"Trúc Mã Thanh Mai - Ngải Mễ full mobi pdf epub azw3 audio [Hiện Đại] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trúc Mã Thanh Mai - Ngải Mễ full mobi pdf epub azw3 audio [Hiện Đại] Ebooks Nhóm Zalo Trúc mã thanh mai Trúc mã thanh mai Tác giả: Ngải Mễ Dịch giả: Lê Thanh Hương Kích thước: 15.5 x 23.2 cm Số trang: 656 Ngày xuất bản: 22 - 7 – 2013 Giá bìa: 165.000 ₫ Công ty phát hành: Phụ Nữ Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ Nguồn sách: Chào Buổi Sáng Chụp pic: kararoxbee Type keepsmiling414: 1-10 Thùy Nga: 11-20 thuy210788: 21-30 silverysnow: 31-40 nhoxhauan: 41-50 khoaichien13: 51-hết Beta: Tiểu Phương Phương Làm ebook: Dâu Lê Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com Giới thiệu Trúc Mã Thanh Mai là câu chuyện viết về những yêu hận tình thù đầy kịch tính của hai gia đình, ba thế hệ kéo dài hơn nửa thế kỷ ở Trung Quốc đại lục và Mỹ. Những kỉ niệm trong sáng đầy cảm động của cô bé Kim Kim và cậu bé Vệ Quốc thuở thanh mai trúc mã đã khiến độc giả kỳ vọng họ có mối nhân duyên đẹp. Nhưng cuộc đời với biết bao nhân tố ngẫu nhiên và những thăng trầm của lịch sử đã khiến họ phải xa nhau, và khi trùng phùng, Vệ Quốc đã có vợ và con trai. Kim Kim mang theo những tiếc nuối về mối tình đầu và bước vào cuộc hôn nhân bất đắc dĩ của mình. Bao tình tiết bất ngờ đan xen nhau trong câu chuyện đã đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Với ngòi bút sắc sảo, Ngải Mễ đã xây dựng hình ảnh nhân vật rất cá tính, mạnh mẽ, biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Tình yêu của Vệ Quốc và Kim Kim được ví như một nhành cây non, trong lúc rất cần sự vun tưới thì nó lại phải sống trong sa mạc khô cằn. Dù phải trải qua rất nhiều sóng gió, bôn ba, nhưng sự dũng cảm, tự tin, mạnh mẽ, không chịu đầu hàng trước những khó khăn của nhân vật nữ Kim Kim đã khiến nhành cây non tình yêu của họ ngày càng xanh tươi và cuối cùng đã đơm hoa, kết trái. Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong Trúc Mã Thanh Mai: Khi hôn nhân bị sa vào đầm lầy, người ta sẽ làm gì để có thể thoát ra: Dũng cảm đối mặt với những định kiến của xã hội để giành lấy tình yêu đích thực hay cam tâm làm “kẻ ngoan đạo” không bị người đời cười chê? Một người có thể yêu hai người hay không? Nếu tình yêu bị “chia đôi xẻ nửa” thì có đáng bị lên án hay không?... Mỗi độc giả sẽ có câu trả lời riêng của mình và chắc chắn rằng ai cũng sẽ cảm thấy trân trọng tình yêu, hôn nhân của mình hơn. Và dĩ nhiên, kết cục của câu chuyện cũng đã chứng minh một chân lý vĩnh hằng: tình yêu đẹp cần sự chung tay vun đắp của cả hai người. Bao cung bậc tình cảm đã đồng hành với độc giả khi đọc Trúc Mã Thanh Mai: thích thú như được trở về với dòng sông tuổi thơ khi đọc đến những trò đùa dại của Kim Kim và Vệ Quốc khi còn nhỏ; day dứt, xót xa cho mối tình khắc cốt ghi tâm nhưng muộn mằn của họ, khâm phục trước sự lý trí, mạnh mẽ, quyết đoán của nhân vật nữ Kim Kim… tất cả đã đọng lại và gửi tới người đọc thông điệp: tình yêu chân thành sẽ giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trắc trở để đến được với nhau, cho dù khi ấy tuổi hoa niên của họ đã một đi không trở lại, giây phút thực sự thuộc về nhau của họ chỉ có được khi cả hai đã ở tuổi xế chiều. Ngải Mễ là tác giả của rất nhiều tiểu thuyết bán chạy ở Trung Quốc. Hiện cô đang sống ở Mỹ. Cùng anh ngắm hoa sơn tra và Dịu dàng đến vô cùng đã được NXB Phụ nữ xuất bản ở Việt Nam. Cùng anh ngắm hoa sơn tra đã được đạo diễn nổi tiếng Trung Quốc Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim. Các tác phẩm tiêu biểu của Ngải Mễ: Cùng anh ngắm hoa sơn tra Dịu dàng đến vô cùng Mười năm biến động Không biết nói tương lai Ba người đồng hành Chim cùng rừng Đến chết không hối tiếc Những kỷ niệm thuở ấu thơ ai cũng có một thời để nhớ đã được khắc hoạ rất chân thực và sâu sắc trong Trúc mã thanh mai. Trúc mã thanh mai với nhiều tình tiết hồi hộp, đan xen trong nửa thế kỷ của hai gia đình, ba thế hệ đang trong quá trình chuyển thể thành phim. Trúc mã thanh mai được hứa hẹn sẽ tiếp nối Cùng anh ngắm hoa sơn trà của đạo diễn Trương Nghệ Mưu và trở thành một “hiện tượng” của điện ảnh Trung Quốc. - “Đây là câu chuyện mà qua trình có nụ cười và nước mắt, kết cục có hoa thơm và trái ngọt. Dĩ nhiên, đây cũng là câu chuyện mà độc giả nào để lỡ sẽ hối hận suốt đời” – Trang mạng hàng đầu sina.com của Trung Quốc. - Trúc mã thanh mai với lượng thông tin phong phú, ngoài tình yêu của hai nhân vật chính, còn có những ký ức về tuổi thơ, tuổi trẻ của mỗi người. Câu chuyện đã thể hiện mối quan hệ giữa mẹ và con gái, thể hiện những xung đột trong quan niệm giá trị giữa phương Đông cà phương Tây… Tất cả đều rất thú vị và đáng đọc” – Website siêu thị sách online lớn nhất Trung Quốc dangdang.com. “Đọc tiểu thuyết của Ngải Mễ, dù là Cùng anh ngắm hoa sơn trà hay Trúc mã thanh mai, mỗi chi tiết đều khiến độc giả tưởng tượng ra một bức tranh đậm chất kích. Trong tâm trí người đọc đều sẽ dàn dựng cho mình một bộ phim thuộc về mình. Và tất nhiên ai cũng sẽ có hình ảnh “Kim Kim” và “anh Vệ Quốc” của riêng mình.” – Lời bình trên website siêu thị sách online amazone.cn của Trung Quốc. TÁC PHẦM TRÚC MÃ THANH MAI ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN NHƯỢNG BẢN QUYỀN ĐIỆN ẢNH VỚI MỨC GIÁ KỶ LỤC. Mục lục Mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Hồi kết Tái bút (Viết bởi Hoàng Nhan) Mở đầu Đã từng có người hỏi tôi: - Tác phẩm nào trong sự nghiệp văn chương của chị làm chị hài lòng nhất? Tôi trả lời: - Sự nghiệp văn chương của tôi còn chưa bắt đầu. Cho đến nay, tôi vẫn chỉ là kể chuyện. Mà kể chuyện thì trọng tâm của nó là “câu chuyện” và đặc điểm là “kể”. Cái gọi là “câu chuyện” chẳng qua là chuyện của những người bạn cũ, chuyện xảy ra trong quá khứ, không thể gọi là “tư tưởng trung tâm”, cũng không thể gọi là “ý nghĩa sâu xa”. Có ý nghĩa sâu xa thì câu chuyện cũng đã xảy ra, không có ý nghĩa sâu xa thì câu chuyện cũng vẫn sẽ xảy ra. Bạn không thể vì một câu chuyện nào đó không có ý nghĩa sâu xa mà ngăn cản không cho nó xảy ra được, bạn cũng không thể vì nó đã xảy ra rồi mà cố ý gán cho nó một ý nghĩa sâu xa. Cũng giống như vậy, bạn không thể vì một câu chuyện nào đó không có ý nghĩa sâu xa mà không để cho tôi kể, bạn cũng không thể vì tôi đã kể một câu chuyện nào đó mà nhất định phải đánh giá, xem xét ý nghĩa sâu xa của nó. Vẫn là câu nói cũ, tôi kể chuyện chỉ vì muốn nói với bạn rằng: Có một người như vậy, cô ấy (hay anh ấy) đã trải qua một số chuyện như vậy. “Kể” chính là trần thuật lại câu chuyện bằng hình thức nói chuyện. Tất nhiên, tôi có rất nhiều độc giả ở khắp nơi trên thế giới, tôi không thể tổ chức một cuộc hội nghị qua điện thoại để đích thân kể câu chuyện cho mọi người nghe, cho nên tôi đành phải viết lại, đưa lên mạng Internet cho mọi người đọc. Nhưng cách tôi viết văn là cách “kể”, giống như có một vài người bạn cùng ngồi trong phòng khách nhà tôi, còn tôi thì ngồi đối diện với họ để kể cho họ nghe vậy, kể đến anh Trương nói câu gì đó tôi liền ướm giọng của anh Trương nào đó nói, kể đến chuyện nhà anh Lý khóc vì chuyện gì đó, tôi liền bắt chước tiếng khóc của anh Lý, kể đến chuyện anh Trương nọ cãi nhau với anh Lý kia tôi liền lúc nói bằng giọng anh Trương, lúc lại là giọng anh Lý, cãi qua cãi lại, ồn ào vô cùng. Những từ vựng và câu nào tôi không sử dụng khi ngồi kể chuyện ở phòng khách thì tôi cũng sẽ không sử dụng khi viết tác phẩm. Tôi sẽ không giống một nhà văn nào đó, mặc dù trong cuộc sống đời thường nói chuyện toàn là “khẩu ngữ”, nhưng vừa cầm bút lên đã biến thành “văn ngôn”, “ngôn ngữ văn học”, dường như chỉ có như vậy mới được coi là đang “sáng tác văn học”. Nói và viết trong tiếng Hán luôn có sự khác biệt rất lớn, nhưng xu hướng chung vẫn là tiến tới sự thống nhất. Ví dụ trước đây người ta gọi văn nói là “bạch thoại”, gọi văn viết là “văn ngôn” (tác phẩm viết bằng ngôn ngữ cổ của Trung Quốc), nhưng hiện nay rất ít khi dùng “văn ngôn” để viết tác phẩm văn học. Do sự phát triển mạnh mẽ của Internet, xu thế ngày càng rõ nét, những người đọc sách quen với việc tách bạch văn viết với nói sẽ càng ngày càng cảm thấy thất vọng. Không phải “câu chuyện cũ nào” cũng đáng để kể. Câu chuyện không đáng được kể thì theo thuật ngữ trần thuật được gọi là “không có chuyện để kể”, còn theo góc độ sáng tác văn học mà nói thì gọi là “không đáng đọc”. Mười năm sóng gió[1] viết về câu chuyện của tôi và Ngải Luân xảy ra trong mười năm, cũng là có chút bi hoan li hợp, nên cũng có chút “đáng đọc”. Nhưng nếu tôi viết ra cuộc sống hiện tại của tôi và Hoàng Nhan[2]thì chẳng khác gì mấy bữa cơm thêm chút mắm muối gia vị, có thể ban đầu còn có vài người đọc, nhưng nếu ngày ngày tôi ghi lại cuộc sống của tôi thì sẽ trở thành quyển sổ ghi chép tào lao, sẽ chẳng có ai thèm đọc nữa. Không phải mỗi một câu chuyện đáng kể đều sẽ phù hợp để tôi kể, như tác phẩm Totem sói[3] có nhiều người đọc như vậy, chứng tỏ nó “đáng đọc”, đáng để kể. Nhưng câu chuyện như vậy tôi kể sẽ không hợp, tôi cũng ngại đọc kỹ, nên tìm một bài bình luận khá sâu, đọc một lượt, bởi vì trọng tâm của câu chuyện như vậy không nằm ở câu chuyện, cũng không nằm ở tình tiết, mà nó truyền tải một “message” (thông điệp), chỉ cần làm rõ message đó thì coi như đã hiểu được toàn bộ tác phẩm, những tình tiết được viết ra đều do tác giả sáng tác để truyền tải message, không đọc cũng được. [1]. Tên một tác phẩm của Ngải Mễ. [2]. Tức chồng Ngải Mễ. [3]. Tiểu thuyết của nhà văn Khương Nhung (Trung Quốc), đã được dịch giả Trần Đình Hiển chuyển ngữ sang tiếng Việt. Có không ít bạn bè trên mạng Internet gửi câu chuyện của cá nhân họ hoặc của bạn bè họ cho tôi, hỏi tôi có thể sáng tác được không, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn đã cảm ơn tôi, đồng thời cũng phải gửi lời xin lỗi đến những bạn có câu chuyện không được chọn, do nhiều lý do khác nhau mà tôi không thể viết hết truyện của từng người được. Nguyên tắc cơ bản để tôi lựa chọn câu chuyện như sau: Khi chọn câu chuyện nào đó, trước tiên tôi phải xem có “câu chuyện” hay không, tức là có “đáng đọc” hay không, tiếp theo, tôi cũng cần phải xem tôi kể có hợp không. Câu chuyện như thế nào tôi thấy là “đáng đọc”? 