvania. Vào thế kỷ hai mươi, Hollywood tiếp quản việc này và câu chuyện hoang đường lại được hồi sinh. Mà thôi, tới đây tôi cũng không cợt nhả thêm được nữa.”
Thầy Rossi đẩy cốc cà phê sang bên và chắp tay lại. Trong chốc lát, trông ông như không thể nói tiếp. “Tôi có thể bỡn cợt cái truyền thuyết đã bị thương mại hóa một cách quá đáng kia, nhưng không thể đùa giỡn với những gì mà công cuộc nghiên cứu của tôi đã tìm thấy. Thực ra, tôi cảm thấy không thể công bố kết quả nghiên cứu của mình, phần nào cũng vì sự hiện diện của truyền thuyết đó. Tôi nghĩ đằng nào vấn đề này cũng sẽ không được người ta xem xét một cách nghiêm túc. Và cũng vì một lý do khác nữa.”
Điều này làm cha khó hiểu. Giáo sư Rossi không bao giờ giữ lại công trình quan trọng nào mà không xuất bản; đó là một phần của sức làm việc dồi dào của ông, tài năng thiên bẩm của ông. Ông nghiêm khắc dạy bảo các học trò của mình cũng nên làm như vậy, đừng hoang phí bất kỳ thứ gì.
“Điều tôi phát hiện ở Istanbul quá nghiêm trọng, không thể xem thường được. Có lẽ tôi đã sai lầm khi quyết định giữ kín thông tin này cho riêng mình - tôi có thể thành thực mà nói như thế, nhưng mỗi người chúng ta ai mà không có những điều mê tín riêng cơ chứ. Điều mê tín của tôi ngẫu nhiên lại là điều mê tín của một nhà sử học. Tôi đã sợ hãi.”
Cha nhìn đăm đăm còn ông ấy thì thở dài, dường như ngần ngại tiếp tục câu chuyện. “Anh thấy đấy, nhân vật Vlad Dracula đã luôn được nghiên cứu qua những bộ văn thư đồ sộ được lưu trữ ở Trung và Đông Âu hoặc, cuối cùng, ở quê hương hắn. Nhưng hắn đã bắt đầu sự nghiệp của mình như một Kẻ tiêu diệt người Thổ, mà tôi lại phát hiện ra rằng chưa có ai tìm kiếm tư liệu về Dracula trong thế giới Ottoman. Đó là lý do đã đưa tôi đến Istanbul, một chuyến đi bí mật, chẳng ăn nhập gì với công trình nghiên cứu về những nền kinh tế Hy Lạp thời sơ khai của tôi. À, nhưng tôi đã dốc sức công bố tất cả những thứ Hy Lạp ấy rồi.”
Ông im lặng một lát, nhìn trừng trừng về phía cửa sổ. “Và tôi cho rằng nên thổ lộ cùng anh, nói thẳng ra, điều mà tôi đã phát hiện trong bộ sưu tập Istanbul và từ đây trở đi cố không suy nghĩ về nó nữa. Đằng nào thì anh cũng đã được thừa hưởng một trong những cuốn sách xinh xắn này.” Ông trang trọng đặt tay lên cả hai cuốn sách. “Nếu tôi không tự mình nói ra với anh tất cả điều này, có lẽ anh sẽ lại giẫm lên những bước chân tôi, và có thể còn gặp thêm ít nhiều hiểm nguy mới nữa.” Ông nhìn mặt bàn và nở một nụ cười khá cương nghị. “Dù sao đi nữa, tôi cũng có thể giúp anh tiết kiệm được nhiều công sức viết thư xin tài trợ.”
Cha không sao ngăn được tiếng cười khô khốc bật ra từ cổ họng. Ông đang nhắm đến cái quái quỷ gì vậy? Cha chợt nghĩ có lẽ mình đã đánh giá thấp khả năng hài hước khác thường của người thầy thông tuệ này. Có thể đây là một trò chơi khăm tinh vi - có thể ông có hai bản của cùng một cuốn sách cổ kinh dị trong tủ sách của mình và đã lén bỏ một cuốn vào ngăn làm việc của cha, biết rằng cha sẽ mang nó đến cho ông, và cha bị buộc phải làm như vậy, như một thằng ngốc. Nhưng dưới ánh sáng bình thường của ngọn đèn bàn, mặt ông bỗng xám lại, râu ria lởm chởm trong ánh chiều tàn, hai hốc mắt trũng sâu như hút kiệt khí sắc và nét khôi hài khỏi đôi mắt. Cha chồm tới. “Thầy muốn nói điều gì với tôi?”
“Dracula…” Ông dừng lại. “Dracula - Vlad Ţepeş - còn sống.”
“Lạy Chúa,” cha tôi bất chợt thốt lên, nhìn đồng hồ. “Sao con không nhắc cha? Gần bảy giờ rồi.” Tôi đút hai bàn tay lạnh giá vào trong chiếc áo khoác màu xanh nước biển. “Con cũng không biết,” tôi nói. “Nhưng xin cha đừng ngưng câu chuyện. Xin cha đừng ngưng ở đấy.” Trong tích tắc, gương mặt của cha có vẻ như hư ảo trước mặt tôi; trước đây tôi chưa từng nghĩ đến khả năng cha có thể như vậy - tôi không biết gọi tình trạng đó là gì. Bất ổn tinh thần chăng? Phải chăng cha đã bị mất ổn định trong chốc lát, khi kể câu chuyện này?
“Muộn quá rồi mà chuyện dài lắm, con gái ạ.” Cha cầm tách trà lên rồi lại đặt xuống. Tôi nhận thấy đôi bàn tay cha run run.
“Tiếp tục đi cha,” tôi nài nỉ.
Cha lờ đi lời năn nỉ của tôi. “Dù sao chăng nữa, cha không biết mình vừa làm con sợ hay chỉ làm con chán ngấy. Có lẽ con chỉ muốn nghe một câu chuyện vừa hay vừa dễ hiểu về những con rồng.” “Có một con rồng rồi,” tôi trả lời. Tôi cũng muốn tin rằng cha đã bịa ra câu chuyện. “Hai con. Ít ra, ngày mai cha sẽ kể tiếp cho con nghe chứ?”
Cha xoa bóp hai cánh tay, như để làm ấm người lại, và tôi thấy rõ lúc ấy cha dứt khoát không muốn nói về chuyện đó nữa. Khuôn mặt cha tối sầm, lạnh tanh. “Kiếm chút gì ăn tối đã. Trước tiên, chúng ta có thể gởi hành lý tại khách sạn Turist.”
“Đành vậy,” tôi đáp.
“Cha con mình không đi thì đằng nào một phút nữa người ta cũng sẽ tống cổ ta ra khỏi quán thôi.” Tôi có thể thấy cô hầu bàn tóc vàng đang tựa vào quầy bar; cô ta có vẻ như không màng đến việc chúng tôi đi hay ở. Cha rút ví ra, vuốt phẳng vài tờ giấy bạc lớn nhàu cũ với mặt sau bao giờ cũng là hình ảnh của một công nhân mỏ hoặc một nông dân đang tươi cười rồi đặt chúng vào khay thiếc. Chúng tôi len lỏi qua những chiếc bàn và ghế sắt uốn để tới cửa, bước ra ngoài bầu trời đầy hơi nước.
Màn đêm đã buông xuống rất nhanh - một đêm Đông Âu lạnh lẽo, ẩm ướt và mù sương, đường phố gần như vắng tanh. “Đội mũ lên đi con,” cha nói, cha bao giờ cũng vậy. Trước khi chúng tôi bước đi dưới rặng sung dâu vừa được cơn mưa tắm gội, cha chợt dừng lại, dang một cánh tay cản tôi bước tiếp, một cách đầy bao bọc, tựa như có một chiếc xe sắp đâm sầm vào chúng tôi. Nhưng chẳng có chiếc xe nào, dưới ánh đèn vàng đường phố như chìm đắm trong tĩnh lặng và khung cảnh thật đơn sơ mộc mạc. Cha nhìn phải nhìn trái, ánh mắt sắc lạnh. Tôi nghĩ là mình không trông thấy ai cả, dù chiếc mũ trùm đầu rộng vành đã phần nào che khuất tầm nhìn của tôi. Cha đứng yên, lắng nghe, gương mặt đầy cảnh giác, toàn thân bất động.
Rồi cha thở ra một hơi dài và chúng tôi lại bước đi, bàn luận về những món sẽ gọi cho bữa ăn tối ở khách sạn Turist khi về đến đó.
Chẳng còn cuộc nói chuyện nào khác về Dracula trong chuyến đi đó. Chẳng bao lâu tôi đã hiểu được nỗi sợ hãi của cha: cha có thể kể cho tôi nghe câu chuyện này chỉ trong những lúc bùng phát ngắn ngủi, kể lại câu chuyện một hơi không phải để tạo ấn tượng kịch tính mà chỉ nhằm bảo toàn một điều gì đó - Sức lực của cha? Hoặc sự minh mẫn của cha?
3
◄○►
Tại Amsterdam, cha bận rộn và im lặng một cách khác thường, tôi thì bứt rứt chờ đợi cơ hội để hỏi cha về giáo sư Rossi. Ngày nào bà Clay cũng dùng bữa tối với chúng tôi trong phòng ăn ốp gỗ tối màu, bà ấy phục vụ chúng tôi nhưng đồng thời cũng cùng ăn như một thành viên trong gia đình, và trực giác của tôi mách bảo cha không muốn kể tiếp chuyện khi bà có mặt. Nếu tôi cố công tìm gặp cha trong thư viện thì cha sẽ hỏi han ngay về ngày hôm đó của tôi như thế nào, hoặc muốn xem bài vở của tôi ra sao. Tôi đã bí mật kiểm tra các ngăn kệ trong thư viện ngay khi trở về từ Emona, nhưng cuốn sách và những thứ giấy tờ kia đã biến mất khỏi vị trí của chúng; tôi không biết cha cất chúng ở đâu. Nếu đêm nào bà Clay không có mặt, cha lại đề nghị chúng tôi đi xem chiếu bóng, hoặc đưa tôi đến cái cửa hàng náo nhiệt bên kia con kênh đào để uống cà phê và ăn bánh ngọt. Có thể nói cha đang tìm cách né tránh tôi, ngoại trừ đôi lần tôi ngồi gần cha, đọc sách và trông chờ cơ hội tốt để hỏi chuyện, cha thường đưa tay vuốt tóc tôi, trên mặt phảng phất một nỗi buồn khó đoán. Những lúc như vậy, tôi không đành lòng khơi lại câu chuyện ấy.
Khi lại du hành về phương Nam, cha dẫn tôi theo. Ở đó, cha chỉ có một cuộc họp, hơn nữa lại là họp không chính thức, hầu như không đáng cho một chuyến đi xa, nhưng cha nói, ông muốn cho tôi thưởng thức phong cảnh vùng này. Lần này chúng tôi đáp xe lửa đi qua Emona, sau đó đi tiếp một chuyến xe buýt đến Ragusa. Cha vẫn thích sử dụng phương tiện công cộng, bất cứ khi nào có thể. Hiện tại, khi phải đi đây đi đó, tôi thường nhớ đến cha và sử dụng xe điện ngầm thay vì thuê xe riêng. “Rồi con sẽ thấy - Ragusa không phải là nơi dành cho xe hơi,” cha nói khi chúng tôi bám vào thanh vịn kim loại phía sau ghế ngồi của tài xế. “Bao giờ cũng nên ngồi phía trước để khỏi bị say xe.” Tôi bấu chặt thanh sắt đến độ các khớp đốt ngón tay trắng bệch ra; chúng tôi như đang bay giữa trùng trùng điệp điệp núi đá xám xanh của vùng đất mới này. “Ôi trời,” cha buột miệng thốt lên sau cú xóc nảy kinh hoàng tại một khúc quanh hình chữ chi. Các hành khách khác có vẻ hoàn toàn tỉnh bơ. Ở dãy ghế bên kia, một bà lão mặc đồ đen đang ngồi móc áo, khuôn mặt đóng khung trong mép khăn choàng, đu đưa theo nhịp xóc của xe buýt. “Xem kỹ nhé,” cha nói. “Con sắp được nhìn thấy một trong những thắng cảnh tuyệt vời nhất của miền duyên hải này.”
Tôi chăm chú nhìn qua cửa sổ xe, ước gì cha đừng cảm thấy cần thiết phải hướng dẫn tôi quá nhiều như vậy, nhưng vẫn cố hết sức thu vào tầm mắt phong cảnh núi đá trập trùng, trên đỉnh là những ngôi làng toàn nhà bằng đá. Trước lúc hoàng hôn, tôi vui mừng khi trông thấy một phụ nữ đứng bên đường, có lẽ đang chờ một chuyến xe buýt chạy hướng ngược lại. Bà cao, mặc một chiếc váy dài, nặng trình trịch với áo chẽn sát thân, đầu đội một kiểu mũ kỳ lạ, giống như một cánh bướm bằng vải phin organdy. Bà đứng một mình giữa những tảng đá, trong ánh chiều tà, bên cạnh là một cái rổ đặt trên mặt đất. Tôi cứ ngỡ người phụ nữ đó là một pho tượng, cho đến lúc bà ngoảnh cái đầu tuyệt đẹp khi xe chúng tôi chạy ngang qua. Khuôn mặt hình trái xoan xanh tái, ở quá xa để có thể nhận ra bất kỳ đường nét nào. Khi tôi tả lại người phụ nữ đó với cha, ông bảo bà mặc trang phục địa phương của vùng Dalmatia này. “Có phải là một chiếc mũ lớn, có dây buộc cằm và hai cánh che mỗi bên? Cha đã từng thấy những hình ảnh như vậy. Con có thể nói bà ta là một hồn ma - chắc hẳn bà ta sống trong một ngôi làng rất nhỏ. Cha nghĩ, bây giờ hầu hết những người trẻ tuổi vùng này đã diện quần jean xanh cả rồi.”
Tôi dán mặt vào cửa sổ xe. Chẳng còn hồn ma nào xuất hiện, nhưng tôi không bỏ sót một cảnh tượng kỳ diệu nào: Ragusa, tít xa bên dưới chúng tôi, một thành phố trắng ngà, mặt biển chan hòa ánh mặt trời vỗ sóng quanh những bức tường bao, bên trong khu thành tráng lệ có từ thời Trung cổ là những mái nhà ngói đỏ, đỏ hơn cả trời chiều. Thành phố nằm trên một bán đảo rộng lớn, những bức tường thành có vẻ như bất khả xâm phạm đối với bão biển và những cuộc xâm lăng, một tên khổng lồ ngự trị trên bờ biển Adriatic.
Nhìn từ điểm cao nhất của con đường, thành phố như một công trình thu nhỏ, giống như một vật được chạm khắc bằng tay không theo một tỷ lệ nào, nằm dưới chân những ngọn núi.
Vài giờ sau, chúng tôi đến con phố chính của Ragusa, con đường lát đá cẩm thạch, nhẵn bóng sau hàng thế kỷ chịu đựng những gót giày qua lại, phản chiếu ánh sáng từ các cửa hàng và dinh thự xung quanh đến nỗi nó lấp lánh như mặt nước một dòng kênh lớn. Ở một góc yên tĩnh cuối con đường, an toàn thoải mái giữa trái tim cổ kính của thành phố, chúng tôi buông mình xuống ghế trong quán cà phê, tôi quay mặt thẳng về hướng gió, những cơn gió mang hương vị của sóng vỗ bờ và - kỳ lạ thay khi đã vào mùa này mà tôi còn cảm thấy - mùi hương của những quả cam chín mọng. Biển và bầu trời hầu như đen kịt. Những chiếc thuyền đánh cá như nhảy múa trên mặt biển dữ dội ngoài khơi xa; ngọn gió mang đến cho tôi âm thanh của biển, hương vị của biển và một cảm giác dịu êm mới mẻ. “Chào phương Nam,” cha nói, vẻ hài lòng, cầm lấy một ly whisky và một đĩa bánh mì nướng với cá trích. “Giả sử con xuống thuyền ra khơi ngay tại đây trong một đêm trời trong gió lặng. Con có thể dựa vào các vì sao để từ đây dong thẳng đến Venice, hoặc bờ biển Anbani, hoặc đến tận biển Aegean.”
“Phải mất bao lâu để đến Venice vậy cha?” Tôi khuấy tách trà và làn gió thổi bạt hơi nóng bay ra hướng biển.
“À, một tuần hoặc hơn, cha nghĩ vậy, nếu đi bằng một chiếc thuyền thời Trung cổ.” Cha nhìn tôi, mỉm cười, thanh thản trong giây lát. “Marco Polo sinh ra ở bờ biển này, và người Venetian[5]thường xuyên xâm lấn vùng này. Có thể nói, chúng ta thực sự đang ngồi tại cửa ngõ dẫn vào thế giới.”
“Cha đã đến đây vào lúc nào?” Tôi chỉ mới bắt đầu tin vào cuộc sống trước đây của cha mình, lúc tôi chưa ra đời.
“Cha đã đến đây nhiều lần. Có lẽ là bốn hoặc năm lần. Lần đầu tiên cách đây đã nhiều năm, khi hãy còn là sinh viên. Vị giáo sư hướng dẫn đã khuyên cha nên từ Ý đến thăm Ragusa, chỉ để nhìn kỳ quan này, trong khi cha còn đang học - như cha từng kể với con là cha đã học tiếng Ý ở Florence trong một mùa hè.” “Ý cha muốn nói giáo sư Rossi.”
“Đúng vậy.” Cha nhìn tôi, ánh mắt sắc lạnh, rồi nhìn vào cốc rượu.
Một khoảnh khắc yên lặng, được phủ lấp bằng âm thanh tấm vải bạt che mái hiên quán đang lật phật trên đầu chúng tôi trong cơn gió nồm ấm áp trái mùa. Từ bên trong quầy rượu và nhà hàng vẳng ra tiếng một đám khách du lịch, tiếng lanh canh của đồ sứ, kèn saxô, đàn dương cầm. Từ ngoài vọng vào tiếng ì oạp của sóng vỗ mạn những con tàu trong bến cảng tối thẫm. Sau cùng cha lên tiếng. “Cha sẽ kể cho con thêm một chút về ông ấy.” Cha vẫn không nhìn tôi, nhưng tôi nghĩ trong giọng nói của cha có một chút gắng gượng nào đó.
“Con thích chuyện đó,” tôi thận trọng đáp lại.
Cha nhấp ly rượu. “Có phải con cứ bướng bỉnh muốn biết những câu chuyện đó?” Cha mới là người bướng bỉnh, tôi muốn trả lời như vậy, nhưng tôi tự kiềm chế không nói ra; tôi muốn nghe câu chuyện hơn là muốn tranh cãi.
Cha thở dài. “Được rồi. Ngày mai, cha sẽ kể cho con nghe thêm về ông ấy, trong ánh sáng ban ngày, khi cha không quá mệt và chúng ta có chút thời gian khi đi dạo dọc theo các bức tường bao.” Cha đưa ly rượu trỏ về phía những bức tường có lỗ châu mai màu trắng xám phía trên khách sạn. Lúc đó sẽ thích hợp hơn để kể chuyện. Nhất là câu chuyện này.”
Vào giữa buổi sáng, chúng tôi đã ngồi chễm chệ ở độ cao ba mươi mét trên các con sóng đang xô vào và sủi bọt trắng xóa quanh dãy tường bao khổng lồ của thành phố. Bầu trời tháng Mười một rực rỡ như một ngày hè. Cha mang kiếng râm vào, nhìn đồng hồ, gấp tập tranh ảnh giới thiệu về công trình kiến trúc có mái che cũ kỹ phía dưới lại, chờ cho nhóm du khách người Đức bước ra khỏi tầm nghe của chúng tôi. Tôi nhìn ra bên ngoài mặt biển bao la, phóng tầm mắt qua bên kia một hòn đảo phủ đầy cây cối, tít đến tận chân trời mờ xanh. Từ hướng đó, những chiếc thuyền của người Venetian đã từng đến, mang theo hoặc chiến tranh hoặc giao thương, những ngọn cờ màu vàng đỏ của họ đã từng không ngừng bay phấp phới dưới vòm trời lấp lánh này. Trong lúc chờ cha lên tiếng, tôi cảm thấy trào dâng một thấu ngộ chẳng mấy liên quan đến học thuật. Có thể những con tàu mà tôi tưởng tượng ra ở phía chân trời kia không đơn giản
chỉlàmộtphầncủamộthoạtcảnhđầymàusắc. Tạisaochalạiquákhókhănđểbắtđầunhưvậy?
4
◄○►
Như cha đã nói với con, cha bắt đầu kể, hắng giọng một hai lần, giáo sư Rossi là một học giả xuất sắc và là một người bạn chân tình. Cha không muốn con nghĩ bất kỳ điều gì khác về ông ấy. Cha biết mình đã sai lầm, có lẽ vậy, vì trước đây đã kể và làm cho con nghĩ ông ấy có vẻ như… mất trí. Chắc con vẫn nhớ là ông ấy đã thuật lại với cha một điều khủng khiếp, khó mà tin nổi. Và cha đã bị sốc nặng, lòng đầy nghi hoặc, dù đã nhìn thấy sự thành thực và vẻ cam chịu trên khuôn mặt ông. Khi đã kể xong, ông liếc nhìn cha bằng ánh mắt sắc lạnh.
“Thực sự thầy muốn ám chỉ điều gì?” Hẳn là khi ấy cha phải lắp bắp lắm.
“Tôi nhắc lại,” thầy Rossi gằn giọng, “Ở Istanbul, tôi đã phát hiện là hiện nay Dracula vẫn còn sống giữa chúng ta. Hoặc ít nhất, còn sống vào lúc đó.”
Cha nhìn ông chằm chằm.
“Tôi biết hẳn anh cho là tôi điên,” ông nói, giọng rõ ràng đã bớt gay gắt. “Và tôi cũng đồng ý với anh rằng bất kỳ ai miệt mài tập trung quá lâu vào lịch sử đều có thể trở nên điên khùng nặng.” Ông thở dài. “Ở Istanbul có một trung tâm lưu trữ các tư liệu ít người biết, do Quốc vương Mehmed II, người đã chiếm thành phố này từ tay đế quốc Byzantine vào năm 1453, xây dựng. Sau đó trung tâm lưu trữ này chỉ chứa những thứ đầu thừa đuôi thẹo được người Thổ thu thập sau này, khi họ dần dần bị đánh lui và vùng biên cương đế quốc Ottoman thu hẹp lại. Ngoài ra, nó còn chứa đựng những tài liệu từ cuối thế kỷ mười lăm, và tôi đã tìm thấy trong đó vài tấm bản đồ chỉ phương hướng tìm đến Hầm mộ Tội Lỗi của Kẻ Tiêu Diệt người Thổ, tôi nghĩ kẻ đó có thể chính là Vlad Dracula. Thực ra, có ba tấm bản đồ vẽ theo tỷ lệ xích khác nhau nhằm thể hiện cùng một khu vực với mức độ chi tiết tăng dần. Tôi không nhận ra và cũng không thể liên kết bất cứ điều gì trên các tấm bản đồ này với bất kỳ khu vực nào mà mình biết. Chúng được ghi chú chủ yếu bằng chữ Ả Rập, và có niên đại từ cuối thế kỷ mười lăm, theo lời của những người thủ thư trung tâm lưu trữ.” Ông khẽ nhịp tay lên cuốn sách nhỏ kỳ lạ, mà cha đã kể với con là rất giống cuốn sách của cha. “Thông tin ghi ở giữa tấm bản đồ thứ ba được ghi bằng một thứ phương ngữ Xlavơ cổ. Chỉ các học giả uyên bác, thông thạo nhiều ngôn ngữ mới có thể giải mã được toàn bộ nội dung của các tấm bản đồ này. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cũng không mấy tự tin.”
Đến đây, thầy Rossi lắc đầu, tựa như vẫn còn hối tiếc về những mặt hạn chế của mình. “Nỗ lực đổ vào cuộc tìm hiểu này đã kéo tôi ra xa đến vô lý công việc nghiên cứu chính thức trong mùa hè về chủ đề giao thương thời cổ đại ở đảo Crete. Nhưng tôi đã quá say mê nó, tôi nghĩ vậy, khi ngồi trong cái thư viện nóng nực và nhớp nháp ở Istanbul. Tôi nhớ mình vẫn có thể nhìn thấy những ngọn tháp của thánh đường Hagia Sophia qua những cửa sổ bụi bặm. Tôi đã làm việc ở đó, với những manh mối về quan điểm của người Thổ đối với vương quốc của Vlad nằm trên bàn phía trước mặt, cặm cụi gò lưng trên những cuốn tự điển, ghi ghi chép chép cơ man các dữ liệu, và chép lại bằng tay các tấm bản đồ kia.
“Để tóm gọn câu chuyện nghiên cứu dài hơi này lại, một buổi chiều nọ tôi chợt thấy mình chú tâm đến một vị trí được đánh dấu cẩn thận là Hầm mộ Tội Lỗi trên tấm bản đồ thứ ba và cũng là tấm bản đồ rắc rối nhất. Anh hãy nhớ Vlad Ţepeş được cho là đã được chôn cất tại một tu viện trên một hòn đảo trong hồ Snagov, ở Rumani. Bản đồ này, cũng như hai cái kia, không cho thấy một cái hồ nào có một hòn đảo cả - mặc dù nó cũng cho thấy có một dòng sông phình rộng ra ở giữa và chảy qua suốt khu vực. Tôi đã dịch tất cả mọi từ viết chung quanh viền khung bản đồ, với sự trợ giúp của một giáo sư đại học Istanbul chuyên về tiếng Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ - những châm ngôn khó hiểu về bản chất của cái ác, nhiều câu trong số đó xuất phát từ Kinh Koran. Đây đó trên tấm bản đồ, ẩn mình giữa những ngọn núi được phác thảo thô là vài chữ
viết, thoạt nhìn có vẻ như là những địa danh viết bằng một thứ phương ngữ Xlavơ nhưng dịch ra thì lại giống như những câu đố khó hiểu, có thể là mật mã chỉ những địa điểm có thực nào đó như: Thung lũng Tám Cây Sồi, Làng Trộm Heo, vân vân - những cái tên quê mùa kỳ lạ chẳng có nghĩa gì đối với tôi.
“À, ở ngay chính giữa tấm bản đồ, phía trên vị trí Hầm mộ Tội Lỗi, hoặc bất kỳ nơi đâu được cho là địa điểm hầm mộ này là hình phác thảo một con rồng, mang trên đầu một lâu đài như một thứ vương miện. Con rồng trông chẳng có gì giống với con trong cuốn sách cổ của tôi, à không, của chúng ta, nhưng tôi phỏng đoán nó đã lưu truyền đến người Thổ cùng với huyền thoại về Dracula. Phía dưới con rồng, có ai đó đã viết bằng mực những chữ rất nhỏ, thoạt tiên tôi cứ nghĩ là chữ Ả Rập, giống như các câu châm ngôn ở đường viền tấm bản đồ. Nhìn chúng qua một kính lúp, tôi chợt nhận ra những chữ này thực ra là chữ Hy Lạp, tôi liền dịch và đọc to chúng lên trước khi kịp nghĩ đến vấn đề xã giao tế nhị - dù lúc đó, dĩ nhiên là thư viện vắng tanh, chỉ có mỗi mình tôi và một người thủ thư mặt mày ủ rũ thỉnh thoảng đi vào đi ra, dường như để đảm bảo là tôi không lấy cắp bất kỳ thứ gì. Vào lúc đó, tôi hoàn toàn chỉ có một mình. Những con chữ nhỏ xíu kia như nhảy múa dưới mắt tôi khi tôi đọc chúng lên: ‘Ở địa điểm này, hắn bị giam giữ trong cái ác. Người đọc, hãy khai quật hắn lên bằng chỉ một lời.’
“Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng sầm cửa ở phòng nghỉ dưới lầu. Những bước chân nặng nề bước lên cầu thang. Tuy nhiên, tôi vẫn bận rộn với một ý nghĩ chợt lóe lên: chiếc kính lúp vừa thổ lộ cho tôi biết rằng tấm bản đồ này, không giống như hai bản đồ đầu tiên chung chung hơn kia, được ghi chú bởi ba người khác nhau, bằng ba ngôn ngữ khác nhau. Chữ viết tay và ngôn ngữ cũng không giống nhau. Màu mực, những loại mực cổ, cũng vậy. Rồi tôi đột ngột hiểu ra - anh biết đấy, một nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn tin tưởng vào trực giác khi đằng sau nó là hàng tuần miệt mài làm việc.
“Đối với tôi, có vẻ như, thoạt tiên tấm bản đồ chỉ bao gồm bức tranh phác thảo ở chính giữa, những ngọn núi bao bọc xung quanh và cái mệnh lệnh bằng tiếng Hy Lạp ấy. Có lẽ sau này nó mới được ghi chú thêm bằng thứ phương ngữ Xlavơ để xác định những địa điểm đã được đề cập - dưới dạng mật mã, ít ra là như vậy. Rồi sau đó, vì một lý do nào đó, nó đã rơi vào tay những người Ottoman và bị bao bọc trong những câu chữ xuất phát từ Kinh Koran, những thứ có vẻ như để chứa đựng hoặc giam giữ cái thông điệp báo điềm gở ở chính giữa kia, hoặc để phong tỏa nó bằng những bùa chú chống lại bóng tối. Nếu điều này là có thực, thì ai, ai biết tiếng Hy Lạp, đã ghi chú tấm bản đồ trước tiên, hoặc có lẽ thậm chí đã vẽ ra nó? Tôi được biết vào thời Dracula, tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ được các học giả Byzantine sử dụng, chứ không phải đa số các học giả trong Đế quốc Ottoman.
“Trước khi tôi có thể viết ra, dù chỉ một ghi chú về giả thuyết này, giả thuyết có thể liên quan đến những thử nghiệm vượt quá quyền hạn của mình, cánh cửa ở phía bên kia kho sách bỗng bật mở, và một gã cao to lực lưỡng bước vào, hung tợn lao nhanh qua đống sách vở một cách thô bạo rồi đứng lại ở bên kia bàn, nơi tôi đang làm việc. Gã có dáng vẻ của một kẻ cố tình đột nhập, tôi cảm thấy chắc chắn gã không phải là một trong những người thủ thư. Tôi cũng cảm thấy vì lý do nào đó mình nên đứng dậy, nhưng sự tự cao đã không cho tôi nhấc người lên; hành động như thế có thể chứng tỏ tôi đã quá khúm núm sợ sệt, nhất là trước sự can thiệp đột ngột và khá thô bạo của gã đàn ông kia.
“Chúng tôi nhìn thẳng vào mặt nhau, tôi chưa bao giờ cảm thấy hoang mang như vậy. Gã đàn ông rõ ràng không hợp với bối cảnh ở đây, đẹp trai và ăn mặc chải chuốt theo phong cách thiên về màu sậm của người Thổ hoặc người miền Nam Xlavơ, râu mép rậm, bộ y phục sẫm màu được cắt may cẩn thận như một doanh nhân phương Tây. Ánh mắt gã đụng ánh mắt tôi nảy lửa, và đôi hàng lông mi dài có vẻ gì đó rất đáng ghét trên khuôn mặt lạnh lùng kia. Nước da gã vàng bủng nhưng đẹp đẽ, không có một tì vết, còn cái lưỡi thì rất đỏ.
‘Thưa ông,’ gã nói nhỏ, giọng thù địch, gần như là làu bàu một thứ tiếng Anh giọng Thổ. ‘Tôi không cho rằng ông được phép làm việc này.’
‘Làm việc gì?’ Tôi lập tức sửng cồ lại.
‘Việc nghiên cứu này. Ông đang tiếp cận những tài liệu mà chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ xem như tư liệu lịch sử riêng của quốc gia. Tôi có thể xem giấy tờ của ông được chứ?’
‘Anh là ai?’ Tôi đáp lại cũng lạnh lùng không kém. ‘Tôi có thể xem giấy tờ của anh chứ?’ “Gã rút từ túi trong áo khoác một cái ví, mở ví ra và đập nó xuống mặt bàn trước mặt tôi, rồi chộp lên
và đóng ập ví lại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy một cái thẻ màu ngà cùng với một mớ bòng bong những tiêu đề chữ Thổ trên đó. Bàn tay gã nhợt nhạt như sáp trông rất khó chịu, móng tay để dài cùng với một vạt lông đen trên mu bàn tay.
‘Bộ Tài nguyên Văn hóa,’ gã nói, giọng lạnh tanh. ‘Tôi hiểu rằng ông thực sự không có sự thu xếp trao đổi với chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ để nghiên cứu những tài liệu này. Đúng vậy chứ?’ ‘Chắc chắn không phải vậy.’ Tôi trình ra cho gã một lá thư của Thư viện Quốc gia, nêu rõ là tôi được quyền nghiên cứu ở bất kỳ đơn vị bộ phận nào của Thư viện ở Istanbul.
‘Vẫn không đủ,’ gã nói, quăng trả lá thư xuống mớ giấy tờ. ‘Có lẽ ông cần phải đi với tôi.’ ‘Đi đâu?’ Tôi đứng dậy, bây giờ cảm thấy an toàn hơn trên đôi chân của mình, nhưng cũng hy vọng gã sẽ không xem việc tôi đứng dậy như sự phục tùng.
‘Đến cảnh sát, nếu xét thấy cần.’
‘Thật quá đáng.’ Tôi đã có kinh nghiệm là, khi nghi ngờ về bộ máy hoặc con người quan liêu thì mình phải lên giọng mới mong được êm xuôi. ‘Tôi là tiến sĩ dự bị của Đại học Oxford và là một công dân của Vương quốc Anh. Ngày đến đây, tôi đã đăng ký với trường đại học sở tại và đã nhận lá thư này như là bằng chứng về vị thế của tôi. Cảnh sát - hoặc cả anh nữa - không có quyền hạch sách tôi.’
‘Tôi hiểu.’ Gã cười, cái kiểu cười làm cho tôi cảm thấy ruột mình thắt lại. Tôi đã đọc một ít về các nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ và những người tù phương Tây thỉnh thoảng bất đắc dĩ phải ngồi trong đó, và tình thế hiện tại làm tôi cảm thấy không yên tâm, dù tôi không hiểu mình có thể dính vào loại rắc rối nào. Tôi hy vọng một trong những người thủ thư thường ra vào nghe được tiếng tôi và sẽ vào bảo chúng tôi nói nhỏ. Nhưng rồi tôi nhận ra là chắc hẳn họ có dự phần trách nhiệm trong việc để cho nhân vật này vào đây, với cái thẻ công vụ đáng sợ của gã, để gặp tôi. Có thể gã thực sự là một nhân vật quan trọng. Gã chồm về phía trước. ‘Để tôi xem ông đang làm cái gì ở đây. Làm ơn tránh ra.’
“Tôi miễn cưỡng bước qua một bên, gã liền cúi gập người trên công trình của tôi, đóng ập những cuốn tự điển lại để xem bìa của chúng, vẫn với nụ cười làm tôi thắt ruột kia. Vóc dáng đồ sộ của gã ở bên kia bàn, và tôi chú ý nhận ra người gã có một mùi kỳ dị, giống như mùi nước hoa Cologne dùng để phủ lấp một mùi gì đó không ưng ý - nhưng không che giấu được. Sau cùng, gã cầm tấm bản đồ mà tôi đang nghiên cứu dở lên, tay gã chợt trở nên dịu dàng, gần như nâng niu khi cầm nó. Gã nhìn nó tựa như không cần quan sát lâu mới biết nó là cái gì, dù vậy tôi nghĩ đó hẳn là một động tác giả.
‘Đây là tài liệu lưu trữ của ông, đúng không?’
‘Đúng,’ tôi giận dữ trả lời.
‘Đây là tài sản rất giá trị của nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi không tin ông sẽ cần nó cho những mục đích có liên quan đến các nước khác. Và chính mảnh giấy này, tấm bản đồ nhỏ này, đã khiến ông đi ngần ấy đường từ trường đại học nước Anh đến Istanbul sao?’
“Tôi định phản bác lại là mình còn những việc khác nữa, để tống cổ hắn đi cho tôi làm việc tiếp, nhưng ngay tức khắc nhận ra việc này có thể dẫn đến nhiều nghi vấn hơn. ‘Vâng, có thể nói tóm tắt là như vậy.’
‘Tóm tắt là như vậy?’ Gã tiếp tục, giọng đã ôn tồn hơn. ‘Được, báo để ông biết tấm bản đồ này tạm thời bị tịch thu. Thật là một điều đáng xấu hổ đối với một nhà nghiên cứu ngoại quốc.’ “Tôi đứng đó, giận sôi người, gần như không biết phải làm gì, và cảm thấy cũng may mà sáng hôm đó đã không mang theo bất kỳ bản sao chi tiết nào những tấm bản đồ cổ vùng núi Carpates, mà tôi định sẽ dùng để so sánh với tấm bản đồ này vào ngày mai. Chúng được giấu trong vali của tôi để ở khách sạn. ‘Ông hoàn toàn không có quyền tịch thu tài liệu mà tôi đã được phép sử dụng,’ tôi trả lời, nghiến răng. ‘Chắc chắn tôi sẽ đề cập việc này với bên Thư viện Quốc gia ngay tức khắc. Cả với tòa đại sứ Anh. Dù sao đi nữa, ông dựa vào lý do nào để phản đối việc tôi nghiên cứu những tài liệu này? Chúng chỉ là những mảng tối trong lịch sử thời Trung cổ. Chúng chẳng liên quan gì đến lợi ích hiện tại của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, tôi chắc chắn như vậy.’
“Viên quan chức nhà nước đứng đó, không nhìn tôi, tựa hồ như những tháp hình chóp của thánh đường Hagia Sophia vừa bày ra một góc cạnh mới hấp dẫn nào đó mà gã chưa từng có dịp chứng kiến. ‘Đây là vì lợi ích của chính ông,’ gã nói giọng bình thản. ‘Tốt hơn nên để một người khác tiếp tục làm việc
kia. Vào một lúc nào khác.’ Gã vẫn đứng như bất động ở đó, đầu quay về phía cửa sổ, cứ như muốn tôi dõi theo ánh mắt của gã để nhìn cái gì đó. Tôi ngây ngô cảm thấy mình không nên làm như vậy, vì đó có thể là một trò lừa, do đó, thay vì vậy, tôi nhìn gã, chờ đợi. Rồi sau đó, tôi đã thấy, tựa như gã cố ý để cho cái ánh sáng ban ngày nhờn nhợt kia chiếu vào nó, khoảng cần cổ phía trên chiếc sơ mi đắt tiền của gã. Bên cạnh cổ, ở vùng thịt thấp nhất trên cái cổ họng vạm vỡ, là hai lỗ thủng màu nâu đã đóng vảy, không mới nhưng cũng chưa lành hẳn, tựa như gã đã bị một ngọn gai hai đầu đâm vào, hoặc bị cắt bằng mũi dao nhọn.
“Tôi bước lui, tránh xa bàn, nghĩ rằng mình đã mất trí vì tất cả những tài liệu đen tối đó, rằng mình đã thực sự loạn óc. Nhưng cái ánh sáng ban ngày kia vẫn bình thường, gã đàn ông trong bộ đồ len sậm màu kia hoàn toàn có thực, cho đến cái mùi mồ hôi, mùi không tắm rửa và mùi gì đó khác bên dưới cái mùi nước hoa Cologne của gã cũng vậy. Chẳng có gì biến mất hoặc thay đổi. Tôi không thể rời mắt khỏi chỗ hai vết thương nhỏ chưa lành hẳn kia. Sau một vài giây, từ quang cảnh lôi cuốn kia, gã quay lại, tựa như hài lòng với điều đã thấy - hoặc cái mà tôi đã thấy - và lại cười. ‘Vì lợi ích của riêng ông, giáo sư à.’
“Khi gã bước ra khỏi phòng, cầm tấm bản đồ cuộn trong tay, tôi đứng đó không nói nên lời và lắng nghe tiếng bước chân xa dần trên cầu thang. Vài phút sau, một thủ thư lớn tuổi bước vào, một người đàn ông tóc bạc rậm rịt, cầm theo hai cuốn sách cổ khổ lớn rồi đặt chúng trên một chiếc kệ thấp. ‘Xin lỗi,’ tôi lên tiếng với người thủ thư, tiếng nói như nghẹn lại trong cổ họng. ‘Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng đây là việc hoàn toàn quá đáng.’ Ông ta nhìn tôi, bối rối. ‘Người đàn ông đó là ai? Cái ông quan chức nhà nước ấy?’
‘Quan chức nhà nước?’ Người thủ thư ngập ngừng nhắc lại lời tôi.
‘Tôi phải có ngay một công văn chính thức của các ông về quyền làm việc của tôi trong trung tâm lưu trữ này.’
‘Nhưng ông đã có toàn quyền làm việc ở đây,’ ông ta ôn tồn đáp lại. ‘Chính tôi đã đăng ký cho ông ở đây kia mà.’
‘Tôi biết, tôi biết. Vì vậy các ông phải bắt ông ta và bảo ông ta trả lại tấm bản đồ.’ ‘Bắt ai?’
