" Trường An Ly Ca 3: Cao Sơn Lưu Thủy PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trường An Ly Ca 3: Cao Sơn Lưu Thủy PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo TRƯỜNG AN LY CA 3 - CAO SƠN LƯU THỦY Tác giả: ỨC PHÚC    Sách đổi Ebook: �� Cần ebook của sách mới �� Mua 1 sách mới được 2 ebook ☎ 0907 060 886 "N iên thiếu quen nhau, ngưỡng mộ tài chí, thấm nhiễm phẩm cách. [...] Ý hợp tâm đầu, cả đời không phụ. Nay dựa lan can đứng, hứng gió nhìn xa, cỏ cây trong sân cùng trồng đã sum suê cao vút. Năm tháng trước kia, như bóng câu qua cửa sổ, trôi đi trong cái búng tay. Chỉ trong khoảnh khắc, thế sự đều sai. Qua ngòi bút linh hoạt mà thâm thúy của Ức Phúc, cả một thời đại gió mây biến ảo với toàn bộ những nhân vật lịch sử nổi tiếng được tái hiện sống động và chân thật, mỗi nhân vật đều là một con người khó quên với đủ yêu ghét giận hờn, đủ tốt đẹp lẫn cơ mưu thủ đoạn. Thịnh Đường cách cả nghìn năm đã mở ra trước mắt chúng ta, đúng như tác giả từng nói “cách xa nghìn trùng cũng gặp nhau qua trang sách”. Mục lục Chương 25 Chuyện ma Dương Châu Chương 26 Hạng Trang múa kiếm Chương 27 Rồng cuộn hổ ngồi Chương 28 Nỗi đau côi cút Chương 29 Gom sức chờ thời Chương 30 Sấm động kinh hồn Chương 31 Hiềm khích không ngờ Chương 32 Họa từ trong nhà Chương 33 Cao sơn lưu thủy Chương 34 Luyến tiếc ngày xưa Chương 35 Canh bạc tất tay Chương 36 Thiên hạ Trường An Ngoại truyện Chương 25 Chuyện ma Dương Châu Tháng Ba ở Dương Châu đúng vào mùa mưa, sương mù giăng khắp mặt sông. Nước mưa chốc chốc lại gõ lên lan can thuyền, phát ra tiếng “lộp bộp”. lái thuyền khoác áo tơi đội nón lá đứng ở mũi thuyền, vừa ra sức chèo vừa ngoảnh đầu nói: “Công tử ngồi dịch vào bên trong một chút, đừng để mưa hắt ướt người.” Lý Khác hơi dịch vào, vừa cười vừa nói: “Giọng Dương Châu của ông thật là dễ nghe, còn hay hơn cả tiếng quan thoại Trường An của chúng tôi!” Ông lái thuyền đưa tay lau mồ hôi trên trán, thẳng thắn nói: “Công tử cứ đùa. Phía trước là ngã ba, công tử muốn đi theo đường nào?” Lý Khác nghịch chiếc quạt xếp trong tay, hững hờ nói: “Không quan trọng. Ông thích đi đâu thì đi!” Ông lái thuyền lắc đầu chẳng biết làm sao. Ông chèo thuyền ở vùng Dương Châu này đã mấy chục năm, chưa bao giờ gặp người khách nào tùy tiện như vậy. Thấy trời mưa ngày càng nặng hạt, bà vợ ở nhà chắc vẫn đang đợi ông về nấu bát canh gà mái già để bồi bổ cơ thể. Nghĩ đến đây, ông liền khua nhanh tay chèo, chèo về phía gần bờ nhất. Hai bên bờ gió mát lướt qua, tạt nước mưa vốn hắt vào mặt rơi cả vào cổ. Lý Khác đứng dậy, mở chiếc ô vải dầu lớn mang theo bên mình, lấy một xâu tiền trong tay áo ra, đặt vào tay ông lái thuyền, nói lời tạm biệt rồi lên bờ. Tang sự của Tiêu hoàng hậu đã xong xuôi từ hơn nửa tháng trước, nhưng thứ sử Dương Châu Trịnh Đạc ngày nào cũng dẫn mấy người bản xứ có tiếng đến bái kiến, nên nhất thời họ vẫn chưa đi được. Lý Khác thật sự không thích ứng phó với những tình huống kiểu này, nên luôn mượn cớ để ra ngoài dạo chơi một mình. Có điều, trước khi lên đường Lý Thế Dân đã trao cho y chức truất trắc sứ đạo Hoài Nam, cũng là có ý muốn y thay thiên tử tuần du, tra xét dân tình, khảo sát chính tích của quan viên. Cho nên y làm vậy cũng không thể coi là bỏ bê việc chính. Nơi xuống thuyền đã là vùng ngoại ô Dương Châu, chỉ có lác đác mấy nóc nhà. Lý Khác đi loanh quanh một lúc, thấy phía trước có một ngôi miếu tuy hơi cũ kỹ, nhưng được xây dựng rất gọn gàng tinh xảo. Trên tấm biển là ba chữ dùng đá xếp thành: miếu Đồng Tử. Y còn chưa gõ cửa đã thấy có một con mèo đen từ bên trong nhảy ra, nhắm về phía y kêu ré lên. Lý Khác giật nẩy mình vì bất ngờ, vội vịn vào khung cửa bên cạnh. “Tiểu súc sinh! Ba ngày không động gì đến mày, lại định thò mặt ra chọc phá quý nhân đấy phỏng?” Người đàn ông mặt đầy râu tua tủa cầm một cây chổi lớn lao vọt ra, vừa đuổi vừa lớn tiếng chửi mắng. Con mèo thấy ông ta, lập tức lủi vào trong bụi cỏ bên cạnh. Người đàn ông đành hậm hực vứt cây chổi sang một bên, đoạn cười xòa, cúi người vái chào: “Tại hạ Tưởng Thổ Căn, là thủ từ của ngôi miếu này. Khiến công tử giật mình rồi, mau vào trong ngồi một lát đi” Lý Khác phủi bụi trên tay áo, gật đầu nói: “Cũng được.” Hai bên chính điện là hai hàng giá đặt hai mươi bốn ngọn nến ngay ngắn chỉnh tề, bên trên bàn thờ phía trước có thắp mười hai nén đàn hương, ba chiếc đĩa bạc bên dưới thì đựng hoa quả tươi, còn chính giữa phía trên bàn thờ là một bức tượng thiếu niên trong bộ đồ hoa lệ màu đỏ. Lý Khác thấy cậu thiếu niên mặt mày như tranh vẽ, phong thái trác việt, còn đẹp hơn tượng Thiện Tài đồng tử mà trước đây y từng thấy, liền tò mò hỏi: “Nơi đây thờ phụng ai vậy?” Tưởng Thổ Căn lấy bàn chải quét tàn hương rơi trên bàn thờ, nói với vẻ mặt trang nghiêm: “Triệu vương” Đôi mày Lý Khác khẽ giật: “Triệu vương là ai?” Tưởng Thổ Căn “ài” một tiếng, quan sát Lý Khác mấy lượt: “Chính là Triệu vương Dương Cảo hơn ba mươi năm trước bị phản quân giết ở Dương Châu. Chắc công tử biết chứ?” Lý Khác nhận ba nén hương từ tay Tưởng Thổ Căn, cúi người vái ba vái rồi cắm vào trong lư hương. Sau đó y lại lấy hai lạng bạc trong tay áo ra đặt lên trên bàn, coi như là tiền nhang khói: “Chuyện của Triệu vương, đúng là tôi có nghe sơ qua. Chỉ không ngờ, ở đây lại có người lập miếu cho ông ta.” Tưởng Thổ Căn bỏ bạc vào trong chiếc hòm sắt cạnh tay, vuốt bộ râu cá trê nói: “Công tử nhìn xem, bức tượng này đã tuấn tú lắm rồi! Nhưng nghe các cụ từng trông thấy Triệu vương trong làng chúng tôi nói, nó vẫn chưa thể hiện được một phần mười thần vận của ngài ấy! Lúc đó, mấy đại hoạn quan bên cạnh Tùy Dạng Đế cưỡng ép các cụ nhập ngũ, chính Triệu vương đã quỳ xuống cầu xin Dạng Đế, nên bọn họ mới được miễn phu phen. Mấy hôm sau, Triệu vương lại sai tiểu thái giám dưới quyền mình đem chút vàng bạc của cải tặng cho các cụ. Năm Vũ Đức thứ nhất, Dương Châu mưa dầm dề không ngớt, ruộng đồng không thu hoạch nổi một hạt thóc. Đạo sĩ giang hồ nói rằng, Triệu vương chết oan, ông trời đang buồn bã đau lòng. Chỉ có lập miếu cho Triệu vương, truyền đời hương khói, mới có thể giữ được một phương thái bình..” Lý Khác nghe đến đây, trong lòng bất giác trào dâng mấy phần thê lương quạnh quẽ. Dương Cảo là em trai duy nhất của mẹ y, lúc chết mới chỉ mười hai tuổi. Một cậu thiếu niên mười hai tuổi có dung mạo siêu phàm thoát tục, tâm hồn trong sáng đơn thuần, lại bị một lũ bẩn thỉu vô liêm sỉ nhất thế gian đoạt mạng. Lý Khác đột nhiên nhớ đến ba chữ mình nhìn thấy lúc mới bước vào: miếu Đồng Tử. Một thiếu niên như vậy, có lẽ đúng là mang mệnh đồng tử![*] “Công tử?” Tưởng Thổ Căn thấy Lý Khác có vẻ trầm tư, liền khựng lại, suy nghĩ một lát rồi mới nói tiếp,“Thế là các cụ liền mời người xây ngôi miếu Đồng Tử này, còn đem vàng bạc của cải năm xưa Triệu vương tặng đặt vào trong hộp gấm rồi chôn xuống đất. Nói ra cũng thật kỳ lạ, kể từ đó nơi đây gần như không xảy ra tai họa. Các cụ đều bảo, Triệu vương nhân hậu, ở trên trời vẫn tiếp tục bảo vệ trăm họ dưới trần gian!” Lý Khác nghe tiếng mưa bên ngoài dần ngưng, liền đứng dậy, lại vái bức tượng đó một lần nữa, rồi quay sang nói với Tưởng Thổ Căn: “Các ông có lòng thành kính nể sợ thần linh như vậy, thần linh cũng sẽ phù hộ các ông” Tưởng Thổ Căn hơi ngạc nhiên: “Trông công tử có dáng vẻ nhà quan, không ngờ cũng tin chuyện quỷ thần” “Thủ từ kể chuyện sinh động như vậy, hóa ra không phải là mong tôi tin à!” Lý Khác cầm chiếc ô vải dầu dựng ở một bên lên, mỉm cười: “Cảm ơn ông” “Công tử cảm ơn vì điều gì?” Lúc bước qua bậc cửa, Lý Khác nghe thấy Tưởng Thổ Căn ở đằng sau cao giọng hỏi. Y cũng mặc kệ, vẫn cứ đi tiếp. Không khí sau mưa là tươi mát nhất, hít nhẹ một hơi, liền cảm thấy trong bụng vô cùng dễ chịu. Lý Khác đi trên con đường quanh co bên ngoài miếu Đồng Tử, tâm trạng nặng trĩu suốt mấy ngày dường như đã vơi đi không ít theo chuyến đi hôm nay. Dương Châu đúng là rất tốt, chẳng trách năm xưa Tùy Dạng Đế lại thích Dương Châu như vậy, thậm chí trong lần cuối cùng xuống Giang Nam, ông ta còn coi Dương Châu là chốn an thân cho nửa đời còn lại. Nhưng về sau, nơi đây lại trở thành mồ chôn của ông ta, thật không biết nên thương xót hay nên than thở. Lý Khác muốn đưa Kỳ Úc tới Dương Châu chơi từ mấy năm trước, chỉ là lúc đó trên dưới triều đình đều đang chuẩn bị cho trận chinh phạt Cao Câu Ly, nhất thời y cũng không thoát ra được. Những ngày sau đó, y luôn cảm thấy bất an, lại thêm việc Lý Thế Dân đau ốm, nên y cũng chẳng còn lòng dạ đi du sơn ngoạn thủy nữa. Còn lần này thì đến để lo tang, tâm trạng nói chung là chán chường nhiều hơn vui vẻ. Lúc về đến dịch quán Dương Châu, trời đã sẩm tối. Vân Lĩnh bỏ lại hai thị vệ đang trò chuyện vui vẻ với mình, vội vàng bước tới đón: “Điện hạ đã về. Trịnh thứ sử và Hồ huyện lệnh huyện An Nghi, còn cả mấy vị quan viên trí sĩ cũng vừa mới ra về ạ?” “May mà có huynh ấy.” Lý Khác lau nước mưa vô tình dính trên tóc, vừa đi vừa nói,“Ngươi đi bảo đám người dưới một tiếng, trưa mai chúng ta sẽ lên đường về Trường An.” Vân Lĩnh dạ một tiếng, quay người chạy ra ngoài cửa. Lúc này Đỗ Húc đang bưng một cái khay, bước chậm rãi từ cuối hành lang tới, cúi người nói: “Tham kiến điện hạ. Công tử bảo là, đợi ngài về sẽ qua tìm ngài. Công tử còn bảo sau này sẽ không bao giờ giúp ngài đối phó với mấy người đó nữa.” Lý Khác lắc đầu bất lực, nghĩ bụng: Cũng được, may mà mai là đi rồi. Sau đó y mở nắp chén trà trên khay, bất giác nhíu mày: “Sao huynh ấy lại muốn uống trà đặc như thế này? Hại dạ dày quá. Bảo nhà bếp chuẩn bị nước mật ong ấm một chút.” Đỗ Húc khó xử nhăn mày: “Nhưng công tử sẽ nổi giận đấy ạ. Ngài biết mà, gần đây công tử không được vui vẻ cho lắm.” “Hình như trước đây ngươi đâu có sợ huynh ấy như vậy!” Lý Khác nhìn Đỗ Húc nói,“Cứ làm theo lời ta đi! Nếu huynh ấy trách ngươi thì hôm tới ngươi qua phủ Ngô vương làm việc” Bên ngoài gian nhà Dương Chính Đạo ở có trồng một bãi ngô đồng. Tuy đông ấm hè mát, nhưng hay có côn trùng chui vào qua cửa sổ. Thế là gã đành phải đặt một lượng lớn hương huỳnh đàn trong bốn chiếc lư ở chính đường để xua đuổi. Lúc này gã đang nhắm hờ mắt, dùng tay day huyệt thái dương, nói với giọng đượm phần mệt mỏi: “Dạo này ta luôn cảm thấy đầu óc váng vất, đành phải uống chút trà đặc cho tỉnh táo. Thế mà đệ cũng muốn quản sao?” “Huynh nói, làm sao ta biết được?” Lý Khác vén áo ngồi xuống cạnh gã,“Mà đâu chỉ có thế. Dọc đường từ Trường An đến Dương Châu, huynh đều không muốn nói chuyện với ta cho lắm. Vấn đề ở phía ta, hay là ở phía huynh?” Dương Chính Đạo biết ắt hẳn y đã nhịn rất lâu rồi mới hỏi như thế này. Nhưng trong một chốc một lát gã cũng không giải thích được, đành nói với vẻ dửng dưng: “Đệ không nên đến Dương Châu. Trường An cần đệ hơn. “Bất kể cần hay không, ta cũng đã đến rồi. Nếu huynh thật sự trách ta vì việc này, thì ta cũng chẳng có cách nào cả. “Đệ giận dỗi ta làm gì? Nếu đến bây giờ mà đệ vẫn không hiểu ý ta, thì những năm qua chúng ta uổng công làm huynh đệ rồi!” Lý Khác đang định mở miệng thì nghe thấy bên ngoài có tiếng gõ cửa vang lên. Y đứng dậy mở cửa, đón lấy chiếc cốc sứ trong tay Đỗ Húc, rồi xua tay bảo hắn đi. “Lúc không vui phải nếm chút đồ ngọt. Miệng ngọt rồi thì lòng sẽ không đắng” Lý Khác bưng chén sứ đựng đầy nước mật ong đến trước mặt Dương Chính Đạo,“Huynh có giận ta thì cũng không thể không quý trọng thân thể mình. Ngày mai chúng ta sẽ lên đường, nếu mọi thứ suôn sẻ thì có thể về nhà trước tết Hàn thực” Dương Chính Đạo uống một hơi hết nước mật ong trong chén, rồi lại lấy cốc sứ rót thêm chén nữa. Một lúc lâu sau gã mới nói: “Ngọt quá. Tên nhóc Đỗ Húc này thật là không biết chừng mực khi pha. Cơ mà mật ong này được đấy, dư vị dài lâu, còn thoang thoảng mùi thơm của hoa. Lý Khác thấy cuối cùng giọng gã đã dịu đi, nghĩ bụng, biết thế cho uống sớm một chút thì có phải tốt rồi không, nhưng miệng chỉ nói: “Chỉ cần huynh thích là được. Nếu huynh thật sự không ngủ nổi thì ta sẽ đánh cờ với huynh. Lâu lắm rồi chúng ta cũng chưa rèn giũa ngón cờ một cách nghiêm túc.” * * * Một đêm chơi cờ say sưa thỏa thích đã kết thúc, rạng sáng, cả hai cuối cùng cũng buồn ngủ, gục luôn xuống bàn đánh một giấc. Đến khi ngoài cửa vẳng tới những tiếng bước chân nhộn nhạo, hai người mới không hẹn mà cùng tỉnh dậy. Quý Ân gõ cửa khe khẽ, dừng lại một chút, rồi gõ tiếp hai cái: “Điện hạ, ti chức có chuyện muốn bẩm báo. Lý Khác dụi đôi mắt ngái ngủ, quân cờ đen y nắm suốt trong tay liền rơi xuống đất. Y nói nhỏ: “Biểu huynh, mau ra mở cửa” Dương Chính Đạo đứng dậy, hai chân bỗng nhũn ra, vội vịn vào giá sách trước mặt, một bình hoa phỉ thúy bên trên lắc lư mấy cái, lúc sắp rơi xuống đất thì Lý Khác nhanh tay lẹ mắt đón được. Dương Chính Đạo giật mình, bước qua hai tấm đệm trúc, đi đến trước cửa, kéo then ra: “Sáng sớm ngày ra, có việc gì mà gấp thế?” Quý Ân đưa tay lau mồ hôi trên trán, lo lắng ra mặt: “Quấy rầy quân hầu nghỉ ngơi rồi. Vừa nãy Trịnh thứ sử đến báo tin, miếu Đồng Tử ở ngoại ô phía Tây đêm qua bị cháy, chính điện đã thành một đống hoang tàn. Thủ từ không chạy kịp, bị chết ngạt ở bên trong.” “Thời tiết Dương Châu khá là ẩm ướt, sao có thể xảy ra hỏa hoạn vào mùa này?” Dương Chính Đạo hết sức kinh ngạc hỏi, “Hơn nữa những việc kiểu này đúng ra phải do thứ sử xử lý, tại sao lại vội vã đến báo với chúng ta như thế?” “Chắc ông ta có lý do.” Lý Khác từ bên trong bước ra, tiện tay ném chiếc đệm trúc dưới đất lên giường, nói với Quý Ân,“Bảo Trịnh thứ sử chuẩn bị, ta muốn đến đó xem xem. Nói đoạn, y lại quay sang Dương Chính Đạo,“Xem ra, hôm nay chúng ta chưa lên đường được rồi.” Ngoại ô Dương Châu, gió xuân phớt qua mặt, ánh nắng rực rỡ từ trên cao chiếu xuống, nước