"Trùm Phản Chúa - Trần Diễn full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trùm Phản Chúa - Trần Diễn full mobi pdf epub azw3 [Phản Gián] Ebooks Nhóm Zalo TRÙM PHẢN CHÚA Tiểu thuyết tình báo —★— Tác giả: Trần Diễn Nhà xuất bản CAND, 2003 Nguồn: Giangtvx (Vnmilitary) Tạo ebook: Mountain King tve-4u.org 26-01-2021 Chương một 1 Mật điện. (khẩn) Gửi Trưởng ty Công an Ninh Bình. Theo mật điện số 5 của Ty, hồi 13 giờ hôm nay báo cáo về chiếc thuyền lạ, Bộ nhận định đó là thuyền của bọn gián điệp biệt kích Mỹ-ngụy đã xâm nhập vào vùng biển Kim Sơn. Ty cho dùng ngay phương án truy lùng. Một giờ một lần báo cáo kết quả về Bộ. Cục trưởng Cục Phản gián. Nguyễn Quý Dương Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ, các tổ truy lùng của tỉnh và Công an huyện Kim Sơn bắt tay ngay vào chiến dịch. Họ đã lùng sục suốt đêm trên tất cả các đồng cói, kênh rạch, nhưng vẫn chưa có kết quả. Thiếu uý Đặng Văn Thành, tổ trưởng tổ truy lùng số 8, vóc người tầm thước, da ngăm đen, dừng tay chèo, ngắm nhìn những hạt sương trên tàu cói, cành sú vẹt. Phía trước anh, màu đỏ hồng cả một vùng trời và biển gặp nhau. - Báo cáo đồng chí, chắc nó đã trốn vào nơi nào đó chứ không thể nằm ngoài đồng cói này được đâu! - Có thể, nhưng chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh. Trung sĩ Lân, khoảng hai mươi mốt tuổi, hai má bầu bầu, đưa tay phải dụi mắt, nói: - Đi suốt đêm rồi. Nghỉ vài tiếng được không anh? Thượng sĩ Mạnh nước da xanh, khép áo bạt cho đỡ lạnh vì gió biển và hơi sương, nheo đôi mắt ngái ngủ. Thiếu uý Thành rút hai điếu thuốc lá đưa cho hai người: - Nghỉ một lúc rồi đi tiếp! Cả ba người ngả lưng xuống thuyền. Thiếu uý Thành cởi áo khoác ngoài, xoải tay vươn vai rồi ngồi lên mũi thuyền nhường cho Lân và Mạnh nằm. Họ ngủ được hơn một tiếng, Thành đánh thức hai người dậy. Mạnh xoải tay vươn vai rồi lấy khăn hứng từng giọt sương lau mặt. Thành cầm nắm cơm nguội to như quả bưởi bẻ từng miếng đưa cho Mạnh và Lân rồi mở gói thức ăn. - Muối vừng để ở thành thuyền này này. Mạnh vẫn nhìn lên trời, đưa tay chấm muối vừng. - Quỷ sứ ơi, chạm nước rồi! Thành vội chộp tay Mạnh nâng lên. Nhưng muộn mất rồi, miếng cơm đã ướt một phần. Mạnh cười nói vui: - Tại tôi sợ thức ăn nhạt nên đã lấy thêm muối biển đấy. Cơm nước xong ba người ngồi chụm vào nhau giữa lòng thuyền, trải bản đồ trên gối. Thiếu úy Thành giải thích: - Trong chiến dịch truy lùng này, chúng ta phải trải đều lực lượng theo chiều dài khoảng mười tám cây số, từ cửa Đáy giáp giới Nam Định đến cửa lạch Thần Phù giáp Thanh Hóa. Tổ của chúng ta có nhiệm vụ lùng sục ở khu vực BM.2 - Trung sĩ và thượng sĩ đều nhìn theo hướng tay chỉ của tổ trưởng - đoạn này nước cạn, thuyền không đi được. Ba người xuống thuyền đi bộ giữa sình lầy đầy sú vẹt. Sau hai ngày đêm lùng sục, họ đều thấm mệt, thỉnh thoảng vấp phải cây như đẩy họ bật trở lại. Gần hai ngày im lặng lang thang trong rừng sú vẹt, họ chấp hành lệnh truy lùng một cách nghiêm túc. Đến bên một cây sú vẹt gẫy cành, họ quan sát, thấy vết xước còn mới. - Cây sú vẹt này gãy chắc không phải do gió bão mà do bàn tay người nào đó - Mạnh nói nhỏ. - Chỉ tiếc là nước mưa đã xóa nhòa mọi vết tích. Nghe hai chiến sĩ trong tổ trao đổi, thiếu uý Thành chỉ muốn họ nói thẳng ra: đây là dấu hiệu ban đầu để đi sâu vào cuộc truy lùng. - Tôi cho rằng, chỉ có người nào thuộc rừng sú vẹt mới đi tới đây được. - Nếu họ có bản đồ thì sao? Ba người lội bì bõm, luồn dưới các lùm cây xem xét từng gốc cây, mặt bùn. - Dấu vết thì chúng ta có thể thấy được - Mạnh giải thích - nhưng con người tới đây thì không thể tìm ra được. Nếu bọn gián điệp nhảy dù thì nó cũng cao chạy xa bay rồi. Mãi tới gần chiều tối ngày thứ ba, tổ truy lùng của Thành vẫn không tìm thấy gì nghi vấn ngoài cành sú vẹt gãy. Ba ngày lặn lội giữa vùng sú vẹt, Thành và anh em trong tổ đều lấm bê bết bùn đất, chỉ còn đôi mắt vẫn giữ nguyên sự linh hoạt. Mặt trời thấp tới mức đã chìm dần về phía thị xã Ninh Bình, cả rừng sú vẹt như nhuộm sắc chiều tà. Mạnh quay lại phía sau nói: - Chúng ta sắp đi hết khu vực mình được phân công - Giọng Mạnh khản đặc. - Về chứ đồng chí chỉ huy? - Lùng sục thêm vài giờ nữa - Thiếu úy Thành động viên - Cố gắng đợi lệnh cấp trên. Họ tiếp tục lê bước. Một lúc sau có tiếng chó sủa. - Anh nghe thấy không? Cả ba người dừng lại. - Có. Tiếng con Vích của tổ 5. Thế là chúng ta đã lùng sục hết khu vực được phân công - Mạnh bước chậm, đặt câu hỏi: "Có lẽ con Vích đã phát hiện ra mục tiêu?" - Tiếng chó sủa ngắt quãng như thế chứng tỏ nó chưa bắt được mục tiêu. Họ lại chậm chạp bước lên phía trước để lại đằng sau những hố chân người chưa lấp kín. Quá nửa đêm, ba người về tới địa điểm tập kết khi trăng mỏng như ngấn nước đã lặn xuống phía tây. 2 Tại trụ sở Cục Phản gián Bộ Công an có cuộc họp bất thường do Cục trưởng triệu tập. Trụ sở Cục Phản gián là một tòa nhà hai tầng nằm gần trung tâm Hà Nội, ngày cũng như đêm đều có người bảo vệ. Thoáng trông, người ngoài tưởng trụ sở này là một biệt thự bỏ hoang. Người lạ vào đây sẽ không biết được gian nào có người đang làm việc, gian nào đặt máy, lưu trữ hồ sơ. Không một tiếng động, không một lời nói lọt ra ngoài khe cửa. Ban đêm, trụ sở vắng lặng đi, chỉ sôi động khi có xe lao qua cánh cổng sắt. Chiếc xe commăngca dừng lại giữa sân. Cục trưởng Nguyễn Quý Dương khoảng hơn năm mươi tuổi, tóc bạc, vói cặp lông mày rậm bước xuống xe. Ồng đi thẳng lên gác hai, bước vào phòng họp dành cho lãnh đạo. Căn phòng này cũng như các căn phòng bên cạnh, rất tĩnh mịch. Ông Trưởng ty Công an Ninh Binh ngồi trên chiếc ghế đối diện vối ghế của Cục trưởng quay lưng về phía cửa ra vào. Trông thấy Cục trưởng, ông nói ngay: - Chào đồng chí! - Đồng chí tới lâu chưa? - Cục trưởng bắt tay mọi người. - Báo cáo đồng chí, mới mười một giờ trưa nay. - Chúng tôi đợi đồng chí một đêm mà tưởng hàng thế kỷ. Phó cục trưởng phụ trách công tác chống gián điệp ẩn nấp bỏ máy điện thoại trở lại bàn họp. - Đề nghị đồng chí cho làm việc. Buồng bên hệ thống thiết bị vô tuyến vẫn đang hoạt động đều đặn truyền đi các nơi trong toàn quốc những chỉ thị mật. - Cho mời các đồng chí tới để chúng ta cùng nhau nhận định về chiếc thuyền lạ xuất hiện ở vùng biển Kim Sơn, Ninh Bình - Cục trưởng vứt mẩu thuốc vào lọ gạt tàn, mở cặp lấy hai tấm ảnh cỡ 18 X 24 đưa cho đồng chí Trưởng ty Ninh Bình. - Đồng chí nhìn kỹ xem ảnh hai chiếc thuyền này có chỗ nào khác nhau không? Với con mắt nghề nghiệp, ông trả lời ngay: - Hai ảnh chụp một chiếc thuyền nhưng góc độ chụp khác nhau một chút. Cục trưởng cười: - Vấn đề là ở chỗ hai chiếc thuyền khác nhau mà ta tưởng là một - Ông chỉ tay vào chiếc ảnh thứ nhất, thấp giọng - Đây là ảnh chiếc thuyền cao su của tên gián điệp người nhái đầu tiên xâm nhập vào nước ta ở vùng biển Hải Ninh, Hồng Quảng đêm ngày hai mươi tháng hai năm một ngàn chín trăm sáu mốt. Khi vào tới đất liền, y vùi thuyền xuống bãi cát rồi đi về cứ theo kế hoạch của trung tâm huấn luyện tình báo Mỹ Khê, Đà Nẵng - Cục trưởng chỉ tay vào chiếc ảnh thứ hai, nói tiếp - Còn đây mới chính là chiếc ảnh do các đồng chí chụp được ở Kim Sơn. Xét về khả năng và điều kiện, không gian và thời gian chúng ta tạm thời kết luận: Đó là chiếc thuyền cao su của bọn gián điệp biệt kích Mỹ - ngụy đã xâm nhập vào Ninh Bình. Sau ba ngày đêm lùng sục khắp nơi không kết quả, tôi mời đồng chí lên để nghe tường tận hơn về một số chi tiết: nguồn tin ban đầu do ai cung cấp; cung cấp trong trường hợp nào - giúp chúng ta có cơ sở xác định, tìm ra phương hướng truy lùng cho thích hợp. Cục trưởng đứng lên kéo chiếc rèm vải đê lộ tấm bản đồ địa hình Việt Nam. Màu xanh của biển gợi cho ông Trưởng ty Ninh Bình một cảm giác buồn buồn giống như cảm giác của một cuộc chia ly vĩnh biệt. Chính ở vùng biển này, Tùng, cậu con trai của ông đã hy sinh. Đối với ông, cậu ta có lẽ là chàng trai ưu tú nhất. Mặc dù vậy, năm 1954 ông vẫn đồng ý cho cơ quan tình báo của ta huấn luyện Tùng rồi tung vào miền Nam hoạt động. Trên chuyến thuyền vượt biển từ Bắc vào Nam, cậu con trai ông và những người cùng đi trên chiếc thuyền đó đã bị biển cả cướp đi. Bây giờ đứng trước màu xanh nhớ thương đau xót ấy, chiếc gáy phẳng lỳ, với mái tóc kiểu húi cua của đứa con trai cứ lởn vởn trước mắt ông. Ông kéo rèm vải sát vào góc tường hơn nhìn tấm bản đồ có đánh dấu các điểm đặc biệt ở Kim Sơn. Cả ông đại tá và ông Trưởng ty Ninh Bình cùng một lúc nghĩ đến những người cung cấp nguồn tin ban đầu về chiếc thuyền lạ. Chính ở nơi đó bốn ngày trước, vào lúc xế trưa có một đôi vợ chồng trẻ người công giáo lội bì bõm giữa đồng cói. Thỉnh thoảng anh chồng lại cúi xuống rẽ những cây cói đổ nghiêng để cho vợ bước lên phía trước. Họ đi trong đồng cói rậm chằng chịt như níu chân mình lại, không thế đi nhanh hơn được. Mặt trời lên cao. Đồng cói tăng thêm màu xanh dữ dội. Một cây cói vướng chân làm méo mó gương mặt bê bết bùn của người chồng. Anh dừng lại quay về phía vợ: - Em có nghe thấy tiếng gì không? - Có chứ! - Người vợ im lặng một hồi lâu - Dân vùng biển mà không phân biệt được tiếng sóng biển với tiếng gió thì không phải dân biển. Có phải không anh? Họ tiếp tục đi về phía biển. Bỗng người vợ hoảng hốt đứng chôn chân trên đồng cói. Người chồng dừng lại, mặt bắt đầu biến sắc, bước chậm hơn. - Có vật gì lạ chôn ở ruộng cói nhà mình. Người chồng nhìn theo hướng tay người vợ, chân bước cả lên những cây cói đứng thẳng như những lưỡi mác. cả hai co rúm lại vì lo sợ. - Có lẽ ai giấu vật gì? - Nếu họ chủ tâm chôn cất thì làm sao lại để lộ ra như thế? Gió mang theo mùi sò ốc từ bãi biển xộc lên mũi cay sè. Hai người vẫn nhìn chằm chằm vào vật lạ và nói chuyện. - Hay về thưa chuyện với Cha? Người vợ giơ tay lên làm dấu cầu Chúa, nhưng người chồng vẫn im lặng. Một lúc sau, người vợ giọng yếu ớt, giục chồng: - Chúng mình về trình Cha chuyện này, anh ạ! Tiếng nói sợ hãi của người vợ như cầu khẩn. Khi nỗi sợ hãi đã giảm dần, người chồng mới cúi xuống lấy dao cắt cây cói to buộc ngang vào cây cao nhất trong khóm. Anh nhìn cây thánh giá mới làm, tay giơ lên cầu Chúa. Trong sự im lặng thành kính, người chồng phân vân: - Liệu Cha có ra đây đào vật đó đi không, hay lại đến tay mình? Im lặng trở lại. Bây giờ, họ không nhìn về phía vật lạ. Người chồng đưa ra một lý giải khác: - Hay là đi báo chính quyền thôn. Bác Tương dặn, nếu thấy hiện tượng gì lạ cứ báo cho bác ấy biết cơ mà - Và để thuyết phục vợ, người chồng nói thêm - Báo cho bác ấy là xong, mình không bận tâm gì nữa. Người vợ thấy chồng nói có lý định chấp thuận, song lòng thành kính của con chiên ngoan đạo lại trỗi dậy. - Nhưng nếu như Cha biết thì sao? Người chồng dường như đã nghĩ vấn đề mình định đưa ra. Anh nói: - Việc này không liên quan tới Cha đâu. Dân quân tìm được vật lạ chẳng qua do họ đi tuần tra phát hiện thấy. Và đây cũng là quy định của chính quyền địa phương cơ mà. Người vợ không hoàn toàn chấp thuận lời giải thích của chồng, nhưng cô cũng đồng ý. Hai người im lặng nhìn nhau, cùng đưa tay lên cầu Chúa rồi rời đồng cói ra về. Người chồng đi thẳng đến nhà ông Tương trình bày sự việc. - Đồng chí đã cho người ra hiện trường kiểm tra lại chưa? - Chính tôi đến tận nơi chôn thuyền để quan sát, gặp trực tiếp vợ chồng người thanh niên kia nghe kể lại, có thể kết luận: họ báo cáo thật. - Nghe đồng chí trình bày, tôi cũng tin họ là người kính Chúa, yêu nước. Cục trưởng ngồi nghe và suy tư như một thí sinh trong phòng thi đang tìm đáp số cho một bài toán. Ông đứng lên đi chậm và nhẹ như bước chân trên đệm không khí. - Theo nguồn tin của N.5 từ nước ngoài báo về, gần đây Mỹ - ngụy tung nhiều tốp gián điệp biệt kích ra Bắc hoạt động gây cơ sở, tập hợp lực lượng phản động phá hoại, tổ chức bạo loạn để đón quân Bắc tiến - Ông dùng thước kẻ, khoanh một vòng tròn quanh cái hoa thị to màu đen giữa bản đồ rồi nói tiếp - Đây là trại huấn luyện biệt kích Mỹ Khê, Đà Nẵng. Tên Chinh huấn luyện tại đây rồi được tung ra Quảng Ninh. Chiếc thuyền cao su phát hiện ở huyện Kim Sơn - Ninh Bình hoàn toàn giống chiếc thuyền Mỹ - ngụy đã trang bị cho tên Chinh. Từ những hiện tượng đó cho phép chúng ta nhận định: có gián điệp biệt kích người nhái xâm nhập vào Ninh Bình. Hắn ta là ai, sẽ nằm ở Kim Sơn hay đi đâu, thực hiện nhiệm vụ gì? Hắn hoạt động một mình hay có tổ chức? Đó là những câu hỏi đồng thời cũng là nhiệm vụ mà Bộ và Ty cần phải làm rõ. Cục trưởng Nguyễn Quý Dương đi đến bên bàn bật lửa hút thuốc - một thói quen khi ông suy nghĩ nhiều. Ồng nhìn về phía Trưởng ty, nói: - Bộ yêu cầu các đồng chí, một là rà soát lại các gia đình trong tỉnh có người chạy vào Nam năm 1954 báo cáo về Bộ trước ngày hai mươi; hai là, phát động phong trào bảo vệ trị an, lập phương án truy lùng bọn gián điệp biệt kích trong toàn tỉnh; ba là, phối hợp với Bộ cử trinh sát tiếp cận đối tượng; bốn là, từ nay Ty làm việc trực tiếp với ban chuyên án gọi tắt là NB.5 do đội trưởng[1] Lê Đình Hồng làm trưởng ban. Sau chỉ thị của Cục trưởng, không khí cuộc họp trầm lặng hơn. Ông Trưởng ty Công an Ninh Bình ngồi im, đôi mắt chứa đựng điều gì sâu thẳm, kín đáo. Khi mới nhận chỉ thị, ông thường lặng lẽ, lầm lũi. Nhưng sau khi suy nghĩ, tính toán, đôi mắt ấy lại bừng sáng bất ngờ. ông nhìn thẳng vào đôi mắt Cục trưởng như thầm hẹn: Chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ Bộ giao. 3 Vào lúc Ban chuyên án NB.5 Cục Phản gián Bộ Công an đang họp nhận định về chiếc thuyền lạ, tại trung tâm huấn luyện biệt kích người nhái Mỹ Khê, Đà Nẵng, trung tá tình báo Mỹ Matin cũng đang kiểm tra lại điệp viên mà chúng vừa phái ra Kim Sơn, Ninh Bình. Matin nhớ trước đó bảy năm khi đang ngả người trên ghế đi-văng đệm nhung đỏ, hai mắt nhắm nghiền khiến người ta tưởng y đang ngủ, Đặng Văn Sung thuộc Phủ đặc ủy Trung ương tình báo gõ cửa nhiều lần, y vẫn ngồi im. Sung mở hé cửa nhìn vào. - Chào ngài. - Cứ vào. Không đợi Matin mời ngồi, Sung hỏi ngay với thái độ bất bình: - Tôi không hiểu tại sao chính phủ Pháp lại tuyên bố đình chiến và rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam. Làm như thế có phải là sỉ nhục nước Pháp không? - Việc đó là của nước Pháp - Matin vừa gõ gõ tay xuống bàn, vừa nói - Còn công việc của chúng ta là khẩn trương thảo luận một kế hoạch tuyển chọn điệp viên tung trở lại miền Bắc ngay trong thời gian Pháp và Việt Nam tiến hành tập kết. Tôi mời anh đến để lo việc đó. - Nhưng thưa ngài, phái đi bằng con đường nào? - Gần trọn đời hiến dâng cho ngành tình báo mà anh ngờ nghệch hết chỗ nói. Nó phụ thuộc vào kế hoạch chúng ta tuyển chọn, huấn luyện chứ. Matin là một chuyên gia nổi tiếng về Việt Nam đã bán gần trọn cuộc đời cho nghề tình báo Mỹ. Thời kỳ Việt Nam chống Pháp, y đóng vai cố vấn quân sự cho Pháp, đã từng khoác áo ngoại giao sang Liên Xô hoạt động. Năm 1953, y đến Việt Nam, nằm trong Lãnh sự Mỹ tại Hà Nội. Năm 1954, vào Sài Gòn, chui vào sứ quán Mỹ phụ trách công tác tuyển dụng điệp viên CIA người Việt Nam. Năm nay, Matin 57 tuổi, y chỉ còn một nguyện vọng là vài ba năm tới xây dựng được một mạng lưới điệp viên tung trở ra miền Bắc Việt Nam. Đó là con đường công danh và cũng là con đường y kiếm được ít tiền chuẩn bị cho việc xây cất nhà ở thành phố California. Đặng Văn Sung lim dim mắt nhìn mái tóc lơ thơ chải mượt về phía sau, cằm cạo nhẵn, đôi mắt ốc nhồi của Matin. - Thưa ngài, nhiệm vụ chính của tôi trong kế hoạch này? - Anh đến những khu giáo dân người Bắc di cư tìm chọn một số người, huấn luyện gấp rút tung trở lại miền Bắc hoạt động. Matin rút ngăn kéo lấy danh sách và lý lịch đơn giản của 386 người miền Bắc di cư vào Nam đang sống ở Sài Gòn và các thành phố, thị xã đã được y sơ tuyển đưa cho Sung. Đặng Văn Sung rút trong túi ra chiếc kính lúp nhìn lướt qua danh sách, không giấu nổi nỗi lo trước nhiệm vụ được giao. Hắn nghĩ, việc làm này thành công hay thất bại sẽ động chạm đến uy tín chính trị của cả Việt Nam cộng hòa. Nếu thành công, con đường công danh của hắn sẽ đạt đến vinh hoa; còn thất bại, chao ôi, cuộc đời sẽ sụp đổ hoàn toàn, những ngày cuối cùng của cuộc đời tình báo viên xế chiều lại phải ngậm bồ hòn. Biết thế, hắn vẫn không dám phản đối, coi như mệnh đã định. - Dạ, thưa ngài, khi nào tuyển chọn xong, mời ngài kiểm tra lại. Nói câu này, Đặng Văn Sung tỏ ý tôn trọng Matin, song thực tế hắn muốn kéo Matin cùng