‘Cái ông ở Bộ gì đó - cái ông vừa mới đến đây. Chẳng phải ông đã cho ông ta vào đây hay sao?’ “Dưới mái tóc bạc bù xù, ông ta nhìn tôi một cách kỳ lạ. ‘Có ai vào đây vào giờ này ư? Từ ba tiếng đồng hồ qua chẳng có ai vào đây cả. Chính tôi ở dưới, ngay lối ra vào. Thật không may là ở đây chúng tôi có ít khách đến nghiên cứu lắm.’
‘Người đàn ông kia…’ tôi buột miệng rồi dừng lại. Đột nhiên tôi cảm thấy mình là một người ngoại quốc đang điên khùng khoa tay múa chân. ‘Ông ta đã lấy tấm bản đồ của tôi. Ý tôi là tấm bản đồ của trung tâm lưu trữ.’
‘Bản đồ, thưa giáo sư?’
‘Tôi đang làm việc với một tấm bản đồ. Tôi đã ký nhận nó sáng nay ở quầy.’
‘Không phải tấm bản đồ kia à?’ Ông ta trỏ vào bàn làm việc của tôi. Ngay chính giữa bàn, trải rộng ra một tấm bản đồ đường sá vùng Balkan mà tôi chưa từng thấy trong đời. Năm phút trước, chắc chắn nó không có ở đó. Người thủ thư bỏ cuốn sách khổ lớn thứ hai xuống.
‘Xin đừng bận tâm.’ Tôi vội cuống cuồng thu nhặt mớ sách vở và rời khỏi thư viện. Trên đường phố náo nhiệt nhộn nhịp người qua lại không có dấu vết gì của gã viên chức kia, mặc dù cũng có vài người đàn ông có cùng vóc dáng và chiều cao mặc bộ y hệt cầm cặp vội vã bước ngang qua trước mặt tôi. Khi về đến phòng, tôi nhận thấy đồ đạc của mình bị xáo trộn, chứng tỏ đã xảy ra chuyện lục lọi trong căn phòng. Các phác thảo đầu tiên của tôi về những tấm bản đồ cũ cũng như những ghi chú đã hoàn chỉnh, những thứ ngày hôm đó tôi vẫn chưa cần đến, đã biến mất. Chiếc vali của tôi cũng đã được xếp đặt lại một cách hoàn hảo. Nhân viên khách sạn nói họ không biết gì về chuyện đó. Tôi đã thao thức suốt đêm để lắng nghe mọi tiếng động ở bên ngoài. Sáng hôm sau, tôi thu dọn đống áo quần chưa giặt và những cuốn tự điển đáp tàu thủy trở về Hy Lạp.”
Giáo sư Rossi lại chắp hai bàn tay lại và nhìn cha, tựa như kiên nhẫn chờ đợi vẻ mặt nghi hoặc của cha. Nhưng đột nhiên cha run lên vì tin tưởng thay vì hoài nghi. “Thầy trở lại Hy Lạp?” “Đúng vậy, và tôi đã dành những ngày còn lại của mùa hè để cố quên đi ký ức về chuyến phiêu lưu ở Istanbul ấy, tuy nhiên không thể nào quên được những ý nghĩa tiềm ẩn của nó.”
“Thầy đã bỏ đi vì… sợ?”
“Khiếp sợ.”
“Nhưng sau đó thầy đã thực hiện toàn bộ cuộc nghiên cứu - hoặc bố trí người khác tiến hành - về cuốn sách kỳ lạ của thầy?”
“Phải, chủ yếu là việc phân tích hóa học ở Viện Smithsonian. Nhưng khi việc phân tích này không đưa đến kết luận nào - và do vài tác động khác nữa - tôi đã bỏ dở toàn bộ nghiên cứu và cất cuốn sách lên kệ. Lên trên kia, rốt cuộc là vậy.” Ông hất đầu chỉ lên vị trí cao nhất của tủ sách. “Thật kỳ lạ - thỉnh thoảng tôi lại nghĩ về những sự kiện này, và có khi có vẻ như tôi nhớ về chúng rất rõ ràng, nhưng cũng có lúc chúng chỉ là những mảnh rời rạc. Tôi cho là sự quen thuộc có thể làm phai mờ dần những ký ức thậm chí kinh khủng nhất. Và có những giai đoạn - đôi khi là nhiều năm liền - tôi chẳng muốn nghĩ đến chuyện đó chút nào cả.”
“Nhưng liệu thầy có thực sự tin… người đàn ông với những vết thương trên cổ…” “Anh sẽ nghĩ như thế nào, nếu gã đứng trước mặt anh và anh biết bản thân mình vẫn tỉnh táo?” Ông đứng dựa vào các kệ sách, và trong một khoảnh khắc, giọng nói chợt trở nên dữ dội. Cha nhấp ngụm cà phê nguội cuối cùng; đắng ngắt, chỉ toàn cặn. “Và thầy không bao giờ cố gắng thêm lần nữa để tìm hiểu ý nghĩa tấm bản đồ, hoặc nguồn gốc của nó sao?”
“Không bao giờ.” Ông dường như ngập ngừng chốc lát. “Không. Nó là một trong vài công trình nghiên cứu mà tôi tin chắc mình sẽ không bao giờ hoàn thành. Tuy nhiên, tôi có một lý thuyết là con đường học thuật đáng sợ này, cũng giống như nhiều con đường khác bớt kinh khủng hơn, đơn thuần chỉ là cái gì đó mà người này tiến một ít, rồi người kia, mỗi người đóng góp một chút cuộc đời mình vào nó. Có thể ba người đó là những người như vậy, hàng thế kỷ trước họ đã làm thế khi vẽ ra những tấm bản đồ kia và bổ sung cho chúng, mặc dù tôi phải thừa nhận rằng những câu châm ngôn bùa chú từ Kinh Koran có thể không giúp được cho bất kỳ ai hiểu thêm gì về địa điểm mà ngôi mộ thực sự của Vlad Ţepeş có thể tọa lạc. Và dĩ nhiên, có thể tất cả chỉ là vớ vẩn. Hoàn toàn có khả năng hắn đã được chôn cất trong tu viện trên hòn đảo của hắn, như được ghi lại trong truyện dân gian Rumani, và đã bình yên ở đó như một linh hồn thánh thiện - cái mà hắn vốn chẳng bao giờ được như vậy.”
“Nhưng thầy đâu có nghĩ thế.”
Ông lại lưỡng lự. “Nền học thuật phải tiếp tục tiến bước. Vì cái tốt hoặc vì cái xấu, nhưng phải tiến bước, trong mọi lĩnh vực.”
“Thầy đã từng tìm cách đến Snagov để chứng kiến tận mắt hay chưa?”
Ông lắc đầu. “Chưa. Tôi đã từ bỏ cuộc nghiên cứu này.”
Cha đặt chiếc ly lạnh ngắt xuống, nhìn vào mặt giáo sư. “Nhưng thầy vẫn còn lưu giữ vài thông tin,” cha phỏng đoán, giọng từ tốn.
Ông lại với tay lên phía những cuốn sách trên đầu kệ, kéo xuống một phong bì màu nâu, niêm kín. “Dĩ nhiên. Ai mà phá hủy hoàn toàn một công trình nghiên cứu được chứ? Tôi đã ghi lại những gì có thể theo trí nhớ về ba tấm bản đồ và lưu lại những ghi chú khác, những ghi chú mà ngày hôm đó tôi đã mang theo khi vào trung tâm lưu trữ.”
Ông để cái gói chưa mở lên bàn, giữa cha và ông, vuốt ve nó với vẻ âu yếm mà theo cha, có vẻ như chẳng phù hợp với nỗi khiếp sợ của ông đối với những gì chứa đựng bên trong chút nào. Có lẽ chính sự khác biệt đó, hoặc có thể chính buổi chiều mùa xuân đang chuyển dần sang đêm tối ở bên ngoài kia, đã khiến cha thấy thêm bồn chồn. “Thầy có nghĩ đây có thể là một loại di sản nguy hiểm không?”
“Có Chúa chứng giám, tôi ước gì có thể nói không. Nhưng có lẽ chỉ nguy hiểm về mặt tâm lý. Cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn khi chúng ta không ủ ê nghiền ngẫm một cách không cần thiết những nỗi khiếp sợ. Như anh biết đấy, lịch sử nhân loại đầy rẫy những hành vi độc ác xấu xa, và có lẽ chúng ta nên nghĩ đến chúng với những giọt nước mắt, chứ không phải niềm say mê. Chuyện đã xảy ra cách đây nhiều năm đến nỗi thậm chí tôi không thể nhớ rõ những ký ức về Istanbul nữa, mà tôi cũng chưa bao giờ muốn trở lại nơi đó. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng mình đã mang theo tất cả những gì tôi có thể cần phải biết.”
“Để tiến xa hơn, ý thầy muốn nói như vậy?”
“Đúng vậy.”
“Nhưng thầy vẫn còn chưa biết ai có khả năng vẽ ra một tấm bản đồ cho biết cái hầm mộ đó hiện nằm ở đâu? Hoặc đã nằm ở đâu?”
“Phải, tôi chưa biết.”
Cha đưa tay chỉ về phía chiếc phong bì màu nâu. “Liệu tôi có cần một chuỗi tràng hạt, hoặc cái gì đó, vài thứ bùa ngải nào đó, để mở nó ra không?”
“Tôi chắc rằng anh đã mang theo mình lòng tốt, ý thức luân lý, anh muốn gọi là gì cũng được, tốt thôi - mà tôi cũng thích nghĩ rằng hầu hết mọi người chúng ta đều có thể mang theo những thứ như vậy. Tôi sẽ không đi loanh quanh với mấy củ tỏi trong túi, không đâu.”
“Mà với liều thuốc trừ tà tinh thần mạnh.”
“Phải, tôi đã cố làm vậy.” Mặt ông đượm nét buồn cùng cực, gần như khắc khổ. “Có thể tôi đã sai lầm khi không áp dụng những mê tín dị đoan xưa cũ kia, nhưng tôi là một người duy lý chủ nghĩa, tôi cho là thế, và tôi sẽ vẫn như vậy.”
Cha bấu chặt các ngón tay trên cái gói.
“Đây là cuốn sách của anh. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi mong anh may mắn trong việc xác định nguồn gốc của nó.” Ông trao lại cho cha cuốn sách bìa bọc giấy da của cha, và cha nghĩ vẻ u sầu trên gương mặt ông tương phản hẳn với nét nhiệt tâm trong những lời ông nói. “Hai tuần nữa anh hẵng quay lại và chúng ta sẽ trở lại với nền giao thương của Utrecht.”
Chắc hẳn cha đã phải chớp mắt; thậm chí cả cái luận văn tiến sĩ cũng có vẻ như không có thực đối với cha. “Vâng, tốt thôi.”
Rossi uống cạn cốc cà phê, cha lóng ngóng thu xếp lại cặp giấy tờ.
“Một điều cuối,” ông trở giọng nghiêm trọng, khi cha quay lưng về phía ông.
“Vâng?”
“Chúng ta sẽ không đề cập đến chuyện này nữa.”
“Thầy không muốn biết tôi sẽ tiến hành nghiên cứu việc này như thế nào sao?” Cha cảm thấy kinh ngạc và thoáng chút cô đơn.
“Anh có thể nói như thế. Tôi không muốn biết. Dĩ nhiên, trừ phi anh gặp rắc rối.” Ông thân mật siết tay giã từ cha như thường lệ. Vẻ đau buồn thực sự, một vẻ cha chưa thấy bao giờ, bao trùm khuôn mặt ông, rồi có vẻ như ông cố nở một nụ cười.
“Thôi được,” cha đáp lại.
“Hai tuần nữa nhé,” ông gọi với theo, ông hầu như đã vui vẻ lúc cha bước ra. “Hãy mang đến cho tôi một chương hoàn chỉnh, hoặc cái gì đó.”
Cha ngừng lại. Tôi bối rối và ngạc nhiên khi thấy nước mắt lấp lánh trong mắt cha. Nét cảm xúc đó ngăn không cho tôi hỏi thêm dù cha chẳng lên tiếng yêu cầu. “Con thấy đấy, viết một luận văn đúng là kinh khủng,” cha nói tiếp, giọng nhẹ nhàng. “Dù sao, có lẽ chúng ta không nên dính vào chuyện này nữa. Một câu chuyện xa xưa rối rắm như vậy, và rõ ràng mọi thứ hóa ra đều ổn, nên giờ cha mới đang ở đây, thậm chí không còn là một giáo sư bị ám ảnh chuyện quỷ ma nữa, và con cũng đang ở đây.” Cha chớp mắt, như đang dần tỉnh lại. “Đó là một kết cuộc có hậu, như mọi kết cuộc khác.”
“Nhưng có lẽ còn nhiều vấn đề ở đoạn giữa,” tôi khó nhọc nói. Ánh nắng chiều yếu ớt chiếu trên da thịt, không đủ sức rọi đến tận cốt xương tôi, nơi đã ngấm chút hơi lạnh thoát lên từ biển. Chúng tôi vươn vai rồi quay bên này bên kia để nhìn thành phố bên dưới. Nhóm du khách cuối cùng lang thang ngang qua chúng tôi, dọc theo tường bao bờ biển đến đứng trong một góc xa xa, chỉ trỏ ra những hòn đảo hoặc chụp ảnh cho nhau. Tôi liếc nhìn cha, nhưng cha đang nhìn đăm đăm ra biển. Ở sau những du khách khác, nhưng cũng đã cách chúng tôi khá xa về phía trước, là một người đàn ông mà trước đó tôi không để ý thấy, đang bước chậm rãi nhưng rõ ràng là không đuổi theo được nữa, cao lớn, vai rộng, mặc một bộ comlê len đen. Tôi đã nhìn thấy những người đàn ông cao lớn mặc đồ đen khác trong thành phố ấy, nhưng không hiểu sao tôi không thể không nhìn theo người đàn ông kia.
5
◄○►
Cảm thấy sự miễn cưỡng của cha, tôi quyết định tự mình thực hiện một cuộc tìm hiểu nho nhỏ, và một hôm sau khi tan học về, tôi đã một mình đến thư viện trường đại học. Trình độ tiếng Hà Lan của tôi tương đối tốt, lúc ấy, tôi cũng đã học tiếng Pháp và Đức được nhiều năm, và trường đại học cũng có một bộ sưu tập đồ sộ sách tiếng Anh. Những người thủ thư rất nhã nhặn; chỉ qua vài lần rụt rè thăm hỏi tôi đã tìm được tư liệu mình đang tìm kiếm: nguyên văn các tập sách mỏng có xuất xứ từ Nuremberg viết về Dracula mà cha đã đề cập. Thư viện không sở hữu được bản gốc nào của các tập sách trên - chúng rất hiếm, bác thủ thư lớn tuổi, phụ trách mảng tư liệu thời Trung cổ của thư viện giải thích với tôi như vậy, nhưng bác cũng tìm ra văn bản trên trong một danh mục các tài liệu tiếng Đức thời Trung cổ, đã dịch sang tiếng Anh. “Cháu cần cái này phải không, cháu yêu?” bác cười hỏi. Bác có một khuôn mặt rất trắng và sáng thường thấy ở người Hà Lan - đôi mắt xanh màu trời, luôn nhìn thẳng, tóc dường như chỉ dần nhạt đi so với màu cũ chứ không chuyển thành xám bạc. Ông bà nội tôi đã mất ở Boston khi tôi hãy còn bé, nhưng tôi nghĩ có lẽ mình thích có một ông nội như thế. “Bác là Johan Binnerts,” bác nói tiếp. “Cháu có thể gọi bác bất cứ khi nào cần giúp đỡ gì thêm.”
Tôi đáp đây chính là cuốn sách tôi cần, dank u[6], và bác vỗ vai tôi trước khi lặng lẽ bước đi. Trong căn phòng vắng tanh, tôi đọc lại đoạn đầu tiên trong sổ ghi chép của mình:
Năm 1456 sau Công nguyên, Dracula đã có nhiều hành vi kinh khủng và kỳ dị. Khi được tấn phong làm Lãnh chúa xứ Wallachia, hắn đã ra lệnh hỏa thiêu tất cả các nam thiếu niên đến lãnh thổ của hắn để học ngôn ngữ, bốn trăm mạng người cả thảy. Hắn còn hành hình một đại gia đình bằng cách cho đóng cọc xuyên qua người họ và nhiều thần dân của hắn đã bị lột trần truồng, chôn sống đến rốn, sau đó bị hành quyết bằng cách bắn tên. Một số khác bị hắn đem quay sống rồi lột da.
Có một chú thích ở cuối trang đầu. Cỡ chữ ghi chú nhỏ đến độ tôi suýt không nhìn thấy. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đó là một chú giải về từ impaled - đóng cọc xuyên qua người. Người ta nói Vlad Ţepeş đã học được hình thức tra tấn từ người Thổ Nhĩ Kỳ. Kiểu hành hình này là dùng một cọc gỗ nhọn đóng xuyên dọc qua người, thường từ hậu môn hoặc bộ phận sinh dục lên phía trên, sao cho cây cọc trổ ra miệng hoặc đâm xuyên qua đỉnh đầu.
Tôi cố gắng không nhìn những con chữ đó một lúc; rồi đóng sách lại và mất một lúc thật lâu để cố gắng quên chúng đi.
Tuy nhiên, điều ám ảnh tôi nhiều nhất ngày hôm đó, khi đóng cuốn sổ ghi chép lại khoác áo ra về, không phải là hình ảnh ma quái của Dracula, hoặc đoạn chú giải mô tả hình phạt đóng cọc, mà là cái sự thực rằng những sự việc này - rõ ràng - đã thực sự xảy ra. Nếu chú tâm lắng nghe, tôi nghĩ, hẳn mình sẽ nghe được tiếng thét của những thiếu niên ấy, của cái “đại gia đình” đang cùng chết với nhau kia. Mặc dù rất chú tâm đến việc giáo dục lịch sử cho tôi, cha đã bỏ qua không cho tôi biết điều này: những khoảnh khắc khủng khiếp của lịch sử là có thực. Bây giờ, sau nhiều thập niên, tôi đã hiểu rằng cha sẽ không bao giờ dạy được cho tôi sự thật đó. Một sự thật như thế thì chỉ lịch sử mới có thể thuyết phục ta. Và khi đã biết được cái sự thật đó - thực sự đã nhìn thấy nó - người ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ.
Đêm đó, khi về đến nhà, tôi cảm nhận một sức mạnh quái gở và đã đến gặp cha ngay lập tức. Ông đang ngồi đọc sách trong thư viện, trong khi bà Clay loảng xoảng bận rộn với bát đĩa bữa ăn tối trong bếp. Tôi vào thư viện, khép cánh cửa lại sau lưng, đến đứng trước ghế cha đang ngồi. Cha đang cầm trong tay một trong những cuốn sách yêu thích của Henry James, dấu hiệu cho thấy chắc chắn ông đang căng thẳng thần kinh. Tôi đứng yên không nói một lời cho đến khi cha ngẩng đầu lên. “Chào, con đấy à,” cha nói, vừa
tìm thẻ đánh dấu trang sách vừa mỉm cười. “Bài tập đại số phải không?” Đôi mắt cha trông có vẻ lo lắng. “Con muốn cha kể nốt câu chuyện.” Tôi trả lời.
Cha im lặng, nhịp nhịp ngón tay lên thành ghế.
“Tại sao cha không kể tiếp với con?” Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình đang gây phiền hà cho cha. Cha nhìn cuốn sách vừa khép lại. Tôi biết mình đã tàn nhẫn với cha theo một lối tôi không thể hiểu, nhưng tôi đã khởi sự cái việc tàn nhẫn của mình rồi, vì vậy phải kết thúc nó. “Cha không muốn con biết gì hết.”
Rốt cuộc, cha cũng nhìn vào tôi. Khuôn mặt đượm một nỗi buồn bí hiểm, hằn sâu dưới ánh sáng đèn. “Ừ, đúng vậy.”
“Con biết nhiều hơn cha tưởng,” tôi nói, mặc dù cảm thấy đó là một nỗ lực trẻ con: khi cha hỏi, tôi sẽ không muốn nói điều mình đã biết.
Cha chắp hai tay dưới cằm. “Cha biết là con biết,” cha nói. “Và bởi vì con chẳng biết gì cả nên cha sẽ kể cho con nghe hết mọi chuyện.”
Tôi ngạc nhiên, chăm chú nhìn cha. “Vậy thì cha kể đi ạ,” tôi đanh giọng nói.
Cha lại nhìn xuống. “Cha sẽ kể với con, và sẽ kể ngay khi có thể. Nhưng không phải lúc này.” Bất chợt cha òa lên, “Ngay bây giờ cha không thể chịu đựng tất cả những chuyện này được! Hãy kiên nhẫn với cha.”
Vẻ mặt cha hướng về phía tôi là cầu xin, chứ không phải cáo buộc. Tôi đến bên cha, vòng tay ôm lấy đầu ông đang gục xuống.
Tháng Ba ở Tuscany lạnh giá và gió thổi dữ dội, nhưng cha nghĩ một chuyến đi ngắn về miền quê ấy là hợp lý, sau bốn ngày đàm phán - tôi vẫn luôn biết nghề của ông là “đàm phán” - ở Milan. Lần này, tôi không phải yêu cầu cha dẫn tôi theo. “Florence rất tuyệt vời, đặc biệt vào mùa vắng khách,” cha nói vào một buổi sáng khi chúng tôi từ Milan lái xe xuống phía Nam. “Cha muốn con nhìn thấy Florence vào một trong những ngày này. Trước hết, con sẽ phải học hỏi thêm ít nhiều về hội họa và lịch sử của thành phố đó, để thực sự cảm thấy thích thú về nó. Nhưng vùng quê Tuscan mới đích thị là kỳ diệu. Con sẽ thấy - nó sẽ khiến đôi mắt con vừa được nghỉ ngơi thanh thản vừa khích động háo hức.”
Tôi gật đầu, ngồi vào chiếc xe thuê hiệu Fiat. Tình yêu tự do của cha rất dễ lây, và tôi thích cái cách cha nới lỏng cà vạt và cổ áo sơ mi khi chúng tôi hướng về một địa điểm mới. Cha lái chiếc Fiat êm ái chạy trên đường cao tốc bằng phẳng ở phương Bắc. “Thêm nữa, cũng bao năm rồi cha đã hứa với bác Massimo và Giulia là sẽ đến. Họ sẽ không bao giờ tha thứ nếu cha đi ngang qua vùng này mà không ghé thăm họ.” Cha dựa ra sau, duỗi thẳng chân. “Tính tình họ hơi kỳ lạ - lập dị thì đúng hơn, cha nghĩ vậy, nhưng rất tử tế. Con sẵn sàng rồi chứ?”
“Con đã nói con sẵn sàng rồi mà,” tôi đáp. Tôi thích được ở một mình cùng cha hơn là đi thăm viếng người lạ, những người mà sự hiện diện luôn khơi dậy trong tôi tính nhút nhát bẩm sinh, nhưng cha có vẻ nóng lòng muốn gặp lại mấy người bạn cũ đó. Dù sao chăng nữa, nhịp rung rung của chiếc Fiat như ru tôi vào giấc ngủ; tôi đã thấm mệt sau chuyến hành trình bằng tàu hỏa. Sáng hôm đó tôi đã cảm thấy khó chịu, chứng xuất kinh muộn ngày đáng ngại mà bác sĩ vẫn luôn lo lắng, vì nó mà bà Clay lúng túng nhét đầy vali tôi một đống bông băng vệ sinh. Đầu tiên, khi thấy có sự thay đổi này trong phòng vệ sinh trên tàu hỏa, tôi đã khóc vì ngạc nhiên; tựa như ai đó đã làm tôi bị thương; vết máu trên chiếc quần lót vải cotton trông giống dấu ngón tay cái của một tên sát nhân. Tôi không nói gì với cha về việc đó. Các vùng châu thổ dọc dòng sông và những ngọn đồi trập trùng làng mạc xa xa trở thành một bức tranh kỳ ảo vút qua cửa kính xe, sau đó mờ dần đi. Đến lúc ăn trưa tôi vẫn còn buồn ngủ. Chúng tôi dùng bữa trưa ở một thị trấn có rất nhiều quán cà phê và quán rượu tối tăm, đám mèo hoang lười biếng cuộn mình hoặc uể oải vươn vai quanh các lối dẫn vào nhà.
Nhưng khi chúng tôi đua cùng bóng chạng vạng để lên đến một trong số hai mươi thị trấn cao chót vót trên sườn núi và xếp chồng lên nhau xung quanh chúng tôi như những mô típ trong tranh bích họa, tôi đã cảm thấy hoàn toàn tỉnh táo. Buổi chiều tà lộng gió và không một áng mây làm lộ ra mảng hoàng hôn rạn vỡ cuối chân trời - về phía Địa Trung Hải, cha nói, về phía Gibraltar và những nơi chốn khác mà có thể một ngày nào đó chúng tôi sẽ ghé thăm. Bên trên chúng tôi là một thị trấn được xây dựng trên những cột đá, đường phố hầu như thẳng đứng còn ngõ ngách vươn lên cao bằng những bậc tam cấp đá nhỏ hẹp. Cha
lái chiếc xe hơi nhỏ loanh quanh hết nơi này đến nơi kia, có lúc băng ngang qua cửa một nhà hàng Ý, ánh sáng từ đó tỏa xuống lớp đá cuội ẩm ướt bên dưới. Sau đó cha cẩn thận quay tay lái xuống sườn đồi bên kia. “Đây rồi, nếu cha nhớ chính xác.” Cha quẹo xe đi giữa hai hàng bách tùng tối đen vào một con đường nhỏ đầy vết bánh xe. “Biệt thự Montefollinoco, ở Monteperduto. Thị trấn Monteperduto. Con nhớ chứ?”
Tôi nhớ. Chúng tôi đã tra bản đồ suốt buổi điểm tâm, cha dùng một ngón tay dò trên bản đồ qua ly cà phê: “Đây này, Siena. Đích đến của con đấy. Nó thuộc Tuscany. Vượt qua đó là vào ngay Umbria. Đây là Montepulciano, một địa điểm cổ xưa nổi tiếng, và trên sườn đồi tiếp đó là thị trấn của chúng ta, Monteperduto.” Những địa danh chạy ào qua đầu tôi cùng một lúc, nhưng monte có nghĩa là mountain - núi và chúng tôi đang đi tìm một ngôi nhà búp bê giữa những ngọn núi mà tính đến nay chúng tôi đã hai lần qua lại, những ngọn núi phủ thắm sắc màu như những đứa con của dãy Alps.
Trong bóng tối đang dần buông, ngôi biệt thự trông nhỏ bé như một trang trại thấp lè tè xây bằng đá tảng, những cây bách và ô liu đứng thành từng cụm bao quanh các mái ngói màu hung đỏ, vài cây cột đá nghiêng đánh dấu lối đi phía mặt tiền. Cửa sổ tầng một rực sáng ánh đèn, và tôi chợt cảm thấy đói, mệt mỏi, tràn ngập một cảm giác cáu bẳn kiểu tính khí trẻ con mà hẳn tôi sẽ phải che giấu trước mặt những vị chủ nhà. Cha lấy hành lý ra khỏi xe rồi tôi theo chân cha bước tới. “Cả cái chuông cũng còn đây,” cha buột miệng, vẻ hài lòng, kéo một đoạn dây thừng ngắn bên cạnh lối ra vào và vuốt mái tóc ngược ra sau trong bóng tối.
Người đàn ông ra mở cửa xuất hiện như một cơn lốc, ôm chầm và vỗ đồm độp lên lưng cha, thắm thiết hôn lên hai má cha, rồi một cách hơi xa lạ, khẽ cúi xuống bắt tay tôi. Ông đặt bàn tay rộng và ấm lên vai tôi, dẫn tôi vào nhà. Trong phòng tiền sảnh giờ đã dịu bớt ánh đèn và đầy đồ gỗ cổ, ông rống lên. “Giulia! Giulia! Nhanh lên! Rồng đến nhà tôm đây này! Ra đây đi!” Giọng Anh của ông thật dữ dội và quả quyết, mạnh mẽ và ầm ĩ.
Người phụ nữ cao lớn tươi cười bước vào khiến tôi có thiện cảm ngay. Mái tóc đã ngả màu xám nhưng lóng lánh ánh bạc, kẹp gọn ra phía sau để lộ một khuôn mặt dài. Bà mỉm cười với tôi trước nhưng không cúi xuống để chào đón. Bàn tay bà ấm áp, giống như tay ông chồng, bà cũng hôn lên hai má cha, lắc đầu trong khi dịu dàng tuôn một tràng tiếng Ý. “Còn cháu,” bà nói với tôi bằng tiếng Anh, “phải có một phòng riêng cho cháu, một phòng thật ngon lành, được chứ?”
“Dạ được,” tôi đồng ý, nghe có vẻ thích, hy vọng phòng này sẽ ở gần phòng cha và sẽ nhìn ra vùng thung lũng xung quanh, nơi chúng tôi vừa mới vất vả chạy ngược lên từ đó.
Sau bữa ăn tối trong phòng ăn có tường ốp đá, tất cả người lớn đều dựa người ra sau thở phào. “Giulia này,” cha lên tiếng, “mỗi năm cô lại nấu nướng một ngon hơn đấy. Một trong các đầu bếp tuyệt vời của nước Ý.”
“Paulo, anh lại nói vớ vẩn nữa rồi.” Tiếng Anh của bà toát ra âm hưởng Oxford và Cambridge. “Anh toàn nói nhăng nói cuội.”
“Chắc là do rượu Chianti đấy. Cho tôi xem lại cái chai nào.”
“Để tôi rót cho anh ly nữa,” ông Massimo xen vào. “Còn cháu đang theo học ngành gì thế, cháu yêu?” “Cháu học đủ mọi môn ở trường,” tôi nghiêm nghị trả lời.
“Cháu nó thích môn lịch sử, tôi nghĩ vậy,” cha nói thêm với họ. “Cháu rất có khiếu quan sát.” “Lịch sử à?” Massimo lại rót đầy ly của Giulia, rồi ly của mình, thứ rượu vang màu hồng ngọc, hay đỏ sậm như máu. “Giống anh và tôi rồi, Paolo. Bọn ta đã đặt tên này cho cha cháu đấy,” ông quay sang tôi giải thích, “bởi bọn ta không chịu nổi mấy cái tên Anglo nhạt nhẽo như của cháu và cha cháu. Xin lỗi, chỉ là ta không thể chịu nổi. Ông bạn Paolo à, anh biết tôi có thể lăn đùng ra chết khi nghe tin anh từ bỏ cuộc sống trong học viện để đi thương thuyết khắp nơi trên thế giới.[7] Như vậy là anh ta thích nói hơn thích đọc, tôi đã tự nhủ như vậy. Một học giả vĩ đại đã trao mình cho thế giới, người đó chính là cha cháu.” Ông rót cho tôi nửa ly vang mà không buồn hỏi ý kiến cha rồi thêm vào đó một ít nước trong bình để trên bàn. Lúc này tôi mới thấy quý ông ấy.
“Anh lại nói linh tinh rồi,” cha nói, giọng có vẻ thỏa mãn, “Tôi thích đi đây đó, và đó chính là sở thích của tôi.”
“Chà.” Ông Massimo lắc đầu. “Và anh, thưa ngài giáo sư, anh từng nói mình sẽ trở thành người giỏi nhất trong tất cả bọn họ. Chẳng phải quỹ tài trợ do anh thành lập là một thành công tuyệt vời hay sao, tôi biết mà.”
“Chúng ta cần hòa bình và sự khai sáng trong lĩnh vực ngoại giao, chứ không phải thêm những nghiên cứu về mấy vấn đề nhỏ nhặt chẳng ai quan tâm,” cha chống chế và mỉm cười. Bà Giulia thắp ngọn đèn lồng trên tủ buýp phê rồi tắt đèn điện. Bà đặt ngọn đèn ấy trên bàn và bắt đầu cắt chiếc bánh torta mà nãy giờ tôi cố không nhìn một cách đầy thèm muốn. Lớp mặt bánh lấp lánh như đá vỏ chai bên dưới con dao cắt.
“Trong lịch sử, không có những vấn đề nhỏ nhặt.” Ông Massimo nháy mắt với tôi. “Vả lại, ngay cả thầy Rossi vĩ đại cũng nói anh là sinh viên xuất sắc nhất. Còn cả đám còn lại chúng tôi khó ai có thể làm ông ta hài lòng.”
“Thầy Rossi ư?”
Cái tên đó buột ra khỏi miệng mà tôi không kịp ngăn lại. Qua phần bánh của mình, cha lườm tôi, vẻ khó chịu.
“Vậy cháu biết huyền thoại về những thành công của cha cháu trong lĩnh vực học thuật chứ, cô gái trẻ?” Ông Massimo tọng vào mồm miếng bánh sôcôla to tướng.
Cha lại ném cho tôi một cái lườm khác. “Tôi đã kể cho cháu nghe vài chuyện về những ngày đó,” cha nói. Tôi hiểu cái ý ngầm cảnh cáo trong giọng cha. Tuy nhiên, một lát sau, tôi nghĩ ý đó có thể được hướng trực tiếp tới ông Massimo, chứ không phải tôi, bởi lời bình luận tiếp theo của ông Massimo đã khiến tôi phải rùng mình, trước khi cha kịp đánh trống lảng bằng cách nhanh chóng chuyển hướng qua những vấn đề chính trị.
“Thầy Rossi tội nghiệp,” ông Massimo thốt lên. “Một con người tuyệt vời với số phận bi thảm. Thật kỳ lạ khi nghĩ về ai đó mà chính mình từng quen biết lại có thể bỗng nhiên - bụp - biến mất.” Sáng hôm sau, chúng tôi ngồi tại quảng trường ngập nắng trên đỉnh thị trấn, áo khoác cài chặt nút và những tập sách hướng dẫn du lịch trong tay, nhìn hai cậu bé, có lẽ cũng như tôi, hãy còn ở tuổi đến trường. Chúng la hét và chuyền bóng qua lại cho nhau trước nhà thờ, còn tôi chỉ kiên nhẫn chờ đợi. Tôi đã chờ cả buổi sáng, chờ suốt lúc tham quan các nhà nguyện nhỏ tăm tối “có những yếu tố Brunelleschi,” theo lời tay hướng dẫn viên thiếu kiến thức mặt mày ủ ê, và dinh thự Palazzo Pubblico với căn phòng tiếp tân mà hàng thế kỷ qua đã được trưng dụng làm kho chứa thóc. Cha thở dài, đưa cho tôi một chai nước vị hoa quả Orangina, hình dạng cầu kỳ. “Con định hỏi cha chuyện gì phải không?” cha nói giọng thoáng chút rầu rĩ. “Không, con chỉ muốn biết về giáo sư Rossi.” Tôi đút ống hút vào chai Orangina. “Cha cũng nghĩ vậy. Ông Massimo thật thiếu tế nhị khi khơi lại câu chuyện đó.”
Dù sợ hãi khi nghĩ đến câu trả lời nhưng tôi vẫn phải hỏi. “Có phải giáo sư Rossi đã chết không? Có phải đó là điều ông Massimo ngụ ý khi dùng từ biến mất?”
Cha nhìn qua quảng trường ngập đầy ánh nắng, đến quán cà phê và cửa hàng thịt ở phía bên kia. “Đúng. Mà không. Ừm, đó là một chuyện rất buồn. Con thực sự muốn nghe sao?” Tôi gật đầu. Cha liếc nhanh chung quanh. Chúng tôi ngồi trên một ghế đá dài, đặt bên ngoài một trong những dinh thự cổ xinh đẹp, không có ai ngoài các cậu bé đang chạy nhảy thoăn thoắt trên quảng trường. Cuối cùng cha cũng thốt lên, “Thôi được.”
6
◄○►
Như con đã biết, cha nói, đêm đó thầy Rossi trao cho cha gói giấy tờ kia rồi tươi cười tiễn cha ra tận cửa, nhưng lúc quay lưng đi cha chợt có cảm giác là phải giữ chân ông ấy hoặc quay lại trò chuyện với ông ấy thêm một chút. Cha biết đó chỉ là hậu quả của lần nói chuyện kỳ lạ giữa cha và thầy ấy, cuộc nói chuyện kỳ lạ nhất trong cuộc đời cha, nên cha đã cố quên nó ngay tức khắc. Hai nghiên cứu sinh khác trong khoa đi ngang qua, sôi nổi bàn luận, chào thầy Rossi trước khi ông khép cửa lại, rồi nhanh nhẹn bước xuống lầu, theo sau cha. Cuộc chuyện trò ồn ào của bọn họ đã làm cha có cảm giác cuộc sống xung quanh vẫn diễn ra bình thường, nhưng cha vẫn cảm thấy bứt rứt. Cuốn sách có hình con rồng của cha đã là một sự hiện diện nóng bỏng trong cặp, và bây giờ thầy Rossi lại bổ sung thêm chiếc phong bì chứa tài liệu ghi chép còn chưa mở niêm phong này. Cha tự hỏi lát nữa đây, liệu có nên xem qua chúng ngay trong đêm, khi ngồi một mình ở bàn làm việc trong căn hộ nhỏ bé hay không. Cha kiệt sức; cha cảm thấy không thể đối mặt với thứ chứa đựng trong phong bì đó, dù nó có là gì.
Cha cũng không chắc buổi mai và ánh sáng ban ngày có mang trở lại cho mình tinh thần minh mẫn cùng lòng tự tin hay không. Có thể lúc thức dậy thậm chí cha sẽ không còn tin câu chuyện của thầy Rossi, tuy nhiên cha cũng cảm thấy chắc chắn câu chuyện sẽ ám ảnh mình, dù cha có thực sự tin hay không. Và làm sao, cha tự hỏi - khi đã ra khỏi nhà, đi ngang qua dưới cửa sổ phòng thầy Rossi và bất chợt nhìn lên căn phòng vẫn còn sáng ánh đèn - làm sao cha có thể không tin vị giáo sư hướng dẫn của mình trong những vấn đề liên quan đến quá trình nghiên cứu của chính ông ấy? Nếu cha không tin, liệu điều đó có đòi hỏi phải xem xét lại tất cả những công trình mà cha đã cùng thực hiện với ông? Cha run lên khi nghĩ đến những chương đầu tiên trong luận văn của mình, đến bản thảo đánh máy đã được hiệu đính xếp thành chồng ngay ngắn trên bàn làm việc tại nhà. Nếu cha không tin câu chuyện của giáo sư Rossi, liệu cha và ông ấy có thể tiếp tục làm việc chung với nhau hay không? Liệu cha có dám giả định là ông ấy đã mất trí hay không?
Có thể vì đang suy nghĩ về thầy Rossi lúc đi ngang qua dưới cửa sổ phòng làm việc của ông ấy, nên cha mới cực kỳ chú ý đến chuyện lúc đó đèn phòng thầy vẫn còn sáng. Bất luận thế nào, lúc cha thực sự bước vào vùng ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ kia xuống đường, bước hướng về khu vực cha ở, thì chúng - những vũng ánh sáng kia - bất chợt tắt ngóm đúng ngay dưới chân cha. Việc này xảy ra chỉ trong tích tắc, nhưng cảm giác ớn lạnh vì kinh sợ liền tràn ngập trong cha, từ đầu đến chân. Vừa mới mải mê suy nghĩ lúc bước vào vùng sáng ánh đèn hắt ra từ cửa sổ phòng thầy, bây giờ cha đã đứng lặng người ngay nơi đó. Cha nhận ra hai sự việc kỳ lạ hầu như đồng thời. Thứ nhất, từ trước đến nay cha chưa bao giờ thấy vùng ánh sáng đó ở chỗ vỉa hè này, nằm giữa những phòng học kiểu Gothic, dù đã đi trên con đường đó cả ngàn lần. Trước đây cha chưa hề thấy nó vì không thể nhìn thấy nó ở đó được. Bây giờ sở dĩ nó nhìn thấy được là vì tất cả đèn đường đã tắt. Chỉ có mình cha trên con đường đó, những bước chân của cha là âm thanh duy nhất vang vọng quanh đó. Và ngoại trừ những mảng sáng chập chờn hắt ra từ căn phòng mà mười phút trước đây cha và thầy Rossi vừa ngồi trò chuyện, cả khu phố đều tối đen.
Nhận thức thứ hai, cứ cho đúng là nó xuất hiện sau nhận thức thứ nhất đi, ập đến với cha như một cơn liệt kháng khi cha dừng lại. Cha dùng chữ ập đến bởi vì đó là cách nó xảy ra trước mắt cha, chứ không phải trong lý trí hoặc bản năng. Ngay chính khoảnh khắc đó, khi cha đứng chết lặng trên đường đi của nó, ánh sáng ấm áp từ cửa sổ văn phòng vị thầy mẫn tuệ của cha bỗng vụt tắt. Có thể con cho rằng đó là chuyện bình thường: hết giờ làm việc, vị giáo sư cuối cùng còn ở lại cũng đã tắt đèn trước khi rời khỏi tòa nhà, một con phố bỗng tối thui vì đèn đường bất ngờ bị hỏng. Nhưng cảm giác khi ấy thì không giống như vậy. Cha
không có cảm giác như khi một ngọn đèn bàn sau cửa sổ được tắt bình thường. Thay vì vậy, tựa như có một cái gì đó bay vụt lên cánh cửa sổ phía sau cha, che kín nguồn ánh sáng. Sau đó, đường phố hoàn toàn tối đen.