đọng trên con đường lát đá lấp lánh sáng ngời. Một mùi khét nồng nặc bốc lên trong không khí, làm người ta ho sặc sụa không thôi. Trịnh Đạc nói với vẻ mặt bứt rứt: “Quấy rầy điện hạ đích thân đến kiểm tra, hạ quan thực sự thấy thẹn trong lòng” Dương Chính Đạo khẽ nhếch môi phản bác: “Chẳng phải chính Trịnh thứ sử tới quấy rầy sao? Giờ còn nói như vậy, không cảm thấy rất nực cười à?” Trịnh Đạc nắm chặt hai tay vào nhau, không khỏi lúng túng ra mặt. Lý Khác nghiêng đầu nhìn Dương Chính Đạo, ý nói: Biết thừa nhưng đừng nói toạc, không thể chẳng giữ lại chút thể diện nào cho người ta như vậy. Lúc ở Trường An, y có tìm hiểu về tác phong hành sự của vị Trịnh thứ sử này, tuy năng lực làm việc hơi yếu, nhưng ông ta là người trung hậu khiêm tốn, lại rất quan tâm đến nỗi khổ của người dân, có thể coi là một vị quan tốt. Y đang suy nghĩ thì thấy Trịnh Đạc dẫn một người đàn ông trung tuổi mặc áo bào xanh đi tới: “Điện hạ, người này tên là Kim Hồng. Chính ông ta đã đến phủ thứ sử báo án” Ánh mắt của Lý Khác vượt qua hai người họ, hướng đến một bãi ngổn ngang cách đó không xa. Còn chưa đầy một ngày, chính điện của ngôi miếu Đồng Tử vốn được xây dựng khá là tinh xảo đã thành ra thế này, quả thực y cũng thấy hơi buồn. Y bèn tiến lên mấy bước, dừng lại một lúc rồi mới ngoảnh đầu hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?” Kim Hồng cúi đầu, đưa tay trái xoa mấy vết thương trong lòng bàn tay phải: “Bẩm điện hạ, nơi này chỉ có mười mấy hộ dân, hơn nữa cách miếu Đồng Tử khá xa, vì vậy mọi người đều không biết ngọn lửa này bắt đầu từ đâu. Khi hay tin, tiểu nhân vội vàng chạy tới, thì đã cháy thành như thế này rồi. Thi thể nằm bên cạnh mảnh vỡ của tượng Triệu vương, tuy bị thiêu biến dạng, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra đó chính là thủ từ Tưởng Thổ Căn, người quanh năm sống một mình trong miếu Đồng Tử. Sau đó ngỗ tác xác nhận, trong miệng Tưởng Thổ Căn có một lượng lớn tro khói, có thể thấy đúng là đã bị chết cháy” Lý Khác trầm ngâm hỏi: “Có người nhà đến nhận xác không?” Kim Hồng lắc đầu: “Theo tiểu nhân được biết, Tưởng Thổ Căn góa vợ, cũng không có con cái.” “Vậy thì coi như là xác vô chủ rồi.” Lý Khác ngồi xổm xuống, cầm một thanh đòn ngang lên, lấy tay lau vết bẩn bên trên, ngẩng đầu nhìn Dương Chính Đạo. Gã hiểu ý, cầm mảnh sứ ở bên cạnh đưa lên mũi ngửi thử, rồi gật đầu. Lý Khác đứng dậy, rút chiếc khăn trong tay áo ra lau hai tay, sau đó nói với Trịnh Đạc: “Thông thường thứ sử xử lý mấy xác chết kiểu này như thế nào?” Trịnh Đạc kính cẩn nói: “Thông thường nha phủ đều bỏ tiền bạc ra chuẩn bị quan tài sơ sài, an táng những thi thể vô chủ ở hậu sơn của chùa Vạn Tượng cách phủ thứ sử Dương Châu năm dặm. Mùng một hằng tháng, thiền sư Minh Huệ trong chùa sẽ siêu độ cho họ.” “Thứ sử nhân hậu, chẳng trách cuộc sống của trăm họ Dương Châu lại sung túc vui vẻ như vậy. Nhưng mà..” Lý Khác nói đến đây, đột nhiên đổi sang giọng nghiêm nghị,“Một vụ án cố ý phóng hỏa giết người thế này, thứ sử phải tập trung toàn bộ tinh thần cẩn thận điều tra cho rõ.” Mây đen trên trời từ từ trôi tới, dần chặn lại ánh nắng vừa nãy còn chói chang. Trịnh Đạc thoáng ngây ra, rồi lập tức nói với vẻ mặt như bình thường: “Sao điện hạ lại nói như vậy?” Ánh mắt Lý Khác hơi nhấp nháy: “Thứ sử hẳn đã sớm biết việc này có khá nhiều ẩn tình, sợ mình không đủ sức khám phá, nên mới cần ta ra mặt giải quyết. Có điều, ông lại sợ ta phủi tay mặc kệ, nên muốn ta tận mắt nhìn thấy những điểm khả nghi, để ta chủ động đề nghị giúp ông điều tra, đúng không?” Những giọt nước trên trán Trịnh Đạc từ từ chảy xuống, vào tận trong vạt áo, lại không biết là nước mưa hay mồ hôi. Ông ta cuống cuồng quỳ xuống, giọng nói hơi run vì chột dạ: “Điện hạ, hạ quan... hạ quan biết sai rồi. Hạ quan không nên có ý nghĩ như vậy. Chỉ là... điện hạ biết đấy, Triệu vương trong miếu Đồng Tử từng phù hộ cho Dương Châu mưa thuận gió hòa, giờ lại bị thiêu cháy một cách khó hiểu như vậy, hạ quan thật sự... thật sự cảm thấy sợ hãi” Mưa ngày càng nặng hạt, các hộ vệ tới tấp mở ô che mưa cho mấy người. Lý Khác nói với vẻ lạnh nhạt: “Bản vương thân là Đại Lý tự khanh, lại là truất trắc sứ đạo Hoài Nam do bệ hạ khâm định, việc này không nằm ngoài phận sự. Có điều, bản vương cũng cần phải biết, ông có tư cách để ta giúp đỡ hay không. Đứng dậy nói những gì ông đã điều tra được đi!” Giờ Trịnh Đạc mới dám giơ tay lau những giọt nước trên mặt, nói nhỏ: “Tảng sáng hạ quan đã dẫn người đến đây một lần. Lúc đó hạ quan phát hiện ra trong đống đổ nát có rất nhiều dấu vết của rượu mạnh và dầu thông dẫn lửa, cho nên mọi thứ trong miếu mới bị đốt sạch như này. Nhưng trong một ngôi miếu bình thường còn không có dầu thông và rượu mạnh, huống hồ là miếu thờ Triệu vương? Hơn nữa, Tưởng Thổ Căn sống ở hậu viện, tại sao nửa đêm ông ta lại vào trong chính điện? Vả lại, Tưởng Thổ Căn đang độ tráng niên, chính điện có song có cửa, dù là lửa cháy bất ngờ, sao ông ta lại không chạy thoát nổi cơ chứ?” “Chắc chỉ có một khả năng” Lý Khác chậm rãi nói,“Đêm khuya có kẻ tới tìm Tưởng Thổ Căn nói chuyện. Có lẽ, người thì ông ta quen mà chuyện ông ta cũng rành. Nhưng mà, trong quá trình trò chuyện, kẻ đó lại tính kế đánh thuốc mê ông ta, rồi phóng hỏa thiêu chết, đốt rụi chính điện. Trịnh thứ sử vừa nãy chỉ bảo trong miệng ông ta chứa tro khói, còn trong khoang bụng, không biết ngỗ tác có thể kiểm tra không?” Trịnh Đạc hít sâu một hơi: “Hạ quan hiểu rồi. Nhưng mà, Tưởng Thổ Căn đã chẳng còn người thân trên đời, không biết hạ quan nên điều tra từ đâu đây?” “Không có người thân thì vẫn còn bạn bè.” Lý Khác trừng mắt với ông ta, lại thấy trong ánh mắt có vẻ kính cẩn của ông ta dường như lóe lên tia sáng thâm sâu khó dò, không khỏi thầm ngạc nhiên. Con người này, khá là thú vị. Dương Chính Đạo cũng quan sát Kim Hồng mấy lượt, hỏi: “Ai bảo mà ông biết nơi đây bị cháy vậy? Tại sao khi trời còn chưa sáng kẻ đó lại tới nơi hoang vu này?” Kim Hồng hơi nhíu mày, khóe mắt hằn sâu mấy nếp nhăn: “Tiểu nhân nghe người cùng thôn tên là Triệu A Cửu nói. Hẳn là người làm ăn, quanh năm hành tẩu bốn phương, hôm nay vốn định lên đường đi U Châu bán hàng, ai ngờ gặp phải vụ việc này. Hắn hoảng trong lòng, chỉ sợ đây là ông trời cảnh báo, cho nên liền hớt hải chạy đến báo tin miếu Đồng Tử bị cháy cho tiểu nhân” “Vậy thì đây đúng là một việc kỳ lạ.” Dương Chính Đạo hỏi vặn: “Kim Hồng, ta hỏi ông, nếu nửa đêm ông đi ngang qua ngôi miếu Đồng Tử đang cháy, ông sẽ làm gì?” “Tiểu nhân sẽ chạy trốn thật xa. Kim Hồng nói không suy nghĩ, sau đó dường như thấy nói vậy rất không thỏa đáng, bèn vội vàng chữa lại: “Tiểu nhân sẽ đi cứu hỏa” Mắt Dương Chính Đạo thoáng hiện vẻ trào phúng: “Chạy trốn là bản năng, cứu hỏa cũng là bản năng. Nhưng hắn đã không chạy trốn, cũng chẳng cứu hỏa, mà lại đi xa như vậy để nói với ông. Việc này chẳng phải khá kỳ lạ sao?” Kim Hồng hơi bần thần, nhất thời không nói nên lời. Trịnh Đạc thắc mắc: “Quân hầu nghi ngờ Triệu A Cửu phóng hỏa sao? Nhưng mà hắn có mưu đồ gì? Hay là giờ hạ quan đi xích hắn đem tới đây tra hỏi kỹ càng?” Dương Chính Đạo nhướng mày, hững hờ nói: “Ta chưa hề hoài nghi gì cả. Thứ sử muốn làm gì thì cứ việc làm. Tưởng Thổ Căn bị hại như này, thực là oan uổng. Trịnh thứ sử là quan phụ mẫu Dương Châu, tự biết nặng nhẹ.” Trịnh Đạc vâng vâng dạ dạ, sau khi cáo tội với Lý Khác và Dương Chính Đạo, liền dẫn các bổ khoái dưới quyền đi đến thôn Mi Vu nơi Triệu A Cửu sống. * * * Trên đường về, Lý Khác liên tục đưa mắt trông ra cảnh đường phố bên ngoài xe ngựa, đến khi cảm thấy cổ đau nhức mới buông rèm xuống, khẽ bặm môi: “Biểu huynh, huynh từng bảo, tuổi tác lớn dần thì càng thêm kính sợ chuyện quỷ thần. Giờ huynh vẫn nghĩ như vậy chứ?” “Tất nhiên.” Dương Chính Đạo đưa một túi nước ở cạnh tay cho y,“Vừa nãy đệ còn nói rõ ràng đâu ra đấy, giờ lại muốn quy kết chuyện này cho quỷ thần sao?” Lý Khác mở túi, uống hết già nửa nước bên trong mới cảm thấy cổ họng khô khốc của mình dễ chịu hơn: “Đâu có. Chỉ là, vừa nãy lúc nhìn thấy mảnh vỡ của tượng Triệu vương trong đống đổ nát, ta vẫn thấy hơi khó chịu trong lòng. Huynh cũng hiểu mà, phải không?” “Phải. Ta hiểu. Cho nên... Trịnh Đạc điều tra là việc của Trịnh Đạc, chúng ta điều tra là việc của chúng ta. Bất kể là người hay ma, cũng mặc kệ là âm mưu quỷ kế gì, chúng ta đều không sợ.” Xe ngựa dần đi đến khu chợ sầm uất nhất cổng Nam của Dương Châu. Bên ngoài những tiếng rao hàng nối tiếp nhau vang lên, xen lẫn cả tiếng cãi nhau do mua bán không thành mà lòng sinh oán giận. Giọng Dương Châu êm ái dễ nghe, du dương trầm bổng, dù tranh cãi đến đỏ mặt tía thì nghe cũng chỉ giống lời khuyên giải nhẹ nhàng thân mật giữa bạn bè với nhau. “Quý Ân, dừng lại phía trước đã. Ta muốn xuống mua mấy thứ” Lý Khác đặt túi nước rỗng sang một bên, cởi hầu bao trên thắt lưng, lấy ra hai xâu tiền rồi xuống xe, đi đến sạp hàng nhỏ gần nhất, cậu con trai hơn mười tuổi của chủ sạp đang ở đó nghịch một con dao bấm. Lý Khác trò chuyện với chủ sạp một hồi, rồi bê về một bọc lớn. Dương Chính Đạo lắc đầu bất lực, cười nhạo: “Chủ sạp vớ được một phú ông như đệ, đúng thật là phúc khí ba đời tu thành.” Lý Khác cất mấy đồng tiền thừa, phản bác: “Huynh đừng tưởng ta quên chuyện năm xưa huynh từng vung ra một miếng ngọc bội trị giá cả trăm lượng. Về sau bà ngoại hỏi đến, huynh nói như nào nhỉ? Ngọc quý báo đáp tri kỷ, con đã tặng nó cho một người bạn tâm đầu ý hợp rồi. Thế mà bà vẫn tin huynh, liên tục hỏi huynh người đó là nam hay nữ.” Dương Chính Đạo nghe y nói đến chuyện xấu hổ mười mấy năm về trước bằng giọng bình thản như gió thoảng mây thưa, dường như có một lớp sương mù dày đặc phủ lên trái tim gã. Rất nhiều người và việc gã không muốn nghĩ tới, dưới sự lắng đọng của thời gian, cuối cùng đã hóa thành từng làn khói xanh trôi đi xa. Dương Chính Đạo cười nhạt, tựa hồ không muốn vướng vào mớ cảm xúc hỗn độn trong đầu. Gã giơ tay mở bọc đồ ra, vừa nhìn liền bật cười thành tiếng: “Đệ mua những đồ gì thế này?” “Tất nhiên đều là đồ tốt. Không phải huynh chưa thấy bao giờ đấy chứ?” Lý Khác tiện tay cầm một món đồ lên nói,“Đây là con quay tung hứng, Phong nhi nhà em chắc chắn sẽ thích. Đây là khóa Khổng Minh cho Côn nhi chơi, thằng bé thông minh, lại cứng cỏi quật cường, nhất định sẽ lắp được. Còn có cả chuỗi chín vòng, xe bùn, chó đất..” Dương Chính Đạo ôm trán, lộ ra vẻ mặt không còn gì để nói: “Khó khăn lắm đệ mới được đến Dương Châu một lần, lại mang những đồ chơi ngoài chợ này về cho mấy đứa sao?” Lý Khác mân mê hai quả cầu lưu ly trong tay: “Vật hiếm thì quý, những thứ này đều không thường thấy ở Trường An. Không chỉ mấy đứa, Kỳ nhi nhìn thấy, ắt cũng sẽ vui mừng” “Phải rồi, chỉ cần họ vui là được. Những cái khác đều không quan trọng” “Vì vậy, huynh cũng đừng nghĩ ngợi lung tung. Những năm qua, chúng ta đã cùng nhau đối mặt với biết bao nguy hiểm. Vui vẻ một chút, được không?” Dương Chính Đạo không trả lời y, ánh mắt xuyên qua tấm rèm kéo không kín, nhìn những người đi lại vội vã trên con đường lát đá xanh, thở dài một tiếng gần như không thể nghe thấy. Về đến dịch quán thì giờ Dần đã điểm. Mấy viên chấp sự trong dịch quán đợi sẵn ở ngoài cửa, vồn vã tiến lên đón, thao thao nịnh nọt không tiếc lời. Lý Khác và Dương Chính Đạo chỉ vờ như không nghe thấy, bỏ lại bọn họ ở xa xa đằng sau, đi về phía khoảnh sân nhỏ ở sau hành lang. Lúc đi đến cuối hành lang, chợt nghe thấy chấp sự Hồ Thanh mặc Hồ phục cổ bẻ màu đen đang khẽ hỏi chấp sự Nghiêm Giáp gần ông ta nhất: “Sau đó Đào tiên sinh thế nào?” Nghiêm Giáp ghé lại gần hơn một chút: “Nghe nói sau khi tỉnh lại, Đào tiên sinh liên tục nói nhảm, đại loại là hồn ma áo đỏ, Triệu vương trở lại nhân gian báo thù gì đó.” Hồ Thanh hừ mũi: “Triệu vương là ân nhân có thể giữ cho Dương Châu mưa thuận gió hòa, sao lại hại trăm họ Dương Châu cơ chứ? Lão Đào xưa nay cổ hủ tự đại, những lời như vậy xem ra cũng không đáng tin.” “Không thể tin hoàn toàn, cũng không thể hoàn toàn không tin. Hôm nay..” Nghiêm Giáp bỗng dưng im bặt, nuốt nước bọt mấy lần, mới nhả ra từng chữ: “Hôm nay là mùng mười tháng Ba đấy!” Lúc này bên trong dịch quán im ắng, ngay cả chim chóc cũng kêu rất ít. Vì vậy dù bọn họ đã nén giọng xuống rất thấp, những lời đó vẫn lọt vào tai Lý Khác và Dương Chính Đạo một cách rõ ràng. Hai người nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người lại. Lý Khác hỏi: “Có chuyện gì vậy?” Mấy viên chấp sự vội vàng dừng bước, hoảng hốt cúi đầu không nói. Lý Khác biết bên trong ắt có uẩn khúc, bèn chỉ vào Hồ Thanh đang không ngừng vân vê chéo áo, nghiêm giọng: “Ông đấy! Nói rõ đầu đuôi ngọn nguồn đi.” “Vâng... vâng. Điện hạ.” Hồ Thanh buông tay, nhưng nhất thời không biết nên đặt vào đâu, “Hồi sáng mấy người bọn ti chức nghe được lời bàn tán đầu đường cuối ngõ thì mới biết. Đào tiên sinh là một thầy đồ sống trong ngõ Thanh An. Giờ Tý hôm nay, ông ta uống rượu về qua ngõ thì trông thấy một thiếu niên mặc áo đỏ từ trên trời hạ phàm, đứng trước mặt ông ta, trên ngực còn cắm một thanh chủy thủ. Đào tiên sinh sợ đến nỗi hai chân mềm nhũn, không dám động đậy. Thiếu niên áo đỏ rút dao ra, định đâm vào vai Đào tiên sinh. Đúng lúc này, có một phu điểm canh xách đèn lồng đi qua, thiếu niên áo đỏ mới bay đi. Đào tiên sinh bất tỉnh ngay tại chỗ, hai đại phu chữa suốt một canh giờ mới cứu được ông ta.” “Chuyện cũng thú vị đấy.” Lý Khác vén áo ngồi xuống ghế ở hành lang, đầy hào hứng hỏi,“Vậy thì có liên quan gì đến Triệu vương?” Trong khi Hồ Thanh cụp mắt suy nghĩ, lại thấy Nghiêm Giáp tiến lên một bước, cúi người vái nói: “Điện hạ, cái này ti chức biết. Lúc bị hại Triệu vương mặc áo đỏ, mà tuổi tác của Triệu vương