chia xẻ trách nhiệm. Gần cuối buổi nói chuyện, Matin mới nói cụ thể hơn: - Anh nên tuyển người quê ở tỉnh Ninh Bình, đặc biệt chú ý người gốc Kim Sơn, Phát Diệm. Ba tuần sau, Đặng Văn Sung trình lên danh sách 7 tên có đề bí số. - Trong số bảy người này, N1 quê Kim Sơn, có trình độ hơn cả. Bố là địa chủ nhà Chung bị du kích bắn chết, N1 chạy vô Nam năm 1954. - Những con người như thể tin tưởng được, nhưng phải kiểm tra lại. Matin chấp nhận Nl vào cơ quan tình báo CIA. Nhưng sau lớp huấn luyện cấp tốc, Matin không tung N1 ra miền Bắc ngay mà chuyển về Sài Gòn tiếp tục huấn luyện cho mãi đến năm 1957 mới chuyển về trại huấn luyện biệt kích Mỹ Khê, Đà Nẵng. Ớ trường huấn luyện này, lúc nào N1 cũng là học sinh xuất sắc tỏ ra trung thành với chủ, nên đã được chọn trong danh sách những người đầu tiên phái ra Ninh Bình. Nhưng kể từ lúc Nl xâm nhập vào đất liền đã hai ngày hai đêm, Matin chưa nhận được tin hồi âm làm y hết sức sốt ruột. Matin đứng lên ấn một nút trên bàn điều khiển. Tấm màn chắn trước mặt từ từ kéo về góc trái lộ ra tấm bản đồ Việt Nam với nhiều mũi tên chỉ theo chiều từ Nam ra Bắc sau một tấm mica mỏng trong suốt. Trên tấm bản đồ, từ cửa lạch Thần Phù đến cửa Đáy có những chùm đèn nhỏ xíu nhiều màu sắc trông rất đẹp mắt. Anh đèn nhấp nháy trên Hòn Nẹ, nông trường Bình Minh, xã Kim Tân, Kim Mỹ, huyện Kim Sơn, trên huyện Yên Mô, Nho Quan, Gia Khánh rồi lan rộng sang cả Nam Hà. Trên tấm bản đồ có sơ đồ bố trí các tốp biệt kích chuẩn bị cho xâm nhập vào Ninh Bình. Nhìn tấm bản đồ, Matin thường có thói quen im lặng hồi lâu, có cảm giác tâm đắc đặc biệt với kế hoạch "Phá cộng sản từ trong lòng cộng sản". - Thưa ngài, tôi sợ Nl ra Bắc bị tình cảm ủy mị làm thối chí. Matin nhếch mép cười: - Y anh muốn nói đến vợ hắn chứ gì? Chính cái tổ ấm đó lại có ích cho ta. Điệp viên của chúng ta hay của cộng sản, khi hoạt động vẫn phải có nơi ẩn nấp. Nơi đó là đâu? Tốt nhất là vợ, con, những người thân. Người vợ hôm nay không khác gì người vợ của hàng trăm năm về trước: rất thương chồng con. Cô ta sẽ là nơi cho Nl ẩn náu, là nơi giúp cho N1 lấy lại được bình tâm, không cảm thấy lẻ loi, cô độc. Điều tôi nói đã được kiểm chứng qua vụ Chinh xâm nhập vào Hồng Quảng. - Đó là trường hợp đã trót lọt. Nhưng, nếu như trên đường đi từ biển vào cửa lạch Thần Phù, N1 bị bộ đội, công an hay dân quân bắt thì sao? - Cũng có thể. - Matin thấp giọng - Nhưng tôi và anh phải kiên trì tìm chọn người tung ra Bắc thực hiện chiến dịch này. Chúng ta chỉ được phép thành công chứ không được phép thất bại - Matin im lặng nhìn Sung, hy vọng bắt gặp được một ấn tượng nào đó ủng hộ kế hoạch của y, mặc dù chỉ là ý kiến tham khảo. Sung nhìn qua cửa sổ có vẻ cân nhắc: - Tôi biết, từ tháng 9-1956, các ngài đã có chủ trương thu nạp tuyển chọn lại số GAMA cũ của Pháp. Đại tá Lansdele[2] đã đích thân ra lệnh sử dụng và cải tạo trung tâm huấn luyện GAMA cũ của Pháp ở Nha Trang. Kế hoạch được lập lại từ lâu rồi, nên tôi tin ý đồ sẽ được thực hiện. - Tôi cũng nghĩ như thế. Bốn năm năm trời lo cho chuyến đi của N1 chẳng lẽ lại không thành công hay sao? Matin đứng lên vươn cánh tay như cố ý gạt đi những giây phút mệt mỏi, chờ đợi. - Tất nhiên, chiến lược “Phá cộng sản từ trong lòng cộng sản” không thể chỉ phụ thuộc vào một chuyến đi của Nl. Song dù sao nó cũng là viên gạch nền móng trong chiến dịch. Ở nước Mỹ, Tổng thống cũng đang chờ đợi về vụ tung người ra Bắc của chúng ta. Thượng hạ viện cũng quan tâm thích đáng đối với vấn đề này. Tháng trước, Tổng thống và những người đứng đầu Nhà Trắng đã họp bàn về chiến dịch của chúng ta nhằm trả lời sự thách thức của miền Bắc. Anh thấy không, bên kia bán cầu cũng đang theo dõi bước đi của Nl, nhìn nhận đánh giá công việc tuyển người của anh đấy. - Tôi hiểu! - Sung thấp giọng nói. Hắn hiểu câu nói vừa rồi của Matin mang nội dung động viên thì ít nhưng hù dọa thì nhiều, như đổ vấy cho hắn trách nhiệm: việc tuyển người của anh không chuẩn xác nên dẫn đến thất bại đấy. Sung thở dài. Thời gian gần đây công việc của y không được trôi chảy. Hai vụ tung người ra miền Bắc đều bị công an miền Bắc cho vào tròng. Sung kéo một hơi thuốc dài, ngửa mặt, thở thành vòng tròn rồi ngắm khói thuốc đang tỏa lên cao. - Nếu lần này thất bại, vợ con tôi sẽ không có cơm ăn. Nhưng tôi tin rằng rừng thập ác ở Kim Sơn sẽ là nơi cho N1 ẩn nấp khá tốt. - Đúng. Tôi cũng tin như anh, nhưng sự thật lại chưa trả lời chúng ta. - Xin ngài cứ bình tâm. Chắc là ngày mai sẽ nhận được điện báo cáo. - Anh không biết đã qua một phiên liên lạc rồi hay sao? - Ngài lo lắng quá sớm đấy. Có thể Nl đang bị bao vây chưa có điều kiện cho điện đài hoạt động... Trong phương án phái Nl đi cũng đã tính đến khả năng này cơ mà. Matin sa sầm nét mặt, đứng lên, giọng có vẻ bực tức: - Anh có thể về suy nghĩ, sáng mai đến. Đặng Văn Sung vừa mở cánh cửa, Matin nói theo: - Nhưng anh đừng đi ra khỏi nhà, đề phòng có việc gấp tôi phôn tới. * Cục tình báo trung ương Mỹ và Phủ đặc ủy Trung ương tình báo Sài Gòn nhận được báo cáo của trung tâm huấn luyện Mỹ Khê báo cáo không bắt được liên lạc của Nl, đã cử đoàn kiểm tra do tướng Tukơ dẫn đầu đến Đà Nẵng nghe báo cáo và giải quyết tại chỗ. Đà Nẵng mùa hè nóng bức. Từ thành phố đi đến trung tâm huấn luyện Mỹ Khê phải vượt qua cầu Trịnh Minh Thế và đường Ngô Quyền dài vài cây số. Đoạn đường gần trại huấn luyện nằm trong khu quân sự khá vắng vẻ, chỉ có những cảnh sát đứng ở hai bên đường là không có vẻ để ý đến cái nóng nực này. Nước da màu cà phê càng làm cho sắc mặt tên nào cũng có vẻ lạnh lùng bí ẩn. Một luồng gió cát miền Trung ào qua làm vơi đi phần nào nóng bức, oi ả. Chiếc xe Jeep giảm tốc độ dừng lại ở trước nhà chỉ huy trại huấn luyện biệt kích Mỹ Khê. Tukơ và những kẻ tháp tùng xuống xe đi ngay lên phòng họp ở tầng hai. Cánh cửa sổ từ từ mở, cơn gió thoáng từ biển Thanh Bình tràn vào trong phòng mát lạnh. Phòng họp bố trí khá đặc biệt, cửa nào cũng có hai lớp cánh. Cánh ngoài làm bằng gỗ cẩm lai, còn cánh trong bằng đồng bọc nỉ cách âm. Một tấm bản đồ rộng với hệ thống đèn con nhấp nháy đánh dấu những nơi điệp viên Mỹ - ngụy cần xâm nhập ra miền Bắc do trại Mỹ Khê thực hiện. Phòng bên lưu trữ hồ sơ từng điệp viên đã được tung ra miền Bắc hoặc đang huấn luyện do các sĩ quan an ninh tình báo coi giữ. Trong trường hợp bị đối phương tấn công, để bảo vệ tuyệt đối an toàn, những sĩ quan an ninh tình báo có thể xử lý từng bộ phận, thậm chí cho huỷ toàn bộ tài liệu, hồ sơ. Ở đây còn có một hệ thống điện liên lạc thẳng với Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn và Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Phòng họp không rộng lắm, kê một chiếc bàn bằng gỗ cẩm lai hình chữ nhật, ở giữa có đặt bốn máy điện thoại màu sắc khác nhau. Tướng Tukơ bật lửa châm thuốc. - Nào chúng ta bắt đầu từ vụ xâm nhập người nhái đầu tiên vào Hồng Quảng. Matin mở cặp da lấy bản báo cáo thuyết trình với cấp trên. Sau khi khẳng định vụ phái người đầu tiên ra Bắc vẫn tiến triển tốt, Matin trình bày kỹ hơn về vụ phái N1 xâm nhập vào huyện Kim Sơn: - Hai năm huấn luyện, Nl với năm người trên chiếc tàu số hiệu NB-15 được đưa ra miền Bắc. Sau gần một ngày đêm trên biển, tàu NB-15 đến phao số không nơi thẳng góc với huyện Kim Sơn, Ninh Bình hồi một giờ đêm ngày mười hai tháng sáu, Nl rời tàu NB-15 xuống thuyên cao su xâm nhập vào đất liền - Matin đứng lên kéo rèm che trên tường để lộ toàn bộ tấm bản đồ miền Bắc - Gần hai tiếng sau, N1 đã đi vào khu vực náy - Matin chỉ vào khu vực BM2. - Biển số tàu NB-15 là biển số của chúng ta đăng ký chứ? - Thưa ngài, đó là biển số đăng ký theo tàu đánh cá của tỉnh Ninh Bình. Thậm chí, trước khi xuất phát một tuần, chúng tôi đã sơn lại giống như màu sơn của tàu đánh cá Bắc Việt. Trên đường về tàu NB-15 bị tàu công an vũ trang tỉnh Thanh Hóa phát hiện đuổi theo. Lực lượng trên tàu đánh trả và chạy ra hải phận quốc tế an toàn. - Có tin tức gì về N1 chưa? - N1 đã vào nằm vùng ở bãi sú vẹt khu NM2 chờ Sư tử biển cho người ra đón. - Sư tử biển cho ai ra đón? Người đó là người thế nào? - Đó là N5 do Sư tử biển tuyển dụng, huấn luyện, gia đình đang ở Vũng Tàu, còn anh ta ở ngoài đó với lý lịch một người giang hồ, vô gia cư, một lòng kính Chúa, được giáo hội địa phương Phát Diệm trả lương. Tướng Tukơ cau mặt nhìn Matin, hỏi: - Sư tử biển đã ra đón N1 chưa? - Chúng tôi vẫn chưa nhận được điện của Nl. - Nl ra Bắc sống ở đâu? - Sống tại nhà thờ mà Sư tử biển vẫn thuyết giáo. Mặt Tukơ tái đi, đập tay xuống bàn, gầm lên: - Còn ai ngốc hơn anh nữa không? Để cho Nl sống trong nhà thờ, nếu đổ bể thì không những hai người mà cả mạng lưới của chúng ta ở Ninh Bình đều bị sa bẫy - Tukơ thấp giọng hơn - Chính vì tôi ý thức được điều ngờ nghệch của các anh nên đã điện trực tiếp cho Sư tử biển không đón Nl về nhà thờ. Bây giờ đến lượt Matin hoang mang: - Thưa ngài, như vậy Nl sống ở đâu? - Vấn đề đó do các anh họp bàn. Bằng giá nào tôi cũng không cho các anh chuyển điện đài về nhà thờ. Các anh phải chấp hành lệnh này. - Ngài cứ yên tâm. Chúng tôi sẽ chấp hành nghiêm túc - Matin nhìn Đặng Văn Sung như muốn khẳng định sự nhất trí giữa Cục tình báo Trung ương Mỹ và Phủ đặc ủy Trung ương tình báo - Mọi việc chúng tôi đều tiến hành theo lệnh của Ban lãnh đạo cao nhất của cơ quan tình báo trung ương Mỹ. - Nhưng các anh nhớ rằng, để đảm bảo thắng lợi của chiến dịch, các anh chỉ được biết đến những vụ do các anh trực tiếp chỉ đạo. Đặng Văn Sung bấm nút chuông trên bàn. Vài phút sau, hai nữ phục vụ vận đồ trắng, khoảng hai mươi tuổi bưng hai khay đựng các đồ uống tới. Họ chưa kịp quay ra thì hai người phục vụ khác lại bưng đồ nhậu đến. Cả bốn người lặng lẽ rời khỏi phòng họp để cho những người chủ của họ tiếp tục công việc hệ trọng mà bổn phận họ không được biết đến. 4 Ban chuyên án NB.5 chuyển trụ sở về một ngôi nhà hai tầng tại thị xã Ninh Bình, bên dòng sông Đáy. Ngôi nhà này yên tĩnh, giống như một trạm khí tượng quay mặt về phía núi Cánh Diều. Ở đây đã đón nhận tất cả những tin tức liên quan tới vụ truy lùng gián điệp biệt kích xâm nhập vào Kim Sơn. Đã ba ngày, trưởng ban chuyên án Lê Đình Hồng chưa hề có phút nghỉ ngơi. Hôm nay, qua khung cửa sổ, từ phòng làm việc trên gác hai, ông nhìn ra dòng sông Đáy nặng đỏ phù sa đang chảy ra biển, ông ngả người trên ghế bành, tay đỡ đầu, suy nghĩ, phân tích các sự việc liên quan tới vụ án. Nguyễn Mạnh Hùng nhìn sắc mặt Lê Đình Hồng - người quen giấu những biểu hiện tình cảm của mình, anh đoán ngay trong ông đang phải chống đỡ với bệnh tật một cách ghê gớm. Ban chuyên án nhận hết bức điện này, báo cáo khác từ các tổ truy lùng, các đài săn sóng gửi về, nhưng tất cả đều không có kết quả. Lê Đình Hồng ngồi yên lặng trên ghế bành nghe tiếng dòng sông Đáy chảy vừa gần lại vừa xa. Tiếng dòng sông chảy tạo nên âm thanh êm nhẹ giúp ông suy tư trong phút giây căng thẳng. Đối với nhiều người, những lúc công việc không tiến triển được thường là những giây phút nặng nề mệt mỏi nhất. Nhưng với ông Hồng, lúc đó ông không cảm thấy mệt mỏi mà chỉ nghĩ về những ngày đã dẫn ông vào làm công tác bí mật. Bố mẹ ông sông trong cảnh bần hàn của một gia đình nông dân phải làm việc cho địa chủ, chỉ biết nghe chửi mắng và đánh đập. Tối đến, cả nhà chui vào một túp lều dột nát, tối tăm, lợp bằng thân cây đay. Lê Đình Hồng lớn lên trở thành đứa trẻ chăn trâu cho địa chủ. Mãi tới khi Cách mạng tháng Tám thành công, cậu thiếu niên ấy thấy nhiều người đi theo cách mạng, cũng bỏ nhà địa chủ đi theo Việt Minh hoạt động bí mật, rồi bị bắt, và đưa ra xử tại tòa án binh Pháp. Từ khi bị bắt cho đến khi đứng trước tòa, ông chỉ khai là con chiên ngoan đạo. Cố đạo đến xin rửa tội đề nghị giảm án tử hình xuống tù chung thân và đày lên Sơn La giam cùng anh Phan Thanh Hằng công an khu Ba. Hai người trốn tù, bắt liên lạc với công an khu Việt Bắc tiếp tục hoạt động. Những ngày ở tù, bị tra tấn, nhưng ông không để ai biết ngoài Mạnh Hùng. Mỗi khi ông ngồi chết lặng trên ghế là lúc cơn đau trỗi dậy. Lê Đình Hồng mở gói thuốc lá sợi Nho Quan lấy tay vê vê. Trưởng phòng Cơ yếu Ty Công an bước vào. - Báo cáo đồng chí, có điện từ Hòn Nẹ báo về. Trưởng phòng Cơ yếu chuyển cho ông tờ giấy trắng đục có ghi chữ "tuyệt mật" ở góc trái. "Điện mật mã 1 giờ đêm hôm nay, 13 tháng 6, đài săn sóng của chúng tôi ở Hòn Nẹ bắt được làn sóng lạ. Tính phương vị đài phát, xác định được đài đó đặt ở giữa nhà thờ xứ xã Kim Tân và khu vực BM2 phát về hướng nam. Chúng tôi không dịch được bản mật mã, xin chuyển toàn văn bức điện đó về cho NB5". Trong phòng làm việc, Nguyễn Mạnh Hùng vẫn đi đi lại lại. Anh là cấp dưới, song là người cộng tác nhiều năm với trưởng ban Lê Đình Hồng nên nói năng khá thoải mái. - Thế là thêm một chứng cứ nữa khẳng định có gián điệp biệt kích đang hoạt động ở Kim Sơn. Nhưng buồn một nỗi chúng ta chưa dịch được nội dung bức điện. - Anh cho tôi xem - Mạnh Hùng vừa đề nghị vừa đưa tay về phía trưởng ban. - Đề nghị anh cho chuyển bản mật mã về Hà Nội để các chuyên viên phá mã của ta dịch. Bản mật mã được cấp tốc chuyển về Bộ, nhưng nhiều chuyên viên giải mật mã của Bộ cũng đành bó tay. Mọi người đều thừa nhận khóa mã rất phức tạp. Hai ngày sau, cũng vào một giờ đêm, đài săn sóng ở Hòn Nẹ lại nhận được bức điện mật mã. Xác định phương vị và tần số, các chuyên gia của ẳ ta vẫn khẳng định do chiếc đài trước phát đi. Các chuyên gia phá mã của Bộ vẫn không dịch được mã, chỉ khẳng định kẻ địch đã sử dụng khóa mã khác. - Muốn biết được nội dung bức điện, chúng ta chỉ có thể đợi Hà Nội trả lời. - Chúng ta cần bản dịch bức điện, nhưng không có nó thì đành bó tay để mặc bọn gián điệp biệt kích hoạt động hay sao - trưởng ban chuyên án Lê Đình Hồng hỏi Mạnh Hùng. Dừng một lúc ông nói tiếp - Hà Nội phải theo dõi chiến trường cả nước, biết bao nhiêu chuyên án. NB.5 do chúng ta đặc trách lo liệu, vì vậy một mặt vẫn phải yêu cầu Hà Nội dịch, một mặt không chờ đợi mà chủ động truy tìm. Đồng chí hãy chỉ huy đài săn sóng của ta hướng về khu vực xã Kim Tân, khu vực BM2, còn tôi chỉ huy các tổ lùng sục. Mạnh Hùng im lặng. - Tôi cũng đồng ý phương án đó. Các đài dò sóng của ta cần di chuyển đến gần mục tiêu. Theo tôi, nên tăng cường thêm một đài ở cửa lạch Thần Phù, đặt trên chiếc thuyền để có thể di chuyển kịp thời tới nơi đài phát. Bằng cách đó, chúng ta sẽ rút ngắn dần khoảng cách giữa đài phát và đài săn sóng. Sau khi thống nhất kế hoạch, trưởng ban chuyên án Lê Đình Hồng và Mạnh Hùng rời thị xã Ninh Bình đi về Kim Sơn. Ôtô đưa hai người về gần tới thị trấn Phát Diệm, trời bỗng đổ mưa. Ôtô cứ rẽ mưa lao đi. Những con chiên kính Chúa ra khỏi nhà thờ tỏa về các xóm xã Lưu Phương. Họ lặng lẽ đi trong mưa, mắt nhìn chằm chằm vào tượng Chúa và những cây thập ác hai bên đường, nói nhỏ: - Thế là Người khỏi khát. Những giáo dân ở đây mải mê nhìn tượng Chúa đến nỗi mưa đã nhẹ hạt mà họ cũng không hay biết. Xe dừng lại trước trụ sở công an huyện. Trưởng ban Lê Đình Hồng và Mạnh Hùng chia tay nhau. Trưởng ban cùng với tổ truy lùng của Đặng Văn Thành đi xuôi về phía nông trường Bình Minh ra khu vực BM2. Những đám mây lớn ở phía đông vẫn ùn ùn xuất hiện. Những tia chớp thỉnh thoảng lóe lên như đâm vào bụng các đám mây. Lại một trận mưa nặng hạt đổ xuống. Mãi chiều tối, tổ truy lùng của Thành mới vượt được qua nông trường Bình Minh đúng lúc mưa trút xuống như thác đổ. - Đồng chí dẫn tôi đến nơi có cây sú vẹt bị gãy cành. Bốn người lội bì bõm trong bùn ngập đến đầu gối. Họ đi thành hàng dọc về phía biển đang gào thét sau giấc ngủ gần một năm. Gần một đêm một trận mưa như đổ nước, yên lặng lại đè nặng một cách kỳ lạ lên rừng sú vẹt, hòa trong tiếng biển rì rào sóng vỗ. - Báo cáo đội trưởng, đây là cây sú vẹt bị gãy cành. Lê Đình Hồng quan sát tất cả, không thấy dấu vết gì nghi vấn như mẩu giấy, mẩu thuốc lá hút còn thừa, hoặc thức ăn rơi vãi. - Đài dò sóng của ta đặt tại Hòn Nẹ thu được làn sóng ở khu vực này phát đi. Tôi cùng các đồng chí đến đây hy vọng tìm được dấu vết chúng để lại. Đội trưởng Lê Đình Hồng đi xung quanh từng cây chăm chú xem xét từ gốc đến cành để cố tìm các chứng cứ nhỏ bé trong cái thế giới bí hiểm. Bỗng ông đứng nguyên tại chỗ nhìn kỹ cành sú vẹt cách cây sú vẹt gãy cành khoảng năm mét. Ông tiến đến, vít ngọn cây, cẩn thận xem xét, có một đoạn vỏ bị xước. Ông