1. Ít nhất có một số điểm khác người Câu chuyện mà chỉ a dua theo mọi người thì không “đáng đọc”, bởi vì mọi người đều đã từng trải qua, nếu chưa từng trải qua thì cũng đã từng được nghe, câu chuyện như vậy nếu kể ra thì sẽ không có người nghe, trừ khi giọng văn của bạn phải thật xuất chúng thì người đọc mới không để ý đến câu chuyện xảy ra như thế nào mà chỉ thưởng thức ngôn từ của bạn. Tôi biết lối diễn đạt của tôi không đạt được đến trình độ đó, tôi cũng biết số độc giả biết thưởng thức và đánh giá giọng văn như vậy cũng không nhiều, cho nên tôi rất quan tâm đến tính “đáng đọc” của câu chuyện. Trên thực tế, những câu chuyện không có tính đáng đọc mà chỉ hoàn toàn nhờ vào giọng văn đặc sắc của tác giả sẽ không thể tồn tại lâu dài. Giọng văn hài hước thì lúc mới đọc sẽ cảm thấy thú vị, nhưng nếu một cuốn tiểu thuyết mấy trăm nghìn chữ mà không có tình tiết nào cuốn hút thì cũng chỉ là tác phẩm chọc cười độc giả, khua môi múa mép mà thôi, độc giả sẽ thấy chóng chán. Vậy thế nào mới được coi là “khác người”? Tôi khá coi trọng sự khác người, trước tiên đó là sự khác biệt của câu chuyện, tức sự khởi đầu, phát triển và kết thúc của câu chuyện ít nhất phải có điểm đặc biệt; sau đó là sự khác biệt của nhân vật chính, tính cách và số phận của nhân vật chính ít nhất phải có sự khác người. 2. Chưa từng có người viết Bất luận câu chuyện hay đến đâu, nếu đã có người viết thì dù tôi viết lại cũng sẽ không còn ý nghĩa nữa. Có người đã gửi cho tôi câu chuyện nói về mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu, đó là câu chuyện rất hay, rất đáng đọc, nhưng bởi vì Lục Lục[4] đã từng viết tác phẩm Băng dính hai mặt, là câu chuyện nói về một bà mẹ chồng ở nông thôn với con dâu ở thành phố, hơn nữa đã có hồi kết khá cực đoan, cuối cùng cô con dâu đó bị bà mẹ chồng và chồng giày vò đến chết, dù tôi có viết nữa thì cũng không thể viết giật gân hơn cuốn đó (cũng không thể viết cho cô dâu cái chết đến hai lần?), cho nên tôi sẽ không viết những câu chuyện kiểu như vậy. [4]. Nữ nhà văn Trung Quốc hiện đang sống ở Singapore, năm 2010 là nhà văn hải ngoại gốc Hoa có thu nhập hàng đầu trong bảng xếp hạng Danh sách nhà văn tỉ phú lần thứ V của Trung Quốc. Tất nhiên, có người sẽ thắc mắc, chẳng phải cũng đầy người từng viết về bệnh máu trắng đó sao? Sao chị lại còn viết Cùng anh ngắm hoa sơn tra? Cái tôi gọi là “đã từng viết” ở đây để chỉ cả câu chuyện, từ chủ đề, tình tiết cho đến nhân vật chính, đều đã được người ta viết trong một câu chuyện, chứ không phải một sự kiện trong câu chuyện đã được viết. Nếu một câu chuyện đã tửng viết mà tôi không thể viết nữa thì tôi sẽ chẳng còn gì để viết cả. Hiện đã là năm 2009, những chuyện đã từng được viết trên thế giới có thể chất cao thành núi, liệu có sự kiện đơn lẻ nào mà chưa từng được người khác viết không? Không thể vì bệnh máu trắng đã từng được viết mà nói là hai cậu chuyện giống nhau; cũng không thể vì viết về căn bệnh khác nhau mà nói là hai câu chuyện khác nhau. Bệnh máu trắng chỉ là một tình tiết trong toàn bộ câu chuyện. Sự kiện này đóng vai trò gì trong toàn bộ câu chuyện, nhân vật xử lý chuyện này thế nào mới là những nhân tố cơ bản quyết định sự khác nhau của câu chuyện. Nếu vì có một tình tiết giống nhau mà lại cho rằng hai câu chuyện giống nhau thì chúng ta có thể nói, tất cả các câu chuyện trên thế gian này đều giống nhau, bởi vì chúng đều viết về tình yêu. Thậm chí chúng ta có thể nói tất cả câu chuyện trên thế gian này đều giống nhau, bởi vì chúng đều viết về thế giới, hoặc viết về thế giới mà con người trong thế giới này tưởng tượng ra. Chương 1 Cô con gái từ trước đến nay vốn không có hứng thú gì với tiếng Trung bỗng nhiên hỏi mẹ: - Mẹ ơi trúc mã thanh mai có nghĩa là gì? Nghe thấy vậy Sầm Kim liền ngẩn người ra một lúc, cô vẫn thường có lúc ngẩn người ra như vậy khi nói chuyện với con gái, bởi vì tự nhiên lúc đó cô không biết đích xác là con gái đang nói tiếng Anh hay tiếng Trung. Ở nhà, Sầm Kim luôn chú ý nói tiếng Trung với con gái, theo yêu cầu của cô, con gái cũng phải cố gắng nói tiếng Trung với mẹ, nhưng đôi khi, con bé nói được một lúc lại quay sang nói tiếng Anh, nếu cô không để ý, lại nghe tiếng Anh thành tiếng Trung, vì thế mới xảy ra nhiều chuyện râu ông nọ cắm cằm bà kia rất buồn cười. Khi phát hiện ra con gái đang nói tiếng Trung, Sầm Kim liền trả lời ngay: - Trúc mã thanh mai à, dịch sang tiếng Anh là bamboo horse and plum branch. Hình như con bé có vẻ thất vọng: - Hả? Là nghĩa đó ạ? Con lại cứ tưởng… - Con tưởng là gì? Con bé có vẻ ngại ngùng, đáp: - Con cứ tưởng là “love” (tình yêu) cơ. - Đúng vậy, nghĩa là love, Calflove (mối tình đầu, tình yêu con nít hoặc tình yêu ở tuổi dậy thì). - Thế tại sao vừa rồi mẹ lại nói là Bamboo horse? - Đó chỉ là nghĩa đen của từ, trong tiếng Trung có rất nhiều từ như vậy, đều có những điển tích, chỉ xét về mặt chữ thì không thấy được ý nghĩa của từ đó. Cụm từ này bắt nguồn từ một bài thơ, được diễn giải như thế này: Có hai đứa trẻ, một trai một gái, cô bé chơi bên cạnh giếng nước trước cửa nhà, cô muốn hái những quả mận còn xanh trên cây nhưng lại ngoài tầm với, đúng lúc có một cậu bé cưỡi con ngựa tre chạy tới, thấy cô bé không với được liền hái giúp. - Mai là gì hả mẹ? - Chắc là Plum. - Plum? Không ngon. Trúc mã là gì hả mẹ? - Là Bamboo horse con ạ, cậu bé không có ngựa cưỡi nên phải dùng một cái gậy tre làm ngựa, gọi là trúc mã – ngựa tre đó. - Hi hi… giống như Harry Potter vậy! Lúc đầu Sầm Kim định giải thích rằng ngựa tre không giống như cây chổi mà Harry Potter cưỡi, hai cái đó khác hẳn nhau, bắt nguồn từ hai nền văn hóa khác nhau, và sẽ gợi lên hai sự liên tưởng hoàn toàn khác nhau, nhưng cô cảm thấy điều này quá phức tạp, càng nói càng kéo vấn đề đi xa, chi bằng tạm thời không nói sẽ hay hơn. Cô tiếp tục giải thích bài thơ đó: - Mẹ vẫn chưa giải thích hết, bài thơ nói về hai đứa trẻ, suy nghĩ còn rất ngây ngô, nô đùa bên nhau rất vô tư, vui vẻ, không hề phân biệt giới tính. - So? (Vậy rồi sao ạ?) - Sau đó cậu bé và cô bé đã kết hôn với nhau, cô bé mới mười bốn tuổi, rất e thẹn, cậu bé gọi thế nào cô bé cũng không dám quay đầu lại. - Mười bốn tuổi đã kết hôn? Which state allows people to get married 14? (Tiểu bang nào cho phép mười bốn tuổi đã được kết hôn vậy?). - Không phải bang nào của Mỹ mà đó là chuyện ở Trung Quốc. - Ồ, người Trung Quốc mười bốn tuổi đã có thể kết hôn ư? That’s crazy (Thật điên rồ, không tài nào hiểu nổi!). - Đó là chuyện hồi xưa. - Ồ! Chuyện hồi xưa ạ? Tại sao khi mẹ mười bốn tuổi, mẹ lại không kết hôn? - Hồi ấy không cho phép mười bốn tuổi kết hôn! - Nhưng mẹ nói là hồi xưa mà. - Mẹ nói là chuyện này đã xảy ra rất lâu rất lâu rồi, bài thơ này là của đại thi hào Lí Bạch đời Đường viết. - Sau đó thì sao ạ? Ý con muốn chỉ cô bé mới mười bốn tuổi đã kết hôn đó? - Sau đó? Sau đó cô bé lớn hơn một chút thì không còn e thẹn như vậy nữa, tình cảm của hai người rất sâu sắc, nhưng chồng của cô bé là một thương nhân. Con bé rất sửng sốt: - He was wounded? (Anh ta bị thương ư?) Sầm Kim không nhịn được cười. So với những đứa trẻ Trung Quốc cùng trang lứa qua Mỹ thì khả năng nghe nói tiếng Trung của con gái cô cũng được coi là khá ổn, có một số bé nghe hiểu tiếng Trung nhưng lại không dám nói, còn một số bé thì đã bị Anh ngữ hóa hoàn toàn, nghe đã không hiểu còn không nói được, Tiểu Kim nghe nói đều tương đối, nhưng vẫn thường xuyên gây nên truyện cười. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Cô cười rồi giải thích: - Thương nhân không phải là người bị thương, mà là businessman, chồng cô bé là một businessman, thường xuyên đến các vùng đất xa xôi để làm ăn, cô rất lo lắng cho chồng mình, luôn mong chồng bình an trở về. - Sau đó thì sao ạ? Chồng cô bé đó chết ư? - Không phải. - Họ ly hôn ư? - Mẹ không biết, thời đó ly hôn chưa thành phong trào như bây giờ. - Tại sao cô ấy không move (chuyển) đến nơi chồng mình làm việc? - Hồi ấy giao thông không thuận tiện như bây giờ, người ta sống ở nơi nào thì thường ở đó cả đời. - How boring! (Sao mà buồn tẻ thế!). Sầm Kim giải thích tiếp: - Suy nghĩ của người thời xưa khác bây giờ, có thể họ cảm thấy được sống ở một nơi suốt đời là một niềm hạnh phúc, còn những người luôn phải đi xa kiếm sống thì mới cần được người khác thông cảm, bị coi là phải lang thang phiêu bạt, cũng giống như chiếc lá chao đảo trên không trung, nhưng cánh bèo bập bềnh trên mặt nước, vẫn luôn muốn trở về cố hương. - You mean one’s birthplace? (Ý mẹ là nơi người ta sinh ra?). - Đúng, cố hương chính là nơi con người ta sinh ra. Cô gái liền thắc mắc: - You mean you would always want to go back to China? (Ý mẹ là mẹ luôn muốn trở về Trung Quốc ư?). Cô không thể trả lời, bởi vì chính bản thân cô cũng không biết mình có muốn trở về Trung Quốc hay không, nói không muốn thì là nói dối, mà nói là muốn thì dường như cũng không hoàn toàn chính xác. Cuối cùng con bé cũng tha cho cô, không truy hỏi việc trở về Trung Quốc nữa. - Trúc mã thanh mai nghĩa là trôi bập bềnh gì đó hả mẹ? - Hơ hơ… không phải, trúc mã thanh mai có nghĩa là hai người quen nhau từ nhỏ rồi lớn lên trở thành vợ chồng. - Nhưng mẹ nói là calflove. - Cũng có nghĩa đó. Ờ! Hình như hoàn toàn không thể tìm được một từ hoàn toàn có nghĩa tương ứng trong tiếng Anh. - Sau đó thì sao ạ? - Sau đó ư? Bài thơ kết thúc rồi. - Sau đó thế nào ạ? - Sau đó con hỏi mẹ vấn đề này. Sầm Kim ngập ngừng một chút, giả vờ như không để ý điều đó và hỏi: - Tiểu Kim sao con lại hỏi cụm từ này? Con bé liền nhún vai: - Nothing. Just want to know. (Không có gì ạ, con chỉ hỏi để biết thôi). Cô nhìn thái độ của con gái là biết ngay hôm nay không thể khai thác được gì. Con trẻ bây giờ từ nhỏ đã biết mình có quyền riêng tư, không muốn cho bạn biết việc gì thì dù bạn có hỏi rách cả miệng chúng vẫn sẽ không nói cho bạn biết, nếu hỏi nhiều thì chúng còn tỏ ra bực bội, coi bạn như một kẻ cổ hủ, nói bạn đã xâm phạm quyền riêng tư của chúng. Con bé đã lên phòng của mình trên gác, Sầm Kim vẫn ở đó suy nghĩ về việc này, sao con gái lại hỏi cụm từ “Trúc mã thanh mai” nhỉ? Hơn nữa lại đoán từ đó có liên quan đến tình yêu? Lẽ nào con bé đang yêu ư? Yêu ai? Tiểu Kim đã mười bảy tuổi, theo lối sống bên Mỹ thì nói đến chuyện yêu đương cũng là được rồi, nhưng bên này không gọi là “nói chuyện yêu đương” mà gọi là Date (hẹn hò). Nếu là thanh niên Mỹ, có thể đã Date lâu rồi, nhưng Tiểu Kim vẫn chưa từng chính thức Date. Đối với vấn đề Date của con gái, Sầm Kim thấy rất mâu thuẫn, cho phép con bé Date, thì sợ ảnh thưởng đến việc học hành, lại còn sợ con bé gặp phải kẻ xấu, bị lừa rồi khổ; còn không cho phép con gái Date thì lại sợ biến nó thành kẻ khác người, bị người ta coi như quái vật, còn sợ sẽ hạn chế sự tự do của nó, khiến nó nảy sinh tâm lý chống đối. Trước đây cô thường phải nghe mẹ mình thở dài, nói rằng sinh con trai thì ít phải bận tâm, còn sinh con gái như cô đây thì ngày nào mẹ cũng lo ngay ngáy, lúc nhỏ thì lo cô bị bắt cóc, lớn hơn chút nữa thì sợ bị bọn con trai bắt nạt, lớn hơn chút nữa thì sợ cô yêu sớm ảnh hưởng đến việc học hành, còn lớn hơn chút nữa thì lại sợ cô không tìm được một tấm chồng tốt, đến khi cô kết hôn rồi thì lại sợ anh chống đối xử không tốt với cô, sợ cô không thể sinh con, đến khi cô sinh con rồi thì lại sợ cô mệt quá, sợ sức khỏe không ổn, hơn nữa cô lại cũng sinh con gái, vậy là mẹ cô lại càng thêm lo lắng, lại phải nhọc tâm lo lắng cho hai mẹ con cô. Trước khi sinh Tiểu Kim, cô chỉ cảm thấy