" Trước Cơn Dông Tố PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trước Cơn Dông Tố PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Chiều muộn trời chuyển gió, cái lạnh từ phương Bắc tràn về len lỏi qua vùng đồi núi Vạn Yên rồi được tăng cường hơi ẩm bốc nghi ngút trên Lục Đầu giang phủ lên thái ấp Vạn Kiếp một bầu không khí u ám, tê cóng và ẩm thấp. Tòa An Quốc Đường, tư dinh của Hưng Đạo Vương vừa tiễn khách lúc trời còn tỏ rõ, vậy mà nửa canh giờ sau đã phải lên đèn khi bóng tối sầm sập đổ xuống, cùng với luồng gió lạnh chứa đầy hơi nước phả vào không gian trống vắng của đại sảnh sự nhớp nháp khó chịu. Đứng trên hành lang An Quốc Đường, hướng mắt nhìn về triển sông mù mịt sương khói, Hưng Đạo đắm trong dòng suy tưởng về đối sách vệ quốc mà vẫn chưa ngã ngũ đường hướng phù hợp để giúp Quan gia lèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua cơn dông bão từ phương Bắc đang đe dọa nhấn chìm một dải non sông bình yên. Ban chiều ở sảnh đường ngài tiếp Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ Đinh Củng Viên được Nhân Tông Hoàng đế cử đến Vạn Kiếp bàn bạc phương cách trì hoãn chiến tranh với nước Nguyên, sau chuyến thương thuyết thất bại của sứ thần Trung phẩm Hoàng Lệnh và Nội thư gia Nguyễn Chương. Củng Viên trình bày: – Như ngài đã rõ, chuyến công du của Ư Lệnh không lay chuyển được ý chí của Nguyên triều, coi như việc thương thuyết không hiệu quả, chúng vẫn nhất quyết đánh ta, chỉ có sớm hay muộn mà thôi. Mới rồi Tĩnh Quốc Vương từ Diễn Châu báo tin quân Nguyên dừng cuộc chiến với Chiêm Thành, tụ quân ở biên giới Bố Chính, nhiều khả năng chuẩn bị đánh ta từ hướng nam. Quan gia rất lo ngại, không hiểu tình hình biên giới phía bắc thế nào, ngài có nắm được thông tin về kế hoạch động binh của giặc và có kế sách gì nhằm trì hoãn chiến tranh, giúp ta có thêm thời gian để tổ chức lực lượng? Hưng Đạo trả lời: – Việc quân Nguyên tập kết ở gần Bộ Chính ta mới được biết. Đây sẽ là đạo quân thứ ba của giặc từ phương nam đánh ra. Ta cũng vừa được báo tin quân Nguyên hội hơn vạn quân ở Vân Nam, như vậy hướng tây bắc không đáng ngại. Duy hướng đông bắc chúng huy động hàng chục vạn người ngựa nhưng cụ thể thế nào chưa rõ, thời điểm giặc động binh cũng chưa biết. Ngày đêm ta đang chờ tin tức gửi về, khi biết được thông tin ta sẽ cấp báo cho Quan gia và triều đình. Còn cách thức khiến chúng hoãn binh thì ta vẫn nghĩ tới, song dù có cách gì cũng phải nắm rõ về giặc thì mới áp dụng hiệu quả. Củng Viên hỏi thêm: – Ngài là Quốc công Tiết chế, nên Quan gia còn muốn biết nếu hoãn binh không thành thì trù liệu kế sách chống giặc ra sao? Hưng Đạo trả lời: – Xin lão đại thần về bẩm tấu với Quan gia, Quốc Tuấn nhận lãnh trọng trách thống lĩnh quân đội ắt phải vạch ra đường đi nước bước để tổ chức kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm. Việc này ta đã bàn bạc với Thái sư Chiêu Minh Vương, nhưng cũng còn phân vân đôi chút. Vậy cho hẹn nội trong năm ngày ta sẽ lai kinh trình tấu với hoàng thượng kế sách cụ thể. Giãi bày với Hàn lâm học sĩ Đinh Củng Viên như thế là Đại Vương đã dốc hết tâm can của ngài rồi. Tin tức của giặc ở hướng đông bắc thì ngài đang mòn mỏi trông ngóng mà thám tử vẫn không thấy đâu. Đã trễ hẹn nhiều ngày nhưng người đưa tin do Lương Bình mới cử về cho biết chưa có động tĩnh gì về anh em Thế Quang. Họ là những chiến binh tài trí và quả cảm, không lẽ đã thọ nạn ở đất giặc? Ý nghĩ này từng đôi lần xuất hiện trong đầu, nhưng Đại Vương nhanh chóng gạt bỏ, dự cảm của ngài không chấp nhận như thế, mà cho rằng ở bên kia có biến động lớn, người của ta đang nỗ lực thu thập tin tức rồi tất cả đào thoát về nước một lần. Nếu đúng vậy thì lớn chuyện rồi, giặc sẽ động binh một ngày không xa, tông miếu xã tắc lại một lần bị vó ngựa Nguyên Mông giày xéo. Huynh đệ Thế Quang sớm muộn sẽ về, ngài không suy giảm niềm tin ở họ. Nhóm thám báo của Thế Quang là niềm hy vọng còn lại của Đại Vương về thông tin động binh của giặc mà người cầm quân như ngài thừa biết giá trị của nó có thể sánh bằng xương máu của một binh đoàn. Mấy năm trước, ngài cử ba toán gián điệp sang Đại Nguyên; toán vượt biển thì biệt vô âm tín từ đó; toán đột nhập Vân Nam vẫn bình an, nhưng đây không phải là hướng tấn công chính của giặc; duy toán của Thế Quang là lợi hại nhất, mỗi năm đều cho người về nước báo cáo tình hình đối phương, vậy sao đến giờ họ vẫn bóng chim tăm cá, trong khi nước nhà cần biết về lực lượng và kế hoạch tiến đánh của kẻ địch biết nhường nào? Dựa vào kinh nghiệm lịch sử và sự phân tích thông tin tình báo, Vương biết rõ địa bàn hoạt động của anh em Thế Quang là nơi tập trung binh lực quân Nguyên, trở thành hướng chính trong mưu đồ xâm lược Đại Việt của chúng. Lúc tiếp chuyện với Củng Viên về đối sách hoãn binh và kế hoạch chống giặc, Đại Vương không muốn bàn sâu và cũng không đưa ra một phương án cụ thể, chỉ hẹn sẽ trả lời Quan gia trong thời gian sớm nhất. Chủ ý của ngài xuất phát từ lý do nội tình hoàng tộc và triều thần không phải ai cũng đồng lòng quyết chiến, nếu đưa ra không đúng thời điểm dễ sinh gièm pha, dị nghị mà hỏng việc. Theo quan điểm của Vương, thế giặc mạnh như thác lũ còn lực của ta thua sút hơn hẳn, nên điều gì có ích cho công cuộc chống giặc thì phải tận dụng cho dù xưa nay chưa ai làm, miễn sao không trái phép quân thần, không phi luân vô đạo. Nhưng ngay đến người triệt để chống giặc là Thái sư khi nghe Vương trình bày chủ kiến còn băn khoăn do dự huống hồ mấy kẻ hoàng tộc và quan viên chỉ quen ngồi khoanh chân thu vén lợi lộc mà không thích xông pha khói lửa sa trường, giặc chưa vào đến cửa thì hồn vía bay lên mây cả. – Ngoài trời sương gió mù mịt, đứng ở đây dễ cảm lạnh lắm. Gia nhân đã chuẩn bị xong bữa tối, ông vào nhà ăn cơm với tôi. Thiên Thành phu nhân đến sau lưng mà ngài không hay biết. Bị vợ làm gián đoạn suy tưởng, Vương đành cùng bà ngồi vào bàn ăn khi trong bụng chứa đầy ưu tư toan tính, nên việc ăn uống trở thành bất đắc dĩ. – Ban nãy Hương sang hỏi thăm tin tức của chồng, nó bảo năm nay không phải kỳ Thế Quang về phép, nhưng đã sang đông mà không thấy Đỗ Thành hay Phạm Thái trở về nên chẳng hay biết bọn họ ra sao. Thấy nó lo nghĩ mà tội nghiệp, vắng chồng mấy năm rồi còn gì. Từ sáng đến giờ mới có dịp trò chuyện với Vương, phu nhân tranh thủ dò hỏi, biết đâu ngài có thể hé lộ đôi chút tin tức về mấy thủ tục thân tín đang biền biệt xứ người. Quốc Tuấn buông đũa, ngài trầm ngâm hồi lâu rồi nói với vợ: – Ta cũng lo nghĩ lắm vì chưa có thông tin gì về họ. Thân là chủ soái ba quân, sai thuộc hạ sang đất kẻ thù làm gián điệp mà nay họ chưa về nên cứ bứt rứt trong lòng. Nhưng ta tin sớm muộn sẽ có người về, chờ thêm ít ngày nữa xem sao? Phu nhân giúp ta lựa lời trấn an vợ con Thế Quang. – Thủ hạ của Vương đều là người trung tín, tuy mang thân phận tầm thường nhưng tông miếu xã tắc này được bền vững cũng có phần công sức của họ, vậy mà muôn thuở họ chỉ là những kẻ vô danh. – Thiên Thành bày tỏ suy nghĩ với chồng. – Phu nhân nói chí phải. Trăm họ tụ họp, giúp vua dựng nước. Đế nghiệp ngàn năm, công dân chẳng tính.Bách tính hợp quần, phù vương lập quốc. Đế nghiệp thiên thu, dân bất chi công. Ta hiểu lắm chứ, nhưng xưa nay đã vậy rồi nên thiên hạ vẫn nghĩ như thế là hợp lẽ trời. – Đại Vương chia sẻ với vợ mà trong lòng lại nhớ đến một chuyện cũ vào mùa đông năm Thiệu Bảo thứ tư (1282) ở bến Bình Than. Chương 1 Sông Thủ Chân, Quốc Tuấn cảm hóa Khánh Dư Vũng Trần Xá, Nhân Tông triệu hồi Phiêu Kỵ Bấy giờ là cuối tháng chín năm Nhâm Ngọ (1282), Nhân Tông hoàng đế vào độ tuổi 25 nhưng đã ở ngôi được bốn năm. Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông dù nhường ngôi cho con song vẫn tham gia điều hành việc nước, nhưng ngài theo ý chí của phụ hoàng ngày trước nên luôn tạo cơ hội để vua trẻ quen với việc triều chính. Một bữa, Thượng hoàng cho gọi Thái sư Chiêu Minh Vương và Tiết chế Hưng Đạo Vương tới để phủ dụ: – Từ ngày trẫm lui về chốn thiền môn đến nay đã được bốn mùa mang áo kép, mà lòng chẳng hề thanh thản, vẫn canh cánh trăm mối lo toan việc sơn hà xã tắc. Nhà vua còn quá trẻ, tuy tâm đức trong sáng nhưng không từng trải, cũng may có các vương đỡ đần trong ngoài nên quốc sự yên ổn, triều đình kỷ cương, trăm họ no ấm. Đây hẳn là phúc lớn của đế nghiệp Đông A và giang sơn Đại Việt. Tuổi trời có hạn, trẫm đâu thể đèo bồng mãi việc nước, đôi khi muốn lơi tay để tìm một giấc ngủ ngon trên giường cỏ thì lại sợ bệ hạ gánh vác không nổi xã tắc này. Vậy các khanh có cách gì giúp trẫm chu toàn cho hoàng thượng tự thân đảm trách quốc gia đại sự? Hai vị lương đống triều đình nghe xong lời tâm huyết của Thượng hoàng bèn đưa mắt nhìn nhau như ngầm ý bảo “huynh lên tiếng trước đi”. Quả thật họ cùng e ngại vì đề nghị của Thánh Tông đột ngột quá nên chẳng ai kịp nghĩ cách trả lời sao cho hợp đạo lý quân thần trước một vấn đề nếu không khéo nói thì dễ bị mang tiếng là “dạy vua trị nước”. Đùn đẩy nhau cũng có giới hạn, Quang Khải trong cương vị Thái sư đành phải lên tiếng trước: – Bẩm, theo ý thần, nhân chuyến tuần du đông bắc, ta nên để nghị hoàng thượng cho họp bá quan văn võ ngoài Thăng Long, bấy giờ Thượng hoàng lánh mặt vì một lý do nào đó, thì coi như Quan gia phải tự quyết mọi chuyện còn gì. – Khanh giải thích rõ hơn, tại sao phải mở hội nghị ngoài kinh thành? – Thánh Tông yêu cầu Thái sư cắt nghĩa tường tận. – Khởi bẩm, nếu hội nghị ở cung điện thì hoàng thượng vẫn có tâm lý “gia chủ”. Xưa nay người ta thường rất vững bụng và tự tin khi hành xử trong ngôi nhà của mình. Tuy giang sơn Đại Việt chỗ nào cũng là đất của vua, nhưng giải quyết công việc ở ngoài cũng là dịp hoàng thượng thử thách bản lĩnh mọi nơi mọi lúc, điều hành trên thực địa và ra quyết định kịp thời. – Quang Khải lý luận. Thượng hoàng quay sang hỏi Hưng Đạo: – Ý của Quốc Tuấn thế nào? – Bẩm Thượng hoàng, việc thường xuyên tổ chức cho hoàng thượng tuần du, duyệt quân và họp bàn ở nhiều nơi cũng là một cách hay để ngài quen dần với công việc điều hành đất nước ở bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ của ngài. Khi nước nhà gặp biến thì dù nhà vua ở trên rừng hay dưới biển vẫn có thể lãnh đạo toàn dân ứng biến. Tình hình hiện nay cũng có nhiều việc phải bàn, nhất là vấn đề một số đại thần hoang mang dao động trước áp lực của Nguyên triều khiến cho nội bộ ta thiếu thống nhất về chủ trương đánh giặc. Coi như một công đôi việc, đáng thực hiện lắm. – Hưng Đạo bày tỏ thái độ của mình. Thánh Tông lại nói: – Nghe cũng được đấy, các khanh phải giúp ta làm tốt chuyện này. Trước tiên là mở hội nghị trong chuyến tuần du đông bắc, nhưng địa điểm nên ở đâu? – Theo ý hạ thần, bến Bình Than có vũng Trần Xá là địa điểm thích hợp tụ hội và thuận tiện giao thông thủy bộ, có bờ sông rộng đủ chỗ nhiều thuyền neo đậu. – Hưng Đạo gợi ý. Thượng hoàng hài lòng. Chuyến tuần du năm ấy, Thánh Tông vin cớ trong người không khỏe, từ chối đi cùng hoàng thượng lên miền đông bắc. Thái sư Trần Quang Khải xin nhà vua tổ chức họp bàn các vương hầu và văn võ toàn triều ở bến Bình Than để tìm kể đối phó với giặc phương Bắc đang rình rập trước cửa ngõ Đại Việt. Sau buổi hầu chuyện Thượng hoàng, Hưng Đạo Vương nghĩ ngay đến một kẻ đang mai một tài năng trong kiếp người lầm lũi mưu sinh, trôi dạt theo dòng chảy u uất của cuộc đời mà trở nên tầm thường, vô danh vô vị. Chẳng phải y không có chí hướng công danh sự nghiệp, cũng không phải là kẻ bất tài tham sống sợ chết mà chui nhủi thân phận nơi giang hà hoang vắng, chẳng qua do y phạm lỗi lầm nên mắc tội, bị Quan gia lột sạch phẩm hàm chức tước, đuổi về làm thứ dân. Nhưng ở đời ai mà không có lỗi lầm trong cuộc sống, nếu không phải tội bất trung hay phản trắc thì cũng nên rộng lòng để người ta đoái công chuộc tội. Nước nhà rất cần nhân tài, nhất là võ tướng giỏi cầm quân đánh giặc, thêm một người là thêm một phần sức mạnh, vậy thì hà cớ gì mà khư khư định kiến nhỏ mọn, cứ riết róng buộc người ta phải gánh tội cả đời. Dịp quần nghị ở Bình Than là cơ hội long vân cho Trần Khánh Dư đó, dứt khoát ta phải bày vẽ để y được trình diện Quan gia, sớm trở về đội ngũ góp sức phò vua giúp nước. Nghĩ sao làm vậy, Đại Vương sai người dò la tung tích của Khánh Dư, nghe đâu sống quanh quất trong vùng Chí Linh, mưu sinh bằng nghề bán than củi. Sau khi biết rõ nơi chốn của người này, ngài bảo Dã Tượng tháp tùng, một chủ một tớ sửa soạn cưỡi ngựa lên đường từ sáng sớm. Thấy Đại Vương không lấy thêm quân sĩ hộ vệ, đường xa muôn sự khó lường, Yết Kiêu lo ngại nên đòi đi theo. Vương bảo: – Mình Dã Tượng theo ta là đủ. Đến nhà kẻ đang thất chí mà dẫn theo cả đoàn chỉ khiến người ta mặc cảm. Căn nhà lá đơn sơ của Khánh Dư nằm lẻ loi bên triền sông Thủ Chân, giữa sân chất đầy than củi, trong nhà ngoài cái án thờ cha có bày vài món đồ cúng bằng đồng thì không còn vật gì đáng giá, ngay đến cái giường đơn và bộ bàn trà cũng sù sì mộc mạc, còn y phục chỉ là mấy bộ đồ nâu thô ráp vắt trên chiếc sào bên vách nhà. Gia chủ đi vắng, chỉ có cậu bé giúp việc đang lúi húi thổi nấu trong bếp. Thấy quan khách là người sang cả, đứa trẻ hơi sợ sệt nhưng cũng lễ phép thưa gửi, lại còn biết xuống bếp đun nước pha trà mời khách. Hưng Đạo ngồi nhìn gia cảnh nghèo hèn của một kẻ từng mang tước vương mà lòng ngậm ngùi về số phận con người. Dã Tượng đứng hầu trước cửa, cả canh giờ không nói một tiếng, chỉ đăm đăm nhìn ra ngoài canh chừng bất trắc. Tới sang ngọ, Khánh Dư trở về bằng thuyền, xách theo một con cá chép buộc lạt xâu vào mang. Tuổi ngoài tam tuần, tạng người cao lớn bệ vệ, có khuôn mặt vuông vức đầy khí khái và đôi mắt sáng quắc bên dưới cặp lông mày sâu róm rậm rì mang dáng dấp con nhà võ, nhưng Dư lại vận quần nâu áo vá tuềnh toàng như dân làng chài. Thấy trong sân có hai con ngựa cột bên gốc mít và một gã tráng niên mặt mũi dữ tợn đang đứng như tượng đá trước cửa, Dư nhíu mắt ngỡ ngàng vì mấy năm qua chẳng hề có bậc quyền quý nào lai vãng đến chốn nương thân tồi tàn của kẻ sa cơ lỡ bước. Bước vào trong nhà, Dư sửng sốt khi thấy Hưng Đạo Vương đang ngồi bên