căng óc phán đoán: có thể đó là nơi buộc dây ăng-ten. - Đồng chí Mạnh kéo cành sú vẹt gãy cho tôi xem - Ông ra lệnh. Thượng sĩ Mạnh kéo cành sú vẹt đến một vũng nước, té nước cho trôi bớt bùn, đưa cho đội trưởng Lê Đình Hồng. Ông vạch từng lá, xem kỹ từng cành nhỏ và cũng phát hiện thấy có vết xước, ông reo lên: - Đây rồi, các cậu ơi! Cả tổ truy lùng chạy đến. Ông chỉ vào cành sú vẹt xước vỏ giải thích: - Địch đã buộc dây ăng-ten vào cành cây này. - Nhưng thưa đồng chí, giải thích như thế nào về việc dây ăng-ten kéo căng đến mức gãy cành. Ông Hồng suy nghĩ hồi lâu. - Có thể khi tháo dây ăng-ten hắn đã vít cành sú vẹt quá mạnh. Cả bốn người tiếp tục tìm kiếm. Bỗng trung sĩ Lâm lại phát hiện thấy có một vật nhỏ màu vàng dài khoảng 2 centimét. - Báo cáo anh, có vật lạ! Trưởng ban chuyên án Lê Đình Hồng đến gần quan sát. - Bề ngoài màu vàng, bên trong xốp như bấc. - Đề phòng đó là loại thuốc độc - Đội trưởng Lê Đình Hồng nhắc nhở và ra lệnh - cẩn thận thu vật đó gửi về Hà Nội phân tích. Cả bốn người tiếp tục xem xét gốc cây, cành cây xung quanh khu vực bán kính khoảng một trăm mét, song chẳng thấy thêm vật gì khác. Họ đành trở về nơi tập kết. Dưới ánh trăng và sương đêm, cả rừng sú vẹt như ngủ say trong tiếng ru của biển. 5 Trên toàn tuyến từ cửa lạch Thần Phù đến cửa Đáy có khoảng hai mươi tổ truy lùng của công an và hàng ngàn tốp dân quân, thanh niên, học sinh các xã ven biển lùng sục nhưng không phát hiện được tên gián điệp biệt kích nào. Việc chính trong chuyến đi lần này của ông Hồng là kiểm tra hoạt động của các tổ lùng sục và quan sát lại nơi có khả năng địch dừng chân đánh điện đài. Một phần, ông nghĩ rằng đây là trách nhiệm, đồng thời cũng muốn là người đầu tiên nói chuyện với tên gián điệp nếu như tóm được hắn. Lê Đình Hồng trở về trụ sở Ban chuyên án khi trời đã chạng vạng tối. Ông mở cửa và lặng lẽ ngồi vào bàn làm việc, hút tiếp điếu thuốc cuộn rồi vứt mẩu còn lại qua cửa sổ, cầm ống nghe. - A lô! Cho tôi nói chuyện với kỹ sư Minh. Từ đầu dây bên kia trả lời: - Dạ. Tôi là Minh, tổ trưởng tổ hóa nghiệm. Giọng bực tức, ông Hồng nói to: - Tại sao đồng chí vẫn chưa chuyển kết quả hóa nghiệm viên thuốc độc cho tôi. - Ôi! Sao đồng chí lại trút tội lỗi lên đầu tôi? Đồng chí trưởng ban chuyên án ạ, chính đồng chí đã trói tay chúng tôi rồi. Đồng chí ra quyết định, tất cả các tang vật vụ án đều chuyển về Hà Nội cơ mà. Chấp hành quyết định đó, chúng tôi đã chuyển ngay mẩu bấc nghi có tẩm thuốc độc về Cục kỹ thuật Bộ. Ông Hồng cười, giọng chân thật: - Mình quên mất, cứ tưởng giao cho tổ kỹ thuật Ty - Giọng ông ôn tồn hơn - Đã hơn ba ngày ba đêm mà Hà Nội vẫn chưa trả lòi kết quả hay sao? - Chúng tôi vẫn điện hỏi, song chưa được trả lời. - Đồng chí tiếp tục giúp chúng tôi nhắc Bộ trả lời sớm. Chiến đấu mà chậm như rùa thế thì kẻ địch đã cao chạy xa bay rồi mà vẫn cứ nằm chờ. Ông Hồng tức tối, buông ông nghe rồi lục tìm thuốc lá, miệng lẩm bẩm: - Một đống kỹ sư hóa học đào tạo chính quy hẳn hoi về mà không tìm ra được chất độc tẩm trong một đoạn bấc, thì trinh sát chiến đấu khẩn trương thế nào được cơ chứ? Đội phó Nguyễn Mạnh Hùng xoa dịu nỗi bực tức của đội trưởng: - Đồng chí Hồng ạ! Đôi khi tôi nằm mơ trở lại thời kỳ còn là lính, mọi việc mình tự đi làm, tự viết báo cáo nên bao giờ cũng được biết kết quả sự việc đầu tiên. Còn bây giờ là người chỉ huy, lại phải đợi anh lính đi điều tra báo cáo nên chúng ta không bao giờ nhận được kết quả sớm nhất, có phải không đồng chí trưởng ban chuyên án? Lê Đình Hồng quẳng điếu thuốc lá đang cháy dở: - Cậu có mang theo chai "thuốc bổ" không? - Có. Chỉ cần một chén nhỏ là mang đi tất cả mọi mệt nhọc. - Loại thuốc bổ gì đấy? - "Quốc lủi" Kim Sơn chính hiệu. Hai người đi vào phòng ăn với chai rượu gần đầy. Họ vừa ăn cơm xong thì đồng chí Trưởng ty Công an Ninh Bình đến. Từ ngày có chiếc thuyền lạ xuất hiện ở Kim Sơn, ông Trưởng ty thường xuyên có mặt tại trụ sở Ty để chỉ đạo chiến dịch lùng sục. Đội trưởng Lê Đình Hồng nhận thấy sắc mặt vui vẻ khác thường của ông Trưởng ty, nheo mắt, hóm hỉnh nhận xét: - Cứ theo con mắt không đến nỗi nhìn gà hóa cuốc của tôi thì đồng chí đã tóm được tên biệt kích đúng không? - Tại sao đồng chí lại hỏi như vậy? Ông Hồng nhận ra sự thiếu tế nhị vừa rồi của mình, thân mật giải thích: - Vì thấy đồng chí có vẻ vui hơn. Ông Trưởng ty cười: - Đã là người chỉ huy trên trận tuyến không tên này thì dù giành được thắng lợi hay đang gặp khó khăn, sắc mặt cũng không được thay đổi. Sau những câu hỏi xã giao, họ trao đổi với nhau về công việc. - Đồng chí báo cáo xem kết quả của các tổ lùng sục có gì giúp ta làm sáng tỏ vụ án không? - Cho tới nay vẫn chưa có kết quả gì ngoài hiện tượng chiếc thuyền và cành sú vẹt gãy mà đồng chí đã biết. - Về chiếc đài lạ phát từ khu vực BM2 đã xác định được chính xác nơi phát chưa? - Báo cáo đồng chí, những ngày đầu xác định vị trí đài phát ở khu vực BM2 luôn luôn lưu động nhưng khoảng cách lưu động không xa, chứng tỏ người sử dụng điện đài có kinh nghiệm. - Khoảng cách xác định giữa hai nơi phát cách xa bao nhiêu? - Một kilômét? - Nào, chúng ta cùng xem cụ thể. Trung tá đứng dậy trải tấm bản đồ huyện Kim Sơn lên bàn. Trưởng ty Công an Ninh Bình bước đến bên. - Ngày mười ba tháng sáu, xác định được đài phát ở nơi có cành sú vẹt bị gãy. Ngày mười bốn, cũng đài này chuyển về đây. Lần này chúng vừa di động vừa đánh điện, có lẽ chúng đặt máy trên thuyền. Tôi đã điều năm tổ trinh sát và một đại đội công an vũ trang có mang theo chó đến đây lùng sục. Rất đáng tiếc là đêm ấy trời mưa to, hiện trường bị giông bão và sóng biển xóa nhoà dấu vết, lùng sục không kết quả. - Thời gian đài phát sóng hoạt động? - Một giờ ba mươi phút. Đội trưởng Lê Đình Hồng nhận định: - Rõ ràng nó hoạt động có chu kỳ. Đêm thứ ba hoạt động vào giờ nào? - Chúng đánh điện vào lúc chập tối. Ban chỉ huy công an tỉnh chúng tôi nhận định, bọn gián điệp đánh điện vào giờ này vì nó muốn dựa vào hai bạn đồng minh là rừng sú vẹt và bóng đêm. Tính toán của nó rất đúng. Nếu như đài của ta săn được nơi phát sóng, lực lượng lùng sục cũng không thể vượt hàng chục kilômét sình lầy, sông nước đến ngay. Rừng sú vẹt, bùn lầy và bóng đêm là bức tường che chở cho chúng chạy trốn đến một khu vực khác, việc kiếm tìm của chúng ta sẽ vô ích. - Đúng. Đứng vào vị trí của bọn biệt kích bị truy lùng mà xét, nếu mà chúng không tính toán đến sình lầy, sông nước, rừng sú vẹt thì quả là ngốc nghếch. Mặc dù bị truy lùng, nhưng nó vẫn phải liên lạc với chỉ huy của chúng ở miền Nam. Đêm thứ ba không thấy đài này hoạt động, nhưng đài dò sóng đặt trên biển ở phía ngoài cửa lạch Thần Phù lại nhận được điện phát đi từ khu vực nhà thờ của linh mục Bường truyền đạo. - Có cùng tần số và khóa mã như những lần trước không? - Chỉ cùng hướng phát nhưng các tín hiệu truyền đi rất yếu, chứng tỏ nó đã hoạt động nhiều, nguồn pin đã cạn. Trưởng ty công an ngừng một lúc, chỉ tay vào nơi có đánh dấu thập, giọng nhỏ hơn: - Đêm thứ tư, chính ở khu vực nghĩa địa gần thôn Lưu Hạ này tung lên trời làn sóng cùng tần số và khóa mã đài phát ở khu vực BM2 mà chúng ta đã nhận được hai đêm đầu tiên. - Đài này di chuyển từ rừng sú vẹt lên đất liền. Chúng ta đã bắt được bốn lần sóng của chúng. Ba lần của một đài, một lần của đài khác. Như vậy ở huyện Kim Sơn hiện nay có hai đài lạ đang hoạt động. Điều này cho phép nhận định, chúng hoạt động có nhiều tên, nhưng có cùng một tổ chức không, cần theo dõi tiếp. Ông Hồng kéo ghế ngồi, nhận định: - Có thể chúng biết đang bị lùng sục nhưng không biết chúng ta đã bắt được sóng điện của chúng - Ông suy nghĩ, gõ nhẹ tay xuống bàn - Nếu tiếp tục lùng sục chỉ có thể bắt được tên gián điệp biệt kích kia nhưng không thể bắt được tên gián điệp khoác áo linh mục Bường. Phải bắt linh mục Bường với đầy đủ tang vật, điện đài ngay khi y đang hoạt động. Muốn như thế, chúng ta. có thể dừng cuộc truy tìm để cho linh mục Bường bộc lộ thực chất của y được không? - Tôi cho rằng không nên chờ đợi như thế - Ông Trưởng ty nói một cách thong thả, trầm tĩnh - Theo tôi, một mặt vẫn phải dùng "cái bừa" bừa khắp rừng sú vẹt, đồng cói, kênh rạch để bọn biệt kích không còn nơi ẩn nấp, một mặt tổ chức bám sát nhà thờ và hoạt động của linh mục Bường. Đội trưởng Lê Đình Hồng rảo bước trong phòng, giọng nói có vẻ gay gắt hơn: - Trong công tác lùng sục gián điệp thì thời gian, tốc độ cực kỳ quan trọng. Những ngày qua Ty triển khai công tác này chưa đồng bộ. Nhưng dù sao những ngày đầu phát động được hàng ngàn tổ thanh niên, học sinh, dân quân đi truy lùng bọn biệt kích như thế là rất đáng hoan nghênh, đáng mừng. Giọng ông khàn khàn. Đôi má hõm rung lên nhè nhẹ. Cặp mắt trũng sâu màu đen nhìn lên bản đồ tỉnh Ninh Bình treo trên tường. Ông lạnh lùng nói tiếp: - Bốn ngày đêm vừa qua, chúng ta đã tung ra hàng vạn người vào chiến dịch này, nhưng chúng ta phạm một sai lầm là không nhắc nhở họ khi gặp bọn gián điệp, biệt kích chỉ được phép bắt sống chứ không được bắn chết! Cũng may, bốn ngày qua không nơi nào giáp mặt với bọn biệt kích nên không có cuộc đụng độ chứ không thì anh em chúng ta hoặc bộ đội, hoặc dân quân, học sinh đã khiêng xác chúng về nộp cho chúng ta rồi - Đội trưởng Hồng nhìn ông Trưởng ty thấp giọng hơn - Bốn ngày lùng sục đã đủ rồi. Bây giờ chúng ta cho ngừng cuộc truy tìm này. Ông Trưởng ty chưa có lý lẽ nào bác bỏ quyết định của trưởng ban chuyên án, chỉ ngồi im lặng hút thuốc, vứt mẩu thuốc qua ô cửa, nói một cách mệt mỏi: - Như vậy là chúng ta chưa xác định được đâu là mắt xích của vụ án đã phải dừng lại? - Nhưng không có nghĩa là bỏ cuộc truy tìm kẻ đã đem chiếc thuyền đến chôn ở ruộng cói mà chỉ khép lại hướng đang truy tìm để chuyển sang hướng truy tìm mới. Đồng chí cứ chấp hành theo quyết định đó. Ông Hồng thuyết trình toàn bộ sơ đồ bố trí trinh sát và điện đài chuẩn bị cho một chiến dịch mới. Sau khi nghe ông Hồng nói, ông Trưởng ty im lặng một lúc lâu mới đề nghị: - Vì kỹ thuật dò sóng Ty chúng tôi còn hạn chế, xin để nghị Bộ tăng cường cho vài đài săn sóng. - Các đồng chí cần khoảng mấy đài loại đó? - Ít nhất là ba, và đề nghị cho cả người sử dụng luôn. - Ngay đêm nay đồng chí sẽ nhận được những phương tiện đó, còn người sử dụng Ty phải lo liệu lấy. Ông Hồng rút khăn lau mồ hôi trán, lau đi lau lại những giọt mồ hôi chảy xuống cổ. - Đó là vấn đề thứ nhất. Bây giờ chuyển sang vấn đề thứ hai. Đồng chí đưa cho tôi xem danh sách những người phụ nữ huyện Kim Sơn có chồng theo Chúa vào Nam. Trong lúc chờ ông Trưởng ty mở cặp lấy tài liệu, ông lấy sổ mật điện trực tiếp viết rồi gọi văn thư chuyển về Bộ xin tăng cường người và phương tiện kỹ thuật. - Báo cáo đồng chí, đây là tên tuổi và địa chỉ những người đó - Ông dừng lại một lúc, nói tiếp - Trong đó có sáu chị vừa nhận được bưu thiếp của chồng từ trong Nam gửi ra. Ông Hồng hỏi ngay: - Nhận được lần đầu hay lần thứ bao nhiêu? - Có hai chị nhận được lần đầu tiên, đó là chị Nhung và chị Thơm. Ông Trưởng ty kể lại khá tỉ mỉ về gia đình và bản thân hai chị. Trung tá cầm lý lịch đơn giản góc phải có dán ảnh của hai chị xem. Trong ảnh, chị Thơm trẻ hơn chị Nhung nhưng dấu vết tuổi tác cũng đã thoáng hiện qua những vết nhăn "chân chim" trên trán của cả hai chị. Ông xem và phân tích từng câu chữ, con số ghi trong bưu thiếp. - Chồng của chị Thơm và chị Nhung gửi bưu thiếp cho vợ chứng tỏ họ còn đang ở trong Nam. Như thế, chúng ta có thể loại hai chị ra khỏi danh sách nghi vấn được không? - Đó là lý do chấp nhận được, song tôi lại nghĩ khác, không nên loại họ ra khỏi danh sách quá sớm khi chưa có đủ tài liệu. Ông gấp danh sách lại, đứng dậy như nói rằng vấn đề này tạm thời kết thúc, rồi nói tiếp: - Ngay đêm nay chúng ta phải triển khai kế hoạch vừa bàn. Ông Trưởng ty định chào trưởng ban chuyên án ra về thì có tiếng gõ cửa. - Mời vào. Tổ trưởng hóa nghiệm Bùi Văn Minh bước qua cửa, vẻ mặt rất phấn khởi. - Có kết quả rồi phải không?- Ông Hồng hỏi. - Dạ. Hà Nội đã trả lời. - Như thế là chậm nhưng còn hơn không trả lời - Ông Hồng sốt ruột hỏi - Thuốc độc loại gì, hay là băng ghi âm loại mới? Minh suýt bật cười song anh trấn tĩnh ngay vì trước mặt mình là cán bộ của Bộ và ông Trưởng ty, thủ trưởng cao nhất của mình. Giọng anh nhỏ hơn: - Báo cáo đồng chí, đó không phải là thuốc độc. - Là cái gì? - Ông Hồng nói to hơn. - Là bấc lọc của điếu thuốc lá do Mỹ sản xuất. Ông Hồng đập tay xuống bàn cười hết cỡ: - Trời ơi! Thế mà tôi cứ đinh ninh nó là thuốc độc Mỹ trang bị cho điệp viên của chúng sử dụng khi sa vào tay đối phương - Ông dừng lại một lúc rồi nói một cách thành thật - Không mở rộng sự hiểu biết về sinh hoạt của thế giới bên ngoài nó tai hại như thế đó. - Vì chúng ta phải tập trung kháng chiến chống thực dân Pháp chứ có phải không chịu khó học tập để mở rộng thêm sự hiểu biết đâu. - Đồng chí lại đổ tội cho kháng chiến rồi - Ông Hồng đi quanh bàn - Cách đây tám năm, khi mở chiến dịch Thu Đông, trong lúc tôi đang cùng với Vũ, sư trưởng bên quân đội nghiên cứu cách bố phòng mặt trận, một trinh sát đem về bao thuốc đầu lọc thu được của một sĩ quan cao cấp Pháp. Chính tôi đã được nhìn tận mắt, thế mà bây giờ không nhớ ra... Ông Hồng mải nói chuyện quên mất có Minh đang đứng bên. Ông vội quay lại bắt tay Minh và nói như tâm sự: - Thế mà ban nãy tôi lại cáu với đồng chí về việc hóa nghiệm chậm - Ông thấp giọng - Đồng chí có thể về nhà cho cô ấy đỡ mong. Minh đi rồi, ông Trưởng ty cũng chào trưởng ban chuyên án ra về, khi đó mặt trăng giữa tháng sắp vượt qua núi Cánh Diều. Mặt trăng lớn một cách kỳ lạ đang chạy đua với những mảng mây nhuốm màu da cam và màu đỏ gạch. Nhiều giáo dân đã rời khỏi nhà thờ ở trung tâm thị xã Ninh Bình trở về gia đình. Ông Trưởng ty vượt qua đường ray bóng loáng tựa vầng trăng non. Cả thị xã bắt đầu vào giấc ngủ đêm, thở hơi mát của dòng sông Đáy. ông Trưởng ty đăm chiêu trong gánh nặng tính toán bố trí trinh sát và hệ thống điện đài săn sóng trên biển và đất liền. Ông loay hoay với kế hoạch đó cho tới giờ sao mai nhạt dần ở cuối chân trời mới chợp mắt để chuẩn bị bước vào ngày mới. 6 Thiếu úy Đặng Văn Thành - tổ trưởng tổ lùng sục số 8 - trở lại khu vực mình được phân công. Cách anh không xa, các chiến sĩ trinh sát và dân quân đang đi hàng ngang, lặng lẽ, chăm chú tìm kiếm dấu vết. Quá trưa, tổ lùng sục của anh mói dừng chân để ăn lót dạ trong ngày - mỗi khẩu phần chỉ có gói cơm nếp với muối vừng lạc. - Mời anh ăn cùng với chúng em - Bí thư chi đoàn thanh niên thôn Lưu Hạ mời thiếu úy Thành và báo cáo luôn - Chúng em chẳng thấy dấu vết gì đáng nghi ngờ cả. - Có thể nó không xâm nhập vào khu vực chúng ta - Trung sĩ Mạnh ngồi phía sau Thành lẩm bẩm nói. - Cho rút thôi anh Thành ạ! - Thượng sĩ Lâm đề nghị. - Không được. Chừng nào chưa có lệnh của cấp trên chúng ta chưa được rút khỏi đây! Sau khi ăn cơm xong, mọi người uống nước và lấy ống tay áo chùi mồm. Thành trầm ngâm suy nghĩ nhưng nhận thấy mọi người đang nhìn mình, anh lại làm bộ vui vẻ mỉm cười. "Dù công việc có khó khăn đến đâu chăng nữa - Anh nhớ lại lời của ông Hồng căn dặn trước lúc mở cuộc săn lùng - Cũng không bao giờ lộ ra nét mặt. Nhất là đôi với chúng ta, những trinh sát trên trận tuyến thầm lặng càng phải bình tĩnh, vui vẻ trước mọi sự việc". Sau những phút giây suy nghĩ, thiếu úy Thành đề nghị mọi người: - Đi cà kheo ra tận mép biển - Anh đưa tay chỉ về phía trước - Khoảng cách đi giữa chúng ta bây giờ phải xa hơn, nhưng phải quan sát kỹ để không sót một hiện tượng nghi vấn nào. Cả tổ lùng sục do Thành chỉ huy lội bì bõm giữa sình lầy. - Khéo sa lầy mất - Bí thư chi đoàn báo động cho mọi người. Đột nhiên phía trước, nước bắn tung toé rồi tạo thành dòng làm họ sởn da gà. Chắc là loại cá to, thấy người lạ vội quẫy đuôi chạy trốn. Thành cố gắng rút cà kheo chân phải đế lấy lại thăng bằng sau phút loạng choạng. Bỗng bộ đàm nhận được tín hiệu chỉ thị ngừng cuộc lùng sục. Khi đó trời đã gần tối. Họ đành nghỉ lại rừng sú vẹt qua đêm để sáng hôm sau trở về nơi tập kết, riêng Thành và Mạnh trở về Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Sau khi nghe Cục trưởng giao nhiệm vụ, Thành tới thăm Mai, cô bạn gái ở phố Lò Đúc. Bố mẹ là công nhân Nhà máy ô tô Ngô Gia Tự, còn cô làm ở nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà. Ngoài thời gian làm việc tại nhà máy, trở về nhà