mẹ mình nói hơi nhiều và hay cả nghĩ, tấm lòng của người mẹ tất nhiên là đáng quý, nhưng lo lắng quá thì lại thành ra uổng công, việc của bản thân cô còn không biết sao? Sao có thể bị bắt cóc, bắt nạt, sao có chuyện để ảnh hưởng đến học hành, không sinh được con? Đến khi có con gái rồi, cô mới hiểu được nỗi lòng của người mẹ, trừ phi không có con, còn nếu có con thì chắc chắn sẽ phải lo lắng, không lo lắng thì không thể gọi là mẹ. Đối với cô con gái Tiểu Kim của mình, không phải Sầm Kim cũng lo lắng từ khi còn nhỏ sao? Không phải chuyện ốm đau bệnh tật gì gì mà chính là chuyện hôn nhân đại sự xa vời, cô cũng luôn phải để tâm Nói ra cũng chẳng sợ người ta cười chứ lúc con gái mới mấy tuổi, cô đã bắt đầu nhắm chàng rể rồi. Cũng không phải lo bò trắng răng mà là do người xung quanh cứ đề cập đến chuyện này. Con gái từ nhỏ đã được khen là xinh xắn, đôi mắt to, sống mũi cao, cái trán dô, môi đỏ, rất đáng yêu, ngoan ngoãn, không ồn ào, không gây chuyện, nói chuyện thì cứ như bà cụ non khiến ai cũng phải buồn cười. Khi còn ở trong nước, vẫn có người nói đùa muốn làm thông gia với nhà cô, muốn cho con trai họ làm rể nhà cô, nhưng đó đều là mấy cậu bé thò lò mũi xanh, không cậu nào cô thấy ưng cả, e là người ta cũng chỉ nói cho vui thôi, cô cứ cảm thấy con gái bị thiệt thòi nên vẫn luôn trả lời người ra rất nghiêm túc: - Em không tán thành chuyện cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Giờ nghĩ lại thấy chắc chắn những người đó đều rất ghét cô: Chỉ là nói đùa cho vui thôi mà cô lại cứ đề cao mình? Cô biết có lúc mình không hòa đồng lắm, có thể chính bởi mấy việc nhỏ nhặt này. Sau khi sang Mỹ, người muốn làm thông gia ít đi, phần lớn người Mỹ không thích kiểu này, hơn nữa những lưu học sinh từ trong nước sang, người thì vẫn còn trẻ chưa có con cái, người thì bận rộn học hành, không có thời gian trêu đùa như vậy. Chỉ có một đôi vợ chồng họ Lư, tuổi cũng chạc tuổi cô, có một cậu con trai tên là Lư Minh, tên tiếng Anh là Lewis, bằng tuổi Tiểu Kim, cùng học tiểu học Elementary School và cùng khối. Trường trung học ở Mỹ có khác một chút so với trường trong nước, ở trong nước phòng học là cố định, thấy giáo thì lưu động. Học sinh được phân vào lớp nào thì sẽ học ở một lớp, giáo viên các bộ môn khác nhau sẽ lần lượt đến lớp đó giảng dạy. Còn trường học ở Mỹ, mặc dù cũng có Home room (lớp học chính), còn có Home room teacher (giáo viên chủ nhiệm lớp), nhưng lớp học thì không cố định, rất nhiều môn học không phải học ở Home room, mà giống như sinh viên đại học, học sinh đến học ở các lớp học khác nhau. Con trai nhà họ Lư sang Mỹ sớm hơn Tiểu Kim, tiếng Anh cũng tốt hơn con bé, rất nhiều môn đều học ở Gifted Class (lớp thiên tài, lớp năng khiếu), còn Tiểu Kim khi đó mới vừa sang Mỹ, rất nhiều môn đều học ở lớp bình thường, thời gian học cùng Lewis thực ra rất ít, Sầm Kim chưa từng nghe con gái nhắc tới Lewis. Nhưng cả hai đứa trẻ đều chơi đàn violon cho orchesta (dàn nhạc) của trường, mà orchesta được coi là một môn học bổ trợ, hàng ngày đều có một tiết cho orchesta, dài năm mươi phút, tất cả học sinh trong orchesta đều đến phòng nhạc để học. Orchesta của trường mỗi học kỳ đều tổ chức mấy buổi concert (hòa nhạc), khán giả chủ yếu là phụ huynh của những học sinh trong orchesta, lần nào Sầm Kim cũng đến xem, một phần vì đó là buổi biểu diễn của con gái cô trên sân khấu, làm mẹ tất nhiên phải tham gia, còn phải chụp ảnh, quay video để lưu lại làm kỷ niệm; hai là buổi concert thường diễn ra vào buổi tối, cha mẹ phải đưa đón con, giữa chừng không tiện về nhà thì ở lại xem. Sầm Kim với người nhà họ Lư đã quen nhau qua các buổi concert đó. Trong đám phụ huynh toàn người Mỹ thì hai bà mẹ Trung Quốc đã nhanh chóng phát hiện ra nhau, rồi chẳng mấy chốc đã sang ngồi cùng nhau và bắt đầu trò chuyện. Cũng giống như rất nhiều bậc phụ huynh khác, hai người làm quen với nhau không bằng việc xưng danh xưng tánh của mình mà lại tự giới thiệu: “Tôi là mẹ của cháu nào đó!”. Sau khi Tiểu Kim sang Mỹ, dựa theo phát âm tên tiếng Trung của con gái, Sầm Kim đã đặt cho con gái tên tiếng Anh là Jean, nhưng con gái lại không thích, tự đặt cho mình tên tiếng Anh là Petal, có nghĩa là cánh hoa. Hai bà mẹ sau khi đã tự giới thiệu về mình, mẹ Lewis liền hỏi: - Mẹ Petal này, sao bố Petal lại không đến? Chắc cũng giống như anh Lư nhà tôi, bận bịu với các thí nghiệm? Sầm Kim thẳng thắn đáp: - Không phải, chúng tôi ly hôn rồi. Mẹ Lewis bối rối vội gác chủ đề đó sang một bên. Trong lúc nói chuyện, Sầm Kim được biết bố Lewis là Lư Chính Cương, ban đầu sang Mỹ làm học giả của trường đại học A, cứ làm như vậy rồi dần dần chuyển sang học tiến sĩ, giờ thì vừa làm việc vừa học bằng thống kê, chuẩn bị sau khi học xong sẽ tìm công việc về thống kê học. Mẹ Lewis đưa con trai sang Mỹ thăm thân nhưng tiếng Anh không được tốt lắm, không thi được bằng TOEFL gì, lại chẳng nghiên cứu gì ở Mỹ. May mắn là Lư Chính Cương đã nhanh chóng làm được Thẻ Xanh[1] cho cả nhà, mẹ Lewis mới dễ dàng tìm được một công việc, bà từng bán cánh gà chiên ở Wal-mart, bán giày ở chợ tự do Flea Market, và gần đây vừa mới tìm được công việc ở phòng thí nghiệm của trường đại học A. [1] Thẻ Xanh là loại giấy tờ được chính phủ Mỹ cấp cho cư dân thường trú để họ sinh sống và làm việc trên đất nước Mỹ trong thời gian dài. Mẹ Lewis bảo Sầm Kim chỉ cho bà xem con gái đâu, vừa mới nhìn thấy cô bé, bà đã không ngớt lời tán dương: - Ồ! Đó chính là con gái chị ư? Trông đáng yêu, xinh xắn quá! Sau đó mẹ Lewis thường xuyên hẹn hai nhà cùng vui chơi, có lẽ muốn tạo cơ hội cho hai đưa trẻ tự làm bạn trúc mã thanh mai của nhau. Nhưng Sầm Kim không đánh giá cao con trai nhà họ Lư, cảm thấy thành tích của cậu ta tốt thì có tốt nhưng hơi kiểu con mọt sách, mặc dù biết chơi đàn violon nhưng vừa nhìn là biết do bố mẹ ép con học một cách thụ động, mà thật sự không phải có tài năng âm nhạc bẩm sinh. Khuôn mặt của Lewis trông cũng được, thanh tú nhưng đầu thì dài, trông không đẹp, lại bẹt bẹt, không có phần gáy sau, trong khi Sầm Kim được biết các nghệ sĩ âm nhạc nổi tiếng trên ảnh có phần gáy sau rất rõ. Mẹ Lewis dường như cũng không hoàn toàn hài lòng về Tiểu Kim, chủ yếu là lo thành tích của Tiểu Kim không tốt, bà luôn hỏi thăm: - Petal nhà chị vẫn còn học lớp ESL (lớp tiếng Anh dành riêng cho học sinh nước ngoài)? - Petal đã vào lớp Gifted Class chưa? - Chị có mời Tutor (giáo viên phụ đạo) dạy violon cho Petal không? Lewis nhà chúng tôi ngay từ năm đầu đã mời Tutor rồi, chỉ dựa vào orchesta của trường để luyện đàn thì không đủ, chắc chắn phải mời Tutor. Sầm Kim thấy hơi hoảng, nếu làm thông gia với nhà họ thì thực sự khó mà chịu nổi. Chương 2 Lúc đó Sầm Kim cảm thấy bất luận nhà họ Lư có trở thành thông gia tương lai với cô hay không thì trong mắt cô, họ vẫn là “đối thủ”. Nói là “đối thủ” thì có thể hơi quá, nhưng nếu để cô nói thật lòng thì cô thật sự mong Lư Chính Cương nhanh chóng học xong thạc sĩ thống kê, tìm được công việc ở nơi khác rồi cả gia đình họ đều chuyển khỏi đại học A đó. Tục ngữ có câu “Không sợ không biết giá trị của hàng mà sợ so sánh hàng với hàng”, nếu trường của Tiểu Kim chỉ có mình nó là học sinh người Trung Quốc thì áp lựa của cô sẽ không quá lớn như vậy. Không cần phải cả trường, chỉ cần khối của con hoặc lớp con đang học có mình nó là người Trung Quốc, thì cô cũng sẽ không bị áp lực tâm lý như thế. Nhưng giờ có Lewis lù lù chặn ở đó, thành tích các môn đều tốt hơn con gái. Cuối học kỳ, nhà trường tổ chức lễ trao thưởng, như thường lệ, hai bà mẹ lại ngồi cùng nhau. Giải thưởng của nhà trường thật ra cũng rất nhiều, học sinh đạt từ loại B, hoặc loại A các môn học trở lên, các giải đơn do giáo viên các môn học chọn ra, các giải thưởng xuất sắc được các đơn vị tài trợ lựa chọn, những người chiến thắng trong các cuộc thi đấu, những tình nguyện viên có đóng góp nhiều nhất cho cộng động v.v… Không biết có bao nhiêu giải thưởng, mỗi giải thưởng đều được trao công khai trong buổi lễ. Sầm Kim nghe thấy cái tên “Lewis Lu” không ngớt được xướng lên, nhìn thấy tiểu tử nhà họ Lư vác cái đầu bẹt liên tục chạy lên sân khấu nhận giải, còn tên Tiểu Kim thì chẳng được mấy lần, trong lòng cô hụt hẫng vô hạn. Sau khi buổi trao giải thưởng kết thúc, hai đứa trẻ đều chạy đến trước mặt mẹ mình, Lewis nhét cả đống giải thưởng lớn vào tay mẹ, rồi chạy đi chơi cùng một nhóm trẻ, còn trong tay Tiểu Kim chỉ có một hai tờ giấy khen, bạn con bé quen không nhiều, chỗ chơi cũng không biết, chi bằng dính với mẹ thì vẫn hơn. Mẹ Lewis liền đề nghị: - Petal này, cháu cũng đi với hội bạn của Lewis đi, đừng cứ bám lấy mẹ thế. Con gái không chịu đi, Sầm Kim cũng thấy ngại với mẹ Lewis, rất muốn cùng con gái tránh ra chỗ khác. Cô biết con gái đã rất cố gắng, con bé mới sang Mỹ chưa lâu, tiếng tăm chưa thạo, không thể so bì với những đứa đã sang Mỹ từ trước như con trai nhà họ Lư, nhưng nét mặt cô vẫn lộ vẻ lúng túng, ngại ngùng. Người không biết chuyện thì chỉ để ý đến phần thưởng hai bà mẹ cầm trên tay không giống nhau, cô lại không thể gặp ai cũng giải thích: - Con gái tôi sang Mỹ sau Lewis, nên tiếng Anh của cậu bé phải tốt hơn, mà tiếng Anh tốt thì các môn học khác tất nhiên cũng sẽ tốt hơn. Từ hôm đó trở đi, cô rất ngại nói chuyện với nhà họ Lư, tránh được là cô tránh, trốn được là cô trốn. Nhưng mẹ Lewis vẫn rất nhiệt tình, bất kể là nhà trường có hoạt động gì cũng đều gọi cô cùng tham gia, tránh cũng tránh không nổi. Sầm Kim đã từng xem một bộ phim truyền hình Mỹ, viết về bà mẹ của một thành viên trong nhóm cheerleader (nhóm cổ vũ), do con gái bà bị thua một cô gái khác trong cuộc cạnh tranh giành vị trí cổ vũ mà bà mẹ này đã giết chết cô gái đó. Nghe nói phim truyền hình đều dựa trên những câu chuyện thực tế để cải biên, sau khi xem bộ phim đó, tất nhiên cô rất thương cô bé đã bị giết hại, nhưng cô cũng hiểu được tâm trạng của bà mẹ đã giết cô gái đó, con cái mình không bằng con cái nhà người ta, nỗi ấm ức đó khó mà chịu nổi. Tất nhiên cô sẽ không làm cái việc tày đình giết người như vậy nhưng trong lòng cô thật sự rất mong cả nhà Lư Chính Cương chuyển đến thành phố khác sống, hoặc cô có thể chuyển đến thành phố khác. Cô phát hiện phụ huynh Mỹ khá dễ tính, không những không thích hỏi chuyện của người khác, mà cũng rất thoải mái với con cái của họ. Thời gian đó, sáng nào cô cũng phải đưa con gái đến điểm đỗ xe buýt của trường, cô thường xuyên gặp một đôi vợ chồng Mỹ, họ có hai đứa con song sinh, một trai một gái, hai đứa đều học cùng khối với Tiểu Kim. Bang B cô ở rất kỳ lạ, trẻ càng nhỏ thì xe buýt trường đến càng sớm, xe buýt cho học sinh tiểu học cứ hơn sáu giờ một chút là tới, còn xe buýt cho học sinh cấp hai đến tận hơn bảy giờ mới tới, xe buýt cho học sinh cấp ba thì khoảng tám giờ mới đến. Nghe mọi người giải thích rằng, lý do dẫn đến việc như vậy là vì trẻ nhỏ cần bố mẹ lo cho việc thức giấc, ăn uống, mà bố mẹ thì tám chín giờ đã phải đi làm, cho nên để họ đưa con đến điểm đỗ xe buýt của trường sớm, rồi mới đến công sở. Còn trẻ lớn hơn không cần bố mẹ chuẩn bị cho lúc đi học, đợi bố mẹ đi rồi mới đến trường học cũng được. Nơi cô ở cách điểm đỗ xe buýt trường hơi xa, nên sáng nào cô cũng phải đưa con gái đến điểm đỗ xe buýt, còn đối với đôi vợ chồng người Mỹ thì điểm đỗ xe buýt lại rất gần, ngay trước nhà họ, nhưng sáng nào họ cũng đưa con ra tận nơi, việc hai vợ chồng cùng đưa con đến điểm đỗ xe khiến cô rất ngưỡng mộ. Lúc đợi xe, cô thường nói chuyện với đôi vợ chồng đó, có lúc không nén nổi tò mò cũng hỏi xem hai đứa trẻ song sinh nhà họ có vào học những lớp kiểu như gifted class không. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Đôi vợ chồng rất kinh ngạc hỏi lại: - Why would they want to get into gifted class? They prefer to work at their own pace. (Tại sao chúng phải đến các lớp học tài năng? Chúng thích học theo đúng lực học của mình.). Cô hận là sao tất cả phụ huynh đều không có quan điểm đó, nếu thế thì cô không còn phải chịu áp lực đó nữa. Nhưng nhà họ Lư rất quan tâm đến việc có vào lớp gifted class hay không, không chỉ họ quan tâm con mình có vào được gifted class hay không, mà còn để ý đến việc Tiểu Kim nhà cô có vào được lớp gifted class hay không, việc này suốt ngày văng vẳng bên tai cô, khiến cô cũng thấy rất ức chế. Cô không có cách nào để giống như người Mỹ, thấy con cái học theo đúng pace (tốc độ) của chúng thì vui mừng, trong huyết quản của cô là dòng máu của người Trung Quốc, đã là người Trung Quốc thì không thể không học theo pace (tốc đô của người khác. Trước tiên cô bắt đầu với lớp ESL (English as a Second Language – lớp học tiếng Anh cho người nước ngoài). Lớp ESL ở trường con gái cô không phải là giờ bổ túc tiếng Anh ngoài giờ cho học sinh, mà trong thời gian lên lớp, bạn phải hy sinh môn học nào đó để học lớp ESL. Học kỳ đầu tiên sau khi con gái sang Mỹ, khi những bạn khác đang học tiếng Tây Ban Nha thì con gái cô phải vào lớp ESL. Sau khi biết, cô cũng có chút ý kiến, nhưng cũng chẳng còn cách nào, bởi vì con gái vừa mới chân ướt chân ráo sang Mỹ, không tăng cường vốn tiếng Anh thì không được, tiếng Tây Ban Nha không học được thì đành chịu, không thể cùng lúc lại được cả đôi đường. Sang học kỳ hai, lớp ESL trùng với môn Social Studies (nghiên cứu xã hội). Không chỉ có vậy mà theo lời con gái, Sầm Kim được biết, thầy giáo ở lớp ESL dạy nội dung học kỳ này giống như học kỳ một, vì có một vài học sinh nước ngoài mới đến nên giáo viên dạy lại từ đầu, có lúc giáo viên cũng chẳng dạy gì, để Tiểu Kim kèm cho mấy học sinh mới đến Mỹ. Việc này khiến cô khó chấp nhận, Social Studies là môn học rất quan trọng trong trường tiểu học, môn học này giảng về lịch sử nước Mỹ, giáo viên không cho Tiểu Kim vào học lớp Social Studies mà lại tiêu tốn thời gian của Tiểu Kim vào mấy từ vựng tiếng Anh mà nó đã học rồi, thế chẳng phải là lãng phí thời gian sao? Học môn Social Studies có thể sẽ có lợi cho việc học ngôn ngữ hơn, giáo viên sẽ nói tiếng Anh trong cả tiết học, sách giáo khoa cũng là tiếng Anh, thế chẳng phải sẽ được học thêm nhiều tiếng Anh so với lớp ESL sao? Cô không muốn đắc tội với giáo viên, nhưng lại càng sợ mẹ Lewis sẽ cười nhạo con gái cô vẫn còn học ở lớp ESL, vậy là đành quyết tâm đến trường, yêu cầu cho con gái cô thôi học lớp ESL. Ban đầu giáo viên môn ESL không đồng ý, nhưng Sầm Kim chỉ ra việc giáo viên luôn bắt Tiểu Kim kèm cho học sinh nước ngoài mới đến mà đó vốn là trách nhiệm của giáo viên. Giáo viên có vẻ lo nên đã đồng ý để Tiểu Kim tốt nghiệp lớp ESL, trở về lớp cũ học môn Social Studies. Sầm Kim sợ Tiểu Kim thôi học lớp ESL sẽ ảnh hưởng đến việc học tiếng Anh của cô bé, lại sợ cô bé sẽ không bắt kịp bài của môn Social Studies, nên cô đành phải tự mình nghiên cứu một lượt, sau đó kèm cho con, đúng là hai mẹ con đã dùng cả phần thời gian người khác ngồi uống cà phê để học môn này. Đúng lúc Tiểu Kim sắp đuổi kịp tiểu tử nhà họ Lư ở các mặt thì Lư Chính Cương tìm được một công việc béo bở ở bang C xa xôi, tiền lương gấp đôi so với mức lương hiện tại, và họ đang chuẩn bị chuyển nhà tới đó. Mẹ Lewis vui mừng khôn xiết, gặp ai cũng khoe chồng mình đã tìm được công việc lương cao như thế nào, còn bỏ hẳn một buổi để mời Sầm Kim và một đám bạn đến ăn cơm, lại còn dặn con cái các nhà mang giày trượt patin đến, nói rằng xung quanh nhà họ đều đổ bê tông, bọn trẻ có thể trượt patin quanh tòa nhà. Việc này đúng là đã dồn Sầm Kim vào thế bí, bởi vì Tiểu Kim không có giày trượt patin và cũng không biết trượt patin. Cô đã thấy nhiều đứa trẻ trượt patin trên nền bê tông phía ngoài nhà từ lâu, chúng đi một đôi giày patin như đôi bốt, mà không phải loại giày patin có tấm thép giống như trước đây cô từng đi ở trong nước, loại giầy trượt đó là loại có bốn bánh xe hàn dưới một tấm thép, dùng sợi dây buộc vào chân coi như có cái để trượt patin. Cô cũng từng có ý định mua cho Tiểu Kim một đôi giày trượt patin, nhưng hai mẹ con đi khắp các cửa hàng một lượt, thấy một đôi tận hơn sáu mươi đô, lúc đó cô còn đang học tiến sĩ, mỗi tháng hai mẹ con phải dựa vào đồng lương ít ỏi của RA (research assistant, trợ lý nghiên cứu), đâu có thừa tiền để mua đôi giày trượt đến hơn sáu mươi đô chứ? Từ nhỏ Tiểu Kim đã rất biết nghĩ, xưa nay không đòi hỏi cô phải mua cái này cái kia, mỗi lần ra phố mua quần áo, Tiểu Kim thường lật mác giá tiền lên xem trước, quá mười đô la liền nói: - Đắt quá, con không mua đâu. Cô cũng thấy thương, nhưng khả năng kinh tế của cô chỉ có vậy nên cũng chỉ có thể thương mà thôi. Lần này cô quyết định rồi, dù thế nào cũng phải mua cho con gái đôi giày trượt patin, không thể để nó đến nhà họ Lư mà lại chỉ có thể giương mắt đứng bên nhìn đám trẻ chơi đùa được. Nhà họ Lư sắp chuyển đi rồi, cái thể diện này không lấy lại thì không còn cơ hội nào để lấy lại nữa. Cô đưa Tiểu Kim đến cửa hàng, con gái vừa nhìn thấy giá tiền liền nói như thường lệ: - Đắt quá, con không mua đâu. Nhưng cô kiên quyết phải mua, cuối cùng đã mua được, con gái rất vui vẻ, về nhà liền đi ngay đôi giày vào, men theo tường đi, trượt đi trượt lại trên hành lang và chẳng mấy chốc đã có thể bỏ tay trượt được. Hôm tụ tập ở nhà họ Lư tổng cộng có năm đứa trẻ, bốn đứa con trai, chỉ mình Tiểu Kim là con gái, mọi người vừa làm vừa nói chuyện, trẻ con thì trượt patin quanh nhà. Bốn đứa con trai kết thành một đội, xô đẩy, rượt đuổi nhau, Tiểu Kim một mình trượt từ từ đuổi theo sau, trượt một lát thì bốn đứa con trai đã trượt được một vòng và quay lại, lại rượt lên trước Tiểu Kim, Tiểu Kim không đuổi kịp chúng, đành phải một mình trượt đi trượt lại trước cửa nhà. Sầm Kim đứng ở lan can tầng hai nhìn lũ trẻ trượt mà thương con gái cứ một mình trượt đi trượt lại một cách vô vị như vậy, trượt một lát lại nhìn mấy đứa con trai, còn mấy anh chàng chỉ lo cho bản thân chúng, có lúc trượt qua con gái cũng không biết tránh, giống như một nhóm “đua xe”, xông xáo, bừa bãi trượt vút qua, khiến con gái cô hốt hoảng tránh sang một bên. Mẹ Lewis hét với cậu con trai: - Sao chỉ biết trượt một mình thôi, không dẫn em Tiểu Kim cùng trượt hả? - She is too low (Nó trượt quá chậm). Mẹ Lewis lắc đầu nói: - Đấy, trẻ con bây giờ tệ quá. Sau đó bà hướng về phía Tiểu Kim hét to: - Petal, cháu đừng trượt một mình và tránh như thế, hãy đuổi theo chúng, trượt cùng với mấy đứa đi. Sầm Kim thấy con gái lúng túng đứng ngay ra ở đó liền giải vây: - Con kệ chúng, con cứ trượt của con, để mẹ giúp con. Cô bỏ lại mẹ Lewis đứng đó, xuống dưới trượt cùng con gái, nhìn mấy đứa con trai trượt đi trượt lại một cách điên cuồng, trong lòng cảm thấy rất không thoải mái, không biết do tiểu tử nhà họ Lư còn quá nhỏ tuổi, chưa biết ý hay do cậu nhóc đó không có ý gì với Tiểu Kim, mà hoàn toàn không biết chơi cùng với con bé. Nói ra thì tiểu tử nhà họ Lư cũng đã hơn mười tuổi, nếu là một cậu chàng biết thương hoa tiếc ngọc thì cũng phải biết lo cho bạn nữ rồi. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Cô nhớ lại cách đây bao nhiêu năm về trước, cũng là một cậu bé hơn mười tuổi, nhưng đã rất biết lo cho bạn gái. Đó là thời kỳ Cách mạng Văn hóa, một thời đại điên cuồng, mỗi lần Chủ tịch Mao Trạch Đông phát biểu cái gì là “chỉ thị mới nhất”, hoặc Trung ương mở họp gì đấy thì đài phát thanh của trường học sẽ phát một lượt, sau đó giáo viên ra khỏi nhà, tổ chức thành các đội, đi diễu hành khắp các đường phố, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu, chúc mừng Chủ tịch Mao đã ra “chỉ thị mới nhất”, và phổ biến tin tức này ra khắp các hang cùng ngõ hẻm, khiến những gia đình không có đài phát thanh cũng biết được tin vui động trời này. Trong ấn tượng của Sầm Kim, dường như Chủ tịch Mao luôn chọn thời điểm phát biểu “tin tức mới nhất” vào buổi tối, cho nên các cuộc diễu hành phần lớn là tổ chức vào buổi tối. Lúc đó cô mới năm sáu tuổi, bố mẹ cô đều là giáo viên của trường trung học, đều phải đi diễu hành, hơn nữa phải hoạt động theo đại đội của trường, không thể đưa con đi cùng, họ không yên tâm để con gái một mình ở nhà, đành phải để cô chơi với chị Hồng cạnh nhà. Chị Hồng cũng đã mười tuổi, nhưng cũng không chịu tụt hậu, cùng với một vài đứa trẻ bằng tuổi khác tổ chức thành đội diễu hành ra phố. Sầm Kim ở cùng đội với chị Hồng, ra sức chạy theo để không bị rớt lại. Có một hôm, đội diễu hành đến một con ngõ nhỏ rất hẹp, đội của chị Hồng bị một đội diễu hành khác chen lấn nên bị chia năm xẻ bảy, Sầm Kim nhớ mình vẫn đang cùng đi với chị Hồng, nhưng lúc đến một con phố rộng hơn, cô đuổi theo kéo tay chị Hồng thì mới phát hiện ra đó không phải là chị Hồng, mà là một chị hoàn toàn không quen biết. Cô hoảng sợ, vừa hét to gọi “chị Hồng” vừa đi khắp nơi tìm đội của mình, nhưng càng đi càng ít người, chẳng mấy chốc phát hiện ra con phố đó chỉ còn lại một mình cô. Ánh đèn âm u, bóng cô đổ dài, hai bên phố là những căn nhà gỗ cũ nát, đều đã đóng cửa, không còn ánh đèn, không biết họ ra phố diễu hành chưa về hay đã đi ngủ hết rồi. Cô không biết làm thế nào mới có thể tìm được đường về nhà, nhưng cũng không dám đứng ở đó, đành phải chọn đi theo những con phố có đèn đường, vừa đi vừa khóc. Đang lúc cô đang sợ đến phát khiếp thì có một cậu bé cao cao gầy gầy chạy đến, đứng chắn trước mặt cô, lau mồ hôi nói: - Kim Kim, sao em lại một mình chạy đến đây? Cô nhận ra cậu bé đó là con trai của đội trưởng đội tuyên truyền của trường, ở khu ký túc xá phía sau nhà cô, cô chỉ biết mọi người gọi cậu là “Vệ Quốc”, nhưng cô không chơi với cậu ta, vì cậu ta lớn hơn cô nhiều, lũ bạn của cậu ta cũng lớn hơn cô rất nhiều. Cô rụt rè nói: - Em ở đội chị Hồng, em không biết chị ấy đi đâu rồi, em đang tìm chị ấy. Cậu bé nói: - Chị ấy cũng đang tìm em. Nào, để anh đưa em về nhà. - Anh biết đường về