Trong chốc lát, cha như ngừng thở. Khiếp đảm và lóng cóng, cha quay lại, nhìn cánh cửa sổ tối om, gần như vô hình trên con phố tăm tối, rồi bột phát chạy vội đến đó. Giờ cánh cửa mà cha vừa từ đó đi ra đã bị khóa chặt. Không có ngọn đèn nào rọi vào mặt tiền tòa nhà. Vào giờ này, có lẽ bất cứ ai ra ngoài cũng phải khóa chặt cửa lại - tất nhiên, đó là điều bình thường. Cha đứng đó, lưỡng lự, sắp sửa chạy vòng sang cánh cửa khác đến nơi thì ngay lúc ấy đèn đường lại bật sáng, và đột nhiên cha cảm thấy bối rối. Chẳng có dấu vết gì của hai sinh viên lúc nãy còn đi phía sau cha; có lẽ họ đã rẽ sang hướng khác, cha thầm nghĩ.
Nhưng lúc này thì một nhóm sinh viên khác đang tản bộ ngang qua, cười nói; con phố không còn vắng nữa. Điều gì sẽ xảy ra nếu ngay sau đó thầy Rossi bước ra, bởi ông ấy chắc chắn sẽ ra sau khi đã tắt đèn và khóa cửa phòng làm việc, và thấy cha vẫn còn đang chờ ở đây? Ông đã nói không muốn bàn luận thêm về những gì mà cha và ông vừa mới thảo luận. Làm sao cha có thể giải thích với ông những sợ hãi phi lý của mình, ở đó - trên ngưỡng cửa kia, lúc ông khép lại chủ đề ấy - và có lẽ khép lại tất cả những chủ đề quái dị xấu xa ấy? Bối rối, cha quay đi trước khi ông có thể bắt gặp, vội vàng trở về nhà. Ở nhà, cha cứ để chiếc phong bì trong cặp, không mở nó ra, rồi ngủ - dù là chập chờn - suốt đêm.
Hai ngày kế tiếp là hai ngày bận rộn, cha đã không cho phép mình nhìn đến mớ giấy tờ của thầy Rossi; thực ra, cha đã kiên quyết gạt ra khỏi đầu óc tất cả những điều bí ẩn kia. Vì vậy, vào cuối buổi chiều hôm thứ hai sau đó, cha hết sức ngạc nhiên khi một đồng sự cùng khoa chặn cha lại trong thư viện. “Anh đã nghe tin gì về thầy Rossi chưa?” anh ta hỏi, chụp lấy cánh tay cha và giật lại lúc cha đang vội vàng đi ngang qua khiến cha lảo đảo. “Paolo, đợi chút.” Phải, con đã đoán đúng - đó là Massimo. Ông ấy cao lớn và nói rất lớn tiếng ngay từ hồi còn là một nghiên cứu sinh, có lẽ còn nói to hơn bây giờ nhiều. Cha nắm chặt cánh tay ông.
“Thầy Rossi ư? Chuyện gì? Ông ấy thế nào?”
“Ông ấy đã đi rồi. Biến mất. Cảnh sát đang lục soát phòng làm việc của ông ấy.”
Cha vội lao ngay đến khu nhà ấy, lúc này trông nó rất bình thường, phía bên trong lờ mờ ánh nắng buổi chiều muộn và đông đầy các sinh viên đang tan lớp học. Trên tầng hai, trước phòng làm việc của thầy Rossi, một nhân viên cảnh sát của thành phố đang nói chuyện với trưởng khoa và vài người khác mà cha chưa hề gặp. Khi cha đến, hai người đàn ông mặc áo khoác đen đang ra khỏi phòng làm việc của thầy, đóng chặt cánh cửa lại sau lưng rồi rảo bước hướng về phía cầu thang và các phòng học. Cha chen lấn bước tới, hỏi viên cảnh sát. “Giáo sư Rossi đâu? Chuyện gì đã xảy ra với ông ấy?”
“Anh biết ông ta?” viên cảnh sát hỏi, ngẩng đầu lên khỏi sổ ghi chép, nhìn cha.
“Ông ấy là giáo sư hướng dẫn của tôi. Đêm hôm kia tôi đã ở đây. Có người nói ông ấy đã mất tích?” Ông trưởng khoa tiến đến, bắt tay cha. “Anh biết những gì về chuyện này? Trưa hôm nay, bà giúp việc điện đến nói là cả đêm hôm qua và hôm kia ông ấy đều không về nhà - ông ấy không gọi bữa tối và cả bữa điểm tâm. Bà ấy nói trước nay ông ấy không hề như vậy. Ông ấy đã bỏ một cuộc họp khoa chiều nay mà không điện báo trước, đó cũng là việc ông ấy chưa bao giờ làm. Một sinh viên ghé lại báo là phòng làm việc ông ấy bị khóa suốt giờ làm việc, trong khi trước đó họ đã thỏa thuận hẹn gặp nhau, và giáo sư Rossi không hề xuất hiện. Ông ấy cũng đã bỏ bài giảng hôm nay, và cuối cùng tôi phải cho người phá cửa.” “Thầy ấy có trong đó chứ?” Cha cố không thở hổn hển.
“Không.”
Cha gạt bọn họ ra và loạng quạng đi về cửa phòng làm việc của thầy Rossi, nhưng viên cảnh sát đã kéo tay cha lại. “Đừng nôn nóng như vậy,” anh ta nói. “Anh nói đêm kia anh đã ở đây?” “Đúng vậy.”
“Anh trông thấy ông ta lần cuối lúc mấy giờ?”
“Khoảng tám giờ ba mươi.”
“Lúc đó anh còn thấy ai khác quanh đây không?”
Cha suy nghĩ. “Có, chỉ có hai sinh viên trong khoa - Bertrand và Elias, tôi nghĩ vậy, họ đi ra cùng một lúc với tôi. Lúc tôi ra thì họ cũng ra.”
“Tốt. Xác minh việc này đi,” viên cảnh sát nói với một trong số những người đứng đó. “Anh có nhận thấy điều gì không bình thường trong hành vi của giáo sư Rossi không?”
Cha có thể nói gì đây? Vâng, thực ra… thầy đã nói với tôi rằng ma cà rồng có thật, rằng Bá tước Dracula vẫn đang sống giữa chúng ta, rằng có thể tôi vừa được thừa hưởng một lời nguyền từ công trình nghiên cứu của chính thầy, và rồi tôi thấy ánh đèn phòng ông ấy vụt tối đi như thể bị một gã khổng lồ che khuất ư?
“Không,” cha trả lời. “Chúng tôi có một cuộc gặp để thảo luận về luận văn của tôi và đã ngồi chuyện trò với nhau đến khoảng tám giờ rưỡi.”
“Xong hai người cùng nhau ra về?”
“Không, tôi về trước. Ông ấy tiễn tôi đến cửa rồi trở lại phòng làm việc.”
“Anh có thấy điều gì hoặc người nào đáng nghi ở quanh tòa nhà lúc anh ra về không? Hoặc có nghe thấy gì không?”
Cha lại ngần ngại. “Không, không có gì. À, có việc mất điện trong giây lát trên đường phố. Đèn đường bị tắt.”
“Vâng, điều đó đã được ghi nhận. Nhưng anh không nghe hoặc thấy điều gì bất thường sao?” “Không.”
“Cho đến nay anh là người cuối cùng trông thấy giáo sư Rossi,” viên cảnh sát nhấn mạnh. “Gắng nhớ lại xem. Khi anh đang ở cùng giáo sư, ông ta có hành động hay nói điều gì kỳ lạ? Bất kỳ lời nào về tuyệt vọng, tự tử, hoặc bất kỳ điều gì tương tự? Hoặc bất kỳ lời nói nào về việc bỏ đi hoặc một chuyến đi, chẳng hạn?”
“Không, chẳng có gì như vậy cả.” Cha thành thực trả lời. Tay cảnh sát ném cho cha một cái nhìn không mấy thân thiện.
“Tôi cần tên và địa chỉ của anh.” Ông ta ghi lại mọi thứ rồi quay qua ông trưởng khoa. “Ông có thể xác nhận về chàng trai trẻ này chứ?”
“Chắc chắn anh ấy là người đúng như lời anh ấy nói.”
“Được rồi,” tay cảnh sát nói với cha. “Tôi muốn anh vào đây với tôi và cho tôi biết anh có thấy gì bất thường không. Đặc biệt là bất kỳ cái gì khác lạ so với đêm hôm kia. Đừng đụng vào bất kỳ thứ gì. Thành thực mà nói, hầu hết những trường hợp như thế này đều hóa ra là vì một chuyện gì đó dễ đoán, chuyện khẩn cấp gia đình hoặc một cơn trầm cảm nho nhỏ nào đó - chắc hẳn ông ấy sẽ quay về trong ngày một ngày hai thôi, tôi đã chứng kiến những việc như thế này cả triệu lần rồi. Tuy nhiên, do có máu trên bàn, nên chúng tôi không thể hành động sơ suất được.”
Máu trên bàn? Đôi chân cha như muốn sụm xuống dưới sức nặng cơ thể nhưng cha cố tỏ ra tự nhiên bước chậm rãi theo sau viên cảnh sát. Căn phòng nhìn vẫn như hàng chục lần trước đây khi cha có dịp nhìn nó dưới ánh sáng ban ngày: gọn gàng, dễ chịu, bàn ghế ở đúng tư thế sẵn sàng đón khách, sách vở và giấy tờ được xếp đúng vị trí của chúng thành từng chồng trên các bàn cũng như bàn làm việc. Cha bước lại gần hơn. Phía bên kia bàn làm việc, trên tờ giấy thấm màu nâu của thầy Rossi là một vũng chất lỏng sậm màu, kể từ khi loang ra, ngấm xuống rồi định hình ở đó hẳn đã khá lâu. “Lượng máu bị mất không đủ gây tử vong,” viên cảnh sát nói. “Có lẽ một ca chảy máu cam nặng hoặc một loại xuất huyết nào đó. Giáo sư Rossi có bị chảy máu cam lần nào khi anh có mặt bên ông ấy? Tối hôm đó, ông ta có vẻ gì bệnh tật không?”
“Không,” cha trả lời. “Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy - chảy máu cam - mà ông ấy cũng chưa bao giờ nói với tôi về chuyện sức khỏe.” Cha bất chợt nhận ra, hết sức rõ ràng, là cha đã nói về những cuộc đàm thoại giữa ông ấy và cha bằng các động từ ở thì quá khứ, tựa như chúng đã vĩnh viễn trôi qua. Cổ họng cha như nghẹn lại vì xúc động khi nhớ lại hình ảnh thầy Rossi đứng ở cửa, tươi cười nhìn cha ra về. Phải chăng ông đã tự làm mình bị thương, bằng cách nào đó - thậm chí là cố ý? - trong một khoảnh khắc bất ổn, và rồi hấp tấp khóa cửa phòng lại, bỏ đi? Cha cố hình dung ra cảnh tượng ông ấy đang nửa tỉnh nửa mê trong một công viên nào đấy, có thể đang đói và rét, hoặc đang đáp một chuyến xe buýt đến một nơi chốn ngẫu nhiên nào đó. Chẳng có giả thiết nào hợp lý. Rossi vốn là một người khỏe mạnh, bản chất trầm tĩnh và sáng suốt như bất kỳ người nào cha từng gặp.
“Hãy nhìn quanh thật kỹ.” Viên cảnh sát buông tay khỏi vai cha. Ông ta nhìn cha chăm chú, còn cha thì có cảm giác ông trưởng khoa và những người khác vẫn đang lảng vảng ở lối đi trước cửa, sau lưng cha và ông ta. Cha chợt nhận ra cho đến khi chứng minh được ngược lại, cha sẽ vẫn nằm trong số những người bị tình nghi, trong trường hợp giáo sư Rossi bị sát hại. Nhưng Bertrand và Elias sẽ làm chứng cho cha cũng như cha sẽ làm chứng cho họ. Cha chăm chú quan sát mọi vật trong phòng, như cố nhìn xuyên qua chúng. Nhưng đó là một nỗ lực tuyệt vọng; mọi vật đều có thực, bình thường, vững chắc, và thầy Rossi đã hoàn toàn biến mất.
“Không,” sau cùng cha thốt lên. “Tôi không thấy có điều gì bất thường.”
“Được rồi.” Tay cảnh sát hướng cha về phía cửa sổ. “Vậy thì anh hãy ngước lên đi.” Trên trần nhà thạch cao màu trắng phía trên bàn làm việc, phía bên trên cha và viên cảnh sát, có một vết bẩn màu đen dài khoảng mười hai phân, nghiêng xéo về một bên tựa như chỉ về một cái gì đó ở phía bên ngoài. “Cái đó cũng có vẻ là máu. Đừng lo, nó có thể là của giáo sư Rossi hoặc không. Trần nhà này quá cao, một người bình thường không thể với tới, ngay cả đứng trên ghế. Chúng tôi sẽ cho xét nghiệm mọi thứ. Bây giờ, anh hãy suy nghĩ kỹ vào. Đêm đó, ông Rossi có đề cập đến việc có một con chim bay vào phòng không? Hoặc anh có nghe âm thanh gì đó khi ra về, có thể giống như có cái gì đó đi vào? Anh có nhớ lúc đó cửa sổ mở hay đóng không?”
“Không,” cha trả lời. “Ông ấy chẳng đề cập đến chuyện gì như vậy cả. Các cửa sổ đều đóng kín, tôi chắc chắn vậy.” Cha không thể rời mắt khỏi cái vệt kia; cha có cảm giác nếu quan sát đủ lâu hẳn cha có thể sẽ đọc ra điều gì đó trong cái hình dạng tượng hình đáng sợ của nó.
“Đã nhiều lần chim bay vào tòa nhà này,” ông trưởng khoa lên tiếng ở sau lưng chúng tôi. “Lũ bồ câu. Thỉnh thoảng chúng bay vào qua các cửa sổ trên mái.”
“Đó là một khả năng,” tay cảnh sát nói. “Mặc dù chúng tôi không tìm thấy chút phân chim nào, nhưng đó dứt khoát là một khả năng.”
“Hoặc dơi,” ông trưởng khoa lại lên tiếng. “Bọn dơi thì sao? Những tòa nhà cũ kỹ này chắc hẳn có đủ tất cả mọi loài vật sinh sống trong đó.”
“Vâng, đó là một khả năng nữa, nhất là khi ông Rossi dùng một cái chổi hoặc dù để cố đánh đuổi và làm bị thương một con vật gì đó.” Một giáo sư đứng ở lối cửa vào góp ý.
“Anh đã từng thấy ở đây có vật gì giống như dơi hoặc chim chưa?” Tay cảnh sát lại hỏi cha. “Chưa,” cha trả lời. Phải mất vài giây để một từ đơn giản hình thành và bật ra trên môi cha, nhưng cha hầu như không hiểu được ý nghĩa câu hỏi của anh ta. Rốt cuộc, mắt của cha cũng bắt được cái ý nghĩa tiềm ẩn của phần đuôi vệt đen và cái mà dường như nó muốn hướng đến. Trên ngăn trên cùng của kệ sách, trong dãy “những việc thất bại” của thầy Rossi, một cuốn sách đã biến mất. Nơi hai đêm trước ông đặt cuốn sách bí ẩn của mình trở lại vị trí cũ bây giờ là một khe hở đen ngòm giữa các gáy sách. Các bạn đồng nghiệp đưa cha ra ngoài, vỗ vỗ lên lưng khuyên cha đừng lo lắng; chắc hẳn mặt cha đã trắng bệch như một tờ giấy. Cha quay sang tay cảnh sát đang khép và khóa cánh cửa phía sau lưng. “Có thể nào giáo sư Rossi đã ở trong một bệnh viện nào đó sau khi ông tự cắt vào người hoặc ai đó gây thương tích cho ông ấy?”
Viên sĩ quan cảnh sát lắc đầu. “Chúng tôi có đường dây liên lạc với các bệnh viện, và đã kiểm tra. Không có dấu vết gì của ông ta. Tại sao anh hỏi vậy? Anh nghĩ ông ta có thể tự gây thương tích sao? Tôi nhớ là anh đã nói ông ta không có vẻ như muốn tự sát hoặc thất vọng gì kia mà.”
“Phải, đúng vậy.” Cha hít vào một hơi thật sâu và lại cảm thấy sức nặng cơ thể đang đè lên đôi chân. Trần nhà quá cao, ông có cắt cổ tay thì đằng nào cũng không thể làm vấy bẩn lên đến đó được - đó cũng là một điều an ủi chẳng mấy vui vẻ.
“Nào, các bạn, lên đường thôi.” Ông ta quay sang ông trưởng khoa, và họ vừa đi vừa rì rầm trao đổi với nhau. Đám người chung quanh cửa phòng bắt đầu tản mác, cha bỏ đi trước họ. Trên tất cả mọi điều, cha đang cần một nơi yên tĩnh để ngồi xuống.
Chiếc ghế dài ưa thích của cha trong gian giữa thư viện trường đại học cổ kính vẫn còn ấm hơi nóng ánh mặt trời của buổi chiều mùa xuân. Chung quanh, ba hoặc bốn sinh viên đang đọc sách hay thì thầm nói chuyện, cha cảm nhận cái không khí êm ả quen thuộc của nơi trú ẩn đậm chất học thuật kia như thấm sâu
vào xương tủy mình. Gian sảnh lớn của thư viện trổ những khung cửa sổ nhiều màu sắc, qua một số cửa sổ đó, người ta có thể nhìn vào các phòng đọc, các hành lang giống như trong tu viện và các sân trong, vì vậy cha có thể nhìn thấy mọi người đi lại ở cả bên trong lẫn bên ngoài, hoặc đang nghiên cứu này nọ tại những bàn gỗ sồi lớn. Đó là quãng thời gian cuối một ngày bình thường; chẳng bao lâu ánh mặt trời sẽ biến mất khỏi các phiến đá dưới chân cha và cả thế giới sẽ đắm chìm trong ánh chiều chạng vạng - ghi dấu bốn mươi tám giờ tròn kể từ lúc cha ngồi trò chuyện với vị thầy thông tuệ của mình. Còn giờ thì, tri thức và hoạt động của con người vẫn chiếm ưu thế ở đây, làm chậm bước của bóng tối.
Cha thấy cũng nên lưu ý với con là trong những ngày đó, khi làm việc, cha thích được ở hoàn toàn một mình, không bị quấy rầy, trong sự tĩnh lặng giống như ở tu viện. Cha đã mô tả ngăn làm việc của cha ở thư viện rồi đấy, ở tầng trên kho sách thư viện, nơi cha có được góc của riêng mình và cũng là nơi cha đã tìm thấy cuốn sách kỳ lạ đã làm thay đổi cả cuộc đời và suy nghĩ của cha hầu như chỉ sau một đêm. Cách đó hai hôm, cũng khoảng giờ này cha vẫn còn đang làm việc ở đấy, bận rộn và không hề lo âu sợ hãi, chuẩn bị dọn dẹp những cuốn sách viết về Hà Lan và vội vàng cho một cuộc gặp gỡ thú vị với vị thầy thông tuệ của mình. Cha không nghĩ gì ngoài điều mà năm ngoái Heller và Herbert đã viết về lịch sử nền kinh tế thành phố Utrecht và làm thế nào để phản bác lại điều đó bằng một bài viết, có thể là một bài trích ra từ một trong các chương luận văn của cha.
Thực ra, nếu có tưởng tượng được phần nào về quá khứ, thì cha chắc chỉ hình dung ra những người Hà Lan có chút ngớ ngẩn, có chút tham lam kia đang tranh luận về những vấn đề cỏn con trong các phường hội buôn bán của họ, hoặc đang đứng, tay chống nạnh, trong những khung cửa bên trên dòng kênh, nhìn những sọt hàng hóa được kéo lên tầng trên cùng của những căn nhà “kiêm kho” của họ. Nếu cha từng nhìn được một phần nào đó của quá khứ, hẳn cha sẽ thấy được những khuôn mặt hồng hào, phóng khoáng của người miền biển, những cái trán vồ, những đôi tay thành thạo; nghe được âm thanh kẽo kẹt từ những chiếc tàu xinh đẹp của họ va vào nhau; cảm nhận được hương vị của các loại gia vị, nhựa đường và cống rãnh ở các cầu tàu; và cảm thấy thú vị trước sự khôn khéo nhưng kiên quyết trong việc mua bán và mặc cả của họ.
Nhưng dường như lịch sử, có thể là cái gì đó khác hẳn, một vệt máu mang trong nó nỗi thống khổ mà sau một đêm, thậm chí sau hàng thế kỷ, cũng không dễ gì quên đi. Từ nay, những nghiên cứu của cha sẽ chuyển sang một kiểu mới - mới đối với cha, nhưng không phải vậy đối với giáo sư Rossi và nhiều người khác, những người từng dò dẫm bước qua cái bụi rậm tăm tối đó. Cha muốn khởi đầu loại hình nghiên cứu mới mẻ này trong tiếng xôn xao phấn khởi và tiếng chuông rền vang trong gian chính sảnh, chứ không phải trong những kho sách im lìm, thỉnh thoảng chỉ vọng lại những bước chân nặng nề, mệt mỏi từ những bậc cầu thang xa xa. Cha muốn mở ra giai đoạn kế tiếp cuộc đời nghiên cứu sử của mình ở đó, dưới ánh mắt vững tin của các nhà nhân học trẻ tuổi, những người thủ thư già dạn dày kinh nghiệm, những chàng trai mười tám tuổi đang nghĩ về các trận bóng hay những đôi giày trắng mới, hoặc những sinh viên tươi cười cùng những giáo sư danh dự có vẻ điên khùng nhưng thực ra rất lành - tất cả các sinh hoạt buổi chiều tối của trường đại học. Cha nhìn quanh một lần nữa gian sảnh đông người, những vạt nắng đang nhanh chóng lùi dần, những cánh cửa ở lối ra vào chính liên tục đóng mở quanh bản lề bằng đồng. Rồi thì cha cũng cầm cái cặp cũ kỹ của mình lên, mở khóa và lôi ra một phong bì màu đen dày cộm, có chữ viết của thầy Rossi bên ngoài. Chỉ vỏn vẹn có dòng chữ sau: LƯU GIỮ CHO NGƯỜI KẾ TIẾP.
Người kế tiếp? Hai đêm trước cha đã không nhìn kỹ chiếc phong bì này. Phải chăng ông ấy có ý để dành thông tin được phong kín này cho lần nỗ lực kế tiếp của chính mình cho công trình này, cho cái pháo đài tăm tối này? Hoặc phải chăng chính cha là “người kế tiếp”? Liệu đây có phải là bằng chứng rằng ông đã mất trí?
Bên trong phong bì, cha thấy một xấp giấy tờ có trọng lượng và kích thước khác nhau, nhiều tờ đã xỉn màu và có vẻ như đã mỏng đi theo năm tháng, một số là giấy vỏ hành đặc kín những hàng chữ đánh máy. Một khối lượng tư liệu đồ sộ. Cha quyết định phải soạn chúng ra. Cha đến chiếc bàn màu mật ong gần nhất, bên cạnh tủ thẻ danh mục. Ở đó vẫn còn đông người, những người lạ thân thiện, nhưng cha vẫn nghi ngại liếc chừng trước khi lấy mớ tài liệu ra và sắp xếp lại trên bàn.
Hai năm trước, cha đã xử lý vài bản thảo viết tay của ngài Thomas More, một số các bức thư gửi từ Amsterdam của Albrecht Cha, và gần đây đã giúp lập danh mục một bộ sổ sách kế toán tiếng Flemish có từ
những năm 1680. Cha biết, đối với một nhà sử học, thứ tự thời gian của bất kỳ tài liệu lịch sử được tìm thấy là một phần quan trọng trong bài học mà nó mang lại. Lôi giấy bút ra, cha lập một bản kê thứ tự của từng hạng mục tài liệu mà cha rút ra. Tài liệu đầu tiên, cái ở trên cùng trong số các tài liệu của thầy Rossi là những tờ giấy vỏ hành. Chúng dày đặc những hàng chữ đánh máy ngay ngắn, ít nhiều dưới dạng những lá thư. Cha cẩn thận xếp chúng lại với nhau mà không cho phép mình nhìn kỹ.
Tài liệu thứ hai là một bản đồ, vẽ bằng tay, rõ ràng nhưng vụng về. Nó đã mờ, các dấu hiệu và địa danh lờ mờ hiện ra trên một tờ giấy, sờ vào có cảm giác là lạ, dày như giấy sổ tay, rõ ràng là bị xé ra từ một cuốn sổ cũ nào đó. Tiếp theo là hai tấm bản đồ giống nhau. Sau đó là ba trang giấy rải rác những ghi chú viết tay, bằng mực và đọc được dễ dàng. Cha xếp chúng lại với nhau. Kế tiếp là một tập quảng cáo chào mời khách du lịch đến với “Rumani lãng mạn” bằng tiếng Anh, có vẻ như mang phong cách trang trí Deco, giống như một sản phẩm của các thập niên 1920 và 1930. Tiếp theo, hai hóa đơn của một khách sạn và các bữa ăn đã dùng ở đó. Ở Istanbul, thực tế là vậy. Rồi một bản đồ lớn, cũ về đường sá vùng Balkan, in hai màu một cách cẩu thả. Thứ cuối cùng là một phong bì nhỏ màu ngà, dán kín và không ghi gì bên ngoài. Cha để phong bì đó qua một bên, không đụng đến nắp phong bì, theo đúng kiểu anh hùng mã thượng.
Chỉ có vậy. Cha đã dốc ngược và thậm chí còn lắc lắc chiếc phong bì màu nâu lớn đó đến độ tưởng chừng như xác một con ruồi chết cũng không thể không bị phát hiện. Khi đang làm động tác đó, cha bất chợt (và cũng là lần đầu tiên) có cảm giác ấy, cảm giác sẽ theo cha trong suốt những nỗ lực cha phải thực hiện sau này: Cha cảm nhận sự hiện diện của thầy Rossi, niềm tự hào của ông về tính chu đáo ở cha, điều gì đó như linh hồn ông đang sống và trò chuyện với cha qua những phương pháp thận trọng mà ông đã truyền dạy cho cha. Cha biết, với tư cách một nhà nghiên cứu, ông ấy đã làm việc một cách nhậm lẹ, nhưng đồng thời cũng biết rằng ông không bao giờ lạm dụng hoặc bỏ sót điều gì - không bỏ sót một tài liệu nào, một tư liệu lịch sử nào, dù nằm ở một nơi xa xôi cách trở đến đâu, và càng chắc chắn không bỏ sót một ý tưởng nào của các bạn bè đồng sự, bất chấp nó có lạc mốt đến đâu. Sự biến mất của ông và - đầu óc cha như quay cuồng trong dòng suy tưởng - việc ông quá ư cần đến cha, đột nhiên đã khiến cha và ông trở nên gần như ngang hàng. Cha cũng có cảm tưởng là ông vẫn luôn hứa hẹn với cha điều này, sự bình đẳng này, từ trước tới nay, và chờ đợi cho đến lúc cha nhận được nó.
Bây giờ, mọi thứ vẫn còn nguyên sơ và đang được bày ra trên bàn, trước mặt cha. Cha khởi đầu với những lá thư, những bức thư dài dày đặc chữ đánh máy trên loại giấy vỏ hành, rất ít lỗi và ít chỉnh sửa. Mỗi lá thư chỉ có một bản và có vẻ như chúng đã được sắp xếp theo trình tự thời gian. Được ghi ngày tháng cẩn thận, tất cả đều được viết từ tháng Mười hai năm 1930, hơn hai mươi năm trước. Trên đầu mỗi lá thư đều có tiêu đề CAO ĐẲNG TRINITY, OXFORD, không có địa chỉ chi tiết. Cha liếc qua lá thư thứ nhất. Nó thuật lại chuyện Rossi đã tìm thấy cuốn sách bí ẩn và nghiên cứu sơ khởi của ông tại Oxford. Lá thư được ký tên “Người bạn khổ đau của anh - Bartholomew Rossi”. Và lá thư mở đầu - Cha cầm tờ giấy vỏ hành cẩn thận ngay cả khi tay đã bắt đầu hơi run - lá thư bắt đầu một cách thân mật: “Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi…”
Cha đột nhiên dừng lại, giọng nói run run của cha làm tôi phải kín đáo quay mặt đi trước khi cha có thể gắng gượng nói tiếp được điều gì khác. Như ngầm đồng thuận, chúng tôi cầm áo khoác lên, tản bộ băng qua cái quảng trường nhỏ bé và nổi tiếng, vờ như mặt tiền của ngôi nhà thờ kia vẫn còn thu hút sự chú ý của chúng tôi.
7
◄○►
Nhiều tuần lễ sau cha đó, không rời khỏi Amsterdam, và suốt thời gian này tôi cảm thấy cha đã để mắt theo dõi tôi theo một kiểu cách mới. Một ngày kia, sau khi tan học, tôi về nhà trễ hơn thường lệ một chút và thấy bà Clay đang nói chuyện điện thoại với cha. Bà chuyển máy cho tôi ngay. “Con đã ở đâu vậy?” cha hỏi. Cha gọi từ phòng làm việc ở Trung tâm vì Hòa bình và Dân chủ. “Cha đã điện thoại lần thứ hai và bà Clay vẫn không thấy con. Con đã làm cho bà ấy lo sốt vó lên đấy.”
Cha lo sốt vó thì có, tôi có thể nói thế, dù cha đã cố gắng giữ giọng bình thản. “Con ngồi đọc sách tại một quán cà phê mới mở gần trường,” tôi trả lời.
“Được rồi,” cha tiếp tục. “Vậy lần sau nhớ gọi điện báo cho bà Clay hoặc cha biết nếu con về trễ, thế nhé.”
Tôi chẳng muốn đồng ý với ý kiến đó chút nào nhưng vẫn trả lời là sẽ gọi. Đêm đó, cha về nhà sớm để dùng bữa tối và đọc cho tôi nghe cuốn Những kỳ vọng vĩ đại. Sau đó, cha lấy ra một vài album ảnh và chúng tôi cùng xem: Paris, Luân Đôn, Boston, đôi giày trượt patanh đầu tiên, lễ tổng kết cuối năm lớp ba của tôi, rồi lại Paris, Luân Đôn, Rome. Bao giờ cũng chỉ có tôi, đứng trước Điện Pantheon hoặc trước cánh cổng thánh đường Cha Lachaise, bởi chỉ có hai chúng tôi và cha là người chụp hình. Chín giờ, cha kiểm tra tất cả cửa nẻo rồi để tôi đi ngủ.
Lần kế tiếp, khi về nhà trễ tôi đã gọi điện báo cho bà Clay, giải thích là tôi và vài người bạn cùng lớp sẽ cùng làm bài tập với nhau trong giờ uống trà. Bà bảo thế thì được. Tôi gác máy và một mình đến thư viện trường đại học. Bác Johan Binnerts, người thủ thư chuyên về các bộ sưu tập thời Trung cổ ở Amsterdam, giờ đã quen với sự có mặt của tôi, tôi nghĩ vậy; ít ra bác cũng nở một nụ cười nghiêm nghị mỗi lần tôi ghé qua với một câu hỏi mới, bác luôn hỏi thăm xem mấy bài tiểu luận lịch sử của tôi tiến triển thế nào rồi. Bác Binnerts đã tìm được cho tôi một đoạn trong một văn bản thế kỷ thứ mười chín mà tôi vô cùng vui mừng khi nhận được và đã bỏ thời gian ra chép lại nó. Hiện tại tôi đã có văn bản đó, trong phòng làm việc ở Oxford - vài năm sau, tôi lại tìm thấy cuốn sách đó trong một hiệu sách: cuốn Lịch sử Trung Âu của Huân tước Gelling. Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn tha thiết gắn bó với cuốn sách, dù chưa bao giờ mở nó ra mà không mang theo mình một cảm giác trống rỗng, ảm đạm. Tôi nhớ như in cảnh tượng bàn tay của chính mình, bàn tay mềm mại và trẻ trung, chép những đoạn văn trong đó vào cuốn sổ học trò:
Ngoài việc biểu lộ tính độc ác tột cùng, Vlad Dracula còn rất can đảm. Một bằng chứng về sự táo bạo của ông ta: năm 1462, Dracula đã vượt sông Danube và tiến hành một cuộc đột kích ban đêm bằng kỵ binh vào ngay doanh trại nơi Quốc vương Mehmed II và quân đội của ông ta tập kết hòng tấn công Wallachia. Trong cuộc đột kích này, Dracula đã tàn sát hàng ngàn chiến binh Thổ Nhĩ Kỳ, và vị Quốc vương Hồi giáo chỉ thoát chết trong gang tấc khi lực lượng vệ binh đế quốc Ottoman đẩy lui được quân Wallachia.
Tuy có thể thu thập được một số lượng tương đương các tư liệu liên quan đến tên tuổi của bất kỳ vị đại lãnh chúa phong kiến nào trong thời đại của họ - lắm khi còn nhiều hơn trường hợp này, và ở một số ít trường hợp khác, số lượng tư liệu còn có thể vượt xa, nhưng điều vô cùng kỳ lạ về mảng thông tin có được về Dracula là tính bất tử của nó - tức là hắn đã không chịu chết đi như một nhân vật trong lịch sử, huyền thoại về hắn vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng. Một vài nguồn thông tin có giá trị ở Anh quốc đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến những nguồn tư liệu mà sự đa dạng của chúng hẳn sẽ khiến bất kỳ nhà sử học nào cũng đều phải nổi tính tò mò. Dracula có vẻ như đã khét tiếng ở châu Âu ngay thuở sinh thời của hắn - một thành tựu tuyệt vời trong những ngày mà châu Âu vẫn còn là một vùng rộng lớn và, theo tiêu chuẩn hiện
tại của chúng ta, còn bị phân mảng chia cắt nặng nề, một thế giới mà các chính quyền phải liên lạc với nhau bằng những kỵ mã sứ giả và thuyền vận tải đường sông, ở vào thời điểm mà tính tàn bạo kinh hoàng là một đặc trưng bình thường của tầng lớp quý tộc. Sự khét tiếng của Dracula không kết thúc cùng cái chết bí ẩn của hắn và vụ mai táng kỳ lạ năm 1476, nhưng hình như nó cũng vẫn tiếp diễn không hề suy giảm cho đến khi tự tàn lụi trong ánh sáng rực rỡ của Thời Đại Khai Sáng ở phương Tây.
Mục viết về Dracula chấm dứt ở đó. Dù đã có khối việc liên quan đến lịch sử để lo nghĩ cả ngày, tôi vẫn lang thang đến bộ phận chuyên trách văn học tiếng Anh và vui sướng khi phát hiện ra thư viện có một cuốn Dracula của Bram Stoker. Thực ra sau đấy tôi còn lui tới đó đôi lần để đọc cuốn sách. Tôi không biết có được phép mượn sách ở đó mang về nhà hay không, nhưng dù được tôi cũng không muốn mang cuốn sách đó về nhà, vì chắc chắn tôi sẽ rất khó chọn lựa giữa việc giấu kín và việc thận trọng công khai cuốn sách trong nhà. Thay vì vậy, tôi đã ngồi đọc cuốn Dracula trên một chiếc ghế trượt, bên cạnh cửa sổ thư viện. Nếu thò đầu ra ngoài, tôi có thể nhìn thấy một trong những dòng kênh ưa thích của mình, kênh Singel, cùng với khu chợ hoa trên kênh và những người đang mua bánh mì cá trích ở một quầy hàng nho nhỏ. Đó là một vị trí rất ít người qua lại, sau lưng một kệ sách che khuất tôi khỏi tầm nhìn của các độc giả khác trong phòng.
Ở đó, trong chiếc ghế đó, tôi để mặc những câu chuyện kinh dị phong cách Gothic và tình ái phóng túng thời Victoria của Stoker thay phiên nhau xâm chiếm tâm hồn mình. Tôi không chắc lắm mình muốn gì từ cuốn sách; theo cha, giáo sư Rossi cho rằng cuốn sách này hầu như không phải là một nguồn thông tin hữu ích về nhân vật Dracula có thực. Tôi nghĩ, dù không giống gì nhiều với Vlad Ţepeş nhưng Bá tước Dracula lạnh lùng trong cuốn tiểu thuyết là một nhân vật hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng chính giáo sư Rossi lại tin chắc rằng Dracula đã biến thành ma cà rồng, khi còn sống - trong suốt tiến trình lịch sử. Tôi băn khoăn tự hỏi liệu một cuốn tiểu thuyết có đủ năng lực làm cho một chuyện nào đó vô cùng kỳ quái biến thành có thực hay không. Xét cho cùng, giáo sư Rossi đã tiến hành công việc tìm tòi của mình rất lâu sau ngày cuốn Dracula được xuất bản. Vlad Dracula, mặt khác, lại là một thế lực độc ác sống ở cái thời cách gần bốn trăm năm trước khi Stoker ra đời. Quả thực rất phức tạp.
Và chẳng phải giáo sư Rossi cũng từng nói rằng Stoker đã mang lại thêm rất nhiều thông tin có giá trị cho những người quan tâm tới ma cà rồng hay sao? Tôi chưa bao giờ xem một phim về ma cà rồng nào - cha không thích sự kinh dị dù dưới bất cứ hình thức nào - nên đối với tôi, những tập tục mà Stoker kể thật mới lạ. Theo Stoker, ma cà rồng chỉ có thể tấn công nạn nhân của mình trong khoảng thời gian giữa hoàng hôn và bình minh. Ma cà rồng gần như bất tử, thích hút máu người và bằng cách đó biến họ thành quỷ như chính nó. Ma cà rồng có thể mang hình dạng của dơi, chó sói hoặc sương mù; có thể xua đuổi chúng bằng cách sử dụng tỏi hoặc cây thánh giá; có thể tiêu diệt chúng bằng cách xuyên một cọc nhọn vào tim hoặc nhét đầy tỏi vào miệng chúng khi chúng ngủ trong quan tài suốt thời gian ban ngày. Một viên đạn bạc bắn vào tim cũng có thể giết chết ma cà rồng.
Chẳng có gì trong cuốn sách đó làm cho tôi sợ hãi, bản thân các tình tiết thì không; tất cả đều có vẻ quá xa xôi, quá hoang đường, quá kỳ quặc. Nhưng có một khía cạnh của câu chuyện luôn ám ảnh tôi sau mỗi chương, khi tôi đã đặt cuốn sách trở lại ngăn kệ và cẩn thận đánh dấu trang sách mà tôi dừng lại. Ý tưởng đó cũng bám theo tôi khi tôi bước xuống những bậc cầu thang thư viện rồi băng qua những chiếc cầu trên dòng kênh, cho đến khi tôi về đến tận cửa nhà. Nhân vật Dracula trong trí tưởng tượng của Stoker có một loại nạn nhân mà hắn rất ưa thích: những cô gái trẻ.
Chưa bao giờ cha muốn về thăm phương Nam để thưởng thức nét đẹp của mùa xuân nơi đó như lúc này, cha thổ lộ; cha cũng muốn tôi nhìn ngắm cảnh đẹp ở đó. Chẳng bao lâu kỳ nghỉ của chúng tôi cũng đến, dù các cuộc hội họp ở Paris có làm cha chậm trễ vài ngày. Tôi đã học được cách không hối thúc cha, cả trong chuyện du lịch lẫn đòi nghe chuyện kể; khi cha đã sẵn sàng thì việc gì đến sẽ đến, nhưng không bao giờ, không bao giờ vào những lúc chúng tôi ở nhà. Tôi tin rằng cha không muốn mang cái linh hồn hắc ám ấy vào thẳng nhà mình.
Chúng tôi đáp xe lửa đến Paris và sau đó đi ô tô xuôi về hướng Nam, tới rặng núi Cévennes. Vào các buổi sáng, tôi tiếp tục làm hai hoặc ba bài luận bằng thứ tiếng Pháp ngày càng tiến bộ hơn của mình và gửi chúng về trường. Thậm chí bây giờ, sau hàng chục năm trời, tôi vẫn còn giữ được một trong các bài luận
đó; việc mở ra xem lại nó thường gợi lại trong tôi cái cảm giác còn vẹn nguyên về vùng trung tâm nước Pháp trong những ngày tháng Năm, mùi hương cỏ - không phải cỏ bình thường mà là l’herbe[8], có thể ăn sống được, tựa như tất cả các loại thực vật của nước Pháp đều có thể nấu nướng thành những món ngon tuyệt vời, trở thành các thành phần của món xa lát hoặc là thứ gì đó để trộn cùng pho mát.
Tại các nông trại dọc đường, mà chúng tôi dừng lại để mua đồ ăn rồi dùng bữa luôn ngoài trời, đồ ăn ở đó ngon hơn bất kỳ món ăn nào mà nhà hàng có thể phục vụ: những bao dâu tươi ửng đỏ dưới ánh mặt trời và có vẻ chẳng cần rửa lại; những thỏi pho mát dê hình trụ nặng nề như những thanh tạ, bao bọc phía ngoài chúng là một lớp vỏ xù xì màu xám, như thể chúng vừa được lăn qua sàn một hầm rượu. Cha uống loại rượu vang màu đỏ sậm, không nhãn hiệu và giá chỉ vài xu, sau mỗi bữa ăn cha đóng nắp chai rượu, mang theo cùng nó một ly thủy tinh nhỏ, gói cẩn thận trong một cái khăn ăn. Về món tráng miệng, chúng tôi ngốn sạch những ổ bánh mì mới nướng mua ở một thị trấn gần đó, nhét đầy sôcôla đen miếng vuông. Bao tử tôi reo lên vì thích thú còn cha thì rầu rĩ nói chắc hẳn phải ăn kiêng trở lại khi quay về với cuộc sống thường nhật.