cô cùng mẹ bán chè đỗ đen. Thấy Thành đến, Mai phấn chấn hẳn lên, vừa mời anh ăn chè đỗ đen vừa ngắm nhìn anh cho thỏa những ngày xa nhớ. Khoảng nửa giờ sau, hai người dắt xe đạp đi về phía cuối phố Lò Đúc, qua đê Lương Yên ra phía bờ sông Hồng. - Những ngày qua anh đi đâu mà chẳng báo cho em một câu. Thành hơi lúng túng, song anh trả lời ngay theo phản xạ nghề nghiệp. - Anh đi Bắc Giang. Từ ngày yêu Mai, lần đầu tiên anh phải đi xa, và cũng là lần đầu tiên anh nói dối người yêu. Thành chỉ biết cười để mong xóa đi lỗi nói dối vừa rồi, mặc dù anh biết lời nói dối đó là vì công việc. Mai đi bên Thành nhưng không hề biết suy nghĩ của anh. Thỉnh thoảng cô vắt lọn tóc về phía sau để trả lại cho gió cả bộ ngực căng tròn sức sống. Trong một thoáng Thành cảm thấy ngực mình rung lên nhè nhẹ, xúc động. Hai người đi ra bãi sông Hồng. Gió mang theo nước sông phả nhẹ vào mặt. Thành và Mai ngồi phía ngoài bãi ngô nơi kề mép nước, càng về khuya sương giăng càng dầy. Bãi ngô như co mình lại vì lạnh. Thỉnh thoảng nước sông vỗ bờ oàm oạp. Sau mỗi đợt sóng vỗ, hai người chỉ nghe thấy tiếng những hạt sương rơi, rồi tất cả chìm dần trong mênh mông. Trong lúc hai người dành cho nhau những phút giây của cỏ cây ở nơi chấm hết giữa bãi ngô và sóng nước, Thành không quên rằng sáng mai anh lại phải đi xa. Anh kéo sát Mai vào lòng, tâm sự: - Chuyến đi công tác này anh báo trước cho em ngày đi nhưng không hẹn được ngày về. - Anh đi công tác ở tỉnh nào, có lâu không? Thành không muốn nói dối người yêu một cách lộ liễu, phũ phàng như lần trước nên anh chọn câu trả lời mà anh cho rằng mình không nói dôi: - Do đồng chí Cục trưởng cơ quan anh quyết định. - Nhớ ghi thư cho em, nghe anh! - Ghi thư chậm đừng trách nhé. - Nếu vì công việc thì em không trách đâu, còn tơ tưởng cô khác mà lười ghi thư thì em phạt đấy. Thành kéo Mai sát vào lòng, cố hướng cho cô nhìn về phía trăng sáng trên đỉnh đầu để anh được nhìn rõ hơn khuôn mặt mà anh cho rằng xinh đẹp nhất trên đời. Dưới ánh trăng suông, chiếc áo màu tím hoa cà càng tôn cho sắc mặt vốn đã trắng hồng của Mai như thoa thêm lớp phấn. Anh cúi xuống, nói nhỏ: - Phạt như thế này nhé. Trong một thoáng, Thành và Mai đều cảm thấy mặt trăng như thấp dần, dòng sông thu ngắn lại, trái đất mỗi lúc một bé nhỏ hơn. Sau khi xuất trình giấy tờ. Thành được ủy ban xã giới thiệu đến ở nhờ nhà ông Khương cách nhà chị Nhung khoảng năm trăm mét, cách nhà thờ khoảng một cây số theo đường chim bay. Tổ trắc địa của Thành đến nhà ông Khương khi ông đang đan lưới đánh cá. Thấy cán bộ, ông bảo vợ dọn gian nhà chính cho cán bộ ở, còn vợ chồng ông xuống ở nhà ngang. Từ ngày Thành đến ở nhờ, ông Khương ít nói chuyện với vợ hơn, nhưng lại tích cực đan lưới. Ông ngồi ngay cửa nhà chính, làm luôn tay, có vẻ như không muốn để phí thì giờ. Ngày đi đo đạc ở ngoài cánh đồng phía sau nhà thờ, đêm đến Thành đi mai phục. Anh khổ sở nhất là lúc không khí oi nồng để rồi sau đó lại chịu một trận mưa như trút nước, chớp liên hồi lóe lên trên đỉnh đầu, những tiếng sấm inh tai như tiếng nổ của đại bác; phía trước anh, tiếng sóng biển như một tràng cười của người khổng lồ man rợ vọng đến. Thành và Mạnh che áo mưa nằm ngoài cánh đồng, có cảm giác như cơn phẫn nộ của thiên nhiên chỉ dành cho họ. Công việc mai phục đó mang lại cho anh hậu quả: sốt một tuần phải đi bệnh viện huyện và suýt nữa phải về Hà Nội. Ra viện, Thành lại trở về với công việc mai phục. Chiếc kim đồng hồ dạ quang chỉ mười một giờ đêm. Chẳng lẽ cứ nằm lì ở giữa thửa ruộng này đêm này qua đêm khác hay sao? Thành băn khoăn, hoài nghi về quyết định bí mật theo dõi một ngôi nhà trong bóng đêm như vậy. Thời gian có vẻ thờ ơ và chuyển dịch hết sức chậm chạp. Buồn quá, Thành đưa tay lên nghe tiếng "tích tắc, tích tắc" rồi ngước nhìn bầu trời đen sẫm như ai quét một lớp sơn đen. Tuy trời đen như thế nhưng anh vẫn tưởng tượng thấy nó sáng trong, mặt trăng quàng lên mình những làn mây như những chiếc khăn bông trắng xốp đang soi tỏ mặt người yêu. "Chắc giờ này Mai đang ngủ - Anh thầm nghĩ - Còn mình thì đang chết cóng ở đây". Cách Thành một mét, Mạnh vẫn nằm im. - Anh Thành ạ. Thành quay sang hỏi nhỏ: - Gì thế cậu? Mạnh ngập ngừng: - Chúng ta nằm như thế này bao lâu nữa? - Cho đến khi có lệnh rút. Trong nhà chị Nhung bỗng lóe lên ánh đèn vàng nhạt như đom đóm giữa nhà mồ rồi lại tắt ngay. Nhờ ánh chớp mờ nhạt, Thành phát hiện có bóng đen cao to bước ra cổng. Thành kéo tay Mạnh: - Chú ý. Bóng đen choàng vải mưa, đi khá nhanh. - Bám sát! - Thành ra lệnh. Cả hai người nhẹ nhàng đứng dậy đi theo bóng kẻ lạ mặt. Họ đi mò mẫm trên những đoạn đường xuyên đồng, nhầy nhụa bùn đất. Vì nước mưa thấm vào người lại nằm lâu dưới ruộng nước, Thành và Mạnh đều thấy rét. Thành rùng mình cho người ấm hơn rồi đi tiếp. Ánh chớp lóe lên, cả hai người đều đứng im, khom người lại, mắt không quên nhìn về phía trước. Họ chạy đuổi theo. Bỗng Thành hẫng chân, hai tay chới với giơ cao, mất thăng bằng ngã xuống rãnh nước, đầu đập vào bờ kênh. Mạnh chạy lại cầm tay Thành đang quờ quạng trên bờ kéo lên. - Có làm sao không? - Bị sái chân không đi được - Anh giục Mạnh - Cậu để mặc tớ ở đây, bám sát kẻo nó biến mất. Thấy Mạnh có vẻ còn ngần ngại, Thành nói như ra lệnh: - Đi ngay đi, chậm một giây là hỏng rồi. Tiếng chuông nhà thờ đập vào những hạt mưa tạo nên âm thanh giống tiếng kêu của một phù thủy. Mạnh nhìn quần áo Thành đang ướt sũng, người đầy bùn đất có vẻ ái ngại. Sau phút giây ngập ngừng, anh chạy lao đi vẻ lo lắng hồi hộp. Tia chớp lại lóe lên. Một mảng tia sáng lộ rõ đồng ruộng làng mạc hai bên đường. Bỗng Mạnh nghe thấy tiếng động như tiếng chân người từ phía trước lép nhép trên bùn nước. Hay là người đó quay lại? Anh nghĩ như thê và rẽ vào bên đường, ép mình xuống ruộng cói. Mấy phút trôi qua, vẫn không có ai đi tới. Lúc bấy giờ anh mới nghĩ có lẽ do mình bị mệt và quá nghĩ về đối phương nên trong đầu vang lên cái âm thanh khốn khổ đó. Anh đứng dậy và tiếp tục chạy. Vê gần đến nhà thờ, ánh chớp lóe lên bất chợt. Thật kỳ quặc, Mạnh nhận ra dáng người cao to đó chính là viên quản lý giáo xứ. Xác định được đối tượng, Mạnh không đuổi theo viên quản lý giáo xứ nữa mà dừng chân quay trở lại đón Thành. Những làn mưa như những chiếc mành khổng lồ vẫn từ trên trời thả xuống đập vào mắt anh rát như lửa. 7 Theo lệnh của trưởng ban chuyên án, các chuyên viên điện đài đã có mặt tại vị trí quy định. Tổ điện đài do trung úy Tùng phụ trách cũng đóng vai cán bộ trắc địa khiêng đồ nghề về nhà ông Khương bổ sung cho đội trắc địa của thiếu úy Thành. Hai chuyên viên nhanh chóng lôi trong hòm ra dụng cụ máy móc của máy dò sóng, bắt đầu thận trọng nối chúng lại với nhau. - Khoan đã, chúng ta phải tổng vệ sinh gian buồng rồi hãy đặt máy - Trung úy Tùng ra lệnh. Mọi người chấp hành ngay, sau đó mới chăng các dây điện, máy móc chằng chịt khắp gian buồng. Họ vừa đặt xong máy, màn ảnh huỳnh quang tỏa sáng. Họ bắt đầu theo dõi biến đổi trên màn ảnh. Ngoài sân ông già Khương vẫn đang ngồi dệt chiếu, thượng sĩ Mạnh ngồi chọn từng sợi cói đưa cho ông, mồm luôn luôn huýt sáo. Chuyên viên điện đài nhăn mặt xoay núm máy thu đặt trên bàn một cách nhẹ nhàng. Đêm đầu và cả ngày hôm sau máy dò sóng không nhận được tín hiệu lạ. Gần một giờ sáng đêm thứ hai, chuyên viên điện đài thấy xuất hiện trên màn ảnh những vệt sóng lăn tăn, rồi biến mất. Trung úy Tùng trải sơ đồ thôn Lưu Hạ, cầm bút vạch tọa độ. Hết sức thận trọng, tỉ mỉ, anh dùng kính lúp đo từng centimét. - Nó đây rồi! Hai chuyên viên điện đài quỳ xuống dùng kính lúp soi kỹ chỗ bút chì Tùng chỉ. - Báo cáo anh, đường của sóng điện lại truyền đi trên một trục qua nhà chị Hường và cả nhà chị Nhung nữa. Hai nhà này cách nhau không đầy hai mươi mét thì làm sao có thể xác định chính xác đài phát sóng đặt ở nhà nào? Ánh mắt Tùng chững lại, chiếc kính lúp bất động hồi lâu trên tấm bản đồ. - Như vậy chúng ta lại phải tiếp tục đặt đài dò sóng theo hướng cũ để tính một cách chuẩn xác hơn. Cả ba người ngồi quanh chiếc chõng tre im lặng khoảng hơn mười phút. Niềm vui vừa đến với họ rồi lại mất đi quá nhanh. Họ tiếp tục kiên trì theo dõi. Tùng quyết định cho đài dò sóng di chuyển đến một vị trí khác cách nhà ông Khương không xa. Đêm thứ ba, cũng vào lúc một giờ, đài săn sóng lại nhận được tín hiệu của những đường dích dắc trên màn ảnh. Tùng nhìn vào máy ghi âm, chiếc băng cát-xét bắt đầu quay. Chuyên viên dò đài kéo ghê lại gần dán mắt theo dõi màn ảnh, tay phải đặt vào nút bấm máy ở bên phải, sẵn sàng điều chỉnh nếu có sự cố. - Tìm ra được mục tiêu rồi! Chuyên viên dò đài quay lại, vẻ mặt phấn khởi. - Tính ra rồi. Hai đường xiên của một tam giác đã giao nhau đúng nhà số hai tức là nhà Vũ Kim Nhung. Tùng nhìn đồng hồ, nói: - Bây giờ là một giờ mười lăm phút. Đồng chí điện báo cáo ngay về Ninh Bình kết quả vừa thu được. Sáng mai đồng chí đem toàn bộ bản mật điện đi Ninh Bình trao cho anh Hồng để chuyển cho các chuyên viên mở khóa mã của Bộ. - Xác định được đài phát rồi, chúng ta vẫn tiếp tục ở đây hay rút về Hà Nội? Tùng cười, nhắc nhở: - Lại sốt ruột rồi. Cứ yên tâm ở đây để mặc cô Phương Lan ở Hà Nội đi với chàng trai khác. - Có mà em cho mấy cái bạt tai. - Nếu thế tớ sẽ bắt cậu vào trại giam vì tội đánh người đấy. Hai người cùng cười rồi cho máy hoạt động tiếp tục chiến dịch dò đài phát của địch. Nhận được điện mật của tổ trinh sát điện đài báo dò được nơi đài phát là nhà chị Nhung, ông Hồng mừng lắm. Ông đứng lặng bên ô cửa nhìn trời mưa và suy tính phương án phục kích bắt tên biệt kích. Mưa vẫn xối như có hàng ngàn, hàng vạn chum nước đổ xuống. Những giọt mưa bây giờ thẳng đứng, dày dịt như hàng triệu tấm mành khổng lồ ròng ròng xối nước. Đội trưởng Lê Đình Hồng quyết định triệu tập ban chuyên án họp bất thường. Ông rút gói thuốc lá sợi trong túi ra cuộn, châm lửa rít một hơi rồi để nó cháy lặng lẽ trên tay, tàn dần dần cho tới khi bị gió xô đổ tan vụn, bay ra ngoài ô cửa. Khi ông rít điếu thuốc lần thứ hai, cũng là lúc mọi người đã có mặt trong phòng họp. Hội nghị bắt đầu từ lúc mười giờ tối đến một giờ đêm, thành phần gồm trưởng ban chuyên án Lê Đình Hồng, Trưởng ty Công an Ninh Bình, đội phó Mạnh Hùng, thường trực ban chuyên án. Vứt mẩu thuốc vừa cháy sém tay, ông quay lại nói ngay: - Tôi vừa nhận được báo cáo, nhà chị Nhung ở thôn Lưu Hạ là nơi đặt đài phát. Tôi cho mời các đồng chí tới để cùng nhau đánh giá độ tin cậy của báo cáo này và đánh giá lại toàn bộ vụ án. Sau khi phân tích tỉ mỉ từng hiện tượng, ông Hồng tóm tắt: - Một là, chiếc thuyền cao su, tang vật ban đầu báo động cho chúng ta có tên biệt kích người nhái xâm nhập vào Kim Sơn. Hai là, tổ lùng sục phát hiện trên hiện trường có cành sú vẹt gãy, có vết xước treo ăng-ten, sau này lại thu được sóng điện phát đi từ khu vực BM2. Ba là, mẩu thuốc lá rơi xuống vùng sình lầy. - Viên thuốc độc chứ? - Trưởng ty Công an Ninh Bình cười, hỏi. Ông Hồng cũng mỉm cười, nói tiếp: - Ba tang vật đó đủ khẳng định có tên gián điệp biệt kích đang hoạt động ở vùng sình lầy BM2 - Dừng một lúc, ông thấp giọng - Điều quan trọng là phải xác định nó là đứa nào, nằm ở đâu. Một số hiện tượng gần đây đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Một là, chị Nhung nhận được bưu thiếp của chồng; hai là, các chuyên viên dò sóng xác định chính xác nhà chị có đặt máy phát; ba là, tổ trinh sát của Thành phát hiện trong đêm tối linh mục Bường cho người đến nhà chị Nhung. Với ba chứng cứ này cho phép chúng ta khẳng định khả năng Tình đã trở về, nằm tại nhà chị Nhung. - Nhưng cũng tại đây, lần trước chúng ta lại nhận định, Tình gửi bưu thiếp cho vợ chứng tỏ nó đang ở miền Nam cơ mà - Mạnh Hùng lập luận bác bỏ kết luận của trưởng ban chuyên án - Theo tôi, đó có thể là đồng bọn dựa vào nhà chị Nhung làm nơi trung gian trú chân trước khi chuyển đến nơi ở mới. - Hai ý kiến của hai đồng chí đưa ra, theo tôi, nó sẽ dẫn đến hai biện pháp đối phó khác nhau. Nếu Tình trở về nhà thì chúng ta chỉ bao vây nhà chị Nhung là có thể tóm gọn; nếu đó là nơi quá giang thì chúng ta phục kích ở đó để bám chúng đến hang ổ. Khi đó, lực lượng chúng ta tung ra không phải một vài người mà lớn hơn nhiều. Ông Hồng quay lại phía Mạnh Hùng: - Ý kiến đồng chí? - Nếu như nó viết sẵn hàng trăm tờ bưu thiếp từ trước lúc ra Bắc thì sao? - Mạnh Hùng nhận định một cách không chắc chắn. - Đúng. Có thể như thể lắm. Cứ gửi yêu cầu cho bộ phận giám định chữ viết. Nếu viết cùng thời gian thì sẽ có sự chuyển màu của mực viết bưu thiếp. - Nhưng chị Nhung mói nhận được một bưu thiếp, làm sao có thể giúp chúng ta làm sáng tỏ điều đó được? Câu hỏi của Mạnh Hùng lại dồn trưởng ban chuyên án vào bế tắc. Ông rút một điếu thuốc rồi chuyển cả bao về phía Trưởng ty Công an. - Bác sĩ bảo anh bị áp huyết cao không được hút thuốc cơ mà? Ông Hồng xua tay, cười: - Ô, quy định của bác sĩ là để cho "phạm nhân" vi phạm. Sau câu nói bông đùa, ông Hồng đặt câu hỏi một cách nghiêm túc: - Loại trừ chứng cứ Tình viết bưu thiếp, chỉ với chứng cứ nhà chị Nhung có điện đài, liệu chúng ta có bắt được đối tượng tại nhà chị Nhung không? - Chuyện đó phải bàn cho kỹ - Ông Trưởng ty đề nghị - Nếu vào nhà chị Nhung tức là vào nhà một giáo dân mà không có điện đài, không có tên biệt kích nào hoặc có nhưng nó đã chạy trốn thì bà con giáo dân sẽ kéo đến phản đối chúng ta, linh mục Bường sẽ tha hồ nói xấu chế độ. Vì vậy, đề nghị các đồng chí tính toán thận trọng, không nên vội vàng, nếu không một năm, mười năm sau chúng ta vẫn không lấy lại được lòng tin của bà con với chính quyền. Sau một lúc suy nghĩ, trung tá nói như kết luận: - Phương pháp tốt nhất, khi phát hiện chính xác nhà chị Nhung có đài phát sóng, chúng ta vào ngay bắt quả tang lúc nó đang hoạt động. Các đồng chí không bàn đến phương pháp bắt mà coi như đã bắt rồi, chúng ta sẽ xử trí như thế nào? - ông Hồng đề nghị - Bây giờ đã khuya, các đồng chí về suy nghĩ, sáng mai cũng tại phòng họp này chúng ta bàn tiếp. Nghĩ đến sức khỏe của đồng đội, ông Hồng cho hoãn cuộc họp. Nhưng trong đêm đó vẫn bị các hồ sơ thu hút hết tâm trí tới tận sáng vẫn chưa dứt ra được. Từ trong vụ án này và nhiều vụ án gián điệp biệt kích trong những năm gần đây do Cục ông chỉ đạo phá án, ông nhìn rõ hơn tâm địa của Mỹ, đang muốn mở chiến dịch phá cộng sản từ trong lòng cộng sản. Thực hiện âm mưu này, chúng tập hợp hàng ngàn tên phản bội người Bắc di cư vào Nam huấn luyện rồi phái ra miền Bắc liên lạc với bọn gián điệp tình báo Pháp cài lại, bắt tay với bọn phản động đội lốt cha đạo, tung những luận điệu Mỹ sắp Bắc tiến nhằm lôi kéo giáo dân, đồng bào các dân tộc ít người, những phần tử bất mãn... lập mật khu. Cuối cùng tổ chức các vụ ăn cướp có vũ trang của chúng vào cơ sở chính quyền như ủy ban, hợp tác xã giết cán bộ, cướp lương thực, tạo nên sự mất ổn định ở miền Bắc, tiến tới lập đội quân nổi dậy hỗ trợ cho Mỹ - ngụy từ miền Nam đánh ra. Muốn đập tan kế hoạch này của Mỹ, mình phải tuyên truyền đế cho cán bộ, nhân dân hiểu: phải tóm gọn bọn biệt kích. Đúng rồi! Phải câu nhử chúng để tóm cả chuỗi - ông Hồng gõ nhẹ tay xuống thành giường - như thế cuộc đấu tranh này sẽ phải gánh chịu sự gian nan, vất vả, thậm chí cả đổ máu hy sinh mà ông là người đứng mũi chịu sào. Suy nghĩ đó như tăng thêm sức mạnh cho ông quyết tâm lập kế hoạch câu nhử. Chỉ có bằng cách này mới tiêu hao được sinh lực địch nhanh chóng. Nhưng rồi ông lại tự hỏi, thả lưới và mồi câu như thế nào để có thể bắt được chúng? Ông Hồng quyết định tóm tên gián điệp biệt kích mới tung ra để rồi không chế bắt làm việc; mặt khác, đưa người xâm nhập vào tổ chức của chúng, tạo cho chỉ huy Chi cục tình báo trung ương Mỹ ở miền Nam tưởng rằng "lực lượng chống cộng sản ở trong lòng cộng sản" ở Ninh Bình đã phát triển mạnh. Đúng rồi, mở chiến dịch câu nhử. Sáng mai sẽ cùng anh em trong ban chuyên án bàn cách thực hiện kế hoạch này. 8 Theo kế hoạch của ban chuyên án, Thành và Mạnh nằm phục kích trên mô đất ở phía sau nhà chị Nhung với chiếc máy thu phát nhỏ xíu, bán kính truyền sóng không quá 500 mét. - "Trung tâm" gọi "trạm gác". - "Trạm gác" nghe rõ. - Mục tiêu bắt đầu hoạt động, cần di chuyển vị trí quan sát gần hơn. - Rõ Thiếu úy Thành cầm súng trong tay dẫn đầu tổ phục kích tiến về phía nhà chị Nhung, vượt qua ruộng cói chằng chịt, cả ba người cúi gập người