cũng xấp xỉ thiếu niên mà Đào tiên sinh mô tả. Vả lại, ngõ Thanh An trước đây vốn là hành cung Giang Đô năm xưa. Hơn nữa, hôm nay là ngày giỗ của Triệu vương.” Dương Chính Đạo cắn chặt môi dưới, nhìn chằm chằm mấy người trước mặt bằng ánh mắt sáng quắc, nói lớn tiếng: “Toàn là nói bậy!” Nghiêm Giáp đang hứng khởi nói thì đột nhiên bị cắt ngang, có phần không phục muốn bĩu môi, nhưng lại không dám biểu lộ ra mặt, đành vâng dạ: “Ti chức không dám nói bừa. Nếu không phải như vậy, thì tại sao miếu Đồng Tử vừa bị thiêu hủy là lập tức xuất hiện thiếu niên áo đỏ này? Vả lại, phu điểm canh nói, thiếu niên đó vừa thấy đèn lồng liền bay đi ngay. Quân hầu nghĩ mà xem, chẳng phải hồn ma đều sợ ánh sáng sao?” “Hình như đúng là hơi có lý.” Dương Chính Đạo nhìn nhúm tóc bạc trên đỉnh đầu Nghiêm Giáp, lạnh lùng nói,“Ông nói chơi, ta cũng nghe chơi. Nghiêm túc như vậy làm gì? Điện hạ, chúng ta đi thôi. Tiền đệ thắng ta hôm qua, ta phải thắng lại mới được.” Nghiêm Giáp có vẻ còn muốn nói thêm điều gì đó, lại bất ngờ bị Hồ Thanh khẽ giẫm một cái, đành miễn cưỡng nuốt xuống đầy một bụng lời định nói. Lý Khác trông thấy, nhưng chỉ dặn dò một câu: “Nói với quản gia trong phủ, món thăn bò ông ta xào ngon đến nỗi làm người ta ê răng. Hôm nay nhất định phải đổi cho ta món khác.” Mấy viên chấp sự vâng vâng dạ dạ, thi lễ xong liền rời đi. Lý Khác nhìn theo bóng lưng bọn họ, vội hỏi: “Huynh đang nghĩ gì vậy?” Dương Chính Đạo cảnh giác nhìn xung quanh, ra dấu im lặng: “Chúng ta vào phòng rồi nói.” Đỗ Húc biết họ ắt sẽ về vào lúc này, nên đã chuẩn bị nước giải khát cho họ từ sớm. Dương Châu tháng Ba hơi oi bức, uống một cốc nước giải khát, trong bụng đã mát rười rượi. Lý Khác cảm thấy chưa đã, liền rót thêm một cốc, uống một ngụm lớn rồi nói: “Hình như còn thoang thoảng có vị thuốc” “Không sai, ta học được từ một đại phu dân gian ở Trường An. Giã nhuyễn lê , vải, dâu, rồi bỏ hoa kim liên và thổ phục linh vào, đun nhỏ lửa nửa canh giờ, đợi nguội là uống được. Không chỉ ngon miệng mà còn có công dụng thanh nhiệt giải độc. Mùa hè còn có thể cho thêm chút đá, vị sẽ càng ngon hơn.” “Huynh không cần nói kỹ như vậy, dù sao ta cũng không nhớ được.” Lý Khác lấy khăn lau hai giọt nước vãi trên bàn, “Chuyện này rất kỳ lạ. Đêm qua miếu Đồng Tử vừa mới bị cháy, hôm nay đã lan truyền tin đồn hồn ma Triệu vương hại người, lại còn sinh động như thật. Nếu không kịp thời tra rõ chân tướng, thì không chỉ làm hỏng danh tiếng của Triệu vương, mà còn khiến người dân hoang mang sợ hãi.” Dương Chính Đạo cau mày: “Ta biết. Chuyện quỷ thần tuy thời nào nơi đâu cũng có, nhưng mà, đã để chúng ta bắt gặp, lại còn liên quan đến Triệu vương, thì tất nhiên phải làm cho ra nhẽ.” Lý Khác lấy tay chống đầu, chậm rãi xoa đôi mắt mệt mỏi, nói như đang nằm mơ: “Nơi đây năm xưa nhất định là một địa ngục trần gian. Toàn bộ những người đáng chết, không đáng chết đều chết cả. Biểu huynh, giả như không phải trời xui đất khiến, chúng ta cũng sẽ không còn sống trên đời. Huynh có biết vị trí cũ của hành cung Giang Đô giờ ở đâu không?” “Ngoài ngõ Thanh An, còn có ngõ Vĩnh An, ngõ Bồng Lai, ngõ Bình Ninh, hai khu đất hai bên cầu Thích Gia chắc cũng phải.” Dương Chính Đạo đang nói, đột nhiên ngoảnh đầu hỏi, “Đệ định thế nào?” “Đợi thêm đi. Xưa nay ta không sợ quỷ thần, càng không sợ những kẻ giả thần giả quỷ!” Dương Chính Đạo mỉm cười nhìn y, gật đầu, lặng im không nói. Dùng bữa tối xong, hai người thay quần áo văn nhân bình thường chuẩn bị ra ngoài. Vừa bước đến bụi trúc lùn ở mé Đông dịch quán thì thấy Trịnh Đạc dẫn theo mấy bổ khoái hớt hải đi tới. Trông thấy hai người, bọn họ vội lúc cúc chạy lại, cúi người vái chào: “Điện hạ, quân hầu, hạ quan vừa từ nhà Triệu A Cửu ở thôn Mi Vu về, quả nhiên có một số phát hiện quan trọng.” Lý Khác tiện tay ngắt một chiếc lá trúc, cầm chơi trong tay: “Vừa đi vừa nói nhé.” Trịnh Đạc hơi béo, chắc do chạy gấp nên hai má đỏ ửng lên: “Hạ quan không thấy Triệu A Cửu, liền sai người lục soát phòng của hắn, trong ngăn bí mật dưới gầm giường, phát hiện ra hai hũ rượu mạnh và dầu thông chỉ còn lại một nửa. Vì vậy hạ quan cảm thấy hắn có đủ điều kiện để phóng hỏa.” Lý Khác chỉ cảm thấy ngón tay dính nhơm nhớp do nước từ lá trúc, rất khó chịu, liền lấy một chiếc khăn trong tay áo ra lau. Lau một lúc, y mới nhớ ra là nên trả lời Trịnh Đạc một câu: “Có điều kiện chưa chắc đã có bụng dạ.” Trịnh Đạc đứng phía dưới Lý Khác, lúc mở miệng lần tiếp theo, hơi thở đã bình ổn lại nhiều: “Hạ quan cũng nghĩ như vậy. Cho nên hạ quan còn hỏi mấy người dân trong làng quen biết Triệu A Cửu, bọn họ đều nói, thường ngày hắn toàn làm ăn bên ngoài, không hay về nhà. Có điều, hạ quan cũng thăm dò được, hắn và Tưởng Thổ Căn đúng là có quen nhau. “Tốt đấy. Chỉ trong nửa ngày ngắn ngủi ông đã điều tra được không ít thứ. Vậy tiếp theo đây ông định làm gì?” Trịnh Đạc suy nghĩ rồi nói: “Hạ quan tính phát cáo thị, truy nã Triệu A Cửu toàn thành. Điện hạ, ngài thấy có được không?” Lý Khác đứng dậy, hững hờ nói: “Tùy ông” * * * “Đệ thuận miệng nói ‘tùy ông, chẳng biết tay Trịnh thứ sử đó sẽ suy đoán như nào nhỉ?” Dương Chính Đạo giãn đôi mày cười nhạt, ngay sau đó lại hỏi,“Giờ chúng ta đi đâu?” Lý Khác ngước mắt nhìn bầu trời âm u, thắt chặt vạt áo: “Tới ngõ Thanh An xem trước đi. Vừa nãy đáng ra phải bảo Quý Thành chuẩn bị ngựa, mới đi có một lúc đã thấy mệt rồi. Dương Chính Đạo nghe y nói vậy, không khỏi lộ vẻ quan tâm: “Gần đây sức khỏe của đệ vẫn tốt chứ? Vết thương cũ trên tay thật sự không tái phát nữa chứ? Đợi lát nữa về ta sẽ khám cẩn thận cho đệ” “Chuyện bé xé ra to!” Nói rồi Lý Khác liền rảo bước tiến lên. Dương Chính Đạo nhìn hai ngọn đèn lưu ly vàng vọt treo trước quán trọ đầu ngõ, vội vàng đuổi theo. Trong ngõ Thanh An có hơn trăm hộ gia đình, quá nửa là tiểu thương và thợ thủ công. Lúc này trời đã tối, nhà nhà đều có khói bếp lững lờ bay lên, mang theo những mùi thơm hấp dẫn. Dương Chính Đạo khẽ than một tiếng: “Không biết nhà nào đang nấu cơm kê, chắc là ngon lắm.” “Vậy ngày mai bảo quản gia nhà bếp nấu.” Lúc hai người bước đến cuối ngõ, Lý Khác bỗng cảm thấy mình giẫm phải thứ gì đó, lộm cộm làm y khó chịu. Y liền dịch chân, cúi người nhặt thứ đó lên hỏi: “Cái này dùng để làm gì?” Dương Chính Đạo vội lại gần nhìn: “Gân bò này hình như dùng để làm ná thun. Còn lò xo... đệ đúng là làm khó ta rồi.” Lý Khác cất hai thứ đó vào trong đai ngọc của mình, chỉnh lại vạt dưới áo bào: “Không biết cũng chẳng sao. Đây chắc là nơi Đào tiên sinh xảy ra chuyện theo lời hai viên chấp sự đó. Biểu huynh, huynh có nhìn ra manh mối gì không?” “Không” Dương Chính Đạo trả lời vô cùng nhanh gọn dứt khoát,“Có điều đây là nơi khuất nẻo nhất con ngõ này rồi, không chừng lũ ma quỷ thật sự sẽ thích” Lý Khác biết thừa gã đang nói đùa, nhưng vẫn trả lời rất nghiêm túc: “Cũng có lý.” Đang nói chuyện thì thấy hai chú chim vàng anh từ đằng sau bay tới, đáp trên vai hai người trong chốc lát, rồi lại bay đi, đậu lên trên tường bao. Lý Khác và Dương Chính Đạo bất giác đưa mắt nhìn lên theo chúng. Chim vàng anh có tiếng hót véo von, trông lại vô cùng nhỏ nhắn dễ thương, cho nên người khắp một dải Giang Nam đều rất thích nuôi trong nhà. Trông trên chân hai chú chim này vẫn còn buộc dây xích nhỏ, chắc là từ trong nhà dân nào đó sổ ra. “Đệ mau nhìn xem. Dương Chính Đạo nhanh chóng chuyển ánh mắt từ chú chim vàng anh sang mấy viên ngói xanh bên cạnh,“Lạ thật. Trên tường bao cao thế này, sao lại có mấy vết móc câu sâu như vậy?” “Hơn nữa còn rất mới, chắc cũng mới xuất hiện trong mấy ngày nay thôi. Lý Khác xoa cái cổ hơi nhức mỏi, nói với vẻ trầm ngâm,“Bên kia bức tường là dinh phủ của Trần viên ngoại trí sĩ mấy năm trước. Lẽ nào có gian tặc trèo tường trộm cắp sao?” Dương Chính Đạo ngẩng đầu: “Có lẽ vậy. Lát nữa bảo người qua phủ thứ sử hỏi là biết ngay” Gió nhẹ khẽ lướt qua, mang theo mùi hương cỏ thanh mát, còn mang tới cả mấy tiếng nức nở mơ hồ loáng thoáng. Hai người theo tiếng mà đi, nhìn thấy cạnh một gốc liễu lớn cách đó không xa, có một cậu thiếu niên khoảng mười hai mười ba tuổi đang khóc rưng rức, chốc chốc lại ló đầu ra, nhìn về phía ngôi tiểu viện trước mặt. “Hình như ta đã gặp cháu ở đâu rồi. Cháu là con cái nhà nào? Lạc đường à?” Lý Khác bước đến trước mặt cậu ta, ngồi xổm xuống hỏi. Cậu thiếu niên cúi đầu, dùng móng tay trỏ chậm rãi róc vỏ cây. Giờ Lý Khác mới để ý thấy, dưới mắt cậu ta có một vết sẹo nông, trông vô cùng lạc lõng trên khuôn mặt vốn trắng trẻo thanh tú. Thấy cậu ta không nói, Lý Khác không nhịn nổi, lại hỏi một câu: “Cháu muốn đến nhà này à? Ta gõ cửa giúp cháu nhé, được không?” Cậu thiếu niên nghe thấy câu này, đột nhiên biến sắc, lắc đầu quầy quậy: “Đào tiên sinh, ông ấy... ông ấy không thích cháu.” “Cháu là học trò của Đào tiên sinh à? Cháu tên là gì?” Lý Khác thấy ngón tay róc vỏ cây của cậu hơi run lên, sợ sệt giống như một con thú nhỏ bị thương, bèn đổi sang giọng dịu dàng hơn,“Ta là bạn của ông ấy. Ta cùng cháu đi vào hỏi thăm ông ấy nhé, được không?” “Cháu... cháu tên là Diêu Quang Tổ. Cháu... cháu không đi đâu. Cậu thiếu niên nhìn ánh mắt chờ đợi của Lý Khác, cuối cùng ngập ngừng mở miệng. Nói xong, cậu liền đứng lên, cắm cổ chạy thẳng, không ngoái đầu lại. “Thành Dương Châu này đúng là rất thú vị, ngay cả tâm tư một đứa trẻ cũng khiến người ta không mò ra được.” Dương Chính Đạo nhìn chằm chằm vào bóng lưng đã rời xa của cậu bé, khẽ nhíu đôi mày, vê ngón tay theo thói quen,“Bỏ đi, cứ mặc kệ nó đã. Không còn sớm nữa, chúng ta về thôi! Món bánh anh đào nãy sai người làm chắc cũng xong rồi.” Vào lúc mặt trời lặn ngày sau, Trịnh Đạc vừa bận rộn gần như cả ngày trong phủ thứ sử lại hớt hải chạy đến dịch quán Dương Châu. Sắc mặt của ông ta rất khó coi, hốc mắt trũng sâu, môi hơi bọt bạt, ngay cả bộ dạng đi đường cũng có phần loạng choạng. Trưởng sử Phùng Vạn Tề ở đằng sau phải đỡ Trịnh Đạc mấy lần, nhưng khuôn mặt của ông ta vẫn lộ rõ vẻ sợ hãi không che giấu nổi. Lý Khác nhìn họ một thoáng, liền bảo Quý Ân lấy hai hũ rượu nữ nhi hồng dưới hầm rượu ở hậu viện ra đặt trước mặt họ: “Người đời đều nói uống rượu sẽ thêm can đảm, các ông cũng thử một chút đi! Bản vương không muốn tiếp tục trông thấy bộ dạng rụt rè sợ sệt này của các ông nữa. Có lời gì thì đợi tinh thần ổn định rồi hẵng nói.” Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề quay mặt nhìn nhau, do dự hồi lâu, cuối cùng vẫn nâng hũ rượu lên, uống liền mấy ngụm mới đặt xuống. Trong không khí lập tức ngập tràn mùi rượu nồng nặc, xưa nay Lý Khác không quen ngửi mùi này, không kìm nổi ho mấy tiếng. Quý Ân vội mở hết toàn bộ cửa nẻo trong phòng, đem chỗ rượu họ uống còn thừa ra ngoài. “Điện hạ, lại xảy ra chuyện rồi! Ngài xem cái này trước đi.” Hai má Trịnh Đạc đỏ gay, ông ta hít sâu một hơi, mở cái bọc cầm trong tay nãy giờ ra, lấy một thanh đoản đao và một chuỗi vòng tay bạch ngọc đưa cho Lý Khác. Lý Khác thấy trên vỏ đao có khảm một viên lam bảo thạch xỉn màu, sống đao hơi gỉ sét, nhưng lưỡi đao trông vẫn sắc bén. Còn vòng tay bạch ngọc... Lý Khác nhíu mày, cúi đầu nhìn ba viên ngọc mỡ dê trên cổ tay mình hỏi: “Những thứ này là gì?” Trịnh Đạc nói với giọng bình tĩnh nhất có thể: “Lý trưởng đến báo, ông lái thuyền Lâm Đại Mộc ở ngõ Vĩnh An đêm qua bị giết trước cửa nhà. Thanh đoản đao này, còn cả chuỗi vòng tay, đều là những thứ tìm được ở bên cạnh ông ta.” Lý Khác đặt lại hai thứ này vào trong bọc, ngẩng đầu lên hỏi thẳng: “Cướp của hay là báo thù?” Trịnh Đạc lắc đầu: “Hạ quan đã hỏi người nhà và hàng xóm của ông lái thuyền, mọi người đều bảo, Lâm Đại Mộc là người trung hậu, chưa bao giờ kết oán với người khác. Mà người nhà còn tìm thấy túi vải đựng bạc vụn trên người ông ta, có thể thấy, cũng không phải là cướp của. “Đều không phải à... lẽ nào vẫn là bị ác ma đoạt mạng sao?” “Điện hạ anh minh.” Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề không hẹn mà cùng đứng dậy. Một lát sau, Trịnh Đạc lại nói tiếp: “Lâm Đại Mộc bị đâm trúng ngực, nhưng không chết ngay tại chỗ. Người nhà bảo, ông ấy kêu liền ba tiếng ‘ma áo đỏ, rồi mới tắt thở.” “Ma áo đỏ, ma áo đỏ...” Lý Khác nhắc lại mấy lần,“Nghe nói, đêm hôm kia cũng có người nhìn thấy thiếu niên áo đỏ đó, đúng không?” “Vâng” Phùng Vạn Tề gật đầu lia lịa,“Lúc đó lý trưởng báo chuyện này cho hạ quan, hạ quan còn đích thân dẫn người đi gặp Đào tiên sinh. Cảnh tượng đó... quả thật khiến người ta khó quên! Có điều cũng khó trách, ai bảo Triệu vương chết thảm như thế!” Lý Khác nghiêm nghị nói: “Các ông đã khẳng định thiếu niên áo đỏ đó là hồn phách của Triệu vương sao?” Hai vai Phùng Vạn Tề bất giác run lên, ông ta chỉ vào cái bọc nói: “Bác của hạ quan là một hộ vệ của hành cung Giang Đô, ông ấy nói thanh đoản đao và chuỗi vòng tay này là vật yêu thích của Triệu vương. Điện hạ, ngài nhìn kỹ lại chữ khắc trên chuôi đao mà xem.” “Ta biết” Lý Khác ngước mắt quan sát những biểu cảm nhỏ nhặt trên mặt ông ta, nói giọng ung dung điềm đạm,“Quý Tử, đúng không? Đó là tên tục của Triệu vương. Hồi nhỏ, thỉnh thoảng mẹ có nhắc đến nó với ta. Trừ những người chí thân, chắc rất ít người biết đến cái tên này. Vì vậy, bác của ông không nói láo.” Phùng Vạn Tề buông đôi tay nãy giờ nắm chặt trước ngực, cuối cùng vẻ mặt cũng giãn ra đôi chút, giọng nói cũng lưu loát hơn nhiều: “Điện hạ nói phải. Nơi Triệu vương trú ngụ sau khi chết là miếu Đồng Tử vô cớ bị hủy, xem ra Triệu vương đã coi trăm họ Dương Châu là những kẻ vong ơn bội nghĩa, nên mới ra tay với Đào tiên sinh và Lâm Đại Mộc sống trên nền cũ của hành cung Giang Đô. Bọn họ... cũng thật là xui xẻo!” Đáy mắt của Lý Khác thấp thoáng nét cười không dễ nhận ra: “Tuy khó bề tưởng tượng, nhưng cũng không thể nói là hoàn toàn vô lý. Vậy thì hôm nay các ông đến đây với mục đích gì?” Phùng Vạn Tề nhìn Trịnh Đạc, liền đứng dậy, quỳ gối vái sâu một vái: “Bọn hạ quan nhất định sẽ dốc toàn lực truy bắt nghi phạm phóng hỏa Triệu A Cửu. Nhưng trước đó, xin Ngô vương điện hạ và Tuyên Bình hầu khuyên giải Triệu vương, đừng lạm sát người vô tội nữa..” Bên ngoài có tiếng sấm xuân vang lên, át đi những lời kế tiếp của Phùng Vạn Tề. Lúc này, bầu trời đầy mây đen, dường như đang chuẩn bị cho một trận mưa bão kinh hồn. Đêm qua Lý Khác ngủ không yên giấc, chỉ cảm thấy cay mắt khó chịu. Y dụi mắt, hững hờ nói: “Người ma khác lối, biết gặp thế nào? Hơn nữa, sao các ông biết Triệu vương sẽ nghe lời bọn ta?” Trịnh Đạc cũng đứng lên, ánh mắt sáng lên như thể nhìn thấy báu vật quý hiếm: “Điện hạ và quân hầu đều là người thân cận nhất của Triệu vương, chỉ cần hai ngài ra mặt, Triệu vương ắt sẽ chủ động tìm đến. Chỉ cần hai ngài nói rõ đại nghĩa, lại lấy tình thân cảm hóa, Triệu vương bản tính lương thiện khoan hòa, tất nhiên sẽ nghe theo. “Thật sao?” Rất nhiều “chuyện ma” xảy ra trong vài ngày ngắn ngủi đang quay cuồng trong đầu Lý Khác, dường như y loáng thoáng cảm nhận được gì đó, nhưng nhất thời lại không chạm được vào chân tướng ẩn sâu sau lớp lớp sương mù. Thế là y đành cáu kỉnh xua tay bảo bọn họ lui xuống. Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề đưa mắt nhìn nhau, vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng cuối cùng cũng chỉ đồng thanh “vâng” một tiếng. * * * Mưa ở Giang Nam hết sức dịu dàng, bao giờ cũng rơi thăm dò trước mấy hạt, rồi từ từ phớt qua má, luồn vào cổ người ta, mang đến chút mát mẻ thấm vào tim cho tiết trời ngột ngạt. Lúc Dương Chính Đạo bước vào, từ tóc đến vạt áo trước đã dính đầy nước mưa. Nhưng mà, một công tử hào hoa phong nhã như gã, dù có nhếch nhác hơn nữa, cũng mang một phong thái khiến người khác không rời mắt nổi. Lý Khác không khỏi trách móc: “Sao lúc nào ra ngoài huynh cũng không thích mang ô thế? Mới sáng sớm mà huynh đã đi đâu vậy?” “Không thích thì không thích thôi, đâu ra lắm lý do như vậy?” Dương Chính Đạo nhận lấy chiếc khăn y đưa cho, lau nước mưa trên trán, phản bác: “Ở thư viện Kiến Hiền ta đã nghe ngóng được một số chuyện, quả đúng như đệ và ta dự đoán. Ngoài ra, ta còn đến hậu viện của miếu Đồng Tử xem thử, phát hiện ra mấy việc thú vị. Cơ mà, điều thú vị hơn là, bọn họ lại không hề nói mấy việc đó cho chúng ta.” Lý Khác rót một chén trà nóng đưa cho Dương Chính Đạo, hoài nghi nói: “Thú vị đến thế sao?” “Đúng vậy. Vì ta nhìn thấy đất dưới gốc cây dương liễu ở hậu viện không được chặt, rõ ràng mới được người ta đào lên không lâu” Dương Chính Đạo chậm rãi xoa bông sen trắng trên thân chén,“Vốn dĩ cũng chẳng thú vị lắm. Nhưng lúc về ta lại nghe thấy lời đồn về Lâm Đại Mộc đang được lan truyền nhanh chóng trong phường. Thế là... đệ nghĩ kỹ xem, rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra?” Lý Khác từ từ siết tay thành nắm đấm: “Rất đơn giản, kẻ đó đào được đoản đao và chủy thủ mà hồi còn sống Triệu vương sử dụng ở hậu viện của miếu Đồng Tử, giết ông lái thuyền Lâm Đại Mộc, khiến tất cả mọi người đều cho rằng linh hồn Triệu vương tới báo thù. Giả như tìm được kẻ đó thì chuyện này có thể sẽ xong ngay. Đúng rồi, huynh chắc chắn bọn họ cố ý giấu manh mối quan trọng này không để cho chúng ta biết, chứ không phải là bọn họ mắt kèm nhèm không phát hiện ra chứ?” “Không chắc. Nhưng mà, ta thà tin bọn họ cố ý giấu giếm, còn hơn là tin bọn họ nhìn mà không thấy những manh mối rõ ràng như thế. Vì vậy, ta vẫn phải đi một chuyến. “Ta đi với huynh.” Lý Khác đứng dậy, tiến lên hai bước, lại ngoảnh đầu nói với Đỗ Húc nãy giờ đứng hầu ở một bên,“Ngươi đi báo với Trịnh thứ sử một tiếng, tối nay ta và công tử nhà ngươi sẽ đi bắt ma ở ngõ Vĩnh An và ngõ Bồng Lai, bảo ông ta phái người nấp ở chỗ tối bảo vệ bọn ta. Đỗ Húc ngớ người, tỏ vẻ “hai ngài cần gì người khác bảo vệ” đầy kinh ngạc. Dương Chính Đạo đằng hắng một tiếng nhắc nhở: “Bảo ông ta gọi nhiều người một chút, tốt nhất là gọi cả nha phủ đến. Ta thì cũng thôi, nhưng nếu Ngô vương xảy ra chuyện gì, có tin là bệ hạ sẽ đày cả nhà ông ta đến Lĩnh Nam cuốc đất không?” “Vâng vâng vâng, tiểu nhân đi ngay đây.” Đỗ Húc nói xong, liền chạy vụt đi mất hút. Lý Khác nhìn bụi bặm bốc lên, lắc đầu dở khóc dở cười: “Bệ hạ đâu phải là người không màng đến lý lẽ như vậy?” “Không tin đệ cứ thử mà xem.” Dương Chính Đạo trả lại chiếc khăn tay vừa nãy cho Lý Khác, nhìn bộ trang phục thân vương vô cùng oai nghiêm của y,“Mau thay bộ quần áo phô trương này đi. Mưa khó khăn lắm mới ngớt đấy” Ngựa hai người cưỡi là do dịch quán Dương Châu nuôi dưỡng, tuy sức bền và sức lao không so được với Lưu Phong và Xích Phong, nhưng may mà vẫn hiểu tính người, bảo bọn chúng không được kêu, trên đường liền im phăng phắc, ngay cả tiếng vó ngựa giẫm lên phiến đá xanh cũng trầm trầm nặng nề. Đi chậm rãi hơn nửa canh giờ, mới thấy một ngôi nhà mới xây chưa lâu nằm ở ngõ Thanh An. Dương Chính Đạo nhẹ nhàng xuống ngựa, buộc ngựa vào một cây du cổ thụ ở đầu ngõ: “Ta đi gõ cửa. Mở cửa là một người đàn bà tuổi trạc tứ tuần, quấn búi tóc lỏng lẻo. Bà ta ném ánh mắt không mấy thân thiện về phía họ: “Nếu muốn thuê trọ thì đi thẳng về phía Bắc có một quán trọ cũ kỹ tên là Huệ Lai, nhà chúng tôi không cho người ngoài ngủ lại.” Dương Chính Đạo thấy bà ta định đóng cửa tiễn khách, vội đưa tay chặn cửa, lấy một tấm lệnh bài giắt ở thắt lưng ra: “Bọn ta là người của phủ thứ sử, phụng mệnh đến thăm hỏi Đào tiên sinh” Người đàn bà bán tín bán nghi cầm lấy tấm lệnh bài nhìn lướt qua, lập tức biến sắc, vén áo vái chào, cười giả lả: “Dân phụ Đào Lâm thị bái kiến hai vị công tử. Mời hai vị” Nhà họ Đào không quá rộng, vào cổng là thấy một cái giếng đá nằm trơ trọi trong sân. Trái phải là hai gian phòng nhỏ đối xứng, trên hành lang ở giữa có không ít dấu chân đen lẫn bùn đất. Đào Lâm thị đi trước, chốc chốc lại ngoảnh đầu, hơi lộ vẻ bối rối: “Hai vị cẩn thận, đừng để bẩn giày. Tôi vừa nhổ cỏ trong vườn rau ở hậu viện về, còn chưa kịp quét dọn. “Đa tạ phu nhân nhắc nhở.” Dương Chính Đạo hơi kéo ống quần lên,“Sức khỏe của Đào tiên sinh hôm nay thế nào rồi?” Đào Lâm thị nói: “Đã khá hơn nhiều rồi. Công tử đi gặp ông ấy sẽ biết.” Lúc này Đào Phủ Sâm đang đứng trong thư phòng của nhà trong. Sắc mặt ông ta vàng bủng, lúc nói chuyện hai tay liên tục run lên khe khẽ, tuy ông ta đã gắng hết sức để đè nén tâm trạng hoảng loạn, nhưng những vui mừng và sợ hãi sau khi tai qua nạn khỏi vẫn tuôn ra từ trong mắt, không sao kìm được. Lý Khác ngồi trước án thư, giở đại một tập thơ thời Hán Ngụy Lục Triều ra xem. “Trong núi có gì nhỉ, đỉnh non mây trắng trời. Chỉ riêng mình thích thú, không thể gửi cho người.” Lý Khác cất giọng sang sảng đọc bốn câu thơ này lên, rồi lập tức gấp tập thơ lại, mỉm cười nói,“Đào Hoằng Cảnh tuy ở ẩn trong núi, nhưng chưa hoàn toàn quên tình đời, Lương Vũ Đế gặp việc khó cũng thường đích thân đến bái phỏng, cho nên người đời sau mới gọi ông ta là ‘tể tướng trong núi. Có điều, luận về tài thơ, trong thời loạn Nam Bắc triều nhân tài đầy rẫy, ông ta thực sự không xuất chúng. Nhưng ông lại xếp bài thơ này của ông ta ở vị trí đầu tiên, xem ra, chắc hẳn ông là hậu duệ của ông ta nhỉ?” Ánh mắt của Đào Phủ Sâm dán chặt xuống đất, nghe thấy mấy câu này, ông ta mới hơi ngẩng đầu lên: “Công tử nói không sai. Học trò xưa nay khâm phục nhân phẩm tính cách của tiền nhân, nên dù từng có cơ hội làm quan, học trò cũng muốn sống ở căn nhà chật hẹp này, lấy việc dạy học làm nghề hơn, chỉ mong sau này có thể bồi dưỡng được một người có tài quan tướng cho đất nước.” “Chí hướng của tiên sinh cũng khá cao đấy.” Lý Khác đứng dậy, đặt lại quyển sách lên trên giá, bước chậm rãi đến trước mặt Đào Phủ Sâm,“Chỉ là, tiên sinh có biết, làm một người thầy dạy học chuẩn mực, điều gì còn quan trọng hơn cả bồi dưỡng nhân tài quan tướng không?” Đào Phủ Sâm sửng sốt, không cầm lòng được nhìn Lý Khác, buột miệng nói: “Là gì?” “Là đối xử bình đẳng!” Lý Khác điềm nhiên cười nhạt, “Thiên tư của mỗi người khác nhau, khả năng tiếp nhận cái mới tất nhiên cũng khác nhau. Nếu chỉ yêu riêng những người có thiên phú và năng lực, mà đối với các học trò có tư chất tầm thường, tính lại nhạy cảm hay nghĩ ngợi, nhẹ thì chế giễu, nặng thì đánh mắng, thì dù sau này thật sự có học trò được phong hầu bái tướng, cũng khó mà xưng là thầy giáo tốt.” Ánh mắt của Đào Phủ Sâm đột nhiên nhấp nháy, người hơi run rẩy, nói lắp bắp: “Công tử... công tử nói phải. Học trò lĩnh giáo rồi.” “Lĩnh giáo cũng vô dụng, phải biết sai mới được.” Lý Khác quay đầu nói,“Biểu huynh, hôm nay đến thư viện Kiến Hiền, chắc thu hoạch được khá nhiều đấy nhỉ?” Dương Chính Đạo nghe y vòng vo lâu như vậy mới nói đến việc chính, thực sự thấy hơi bực mình, bất giác nói nhanh hơn hẳn: “Đào tiên sinh còn nhớ Diêu Quang Tổ không? Đứa trẻ này phản ứng hơi chậm chạp hơn người khác, nhưng nó xưa nay hiếu học, tính lại hết sức ôn hòa khiêm tốn. Nhưng trước mặt mọi người ông lại luôn chế nhạo nó không hợp với việc học hành, dù có học ba đời nữa cũng chẳng đỗ nổi tú tài. Mấy tháng trước, ông mất một đĩnh bạc, trong số rất nhiều học trò, ông lại nghi ngờ Diêu Quang Tổ mà chẳng hề do dự, không chỉ cầm thước đánh vào mặt nó, còn đuổi nó ra khỏi thư viện. Ta có nói sai chữ nào không?” Đào Lâm thị đứng bên cạnh đã lâu, nghe thấy lời này, buột miệng nói xen vào: “Thật là quá đáng. Đào Phủ Sâm thấy lòng như thắt lại: “Sau này học trò cũng biết mình đổ oan cho Diêu Quang Tổ. Nhưng mà... nhưng mà...” “Nhưng mà ông không hạ nổi cái tôi xuống để đi tìm Diêu Quang Tổ về học tiếp!” Dương Chính Đạo không giấu được vẻ chế giễu: “Ông nội của Diêu Quang Tổ vì việc này mà uất ức sinh bệnh, chỉ một tháng sau đã qua đời. Trên người ông đang treo gián tiếp một mạng người đấy!” Đào Phủ Sâm sợ đến nỗi hai chân mềm nhũn, vội dựa vào góc tường để bình tĩnh lại. Ngoài phòng côn trùng kêu râm ran không ngớt, ồn ào khiến người ta hơi váng đầu. Đào Lâm thị day huyệt thái dương, quỳ gối xuống đất nói: “Hai vị công tử đã nhận mệnh của thứ sử đến đây thì ắt là người được thứ sử tín nhiệm. Xin hai vị cầu xin giúp lang chủ, lang chủ thật sự không có bụng hại người, chỉ có điều, có điều..” “Nếu có bụng hại người, làm sao ông còn thể sống yên trong nhà cơ chứ?” Dương Chính Đạo thấy bọn họ thực sự đã bị dọa sợ thì lấy làm vui lắm, vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng khi ngoảnh đầu thì lại đụng phải ánh mắt “một vừa hai phải thôi” của Lý Khác. Gã đành giũ tay áo, không cam tâm nói: “Đào Phủ Sâm, ngày mai ông đích thân đến nhà họ Diêu nhận tội với Diêu Quang Tổ, mời nó quay trở lại học, việc này chắc vẫn có chỗ để thương lượng” Đào Phủ Sâm đặt hai tay lên chiếc lư hương tì hưu ở trước mặt, khóe miệng xệ xuống, nói với vẻ khó xử: “Dẫu sao học trò vẫn là thầy của Diêu Quang Tổ, đích thân tới cửa nhận tội, việc này... việc này..” “Không thể sao?” Lý Khác nhìn ông ta bằng ánh mắt sắc lạnh, lập tức cảm thấy vừa nãy không nên mềm lòng, mà phải để Dương Chính Đạo dọa cho ông ta sợ chết khiếp. Đào Phủ Sâm xưa nay tự khoe mình là hậu duệ của danh môn, tâm cao khí ngạo vô cùng, nhưng hôm nay lại bị hai người trước mặt dồn ép để lộ vẻ khiếp sợ, nhất thời thực sự muốn đào một cái lỗ mà chui xuống. Đào Lâm thị thấy bầu không khí như đông cứng lại, vội vàng kéo Đào Phủ Sâm cùng quỳ xuống đất, nói luôn miệng: “Có thể, có thể. tất nhiên là có thể rồi.” “Có thể thì tốt.” Lý Khác cười thỏa mãn,“Còn việc nhận tội như nào, chắc không cần ta dạy ông đâu nhỉ?” “Công tử yên tâm, học trò biết phải làm như nào.” Đào Phủ Sâm hít sâu một hơi, bám vào tay Đào Lâm thị từ từ đứng dậy, ông ta dường như suy nghĩ rất lâu, cuối cùng mới lên tiếng hỏi, “Thế... thế còn kẻ tấn công học trò vào đêm hôm đó, không, là ma... con ma đó đúng là linh hồn của Triệu vương sao?” “Ông không biết ư?” Lý Khác bỗng nhiên thấy lòng trĩu xuống,“Chẳng phải trong lúc hôn mê ông nhắc đi nhắc lại câu “Triệu vương trở lại nhân gian báo thù sao?” “Có lẽ là học trò tự mình nói, nhưng lại quên mất.” Đào Phủ Sâm bỗng nhiên vỡ lẽ,“Triệu vương muốn giết học trò là... là vì Diêu Quang Tổ sao?” Lý Khác ngẩn ra một lát, rồi lập tức nói: “Tất nhiên. Triệu vương lương thiện, không thể chịu được khi thấy người khác bị oan ức.” Chương 26 Hạng Trang múa kiếm Lúc họ ra khỏi nhà họ Đào thì đã là nửa đêm. Trăng tròn treo cao, gió khuya hây hẩy. Từ khi đến Dương Châu, hình như đây là lần đầu tiên Lý Khác thấy ánh trăng dịu dàng tươi đẹp như vậy, nhưng khi đắm chìm trong nó, lại cảm thấy một sự chua xót ập đến nhanh chóng. Trăng Trường An, có phải cũng đẹp đẽ sáng ngời như vậy không? Người Trường An, có phải cũng ngước mắt nhìn trời, cười tươi như hoa thế này không? Dương Chính Đạo từ từ thả lỏng dây cương trong tay, cúi người xuống, vòng hai tay quanh cổ ngựa. Lý Khác vỗ nhẹ lên cổ ngựa, lại gần gã hơn một chút hỏi: “Sao thế?” “Không chỉ có một mình đệ nhớ Trường An. Dương Chính Đạo không nhìn y, chỉ nói bằng giọng nhẹ nhàng từ tốn,“Ta và Tuyết Lộ thành thân đã nhiều năm, đây là lần đầu tiên ta không cùng nàng đón sinh nhật. Ta không biết còn có thể ở bên nàng bao lâu nữa, nhưng chỉ cần còn lại một giờ một khắc, ta đều sẽ trân trọng” “Huynh đang nói linh tinh gì thế? Sao huynh và Tuyết Lộ lại không thể lâu dài mãi mãi chứ?” Lý Khác giơ tay giật mạnh dây cương của gã lại, ép gã nhìn về phía mình. Con ngựa sợ hãi hí vang chồm vó trước lên, Dương Chính Đạo đành buông hai tay, ưỡn thẳng người, dùng sức dận chắc vào bàn đạp, mới không đến nỗi ngã từ trên lưng ngựa xuống. Giờ Lý Khác mới giật mình cảm thấy vừa rồi