Con đường dẫn chúng tôi xuyên qua miền Đông Nam và khoảng một hoặc hai ngày sau sẽ lên cao, vào vùng rừng núi lạnh hơn. “Tỉnh Pyrénées Orientales - Mạn Đông rặng Pyrénées,” cha nói với tôi, khi trải tấm bản đồ đường sá ra, trong lúc dùng bữa ăn ngoài trời. “Từ nhiều năm qua, cha vẫn mong muốn trở lại nơi này.” Dùng ngón tay vạch theo lộ trình, tôi phát hiện ra chúng tôi đã ở gần đất nước Tây Ban Nha đến độ không ngờ. Phát hiện này - và cái từ đẹp đẽ Orientales - Mạn Đông - đã làm tôi ngây ngất. Chúng tôi đang đến gần những vùng biên của thế giới mà tôi vẫn hằng biết rõ, và lần đầu tiên tôi nhận ra rằng một ngày nào đó mình có thể đi xa hơn và xa hơn nữa ra ngoài thế giới ấy. Cha nói muốn tham quan một tu viện đặc biệt. “Cha nghĩ tối nay chúng ta có thể tới thị trấn và đến mai sẽ cuốc bộ lên tu viện đó.”
“Nó cao không cha?” tôi hỏi.
“Ở lưng chừng núi, chính yếu tố này đã bảo vệ tu viện tránh được nhiều cuộc xâm lăng. Nó được xây dựng đúng vào năm 1000. Thật không thể tin được - cái nơi chốn nhỏ bé này như được tạc vào một khối đá, rất khó đến được, ngay cả đối với những khách hành hương nhiệt thành nhất. Nhưng con cũng sẽ thích cái thị trấn bên dưới không kém đâu. Đó là một thị trấn cổ kính, có suối nước khoáng. Thực sự hấp dẫn.” Cha cười khi nói câu đó, nhưng cha có vẻ bồn chồn, hấp tấp xếp tấm bản đồ lại. Tôi có cảm giác chẳng bao lâu cha sẽ kể cho tôi nghe một câu chuyện khác; lần này có thể tôi không cần phải yêu cầu.
Khi chúng tôi lái xe vào Les Bains vào buổi chiều hôm đó, tôi thực sự thích nơi này. Đó là một làng lớn, xây dựng bằng đá màu vàng cát, nằm trải ra trên một chỏm núi nhỏ. Rặng Pyrénées hùng vĩ như treo lơ lửng bên trên, phủ bóng lên tất cả, chỉ trừ những con đường nằm rộng nhất chạy về hướng những thung lũng sông và những nông trại bằng phẳng, khô ráo phía bên dưới. Những cây tiêu huyền bụi bặm, được cắt tỉa vuông vắn bao quanh một loạt các mái hiên cũng bụi bặm, chẳng tỏa chút bóng mát nào cho những người dân thị trấn đang thong thả tản bộ, những cái bàn nơi những phụ nữ lớn tuổi bày bán các loại khăn ren trải bàn và những chai tinh chất hoa oải hương. Từ nơi đó, chúng tôi có thể nhìn lên ngôi nhà thờ bằng đá mà ngày mai sẽ đến thăm ấy, dập dìu bóng chim nhạn, nằm trên đỉnh thị trấn, và nhìn ngắm tháp chuông của nó bồng bềnh giữa bóng núi đồ sộ như một đỉnh chóp ảm đạm chực đổ xuống từng con đường làng khi mặt trời lặn.
Chúng tôi ăn một bữa tối ngon lành với món xúp gì đó giống như xúp Gazpacho, sau đó là món sườn bê trong một nhà hàng ở tầng một của một trong các khách sạn kiểu thế kỷ mười chín trong thị trấn. Viên quản lý nhà hàng gác một chân lên thanh ngang bằng đồng của quầy rượu bên cạnh bàn chúng tôi và hỏi han bằng giọng điệu thờ ơ nhưng lịch sự về cuộc hành trình của chúng tôi. Ông ta là người khá thô, mặc toàn một màu đen, mặt choắt và nước da xanh tái. Ông ta nói thứ tiếng Pháp giật cục, thêm mắm giặm muối cái gì đó mà tôi chưa nghe bao giờ, tôi hiểu được quá ít so với cha. Cha phải dịch lại cho tôi.
“À, dĩ nhiên rồi… tu viện của chúng tôi,” viên quản lý nhà hàng lên tiếng, trả lời câu hỏi của cha. “Các vị có biết mỗi mùa hè tu viện Thánh Matthieu thu hút được khoảng tám ngàn khách thăm viếng chứ? Vâng, đúng vậy. Nhưng tất cả bọn họ đều rất dễ chịu và trật tự, ngoài ra có rất nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo ngoại quốc cũng leo bộ lên đó, thật đúng là một cuộc hành hương. Sáng dậy họ tự dọn chỗ ngủ, nên chúng tôi
hầu như không biết họ đến rồi đi lúc nào. Dĩ nhiên, nhiều người khác chỉ đến để les bains - tắm suối nước khoáng. Các vị sẽ tắm chứ?”
Cha đáp là chúng tôi phải quay về miền Bắc sau hai đêm ở đây và dự định sẽ dành cả ngày mai để thăm tu viện.
“Các vị biết đấy, có rất nhiều truyền thuyết nói về nơi chốn đó, một số rất đáng lưu ý, và tất cả đều có thực,” viên quản lý nhà hàng tiếp tục kể, mỉm cười, nụ cười bất chợt làm cho khuôn mặt loắt choắt của ông ta trở nên dễ nhìn hơn. “Cô gái trẻ này hiểu chứ? Có lẽ cô quan tâm muốn biết những truyền thuyết đó.” “Je comprend, merci,”[9]tôi lịch sự trả lời.
“Tốt. Tôi sẽ kể một chuyện. Các vị không phiền chứ? Xin mời, hãy dùng món sườn đi chứ - món này dùng nóng mới ngon.” Ngay lúc đó, cánh cửa nhà hàng mở ra, một cặp vợ chồng già tươi cười bước vào, chọn một bàn, hẳn họ là cư dân địa phương. “Bon soir, buenas tardes,”[10]tay quản lý khách sạn nói liền một hơi. Tôi nhìn cha dò hỏi, cha chỉ cười.
“Vâng, ở đây chúng tôi pha trộn lung tung,” viên quản lý cười, giải thích. “Chúng tôi là món xa lát, trộn lẫn mọi văn hóa. Ông nội tôi nói tiếng Tây Ban Nha rất cừ - tiếng Tây Ban Nha hoàn hảo đấy nhé - lúc về già ông vẫn còn tham gia cuộc nội chiến của họ. Ở đây, chúng tôi yêu chuộng mọi ngôn ngữ. Ở chỗ chúng tôi, không có bom đạn, không có khủng bố, không như những người xứ Basques[11]. Chúng tôi không phải là bọn tội phạm.” Ông nhìn quanh, vẻ phẫn nộ, tựa như có ai đó vừa bài bác lại mình.
“Sẽ giải thích cho con sau,” cha thì thầm nói.
“Vậy, tôi sẽ kể cho các vị nghe một câu chuyện. Tôi tự hào nói rằng người ta gọi tôi là sử gia của thị trấn này. Các vị ăn đi chứ. Như các vị đã biết, tu viện của chúng tôi được xây dựng vào năm 1000. Thực ra là năm 999, bởi vì các tu sĩ đã chọn địa điểm này để chuẩn bị cho Ngày Tận Thế sắp đến, các vị biết đấy, trong thiên niên kỷ. Họ đã trèo lên những ngọn núi này để tìm kiếm một địa điểm xây nhà thờ. Sau đó, một người trong bọn họ đã nằm mơ thấy Thánh Matthieu hiển linh, đặt lên chỏm núi phía trên họ một bông hồng trắng. Ngày hôm sau họ leo lên đó và tôn vinh ngọn núi bằng những bài kinh cầu nguyện. Rất đẹp - các vị sẽ thích nó. Nhưng đó chưa phải là huyền thoại hay nhất. Đó chỉ là chuyện sáng lập nên nhà thờ.
“Như thế, khi tu viện và ngôi nhà thờ nhỏ được đúng một trăm tuổi, một trong các tu sĩ sùng đạo nhất, người chuyên giảng dạy cho các tu sĩ trẻ hơn, đã chết một cách bí ẩn ngay giữa độ tuổi trung niên. Ông ta tên Miguel de Cuxa. Người ta vô cùng thương tiếc và đã an táng ông ấy trong hầm mộ nhà thờ. Các vị biết đấy, hầm mộ đó đã làm cho vùng này trở nên nổi tiếng, bởi đó là kiến trúc kiểu La Mã cổ nhất châu Âu. Đúng vậy!” Ông ta gõ các ngón tay dài và vuông lên quầy rượu một cách tự tin. “Vâng! Một số người nói vinh dự này thuộc về thị trấn Saint Pierre, nằm ở phía ngoài thành phố Perpignan, nhưng đó chỉ là chuyện bịa nhằm thu hút khách du lịch mà thôi.
“Dù sao chăng nữa, học giả vĩ đại này đã được an táng trong hầm mộ nhà thờ, và chẳng bao lâu sau một tai họa đã ập đến với tu viện. Nhiều tu sĩ đã chết vì một bệnh dịch kỳ lạ. Người ta tìm thấy xác của từng người một trên các hành lang - hành lang rất đẹp, các vị sẽ thích chúng cho mà xem. Chúng đẹp nhất châu Âu. Thế đấy, người ta thấy các tu sĩ khi họ đã chết, trắng bệch như ma, tựa như họ không còn chút máu trong người. Mọi người nghi ngờ là do thuốc độc.
“Sau cùng, một tu sĩ trẻ - học trò cưng của vị tu sĩ quá cố - đã đi xuống hầm mộ mở quan tài vị thầy ra, bất chấp sự phản đối của cha tu viện trưởng, vốn là người rất yếu bóng vía. Và họ phát hiện vị tu sĩ vẫn còn sống, nhưng không thực sự sống, liệu các vị có hiểu ý tôi. Một xác chết sống. Ban đêm, ông ta trỗi dậy để giết các tu sĩ đồng liêu. Để linh hồn tu sĩ khốn khổ ấy được yên nghỉ, người ta đã mang nước thánh từ một nơi linh thiêng trong dãy núi và lấy về một cái cọc thật nhọn…” Ông ta vung tay vẽ vào khoảng không một hình thù đầy ấn tượng, để tôi có thể hình dung được độ bén nhọn của chiếc cọc kia. Tôi tập trung hướng chú ý khỏi con người và thứ tiếng Pháp của ông ta, nỗ lực tối đa để ghép những mẩu chuyện của ông ta lại với nhau trong đầu. Cha đã ngừng không thông dịch cho tôi nữa, và ngay lúc đó, nĩa của cha rớt xuống đĩa lanh canh. Khi nhìn lên, tôi thấy mặt cha trắng bệch như chiếc khăn trải bàn, nhìn chăm chăm vào người bạn mới của chúng tôi.
“Liệu chúng tôi có thể…” Cha hắng giọng, dùng chiếc khăn ăn chùi miệng một hai lần. “Liệu chúng
tôi có thể dùng cà phê được chưa?”
“Nhưng các vị chưa dùng món xa lát kia mà.” Vị chủ nhà hàng trông có vẻ không vui. “Hiếm có lắm đấy. Chiều tối nay chúng tôi còn có poires belles Hélène[12], một loại pho mát rất ngon, và một cái bánh ngọt cho quý cô trẻ tuổi đây nữa.”
“Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi,” cha vội vàng tiếp lời. “Vâng, thì mang hết tất cả các món đó lên cho chúng tôi.”
Quảng trường thấp nhất trong số các quảng trường đầy bụi bặm của thị trấn vang dội tiếng nhạc phát ra đều đều từ loa phóng thanh khi chúng tôi xuất hiện; vài vở diễn địa phương đang được mười hoặc mười hai đứa trẻ trong những trang phục gợi nhớ đến vở kịch Carmen biểu diễn. Các cô bé đứng rung tại chỗ, làm cho những lớp viền đăng ten vàng bóng từ hông đến mắt cá chân rung xào xạc, những cái đầu đung đưa duyên dáng dưới những tấm khăn choàng viền ren. Các cậu bé thì giậm chân rồi quỳ xuống, hoặc xoay tròn quanh các cô bé, mặt ra vẻ khinh khỉnh. Mỗi cậu đều mặc áo khoác đen ngắn, quần chẽn bó sát và đội mũ nhung. Chúng tôi có thể nghe được tiếng nhạc thỉnh thoảng dội lên, kèm theo là âm thanh giống như tiếng roi quất, càng đến gần nghe càng vang to hơn. Một vài du khách khác đang đứng vòng quanh xem các cô cậu bé vũ công cùng một dãy các bậc cha mẹ ông bà ngồi trên ghế xếp bên cạnh hồ phun cạn nước, vỗ tay mỗi khi các cậu bé giậm chân hoặc tiếng nhạc đến độ cao và nhanh nhất.
Chúng tôi chỉ nán lại vài phút rồi trở lại với con đường dẫn lên núi cao, con đường dẫn thẳng từ quảng trường lên ngôi nhà thờ trên đỉnh. Cha không đề cập gì đến việc mặt trời đang ngả bóng, nhưng tôi cảm thấy chúng tôi đang rảo bước thế này bởi ánh ngày sắp tắt, và chẳng ngạc nhiên khi thấy toàn bộ ánh sáng trên miền quê hoang dã này đã bỏ nó mà đi. Khi chúng tôi lên cao hơn, dãy Pyrénées hiện ra sừng sững, xanh thẫm trên đường chân trời, rồi hòa vào nền trời xanh đen. Quang cảnh nhìn từ chân tường nhà thờ thật hùng vĩ - không gây choáng váng như phong cảnh chúng tôi đã thấy ở những thị trấn Ý mà tôi tới giờ vẫn hằng mơ tưởng, nhưng rộng mênh mông: đồng bằng xen kẽ những ngọn đồi tập hợp nhau lại thành một vùng chân núi, rồi vùng chân núi giận dữ nhô vút lên thành những đỉnh chóp đen thẫm, che khuất cả một vùng trời xa. Ngay bên dưới chúng tôi, thị trấn đã lên đèn, mọi người đang cười nói rảo bước trên đường phố hay ngõ hẻm, một mùi hương giống như hương cẩm chướng tỏa lên từ những khu vườn hẹp có tường bao bọc chung quanh. Những chú chim nhạn lượn vào lượn ra trên ngọn tháp nhà thờ, chao liệng tựa như đang vẽ một cái gì đó vô hình bằng những sợi tơ trời. Tôi chú ý có một con chao cánh như say rượu giữa những con khác, tựa như nó không có sức nặng, vụng về chứ không nhanh nhẹn, và tôi chợt nhận ra đó là một con dơi đơn lẻ, chỉ nhìn rõ nhờ thứ ánh sáng chập chờn.
Cha thở dài, tựa vào tường, gác chân lên một tảng đá - một cây cột để buộc dây ngựa, hay cái bục để lấy thế leo lên lưng lừa đây nhỉ? Cha nói to băn khoăn này lên để tôi thấy ông vẫn bình thường. Dù là gì chăng nữa, hàng thế kỷ qua nó đã chứng kiến quang cảnh này, vô số buổi hoàng hôn thế này, sự đổi thay khá gần đây từ ánh nến sang ánh điện trong những quán cà phê và những đường phố có tường cao bao bọc. Cha đứng đó, có vẻ đã thoải mái trở lại sau một bữa ăn ngon và một cuốc tản bộ trong bầu không khí cực kỳ trong lành; nhưng tôi thấy có vẻ như cha cố tình tỏ ra thanh thản. Tôi không dám hỏi cha về phản ứng kỳ lạ của cha đối với câu chuyện mà viên quản lý nhà hàng kể, nhưng rõ ràng một cảm giác đã ập đến với tôi - rằng có thể cha từng gặp phải những chuyện còn kinh khủng hơn câu chuyện cha đã kể cho tôi nghe. Lần này, tôi không cần phải yêu cầu cha tiếp tục câu chuyện; dường như ngay lúc đó cha thích kể câu chuyện đó, hơn là một cái gì đó tồi tệ hơn.
8
◄○►
Ngày 13 tháng Mười hai năm 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Hôm nay tôi cảm thấy có chút an ủi, bởi đây là ngày được đánh dấu trong niên lịch Công giáo để tôn vinh Thánh Lucia, thần ánh sáng, một nhân vật linh thiêng đã được các thương nhân Viking du nhập về quê hương họ từ miền Nam nước Ý. Cái gì có thể bảo vệ ta chống lại những sức mạnh của bóng tối - từ bên trong, từ bên ngoài và mãi mãi - tốt hơn ánh sáng và hơi ấm, khi ta đang đến gần với cái ngày ngắn nhất và lạnh lẽo nhất trong năm? Và bởi tôi vẫn còn đây, sau thêm một đêm mất ngủ. Liệu bạn có cảm thấy bớt bối rối khi tôi thổ lộ cùng bạn là hiện nay tôi chỉ có thể yên giấc với một xâu tỏi bên dưới gối, hoặc mang một dây chuyền có thánh giá nhỏ bằng vàng quanh cổ một kẻ vô đạo như tôi? Dĩ nhiên tôi không làm vậy, nhưng tôi sẽ để bạn hình dung ra những hình thức bảo vệ này, nếu bạn thích; chúng cũng có những thể thức tương đương về mặt tâm lý và tri thức. Ít nhất, tôi vẫn ngày đêm không rời những thể thức tương đương này.
Lại nói về công trình nghiên cứu của tôi: phải, mùa hè vừa qua tôi đã thay đổi kế hoạch đi lại của mình, bổ sung Istanbul vào đó, và thay đổi này chỉ vì tác động của một mảnh giấy da nhỏ bé. Tôi đã khảo sát mọi nguồn tư liệu có thể tìm thấy ở Oxford và Luân Đôn, và có thể có liên quan đến nhân vật Drakulya trong cuốn sách trắng trơn bí ẩn của mình. Tôi đã ghi chú vấn đề này thành một tập giấy, và bạn - người đọc không bình yên trong tương lai, sẽ tìm thấy chúng cùng với những lá thư này. Từ khi bắt đầu tới giờ, tôi vẫn ghi chú thêm một chút, sau này bạn sẽ thấy, tôi hy vọng chúng sẽ bảo vệ cũng như hướng dẫn cho bạn.
Đêm trước hôm khởi hành đi Hy Lạp, tôi đã có ý định từ bỏ công việc tìm kiếm vô nghĩa này, cuộc săn đuổi một biểu tượng ngẫu nhiên thấy trong một cuốn sách tình cờ tìm được này. Tôi hoàn toàn nhận thức rõ là mình đã theo đuổi công việc đó như theo đuổi một thách thức của số phận, mà số phận, xét cho cùng, là thứ thậm chí tôi còn chẳng hề tin; và rằng có lẽ tôi chỉ đang truy đuổi và đưa cái tên Drakulya mơ hồ và xấu xa kia ngược dòng lịch sử vì tính anh hùng rơm kiểu trí thức, để chứng tỏ rằng ta đây có thể phăng ra những dấu vết lịch sử của bất kỳ, bất kỳ điều gì. Thực ra, chiều hôm ấy, trong lúc gói ghém quần áo, kể cả chiếc mũ che nắng đã bạc màu, tôi gần như rơi vào một trạng thái bị ức chế đến mức hầu như muốn rũ bỏ hết thảy mọi chuyện.
Nhưng, như thường lệ, tôi đã chuẩn bị cực kỳ kỹ càng cho chuyến đi, tôi đã không hề chần chừ, và tôi vẫn còn một chút thời gian trước giấc ngủ sau cùng ở đây và chuyến tàu sáng. Tôi có thể xuống quán Golden Wolf để gọi một vại bia đen và xem anh bạn Hedges tốt bụng của mình có ở đấy hay không hoặc - ở đây, rủi thay tôi đã chệch ra khỏi hướng đi của mình, mặc dù không muốn - có thể ghé qua Phòng Sách Hiếm lần cuối cùng, nó mở cửa đến chín giờ. Tôi định xem một hồ sơ ở đó (mặc dù tôi ngờ là nó chẳng làm sáng tỏ được điều gì), một tư liệu được ghi từ thời đế chế Ottoman đã làm tôi chú ý vì liên quan đến đúng giai đoạn sinh thời của Dracula, bởi vì những tài liệu liệt kê trong đó, tôi đã biết, chủ yếu là từ giữa cho đến cuối thế kỷ mười lăm.
Tất nhiên, tôi biện luận với chính mình, tôi không thể cứ mãi săn tìm qua mọi nguồn tư liệu có từ giai đoạn đó ở khắp châu Âu và châu Á, việc này sẽ phải mất nhiều năm - thậm chí cả đời - mà tôi còn chưa thấy trước được cuộc săn lùng ngốc nghếch này có đem lại nổi dù chỉ một bài viết hay không. Nhưng tôi lại không vào quán rượu vui vẻ đó mà hướng về Phòng Sách Hiếm - một sai lầm đã khiến cho hơn một học
giả khốn khổ phải chịu cảnh suy sụp trong đời.
Tôi tìm được tập hồ sơ không mấy khó khăn, gồm bốn hoặc năm cuộn giấy ngắn, mỏng, tác phẩm thời đế chế Ottoman, tất cả đều là một phần quà tặng cho trường đại học vào hồi thế kỷ mười tám. Mỗi cuộn đều được đóng bìa, ghi bằng chữ Ả Rập nghệ thuật. Một bảng miêu tả bằng tiếng Anh ở bìa tập hồ sơ cho thấy chắc chắn đó chẳng phải là một kho báu từ trên trời rơi xuống. (Tôi đề cập ngay đến tiếng Anh bởi tiếng Ả Rập của tôi quả thực chẳng ra làm sao cả, và tôi e là đến giờ nó cũng vẫn thế. Người ta chỉ có đủ thời giờ để học vài ngôn ngữ chính, trừ phi hy sinh mọi thứ khác để chuyên tâm về mặt ngôn ngữ). Ba cuộn giấy là những bản kê thuế thân thu từ người dân thành Anatolia của Quốc vương Mehmed II. Cuộn cuối cùng liệt kê thuế thu được từ các thành phố Sarajevo và Skopje, đã gần quê nhà hơn một chút, nếu bây giờ đối với tôi quê nhà là nơi cư ngụ của Dracula ở Wallachia, nhưng vẫn là một vùng xa xôi của đế quốc trong thời kỳ đó. Tôi thở dài, gom các cuộn giấy lại và nghĩ đến cuộc viếng thăm ngắn nhưng vui vẻ tại quán Golden Wolf mà tôi vẫn có thể thực hiện. Tuy nhiên, khi gom mớ giấy tờ để bỏ chúng trở lại trong hộp bìa cứng, mấy chữ trên bìa sau của cuộn giấy sau cùng bỗng đập vào mắt tôi.
Đó là một bản kê ngắn, ghi chép cẩu thả, một công văn nguệch ngoạc của Sarajevo và Skopje dâng lên vị Quốc vương Hồi giáo. Tôi đã đọc một cách tò mò. Có vẻ là một bản kê các chi phí - các hàng hóa, vật mua được ghi ở bên tay trái và giá mua, đơn vị tiền tệ chưa xác định, ghi ngay ngắn bên tay phải. “Năm chú sư tử núi con cho Quốc vương Vĩ đại, 45,” tôi thích thú đọc. “Hai thắt lưng vàng nạm đá quý cho Quốc vương, 290. Hai trăm bộ da cừu cho Quốc vương, 89.” Và mục ghi cuối cùng đã làm tôi rùng mình nổi da gà khi đang cầm tờ giấy dãi dầu năm tháng đó: “Bản đồ và tài liệu quân sự từ Giáo đoàn Rồng, 12.”
Làm thế nào, chắc hẳn bạn sẽ thắc mắc, làm sao tôi có thể đọc hết tất cả những thứ đó chỉ bằng một cái nhìn thoáng qua, trong khi trình độ tiếng Ả Rập của tôi - như tôi đã thừa nhận - chẳng ra làm sao cả? Hỡi độc giả thông minh, nhậm lẹ của tôi, bạn đang thao thức vì tôi, dõi theo những công trình đã làm hao tốn của tôi nhiều tâm tư sức lực trong không biết bao nhiêu đêm dài với sự cẩn trọng, vì thế tôi cầu chúc bạn được may mắn. Mẩu giấy nguệch ngoạc chữ này, cái bản ghi nhớ thời Trung cổ này, được viết bằng tiếng Latin. Phía dưới, một con số lờ mờ ghi dấu mốc thời gian khắc sâu vào tâm trí tôi: 1490.
Năm 1490, tôi nhắc lại, Giáo đoàn Rồng đã suy sụp, bị sức mạnh của đế quốc Thổ tiêu diệt; Vlad Dracula đã chết mười bốn năm và được an táng, theo truyền thuyết, trong tu viện trên hồ Snagov. Các bản đồ, sổ sách ghi chép, những bí mật của Giáo đoàn - bất cứ thứ gì liên quan đến cái tên bị lảng tránh này - đều bị bán rẻ, rất rẻ, khi đem so với các thắt lưng vàng nạm đá quý và cái đống len cừu hôi thối kia. Có thể chúng được quăng vào cuộc mua bán của người lái buôn này vào phút chót, như một món hàng kỳ lạ, một thí dụ tiêu biểu về thói quan liêu của kẻ bị chinh phục, để nịnh bợ và làm vui lòng một vị Quốc vương thông thái, có người cha hoặc ông từng phải biểu lộ sự thán phục bất đắc dĩ đối với cái Giáo đoàn Rồng mọi rợ này, cái lũ đã từng quấy rối vùng biên giới đế quốc. Liệu người lái buôn này có phải là một khách du hành người Balkan, viết chữ Latin, nói thứ phương ngữ Latin hoặc Xlavơ nào đó? Chắc chắn ông ta là người học vấn cao, vì ông ta còn biết viết, có thể đây là một thương gia Do Thái thông thạo ba hoặc bốn ngôn ngữ. Dù ông ta là ai, tôi cũng cầu Chúa ban phúc cho nắm xương tàn của ông ta vì đã ghi lại những chi phí kia. Nếu ông ta đã phái đoàn lữ hành mang chiến lợi phẩm ra đi mà không gặp sự cố nào, nếu bản ghi chi phí này đã đến tay vị Quốc vương an toàn, và nếu - khả năng khó xảy ra nhất trong mọi trường hợp - nó đã tồn tại trong kho báu chứa đầy những đồ trang sức, những thứ đồ đồng, đồ thủy tinh Byzantine, những thánh tích nhà thờ cổ xưa, các tác phẩm thi ca Ba Tư, những cuốn sách bàn về pháp thuật của người Do Thái, các tập bản đồ và các biểu đồ thiên văn.
Tôi bước về phía quầy, người quản thư đang lục lọi một hộc bàn. “Xin lỗi,” tôi lên tiếng. “Không biết liệu ông có một bản kê các tài liệu lịch sử lưu trữ sắp theo danh mục quốc gia? Những tài liệu lưu trữ trong… chẳng hạn như trong mục Thổ Nhĩ Kỳ?”
“Tôi biết ông muốn tìm cái gì, thưa ông. Có một bản kê như vậy, dành cho trường đại học và các bảo tàng, mặc dù dĩ nhiên là chẳng đầy đủ gì lắm. Chúng tôi không có bản kê đó ở đây - nhưng ông có thể tìm thấy nó ở thư viện trung tâm. Ngày mai họ sẽ mở cửa lúc chín giờ sáng.”
Chuyến tàu về Luân Đôn, tôi nhớ vậy, sẽ khởi hành lúc 10 giờ 14 phút. Chỉ cần tầm mười phút để liếc
qua những gì khả dĩ. Và nếu tên của Quốc vương Mehmed II, hoặc của những người kế vị ông ta, xuất hiện trong bất kỳ những gì có thể đó - thì, thế đấy, tôi chẳng nôn nóng muốn xem đảo Rhodes làm gì nữa. Người bạn vô cùng sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi
Bất chấp mọi hoạt động đang diễn xung quanh cha, thời gian có vẻ như ngưng đọng lại trong gian sảnh có mái vòm cao vút của thư viện. Cha đã đọc trọn vẹn một lá thư, nhưng vẫn còn ít nhất bốn lá thư nữa xếp bên dưới lá thư đó. Nhìn lên, cha nhận ra một khoảng sâu xanh thẳm đã mở ra phía sau những cánh cửa sổ phía trên: trời đã chạng vạng. Mình lại phải một mình đi bộ về nhà bây giờ ư, cha nghĩ như một đứa bé nhát gan. Một lần nữa, cha lại cảm thấy nôn nóng muốn chạy đến và gõ mạnh lên cánh cửa phòng làm việc của giáo sư Rossi. Chắc chắn cha sẽ thấy ông ấy ngồi đó, đang lật từng trang bản thảo, dưới ánh đèn vàng vọt. Cha lại rối trí, theo cái cách người ta thường gặp sau cái chết của một người bạn, trước tính phi thực của tình huống ấy, sự bất khả thi mà nó thể hiện trong đầu cha. Thực ra, cha vừa bối rối vừa sợ hãi, và sự bối rối làm gia tăng nỗi sợ hãi bởi cha không nhận ra cái tôi vốn có của mình trong tình trạng đó.
Vừa suy nghĩ về điều này, cha vừa liếc nhìn chồng giấy tờ xếp ngăn nắp trên bàn. Cha đã bày chúng ra gần hết diện tích mặt bàn. Vì vậy, chắc chắn là, chẳng ai màng ngồi xuống ghế đối diện với cha hoặc chiếc ghế nào khác tại bàn. Cha đang băn khoăn không biết có nên thu dọn tất cả mớ giấy tờ đó mang về nhà để tiếp tục công việc không thì một phụ nữ trẻ tiến đến và tự nhiên ngồi xuống ở đầu bàn. Nhìn quanh, cha thấy các bàn đều không còn chỗ trống, sách vở giăng đầy, các bản đánh máy, những ngăn hộc thẻ danh mục, và tập giấy ghi chép của các độc giả khác. Cha nhận ra cô ta không còn chỗ nào khác mà ngồi, nhưng bất chợt cha cảm thấy lo ngại cho các tài liệu của thầy Rossi; cha khiếp sợ ngay cả ánh mắt liếc nhìn vào chúng dù không chủ ý từ đôi mắt một con người xa lạ. Vì họ trông giống hệt đám mất trí ư? Hay cha mất trí?
Cha đang định xếp dồn mớ giấy tờ lại với nhau một cách cẩn thận để không làm mất thứ tự nguyên thủy của chúng rồi gói ghém lại; và đang định thực hiện những động tác đó một cách chậm rãi và lịch sự, để vờ chứng minh với người vừa xin lỗi để ngồi xuống bàn mình rằng dù sao đi nữa cha cũng thực sự sắp rời đi - thì lúc đó cha chợt để ý tới cuốn sách mà người phụ nữ kia để dựng đứng trước mặt. Cuốn sách đã được mở ra đến chương giữa, cuốn sổ tay và cây bút nằm sẵn ở khuỷu tay. Cha liếc nhìn hết tiêu đề cuốn sách đến khuôn mặt cô ta, kinh ngạc, rồi nhìn tiếp đến cuốn sách thứ hai mà cô ta đặt gần bên cạnh. Và lại nhìn vào mặt cô ta.
Đó là một gương mặt trẻ nhưng cũng đã chớm có những dấu vết của thời gian, với nếp nhăn chân chim mà mỗi buổi sáng soi gương cha thường thấy quanh mắt mình, một chút mệt mỏi thoáng qua, cha đoán, vậy là cô ta hẳn là nghiên cứu sinh rồi. Đó cũng là một gương mặt thanh lịch, nhiều góc cạnh, một gương mặt hẳn sẽ không hề lạc lõng nếu xuất hiện trong một bức tranh trên bệ thờ thời Trung cổ - ngoại trừ vẻ mệt mỏi nơi ánh mắt bên trên đôi gò má rộng và thanh nhã. Nước da xanh tái nhưng chắc có thể thành màu ô liu ngay sau một tuần dưới ánh mặt trời. Đôi hàng lông mi hướng xuống cuốn sách, khuôn miệng cương nghị và hàng lông mày rậm chợt trở nên căng thẳng vì những gì cô ta thấy trên trang sách. Mái tóc, rất sẫm màu, đến độ đen nhánh, đâm ra tua tủa quanh vầng trán, làm cho cô ta trông có vẻ mạnh mẽ hơn là hợp thời trang trong những ngày mà đầu tóc phải gọn gàng mới được coi là đẹp ấy. Tên cuốn sách cô ta đang đọc, giữa nơi chốn có vô số tư liệu này - cha lại nhìn lần nữa, và lại ngạc nhiên - là The Carpates - Vùng Carpates. Dưới khuỷu tay áo len đen là cuốn Dracula của Bram Stoker.
Ngay lúc đó, người phụ nữ trẻ liếc nhìn lên và bắt gặp ánh mắt đăm đăm của cha, cha cũng nhận ra mình đã nhìn cô ta chằm chằm, chắc hẳn đó là một thái độ khiếm nhã. Trên thực tế, ánh mắt tối sầm sâu thẳm, nhìn chòng chọc mà cha nhận trả lại - dù đôi mắt cô ta có màu hổ phách sâu lắng, như mật ong - là rất không thân thiện. Cha không phải là hạng người mà thời bấy giờ người ta vẫn hay gọi là Don Juan; thực ra cha sống khá khép kín. Nhưng dù sao cha cũng đủ hiểu biết để cảm thấy xấu hổ nên đã vội vàng giải thích. Lát sau, cha nhận ra thái độ thù địch của cô ta chỉ là sự phòng vệ của một phụ nữ có dáng vẻ bên ngoài đặc biệt khi bị người lạ nhìn soi mói. “Xin lỗi,” cha vội thốt lên. “Tôi không thể không chú ý đến các cuốn sách của cô - ý tôi là, những gì cô đang đọc.”
Vẫn để cuốn sách mở trước mặt, cô ta lạnh lùng nhìn lại cha, nhướng đôi hàng lông mày đen sậm. “Cô xem này, thực sự tôi cũng đang nghiên cứu đúng chủ đề đó,” cha nhấn mạnh. Lông mày cô ta
nhướng cao lên chút nữa, nhưng cha đã trỏ vào mớ giấy tờ trước mặt. “Không, thật đấy. Tôi vừa mới đọc qua…” Cha nhìn chồng tài liệu của thầy Rossi rồi đột ngột dừng lại. Cái liếc xéo khinh khỉnh từ khóe mắt cô ta làm mặt cha nóng bừng.
“Dracula?” cô ta nói, giọng mỉa mai. “Mấy thứ kia có vẻ như là những nguồn tư liệu quan trọng nhất mà anh có được đấy à.” Cô ta có một giọng trầm mà cha không thể đánh giá, giọng nói khẽ khàng, nhưng là kiểu nói khẽ khàng vì đang ở trong thư viện, tựa như có thể tuôn ra thành sức mạnh thực sự khi được tháo cũi sổ lồng.
Cha thử một chiến thuật khác. “Cô đọc những cuốn sách kia cho vui à? Tôi muốn nói là, để giải trí à? Hay là cô đang nghiên cứu?”
“Cho vui ư?” cô ta vẫn để mở cuốn sách, ngồi yên, có lẽ để làm nhụt chí cha bằng mọi thứ vũ khí mà cô ta có thể có.
“À, đó là một chủ đề khác thường, và nếu cô mượn sách đọc về vùng Carpates hẳn cô phải rất quan tâm đến chủ đề đó.” Kể từ sau các kỳ thi vấn đáp hồi học thạc sĩ đến giờ, cha chưa từng liến thoắng như vậy. “Tôi cũng vừa có ý định mượn cuốn sách đó. Thực ra là cả hai cuốn.”
“Thật không,” cô ta nói. “Tại sao vậy?”
“À,” cha đánh bạo thăm dò, “tôi tìm thấy những lá thư này ở đây, từ… từ một nguồn tư liệu lịch sử khác thường… và chúng đề cập đến Dracula. Chúng nói về Dracula.”
Vẻ quan tâm thoáng hiện trong ánh mắt chằm chằm của cô ta, như thể đôi mắt màu hổ phách kia đã trở lại bình thường và phải miễn cưỡng nhìn cha. Cô ta ngả người ra ghế, thoải mái giống như kiểu đàn ông, tay không rời cuốn sách. Cha chợt nhận ra đó là cử chỉ mình từng thấy hàng trăm lần, cử chỉ thư giãn để suy nghĩ, để chuẩn bị đối thoại. Cha đã nhìn thấy cử chỉ này ở đâu nhỉ?
“Chính xác thì những lá thư kia là thế nào?” cô ta hỏi, vẫn giọng khẽ khàng và xa lạ. Cha cảm thấy tiếc là đã không tự giới thiệu bản thân và những thành tích của mình trước khi hành xử như vừa rồi. Không hiểu sao lúc đó cha cảm thấy không thể bắt đầu lại màn giới thiệu - không thể đột nhiên đưa tay ra bắt tay cô ta rồi nói mình ở khoa nào, và vân vân… Cha cũng chợt nhận ra là chưa bao giờ gặp cô ta, vậy chắc chắn cô ta không ở trong khoa lịch sử, trừ phi cô ta là người mới, mới chuyển đến từ một trường đại học nào khác. Và liệu cha có nên nói dối để bảo vệ giáo sư Rossi? Cha quyết định, một cách ngẫu nhiên, là không nên. Một cách đơn giản, chỉ cần bỏ tên ông ấy ra khỏi câu chuyện sắp tới.
“Tôi đang làm việc với một người… một người đang có chút vấn đề, những lá thư này ông ta đã viết từ hơn hai mươi năm trước. Ông ta trao chúng cho tôi, nghĩ rằng tôi có thể giúp ông ta thoát ra khỏi… tình huống hiện tại… tình huống liên quan tới… những nghiên cứu của ông ta, ý tôi là ông ta đang nghiên cứu…”
“Tôi hiểu,” cô ta nói, vẻ xã giao lạnh lùng, rồi đứng dậy, thu dọn sách vở, thong thả, không chút vội vàng. Và rồi, cầm cặp lên, cô ta đứng đó, cao lớn như cha hình dung, hơi gân guốc, với bờ vai rộng. “Vì sao cô nghiên cứu về Dracula?” cha cố gặng hỏi.
“À, tôi buộc phải nói rằng việc đó chẳng dính dáng gì đến anh cả,” cô ta trả lời thẳng thừng, quay đi, “nhưng trong tương lai, tôi đang dự định một chuyến đi, dù chưa biết khi nào mới thực hiện.” “Đến vùng núi Carpates?” Bất chợt, cha cảm thấy hồi hộp vì toàn bộ cuộc nói chuyện này. “Không.” Cô ta ném cái từ đó vào mặt cha, giọng khinh miệt. Và rồi, tựa như không thể đừng được, nhưng vẫn tỏ vẻ khinh khỉnh đến độ cha không dám tiếp lời cô ta: “Đến Istanbul.” “Lạy Chúa lòng lành,” đột nhiên cha ngẩng nhìn bầu trời đang ríu rít tiếng chim, cầu nguyện. Phía trên chúng tôi, những cánh nhạn cuối cùng đã về tổ, thị trấn với những ánh đèn le lói nặng nề khuất mình vào thung lũng. “Chúng ta không nên ngồi đây mãi, vì ngày mai còn cả một cuộc đi bộ leo núi nữa. Những người hành hương thường được khuyên đi ngủ sớm, cha chắc chắn vậy. Trời sắp tối rồi.” Tôi đổi chân; một chân đã tê cứng dưới sức nặng cơ thể, những viên sỏi trong khuôn viên nhà thờ đột nhiên như sắc cạnh hơn, rất khó chịu, nhất là khi nghĩ đến cái giường ngủ ấm cúng đang chờ đợi phía trước. Chân tôi đau buốt trên đường về khách sạn. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ so với cảm giác bực mình kinh khủng đang sục sôi trong tôi. Một lần nữa, cha lại dừng câu chuyện quá sớm. “Nhìn kìa,” cha thốt lên, trỏ thẳng ra ngoài từ nơi chúng tôi tạm dừng lại. “Cha nghĩ chắc hẳn đó là tu
viện Thánh Matthieu.”
Tôi dõi theo tay cha đến những ngọn núi đen kịt, chụm lại thành khối và nhìn thấy ở lưng chừng một đốm sáng nhỏ. Không có nguồn sáng nào khác xuất hiện gần đốm sáng đó; có vẻ như gần đó không người. Nó giống như hạt kim tuyến trên một tấm vải đen lớn, đốm sáng ở trên cao nhưng không gần sát những đỉnh cao nhất - nó lơ lửng giữa thị trấn và bầu trời đêm. “Đúng chỗ đó, chắc hẳn đó là tu viện, cha nghĩ vậy,” cha lại lên tiếng. “Và ngày mai chúng ta sẽ có một cuộc leo núi ra trò, ngay cả khi chỉ đi theo đường lộ có sẵn.”