quan sát mặt đất, tay vẫn cầm máy thu phát. - "Trung tâm" gọi "trạm gác", khẩn trương di chuyển. - Rõ. Họ lại bắt đầu đạp bùn lầy, rẽ cói lao đi. Bỗng chiếc máy thu phát trên tay Thành mất tín hiệu, rồi lại kêu rè rè. - Mất tín hiệu, dừng lại! Thành và anh em đứng sững giữa đêm tối đầy gió, mùi cói và đồng ruộng ẩm ướt. Thành há mồm để hít không khí đầy lồng ngực sau những phút chạy bộ tới "mục tiêu", nơi có đài phát. Anh bực mình nói: - Lại mất mục tiêu rồi! Họ quay lại nơi xuất phát. - Hai tuần, bốn lần chạy như thế này mà không có kết quả - Mạnh bàn - Điện nó phát đi trong có vài phút mà ta phải chạy xa nửa cây số thì làm sao có thể bắt được quả tang - Anh đề nghị - Từ mai, chuyển vị trí chốt đến gần hơn, sát mục tiêu. - Nhưng xung quanh nhà chị Nhung không có một mô đất, không lẽ chúng ta lại nằm dưới ruộng cói? - Chỉ có như thế mới đủ thời gian đột nhập vào nhà chị Nhung giữa lúc nó phát sóng. Thành chấp nhận ý kiến của Mạnh. Họ chui vào ruộng cói cách nhà chị Nhung khoảng hơn trăm mét. Từng đàn muỗi hung hăng xông vào đốt tay chân, mặt mũi ba anh trinh sát. Cả ba người đều luôn tay xua lũ côn trùng thèm khát máu người. Bỗng có một con chim ăn đêm va nhẹ vào đầu Thành rồi hốt hoảng, bay loạn xạ cố tìm cách thoát thân. Tiếng máy thu phát kêu rè rè. - Chú ý! Đài chúng đã truyền tín hiệu liên lạc! Lần này, không đợi "trung tâm" phát lệnh tiếp theo, trạm chốt của Thành đã tiến sát bức vách nhà chị Nhung. Tiếng máy "tu tu tu" vẫn phát liên hồi. Khi tiếng máy vừa ngừng, Thành đã đẩy xong then cửa nhà ngoài. Bằng một động tác nhanh như chớp, anh mở cửa, nhảy tỏi cửa buồng đạp mạnh. Hai cánh cửa đập vào hai bức vách không cùng lúc tưởng như hai tiếng súng chát chúa vang lên. - Giơ tay lên! Tên Tình hoàn toàn bất ngờ, không kịp trở tay, mặt biến sắc, đôi mắt chốc chốc lại nhìn bộ điện đài, nhìn xuống chân như tìm kiếm vật gì. Bỗng hắn nhảy bổ về phía trước, tay chém mạnh vào tay Thành đang cầm súng. Thành kịp tránh sang một bên. Bàn tay hắn đập vào bức vách, đất tung toé bay vèo qua đầu Mạnh đang đứng phía ngoài. Một cú đá móc bất thần vào bụng làm hắn ngã xuống ngưỡng cửa buồng, đầu bê bết máu. Sự việc này xảy ra nhanh như tiếng động, chị Nhung chưa kịp bước ra khỏi giường thì mọi việc đã xong xuôi. Chị sững sờ đến hoang mang, kêu lên không thành tiếng: "Lạy Chúa!". Thành bước đến bên Tình xốc hắn lên rồi bí mật giải ngay về Công an huyện Kim Sơn. Còn chị Nhung vẫn ngồi như một pho tượng ngước nhìn tượng Chúa, tay đặt trước ngực chưa hạ xuống. Ông Trưởng ty Công an bước vào nhà. Thấy người lạ cao to, oai vệ, chị đoán chắc là cán bộ cao cấp nên vội vàng xuống đất. - Thưa ông, tất cả việc con làm đều vì Chúa. - Tôi hiểu! - Ông Trưởng ty nói và động viên chị Nhung - Chị bình tĩnh kể cho chúng tôi nghe, chị đã vì Chúa như thế nào để đón Tình về nhà? Sau nhiều lời động viên, giải thích của ông Trưởng ty, chị Nhung đã kể lại những gì chị biết về Tình, về quan hệ giữa hai người. Chương hai 1 Quá trình Tình trở thành tên biệt kích, một cuốn truyện dài cũng khó ghi hết được. Nhưng lai lịch của gia đình Tình ở thôn Lưu Hạ thì nhiều người trong vùng đều biết. Cụ kị nhiều đời của dòng họ gia đình Tình từ Nam Hà đến đây định cư ngay từ ngày khẩn hoang lập huyện Kim Sơn. Cả dòng họ đi theo đạo ngay từ khi xứ Lưu Hạ hạ cây thánh giá đầu tiên. Đến đời ông Bổng, bố Tình, ông đã trở thành người trông coi ruộng nhà Chung của xứ đạo Lưu Hạ, giàu có nhất vùng. Gia đình ông giàu có nhanh nhờ giáo dân trong xứ cúng nạp hoặc chiếm đoạt, khai hoang... Cho tới khi Kim Sơn có lính mũi lõ đầu tiên đến xứ Lưu Hạ, Bổng càng có quan hệ chặt chẽ. Nhờ đó gia đình thêm giàu có, danh tiếng khắp vùng. Tình ra đời trong khu nhà đạo giáo đó. Ngay từ khi còn nằm trong nôi, Tình đã ngủ trong tiếng hát kinh, lớn lên bằng công sức cấy cày của giáo dân trên những mẫu ruộng nhà Chung. Nếu như cuộc đời cứ như thế trôi qua, không có Việt Minh, không có Cách mạng thì chắc chắn Tình đã nối nghiệp bố. Nhưng đến năm 1953, khi ta mở mặt trận Tây nam Ninh Bình, Bổng đã chỉ điểm cho bọn Pháp bắt tất cả các sơ sở cách mạng trong vùng, rồi dẫn đường cho lính Pháp đi dọc theo đường Mười tiến về phía thị xã Ninh Bình. Nhưng mới tới gần thị trấn Phát Diệm, hắn đã bị du kích bắn chết. Trước khi chết hắn ghi lại những lòi trăng trối cuối cùng, giao toàn bộ đất nhà Chung cho Tình, con trai quản lý. Tình được các ông mũi lõ giúp đỡ bảo đảm cho thừa hưởng cái gia tài của bố chưa được bao ngày thì đoàn cải cách ruộng đất về Lưu Hạ. Bố hắn bị quy là địa chủ nhà Chung. Số ruộng Tình vừa có trong tay đã phải đem chia cho giáo dân trong vùng. Từ đó, Tình tuy còn nhỏ, nhưng bắt đầu có mặc cảm nặng nề với cách mạng. Nỗi mặc cảm đó được lớn thêm ra từng ngày từng giờ chứ không phải từng tháng. Với cái tuổi thanh niên mới cưới vợ, Tình ý thức được việc làm của bố. Cái quá khứ của bố không thể nào chôn vùi được mà luôn luôn ám ảnh hắn đến mất ăn, mất ngủ. Lại còn mấy tháng, mình là chủ của những thửa ruộng nhà Chung nữa chứ. Tình bắt đầu nghĩ nhiều. Việt Minh chưa gọi đến mình thì bản án của mình vẫn còn treo lơ lửng đó: Nợ máu truyền kiếp với dân xứ đạo, với cách mạng. Với nợ máu đó, chắc chắn mình sẽ bị cách mạng gọi đi xử tội nay mai. Càng suy nghĩ, Tình càng tự kết tội mình là một tên tù binh bị giam lỏng rồi sẽ bị vào tù. Thê rồi Chiến dịch Điện Biên phủ kết thúc, Pháp chịu thua, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Hàng vạn giáo dân theo Chúa chạy vào Nam. Tình cũng chạy vào Nam để phá cái nhà tù đang ám ảnh trong đầu chứ chưa hề nghĩ sẽ làm gián điệp biệt kích. Nhưng rồi sự lý giải việc Tình bỏ trốn quá khứ lại không đưa đến kết cục như hắn nghĩ. Cơ quan tình báo Mỹ giao cho Tình tờ khai có in sẵn: họ tên, ngày tháng, năm sinh, tôn giáo, bố mẹ, gia đình... Hắn phải sống trong trạng thái chờ đợi, không công ăn việc làm, ngày ngày vào nhà thờ dõi mắt lên tượng Chúa đang dang rộng hai tay trên cây thánh giá để cầu nguyện. Đầu hắn mỗi lúc như đặc lại, đông cứng. Một hôm, có một người mắt xanh, tay đầy lông lá, khô đét như thanh củi đến gặp Tình. Tình nghĩ, hay là mình khai có điều gì không thật? Nhưng hắn lấy lại được bình tâm, Tình đã khai thật. Hơn nữa, ở cái đất Sài Gòn này còn có hàng vạn bà con giáo dân của thôn Lưu Hạ, của các làng xã xung quanh cùng di cư biết rõ về gia đình mình, chẳng có gì mà họ không biết. Mình muốn lừa dối họ cũng không được. Lần thứ nhất..., lần thứ năm..., lần thứ bảy... Lần nào Tình cũng khai đầy đủ theo yêu cầu của người Mỹ. Sau nhiều lần khai báo, xác minh, người Mỹ tuyên bố rằng tuyển Tình vào đội quân bảo vệ Chúa trở về Bắc. Nghe thấy thế, cảm giác sung sướng và báo thù chạy khắp người Tình. Hắn nhắm nghiền mắt lại. Nếu làm xong nhiệm vụ rước Chúa về đến Kim Sơn, mình sẽ hỏi tội những kẻ đã giết bố mình - Tên Tình nghĩ như thế. Hắn xốc chiếc túi du lịch trong tay ra ga Hòa Hưng đi Đà Nẵng. Từ đâu đó, sâu thẳm trong tâm can hắn vọng lên lời kêu sung sướng: Mình vinh dự quá, được vào đội quân đi bảo vệ Chúa. Tàu hỏa dừng lại, Tình bước ra ga lên chiếc xe Jeep chạy thẳng đến Tiên Sa vào một chiều cuối đông. Bầu trời và biển như hòa lẫn vào nhau. Trạm ra đa của Mỹ trên đỉnh núi hướng ra phía Bắc cứ quay liên tục. Tàu chiến Mỹ ở cảng sâu Đà Nẵng nhả khói đông đặc, vật vờ, tan loãng là đà xuống mặt biển. Sóng từ phía đèo Hải Vân, phía làng Cùi vật vã dưới chân bán đảo Sơn Trà, dồn vào vịnh Tiên Sa. Tình đi ngang qua đường goòng, bước thêm vài trăm bước thì đến chân nhà thờ Tiên Sa. Nhà thờ Tiên Sa xây dựng bên bờ biển. Từ phía biển Đông nhìn vào, người ta dễ nhầm đó là con tàu chuẩn bị hạ thủy. Hai thành tàu hơi mở rộng, bên trên có cây thập ác làm cột buồm. Mỗi khi sóng biển xô tới chân bờ, người ta dễ tưởng "tàu" đang chồm lên trên sóng, đầu hơi nhô cao lao về phía Bắc. Đó là nhà thờ dành cho những tên biệt kích của Sở Phòng vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ thuật, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt quân đội ngụy và dành riêng cho những tên biệt kích thuộc trung tâm huấn luyện Mỹ Khê của Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Linh mục Trịnh Văn Duy, cha xứ của bán đảo Sơn Trà, đại úy tuyên úy của quân đội ngụy, cứ cách một chủ nhật lại đến đây một lần. Hôm nay nghe điện gọi đến không phải vào chúa nhật, ông nghĩ ngay có việc hệ trọng. Ông không đi ô tô mà đi bộ từ Mỹ Khê tới Tiên Sa. Ông nói với con chiên là biệt kích đang huấn luyện ở trại Mỹ Khê rằng, đêm qua Chúa ở nhà thờ Tiên Sa toát ra một phép màu gọi ông tới ngay... Khi ông nói, mọi người xúm lại, mắt đờ đẫn, đăm đăm nhìn về phía nhà thờ, tai lắng nghe vị linh mục. Sau những lời giải thích cho những "con chiên ngoan đạo nhất trên đời", ông đi dọc theo con đường nhỏ ven biển chạy song song với đường ô tô chạy ra cảng sâu Đà Nằng, nơi dành riêng cho tàu quân sự Mỹ neo đậu. Bước vào nhà thờ, linh mục Trịnh Văn Duy nhìn thấy đại tá Sung, cố vấn tình báo Mỹ Matin và Tình đang đứng trước tượng Chúa. Tượng Chúa vẫn dang rộng tay đón cả bốn người đến nơi kín đáo này để bàn cách "trở ra Bắc". - Thưa Đức cha, theo lệnh Đức cha, con đã có mặt. - Cha miễn lễ cho con - Linh mục Trịnh Văn Duy cầm tay Tình nâng nhẹ - Chúa tin con, đã chọn con vào đội quân bảo vệ Chúa. Con phải chịu khó học để rồi một ngày gần đây ra Bắc lập căn cứ rước Chúa về... - Thưa Cha, con sẽ làm trọn bổn phận thờ Chúa và chống Cộng. Sau những thủ tục nhập môn, giáo huấn, Tình được đào tạo theo chương trình huấn luyện biệt kích của Mỹ - ngụy. Tình được ở ngay tại dãy nhà bên vịnh Tiên Sa, cách nhà thờ Tiên Sa vài trăm mét. Đêm đến, nhạc nhảy từ phía tàu chiến Mỹ run rẩy vọng đến. Những cô gái nhảy mặt dày cộm phấn uốn mông theo nhạc. Gió vẫn vỗ vào nhà thờ triển miên như tiếng gọi của hồn biển. Tiếng nhạc, tiếng gió như chất ma túy ngấm dần vào Tình, thôi thúc chóng kết thúc khóa học để trở ra Bắc thực hiện lời Chúa, trả thù cho bố. Điều chờ đợi của Tình đã đến. Sau khóa học, hắn được chọn trong toán biệt kích đầu tiên ra Bắc. Nhưng ngay từ những ngày đầu đặt chân ra miền Bắc, hắn đã bị bắt. 2 Chị Nhung quê chính ở Lưu Phương, lấy chồng về Lưu Hạ, thôn có hơn năm chục gia đình, có hai con lạch chạy ra bãi sú vẹt, thuyền bè có thể đi lại khi nước triều dâng cao. Người thôn này hầu hết làm chài lưới, làm thợ dệt chiếu hoặc thảm cói. Từ ngày lấy Tình, chị Nhung bỏ xã Lưu Phương sau lưng, để đến với biển vô tận. Nhưng hai năm sau, Tình lại bỏ chạy vào Nam. Từ đó, nỗi buồn không nguôi trong lòng chị. Chị sống mà như người ẩn dật, tinh thần suy sụp, mong ngày mong đêm cho đến ngày Nam Bắc tổng tuyển cử thống nhất đất nước, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đã ký kết. Nhưng ngày đó qua đi, Nam Bắc vẫn bị phân chia. Chị không tin ngày Nam Bắc thống nhất có thực trong đời, nhưng vẫn mong chồng sống trở về với chị. Chị đóng cánh liếp cửa sổ cho mưa khỏi hắt vào nhà, đến ngồi bên cột nhà một cách trầm lặng. Khuôn mặt trái xoan, sắc mặt hơi xanh, đôi mắt vẻ u buồn, dịu dàng nhìn lên tượng Chúa, chị lắng nghe tiếng gió rít và tiếng biển gầm rú. - Nhung ơi, mở cửa cho ông! Ông Tường, một người dân chài có đôi tay gân guốc, nước da như đồng đen, đội nón, khoác áo tơi từ ngoài cổng gọi vào. - Dạ, ông đợi con một chút. - Thằng Tình nó gửi bưu thiếp về đây này! - Nhà con báo tin về hả ông? - Chị Nhung vội vàng mở cửa. Cơn gió xộc theo hắt cả nước mưa vào nhà. - Bưu thiếp của bố nó đây. Chị run run giơ hai tay cầm bưu thiếp đưa sát đến bên đèn. Nước mắt chị nhòe đi khi đọc: "Thương gửi em Vũ Kim Nhung..." Chị nhớ lại cách đây bảy năm, cũng một đêm mưa rét như thế này, chị ôm Hương trong tay đi theo chồng vào Nam cùng Chúa. Mưa quất vào người chị đau như dần. Khi lội qua đồng cói ra biển, người chị nhem nhuốc bùn đen. - Nhung, cố lên chút nữa là ra tới biển - Tình động viên. - Mệt lắm rồi anh ạ - Chị thì thào - Chúng ta đi được nhiều chưa anh? - Cố gắng đi hết cánh đồng cói này là ra tới bãi sú vẹt. - Nhưng con nó chết mất anh ạ. Mặt Tình bỗng tái nhợt: - Con nó làm sao hả em? - Nó không chịu nổi lạnh - Chị cúi xuống lấy nón che cho đứa con đã lạnh toát vì nước mưa và gió biển. Chị cho rằng đó là cái chắn che chở cho đứa con tội nghiệp. - Lạy Chúa! Chúa ban phước lành cho chúng con! Chị Nhung đứng sững lại, mắt mờ đi như hai chiếc lá úa sâu. Rừng sú vẹt mênh mông không biết ranh giới hiện ra trước mặt. Bên ngoài rừng sú vẹt là biển trải vô tận với những đợt sóng to nối đuôi nhau, xô đẩy vào đất liền. Rừng sú vẹt và biển rộng cùng với cơn sốt xuất hiện ở đứa con trong tay đã bắt đầu giật đi từng tia hy vọng chạy vào Nam theo Chúa của chị. Chị cố rút chân lên thì bùn lầy lại hút chân chị. Chung quanh chị lúc bấy giờ chỉ thấy sự hãi hùng do chính nỗi sợ hãi của chị gây ga. Cái làm chị đi chậm lại, cản đường chị không phải là rừng sú vẹt, bùn lầy rậm rạp, sự mệt mỏi, mưa rơi mà chính là nỗi sợ con chết, biển cướp mất tính mạng cả hai vợ chồng. Nỗi sợ đó mỗi lúc một lớn lên không ngừng như con lũ của dòng sông. Chị cùng chồng đi trong rừng sú vẹt đầy rắn độc, sâu bọ. Tình động viên vợ: - Cố gắng đi hết vùng sình lầy sẽ có người đón. Chị Nhung lê lết theo chồng trong nỗi kinh sợ đó. Họ đi gần hết đêm. Mỗi lần chị Nhung ngã, Tình lại đỡ chị dậy, luôn miệng giục chị cố gắng bước nhanh trong cuộc chạy trốn điên rồ này. Hai người lội bì bõm trong vùng vốn đã sình lầy nhưng càng sình lầy hơn do cơn mưa tạo nên. Chị Nhung tưởng đã đi được xa nhưng lại nhận ra chị và chồng đang luẩn quẩn trong rừng sú vẹt. Bỗng có tiếng người phía sau. Bây giờ chị hiểu tại sao khi phát hiện có tiếng người, chị và Tình gắng hết sức bình sinh chạy hút vào trong mưa, thì giờ đây tiếng người lại vang lên ở phía sau. Tiếng sóng biển cũng vậy, lúc nào cũng thấy ầm ầm như rừng cây đổ bão, đất bùn quay tròn dưới trời mưa. Tiếng người ở phía sau gần hơn. - Lại có thêm người bạn đường hay có người đuổi theo mình?