đã quá nóng nảy, mang tai ửng đỏ vì căng thẳng. Sao y lại quên rằng, đây không phải là ngựa mà bọn họ chăm sóc từ nhỏ cơ chứ? Dương Chính Đạo vuốt ve bờm ngựa để vỗ về, dường như hoàn toàn không để tâm đến tình cảnh nguy hiểm vừa rồi: “Biết rõ là ta nói linh tinh, đệ còn kích động như thế làm gì? Lâu dài mãi mãi của ta và Tuyết Lộ gắn liền với đệ. Đệ từng nói là sẽ bảo vệ chu toàn tất cả chúng ta mà.” “Chẳng ra sao cả!” Lý Khác bực mình thốt ra bốn chữ này, rồi vung roi ngựa, chạy như bay về phía trước. Hai người vừa đến cuối ngõ Thanh An thì thấy một bóng người đi loạng choạng về phía họ, chưa được mấy bước, đã ngã dúi dụi xuống đất, miệng chỉ lặp đi lặp lại ba chữ: “Cứu tôi với, cứu tôi với...” Lý Khác thấy vậy, vội vàng nhảy xuống ngựa. Lúc này y mới nhìn rõ dưới thân người đó có một vũng máu đỏ, ánh trăng chiếu rọi lộ ra đôi môi trắng bệch. “Ông là Nghiêm Giáp?” Lý Khác đỡ vai ông ta, gấp gáp hỏi, “Là kẻ nào làm?” Nghiêm Giáp cố hết sức hé mắt ra, mở miệng nhả chữ nhỏ như muỗi kêu: “Áo đỏ... ma áo đỏ. Là Triệu vương... Triệu vương giết tôi...” Sau khi nói xong chữ cuối cùng, Nghiêm Giáp yếu ớt nhắm mắt lại. Lại là Triệu vương. Lý Khác nghiến răng, siết chặt bàn tay thành nắm đấm, đặt Nghiêm Giáp nằm thẳng trên mặt đất. Y cưỡi ngựa quay lại, thấy Dương Chính Đạo đang chậm chạp đi tới, liền vội vàng kéo tay áo gã: “Mau... mau cứu người.” Lúc này Nghiêm Giáp đang nằm bất động, vết thương trên ngực vẫn đang ứa máu. Dương Chính Đạo bắt mạch ở tay và cổ ông ta, khẽ thở phào: “Vẫn cứu được.” “Như này mà vẫn cứu được? Cứu thế nào?” “May mà ta luôn mang theo bên mình.” Dương Chính Đạo lấy ra một nắm châm nhỏ từ trong túi gấm treo trên lưng ngựa, “Cởi áo ông ta giúp ta, sau đó đi ra đằng sau ta, đừng chắn mất ánh trăng” Lý Khác vừa đáp lời vừa cẩn thận cởi hết áo trong áo ngoài của Nghiêm Giáp ra, Dương Chính Đạo nhanh chóng châm liền ba mũi vào ngực và cổ ông ta. Nghiêm Giáp chợt cựa quậy, ho khẽ mấy tiếng. Lý Khác mừng rỡ nói: “Biểu huynh, may mà có huynh. Giờ phải làm thế nào?” “Tạm thời không thể tùy tiện di chuyển. Ta sẽ ở lại trông, đệ mau về dịch quán gọi xe ngựa, gọi thêm cả mấy đại phu tới đây. Ta chỉ có thể ổn định thương thế của ông ta, chứ không chữa trị được.” “Được. Huynh đợi nhé, ta đi ngay đây” Nhát dao đó đâm rất sâu, nhưng không trúng chỗ hiểm. Đến trưa ngày hôm sau, Nghiêm Giáp khôi phục thần trí, kể lại sơ lược những gì đã xảy ra. Đêm qua ông ta đến ngõ Thanh An theo lời mời của một người bạn cũ, nhưng đợi mãi đến giờ Tuất vẫn không thấy bóng dáng người bạn đó đâu, thế là ông định về nhà. Nhưng đúng lúc quay người, ông ta bỗng dưng bị một thiếu niên mặc áo đỏ vô duyên vô cớ đâm con dao trong tay vào ngực. Trước khi ông ngã xuống đất, thiếu niên đó đã lắc người biến mất cực nhanh. “Xem ra, một ngày chưa bắt được Triệu A Cửu, Triệu vương sẽ không thu tay” Trịnh Đạc vỗ ngực, trong lòng vẫn còn sợ hãi, “Tối qua, hạ quan và Phùng trưởng sử đích thân dẫn người mai phục ở ngõ Vĩnh An và ngõ Bồng Lai. Không ngờ, Triệu vương lại tới ngõ Thanh An. May mà Nghiêm Giáp mạng lớn, gặp được điện hạ và Tuyên Bình hầu.” “Đúng vậy! Quả là mạng lớn.” Lý Khác nói,“Tối qua trước khi đi chúng ta đã đổi ý, tới ngõ Thanh An tìm người bị hại đầu tiên là Đào tiên sinh để hỏi mấy câu. Chúng ta dùng thân phận phủ thứ sử của ông, ông không để bụng chứ?” Khóe miệng Trịnh Đạc hơi giần giật, gắng gượng nặn ra một nụ cười: “Tất nhiên là không ạ. Điện hạ có hỏi được gì không?” “Những gì Đào tiên sinh gặp phải không khác với lời đồn là bao.” “Vậy thì tốt.” Trịnh Đạc buột miệng nói, nhưng ngay lập tức cảm thấy nói như vậy quá đa nghĩa, vội vàng bổ sung một câu, “Ý của hạ quan là, không phải nhân họa là tốt rồi” “Tất nhiên không phải.” Lý Khác bước đến trước cửa sổ, chắp tay say sưa ngắm mấy cánh bướm sặc sỡ bay trên cây anh đào trong sân mất một lúc, quay lại nhìn thì thấy Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề vẫn cung kính đứng đó, liền nói với họ,“Các ông đi đi. Không cần lo chuyện của Triệu vương nữa, trong lòng ta đã hiểu rõ. Nghiêm Giáp sẽ ở lại dịch quán dưỡng thương” Trịnh Đạc vâng vâng dạ dạ, vẻ mặt nhẹ nhõm vì vứt được củ khoai nóng trong tay. Mấy người đó vừa đi chưa lâu, Vân Lĩnh và Quý Thành một trước một sau bước vào. Vân Lĩnh đang định nói thì Lý Khác lại lắc đầu, dặn dò mấy thị nữ tôi tớ trong phòng: “Chăm sóc Nghiêm chấp sự cho tốt, không được lơ là. Hai ngươi đi theo ta.” Lúc ra ngoài cửa, Lý Khác cảnh giác nhìn xung quanh, sau khi xác định không có người ngoài, mới mở miệng bảo: “Nói đi.” Vân Lĩnh thắc mắc: “Điện hạ, ngài nghi ngờ trong dịch quán có gì đó kỳ quái sao?” “Không phải nghi ngờ, mà là chắc chắn. Cho nên, sau này các ngươi hành sự cũng phải cẩn thận một chút. Vân Lĩnh cầm kiếm lên, làm động tác rút kiếm, đanh mặt lại nói: “Ai dám láo với điện hạ, ti chức sẽ tự tay chặt đầu hắn làm bóng để đá!” Quý Thành ớn lạnh, ngạc nhiên nói: “Trước đây hộ vệ trưởng đâu có nóng tính như thế này!” “Còn không phải bị thần ma quỷ quái ở cái thành Dương Châu này làm cho phát cáu sao! Người thì cũng thôi, cùng lắm là liều một trận với hắn, nhưng đánh nhau với ma thì ta thật sự không có kinh nghiệm... Vân Lĩnh bất giác dâng trào nhiệt huyết. Nhưng nói được một nửa, lại sực tỉnh ngậm mồm, đứng dậy cúi người vái: “Ti chức vô lễ, xin điện hạ thứ tội!” “Bỏ đi. Nói thẳng vào vấn đề nhé! Hôm nay thu hoạch được gì?” “Vâng” Vân Lĩnh khép bớt cái miệng toang toác lại, nói nhỏ, “Ti chức cùng Quý Thành đến thôn Mi Vu, nhưng người trong thôn bảo là mấy hôm nay không thấy bóng dáng Kim Hồng. Còn về Triệu A Cửu... vì lần trước quan phủ từng đến khám xét, nên bọn họ biết chỗ ở của Triệu A Cửu, nhưng không ai quen hắn. Có điều, lúc lục soát nhà của hắn, bọn Ti chức phát hiện đồ đạc hắn dùng không giống mọi người. Chắc hắn là... người tàn tật.” Quý Thành bước lên một bước, rỉ tai Lý Khác mấy câu bằng giọng gần như không thể nghe thấy. Đang nói thì thấy một bóng đen vụt qua đỉnh đầu bọn họ, Quý Thành hoảng sợ lập tức ngậm miệng, vô thức rút thanh bội đao ở thắt lưng ra. Đến khi nghe thấy trên hòn non bộ vẳng lại mấy tiếng cò trắng kêu, hắn mới thở phào nhẹ nhõm. Lý Khác thấy vậy, không khỏi mỉm cười: “Ta kêu các ngươi cẩn thận, chứ có bảo các ngươi thần hồn nát thần tính như vậy đâu. Hãy nhớ, ta là truất trắc sứ mà bệ hạ đích thân chọn, có thể tùy nghi hành sự, cho dù bãi chức thứ sử Dương Châu, cũng không cần dâng tấu lên triều đình. Các ngươi sợ cái gì?” “Vâng! Điện hạ nói phải!” Vân Lĩnh ưỡn thắng người nói, “Vậy tiếp theo đây, bọn ti chức phải làm gì ạ?” “Tiếp theo à..” Lý Khác nhặt một cành liễu rơi trong bụi cỏ, cầm trong tay nghịch một hồi, rồi bẻ mạnh thành hai đoạn, “Các ngươi lập tức tới nhà họ Diêu có hai cây liễu mọc chĩa ra ngoài tường ở đầu ngõ Thanh An, tìm một thiếu niên tên là Diêu Quang Tổ đến gặp ta. Góc tường tận cùng phía Nam của hậu viện dịch quán có một cái hốc nhỏ bị bụi cây che khuất, các ngươi đưa nó đến đấy. Nhớ kỹ, không được để bất cứ ai phát hiện ra!” “Điện hạ yên tâm, Ti chức nhất định sẽ làm tốt.” Vân Lĩnh trả lời vô cùng sảng khoái,“Còn gì nữa không ạ?” Lý Khác suy nghĩ rồi nói: “Bảo nhà bếp làm thêm mấy món ngọt, nhưng cũng không được ngọt quá.” Sau khi Vân Lĩnh và Quý Thành rời đi, Lý Khác một mình bước trên con đường đá quanh co dẫn đến thư trai. Cuối con đường đá có một lối nhỏ làm từ tre xanh dẫn đến đình đá giữa hồ. Đình đá quanh năm mát mẻ, vào mùa hè vẫn càng cảm nhận được sự tuyệt vời của nó. Năm xưa, thợ xây ngôi đình này đã khẩn khoản xin thứ sử Dương Châu bấy giờ là Hoàng Phủ Dược đề tên, để bớt phiền, Hoàng Phủ Dược đặt luôn cho nó cái tên “Thanh Đình”[*] Lý Khác ngồi trên chiếc đồn đá trong Thanh Đình, dựa người vào cột, hai tay ôm gối, ngẩn ngơ ngắm những con cá nhỏ đang quẫy đuôi bơi trong hồ nước trong veo. Tại sao Kim Hồng, người duy nhất trong thôn Mi Vu biết Triệu A Cửu, lại đột nhiên biến mất? Rốt cuộc Kim Hồng có báo với quan phủ việc Triệu A Cửu bị tàn tật không? Nếu quan phủ biết, tại sao không viết một đặc điểm rõ ràng như vậy lên cáo thị truy nã? Nếu quan phủ không biết, thì rất có thể Kim Hồng chính là kẻ đồng mưu với Triệu A Cửu. Một thủ từ Tưởng Thổ Căn quen lủi thủi một mình, quanh năm sống ở miếu Đồng Tử; một ông lái thuyền Lâm Đại Mộc hiền lành chân chất, không oán không thù với người khác; một chấp sự Nghiêm Giáp tính tình hào sảng, nhiều năm làm việc ở dịch quán Dương Châu. Bọn họ có thân phận khác nhau, tuổi tác khác nhau, gia cảnh khác nhau, lại không quen biết nhau, tại sao lại bị hại theo cùng một cách? Điều quan trọng nhất là, tại sao hung thủ phải giả danh Triệu vương để giết người? Triệu vương, Dương Cảo, nhà họ Dương... Những ý nghĩ hoang đường trong đầu Lý Khác đan xen vào nhau nhanh như chớp. Cuối cùng, chúng bện thành một tấm lưới lớn khít không lọt gió, thít chặt não y đến đau buốt. * * * Lý Khác cứ thế lặng lẽ ngồi ngây ra trong Thanh Đình suốt một canh giờ, mãi đến khi Vân Lĩnh chạy tới báo, đã đưa Diêu Quang Tổ đến nhà ngang của hậu viện, y mới đứng dậy, phủi mấy chiếc lá rơi trên người mình: “Nói với Dương công tử chưa? Gọi huynh ấy cùng qua đó đi!” Vân Lĩnh hơi bối rối nói: “Vừa nãy ti chức tình cờ gặp Đỗ Húc. Hắn bảo là, từ sáng nay Dương công tử đã thấy không được khỏe cho lắm, giờ vẫn nghỉ trong phòng. Vậy có phải...” “Sao không nói sớm? Ta phải đi xem huynh ấy thế nào. Lý Khác rảo chân được mấy bước rồi nhanh chóng dừng lại,“Thôi, trước mắt chuyện của Diêu Quang Tổ vẫn quan trọng hơn. Ngươi đừng theo ta, đi thăm huynh ấy hộ ta, hỏi Đỗ Húc xem có cần mời đại phu đến khám không? Những năm qua huynh ấy luôn cậy sức khỏe tốt, lại biết chút y thuật, chẳng bao giờ để tâm đến lời nói của ta. “Vâng, Ti chức đi ngay đây.” Vân Lĩnh cười nói,“Cơ mà, Dương công tử nổi tiếng là không thích khám đại phu. Trên đời này người khuyên được Dương công tử, ngoài An Lăng huyện chúa thì cũng chỉ có ngài mà thôi.” Cái con người này thật là phiền phức. Lý Khác mắng thầm trong bụng một câu, rồi chạy về phía nhà ngang. Trong nhà ngang lúc này, ngoài Diêu Quang Tổ, còn có hai anh em Quý Ân, Quý Thành. Diêu Quang Tổ gục đầu rất thấp, ánh mắt hơi xao động bất định, hai chân run cầm cập vì căng thẳng. “Hai ngươi ra ngoài trông, không cho bất kỳ ai lại gần.” Lý Khác đẩy cửa bước vào, ngồi xuống ghế đầu tiên bên trái,“Diêu Quang Tổ, chúng ta từng gặp nhau rồi, cháu đừng sợ” Diêu Quang Tổ nghe thấy giọng y hết sức ôn hòa thân thiện, liền đánh bạo tiến lên vài bước, nhưng trước sau vẫn không dám ngồi xuống. Rất lâu sau, cậu mới chạm tay vào hình hoa mẫu đơn trên đệm gấm, hơi ngẩng đầu lên nói: “Ngài chính là Ngô vương điện hạ?” Lý Khác cúi người, kéo tay cậu, để cậu ngồi xuống bên cạnh mình: “Phải. Cháu biết ta là người như thế nào sao?” “Biết ạ. Năm ngoái lúc dạy học, thầy từng nhắc đến ngài, nói rằng ngài văn võ song toàn, lại có tấm lòng nhân ái, là một hiền vương chân chính ạ!” “Nói quá lên thôi. Lý Khác đưa quả cam ở cạnh tay cho cậu, tiếp tục nói với giọng nhẹ nhàng,“Chắc Đào tiên sinh đã đến nhà nhận sai xin lỗi cháu, hơn nữa còn mời cháu tiếp tục tới thư viện Kiến Hiền học rồi chứ hả?” Diêu Quang Tổ kinh ngạc ra mặt, ánh mắt sáng lên: “Sao điện hạ biết?” Lý Khác quan sát kỹ thiếu niên này, thấy tóc cậu hơi khô vàng, một nửa buộc bằng dây vải gai, một nửa buông ngang vai, đôi mắt đan phượng tuy không quá sáng, nhưng đầy thanh tú, chỉ là chiếc áo bào màu xanh xám cậu mặc trên người rõ ràng quá rộng. Nhìn cậu một lúc, Lý Khác mới lấy từ trong tay áo ra một sợi gân bò và một chiếc lò xo lần trước nhặt về từ ngõ Thanh An, đặt lên chiếc bàn con bên cạnh, nghiêm nghị nói: “Tất nhiên là biết! Ta còn biết, cháu chính là con ma áo đỏ đã dọa Đào tiên sinh ngất xỉu vào đêm hôm đó, đúng không?” Diêu Quang Tổ vốn đã ngồi không vững, vừa nghe thấy lời này, tức thì hai chân mềm nhũn, ngã quỵ xuống đất. Cậu sợ hãi rơi nước mắt, nhưng lại không dám giơ tay lau, đành thút tha thút thít nói: “Điện hạ... cháu... học trò không” “Vừa nãy ta chỉ nắm chắc tám phần, còn bây giờ đã chắc đến mười phần rồi. Mấy hôm trước, ta từng đi chợ mua vài món đồ cho trẻ con, còn nói chuyện với cháu. Lúc đó, ta thấy cháu đang nghịch một con dao bấm, nom rất thú vị, bèn mua một con. Cháu còn nhớ chứ?” Môi Diêu Quang Tổ hơi run lên: “Vâng. Thêm cả lần đó thì học trò đã gặp điện hạ ba lần.” “Nhớ thì tốt.” Lý Khác thấy trên trán cậu đã rịn ra rất nhiều mồ hôi, biết cậu đang sợ hãi cực điểm, bèn nói,“Loại dao bấm này không có lưỡi, vì vậy không hại người được. Mặt khác, bên trong nó có chứa một sợi gân bò và mấy chiếc lò xo, khi dao chạm phải vật gì đó, nó sẽ co lại, một lúc sau sẽ bật ra. Cháu dùng một thứ không thể làm hại người đi tấn công Đào Phủ Sâm, rõ ràng không phải là muốn tính mạng ông ta, mà chỉ muốn hù dọa...” Diêu Quang Tổ quỳ thẳng người dưới đất, nghe đến đây, bất giác há miệng, định nói gì đó. Nhưng Lý Khác lại không cho cậu cơ hội mà vẫn tiếp tục nói: “Lý do tất nhiên là tại Đào Phủ Sâm từng đánh mắng sỉ nhục cháu, còn đuổi cháu khỏi thư viện do cháu ‘ăn trộm’ tiền của ông ta. Vì bản thân, cũng vì người ông buồn bã phẫn nộ mà chết của mình, cháu đã nghĩ ra cách đó. Nhưng mà, lương tâm của cháu chưa mất, khi biết tin Đào Phủ Sâm suýt nữa bỏ mạng vì mình, cháu đã cực kỳ lo lắng, rất muốn đi thăm ông ta. Đó chính là nguyên nhân tại sao ta lại gặp cháu ở trong ngõ Thanh An hôm đó!” Đã nói rõ ràng như vậy rồi, nhưng Diêu Quang Tổ vẫn phản bác theo bản năng: “Học trò... chỉ muốn đi thăm Đào tiên sinh, muốn... xin ông ấy cho học trò trở lại thư viện. Sao có thể làm một chuyện như vậy được chứ?” “Thế thì cháu nghe cho rõ đây!” Giọng Lý Khác rõ ràng đã có