chiếc bàn bụi bặm của dân bán than. Biết gia chủ ngần ngại bởi sự xuất hiện đột ngột của mình, Hưng Đạo bèn chủ động lên tiếng: – Đã lâu không gặp, Phiêu Kỵ tướng quân dạo này sức khỏe ra sao? – Đội ơn trời Phật, sức khỏe vẫn như ngày nào. Chẳng hay quý ngài có việc gì mà quá bộ đến tệ xá bẩn thỉu này? – Khánh Dư tỏ vẻ cao ngạo, bất cần. – Ta theo Quan gia kinh lý đông bắc, tiện dịp ghé qua thăm ngài. – Hưng Đạo trả lời. – Ngài là quan lớn đầu triều nếu không có duyên cớ mà đến nhà tiện dân thì khó tin lắm. Hay là muốn ta gánh thêm tội khác, sự trừng phạt của Quan gia từng ấy chưa đủ thỏa mãn ngài sao? – Khánh Dư căn văn bằng giọng khinh khỉnh. – Tướng quân nghĩ vậy là phụ lòng ta đấy. Chuyện đã qua đừng nhắc lại nữa, ta cũng quên lâu rồi. Người khí phách như ngài thì hoàn cảnh nào cũng chấp nhận được nên ta đến đây không vì ái ngại cho cuộc sống của ngài, mà thật lòng muốn ngài xúm tay cùng bọn ta gánh vác trọng trách phò vua cứu nước. – Hưng Đạo bộc bạch chủ ý bằng thái độ chân thành. – Ôi dào, ngài ở trên cao nên nói gì chẳng được. Hạng phế thải như ta thì lấy thân phận nào mà xúm tay gánh vác giang sơn cùng các ngài? Quá lắm chỉ được sung vào lính thú vác giáo xông pha tuyến đầu rồi chết vùi thây ngoài chiến địa chẳng ai hay, chẳng ai biết. – Dư vẫn không ngớt giọng mỉa mai chua chát. – Ta đâu bảo ngài đăng lính, mà muốn ngài trở lại vị thế Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chuyện xưa chỉ là mâu thuẫn cá nhân, không hề làm lu mờ phẩm chất trung quân ái quốc của một chiến tướng lẫy lừng trận mạc như ngài. Phẩm chất ấy là vốn quý của sơn hà xã tắc, dứt khoát phải cất nhắc vào vị trí xứng đáng. Nghe Quốc Tuấn nói, từng lời thấu vào tâm can Khánh Dư khiến ông bồi hồi xúc động. Không kìm nén được lòng, Dư lấy vạt áo chùi đôi mắt đỏ hoe rồi chắp tay trước ngực, quay mặt kính cẩn hướng ra cửa mà nghẹn ngào hỏi Đại Vương: – Sức khỏe của Thượng hoàng và Quan gia thế nào? Nhiều lúc nhớ nhị hoàng, ta chỉ biết ngồi buồn so mà hồi tưởng về các vị chứ không dám lai vãng đến kinh thành thăm hỏi. – Được ơn trên độ trì, nhị vị hoàng đế vẫn bình an mạnh khỏe. Nhưng bây giờ tình thế rất rối ren, ở bên ngoài thì quân Nguyên ngày càng o ép, ở bên trong thì nhiều vương hầu và đại thần lại tỏ ra nhu nhược, chỉ muốn dâng xã tắc cho giặc để được yên thân, nên nhị hoàng chẳng đêm nào có được một giấc ngủ ngon. Biết Khánh Dư đã xuống giọng đổi ý, Quốc Tuấn tìm cách khơi gợi ý chí quật cường của trang tuấn kiệt đang ẩn mình trong vỏ bọc nông phu. Quả nhiên như ngài phán đoán, Dự trợn mắt đấm ngực, mà rằng: – Thật là quá đáng, lũ giặc Nguyên chó má lẫn bọn triều thần đớn hèn. Vậy nhị hoàng bảo ngài đến gặp ta à? Hưng Đạo nói: – Các vị không sai bảo, nhưng họ vẫn luôn nhắc tới ngài, còn nói: “Vị trí này mà có Nhân Huệ đảm trách thì hay biết mấy”. Chẳng qua ở cương vị đế vương, các vua không thể đường đột hạ chiếu mời ngài hồi triều mà thôi. – Như thế thì làm sao ra mắt Thượng hoàng và Quan gia? – Dự hỏi đầy nghi ngại. – Có cách chứ, mấy bữa nữa Quan gia mở hội nghị ở Bình Than, ngài cứ... như thế... như thế... tất sẽ được. – Quốc Tuấn ghé tai Khánh Dư thì thầm to nhỏ. Nghe xong, Dư liền bật dậy, chắp tay vái dài Hưng Đạo Đại Vương và thốt ra những lời từ trong gan ruột: – Dư mỗ từng mắc tội với gia đình Quốc công Tiết chế, vậy mà người đã không chấp nê còn bày cho cách tiến cử. Tấm lòng cao thượng của ngài, Dự mỗ xin ghi nhớ suốt đời. Dù việc gặp Quan gia thành công hay thất bại thì thân này vẫn khắc cốt ghi xương ơn nghĩa của Đại Vương. Hưng Đạo khoát tay không nhận lễ, ngài bảo: – Tướng quân chớ có câu nệ ơn nghĩa, việc ngài sẵn sàng trở về đội ngũ là đủ đền ơn ta. Một mai trên sa trường nghe tin ngài thắng trận là ta vui sướng nhất rồi. Đại Vương thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng trong lòng. Ngài chỉ cầu mong việc bày đường cho Khánh Dư xuất hiện trước nhà vua diễn ra suôn sẻ, để quân đội có thêm một vị tướng tài biết cầm quân đánh giặc. Đứng gác ở ngoài cửa, thấy việc thuyết tướng của chủ nhân thuận lợi, Dã Tượng mỉm cười mãn nguyện. Tuy không dám nói năng gì, nhưng lần này chàng ta cứ lẩm bẩm trong miệng: – Tài thật. Tài thật. Đại Vương quả là người văn võ song toàn. Nghe ngài biện giải thật sướng lỗ tai. Trung tuần tháng mười, thuyền rồng của vua đậu ở Trần Xá, là cái vũng hình bán nguyệt ăn lõm vào đất. Neo kín bờ sông có non trăm chiếc thuyền lớn bé của các vương hầu và đại thần. Trong khoang thuyền lớn, Quan gia ngồi ghế có tay vịn và lưng tựa, quần thần lớn bé ngồi ghế thấp không tựa, chia tả hữu mỗi bên ba dãy tùy theo thứ bậc mà ngồi trước sau, đầu cuối. Trần Nhân Tông mặc áo chẽn màu lam thêu rồng, đầu đội mão gấm đồng cân cùng màu với y phục, chân đi hài đỏ mũi cong, nhân diện thanh thoát tinh anh, tuệ nhãn sáng bừng rực rỡ, tinh thần phong quang, cốt cách giản dị, một bậc minh quân trẻ trung và tràn đầy khí phách. Ngài cùng bá quan văn võ nghị đàm từ lúc mặt trời mới lên một con sào. Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên dâng sớ đề nghị hoàng thượng bố cáo thiên hạ về việc hặc tội bọn Trần Di Ái để làm gương cho thần tử cả nước. Hàn lâm viện học sĩ Đinh Củng Viên đề cử phái bộ mới sang Nguyên để xoa dịu vụ Di Ái đồng thời trì hoãn âm mưu chinh phạt Đại Việt của phương Bắc. Thú thần Lạng Châu là Lương Uất bẩm báo về tình hình biên cương sau vụ khiêu khích mượn đường đánh Chiêm của Toa Đô. Thái sư Trần Quang Khải trình tấu kế hoạch nạo vét sông Tô Lịch để thuyền chiến có thể vào ra bảo vệ phía đông kinh thành Thăng Long. Nhà vua xem xét kỹ lưỡng từng vụ việc rồi ra những quyết định sáng suốt và phù hợp, khiến nhiều vị trọng thần cao niên không khỏi thán phục trí tuệ của đấng minh quân trẻ tuổi. Đến giờ ngọ, ngài cho bãi nghị, các quan về thuyền nghỉ ngơi, buổi chiều họp bàn tiếp. Còn lại bốn, năm đại vương trụ cột triều đình được lại dùng bữa với hoàng đế. Tranh thủ lúc chờ lính hầu dọn cơm trưa, Hưng Đạo mời Quan gia và mọi người ra mũi thuyền vãn cảnh sông nước. Gặp lúc triều rút, dòng sông co ngót lộ ra lớp phù sa nâu quạch ở phía bờ đối diện bến thuyền. Thấy con chim xít mỏ đỏ dẫn theo ba chú chim non tha thẩn kiếm mồi trên bãi bồi, một chim con vướng chân vào vũng lầy, chim mẹ dùng mỏ bới bùn giúp con thoát ra, Nhân Tông bèn chỉ tay nói: – Muôn loài đều có tình mẫu tử. Bậc sinh thành luôn hết lòng vì con, nhất là khi chúng sa cơ. Hưng Đạo Vương đứng bên cạnh vua, góp lời: – Thưa bệ hạ, quả đúng vậy. Là con người hay muông thú, không bề trên nào bỏ con cái, cho dù đôi khi chúng cũng có lỗi lầm. Bấy giờ ở phía thượng nguồn có chiếc thuyền chở đầy than củi đang xuôi tới. Người chèo thuyền là một nam nhân vạm vỡ, đầu đội nón lá, mặc áo ngắn và vai, tay khua mái, miệng hò vang: Dô hầy thuyền xuôi Chở củi cho đời Đêm đông lạnh giá Lửa hồng reo vui Dô ta dô hầy. Nhân Tông nheo mắt nhìn và bảo với thị vệ: – Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao? Lấy thuyền đuổi theo đưa y về đây. Quân hiệu chèo thuyền đến cửa Đại Than mới bắt kịp thuyền chở than. Thấy nói được vua triệu hồi, người lái thuyền khẳng khái trả lời: – Ta chỉ là người bán than mưu sinh. Có gì mà phải triệu hồi? – Rồi nhất quyết không theo về gặp vua mà tấp vào bãi chợ bán hàng. Nghe quân lính trở về trình tấu lại, hoàng thượng quả quyết: – Nhất định người này là Nhân Huệ, kẻ dân dã tầm thường đời nào dám nói thế. – Ngài liền sai quan thị Phạm Trung Tín đi triệu bằng được Khánh Dư đến gặp. Vua tôi gặp gỡ, mừng tủi tỏ bày, bề trên tha thứ, kẻ dưới lạy tạ, một thuyền hân hoan vui vẻ. Được hoàng thượng ban áo ngự và phục chức, Nhân Huệ ngồi dưới các đại vương, trên các hầu tước, cùng bàn việc nước trên thuyền rồng trong buổi chiều hôm ấy.�� Phiên nghị đàm buổi chiều, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo trình bày về tình hình quân sự, là vấn đề gai góc, do nội bộ triều thần có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Ngài nói: – Theo ước tính của hạ thần, vệ quân và lộ quân của ta có hơn mười vạn, nếu giặc Nguyên kéo sang hai mươi vạn thì quân ta cứ một phải đánh hai, nếu chúng kéo sang đông hơn thì tương quan lực lượng rất bất lợi cho ta. Vẫn biết quân tinh nhuệ dù ít cũng có thể thắng quân ô hợp đông hơn nhiều lần. Nhưng chúng ta không được khinh suất, quân Thát rất thiện chiến, muốn thắng chúng không chỉ cần tinh thần hay giỏi đánh trận mà còn cần có lực lượng tương xứng. Ngoài quân đội triều đình, ta có vài vạn gia binh của các vương hầu tôn thất, song chừng ấy cũng chỉ thêm thắt được một phần nhỏ mà thôi. Vì vậy thần đề nghị hoàng thượng ban chỉ dụ tuyển thêm năm vạn tân binh bổ sung vệ quân và lộ quân, đồng thời kêu gọi vương hầu khanh tướng mộ thêm gia binh tại các lãnh địa của họ. Thời gian rất gấp gáp, mong Quan gia soi xét. Hưng Đạo vừa dứt tiếng, đã thấy Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đứng lên phản bác: – Tiết chế thống lĩnh quân đội chắc thừa biết quân Nguyên hùng mạnh thế nào, sứ giả của họ là Sài Xuân năm ngoái từng cảnh báo năm mươi vạn quân thiên triều sẵn sàng đợi lệnh kéo vào thanh tảo Đại Việt, vậy ta có bổ sung thêm năm vạn quân cũng chẳng ích gì. Dùng chưa đầy hai chục vạn quân nhiều năm không đánh trận đối đầu với năm mươi vạn quân thường xuyên chinh chiến thì khác nào “châu chấu đá xe”. Muôn tâu bệ hạ, thần cho rằng kế của Hưng Đạo là hạ sách. Bá quan văn võ xì xào trước chủ kiến của Chiêu Quốc Vương, nhiều người bất bình giận dữ, cũng lắm kẻ tán thưởng phụ họa. Nhân Tông thấy vậy bèn hỏi Ích Tắc: – Vậy Chiêu Quốc có thượng sách gì, nói cho ta biết? – Theo ý thần, cương với Đại Nguyên là không thức thời. Ta vốn dân ít nước nhỏ, còn không bằng một vùng Châu Giang bên đó, nếu cứ khăng khăng đối nghịch khiến họ tức giận kéo sang trừng phạt, bấy giờ xã tắc phòng giữ được chăng, hay là nền tự chủ bị họ xóa sạch, triều đình tan rã, quân thần ly tao, còn đẩy dân chúng vào chỗ can qua hoạn nạn, đói rách lầm than? Chi bằng nhún nhường một chút để Nguyên triều nguôi giận, một mặt dâng biểu tạ tội chưa làm tròn bổn phận phiên thuộc kèm theo cống phẩm dồi dào và nhi nữ hoàng tộc có nhan sắc sang kết tình giao hảo; một mặt chấp nhận để họ cử quan lại sang lập phủ Tiết độ sứ giám sát việc trị quốc của triều đình; mặt khác giúp họ vài vạn quân tham gia chinh phạt Chiêm Thành để chứng tỏ thái độ thành tâm quy thuận. Như vậy mọi sự ắt êm thấm, nước vẫn giữ được bình yên, con dân vẫn sống đời phúc mãn, hoàng thượng ở ngôi cao chín bệ vẫn là đấng chí tôn của Đại Việt. Nghe Chiêu Quốc nói, Nhật Duật ngồi bên cạnh liền nổi giận, bừng bừng sắc mặt mà quát lớn: – Ta không giỏi luận lý nhưng càng nghe huynh nói lại càng thấy sự đớn hèn nhu nhược. Nào là dâng biểu tạ tội, nào là cống nạp mỹ nữ hoàng tộc, nào là mời thái thú sang cai trị, những việc như thế là giúp cho giặc sớm xóa sổ vương triều, bấy giờ Đại Việt quốc sẽ thành An Nam phủ hay Giao Chỉ quận chi đó, lúc ấy lấy gì ra mà tự chủ? Nhiều tiếng gầm ghè nổi lên, không ít khanh tướng mặt đỏ tai tía sẵn sàng lên tiếng mắng chửi kế sách nhục nhã của Ích Tắc. Mấy kẻ chủ hòa thấy bất lợi, ngồi im phăng phắc, không dám ho he một tiếng. Nhân Tông vẫn lắng nghe nhưng không hề đổi sắc mặt, để giữ hòa khí, ngài nói: – Ta muốn các khanh có thái độ bình tĩnh, quân thần đều là người một nhà, không nên tranh cãi om sòm dễ sinh hiềm khích. Dùng lý lẽ mà thuyết phục người khác có tốt hơn không? – Không cho biết chủ ý của mình, Nhân Tông lại quay ra hỏi nhị vị vương gia đầu triều: – Chiêu Minh và Hưng Đạo có ý kiến gì về kế sách của Chiêu Quốc? Quang Khải trình bày: – Cách biện giải của Chiêu Quốc không thể chấp nhận được, xem ra trái thiên đạo, nghịch nhân tâm, nếu làm vậy là đắc tội với tông miếu xã tắc. Mệnh trời giao phó cho Đông A đứng đầu bách tính, làm chủ một cõi giang sơn trù mật, mà nay lại rước giặc vào nhà thì khác nào làm công cụ cho chúng hà hiếp muôn dân. Bấy giờ triều đình này không còn là của thần dân Đại Việt mà chỉ là một nhóm quý tộc bợ đỡ quân Nguyên để được yên thân, rồi sớm muộn cũng hòa huyết với người phương Bắc mà tanh lòng với đồng tộc, đồng bào. Giữa ta với Chiêm Thành mấy năm nay một mực hòa hiếu, đầu xuân họ còn cho người sang dâng voi trắng, vậy mà muốn làm hài lòng giặc Thát lại theo đuôi chúng đem quân sang tàn phá nước người, thật chẳng khác gì lòng lang dạ sói, trở mặt thành thù, bỏ nhân nghĩa để chuốc oán cừu. Hưng Đạo Vương cả mừng khi thấy tinh thần trung dũng của Chiêu Minh Vương được nhiều người hưởng ứng, chờ cho khí thế của đình thần lắng xuống, ngài mới lên tiếng: – Chiêu Quốc biết một mà không biết hai, so sánh lực lượng đôi bên để cho thấy ta yếu hơn giặc nên cần tăng cường thêm quân đội, không có nghĩa tình thế của ta bất lợi hơn giặc. Quả thật, nếu dàn quân hai nước đánh nhau một trận để phân thắng bại thì ta khó địch được chúng, song kết quả của chiến tranh không phụ thuộc vào một trận đánh. Giặc tuy đông quân nhưng vào đất lạ đã không thông thuộc địa hình lại còn chẳng quen phong thổ, không được sự hậu thuẫn của dân chúng lại phải vận chuyển lương thảo từ xa đến, đó chính là tình thế bất lợi của kẻ xâm lược. Đại Việt ta đâu chỉ có mười hoặc hai mươi vạn quân, chúng ta còn có hàng triệu thần dân trong nước, họ cũng biết cầm vũ khí đấy, một khi quý vị nhất quyết cùng quan gia hô hào, khích lệ và lãnh đạo người dân sát cánh với quân đội đánh giặc giữ nước, Hoàng thượng phất cờ hiệu triệu, quần thần tuốt gươm đồng tâm, tất dân chúng sẽ hưởng ứng. Ta có núi rừng, ta có làng bản, ta còn có dũng khí và nhân tâm, đó chính là tình thế đại lợi của ta, vậy thì sợ gì năm mươi vạn quân Thát? Nói đến đấy, giọng Quốc Tuấn chùng xuống, ngài hướng mặt rưng rưng nhìn hoàng thượng rồi thổ lộ nỗi lòng: – Buổi sáng nay, trước lúc nghị đàm, thần và các quan chứng kiến việc Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu nằng nặc đòi vào tham nghị, do hai người còn nhỏ tuổi chưa thể luận bàn việc nước nên hoàng thượng đến an ủi và ban quà cho họ. Nhìn gương mặt phẫn kích của bọn trẻ, quả thật lòng thần rất xúc động nhưng cũng vô cùng phấn khởi vì thấy ý chí của huyết thống Đông Á mạnh mẽ biết nhường nào. Mạn phép bệ hạ, thần có đến khuyên chúng một câu “Các ngươi hãy trở về mà nghĩ cách phò vua giúp nước theo khả năng của mình”. Thần tin rằng Hoài Nhân và Hoài Văn sẽ ứng nghĩa cùng triều đình từ thái ấp của họ. Ước sao các vị ngồi đây ai cũng có tinh thần quật cường như tụi đầu xanh tuổi trẻ. Hưng Đạo vừa ngưng lời, từ hàng ghế cuối có kẻ lên tiếng: – Khởi bẩm Quan gia, xin người cho phép hạ thần được hỏi Hưng Đạo Vương một câu. Mọi người quay lại nhìn, thì ra đó là Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện con trai của Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, hiện trọng nhận trấn thủ Ái Châu. Thấy hoàng thượng gật đầu đồng ý. Chương Hiển bền cao giọng hỏi: – Hưng Đạo Vương có đề nghị Quan gia hô hào các vương hầu tuyển mộ và huấn luyện dân binh cho đông đảo để ứng nghĩa cùng triều đình đánh giặc. Vậy xin hỏi ngài tuyển mộ bao nhiêu cho vừa, lấy gì mà nuôi họ ăn ở và luyện tập, nếu triều đình không cấp kinh phí thì các vương hầu làm sao có tiền bạc để mộ quân? Quốc Tuấn trả lời: – Ngân quỹ quốc gia có hạn, nếu đem phân phát cho mọi người để mộ binh thì e rằng không đủ, dù có cấp cho thì cũng không quản lý nổi việc chi dùng. Các vương hầu ai cũng có thái ấp rộng lớn, ruộng đồng ngàn mẫu, tá điền vạn định, thóc lúa đầy kho, bạc vàng đầy rương, vậy mà phò vua cứu nước nhưng chẳng muốn sử dụng vật lực của mình lại đòi triều đình cấp phát. Đấy là ứng nghĩa sao? Ta nghe nói điền trang của Chương Hiến ở Ái Châu lớn hơn một huyện, còn phủ của hầu to gấp ba lần dinh của vương, kinh phí nuôi gia binh sợ gì thiếu thốn? Bị Hưng Đạo cật vấn, Trần Kiện đuối lý, ngượng nghịu ngồi im. Quốc Khang thấy con bí thế bèn nói đỡ một câu: – Chương Hiến tâm địa không tệ nhưng nông cạn, được Hưng Đạo chỉ giáo mới sáng mắt. Trần Kiện còn là con rể của Chiêu Minh Vương, nên khi thấy hiền tế ăn nói thiển cận, Quang Khải không lên tiếng phê phán, chỉ ngồi yên mà lắc đầu ngao ngán. Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trong ngồi ngay sau Tĩnh Quốc, suốt buổi họp bàn không hề nói năng, bấy giờ mới lên tiếng: – Vương hậu khanh tướng ở đây đều là rường cột lớn nhỏ chống đỡ hoàng triều, ai cũng được ân sủng dồi dào, nếu cứ khư khư cái hầu bao của mình mà không lo củng cố nền móng thì khi dông bão ập đến bấy giờ rường cột cũng gãy đổ. Nhân Tông nghe xong bật cười, mà rằng: – Bảo Nghĩa ví von chí lý lắm. Các khanh hãy ghi nhớ lời của y. Từ nãy đến giờ ta được nghe nhiều thuyết giải rồi, nhưng mọi ý kiến đều từ miệng của kẻ quyền thế, trong khi ta lại muốn biết người dân ngoài kia nghĩ gì về đường lối vệ quốc. Nay có Nhân Huệ mới hồi triều tùng mấy năm sống đời dân dã, vậy vương hãy cho ta và quần thần được biết lòng dân nghĩ sao về việc này? Khánh Dư ngồi ở hàng giữa bá quan, được bệ hạ chỉ đích danh, do đã lâu không tham gia nghị chính nên có vẻ lúng túng, Hưng Đạo phải đưa mắt khích lệ, ông mới ấp úng trả lời: – Muôn tâu thánh thượng, do mưu sinh buộc thần phải lăn lộn khắp nơi, quan hệ với nhiều hạng người nên ít nhiều hiểu được nhân tâm mong mỏi điều gì. Triều đình ta họp bàn chính sự mỗi năm chỉ độ dăm, bảy lần, còn người dân bàn việc nước ở mọi nơi mọi lúc, nhất là khi trà dư tửu hậu, tuy họ vẫn biết rằng tiếng nói của kẻ thấp cổ bé họng chẳng thể lọt thấu tại ngôi cao chín bệ. Nhưng dân chúng rõ cả đấy, từ việc nhà Nguyên o ép vương triều đến việc Di Ái cam tâm bán nước, họ bức bối lắm, căm giận lắm, chỉ mong đợi hiệu lệnh từ đấng minh quân để xúm tay vào gốc vác non sông, chứ nhất quyết không cam tâm quỳ gối khom lưng làm tôi đòi cho giặc. Có lão ông từng theo tiên để đánh Thát thời Nguyên Phong còn nói: chúng mà kéo sang, lão tuy chẳng được như xưa cũng sẽ vác gươm tòng chinh... Hơn trăm cặp mắt hướng về quân vương, nhìn ngài chống cằm tư lự ra chiều xúc cảm lắm. Cả nghị đình im lặng như tờ, nghe vọng vào tiếng sóng triều ọp. Ở ngoài kia nước sông đang dâng lên...�� Sau lúc ưu tư, Nhân Tông đưa mắt dõi khắp lượt quan viên rồi truyền dạy: – Làm vua một nước ai cũng muốn xã tắc được bình yên, triều đại được thịnh cường, nhân quần được no đủ. Song không thể đổi hòa bình bằng mọi giá. Mới rồi nhà Nguyên hạ chiếu bắt trẫm sang chầu, còn đòi ta thực hiện cho đủ sáu điều ô nhục. Đường đường là vua Nam quốc mà phải đến tận Đại Đô quỳ lạy vua nước người hay sao? Phải dâng sổ đinh cho chúng kiểm soát dân số hay sao? Phải trợ binh đi chết thay cho chúng hay sao? Phải rước mời Đạt lỗ hoa xích sang cai trị dân ta hay sao? Những điều ấy trẫm không làm được. Chúng ta vẫn cố giữ thái độ mềm mỏng để có được hòa bình, nhưng một khi bị dồn vào đường cùng thì không còn cách nào khác ngoài việc vua tôi đồng lòng mài gươm sửa giáo đợi giặc đến. Ý trẫm là vậy, lòng dân cũng thuận theo ta, mong các khanh hiểu thấu tâm can này mà suy ngẫm trách nhiệm của mình trước vận mệnh xã tắc. Hưng Đạo vô cùng phấn khởi, chủ ý của nhà vua đã rõ ràng. Sá gì mấy kẻ chỉ biết vinh thân phì gia, cầu an hưởng lạc mà đớn hèn trước giặc, vua tôi Đại Việt đã sẵn sàng một phen sống mái với lũ ngoại xâm phương Bắc. Đêm khuya cao hứng, Vương này tình làm một bài thơ tứ tuyệt: Vua mạnh dân bền, chung ý chí Muôn lòng sắt đá dựng kỳ công Chẳng sợ quân Hồ nhiều ngựa chiến Hỏa ngục non Nam ắt rực hồng.Đế dùng dân kiện chí nhất đồng Vạn tâm thạch thiết kết kỳ công Bất đảm binh Hồ đa chiến mã Hà tại Nam sơn ngục hỏa hồng. Chương 2 Uất chí bến Bình Than, Hoài Văn chiêu quân ứng nghĩa Nặng lòng vườn Thanh Trúc, Mẫn Bà bán ngọc may cờ Lại nói về Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, người đã rủ Hoài Nhân Vương dong thuyền đến Bình Than, hy vọng được thay cha tham nghị việc nước. Sở dĩ có chuyện này vì cha của cậu là An Bình Vương qua đời từ hai năm trước, nên triều đình không gửi công văn triệu hồi. Tình cờ Hoài Nhân ghé qua chơi, bấy giờ Quốc Toản mới biết được thông tin Quan gia mở hội nghị bàn kế giữ nước. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Hoài Nhân đã mang tước vương vì là con của Thượng hoàng Trần Thánh Tông, em cùng cha khác mẹ của Nhân Tông hoàng đế. Cho nên không có gì lạ khi Hoài Nhân thông thạo tin tức triều chính hơn Hoài Văn. Một bậc vương, một bậc hầu, hơn kém nhau một tuổi, song hai người kết bạn với nhau từ nhỏ vì điền trang của hai nhà cùng trong huyện Thanh Lâm. Khi nghe nói mở hội nghị Bình Than, Hoài Văn bảo với Hoài Nhân: – Sao ta không được gọi nhỉ? Huynh có được gọi không? Hoài Nhân đáp: – Triều đình quy định vương hầu đủ mười tám tuổi mới được dự việc nước. Huynh mới mười sáu, còn ta mới mười lăm nên không được dự. Quốc Toản bất bình: – Như vậy ta không phục. Tuy chưa đủ mười tám nhưng chúng ta cũng biết phân biệt trắng đen, biết ứng thuận chống nghịch, biết ai là bạn, ai là thù. Giả sử giặc tràn sang thì tráng niên mười tám tuổi trở lên mới được đánh giặc à, còn tụi ta phải bám váy mẹ mà trốn chạy vào rừng hay sao? Hoài Nhân tặc lưỡi có vẻ hiểu vấn đề nhưng “lực bất tòng tâm”: – Biết vậy, song quy định như thế, phải tuân thủ thôi. Quốc Toản tỏ thái độ cương quyết: – Không được. Là nam tử ở đời, bất luận tuổi tác ai cũng có trách nhiệm tham gia công việc phò vua giúp nước. Ta cứ đi, đến đấy tranh đấu cho ra lẽ. Hoài Nhân do dự: – Lỡ không được vào còn bị hoàng huynh quở trách thì tính sao? Quốc Toản lý giải: – Mình không phải nghịch thần tặc tử nên không việc gì phải sợ. Chẳng cho vào thì thôi chứ Quan gia đời nào bắt tội người có lòng muốn tham dự việc nước. Hoài Nhân thấy an tâm hơn, gật đầu chấp thuận: – Đi thì đi. Thế là hai chàng niên thiếu vận lễ phục theo phẩm trật, sai tôi tớ dong vương thuyền của Hoài Nhân từ thượng nguồn sông Thủ Chân xuôi về bến Bình Than cách đây chừng bốn mươi dặm. Khi đến vùng Trần Xá thấy thuyền bè đậu san sát, ngựa xếp kín bãi, cờ xí bay rợp trời, lính canh vòng trong vòng ngoài thật uy nghi hoành tráng đủ khiến cậu trai hiền lành Hoài Nhân tỏ ra ngần ngại. Hoài Văn phải khích lệ: – Đã đến đây rồi, còn chần chừ gì nữa. Huynh là hoàng tử, dưới một người trên muôn người, việc gì phải dè dặt. Họ đậu thuyền từ xa, cuốc bộ vào vùng cấm địa. Lính canh vòng ngoài thấy hai vị tiểu vương hầu áo mũ xênh xang, lại có người biết mặt Hoài Nhân nên không dám ngăn cản. Nhưng khi muốn lên thuyền rồng thì bị cấm vệ cự tuyệt. Quốc Toản một mực đòi vào, cấm vệ khăng khăng cản lại, khiến cậu chàng bất bình tranh cãi. Bấy giờ Quan gia và đại thần đứng trên thuyền rồng đàm đạo, nhìn xuống bờ thấy có đám đôi co ầm ĩ, nhà vua bèn sai thị thần gọi hai kẻ to tiếng lên thuyền để hỏi chuyện. Nghe Hoài Văn và Hoài Nhân giãi bày mong muốn được tham gia hội nghị bàn việc nước, hoàng thượng không quở trách còn dùng cách xưng hô trong nhà mà từ tốn giải thích: – Các đệ còn nhỏ tuổi nên chưa thể dự bàn. Hãy về nhà tu tâm dưỡng tính và rèn luyện võ nghệ cho giỏi, vài năm nữa đến độ trưởng thành đương nhiên huynh sẽ có ghế dành cho hai người. Quốc Toản vẫn cố dùng lý lẽ thuyết phục nhà vua: – Khởi bẩm bệ hạ, thần và Hoài Nhân Vương đến đây chỉ cốt bày tỏ thái độ sẵn sàng tham gia đánh giặc giữ nước, chứ không có ý gì khác. Chúng thần nghĩ tuổi tác không quyết định tinh thần, tại sao phải quy định giới hạn? Nhân Tông nghe thấy vậy liền cười rồi nói: – Ta khen ngợi nhiệt huyết của mấy đệ nhưng cho các em tham dự thì nếu cả trăm vương hầu trạc tuổi hai người cũng đòi phá lệ để được vào, bấy giờ chỗ đâu mà chứa. Hãy nghe lời huynh, các đệ về đi. – Nói rồi, tiện thấy trên bàn có đĩa cam tươi, vua lấy hai trái dúi vào tay Hoài Văn và Hoài Nhân, lại sai thị vệ tiễn họ xuống thuyền. Lòng Quốc Toản uất nghẹn nhưng chẳng biết nói gì thêm, đành lủi thủi cùng Hoài Nhân rời bến. Bi phẫn ngập tràn cảm xúc, bàn tay Toản bóp nát quả cam của vua ban mà không hề hay biết. Hoài Nhận thấy vậy liền an ủi bạn: – Không dự họp lần này thì còn lần khác. Quan gia hứa vài năm nữa ắt có ghế cho mình. Bấy giờ ai dám cản? Chợt có tiếng gọi từ phía sau: – Tiểu vương hầu, hãy chờ ta. Họ quay lại, thấy Quốc công Tiết chế đang rảo gót đi tới. Hưng Đạo đến gần hai nhà quý tộc nhỏ tuổi rồi bảo: – Lúc nãy ta đã chứng kiến lòng nhiệt thành của các em. Quả tình ta rất cảm phục chí khí tuổi trẻ. Nhưng các em cũng nên cảm thông cho hoàng thượng, quy định vua ban không thể có ngoại lệ, như thế mới giữ được kỷ cương. Quan gia không để hai người dự họp nhưng ngài đâu thể cấm các em tổ chức đánh giặc. Hãy về mà nghĩ cách phò vua giúp nước theo khả năng của mình. Lời của Hưng Đạo làm lóe lên trong đầu Quốc Toản một ý định chưa thật cụ thể nhưng đã có hình hài, mở ra một hướng giải quyết khát vọng rất sáng sủa và trong tầm hiện thực. Niềm lạc quan lại đầy ắp, Hoài Văn cười rạng rỡ, cùng Hoài Nhân bái tạ Tiết chế Đại Vương, rồi đôi bạn hồ hởi xuống thuyền lại đáo Thanh Lâm. Trên đường về, họ bàn luận sôi nổi lắm, khiến mấy gã gia nhân thầm thì bảo nhau: – Hai vị tiểu chủ nhà mình tuổi trẻ tài cao chắc được nhà vua đề bạt làm tướng nên chỉ thấy bàn chuyện ngũ lữ, gươm giáo với cờ xí. Phu nhân Trần Thị Trúc Mẫn là cháu họ của Thái sư Trần Thủ Độ, khi xuân xanh đôi tám được gả cho tướng quân An Bình Vương Trần Phái. Tuy duyên phận do hoàng gia sắp đặt nhưng tình nghĩa vợ chồng vẫn đầy ăm ắp, có điều họ chung sống với nhau mười lăm năm mà vẫn không có con nên bầu không khí trong nhà buồn tẻ lắm. Nghe ở đâu có thuốc hay thầy giỏi là vợ chồng bà cũng nhất quyết thỉnh về, nghe ai nói miếu nọ đền kia rất linh thiêng dù cho xa tận Hoan Ái thì hai người cũng lặn lội tìm đến cầu tự. Nhưng ông trời quá cay nghiệt với họ, khi trên đầu tướng quân đã hai thứ tóc mà trong nhà vẫn vắng bóng trẻ thơ. Nhiều lúc buồn tủi trước ánh mắt dè bỉu trong tộc họ, phu nhân muốn lang quân cưới thiếp để có con nối dõi, song ông cứ lảng tránh mãi. Thế rồi một người mách bảo với bà ở vùng Xích Thổ ở trên bờ sông Gián Khẩu có đền thờ Long Vương Đông Hải là nơi nhiều người đến cầu con đều được linh ứng. Nghe nói nơi ấy xưa kia có nàng thiếu nữ xinh đẹp thường ra sông tắm gội, một lần thái tử Long cung theo sông nước dạo chơi vùng sơn thủy hữu tình đã tình cờ nhìn thấy nên đâm ra mê mẩn. Ngài hóa thành chàng trai tuấn tú đến bắt chuyện làm quen, rồi từ đó đôi bên đem lòng yêu thương nhau. Nhưng người trần không thể kết duyên và có con với thần biển, nàng đành ôm hận mà nguyện một đời ở vậy. Khi thái tử trọng nhạm Đông Hải đã cảm thương người xưa tình cũ mà chú nguyện cho nước nguồn trên núi – nơi họ thường dạo chơi – linh ứng với đôi lứa đến cầu phúc, cầu tự. Trúc Mẫn phu nhân thuyết phục chồng thêm một lần nữa thành tâm đi lễ bái, biết đâu lại được báo đáp. Vì thương vợ mà An Bình Vương miễn cưỡng cùng bà lên đường, tuy trong lòng ông đã mất hết niềm tin vào khả năng thần thánh sẽ phù trợ cho mình có một mụn con. Họ đến nơi thì trời chuyển mây u ám rồi mưa trút xuống xối xả. Lúc bước lên thềm ngôi đền, phu nhân bị trượt chân ngã bệt xuống, bụng dưới đập vào cạnh bậc đá đau điếng. Nhưng bà chẳng dám kêu rên mà còn nói “Không sao” vì sợ ông phàn nàn đi cầu may lại rước họa. Sau khi đặt lễ cúng dường, hai vợ chồng quỳ trước linh vị thần biển mà lầm rầm khấn khứa. Ông thủ từ nhà đến bước ra từ hậu đường, trên người khoác áo lụa đỏ, đầu quấn khăn xếp đội một khay nước, chắp tay bái vọng ban thờ, miệng lanh lảnh van vái: – Long Vương đại hải. Uy Vũ cõi đông. Ra ơn cứu độ. Giúp vợ trợ chồng. Phu phụ Trần Phái. Được con nối dòng. Lòng thành kính bái. Ân đức thiên tai. Rồi thủ từ nhấc chiếc khay khỏi đầu, chén nước vẫn đầy nguyên không đổ ra ngoài một giọt, ông dâng cho phu nhân và nói: – Nước này hứng từ khe núi sau đền, xin phu nhân hãy uống cạn. Lạ thay, Trúc Mẫn vừa uống xong chén nước thì một tiếng sét nổ vang trên núi, mọi người nhìn ra ngoài đã thấy mưa tạnh trời quang, ánh nắng chói lòa gieo sắc vàng lấp lánh mặt sân sũng ướt. Thủ từ kinh ngạc bảo: – Ứng nghiệm nhanh quá. Thiện tại. Thiện tai. Trở về thái ấp chưa hết tuần trăng, phu nhân thấy trong người đổi khác. Một hôm bà thỏ thẻ với chồng: – Hình như thiếp đã có thai. Ông tưởng mình nghe nhầm, bèn hỏi lại “Có gì?”