Khi bước tiếp dọc theo những đường phố không ánh trăng, tôi cảm thấy lòng nặng trĩu nỗi buồn vì phải giã từ cảnh núi trời bao la bát ngát. Trước khi quẹo ở một góc tháp chuông cũ, tôi liếc nhìn lui một lần nữa, ghi nhớ cái vị trí đốm sáng bé nhỏ vào tâm trí. Vẫn là nó, mờ mờ phía trên bức tường một ngôi nhà phủ đầy hoa giấy. Đứng lặng yên một lát, tôi nhìn trừng trừng vào đốm sáng. Rồi, bỗng nhiên, nó nhấp nháy.
9
◄○►
Ngày 14 tháng Mười hai năm 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Tôi sẽ kết thúc nghiên cứu của mình càng sớm càng tốt, vì bạn phải rút ra từ đó những thông tin quan trọng, nếu cả hai chúng ta còn - à vâng, ít ra là còn sống sót, sống sót một cách tốt đẹp và hạnh phúc. Có những thứ luôn sống sót và tồn tại, một sử gia luôn học được điều đó một cách buồn đau. Những xung lực xấu xa nhất của nhân loại có thể tồn tại trong nhiều thế hệ, hoặc nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ. Nhưng những nỗ lực cá nhân tốt đẹp nhất của chúng ta lại tàn lụi cùng thân xác ta ở cuối mỗi cuộc đời đơn lẻ.
Nói tiếp về tiến trình nghiên cứu của tôi: trong hành trình từ Anh đến Hy Lạp, tôi đã được trải qua một chuyến đi êm đềm nhất mình từng biết tới. Ông giám đốc viện bảo tàng tại Crete thậm chí còn ra bến tàu đón, và mời tôi quay lại vào mùa hè để tham dự lễ mở một ngôi mộ cổ từ thời Minoan. Ngoài ra, hai học giả người Mỹ chuyên nghiên cứu cổ ngữ mà tôi hằng mong được gặp từ nhiều năm qua lại ở cùng khách sạn với tôi. Họ thúc giục tôi tìm hiểu thông tin về một chức vụ cấp khoa đang bỏ trống tại trường đại học của họ - đúng là một công việc thích hợp cho một người có nền tảng như tôi - và không ngớt lời ca tụng các công trình của tôi. Tôi được phép dễ dàng tiếp cận mọi bộ sưu tập mình muốn, kể cả một số bộ sưu tập cá nhân. Buổi trưa, khi viện bảo tàng đóng cửa và thị trấn ngủ trưa, tôi ngồi ngoài ban công xinh đẹp có giàn dây nho leo phủ, xem lại các ghi chép của mình, đồng thời triển khai ý tưởng cho nhiều công trình nghiên cứu khác mà tôi đang ấp ủ. Trong khung cảnh bình yên này, tôi đã nghĩ đến việc từ bỏ hoàn toàn công việc mà lúc này đối với tôi có vẻ như là một điều hoang tưởng, việc theo đuổi cái tên Drakulya kỳ dị kia. Tôi mang theo cuốn sách cổ kia, không muốn phải rời xa nó, nhưng đã một tuần rồi không đụng đến. Nói chung, tôi cảm thấy được giải phóng khỏi lời nguyền của nó. Nhưng một cái gì đó - niềm đam mê của một nhà sử học đối với tính hoàn thiện, hoặc có thể chỉ là niềm yêu thích săn đuổi đơn thuần - lại thúc ép tôi phải thực hiện kế hoạch của mình và tiếp tục đến Istanbul rồi ở đó vài ngày. Và bây giờ, tôi phải kể cho bạn biết cuộc phiêu lưu kỳ quặc ở đấy, trong một trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử. Có lẽ đây là sự kiện đầu tiên trong nhiều sự kiện có thể khiến bạn hoài nghi mà tôi sẽ mô tả sau đây. Nhưng tôi xin bạn, hãy đọc cho hết.
Theo lời thỉnh cầu đó, cha tôi nói, cha đã đọc từng chữ một. Lá thư đó thuật lại trải nghiệm đáng sợ của thầy Rossi khi nghiên cứu các tài liệu trong bộ sưu tập về Quốc vương Mehmed II: việc ông phát hiện ra một tấm bản đồ chú thích bằng ba thứ tiếng, hình như để chỉ ra địa điểm hầm mộ của Vlad Kẻ Xiên Người, việc nó đã bị một tên quan chức nham hiểm lấy mất, và việc trên cổ hắn có hai vết thương nhỏ chưa lành hẳn.
Khi kể lại chuyện này, văn phong của thầy Rossi không còn súc tích và tỉnh táo như cha để ý thấy ở hai lá thư trước, nó dông dài và đầy những lỗi vụn vặt, tựa như ông ấy đã viết trong tâm trạng cực kỳ bối rối. Và dù đang lo lắng bực bội (vì hiện giờ là ban đêm, cha đã trở về căn hộ của mình, đang ngồi đọc một mình, cửa cài chặt, màn buông kín vì lo sợ những điều hão huyền), cha vẫn nhận thấy cách diễn đạt ông ấy sử dụng để trình bày những sự kiện kia giống hệt với những gì ông đã nói với cha hai đêm trước. Cứ như thể, gần một phần tư thế kỷ trước đây, câu chuyện này đã giày vò tâm trí ông mãnh liệt đến nỗi cần phải thổ lộ ngay tức khắc với một người nào đó biết lắng nghe.
Còn ba lá thư nữa, và cha đã nôn nóng đọc lá thư kế tiếp.
Ngày 15 tháng Mười hai năm 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Kể từ lúc viên quan chức xấu xa kia lấy mất tấm bản đồ, vận may của tôi cũng kết thúc. Khi quay trở lại phòng, tôi nhận thấy viên quản lý khách sạn đã dọn đồ đạc của tôi qua một phòng khác nhỏ hơn, có phần dơ dáy hơn, vì trần một góc phòng cũ tôi ở bị sụp xuống. Trong quá trình di chuyển này, một số giấy tờ đã biến mất và cặp khuy măng séc bằng vàng mà tôi rất quý cũng bốc hơi.
Ngồi trong căn phòng chật hẹp mới, tôi thử cố nhớ lại ngay các ghi chú của mình về câu chuyện Dracula, cả về những tấm bản đồ đã nhìn thấy trong trung tâm lưu trữ. Sau đó tôi vội vàng quay về Hy Lạp, ở đó tôi cố gắng tiếp tục công việc nghiên cứu về đảo Crete, thời gian bây giờ đã quá dư thừa.
Chuyến tàu trở lại Crete thật kinh khủng. Biển động dữ dội. Gió nóng, cuồng bạo như loại gió mùa mit-tran khét tiếng của nước Pháp, thổi liên tục qua đảo. Căn phòng trước đây của tôi đã có người ở, tôi chỉ nhận được một căn phòng tồi tệ nhất, ẩm mốc và tối tăm. Hai anh bạn đồng nghiệp người Mỹ đã ra đi. Ông giám đốc tử tế của viện bảo tàng đã ngã bệnh, có vẻ như không ai còn nhớ đến lời ông ta mời tôi tham dự lễ khai quật một ngôi mộ cổ nữa. Tôi cố gắng tiếp tục công việc của mình về chủ đề đảo Crete nhưng đọc đi đọc lại những gì mình đã ghi chú cũng chẳng tìm thấy đâu cảm hứng. Những chuyện mê tín xa xưa mà ngay cả đám thị dân ở đây cũng hay kể, những chuyện đồng bóng mà trong những chuyến du hành trước tôi chẳng hề để ý, dù chúng phổ biến ở Hy Lạp đến mức hẳn trước đây tôi phải gặp rồi, cũng chẳng khiến tâm trạng bồn chồn của tôi nguôi ngoai chút nào. Theo truyền thuyết Hy Lạp, cũng như trong nhiều truyền thuyết khác, ma cà rồng, tức vrykolakas, được hình thành từ bất kỳ xác chết nào không được chôn cất tử tế, hoặc chậm phân hủy, chưa kể đến những người vô tình bị chôn sống. Những người già trong các taverna[13]trên đảo Crete có vẻ như thích kể cho tôi nghe về hai trăm mười câu chuyện ma cà rồng của họ hơn là hướng dẫn cho tôi tìm ở đâu để có những mảnh gốm vỡ khác như mảnh gốm kia, hoặc những con tàu đắm cổ xưa nào ông nội họ từng lặn xuống để cướp bóc cổ vật. Một buổi chiều kia, tôi đã để một người lạ mặt mời mình một chầu thứ nước uống đặc sản có tên gọi kỳ lạ là lãng quên, hậu quả là tôi phải nằm bẹp suốt cả ngày hôm sau.
Thực ra, chẳng có gì tốt đẹp đến với tôi cho đến khi tôi trở về nước Anh, trong một cuộc hành trình mưa bão khủng khiếp khiến tôi phải trải qua một cơn say sóng tồi tệ nhất trong đời. Tôi ghi lại những tình huống này phòng khi chúng liên quan đến những khía cạnh khác trong trường hợp của mình. Ít nhất, chúng sẽ giải thích cho bạn tâm trạng của tôi khi trở về Oxford: kiệt sức, buồn nản và sợ hãi. Nhìn vào gương, tôi thấy mình xanh xao và gầy rộc đi. Mỗi lần lỡ cắt vào da trong khi cạo mặt, mà trong tâm trạng căng thẳng thế này tôi thường xuyên cắt nhầm một cách vụng về, tôi lại cau mày, nhớ đến những vết thương nhỏ, chưa lành hẳn trên cổ tên quan chức Thổ Nhĩ Kỳ kia và càng lúc càng hoài nghi sự minh mẫn của chính mình. Đôi khi tôi có cảm giác, cái cảm giác ám ảnh làm cho tôi gần như mất trí, về vài mục tiêu chưa hoàn thành, về vài ý định mà tôi không thể tái định hình chúng. Tôi cảm thấy cô đơn và khát khao mọi thứ. Tóm lại, thần kinh tôi chưa bao giờ rơi vào tình trạng tệ hại như vậy. Dĩ nhiên, tôi cố gắng tiếp tục công việc như bình thường, không nói gì với ai về những chuyện này và chuẩn bị cho học kỳ sắp tới với sự cẩn trọng thường lệ. Tôi đã viết thư cho hai học giả người Mỹ chuyên nghiên cứu cổ ngữ mà tôi đã gặp ở Hy Lạp, thân mật gợi ý với họ rằng tôi quan tâm đến, ít ra là, một cuộc gặp gỡ ngắn ở Mỹ, và liệu họ có thể giúp thu xếp được không. Đã gần hoàn tất học vị của mình, tôi càng lúc càng cảm thấy cái nhu cầu phải bắt đầu lại từ đầu và nghĩ sự thay đổi sẽ tốt hơn cho mình. Tôi cũng hoàn thành hai bài báo về mối liên kết giữa chứng cứ khảo cổ học và văn học trong việc nghiên cứu công nghệ sản xuất đồ gốm ở đảo Crete. Từng ngày, tôi cố gắng mang tính kỷ luật, tự giác vốn có của mình để chịu đựng, và mỗi ngày lại cảm thấy thanh thản hơn.
Tháng đầu tiên sau khi trở về, tôi đã cố gắng không chỉ chôn vùi tất cả ký ức về chuyến hành trình khó chịu kia, mà còn tránh không gợi lại mối quan tâm của chính mình đối với cuốn sách nhỏ kỳ lạ vẫn còn nằm trong mớ hành lý, hoặc về cuộc nghiên cứu mà nó đưa đến. Tuy nhiên, sự tự tin lại trỗi dậy và tính hiếu kỳ cũng lớn dần lên - một cách ngoan cố - trong tôi. Một buổi tối kia, tôi cầm cuốn sách lên và tập
hợp những ghi chú đã thực hiện ở Anh và Istanbul. Kết quả - và từ đó tôi xem nó như hậu quả - thật nhãn tiền, khủng khiếp và bi thảm.
Tôi phải ngừng ở đây, người bạn đọc can đảm của tôi; ngay bây giờ, tôi không thể viết tiếp. Tôi cầu xin bạn đừng bỏ ngang ở những lá thư này mà hãy đọc tiếp khi tôi cố gắng viết tiếp vào ngày mai. Người bạn vô cùng sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi
10
◄○►
Là một người trưởng thành, tôi luôn biết cái di sản kỳ lạ mà thời gian mang lại cho những người hay đi đây đi đó: khao khát tìm về nơi chốn nào đó lần thứ hai, chủ động tìm lại những gì mà trước đó mình đã tình cờ gặp, nắm bắt lại cái cảm giác khám phá. Thậm chí đôi khi chúng ta về lại một nơi chốn mà tự bản thân nó vốn chẳng có gì đặc biệt - chúng ta tìm về đơn giản chỉ vì nhớ nó. Khi chúng ta tìm lại được thì, lẽ dĩ nhiên, mọi thứ đều đã thay đổi. Cánh cửa đơn sơ kia vẫn còn đó, nhưng đã nhỏ hơn nhiều; ban ngày trời u ám chứ không rực rỡ; đang là mùa xuân chứ chẳng phải mùa thu; và ta cô đơn một mình chứ không phải ở cùng ba người bạn. Hoặc tệ hơn, phải ở với cả ba người bạn thay vì được ở một mình.
Những lữ khách trẻ tuổi thường ít biết đến hiện tượng này, nhưng trước khi chính mình trải qua kinh nghiệm này, tôi đã nhìn thấy nó trong cha, tại tu viện Thánh Matthieu, tỉnh Pyrénées Orientales. Tôi cảm nhận ở cha, đúng hơn là nhận ra rõ ràng, bí ẩn của sự tái diễn, biết rằng cha đã hiện diện ở đây ba năm trước. Và, một cách kỳ lạ, nơi chốn này khiến cha thành ra lơ đãng theo một cách mà không một nơi nào khác chúng tôi từng viếng thăm có thể làm được. Cha đã đến khu vực Emona một lần và Ragusa nhiều lần trước chuyến đi này. Cha đã đến thăm ngôi biệt thự bằng đá của Massimo và Giulia và từng cùng vui vẻ ăn tối với họ nhiều lần vào những năm trước. Nhưng tại tu viện Thánh Matthieu này, tôi cảm thấy cha thực sự khao khát muốn tìm về nơi chốn này, luôn nghĩ đến nó hàng ngàn hàng ngàn lần vì một nguyên nhân nào đó tôi không thể tìm ra, luôn hình dung đến nó mà không thổ lộ cùng ai. Hiện tại cha không nói gì với tôi, ngoại trừ những lúc lên tiếng nhắc nhở ở mỗi khúc quanh, trước khi con đường chạy ngược lên rồi đâm vào bức tường tu viện, hoặc báo cho biết - một lát sau - cánh cửa nào dẫn vào điện thờ, hành lang, hoặc - sau cùng - khu hầm mộ. Việc cha nhớ chi tiết đến nhường này chẳng có gì lạ với tôi; trước đây tôi từng thấy cha đến đúng từng cánh cửa mình đã đi qua trong những ngôi nhà thờ cổ kính nổi tiếng, hoặc quẹo chính xác vào một nhà ăn cổ xưa, hoặc dừng lại mua vé tại đúng trạm bảo vệ trên đúng con đường dẫn vào có rải sỏi và râm bóng cây, hoặc thậm chí còn nhắc lại được chính xác nơi ông đã từng thưởng thức ly cà phê đậm đà nhất.
Nhưng lần này ở tu viện Thánh Matthieu có khác: cha như lo lắng hơn, gần như chỉ liếc nhanh qua một lượt các bức tường và lối đi hành lang. Thay vì làm ra vẻ nói với chính mình, “A, còn cái khung tam giác rất đẹp trên các cánh cửa nữa; cha nghĩ mình nhớ nó ở phía này mà,” có vẻ như cha đang kiểm tra lại những hình ảnh mà lẽ ra nhắm mắt ông cũng phải mô tả được. Tôi dần hiểu ra, thậm chí trước cả khi chúng tôi leo qua những khoảnh đất dốc, nằm dưới bóng mát của những cây bách tùng, dẫn đến lối vào chính, rằng những gì ông nhớ về nơi này không phải là chi tiết kiến trúc, mà là những sự kiện.
Một tu sĩ mặc bộ quần áo dài màu nâu đứng bên cạnh cánh cửa gỗ, im lặng trao những tập quảng cáo cho du khách. “Như cha đã nói, tu viện này vẫn còn đang hoạt động,” cha nói, giọng bình thường. Cha đeo kính râm vào, dù bức tường tu viện đã phủ lên chúng tôi một bóng mát gần như đen kịt. “Người ta giữ không để các đám đông gây huyên náo, bằng cách chỉ cho khách đến tham quan vài giờ mỗi ngày.” Khi chúng tôi đến gần vị tu sĩ, cha mỉm cười đưa tay ra xin một tập quảng cáo. “Merci beaucoup - Cám ơn nhiều, chúng tôi chỉ xin một cuốn thôi,” cha nói bằng thứ tiếng Pháp lịch lãm. Nhưng lần này, bằng cái linh cảm chính xác của con cái vốn thường có đối với cha mẹ, tôi biết, thậm chí còn hơn cả chắc chắn, là trước đây cha đã không chỉ đơn thuần có mặt ở đây, với máy chụp ảnh trong tay. Lần trước cha đã không ‘tham quan du lịch’ đúng như nghĩa của nó, dù cho ông biết rõ các thông tin chỉ dẫn lịch sử-nghệ thuật trong sách hướng dẫn. Thay vì vậy, có chuyện gì đó, tôi cảm thấy chắc chắn, đã xảy đến với cha ở nơi này.
Cảm giác thứ hai của tôi cũng thoáng qua như cảm giác đầu, nhưng rõ ràng hơn: khi cha mở tập sách
quảng cáo mỏng ra và đặt một chân lên ngưỡng cửa bằng đá, chúi đầu quá tự nhiên vào những dòng chữ thay vì nhìn vào những con thú chạm khắc phía bên trên, (những thứ này bình thường sẽ lôi kéo sự chú ý của cha), tôi nhận ra cha vẫn chưa đánh mất cảm xúc từng có đối với khu điện thờ mà chúng tôi sắp bước vào. Cảm xúc đó, tôi nín thở nhận ra giữa trực giác của mình và ý nghĩ đi cùng nó - cảm xúc đó là đau khổ, hoặc sợ hãi, hoặc một sự pha trộn khủng khiếp của cả hai.
Tu viện Thánh Matthieu tỉnh Pyrénées Orientales nằm ở độ cao hơn một ngàn hai trăm mét so với mực nước biển - và bạn có tin chăng, biển không xa xôi bằng cái phong cảnh có những cánh đại bàng chao lượn trên không và tường thành vây bọc quanh này. Lợp bằng mái ngói đỏ và nằm cao chênh vênh trên đỉnh, tu viện hình như mọc thẳng ra từ đỉnh núi đá cao đơn độc này, và sự thật là vậy, theo một cách nào đó, bởi nền móng ban đầu của nhà thờ đã được đục sâu vào trong lòng đá từ năm 1000. Lối chính dẫn vào tu viện được dựng sau này theo kiểu mẫu kiến trúc La Mã, thêm chút ảnh hưởng nghệ thuật Hồi giáo, những người đã chiến đấu hàng nhiều thế kỷ để chiếm đỉnh núi này: một cổng đá vuông bên trên có những đường viền kỷ hà kiểu Hồi giáo và hai bức phù điêu hình những con quái vật trong truyền thống Thiên Chúa giáo, đang cau mặt gầm gừ, có thể là sư tử, gấu, dơi, hoặc quái thú đầu chim mình sư tử - loài thú không có thực mà dòng giống có thể là bất cứ loài nào.
Tọa lạc bên trong là nhà thờ tu viện Thánh Matthieu nhỏ bé và dãy hành lang cực kỳ thanh nhã, với bờ dậu là những bụi hồng, dù ở độ cao kinh khủng này, bao quanh là những cột cẩm thạch đỏ hình xoắn ốc trông có vẻ mỏng manh đến độ cứ như chúng được một nghệ sĩ mạnh mẽ như lực sĩ Samson làm cho xoắn lại. Ánh mặt trời tràn ngập, lấp lánh trên những phiến đá lát lối đi trong khoảnh sân nhỏ giữa nhà thờ, bầu trời xanh khuôn thành vòm trên đầu chúng tôi.
Nhưng khi chúng tôi bước vào, điều lôi kéo sự chú ý ở một nơi chốn cao và khô ráo như thế này là tiếng nước chảy róc rách, bất ngờ, dễ chịu, nghe tự nhiên như âm thanh của một dòng suối. Âm thanh đó xuất phát từ vòi phun nước của tu viện, quanh đó các tu sĩ đã từng một thời rảo những bước chân trầm tư mặc tưởng: một bồn lục giác đá cẩm thạch đỏ, các mặt phẳng phía ngoài trang trí một bức tiểu họa chạm khắc hình một tu viện thu nhỏ, hình ảnh thu nhỏ của cái tu viện có thực chung quanh chúng tôi. Chiếc bồn lớn của vòi phun nằm trên sáu cây cột cẩm thạch đỏ (và một cột chống ở giữa, nguồn nước phun lên từ cây cột này, tôi nghĩ vậy). Quanh mặt ngoài của bồn, sáu đầu vòi nhả nước xuống một hồ nước bên dưới. Tiếng nước chảy nghe như tiếng nhạc mê đắm lòng người.
Khi ra đến rìa bên ngoài các dãy hành lang và ngồi xuống một bờ tường thấp, tôi có thể nhìn ra một vách đá dựng đứng cao cả ngàn mét và thấy những dòng thác mỏng manh, trắng xóa chảy thẳng đứng giữa nền rừng xanh thẳm. Ngồi trên một đỉnh núi, chúng tôi bị những bức tường đồ sộ và dốc đứng của vùng Pyrénées Orientales cao vòi vọi bao bọc xung quanh. Ở khoảng cách này, những ngọn thác như lao mình xuống bên dưới trong tĩnh lặng hoặc hiện ra chỉ như lớp sương mù, trong khi những vòi phun bên dưới vẫn sống động, không ngừng róc rách.
“Cuộc sống tự giam mình,” cha thì thầm, ngồi xuống bên tôi trên bờ tường. Gương mặt cha thật kỳ lạ, cha choàng tay ôm lấy vai tôi, một cử chỉ hiếm khi cha biểu lộ. “Xem ra có vẻ yên bình, nhưng cũng rất khó khăn. Và đôi khi, còn cay đắng nữa.” Chúng tôi ngồi nhìn qua bên kia vực thẳm, sâu đến nỗi ánh sáng ban mai không thể với đến. Một cái gì đó lơ lửng và lấp lánh giữa khoảng không bên dưới, tôi nhận ra ngay nó là gì trước khi chỉ tay: một con chim săn mồi, lượn lờ sục sạo tìm mồi, dọc theo những vách đá cao chót vót, lơ lửng như một bông tuyết màu đồng.
“Nơi đây được xây dựng cao hơn tầm bay của chim đại bàng,” cha nói, giọng trầm ngâm. “Con biết đấy, đại bàng là một biểu tượng rất cổ xưa của Thiên Chúa giáo, biểu tượng của Thánh John. Matthew - Thánh Matthieu - là thiên thần, Thánh Luke là bò, còn Thánh Mark tất nhiên là sư tử có cánh. Con có thể nhìn thấy hình dáng con sư tử đó khắp vùng biển Adriatic, bởi đó là vị thánh đỡ đầu của thành phố Venice. Con sư tử đó quắp một cuốn sách giữa các móng vuốt - nếu cuốn sách mở ra, có nghĩa là bức tượng hoặc phù điêu đó được chạm khắc vào thời điểm Venice đang thái bình. Sách đóng lại, có nghĩa là Venice đang có chiến tranh. Chúng ta đã thấy hình con sư tử này ở Ragusa, trên một cánh cổng - con nhớ chứ? - với cuốn sách đóng. Và bây giờ chúng ta lại thấy chim đại bàng, đang bảo vệ nơi chốn này. Vậy đấy, nơi đây cần sự bảo vệ của lũ đại bàng.” Cha cau mày, đứng dậy, quay đi. Tôi chợt nhận thấy cha tỏ vẻ hối tiếc, gần
như đến chảy nước mắt, về cuộc viếng thăm nơi chốn này. “Chúng ta đi một vòng chứ?” Không phải đến khi bước xuống những bậc cấp dẫn xuống khu hầm mộ tôi mới lại thấy ở cha thái độ sợ hãi không thể diễn tả ấy. Chúng tôi chăm chú bước qua hết các dãy hành lang, các nhà nguyện, gian hành lễ, những gian nhà bếp lộng gió. Điểm cuối trong cuộc tham quan không có người hướng dẫn của chúng tôi là khu hầm mộ - món tráng miệng cho những cái đầu không lành mạnh - như cha thường nói khi đi thăm một số nhà thờ khác. Tại lối vào trên cầu thang dẫn xuống hầm mộ, có vẻ như cha hơi quá thận trọng, dấn bước đi trước, giữ tôi ở phía sau dù không hề đưa tay che chở tôi khi chúng tôi bước xuống, vào cái hầm đá kia. Một làn hơi lạnh chợn rợn bốc lên từ nền đất tăm tối, xộc vào người chúng tôi. Các du khách khác đã rời đi hết, kết thúc chuyến tham quan tu viện ở điểm này, bỏ chúng tôi lại một mình. “Đây là gian giữa của ngôi nhà thờ đầu tiên,” cha lại giải thích, vu vơ, giọng hoàn toàn bình thường. Khi giới tu sĩ phát triển mạnh hơn và có thể tiếp tục việc xây dựng, họ chỉ bung lên cao và dựng một nhà thờ mới, ngay trên nóc nhà thờ cũ.” Ánh nến tỏa ra từ các chân nến bằng đá đặt trên những cây cột nặng nề xua đi phần nào cái bóng tối lạnh lẽo. Một cây thánh giá khắc chạm thẳng vào tường phía sau chính điện, lơ lửng như một cái bóng phía trên bệ thờ hoặc cỗ quan tài đá - thật khó mà xác định rõ cái nào - đặt dưới mái vòm chánh điện. Dọc theo tường của khu hầm mộ còn có hai hoặc ba cỗ quan tài đá khác, nhỏ và thô thiển, không có gì đáng để ý. Cha hít vào một hơi dài, nhìn quanh cái hang lạnh lẽo trong lòng đá ấy. “Nơi an nghỉ của vị tu sĩ sáng lập và nhiều tu sĩ khác sau này. Vậy là xong chuyến du lịch của chúng ta. Đi ăn trưa thôi.”
Tôi dừng lại trên đường đi ra. Cảm giác thôi thúc muốn hỏi những gì cha biết về tu viện Thánh Matthieu, cả những gì cha nhớ, chợt ập đến với tôi như một cơn sóng, gần như một nỗi kinh hoàng. Nhưng tấm lưng cha, bành ra trong tấm áo khoác lanh đen như muốn nói thật rõ ràng: “Đợi đã. Mọi thứ đều có thời điểm của nó.” Tôi liếc nhanh cỗ quan tài đá ở đầu kia ngôi nhà thờ cổ. Một hình dạng thô thiển, lạnh lẽo trong một thứ ánh sáng mờ mờ. Bất kỳ cái gì nó che giấu bên trong cũng đã thuộc về quá khứ, và việc phỏng đoán sẽ chẳng giúp phát hiện được gì.
Nhưng tôi đã biết một điều khác, không cần phải phỏng đoán. Câu chuyện mà tôi sẽ được nghe trong buổi ăn trưa trên sân thượng tu viện - một khoảng hõm vào vừa khéo bên dưới khu cư ngụ của các tu sĩ - có thể hóa ra lại là về một nơi chốn nào đó khác, rất xa nơi này, nhưng cũng như cuộc viếng thăm này của chúng tôi, câu chuyện đó chắc chắn sẽ là một bước nữa hướng tới nỗi sợ hãi mà tôi đã bắt đầu thấy bao trùm lấy cha. Tại sao cha không muốn kể cho tôi nghe về việc thầy Rossi mất tích cho đến khi ông Massimo lỡ miệng nói ra? Tại sao cha tức giận, mặt trắng bệch, khi viên quản lý nhà hàng kể với chúng tôi một truyền thuyết về những xác chết sống? Bất kỳ điều gì ám ảnh ký ức của cha đều bị nơi chốn này phơi bày ra một cách sống động, mà nơi này là một chốn thiêng liêng hơn là đáng sợ, tuy nhiên lại đáng sợ đối với cha, đến mức cha phải gồng mình lên để kiềm chế. Tôi phải làm việc, như giáo sư Rossi đã làm, để thu thập những manh mối của riêng mình. Tôi đã trở nên sáng suốt hơn theo dòng câu chuyện này.
11
◄○►
Lần kế tiếp đến thư viện ở Amsterdam, tôi nhận thấy quả thực bác Binnerts đã tìm được vài thứ cho tôi trong thời gian tôi vắng mặt. Khi tôi đi thẳng từ trường đến phòng đọc sách, cặp đựng sách vở vẫn mang trên lưng, bác ấy nhìn tôi mỉm cười. “Cháu đấy à,” bác nói bằng thứ tiếng Anh sành sỏi. “Nhà sử học trẻ tuổi của ta. Bác có vài thứ cho cháu, cho dự án của cháu đây.” Tôi theo bác đến bàn làm việc, bác lấy ra một cuốn sách. “Cuốn sách này không cổ lắm đâu,” bác bảo tôi. “Nhưng trong đó có một số chuyện rất xưa. Đọc chúng cũng không mấy vui vẻ đâu, cháu ạ, nhưng có lẽ chúng sẽ giúp cháu làm được bài tập của cháu.” Bác Binnerts để tôi lại bên cạnh một chiếc bàn, tôi nhìn chiếc áo len cổ lọ của bác xa dần với ánh mắt biết ơn. Tôi thấy thật cảm động khi có người tin tưởng mang đến cho mình một thứ tuyệt vời.
Cuốn sách có tựa đề là Những câu chuyện vùng Carpates, một cuốn sách khổ lớn, cáu bẩn, do một nhà sưu tập người Anh tên Robert Digby xuất bản từ thế kỷ mười chín với tư cách cá nhân. Lời nói đầu của Digby mô tả sơ lược những chuyến lãng du của ông giữa các vùng núi hoang dã và những ngôn ngữ còn hoang dã hơn nữa, mặc dù ông đã dùng một số nguồn tư liệu tiếng Đức và tiếng Nga cho một phần cuốn sách. Những câu chuyện của Digby cũng mang một âm hưởng hoang dã, và văn phong cũng khá lãng mạn, nhưng sau này khá lâu, khi khảo sát lại chúng, tôi nhận ra lối kể chuyện của ông so ra rất giống với lối kể chuyện của các nhà sưu tầm và dịch giả sau này. Có hai chuyện về “Ông Hoàng Dracula”, tôi háo hức đọc chúng. Chuyện đầu tiên thuật lại một cách chi tiết việc Dracula thích tổ chức tiệc tùng ngoài trời, giữa đám tử thi của những người dân bị hành hình bằng cách đóng cọc xuyên người. Một hôm, một người hầu công khai than phiền trước mặt Dracula về mùi hôi khủng khiếp, thế là ông hoàng ra lệnh cho bọn thuộc hạ đóng cọc tên hầu cao hơn so với những người khác để cái mùi kia không làm phiền cái lỗ mũi của tên hầu đáng chết đó nữa. Digby còn kể trong một phiên bản khác của chuyện này, theo đó Dracula đã quát tháo đòi một cây cọc dài gấp ba lần các cây cọc dùng để hành hình những người khác.
Câu chuyện thứ hai cũng khủng khiếp không kém. Chuyện kể lại có lần Quốc vương Mehmed II phái hai sứ giả đến gặp Dracula. Khi các sứ giả triều kiến Dracula, họ đã không bỏ khăn đội đầu ra. Dracula muốn biết tại sao họ thất lễ với hắn như vậy, họ trả lời là họ chỉ hành xử theo phong tục tập quán của họ. “Như vậy ta sẽ giúp các ngươi củng cố thêm tập quán của các ngươi,” ông hoàng đáp và sai người đóng đinh ghim chặt các chiếc khăn xếp đó vào đầu họ.
Tôi chép hai mẩu chuyện ngắn đó của Digby vào sổ tay. Khi bác Binnerts quay lại để xem tôi làm việc thế nào, tôi hỏi bác liệu có hay không và có thể tìm ở đâu những tư liệu về Dracula do những người cùng thời với hắn để lại. “Chắc chắn là có,” bác trả lời, gật đầu vẻ nghiêm nghị. Lúc đó bác không ở bàn làm việc, nhưng chắc chắn bác sẽ tìm được cho tôi một cái gì đó khi rảnh rỗi. Rồi có thể sau đó - bác lắc đầu, mỉm cười - có thể sau đó tôi sẽ tìm được chủ đề nào đó vui hơn, như kiến trúc thời Trung cổ chẳng hạn. Tôi cũng mỉm cười đáp lại, và hứa sẽ suy nghĩ về điều đó.
Không nơi nào trên thế giới sống động bằng Venice vào một ngày nắng nóng, trời quang, hiu hiu gió thổi. Tàu thuyền trên dòng kênh Lagoon lắc lư, dập dềnh, không một bóng thủy thủ, tựa như đang tự mình khởi hành vào những chuyến phiêu lưu; các mặt tiền bên ngoài thuyền được trang hoàng lộng lẫy, sáng rực lên trong ánh mặt trời; dòng nước phía dưới như chưa bao giờ tươi mát tới vậy. Cả thành phố căng lên như một cánh buồm, bập bềnh như con tàu đã nhổ neo, sẵn sàng ra khơi. Mép nước phía quảng trường San Marco ầm ào sóng vỗ, những con sóng tỏa ra từ phía sau xuồng cao tốc, tạo ra một thứ nhạc tưng bừng nhưng chợ búa chẳng khác gì âm thanh chan chát của đôi chũm chọe. Ở Amsterdam, Venice của phương Bắc, kiểu thời tiết làm nao nức lòng người thế này hẳn sẽ làm cho thành phố trở nên rạng rỡ ngập tràn
quyết tâm tươi mới. Nhưng nơi đây, thành phố lại kết thúc bằng cách trưng ra những khiếm khuyết giữa sự hoàn hảo, chẳng hạn như, một đài phun đầy cỏ dại phía sau quảng trường, lẽ ra phải phun ra những tia nước thay vì chỉ nhỏ từng giọt xuống mép bồn bên dưới. Những con chiến mã của Thánh Mark vẫn nhảy lồng lên, nhưng đã cũ kỹ tồi tàn lắm, trong ánh trời lấp lánh. Dãy cột của dinh thự tổng trấn trông cáu bẩn đến không sao chấp nhận nổi.
Tôi bình luận về bầu không khí lễ hội nhếch nhác này, cha mỉm cười. “Con thật mẫn cảm với thời tiết,” cha nói. “Venice nổi tiếng về nghệ thuật trình diễn sân khấu, và có nhếch nhác chút đỉnh cũng chẳng hề gì, miễn là thế giới vẫn đổ dồn về đây để chiêm ngưỡng nó. Cha khoát tay chỉ trỏ quanh quán cà phê ngoài trời - chốn ưa thích của chúng tôi sau quán Florian - hướng vào những khách du lịch ướt đẫm mồ hôi, mũ và áo sơ mi sáng màu phần phật bay trong gió từ kênh thổi lại. “Hãy chờ đến tối, con sẽ không thất vọng đâu. Dàn dựng một sân khấu cần loại ánh sáng êm dịu hơn ánh sáng này nhiều. Con sẽ ngạc nhiên vì sự biến đổi đó.”
Lúc này, dù sao chăng nữa, sau khi nhấp một ngụm nước cam, tôi cũng cảm thấy dễ chịu đến mức chẳng muốn đi đâu nữa mà chỉ mong chờ được đón nhận một bất ngờ thú vị thích hợp với mình. Đây là đợt nóng cuối cùng của mùa hè trước khi mùa thu đến. Mùa thu đến cũng có nghĩa là mùa tựu trường và, nếu may mắn, tôi sẽ học hỏi thêm vài điều, khi cùng với cha xuôi ngược trên các lộ trình đi đàm phán, thỏa thuận và thương lượng gay gắt. Mùa thu này, cha sẽ lại đi Đông Âu, và tôi đã cố gắng thuyết phục cha để được đi cùng.
Cha uống cạn cốc bia rồi lật lật trên cuốn sách hướng dẫn. “Đây rồi.” Cha đột ngột lên tiếng. “Đây là San Marco. Như con biết đấy, trong nhiều thế kỷ Venice là một đối thủ của thế giới Byzantine, và cũng là một lực lượng hùng mạnh trên mặt biển. Thực ra, Venice đã đánh cắp của Byzantium[14] một vài thứ đặc biệt, kể cả hình tạc những con vật ở trên kia.” Từ mái hiên, tôi nhìn ra ngoài quảng trường Thánh Mark, nơi những chú ngựa đồng như đang kéo cả sức nặng của các mái vòm sũng nước và xám xịt phía sau. Toàn bộ thánh đường như tan chảy dưới ánh mặt trời - thứ ánh sáng chói chang và nóng, một kho báu quỷ quái. “Dù sao chăng nữa,” cha tiếp tục, “San Marco một phần nào đó được thiết kế phỏng theo Santa Sophia của Istanbul.”
“Istanbul ư?” tôi hỏi, giọng tinh nghịch, hớp hết ly nước đá. “Ý cha nói nó giống như thánh đường Hagia Sophia?”
“À, tất nhiên thánh đường Hagia Sophia đã bị đế quốc Ottoman tàn phá, vì vậy con sẽ thấy những ngọn tháp kiểu Hồi giáo đứng bao bọc bên ngoài, rồi bên trong là những tấm mộc đồ sộ ghi những văn bản thiêng liêng của tín đồ Hồi giáo. Con sẽ thực sự nhìn thấy Đông và Tây đụng đầu nhau ở đó. Nhưng cũng có những mái vòm khổng lồ trên đỉnh như ở San Marco, dấu ấn riêng biệt của Thiên Chúa giáo và đế quốc Byzantine.”
“Chúng có giống những mái vòm này không?” tôi trỏ qua phía bên kia quảng trường. “Đúng, rất giống những mái vòm này, nhưng lớn hơn. Quy mô của nơi đó lớn không tưởng tượng nổi. Nó sẽ khiến con nín thở vì kinh ngạc.”
“Ồ,” tôi thốt lên. “Con uống ly nữa được không cha?”
Cha chợt trừng mắt nhìn tôi, nhưng đã quá trễ. Lúc này, tôi biết cha đã phiêu bạt tận Istanbul rồi.
12
◄○►
Ngày 16 tháng Mười hai, 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Đến đây, câu chuyện của tôi hầu như đã đuổi kịp tôi, hoặc có thể tôi đã đuổi kịp nó, nên tôi sẽ phải kể lại các sự kiện đã đưa câu chuyện tôi đến thời điểm này. Từ đây, tôi hy vọng, nó sẽ dừng lại vì tôi khó lòng chịu đựng được cái ý tưởng là tương lai có thể sẽ chứa đựng nhiều sự kiện kinh hoàng hơn.
Như đã kể, cuối cùng tôi lại cầm cuốn sách kỳ lạ của mình lên, như một người bị cơn nghiện bắt buộc. Tôi tự nhủ trước khi làm việc đó là cuộc sống của tôi đã trở lại bình thường, rằng trải nghiệm của mình tại Istanbul thật kỳ lạ, nhưng chắc chắn là nó có thể giải thích được và đã bị đầu óc mệt lử vì những chuyến đi của tôi phóng đại quá đáng lên. Vì vậy, tôi cầm cuốn sách đó lên lần nữa, theo nghĩa đen, và cảm thấy nên kể lại với bạn về khoảnh khắc đó bằng những từ ngữ đúng nghĩa nhất.
Đó là một buổi tối mưa tháng Mười, chỉ mới hai tháng trước. Học kỳ đã bắt đầu, và một giờ sau bữa ăn, tôi thanh thản ngồi một mình trong phòng, nhẩn nha giết thời gian. Tôi đang chờ một người bạn, Hedges, một con người tài hoa lớn hơn tôi mười tuổi mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Hedges tuy vụng về nhưng là người tốt bụng, những cái nhún vai xin lỗi và nụ cười bẽn lẽn dễ thương che giấu một năng khiếu hài hước sắc sảo đến độ tôi sẽ cảm thấy biết ơn hơn nếu anh ấy chĩa nó vào văn chương thế kỷ mười tám thay vì vào các đồng sự của anh. Dù rất nhút nhát nhưng anh lại thấy rất thoải mái khi tụ tập ở bất cứ quán cà phê nào ở Luân Đôn, giữa mớ tác phẩm của Addison, Swift và Pope. Anh chỉ có vài người bạn và hiếm khi nhìn thẳng vào một phụ nữ không có quan hệ gì với mình, chẳng ấp ủ ước mộng gì ngoài phạm vi vùng nông thôn Oxford, nơi anh thường tản bộ và thỉnh thoảng nghiêng mình qua hàng rào xem đàn bò nhẩn nha nhai cỏ. Tính hiền lành của anh có thể bộc lộ rõ qua hình dạng cái đầu to, hai bàn tay núc ních thịt và đôi mắt nâu dịu dàng, vì vậy anh trông có vẻ như hơi đần đần, hoặc một chút gì đó quê mùa, cho đến lúc những lời châm biếm sắc sảo của anh bất ngờ khuấy động không gian. Tôi thích nghe về công trình nghiên cứu của anh, những công trình mà anh thường bàn luận với một cung cách khiêm tốn nhưng nhiệt tình, anh cũng chưa bao giờ thất bại trong việc thúc hối tôi làm những việc tôi đang đeo đuổi. Tên anh - vâng, bạn có thể tìm thấy ở một thư viện bất kỳ, không mấy khó khăn, vì anh là người đã làm sống lại nhiều thiên tài văn học Anh cho giới độc giả bình thường. Nhưng tôi chỉ gọi anh là Hedges, bí danh mà tôi đã đặt cho anh, để cuộc sống riêng tư và đáng kính của anh không bị ảnh hưởng khi tôi đưa anh vào câu chuyện này.