phần bực bội,“Từ tư thế cháu chạy ra khỏi ngõ Thanh An lúc đó, có thể thấy cháu có nền tảng võ công. Sở dĩ Đào Phủ Sâm và phu điểm canh sinh ra ảo giác có người lơ lửng trong không trung, là vì cháu dùng móng sắt móc vào ngói xanh trên tường bao, sau đó có thể tùy ý di chuyển theo sợi dây buộc vào móng sắt. Còn sợi dây đó thì gần như không thể nhìn thấy trong đêm tối. Diêu Quang Tổ, cháu nhìn lòng bàn tay mình đi, bên trên có phải còn lưu lại vết hằn của dây thừng không?” Diêu Quang Tổ vô thức xòe lòng bàn tay ra, bên trên quả nhiên có hai vết xanh, sờ vào vẫn thấy ngâm ngẩm đau. Thế là cậu chỉ biết siết chặt hai tay, cắn mạnh môi dưới. “Thật ra, cháu thừa nhận hay không vốn dĩ không quan trọng. Quan trọng ở chỗ, bản vương nhận định là cháu, thế là được rồi. Lý Khác nói nhiều thấy hơi khát, bèn rót một chén nước uống cạn,“Phu điểm canh nói, cháu vừa thấy ánh đèn liền bay đi mất. Quả thực cháu sợ ánh sáng, nhưng không phải vì cháu là ma, mà vì cháu sợ bọn họ nhìn rõ tướng mạo, biết cháu là ai. Cho nên trong lúc cấp bách, cháu thu móng sắt, vượt qua tường bao, tạm thời trốn trong phủ viên ngoại ở sát vách một lúc. Trong lúc không để ý, con dao bấm của cháu đã rơi xuống. Vì cự ly quá cao, nó đã vỡ nát khi chạm đất. Mà thứ ta nhặt được ở đó vào tối hôm nọ, chính là sợi gân bò và chiếc lò xo trong con dao bấm. Ta nghi ngờ cháu, có lẽ vì cháu chạm mặt ta khiến ta nghi ngờ, thực là cơ duyên xảo hợp. Đúng là ông trời tự có an bài, trong ngẫu nhiên cũng chứa cả tất nhiên. Nước mắt của Diêu Quang Tổ còn chưa khô, trong mắt lại đã hiện lên nỗi nghi hoặc khác: “Điện hạ không xử lý học trò sao? Thầy tới nhà học trò là do ngài.” “Không sai. Là ta bảo ông ta tới. Có điều, tuy ta có tấm lòng cảm thông, nhưng xưa nay không lạm dụng nó. Ta có thể tha cho cháu, nhưng mà, cháu phải làm giúp ta một việc. Cháu đồng ý không?” Cuối cùng vẻ mặt của Diêu Quang Tổ cũng hơi giãn ra, cậu nói không cần suy nghĩ: “Đồng ý. Học trò sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì vì điện hạ.” Lý Khác hơi ngồi thẳng người lên, giơ tay đỡ hờ cậu một cái, nói giọng thờ ơ: “Là việc thuộc sở trường của cháu. Có điều, giờ ta không rảnh để nói với cháu. Cháu đợi ở đây đã, lát nữa Quý hộ vệ sẽ qua nói cho cháu biết” Không đợi Diêu Quang Tổ trả lời, Lý Khác đã rảo bước đi ra khỏi cửa nhà ngang. Xuyên qua một vạt thông phía sau hòn non bộ là đến lầu Ỷ Vân, gặp đúng lúc Vân Lĩnh cùng Lưu đại phu tối qua trị thương cho Nghiêm Giáp ra khỏi phòng. Lý Khác vội tới đón, hỏi: “Rốt cuộc huynh ấy mắc phải bệnh gì?” Lưu đại phu vuốt chòm râu dài, suy nghĩ rồi nói: “Điện hạ yên tâm, chắc quân hầu không sao đâu” “Chắc?” Lý Khác nhướng mày bất mãn nói,“Ngươi nói lấy lệ thôi phải không?” “Tiểu dân không dám” Lưu đại phu cuống quýt thanh minh: “Sắc mặt của quân hầu không tốt lắm, môi cũng không có sắc máu, lại hơi có triệu chứng thổ huyết, nhưng mạch tượng của ngài ấy không có gì bất ổn, thần trí cũng rất minh mẫn. Có lẽ... có lẽ chỉ là nhiễm phong hàn hơi nặng một chút thôi ạ.” “Như thế mà ngươi còn dám nói là không sao à?” Lý Khác giận dữ nói,“Về tháo tấm biển Huyền Hồ đường của ngươi xuống đi!” Lưu đại phu nhăn nhó, còn muốn nói thêm mấy câu, nhưng bị Vân Lĩnh kéo đi. Đến khi đi xa, Vân Lĩnh mới lên tiếng an ủi: “Đại phu chớ lo. Ta sẽ bảo mấy huynh đệ dưới quyền theo ông về tháo biển, đảm bảo sẽ giúp ông tháo xuống hoàn hảo không thiếu thứ gì, lại còn có thể bán cho thợ mộc với giá tốt.” Lưu đại phu nuốt nước bọt ừng ực, mới nhịn được nỗi xúc động muốn ngửa mặt lên trời khóc lớn. Hắn cảm thấy mình rất oan, một nỗi oan khó mà biện bạch nên lời. “Đệ thật sự trách oan hắn rồi, ta không sao.” Dương Chính Đạo ngồi trước án thư, quay lưng về phía Lý Khác, nhìn một bình sứ nhỏ có vẽ mai đỏ tuyết trắng trên bàn, lấy tay chống đầu, nói thản nhiên như không,“Có lẽ vì gần đây thường gặp ác mộng, máu ở tim hơi bất ổn. Nghỉ ngơi nhiều hơn một chút là được.” “Ta không tin. Nếu không phải mắc bệnh không chống đỡ được, huynh sẽ không chủ động đi gọi đại phu. Huynh nói thật cho ta biết, rốt cuộc có chuyện gì?” Dương Chính Đạo nghe được vẻ nóng ruột trong lời nói của y, cảm thấy trong lòng ấm áp, nhưng ngoài miệng chỉ nói: “Đệ đang mong ta mắc bệnh nan y gì đó à! Yên tâm đi, sức khỏe ta thế nào ta biết rõ. Vân Lĩnh bảo là đệ gọi Diêu Quang Tổ tới? Đệ thật sự chắc chắn nó chỉ ra tay với một mình Đào Phủ Sâm chứ?” Lý Khác thấy gã đánh trống lảng, cũng đành xuống nước theo: “Đúng. Vì Đào Phủ Sâm chỉ bị dọa ngất, còn Lâm Đại Mộc thì mất mạng, Nghiêm Giáp cũng suýt nữa xuống suối vàng. Cho nên, khả năng lớn nhất chính là, sau khi bịa ra lời đồn rằng Đào Phủ Sâm bị hồn ma Triệu vương tấn công, hung thủ thật sự tiếp tục giết người dưới danh nghĩa Triệu vương” Dương Chính Đạo ho khẽ mấy tiếng, hỏi: “Vậy thì trong lòng đệ đã biết rõ rồi sao? Kẻ đó là ai?” “Biết rõ. Nhưng mà, đến giờ ta vẫn chưa nghĩ ra hắn làm vậy với mục đích gì? Lý Khác ngồi xuống bên cạnh gã, nhìn sắc mặt ngày càng tái nhợt của gã, nhíu chặt đôi mày,“Biểu huynh, chăm sóc bản thân cho tốt. Nhất thiết không được xảy ra chuyện gì, được không?” “Ta biết rồi. Đệ về trước đi, để ta nằm thêm một lát. Lúc đệ cần, ta nhất định sẽ tới giúp đệ với tinh thần sung mãn” * * * Buổi tối, Lý Khác gọi chấp sự Hồ Thanh đến trước mặt. Hồ Thanh nhỏ hơn Nghiêm Giáp vài tuổi, có vẻ cũng lanh lợi hơn đôi chút. Ông ta vái sâu sát đất, kính cẩn hỏi: “Điện hạ có gì dặn bảo ạ?” Lý Khác liếc sang bên cạnh, không nhìn ông ta: “Cũng không có việc gì quá quan trọng. Chỉ là ta muốn hỏi, ông và Nghiêm Giáp quan hệ như thế nào?” “Bẩm điện hạ, ti chức và Nghiêm Giáp cùng đến dịch quán Dương Châu làm việc, còn là đồng hương, nên trước giờ xưng huynh gọi đệ, tình cảm hết sức tốt đẹp” Lý Khác gật đầu: “Tuy Nghiêm Giáp tạm thời không nguy đến tính mạng, nhưng cơ thể vẫn vô cùng yếu ớt. Bản vương muốn để ông canh giữ trước phòng ông ta mấy hôm, ông thấy thế nào?” “Điện hạ đã sai bảo, tất nhiên ti chức sẽ tuân theo, một khắc cũng không lười biếng” “Tốt. Vậy giờ ông đi đi.” Hồ Thanh thi lễ lần nữa, rồi chậm rãi lui xuống. Cửa chính nhiều năm bị gió thổi mưa quật, bản lề đã hơi hoen gỉ, lúc đóng cửa sẽ phát ra tiếng “kẽo kẹt” chói tai. Lý Khác nghe tiếng bước chân đằng sau đi xa dần, mới quay đầu lại, buông hai tay nãy giờ siết chặt. Sương mù trong đầu ngày càng dày đặc, nhưng chỉ một lát, lại có một cơn gió lớn ập đến, làm thần trí y tỉnh táo hẳn. Có lẽ, sắp đợi được đến ngày vén mây thấy trời rồi. Đêm ấy, Lý Khác ngủ không yên giấc. Chẳng biết tại sao, bên tai y cứ văng vằng mấy câu mà Giang Hạ vương nói với y ở ngoài điện Vũ Đức hôm đó: Con bị tình cảm trói buộc, nên mọi sự sát phạt quyết đoán đều dựa vào tình cảm. Con cố chấp, bao che khuyết điểm, cảm tính... đây đều là tính cách tối kỵ của bậc đế vương, bệ hạ cũng có tính tình tương tự, nhưng phải ra sức áp chế. Tại sao lại nhớ đến những điều này? Có phải mình thực sự từng làm hỏng việc vì tình? Hay là... mình bị tình cảm che mờ mắt mà bỏ qua thứ gì đó rõ ràng dễ thấy? Đủ các loại ý nghĩ ngang dọc đan xen tranh nhau chuyển động trong đầu Lý Khác, đến khi bị một tràng tiếng gõ cửa dồn dập cắt ngang, y mới hoàn toàn tỉnh táo. Y hít sâu một hơi, rồi lại từ từ thở ra. Mồ hôi trên trán xuôi theo má chảy thẳng xuống cổ, y chẳng buồn lau mà xuống giường ngay, lấy đại một chiếc áo choàng trên giá rồi ra khỏi phòng. Hồ Thanh bên ngoài cửa cả người ướt đẫm nước mưa, trên má phải có một vết xước dài. Ông ta thở hổn hển: “Điện hạ, vừa nãy... vừa nãy Ti chức nhìn thấy hồn ma áo đỏ... Triệu vương. Khuôn mặt đó dính đầy máu... thật sự hung dữ đáng sợ! Ti chức suýt nữa thì chết trong tay Triệu vương” “Ông vào phòng đã rồi từ từ nói.” Sau một thoáng kinh ngạc, Lý Khác lập tức khôi phục lại vẻ bình tĩnh,“Vết thương trên mặt ông là thế nào?” Hồ Thanh nói với giọng run rẩy: “Nửa canh giờ trước, Ti chức đi tiểu về, nhìn thấy trong phòng Nghiêm Giáp tối đen như mực, liền mò mẫm đi vào thắp nến, mới thắp được một ngọn đã bị người ta siết cổ từ phía sau. Cảm giác lạnh giá đó, chỉ bàn tay người chết mới có. Lúc đó Triệu vương lơ lửng trên không, Ti chức định vươn tay tóm lấy, nhưng lại bị rạch một nhát dao lên mặt.” “Sau đó thì sao?” Hồ Thanh lấy tay bịt vết thương lại rồi nói tiếp: “Ti chức vừa chạy vừa lớn tiếng kêu cứu, mãi đến khi chạy tới gần Thanh Đình, mới nhìn thấy hai vị Quý hộ vệ. Nhưng lúc đó hồn ma Triệu vương đang ở gần, chính mắt Ti chức nhìn thấy bóng của... bóng? Không! Không đúng! Hồn ma sao lại có bóng chứ? Là người! Điện hạ, có người muốn giết ti chức!” Lý Khác nhìn biểu cảm càng sợ hãi hơn sau khi sực hiểu của ông ta, khẽ nở một nụ cười khó thấy: “Ông có đắc tội với ai không?” Gió đêm luồn vào phòng qua cửa sổ khép hờ, quần áo Hồ Thanh ướt sườn sượt, dính bết cả vào người, khiến ông ta vô cùng khó chịu. Ông ta nghĩ một lúc lâu, rồi vẫn lắc đầu nói: “Xưa nay Ti chức đối xử tốt với mọi người, quả thật chưa từng có kẻ thù nào.” “Có lẽ người kẻ đó muốn giết không phải là ông, mà là Nghiêm Giáp. Đêm hôm nọ hắn đã hạ thủ, nhưng ông ta lại được ta và Tuyên Bình hầu cứu, giờ hắn lại ra tay lần nữa. Ta thật sự hơi tò mò, rốt cuộc giữa Nghiêm Giáp và kẻ đó có thù sâu hận lớn gì?” Hồ Thanh đực mặt ra, vẫn lắc đầu mù tịt. Trong lúc hai người trầm mặc, Quý Thành đã chạy vào phòng nói: “Điện hạ, bọn Ti chức bắt được tên giả thần giả quỷ đó rồi. Giờ hắn bị nhốt trong một gian nhà nhỏ ở hậu viện, ngài có muốn đích thân chất vấn không? Hay là phải báo với Trịnh thứ sử một tiếng?” “Đợi đến ngày mai, ngươi chạy qua phủ thứ sử một chuyến, phải nói rõ đầu đuôi ngọn ngành của sự việc trước mặt Trịnh thứ sử” Quý Thành lanh lẹ dạ một tiếng, quay người rảo bước rời đi. Hồ Thanh ngây người nói: “Điện hạ, vậy ti chức phải làm gì?” Lý Khác chỉ cảm thấy một cơn buồn ngủ ập đến, cố nhịn không ngáp, dụi mắt nói: “Ông về thay quần áo, rồi ngủ một giấc, sau đó, yên tâm đi làm việc.” Chân trời vừa ửng lên một vệt trắng bạc, Trịnh Đạc đã cùng Phùng Vạn Tề đứng bàn việc trong hậu đường của phủ thứ sử. Trên mặt Trịnh Đạc lộ ra vẻ lo lắng không che giấu nổi, chần chừ một lúc lâu, ông ta mới ngồi xuống, nén giọng hỏi: “Giờ phải làm thế nào? Chẳng lẽ thật sự là hắn sao?” Phùng Vạn Tề biết nói nhiều cũng vô ích, đành ở bên cạnh an ủi: “Ngài yên tâm đi! Nhất định hắn vẫn ở trong hầm, không chạy nổi đâu. Hơn nữa, không có lệnh của ngài, làm sao hắn dám chứ?” “Thế tại sao người đi tìm đến giờ vẫn chưa về?” Trịnh Đạc dường như nghe không lọt tai lời này, vẫn cứ nói tiếp,“Ân sư bảo chúng ta trì hoãn thêm mấy ngày, bây giờ xem ra không kéo dài được nữa rồi. “Kế hoạch ngài nghĩ ra đã vô cùng kín đáo rồi. Nếu thượng thư có biết, thể nào cũng sẽ chỉ khen ngài làm việc đắc lực thôi.” Phùng Vạn Tề nói với giọng nửa thật lòng, nửa nịnh nọt. Tuy nhiên, rõ ràng những lời này không có ích gì đối với Trịnh Đạc. Ông ta nắm chặt một chiếc chén sứ trong tay, như thể muốn bóp vụn nó: “Sự việc khẩn cấp, sao có thể kín đáo được? Hơn nữa, ông không nghe người ân sư phái đến nói sao? Năm xưa Mã tướng từng gục ngã trong tay Ngô vương và Tuyên Bình hầu, hạng người như ta và ông, sao có thể là đối thủ của bọn họ?” “Vậy thì sao chứ?” Phùng Vạn Tề phản bác,“Việc mà thượng thư bảo ngài làm chỉ là tranh thủ thời gian. Giờ ngài đã làm được, không phải là xong rồi sao? Hai người bọn họ có thể ở lại Dương Châu thêm một ngày là ngài đã hoàn thành nhiệm vụ, ở thêm hai ngày thì đó chính là bản lĩnh của ngài.” “Thật sao? Nhưng một khi bọn họ nhìn ra kế hoạch này, không chỉ chức vị thứ sử Dương Châu của ta, mà sợ là ngay cả tính mạng cũng sẽ không còn. Có điều, lúc ta nhận lời ân sư đi làm chuyện này, thực ra đã biết kết cục cuối cùng rồi.” “Cũng chưa chắc đâu.” Lần này Phùng Vạn Tề trả lời hết sức chắc chắn,“Vua triều nào bề tôi triều nấy. Tiền đồ xán lạn của ngài, có lẽ vẫn còn ở phía sau kia!” Tiền đồ xán lạn. Trịnh Đạc đọc từng chữ một trong lòng. Tiền đồ xán lạn đâu có quan trọng bằng tính mạng của bản thân và gia đình? Điều ông quan tâm, chỉ là ơn tri ngộ mà thôi. May mà ông một thân một mình, xưa nay không vướng bận vợ con, nên sống chết đối với ông cũng chẳng phải chuyện gì quá quan trọng. Đúng lúc Trịnh Đạc đang cúi đầu mải miết suy nghĩ thì một người ăn vận theo kiểu tiểu nô bước vào. Phùng Vạn Tề sốt ruột hỏi: “Sao rồi? Người vẫn ổn chứ?” Tiểu nô gật đầu: “Trưởng sử yên tâm, tất cả đều ổn” “Vậy thì tốt. Ngươi lui xuống đi, vào trong hầm rượu tiếp tục trông ngặt hắn!” Phùng Vạn Tề khẽ thở phào một hơi, đảo mắt lại thấy vẻ mặt Trịnh Đạc vẫn căng thẳng. Ông ta đang định nói gì đó, nhưng lại nghe thấy Trịnh Đạc lẩm bẩm: “Tất cả đều ổn? Vậy chẳng phải càng kỳ lạ sao? Kẻ mà Ngô vương bắt được rất cuộc là ai nhỉ?” “Giờ điều này đã không còn quan trọng” Phùng Vạn Tề hắng giọng: “Hồ Thanh đã nói rằng Ngô vương bảo ngài sang cùng thẩm vấn, dù thế nào ngài cũng không thoái thác được. Đến lúc đó, ngài không được để lộ bất cứ sơ hở nào!” Trịnh Đạc trầm mặc không nói, rất lâu sau, mới thở dài thườn thượt. Bọn họ cứ ngồi đối diện nhau như vậy, mỗi người ôm một tâm sự. Mãi đến giữa trưa, mới thấy Quý Thành đến theo dự kiến. Quý Thành chỉ kể sơ qua sự việc một lượt, sau khi tỏ vẻ kinh ngạc và vỡ lẽ hết sức đúng mực, Trịnh Đạc liền cùng Quý Thành rời đi. Phùng Vạn Tề nhìn vạt nắng chiếu lên nền nhà, lông mày ngày càng nhíu chặt. Sau một lúc lâu, ông ta mới đứng dậy đi ra ngoài cửa. Do bước quá gấp, ông ta suýt nữa thì vấp vào bậc cửa sắt cao. Vừa ra khỏi cửa viện, mấy sai dịch đang trực đồng loạt bước về phía ông ta. Một sai dịch mặt chữ điền, thân hình cao gầy trong số họ cúi người vái: “Trưởng sử, Tuyên Bình hầu đến” Phùng Vạn Tề hơi hoảng