nhà? - Tất nhiên là biết chứ. Thấy bộ dạng cậu ta rất tự tin nên cô cũng yên tâm hơn một chút, vui mừng nhảy chân sáo theo sau cậu ta, dần dần lại thấy đoàn người đang diễu hành. Cậu bé nghe thấy tiếng bước chân lạch bà lạch bạch của cô, liền dừng lại đợi, đưa tay ra nói: - Nắm lấy tay anh, đừng để bị lạc lần nữa. Cô nắm lấy tay cậu bé, cùng cậu len lỏi qua các đám đông trên phố. Hai chân cô đều đã mỏi nhừ, luôn miệng hỏi: - Vẫn chưa tới sao? Còn bao xa anh? Cậu bé nói với cô: - Không xa, không xa đâu, qua con phố kia là đến cổng sau của trường. Thôi, để anh cõng em. Cô đã mệt rồi, thật sự đi không nổi nữa, liền để cậu cõng. Cô nằm trên lưng cậu, thấy bóng cậu đổ dài xuống đất, đầu cô tì lên vai cậu, nhìn như cái cổ của cậu mọc ra một cái cục lớn. Chương 3 Thực ra trước khi nhà họ Lư chuyển đi, thành tích của Tiểu Kim đã đuổi kịp con trai của họ. Về môn Toán, tiểu tử nhà họ Lư vẫn khá hơn một chút, cậu ta ở lớp accelarate class (lớp tăng cường), Tiểu Kim ở lớp advanced class (lớp vừa), cao hơn một cấp so với lớp bình thường, thấp hơn một chút so với lớp accelerate class. Nhưng Tiểu Kim lại mạnh hơn Lewis ở lớp Viết, là thành viên của Writing Club (Câu lạc bộ viết), còn Lewis thì không. Writing Club là tổ chức mang tính toàn trường, chỉ nhận những học sinh có năng khiếu nhất trong lĩnh vực viết lách, trong câu lạc bộ chỉ có mình Tiểu Kim là học sinh nước ngoài, những bạn khác đều là con cái của những gia đình sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Sầm Kim rất tự hào vì đều đó, cảm thấy con gái mình sang Mỹ chưa được mấy năm mà khả năng viết tiếng Anh đã đạt trình độ để vào Writing Club thật sự không hề đơn giản. Việc viết lách không phải chỉ học thuộc lòng một cách cứng nhắc là có thể viết được, cũng không phải khổ luyện là có thể viết được, ít nhất phải có tám mươi phần trăm là tài năng, hai mươi phần trăm là nhờ sự tích lũy. Nhưng mẹ Lewis lại coi đó là một việc không hay, còn cảnh báo cô: - Mẹ Petal này, chị cho con gái vào Writing Club làm gì? Lãng phí thời gian. Lẽ nào sau này nó dựa vào viết lách để kiếm miếng cơm? - Không phải dựa vào viết lách để kiếm miếng cơm, nhưng viết tốt thì cũng có cái hay chứ? - Viết tốt thì làm được gì? Rất nhiều trường đại học khi tuyển sinh đều không xem xét điểm viết của SAT[1], chi bằng chị siết chặt hơn môn Toán của nó, nếu không sau này thi SAT sẽ bị kéo điểm xuống đấy. [1]. SAT là một trong những kỳ thi chuẩn hóa (nghĩa là mỗi đợt thi đều có dạng thức đề thi giống nhau) cho việc đăng ký vào một trường đại học tại Mỹ. Kỳ thi SAT được quản lý bởi tổ chức phi lợi nhuận College Board của Mỹ, và được phát triển bởi tổ chức ETS – Education Testing Service (Tổ chức giáo dục chuyên về dịch vụ thi cử). - Nó cũng rất đang nỗ lực trong môn Toán. - Có phải nó học hay lệch, các môn xã hội thì tốt, còn các môn tự nhiên thì không tốt lắm? - Tôi thấy môn Toán của nó không tồi, có thể vào lớp advanced class chứng tỏ giỏi hơn những đứa bình thường, thế là tôi hài lòng rồi. Mẹ Lewis rất không tán thành: - Đây là mặt chưa được ở các bậc phụ huynh như chị, bản thân chị không đặt ra cho con mình mục tiêu xa hơn một chút thì sao có thể đôn đốc con cái nỗ lực vươn tới mục tiêu lớn chứ? Nếu con cái biết chị rất hài lòng với việc nó vào được lớp advanced class thì nó sẽ không tiếp tục nỗ lực nữa. Sầm Kim không biết làm thế nào mới khiến mẹ Lewis hài lòng, cô cảm thấy rất đau đầu. Không chỉ có như vậy, mẹ Lewis cũng rất lo lắng cho tình trạng hôn nhân của Sầm Kim: - Này! Con cái không có bố sau này sẽ có khiếm khuyết trong tính cách đấy. Sầm Kim định nói đùa để đối phó với vấn đề này: - Ai nói Petal không có bố? Không có bố thì đâu thể có con? - Ồ! Không phải là tôi nói không có bố đẻ, ý tôi nói là một gia đình không có đàn ông thì tính cách của con cái chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, sẽ khá nhu mình, thiếu vẻ nam tính… Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com - Con gái cần nam tính làm gì? - Sao lại không cần nam tính? Con gái không nam tính một chút thì khi ra ngoài xã hội thì sao đấu được với người ta? Chỉ có gia đình có đầy đủ bố mẹ thì con cái mới có thể phát triển toàn diện. Sầm Kim nghiến răng nói đùa: - Vậy chị nói xem phải làm thế nào? Lẽ nào tôi có thể trở về quá khứ thay đổi việc ly hôn ư? - Ly hôn không hẳn là không thể khắc phục, không phải còn có thể tái hôn sao? - Chúng tôi không thể quay lại với nhau được. - Bố nó không chịu quay lại? - Bố nó có chịu quay lại thì tôi cũng không đồng ý. - Tại sao hai người ly hôn? - Tính cách không hợp. Mẹ Lewis liền thở dài: - Tôi thấy tính cách chị quá mạnh mẽ. Phụ nữ mạnh mẽ quá cũng không tốt, giải quyết mối quan hệ với chồng không tốt thì sẽ làm ảnh hưởng rất xấu đến con cái. Đàn ông ấy mà, tính cách phải mạnh mẽ hơn đàn bà, chị có thể nhường anh ta một chút, biết chị đang nhường thì anh ta sẽ đối xử tốt hơn với chị, cuối cùng chỉ sẽ không bị thiệt thòi. Phụ nữ mạnh mẽ quá, không chịu nhường một bước, trông thì có vẻ không bị thiệt thòi, nhưng cuối cùng vẫn sẽ chịu thiệt thòi lớn. - Chịu thiệt thòi cái gì? - Ly hôn chẳng phải là chịu thiệt thòi sao? - Nếu ly hôn đồng nghĩa với việc chịu thiệt thòi thì anh ta cũng bị thiệt. - Nhưng đàn ông lại khác! Tôi đoán anh ta đã tái hôn rồi. - Vâng! Tái hôn rồi. Mẹ Lewis vẻ toàn thắng: - Chị xem, tôi nói có đúng không? Anh ta ly hôn xong, lập tức có thể tìm người khác rồi kết hôn, nhưng chị thì không thể, vậy chẳng phải chị bị thiệt thòi sao? - Tôi không cho rằng ly hôn rồi không tái hôn là bị thiệt. - Chị có thể khăng khăng không chịu thừa nhận, nhưng con gái chị sẽ chịu thiệt thòi cùng với chị. - Con tôi thì thiệt thòi cái gì? Không phải nó đang sống tốt đấy sao? - Sao nó có thể sống tốt được? Người ta có bố, nó không có bố. - Tôi đã nói với chị rồi, nó có bố. Mẹ Lewis đành nhượng bộ: - Được rồi, cứ coi như nó có bố, nhưng bố nó không ở cùng với nó! Nó thấy người ta có bố mẹ ở cùng, còn mình chỉ có mẹ ở bên, lẽ nào nó không buồn sao? - Nó chưa hề buồn vì việc này. - Nó buồn cũng sẽ không nói với cô! Phải chú ý quan sát mới thấy. Tôi luôn cảm thấy tính cách của Petal có phần cô độc, có thể là do cô và bố nó không sống cùng nhau đã gây nên điều đó. - Tôi không thấy tính cách của con gái tôi cô độc, nó đã kết giao được với rất nhiều bạn. Cô điểm ra một chuỗi danh sách các tên, mẹ Lewis nghe xong liền chau mày nói: - Sao tôi thấy đám trẻ mà cô nói đều không phải là người Trung Quốc? Petal nhà cô không kết giao với bạn người Trung Quốc à? - Kết bạn với ai mà chẳng giống nhau? - Đối với đám trẻ nước ngoài, tôi vẫn luôn không yên tâm, ai biết gia đình chúng nó như thế nào? Cô phải theo sát Petal một chút, đừng để nó chơi bời với đám trẻ xấu. - Tôi vẫn theo sát nó, nó sẽ không chơi với đám bạn xấu đâu. Mẹ Lewis nói với vẻ lo lắng: - Ừ! Con cái mà có bố mẹ ly hôn thì sau khi lớn cũng dễ ly hôn. - Tại sao? - Từ nhỏ chúng đã không được biết một gia đình êm ấm là thế nào, cô bảo làm sao chúng hiểu được cách để xây dụng một gia đình êm ấm, hạnh phúc? - Tôi thì lại được nghe điều hoàn toàn ngược lại, con cái mà có bố mẹ ly hôn thì càng biết trân trọng tình yêu và hôn nhân. Mẹ của Lewis tỏ vẻ “không nghe lời người xưa, sau này sẽ thiệt thòi”, chị ta lắc đầu và không nói thêm gì nữa. Sau cuộc nói chuyện này, Sầm Kim tưởng mẹ Lewis sẽ từ bỏ ý định làm thông gia với nhà cô, và sẽ không quan tâm đến chuyện của cô và con gái cô nữa. Nhưng cô đã lầm, mẹ Lewis không những không xa lánh cô mà còn tích cực giới thiệu đối tác cho cô. Nhưng trong tay mẹ Lewis cũng chẳng có mấy lá bài, cũng chỉ có thể đôn đáo nhờ người khác giúp. - Anh Trương này, chỗ anh có anh nào tầm hơn bốn mươi tuổi không? Một người bạn thân của em đã ly hôn, một mình nuôi con gái, tôi nghiệp lắm, cô ấy nhờ em giúp xem có đối tượng nào không. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com - Tiểu Lý này, tôi nghe nói bố cậu gần đây sang thăm thân hả? Mẹ cậu mất rồi à? Vậy bố cậu đã có ý tái hôn chưa? Tôi quen một người bạn, đang học tiến sĩ ở đây, rất hợp với bố cậu. Cứ như vậy người này truyền đi người kia truyền lại, lời đồn thổi truyền đi khắp nơi, trường đại học A có một vị phụ huynh là mẹ đơn thân, tha thiết muốn tái hôn, nhờ người dẫn mối. Trong một thời gian, các kiểu đàn ông loạn xì bà nhằng đều được đẩy đến trước mặt cô. Cô phải tốn rất nhiều thời gian giải thích với mọi người nhưng người ta cũng không tin. Cô phát bực: - Tôi không có ý định tái hôn, mọi người làm ơn đừng tác hợp cho tôi nữa. Như vậy thành ra đắc tội với những người có ý tốt giới thiệu, họ nói cô đạo đức giả, kiêu ngạo và nói với giọng mỉa mai: - Xem cô ta kiêu căng kìa! Để con cô ta tìm được người như thế nào nữa! Sau này rồi cô ta sẽ phải khóc. Trong bữa tiệc chia tay, mẹ Lewis cũng không quên chuyện tái hôn của Sầm Kim, nhân lúc cô xuống nhà xem con gái trượt patin, liền thì thầm với cô: - Này, tôi sắp đi rồi, nhưng chuyện lớn của chị tôi vẫn sẽ không quên, lần này tôi đã mời Vương Đan Sinh, chính là cái anh mặc comle xanh đó, anh ấy không chỉ giỏi ở cái đầu mà rất thiệt thà. Cách đây không lâu, vợ anh ta chạy theo một người Mỹ. Sầm Kim khóc dở mếu dở: - Vợ anh ta chạy theo người Mỹ nên chị muốn tôi thế chỗ? - Không phải ý đó, tôi chỉ cảm thấy hai người rất xứng đôi. - Chị vẫn còn muốn tôi đi lấy chồng? Tôi đã nói với chị rồi, tôi không muốn tái hôn nữa. - Nói thì nói như vậy, nếu thật sự gặp được người phù hợp, cô vẫn không muốn lấy ư? Cô không nghĩ cho cô thì cũng phải nghĩ cho Petal chứ. - Lẽ nào tôi tìm bố dượng là vì Petal, như vậy thì nó mới hạnh phúc? - Bố dượng cũng còn hơn là không có bố, gia đình đơn thân không hoàn chỉnh, mà con cái sống trong gia đình không hoàn chỉnh thì… Sầm Kim không muốn đề cập đến vấn đề gia đình đơn thân này nữa, đi sang nói với con gái, coi như cắt đứt bài diễn văn dài của mẹ Lewis. Nhưng câu nói này của mẹ Lewis cũng khiến cô để ý một chút đến anh chàng Vương Đan Sinh mặc bộ comle xanh đó. Hơn bốn mươi tuổi, không xấu trai, nhưng cũng không có điểm nào đáng để chú ý, mới nhìn thì biết là một người thật thà, mẫu người thật thà đến nỗi chẳng có vị gì. Rất có thể mẹ Lewis đã công khai ý làm mối cho Vương Đan Sinh vì cô phát hiện thấy anh ta cũng đang quan sát cô, vừa chạm phải ánh mắt cô liền cúi đầu chào. Cô rất thông cảm với người đàn ông tên Vương Đan Sinh này, nhưng nếu bắt cô phải sống với anh ta đừng nói là cả đời mà chỉ chốc lát thôi cũng sẽ khiến cô chịu không nổi. Một lát sau, cô phát hiện ra Vương Đan Sinh đang làm thân với Tiểu Kim, chắc có ai đã dạy anh ta, cách tốt nhất để túm được một bà mẹ đơn thân thì trước tiên phải lấy được lòng con gái cô ta. Vương Đan Sinh hỏi: - Petal, sau này cháu muốn làm gì? - Viết ạ. - Viết? Thế chẳng phải là làm nhà văn sao? - Là writer viết screenplay (người viết kịch bản cho phim). Vương Đan