Buổi tối đặc biệt hôm đó, Hedges phải đến phòng làm việc của tôi, mang theo bản thảo hai bài viết mà tôi đã tóm tắt từ công trình nghiên cứu của mình tại đảo Crete. Anh đã đọc và hiệu đính chúng, theo yêu cầu của tôi; dù không thể đánh giá về mức độ chính xác hoặc sai lạc của các bài viết về chủ đề nền giao thương vùng Địa Trung Hải thời cổ đại, nhưng anh có biệt tài về viết, loại biệt tài mà sự chính xác của nó cho phép anh nhảy múa ngay trên đầu một cây kim, anh cũng thường gợi ý tôi nên đánh bóng lại văn phong của mình. Tôi đã tiên liệu anh sẽ dành nửa giờ để thân tình phê bình tôi, sau đó làm chút rượu sherry, rồi đến cái khoảnh khắc thoải mái khi một người bạn tri kỷ duỗi thẳng chân bên lò sưởi và hỏi thăm ta dạo này thế nào. Tôi sẽ không thổ lộ với Hedges sự thật về tình trạng khủng hoảng tinh thần của mình, dĩ nhiên, nhưng chúng tôi sẽ bàn luận với nhau về đủ mọi chuyện trên đời.
Trong khi chờ đợi, tôi cời lửa trong lò sưởi, cho thêm vào một khúc củi, bày ra hai cái ly và xem lại bàn làm việc của mình. Phòng làm việc của tôi cũng là phòng khách, và tôi luôn đảm bảo cho nó phải
được xếp đặt ngăn nắp và thoải mái như sự vững chắc mà đồ đạc kiểu thế kỷ mười chín trong phòng này đòi hỏi. Buổi chiều hôm đó, tôi đã làm được rất nhiều việc, ăn hết một đĩa thức ăn được mang đến lúc sáu giờ, sau đó hoàn thành phần cuối luận án của mình. Bóng tối đến sớm hơn thường lệ, theo cùng là một màn mưa xiên xiên, buồn ảm đạm. Nhưng tôi nhận ra đây không phải là một buổi tối mùa thu u sầu nhất mà hấp dẫn nhất, nên tôi chỉ thoáng rùng mình linh cảm thấy gì đó sắp xảy ra khi bàn tay đang dò tìm một bài viết ngắn vô tình chạm vào quyển sách cổ mà tôi đang cố lảng tránh. Tôi đã nhét nó vào giữa những cuốn ít khiến tôi lo âu hơn trên giá sách, phía trên bàn làm việc. Lúc này tôi đang ngồi ở đó, cảm nhận trong niềm thỏa mãn ngấm ngầm cái cuốn sách cổ bìa da lộn mềm mại một lần nữa nằm gọn trong tay mình ấy, rồi mở sách ra.
Ngay tức khắc tôi nhận ra điều gì đó rất quái lạ. Mùi nồng nặc bốc lên từ các trang giấy, không phải mùi thơm dịu của giấy cũ và giấy da đã nứt nẻ. Đây là mùi phân hủy, một mùi bệnh hoạn khủng khiếp, mùi thịt thối rữa. Trước đó tôi chưa bao giờ nhận thấy có mùi này, nên đã cúi xuống thấp hơn, ngửi lại thật kỹ, không tin nổi, rồi đóng ập cuốn sách lại. Lát sau, tôi lại mở nó ra, và một lần nữa cái mùi buồn nôn bốc lên từ các trang giấy. Quyển sách nhỏ dường như đang sống trong đôi tay tôi, nhưng lại bốc lên mùi tử khí.
Mùi hôi hám khó chịu đó đã khơi dậy lại trong tôi tất cả nỗi sợ hãi bồn chồn của chuyến trở về từ Lục địa, và tôi chỉ làm những xúc động của mình lắng xuống được bằng một nỗ lực tập trung cao độ. Tôi đã du hành cùng với cuốn sách này qua mưa bão, và sách cũ mục rã là chuyện bình thường. Mùi hôi hám đó chỉ có thể được giải thích như vậy. Có lẽ tôi sẽ lại mang nó đến Phòng Sách Hiếm để nhờ chỉ dẫn làm sạch hay xông khói cho nó, bất kỳ biện pháp nào cần thiết.
Có lẽ tôi đã quẳng cuốn sách xuống, đã lại một lần nữa tôi cất nó đi nếu dằn lòng được trước cái mùi hôi hám đó. Nhưng lúc này, lần đầu tiên sau nhiều tuần, tôi đã lật ngay tới bức hình lạ thường ở giữa sách, con rồng có đôi cánh dang rộng đang gầm gừ nhe nanh múa vuốt trên cái tiêu kỳ đề chữ DRAKULYA ấy. Đột nhiên, với độ chính xác đến choáng váng, lần đầu tiên tôi đã thấy một cái gì đó mới và thấu hiểu nó. Tôi không nhạy bén lắm trong việc hiểu được sự vật nhờ quan sát, nhưng một thoáng linh cảm nào đó khiến tôi nhận ra được đường nét chính của hình con rồng, đôi cánh dang rộng và chiếc đuôi cong lên cuộn lại. Trong cơn tò mò, tôi lục lọi đống sổ ghi chép mang về từ Istanbul, vẫn bỏ xó trong hộc bàn làm việc bấy lâu nay. Tôi dò dẫm và tìm ra được trang ghi chú mình cần; nó được xé ra từ cuốn sổ ghi chép và có bức phác thảo mà tôi đã vẽ trong trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử ở Istanbul, sao lại tấm đầu tiên trong số các bản đồ mà tôi đã phát hiện ở đó.
Chắc hẳn bạn còn nhớ có ba tấm bản đồ, được vẽ theo tỷ lệ xích lớn dần, tấm sau chi tiết hơn tấm trước, cho thấy cùng một khu vực không tên. Khu vực đó, ngay cả được vẽ bằng bàn tay tôi dù cẩn thận đến mấy cũng không thể chuyên nghiệp, vẫn cho thấy một hình dạng nhất định, trông giống hệt như một con thú có hai cánh đối xứng đang dang ra. Một dòng sông dài chạy uốn cong từ đó theo hướng Tây Nam, cuộn lại như đuôi rồng. Tôi nghiên cứu bức tranh khắc gỗ, lòng xốn xang kỳ lạ. Đuôi rồng có ngạnh, đầu mút là một mũi tên trỏ hướng về - đến đây tôi gần như thở hổn hển, quên phắt những tuần mình nỗ lực thoát khỏi cơn ám ảnh trước đây - điểm tương ứng với cạnh của Hầm mộ Tội lỗi trên tấm bản đồ của tôi.
Hình dạng giống nhau giữa hai bức tranh quá hiển nhiên để có thể cho rằng đó là một sự trùng hợp. Làm sao lúc trước tôi lại không nhận ra ngay trong trung tâm lưu trữ kia, rằng khu vực được vẽ trên những tấm bản đồ đó chính xác có hình dạng như con rồng có đôi cánh xòe rộng trong cuốn sách của tôi, tựa như từ phía trên cao nó phủ bóng xuống khu vực đó? Bức tranh khắc gỗ đã làm tôi vô cùng bối rối trước chuyến đi chắc hẳn phải có một ý nghĩa nhất định nào đó, một thông điệp. Nó được thiết kế để cảnh báo và đe dọa, để tưởng niệm một quyền năng. Nhưng về lâu dài, đây có thể là một manh mối; cái đuôi rồng chỉ vào ngôi mộ giống y hệt như một ngón tay chỉ vào bản thân: đây là tôi. Tôi ở đây. Vậy thì ai ở đó, trong cái điểm trung tâm đó, trong Hầm Mộ Tội Lỗi đó? Con rồng đã giữ câu trả lời trong móng vuốt sắc bén và tàn bạo của nó: DRAKULYA.
Tôi cảm thấy vị hăng xè tận nơi cuống họng, giống như chính máu của mình. Tôi biết mình không được vội vã đi tới những kết luận này, quá trình đào tạo đã cảnh báo tôi như thế, nhưng tôi đã bị điều gì đó sâu sắc hơn cả lý trí thuyết phục. Không một bản nào trong số các tấm bản đồ này cho thấy hồ Snagov,
nơi người ta cho rằng Vlad Ţepeş đã được chôn cất. Chắc chắn việc này có nghĩa là Ţepeş - Dracula - nằm ở một nơi khác, một nơi nào đó mà thậm chí truyền thuyết cũng không ghi lại một cách rõ ràng. Vậy thì mộ của hắn ở đâu? Tôi nghiến răng rồi hét to câu hỏi đó, dù không định thế. Và tại sao vị trí của nó lại được giữ bí mật?
Trong lúc đang ngồi cố gắng tập hợp các manh mối lại với nhau, tôi nghe có tiếng bước chân quen thuộc dọc theo hành lang của trường - bước chân kéo lê thân thuộc của Hedges - và lơ đãng nghĩ mình phải giấu các tài liệu này đi, bước ra cửa, rót rượu và sẵn sàng tinh thần trò chuyện vui vẻ. Tôi vừa khom người đứng lên, thu dọn mớ giấy tờ thì đột nhiên không nghe gì nữa, chỉ còn sự yên lặng. Giống như một nhịp lỗi trong khúc nhạc, một nốt bị kềm nhịp quá lâu làm hụt hẫng người nghe. Những tiếng bước chân thân thuộc đã dừng lại bên ngoài cửa phòng, nhưng Hedges không gõ cửa, như vẫn thường làm. Tiếng tim tôi vang vọng trong khoảng lặng của nhịp bị bỏ cách đó. Trên nền tiếng sột soạt của giấy tờ và tiếng nước mưa chảy trong máng xối phía trên cửa sổ, giờ đã tối đen, tôi nghe trong tai tiếng lùng bùng dâng lên - âm thanh của máu chảy trong mạch. Buông cuốn sách xuống, tôi lao đến, mở khóa và giật mạnh cánh cửa phòng.
Hedges đang ở đó, nhưng nằm sóng soài trên nền nhà bóng láng, đầu bị bẻ ngược ra sau còn thân người oặt qua một bên, tựa như một lực rất mạnh đã lôi anh xuống. Tôi chợt cảm thấy buồn nôn khi nhận ra mình không hề nghe tiếng anh thét lên hay ngã xuống. Hai mắt anh vẫn mở, trừng trừng nhìn qua tôi. Trong một thoáng như kéo dài vô tận, tôi nghĩ anh đã chết. Nhưng rồi, anh cựa đầu và cất tiếng rên. Tôi cúi xuống bên cạnh anh. “Hedges!”
Anh lại rên lên và chớp mắt thật nhanh.
“Anh có nghe tôi không?” tôi thở hổn hển, nhẹ nhõm đến suýt phát khóc vì nhận ra Hedges còn sống. Ngay lúc đó, đầu anh bỗng lắc mạnh, để lộ một vết cắt còn rỉ máu ở bên cổ. Vết cắt không lớn nhưng có vẻ sâu, tựa như một con chó đã nhảy lên và táp vào đó, qua vai anh máu đang chảy dầm dề xuống cổ áo và sàn nhà. “Cứu với!” tôi hét lên. Tôi nghĩ trong suốt nhiều thế kỷ từ lúc được xây dựng đến nay, chưa có ai phá vỡ sự tĩnh lặng của hành lang lát gỗ sồi này bằng cách thét to dữ dội như vậy. Nhưng tôi không biết liệu có ích gì không; đêm hôm ấy hầu hết các nghiên cứu sinh đi ăn tối với thầy hiệu trưởng. Sau đó một cánh cửa ở cuối hành lang bật mở và người hầu của giáo sư Jeremy Forester vội vã chạy tới, một anh chàng tốt bụng tên Ronald Egg, sau vụ này cậu đã nghỉ việc. Có vẻ như cậu đánh giá được mọi việc ngay tức khắc, đôi mắt như muốn lồi ra, cậu quỳ xuống, lấy khăn tay quấn quanh vết thương trên cổ Hedges.
“Đây,” cậu bé nói với tôi. “Chúng ta phải đỡ ông ta ngồi dậy, để nâng vết cắt lên, nếu ông ta không bị vết thương nào khác.” Cậu cẩn thận sờ khắp cơ thể đã đờ cứng của Hedges, và khi thấy anh bạn tôi không phản ứng gì, chúng tôi dựng anh dựa vào tường. Tôi dùng vai đỡ anh, anh rũ người vào vai tôi, mắt nhắm nghiền. “Tôi đi gọi bác sĩ,” Ronald nói và chạy biến xuống cuối hành lang. Tôi dùng một ngón tay xem mạch Hedges; đầu anh oặt oẹo trên vai tôi nhưng mạch có vẻ vẫn đều. Tôi không thể không gọi cho anh tỉnh lại. “Chuyện gì đã xảy ra, Hedges? Có ai đó đánh anh phải không? Anh có nghe tôi nói không? Hedges?”
Anh mở mắt nhìn tôi. Đầu ngoẹo hẳn sang một bên, nửa gương mặt anh trông tái xanh, yếu ớt, nhưng anh vẫn nói rõ ràng, “Hắn nói hãy bảo cho anh biết.”
“Cái gì? Ai?”
“Hắn nói hãy bảo với anh hắn sẽ không cho phép xâm phạm…”
Đầu Hedges lại ngã vào vách tường, cái đầu to lớn, chứa trong đó một trong những trí tuệ xuất sắc nhất nước Anh. Hai cánh tay tôi nổi da gà khi ôm anh. “Ai, Hedges? Ai nói với anh như vậy? Hắn có làm anh đau không? Anh có nhìn thấy hắn không?”
Anh sùi bọt mép và hai bàn tay co giật bên hông.
“Không cho phép xâm phạm,” Hedges lặp lại, giọng líu ríu.
“Nằm yên nào,” tôi giục. “Đừng nói nữa. Vài phút nữa bác sĩ sẽ đến. Cố thở và thư giãn đi.” “Than ôi,” Hedges thều thào. “Pope và lặp âm đầu. Cô gái xinh đẹp ngọt ngào. Còn đang tranh cãi.” Tôi nhìn anh trừng trừng, ruột quặn lên. “Hedges?”
“The Rape of the Lock,”[15] Hedges nói, giọng lễ phép. “Chắc chắn là thế.”
Bác sĩ của trường cho Hedges nhập viện và bảo với tôi Hedges bị đột quỵ do vết thương, “Do cú sốc gây ra. Vết thương trên cổ anh ta,” ông cho biết thêm khi ra khỏi phòng Hedges. “Trông có vẻ như do một vật bén gây ra, có nhiều khả năng là do răng sắc nhọn, một con vật. Anh không nuôi chó chứ?”
“Tất nhiên là không. Chúng tôi không được phép nuôi chó trong phòng nhà trường.” Ông bác sĩ lắc đầu. “Rất kỳ lạ. Tôi tin là anh ta bị một con vật tấn công trên đường đến phòng anh, và cú sốc đã dẫn đến một cơn đột quỵ vốn tiềm tàng, chỉ chờ có cơ hội ập đến. Lúc này, đầu óc anh ta không được tỉnh táo dù vẫn nói năng mạch lạc. Sẽ có một cuộc điều tra, tôi e là vậy, do có vết thương, nhưng tôi thấy có lẽ cuối cùng ta sẽ tìm được thủ phạm là một con chó dữ nhà ai đó. Thử nghĩ xem anh ta đã theo lối nào để đến phòng anh.”
Cuộc điều tra chẳng mang lại kết quả nào đáng hài lòng, tôi không bị cáo buộc gì vì cảnh sát không tìm được chứng cứ hay lý do để buộc tôi đã làm hại Hedges. Hedges lại không thể khai báo gì, và cuối cùng người ta ghi nhận vụ này là do nạn nhân “tự gây thương tích”, việc này theo tôi là một tai họa lẽ ra đã có thể tránh được cho danh tiếng của Hedges. Một hôm khi đến thăm anh tại nhà nghỉ dưỡng, tôi đã khẽ yêu cầu Hedges suy nghĩ về câu: “Ta không cho phép xâm phạm.”
Anh nhìn tôi, ánh mắt thờ ơ, đưa các ngón tay sưng phù sờ vào vết thương còn đỏ lòm trên cổ. “Nếu có, chỉ là nhắc lại lời người khác,” anh nói giọng vui vẻ, gần như hài hước. “Nếu không, quên nó đi.” Vài ngày sau đó Hedges chết vì một cơn đột quỵ thứ hai giữa đêm khuya. Nhà nghỉ dưỡng báo cáo không có vết thương ngoài da nào trên cơ thể. Khi thầy hiệu trưởng trường đại học đến báo cho biết, tôi thề với mình là sẽ làm việc không mệt mỏi để trả thù cho cái chết của Hedges, dù tôi vẫn chưa thể hình dung ra sẽ như thế nào.
Tôi không đành lòng ghi lại chi tiết tang lễ đau lòng của Hedges tại nhà nguyện của chúng tôi ở Trinity, tiếng khóc nức nở của người cha già khi đội hợp xướng nam bắt đầu cất lên bài Thánh ca để an ủi người sống, cơn giận dữ của tôi với những thứ bánh thánh rượu thánh vô dụng trên khay. Hedges được chôn cất tại quê nhà anh ở Dorset, và vào một ngày tháng Mười một êm ả tôi đã một mình đến viếng mộ anh. Bia mộ có dòng chữ REQUIESCAT IN PACE - YÊN NGHỈ TRONG THANH BÌNH, và câu đó cũng chính xác là lựa chọn của tôi, nếu như tôi có quyền quyết định. Tôi cũng được nhẹ lòng vô hạn khi nhận thấy đây là khu nghĩa trang đồng quê yên tịnh nhất và vị cha xứ ở đây đọc điếu văn cho anh ôn tồn như có lẽ ông vẫn làm với bất kỳ cá nhân nào mang vinh dự về cho địa phương. Tôi chưa nghe một câu chuyện nào về ma cà rồng Anh tại các quán rượu, ngay cả khi buông ra những ám chỉ rõ ràng, thẳng thừng nhất. Xét cho cùng, Hedges chỉ bị tấn công một lần, mà theo Stoker mô tả thì phải nhiều lần mới khiến người sống bị nhiễm chất ma cà rồng và biến thành loài đó được. Tôi tin rằng anh đã bị hy sinh đơn thuần chỉ để cảnh cáo - cảnh cáo tôi. Và phải chăng cả bạn nữa, người độc giả bất hạnh?
Người bạn vô cùng sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi
Cha khuấy nước đá trong ly, tựa như để giữ cho bàn tay khỏi run và bày ra một cái gì đó để làm. Cái nóng ban trưa chùng xuống thành một buổi chiều Venice yên ả, làm cho bóng của du khách và các tòa nhà đổ dài vắt qua quảng trường. Dường như bị điều gì làm cho sợ hãi, một đàn bồ câu lớn chợt vụt bay khỏi nền quảng trường lát đá, lượn vòng trên đầu chúng tôi, khi bay trông chúng thật to lớn. Cơn ớn lạnh do những ly đá lạnh cuối cùng đã đến với tôi, ngấm vào tận xương. Có ai đó bật cười ở phía xa xa, và tôi có thể nghe lũ mòng biển oang oác bên trên đàn bồ câu. Trong lúc chúng tôi ngồi ở đó, một thanh niên mặc áo trắng, quần jean xanh sà đến bắt chuyện. Anh ta đeo trên vai một túi vải bạt, mặc áo sơ mi chấm màu. “Mua tranh chứ, quý vị?” anh ta hỏi, cười với cha. “Hôm nay, ngài và cô đây là hai ngôi sao trong bức tranh của tôi đấy.”
“Không, không, cám ơn anh bạn,” cha tôi trả lời một cách máy móc. Các quảng trường và lối đi đầy ắp đám sinh viên mỹ thuật này. Đây là cảnh tượng thứ ba mà Venice cống hiến cho chúng tôi trong ngày; cha hầu như không buồn nhìn bức tranh, nhưng chàng thanh niên vẫn mỉm cười, có lẽ không muốn bỏ đi mà không có được ít nhất một lời khen tặng dành cho tác phẩm của mình, đưa nó lên cho tôi xem, tôi thân thiện gật đầu, liếc nhìn bức tranh. Một lát sau anh ta khẽ nhún chân chào và quay đi tìm các du khách khác,
và tôi như cóng người lại, nhìn anh ta bước đi.
Bức tranh mà anh ta vừa cho tôi xem vẽ bằng màu nước, rất nhiều màu. Nó vẽ cảnh quán cà phê nơi chúng tôi ngồi, và rìa của quán Florian, một bức tranh theo trường phái ấn tượng về buổi chiều, rực rỡ và vô hại. Tôi nghĩ, người họa sĩ chắc hẳn phải dựng giá vẽ đâu đó phía sau tôi, nhưng khá gần quán cà phê; anh ta đã chộp một mảng màu sắc mà tôi nhận ra đó là phía sau chiếc mũ cói màu đỏ của mình, cha ở xa hơn một chút, màu xanh và nâu mờ mờ. Đó là một tác phẩm giản dị và thanh nhã, hình ảnh của sự biếng nhác mùa hè, cái gì đó mà du khách có thể muốn giữ làm kỷ niệm về một ngày hoàn mỹ ở vùng biển Adriatic. Nhưng tôi còn nhìn thấy trong đó một hình bóng cô độc ngồi xa phía bên kia cha, một dáng người với bờ vai rộng, tóc đen, một bóng đen sắc nét giữa những tấm vải bạt che hiên và tấm trải bàn màu sắc tươi vui. Tại chiếc bàn kia, tôi nhớ rất rõ ràng, không có ai ngồi suốt buổi chiều hôm đó.
13
◄○►
Chuyến du hành kế tiếp lại đưa chúng tôi trở lại phía Đông, bên kia rặng Julian Alps. Thành phố bé nhỏ Kostanjevica, “thành phố cây hạt dẻ”, quả thực đang ngập tràn hạt dẻ vào mùa này trong năm, vài quả còn rụng dưới chân, vì vậy nếu không để ý khi bước trên những con đường rải đá cuội, bạn có nguy cơ trượt chân ngã dập mặt. Phía trước tòa thị chính, nơi thoạt tiên được xây dựng làm nơi trú ngụ của một quan chức Áo-Hung, những hạt dẻ trong lớp vỏ nhăn nheo xấu xí vương vãi khắp nơi như một bầy nhím nhỏ.
Cha cùng tôi thơ thẩn tản bộ, thưởng thức một buổi chiều thu ấm áp - theo ngôn ngữ địa phương, được gọi là mùa hè Gypsy, một phụ nữ đứng coi cửa hàng cho chúng tôi biết như vậy - và tôi liền nghĩ đến những dị biệt giữa thế giới phương Tây, cách đây vài trăm cây số, và thế giới phương Đông này, chỉ xuôi về phía Nam Emona một chút. Ở đây, mọi thứ trong các cửa hàng đều trông giống nhau, các nhân viên cửa hàng cũng vậy, hình như họ hoàn toàn y chang nhau, đều mặc áo khoác lao động màu xanh lam sẫm và đeo khăn quàng cổ in hoa, những chiếc răng vàng hoặc thép không tì vết lấp lánh trước mặt chúng tôi, từ đằng sau quầy hàng trống trơn hết một nửa. Chúng tôi mua một thanh sôcôla thật lớn để dùng cho bữa ăn ngoài trời với xúc xích salami xắt lát, bánh mì nâu và pho mát, cha cũng không quên mang theo những chai Naranca ưa thích của tôi, thứ nước cam làm tôi nhớ đến Ragusa, Emona, Venice.
Buổi họp cuối cùng tại Zagreb, Croatia đã kết thúc một ngày trước khi tôi hoàn thành những nét chỉnh sửa hoa mỹ cuối cùng cho bài tập lịch sử của mình. Lúc đó, cha muốn tôi học tiếng Đức, và tôi rất hào hứng, không phải do bị cha thúc ép vì dù cha không thúc thì tôi cũng vẫn muốn học như thường; tôi muốn bắt đầu ngay ngày mai, bằng một cuốn sách mua ở hiệu sách ngoại văn tại Amsterdam. Tôi mặc váy ngắn mới màu xanh, đi tất dài vàng, cha mỉm cười nhớ lại một câu đùa khó hiểu hai nhà ngoại giao nọ nói với nhau sáng hôm đó, và những chai nước cam Naranca khua lanh canh trong túi lưới. Phía trước chúng tôi là một cây cầu đá thấp nằm vắt ngang sông Kostan. Tôi vội vã chạy đến đó để nhìn ngắm trước tiên, muốn được thưởng thức khoảnh khắc đó một mình, thậm chí không muốn có cha bên cạnh.
Gần sát bên cầu, dòng sông lượn ra xa khỏi tầm nhìn, ở khúc quanh ấy thấp thoáng một lâu đài nhỏ, một lâu đài kiểu Đông Âu chỉ bằng cỡ một biệt thự, dưới chân có đàn thiên nga bơi lội hoặc đứng rỉa lông trên bờ sông. Lúc tôi đang ngắm nhìn, một phụ nữ mặc áo choàng xanh mở cửa sổ mắt cáo trên lầu, đẩy cánh cửa ra phía ngoài, tấm kính sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, rũ bụi miếng vải lau sàn. Bên dưới cầu, những cây liễu non mọc bên nhau san sát và lũ chim nhạn bay ra bay vào trên doi đất nhô ra sông. Trong sân vườn lâu đài, tôi nhìn thấy chiếc ghế đá dài (không nằm quá gần những con thiên nga, những con vật mà đến tận bấy giờ, mười mấy tuổi đầu rồi, tôi vẫn sợ), những cây hạt dẻ nghiêng mình bên trên, bức tường thành lâu đài cũng phủ bóng mát lên chiếc ghế. Bộ comlê sạch sẽ của cha hẳn sẽ được an toàn ở đấy, cha có thể ngồi lâu hơn dự định và nói chuyện thoải mái hơn.
Lần nào miệt mài với những lá thư này trong căn hộ của mình, cha chùi những vết xúc xích salami bằng một chiếc khăn tay vải và bắt đầu kể, một chuyện gì đó nằm ngoài toàn bộ vụ mất tích bi thảm của thầy Rossi cũng cứ dằn vặt đầu óc cha. Khi đặt lá thư kể lại chi tiết về tai nạn khủng khiếp xảy ra với anh bạn Hedges của thầy Rossi xuống, trong một thoáng, cha cảm thấy không đủ khỏe để suy nghĩ rõ ràng. Cha đã rơi vào một thế giới bệnh hoạn, cõi âm ty của cái thế giới hàn lâm mà cha đã quen thuộc bao năm qua, tìm thấy ý nghĩa ẩn sâu trong lịch sử bình thường mà lâu nay cha vẫn mặc nhiên chấp nhận. Với kinh nghiệm nghiên cứu sử của cha, những người chết không thể sống lại, những nỗi kinh hoàng thời Trung cổ là do con người gây ra, chứ không phải do những thế lực siêu nhiên, Dracula là một huyền thoại đầy màu
sắc của vùng Đông Âu, hồi sinh nhờ những bộ phim Hollywood vẫn gắn liền với tuổi thơ cha, và năm 1930 là ba năm trước khi Hitler thâu tóm chính quyền độc tài tại Đức, đó mới là nỗi kinh hoàng lớn đến nỗi chắc chắn đã ngăn chặn mọi quyền lực kinh hoàng khác.
Vì vậy, trong một thoáng cha cảm thấy mình không được khỏe, tinh thần suy sụp, giận người thầy mất tích đã truyền lại cho cha những ảo tưởng khủng khiếp này. Nhưng sau đó giọng điệu nhẹ nhàng đầy hối tiếc trong các lá thư của ông lại tác động lên cha, và cha lại cảm thấy ân hận vì ý nghĩ bất trung vừa qua của mình. Thầy Rossi phải dựa vào cha - chỉ một mình cha; nếu cha từ chối không tin vì một nguyên tắc mô phạm nào đó, chắc chắn cha sẽ không bao giờ được gặp lại ông ấy.
Và còn một điều nữa đang dằn vặt cha. Khi đầu óc đã sáng suốt hơn một chút, cha nhận ra đó là ký ức về người phụ nữ trẻ mà cha đã gặp tại thư viện, cha mới gặp cô ta vài giờ trước đó nhưng có cảm tưởng như phải vài ngày rồi. Cha nhớ lại ánh mắt kỳ lạ của cô ta khi nghe cha giải thích về các lá thư của thầy Rossi, cau mày như đàn ông khi chú ý tập trung tinh thần. Tại sao cô ta lại đọc về Dracula, ngay tại chính chiếc bàn của cha, ngay chiều tối hôm đó, ngay sát bên cha? Tại sao cô ta đề cập đến Istanbul? Cha đã đủ nhức đầu với những gì đã đọc trong những lá thư của thầy Rossi nên tạm gác mối hoài nghi của mình lại và bác bỏ ý niệm về sự trùng hợp để chọn một lý giải nào đó thuyết phục hơn. Và tại sao không? Nếu cha đã thừa nhận một thế lực siêu nhiên, đương nhiên cha sẽ phải thừa nhận nhiều điều siêu nhiên khác; đây chỉ là vấn đề logic.
Cha thở dài, cầm lá thư cuối cùng của thầy Rossi lên. Sau khi xem xong lá thư này cha chỉ cần xem lại các tư liệu khác còn giấu kín trong chiếc phong bì xoàng xĩnh kia, rồi sau đó tự lo. Dù sự xuất hiện của cô gái kia có bất kỳ ý nghĩa gì - chắc hẳn cũng không mang ý nghĩa nào bất thường, đúng không nhỉ? - thì cha cũng chưa có thời gian để tìm hiểu cô ta là ai hoặc lý do vì sao cô ta lại chia sẻ mối quan tâm đến chuyện bí ẩn này. Thực là kỳ quặc khi nghĩ bản thân cha là người thích thú những chuyện bí ẩn; cha không phải người như thế, không một mảy may, phải nói thẳng như vậy. Cha chỉ quan tâm đến việc phải tìm ra thầy Rossi.
Lá thư cuối cùng, không giống các thư khác, được viết tay - trên giấy tập học trò, bằng mực đen. Cha mở lá thư.
Ngày 19 tháng Tám năm 1931
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Chà, tôi có thể giả vờ cho rằng có thể bạn đang ở đâu đó ngoài kia, chờ đợi để ra tay cứu giúp nếu một ngày nào đó đời tôi bỗng nhiên sụp đổ. Và bởi vì tôi còn một ít thông tin để bổ sung những gì bạn vẫn (cứ cho là vậy) theo đuổi, tôi cảm thấy cần phải châm cho tràn đầy chiếc bình cay đắng này. “Học hỏi không đến nơi đến chốn là một việc nguy hiểm,” anh bạn Hedges đã trích dẫn như vậy. Nhưng bây giờ anh đã mất, và chắc chắn anh đã mất là tại tôi, tựa như tôi đã mở tung cánh cửa phòng làm việc của mình, chính tay tung ra một đòn chết người, sau đó la lên cầu cứu. Lẽ tất nhiên, tôi không làm việc đó. Nếu đã đồng ý đọc đến đây, bạn sẽ không nghi ngờ gì lời nói của tôi.
Nhưng cuối cùng tôi đã nghi ngờ sức mạnh của chính mình, vài tháng trước đây, tôi đã hành động như vậy vì những lý do có liên quan đến cái kết cục kinh khủng và thật đáng phẫn nộ của Hedges. Tôi đã trốn chạy thẳng từ rìa mộ của anh đến Hoa Kỳ - gần đúng theo nghĩa đen là vậy; tôi đã thực sự được bổ nhiệm và vào cái ngày đến Dorset để thăm viếng nơi anh an nghỉ, tôi đang thu xếp hành lý rồi. Sau khi lên đường sang Hoa Kỳ, làm thất vọng một vài người ở Oxford và khiến song thân mình rất buồn lòng, e là thế, tôi chợt thấy mình trong một thế giới mới sáng sủa hơn, nơi mà học kỳ bắt đầu sớm hơn (tôi đã được phân công giảng dạy ba lớp và sẽ phấn đấu để có thêm giờ dạy), và các sinh viên có quan điểm cởi mở và thực tế, một đặc tính còn xa lạ tại Oxford. Nhưng thậm chí sau tất cả những chuyện này, tôi không thể rũ bỏ hoàn toàn mối liên hệ của mình tới con ma cà rồng đó. Hậu quả là, dường như, hắn - Nó - không thể tự quên tôi.
Bạn hẳn còn nhớ vào đêm Hedges bị tấn công, tôi đã bất ngờ khám phá ra ý nghĩa của hình vẽ khắc gỗ giữa cuốn sách báo điềm gở của mình, và đã tự mình xác định được Hầm Mộ Tội Lỗi ghi trên các tấm bản đồ mà tôi phát hiện tại Istanbul cũng chính là mộ của Vlad Dracula. Tôi đã hét to cái thắc mắc còn lại này của mình - vậy thì, mộ của hắn ở đâu? - như đã thốt lên trong trung tâm lưu trữ tư liệu ở Istanbul, và
lần hét to thứ hai này đã triệu đến một sự hiện diện khủng khiếp, cảnh cáo tôi bằng mạng sống của một người bạn thân. Có lẽ chỉ một bản ngã không bình thường mới tự mình đối đầu với những sức mạnh tự nhiên - trong trường hợp này lại là những sức mạnh phi tự nhiên - nhưng tôi thề với bạn là sự trừng phạt này đã khiến tôi nổi giận, vượt khỏi nỗi sợ hãi, suốt một thời gian, tôi đã thề phải tìm cho ra đến manh mối cuối cùng và, nếu còn đủ sức, truy lùng kẻ truy lùng tôi đến tận hang ổ của hắn. Đối với tôi, ý tưởng lạ lùng này trở nên bình thường như mong muốn được công bố bài viết kế tiếp của mình, hay có một chỗ đứng thường xuyên tại trường đại học mới lạ và vui vẻ này, nơi đang đòi hỏi trái tim mệt mỏi của tôi.
Sau khi đã thích nghi ổn định với lịch giảng dạy và nghiên cứu, chuẩn bị một chuyến đi ngắn ngày về nước Anh vào cuối học kỳ để thăm cha mẹ và chuyển luận án tiến sĩ của mình cho một tờ báo ở Luân Đôn, nơi đang ngày một o bế tôi, một lần nữa tôi lại lần theo dấu vết của Vlad Dracula, dù hắn quả thực có là bất cứ thứ gì đi nữa, một nhân vật có thực trong lịch sử hay một thế lực siêu nhiên. Đối với tôi, có vẻ như nhiệm vụ kế tiếp là tìm hiểu nhiều hơn về cuốn sách cổ kỳ lạ đó: nó từ đâu đến, ai là tác giả, ra đời đã bao lâu. Tôi giao cuốn sách (một cách miễn cưỡng, phải thừa nhận như vậy) cho phòng thí nghiệm Viện Smithsonian. Ở đó người ta đã lắc đầu với các câu hỏi đặc biệt của tôi và gợi ý rằng việc tham khảo và tra cứu sử dụng đến những nguồn lực ngoài phương tiện hiện có của họ có thể khiến tôi tốn kém nhiều hơn. Nhưng là kẻ cứng đầu, tôi nghĩ không một đồng xu nào thừa hưởng từ ông tôi, hoặc số tiền dành dụm ít ỏi từ thời gian làm việc ở Đại học Oxford nên bị ném vào việc may sắm áo quần, hoặc ăn uống hoặc giải trí trong lúc Hedges, người bạn của tôi đang nằm đó (nhưng, ơn Chúa, trong an bình) tại một nghĩa trang mà chưa được trả thù, và có lẽ phải năm mươi năm nữa tôi mới nhìn thấy lại quan tài của anh. Tôi không còn e sợ hậu quả nữa vì điều tệ hại nhất có thể tưởng tượng đã xảy ra với tôi rồi; về mặt này, ít nhất, các thế lực hắc ám đã tính toán sai lầm.
Nhưng không phải tính tàn bạo của điều xảy ra sau đó đã làm tôi nghĩ khác, đồng thời nhận thức được ý nghĩa trọn vẹn của sự sợ hãi. Mà chính là vẻ khác thường của nó.
Cuốn sách của tôi được xử lý tại Viện Smithsonian, dưới tay một anh chàng nhỏ thó tên Howard Martin, một con người tuy lầm lì nhưng đã tận tình xem xét trường hợp của tôi tựa như đã biết toàn bộ câu chuyện. (Không - khi nghĩ lại, nếu biết toàn bộ câu chuyện, có thể anh ta đã tống cổ tôi ra khỏi cửa ngay từ lần gặp đầu tiên). Nhưng dường như anh ta nhận ra tôi chỉ là một người đam mê lịch sử, nên anh ta thông cảm và cố sức giúp tôi. Anh làm rất tốt và tận tình, so sánh những gì mà phòng thí nghiệm chuyển đến với sự cẩn trọng có thể làm Oxford thấy vinh hạnh hơn là mấy văn phòng bảo tàng quan liêu ở Washington đó. Tôi rất ấn tượng, càng ấn tượng hơn trước vốn hiểu biết của anh về công nghệ làm sách tại Âu châu vào những thế kỷ trước và sau thời Gutenberg[16].
Khi dường như đã làm mọi chuyện có thể, anh viết thư báo cho tôi biết có thể nhận kết quả, và sẽ tận tay trả sách lại cho tôi, như trước đó tôi đã tận tay trao nó cho anh, nếu tôi không muốn nó được chuyển theo đường bưu điện lên miền Bắc. Sáng hôm sau, tôi đáp xe lửa xuống phía Nam, ngắm nhìn phong cảnh trên đường đi, rồi xuất hiện ở cửa phòng làm việc của anh mười phút trước giờ hẹn. Tim đập mạnh, miệng khô khốc, tôi nôn nóng muốn được cầm lại cuốn sách ấy trên tay và tìm hiểu xem anh đã biết được gì về nguồn gốc của nó.
Martin ra mở cửa, khẽ mỉm cười chào và dẫn tôi vào phòng. “Tôi mừng vì anh đã đến,” anh nói tiếng Mỹ bằng một giọng mũi đều đều, nhưng với tôi đó là lời đón chào thân tình nhất thế giới. Khi đã yên ổn trong phòng làm việc đầy ắp các bản chép tay của anh, tôi nhận ra mình đang ngồi ngay trước mặt anh và lập tức cảm thấy sốc vì sự thay đổi sắc diện của anh. Vài tháng trước tôi đã có một cuộc gặp gỡ ngắn với anh và còn nhớ rõ gương mặt anh lúc ấy, trong những bức thư rõ ràng và chuyên nghiệp gửi cho tôi không có dấu hiệu gì cho thấy bệnh tật hay đau yếu. Hiện tại, trông anh buồn rầu và xanh xao, hốc hác, nước da bủng vàng, cặp môi đỏ bầm một cách bất thường. Anh đã gầy đi rất nhiều, bộ veston cũ trông lụng thụng, ôm hờ hững trên bờ vai gầy guộc. Anh ngồi hơi khom người tới trước, như thể một cơn đau nào đó hoặc sự ốm yếu đã làm anh không ngồi thẳng được. Có vẻ như anh đã cạn kiệt sức sống.
Tôi cố gắng tự nhủ là ở lần gặp đầu tiên mình đã vội vàng, không nhìn kỹ, và rằng lần này tôi đã chú ý
quan sát kỹ hơn người đàn ông vốn bấy lâu chỉ có mối sơ giao qua đường bưu điện, hoặc đúng hơn đã trắc ẩn hơn khi quan sát anh, nhưng vẫn không sao rũ bỏ được cảm giác là anh đã tàn tạ quá nhanh trong một thời gian ngắn ngủi. Tôi thầm quả quyết là có thể anh đã không may mắc phải chứng bệnh khiến cơ thể suy kiệt nào đó, một căn bệnh ung thư đang phát triển nhanh chóng chẳng hạn. Tất nhiên, phép xã giao không cho phép tôi nêu lên bất kỳ nhận xét nào về sắc diện anh.
“Chà, tiến sĩ Rossi,” anh lên tiếng, theo kiểu cách Mỹ. “Tôi không tin là anh ý thức được mình đang sở hữu một vật nhỏ bé có giá trị như thế này.”
“Có giá trị ư?” Tôi nghĩ anh không thể nào nhận thức được giá trị của cuốn sách đối với tôi, không thể dù bằng tất cả các phương pháp phân tích hóa học trên thế giới. Đây là chìa khóa cho cuộc báo thù của tôi.