sợ, buột miệng nói: “Y tới gì?” Ngay sau đó, ông ta cảm thấy ngữ khí của mình quá gượng gạo, lập tức đổi giọng,“Mời Tuyên Bình hầu ngồi đợi ở chính đường một lát, ta sẽ qua gặp ngay đây.” Mấy sai dịch đó quay mặt nhìn nhau, đều không nói gì. Cuối cùng, vẫn là người mặt chữ điền nãy vừa mở miệng đó nói: “Tuyên Bình hầu, ngài ấy... ngài ấy đi thẳng tới cái hầm ở sau vườn hoa, còn giết... giết..” Phùng Vạn Tề chỉ cảm thấy trong đầu nổ “đùng” một tiếng. Trịnh Đạc vừa đi dịch quán, Dương Chính Đạo đã đến phủ thứ sử giết người. Trời ơi! Đúng là lo lắng cái gì thì cái đó tới! Phùng Vạn Tề lớn tiếng kêu gào trong lòng, rít một câu qua kẽ răng: “Sao các ngươi lại để y đi?” Người mặt chữ điền kinh ngạc nói: “Trưởng sử, ngài nói gì vậy? Người ta là Tuyên Bình hầu đấy! Hơn nữa, ngài ấy còn cầm ấn tín của Ngô vương điện hạ, có cho bọn Ti chức cả trăm lá gan cũng không dám nói một chữ ‘không’ với ngài ấy.” “Khốn kiếp!” Phùng Vạn Tề tức giận bẻ một cành liễu ở bên cạnh, lại giẫm mạnh mấy cái. Đám sai dịch nhìn theo bóng Phùng Vạn Tề hớt hải bỏ đi, lại nhìn nhau lần nữa, không biết tiếng “khốn kiếp” của ông ta chửi ai. Không thể là chính ông ta, càng không phải là Tuyên Bình hầu, vậy thì chỉ có thể là bọn họ. Nhưng bọn họ cũng đâu có làm gì sai! Chuyện này thật là kỳ lạ. Nhưng điều kỳ lạ hơn là, tại sao Tuyên Bình hầu lại tìm được tên trọng phạm bị toàn thành truy nã đó ở trong phủ? Bọn họ không dám nghĩ tiếp. Có một số chuyện, không biết còn tốt hơn biết rất nhiều, nhất là với những người thấp cổ bé họng như bọn họ. * * * Phùng Vạn Tề hớt hải chạy đến hầm, nhìn thấy một người đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất, vết thương trí mạng nơi cổ vẫn đang không ngừng chảy máu. Hai mắt hắn trợn to, mặt vẫn mang vẻ dữ tợn và kinh hãi đã ngưng kết lại ngay trong khoảnh khắc trước khi chết. Ở góc tường còn có một người đang co quắp, không ngừng run rẩy. Dương Chính Đạo thu lại thanh đoản đao cầm trong tay, nhìn bộ dạng chần chừ không tiến tới của Phùng Vạn Tề, mỉm cười: “Ta từng tới phủ thứ sử của các ông mấy lần, thế mà không biết ở đây lại cất nhiều rượu ngon như thế. Rượu ngon thật đấy! Trưởng sử, ông ngửi xem, mùi máu tanh nồng nặc như vậy mà cũng bị át mất rồi.” Hai đầu gối của Phùng Vạn Tề mềm nhũn, bất giác khuỵu xuống đất: “Hạ quan không biết... “Không biết cái gì? Không biết tại sao nơi này lại giấu người? Hay là không biết tại sao ta bỏ qua hung thủ không giết, mà lại muốn giết hắn?” Âm thanh vang vọng trong hầm rượu trống trải. Phùng Vạn Tề không dám ngẩng đầu, hai tay chống lên mặt đất, chỉ thấy một cảm giác nóng ẩm từ lòng bàn tay truyền lên. Ông ta biết đó là gì, thế là một nỗi sợ hãi ghê gớm hơn lại ập đến, đè nén làm ông ta gần như nghẹt thở. Không biết đã qua bao lâu, mới nghe thấy người ở góc tường khóc lóc van xin: “Trưởng sử, cứu tôi với, cứu tôi với... tôi thật sự không muốn chết.” Dương Chính Đạo bước tới, lạnh lùng nói: “Triệu A Cửu, đến giờ mà ngươi vẫn hy vọng hắn có thể cứu ngươi sao?” “Tôi... ngài.” Tuy Triệu A Cửu không biết thân phận của người trước mặt, nhưng trực giác mách bảo hắn, nếu ôm được chân người này thì có lẽ vẫn còn một tia hy vọng sống. Thế là hắn vội vàng lết gối, dập đầu năm sáu cái với Dương Chính Đạo, nhất thời lại không biết nên xưng hô thế nào mới phải, đành nói một cách hàm hồ: “Xin quý nhân tha mạng! Tiểu nhân chỉ tham tiền của chứ không hề muốn hại mạng người!” Nếu đây không phải là một khuôn mặt tua tủa đầy râu, Dương Chính Đạo đã thực sự tưởng rằng kẻ trước mặt mình chỉ là một đứa trẻ hơn mười tuổi. Gã đang định mở miệng nói, bỗng cảm thấy lồng ngực đau nhói, người bất giác hơi ngả về phía sau. Quý Thành thấy vậy, nhanh tay lẹ mắt đỡ gã, nói nhỏ bên tai gã: “Quân hầu, ngài vẫn ổn chứ?” “Không ổn lắm.” Dương Chính Đạo nắm chặt lấy tay Quý Thành, mượn sức của hắn mới gắng gượng đứng thẳng được, lạnh lùng nói,“Phùng Vạn Tề, các ngươi có thể tìm được một người lùn bẩm sinh, lại biết võ công, còn lớn gan tham của như vậy, cũng thật là không dễ. Rốt cuộc các ngươi có mục đích bí mật gì?” “Hạ quan cũng chỉ phụng mệnh thứ sử mà hành sự thôi. Mục đích... mục đích là..” Giữ mạng mới là quan trọng! Lúc này đầu óc Phùng Vạn Tề vô cùng tỉnh táo, ông ta chỉ vào kẻ nằm trên mặt đất đã tắt thở từ lâu đó nói,“Ngô vương và ngài vừa tới Dương Châu chưa được bao lâu, Trưởng Tôn thượng thư liền phái tên này đến truyền tin cho thứ sử, bảo rằng nhất định phải tìm mọi cách để giữ các ngài ở lại Dương Châu. Vì..” “Đừng nói nữa!” Trong cơn giật mình và lo lắng, Dương Chính Đạo thấy vị tanh ngọt nơi cổ họng càng thêm nồng. Đáng lẽ gã phải nhận ra từ sớm! Không chỉ gã, Lý Khác cũng đâu phải hoàn toàn không nghĩ tới, nhưng bọn họ vẫn cứ ngoan ngoãn rơi vào trong cái bẫy này. Hạng Trang múa kiểm, ý nhắm Bái công[*]. Hóa ra, bọn họ mới là những kẻ ngu xuẩn nhất trên đời! Gã phải đi nói với y ngay lập tức! Gã chắc chắn, ngay cả lúc này, Lý Khác vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ. Đúng vào khoảnh khắc Dương Chính Đạo xoay người, Phùng Vạn Tề đột nhiên đứng dậy lao đến trước mặt gã, rồi lại quỳ gối xuống đất, xuất phát từ bản năng cầu sinh, ông ta mở miệng hỏi thẳng: “Quân hầu có thể giữ mạng cho hạ quan không?” “Còn có phép nước, ta nói gì cũng vô dụng!” Phùng Vạn Tề vẫn chưa tuyệt vọng: “Vậy tại sao quân hầu phải giết hắn?” “Để thay Ngô vương thanh lý môn hộ. Loại tiểu nhân vong ơn bội nghĩa, bán chủ cầu vinh này, không xứng chết trong tay Ngô vương!” Vũ Lương. Dương Chính Đạo nghiến răng nghiến lợi thầm gọi cái tên này. Lúc này, trong dịch quán Dương Châu, Trịnh Đạc đang đối mặt với một cuộc chất vấn đột ngột, ông ta kịp thời ổn định tinh thần, bình tĩnh hỏi ngược lại: “Điện hạ không cảm thấy tội danh này quá lớn sao?” “Đúng vậy! Một tội danh rất lớn. Giọng Lý Khác đĩnh đạc ngân vang,“Nếu không nắm chắc mười phần, ta thực cũng không dám tin, đường đường là thứ sử châu lớn, mệnh quan triều đình, lại làm ra một chuyện hết sức hoang đường là thuê kẻ ác giết người!” Ánh mắt Trịnh Đạc nhìn thẳng vào nơi nào đó, trong lòng chỉ có một ý nghĩ: Không được nhận, tuyệt đối không được nhận. Thế là ông ta liền nói với giọng còn bình tĩnh hơn: “Hạ quan không biết.” “Được. Hôm nay nắng đang đẹp, rất thích hợp để kể chuyện. Buổi tối ngày hai mươi lăm tháng Hai, ta và Tuyên Bình hầu lo xong tang lễ của Tiêu hoàng hậu, muốn lên đường về kinh. Nhưng ngươi lại nói có việc quan trọng muốn thỉnh giáo chúng ta, vừa hay tối hôm đó mưa to, nên chúng ta ở lại một đêm. Nhưng mấy ngày tiếp theo, ngươi lại triệu tập huyện lệnh của các địa hạt dưới quyền lần lượt đến dịch quán Dương Châu thăm hỏi, những chuyện họ nói đều liên quan đến nỗi khổ của trăm họ, ta không thể không nghe. Nhưng mà, nói mãi rồi cũng có ngày hết, thế là ngươi đành phải tìm cách khác.” Khóe miệng Trịnh Đạc khẽ giật một cái, rõ ràng đã chột dạ đến cực điểm, nhưng ông ta vẫn ngoan cố cãi lại: “Câu chuyện của điện hạ không hay chút nào.” “Đừng vội, tất cả mới chỉ bắt đầu thôi.” Lý Khác liếc ông ta một cái, ôn tồn nói: “Sáng ngày mùng chín tháng Ba, ngươi và huyện lệnh huyện An Nghi vừa bàn chuyện xong, liền mời chúng ta uống rượu ăn cơm. Ta vốn không thích uống rượu, nên tìm cớ rời đi trước. Ở cửa phủ, ta chạm mặt Nghiêm Giáp. Ông ta nói phong cảnh ở Đông Hương Dương Châu là đẹp nhất, thế là ta liền cưỡi ngựa thong thả đi đến Đông Hương. Ở đó có một con sông dẫn đến ngoại ô phía Tây. Ông lái thuyền nhiệt tình mời ta lên thuyền, đưa ta đến bờ sông gần miếu Đồng Tử nhất, mà ông lái thuyền này tên là Lâm Đại Mộc. Trịnh Đạc, tất cả mọi chuyện đều do ngươi sắp xếp, phải không?” Ánh nắng rơi trên chiếc bàn trước mặt Trịnh Đạc, soi rõ rành rành từng hạt bụi li ti trên đó. Lúc nghe đến câu cuối cùng, ông ta mới thật sự hiểu, cái gọi là tâm cơ, cái gọi là thủ đoạn, có lẽ trong mắt Lý Khác, chỉ là một trò cười có thể dễ dàng nhìn ra trong lúc chuyện trò. Trịnh Đạc thất vọng gục đầu xuống. Nhưng trong khoảnh khắc đó, ông ta lại lập tức thay đổi ý nghĩ. Không! Đâu dễ dàng như vậy. Nếu Lý Khác thật sự nhìn thấu từ lâu, thì tại sao phải đợi đến hôm nay mới vạch trần? Vốn dĩ y chẳng có chứng cứ nào cả. Nghĩ đến đây, đôi mày Trịnh Đạc cuối cùng cũng từ từ giãn ra, giọng nói cũng tự tin hẳn: “Hạ quan không hiểu ý của ngài.” Lý Khác không muốn dây dưa tranh cãi việc ông ta có thẳng thắn thừa nhận hay không, y chỉ muốn nói ra đầu đuôi ngọn nguồn những điều y biết trong lòng: “Không phải ta đang nói nhử ngươi. Không cần phải như thế! Quả thực người làm rất tốt, tốt đến mức ta không hề để ý tới những điểm đáng ngờ rành rành ra đó. Thủ từ Tưởng Thổ Căn biết thân phận của ta, nếu không thì lúc đó ông ta đã không nghiễm nhiên cho rằng ta biết Triệu vương là ai như thế. Ông ta kể truyền thuyết về Triệu vương rất sinh động đặc sắc, không thể không khơi gợi niềm hứng thú của ta. Cho nên hôm sau, lúc ngươi báo tin miếu Đồng Tử bị cháy, theo bản năng ta muốn đi cùng ngươi một chuyến. Ngươi còn nhớ lời mình nói lúc đó không? Ngươi chắc chắn rằng ta nhất định biết Triệu vương có thể giữ cho thành Dương Châu mưa thuận gió hòa, tức là đã khẳng định ta từng tới miếu Đồng Tử. Việc mà ngay cả Tuyên Bình hầu cũng không biết, tại sao ngươi lại cho rằng ta phải biết, mà còn chắc chắn như vậy?” Trịnh Đạc đưa tay xoa đi xoa lại chiếc bàn, lặng im không nói, giống như mình thật sự chỉ đang nghe một câu chuyện ly kỳ thú vị. Lý Khác dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Chuyện của Đào Phủ Sâm là chi tiết bất ngờ, nhưng ngươi lại lợi dụng nó một cách thông minh, biến nó thành cốt lõi. Ngươi sai người loan tin khắp nơi rằng Đào Phủ Sâm bị linh hồn Triệu vương phục kích, để chứng thực lời đồn này, ngươi sai nghệ nhân tạp kỹ Triệu A Cửu có thân hình thấp bé như trẻ con giết Lâm Đại Mộc ở địa điểm cũ của hành cung Giang Đô, còn suýt nữa giết chết Nghiêm Giáp. Đây là vụ án ngươi cố ý tạo ra, tất nhiên là ngươi định diệt khẩu những đương sự này. Người đường đường xuất thân tiến sĩ, đọc đủ loại thơ văn, cớ sao lại độc ác nhẫn tâm như vậy?” Lý Khác vẫn muốn nói tiếp, nhưng lại nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ của Vân Lĩnh vẳng tới: “Điện hạ, có người ở Trường An đến tìm ngài” “Ngươi bảo y nghỉ ở chính đường trước đã, lát nữa ta sẽ qua.” Lý Khác cũng không hỏi xem là ai, chỉ thuận miệng trả lời một câu. Lúc này, điều y muốn làm nhất chỉ là nói nốt những lời trong lòng: “Trịnh Đạc, ngươi cho rằng ta không có chứng cứ thật sao? Thanh đoản đao mà các ngươi định dùng để chứng thực hung thủ là linh hồn Triệu vương đó đã phơi bày tâm cơ của các ngươi. Các ngươi không biết Quý Tử là tên tục không ai hay của Triệu vương, mà chỉ biết nó được đào lên từ hậu viện của miếu Đồng Tử. Lúc ta tới miếu Đồng Tử lần đầu tiên sau vụ hỏa hoạn, thấy lòng bàn tay của Kim Hồng có vết máu. Cho nên, kẻ đào đồ vật lên và hẹn Tưởng Thổ Căn đến chính điện rồi phóng hỏa thiêu miếu chính là Kim Hồng. Giờ Kim Hồng đang ở đâu? Không phải đã làm vong hồn dưới đao rồi chứ?” Trịnh Đạc nghe đến đây, cuối cùng chán nản nói nhỏ: “Hắn vẫn ở trong phủ thứ sử. Tối hôm đó, ngài nói với tôi, ngài muốn đi bắt ma trong ngõ Bồng Lai và ngõ Vĩnh An cùng Tuyên Bình hầu, chắc là thăm dò bọn tôi nhỉ?” “Không sai, vì lúc đó ta đã nghi ngờ các ngươi. Mà Nghiêm Giáp quả nhiên bị thương nặng trong sự ‘bảo vệ nghiêm ngặt của các ngươi. Các ngươi không chờ đợi được, nóng lòng chứng minh, cũng nóng lòng diệt khẩu. Sau đó, ta sai người giả mạo hung thủ, ra tay tấn công Hồ Thanh trong lúc ông ta canh trực. Ngoại trừ Hồ Thanh, chỉ có Vân Lĩnh và anh em Quý Thành, Quý Ân biết chuyện này. Ta cố ý dặn dò Quý Thành đến phủ thứ sử tìm ngươi trước mặt Hồ Thanh. Còn Hồ Thanh lại đi báo tin cho ngươi trước khi Quý Thành đến. Tuy ngươi đã sớm khống chế Triệu A Cửu, cũng biết không có mệnh lệnh của ngươi thì hắn sẽ chẳng tùy tiện ra tay giết người, nhưng để không xảy ra sai sót nào, chắc là ngươi vẫn sẽ phái người đi xác định xem Triệu A Cửu còn ở trong phủ không. Mà Tuyên Bình hầu và Quý Thành đến sau sẽ bám theo người của ngươi để tìm Triệu A Cửu. Giờ này, chắc bọn họ đã thành công rồi” Sau lưng Trịnh Đạc nhễ nhại mồ hôi, áo trong dính hết cả vào người, khiến ông ta vô cùng khó chịu. Ông ta kìm nén rất lâu, mới gắng gượng nặn ra một câu: “Tự nguyện mắc câu, hạ quan không còn gì để nói!” “Không còn gì để nói, tức là thừa nhận tất cả.” Vẻ băng giá trong mắt Lý Khác còn chưa tan, lại bị một nỗi hận sâu sắc khác bao phủ, “Tại sao các ngươi bắt buộc phải giữ ta ở lại Dương Châu?” * * * “Không phải giữ ở lại Dương Châu, mà là không để cho đệ về kinh.” Dương Chính Đạo gần như là bay vào. Gã không nhìn Trịnh Đạc lấy một cái, chỉ chạy thẳng đến trước mặt Lý Khác, nắm chặt cổ tay y, thở hồn hển nói: “Đi mau! Còn không đi thì không kịp mất.” Lý Khác thấy sắc mặt gã tái nhợt khó coi khác thường, vội đỡ gã ngồi xuống, rót nước đưa cho gã: “Đừng nôn nóng. Nghỉ một chút đã, sức khỏe của huynh mới là quan trọng” Dương Chính Đạo chỉ uống một ngụm, lấy được chút hơi, lại nhanh chóng đứng dậy, ánh mắt nhìn Lý Khác mang vẻ thê lương và bất lực không thể nói nên lời: “Ta không quan trọng, đệ mau đi đi” Trịnh Đạc nhìn bọn họ, khóe miệng bất giác thấp thoáng một nụ cười quái dị. Hai người vừa bước ra khỏi bậc cửa thứ hai, thì thấy Vân Lĩnh dẫn một thanh niên khoảng hai mươi tuổi hớt hải chạy đến. Thanh niên vừa thấy họ, lập tức quỳ gối hành lễ: “Phó Sơn tham kiến Ngô vương điện hạ, tham kiến Tuyên Bình hầu” “Phó Sơn? Ngươi là con trai của Phó tướng quân?” Lý Khác ra hiệu cho gã đứng dậy, vừa đi vừa hỏi. “Vâng” Trên khuôn mặt đen sạm của Phó Sơn có một vết sẹo nông, giọng nói rền vang thường có ở