- Tình tự đặt câu hỏi. - Anh ơi, có người đuổi theo chúng ta đấy! - Nhanh lên em! Tình cố bước dài hơn. Chị Nhung phải chạy. - Đưa con cho anh bế. Hai người như những con vật bị săn lùng không đường chạy. - Anh chạy đi, để em và con ở lại. - Đừng em - Giọng Tình tha thiết - Anh đi một mình vào Nam thì sống sao nổi. Chị Nhung và Tình đứng lại. Tiếng người đuổi phía sau gần hơn, nhưng chính giây phút đó quyện chặt họ với nhau hơn. Tình thương chồng vợ giờ phút ấy, chị nhập với chồng thành một con người "cùng sống cùng chết". Có lẽ, cái phần tình người thương yêu nhau khiến Tình và chị Nhung nghĩ như thế. Tiếng người đuổi phía sau lại gần hơn. - Anh chạy trước đi, để mặc mẹ con em. Khi nào Chúa về. Anh theo Chúa về đây - Giọng chị Nhung khản đặc vì mệt và sợ. Tình tái mặt quát to: - Cô không đi thực hay sao? - Không đi nữa. Tình quát to hơn: - Ở lại theo Việt Minh hay sao? - Tình quát to như thét, giọng đầy hằn học - Cứ ở lại rồi có ngày chết vì bàn tay chúng nó. Tình bước đi trong cơn tức giận. - Lạy Chúa - Chị Nhung đưa tay lên làm dấu. Cặp mắt của chị như hai mảnh trời xám ngắt bị dông bão kéo qua. Chị đứng giữa sình lầy ôm lấy đứa con đã chết trong tay vì cảm lạnh đột ngột mà không biết. "Khi nào Chúa về, anh theo Chúa về đây". Lời cầu khẩn đó như tưới lên nỗi khổ cực, nỗi nhớ thương chồng. Nhiều người khi đau khổ cố gào thét cho bớt đi nỗi khổ đau, nhưng chị Nhưng chỉ đứng lặng để mặc cho nước mắt và nước mưa ròng ròng chảy qua ngực xuống thân thể đứa con đã chết. Mưa vẫn như hàng trăm chiếc mành khổng lồ bị gió thổi tạt, bay vào mặt, vào người chị, làm nước và bùn quanh chân chị cuộn lên. Chị Nhung vẫn ôm con đứng im mặc cho hai chân lún mỗi lúc một sâu hơn vào lòng đất. Tình chạy đi được một quãng xa thì có một tốp cán bộ ba người chạy đến chỗ chị Nhung. Họ là những cán bộ đi vận động bà con giáo dân không nên nghe theo địch bỏ chạy vào Nam mà nên ở lại quê hương làm ăn sinh sống. Vì thương đứa con trên tay, chị bước theo họ trở về thôn Lưu Hạ. Từ ngày đó đến nay đã qua bảy mùa mưa bão. Mỗi mùa mưa bão đến, cứ lắng tai nghe thấy những tiếng sóng gió gầm gào, có những tiếng gì lạ lắm như hú gọi, quát tháo, như hồn biển đang nổi giận. Nhiều đêm chị nghĩ đó là tiếng chồng chị và những người đã chết trên biển cùng nhau theo sóng gió xô đẩy về phía thôn Lưu Hạ. Giờ đây biết tin chồng chị còn sống, chị mừng lắm, hy vọng được gặp lại chồng. Chị nói với ông Tường: - Thế thì Chúa đã phù hộ anh ấy rồi! Hy vọng được gặp lại chồng lại bắt đầu nhân lên. Chị đến gian hát kinh, ngực đeo thánh giá, ngước nhìn tượng Chúa, tay đưa lên trán: cám ơn Chúa đã cho chồng con sống! 3 Cầm tấm bưu thiếp trong tay, suốt đêm chị Nhung không ngủ được, chỉ mong trời chóng sáng. Hôm sau, khi chuông nhà thờ rung, chị bước ngay ra khỏi nhà. Chị là một trong những giáo dân đầu tiên bước vào nhà thờ cầu lễ. Chờ mãi mới thấy linh mục Bường bước lên giảng đàn. Giáo dân đi hành lễ đều cúi đầu. - Cha đã đến rồi! - Chị Nhung reo thầm trong bụng. Linh mục Bường đã già, người cao dong dỏng, nước da hơi hồng, đôi mắt sắc, đeo kính trắng, cằm hơi nhô, tất cả con người linh mục có gì lạnh lùng. Mỗi khi ông nói, giọng ấm như biển ru, có sức thuyết phục giáo dân một cách lạ thường. Ông đến và bước lên giảng đàn bắt đầu buổi thuyết giáo. Sau những câu cuối cùng của bài tụng ca, linh mục Bường nghĩ ngay đến phương pháp thuyết đạo của ông: hà tiện lời thuyết đạo chung mà cần thuyết đạo riêng cho từng người. Và mỗi người lại được nghe những lời thuyết đạo đó ở một mức độ khác nhau. - Bây giờ ai có điều gì muốn nói với Cha, hãy ở lại. Giáo đường im lặng. Linh mục Bường đưa tay làm dấu và bước xuống bục. Tất cả giáo dân cúi xuống. Linh mục cảm thấy như tất cả giáo dân đang nâng áo ông. Nếu như bây giờ ai chạm đến thân thể ông, chắc mọi người sẽ lăn lông lốc, người này đè lên người kia suốt các bậc thang của giảng đàn. Ông nghĩ như thế và mỉm cười. Linh mục Bường bước vào tòa giải tội. Chị Nhung bước đến trước tòa giải tội quỳ hai gối, ghé sát vào một lỗ nhỏ: - Thưa Cha, con Mari Nhung, con có điều... Lời nói ngập ngừng trên môi chị. - Con hãy nói cho Cha nghe! Tiếng linh mục vang lên trong không gian dồn dập bay trong đầu chị như một đàn bồ câu ngoan ngoãn. - Thưa Cha, hôm qua con nhận được tin chồng con báo rằng vẫn bình yên. Chị Nhung nghiêng mình rất thấp, nước mắt chảy ròng ròng. Vì chị nghĩ, cuộc đời đang đem đến cho chị phút giây tốt đẹp nhất. - Cha miễn lễ cho con! Vị linh mục nói một cách chậm, bình thản. Chị Nhung không thấy nóng lòng như lúc chưa gặp Cha nữa. - Con kể lại cho Cha nghe làm sao con nhận được tin đó. Sau khi nghe chị Nhung kể, vị linh mục lạnh lùng nói: - Đưa bưu thiếp cho Cha xem. Cầm bưu thiếp trong tay, vị linh mục đọc nhanh một lượt và nhìn kỹ hơn ngày ký trong bưu thiếp, ngày 12 tháng 3. Như một cậu học trò, vị linh mục tính ngay được ngày Tình trở về Kim Sơn theo kế hoạch của Cục tình báo trung ương Mỹ. - Thượng đế đã biết điều này - Linh mục Bường bắt đầu thuyết giáo - Cha sẽ trình đấng tối cao điều con vừa nói - Linh mục Bường nhắc tới những điều mà bổn phận mỗi giáo dân đều phải làm. Viên quản lý giáo xứ đi ngang qua ô cửa làm vị linh mục giật mình tưởng có người lạ. Quản lý giáo xứ là một người giang hồ, không nhà cửa, cao to như một người khổng lồ, trung thành với Cha hơn tất cả những ai đã kính Chúa. Nhìn qua lỗ nhỏ trên tấm gỗ phía trước của toà giải tội, vị linh mục biết là viên quản lý giáo xứ, ông lấy lại được sự bình tâm, tiếp tục nói: - Nhưng Cha khuyên con đừng quá tin rằng chồng con còn sống. Linh mục Bường đã nghĩ quá kỹ về câu nói này. Ông nghĩ rằng, chỉ có câu nói kín kẽ đó mới có thể nói với mọi người ông là người Cha thuyết đạo chính cống. Chị Nhung bàng hoàng, tưởng như cả nhà thờ sụp xuống, cả vùng Kim Sơn như bị biển dâng tràn qua. Nước mắt chị chảy ròng ròng. - Nhưng đấng tối cao bao giờ cũng ở bên chồng con để che chở, nếu như có chết thì cũng cứu vớt linh hồn khỏi bể trầm luân. Con không thấy đó là điều tốt đẹp, hạnh phúc nhất hay sao? Vị linh mục biết lời nói của ông vừa rồi làm lung lay tư tưởng chị Nhung, nhưng lại che chở kín cạnh nhất cho việc ông chuẩn bị đón Tình theo lệnh của Cục tình báo trung ương Mỹ. Ông đưa tay lên làm dấu để nện một quả đấm vào tư tưởng hoài nghi của mọi người, lấy lại bình tâm cho một người giáo dân sùng đạo. Chị Nhung buồn rầu chào vị linh mục rồi bước về phía tiền sảnh đúng lúc ông già kéo chuông giật một tiếng đầu tiên. Vị linh mục vẫn đứng yên, nắm tay còn chưa bỏ xuống. 4 Ra khỏi nhà thờ, chị Nhung bước đi lật đật để sớm về nhà. Chị khổ đau vì cuộc đời vừa đem đến điều tốt lành lại qua đi ngay. Câu nói của linh mục Bường "con đừng quá tin rằng chồng con còn sống” như xô đẩy chị vào sự tuyệt vọng, dẫn chị vào con đường hoang vu, đưa xuống vực thẳm. Nhưng câu nói "Đấng tối cao bao giờ cũng ở bên chồng con" lại bớt đi gánh nặng của cuộc lữ hành trong đêm tối. Chị Nhung trở về nhà trong tâm trạng khổ đau cùng tận, những cơn ác mộng thường ám ảnh chị. Mỗi lần sóng biển nổi lên, chị lại tưởng tượng như tiếng chồng hú gọi. Chị nghĩ nhiều quá sinh bệnh, đi ra bãi tha ma có những cây thập ác như rừng cây trắng, ở đó, mưa như kỳ cọ cho những cây thập ác thêm bóng sạch; ở đó, chị Nhung muốn đi ngày này qua đêm khác rồi ngã xuống nằm nghỉ cùng người mẹ dưới nấm mồ để rửa đi nỗi khổ đau thương nhớ chồng con. Chị đi về phía nấm mồ trông ra biển khi trời đã tối, biển nổi sóng to. Ôi, đứng bên nắm mồ mẹ, chị thiết tha cầu xin đấng tối cao giải thoát cho linh hồn chồng chị khỏi bị địa ngục hành hạ. Vừa lúc ấy, có bóng đen từ phía trước tiến đến. Khi đến gần chị, bóng đen không hề cử động. Sự nín lặng và bất động của bóng đen làm chị sởn gai ốc. "Trời ơi! -Anh ấy hiện hồn về đây rồi" - Chị Nhung nghĩ như thế rồi lùi dần về phía sau. Chị định kêu lên nhưng lưỡi ríu lại. Bóng đen vẫn tiến đến làm chị càng sợ hơn. Chị định bỏ chạy thì có tiếng nói: - Anh đây! Tình đây! "Ôi, đúng là hồn anh ấy theo sóng biển lên bờ về với mình" - Chị Nhung nghĩ như thế và lấy lại được một chút bình tĩnh, nói: - Anh hãy phù hộ cho tôi sống qua cảnh nhọc nhằn. Tình bước tiếp, suýt bật cười nhưng trở thành mếu ngay. Chị Nhung không lùi nữa mà đứng như trời trồng, mồ hôi đầm đìa hòa với nước mưa như trút chảy xuống đất. Mặt chị xám ngắt, nói không ra tiếng: - Anh phù hộ cho tôi, đừng bắt tôi đi. Chị khóc to hơn. - Anh đây, Tình đây. Anh không chết đâu - Tình gào to để lấy lại bình tĩnh cho chị Nhung. Tiếng sóng biển vẫn lạnh lùng từng đợt vọng đến. - Thôi, đừng đùa giỡn nữa mà khổ tôi. Anh hãy tha cho tôi, xin anh tha cho tôi! Tình tiến đến sát chị Nhung hơn, giải thích: - Người sống có chân, còn ma đi lơ lửng. Để chứng minh lý lẽ của mình, Tình giơ chân lên cao: - Chân anh đây, anh đến với em bằng chân này. Chị Nhung không phân biệt được thực hư, hỏi: - Thế anh không chết thật à? - Anh có Chúa phù hộ, không chết được. Lúc này chị Nhung mới tin chồng mình còn sống. Chị vẫn đứng im không nói. Còn Tình, sau những phút giây thuyết phục vợ chiếm lòng tin, hắn lại nghĩ tới nhiệm vụ: "Khi ra Bắc, anh phải cảnh giác với tất cả mọi người, kể cả vợ anh". Đúng rồi, ở vùng này toàn là kẻ thù cả. Hắn vội vàng kiểm tra lại vợ xem có phải đã bị công an miền Bắc cử ra đón hắn không? Hắn rút súng, chĩa thẳng vào mặt chị Nhung: - Tại sao cô lại ra nghĩa địa giữa lúc trời mưa gió như thế này? Vừa nói, Tình vừa tiến về phía chị Nhung. Chị Nhung lùi dần về phía ngôi mộ mẹ. - Tôi làm theo lời Cha dặn. - Nói láo - Tình quát to hơn - Cô làm theo lời công an miền Bắc dặn. - Không, tôi không biết công an... Chị Nhung vấp phải ngôi mộ, ngồi bệt xuống, và bắt đầu khóc. - Tôi mong ngày đêm ông về để rồi ông giết tôi hay sao? Nòng súng vẫn hướng thẳng về phía chị Nhung nhưng khoảng cách gần hơn. - Cô phải thề trước đấng tối cao và linh hồn mẹ cô rằng cô không nói dối. Nếu sau này tôi biết cô làm việc cho công an, tôi sẽ cho cô đi theo mẹ về chầu Diêm vương. Cô thề đi! Chị Nhung đưa tay lên làm dấu và thề ràng chị ra nghĩa địa theo lời Cha dặn. Tình đổi giọng, hỏi: - Cha đến nhà ta hay em vào nhà thờ gặp Cha? - Cha không trực tiếp đến mà qua viên quản lý giáo xứ. Tình nghĩ, theo kế hoạch, viên quản lý giáo xứ sẽ ra bãi tha ma đón Tình về nhà thờ, nhưng tại sao lại đưa Nhung ra đón? - Cha còn dặn em điều gì nữa không? - Không dặn điều gì nữa. Thế là Tình đã hiểu, vị linh mục lẩn trốn cuộc đón tiếp Tình vì công an đang lùng sục khắp nơi. Có lẽ ông ta nghĩ rằng Tình đã bị lộ. Thà rằng đem mình làm con tốt thí quân hơn để Cha bị lộ. Ôi, nếu đúng thế thì thật đắng cay. Nhưng rồi Tình lại nghĩ, biết đâu đó lại chẳng là thủ đoạn kiểm tra của cấp trên. Hắn vững tâm hơn. Nhưng trong hoàn cảnh này nên theo vợ về nhà hay lại ra rừng sú vẹt nằm nghe tiếng sóng biển? Mưa bắt đầu tạnh, nhưng biển vẫn dồn sóng vào bờ. Mây đen chạy dần về phía Bắc. Ánh trăng xuyên qua các đám mây rọi xuống bãi tha ma mờ ảo. - Anh nên về nhà! Chị Nhung giục chồng. Tên Tình nhìn vợ một cách tuyệt vọng. - Không được đâu! - Vì sao? - Anh đã bỏ chạy theo Chúa vào Nam. Nếu anh về nhà ở, họ biết, họ sẽ bắt cả anh và em. - Nếu không về nhà, anh sẽ sống ở đâu? Câu hỏi của vợ buộc Tình nghĩ tới những ngày đã sống len lỏi giữa rừng sú vẹt nằm dài trên chiếc võng dù trong bóng tối cứng đờ. Sống mà coi như chết. Suốt ngày đêm lo âu sợ hãi, một con cá quẫy mạnh đuôi cũng giật mình. Phát hiện thấy khả năng có người lại vội vàng cuốn võng, khoác bộ đàm thu phát đi ngay, quần áo lúc nào cũng sũng nước, mồm ngậm đầy bùn cát. Tình thấy mình như đang mặc cả với cái chết. Hay nói một cách khác là một cái xác biết cử động. Chỉ có Chúa và trung tâm huấn luyện biệt kích Mỹ Khê - Đà Nẵng là biết được còn có gì sống ở Tình mà thôi. Lời cuối cùng của bài tụng ca tắt ngấm trên môi, chị Nhung mới chậm rãi bước đi. Chị bước đi trên con đường nhỏ giữa bãi tha ma của những con người xấu số và đau khổ. Ngoài khơi sóng vẫn vỗ. Thỉnh thoảng có chớp, tượng Chúa như hắt điện phóng ra những tia sáng lóa. Vì thương chồng nằm ở ngoài sóng nước, chị Nhung không làm theo lời chồng dặn mà đi ngay về phía nhà thờ. Chị bước đi được một quãng xa bỗng xuất hiện một bóng đen cao to ở phía sau. Chị đi nhanh, bóng đen cũng đi nhanh; chị đi chậm, bóng đen cũng bước từ từ. Chị chạy gần về đến nhà thờ. Cửa nhà thờ vẫn đóng. Một bóng sáng nhòe mờ, hư ảo. Chị đứng yên lặng nghe thấy tiếng vang vang ầm ì của tiếng chuông nhà thờ mỗi khi luồng gió mạnh thổi qua. Chị vừa dựa lưng vào tường nghỉ thì viên quản lý giáo xứ từ phía sau chị đi đến, làm ra vẻ như không thấy chị. Chị hỏi: - Tôi có việc muốn vào gặp Cha. Viên quản lý giáo xứ lạnh lùng: - Để sáng mai có được không? - Không được. Ngay bây giờ. Cánh cửa nhà thờ nặng nề từ từ mờ. Chị Nhung đi sau viên quản lý giáo xứ. Mấy giọt nước ở mái ngói nhà thờ nặng như chì rơi xuống đầu chị. Chị bước đến tòa giải tội đợi linh mục Bường. Chị kể cho linh mục nghe những gì đã xảy ra ở ngoài nghĩa địa, nói lại những lời Tình dặn. Nhưng linh mục đã biết rõ mọi sự việc, dứt khoát phản đối việc Tình về ở nhà thờ, mặc dù đối với Tình, ở nơi đó an toàn hơn những nơi khác. Ông giải thích: - Nhà thờ là nơi lúc nào cũng sạch sẽ. Đó là một nơi lành mạnh. Vì vậy, khi chồng con người còn dính đầy bùn cát thì chưa thể về nhà thờ được. Con hãy đưa chồng con về nhà nuôi. Giọng vị linh mục trở nên nghiêm nghị: - Nhưng phải giấu kín chồng con ở trong buồng và không được lộ chuyện với bất kỳ ai. Nếu con để lộ việc chồng con ở trong nhà, công an, dân quân sẽ đến bắt chồng con đem đi. Con phải chịu tội là kẻ tà giáo, là kẻ mắc tội. Chúa sẽ không bao giờ tha thứ... Vị linh mục vừa nói vừa nhìn chị Nhung đang ngồi im, mặt mũi nhem nhuốc cát bụi, mồ hôi và nước mưa, giục: - Con về chuẩn bị nơi cho chồng con nghỉ! Chị Nhung đứng lên, mặt đờ đẫn, đăm đăm nhìn vào tượng Chúa. Chị bước ra khu tiền sảnh để về nhà khi ông già kéo chuông bắt đầu kéo lên hồi chuông báo hiệu một ngày chúa nhật mới… 5 Theo lời dặn của vị linh mục, chị Nhung ra nghĩa địa đón chồng về nhà ở. Chị đi trong đêm tối mung lung cảm thấy cô đơn, quá cô đơn, có lúc chân nam đá chân chiêu. Vừa bước ra khỏi nhà, cơn dông bất ngờ ập đến. Những hạt mưa thưa thót bắt đầu rơi. Biển phía trước bỗng lóe lên tia chóp đủ soi trong chốc lát nghĩa địa với rừng cây thập ác để rồi sau đó lại tràn ngập trong bóng đêm. Chị có cảm giác cơn phẫn nộ của thiên nhiên đểu dồn vào mình. Lúc có ánh chớp lóe lên, chị bỗng nhìn thấy một bóng người trùm vải mưa đứng gần ngôi mộ mẹ rồi bóng người lại nhòe đi trong đêm dày đặc. Khi ánh chớp thứ hai soi rõ bóng người đã gần hơn, chị nhận ra Tình, chồng chị. - Ai? - Tôi. Chị Nhung nói trong hơi thở. Khẩu súng đang chĩa về phía chị từ từ hạ xuống. - Em đi đón anh phải không? Tình vừa nói vừa thở dài nhẹ nhõm, tay vuốt vuốt nước ở áo mưa rồi ngồi xuống bên nấm mộ. Chiếc đồng hồ dạ quang chỉ một giờ đêm. Thời gian có vẻ thờ ơ và hết sức chậm chạp trôi qua. Tình có cảm giác như đồng hồ đã ngừng chạy. Tiếng rít của gió qua những hàng cây thập ác như tiếng rên của những người hen đang lên cơn. cảnh lạnh lùng của bãi tha ma như trùm lên chị Nhung sự hãi hùng kinh khủng. Nhưng niềm hạnh phúc vợ chồng gặp nhau sau bảy năm cách biệt đã giúp chị đến được với chồng ở nơi mà người ta nói có hàng đàn ma trơi bay lơ lửng. Hai người đi theo con đường xi măng ở giữa nghĩa địa. Ánh chớp lóe lên, bỗng một con rắn trườn ngang trước mặt. Chị rú lên, hãi hùng: - Rắn! Con rắn dài ít nhất một mét lao như mũi tên. - Đừng sợ! Tình đuổi theo con rắn để tỏ cho chị Nhung biết mình là cái chắn che chở cho vợ, vì vững tin nếu có bị rắn cắn đã có thuốc chữa do Cục Tình báo Trung ương Mỹ sản xuất đang mang bên người. Hai người đi ra khỏi rừng thập ác. - Nếu như em không ra đón anh, anh có biết đường về nhà không? - Nghe nói các tổ đổi công, hợp tác xã đào nhiều kênh rạch, làm lại nhiều đường, sợ lạc mất. - Đúng đấy. Từ ngày anh vào Nam, xã mình có nhiều đổi thay lắm. Đi được một quãng xa, chị Nhung bảo chồng: - Nhà có ánh đèn cửa sổ là nhà mình đấy! Chị Nhung dẫn Tình vào con đường rẽ về nhà. Chị mở cửa. Tình bước theo và không quên nhìn lại phía sau một lượt rồi mới khép cửa. Sau khi ăn cơm xong, chị Nhung giục chồng đi ngủ. - Không được đâu em ạ! Em cứ để cho anh ngủ trên cót thóc trong buồng và đừng để ai biết. - Tại sao lại ngủ trong buồng, lại giấu việc anh đã về? - Nếu để lộ ra, công an sẽ bắt vì anh đã bỏ chạy vào Nam. Là người con kính Chúa, tin theo lời linh mục Bường một cách ngoan ngoãn, chị Nhung thu xếp cho Tình ngủ trên cót thóc, cửa buồng lúc nào cũng đóng. Nhưng rồi ngay đêm sau, vào khoảng một giờ, chị nghe thấy tiếng "tu tu" trong buồng. Chị rón rén bước đến bên cửa ra vào, liếc qua khe cửa. Bên ngọn đèn dầu le lói, Tình đang gõ tay liên hồi. Linh cảm chồng đang làm một việc không lành, chị đứng thẳng người im lặng nghe ngóng một lúc lâu rồi mở cửa bước vào. Tình bỏ máy, cầm súng quay lại: - Giơ tay lên! Chị Nhung nhìn thẳng vào mặt chồng đang biến dạng và như nghe thấy tiếng thở và thái độ van xin của Tình. - Anh đang làm gì thế? Khẩu súng từ từ hạ xuống. Tình bước ra khỏi cót thóc. Chị Nhung vẫn đứng im. Tên Tình thụp xuống lê về phía chị, ôm choàng ngang hông kể lại cái chết của bố để khơi dậy hận thù qua giọng trầm bi: - Em có biết không. Năm năm ba, bố anh bị Việt Minh xử tử. Ông đã chết mà không được làm nghi lễ của tôn giáo. Cha Bường không được ra nghĩa địa đọc kinh. Những người duy nhất đưa đám là mấy dân quân. Dưới nắng gay gắt, họ thay nhau khiêng chiếc áo quan đen xì, cả sáu tấm đều bị thủng phải trát đất sét. Họ dành cho bố anh cái xó hoang tàn nhất của nghĩa địa, gần cánh đồng. Đó là ngôi mộ duy nhất không có cây thập ác. Mới gần mười năm mà gió mưa đã xói mòn, anh không nhận ra. Vì muốn rửa thù cho bố, vì thương em sống cô đơn ở nơi gió bão, anh nghe theo Chúa về đây tìm diệt kẻ đã giết bố anh. Anh phải tìm và giết chúng. Nghe Tình kể, chị Nhung vẫn đứng trơ trơ. Rồi chị nói như hát kinh: - Ông đã làm khổ cuộc đời tôi rồi! Chị tựa lưng vào cót thóc. Nước mắt như những giọt nước mưa rơi xuống đầu Tình. Tên Tình ngước mắt lên, giơ tay làm dấu. - Thề có Chúa chứng giám, anh về đây là vì theo lời Chúa, vì em. Nếu không tin điều này, em hãy giết anh đi! Giết anh đi! Khi kêu than, Tình hiểu rằng không một người vợ nào trên thế gian này đang tâm hại chồng mình. Quả đúng như vậy. Nghe những lời thuyết than, chị Nhung đứng lặng, giơ tay lên cầu Chúa. Khi tay chị đặt xuống vai phải thì cũng vừa lúc lòng tin vào lời thuyết giáo của chồng một cách mù quáng cộng với sự kinh hãi đã đè nặng lên vai chị làm chị ngã khuỵu xuống. - Lạy Chúa! Chúa