. Bà trả lời “Có thai chứ còn gì nữa”. Bậc trượng phu mừng quá líu cả lưỡi mà rằng “Thật... thật à? Sao... sao bây giờ mới nói?”. Bà đáp “Phải chắc chắn mới dám nói”. Thế là An Bình Vương cùng hai gia nhân phóng ngựa thâu đêm đi tạ lễ nhà đến. Chuyện đến tại Thượng hoàng Trần Thái Tông, một hôm sau buổi chầu, ngài hỏi An Bình: – Ta nghe nói phu phụ tướng quân cầu đền Long vương đã đậu thành quả? – Khởi bẩm Thượng hoàng, vợ thần mang thai được sáu tháng. Trước kia vợ chồng bề tôi có đến cầu Long Quân, song huyền cơ thế nào hạ thần không dám khẳng định. – An Bình trả lời thành thật. Thái Tông lại nói: – Dầu thế nào ta cũng mừng cho vợ chồng khanh, cũng là mừng cho dòng dõi Đông A. Nội tộc thêm con, hoàng gia thêm cháu là phúc của trời ban cho họ Trần ta đó. Quả đúng thánh thần phù trợ thì đứa trẻ này khác người lắm. Mai mốt phu nhân lâm bồn, nếu sinh con trai hãy đặt tên là Quốc Toản, mang nghĩa là chén ngọc quý của nước nhà dâng lễ trời đất. Rồi ngài lấy bút viết chữ Toản lên giấy và đưa cho An Bình Vương. Tướng quân mừng lắm, khấu đầu lạy tạ Thượng hoàng bằng tấm lòng tràn trề cảm kích. Trên đường trở về thái ấp, ông linh cảm hài nhi trong bụng vợ sẽ là con trai. Ngày Quốc Toản chào đời, An Bình Vương cho trồng thật nhiều trúc quanh dinh thự và đặt tên thái ấp là Thanh Trúc viên, vừa thể hiện tấm tình đối với hiền thê Trúc Mẫn đã cần mẫn một đời tìm kiếm cho được hạnh phúc tươi tốt, vừa khẳng định niềm tin đứa con đầu lòng sẽ lớn khôn khỏe mạnh và được chăm chút nên người, sớm trở thành một trang nam tử có khí phách và ngay thẳng như tre trúc. Từ ngày đức lang quân mắc bạo bệnh qua đời, gia cảnh của phu nhân Trúc Mẫn không còn sung túc như xưa. Mất lương bổng của triều đình, nguồn sống của hai mẹ con chỉ trông vào khoản nông phẩm do tá điền cống nộp. Dẫu cuộc sống khó khăn hơn trước, nhưng tâm tính của bà chẳng hề đổi khác, vẫn nhân hậu với những hoàn cảnh hoạn nạn và chu đáo với kẻ ăn người ở trong nhà. Bà tâm niệm cuộc đời mãn nguyện rồi, cao xanh đã đắp điểm cho mình đủ hạnh thì cũng nên chia phúc cho người khác, đấy mới là lẽ an bằng của hóa công. Ông nhà quy tiên chưa đầy nửa năm thì lũ lụt đổ về làm ngập úng đồng ruộng, còn bao nhiêu thóc dự trữ, bà sai người phân phát hết cho các hộ bị mất trắng mùa màng, chỉ để lại số lượng thực đủ dùng qua cơn giáp hạt. Trước kia trong nhà có tới ba chục tôi tớ, phận góa bụa đâu cần lắm kẻ hầu người hạ, nên bà cho về gần hết, chỉ giữ lại dăm người thân tín nhất. Các gia nhân rời thái ấp đều được cấp chút ít vốn liếng hoặc một mảnh đất để dựng nhà. Đức hạnh của quả phụ Trúc Mẫn được người trong vùng hết lòng khâm phục, họ gọi Bà bằng thái độ tôn kính nhất. Quốc Toản từ Bình Than trở về đã vội vàng vào nhà vấn an mẹ. Thấy ánh mắt của con có vẻ phân vân lưỡng lự, biết Toản đang nghĩ cách thưa gửi điều gì đó, Mẫn Bà bèn chủ động dò hỏi: – Xảy ra chuyện gì vậy? Mẹ có giúp được cho con không? Toản ngần ngừ chốc lát rồi thú thật với mẹ: – Có một việc hệ trọng nhưng không phải chuyện xấu mà là điều đại nghĩa. Con và Hoài Nhân Vương đang bàn tính kế hoạch thực hiện, chỉ mong được mẹ chấp thuận. Bà nói: – Việc gì? Con nói rõ xem nào. Nếu hợp đạo lý thì mẹ sẽ ủng hộ. Toản trình bày: – Hoàng thượng và triều đình họp bàn việc nước ở Bình Than. Con và Hoài Nhân có đến nhưng vì còn nhỏ nên Quan gia không cho dự. Lòng con uất ức lắm mà không biết làm sao có thể góp Công sức đánh đuổi ngoại xâm, báo đến ân nghĩa của hoàng triều. Hưng Đạo Đại Vương thấy vậy bèn chỉ dạy “Quan gia không cấm ai đánh giặc. Hãy tùy theo khả năng của mình mà phò vua giúp nước”. Chúng con đã ngộ ra chân lý nên nhất quyết sẽ dựng cờ tụ nghĩa, tuyển mộ dân binh, rèn mác luyện võ, sẵn sàng đánh giặc khi chúng kéo sang. Thưa mẹ, cha con một đời trung quân ái quốc, vì người đã mất nên không thể góp mặt ở Bình Than, nhưng chí khí của người vẫn sôi sục trong huyết mạch của con, con nhất định phải kế tục. Nói đến đấy, Toản nghẹn ngào ngước nhìn làn khói hương quản quanh bên linh vị trên bàn thờ cha, rồi buồn bã thở dài: – Ngặt nỗi nhà mình bây giờ không còn dư giả, nên con chưa biết lấy đâu ra tiền bạc để chiêu quân. Nếu mẹ chấp thuận cho con ứng nghĩa đánh giặc thì xin người tìm cách giúp con vượt qua khó khăn này. Người mẹ lặng nhìn con mà ứa lệ. Nó đã khôn lớn thật rồi, trong cơ thể trẻ ranh có lửa, có nhiệt huyết tràn trề và khí phách hiện ngang. Mẫn Bà cảm nhận được hình bóng của người chồng trong dáng vóc Quốc Toản, đứa con duy nhất được bà đứt ruột đẻ ra sau quá nửa cuộc đời mòn mỏi trông đợi. Nhưng không người mẹ nào vui vẻ khi thấy đứa con niên thiếu khoác áo chinh nhân, không người mẹ nào an lòng khi thấy con trẻ dấn thân vào sa trường máu lửa. Tình mẫu tử của bà cũng vậy, nó đang ngụy tạo một lớp vỏ thiêng liêng để níu kéo tâm hồn xuống tận cùng thăm thẳm của lòng vị kỷ và ra sức biện minh bằng bản năng thiên chức “Con còn nhỏ tuổi, hãy ở trong vòng tay mẹ, để mẹ được bao bọc con lâu hơn”. Vậy mà vị chát trên bờ môi lại khiến Mẫn Bà chợt hiểu có điều gì bất ổn trong suy tính của mình. Bà tự nhủ: – Không nên yếu đuối trước mặt con. Ở tuổi của ta, khóc lóc giàn giụa chỉ là nỗi hờn cô độc. Ngước nhìn lên, thấy khói nhang mù mịt hương án như chất chưa biết mấy niềm u uất nơi vong linh người chồng quá cố, Mẫn Bà bần thần cảm giác có lẽ hương hồn ông chẳng đồng tình với cách nghĩ của bà. Bà thấy hổ thẹn trong lòng vì đã cố tìm kiếm lý lẽ để chống chế phản ứng bột phát khi biết con trai muốn tham gia trận mạc đánh giặc cứu nước. Giang sơn, dân tộc và triều đại là những thứ lớn lao hơn tình cốt nhục, vợ chồng bà đã dạy dỗ con nên người bằng đạo lý ấy, con của bà đã lớn khôn bằng lẽ sống ấy. Thôi đành nuốt nước mắt cho chảy xuống tận đáy lòng sâu kín, để tủi buồn cô quả không làm vướng bận tâm trí con trẻ; thà tận tụy giúp con ứng nghĩa phò vua còn hơn rào dậu chí khí thanh xuân trọng lũy tre kín gió; thà nâng đỡ bước chân con trên đường đời cát bụi còn hơn vận tình mẫu tử mà níu giữ thân phận nam nhi quẩn quanh trong xó nhà để báo đền ơn nghĩa sinh thành. Tâm tư thông suốt, Mẫn Bà nói với con trai: – Quả thật, nhà ta chẳng có mấy của nả. Nhưng mẹ vẫn còn một số vàng ngọc dành dụm bấy lâu, tuy không nhiều nhưng cũng đủ cho con làm kinh phí tụ nghĩa trong thời gian đầu. Con hãy lo việc tổ chức chiêu quân, phần tiền bạc mẹ sẽ chu cấp. Quốc Toản mừng lắm, vội quỳ dưới gối bà mà cảm tạ từ mẫu rồi cùng hai gia nhận vội vã phóng ngựa đi. Nhìn bóng con khuất dần sau lũy trúc, Mẫn Bà nở nụ cười trìu mến. Đêm ấy phu nhân mở cái rương chứa đồ quý, lấy ra một chiếc hộp khảm bạc đựng vàng ngọc hồi môn và các đồ nữ trang dành dụm trong bấy nhiêu năm, rồi mân mê từng món kỷ vật mà nhớ về một thuở xa xưa. Bà buồn bã thở dài nhưng chẳng bớt lại một món nào, đậy hộp lại và gói bằng vuông lụa đỏ. Tờ mờ sáng hôm sau, khi sao mai còn lấp lánh trên trời, Mẫn Bà cùng người lão bộc thân tín và một thị nữ xuống thuyền thượng kinh, đem theo toàn bộ của nả còn lại của gia đình một vị đại vương lúc sinh thời đức cao vọng trọng. Mẫn Bà trở về Thanh Trúc viên trên chiếc thuyền chở đầy bao to, gió lớn. Số vàng ngọc quý giá đã được hoán đổi thành vải vóc, mũ giày và binh khí, toàn những thứ thiết yếu dùng vào việc trang bị cho nhà binh. Mới đi vắng năm ngày mà thái ấp đã hoàn toàn khác lạ, bà thật sự ngỡ ngàng trước khung cảnh tất bật của hàng trăm con người mải mê làm việc dưới sự điều hành của Quốc Toản và các trợ thủ đắc lực. Lũy trúc bị đốn hạ quang đãng, chỉ còn lại những búp măng trơ trọi trong ánh nắng vàng hoe. Mấy toán trai tráng đang hì hục dựng trại bằng những thân tre còn xanh mướt. Dãy nhà kho bỏ không lâu ngày lại mở cửa nhập lương thực từ những gánh thóc kĩu kịt của đám đàn bà. Tiếng búa lò rèn nện chan chát trong túp lều tạm bợ ở cuối vườn dội vang cả khu trại. Đại sảnh rộng rãi hơn hẳn khi mọi vật dụng sinh hoạt được dọn sạch, thay vào đấy là một án thư mộc mạc có đám người vây quanh làm thủ tục nhập tên phân ngũ. Quốc Toản thấy thân mẫu trở về vội vàng chạy tới đón mừng. Chàng ta hớn hở khoe với mẹ: – Chỉ mấy ngày đã có năm, sáu trăm tá điền đăng tên trình diện, gia nhân cũ cũng tề tựu gần đủ. Con trai của một quan viên cáo lão dẫn theo mười mấy người đến gia nhập đội ngũ. Dân chúng còn tự nguyện góp lương và mang cả dụng cụ bằng sắt đến rèn dao mác. Người mẹ hỏi: – Sao phải chặt trụi cả vườn trúc thế kia? Quốc Toản đáp: – Con cho chặt để lấy tre dựng lán trại làm nơi ăn chốn ở của nghĩa binh. Mẹ đừng buồn con nhé, mai mốt măng lại thành tre, vườn nhà lại xanh tươi như trước. Mẫn Bà nhìn đống lá cành bị vứt bỏ bằng ánh mắt tiếc nuối nhưng vẫn nói để con an lòng: – Kể cũng tiếc thật, lũy trúc bằng tuổi con đấy. Mà thôi, tre già măng mọc, cha con ở trên trời nhìn xuống chắc cũng không buồn phiền đâu. Mẹ mua vải may trang phục cho nghĩa binh, nhưng đông thế không biết có đủ cho mỗi người một bộ. Còn sắm được vài trăm đao kiếm, như vậy là thiếu nhiều lắm. Quốc Toản cả mừng, cười tươi với mẹ: – Con thay mặt anh em nghĩa binh xin đa tạ mẹ. Về vũ khí không lo lắm, nhiều người đã có vũ khí của họ, ngoài số mẹ mua về, nếu thiếu thì lò rèn sẽ cung cấp. Con quên dặn mẹ mua vải đỏ để may cờ, lúc nhớ đến thì mẹ đã đi rồi. Người mẹ nói thản nhiên: – Có mua đấy, một cuộn to thừa may một lá cờ lớn. Toản kinh ngạc, thốt lời thán phục: – Mẹ tài giỏi thật, đoán được cả bụng con muốn gì. Mẫn Bà mỉm cười vui vẻ: – Ta đẻ ra ngươi mà, không hiểu con thì làm sao làm mẹ. – Đại kỳ phải có tên hiệu, con chưa nghĩ ra nên viết chữ gì trên lá cờ. – Toản tâm sự. – Hôm trước con đã nói, muốn “góp công sức đánh đuổi ngoại xâm, báo đến ân nghĩa của hoàng triều”, đúc kết lại gọn gàng thành câu “Phá cường địch, báo hoàng ânPhá giặc mạnh, báo ơn vua”, vừa là hiệu kỳ vừa thể hiện tôn chỉ của nghĩa binh. Nền đỏ thêu chữ vàng sẽ rực rỡ lắm. – Mẫn phu nhân gợi ý. Thật tuyệt vời, ý tứ cô đọng mà giàu biểu cảm, chứa đựng đủ đầy chí khí của thần dân Đại Việt trước họa xâm lăng. Toản mừng khôn xiết khi được mẹ gỡ bị cho mình, nhưng rồi cậu lại băn khoăn: – Cờ to thì chữ phải lớn, hiệu kỳ gồm sáu chữ, con sợ thêu không kịp để ngày mai thượng cờ. – Việc này để mẹ lo. Con cứ chu tất các phần việc khác là đầu vào đấy. – Mẫn Bà khoát tay quyết đoán. Cậu trai hớn hở nói: – Dạ thưa mẹ, con đi chuẩn bị kỳ đài. Buổi chiều hôm ấy, những phụ nữ khéo tay được triệu tập đến tư dinh của phu nhân để may trang phục cho nghĩa binh. Mẫn Bà và hai thị nữ đảm trách phần may cờ thêu chữ. Gian đại sảnh hóa thành công xưởng may thêu, các bà các cô tíu tít ai vào việc nấy bận rộn cho tới khuya mới ngưng tay. Việc may trang phục không cần gấp, vì mười ngày nữa mới cử hành lễ khai quân, nhưng việc may cờ xem ra khó hoàn tất để có thể thượng cờ vào giờ thìn ngày mai. Tới canh tý, khi mọi người đã ra về hết, Mẫn Bà cùng hai người hầu vẫn cắm cụi làm việc dưới ánh đèn nến lung linh. Họ mới thêu được bốn chữ, trong khi thị nữ đã uể oải lắm rồi. Quốc Toản lo cho sức khỏe của mẹ, xin người đi nghỉ, việc thượng cờ sẽ dời sang ngày khác. Bà trả lời cương quyết: – Không được. Chưa ra quân mà có một chút trở ngại đã vội bỏ cuộc, sau này làm sao đánh giặc? Chọn được ngày lành tháng tốt thì không nên thay đổi. Con về phòng ngủ đi, ngày mai sẽ có cờ.�� Cậu hiểu tính bà, khi người đã nói vậy thì không ai lay chuyển được. Toản thương mẹ lắm mà chẳng thể giúp được gì, đành quay về phòng nằm trằn trọc một lúc rồi chìm vào giấc ngủ say. Đúng giờ thìn ngày ba mươi tháng mười, lá đại kỳ đỏ rực thêu chữ vàng tươi rói được kéo lên ngọn cây sào cao vút dựng trên mô đất xây móng bằng đá hộc. Mọi người dùng tay, đứng xung quanh kỳ đài lặng lẽ ngắm nhìn lá cờ bay phần phật trong gió. Các nghĩa binh xúc động bảo nhau “Phá cường địch – báo hoàng ân” chính là lời thề quyết tử của chúng ta với vương triều Đông A, với giang sơn Đại Việt. Phu nhân đứng từ trong nhà nhìn ra, thấy đám đông đang ngây ngất trước ngọn cờ đại nghĩa, lòng rưng rưng khiến đôi mắt cay xè, bà tự nhủ “Chắc do mình thiếu ngủ”. Tin tốt lành bay xa, chỉ trong ngày hôm ấy có thêm mấy trăm trai tráng đến gia nhập đội nghĩa dũng, viên thư lại bẩm báo với Hoài Văn Hầu “Tổng cộng ghi tên được gần chín trăm người”. Quốc Toản đã yên tâm về quân số, việc trước mắt là lễ khai quân, rồi lo chu cấp trang bị và huấn luyện dân binh, còn phải đóng thuyền và bổ sung thêm ngựa cho đội ngũ. Người của Hoài Nhân sang thông báo điền trang của vương cũng tuyển mộ được năm trăm người. Thủ lĩnh vườn Thanh Trúc cả mừng, nhất định hai bên sẽ hợp lực chống giặc phương Bắc trong cuộc chiến nay mai.