Sinh dường như không hiểu: - Screenplay? Đúng lúc đó, ti vi nhà họ Lư đang chiếu một bộ phim truyền hình, Tiểu Kim liền chỉ vào nói: - Chú xem, đó chính là screenplay! Có một vị khách xen vào: - Hả? Sau này Petal muốn viết kịch bản cho phim truyền hình à? Vậy thì giỏi quá, về sau chúng ta sẽ xem phim truyền hình do cháu viết. Tiểu Kim nói một cách khảng khái: - Cháu sẽ đưa mọi người lên phim. Mẹ Lewis liền dội ngay một gáo nước lạnh: - Cháu viết kịch bản phim, liệu có ai muốn quay không? - Nếu cháu viết hay thì sẽ có người quay. - Thế cũng chưa chắc, cháu không phải là người Mỹ, tiếng Anh có tốt như người Mỹ được không? Hơn nữa người Mỹ rất kỳ thị người nước ngoài, người nước ngoài đòi chen chân vào ngành điện ảnh truyền hình của họ ư? Không có cửa đâu! Tiểu Kim liền hỏi Vương Đan Sinh: - “Kì thị” là gì hả chú? Và “không có cửa” có nghĩa là sao ạ? Vương Đan Sinh dường như cũng không viết hai từ này dịch sang tiếng Anh như thế nào, cứ lúng túng ấp a ấp úng. Sầm Kim nói với con gái: - Kì thị là prejudice, bias, không có cửa là no way. Tiểu Kim liền trả lời mẹ Lewis: - Nếu người Mỹ không muốn quay thì cháu sẽ tìm người Trung Quốc. Mọi người đều cười phá lên, nói vui: - Petal, cháu đừng viết cô xấu quá đấy. - Hãy viết cho tốt một chút! - Đừng dùng tên thật của cô được không? Từ trước đến nay Sầm Kim chưa hề được nghe con gái nói chuyện muốn làm nhà viết kịch, cô cũng chưa bao giờ hỏi con bé lớn lên muốn làm gì, cảm thấy nó còn quá nhỏ. Hôm nay nghe thấy vậy, cô cũng hơi kinh ngạc, không ngờ con gái đã đặt ra mục tiêu cho mình như vậy. Cô và bố Tiểu Kim đều học tự nhiên, bình thường cũng không ai đề cập đến chuyện làm nhà văn hay viết kịch bản phim, nhưng Tiểu Kim lại chọn con đường làm nhà văn, chỉ có thể nói là do di truyền. Có lẽ ước mơ làm nhà văn đã được viết trong gen nhà họ Sầm, ước mơ đó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tổ tiên nhà họ Sầm đâu như có mấy người đỗ tú tài, cử nhân gì gì đó, ở thời đại đó, người đỗ tú tài cử nhân đều phải nhờ vào tài viết văn. Bố cô được thừa hưởng cái gen làm nhà văn của nhà họ Sầm, cũng được kế thừa tài năng viết văn của dòng họ, ngòi bút rất sắc bén, thường xuyên có bài viết đăng trên các báo và tạp chí, thời trẻ đã có tác phẩm đạt giải thưởng, rất có tiếng ở tỉnh D. Mẹ của Sầm Kim là một người yêu văn, gọi như bây giờ là “nữ sinh yêu văn nghệ”. Bố cô với tư cách là nhà văn trẻ đến trường của mẹ cô nói chuyện, nói về những kinh nghiệm sáng tác của mình, nhờ đó mà bố mẹ cô quen nhau. Một anh nhà văn trẻ đẹp trai, phong độ đứng trên sân khấu nói chuyện rất đĩnh đạc, vô số các nữ văn sĩ nghe báo cáo ở phía dưới, người nào người nấy đều phân tâm, không biết là bị thuyết phục bởi tài hùng biện của nhà văn Sầm hay đổ vì phong độ của ông. Mẹ đã yêu chàng thanh niên trẻ vừa phong độ vừa đẹp trai rất có khiếu ăn nói đó, trở thành một người hâm mộ kiên định của nhà văn Sầm, theo cách nói bây giờ thì chính là “Fan cuồng nhiệt” của nhà họ Sầm. Nhưng nhà văn Sầm có bao nhiêu người hâm mộ như vậy nên việc mẹ cô muốn lọt vào con mắt của ông thật không dễ dàng gì, mẹ đã rất nỗ lực, nhưng cũng chỉ lọt được vào nhóm fan vòng ngoài của ông, cùng với mấy cô nữ sinh khác mời ông giảng một khóa văn học. Nếu không xảy ra phong trào chống phái hữu chưa từng có trong lịch sử thì có lẽ mãi mãi mẹ sẽ không có cơ hội lọt vào mắt xanh của nhà văn Sầm. Nhiều lúc cuộc sống quá chật vật, khó khăn, Sầm Kim sẽ chửi rủa phong trào đó, nếu không có phong trào đó, bố mẹ cô sẽ không thể đến với nhau, và cũng sẽ không sinh ra cô, như vậy cô sẽ không phải chịu đựng tất cả nỗi khổ của nhân gian; nhưng khi được hưởng những khoảnh khắc ngọt ngào của cuộc sống, cô lại sẽ cảm ơn phong trào đó, nếu không có nó thì bố sẽ mãi mãi là nhà văn của tỉnh, còn mẹ cũng sẽ dạy học ở một trường nào đó trong tỉnh, nhưng họ sẽ không kết thành vợ chồng và sinh ra cô. Chương 4 Sầm Chi – bố của Sầm Kim nổi danh nhờ cây bút, và cũng xui xẻo vì ngòi bút. Ông dùng cây bút của mình, viết tên lên bảng vàng “nhà văn trẻ” đạt “giải thưởng nhà văn”, và cũng tự đưa mình vào đống bùn lầy của “phần tử phái hữu”. Năm xưa, với tấm lòng đầy nhiệt huyết và sự nông nổi của tuổi trẻ, chàng trai trẻ Sầm Chi đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, giúp Đảng chỉnh đốn, với cây bút của mình, ông đã viết tiểu thuyết, sáng tác thơ ca, có mấy bài viết đưa ra ý kiến đối với Đảng. Sầm Chi cứ tưởng rằng nhờ đó Đảng sẽ có sự cải tiến, đâu ngờ… ông. Phong trào chống phái hữu vừa bắt đầu thì Sầm Chi bị lôi vào, phải đội chiếc mũ “phần tử phái hữu”, bị đều đến một thành phố E rất nhỏ xa xôi làm giáo viên của trường Trung học thứ Ba. Sự xuất hiện của Sầm Chi được coi như là một thông tin lớn và mới của thành phố E, bởi thành phố E cách tỉnh đến mấy trăm ki lô mét, giao thông bất tiện, ngồi xe ngồi tàu đều mất một hai ngày, cho nên rất ít người từ tỉnh đến. Nay có một người phái hữu từ trên tỉnh xuống, từng là nhà văn lớn, đã xuất bản sách, có nhiều bài viết đăng báo, tạp chí, đó hẳn là một sự bất thường. Nhưng sự xuất hiện của Sầm Chi khiến cho lãnh đạo trường trung học thấy đau đầu: Để phần tử phái hữu từ tỉnh xuống này dạy môn gì đây? Sầm Chi tự nguyện nhận dạy môn Ngữ văn, nói đó là nghề tay phải của mình. Nhưng nhà trường không dám để Sầm Chi dạy Ngữ văn, sợ ông sẽ truyền cho học sinh tư tưởng phái hữu chống Đảng, chống nhân dân. Vậy thì dạy Lịch sử đi. Không được, dạy Lịch sử rất dễ mượn cổ bác kim. Dạy Địa lý thì sao? Cũng không được, đừng có cổ xúy cho việc quốc dân Đảng chống Đại lục trên giảng đường. Dạy Âm nhạc? Càng hỏng bét, công khai truyền bá cho học sinh những âm thanh suy đồi. Kết quả sau nhiều cuộc thảo luận là Sầm Chi trở thành giáo viên dạy “môn Lao động”. Môn Lao động của trường học trước đây là do giáo viên chủ nhiệm các lớp đảm nhiệm, có nghĩa là đưa học sinh đi vệ sinh sân trường, đào hố trồng cây, chăm sóc mấy mẫu vườn cây của trường, lo mấy việc bếp núc cho nhà ăn của trường. Giờ có Sầm Chi là giáo viên chuyên trách môn Lao động, giáo viên chủ nhiệm đã được giải phóng, đến lớp nào học môn Lao động thì Sầm Chi lên lớp, đưa học sinh đi lao động, cá nhân cũng được sẽ cải tạo tư tưởng trong việc rèn luyện lao động. Cách làm này của trường trung học lúc đó không chỉ có mình trường biết mà chẳng mấy chốc đã lan truyền khắp thành phố E, lãnh đạo trường trung học còn vì thế được nhận bằng khen của cấp trên. Nhưng thật không may cho Sầm Chi, cả đời chưa từng lao động chân tay, thực sự là “vai không thể vác, tay không thể làm”, giờ buộc phải đưa học sinh đi lao động, không chỉ bản thân phải có thể lực, tay mang tay vác tay đào, mà còn phải duy trì kỷ luật, ngăn ngừa học sinh gây chuyện đánh nhau, để xảy ra sự cố thương vong, thật khiến Sầm Chi mỏi mệt. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Sầm Chi với ước mơ làm nhà văn chảy bỏng bị điều đến vùng đất bé như vậy, rơi vào hoàn cảnh phải đi lao động chân tay, hơn nữa không còn cơ hội trở về tỉnh làm nhà văn, tự thấy mình rơi xuống vực sâu của cuộc sống, không còn thiết sống. Nghe nói lúc đó Sầm Chi thường xuyên lang thang bên bờ sông, bờ ao, và bên hố phân, đắn đo không biết nhảy xuống đâu để có thể chết nhanh, chết triệt để hơn. Thời đó nước máy của thành phố E vẫn chưa được phổ cập, chỉ có trường học và nhà máy mới có nước máy, còn người dân muốn dùng nước thì đều phải ra sông gánh về, Sầm Chi nghĩ nhảy xuống sông không ổn, sẽ bị thanh niên đi gánh nước nhìn thấy, cứu lên, vậy thì bao công lao lại đổ xuống sông xuống bể hết, tội lại tăng thêm một nấc, gọi là “sợ tội mà tự sát bất thành”, như vậy cuộc sống sau này càng khốn đốn hơn. Hay nhảy xuống ao đi, lại sợ bị đàn bà con gái giặt quần áo nhìn thấy, vừa được ngụm nước đã bị người ta kéo khỏi cái ao, vẫn là công cốc. Nhảy vào hố phân thì sẽ chẳng có ai ra tay cứu, nhưng mồm miệng tai mắt đều ngập ngụa nước phân, nước tiểu, nghĩ đến đã thấy khó chấp nhận, hơn nữa chết bẩn thỉu như vậy, nếu muốn đầu thai kiếp sau để làm nhà văn thì cũng đừng mong đợi gì. Đúng lúc đứng bên bờ vực của sự tuyệt vọng thì Sầm Chi nhận được một lá thư gửi từ tỉnh nhà, xưng Sầm Chi là “thầy của em”, ký tên “Đào Kim Phần, một người yêu văn ngưỡng mộ thầy”, nội dung thư toàn là những lời lẽ khích lệ. Sầm Chi vắt óc cũng không nghĩ ra được cô gái Đào Kim Phần đó là người nơi nào, ông giở lại cuốn sổ ghi chép nhỏ quý báu của mình ra tìm, cũng không thấy cái tên “Đào Kim Phần”, mà những cái tên trong cuốn dổ đó đều là quá khứ rồi, người ta không liên lạc với ông từ lâu. Ông xé toạc cuốn sổ ghi chép đó, tìm một quyển sổ nhỏ mới, trong cột “họ tên”, viết một cách cung kính mấy chữ “Đào Kim Phần”, trong cột “liên hệ”, cảm kích viết mấy chữ “ân nhân cứu mạng”. Sầm Chi viết thư trả lời rất cẩn thận, nói mình có lỗi với nhân dân, có lỗi với Đảng, phạm sai lầm theo phái hữu, may nhờ có chính phủ cứu rỗi kịp thời, đã cho mình cơ hội sửa chữa làm lại từ đầu, giờ đang nỗ lực cải tạo tư tưởng, phấn đấu sớm trở về với vòng tay của nhân nhân dân v.v… Đào Kim Phần nhanh chóng gửi tới bức thư thứ hai, lần này không còn kiểu khách sáo nữa, sau tiếng xưng hô “thầy của em” lại thêm một chữ “tình yêu của em”, và thẳng thắn thổ lộ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của mình đối với “thầy của em, tình yêu của em”, cảm xúc chân thành, lời văn thanh thoát, Sầm Chi đọc mà ngây ngất, cứ như một giấc mơ. Mãi cho đến giờ Sầm Chi mới nhớ ra một khuôn mặt mơ hồ, Đào Kim Phần chắc là cô gái nhỏ nhắn có khuôn mặt hơi xanh xao, trông nhỏ hơn nhiều so với nhóm nữ sinh yêu văn nghệ, không giống sinh viên đại học, mà giống học sinh trung học chưa hết tuổi dậy thì. Ông chỉ có một chút ấn tượng như vậy đối với Đào Kim Phần, cũng bởi vì cô vẫn chưa trưởng thành nên lúc đó ông nghĩ cô là em gái của một nữ sinh nào đó. Ông hoàn toàn không ngờ trong cơ thể nhỏ nhắn Đào Kim Phần lại ẩn chứa sự gan dạ và sức mạnh to lớn như vậy, trong khi tất cả mọi người đều không dám qua lại với ông thì cô nữ sinh bé nhỏ này lại mạnh dạn thổ lộ tình yêu chân thành của mình với ông, điều đó khiến ông cảm động đến rơi nước mắt, lập tức viết ngay một lá thư bày tỏ nỗi lòng. Nhà văn thì hay dễ bị lẫn lộn giữa tưởng tượng và hiện thực, bức thư đầu tiên Sầm Chi viết cho Đào Kim Phần không giống như viết cho cô gái nhỏ nhắn chưa trưởng thành với khuôn mặt mơ hồ, mà như viết cho người yêu mà mình đã khao khát, mến mộ bao năm, một tình cảm sâu đậm, nồng nhiệt và lãng mạn. Từ đó Sầm Chi không còn cảm thấy cô đơn, buồn tẻ nữa, những mệt mỏi về thể xác cũng đã dễ chịu hơn, cuộc sống trống trải cũng trở nên phong phú, toàn bộ thời gian rỗi rãi của ông đều dùng để viết thư, giống như viết một cuốn tiểu thuyết, có lúc phải chỉnh sửa nhiều lần, có lúc lại viết một mạch, bức nào cũng viết rất văn vẻ, hai người nói chuyện về văn chương, về kịch, về