ban phước lành cho con! 6 Từ ngày đó trở đi, gian buồng nhà chị luôn luôn khép kín không cho ai vào. Khi ra khỏi nhà, mắt chị luôn nhìn trước nhìn sau, có vẻ lo âu, tựa như thiếu không khí thở. Ngay trong gian buồng, chị dùng tre ngăn làm hai, phần trong để cho Tình ở, đề phòng có ai vào buồng đột xuất cũng không thể nhìn thấy. Chị đưa cơm cho Tình qua bức vách mới dựng. Mỗi khi Tình có gì muốn nhắn tin cho linh mục Bường, chị đến bên tòa giải tội quỳ gối hàng giờ, áp miệng vào lỗ nhỏ để "xưng tội" với cha và nghe cha chỉ bảo. Tất cả những việc làm đó, chị Nhung đều cho rằng vì Chúa, vì không muốn là kẻ tà giáo, vì thương chồng. Có lẽ, đó là những căn do chính đã làm xói mòn đầu óc và trái tim chị. Nhiều đêm, chị Nhung nằm ở nhà ngoài, Tình nằm trong buồng đều nín lặng nhưng trong đầu như cùng lên cơn sốt. Một đêm cuối tháng, trăng lên muộn, mỏng như ngấn nước. Tình ngồi trên cót thóc nhìn ra cánh đồng trắng đục. Gió biển vẫn hững hờ thoảng qua. Mỗi khi gió qua đi, hắn lại nghe thấy tiếng chị Nhung thở đều, mơn man qua nhiều ý nghĩ. Qua liếp cửa buồng, Tình thấy chị Nhung đang ngủ, nhờ có ánh nến ở nơi thờ Chúa tỏa sáng, sắc mặt hình hài khá hấp dẫn. Cặp môi nhỏ xinh, lông mày cong; bộ ngực căng tròn sức sống. Đêm đầu hắn còn sợ, không dám bước ra nhà ngoài. Nhưng thân hình người phụ nữ đẹp đập vào mắt, hắn nhắm mắt lại tưởng tượng thấy giây phút đam mê. Hắn mải nghĩ đến nỗi con muỗi cắn no cũng không hay biết. Thê rồi hắn len lén chui ra khỏi cót thóc, đến bên chị Nhung. Hắn ngồi một lúc lâu rồi lấy tay nâng đầu xoay mặt chị về phía mình. Cái giây phút đam mê bò vào trí não Tình làm hắn chống hai tay như hai chân trước của con hổ đang ngồi bên con cừu non, mũi hít nhẹ. Hay là có hơi người lạ - hắn nghĩ. Rồi hắn tự reo lên - Đúng rồi, hơi muối mặn và mùi áo nâu sồng của Nhung. Mùi vị này khác xa với mùi son phấn của các cô gái nhảy ở Đà Nẵng mà đêm nào chẳng quàng lên vai hắn, áp cả bộ ngực vào mặt hắn. Chị Nhung thấy hơi nóng hừng hực ở bên sườn. Chị tỉnh dậy và nhận ra có người ngồi bên. Loáng một cái liếc mắt, chị bỗng run người. Tình đang muốn đè lên người chị. Chị nghĩ, không biết anh ấy ra đây từ lúc nào? Cả cơ thể Tình vẫn không hề động đậy. Rồi sức mạnh của một người đàn ông sau những tháng ngày xa đàn bà đã truyền lên tay. Hắn định cởi áo chị Nhung nhưng chị giữ lại. Trong giây phút hắn nghĩ đến những cô gái sống ở Tiên Sa. Nếu như được hắn liếc tình, các ả đã cởi phăng áo quần ra. Những quả đồi nho nhỏ choáng ngợp trước mặt hắn, tha hồ thưởng thức. Còn chị Nhung là vợ hắn mà sao vẫn e thẹn. Hắn nhắm mắt lại một lần nữa, nhưng lần này thời gian ngắn hơn. Hắn áp cả người vào ngực chị. Chị Nhung định phản ứng, muốn đẩy tay Tình ra nhưng chính chị cũng không thể tưởng tượng được giọng nói và hơi hướng của chồng - giọng nói và hơi hướng của một người đàn ông đem lại cái cảm giác gì, tác động vào nơi sâu thẳm của tâm hồn chị, một người sống đơn côi bao tháng ngày. Nếu như giây phút này không chiều theo ý anh ấy thì biết đâu chỉ một vài giờ sau, anh đi ra khỏi nhà này, chỉ còn là một cái xác. Rồi chị Nhung lại nghĩ "anh ấy là chồng mình" nên chị không ngần ngại cũng xiết chặt lấy cổ Tình. Và, hai cánh tay Tình cũng xiết chặt cổ chị một cách phũ phàng. Chị không hề chống cự động tác của Tình, mọi tiếng nói đều nghẹn trong cổ họng để mặc cho Tình với dục vọng cuồng loạn của hắn. Sau những phút giây đam mê chị nói với Tình: - Anh ở đây cho đến ngày rước Chúa về chứ? - Ừ. - Đến bao giờ thì rước Chúa về? - Khi nào chuẩn bị xong nơi ăn ở cho Chúa và đội quân đi bảo vệ Chúa. Chương ba 1 Ngồi trên chiếc xe bịt kín chạy về hướng thị trấn Phát Diệm, Tình cố tự lý giải tại sao bị bắt, tự lý giải về những điều mắt thấy tai nghe. Hắn vẫn không sao hiểu nổi sự thay đổi ở quê hương và gia đình. Con kênh như dải lụa vắt qua làng, xuyên qua cánh đồng bên nhà Tình được hình thành sau ngày Tình vào Nam. Nhờ chính quyền địa phương giúp đỡ, chị Nhung xây được gian nhà có tiện nghi cần thiết. Những ngày ở trại huấn luyện biệt kích Mỹ Khê, Tình nghe họ nói, vợ con những người có chồng theo Chúa vào Nam bị bạc đãi. Nhưng khi trở về nhà, chỉ nhìn ngôi nhà của vợ và sự sắp xếp lại đồng ruộng, Tình đã có sự hoài nghi. Chị Nhung không bị cộng sản oán thù, vẫn đi làm đồng và đến nhà thờ hát kinh. Tình không thể hình dung được cái thôn nhỏ bé như Lưu Hạ này lại có trường tiểu học. Những đêm mất ngủ trên cót thóc trong buồng, Tình thả mình trong suy nghĩ. Cái mát lạnh của đêm hè ở vùng kề biển, tiếng sóng biển như cánh chim đại bàng vỗ hòa với tiếng chuông nhà thờ êm ả, dịu dàng dội vào ngực Tình một sự sống. Rồi Tình lại ngỡ ngàng không thể tin được, mình là người đi theo giặc bị công an bắt mà không bị đánh đập, không bị dẫn đến buồng giam. Tình xuống xe, rùng mình bước tiếp theo sự chỉ dẫn của Thành đến gian nhà quét vôi trắng có kê chiếc ghế băng và chiếc bàn đã cũ. Chiếc xe commăngca bịt kín chở Tình về đến trụ sở công an huyện Kim Sơn quá nửa đêm, sương giăng càng dày. Cả thị trấn Phát Diệm tĩnh mịch, đây đó chỉ nghe thấy tiếng lá rụng và gió reo khi thổi qua những cây thập ác, rồi cả thị trấn lại chìm đắm trong đêm. Thời gian này mới cuối mùa hạ, song Kim Sơn kề biển, gió mang nhiều hơi nước nên người ta có cảm giác nó đã chuyển sang mùa thu. Ngay từ khi chuẩn bị kế hoạch bắt Tình, đội trưởng Lê Đình Hồng đã lập kế hoạch thẩm vấn hắn. Bộ phận kỹ thuật ghi âm của Cục kỹ thuật lắp đặt thiết bị ghi âm từ chiều để có bằng chứng đấu tranh sau này nếu hắn muốn lẩn tránh sự thật. Sở dĩ ông không thẩm vấn Tình ngay ở thôn Lưu Hạ, vì ông muốn thẩm vấn chị Nhung trước để có tài liệu đấu tranh với hắn. Khi tên Tình bị giải về tới huyện Kim Sơn, ông đã đọc xong điện của Trưởng ty Ninh Bình về cuộc thẩm vấn chị Nhung. Sau khi suy tính, thấy đã có tài liệu trong tay, ông quyết định nội dung và phương pháp hỏi cung thích hợp. Trước khi bước vào cuộc hỏi cung, đội trưởng Lê Đình Hồng dùng tất cả vốn hiểu biết sâu sắc của mình về âm mưu của Mỹ lợi dụng đồng bào theo đạo Thiên chúa chống phá cách mạng vạch trần âm mưu lập mật khu chống cộng sản từ trong lòng cộng sản đã đẩy Tình và những con chiên ngoan đạo theo Chúa vào Nam vào con đường tội lỗi chống lại nhân dân quê hương mình; ông còn phân tích cả đến sự hòa hợp giữa người không theo đạo và người theo đạo Thiên chúa, đến sự quan tâm của chính quyền đối với cuộc sống của người dân theo đạo, bảo đảm tín ngưỡng cho họ. Sau những lời giải thích trấn an tư tưởng cho Tình, ông quyết định chọn phương pháp hỏi thẳng: - Tên anh là Tình? - Dạ. - Anh trở về Kim Sơn đêm mười hai tháng sáu, có đúng không? Tình giật thót người và bắt đầu cảm thấy bối rối không hiểu tại sao người công an ngồi trước mặt mình lại biết chính xác ngày giờ đột nhập vào Kim Sơn như thế. - Thưa ngài sĩ quan thẩm vấn đúng là đêm mười hai tháng sáu. Ông Hồng cười giải thích: - Anh không nên gọi tôi là "ngài sĩ quan thẩm vấn", đó là từ của chế độ Mỹ - ngụy, anh nên gọi tôi là "ông công an". Tình cúi mặt, nói nhỏ: - Thưa ông công an, đúng là đêm mười hai tháng sáu. - Có phải anh đã treo ăng-ten trên cành sú vẹt đánh điện về Nam không? - Thưa ông, nếu ông đã biết rồi thì còn hỏi làm gì nữa. Nghe câu trả lời lập lờ của Tình, ông Hồng vẫn không thay đổi sắc mặt, bình tĩnh giơ mẩu thuốc lá lên cao: - Đây là mẩu đầu lọc thuốc ba số "555" có tẩm thuốc phiện mà anh đã hút và vứt lại ở ngoài bãi sú vẹt, có đúng không? Tên Tình hết sức bàng hoàng, cúi mặt nhưng mắt vẫn ngước nhìn về phía tay ông Hồng. Lúc bấy giờ hắn mới bắt đầu hối hận về việc thiếu thận trọng của mình. Còn ông Hồng cười thầm trong bụng vì có lúc ông đã ngớ ngẩn đến mức coi nó là mọt viên thuốc độc. - Đúng. - Có phải đêm mười sáu, chị Nhung ra nghĩa địa đón anh trở về nhà không? Trời ơi! Nếu như thế thì công an miền Bắc biết hết việc làm của mình rồi - Tên Tình nghĩ thầm trong óc - may mà từ câu hỏi đầu mình đã trả lời đúng sự thật. - Khi ở trại huấn luyện Mỹ Khê, anh có nhớ tới vợ ở ngoài Bắc không, hay chỉ khi ra Bắc anh mới tỏ ra âu yếm vợ như vậy? Câu hỏi của ông Hồng làm tên Tình mất dần sự cách biệt mình đang bị thẩm vấn. - Thưa ông! Thực tình khi ở Mỹ Khê, tôi có nhớ tới cô Nhung, nhưng chỉ thoáng qua thôi. Đến khi nằm ngoài bãi sú vẹt tôi mới nhớ tới cô ấy nhiều hơn. Khi không thấy linh mục Bường cho người ra đón, tôi giống như con thuyền không mái chèo giữa đại dương, sóng bão, thì vợ tôi đến. Thưa ông, lúc đầu tôi nghi ngờ cô ta, nhưng sau biết cô ấy đi ra đón theo kế hoạch của cha Bường nên tôi tỏ ra chiều chuộng hơn. Sự chiều chuộng của tôi do một phần cô ấy là vợ, một phần chính tôi phải dựa vào cô ấy để ẩn nấp. - Như vậy là anh sống với vợ bằng hai mặt sao? Tên Tình cúi mặt. - Dạ, thưa ông! Hoàn cảnh bắt buộc tôi như thế. Ông Hồng mừng nhất là trong khi hỏi về gia đình, hắn để lộ nguồn tin quan trọng: ra Bắc liên lạc với linh mục Bường. Đó là một trong những mắt xích quan trọng để phá vụ án này. - Chắc anh ra Bắc với nhiều hoài bão? - Gần mười năm trời ở trong Nam, lúc nào tôi cũng nghe đài báo hô hào Bắc tiến. Trước khi phái tôi ra miền Bắc, Matin, trung tá Cục tình báo trung ương Mỹ và đại tá Đặng Văn Sung Phủ đặc ủy trung ương tình báo ngụy bảo tôi vào đội quân bảo vệ Chúa, ra Bắc lập mật khu để chuẩn bị rước Chúa về. Đội trưởng Lê Đình Hồng lấy gói thuốc Tam Đảo đưa về phía Tình: - Anh hút thuốc đi! Hãy kể cho tôi nghe kế hoạch lập mật khu, tổ chức và người chỉ huy. - Tôi không biết gì hết - Tên Tình đáp cụt lủn, bắt đầu tỏ ý che giấu chứ không phải sợ hãi. - Anh biết rất rõ điều tôi vừa hỏi, che giấu sẽ chẳng có lợi gì cho anh. Địa điểm mật khu đặt ở đâu? - Tôi không biết! - Anh là người theo đạo, trước Chúa anh thề rằng phải trung thực, thế mà anh lại nói dối chúng tôi. Anh không nên nói dối, cần phải phục hồi danh dự trước Chúa. Làm con của Chúa thì không bao giờ được nói dối, có phải không? Một tiếng lẩm bẩm từ phía tên Tình nói ra: - Sao, anh nói gì? Tên Tình buông thõng tay xuống bên hông. - Tôi đã giải thích nếu anh khai thật, chúng tôi sẽ đảm bảo anh vẫn được đi lễ Chúa, vẫn được sống bên vợ con, anh không những không tin điều tôi nói mà lại còn dối Chúa nữa chứ. Nhiều người chết vì cả tin vào Mỹ Diệm và lừa dối Chúa đấy - Ông Hồng thấp giọng thuyết phục - Bọn Mỹ huấn luyện anh, giao nhiệm vụ cho anh thì anh phải biết nhiệm vụ chứ. Ít ra thì anh cũng phải biết mật khu ở đâu, có phải không? - Nhưng đó là mật khu của Chúa. - Nếu như đúng chỉ có một mục đích rước Chúa về thì chúng tôi sẽ tạo điều kiện cho bà con giáo dân làm việc đó. Chính quyền miền Bắc có cấm bà con đi lễ, thờ Chúa đâu. Còn nếu lập mật khu nhằm chống lại chính quyền cách mạng thì anh nên khai. Chắc chắn chúng tôi không để cho bất kỳ ai làm việc đó; và sẽ thưởng công cho những ai giúp chúng tôi phá vỡ kế hoạch của chúng. Tình hầu như mất hẳn ý chí và tính ngạo mạn. Hắn tự hỏi, liệu những điều người công an ngồi trước mặt mình vừa nói có bảo đảm không. Câu hỏi đó cứ chập chờn trong đầu. Hắn ngồi im lặng, ừ, mà mình cứ kể, mình vào Nam theo Chúa, trở về đây lập mật khu rước Chúa về thì đã sao? Mọi việc làm của mình đều vì Chúa chứ có phản lại nhân dân miền Bắc đâu. Tình thấy ngổn ngang bao ý nghĩ như lần đầu các cô gái Đà Nẵng phô bộ ngực trước mặt hắn. Nếu mình khai như thế, mình không thể là kẻ phản bội được... Mà mình cũng không lừa dối Chúa. Nghĩ như thế nhưng Tình vẫn sờ sợ. Còn các công việc tiếp theo? Mình cứ nói rằng họ mới giao cho như thế, còn sau này làm gì đã có chỉ thị qua điện đài. Phải rồi, mình khai như thế sẽ tránh được tội dối Chúa. Hắn cúi đầu như một kẻ sắp bị đưa đi hành hình. Với cách lý sự đó, tên Tình cất giọng có vẻ khản đặc: - Mật khu khoanh vùng từ Kim Sơn đến Yên Mô, lấy địa bàn rừng núi Tam Điệp làm trung tâm. Và họ nói, nếu chiếm được tỉnh Ninh Bình, họ sẽ giao cho tôi làm phó trưởng ty Chiêu hồi. Lúc ở Đà Nẵng , nhiều lúc tôi cứ mơ thấy làm phó trưởng ty ắt hắn sẽ có biệt thự ở thị xã Ninh Bình, bên trục quốc lộ số một, có lính hầu, có xe hơi chạy khắp đó đây... Vậy mà, tôi cứ phải chui lủi ngoài sình lầy để nghe tiếng sóng biển gầm thét, nghe tiếng hò reo trống mõ của mọi người đi lùng sục; rồi nằm thu lu trong cót thóc như con mèo, tâm trạng lúc nào cũng lo âu sợ hãi - Hắn thở dài - Và, cuối cùng bị bắt về đây, ngồi trước mặt ông nghe kể tội để rồi sau đó đưa ra pháp trường chịu chung số phận với bố tôi trước đây. - Anh hiểu về chính quyền miền Bắc sai lệch quá rồi đấy! Chính phủ miền Bắc sẽ không bao giờ xử bắn những ai lầm đường lạc lối đã ăn năn hối cải, lập công chuộc tội. Nếu anh thành thật khai báo, thực sự có đóng góp cho chính quyền, tôi bảo đảm anh sẽ không bị giết. Tình rít tiếp mẩu thuốc cuối cùng, trưởng ban chuyên án mới đưa sổ mật mã của Tình sử dụng đặt lên bàn. Trong mười hai bức điện các đài săn sóng của ta thu được đều có khoá mã khác nhau mà các chuyên viên phá mã vẫn chưa giải được. Mặc dù chưa biết cách giải mã, song Lê Đình Hồng vẫn hỏi Tình một cách trực diện: - Anh hãy lần lượt giải thích các khóa mã anh đã phát đi xem có đúng như các chuyên gia của chúng tôi giải mã không nào? - Thưa ông! Bức điện thứ nhất tôi dùng một khóa mã nhưng bằng tiếng lóng; bức điện thứ hai dùng hai khóa mã nhưng hoàn toàn bằng số; bức điện thứ ba... Tình nghĩ rằng người ngồi đối diện đã hiểu hết nội dung các bức điện nên giải thích một cách tường tận. - Đêm đầu tôi đặt chân lên đất liền không gặp người của linh mục Bường ra đón, họ nghi ngờ tôi nên bức điện thứ tư họ trả lời phải về nhà vợ. Sự nghi ngờ của Cục tình báo trung ương Mỹ có cơ sở. Bởi vì, thưa ông, chắc họ đã được linh mục Bường báo tôi đang bị dân quân, học sinh, công an vây bắt. Tôi nghĩ, mình bị nghi ngờ. Vì vậy, tôi phải dựa vào vợ, tự đặt cho mình nhiệm vụ làm một người chồng thực sự yêu vợ, trở về quê hương trả thù cho bố, vì vợ và con. Đó là những lý do chính đáng để tôi có thể thuyết phục vợ tin. - Anh có thể kể kỹ hơn sau khi vợ tin vào những lý lẽ vừa nêu ra, giấu anh ở trong buồng, anh làm gì? - Thưa ông! Tôi tìm cách liên lạc với em trai để tuyên truyền gia nhập mật khu rước Chúa về. Nếu em tôi chấp thuận, hai anh em vận động thanh niên, cán bộ trong và ngoài xã cùng tham gia. Mặt khác, em tôi phải là người ra biển đón đồng đội từ miền Nam dẫn họ lên rừng. - Bao giờ thì anh đi đón đồng đội? - Phụ thuộc vào khả năng bố trí ăn ở của tôi. - Anh có được lệnh vào gặp linh mục Bường không? - Thưa ông? Nếu có điều kiện tôi vào gặp ông ta, còn nếu không phải thuyết phục vợ tôi làm người liên lạc chuyển thư từ, tin tức qua lại. Tình cúi mặt xuống. - Anh đã nói điều này với vợ chưa? - Thưa ông, chưa! - Anh nghĩ rằng vợ anh sẽ không tố giác anh chứ? Bị hỏi bất ngờ, Tình ngồi im một lúc lâu. - Thưa ông, vợ tôi không được biết nội dung trao đổi giữa tôi và linh mục, hơn nữa kính Chúa và thương chồng con, cô ta sẽ không đi tố giác được. - Bây giờ tôi hỏi anh câu cuối cùng trước khi anh đi ăn sáng. Hôm nào sẽ đánh điện về trung tâm ở Đà Nẵng? - Hai đêm nữa, tức là đến thứ sáu tới, ngày lễ Trọng. - Thôi được, anh có thể nghỉ. Ông Hồng đứng lên đi ra. Hai chiến sĩ công an trẻ dẫn tên Tình sang phòng bên để hắn rửa mặt, chờ chiến sĩ nuôi quân bưng cơm lên. 2 Theo kế hoạch của ban chuyên án, cuộc hỏi cung chị Nhung và Tình tiến hành cùng một lúc, ở hai địa điểm khác nhau. Trưởng ban chuyên án và Trương ty Công an Ninh Bình trao đổi tin tức qua điện đài để có tài liệu, vạch kế hoạch đấu tranh kịp thời. Qua cuộc thẩm vấn đối tượng, cả ông Hồng và ông Trưởng ty đều nhận ra âm mưu chiến lược của Cục tình báo trung ương Mỹ phái Tình ra Kim Sơn lập "mật khu phá cộng sản từ trong lòng cộng sản". Chúng có chủ trương dùng em Tình làm kẻ tiếp tay cho tổ chức; dùng chị Nhung làm giao thông giữa "mật khu" và linh mục Bường. Tình và em trai đảm nhiệm việc tổ chức đón nhận người của Cục tình báo trung ương Mỹ phái về bằng đường biển để đưa lên mật khu. Chừng nào công việc chuẩn bị xong, hai anh em Tình sẽ ra biển theo quy định của Cục tình báo Trung ương Mỹ. Mật khu này do linh mục Bường hay do ai làm tư lệnh tối cao vẫn đang là câu hỏi. Do có điện liên lạc thông suốt nên ông Trưởng ty đã nhận được chỉ thị phải thuyết phục chị Nhung giữ kín chuyện và thuyết phục chị làm cơ sở cho ta. Nhưng yêu cầu đó phải quyết ngay trong