�� Việc Hoài Văn Hầu và Hoài Nhân Vương dựng cờ tụ nghĩa truyền đến tận Thăng Long. Bấy giờ Hưng Đạo đang ở kinh thành, khi được nghe kể, ngài tỏ ra rất tâm đắc. Vương vuốt râu cười khoan khoái rồi nói với Yết Kiêu và Dã Tượng đang đứng hầu bên cạnh: – Có thế chứ. Sóng sau đè sóng trước, con cháu Đông A tài cao chí lớn hơn cha anh của chúng thì sợ gì lũ giặc Thát ngạo mạn. Chợt Tuấn Thọ vào báo: – Bẩm chủ tướng, đại nhân Trịnh Đình Toản xin cầu kiến. Vương đang vui, nghe thấy thế, liền nói: – Mời vào. Chuẩn bị trà nước tiếp khách. Ta cũng muốn gặp người này. Chương 3 Trịnh Đình Toản hiến kế, Yết Kiêu luyện thuật đục thuyền Đông Bộ Đầu duyệt binh, Nguyễn Khoái rèn quân đánh thủy Trịnh Đình Toản là sứ thần của Đại Việt mới được Nguyên triều thả về sau một thời gian bị giam lỏng ở Đại Đô. Nguyên do mùa đông năm Mậu Dần (1278), ông cùng Đỗ Quốc Kế thừa lệnh Thượng hoàng Thánh Tông đi sứ nước Nguyên để thoái thác việc ngài không thể sang chầu kẻ xưng xưng tự nhận là con trời. Hốt Tất Liệt nổi cơn thịnh nộ truyền lệnh giữ Chánh sứ Trịnh Đình Toản ở lại kinh đô Đại Nguyên, đồng thời buộc Phó sứ Đỗ Quốc Kế dẫn sứ thần Nguyên là Sài Xuân sang Đại Việt, mang theo chiếu dụ quốc vương An Nam phải đúc người vàng cống nạp thay thế. Vua ta cứ lần khân xin khất hết kỳ này đến kỳ khác cái yêu sách phi lý của Nguyên triều, còn gửi biểu chương quyết liệt đòi người bằng lời lẽ mềm mỏng mà kiên định, khiêm tốn nhưng đanh thép khiến chúng phải chấp nhận thả Đình Toản về nước. Hưng Đạo ân cần thăm hỏi khách: – Ta biết tin ngài mới về nên mừng lắm, cũng muốn gặp gỡ đàm đạo nhưng chưa dám quấy quả sợ làm phiền ngài tĩnh dưỡng sau chuyến đi ngàn dặm. Đình Toản cảm kích giãi bày: – Đa tạ tấm lòng của Quốc Công, trải mấy năm cá chậu chim lồng bởi trong tâm nặng trĩu nỗi niềm hoài hương nên hạ quan cứ đau ốm suốt, khi nghe tin được thả về thì thấy người khỏe hẳn, vượt đường trường muôn dặm đâu có ngại gì. Ngặt nỗi Nguyên triều nham hiểm cấp cho họ quan và hai tên đày tớ ba con ngựa già nua ốm yếu, khi chưa đến Châu Giang đã lăn ra chết cả. Thế là mấy chủ tớ đành cuốc bộ hơn nửa tháng trời mới đến được biên cương. Đặt chân lên đất Việt, ba con người mừng rơi lệ như kẻ chết đi sống lại, cùng hướng về xuôi mà bái lạy ân nghĩa của thánh thượng đã gia công cứu giúp bề tôi thoát kiếp đày ải. Lòng đã thề không đội chung trời với giặc Thát, bây giờ hạ quan cũng muốn đóng góp thiển ý của mình để Đại vương tính kế diệt trừ họa xâm lăng. Hưng Đạo hỏi: – Vậy ngài có cách gì giúp Quan gia đánh đuổi kẻ thù khi chúng phạm cõi? Đình Toản trả lời: – Do hạ quan có thời gian rong ruổi qua miền Giang Châu nên tận mắt chứng kiến đội ngũ thuyền chiến của quân Nguyên. Lần này chinh phạt phương Nam có lẽ chúng sẽ huy động thủy quân nên thuyền bè mới tụ hội đồng như thế. Thuyền của chúng to dài, chắc khỏe, có thể chở được nhiều người, nhiều lượng thảo nhưng xoay trở khó khăn, nếu đi ngược dòng thì khá chậm chạp. Thủy quân của giặc rất hùng hậu trong khi thủy quân của ta nhỏ yếu hơn nhiều, chúng ta cần đánh vào yếu điểm của chúng mới thắng được. Hưng Đạo lại hỏi: – Theo ngài nên dùng cách gì để diệt thuyền giặc? Đình Toản đáp: – Một con châu chấu to khỏe khó mà chống cự bầy kiến nhỏ bé bâu lại cắn xé. Thuyền ta nhẹ, chèo nhanh, xoay chuyển dễ, nếu dùng nhiều thuyền nhỏ đồng loạt áp sát mạn thuyền cồng kềnh mà đánh thì sẽ diệt được. Hưng Đạo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: – Ý kiến của ngài rất hay nhưng chỉ áp dụng được khi thuyền giặc đơn độc trên sông hoặc di chuyển một nhóm vài ba chiếc, nếu chúng đi cả đoàn vài chục, vài trăm chiếc thì phương pháp này không ổn. Đình Toản lại nói: – Hạ quan không theo nghiệp võ nên chỉ có thể nghĩ được đến thế. Đại vương là bậc võ công hiển hách chắc rằng sẽ tìm ra nhiều phương pháp triệt hạ đoàn thuyền chiến của giặc. Hưng Đạo nghĩ bụng “Quả thật quân ta chưa một lần đối đầu với thủy quân của Nguyên Mông. Gợi ý của Đình Toản rất đáng để suy ngẫm” bèn nói: – Thật cảm động trước tấm lòng của ngài đối với xã tắc, chính ngài đã mở mắt cho ta thấy cần chú trọng hơn nữa về phương pháp thủy chiến. Nhất định phải tìm tòi nhiều cách đánh sao cho thật hiệu quả để triệt tiêu lũ quái vật trên sông nước của giặc Thát. Đêm ấy Hưng Đạo Đại Vương trằn trọc trên giường mà không tài nào ngủ được, cứ nghĩ đến buổi trò chuyện với Trịnh Đình Toản, ngài lại thấy day dứt trong lòng. Một viên quan văn nhỏ bé còn biết lo nghĩ về công tác thủy chiến, ta thân mang trọng trách thống lĩnh quân đội há lại xem nhẹ việc này hay sao? Không tính kế trước, chờ cho nước đến chân mới nhảy, chúng ồ ạt kéo vào bằng đường thủy, bấy giờ sẽ khó bề chống đỡ. Vương bật dậy khỏi giường, chong đèn đọc sách, tìm tòi trong cổ thư các sử liệu về thủy chiến khả dĩ vận dụng với hoàn cảnh bây giờ. Trong trận Xích Bích, Khổng Minh và Chu Du dùng hỏa công đốt trụi thuyền của Tào Tháo, nhưng nếu đoàn thuyền không bị xích lại và không cầu được gió đông nam thì liên quân Tôn – Lưu đâu có thắng lớn. Ta không biết hô phong hoán vũ như họ Khổng, quân Thát chắc gì neo cột thuyền bè một chỗ để chờ ta nổi lửa, như vậy cách này khó áp dụng hiện thời. Song dù thấy hỏa công là một phép đánh lợi hại, phải tùy biến mà dùng trong từng trường hợp cụ thể. Trận Bạch Đằng năm xưa Ngô Vương đại phá quân Nam Hán bằng diệu kế thủy triều và cọc gỗ, nhưng phương pháp này có điểm bất lợi là chỉ dùng được ở vùng cửa sông rộng rãi, nhiều bãi lau sậy, nước triều lên xuống hằng ngày. Song rõ ràng giặc Nam Hán đại bại bởi thuyền bè mắc cạn, bị cọc gỗ đâm thủng đáy khiến nước tràn vào nhấn chìm chúng xuống lòng sông, như vậy yếu tố thủy góp phần trọng yếu trong chiến thắng lẫy lừng của nhà Ngô, phải ghi nhớ điều này để nghiên cứu sáng tạo cho phù hợp. Vương dùng bút viết chữ “hỏa” và chữ “thủy” rồi khoanh tròn từng chữ một. Lại nhớ đến cách ví von của Đình Toản “con châu chấu to khỏe khó mà chống cự bầy kiến nhỏ bé bâu lại cắn xé”, ngài mỉm cười rồi viết thêm chữ “quần” và khoanh tròn lại. Như vậy là có ba phương cách có thể áp dụng trong thủy chiến để tiêu diệt các hạm thuyền to lớn, cồng kềnh của giặc, từ đó sẽ phân tích lợi hại để áp dụng các phương cách sao cho đạt hiệu quả nhất. Ngài tranh thủ viết tấu sớ gửi Quan gia xin được đóng thêm thuyền chiến và tổ chức tập trận thủy quân, để sớm mai cho người chạy ngựa về kinh dâng lên hoàng thượng. Sau nhiều ngày trăn trở, suy đi tính lại, Hưng Đạo Vương gọi Yết Kiêu vào giao phó công việc: – Ngươi hãy đi một chuyến dọc các vùng sông biển để tuyển mộ những người cường tráng, giỏi bơi lặn, có tinh thần trung dũng và nhiệt huyết đánh giặc. Thời hạn tối đa chỉ một tháng phải tuyển chọn được ít nhất là ba mươi, nhiều nhất là năm mươi tráng sĩ về đây. Sở dĩ Vương giao trọng trách ấy cho Yết Kiêu mà không phải ai khác vì người nô bộc này là bậc kỳ tài trong thiên hạ về khả năng bơi lặn, rất chín chắn và kiên định, đã nhận việc là dứt khoát làm đến nơi đến chốn, bất kể khó khăn trở ngại, chấp nhận cả đổ máu hy sinh. Quả nhiên chưa đầy một tháng, Yết Kiêu dẫn về năm mươi trai tráng khỏe mạnh rắn rỏi, đều là ngư dân, quanh năm lênh đênh hải hồ, thuần thục mò trai lấy ngọc, săn kình lấy vây. Hưng Đạo rất hài lòng, bèn phủ dụ tân binh: – Các anh em về đây đầu quân khiến ta rất cảm kích bởi mọi người đã tin tưởng mà giao phó số mệnh cho ta, chấp nhận làm bầy tôi trong đội ngũ phò vua giữ nước do ta thống lĩnh. Trước kia các anh em sống cuộc đời tự do tự tại như con cá dưới nước, như con chim trên rừng, nhưng nay đã tham gia quân ngũ thì phải khác. Ta sẽ không bạc đãi ai cả, nhưng muốn anh em thực hiện cho tốt mấy điều sau: thứ nhất phải tận trung với vua, chấp nhận da ngựa bọc thây vì sơn hà xã tắc; thứ hai phải tuyệt đối tuân thủ kỷ cương và quân pháp; thứ ba phải rèn luyện cho giỏi, mình đồng da sắt, tinh thông ngón nghề, tài trí quả cảm; thứ tư phải đồng cam cộng khổ, huynh đệ hữu ái, tương trợ lẫn nhau. Ai chấp nhận điều kiện của ta thì ở lại, ai không thể làm theo thì có thể ra về, ta sẽ không trách phạt còn cấp cho lộ phí. Cả năm mươi con người không hề nhúc nhích, không một ai có ý định rời đội ngũ. Rồi họ đồng thanh hô vang: – Chúng tôi nguyện chấp hành lời Đại Vương răn dạy, nguyện theo Đại Vương phò vua giúp nước. Hưng Đạo cả mừng mà rằng: – Ta rất vui trước tinh thần của mọi người. Nay cho các ngươi ba ngày để nghỉ ngơi và ổn định nơi ăn ở, sau đó sẽ bước vào tập luyện. Hưng Đạo đặt phiên hiệu Kình Ngư đội cho nhóm thủy quân mới thành lập. Yết Kiêu lại được giao nhiệm vụ huấn luyện tân binh. Bất kể ngày mưa hay nắng, mùa hè hay mùa đông họ phải ngâm mình dưới nước nhiều canh giờ để tăng cường khả năng bơi lặn. Ban đầu chủ yếu luyện bơi sao cho nhanh và giảm thiểu tiếng động, dùng ống sậy để thở khi vận động ở độ sâu vừa phải. Về sau tập lặn dài hơi mà không cần ống thở. Cuối cùng học sử dụng rìu búa cạy ván đáy thuyền và khả năng tự vệ dưới nước. Kế lấy rìu đục thuyền được Đại Vương vận dụng sáng tạo từ chiêu thức của Ngô Quyền dùng cọc gỗ bịt sắt đâm thủng thuyền giặc để dìm chúng xuống đáy sông, mà ngài hào hứng cho rằng “Coi như ta đã di chuyển cọc nhọn của tiền nhân tới mọi khúc sông có thuyền bè giặc lai vãng”. Rồi ngài kêu người kiếm mấy thuyền cũ để Kình Ngư luyện tập. Theo gợi ý của chủ tướng, Yết Kiêu chia mỗi toán gồm năm người, hai người mang rìu, một người mang búa, cùng làm nhiệm vụ đục thuyền, hai người mang dao ngắn có trách nhiệm bảo vệ đồng đội, đề phòng kẻ địch cho quân xuống nước vây bắt đối phương. Yết Kiêu dẫn đầu toán quân miệng ngậm ống sậy bơi chìm dưới nước áp sát “thuyền giặc” rồi lặn xuống tìm chỗ nối giữa các ván thuyền mà dùng búa và rìu cạy cho khe ván toác ra. Ván chiến thuyền thường chắc và dày, song bằng tài trí và sức lực, cùng với khả năng nín thở lâu nên các đội viên Kinh Ngư đều hoàn thành tốt khóa tập “đục ván dìm thuyền”. Thấy Dã Tượng mặt mày ủ rũ, hằng ngày đứng trên bờ nhìn đám thủy quân của Yết Kiêu tập luyện mà than ngắn thở dài, xem ra có phần không hài lòng, Hưng Đạo tinh ý đoán biết nguyên do nhưng vẫn làm ngơ. Cho đến khi gần mãn khóa tập, ngài mới kêu Dã Tượng lại hỏi: – Ngươi làm sao mà rầu rĩ cả ngày, nếu trong người không khỏe thì ta cho nghỉ ngơi ít bữa? Dã Tượng đáp: – Bẩm Đại Vương, tiểu nhân chẳng ốm đau gì cả. Chỉ có điều trong bụng không vui nên thế. Hưng Đạo lại hỏi: – Ai làm ngươi không vui? Dã Tượng phàn nàn: – Tiểu nhân và Yết Kiêu tình thân như huynh đệ ruột thịt, nên không có chuyện ghen tức gì cả, chỉ có điều Đại Vương giao cho y hết thảy công việc còn tiểu nhân lại suốt ngày ngồi không nhàn rỗi, từ đấy sinh lòng buồn nản. Hưng Đạo liền phán: – Ai cho người ngồi không mãi, do chưa đến lúc dùng mà thôi. Bây giờ sắp hết khóa huấn luyện rồi, người lựa cho ta ba mươi gia binh khỏe mạnh, giỏi dùng cung tên và móc câu. Chuẩn bị năm thuyền nhỏ, bốn thuyền chất đầy cỏ khô và một vò dầu lạc. Dã Tượng hớn hở đi làm nhiệm vụ, Vương mim cười nghĩ bụng “Bọn tiểu tử này đứa nào cũng sốt sắng tận tụy, cũng nên hậu đãi chúng tử tế”. Mấy ngày sau vào một đêm không trăng, Hưng Đạo cùng các tiểu tượng và môn khách đứng trên bờ sông theo dõi Dã Tượng chỉ huy binh sĩ tập trận hỏa công. Giữa dòng sông tối đen có một chiếc thuyền lớn được định vị là “thuyền giặc”. Bất chợt từ bãi lau sậy phía thượng nguồn có năm chiếc thuyền nhỏ lao ra vun vút, mỗi chiếc có sáu tay chèo khua mái nhịp nhàng, đẩy thuyền lướt nhanh trên nước mà không hề gây tiếng động ồn ã. Bốn chiếc chất cỏ khô xuôi dòng chảy áp sát “thuyền giặc”, các móc xích quăng lên ngoắc vào mạn thuyền lớn, đuôi xích được cột nhanh vào tay chèo, những vò dầu mở nắp tưới đẫm đống cỏ, đội cảm tử xong nhiệm vụ liền khẩn trương rời thuyền xuống nước bơi vào bờ. Bấy giờ chiếc thuyền thứ năm đi sau một đoạn chớp thời cơ phát hỏa. Dã Tượng đứng trên mũi thuyền truyền lệnh “Buông chèo, đốt lửa mũi tên, nhắm thuyền cỏ xạ tiễn”. Sáu tráng sĩ đồng loạt bỏ chèo, một người thổi khí vào cái bếp than nhỏ, một người tưới dầu để lửa bùng lên, bốn người đốt mũi tên tẩm dầu rồi giương cung bắn vào thuyền cỏ. Mấy thuyền cỏ cháy rực, chớp nhoáng ngọn lửa lan nhanh sang thuyền lớn. Nhìn lửa cháy phần phật thiêu rụi con thuyền cũ giữa dòng sông, ai nấy đều hả hê vui thích. Riêng Đại Vương bình thản nói “Phải khẩn trương hơn. Bất ngờ là yếu tố quyết định thành công. Sẽ cho thao dợt thêm vài lần nữa”. Hài lòng trước tiến bộ trong huấn luyện của thủy quân, Đại Vương muốn ban thưởng cho các nô bộc có nhiều công lao nhất. Một hôm ngài cho gọi Yết Kiêu, Dã Tượng tới, mà truyền rằng: – Hai người theo ta đã lâu, cũng lập được nhiều công trạng đáng kể. Nay ta muốn giải thoát thân phận gia nô cho các ngươi rồi tiến cử với triều đình để phong quan trước mà hưởng lộc. Hai bậc tôi trung vội quỳ lạy Hưng Đạo mà đáp: – Đại Vương là chủ nhân, chúng tôi rời bỏ ngài là bất trung, được Đại Vương nuôi dạy từ tấm bé, chúng tôi rời bỏ ngài là bất hiếu. Bầy tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, Vương ứa nước mắt cảm động trước tấm lòng của họ. Hưng Đạo vẫn không quên chữ “quần” trong phép thủy chiến do ngài đề ra. Nhân một chuyến về kinh để bàn bạc kế hoạch duyệt thủy quân, Vương cho mời tướng quân Nguyễn Khoái đến tư gia của ngài ở Thăng Long. Chủ khách an tọa, Vương vào đề ngay: – Tướng quân chỉ huy vệ Thánh Dực, việc huấn luyện binh sĩ chiến đấu trên mặt đất có lẽ là chuyện thường xuyên, nhưng đã bao giờ tổ chức cho họ tập dợt đánh nhau dưới nước chưa? Nguyễn Khoái ngớ người trước một vấn đề ông chưa bao giờ nghĩ tới, bèn hỏi lại: – Bẩm Quốc công Tiết chế, có phải ngài muốn biết quân của tiểu tướng có học đánh trận bằng thuyền? Hưng Đạo trả lời: – Đúng vậy. Nguyễn Khoái đáp: – Quân Thánh Dực trước nay chỉ được đào tạo đánh giặc trên mặt đất bằng bộ binh hoặc kị binh. Tiểu tướng thiết nghĩ quân ta cũng có lực lượng thủy binh với sở trường đánh trận bằng thuyền, nếu vệ quân cũng tham gia thủy chiến thì e rằng không kham nổi. Vương bèn thủng thẳng nói: – Hiểu như vậy cũng không sai. Nhưng nước ta nhiều sông ngòi, còn giặc Thát thì lắm thuyền chiến, nếu chúng kéo sang đông rồi theo các dòng sông mà đánh phá khắp nơi sẽ bất lợi lắm. Thủy quân của ta còn yếu, khi gặp chiến thuyền của giặc lại phải đợi huy động thuyền bè đến đánh thì không ổn rồi. Bấy giờ Nguyễn Khoái mới vỡ lẽ, bèn hỏi: – Vậy theo ngài chúng tôi phải làm sao? Vương lại nói: – Thủy quân sẽ là lực lượng chủ yếu trong thủy chiến, song vệ quân và lộ quân cũng nên tập luyện các phương pháp diệt chiến thuyền của giặc, như vậy dù chúng ở trên bộ hay dưới nước bất kể nơi đâu ta cũng có thể đánh. Một vị văn thần gợi ý cho ta phép dùng nhiều thuyền nhỏ lợi dụng đêm tối áp hai mạn thuyền lớn của địch mà đánh bất ngờ, khi lên được khoang thuyền giặc thì dao kiếm của vệ quân thả sức tung hoành. Cách đánh này không cần bơi lặn giỏi nên quân Thánh Dực có thể dùng được. Tướng Nguyễn Khoái mắt sáng rỡ, đáp: – Đa tạ Đại Vương chỉ giáo. Xưa nay vệ quân không thạo thủy chiến, nghe ngài giảng giải mới biết mình còn dở lắm, nhất định phải khắc phục thiếu sót này. Tôi sẽ bàn bạc với phó tướng Phạm Ngũ Lão tổ chức cho binh sĩ luyện tập cách đánh thuyền giặc theo phương pháp của ngài. Hưng Đạo gật đầu hài lòng, còn dặn dò thêm: – Tháng tám sẽ duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, khi ấy nếu quân Thánh Dực thao diễn thủy chiến có hiệu quả sẽ cho áp dụng rộng rãi ở các đơn vị vệ quân và lộ quân. Vậy là tướng quân còn hơn hai tháng để luyện quân sĩ, hãy