“Vâng. Đây là một phiên bản hiếm của ngành ấn loát Trung Âu thời Trung cổ, một món đồ rất thú vị và lạ thường, và bây giờ tôi rất hân hạnh nói rằng nó đã được in vào khoảng năm 1512, có lẽ tại Buda[17] hoặc Wallachia. Thời điểm này chắc chắn sau thời đại của Corvinus - Thánh Luke[18] nhưng trước sự ra đời của sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520, có lẽ cuốn sách này có ảnh hưởng đối với sự kiện đó, nếu lúc đó nó đã hiện hữu.” Anh loay hoay làm chiếc ghế kêu cọt kẹt. “Thậm chí còn có khả năng bức tranh khắc gỗ trong quyển sách của anh đã thực sự ảnh hưởng đến sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520 ấy, cuốn này cũng có một hình minh họa tương tự, một bức quỷ Xa tăng có cánh.” Nhưng không có cách nào để chứng minh được điều này. Dù sao chăng nữa, ảnh hưởng này cũng khá buồn cười, phải vậy không? Ý tôi là, chứng kiến một phần cuốn Kinh Thánh lại được trang trí bằng những bức tranh minh họa giống như bức tranh đầy tà khí này.”
“Đầy tà khí?” Tôi thích thú được nghe âm thanh lời cáo buộc thoát ra từ cửa miệng một người khác. “Chắc chắn như vậy. Anh đã cung cấp thông tin về truyền thuyết Dracula cho tôi, nhưng chẳng lẽ anh nghĩ tôi dừng lại ở đó sao?”
Giọng nói của Martin đều đều và rõ ràng, đậm chất Mỹ, điều này làm tôi thoáng bị sốc. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sự hung gở đến thế trong một giọng nói quá ư bình thản nhường này. Tôi nhìn anh chăm chăm, bối rối, nhưng giọng điệu kia không còn nữa, nét mặt của anh lại trở nên hòa nhã. Anh đang nhìn vào xấp giấy vừa rút ra khỏi chiếc bìa cứng. “Đây là kết quả các xét nghiệm của chúng tôi,” anh nói. “Tôi đã tự tay chép lại sạch sẽ cho anh, tôi nghĩ anh sẽ thấy chúng thú vị. Chúng cũng không cho biết gì nhiều hơn những lời tôi vừa nói với anh - à, nhưng còn có hai điều đáng lưu ý khác. Qua xét nghiệm, chúng tôi biết rõ cuốn sách này có lẽ đã từng được lưu giữ một thời gian dài trong một môi trường đầy bụi đá, và đó là việc xảy ra trước năm 1700. Ngoài ra, phần sau của cuốn sách đã từng bị thấm nước biển - có thể nó đã được mang theo trong một chuyến hành trình vượt đại dương. Tôi nghĩ có thể đó là vùng Biển Đen, nếu các suy đoán của chúng tôi về địa điểm in là đúng, nhưng lẽ dĩ nhiên có rất nhiều khả năng khác. Tôi e rằng chúng tôi không thể cho anh biết gì nhiều hơn nữa theo như yêu cầu của anh - mà có phải anh từng nói là anh đang viết về lịch sử châu Âu thời Trung cổ không nhỉ?”
Anh ngước lên nhìn tôi mỉm cười, một nụ cười bâng quơ, hiền hậu, kỳ dị trên gương mặt tiều tụy đó, và ngay lúc đang ngồi đó, tôi nhận ra cùng một lúc hai điều làm tôi cảm thấy lạnh cả xương sống. Điều đầu tiên là tôi chưa bao giờ nói với anh bất cứ điều gì về việc viết lịch sử châu Âu Trung cổ; tôi chỉ nói muốn có thông tin về quyển sách để có thể hoàn thành một thư mục các tư liệu liên quan đến cuộc đời của Vlad Kẻ Xiên Người, kẻ được biết đến trong truyền thuyết là Dracula. Howard Martin là người luôn chính xác trong phương pháp chuyên môn của anh cũng như bản thân tôi trong phương pháp học thuật của mình, nên anh sẽ không bao giờ phạm phải một lỗi như thế mà không biết. Trước đó, tôi rất ấn tượng về trí nhớ của anh với khả năng ghi nhớ như chụp hình từng chi tiết, khả năng mà tôi luôn chú ý và thật lòng trân trọng bất kỳ khi nào nhận ra nó ở người khác.
Điều thứ hai tôi cảm nhận được lúc đó là, có thể do căn bệnh nào đó mà anh đang chịu đựng - anh chàng khốn khổ, tôi buộc phải thầm thốt lên - lúc anh cười, đôi môi trông mềm nhũn rệu rã, hai răng nanh trên lộ ra, và nổi bật lên theo một kiểu cách làm cho toàn bộ gương mặt anh trông rất khó chịu. Tôi bỗng nhớ lại như in hình ảnh tên quan chức ở Istanbul, mặc dù cái cổ Howard Martin không có gì bất thường,
theo như tôi nhận thấy. Vừa mới dứt cơn rùng mình, tôi cầm lấy quyển sách và xấp ghi chú từ tay anh. Lúc đó, anh lại lên tiếng.
“À, cũng nhân tiện, tấm bản đồ kia cũng đặc biệt lắm đấy.”
“Tấm bản đồ?” tôi lạnh người. Tôi chỉ biết một tấm bản đồ - thực ra là ba tấm, được vẽ theo tỷ lệ xích tăng dần - nhưng nó chẳng liên quan gì với kế hoạch hiện tại của tôi và tôi chắc chắn mình chưa bao giờ đề cập về sự tồn tại của chúng với con người xa lạ này.
“Anh tự tay phác thảo nó à? Hình vẽ đó không cũ lắm, rõ ràng như vậy, nhưng tôi không đánh giá anh là một nghệ sĩ đâu. Và chắc chắn dù sao cũng không phải hạng người bệnh hoạn, nếu anh không phiền vì tôi đã nói như vậy.”
Tôi nhìn anh trừng trừng, không thể giải mã những lời nói ấy và sợ sẽ hớ hênh làm lộ một chuyện gì đó nên đã hỏi ý anh muốn nói gì. Phải chăng tôi đã để quên bức vẽ phác thảo nào trong cuốn sách? Nếu vậy thì quả là quá ngu ngốc. Nhưng chắc chắn tôi đã kiểm tra cẩn thận từng trang trước khi giao cuốn sách cho anh.
“À, tôi đã nhét nó lại vào trong quyển sách, vì vậy nó còn trong đó,” anh nói, giọng trấn an. “Bây giờ, tiến sĩ Rossi, tôi có thể đưa anh xuống phòng kế toán nếu anh muốn, hoặc thu xếp để anh thanh toán hóa đơn tại nhà.” Anh mở cửa cho tôi và lại một lần nữa khuôn mặt anh biến dạng thành một nụ cười chuyên nghiệp. Ở đó và ngay lúc đó, tôi biết mình không nên lục tìm trong quyển sách đang cầm trong tay, và trong ánh sáng hành lang tôi chợt nhận ra chắc hẳn mình đã tưởng tượng ra nụ cười kỳ dị của Martin, thậm chí có lẽ cả vẻ đau ốm của anh nữa; da dẻ anh bình thường, người chỉ hơi còng xuống do hàng chục năm lăn lộn giữa đống giấy tờ của quá khứ, ngoài ra không có gì khác. Anh đứng bên cửa, chìa tay ra chào tạm biệt, thân tình đúng kiểu dân Washington, tôi bắt tay anh, lầm bầm nói muốn thanh toán hóa đơn tại địa chỉ của mình ở trường đại học.
Tôi mệt mỏi bước xa khỏi cửa phòng anh, ra khỏi đại sảnh và cuối cùng ra khỏi tòa lâu đài màu đỏ nơi chứa những công trình lao động của anh và các đồng nghiệp đó. Trong bầu không khí trong lành của quảng trường Mall, tôi lững thững bước ngang qua bãi cỏ đến một băng ghế rồi ngồi xuống, cố gắng không lo lắng, cả bề ngoài và trong lòng.
Quyển sách bỗng mở ra trong tay tôi, với sự mời gọi quái gở thường lệ, và tôi tìm kiếm trong vô vọng ở đó một tờ giấy rời mang theo điều gì đó sẽ khiến mình ngạc nhiên. Chỉ đến khi lật các trang giấy từ cuối lên lần nữa tôi mới tìm được nó - một bản vẽ rất đẹp in lên nhờ giấy than, như thể có ai đó đã có trước mặt tấm bản đồ thứ ba, cũng là tấm chi tiết nhất trong số những tấm bản đồ bí mật của tôi, và đã căn ke lại tất cả những đường nét bí ẩn trên nó cho tôi. Tên các địa danh viết bằng một phương ngữ Xlavơ, chính xác là những cái tên mà tôi đã biết trên tấm bản đồ của mình - Làng Trộm Heo, Thung Lũng Tám Cây Sồi. Thực ra, đối với tôi, bản phác thảo này chỉ có duy nhất một đặc điểm khác lạ. Bên dưới cái tên Hầm Mộ Tội Lỗi có những con chữ Latin viết rõ ràng bằng một thứ mực có vẻ như cùng loại mực của các tiêu đề khác. Phía trên vị trí có vẻ là nấm mộ, vòng quanh đó tựa như để chứng tỏ mối liên hệ tuyệt đối của nó với địa điểm này, là những con chữ tôi đọc được: BARTOLOMEO ROSSI.
Độc giả thân mến, hãy đánh giá tôi là kẻ hèn nhát nếu bạn buộc phải như vậy, nhưng tôi đã rũ bỏ tất cả ngay lúc đó. Tôi là một giáo sư trẻ và đang sống tại Cambridge, Massachussetts, nơi tôi đang giảng dạy, hay ra ngoài ăn tối với những người bạn mới, và viết thư về cho cha mẹ già hàng tuần. Tôi không phải mang theo tỏi, hoặc thánh giá bên người, hoặc làm dấu thánh khi nghe có tiếng bước chân trong gian sảnh. Tôi chọn một sự bảo vệ tốt hơn - tôi đã dừng lại, không chúi mũi vào giao lộ lịch sử đáng sợ kia nữa. Kẻ đó hẳn sẽ thỏa mãn khi thấy tôi câm lặng, vì tôi đã không còn băn khoăn lo lắng với tấn bi kịch này nữa.
Bây giờ, nếu chính bạn phải lựa chọn giữa sự tỉnh táo và cuộc sống đáng nhớ của mình, với sự bất ổn thực sự, bạn sẽ lựa chọn bên nào, như một cách thích đáng mà một học giả có thể sống trọn những ngày tháng của mình? Tôi biết, Hedges không hề yêu cầu tôi đâm đầu vào bóng tối. Dù vậy, nếu bạn đã đọc tới đây, nghĩa là, sau cùng, tôi đã bị hãm hại. Bạn cũng phải lựa chọn. Tôi đã cho bạn biết từng chi tiết của những kiến thức mà tôi sở đắc, những kiến thức liên quan đến những chuyện khủng khiếp này. Biết được câu chuyện của tôi, liệu bạn có thể từ chối làm người kế thừa cho tôi?
Người bạn sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi
Bóng râm bên dưới hàng cây đã dài ra thành một mảng lớn uể oải, cha đá tung một hạt dẻ dưới gót giày. Tôi bất chợt có cảm giác nếu là người thô lỗ hơn, có lẽ cha đã nhổ nước bọt lên mặt đất, để loại bỏ mùi vị tởm lợm nào đó. Thay vì vậy hình như cha cố gắng nuốt vào và cố trấn tĩnh để mỉm cười. “Chúa ơi! Chúng ta đã nói chuyện gì vậy? Chiều nay hình như chúng ta nghiêm trang quá thì phải.” Cha cố nở nụ cười, nhưng đồng thời cũng liếc nhìn tôi, một cái nhìn đầy lo âu, tựa như một hình bóng vô hình nào đó có thể chụp xuống tôi, đặc biệt riêng tôi, và mang tôi đi không một lời cảnh báo.
Lúc này, tôi duỗi bàn tay lạnh giá ra khỏi rìa băng ghế và nỗ lực giữ cho lòng được thanh thản. Mình phải nỗ lực để thanh thản từ khi nào thế nhỉ? Tôi băn khoăn tự hỏi, nhưng đã quá trễ. Tôi đang làm công việc này thay cho cha mất rồi, đồng thời cố khiến cha nghĩ sang chuyện khác, như ông từng cố làm với tôi. Tôi vờ hờn dỗi, nhõng nhẽo để khỏa lấp - một chút thôi, không quá đáng để cha khỏi nghi ngờ. “Con lại đói nữa rồi, muốn ăn một bữa ra trò quá.”
Cha mỉm cười, tự nhiên hơn một chút, đôi giày xịn của ông nện xuống nền đất khi ông lịch sự đưa tay đỡ tôi đứng dậy, bắt đầu nhét vào túi xách các vỏ chai Naranca rỗng và các tàn tích khác của bữa ăn ngoài trời. Tôi hào hứng giúp cha thu dọn phần của mình, giờ lòng đã nhẹ nhõm vì như vậy có nghĩa là cha sẽ cùng quay về thành phố với tôi, thay vì nán lại để xem mặt tiền tòa lâu đài. Đã có lúc tôi quay người lại, khi câu chuyện gần kết thúc và thấy ở cửa sổ tầng trên, một bóng đen lừng lững đã thay thế cho bà lão giúp việc. Tôi đã nói, huyên thiên, về bất kỳ điều gì xuất hiện trong đầu. Chỉ cần cha không nhìn thấy bóng đen đó, sẽ không có va chạm nào cả. Cả hai chúng tôi có thể an toàn.
14
◄○►
Lúc này tôi đã tạm ngưng đến thư viện trường đại học, phần vì cảm thấy bất an một cách kỳ lạ về công việc nghiên cứu của mình ở đó, phần do cảm thấy bà Clay nghi ngờ khi tôi cứ vắng nhà suốt sau giờ học ở trường. Tôi vẫn luôn gọi điện cho bà như đã hứa, nhưng giọng nói qua điện thoại của bà càng lúc càng lo ngại, khiến tôi hình dung bà đang có những cuộc nói chuyện không mấy dễ chịu với cha. Tôi cho rằng kinh nghiệm của bà về những thói hư tật xấu ở đời không đủ để đoán ra chuyện gì cụ thể, nhưng cha thì có lẽ đã có những phỏng đoán khiến chính mình bối rối - ma túy chăng? Hay là bạn trai? Và đôi lúc cha nhìn tôi lo lắng đến độ tôi không muốn làm cha phải rối trí hơn nữa.
Tuy nhiên, cuối cùng sự cám dỗ lại trỗi dậy mạnh đến nỗi dù cảm thấy khó chịu tôi vẫn quyết định trở lại thư viện. Lần này tôi giả vờ đi coi phim buổi tối với một bạn gái ngờ nghệch học cùng lớp - tôi biết bác Johan Binnerts làm việc tại bộ phận Trung cổ vào mỗi tối thứ Tư, và lúc đó cha đang dự họp ở Trung tâm - và tôi đã mặc áo khoác mới ra ngoài trước khi bà Clay kịp phản ứng.
Thật lạ khi đến thư viện vào buổi tối, nhất là khi tôi thấy gian sảnh chính vẫn còn đầy những gương mặt mệt mỏi của các sinh viên. Tuy nhiên, phòng đọc sách bộ phận Trung cổ lại vắng tanh. Tôi lặng lẽ đến bàn làm việc của bác Binnerts và thấy bác đang lật xem một chồng sách mới - cháu sẽ chẳng quan tâm đến cuốn nào đâu vì cháu chỉ thích những cuốn sách rùng rợn, bác lên tiếng bảo tôi cùng một nụ cười dễ mến. Nhưng bác đã để dành riêng cho tôi một cuốn sách - tại sao mình lại không đến sớm hơn để đọc chứ? Tôi lí nhí nói lời xin lỗi, bác chỉ khẽ bật cười. “Bác cứ sợ đã có chuyện gì xảy ra với cháu, hoặc cháu đã làm theo lời khuyên của bác mà đi tìm một chủ đề khác thú vị với một thiếu nữ hơn. Nhưng cháu cũng làm bác tò mò, vì vậy bác đã tìm cho cháu quyển sách này.”
Tôi nhận cuốn sách với vẻ biết ơn, và bác Binnerts cho biết phải vào phòng làm việc nhưng sẽ trở ra ngay xem tôi có cần gì không. Có lần bác đã chỉ cho tôi phòng làm việc của bác, một phòng nhỏ có cửa sổ, phía sau phòng đọc sách, ở đó nhân viên thư viện sửa chữa các tuyệt tác sách cũ, và dán thẻ lên các sách mới. Phòng đọc sách im lặng hơn bao giờ hết khi bác đi khỏi, tôi háo hức mở cuốn sách bác vừa mới trao.
Đúng là một quyển sách đáng lưu ý, lúc đó tôi đã nghĩ như vậy, dù bây giờ tôi đã biết nó là nguồn tư liệu căn bản về lịch sử đế quốc Byzantine thế kỷ mười lăm - một bản dịch cuốn Istoria Turco Bizantina của Michael Doukas. Doukas kể nhiều chuyện về cuộc xung đột giữa Vlad Dracula và Mehmed II, và chính tại cái bàn đó, lần đầu tiên tôi đọc bản mô tả nổi tiếng cảnh tượng mà Mehmed đã tận mắt chứng kiến, khi ông xâm chiếm Wallachia vào năm 1462, và tiến về Târgoviste, thủ phủ đã bị bỏ trống của Dracula. Phía bên ngoài thành phố, Doukas nhấn mạnh, Mehmed được chào đón bằng “hàng ngàn hàng ngàn cây cột treo lủng lẳng xác người thay vì các loại hoa trái”. Ở giữa khu vườn chết chóc này là tác phẩm chính của Dracula: Hamza, ái tướng của Mehmed, trong bộ y phục lụa tía mỏng, bị đóng cọc giữa những người khác.
Tôi nhớ đến trung tâm lưu trữ của Quốc vương Mehmed, nơi thầy Rossi đã đến Istanbul để tìm kiếm. Ông hoàng xứ Wallachia là cái gai trong mắt vị Quốc vương này - đó là điều rõ ràng. Tôi nghĩ mình cần phải đọc đôi chút về ông vua Mehmed này; hẳn có những nguồn thông tin có thể giải thích mối quan hệ giữa ông ta với Dracula. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, nhưng bác Binnerts đã nói sẽ sớm quay lại để xem tôi cần gì hay không.
Nóng ruột, tôi vừa có ý muốn tìm xem bác ấy đang ở đâu thì chợt nghe có tiếng động phía sau căn phòng. Đó là một tiếng huỵch, làm chấn động sàn nhà hơn là một âm thanh thực sự, cảm giác như một chú chim va vào kính cửa sổ lúc đang bay hết tốc lực. Một cái gì đó xui khiến tôi lao về hướng có tiếng va chạm, dù đó là bất kỳ cái gì, và tôi bỗng thấy mình đang lao thẳng vào phòng làm việc ở phía sau đại sảnh.
Qua cửa sổ tôi không thấy bác Binnerts và cảm thấy tạm yên tâm, nhưng khi mở tung cánh cửa gỗ, tôi thấy một cái chân trên sàn, một cái chân mặc quần xám dính liền với một thân hình đang quằn quại, chiếc áo len dài tay màu xanh xô lệch trên một cơ thể đang co giật, mái tóc xám bạc bê bết máu, gương mặt - may là chỉ thấy được phân nửa - bị giập nát, một mẩu da đầu vẫn còn dính ở góc bàn. Dường như một cuốn sách đã rơi ra khỏi tay bác Binnerts; nó cũng nằm đó sóng soài, như bác. Trên tường phía trên bàn làm việc có một vệt máu, hình dấu bàn tay lớn và rõ nét, như một bức tranh vẽ bằng ngón tay bôi màu của trẻ con. Tôi cố nén để khỏi thốt lên tiếng nào, nên đến khi tiếng thét của tôi bật ra, nó nghe như tiếng của ai đó khác.
Tôi phải nằm bệnh viện vài ngày - cha khăng khăng bắt vậy, bác sĩ chăm sóc là bạn cũ của ông. Cha dịu dàng nhưng nghiêm nghị, ngồi ở mép giường, hoặc khoanh tay đứng bên cửa sổ, khi viên sĩ quan cảnh sát tra vấn tôi lần thứ ba. Tôi không thấy có ai vào trong phòng thư viện. Tôi đang yên lặng đọc sách tại bàn. Tôi nghe có tiếng ngã huỵch, tôi không quen biết riêng tư với bác thủ thư, nhưng bác ấy rất mến tôi. Viên cảnh sát cam đoan với cha, tôi không phải là nghi can, đơn giản chỉ là một nhân chứng gần nhất mà họ có. Nhưng tôi đã không trông thấy gì, không có ai bước vào phòng đọc sách - tôi chắc chắn về điều đó - và bác Binnerts cũng chẳng hề la hét. Trên thi thể không có vết thương nào khác, đơn giản là có kẻ nào đó đã dộng vỡ đầu người đàn ông khốn khổ này vào góc bàn làm việc. Chắc hẳn tay của hắn rất mạnh.
Viên sĩ quan cảnh sát lắc đầu, vẻ lúng túng. Dấu bàn tay trên tường không phải của viên thủ thư; tay ông ta không dính máu. Hơn nữa, dấu tay không khớp với dấu tay ông ta, và đây là một dấu tay kỳ lạ, các dấu vân tay như bị mòn đi một cách kỳ dị. Bình thường cũng dễ tìm dấu vân tay trùng khớp - viên cảnh sát ba hoa với cha bằng giọng trịnh trọng - trừ phi người ta chưa lưu trữ một dấu tay nào giống như vậy. Một vụ án tệ hại. Amsterdam không còn là thành phố như xưa - bây giờ người ta quăng cả xe đạp xuống các dòng kênh, chưa kể chuyện kinh khủng nhường ấy xảy ra với một ả gái điếm hồi năm ngoái, người mà… - cha ngắt lời anh ta bằng một cái liếc mắt.
Khi viên cảnh sát đi khỏi, cha đến ngồi lại bên mép giường và lần đầu tiên hỏi tôi đã làm gì trong thư viện. Tôi giải thích với cha lúc ấy tôi đang học bài, rằng tôi thích đến đó sau khi tan trường để làm bài tập, vì phòng đọc sách ở đó rất yên tĩnh và tiện nghi. Tôi sợ cha sẽ hỏi vì sao tôi lại chọn khu vực sách Trung cổ, nhưng nhẹ nhõm khi thấy cha như chìm vào nỗi câm lặng.
Tôi không nói cho cha biết trong lúc thư viện đang ồn ào nhốn nháo sau tiếng hét của tôi, theo bản năng tôi đã nhét vào túi xách của mình cuốn sách mà bác Binnerts đã giữ trong tay trước khi chết. Cảnh sát có lục soát túi của tôi khi họ vào phòng, nhưng chẳng nói gì về cuốn sách - mà sao họ lại để ý đến cuốn sách đó cơ chứ? Trên đó chẳng dính chút máu nào. Đó là một quyển sách tiếng Pháp thế kỷ thứ mười chín nói về các nhà thờ ở Rumani, và khi rớt xuống đất nó đã mở ngay ra trang nói về một nhà thờ ở hồ Snagov, từng được ông hoàng Vlad III xứ Wallachia chu cấp rất hậu hĩnh. Theo truyền thống, mộ của ông ta sẽ được đặt ở đó, phía trước bệ thờ, theo lời chú giải phía dưới sơ đồ của nhà tụng niệm. Tuy nhiên tác giả cũng ghi chú là đám dân làng gần hồ Snagov còn có những câu chuyện của riêng họ. Chuyện gì? Tôi tự hỏi, nhưng chẳng có gì hơn ngoài ngôi nhà thờ đặc biệt đó. Bức phác thảo mô tả nhà tụng niệm cũng chẳng cho thấy điều gì bất thường.
Thận trọng ngồi xuống mép giường, cha lắc đầu. “Từ nay cha muốn con học ở nhà,” cha lặng lẽ nói. Tôi ước gì cha đừng nói ra điều đó vì dù sao tôi cũng sẽ chẳng bao giờ trở lại thư viện đó nữa. “Bà Clay sẽ vào ngủ với con một thời gian nếu con cảm thấy lo lắng, và bất kỳ lúc nào con muốn chúng ta đều có thể gặp lại bác sĩ. Con chỉ cần cho cha biết.” Tôi gật đầu, dù thích được ở trong phòng một mình với những mô tả về nhà thờ Snagov hơn là ở chung với bà Clay. Tôi cân nhắc ý định ném quyển sách xuống kênh - như những chiếc xe đạp mà viên cảnh sát đó đã nhắc tới - nhưng tôi biết rốt cuộc mình sẽ lại mở nó ra, dưới ánh sáng ban ngày, để đọc lại. Có lẽ tôi muốn làm việc này không chỉ vì lợi ích của riêng mình mà cả vì bác Binnerts thân yêu, bây giờ đang nằm đâu đó trong một nhà xác của thành phố.
Vài tuần sau, khi cha bảo tôi có lẽ sẽ tốt cho thần kinh tôi hơn nếu đi chơi xa một chuyến, tôi biết thật ra cha thấy tốt hơn không nên để tôi ở nhà một mình khi ông đi vắng. Người Pháp, cha giải thích, muốn hội ý với các đại diện quỹ tài trợ của cha trước khi bắt đầu đàm phán ở Đông Âu vào mùa đông. Đây cũng là thời điểm tốt nhất để đến miền bờ biển Địa Trung Hải, sau khi những đoàn du khách đã ra về nhưng lại trước khi phong cảnh trở nên cằn cỗi. Chúng tôi cẩn thận khảo sát bản đồ và rất hài lòng vì người Pháp đã
từ bỏ lựa chọn thông thường của họ: thay vì Paris, địa điểm hội nghị lần này là một khu nghỉ dưỡng tư gần biên giới Tây Ban Nha - sát với hòn ngọc nhỏ Collioure[19], cha hể hả, và có lẽ một cái gì đó giống hòn ngọc đó. Ngay trong vùng nội địa là thị trấn Les Bains và nhà thờ Thánh Matthieu thuộc tỉnh Pyrénées Orientales, tôi trỏ tay chỉ, nhưng khi tôi đề cập đến những cái tên này cha sầm mặt và bắt đầu rà tay dọc theo bờ biển để tìm những địa danh thú vị khác.
Tại khách sạn Le Corbeau, nơi chúng tôi ở, bữa điểm tâm trên sân thượng dưới bầu trời ban mai trong lành ngon đến mức sau khi cha đã cùng các quý ông mặc comlê đen đi khuất vào hội trường rồi tôi vẫn ngồi nán lại, miễn cưỡng lấy sách ra đọc nhưng thường xuyên ngẩng lên nhìn mặt biển xanh màu ngọc bích cách xa vài trăm thước. Tôi đã uống tới ly thứ hai món sôcôla đắng kiểu châu Âu lục địa, cho thêm một cục đường để dễ uống, và ăn mấy ổ bánh mì nóng. Ánh mặt trời trên mặt tiền những ngôi nhà cổ trong khí hậu khô ráo vùng Địa Trung Hải cùng với thứ ánh sáng trong trẻo một cách dị thường của nó dường như không bao giờ lụi tắt, tựa như không bão tố nào dám mạo hiểm tiếp cận vùng vịnh nhỏ này. Từ chỗ mình ngồi, tôi có thể thấy đôi chiếc thuyền đang bắt đầu dong buồm ra khơi buổi sớm trên mép nước của vùng biển màu sắc tuyệt vời này và một gia đình với một bà mẹ và mấy đứa con nhỏ mặc những bộ đồ tắm kiểu Pháp kỳ dị (đối với tôi) mang theo xô đi xuống bãi cát bên dưới khách sạn. Vịnh biển uốn cong quanh chúng tôi, về bên phải, dưới hình dạng những ngọn đồi lởm chởm. Trên đỉnh một trong những ngọn đồi này là một pháo đài đổ nát, cùng một màu với những tảng đá và cỏ khô, những cây ô liu như không leo lên nổi nơi đó, bầu trời buổi sáng xanh dịu trải rộng ở phía sau.
Tôi đột nhiên cảm thấy đau nhói vì cảm giác cô đơn, ganh tị với những đứa bé đang vô tư lự một cách đáng ghét cùng mẹ chúng. Tôi không có mẹ và không có một cuộc sống bình thường. Tôi cũng mơ hồ về điều mà tôi cho là cuộc sống bình thường, nhưng khi lật cuốn sách sinh học để tìm phần mở đầu của chương thứ ba, tôi mơ hồ nghĩ ý niệm đó có thể là sống hẳn ở một nơi nào đó, tối nào cũng có cha mẹ ở bên cùng ăn tối, một mái ấm gia đình mà ở đó du lịch có nghĩa là những kỳ nghỉ ở bãi biển, chứ không phải một cuộc sống du cư bất tận. Tôi cũng cảm thấy chắc chắn, khi nhìn đám trẻ con đang vui đùa trên bãi cát cùng với chiếc xẻng nhỏ, rằng những sinh linh này không bao giờ bị sự nghiệt ngã của lịch sử đe dọa.
Nhưng rồi, khi nhìn xuống những mái đầu bóng mượt của chúng, tôi nhận thấy thực ra chúng có bị đe dọa; chỉ đơn giản là không nhận thức được điều đó. Tất cả chúng ta đều dễ bị tổn thương. Tôi rùng mình liếc mắt nhìn đồng hồ. Bốn tiếng nữa tôi sẽ lại cùng ăn trưa với cha trên sân thượng này. Sau đó tôi sẽ tiếp tục học, và sau năm giờ chiều chúng tôi sẽ dạo đến cái pháo đài đổ nát đang tô điểm cho đường chân trời gần đó - từ đó, cha nói, ta có thể nhìn thấy ngôi nhà thờ như nhô lên giữa biển cả, ở phía bờ bên kia, tại Collioure. Trong ngày hôm nay tôi sẽ học thêm đại số, vài động từ tiếng Đức, đọc một chương về Cuộc Chiến Tranh Hoa Hồng, sau đó - gì nữa nhỉ? Trên đỉnh dốc đá khô cằn, tôi sẽ lắng nghe câu chuyện kế tiếp của cha. Cha sẽ kể một cách miễn cưỡng, vừa kể vừa nhìn xuống bãi đất cát bên dưới hoặc gõ gõ ngón tay lên những tảng đá đã nằm ở đó từ bao thế kỷ, chìm vào nỗi sợ hãi của chính mình. Và rồi, công cuộc nghiên cứu lại nó, lắp ráp lại tất cả các mảnh vụn về nó, sẽ tùy thuộc vào tôi. Một đứa bé hét lên đinh tai phía dưới, tôi giật mình, đánh đổ ly ca cao.
15
◄○►
Khi đọc xong lá thư cuối cùng của thầy Rossi, cha kể, cha lại cảm thấy phiền muộn, tựa như thầy đã biến mất lần thứ hai vậy. Nhưng đồng thời cha cũng tin rằng việc mất tích của ông chẳng liên quan gì đến chuyến xe buýt đến Hartford ấy, hoặc chuyện người thân của ông bị bệnh ở Florida (hoặc Luân Đôn), như cảnh sát đã cố tình mặc nhận. Cha gạt bỏ những ý tưởng này ra khỏi đầu và bắt đầu xem xét những thứ giấy tờ khác của thầy. Trước tiên phải đọc kỹ, nhận thức hết mọi chuyện đã. Sau đó sắp xếp theo thứ tự thời gian và bắt đầu - nhưng phải từ từ - rút ra những kết luận. Cha băn khoăn tự hỏi liệu thầy Rossi đã từng có linh cảm nào rằng nhờ đào tạo cha, ông có thể đảm bảo được sự tồn tại của chính bản thân mình hay không. Như một kỳ thi tốt nghiệp đầy gian nan - mặc dù cha hết sức mong muốn nó chẳng phải là kết cuộc cho cả ông ấy và cha. Cha tự nhủ mình sẽ không dự tính hành động cho đến khi đọc xong tất cả các tài liệu, nhưng cha đã mơ hồ đoán ra những gì mình có lẽ phải làm. Cha lại mở nó ra, cái gói nhỏ đã bạc màu vì năm tháng.
Ba món kế tiếp là những tấm bản đồ, như thầy Rossi đã hứa, tấm nào cũng được vẽ bằng tay, và không có tấm nào trông cũ hơn những lá thư. Đương nhiên rồi: đây là những phiên bản được ông vẽ lại theo trí nhớ từ những tấm bản đồ ông đã tận mắt nhìn thấy trong trung tâm lưu trữ tư liệu thành phố Istanbul, sau những chuyến phiêu lưu đến đó. Trên tấm bản đồ đầu tiên cha cầm lên, cha nhận ra một khu vực núi non rộng lớn được thể hiện bằng những dấu chữ V nhỏ hình tam giác. Chúng hình thành hai đường bán nguyệt dài suốt trang giấy theo hướng Đông-Tây và tụm lại dày đặc ở phía Tây. Một dòng sông lớn uốn khúc ở rìa phía Bắc tấm bản đồ. Không thấy có thành phố, dù ba hay bốn dấu chữ X ở vùng núi phía Tây có lẽ là để đánh dấu những thị trấn. Bản đồ không ghi các địa danh, nhưng thầy Rossi - cùng một lối như trong bức thư cuối cùng - đã viết quanh đường viền bản đồ: “Kẻ nào không có đức tin và chết khi còn vô đạo sẽ bị lời nguyền rủa của Thánh Allah, của các thiên thần và của con người giáng xuống đầu (Kinh Koran)” và nhiều đoạn văn tương tự. Cha băn khoăn tự hỏi không biết dòng sông cha nhìn thấy ở đây liệu có thể là dòng sông mà dường như ông ấy cho rằng đã được biểu tượng hóa bằng hình ảnh cái đuôi rồng trong cuốn sách của ông. Nhưng không; trong trường hợp đó ông hẳn sẽ đề cập đến tấm bản đồ có tỷ lệ lớn nhất, chắc chắn nó có trong số những tấm bản đồ này. Cha nguyền rủa những tình huống - tất cả các tình huống - đã ngăn cản không cho cha được cầm tận tay nhìn tận mắt những tấm bản đồ gốc; bởi chắc chắn vẫn có những điểm thiếu sót hoặc không nhất quán giữa bản sao và bản gốc, dù Rossi có khéo léo và trí nhớ của ông có tuyệt vời đến đâu.
Bản đồ kế tiếp có vẻ tập trung nhiều hơn vào khu vực rừng núi phía Tây đã được vẽ trên tấm bản đồ thứ nhất. Một lần nữa cha lại thấy dấu chữ X được ghi nơi này nơi kia, đánh dấu những vị trí tương đương những vị trí trên tấm bản đồ thứ nhất. Nhưng xuất hiện một dòng sông nhỏ hơn, chảy ngoằn ngoèo qua vùng núi. Và lại không ghi tên địa danh nào. Thầy Rossi đã ghi chú suốt phía trên tấm bản đồ này (Lặp lại câu trích Kinh Koran trong tấm bản đồ thứ nhất). Chậc, hồi đó ông ấy cẩn trọng đúng kiểu thầy Rossi mà cha hằng quen biết. Nhưng dù có thế, những tấm bản đồ này vẫn quá đơn giản, một bản phác thảo quá sơ sài để có thể gợi ra bất kỳ khu vực cụ thể nào đó mà cha đã từng nhìn thấy hoặc từng nghiên cứu. Nỗi chán nản trào dâng trong cha như một cơn sốt, nhưng một cách khó khăn, cha đã cố nén nó xuống để buộc bản thân tập trung trở lại.
Tấm bản đồ thứ ba sáng sủa hơn, dù đến lúc đó cha vẫn không chắc nó có thể cho biết chính xác điều gì. Đường viền tổng quát của nó quả thực là hình bóng dữ dội mà cha đã quen thuộc trong hai cuốn sách có hình con rồng của cha và thầy Rossi, dù vậy cha hẳn không thể nhận ra ngay nếu không được thầy Rossi
tiết lộ chi tiết này. Tấm bản đồ cũng cho thấy cùng một vùng núi non vẽ bằng hình tam giác. Trong tấm này đã thể hiện chúng rất cao, tạo thành những đỉnh san sát nhau theo hướng Bắc-Nam, một dòng sông uốn khúc chảy qua vùng núi và đến cuối nở rộng ra thành một cái gì đó giống như một hồ chứa. Đó có thể là hồ Snagov của Rumani như các truyền thuyết nói về nơi chôn cất Dracula đã gợi ý, tại sao không? Nhưng, như thầy Rossi đã ghi chú, không có hòn đảo nào ở chỗ dòng sông nở rộng, và dù sao chăng nữa nơi đó trông cũng không giống một cái hồ. Những dấu X một lần nữa lại xuất hiện, lần này được ghi chú bằng những mẫu tự Cyrillic nhỏ li ti. Cha nghĩ rằng đó là các tên làng mà thầy Rossi đã đề cập.
Giữa những tên làng rải rác này cha thấy có một hình vuông, được thầy Rossi ghi chú: “(Chữ Ả Rập) Hầm Mộ Tội Lỗi của Kẻ Tiêu Diệt Người Thổ.” Phía trên hình vuông này là một con rồng nhỏ, được vẽ khá đẹp, trên đầu nó là hình một lâu đài, ở phía dưới cha còn đọc được nhiều chữ Hy Lạp khác, thầy Rossi đã dịch chúng sang tiếng Anh: “Ở nơi chốn này, hắn bị giam giữ trong cái ác. Hỡi độc giả, bằng một lời, hãy đào mồ hắn lên.” Những dòng chữ này có một sức hấp dẫn lạ lùng, giống như một câu thần chú, cha đã kịp ngậm chặt môi lại khi vừa định mở miệng đọc to từng từ ấy. Tuy nhiên, như những vần thơ ma quái, trong một thoáng chốc, chúng nhảy múa điên cuồng trong đầu óc cha.
Cha đặt cả ba tấm bản đồ qua một bên. Thật khủng khiếp khi nhìn thấy chúng ở đó, chính xác như thầy Rossi đã mô tả, càng lạ lùng hơn khi chúng không phải bản gốc mà chỉ là những bản sao do chính tay thầy vẽ ra. Rốt cuộc, cha phải lấy gì để chứng minh với mình rằng ông ấy đã không dựng lên mọi chuyện và vẽ ra những tấm bản đồ này như một trò chơi khăm đây? Cha chẳng hề có tư liệu gốc nào về vấn đề này, ngoại trừ những lá thư của ông ấy. Cha nhịp nhịp ngón tay lên mặt bàn. Đêm nay, đồng hồ trong phòng làm việc của cha hình như gõ nhịp to một cách bất thường, và thứ bóng tối chập choạng của chốn thành thị có vẻ như vẫn ở sau bức màn che cửa sổ. Từ nhiều giờ qua, cha đã không có gì bỏ bụng và đôi chân bắt đầu đau nhức, nhưng bây giờ chưa phải là lúc nghỉ ngơi, cha liếc vội vào tấm bản đồ đường sá vùng Balkan, nhưng không thấy có dấu hiệu bất thường nào, có vẻ như vậy - chẳng hạn như các ghi chú bằng tay. Tập quảng cáo về nước Rumani cũng không có gì đặc sắc, ngoại trừ thứ tiếng Anh kỳ cục in trên đó, chẳng hạn như “Hãy thưởng thức miền quê trù phú và kinh hoàng của chúng tôi”. Những thứ duy nhất còn lại chưa được xem đến là các ghi chú viết tay của thầy Rossi và bao thư nhỏ được niêm kín mà cha đã để ý ngay khi vừa lật qua những trang giấy đầu tiên. Vì bì thư đó được niêm lại nên cha đã định sẽ xem xét nó sau cùng, nhưng cha không còn chờ đợi được nữa. Tìm con dao rọc giấy giữa đống giấy tờ trên bàn viết, cha cẩn thận mở niêm phong, rút ra một tờ giấy dùng để viết thư.
Lại là tấm bản đồ thứ ba, với hình dạng con rồng, dòng sông uốn khúc, những đỉnh núi nhô cao nhọn hoắt và san sát như răng cưa. Nó cũng được vẽ lại bằng mực đen, như bản sao của thầy Rossi, nhưng nét vẽ có phần hơi khác biệt - một bản sao chép rõ ràng nhưng khi nhìn kỹ có phần khó đọc, cổ xưa, hơi cầu kỳ. Cha đã phải chuẩn bị sẵn tinh thần sau khi đọc lá thư của thầy Rossi để không bất ngờ khi nhìn thấy một bản khác với phiên bản đầu tiên của tấm bản đồ rồi mới phải, nhưng nó vẫn khiến cha choáng váng như thể vừa bị giáng cho một đòn: phía trên ngôi mộ giống như một chiếc hộp và con rồng vệ sĩ là những con chữ viết theo hình vòng cung: BARTOLOMEO ROSSI.