cuộc hỏi cung lần đầu. Sau một đêm đấu tranh, thuyết phục, người phụ nữ kính Chúa ấy đã thức tỉnh tình yêu Tổ quốc. Là một con chiên ngoan đạo và lại là người vợ hết mực thương chồng, thương con, giờ đây ý thức và tình cảm là người dân gắn bó với mảnh đất Kim Sơn kề biển, yêu quý nó như máu thịt đã trở thành những cội nguồn giúp chị hiểu được những điều ông Trưởng ty Công an vừa nói, hứa giữ kín và làm theo lời ông dặn. 3 Sáng hôm sau ông Hồng và trưởng ty Công an Ninh Bình gặp nhau tại trụ sở Công an huyện Kim Sơn bàn kế hoạch câu nhử mà các ông thường gọi là "trò chơi nghiệp vụ"... Trong khi hình thành kế hoạch, cả hai ông đều thống nhất: Tình là một tên gián điệp tay sai cho Mỹ, phải sử dụng cả phương pháp thuyết phục và khống chế bắt nó đánh điện vào Nam theo yêu cầu của Ban chuyên án. Vấn đề đặt ra là làm sao bắt hắn truyền đi đúng những mã số quy định. Điều đó cũng dễ thôi vì nội dung bức điện truyền đi các chuyên gia phá mã của ta đã dịch sẵn. Điều đáng lo ngại nhất, trong khi đánh điện, tay hắn nặng nhẹ, thêm một bớt một tiếng "tạch tè" đệm ở giữa bức điện hoặc cuối bức điện theo một quy ước nào đó có thể báo động cho chỉ huy của chúng: "tôi đã bị lộ", Cục tình báo trung ương không tung người ra nữa, chiến dịch câu nhử của Ban chuyên án coi như thất bại. Ông Hồng hỏi ông Trưởng ty: - Đồng chí có cho rằng tên Tình sẽ truyền đi đúng những bức điện mà chúng ta soạn thảo không? - Theo tôi, hắn là một kẻ phản bội, theo giặc nhưng vẫn còn chút tình thương quý vợ con, chứng tỏ nó cũng nghĩ đến cuộc sống bẩm sinh của con người: muốn sống. Đó là cội rễ để cho cái gốc còn lại của con người thực sự này trong hắn được nhân lên. Mặc dù đó chỉ là mầm non mới nhú nhưng chúng ta có thể tin tưởng được. Muốn thế, đến mai chúng ta cho hắn về ở với vợ, đồng thời thuyết phục chị Nhung cư xử tốt, động viên hắn thực hiện theo những yêu cầu của Ban chuyên án. Chỉ làm như thế hắn mới có thể lập công chuộc tội, mới có tổ ấm của một gia đình. Như thế, hắn không thể phản bội chúng ta một cách tùy tiện, không suy nghĩ. Vấn đề là ở chỗ chúng ta biết cách khai thác, cảm hóa, giáo dục chị Nhung. Chỉ khi nào hắn và chị Nhung tự nguyện tham gia vào kế hoạch này thì chúng ta mới thành công được. - Như thế là đồng chí áp dụng phương pháp tư tưởng mà bỏ phương pháp khống chế. - Không phải. Chính làm như thế lại là sử dụng phương pháp khống chế. Khi hắn hiểu hắn cần sống và ta bảo đảm tạo điều kiện cho hắn sống thì đó chính là biện pháp khống chế mạnh nhất, có hiệu quả nhất. - Thật là tuyệt. Ngày hôm nay và ngày mai chúng ta sẽ nghiên cứu soạn thảo bức điện tiếp theo cho phù hợp. Mặt khác, chúng ta tích cực áp dụng biện pháp khống chế mà đồng chí vừa đưa ra. Về nội dung bức điện lần này, theo tôi, Tình sẽ báo cáo ổn định xong ăn ở và đã bí mật gặp cậu em trai tại nhà. Cậu ta đồng ý gia nhập mật khu. Ý đồng chí thế nào? - Xét về mặt tình cảm là hợp logich, và có lợi cho ta sau này. Ông Trưởng ty và trưởng ban chuyên án thống nhất nhận định về kế hoạch tác chiến bằng những động tác gật đầu và cùng gõ tay xuống mặt bàn. - Chúng ta cứ thảo nội dung bức điện thứ nhất như thế rồi chờ Cục tình báo trung ương Mỹ trả lời, từ đó sẽ vạch tiếp kế hoạch - ông Hồng dang rộng hai tay nói to - Đúng là trò chơi nghiệp vụ mà chúng ta là người điều khiển. Chương bốn 1 Theo kế hoạch, khoảng mười giờ đêm, Thành đưa Tình về đến nhà. Gian nhà ở vùng quê kề biển chìm sâu trong bóng đen, chỉ có cây nến nhỏ bên tượng Chúa tỏa ánh sáng vàng nhạt. Chị Nhung ngước mắt nhìn tượng Chúa, im lặng. Chị im lặng trước một điều vô cùng khó khăn: thuyết phục chồng chấp thuận đề nghị của công an. Thành không dám hỏi sợ làm tan vỡ sự im lặng ghê gớm của một người giáo dân kính Chúa, một người vợ hết mực thương chồng, im lặng trước cơn dông bão giằng xé trong một con người. Thành hiểu tất cả những việc làm đó đôi với chị Nhung hết sức khó khăn. Thấy tiếng chân người, chị Nhung ra mở cửa. Sự im lặng đã bị phá vỡ nhưng không phá vỡ được sự nặng nề căng thẳng trong đầu chị. - Theo yêu cầu của cả hai anh chị, chúng tôi để anh chị hoàn toàn tự do trong đêm nay cùng nhau bàn về những điều chúng tôi đã nêu ra. Cả anh và chị hãy suy nghĩ cho kỹ. Sau khi nói xong Thành đi ra cửa. Trong giây phút yên ắng, căng thẳng, tiếng chân Thành và tiếng sóng biển đan chéo vào nhau như tiếng bão đập vào kèo nhà đã xiêu vẹo. Chị Nhung và chồng vẫn đứng im, hết nhìn nhau lại nhìn tượng Chúa. Mắt Tình trắng dã, dữ tợn, phũ phàng nhìn vợ. Chị Nhung đứng nhìn chồng và ngạc nhiên đến phát sợ khi thấy mắt Tình chuyển từ màu trắng sang màu đỏ, có vẻ căm ghét chị một cách ghê gớm. Chị biết ngay Tình đang nghi ngờ chị là người tố cáo với công an nên mình bị bắt. Chị cúi nhìn xuống đất. Tình trừng mắt, bước về phía chị. Chị Nhung lùi dần về góc nhà, đập lưng vào bức vách. Tên Tình chụp hai vai chị ấn sát vào bức vách: - Có phải cô đã báo cho công an không? Chị Nhung tưởng như bị sét đánh, kiệt sức khuỵu xuống. Tên Tình ấn mạnh cả hai tay: - Nói đi! Hắn buông tay, thở hổn hển. Chị Nhung ngước nhìn tượng Chúa, tay đưa lên trước ngực: - Có Chúa chứng giám. Tôi không đi báo họ. - Nếu cô không báo, làm sao họ có thể biết tôi về ở gian nhà này? - Điều đó tôi không biết được. Tên Tình quay lại, quát nhỏ nhưng đanh: - Cô nói dối. Tôi và cô chỉ còn nhìn thấy nhau đêm nay, mai là hết. Nếu cô nói dối thì chính tay tôi sẽ giết cô. - Anh hãy nghe tôi nói - Chị Nhung năn nỉ - Anh là chồng tôi, theo Chúa trở về, tôi đi báo công an thì tôi có mắc tội không? Nếu mắc tội thì tôi đi báo công an làm gì? - Chị Nhung thấp giọng hơn - Tôi báo công an anh đang sống trong nhà này chẳng đem đến cho tôi lợi lộc gì - Giọng chị âm ấm, gợi lại cảm giác sâu thẳm trong tâm hồn khi hai người ngồi bên nhau trên bờ kênh xã Lưu Phương của những ngày đầu yêu nhau - Bây giờ anh hãy vào buồng để chúng ta nói chuyện với nhau cho kỹ hơn. Tôi tin rằng mọi việc anh nghĩ về tôi sẽ không giống như ban đầu. Nếu sau khi nói chuyện, anh thấy tôi không đáng sống trên đời này thì anh hãy xử tôi như anh nghĩ. Còn đối với anh, vì thương anh, tôi mong ngày mong đêm để anh trở về. Vì vậy, tôi sẽ không để anh bị chết. Tôi sẽ làm mọi cách để anh không bao giờ bị chết. - Cô đề cập tới vấn đề hơi kỳ cục đấy. Tôi sống hay chết mệnh trời đã định, cô không hiểu nổi - Tình nói giọng bi quan - Ngày mai trở đi tôi sẽ không nhìn thấy cô, sẽ chết vì công an Bắc Việt. Điều này làm sao cô có thể biết được. - Thì anh cứ vào trong buồng chúng ta nói chuyện, đừng làm ầm lên nữa hàng xóm người ta nghe thấy. Tình vẫn đứng im giữa nhà. Chị Nhung giục: - Vào trong buồng đi anh! Tên Tình nghĩ mung lung, tin thì ít, hoài nghi thì nhiều. Chị Nhung muốn giục Tình nhưng tiếng nói bị nghẹn trong cổ họng. Tình bước vào buồng trong tâm trạng không biết mình bước đi đâu. 2 Chị Nhung theo chồng vào buồng, cùng ngồi xuống chiếc chõng tre bên cót thóc mà chị kê lúc chiều. Hai người đều vừa qua cơn xúc động nên cứ ngồi lặng thinh. Chị Nhung đứng lên giơ tay làm dấu. - Trước mặt Chúa, tôi thề một lần nữa với anh, tôi không báo công an. Từ trước tới giờ và từ nay về sau, tôi chỉ mong anh được sống mãi mãi. Anh có nhớ không, cái lần mưa bão tôi bế con Hương chạy theo anh ra biển để vào Nam nhưng con nó bị cảm lạnh và đã chết trên tay nên đành phải ở lại. Tôi không bao giờ quên và sẽ không bao giờ quên một giây phút nào của cái đêm đó. Bởi vì cái đêm đó và những đêm sau, tôi chỉ nghĩ về anh, mong sao anh còn sống để trở về. Đến bây giờ anh đã trở về, anh lại chỉ nói sẽ chết, sẽ bị công an giết chết thì tôi không buồn và oán trách anh sao được. Nhưng tôi cũng không tin anh sẽ bị giết. Công an miền Bắc có ác như anh nghĩ đâu. Họ nói rằng, ai lầm đường lạc lối mà hối cải, lập công chuộc tội, họ sẵn sàng tha tội chết. Những cử chỉ, lời nói của chị Nhung đã được Ban chuyên án sắp đặt khá công phu. Những câu nói vừa rồi của chị là những sợi dây quăng ra để Tình bám lấy với tất cả sự bình sinh của một kẻ sắp chết đuối, tính mạng đang bị đe dọa. Đó là tình cảm, là suy nghĩ của bất kỳ ai còn chút suy nghĩ làm người. Những lời nói đó là sức mạnh lôi kéo phần thiện còn lại ở con người ác, đem đến hơi nóng khi băng giá, mang lại sự sống cho con người lúc nghĩ rằng mình sắp chết. Tên Tình vẫn ngồi im không nói, như vừa qua một giấc ngủ nặng nề. Lúc sau Tình mới mở mắt rồi tự hỏi: Liệu họ có tha tội chết cho mình thực không? Tình nhìn chị Nhung như thể để kiểm tra xem những câu nói của chị giả hay thật. Hắn ngồi im, băng giá. - Nhưng liệu rằng họ có tin anh nữa không? Sau câu hỏi đó, nỗi lo sợ lại xâm chiếm Tình. Hắn hoảng hốt đến hoảng loạn, hỏi vợ: - Hay là đêm nay chạy trốn? Chị Nhung vẫn ngồi im nhìn Tình. Sự hoảng hốt căng thẳng, lo sợ, dao động... đã làm khuôn mặt Tình hốc hác. Trước tình cảnh này, chị Nhung đành nói thẳng: - Anh về đây thì cứ ở với tôi. Ngày anh vào Nam, tôi như con thuyền gãy một mái chèo. Bây giờ anh trở về rồi lại bỏ trốn, có phải bẻ gãy nốt mái chèo còn lại để cho tôi như con thuyền giữa biển hay sao? Thế mà anh bảo thương tôi, vì tôi mà trở về đây ư? Chị Nhung nhìn Tình thực sự âu yếm. Tình bối rối, dao động nhìn xung quanh với những ý nghĩ hỗn độn. - Tại sao anh nghĩ quẩn thế? Nếu bây giờ anh ra khỏi nhà này liệu công an, dân quân họ có để cho anh yên không? Theo tôi, đằng nào anh cũng bị bắt rồi, cứ ở với tôi và làm theo những điều công an họ yêu cầu, rồi sau chúng ta bàn tiếp, được không anh? Sự căng thẳng, hoảng loạn trong Tình giảm dần. Lần đầu tiên từ khi bị bắt, Tình nghĩ rằng mình được sống cùng vợ tại gia đình. "Nếu đúng như vợ nói, mình có được sống tại gia đình không?" - Tình tự hỏi như thế. Câu hỏi như tiếng chuông nhà thờ vang lên trong đầu Tình. Ý muốn được sống cùng vợ trở lại với Tình và bắt đầu bám rễ sâu. - Chiều nay các anh công an có bảo tôi khuyên anh nhận lời làm việc cho các anh ấy. Các anh ấy hứa sẽ để anh sống cùng tôi tại gia đình, nhưng phải giữ bí mật. Lúc đầu tôi không đồng ý, nhưng sau đó nghĩ lại không ảnh hưởng gì đến Chúa, tôi hứa sẽ bàn với anh. Anh thấy thế nào? Tình ngồi im suy nghĩ lời vợ nói. Lúc mới trò chuyện với chị Nhung, Tình cho rằng hai người đi hai phía khác nhau một cách điên rồ còn bây giờ lại cảm thấy bắt đầu sáp lại nhau. Tình hỏi: - Các anh ấy bảo làm gì? - Tôi cũng không biết. Các anh ấy nói, chỉ cần anh đồng ý, ngày mai các anh ấy sẽ nói tiếp. Cả hai người lại nín lặng nhưng trong đầu như cùng lên cơn sốt. Tình bắt đầu nhìn chị Nhung với ý nghĩ lên men trong đầu: Nếu như chạy trốn sẽ chết. Nếu làm việc cho công an thì có thể sống có thể chết. Con đường sống chết, sau mấy giờ vợ chồng nói chuyện đã hiện ra rõ nét hơn. Thực ra chị Nhung cũng không hiểu việc chồng làm, công an cũng không nói cho chị biết vì lý do gì bắt Tình. Họ tại sao lại có điện đài? Chị lý sự với mình rồi đâm ra hoài nghi Tình hoạt động gián điệp. Chị cho rằng điện đài là cái không bình thường và vì thế chị cảm thấy Tình có gì bí ẩn. Hình như lúc nào ở trong Tình cũng tồn tại hai con người. Một con người hết lòng vì Chúa, muốn bảo vệ cho Chúa trở về Kim Sơn. Một con người bí ẩn hoạt động gián điệp. Những câu hỏi đó xuất hiện trong suy nghĩ của chị Nhung, nhưng chị lại bác bỏ ngay. Đã có lần anh ấy chẳng nói, thời đại khoa học nên nhà thờ trong Nam ngoài Bắc cũng dùng điện đài liên lạc là gì. Nếu như anh ấy dùng điện đài liên lạc với đội quân bảo vệ Chúa trong Nam thì sao? Nhưng tại sao công an lại bắt anh ấy? Cả hai giả thiết đó, chị Nhung đều không hiểu. Cuối cùng chị đành thay vào những câu hỏi đó những lời khuyên chồng nhận làm theo ý kiến các anh công an. Chỉ có làm như thế mới bảo vệ được Chúa, bảo đảm tính mạng cho cả hai vợ chồng. Chị quay lại phía Tình: - Anh hứa nhận làm việc cho các anh ấy đi! Câu hỏi như một quả tạ giáng xuống đầu Tình. Hắn chết lặng người. Nỗi hãi hùng cùng với sự tuyệt vọng giây lát đông cứng trong trí não. Hắn cứng đờ cả tay chân ngồi câm lặng nghe tiếng nói mỗi lúc một nhỏ dần của vợ, cả cơ thể và trí não rệu rã, hoang mang. Hắn cứ ngồi im, mặt gục xuống. Chị Nhung giục: - Anh hứa đi. - Ừ, thì hứa! - Thế thì anh phải thề trước Chúa để Chúa cứu rỗi cho tâm hồn vợ chồng mình. Chị Nhung kéo Tình đứng dậy: - Ra ngoài đi anh! Chị Nhung dắt tay Tình, bước qua cửa buồng đến bên bàn thờ Chúa. Đó là một giáo đường thu nhỏ. Tượng Chúa dang rộng tay trên cây thập ác được đặt trong một cái hốc sâu ở bàn thờ chính diện. Hai ngọn nến nhỏ ở hai bên như hai con đom đóm đủ soi tỏ mặt Chúa. Sự tôn kính nơi thờ phụng ấy làm cả Tình và chị Nhung đều xúc động. - Lại đây, anh lại đây! Tới trước Chúa thiêng liêng này, anh hãy thề trước Chúa, thề những lời mà tôi sẽ đọc cho anh nói. Tình nhìn chị Nhung, hiểu rằng chị quá thương chồng, tin Chúa mà bắt chồng làm như thế. Tình vẫn đứng im đến nỗi nghe thấy tiếng sóng biển rì rào vọng tới. Mặt Tình tái nhợt như đã kiệt sức. Hắn ngoan ngoãn quỳ gối. - Tôi xin thề, vì Chúa mà trở về đây! Âm thanh run run nhưng rành mạch từ cổ họng hắn vang lên trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối này. Chị Nhung nói với chồng: - Anh hãy thể không bỏ chạy vào Nam, mãi mãi ở bên tôi. Tên Tình đưa tay làm dấu: - Tôi xin thề. Sau cùng cả chị Nhung và tên Tình đứng dậy, đầu gối đều run lên, mặt tái nhợt. Cả hai đưa tay làm dấu lần cuối cùng trước khi bước vào trong buồng: - Chúng con vừa tạ ơn Chúa. Thề rằng mọi việc làm đều vì Chúa. 3 Trước khi phía đông rực lên màu đỏ, trải rộng trên biển hình rẻ quạt, Tình lại bị đưa đi. Đêm hôm sau, Thành dẫn Tình về nhà lúc nửa đêm. Chị Nhung nhìn Thành có vẻ sợ sệt. Thành dành cho chị cái nhìn thông cảm. Anh đoán, chị cảm nhận được điều đó ở anh. Chị mở cửa buồng cho hai người bước vào rồi ra cửa đứng chờ Thành làm việc với chồng. - Thưa ông, bây giờ tôi làm gì ạ? - Tình nhìn Thành rồi lại nhìn chị Nhung đang đứng ngoài. - Anh sợ lắm phải không? Hãy mở máy và đánh điện theo đúng bản mật mã này - Thành rút khẩu súng ra khỏi bao, nói tiếp - Nếu khi đánh điện, anh phát thêm tín hiệu không an toàn báo cho Mỹ biết, chúng không thực hiện kế hoạch tung người ra tiếp thì anh phải chịu hình phạt từ khẩu súng này. Chúng tôi sẽ giữ lời hứa bảo đảm tính mạng cho anh nếu anh làm theo đúng lời chúng tôi. Sau khi gọi điện đi anh sẽ để máy nhận tiếp chỉ thị. Trong quá trình gọi điện, từ lúc phát tín hiệu cho đến khi kết thúc phiên liên lạc này, tôi để cho anh thao tác toàn bộ. Cuối buổi liên lạc, tôi căn cứ vào nội dung trả lời của Cục tình báo trung ương để kết luận về anh. Nếu làm sai, anh đừng trách tôi là người không nói trước. Thành quay về phía chị Nhung: - Chị hãy nói đi để anh ấy tin những điều tôi vừa nói. - Ôi lạy Chúa! Những điều công an vừa nói đã thấu lòng Chúa. Nếu anh thực sự thương tôi, muốn sống ở thôn Lưu Hạ này thì anh hãy nghe và làm theo những điều công an vừa nói. - Anh có nghe thấy chị ấy nói gì không? Anh nên hiểu rằng công an chúng tôi sống với dân như cá với nước. Cá phải dựa vào nước mà sống. Những điều hứa với anh chính là hứa với giáo dân của huyện Kim Sơn này. Đôi mắt trắng của Tình nhìn Thành không chớp. - Thưa ông, tôi là người có tội chạy theo giặc, giờ đây là một tù binh, không hơn không kém. Một là, tôi làm theo ông thì có thể sống, có thể chết. Hai là, không làm theo ông chắc chắn sẽ chết. Tôi lại còn vợ và mồ mả cha mẹ ở đây. Vợ tôi là người hết mực thương tôi. Tôi biết. Cô ấy lo cho tôi thực lòng chứ không phải lừa dối. Bởi vậy, tôi sẽ chọn con đường thứ nhất. Tên Tình mở máy thu phát. - Như vậy anh vẫn chưa tin chúng tôi. Thôi được, anh cứ làm đi, thòi gian sẽ cho anh hiểu. Tình đặt máy giữa gian buồng bắt đầu thao tác. - Alô, Cá sấu đây! Hải cẩu trả lời! Những sĩ quan truyền tin của trung tâm huấn luyện biệt kích Mỹ Khê nhận được tín hiệu. - Hải cẩu nghe rõ, tiếp nhận. - Rõ. Chiếc đèn đỏ bật sáng. Máy bắt đầu truyền đi toàn bộ nội dung bức điện: "Gửi trung tâm Mỹ Khê. Em trai tôi đã nhận gia nhập mật khu. Đề nghị cho tôi liên lạc trực tiếp với tư lệnh mật khu" Thành dựa lưng vào cót thóc quan sát thái độ, cử chỉ của Tình. Anh nói nhỏ nhưng rõ ràng: - Để máy, chờ trả lời. Tình lấy khăn lau mồ hôi trán. Bỗng đèn tín hiệu bật sáng. - Chuẩn bị nhận chỉ thị! Tình đặt ống nghe bên tai, tay cầm bút. - Hải cẩu gọi. Cá sấu trả lời. - Cá sấu sẵn sàng. Tiếp nhận. """