người luyện võ,“Sau khi cha mất, Giang Hạ vương đã điều anh em Ti chức đến bên cạnh ông ấy. Giang Hạ vương đối với Ti chức ơn nặng như núi, Ti chức không biết lấy gì để báo đáp.” Trong trận chiến Cao Câu Ly, đại quân triều đình tấn công dồn dập vào thành An Thị, bị quân giữ thành đánh cho không kịp trở tay. Trước khi hạ lệnh rút quân, Lý Thế Dân đã chém đầu phó tướng đắc lực nhất bên cạnh Giang Hạ vương là Phó Phục Ái, với tội danh kháng mệnh vua. Tuy hai người con trai của Phó tướng quân bấy giờ cũng ở trong quân không bị liên lụy, nhưng suy cho cùng bọn họ vẫn là hậu nhân của tướng có tội, Giang Hạ vương lại dám cho bọn họ giữ chức mang theo bên mình, một câu “ơn nặng như núi” này cũng không quá lời. “Chú bảo ngươi đến có việc gì?” Phó Sơn nhìn quanh bốn phía, nói với giọng chỉ mấy người bọn họ mới có thể nghe thấy: “Bệ hạ lâm bệnh nguy kịch ở cung Thúy Vi núi Chung Nam.” Hóa ra, tất cả những lo lắng sợ hãi của gã đều là thật. Dương Chính Đạo nắm chặt chéo áo, bên tai bất giác vang lên lời Lý Thế Dân nói với gã mấy tháng trước: Trẫm còn bao nhiêu ngày nữa, ngoài Vương Thọ Đức ra, cũng chỉ có cháu biết. Gã không nói chuyện này cho bất cứ ai, kể cả Lý Khác. Một là không muốn làm Lý Khác lo lắng thái quá, hai là chính gã cũng không muốn đối mặt với việc này. Nhưng mệnh trời không phải cứ không muốn đối mặt là trốn thoát được, dù là thiên tử, cũng không được nương nhẹ mảy may. Gã lo lắng ngoảnh sang nhìn Lý Khác, thấy ánh mắt y tản mác, không biết đang nhìn vào góc nào. Thế là gã đành bước đến bên cạnh Lý Khác, khẽ kéo tay áo y. Lúc này Lý Khác mới hoàn hồn, giọng đã hơi khàn: “Vào rồi nói. Vân Lĩnh, ngươi canh cửa, không cho bất cứ ai lại gần” Cùng lúc cửa được đóng lại, Phó Sơn quỳ xuống đất lần nữa: “Sáng sớm hôm kia, Giang Hạ vương sai Ti chức chạy đến Dương Châu nhanh nhất có thể để báo với ngài, bảo ngài bỏ hết tất cả mọi chuyện ở đây, lập tức về kinh. Bệ hạ muốn gặp ngài.” Dương Chính Đạo thắc mắc: “Nhưng mà, tại sao lại là ngươi đi? Đã là ý chỉ của bệ hạ, phái tiểu thái giám đến không phải được rồi sao?” “Quân hầu nói đúng” Phó Sơn lau mồ hôi trên trán,“Giang Hạ vương nói với Ti chức, một tháng trước, ông ấy đã chính tai nghe thấy bệ hạ bảo Vương công công phái người đi.” Lý Khác lắc đầu, bỗng cảm thấy trong đầu là một mớ hỗn độn. Hồi lâu, y mới hít sâu một hơi: “Chúng ta không thấy ai cả.” Phó Sơn gật đầu: “Vâng. Giang Hạ vương nói, nếu điện hạ biết, nhất định sẽ chạy không dừng vó ngựa trở về, tuyệt đối không dây dưa cả tháng. Vì vậy, ắt là có kẻ không muốn để điện hạ về kinh nhanh như vậy. Uẩn khúc bên trong, ông ấy sẽ từ từ điều tra. Nhưng so với chuyện đó, ngài quan trọng hơn. Giọng của Lý Khác đã có chút nghẹn ngào: “Bệ hạ... thật sự ốm rất nặng sao?” Phó Sơn sững lại một chút mới hạ quyết tâm, nói thẳng: “Giang Hạ vương nói với Ti chức là,‘Có thể gặp mặt bệ hạ lần cuối hay không, phải xem duyên phận cha con giữa bệ hạ và Ngô vương sâu đến đâu?” Dương Chính Đạo lấy kiếm Thanh Hồng trên giá xuống đưa cho Lý Khác: “Ở đây có ta, đệ cứ yên tâm mà đi” “Được, ta đi ngay bây giờ. Thánh chỉ bệ hạ giao cho ta ở trong hộp gỗ đàn hương sau giá sách trong phòng ta ấy. Biểu huynh, chăm sóc bản thân cho tốt. Sau khi giải quyết xong công việc, lập tức quay về, ta đợi huynh ở Trường An Lý Khác nhận kiếm, nói nốt mấy câu này xong, liền vội vàng mở cửa rời đi. “Phó Sơn, ngươi đứng lên đi.” Dương Chính Đạo ngồi xuống chiếc ghế gần mình nhất, đưa tay chống đầu, trong lòng vẫn đau đớn khó chịu. Rất lâu sau, gã mới lẩm bẩm: “Tại sao lại là Vương Trung? Chẳng phải ông ta rất quan tâm Lý Khác và Lý Âm sao?” Phó Sơn khẽ thở dài: “Quân hầu, ngài đánh giá quá thấp những tăm tối trong lòng người rồi. Bệ hạ ốm nặng, vua mới rõ ràng sắp kế vị, Vương Trung chẳng có lý do gì mà không bày tỏ thiện chí với thái tử và Trưởng Tôn Vô Kỵ” “Tại ta không tốt, tại ta không lo trước tính sau. Ta tưởng rằng chí ít bệ hạ cũng thọ được một năm nữa, nào ngờ... nào ngờ.” Dương Chính Đạo gối đầu lên cánh tay, giọng nói càng lúc càng nhỏ,“Thật sự có thể nói Trưởng Tôn Vô Kỵ đã dốc hết tâm tư vì địa vị của thái tử.” “Trưởng Tôn Vô Kỵ” Lúc Phó Sơn nói ra bốn chữ này lần nữa, mắt dường như sắp tóe lửa,“Ti chức và lão có mối thù không đội trời chung” Dương Chính Đạo thấy gã nghiến răng nghiến lợi nói ra câu này, không khỏi hơi tò mò: “Cái chết của Phó tướng quân có ẩn tình gì sao?” Vành mắt Phó Sơn hơi đỏ: “Quân hầu biết đấy, quân triều đình từng bị vây khốn ở An Thị gần một tháng. Lúc đó, Giang Hạ vương từng kiến nghị bệ hạ dùng cách vây Ngụy cứu Triệu, phái một đội quân nhỏ vòng qua An Thị tấn công Bình Nhưỡng. Lúc bệ hạ còn đang do dự chưa quyết, Trưởng Tôn Vô Kỵ lại nói rằng, lần này là thiên tử thân chinh, nhất định không được có sai sót. Một khi Giang Hạ vương sầy tay, ắt sẽ đánh cỏ động rắn, đến lúc đó, không chỉ làm ô uế thanh danh của bệ hạ, mà còn kích động dân tình Cao Câu Ly, được ăn cả ngã về không, hậu quả khó bề tưởng tượng. Sau khi bệ hạ nghĩ kỹ lại, liền bác bỏ lời khuyên của Giang Hạ vương.” “Đúng như Lý Khác dự đoán. Sau đó thì thế nào?” “Kế tốt như vậy mà không được tiếp nhận, Giang Hạ vương rất không cam tâm, tối hôm đó định dâng lời với bệ hạ lần nữa. Cha Ti chức liền ngăn cản, bảo rằng bệ hạ đã có thể bác bỏ một lần thì cũng có thể bác bỏ lần thứ hai. Chẳng bằng để ông ấy đi nói chuyện với Trưởng Tôn Vô Kỵ, bảo Trưởng Tôn Vô Kỵ đi khuyên bệ hạ, có lẽ cơ hội thành công còn lớn hơn.” Dương Chính Đạo gật đầu: “Cha ngươi nói có lý.” Phó Sơn ngẩng đầu, nhìn mạng nhện nơi góc tường, ổn định lại tâm trạng một chút, rồi chậm rãi nói: “Tuy Giang Hạ vương xưa nay không mấy hòa thuận với Trưởng Tôn Vô Kỵ, nhưng vì đại cục, ông ấy cũng đành nghe theo lời cha. Không đầy nửa canh giờ, cha từ chỗ Trưởng Tôn Vô Kỵ trở về. Thấy bảo Trưởng Tôn Vô Kỵ chỉ nói với cha một câu: Tướng ở bên ngoài, có thể không nghe lệnh vua” “Tướng ở bên ngoài, có thể không nghe lệnh vua” Dương Chính Đạo lặp lại câu này, bỗng có một cảm giác cực kỳ chẳng lành trào dâng trong lòng,“Lão ám thị nhạc phụ có thể tiền trảm hậu tấu. Đây đúng là đại hạ sách, nhạc phụ sẽ không nghe theo chứ?” Lời vừa thốt ra khỏi miệng, gã liền lắc đầu cười gượng,“Nếu ông ấy không nghe thì cha ngươi đã không chết.” “Quân hầu đoán sai rồi.” Phó Sơn gắng đè nén nỗi bi thương, nói tiếp,“Giang Hạ vương lập tức nghiêm khắc nói rằng, tuyệt đối không được mang ý nghĩ như thế này. Bệ hạ đã thân chinh, tức là muốn toàn quân hoàn toàn nghe theo lệnh mình. Nếu tự ý hành động, dù có thắng thì cũng là vả vào mặt bệ hạ. Nhưng cha là người thô lỗ, chịu ơn sâu tri ngộ của Giang Hạ vương, một lòng muốn gạt lo giải khó cho ông ấy, chẳng mấy để tâm đến những lời cảnh cáo như vậy. Giờ Tý đêm hôm đó, cha dẫn vài trăm tinh binh thuộc hạ lặng lẽ rời doanh trướng, nhưng chưa đi được bao xa, đã bị người của Trưởng Tôn Vô Kỵ bắt quả tang, hơn nữa còn nhanh chóng kinh động đến bệ hạ” Dương Chính Đạo than ngắn thở dài: “Phó tướng quân quá hồ đồ, quá bốc đồng” “Vâng! Cha Ti chức hồ đồ, bốc đồng. Nhưng bệ hạ vẫn còn nhân hậu, lúc đó chỉ bãi quan miễn chức cha, bảo ông ấy về bình tĩnh suy nghĩ về lỗi lầm của mình. Nhưng Trưởng Tôn Vô Kỵ lại nói, thời chiến tay nắm binh quyền mà lại tự ý xuất binh, thì cũng giống như mưu phản. Lão còn nói cha chỉ là phó tướng trong quân, e rằng không thể có gan to như vậy, hy vọng bệ hạ có thể xét kỹ chân tơ kẽ tóc, để tránh các tướng sĩ ôm mối nghi ngờ, không còn lòng dạ chiến đấu.” “Khốn kiếp!” Dương Chính Đạo không nhịn nổi lớn tiếng chửi,“Tội danh mưu phản, nếu chỉ cách chức để phạt, thì khó mà khiến mọi người tâm phục. Mà ai nấy đều biết, Phó tướng quân là ái tướng tâm phúc của nhạc phụ. Ám chỉ như vậy, còn gì rõ ràng hơn nữa.” “Phải. Lúc đó cha cũng đã hiểu, đây chính là một cái bẫy, một cái bẫy đơn giản chỉ cần nghĩ kỹ một chút là nhận ra. Ông ấy không nhìn ra, nên chỉ còn cách trả giá bằng máu và tính mạng” Phó Sơn cào mạnh lên bàn, cúi thấp đầu, giọng nói vừa khàn vừa nặng nề,“Cuối cùng cha đành phải thừa nhận, tất cả đều là tội của một mình ông, không liên quan đến bất kỳ ai. Lúc đó có mặt nhiều tướng sĩ như vậy, bệ hạ chẳng còn cách nào khác mới hạ lệnh giết. Quân hầu, cha ti chức bị Trưởng Tôn Vô Kỵ hại chết. Không! Thực ra, thứ Trưởng Tôn Vô Kỵ thực sự muốn là mạng của Giang Hạ vương, là mạng của ngài và Ngô vương điện hạ.” Dương Chính Đạo nhìn bộ dạng tràn đầy căm phẫn của Phó Sơn, nhưng ngay cả một câu an ủi cũng không nói ra được. Nếu đúng là như vậy, thì tình cảnh của Lý Khác còn nguy hiểm hơn gã tưởng. Gã không thể để Lý Khác một mình đi đối mặt, gã cũng phải về Trường An ngay lập tức. Dương Chính Đạo từ từ đứng dậy, day mạnh huyệt thái dương. Cơ thể của gã phải khỏe lại nhanh nhất có thể mới được. Dương Chính Đạo không nói thêm gì nữa, chỉ nhanh chóng đi về phía phòng ngủ của Lý Khác, tìm được tờ thánh chỉ cho phép tùy nghi hài sự đó, tiện tay cầm lấy ấn tín của truất trắc sứ đạo Hoài Nam, bảo Đỗ Húc chuẩn bị xe, rồi lại tới phủ thứ sử lần nữa, bãi miễn chức quan của Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề với tội danh giết người, trước hết nhốt họ vào trong phủ thứ sử để trông giữ, hôm tới sẽ áp giải về kinh, thẩm vấn kỹ càng sau. Đồng thời, bổ nhiệm tư mã Vi Hiếu Từ của phủ Dương Châu làm trưởng sử, tạm thời chịu trách nhiệm thay thứ sử. Vi Hiếu Từ bị miếng bánh từ trên trời rơi xuống này làm cho choáng váng, sững sờ một lúc lâu, quên luôn cả cách nói năng. Chương 27 Rồng cuộn hổ ngồi Từ khi ra khỏi thành Dương Châu, Lý Khác liên tục ruổi ngựa chạy gấp. Trong vòng ba ngày, y đã qua hai mươi mốt dịch trạm, đổi tám con ngựa, gần như không có nổi một khắc nhắm mắt nghỉ ngơi. Chập tối ngày mười bảy tháng Ba, Lý Khác đi đến địa phận huyện Trường Thủy. Vì vừa mới mưa một trận lớn, nên không khí trở nên trong lành dễ chịu hơn nhiều, hương thơm của cỏ xanh lan tỏa khắp nơi, dường như xua tan bớt lo lắng và sợ hãi đang ngập tràn trong lồng ngực Lý Khác. Y xuống ngựa, đi qua một con đường lát đá xanh chật hẹp. Lúc đó Quý Thành nài nỉ xin theo bảo vệ y, nhưng y đang nóng lòng muốn về, thêm một người theo tức là thêm một phần vướng víu, cho nên chỉ sai Quý Thành chuẩn bị cho y một tấm bản đồ địa hình chi tiết nhanh nhất có thể. “Công tử, ngài đi đường vất vả, chi bằng vào trong quán của chúng tôi nghỉ một lát, không ăn gì cũng được.” Tiểu nhị của một quán ăn bên đường ra đón, dắt cương ngựa cho Lý Khác. Vốn dĩ Lý Khác không muốn ở lại Trường Thủy lâu hơn, nhưng nghe câu nói này của tiểu nhị, y lại thật sự cảm thấy hơi mệt. Y bèn gật đầu, lấy ra một lạng bạc đặt vào trong tay hắn: “Cho con ngựa này ăn cỏ giúp ta. Còn nữa, chuẩn bị cho ta một ấm trà và ba bốn món ăn thanh đạm một chút.” Khuôn mặt đỏ lựng của tiểu nhị tràn đầy nét cười: “Tiểu nhân biết rồi. Mời công tử ngồi. Lý Khác chẳng có lòng dạ nào nhấm nháp món ngon trước mặt, chỉ ngấu nghiến nuốt chửng chúng vào bụng. Sau đó y lấy tấm bản đồ địa hình trong tay áo ra xem đi xem lại, hơi nhíu mày, khẽ thở dài: “Ít nhất phải mất một ngày nữa thì mới đến được Trường An, không biết.” Y không nói nữa, cất bản đồ đi, mệt mỏi nhắm mắt lại. Trong lúc mơ màng, y dường như nghe thấy một giọng nói vang lên bên cạnh: “Công tử muốn đi Trường An sao? Tôi biết một con đường tắt.” Lý Khác mở mắt ra, chỉ cảm thấy sau gáy đau ghê gớm, bên cạnh có một người đàn ông thân hình vạm vỡ, râu ria xồm xoàm đang thân thiện nhìn về phía y. Lý Khác đứng dậy, chắp tay vái gã một vái: “Tại hạ quả thực có việc hết sức khẩn cấp phải đến Trường An. Tha thiết mong huynh đài chỉ giáo một chút, tại hạ cảm kích vô cùng” “Công tử nói chuyện thật dễ nghe, hôm nào tôi cũng phải học mới được.” Người đàn ông cười thật thà phúc hậu, trả lễ Lý Khác, “Công tử ra khỏi cổng thành, đi thẳng về phía Đông là có thể thấy một ngọn núi đất. Trèo qua ngọn núi đó, lại rẽ sang phải thì sẽ gặp một khu rừng rậm. Xuyên qua rừng rậm là đến núi Chung Nam. Nếu công tử muốn vào thành Trường An, thì chỉ cần...” “Không cần đâu! Nơi tôi muốn tới chính là núi Chung Nam!” Lý Khác mừng rỡ, không kìm được ngắt lời gã,“Đa tạ huynh đài!” Đi theo hướng mà người đàn ông đó nói hơn nửa canh giờ, quả thật thấy một ngọn núi đất. Núi đất cao vút dốc đứng, ngước mắt nhìn không thấy đỉnh. Lúc này, trời đã tối mịt. Lý Khác ngồi xổm xuống, rửa tay bên suối xong liền vuốt lưng ngựa: “Vất vả cho mày rồi. Đêm nay, chúng ta nhất định phải vượt qua ngọn núi này, biết không?” Con ngựa dụi đầu vào cổ Lý Khác. Trên đường, nó là con ngựa gắn bó với Lý Khác lâu nhất, tính tình và sức chịu đựng cũng tốt nhất. Lý Khác ôm đầu nó, rỉ tai nó: “Tao gọi mày là Ký Viễn, được không? Mày đưa tao đi gặp cha, sau này tao sẽ cho mày ăn loại cỏ ngon nhất.” Ký Viễn ngẩng đầu, hí dài một tiếng. Ngọn núi đất này còn lầy lội khó đi hơn Lý Khác tưởng. Chỉ giẫm nhẹ một cái, chân đã ngập sâu trong bùn, phải mất rất nhiều sức lực mới nhấc được chân lên đi tiếp. Lý Khác một tay nắm trường kiếm chống lên đường núi, tay còn lại thì kéo dây cương, Ký Viễn hết sức ngoan ngoãn nghe lời đi theo sau y, phối hợp với bước chân y, từ từ leo lên trên. Không biết đã qua bao lâu, cuối cùng cũng lên đến đỉnh núi. Đỉnh núi rất trống trải, chỉ có hai cây liễu tốt tươi, cây nào cũng rất dài, rủ xuống chạm đất. Lý Khác ngồi nghỉ trên một tảng nham thạch đón gió, ngẩng đầu nhìn vầng trăng tròn đang treo cao trên đỉnh đầu. Trong trí nhớ, dường như y chưa bao giờ nhìn mặt trăng gần như vậy. Nhưng ánh trăng giá lạnh, dù có gần đến đâu cũng không cảm nhận được chút ấm áp nào từ nó. Lý Khác tiện tay ngắt một cành liễu, quấn quanh tay mình từng chút một. Mấy hôm nay, y chỉ biết gấp rút đi đường, không """