chuẩn bị cho tốt. Thừa lệnh Thượng hoàng và Quan gia, giữa mùa thu năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt binh tại Đông Bộ Đầu, là bến cảng trên sông Hồng ở mé đông kinh thành Thăng Long. Quân của triều đình và các lộ được huy động tới hai vạn, quân của các vương hầu từ khắp nơi kéo về có đến ngót vạn, vài trăm chiến thuyền đậu san sát bờ sông, các lán trại dựng trên bãi sông dài hơn dặm; cờ xí đủ màu sắc và kích cỡ tung bay rợp trời trong ánh nắng ban mai tô điểm thêm vẻ uy nghi hoành tráng của những phiên hiệu vệ quốc Đông A trước bầy lang sói phương Bắc đang chờ thời cơ kéo sang ăn tươi nuốt sống giang sơn Đại Việt. Các đơn vị vệ quân và lộ quân, các giang đoàn thủy binh, các lữ kị binh, các đội gia binh trang nghiêm trong những bộ sắc phục tươi mới, gươm giáo sáng lòa, cung khiên bóng lộn, hàng ngay lối thẳng trên bến dưới thuyền và trên lưng đoàn ngựa chiến làm tăng thêm khí thế oai phong của lực lượng chiến binh nước Nam luôn sẵn sàng quyết tử với kẻ thù xâm lược truyền kiếp đến từ bên kia biên giới. Hơn trăm vương hầu và tướng lĩnh giáp trụ đường bộ, cân đai rực rỡ, tuấn tú và uy dũng, tài ba và từng trải, ở trên khán đài với bộ ba trung tâm là Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, các vị còn lại theo thứ bậc mà chia nhau đứng hai bên, trở thành hệ thống đầu não quân đội Đại Việt. Phía trước mặt là một khu đất rộng lớn và bằng phẳng, là chỗ dành cho các đội ngũ quân sự diễu hành và trình duyệt lực lượng. Phía sau lưng là một tháp cao mười tám thước, được sơn son rực rỡ làm chỗ ngự xem duyệt binh của nhị vị hoàng đế, những lãnh tụ tối cao trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tự chủ của sơn hà xã tắc, biểu tượng bất diệt của tinh thần quốc gia – dân tộc. Quân đội triều đình tham dự theo quy chế hội đủ các lực lượng, gồm mười hai vệ quân, mỗi vệ tuyển năm trăm tráng sĩ, mười hai lộ quân, mỗi lộ tuyển ba trăm binh sĩ, hai giang đoàn thủy quân mỗi đoàn năm mươi chiến thuyền, hai lữ đội kị binh mỗi đội năm trăm chiến mã. Gia binh vương hầu góp mặt theo nguyên tắc đại vương cử năm trăm quân, vương cử ba trăm quân, hầu cử một trăm năm mươi quân. Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu đã đến tuổi tham gia chính sự, trong lễ duyệt binh lần này không thể thiếu đội ngũ của họ. Quân của Quốc Toản đứng xa khán đài nhưng đại kỳ “Phá cường địch – báo hoàng ân” lại có phần nổi bật, khiến mọi người ngoái nhìn với ánh mắt phấn khích. Ở trên đài cao, Thượng hoàng có vẻ tâm đắc với lá cờ nên dặn dò Quan gia “Thằng bé này là người có chí khí, bệ hạ nhớ lưu tâm đến nó”. Nhân Tông đáp “Thưa phụ hoàng, hai năm trước ở Bình Than nó với hoàng đệ Hoài Nhân cứ đời vào nghị chính mà không được. Năm nay chúng lớn cả rồi, con phải dặn Hưng Dạo Vương triệu đích danh đấy ạ”. Thánh Tông cười vui bảo rằng “Tốt lắm, bệ hạ không quên lớp trẻ khí phách thì lo gì thiếu người tài hội tụ dưới ngai rồng”. Quan gia kính cẩn thưa “Hồng phúc của hoàng nhi có được bây giờ cũng do phụ hoàng truyền dạy mà nên”. Đầu giờ thìn, mở màn lễ duyệt binh. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cưỡi chiến mã đen tuyền phủ gầm xanh tua vàng trên yên cương xuất hiện từ đầu hàng quân. Ngài vận võ phục màu tía sẫm, đầu đội mũ trụ ngù đỏ, điều khiển ngựa tiến về lễ đài trong phong thái lẫm liệt uy nghi. Cưỡi ngựa bạch phía sau là các gia tướng Lương Bình và Tuấn Thọ cầm trên tay hiệu kỳ chữ nhật, cờ đỏ của Bành thêu bốn chữ vàng “Quốc công Tiết chế”, cờ vàng của Thọ thêu bốn chữ đỏ “Hưng Đạo Đại Vương”. Hàng sau là ba con chiến mã màu nâu của Yết Kiêu, Nguyễn Địa Lô và Dã Tượng, Yết Kiêu đi ngoài nắm long đao Quốc Công, Địa Lô đi giữa nâng ấn Soái phủ, Dã Tượng đi trong giương bảo kiếm Tiết chế. Hàng cuối là tám quân hiệu cầm cờ đuôi nheo, chia làm hai dãy đi bộ, ười mặc trang phục đồng màu với lá cờ của họ. Đến trước khán đài, Hưng Đạo và tả hữu tùy phải dừng ngựa, chắp tay hướng mõi mặt lên đài cao hành lễ. Vương hầu và ba quân tướng sĩ đồng loạt ngoảnh về phía nhị hoàng mà bái vọng. Hưng Đạo cất giọng hùng hồn khởi tấu: – Phụng chỉ Thái thượng hoàng và Quan gia, nay đương tiết trung thu mây lành nắng đẹp, thần Quốc công Tiết chế tụ hợp tướng sĩ toàn quân phô diễn lực lượng dưới bệ rồng, thượng kính nhị vị hoàng đế chuẩn thuận và phát lệnh diễu binh. Gần ba vạn con người đồng thanh hô lớn “Thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế”. Tiếng rền dội tới tận kinh thành, trăm họ trong vùng còn nghe văng vẳng. Nhân Tông hoàng đế ra dấu, một viên quan thị ở trên đài cao dùng cờ vàng phất ba lần. Hưng Đạo Vương nhận hiệu khai diễn, bèn quay về phía binh sĩ truyền lệnh: – Lễ diễu binh bắt đầu. Hai chiếc trống cái ở hai góc khán đài dong ba hồi chín tiếng ầm vang bến nước, hào hùng và trang trọng. Tiếng trống vừa dứt, Đại Vương ra chỉ dấu, tám quân hiệu từ phía sau theo hình vòng cung tiến lên trước, nơi đặt chiếc bục gỗ cao ba thước. Hai lính hầu đẩy chiếc xe chở giá gỗ kê một cái loa lớn cong hình trái bí có vành loa to hơn chiếc thúng, đầu loa cao ngang tầm người cưỡi ngựa, Quốc Công Tiết chế ghé miệng vào loa dõng dạc hô vang: – Mười hai vệ quân, trung nghĩa kiên cường, phò tá triều vua, trấn thủ kinh đô, giữ yên xã tắc, trình diễn.Thập nhị vệ quân, trung nghĩa kiên cường, phù hoàng triều, trấn kinh sư, an ninh xã tắc, trình diễn. Quân hiệu cờ trắng tách khỏi toán bước lên bục gỗ, tay cầm hai lá cờ đuôi nheo phất ngang dọc theo một quy ước định sẵn. Các vệ Tứ Thiên rùng rùng chuyển động theo hàng năm tiến ra trước lễ đài, bốn hiệu kỳ tả hữu tung bay phất phới, đội ngũ uy phong, bước chân đều đặn, giáo thương trùng trùng, đao kiếm tua tủa, hòa làm một rồi lại tách làm đôi, từ khối hình đắc thủ chữ điền⽥ chuyển hóa sang thế đội tung hoành chữ thập⼗, rất tinh nhuệ và quy củ. Sau màn trình diễn lực lượng, hai ngàn chiến binh Tứ Thiên rút về vị trí xuất phát, nhường khoảng trống cho các đơn vị khác phô trương. Tiếp đến là quân hiệu cờ vàng của các vệ Tứ Thánh rồi quân hiệu cờ đỏ của các vệ Tứ Thần. Mỗi phiên hiệu vệ quân tùy thuộc vào sự sắp đặt của tướng chỉ huy mà diễu binh theo đội hình chuyên biệt, nhưng đều rất bài bản và hào sảng, khiến nhị hoàng trên đài cao lẫn trăm quan tướng ở bên dưới cùng nức lòng thán phục. Hưng Đạo lại hô vang: – Mười hai lộ quân, sắt đá gan góc, đảm nhiệm quê hương xứ sở, phòng thủ biên thùy, ổn định bờ cõi, trình diễnThập nhị lộ quân, thiết thạch can trường, đảm hương xứ, thủ biên thùy, ổn định cương vực, trình diễn. Quân hiệu cờ đen điều khiển mười hai lộ quân từ hai phía tiến về lễ đài, dẫn đầu mỗi lộ là một tráng sĩ giương cao lá cờ thêu tên địa phương, đội hình cánh trái là các lộ quận Long Hưng, Kiến Xương, Bắc Giang, Hải Đông, Hồng Châu và Khoái Châu, đội hình cánh phải là các lộ quân Thiên Trường, Quốc Oai, Trường Yên, Hoàng Giang, Thanh Hóa và Diễn Châu. Quân các lộ mặc sắc phục khác nhau, màu đen của rừng núi, màu lam của miền biển, màu nâu của trung du và màu lá của đồng bằng, những khuôn mặt sạm nắng gió hiên ngang trước hàng quân, những cánh tay rắn rải nắm chắc khí giới, cung tiễn giương cao, trường thương chĩa thẳng, đoản kiếm tuốt trần. Đến trước khán đài, mỗi lộ quân từ hàng năm chuyển thành hàng một, mười hai hàng quân xếp dài tít tắp cùng hướng về phía quân vương và bá quan, ba ngàn sáu trăm quân sĩ kết thành một binh đoàn lớn rồi chuyển động tại chỗ. Theo thống hiệu, sau ba tiếng gõ thì hàng quân đầu quay mặt lùi về phía sau cùng, còn các hàng quân sau lại tiến lên lấp vào khoảng trống ở phía trước. Cứ thế, lần lượt mười hai lộ quân thay nhau xuất hiện ở hàng đầu như những lớp sóng trào chất chứa ý chí và niềm kiêu hãnh Đại Việt. Hưng Đạo lại hô vang: – Hai lữ đoàn kị binh, oai phong trên ngựa chiến, tuần phòng phương nam bảo vệ phía bắc, ngăn chặn lang sói, bình định đất dữ, trình diễn.Nhị lữ kị binh, uy phong chiến mã, tuần nam vệ bắc, tiêu sài lang, bình hiểm địa, trình diễn. Quân hiệu cơ lục phát lệnh, một ngàn người ngựa dàn hàng năm từ hai phía hùng dũng tiến vào, đi đầu cánh trái là quân kị cầm cờ tía Thiên Phong, đi đầu cánh phải là quân kị cầm cờ nâu Thiên Vũ, những kị sĩ hùng dũng tay khiển cương, tay nắm giáo, hông cài trường kiếm, lưng đeo cung tên, vó ngựa nhịp nhàng, đội hình tề chỉnh. Đến khu trung tâm, hai lữ đan vào nhau tạo thành những vệt sọc quân phục nâu tía thẳng tắp. Chợt trống hiệu khua vang, dải nâu nhịp nhàng chuyển động, đội kị sĩ hàng đầu thúc ngựa phi nước kiệu băng qua lễ đài để trở về nơi xuất phát, tiếp đến là dải tía nhưng chuyển động theo hướng ngược lại, cứ thế mười hàng kị binh lần lượt trình diễn thao tác điều khiển chiến mã trước quân vương và quan tướng. Hưng Đạo lại hộ vang: – Đày tớ vương hầu, trung gan tận tụy, ở dưới phục dịch chủ, ở trên theo giúp vua, thời bình làm tôi đòi, thời loạn làm binh sĩ, trình diễn.Gia đinh vương hầu, trung can tận tụy, hạ phụng chủ, thượng tòng đế, nô bình binh loạn, trình diễn. Quân hiệu cờ nâu điều phối hai mươi tư đội gia binh vương hầu xuất phát, quân của các đại vương đi trước, tiếp đến là quân của các vương, cuối cùng là quân của các hầu; cơ man cờ xí, muôn màu binh phục, đa dạng khí giới, tuy thiếu chính quy nhưng chẳng hề ô hợp, dẫu đội ngũ chưa đồng đều nhưng không kém phần khí thế, lại còn rất hào hùng bởi thanh âm tù và, chiêng trống của các đoàn gia nô mặc áo lính. Hưng Đạo lại hô vang: – Hai giang đoàn, quân thủy tinh nhuệ, đông ven biển, tây thượng nguồn, ổn định nước non, trình diễnNhị giang đoàn, thủy quân tinh nhuệ, đồng hải biên, tây thường xuyên, yên định sơn hà, trình diễn. Quân hiệu cờ lam tiếp quản bục gỗ, phất cờ ra lệnh cho mười hai vệ quân ở phía đối diện với khán đài di chuyển hàng dọc sang hai bên tả hữu, mở ra một khoảng không gian rộng lớn đủ để quân thần nhìn bao quát toàn bộ bến sông, nơi có một trăm chiến thuyền neo đậu. Theo hiệu có điều khiển, đội ngũ thủy bình trên các thuyền nhận lệnh xuất phát. Soái hạm Thần Phong dẫn năm mươi chiến thuyền chào ngược lên thượng nguồn, soái hạm Thần Vũ dẫn năm mươi chiến thuyền lái xuôi về hạ nguồn. Chốc lát, hai giang đoàn đã quay đầu chuyển hướng và giao nhau ngược xuôi giữa bến cảng; ngoài các tay chèo và khiển buồm, số thủy binh còn lại dàn hàng ngang trên mạn thuyền, những mặt người nâu bóng chai lì, những ngực trần cơ bắp cuồn cuộn, dao kiếm giương lên, thương giáo dựng thẳng, tỏ rõ khí thế hiên ngang và dũng mãnh của lớp chiến binh lão luyện sông nước. Sau lễ duyệt binh, Thượng hoàng tấm tắc khen ngợi, Quan gia phấn khởi vui mừng, còn trăm quan tướng cùng mãn nguyện tự hào, họ hài lòng bảo nhau “Quân của ta nhất tinh nhì cường, củng cố thêm phần chí sẽ đủ sức đối chọi với lũ giặc Thát cường bạo”. Trước lúc tạ từ hai vua, Hưng Đạo Vương nói: – Khởi bẩm nhị hoàng, tối mai là ngày mười sáu, thần xin kính rước hai vị ra đây mục kích quân Thánh Dực của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão thao dợt thủy chiến. Các vương hầu đứng xung quanh xì xào bàn tán, vì không hiểu tại sao Hưng Đạo lại dùng bộ binh mà không phải thủy binh để tập trận thủy chiến. Nhân Tông thấy vậy bèn nói: – Tiết chế chắc có lý do nên mới tổ chức việc này. Đêm nay các khanh vào cung đón rằm cùng ta và Thượng hoàng, tối mai chúng ta đến xem thử Hưng Đạo bố trận quân Thánh Dực đánh nhau dưới nước ra sao? Bấy giờ yêu cầu Hưng Đạo giải thích cũng chưa muộn. Tối muộn, trăng mười sáu dát ánh bạc lung linh mặt nước, rọi tỏ chiếc thuyền chiến to lớn cồng kềnh đậu giữa dòng sông. Quân thần tụ hội đông đảo trên bờ chờ xem lính bộ trình diễn phương pháp đánh thủy. Chỉ có hai chiếc ghế dành cho nhị hoàng, vương hầu và khanh tướng đứng phía sau và hai bên tả hữu. Nhìn quanh không thấy một tên lính nào cả, Thánh Tông hỏi: – Tướng sĩ Thánh Dực đâu cả rồi, sao chưa hành động? Hưng Đạo đáp: – Bẩm Thượng hoàng và Quan gia, họ đang ém quân để tạo yếu tố bất ngờ. Cũng đến lúc khởi sự rồi ạ. Ngài yêu cầu tắt hết đuốc để không làm lóa mắt mọi người rồi vỗ tay truyền lệnh. Một tên lính hầu cầm chiếc đèn lồng được che kín bằng vải đen chạy ra sát mép nước và lật vải lên xuống liên tục để ánh đèn đỏ nhấp nháy nhiều lần, làm hiệu cho đội hình xuất kích. Từ hai bên bờ sông phía thượng nguồn có nhiều chiếc thuyền thoi lao ra vun vút, mỗi chiếc có mười tay chèo nhắm hướng thuyền chiến giữa sông mà lướt tới. Đội hình từ bên này gồm năm chiếc do Nguyễn Khoái đầu lĩnh áp sát mạn phải thuyền lớn; đội hình từ bên kia cũng năm chiếc do Phạm Ngũ Lão chỉ huy áp sát mạn trái thuyền lớn. Tay chèo vừa buông là các móc câu được quăng lên, rồi các chiến binh lưng cài đoản đao leo thoăn thoắt lên mạn thuyền đối phương. Bấy giờ trên thuyền “địch” có tiếng hò la thất thanh, rồi từ dưới khoang thuyền, nhiều “tên giặc” xách khí giới lao lên chống trả. Hai bên đánh nhau kịch liệt, gươm đao loang loáng dưới ánh trăng vằng vặc, bóng người ngả nghiêng chồng chành trên bãi chiến trường dài không quá mười hai trượng, tiếng vũ khí va đập loảng xoảng vang rộn cả một khúc sông đêm. “Giặc” bị “tiêu diệt” hết, nhưng nhiều chiến binh Thánh Dực cũng “gục ngã” trên chiến thuyền. Khung cảnh “trận đánh” y như thật, khiến các vua cùng bá quan rất thích thú và thán phục. Lúc ấy Hưng Đạo mới lên tiếng giải thích: – Theo thông tin thần nắm được, quân Nguyên huy động rất nhiều thuyền chiến loại lớn hàng chuẩn bị chinh phạt nước Nam. Đại Việt có nhiều sông ngòi và bờ biển dài, dù kẻ địch có kéo sang bao nhiêu chiến thuyền cũng không thể kiểm soát hết, bấy giờ buộc chúng phải chia nhỏ đội hình, đấy là lúc ta sử dụng bộ binh để đánh tia chiến thuyền của giặc. Thủy binh ta yếu hơn giặc, sẽ có cách đánh khác, còn phương pháp này có thể dùng vệ quân, lộ quân hoặc gia binh diệt thuyền giặc ở mọi khúc sông, bến bãi mà không cần chờ thủy quân lâm chiến. Thượng hoàng Thánh Tông rất tâm đắc với chủ ý của Hưng Đạo nên truyền dạy: – Đây là một sáng tạo trong phương pháp thủy chiến của Quốc công Tiết chế, hoàng thượng cần chỉ dụ cho quân đội cả nước nghiên cứu học hỏi. Nhân Tông đáp: – Bẩm Thượng hoàng, con cũng vừa nghĩ tới việc này. Hưng Đạo từ tốn nói: – Thưa nhị hoàng, thực ra cách đánh này là do Trịnh Đình Toản gợi ý cho hạ thần. Sau khi được Nguyên triều thả về nước, Toản qua miền Châu Giang tận mắt chứng kiến giặc Thát tập hợp đồng đảo thuyền bè to lớn nên nảy ra sáng kiến dùng nhiều thuyền nhỏ bâu vào đánh phá thuyền lớn mà Toản gọi là hiện tượng “một con châu chấu to khỏe bị đàn kiến cắn xé” đấy ạ. Hai vua và quần thần cười vang. Thánh Tông bảo: – Khá khen cho người này. Triều đình cần ghi nhớ công lao của y. Quan gia và các quan tướng da ran. Bấy giờ Trần Nhật Duật nêu thắc mắc: – Quốc Tuấn có thấy nếu thủy quân giặc phát hiện thuyền của ta sớm hơn thì việc đánh chúng khó thành không? Hưng Đạo trả lời: – Ý của Chiêu Văn cho rằng trời sáng quá nên việc tiếp cận thuyền giặc dễ bị lộ chứ gì? Hôm nay trăng sáng nên Quốc Tuấn chủ ý mời nhị hoàng và mọi người ra đây chứng kiến cho rõ phương pháp đánh thuyền giặc, còn khi đánh thật thì ai dại gì chọn đêm rằm để tổ chức công kích. Những đêm trời nhiều mây, không trăng sao, có sương mù càng tốt, là lúc có thể bất ngờ áp sát thuyền giặc mà đánh. Mọi người lại cười ồ vui vẻ. Nhật Duật chữa ngượng: – Hưng Đạo huynh đúng thật là, giải thích rõ từ đầu thì ta đâu có hỏi. Chương 4 Gối đầm lệ nóng, Hịnh tướng sĩ thức tỉnh nhân tâm Mực trộn màu hồng, thích Sát Thát tỏ bày tráng chí Đang miên man suy tưởng, chợt nhìn thấy trong màn mưa phùn lất phất ẩn hiện những ánh đuốc lập lòe, rồi tiếng huyên náo ngoài cổng thái ấp vọng vào, Hưng Đạo biết có chuyện lớn, liền bật dậy, thoăn thoắt bước ra ngoài hàng hiên đứng đợi. Thiên Thành phu nhân cũng vội vã theo chân chồng mà trong lòng không khỏi linh cảm mơ hồ về những điều nghiêm trọng. Từ cổng thái ấp đến sảnh đường dài không dưới năm mươi trượng. Chốc lát đã thấy Lương Bành dẫn đầu đoàn chiến mã phi rầm rập vào sân. Đi cùng họ là một xe ngựa bịt mui kín mít. Các gia binh nghe tin đồng đội bị thương hớt hải mang cáng tre ra đón. Mui xe được mở ra, anh em xúm xít khiêng người ở trong xe lên cáng rồi mang vào nhà. Phạm Thái đây rồi, tuy thương tích đầy người nhưng vẫn còn sống, mà sao không thấy bóng dáng Đào Thế Quang và Đỗ Thành đâu cả, Vương lo lắng biết đã xảy chuyện chẳng lành. Thái cố ngồi dậy để lạy chào chủ soái làm máu tứa ra loang đỏ bằng vải trắng quấn quanh ngực, vết thương khiến chàng đau đớn phải bấu chặt tay vào thành cáng. Hưng Đạo vội xua tay, mà bảo: – Ngươi cứ ở yên kẻo thương tích lại rỉ máu. Ta miễn lễ cho. Hãy nằm nghỉ chốc lát rồi bẩm báo sau. Lại thấy Lương Bành và các chiến hữu cùng quỳ mọc dưới chân ghế, đầu cúi sát đất, hai tay nâng đoản kiếm như muốn tạ tội trước Đại Vương, Hưng Đạo bèn hỏi: – Lương Bình có gì muốn trình bày? Bành ngẩng đầu đáp trong tiếng nấc nghẹn: – Bẩm chủ soái, tiểu nhân đáng tội chết vì không làm tròn nhiệm vụ, không cứu được Thế Quang và Đỗ Thành. Tổn thất này đều do lỗi của tiểu nhân, nay xin chịu tội, còn các anh em dưới quyền chỉ là kẻ thừa hành, mong người ra ân tha cho họ. Năm chiến binh quỳ phía sau đồng thanh lên tiếng: – Bọn tôi tớ cũng có tội, xin người trừng phạt. Vương thấy vậy bèn nói: – Được rồi, hãy đứng lên cả, kể cho ta nghe sự tình đã xảy ra, bấy giờ mới xét công tội của từng người. Lương Bành kể lại vắn tắt trận chiến ở Tà Pạc Nầm, cái chết oanh liệt của Thế Quang và Đỗ Thành, tinh thần trung dũng của lão Ma Văn Kế, cha con trai chủ Lô Viên Tả và các chiến binh miền núi. Đại Vương im lặng lắng nghe, nhưng mọi sắc thái cảm xúc đều bộc lộ qua nét mặt. Có lúc ngài cắn chặt vành môi để khỏi bật ra tiếng thở dài thương tiếc, có lúc ngài nhíu trán đăm chiêu như ý thức được một việc cần suy xét kỹ, lại có lúc ngài bừng bừng ánh mắt như muốn thiêu đốt thành tro bụi bầy ma quỷ đang lởn vởn đâu đó ngoài kia, lại có lúc ngài hả hê sảng khoái như người đang khát được uống một bát nước đầy. Thiên Thành phu nhân ngồi bên cạnh chồng, nghe hết câu chuyện bên lẳng lặng đứng dậy đi vào nhà trong. Bà thấy lòng nặng trĩu, thế là đã rõ, cái giá xương máu của chiến tranh bắt đầu chảy, ngày mai đón nhận hung tin, Thị Hương chắc thê thảm lắm. Đám gia binh, tôi tớ đứng ngoài cửa rưng rưng khóe lệ cảm thương hai chiến binh mãi mãi không trở về. Hưng Đạo cất lời, phá vỡ bầu không khí bị ai: – Tì tướng Lương Bằng và các thuộc hạ nghe ta truyền dạy: các người đã làm tốt trách nhiệm của mình, trong hoàn cảnh như thế còn cứu được Phạm Thái là đáng khen rồi. Đào Thế Quang và Đỗ Thành bỏ mình vì xã tắc sẽ được ghi công đầu trong cuộc chiến vệ quốc. Trại trưởng Lô Viên Tả gửi con trai cho ta, các ngươi hãy tiếp nhận và rèn giũa nó thành một chiến binh trong đội ngũ. Nói đến đấy, Vương đắc chí mỉm cười, rồi tiếp: – Ta rất thích lời hô “Sát Thát”, rất ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Hãy coi đây là một khẩu hiệu đánh giặc trong cuộc chiến nay mai. Mọi người rất hào hứng, ai cũng bàn tán sôi nổi cách thức thể hiện tinh thần “Sát Thát”. Hưng Đạo lệnh cho các tôi tớ giải tán, chỉ giữ lại đội của Lương Bành và mấy thủ tục thân tín nhất. Bấy giờ ngài mới hỏi Phạm Thái: – Có thể báo cáo tin tức được chưa? Phạm Thái đáp: – Bẩm, rồi ạ. Hưng Đạo ra lệnh: – Không cần phải ngồi dậy. Cứ nằm yên mà nói. Phạm Thái báo cáo thông tin địch tình mà chàng ghi nhớ nằm lòng: – Nhà Nguyên huy động năm mươi vạn quân đánh Đại Việt. Ở hướng đông bắc, hơn ba chục vạn bộ binh và hai vạn kị binh do Trấn Nam Vương Thoát Hoan trực tiếp thống lĩnh, dưới trướng có nhiều tướng soái dày dạn trận mạc, dự định khởi binh vào ngày Đông chí, như vậy chỉ sau đấy dăm ngày tiền quân của giặc đã có thể đặt chân lên đất Đại Việt trên hướng Lộc Châu. Chúng chuẩn bị mười vạn thạch lương nuôi quân, dùng một ngàn xe ngựa, ba trăm thuyền lớn và năm ngàn phu để vận chuyển lương thực. Hồi mùa xuân chúng còn cử Hốt Đô Hổ và Ô Mã Nhi chỉ huy hai trăm chiến thuyền đem theo hai vạn quân vượt biển qua Chiêm Thành để tiếp ứng cho Toa Đô, lực lượng này sẽ đánh nước ta từ hướng nam. Ngoài ra quân Nguyên còn kéo sang mười hai cỗ cự thạch pháo dùng bắn đá phá thành rất lợi hại, có lẽ mục tiêu của chúng là kinh thành Thăng Long. Hưng Đạo hỏi: – Trung tâm hành khiển của Thoát Hoan ở đâu? Phạm Thái đáp: – Thoát Hoan có soái phủ tiền phương ở Khâm Châu, nhưng hành tỉnh Kinh Hồ mới là trung tâm đầu não của hắn. Đôi mắt Đại Vương mở trừng trừng như mắc nghẹn khi phải miễn cưỡng nuốt cho hết mớ thông tin tồi tệ do Phạm Thái cung cấp. Những con số đáng gờm về lực lượng của quân Nguyên cứ nhảy múa trong đầu ngài như đang cố làm vỡ tung mọi tính toán được xếp đặt từ trước. Thế là không còn úp mở gì nữa, giặc đã ấn định ngày động binh, chiến tranh là điều không thể tránh khỏi, tuy việc này đã đoán định được nhưng sao trong lòng ta vẫn có cảm giác hụt hẫng ghế gớm. Phải trấn tĩnh lại để suy xét kỹ càng, bấy giờ mới quyết những gì cần tiến hành cấp bách. Tiết Đông chí chỉ cách hai bảy ngày, quãng thời gian quá ngắn ngủi để vận động lực lượng chiến tranh. Cần tranh thủ từng ngày kẻo ta sẽ chậm chân hơn lũ giặc. Mà sao không thử níu kéo hòa hoãn? Dứt khoát phải đánh rồi nhưng thêm một ngày hòa bình là thêm một ngày chuẩn bị kỹ càng hơn cho cuộc chiến. Như vén được bức màn âm u che kín tầm nhìn, hướng đôi mắt sáng quắc về phía các gia nhân trung tín, Đại Vương bình thản sai khiến: – Tình hình cực kỳ nguy cấp, ta cùng các ngươi phải vào việc khẩn trương. Trong đêm nay cần cấp báo cho các môn khách, tì tướng và tả hữu hộ vệ tập trung về đại sảnh để nhận lệnh. Các thủ tục nhanh chóng đi triệu tập mọi người. Vương lại truyền dạy: – Phạm Thái đã hoàn thành trọng trách của mình, ta ghi nhận công lao này. Các chiến binh dưới quyền Lương Bành cũng mệt mỏi lắm rồi, ta cho về nghỉ ngơi. Hãy đưa Phạm Thái xuống trại, gọi lương y trong thái ấp đến chẩn trị ngay. Lương Bành ở lại chờ giao việc. Nói rồi Vương sai gia nhận mài mực để thảo thư tín. Ngài tranh thủ thời gian chờ đợi mọi người tập hợp mà ngồi viết liền bốn lá thư. Trời tối đen, từng cơn gió lạnh luồn lách qua khu vườn phả xấp ngửa vào những mặt người phờ phạc. Phạm Thái được các chiến hữu khiêng về khu gia binh. Bị vết thương hành, chàng lịm đi trong cơn đau đớn vật vã. Nửa canh giờ sau, các môn khách, tì tướng và tả hữu thân cận đã tề tựu đông đủ ở đại sảnh An Quốc Đường. Trong ánh đèn sáng đỏ, khuôn mặt cương nghị của Quốc công Tiết chế ánh lên màu đồng rắn rỏi, ngài ngồi bất động trước án thư mà không mảy may để ý đến lời vái chào của mọi người. Vương đang dành toàn bộ tâm trí vào kế hoạch khởi động chiến tranh vệ quốc, một cuộc chiến sẽ rất tàn khốc mà người nắm cương vị thống lĩnh quân đội như ngài buộc phải tiến hành trong tình thế không còn con đường nào khác. Phía sau lưng Hưng Đạo là Yết Kiêu và Dã Tượng, hai nô bộc trung can bậc nhất của soái phủ. Đứng ở dãy bên phải sảnh đường có mười lăm môn khách, những bậc nho sĩ toàn tài được Vương đối đãi như bằng hữu thân cận. Đứng ở dãy bên trái sảnh đường là mười tám tùy tướng và đội trưởng, những gia binh tài giỏi và tận tụy dưới trướng Quốc công Tiết chế. Tất cả mặc trang phục chỉnh tề, không ai bảo ai nhưng họ đều biết tình hình đang chuyển biến xấu nên cùng giữ thái độ im lặng, căng thẳng chờ đợi Đại Vương lên tiếng. Bằng giọng trầm đầy biểu cảm, Vương thông báo ngắn gọn: – Giặc Nguyên sắp kéo đại quân vào nước ta. Có thể chúng tiến đánh từ ba hướng, đông bắc, tây bắc và nam, tổng cộng quân số không dưới năm mươi vạn. Tình thế chiến tranh đã rõ ràng, không đầy một tháng nữa nước Nam sẽ tràn ngập lang sói. Chúng ta phải đánh thôi vì đây là lựa chọn duy nhất để bảo tồn sơn hà xã tắc. Mọi người hãy chuẩn bị tinh thần để bước vào cuộc chiến. Ngài ngừng nói, nhìn khắp lượt tả hữu bên dưới như đang cân nhắc Công việc giao phó cho mỗi người, rồi dõng dạc sai truyền: – Tùy tướng Tuấn Thọ nghe lệnh. Trong hàng trái, vang tiếng hô “Có tiểu nhân”, Tuấn Thọ hùng dũng bước ra giữa sảnh khoanh tay đợi lệnh. Hưng Đạo chỉ thị: – Ngươi điều động quân hiệu chạy ngựa trạm thâu đêm thông báo khắp các lộ tin tức giặc Nguyên sắp khởi binh và truyền lệnh triệu tập chỉ huy các lộ quân thượng triều trong hai ngày tới để họp bàn với Quan gia về quyết sách đánh giặc. – Xin tuân lệnh. – Tuấn Thọ đáp lớn rồi lui vào hàng. Đại Vương lại truyền: – Tùy tướng Lương Bình nghe lệnh. Lương Bành đáp “Có thuộc hạ” rồi hiên ngang bước ra đợi lệnh. Hưng Đạo nói: – Ngươi vừa trở về nên sức lực giảm sút nhiều, nhưng việc này ta không biết giao cho ai khác, vậy hãy vì ta mà nỗ lực. Ở đây có hai phong thư, trong đêm nay người dẫn theo vài quân kị phóng đến phủ Thiên Trường để kịp giao thư cho Thượng hoàng lúc bình minh, thư còn lại giao cho Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải ở thái ấp của ngài. Khi gặp vương, nhớ chuyển lời ta muốn hội kiến với ngài vào đêm mai, trước lúc thượng triều vào sáng mốt. Lương Bành bước tới nhận hai lá thư cho vào túi áo ngực rồi khẳng khái đáp “Xin Đại Vương hãy tin tưởng ở tiểu nhân”. Hưng Đạo lại lên tiếng: – Tùy tướng Nguyễn Hòa nghe lệnh. “Tiểu tướng đợi lệnh”, một người trạc tuổi tứ tuần bước ra, khuôn mặt tinh anh, cử chỉ lịch lãm, ra dáng là người có học. Đó là Nguyễn Hòa, viên tùy phải được Đại Vương tín nhiệm, chuyên phụ trách công việc thư tín và giao hảo giữa An Quốc Đường với các vương hầu. – Người điều hành tôi tớ chuyển thông tin chiến tranh tới mọi thái ấp trong nước, hẹn với các vương sớm sủa về kinh để sáng mốt họp với Quan gia bàn kế chống giặc, các hầu nắm trọng trách quân quyền cũng mời luôn thể, còn các hầu khác thì dặn chấn chỉnh đội ngũ, mài gươm sửa giáo cho tốt rồi chờ ta gửi lệnh điều binh. Riêng ngươi đích thân đến phủ đệ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc giao tận tay cho vương phong thư này và cố thuyết phục ông ta vào triều họp bàn. Hòa bước lên nhận thư, khẽ đáp “Tiểu nhân sẽ nỗ lực làm tròn nhiệm vụ”. Hưng Đạo nói nhỏ với Hòa “Ngươi dặn người truyền tin bảo với các tiểu vương nhà ta thu xếp mai qua Vạn Kiếp để chia tay với thân mẫu rồi cùng ta lại kinh”. Vương truyền tiếp: – Tùy tướng Nguyễn Địa Lô nghe lệnh. Địa Lô bước ra giữa sảnh, khoanh tay đáp “Tiểu nhân sẵn sàng”. Vương giao việc: – Ngươi chia người cấp báo tình hình cho các vệ quân, yêu cầu triệu hồi tướng sĩ về trại đầy đủ, tăng cường vũ khí và lương thảo, án binh chờ ta điều động. Ngài ra lệnh cho Yết Kiêu “sửa sang thuyền bè, trực chiến ngày đêm, tăng cường tuần tiễu trên sông từ thái ấp đến tận của biển”. Các tì tướng và tả hữu khác đều được giao nhiệm vụ; người chỉ huy tháo dỡ và chôn giấu các đồ vật quý giá trong tư dinh; người đốc thức vận chuyển lương thực lên núi cất giấu; người chỉnh trang quân ngũ và khí giới; người chuẩn bị phương tiện và nơi chốn để khi có lệnh sẽ tiến hành di tản phụ nữ, người già và trẻ em trong điền trang vào núi lánh nạn. Sau khi giao phó nhiệm vụ cho các thuộc hạ, Đại Vương lại truyền lệnh: – Canh thìn sáng mai, ngoài những người thi hành công vụ, tập hợp tất cả gia binh theo đội ngũ trước An Quốc Đường để tiễn biệt tử sĩ và nhận huấn thị. Bây giờ các ngươi khẩn trương vào việc của mình. Mọi người cùng chắp tay bái biệt Đại Vương rồi nhanh chóng rời đại sảnh. Trong lán trại, các chiến binh lặng lẽ khoác áo tơi mà lầm lũi lên đường làm phận sự bất kể ngoài trời đang mưa cùng với những cơn gió thổi như roi quất rát mặt người. Giữa đêm tối mù mịt ở cái vùng bán sơn địa vắng lặng, hàng trăm bó đuốc bập bùng theo các chàng kị sĩ phi nước đại tỏa đi muôn hướng mang dáng dấp của một ngày đặc biệt: ngày khởi động cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Đại Việt sau hai mươi bảy năm đất nước thái bình an lạc, cho dù lù xâm lược Nguyên Mông chưa tràn qua biên giới. Điều động xong bầy tôi, lúc ấy Hưng Đạo Vương mới quay sang đám môn khách mà thổ lộ tâm tư bằng giọng trầm buồn: – Bấy lâu ta với các bằng hữu vẫn ăn cùng mâm, đàm đạo cùng chiếu, ngặt nỗi thế nước lâm nguy, vận mệnh sơn hà ngàn cân treo sợi tóc, từ nay chẳng biết có được ngày nào anh em ta lại ngồi bên nhau uống chung một nậm rượu? Cuộc chiến sắp tới chắc chắn rất tang thương, nên ta không thể chu toàn sinh mệnh của mọi người. Vì vậy ai cần về nhà thu xếp cho mẹ già con thơ thì ta đành gạt nước mắt mà tiễn biệt. Sớm mai phu nhân sẽ cấp cho các vị lộ phí đi đường. Còn vị nào muốn ở lại dấn thân cùng ta vào cuộc chiến phò vua giữ nước thì Quốc Tuấn này hết lòng cảm kích mà nguyện cùng sống chết với huynh đệ giữa chốn sa trường. Các môn khách bùi ngùi cảm xúc trước ngã rẽ bất ngờ trong cuộc đời vốn dĩ đang yên lành của kẻ sĩ nương thân đợi thời dưới bóng Đại Vương. Tâm can bị giằng xé, họ ngơ ngác nhìn nhau mà phân vân không dám quyết nên đi hay ở. Bỏ đi thì không đành, lại có phần hổ thẹn trước thịnh tình đối đãi của gia chủ lâu nay. Ở lại cũng cam go, dũng khí tuy có đôi chút nhưng thân phận thừa văn thiếu võ lấy bề nào kham nổi việc binh đao? Hưng Đạo nhìn thấu lòng người, ngài nhẹ nhàng khích lệ: – Đừng ngại ngần gì, chiến tranh sắp ập đến, ai cũng có quê nhà và gia đình để lo toan. Các bằng hữu hãy về định xá thu xếp hành lý để mai còn lên đường. Khi nào tàn cuộc chiến, cánh cửa điền trang lại rộng mở đón tiếp anh em về đây vui vầy với ta. Có sáu người nhỏ lệ bái biệt Đại Vương ra đi, chín người khăng khăng ở lại cùng đồng cam cộng khổ với thống lĩnh quân đội trong cuộc chiến ngày mai. Hưng Đạo mừng thầm, một người mà ngài rất muốn ở lại đã nhất quyết không ra đi. Đại Vương sai gia nhân dâng trà mời mọi người. Họ ngồi quanh án thư bàn bạc chính sự.