Cha dẹp hết các giả định, nỗi sợ hãi, những kết luận này nọ và ép mình bỏ tờ giấy qua một bên để đọc các trang ghi chú của thầy Rossi. Hai trang đầu dường như đã được ông ghi trong trung tâm lưu trữ tư liệu tại Oxford và Thư viện Bảo tàng Anh quốc, và không cho cha biết thêm được gì. Có một bản tóm tắt ngắn về cuộc đời và sự nghiệp của Vlad Dracula, một danh sách một số tài liệu văn học và lịch sử thuộc nhiều thế kỷ khác nhau trong đó có đề cập đến Dracula. Tiếp đó là một trang khác, ghi trên một tờ giấy khác, và được ghi hôm sau chuyến đi của ông đến Istanbul. “Khôi phục lại theo trí nhớ,” những dòng chữ tháu viết tay nhưng cẩn thận, và cha nhận ra hẳn chúng phải là các ghi chú mà ông ấy đã ghi ra giấy sau trải nghiệm trong trung tâm lưu trữ ở Istanbul, lúc ông phác thảo lại những tấm bản đồ ấy theo trí nhớ trước khi rời nơi chốn đó để đến Hy Lạp.
Các ghi chú này cũng liệt kê danh sách những tài liệu có từ thời Quốc vương Mehmed II mà thư viện Istanbul đang lưu trữ - ít nhất là những gì thầy Rossi cho là có liên quan với công trình nghiên cứu của ông - ba tấm bản đồ, những cuộn giấy ghi chép tiền nong từ những cuộc chiến của người Carpates chống lại đế quốc Ottoman, sổ cái hàng hóa mua bán giữa những thương nhân Ottoman ở vùng ven khu vực đó. Đối với
cha, có vẻ như chẳng có tài liệu nào có ý nghĩa rõ ràng; nhưng cha băn khoăn tự hỏi, chính xác vào thời điểm nào công việc của thầy Rossi đã bị tên quan chức xấu xa làm gián đoạn. Liệu những cuốn ghi chép và sổ cái giao dịch mua bán mà ông đề cập đến ở đây có thể chứa đựng manh mối nào liên quan đến cái chết hoặc việc chôn cất Vlad Ţepeş không? Liệu thầy Rossi thực sự đã xem xét thấu đáo tất cả các tư liệu chưa, hay chỉ có đủ thời gian để lập danh sách khả năng có thể xảy ra trong trung tâm lưu trữ trước khi bị làm cho quá sợ hãi mà tránh xa nơi đó?
Còn một mục cuối trong danh sách liệt kê đó, và đề mục này đã khiến cha ngạc nhiên, vì vậy cha nấn ná lại với nó một lúc lâu. “Thư mục, Giáo đoàn Rồng (hình thức cuộn giấy không hoàn chỉnh).” Dòng chữ ghi vội này làm cha vừa ngạc nhiên vừa ngần ngại vì nó quá mơ hồ. Thông thường thầy Rossi ghi chú rất rõ ràng và chú giải đầy đủ; chú giải, thầy thường nhấn mạnh, mới là ý nghĩa của việc ghi chép. Thư mục mà ông đề cập đến một cách vội vã như vậy có phải là danh sách mà thư viện đã lập để ghi lại tất cả tư liệu có liên quan đến Giáo đoàn Rồng mà họ cất giữ? Nếu vậy, tại sao ông lại ghi “Hình thức cuộn giấy không hoàn chỉnh”? Đó hẳn phải là một tài liệu cổ xưa, cha nghĩ - có thể là một tài liệu từ thời Giáo đoàn Rồng mà thư viện hiện lưu giữ? Liệu thư mục đó, dù là gì, có thực sự không liên quan đến công việc nghiên cứu của ông ấy?
Có vẻ như việc trầm ngâm với một tư liệu mơ hồ mà thầy Rossi đã xem xét cẩn thận cách nay quá lâu khó có thể là con đường trực tiếp dẫn đến sự kiện ông ấy mất tích, cha chán nản buông tờ giấy xuống, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vì tính vớ vẩn, không đâu vào đâu của việc tìm tòi này. Cha khao khát những câu trả lời. Ngoại trừ việc chưa nói rõ những điều ẩn chứa trong các cuộn giấy ghi chép tiền nong, trong các sổ cái, và trong cái thư mục cổ đó, còn lại thầy Rossi đã chia sẻ cặn kẽ với cha các khám phá của ông. Nhưng đó là bản tính ông ấy, ngắn gọn và súc tích; hơn nữa, ông đã rất hào phóng, nếu có thể nói như vậy, khi giải thích ý mình trong nhiều trang thư. Tuy vậy, cha chưa biết gì nhiều, ngoại trừ những gì phải thực hiện kế tiếp. Chiếc phong bì lúc này đã hoàn toàn trống rỗng, và sau khi đọc xong những tài liệu cuối cùng trong đó, cha vẫn chẳng biết được gì nhiều hơn những gì đã biết được từ những lá thư của ông ấy. Cha cũng nhận ra là mình phải hành động càng nhanh càng tốt. Cha đã từng quen thức suốt đêm rồi, và trong vòng một giờ nữa, có thể cha sẽ tập hợp lại những gì mà thầy Rossi đã nói về những mối đe dọa đối với mạng sống của thầy, lúc thầy nhận diện được chúng.
Cha đứng dậy, các khớp xương kêu rắc rắc, và bước vào căn bếp nhỏ ảm đạm để nấu một ít xúp. Khi lục tìm một cái nồi sạch, cha nhận thấy chú mèo mình nuôi vẫn chưa vào ăn tối, cha vẫn thường ăn chung bữa với nó. Cha không xích nó, và cha ngờ là ngoài cha ra cu cậu còn có những tình yêu khác. Nhưng thường cứ đến giờ ăn tối nó sẽ có mặt ở khung cửa sổ nhỏ trong bếp, nhô đầu vào ô cửa thoát hiểm hỏa hoạn báo cho cha biết nó đang chờ đợi suất ăn của mình, sẽ là một hộp cá ngừ hoặc một đĩa cá mòi khi nào cha nổi hứng vung tay quá trán. Cha rất thích lúc nó nhảy xuống sàn căn hộ buồn tẻ của cha, duỗi lưng và kêu meo meo trìu mến. Nó thường nằm nghỉ một lát sau khi ăn, ngủ ở đầu ghế sofa hoặc giương mắt nhìn cha ủi đồ. Đôi lúc cha nghĩ mình thấy được trong đôi mắt vàng tròn xoe của nó vẻ trìu mến dịu dàng, mặc dù đó có thể cũng là vẻ thương hại cha. Nó khỏe mạnh và mập mạp, bộ lông mềm với hai màu trắng đen. Cha gọi nó là Rembrandt. Nghĩ đến nó, cha nhấc tấm rèm, đẩy cánh cửa sổ lên và cất tiếng gọi, chờ nghe tiếng bước chân mèo khẽ khàng trên bậu cửa sổ. Cha chỉ nghe tiếng xe cộ xa xa, vọng đến từ trung tâm thành phố. Cha cúi đầu xuống nhìn ra ngoài.
Hình dạng của nó chiếm hết cả khoảng trống, kỳ dị, tựa như nó đã lăn xuống đó khi đang đùa chơi rồi cứ thế rũ mình xuống. Nhẹ nhàng lôi nó vào phòng bếp bằng đôi bàn tay run rẩy, cha nhận ra ngay xương sống nó đã gãy, đầu oặt xuống một cách kỳ dị. Hai mắt của Rembrandt mở to hơn cả lúc còn sống, hai môi bạnh ngược ra sau như đang gầm gừ sợ hãi, móng hai chân trước xòe rộng ra. Nhìn thấy cha liền biết ngay nó không thể bị ngã xuống đó, chính xác là như vậy, từ ngưỡng cửa sổ nhỏ hẹp kia. Phải có một bàn tay rất to, rất khỏe mới có thể giết được một con vật như vậy - cha sờ vào bộ lông mềm nhũn của Rembrandt, cơn giận dữ dâng trào bên dưới nỗi kinh hoàng - và thủ phạm chắc hẳn đã bị cào cắn dữ dội. Nhưng rõ ràng anh bạn của cha không còn nữa. Cha nhẹ nhàng đặt nó xuống sàn bếp, phổi cha ngùn ngụt hơi căm giận, trước khi nhận ra cơ thể của nó vẫn còn ấm.
Cha đi vòng khắp nhà, đóng và gài chốt các cửa sổ, rồi quay cuồng suy nghĩ tiếp theo phải làm gì. Làm
sao có thể tự bảo vệ mình? Tất cả các cửa sổ đều đã khóa, cửa ra vào đã chốt hai lần. Nhưng cha biết gì về những nỗi kinh hoàng đến từ quá khứ cơ chứ? Chúng len lỏi vào phòng như sương mù, luồn phía dưới các cánh cửa? Hay phá tung cửa sổ rồi vụt hóa thành một hình hài nào đó? Cha nhìn quanh để tìm vũ khí. Cha không có súng - nhưng súng không bao giờ đánh bại được Bela Lugosi, như trong các phim ma cà rồng, trừ phi người anh hùng được trang bị một viên đạn bạc đặc biệt. Thầy Rossi đã khuyên gì nhỉ? “Tôi sẽ không đi quanh với mấy củ tỏi trong túi, không.” Và cũng còn một điều gì khác nữa: “Tôi chắc chắn anh sẽ mang theo lòng tốt, ý thức đạo đức, anh muốn gọi nó là gì cũng được - dầu sao chăng nữa, tôi muốn nghĩ rằng hầu hết mọi người chúng ta đều có thể làm được chuyện này.”
Cha đi tìm một chiếc khăn sạch trong một hộc tủ bếp, nhẹ nhàng quấn quanh xác anh bạn Rembrandt rồi đặt vào phòng trước. Cha sẽ chôn nó ngày mai, nếu như có ngày mai bình thường như mọi ngày. Cha sẽ đào hố chôn nó ở sân sau tòa nhà chung cư - thật sâu, để chó không bới lên được. Thật khó mà nghĩ đến việc ăn uống lúc này, nhưng cha cũng làm một bát xúp và cắt một lát bánh mì.
Sau đó, cha lại ngồi xuống bàn, dọn dẹp và xếp mớ giấy tờ của thầy Rossi gọn gàng trở lại vào chiếc phong bì. Cha đặt cuốn sách có hình con rồng bí ẩn chặn lên phía trên, cẩn thận không để phong bì rơi xuống đất. Trên cùng, cha còn đặt dằn lên một tác phẩm kinh điển của Hermann: cuốn Golden Age of Amsterdam - Thời vàng son của Amsterdam, một trong những cuốn sách cha vẫn ưa thích lâu nay. Cha mở các ghi chú luận án ra giữa bàn làm việc và đặt dựng đứng phía trước mặt một cuốn sách nhỏ nói về các phường hội thương nhân tại Utrecht, một bản in lại cha mượn ở thư viện về nhưng vẫn chưa đọc kỹ. Cha đặt đồng hồ đeo tay bên cạnh, và thoáng rùng mình với những cảm giác mê tín khi thấy đồng hồ chỉ mười hai giờ kém mười lăm. Ngày mai, cha tự nhủ, mình sẽ đến thư viện đọc ngay lập tức bất kỳ tài liệu nào có thể tìm được ở đó, và có thể giúp trang bị cho mình trong những ngày sắp tới. Cũng chẳng thiệt hại gì khi biết nhiều hơn về những cây cọc bằng bạc, hoa tỏi và thánh giá, nếu chúng đã là những phương tiện được người nông dân dùng để chống lại ma cà rồng nhiều thế kỷ nay. Tối thiểu, điều này cũng cho thấy có một niềm tin trong truyền thống. Đến bây giờ, cha chỉ có lời khuyên của thầy Rossi, nhưng ông ấy chưa bao giờ làm cha thất vọng trong khả năng quyền hạn của ông. Cha nhặt cây bút lên và chúi đầu vào tập sách mỏng.
Chưa bao giờ cha thấy khó tập trung như vậy. Từng tế bào thần kinh của cha hình như đều trong tình trạng cảnh giác cao độ với một kẻ đang hiện diện bên ngoài, nếu có kẻ đó, tựa như chính đầu óc chứ không phải là đôi tai cha có thể nghe được tiếng hắn đang chạm vào cửa sổ. Cha nỗ lực tập trung tư tưởng vào Amsterdam, 1690. Cha viết được một câu, rồi một câu nữa. Bốn phút trước nửa đêm. “Tìm thêm vài giai thoại về cuộc sống của các thủy thủ Hà Lan,” cha ghi lên giấy. Cha nghĩ đến các thương nhân, họ đã liên kết với nhau thành các phường hội từ thời xa xưa để chọn lọc ra từ cuộc sống và hàng hóa của mình những gì tốt đẹp nhất có thể, ngày này qua ngày khác hành động theo ý thức trách nhiệm khá đơn giản của mình, sử dụng một phần tiền thặng dư để xây bệnh viện cho người nghèo. Hai phút trước lúc nửa đêm, cha ghi lại tên tác giả quyển sách nhỏ, để sau này xem lại. “Khám phá ý nghĩa của ngành in báo thành phố đối với giới thương nhân,” cha ghi chú.
Kim chỉ phút trên đồng hồ đột ngột giật lên, cha cũng giật mình theo. Mười hai giờ đúng. Cha nhận ra, các nhà in báo chắc hẳn vô cùng quan trọng, cha ngồi yên đó, vừa nghĩ vừa cố ép mình không nhìn ra phía sau, đặc biệt nếu các phường hội kiểm soát được một số trong đó. Liệu có thể họ đã mua quyền kiểm soát, hoặc mua quyền sở hữu một số nhà in? Chủ các nhà in có ở trong phường hội nào không? Quan điểm tự do báo chí của giới trí thức Hà Lan trong bối cảnh đó liên quan như thế nào với quyền sở hữu báo chí? Trong một khoảnh khắc, cha cảm thấy quan tâm hơn, mặc dù bản thân không muốn, và cố gắng nhớ lại những gì đã đọc về thuở sơ khai của ngành xuất bản tại Amsterdam và Utrecht. Đột nhiên cha cảm thấy không gian như lắng đọng lại thành một sự tĩnh lặng tuyệt đối, rồi căng thẳng chợt vỡ òa. Cha liếc nhìn đồng hồ. Ba phút sau nửa đêm. Cha lại thở bình thường và cây bút cũng lướt nhẹ nhàng trên trang giấy.
Hóa ra cái thứ - bất kể đó là gì - đang lén lút theo đuổi cha không thông minh tài giỏi như cha vốn lo sợ, cha nghĩ, thận trọng không ngắt quãng việc đang làm. Dường như con ma cà rồng đó chỉ nhìn các biểu hiện bên ngoài, mà cha thì có vẻ đã lưu ý đến lời cảnh cáo thông qua chú mèo Rembrandt và trở lại ổn định làm công việc thường lệ của mình. Cha sẽ không thể giấu được hành động thật sự của mình lâu dài, nhưng tối hôm nay thì bề ngoài của cha là phương tiện bảo vệ duy nhất mà cha có được. Cha chuyển chiếc đèn lại
gần hơn và làm vẻ chú tâm hơn với chủ đề thế kỷ mười bảy thêm một giờ nữa, để làm đậm thêm ấn tượng của nó về một kẻ đang miệt mài với công việc. Trong lúc giả vờ viết lách, cha lý luận với chính mình. Mối đe dọa cuối cùng đến với thầy Rossi, vào năm 1931, chính là tên ông trên vị trí Hầm Mộ của Vlad Kẻ Xiên Người. Hai đêm trước đây, người ta không thấy thầy Rossi nằm chết trên bàn làm việc, như cha vừa mới có thể bị nếu không cẩn thận. Người ta cũng không phát hiện ông ấy bị đả thương trong hành lang, như Hedges. Ông ấy đã bị bắt cóc. Lẽ dĩ nhiên, ông ấy có thể đang nằm chết ở một nơi nào đó, nhưng cho đến khi chắc chắn biết được điều đó, cha phải hy vọng ông ấy vẫn còn sống. Bắt đầu từ ngày mai, cha sẽ tự mình tìm hầm mộ đó.
Ngồi trên pháo đài cổ đó của nước Pháp, cha tôi đăm đăm nhìn ra biển, thay vì nhìn vào khoảng trời giữa những ngọn núi ở tu viện Thánh Matthieu và ngắm nhìn cánh chim đại bàng chao lượn. “Trở về khách sạn thôi, con ạ,” sau cùng cha nói. “Ngày đã trở nên ngắn hơn rồi, con có để ý không? Cha không muốn bị bắt ở đây sau khi mặt trời lặn.”
Trong cơn nôn nóng, tôi đã bạo gan nêu ra một câu hỏi thẳng thừng. “Bắt ư?”
Cha liếc nhìn tôi, vẻ nghiêm trọng, tựa như đang cân nhắc những rủi ro đến từ câu trả lời mình có thể đưa ra. “Đường rất dốc,” cuối cùng cha nói. “Cha không muốn phải tìm đường trở về trong đêm tối giữa các lùm cây kia. Con cũng vậy chứ?” Nhưng tôi thấy nếu thế thật thì cha cũng đủ gan thôi.
Tôi nhìn xuống rừng cây ô liu, lúc này đã ngả màu xám trắng thay vì màu hồng bạc. Cây nào cũng vặn vẹo, như muốn vươn lên cao, hướng lên cái pháo đài phế tích kia, dù sao chăng nữa cũng từng một thời đứng canh gác cho chúng - hoặc tổ tiên chúng - khỏi những ngọn đuốc của bọn Saracen[20]. “Không,” tôi trả lời, “con cũng không muốn.”
16
◄○►
Đầu tháng Mười hai, chúng tôi lại lên đường, sự mệt nhọc của chuyến đi mùa hè đến vùng Địa Trung Hải dường như đã ở lại phía sau. Làn gió mạnh vùng Adriatic vuốt ve lên tóc, tôi thích cảm giác này, thích sự dữ dội vụng về của nó; nó tựa như một con thú, lùa những móng vuốt nặng nề lên mọi thứ trong bến cảng, làm cho những ngọn cờ phía trước cái khách sạn hiện đại bay phần phật, bẻ oằn cong những cành cao nhất của hàng cây tiêu huyền trên đường nó thổi qua. “Cha nói gì ạ?” tôi gào to. Cha lại nói lại câu gì đó không nghe rõ, trỏ lên tầng trên cùng của cung điện hoàng đế. Cả hai chúng tôi đều nghển cổ ra nhìn.
Tòa pháo đài thanh lịch của hoàng đế Diocletian[21] sừng sững hiện ra phía trên chúng tôi trong ánh nắng ban mai, và tôi suýt ngã ngửa khi rướn người ra sau để cố nhìn được phần rìa phía trên cùng của nó. Nhiều khoảng trống giữa những cây cột xinh đẹp đã bị lấp đầy - thường do người ta chia chúng thành những căn hộ, cha giải thích - vì vậy, đó là một công trình chắp vá bằng đá, phần lớn là loại đá tảng cẩm thạch La Mã chôm chỉa từ những công trình kiến trúc khác, lấp lánh sáng trên khắp cả mặt tiền kỳ dị. Đây đó, nước mưa và những trận động đất đã tạo nên những đường nứt dài. Từ các kẽ nứt, những loại dây leo nhỏ, thậm chí một số cây cối lòng thòng nhô ra. Gió thổi tung những chiếc cổ áo rộng của các thủy thủ đang tản bộ từng nhóm hai hay ba người dọc theo bến cảng, những khuôn mặt rám nắng nổi bật trên bộ đồng phục trắng và những mái đầu húi cua đen ánh lên như bàn chải sắt. Tôi theo cha đi quanh tòa nhà, ngang qua những cây óc chó đen đúa ngã đổ và mớ rác rưởi từ những cây sung dâu, đến khu quảng trường nồng nặc mùi nước tiểu bao quanh tượng đài kỷ niệm. Một ngọn tháp đồ sộ vươn lên trong gió, ngay trước mặt chúng tôi, được trang trí như một chiếc bánh cưới cao lêu nghêu. Ở khu vực phía sau này yên tĩnh hơn và chúng tôi có thể ngưng hét lên khi trò chuyện.
“Bao giờ cha cũng muốn nhìn ngắm ngọn tháp này,” cha nói, giọng bình thường. “Con muốn leo lên đỉnh chứ?”
Tôi đi trước, thích thú bước trên những bậc cầu thang sắt. Trong khu chợ ngoài trời gần bến cảng mà thỉnh thoảng tôi nhìn xuống qua một khung tò vò bằng đá cẩm thạch, cây cối đã chuyển sang màu nâu vàng, trên nền nâu vàng đó những cây bách dọc dòng nước trông như có màu đen hơn là màu xanh lá. Khi trèo lên, tôi có thể nhìn thấy mặt nước xanh thẫm ở bến cảng phía bên dưới, các thủy thủ đang nghỉ phép trông như những chấm trắng nhỏ xíu lang thang qua các quán cà phê ngoài trời. Doi đất cong cong ở xa phía bên kia khách sạn đồ sộ nơi chúng tôi ở như một mũi tên chỉ thẳng vào vùng nội địa thế giới nói tiếng Xlavơ, nơi chẳng bao lâu cha sẽ bị cuốn vào cơn lũ hòa giải đang lan rộng khắp vùng.
Chúng tôi đứng thở hổn hển dưới mái tháp. Chỉ có một sàn sắt dưới chân đỡ chúng tôi khỏi rớt xuống mặt đất, từ đó, chúng tôi có thể nhìn suốt được tới mặt đất bên dưới qua những bậc cầu thang sắt xoáy trôn ốc chằng chịt như mạng nhện mà chúng tôi vừa leo lên. Bên ngoài các khung cửa sổ đá, thế giới xung quanh như trải rộng ra, mỗi cửa sổ đều thấp đến nỗi du khách nào bất cẩn có thể té lộn nhào qua chín tầng tháp xuống mảnh sân nhỏ rải sỏi bên dưới. Chúng tôi chọn một ghế dài ở giữa, nhìn ra biển, ngồi lặng yên đến độ một con chim én đã liệng vào, đôi cánh gồng lên trong ngọn gió biển ào ào thổi, rồi biến mất dưới những mái hiên. Có một vật gì đó ánh lên trong mỏ con én, một cái gì đó lấp lánh dưới ánh mặt trời khi con én vọt bay từ dưới biển lên đây.
Buổi sáng hôm sau, cha kể, cha thức dậy sớm, khi đã đọc hết đống giấy tờ của thầy Rossi. Cha chưa bao giờ cảm thấy mừng rỡ khi nhìn thấy ánh mặt trời như sáng hôm đó. Việc tồi tệ trước tiên là chôn cất Rembrandt. Sau đó, cha đến thư viện mà không gặp trở ngại gì đúng lúc người ta vừa mở cửa. Cha muốn dành trọn ngày hôm đó để chuẩn bị cho đêm sắp đến, cho cuộc tấn công kế tiếp của bóng tối. Đã nhiều
năm, đêm là thời gian yêu thích của cha, là vỏ kén tĩnh lặng nơi cha đắm mình vào để đọc và viết. Bây giờ, nó đã trở thành một mối đe dọa, một mối hiểm nguy không thể tránh được, sẽ xảy đến trong vài giờ tới. Cha cũng đang lên kế hoạch cho chuyến đi sắp tới, cùng những sự chuẩn bị cần thiết. Mọi việc hẳn sẽ dễ dàng hơn một chút, cha buồn rầu nghĩ, nếu cha biết được mình sẽ đi đâu.
Gian sảnh chính của thư viện rất yên lặng, chỉ có tiếng bước chân vang vang của những người thủ thư tới lui vì công việc; rất ít sinh viên đến đây sớm thế này, nên cha sẽ được yên ổn và tĩnh lặng trong ít nhất nửa giờ nữa. Cha tìm kiếm trong danh mục thẻ rối rắm của thư viện, mở sổ ghi chép và bắt đầu kéo ra những ngăn hộc mà cha cần. Có vài tài liệu liên quan đến vùng Carpates, một trong số đó là về văn hóa dân gian vùng Transylvania. Một cuốn sách về ma cà rồng - những huyền thoại về chúng trong truyền thống Ai Cập. Cha tự hỏi chuyện về ma cà rồng sẽ giống nhau đến mức nào trên khắp thế giới. Liệu những con ma cà rồng Ai Cập có gì giống ma cà rồng Đông Âu? Đó là lĩnh vực nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, không phải của cha, nhưng dù sao cha vẫn ghi lại số hiệu của cuốn sách về truyền thống Ai Cập ấy.
Sau đó, cha tìm kiếm về Dracula. Các chủ đề và nhan đề xếp lẫn lộn với nhau trong danh mục thẻ; giữa tấm thẻ “Drab-Ali Vĩ đại” và thẻ “Rồng, châu Á,” hẳn phải có ít nhất một thẻ nữa: thẻ của cuốn Dracula của Bram Stoker mà hôm qua cha thấy người phụ nữ trẻ đó đọc ở đây. Với một tác phẩm kinh điển như vậy, thư viện thậm chí có thể có hai bản. Cha cần cuốn sách đó ngay; thầy Rossi đã nói đó là bản tóm lược công trình nghiên cứu của Stoker về những kiến thức và truyền thuyết về ma cà rồng, nó có thể chứa đựng cả những biện pháp bảo vệ mà cha có thể áp dụng cho chính mình. Cha đã tìm đi tìm lại. Không có một thẻ “Dracula” nào - không, không có gì cả. Cha không cho rằng truyền thuyết là một yếu tố quan trọng trong công tác nghiên cứu học thuật, nhưng chắc chắn một cuốn sách như vậy hẳn phải được lên danh mục ở đâu đó.
Và rồi cha chợt thấy một thứ thực sự nằm giữa thẻ mục “Drab-Ali” và “Rồng”. Một mảnh giấy bị vặn xoắn lại nằm ở đáy hộc cho thấy rõ ràng ít nhất một tấm thẻ đã bị rứt ra. Cha vội vàng tìm đến ngăn hộc “St”. Không có mục từ “Stoker” ở đó - chỉ có thêm những dấu vết của một vụ đánh cắp chóng vánh. Cha nặng nề ngồi xuống chiếc ghế đẩu gỗ gần nhất. Sự việc quá kỳ lạ. Sao lại có kẻ phải thủ tiêu những tấm thẻ cụ thể này?
Cha biết cô gái tóc đen là người mượn cuốn sách sau cùng. Phải chăng cô ta muốn xóa bỏ dấu vết của cuốn sách cô ta mượn? Nhưng nếu muốn đánh cắp hoặc che giấu cuốn sách, tại sao cô ta lại công khai đọc nó, ngay giữa thư viện? Chắc hẳn một người nào khác đã rứt các tấm thẻ ra, có lẽ là ai đó - nhưng vì sao? - không muốn bất kỳ người nào khác tìm thấy cuốn sách ở nơi đó. Bất kỳ kẻ nào đã làm việc đó, họ đã hành động hấp tấp, quên không xóa các dấu vết việc làm của mình. Cha suy ngẫm sự việc này một lần nữa. Ở đây, danh mục thẻ là thứ bất khả xâm phạm; bất kỳ sinh viên nào thậm chí chỉ để quên một ngăn hộc danh mục trên bàn, hoặc bị bắt gặp vi phạm lỗi lầm này đều bị các thư ký hoặc thủ thư lên lớp ra trò. Chắc chắn là bất cứ hành động vi phạm nào đối với thẻ danh mục hẳn phải được thực hiện chớp nhoáng, vào khoảnh khắc nào đó không có ai ở chung quanh hoặc nhìn về hướng đó. Nếu người phụ nữ trẻ kia không tự mình phạm vào hành động xuẩn ngốc này, thì có lẽ cô ta cũng không biết có một người khác không muốn ai khác mượn cuốn sách này. Và có thể cô ta vẫn còn đang giữ nó. Cha đi gần như chạy đến quầy chính.
Thư viện này, được xây dựng theo phong cách Gothic thời Phục hưng đậm nét vào thời điểm thầy Rossi tốt nghiệp Oxford (hẳn nhiên, đó là nơi ông sống giữa những sự việc có thực), luôn hấp dẫn cha bởi nó vừa đẹp vừa kỳ cục. Để đến được quầy chính, cha phải băng qua một sảnh giống như gian giữa thánh đường, quầy cho mượn và nhận trả sách nằm ở vị trí, đáng lẽ là của bệ thờ nếu đây là một thánh đường thực sự, dưới bức bích họa Nữ thần - thần Tri Thức, chắc thế - trong bộ váy áo màu xanh da trời, hai tay ôm những tập sách thần tiên. Việc làm thủ tục mượn sách ở đó có đầy đủ tính thiêng liêng của một lễ chịu ban thánh thể. Hôm nay, đối với cha, điều này có vẻ như một trò đùa mỉa mai nhất, cha lờ đi gương mặt dịu dàng vô thưởng vô phạt của vị Nữ thần khi bắt chuyện với người thủ thư, cố làm ra vẻ bình tĩnh.
“Tôi đang tìm một cuốn sách mà hiện không thấy có trên kệ,” cha bắt đầu, “tôi không biết hiện giờ thực ra nó đã được cho mượn, hay sắp được trả lại chưa.”
Người thủ thư, một phụ nữ độ tuổi sáu mươi, lùn, mặt mày nghiêm nghị, từ bàn làm việc liếc nhìn lên. “Xin vui lòng cho biết tên sách,” bà ta nói.
“Cuốn Dracula, của Bram Stoker.”
“Xin vui lòng chờ một lát; tôi sẽ xem liệu nó có còn hay không.” Bà ta lật một hộp nhỏ, mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào. “Rất tiếc. Hiện giờ, cuốn sách này vừa được cho mượn.” “Ồ, thật đáng tiếc,” cha thốt lên, vẻ chân thành. “Khi nào nó mới được trả lại?”
“Khoảng ba tuần nữa. Nó mới được cho mượn hôm nay.”
“Tôi e là không thể chờ đợi lâu như vậy. Bà biết đó, tôi đang dạy một khóa…” Đây là câu nói thường rất có tác dụng.
“Nếu muốn, ông có thể đặt mượn trước ngay từ bây giờ,” bà quản thư nói giọng lạnh nhạt. Bà ngoảnh cái đầu tóc bạc đội mũ ni đi, dường như muốn trở lại với công việc đang bỏ dở.
“Có thể một trong những sinh viên của tôi đã mượn cuốn sách đó, để đọc chuẩn bị trước cho khóa học. Nếu bà có thể cho biết tên, tôi sẽ tự liên hệ với anh ta.”
Bà ta nheo mắt nhìn cha chằm chằm. “Thường chúng tôi không làm vậy.” bà ta nói. “Đây là một trường hợp bất thường,” cha giãi bày. “Tôi xin nói thẳng với bà. Tôi thực sự phải sử dụng một đoạn trong cuốn sách đó để ra đề thi cho họ, và… tôi đã cho một sinh viên mượn cuốn sách của mình và giờ anh ta để lạc nó đâu rồi. Đó là lỗi của tôi nhưng bà cũng biết, với đám sinh viên, thì những vấn đề này xảy ra như thế nào. Lẽ ra tôi phải lường trước mọi chuyện.”
Mặt bà ta dịu lại và gần như có vẻ thông cảm. “Thật kinh khủng, đúng không?” bà ta nói, gật đầu. “Chúng tôi mất cả đống sách mỗi học kỳ, tôi khẳng định đấy. Thôi được để tôi xem liệu có tìm được cái tên đó cho ông hay không, nhưng xin đừng rêu rao là tôi làm việc đó, được chứ?”
Bà ta quay đi để xáo tung chiếc tủ có ngăn kéo ở phía sau, cha đứng đó, suy ngẫm về tính hai mặt mà cha chợt nhận ra trong bản chất của mình. Cha đã học nói dối một cách trơn tru như vậy từ bao giờ? Điều đó đã mang lại cho cha một cảm giác vừa thích thú vừa lo lắng. Khi đang đứng ở đấy, cha thấy một người quản thư khác, từ sau một cái bệ lớn tiến đến gần cha hơn, nhìn cha chăm chú. Ông ta là một người cha thường thấy ở đây, tuổi trung niên, gầy, chỉ cao hơn bà bạn đồng nghiệp một chút, trông có vẻ lôi thôi với cái áo khoác vải tuýt và chiếc cà vạt cũ mòn. Có lẽ vì đã chú ý đến ông ta từ trước nên cha bất ngờ kinh ngạc khi thấy sự thay đổi trên vẻ mặt ông ta. Gương mặt tái xám và trông như nghiện ma túy, thậm chí có vẻ như bệnh nặng. “Tôi có thể giúp gì cho ông không?” ông ta đột nhiên lên tiếng, tựa như nghi ngại cha có thể cuỗm ngay một thứ gì ở quầy nếu không có ai để ý.
“Ồ, không, cám ơn.” Cha vẫy tay trỏ vào lưng bà quản thư. “Tôi đã được giúp đỡ rồi.” “Tôi hiểu.” Ông ta bước qua bên trong lúc bà quản thư quay lại với một mảnh giấy nhỏ và đặt nó trước mặt cha. Ngay khoảnh khắc đó, cha không biết nhìn về đâu - mẩu giấy nhỏ như đang quay tròn dưới mắt cha. Bởi khi quay qua bên cạnh, người thủ thư kia chồm lên để xem số sách được trả lại tại quầy và đang chờ để xử lý. Khi ông ta cúi sát mặt xuống chúng, trong khoảnh khắc, cần cổ ông ta nhô lên trên cổ áo mòn trơ chỉ, và cha thấy trên đó hai vết thương đã đóng vảy trông rất khủng khiếp, một vết máu khô nhỏ trên khoảng da ngay phía dưới hai vết thương, tạo thành một tác phẩm trang trí trên da trông rất tởm lợm. Sau đó, ông ta đứng thẳng lên, quay đi, mang theo các cuốn sách.
“Có phải đây là cái ông cần?” bà quản thư hỏi. Cha nhìn xuống tờ giấy bà đang đẩy về phía cha, “Ông thấy đấy, đó là giấy ghi thông tin mượn-trả của cuốn Dracula. Chúng tôi chỉ có một bản cuốn sách đó.” Tay quản thư lôi thôi kia bỗng đánh rơi xuống sàn một cuốn sách, tiếng động vang dội cả đại sảnh cao ngất. Ông ta thẳng người lên, nhìn thẳng vào cha, và cha chưa bao giờ nhìn thấy - hoặc cho đến giây phút đó chưa bao giờ thấy - ánh mắt trừng trừng của con người nào đầy thù hận và cảnh giác như vậy. “Đó là thứ ông cần, đúng không?” bà quản thư nhắc lại.
“Ồ, không,” cha trả lời, suy nghĩ thật nhanh, cố gắng trấn tĩnh. “Chắc hẳn bà đã hiểu nhầm. Tôi tìm cuốn Sự suy tàn và sụp đổ của đế chế La Mã của Gibbon. Như đã nói với bà, tôi đang dạy một khóa về chủ đề đó và chúng tôi cần thêm một bản.”
Bà ta cau mày. “Nhưng tôi tưởng…”
Cha không muốn lợi dụng tình cảm của bà ta, ngay cả trong khoảnh khắc khó chịu đó, khi bà ta đã trở nên quá dễ tính đến thế với cha. “Thôi được,” cha nói. “Có thể tôi đã không tìm kỹ. Tôi sẽ trở lui và kiểm tra lại danh mục xem sao.”
Tuy nhiên, ngay khi thốt lên từ danh mục, cha biết mình đã lạm dụng cái tài ăn nói lưu loát mới có của mình. Đôi mắt tay quản thư cao gầy nhíu lại, đầu khẽ nghiêng, như một con thú đang rình rập từng động tác của con mồi. “Cám ơn bà rất nhiều,” cha lịch sự nói khẽ và bước đi, cảm nhận ánh mắt sắc bén đang xoáy trên lưng mình suốt con đường dẫn xuống lối đi rộng giữa các dãy ghế. Cha vờ trở lại bộ phận danh mục khoảng một phút, sau đó đóng cặp giấy tờ lại và cố tình đi ra bằng cửa trước, cánh cửa lúc này đã lũ lượt những tín đồ trung kiên của thư viện kéo vào. Bên ngoài, cha tìm được một chiếc ghế dài dưới ánh nắng mai rực rỡ, lưng dựa vào một bức tường phong cách tân Gothic, ở đó cha có thể an toàn nhìn mọi người xung quanh đến đến đi đi. Cha cần năm phút để ngồi suy nghĩ - việc suy tư, như thầy Rossi luôn dạy, nên diễn ra đúng lúc thay vì tiêu tốn nhiều thời gian.
Tuy nhiên, toàn bộ những chuyện đã xảy ra là quá nhiều để có thể nhanh chóng tiêu hóa hết. Trong khoảnh khắc bàng hoàng mê muội đó, cha không chỉ nhớ lại ánh mắt thoáng qua của mình với vết thương trên cổ của tay thủ thư mà còn cả tên của người khách thường xuyên lui tới thư viện đã đưa đẩy cha đến với cuốn Dracula. Tên cô ta là Helen Rossi.
Gió trở lạnh và không ngừng mạnh lên. Cha dừng lại ở đó và lôi từ trong túi đựng máy ảnh hai cái áo mưa, mỗi người chúng tôi một cái. Cha đã cuộn chặt chúng lại để có thể nhét vừa chung với các thứ khác trong chiếc túi đựng máy chụp hình, mũ vải bạt, và một ít dụng cụ sơ cứu. Không nói một lời, chúng tôi khoác áo mưa ra ngoài áo khoác, và cha tiếp tục.
Ngồi ở đấy trong ánh nắng cuối xuân, nhìn ngôi trường đại học cựa mình thức giấc với những hoạt động thường lệ, cha chợt cảm thấy ganh tị với đám sinh viên và các giảng viên dáng vẻ bình thường đang rảo bước đây đó. Hẳn họ đang nghĩ kỳ thi ngày mai là một thách thức quan trọng, hoặc những trò đấu đá trong khoa đúng là một vở kịch hấp dẫn, cha cay đắng nghĩ. Không một ai trong họ có thể hiểu được tình thế khó khăn của cha, hoặc có thể giúp cha thoát ra khỏi tình thế đó. Đột nhiên cha cảm thấy cô đơn, khi đứng ngoài ngôi trường của mình, vũ trụ của mình, như một chú ong thợ bị trục xuất khỏi tổ. Và cha ngạc nhiên nhận ra tình trạng này mới chỉ bắt đầu từ bốn mươi tám tiếng đồng hồ trước.
Bây giờ, cha phải gấp rút suy nghĩ cho ra mọi lẽ mọi điều. Trước tiên, cần xem xét những gì thầy Rossi đã kể lại: còn một người nào đó ở bên ngoài mối đe dọa trực tiếp đối với thầy Rossi - trong trường hợp này người đó là một tay thủ thư dơ dáy, dáng vẻ kỳ dị - bị cắn ở cổ. Cứ cho rằng, cha tự nhủ, gần như muốn cười chế giễu tính phi lý của những sự việc mà cha bắt đầu tin, cứ cho rằng tay thủ thư của chúng ta bị một con ma cà rồng cắn, mới gần đây thôi. Thầy Rossi đã bị cuốn ra khỏi văn phòng của ông - với vết máu trên bàn làm việc, cha nhớ lại - chỉ hai đêm trước. Dracula, nếu hắn còn tự do, hình như không chỉ ưa chuộng những học giả xuất sắc nhất (đến đây, cha nhớ đến anh bạn Hedges tội nghiệp của thầy Rossi) mà còn cả những người thủ thư, những chuyên viên lưu trữ văn thư. Không - cha ngồi thẳng lên, chợt nhận ra mấu chốt của vấn đề - hắn ưa chuộng những người làm việc với những văn thư lưu trữ có dính líu với truyền thuyết về hắn. Đầu tiên là tay quan chức nhà nước, kẻ đã tước đoạt tấm bản đồ của thầy Rossi ở Istanbul. Nhà nghiên cứu ở Viện Smithsonian cũng vậy, cha nghĩ, nhớ lại lá thư cuối cùng của thầy Rossi. Và, tất nhiên, bị đe dọa ngay từ đầu là chính bản thân thầy Rossi, người có một bản in của “một trong những cuốn sách thú vị này” và đã từng nghiên cứu những tài liệu có thể có liên quan. Tiếp đó là người thủ thư này, dù cha chưa có bằng chứng là gã đã từng liên quan đến bất kỳ tài liệu nào về Dracula. Và sau cùng - là cha?
Cha cầm cặp giấy tờ lên và vội vàng đến một trạm điện thoại công cộng gần khu căng tin sinh viên. “Vui lòng cho xin Phòng thông tin trường Đại học.” Không ai đi theo cha đến đây, theo như cha thấy, nhưng cha vẫn đóng cửa lại và qua đó vẫn để mắt quan sát những người qua lại. “Cô có trong danh sách một cô tên là Helen Rossi đấy chứ? Vâng, nghiên cứu sinh,” cha thử đánh bạo thăm dò.
Cô trực tổng đài trường đại học trả lời vắn tắt; cha có thể nghe tiếng cô ta chậm rãi lật từng tờ giấy. “Chúng tôi có một người tên H. Rossi đăng ký tại ký túc xá nữ nghiên cứu sinh,” cô ta trả lời. “Đúng là cô ấy. Cám ơn cô rất nhiều.” Cha ghi vội số điện thoại và lại gọi. Một nữ quản lý trả lời, giọng sắc và cảnh giác. “Cô Rossi à? Vâng? Xin lỗi, ai gọi đấy?”
Ôi, lạy Chúa. Cha đã không nghĩ đến việc này. “Anh cô ấy,” cha trả lời ngay. “Cô ấy bảo tôi là cứ gọi số máy này.”
"""