�� Vương tỏ bày tâm trạng: – Thật đáng mừng khi số đông huynh đệ ở lại cùng ta trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này. Các vị đã tạm quên việc nhà mà ngồi đây toan tính việc nước thì lẽ nào Quốc Tuấn không coi mọi người là mưu sĩ của mình? Nay cần tiến hành một việc hệ trọng, Thì Kiến có thể đảm đương việc này, chẳng hay để có sẵn sàng công du một chuyến xa xôi cách trở? Trần Thì Kiến bấy giờ đang độ tuổi thanh xuân, tuấn tú và tráng kiện, lanh lợi và túc trí, lại giỏi ăn nói nên được Đại Vương đối xử như con cháu trong nhà. Chàng quả quyết đáp lời: – Đại Vương cứ giao phó. Được ngài tin tưởng giao việc là niềm vinh dự lớn lao, Thì Kiến có sá gì thân này. Hưng Đạo mừng rỡ, dặn dò cụ thể: – Đệ cùng bốn vệ sĩ phóng ngựa xuyên đêm về kinh, đến tư gia Học sĩ Đinh Củng Viên giao cho ngài lá thư này. Dặn ngài cấp báo với hoàng thượng và đề nghị người cử sứ sang Nguyên ngay trong ngày. Nếu Quan gia thuận thì đệ tháp tùng sứ đi Bắc, không đến Đại Đô mà đến hành khiển Kinh Hồ. Thoát Hoan nắm quyền sinh sát trong cuộc chinh chiến nước Nam, đến đó thương lượng với y là được. Trên đường đi truyền đạt với sự chú ý của ta: không mang thông điệp đầu hàng hay chấp nhận mọi điều kiện của giặc, mà gắng trì hoãn ngày chúng động binh, kể cả việc úp mở về khả năng ta sẽ nhượng bộ để giặc lầm tưởng Đại Việt run sợ đang tính chuyện tiếp rước quan quân thiên triều vào cai trị. Làm cách nào cũng được, miễn sao kéo dài thời hạn xuất quân của giặc. Phải tận dụng từng giờ từng khắc kẻo hỏng việc. Kiến sốt sắng tạ từ, khẩn trương lên đường làm nhiệm vụ. Vương tiễn ra cửa, còn dặn dò thêm “Vất vả cho đệ lắm. Nhớ tranh thủ nghỉ ngơi khi Học sĩ vào triều. Ta tin tưởng để đi chuyến này sẽ được việc”. Thì Kiến đáp “Tiểu đệ quyết không phụ lòng tin của Đại Vương”. Ngài quay vào án thư, đề nghị các môn khách hiến kế chống giặc. Phạm Lãm cho rằng “Cần lập phòng tuyến đông bắc”. Hưng Đạo nói “Điều này ta cũng đã nghĩ tới”. Ngô Sĩ Thường có ý kiến “Nên sớm tính kế hoạch di tản khỏi Thăng Long, đề phòng giặc công phá bằng cự thạch pháo”. Vương vỗ tay tâm đắc “Đúng ý ta. Phải biết né tránh sức mạnh của chúng, kẻo sau cuộc chiến kinh sư chỉ còn là một đống gạch vụn”. Đã sang canh tý, trời đêm càng buốt giá khiến các môn khách ngồi thu mình co ro trên ghế, Hưng Đạo yêu cầu mọi người về nghỉ, mai có nhiều việc phải làm. Môn khách ra về, giữa sảnh đường trống rỗng chỉ còn lại một chủ một tớ. Thấy Đại Vương cứ cắm cúi viết mà chẳng sai khiến gì mình, Dã Tượng cố tình đằng hắng mấy lần mà dường như không thể kéo ngài ra khỏi dòng suy tưởng. Vương biết ý bèn giả vờ hỏi: – Sao người chưa về, còn đứng đấy làm gì? Dã Tượng mặt buồn so, đáp: – Ai cũng được ngài giao việc, còn tiểu nô chưa được giao nên vẫn đứng đây chờ lệnh. Vương làm bộ ngạc nhiên: – Thế à. Vậy mà ta cứ nghĩ đã dặn người ngày mai tháp tùng ta lai kinh rồi. Dã Tượng hồ hởi ra mặt, bái tạ chủ nhân ra về. Nô bộc vừa đi thì Thiên Thành phu nhân từ sau nhà bước ra. Bà đến ngồi bên cạnh chồng mà không nói năng gì, đôi mắt u hoài nhìn bâng quơ quanh nhà. Hưng Đạo hỏi vợ: – Giờ này phu nhân chưa ngủ sao? Bà chẳng trả lời chồng mà lại hỏi: – Không có cách nào hòa hoãn à? Vương ngẩng mặt nhìn trùng trùng tấm hoành phi đại tự “An Quốc Đường” treo trên đầu, mà rằng: – Hòa hoãn gần ba mươi năm rồi còn gì. Kẻ bị o ép không thể cam tâm nhịn nhục hơn nữa, kẻ đi bắt nạt không thể kìm nén dục vọng tham tàn lâu hơn, tất yếu phải chiến tranh thôi. Thời buổi quốc thái dân an chẳng còn, muốn có lại thì phải đánh cho tan ảo mộng đô hộ nước Nam của lũ Mông Thát. Thấy Thiên Thành phu nhân mặt mày ỉu xìu, Vương hiểu lòng bà đang lo nghĩ điều gì nên ngài cố tình chuyển hướng an ủi lệch trọng tâm: – Ta đã sắp đặt hết rồi, nếu tình hình nguy cấp thì bọn tôi tớ sẽ đưa bà tới nơi an toàn. Kim ngân, vật dụng quý giá cũng sẽ cho chôn giấu hết. Phu nhân nhìn chồng thở dài: – Tôi thì nói làm gì, tiền bạc là vật ngoài thân, tôi cũng không thiết. Chồng và các con đều làm tướng triều đình, nay mai tất cả phải ra trận, làm vợ làm mẹ ai mà bình thản cho được. Tôi chẳng muốn phô cái mặt rầu rĩ để khiến vương mủi lòng đâu, nhưng phải chi ngài hiểu bụng vợ mà kêu ba thằng tiểu tử về thăm mẹ trước lúc xuất chính thì tôi mãn nguyện lắm. – Mai chúng nó sẽ về thăm bà. Như vậy bà an lòng rồi chứ? – Vương nghĩ thầm trong bụng: “Đáng buồn thay, đàn bà là kẻ khổ tâm nhất trong cuộc chiến, họ mòn mỏi trông con đợi chồng có khi suốt cả cuộc đời.” Phu nhân đã tươi tỉnh hơn, bấy giờ lại trở về với thói quen cằn nhằn của nữ giới: – Giờ thì ông đi ngủ được rồi đấy. Cứ thức khuya như vậy thì lấy đâu tinh thần sáng suốt để điều binh khiển tướng. Vương đành bỏ dở bài huấn thị tướng sĩ đang viết, cầm theo tờ bản thảo lặng lẽ vào thư phòng. Những hôm công việc bận rộn, ngài đều ngủ lại ở nơi chốn riêng. Bà cũng về phòng mình, không làm phiền ông nữa. Nằm trằn trọc mãi rồi thiếp trong cơn mộng mị, thế mà lòng lại ngập tràn đau xót trước viễn tượng ngoại xâm giày xéo quê cha đất tổ, chém giết đồng bào, đốt phá làng mạc, Vương giật mình tỉnh giấc, trên má nhòa lệ nóng, chiếc gối kê ướt đẫm nước mắt, ngài bật dậy, ngồi nhìn trân trên ngọn đèn leo lét trên bàn. Trống điểm canh năm, trời còn tối mịt, nhưng lòng không yên ổn thì làm sao ngủ cho được, ngài quay ra bàn cầm bút viết tiếp bản huấn thị tướng sĩ. Lửa hận bốc ngùn ngụt tâm can, thôi thúc Vương thảo những dòng chữ căm hờn lên trang giấy. “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm giận chưa được xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng.Dư thường lâm xan vong thực, trung dạ phủ chẩm. Thế tứ giao di, tâm phúc như đảo. Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã. Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, diệc nguyện vi chi.” Ngài viết một mạch kín ba tờ giấy, những con chữ chứa chan tình người, lòng trung nghĩa, đức hy sinh và những lời khuyên răn kẻ dưới quyền vừa nhẹ nhàng bao dung, vừa cụ thể và thực tế; những con chữ chất ngất bi thương và uất hận trước tham vọng tàn bạo của những kẻ chuyên đi bắt nạt người khác, cậy quân mạnh tướng hùng mà hiếp đáp các dân tộc nhỏ yếu; những con chữ hội tụ dũng khí kiên cường bất khuất của quân dân Đại Việt không cam tâm khom lưng quỳ gối làm tôi đòi cho ngoại bang, sẵn sàng cầm vũ khí, chấp nhận đổ máu hy sinh để giữ vững cơ đồ xã tắc và nền móng tự chủ của nước nhà. Nhìn ra ngoài, trời đã chạng vạng, áng bình minh không qua nổi mây mù dày đặc nhưng cũng đủ hắt qua khe cửa hẹp một chút ánh sáng nhỏ nhoi. Cảm nhận những ngày u ám còn dài, bất chợt Vương lấy thanh bảo kiếm treo trên vách, rút gươm khỏi vỏ, chĩa ra phía cửa rồi gầm lên dữ dội: – Ta thề với lòng mình sẽ thống lĩnh quân dân nước Nam đập cho tan tành bóng đen hắc ám ngoài kia, để ánh trời lại chiếu rọi huy hoàng trên non sông này. Tim óc như được khai sáng, quyết sách chống giặc hiện rõ mồn một trong đầu, Vương lẩm nhẩm từng câu từng chữ sao cho dễ nhớ, dễ hiểu. Ngày mai, trước toàn thể quân thần, ngài sẽ trình bày chủ ý của mình, hy vọng rằng sẽ được số đông ủng hộ. Lòng đã thanh thản hơn nhiều, Vương mở cửa bước ra hàng hiên, lặng lẽ nhìn các gia binh đang tất bật dựng cờ, kê bục để chuẩn bị cho lễ khai quân. Trời âm u rét mướt lại thêm lất phất mưa phùn làm cho khung cảnh buổi sớm ở thái ấp Vạn Kiếp muôn phần ảm đạm. Lá đại kỳ Quốc Công Tiết chế màu đỏ trên ngọn đài cao ở góc sân cứ rủ xuống vì nước mưa cũng đủ khiến lòng người se sắt lại. Nhưng chẳng vì thế mà không khí buổi lễ kém phần long trọng. Gần hai ngàn gia binh tề tựu trên sân gạch rộng lớn của An Quốc Đường, mỗi đội ngũ một màu sắc phục theo hàng lối chỉnh tề cùng với đủ loại binh khí đánh trận. Phụ nữ, người già và trẻ em từ các gia đình tá điền kéo đến đông đảo bên rìa khoảnh sân. Chồng, con và cha của họ đang đứng trong kia, góp mặt trong đội quân vệ quốc dưới trướng vị Đại Vương kiệt xuất. Các tì tướng mặc giáp trận dàn ngang trên hàng đầu. Phía trước họ là chiếc ghế dài dành cho mẹ, vợ và con trai của Đào Thế Quang. Thị Hương mặc áo tang trắng ngồi đỡ bà mẹ già đau yếu đã hoàn toàn suy sụp từ lúc nhận hung tin về đứa con độc nhất. Cậu bé Thái Bình đầu chít khăn tang ngơ ngác nhìn quanh mà không hiểu vì sao người ta lại tụ tập đông đúc thế? Chiếc bàn thờ đơn giản ở giữa sân đặt linh vị đề tên hai chiến binh tử trận trên biên giới; một bát hương nghi ngút khói nồng, mấy nhành hoa dại trầm mặc trong chiếc bình gốm xanh và đĩa cam vàng đọng nước mưa ướt lạnh. Đúng giờ thìn, Đại Vương từ sảnh đường bước ra. Ngài mặc vẽ phục màu tía, đầu đội mũ chóp có ngù, hông đeo bảo kiếm, bên ngoài khoác tấm choàng nâu đỏ. Đi bên cạnh là Thiên Thành phu nhân. Tháp tùng phía sau có Yết Kiêu, Dã Tượng và các môn khách trong nhà. Nhìn thấy gia đình của Thế Quang, ngài và phu nhân tiến đến. Bà mẹ định vái chào, Vương cản lại, ngài nói: – Lão bà không cần đa lễ. Ta thành thật chia sẻ đau thương về sự mất mát này. Đào Thế Quang không chỉ là hiếu tử của bà, tôi trung của ta, còn xứng danh một tráng sĩ vì nước bỏ mình trong cuộc chiến chống giặc phương Bắc. Sử sách sẽ không quên tên con trai của bà. Người mẹ già xúc động chẳng thốt nên lời, dùng bàn tay run rẩy quệt nước mắt rồi gật đầu biểu thị lòng cảm tạ ơn nghĩa của Đại Vương. Ngài lại quay sang Thị Hương, bảo rằng: – Ngươi hãy nén buồn thương để nuôi dạy thằng bé nên người. Nếu có khó khăn gì thì trình bày với phu nhân. Thiên Thành phu nhân cũng lựa lời an ủi tì nữ cũ: – Con còn mẹ già và con nhỏ, cuộc sống của họ trông cậy vào con cả. Chiến tranh đã gần kề, sẽ còn nhiều gian nan, con phải vững vàng lên. Thị Hương sụp lạy vợ chồng Đại Vương, đáp tạ trong nước mắt giàn giụa: – Chúng con đội ơn người và phu nhân. Hưng Đạo đến bên bàn thờ, thắp thêm một cây hương cho nghĩa sĩ trận vong. Toàn quân chắp tay cúi đầu mặc tưởng đồng đội hy sinh. Đại Vương hướng tới hàng quân, nói lớn: – Tướng sĩ phủ đệ Vạn Kiếp nghiêng mình đưa tiễn vọng linh Đào Thế Quang và Đỗ Thành, những chiến binh dũng cảm đã xả thân vì sự tồn vong của vương triều Đông A và giang sơn Đại Việt. Hôm nay không có mặt thân nhân Đỗ Thành nhưng lòng ta vẫn tri ân họ, những bậc cha mẹ đã sinh ra một con người trung nghĩa. Mưa nặng hạt. Phu nhân bảo gia đình Thế Quang theo bà vào sảnh đường. Hưng Đạo quay lên bục gỗ dưới mái hiên rồi lệnh cho quân hiệu dong ba hồi trống cái. Tiếng trống vừa dứt, đã thấy đám tôi tớ khiêng ra tấm đại tự An Quốc Đường vốn được treo giữa sảnh nhiều năm, rồi chuyền tay cho các môn khách đứng hàng ngang phía sau Vương. Bức hoành phi được môn khách nâng lên cao, lại hạ xuống và quay mặt chữ vào trong. Bấy giờ Hưng Đạo dõng dạc tuyên bố trước đội ngũ: – Tướng sĩ Vạn Kiếp nghe đây. Ta đã cho hạ tấm biển An Quốc Đường xuống. Kể từ giờ Sông núi chẳng còn bình yên, niềm vui non nước an hòa đành phải gác lại để nuôi dưỡng ý chí đánh tan lũ giặc đang lăm le tràn vào bờ cõi. Quân Nguyên sắp kéo sang, chiến tranh ở ngay trước cửa, ta tuyên bố cuộc chiến bắt đầu. Từ đêm qua, hàng trăm đồng đội của các ngươi đã vượt muôn trùng mưa gió mà tỏa đi khắp nơi để thông báo tin giặc động binh. Hãy vì Đông A mà cầm chắc khí giới, hãy vì nước Nam mà liều thân đánh đuổi ngoại xâm. Các người có quyết tâm cùng ta chăng? Hàng ngàn tiếng hô vang dội đất trời “Chúng tôi quyết tâm cùng Đại Vương phò vua đánh giặc cứu nước”. Trống lại nổi lên từng hồi giục giã hòa chung tiếng hò reo cổ vũ chồng con của đám đồng lương dân đứng ngồi nhấp nhô bên ngoài. Chờ sự huyên náo lắng xuống, Vương ban huấn thị: – Nay có lời phủ dụ tướng sĩ, các ngươi hãy lắng nghe rồi truyền thông điệp của ta tới những người còn khả năng cầm vũ khí, để sao cho tướng Đông A thêm mạnh tinh thần, để sao cho quân nước Nam thêm bền ý chí, để sao cho những ai còn mê muội vui thú đời thường lại chẳng màng nỗi nhục phiên thuộc sẽ sớm tỉnh ngộ mà rèn gươm luyện giáo cho giỏi rồi theo ta đánh giặc phen này. Hưng Đạo ngưng lời, giơ tay làm hiệu. Một tên lính hầu mang tới cuộn giấy, ngài mở ra rồi cất giọng trầm hùng đọc lớn. – Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế, Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoát chặt tay để cứu nạn cho nước...Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. Dự Nhượng thon thản nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn... Ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Trông thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình; đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Cậy thế Hốt Tất Liệt để buộc đời ngọc lụa; giả hiệu Vân Nam Vương để vơ vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng. """