nghệ thuật, về hội họa, phàm là chủ đề không liên quan đến cơm áo gạo tiền, họ đều bàn tới. Nhưng ông không dám nói đến tương lai, biết mình không xứng. Đào Kim Phần mấy lần hỏi ông có dự định gì trong tương lai, ông đều quanh co rồi lảng đi. Sau đó Đào Kim Phần đã viết một tiểu thuyết ngắn, nhờ “thầy của em” chỉnh sửa. Cuốn tiểu thuyết viết về hai thanh niên người Nga, người con trai bị Lê nin gọi là “Đảng viên Đảng tháng Chạp” của “Những nhà Cách mạng quý tộc”, sau khi việc lật đổ Sa hoàng bị thất bại, đã bị lưu đày đến vùng Siberia lạnh giá, vị hôn thê của anh đã từ bỏ cuộc sống quý tộc, xa hoa để đuổi theo người mình yêu ở Siberia, hai người đã kết thành vợ chồng tại vùng đất băng giá và sống với nhau đến đầu bạc răng long. Đọc xong cuốn tiểu thuyết của Đào Kim Phần, Sầm Chi không chỉ cảm động vì một tình yêu không hề lay chuyển được thổ lộ giữa từng câu từng chữ, mà cũng kinh ngạc bởi ngòi bút của cô. Đào Kim Phần nói đã từng gửi ông bài viết của mình, nhờ ông chỉnh sửa, vậy sao ông không hề phát hiện ra ngòi bút hay như vậy? Có phải vì lúc đó người gửi bài cho ông quá nhiều nên đến đọc ông cũng không buồn đọc mà vứt ngay vào sọt rác? Nếu lúc đó đọc cuốn tiểu thuyết này của Đào Kim Phần thì chắc chắn ông sẽ vô cùng sửng sốt và lập tức đề nghị biên tập xuất bản cuốn tiểu thuyết này. Nhưng giờ thì việc xuất bản nó là điều không thể, không chỉ vì sự tiến cử của ông đã không còn đáng một xu, mà còn bởi ông đã sáng mắt ra sau phong trào chống phái hữu của mình, ông biết rằng tiểu thuyết như vậy rất có thể sẽ bị coi là sự ám chỉ, sẽ coi tác giả như một phần tử phản động có mưu đồ lật đổ chính phủ và sẽ bị bắt giam. Ông không trả lời thư ngay, nhưng trong lòng cũng suy nghĩ liên miên, sau hai ngày ba đêm, ông gửi lại Đào Kim Phần cuốn tiểu thuyết đã được ông “hiệu đính”. Nửa phần đầu của cuốn tiểu thuyết được giữ nguyên bản, nhưng kết thúc bị sửa lại, vị hôn thê của chàng thanh niên Đảng tháp Chạp đó không đuổi theo đến Siberia, mà lại nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ, ở lại Saint Petersburg sống một cuộc sống êm đềm, lấy đội trưởng đội vệ quốc của Sa hoàng, và có cuộc sống tốt hơn. Vài năm sau chàng thanh niên Đảng tháng Chạp đó đã già yếu, chắc không thể tạo phản nữa, nên được Sa hoàng ân xá, rời Siberia, anh ta đến Saint Petersburg để tìm người yêu. Ngày nào anh ta cũng băng qua gió tuyết đi tìm trên các đường phố, cuối cùng đã gặp lại được vị hôn thê năm xưa. Cô vẫn còn trẻ và xinh đẹp, đang ngồi trong một chiếc xe ngựa sang trọng, bên cạnh là người chồng vạm vỡ và đứa con còn non nớt. Anh đi đến gần cỗ xe ngựa, cô không nhận ra anh, nhưng rất nhân từ cho anh một chút tiền. Cỗ xe ngựa xa dần trong tiếng chuông leng keng, lớp tuyết bị vó ngựa cào lên theo cơn gió lạnh buốt thổi tạt vào mắt chàng thanh niên Đảng tháng Chạp. Anh ngã xuống nền tuyết, trên môi là một nụ cười hạnh phúc. Sau khi bức thư được gửi đi, trong thư trả lời Đào Kim Phần viết: “Cảm ơn sự chỉ bảo của thầy, em đang viết bản thảo thứ hai, sau khi hoàn thành sẽ gửi thầy, kính mong thầy sửa giùm”. “Bản thảo thứ hai” này rất lâu sau vẫn chưa được gửi tới. Mùa hè đến, trường học nghỉ hè, Sầm Chi không phải lên lớp lao động, nhưng lãnh đạo phân công cho ông nhiệm vụ: phụ trách mấy vườn rau của nhà trường, nói rằng kỳ nghỉ hè, một số giáo viên không rời trường, vẫn ăn ở nhà ăn nên trường không thể cắt đứt nguồn cung cấp rau xanh. Đây rõ ràng là công việc phải làm thêm, nhưng Sầm Chi không dám lên tiếng, ai bảo mình là kẻ phái hữu chứ? Đã đội cái mũ to như vậy thì há không phải để cho người ta giẫm vài cái, đá vài cái sao? Vậy là Sầm Chi biến thành anh nông dân trồng rau, hàng ngày bận rộn giữa mấy mảnh vườn, xới đất, tưới nước, bón phân, diệt sâu, rất cực nhọc. Ông vốn đã quen với sự đau đớn về mặt thể xác, nhưng sự trống vắng về tình cảm lại càng khiến sự đau khổ tăng thêm gấp bội. Sau khi được nếm mùi vị tình yêu và và sự ngưỡng mộ của Đào Kim Phần, giờ bỗng đột ngột rơi vào cảnh ai ai cũng nhìn với con mắt khinh bỉ, khiến cuộc sống của Sầm Chi càng không còn ý nghĩa gì. Ông bắt đầu lại đi lang thang khắp nơi, để xem làm thế nào cắt đứt ý thơ. Một hôm, khi ông đã chăm bón xong mấy mảnh rau của nhà trường, quấn xắn ống cao, khắp người đầy mùi phân trở về căn phòng tồi tàn của mình, đang mở khóa cửa thì nghe thấy một giọng nữ phía sau: “Thầy Sầm, cuối cùng thầy cũng đã về!” Ông quay đầu lại nhìn, đó là một cô gái trẻ từ trong bóng râm của một lùm cây đi ra, khuôn mặt đỏ ửng, tay cầm một chiếc khăn tay không ngừng phe phẩy. - Cô là? - Thầy không nhận ra trò sao? - Cô là Đào? - Sao ạ? Không giống như thầy tưởng tượng? - Trong ấn tượng của tôi, em là một cô bé rất gầy. - Người không lớn lên sao ạ? Đào Kim Phần thật sự đã lớn lên nhiều, ngực cô nhấp nhô, eo thon thả, cánh tay trắng nõn như cọng sen, mặc một chiếc váy hoa nhí, eo thắt một chiếc thắt lưng cùng màu với váy, khiến cho những đường cong trên cơ thể cô đều được thể hiện một cách rất tinh tế, chân đi đôi giày đen với đôi tất trắng. Một luồng sinh khí trẻ trung được thổi đến. Trong đầu nhà văn lớn Sầm Chi lại hiện ra một cụm từ: thắt đáy lưng ong. Đầu óc ông u mê đi, chỉ có thể nghĩ đến cụm tính từ đó. Đây cũng là cụm từ mà Sầm Kim buộc phải nghe thấy khi cô được nghe bố kể lại chuyện tình cảm của mình. Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com Đào Kim Phần “thắt đáy lưng ong” nhìn bộ dạng của ông thầy nhếch nhác đang choáng váng mất cả phương hướng thì rất vui, tinh nghịch hỏi: - Có phải sư mẫu đang trốn trong phòng thầy không? - Không, không, tôi chưa kết hôn, làm gì có sư mẫu nào? - Chưa kết hôn vẫn có thể có sư mẫu, sư mẫu tương lai. - Không có, không có, tuyệt đối không có. - Không có sư mẫu thì may, nếu có thì em không tiện quấy rầy. - Ờ! Mau vào nhà đi, ngồi đi, tôi vừa tưới phân xong, người bẩn thỉu quá, để tôi ra bể nước rửa ráy chút đã. - Em cũng đi với thầy. - Em! - Em cũng vừa mới đến, cả người cũng đầy mồ hôi, cũng muốn đi rửa ráy chút. Cái hôm đó, bố mẹ làm gì ở bể nước thì Sầm Kim không biết. Khi kể cho cô nghe đoạn lịch sử này, bố mẹ đều dừng lại và nhảy phắt sang phần “sau đó”. Khi lớn rồi, cô cũng từng trơ mặt hỏi mẹ, nhưng mẹ cô nói lần đó chẳng làm gì cả, người thời đó rất giữ phép tắc, chưa đăng ký kết hôn, chưa làm đám cưới thì sẽ không làm gì cả, cùng lắm là nắm tay, hôn một cái. Nhưng hôm đó là lần gặp riêng đầu tiên của bố mẹ, ai cũng không dám lỗ mãng, hấp tấp, cho nên hai người đi ra bể nước rồi mỗi người trốn vào một chỗ mà đối phương không nhìn thấy để rửa, rồi về nhà. Kỳ nghỉ hè năm đó, mẹ cô sống ở chỗ tạm thời do nhà trường sắp xếp, đó là một phòng học, giường được ghép từ mấy chiếc bàn học, mẹ lót một lớp bông lên trên, phủ lên tấm khăn trải giường kẻ ô màu hồng phấn của mình, trên đỉnh mắc cái màn. Còn bố vẫn ở trong căn phòng tồi tàn mười mét vuông cũ, dùng hai cái ghế đẩu của học sinh, bên trên đặt một tấm ván cửa, đó là giường của bố. Cái màn của bố rất cũ, đã bị thủng, hàng ngày bố đều bị muỗi cắn. May mà mẹ cắt mấy miếng vải từ chiếc áo sơ mi cũ của bố để vá vào cái màn, bố mới không “hiến máu” cho muỗi nữa. Lúc nhỏ, Sầm Kim nghe kể đến đây thường hỏi bố: - Con muỗi đó có cắn con không? Bố mỉm cười rồi nói: - Lúc đó còn chưa có con. - Sao lại chưa có con? - Bởi vì bố mẹ lúc đó vẫn chưa kết hôn. - Sao bố mẹ chưa kết hôn? - Lúc đó đang nghỉ hè, lãnh đạo trường học đều không có ở trường, sao kết hôn được? - Tại sao lãnh đạo của trường không có ở trường thì không thể kết hôn? - Tại vì kết hôn phải được lãnh đạo trường phê chuẩn thì mới có thể đi đăng kí. - Không đăng kí thì sao ạ? Bố nói một cách nghiêm túc: - Không đăng kí? Không đăng kí thì không thể kết hôn, kết hôn cũng không được tính. Sự thực sau này đã chứng minh, kết hôn có được tính hay không không phụ thuộc vào bạn có đăng kí hay không. Cuộc hôn nhân không đăng ký có thể vẫn được tính; cuộc hôn hôn nhân đã đăng ký cũng có thể không được tính. Mà việc có được tính hay không này trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc đời của bố mẹ và Sầm Kim. Nhưng Sầm Kim lúc đó không hiểu những điều này, cô chỉ thấy tò mò, sao cuộc hôn nhân không đăng ký lại không được “tính” chứ? Đó có phải giống như học môn Ngữ văn hay không? Chương 5 Nghe nói khi đó Sầm Chi và Đào Kim Phần cứ một người ngủ trên chiếc bàn học, một người ngủ trên cái giường nhỏ bằng tấm ván cửa đặt trên hai chiếc ghế trong căn phòng tồi tàn, cứ như vậy cho hết kỳ nghỉ hè, không dám vượt quá giới hạn một bước. Ban ngày, họ như hình với bóng không rời nhau nửa bước, đúng kiểu anh gánh nước em tưới rau, anh gánh phân em bón phân, giúp cho mấy vườn rau của trường tươi tốt xanh mướt. Làm việc nhà nông xong, thời gian còn lại chính là lúc dành cho họ. Lúc thì họ ở nhà xem sách, đọc thơ, hoặc ra hồ bơi, tối đến tìm chỗ không có người tay trong tay cùng đi bách bộ, cũng rất tiểu tư sản. Mãi cho đến khi khai giảng, lãnh đạo đều đã trở lại trường, Sầm Chi mới xin phép lãnh đạo kết hôn. Lãnh đạo không tin một phần tử phái hữu chỉ sau một kỳ nghỉ hè lại kiếm được một cô sinh viên đại học từ tỉnh về, lãnh đạo gặp riêng Đào Kim Phần để nói chuyện, xem phần tử phái hữu đó có phải đang giở trò trêu hoa ghẹo nguyệt không. Cô giáo Đào e thẹn thừa nhận tình yêu của hai người, xin lãnh đạo phê chuẩn cho kết hôn. Lãnh đạo thận trọng nói rằng việc này phải bàn bạc lại với chi bộ Đảng rồi mới quyết định. ♥STENT: http://www.luv-ebook.com Kết quả của cuộc bàn bạc là không đồng ý cho kết hôn, lí do là cô giáo Đào vừa mới đến trường trung học còn đang trong giai đoạn thử việc, không thể kết hôn. Lí do này quá khiên cưỡng, nhưng hai người vẫn phải chấp nhận quyết định của tổ chức. Qua một học kỳ, hai người lại lần nữa xin kết hôn. Chi bộ Đảng của trường lại một lần nữa nói phải bàn bạc. Thời gian của cuộc bàn bạc kéo rất dài. Giữa chừng, bố của Đào Kim Phần – vị giáo sư họ Đào ở một trường đại học nào đó trên tỉnh đã viết một bức thư dài hỏi xem có phải con gái thật sự muốn kết hôn với một phần tử phái hữu hay không, có nhận thức được hậu quả của việc làm này hay không. Trong thư trả lời Đào Kim Phần vặn hỏi lại có phải có đơn tố cáo của lãnh đạo trường trung học thành phố E hay không. Giáo sư Đào nói: - Người ta cũng vì muốn tốt cho con. Con còn trẻ, không hiểu sự đời, rất dễ bị lừa. Đào Kim Phần không trả lời trực diện, chỉ viết lại câu chuyện về chàng thanh niên Đảng tháng Chạp và người vợ của anh ta cho bố cô xem. Bố cô liền chỉ ra: - Đảng viên Đảng tháng Chạp là nhà cách mạng; còn người con muốn lấy lại là phần tử phái hữu, phản đối cách mạng, sao có thể so sánh được? Con gái trả lời: - Sầm Chi không phản đối cách mạng, anh ấy chỉ đưa ra mấy ý kiến với Đảng, có lẽ ý kiến đó chưa được chính xác, nhưng tấm lòng của anh ấy là tốt, muốn giúp cho sự cải cách của Đảng chứ không phải chống đối Đảng. Bố cô giận dữ: - Con trẻ hiểu cái gì? Nếu nó không phản đối Đảng sao Đảng lại coi nó là phái hữu, tống nó đến một nơi khốn khó như vậy? Hai đứa đến giờ còn chưa nhận thức được tính nghiêm trọng về lỗi lầm của Sầm Chi, như vậy rất nguy hiểm. Cứ thế cuộc chiến ngôn từ gay gắt giữa hai cha con diễn ra qua những bức thư, không ai thuyết phục được ai. Cuối cùng giáo sư Đào ra một thông điệp: - Cần bố mẹ hay là cần thằng phần tử phái hữu đó, con tự quyết định đi. Con gái cũng không chịu thua nói: - Bố mẹ thân yêu của con, xin bố mẹ hãy tha thứ cho đứa con gái bất hiếu này. Kẻ phần tử phái hữu Sầm Chi phát hiện ra mình đã trở thành nguyên nhân gây bất hòa giữa hai cha con nhà họ Đào, không thể không nghẹn ngào khuyên: - Kim Phần, em hãy nghe lời bố mẹ đi! Vì anh mà hai bố con em trở mặt với nhau, anh cảm thấy rất áy náy! Đào Kim Phần liền tỏ thái độ rõ ràng: - Anh đừng lo việc bố con em trở mặt với nhau, anh chỉ cần nói cho em biết, anh có yêu em không? - Yêu! - Trước đây anh đã yêu người con gái nào chưa? - Chưa! - Từ nay về sau anh có yêu người con gái nào khác nữa không? - Không! Đào Kim Phần liền mỉm cười: - Vậy thì được rồi, chỉ cần anh nhớ rõ những lời đã nói hôm nay với em thì những việc khác đều để em lo. Bố mẹ cô treo cung gác kiếm, nghe theo ý trời, nhưng dư luận lại cứ dấy lên, ngươi quen hay không quen cứ kéo đến như đèn cù để khuyên nhủ, có người khuyên bậc làm cha nên để cho con gái một con đường sống, người thì khuyên con gái vì tình cảm nhất thời mà làm lỡ làng cả cuộc đời, có người ra mặt thuyết phục, người lại tiến cử ứng cử viên tốt hơn. Cho đến khi tất cả đều trở lại bình thường thì một học kỳ nữa đã trôi qua. Năm thứ hai sau khi Đào Kim Phần đến trường trung học ở thành phố E, cuối cùng nhà trường cũng phê chuẩn cho cô kết hôn với Sầm Chi. Không tổ chức đám cưới vì đang thời kỳ khó khăn, vật tư thiếu thốn, gạo muối cũng khó mua, càng đừng nói đến những thứ xa xỉ khác. Sầm Chi chuyển mấy hòm đồ của Đào Kim Phần đến căn phòng tồi tàn của mình, cạnh hai chiếc ghế kê thêm một chiếc ghế nữa, bên trên đặt thêm một tấm gỗ, vậy là thành giường cưới. Ghế băng và ghế đẩu không cao bằng nhau nên phải kê thêm mấy quyển sách trên chiếc ghế băng. Và trên chiếc giường cao cao thấp thấp lắc lư lắc lẻo như sắp đổ đó Sầm Chi và Đào Kim Phần đã thành vợ chồng. Tục ngữ nói: “Vợ chồng nghèo hèn trăm sự khó”, nhưng Sầm Chi và Đào Kim Phần không hề cảm thấy khó, dường như bởi vì họ hèn chứ không nghèo. Giáo viên của trường trung học rất nhiều người đều được coi là “bán hộ”, trong hai vợ chồng chỉ có một người dạy học ở trường học, được lĩnh lương, nhận lương thực, thực phẩm từ nhà nước, nhưng người kia thì lại làm ruộng ở quê. Số gia đình như hai vợ chồng Sầm Chi và Đào Kim Phần đều dạy ở trường, đều lĩnh lương, đều nhận lương thực, thực phẩm từ nhà nước thì không nhiều. Đào Kim Phần lại tốt nghiệp đại học chính quy, là số ít ở trường, nên tiền lương của cô cao hơn rất nhiều so với các giáo viên khác. Lúc đó rơi đúng vào thời kỳ “ba năm thiên tai liên tiếp”, thiếu thốn nguyên liệu, thiếu dầu, thiếu muối, thiếu đường, thiếu thịt, thiếu gạo, thiếu mì, mỗi giáo viên hàng tháng chỉ có hơn mười kilogram lương thực, lại không có dầu và nước thì sao ăn nổi? Một vài giáo viên “bán hộ” ham hố ăn lương thực ở nông thôn không cần phải lên kế hoạch, còn có thể tự trồng mấy rau củ như khoai lang, bí ngô trên đất nhà mình, làm cái gọi là “tăng gia rau cỏ”, nên xin nghỉ việc về quê trồng cấy. Giáo viên không đủ, trường học quyết định để Sầm Chi đứng giảng, để ngăn ngừa ông mượn lớp học truyền bá tư tưởng phản động cho học sinh nên chỉ cho ông dạy môn Khoa học. Ba năm thiên tai đã trở thành ba năm trăng mật của Sầm Chi và Đào Kim Phần, họ không những không chết đói mà còn sinh được một đứa con. Cho đến trước Cách mạng Văn hóa, cuộc sống của nhà Sầm Chi có thể được coi là hàng trung lưu ở trường trung học đó, trong số các bạn đồng trang lứa, cô là đứa trẻ được ăn ngon mặc đẹp hơn cả, khiến rất nhiều người phải ghen tị. Sau khi Cách mạng Văn hóa nổ ra, với tội danh “phú nông phản cách mạng”, Sầm Chi đã bị lôi ra, nhưng vấn đề của ông là vấn đề cũ, không đáng phải phê phán, tố cáo nhiều, cho nên về cơ bản chỉ bị “tố cáo theo tốp”, cùng với đám “đầu trâu mặt ngựa” và “bè lũ đương quyền đi theo con đường chủ nghĩa tư bản” bị quần chúng nhân dân giám sát, phải đi cải tạo lao động. Điều này dường như không nằm ngoài sự dự đoán của Sầm Chi và Đào Kim Phần, nên hai người đều có thể bình tĩnh đón nhận. Sầm Chi còn cười nói: - Trước đây chỉ có một mình mình bị cải tạo lao động, giờ có nhiều người cùng làm với mình, không còn cô độc nữa, hơn nữa giờ cấp bậc của anh cũng được tăng rồi, đến Bí thư Vương – người theo chủ nghĩa tư bản cũng phải lao động cùng anh. Nhưng một bức thư được bà ngoại của Sầm Kim gửi đến đã khiến tinh thần lạc quan của cả gia đình bị sụp đổ: Ông ngoại của Sầm Kim, giáo sư Đào – cha của Đào Kim Phần bị lôi ra phê phán, tố cáo, với tội danh “đi theo học thuật phản động”, thường xuyên bị Hồng vệ binh kéo đi khắp các đường phố để thị uy dân chúng, trên cổ còn đeo một cái biển viết “Đả đảo Đào Xuân Lai”, còn phải tự mình khua chiêng gõ trống hét vang khắp đường phố: “Tôi là Đào Xuân Lai đi theo học thuật phản động!”, “Tôi là Đào Xuân Lai, phần tử phản cách mạng!”. Bà ngoại viết rằng: - Nếu không có mẹ theo sát thì bố con đã nghĩ quẩn rồi. Kim Phần, thư con viết cho bố con cũng bị Hồng vệ binh lục ra, coi là bằng chứng lấy đi. Con mau giải quyết chỗ đồ đạc ở chỗ con đi. Chiến dịch này khác với ngày xưa, hồi trước chỉ liên quan đến một số ít người, nhưng lần này có lẽ ai cũng phải chịu sự nung đốt của lò lửa cách mạng. Con lấy người của phái hữu thì càng phải đặc biệt cẩn thận. Tối đến, Đào Kim Phần và chồng đóng cửa, mở cái hòm gỗ lớn, lấy những bức thư tình và thư nhà được cất giữ cẩn thận trong đó ra, lấy một cái chậu men cũ và bắt đầu đốt thư. Những bức thư đó đều được viết khi hai người đang yêu nhau, vẫn luôn được cất giữ cẩn thận, định một ngày nào đó sẽ viết hồi ký cho mình, giờ cũng phải nén lòng đốt bỏ. Lúc đó Sầm Kim còn nhỏ, rất nhiều chi tiết sau này là nghe mẹ kể lại. Cô chỉ nhớ, trong giấc mơ nào đó, cô nghe thấy tiếng “bang” và giật mình mở mắt ra xem, thấy bố mẹ đang ngồi trên chiếc ghế con, ở giữa là một đống lửa, trong phòng có ít tro xám bay trong gió. Cô hiếu kỳ hỏi: - Mẹ, mẹ đang sưởi ấm à? Mẹ đến bên giường vỗ lưng ru cô ngủ: - Ngủ đi, ngủ đi, mẹ có chút việc, làm xong mẹ sẽ ngủ cùng con. Số thư phải đốt có đến một thùng lớn, chỗ tro đốt ra cũng cả đống lớn, cái chậu rửa mặt cũ bị biến dạng. Xử lý đống đó phải đặc biệt cẩn thận, nhỡ bị người ta phát hiện thì sẽ hỏng bét, chắc chắn sẽ bị hỏi thăm vì đã đốt bằng chứng buộc tội. Nghe nói bố rất thông minh vì đã xử lí đống “tội chứng” như thế này: bố khoét một lỗ tròn ở đáy cái chậu rửa mặt rồi tím ít đất vàng, làm thành một cái bếp than nhỏ. Chỗ tro đó nghe nói được trộn lẫn với bột than làm thành các viên than, dùng để nấu cơm. Nghỉ hè năm đó, lần đầu tiên mẹ đưa Sầm Kim lên tỉnh để thăm ông bà ngoại, bố vì bị giám sát lao động nên không thể cùng đi. Cô chỉ nhớ lúc tàu nhổ neo, trời còn rất sớm, nửa đêm họ đã phải dậy, bên ngoài vẫn còn se se lạnh, cô mặc một cái váy và đi đôi xăng đan, khẽ rùng mình. Trên các con phố trống trải của thị trấn nhỏ không có ai khác ngoài ba người nhà họ. Bố đặt cô lên vai, hai tay giữ đôi chân cô, cô cảm thấy ấm hơn nhiều. Đến bờ sông, dưới bầu trời đen kịt, cô nhìn thấy một con tàu lớn, rất nhiều cửa sổ nhỏ hắt ra ánh đèn, giống như một ngôi nhà lớn vậy. Mẹ nói với cô đó là con tàu. Tấm ván bắt từ bờ sông lên tàu rất dài, bố giẫm lên, tròng trành lắc lư, cô sợ quá ôm chặt lấy đầu bố. Bố nói: - Kim Kim, con bịt mắt bố rồi, bố chẳng thấy gì sẽ rơi xuống nước mất. Cô vội bỏ tay ra, đổi sang tư thế nắm lấy tai bố và hỏi: - Bố ơi, rơi xuống nước có bị chết đuối không? - Bố biết bơi sẽ không bị chết đuối, nhưng bị hòn đá to như con ngoắc vào thì sẽ bị chìm xuống đáy. - Đeo hòn đá vào thì sẽ chìm xuống đáy ạ? - Đúng vậy, hòn đá nặng, không nổi lên được. Bố đưa cô và mẹ vào một phòng nhỏ trên con tàu, có bốn cái giường, bên trên hai cái, bên dưới hai cái, cô còn nhỏ, không phải mua vé nên ngủ cùng giường với mẹ. Cô và mẹ đứng bên mạn tàu nhìn bố một mình xuống tàu. Cô cứ thấp thỏm, có cảm giác như dáng đi chao đảo đó, bố sẽ bị ngã khỏi tấm ván và rơi xuống nước. Nước sông đánh vào đáy tàu phát ra những âm thanh trống rỗng và hoang vu, tiếng còi tàu chói tai đột ngột vang lên. Trời vẫn chưa sáng, tàu tu tu tu từ từ rời bến, bóng bố nhỏ dần, cuối cùng khuất hẳn, cô buồn đến nỗi phát khóc. Mẹ ôm lấy cô vỗ về: - Đừng khóc, đừng khóc con, chúng ta đi thăm ông bà ngoại thôi mà, rồi sẽ về ngay, bố đợi mẹ con mình ở nhà. Cuộc sống trên tàu rất kỳ lạ, giống như một căn nhà lớn bập bềnh trên sông nước. Mẹ không phải đi làm, cả ngày chơi với cô. Nhưng trên tàu chẳng có gì chơi, cô và mẹ thường ngồi bên mạn thuyền ngắm cảnh hai bên bờ sông, nhưng bên sông cũng chẳng có cảnh gì đẹp, chỉ là những bờ sông dài vô tận, tất cả đều giống nhau, khiến cô cứ cảm giác như con tàu chẳng hề di chuyển chút nào, cứ dừng mãi một chỗ. Dường như phải rất lâu rất lâu họ mới đến được tỉnh. Mẹ sợ Hồng vệ binh nhìn thấy sẽ gây phiền phức nên nhân lúc trời còn tối thui đã đưa cô về nhà ông bà ngoại. Ông bà ngoại sống trong một căn hộ, ở thành phố E rất ít nhà chung cư, đây là lần đầu tiên Sầm Kim tận mắt nhìn thấy một căn hộ, lần đầu tiên ngủ trong phòng ngủ ở tầng trên cô cứ nghĩ không biết cái nhà này có đổ không? Liệu ngủ đến nửa đêm, dưới giường có xuất hiện một cái hố rồi nuốt chửng cả cô và chiếc giường vào trong đó không? Liệu khi vừa tỉnh dậy có phát hiện ra chẳng phải căn hộ gì mà là chiếc tàu lớn, tất cả mọi người trong nhà đều ở trên một con tàu lớn không? Nhưng cô không có cơ hội hỏi mẹ cô bởi vì mẹ còn mãi nói chuyện với ông ngoại và bà ngoại, cứ như muốn trút hết những điều cần nói của cả đời ra vậy, hơn nữa mấy người lớn đều thì thà thì thầm, dáng vẻ rất lo lắng. Mỗi lần cô muốn hỏi mẹ cái gì đều bị mẹ ngăn lại: - Mẹ đang bận, Kim Kim tự chơi đi. Chơi ở nhà bà ngoại mấy hôm thì cô chẳng nhớ điều gì khác mà chỉ nhớ mỗi bà nói: - Giời ạ, Kim Kim nhà mình biến thành gái quê đặc sệt rồi, đặc giọng thành phố E, nếu ông ngoại không gặp chuyện thì bà chẳng cho cháu quay về thành phố E đó, sống ở đây cùng bà. Ông ngoại nói: - Khi xưa mẹ cháu không nghe lời khuyên, nếu không cháu đã không phải sinh ra và lớn lên ở cái mảnh đất khỉ ho cò gáy đó. Mẹ cười nói: - Kim Kim, ông già rồi nên lẩm cẩm, nếu mẹ không đến nơi khỉ ho cò gáy đó thì sao có Kim Kim được? Ông ngoại vẫn nhấn mạnh: - Con ở tỉnh, lẽ nào rồi không lấy được chồng rồi có con ư? - Nhưng đó sẽ không phải là Kim Kim bây giờ! Sau đó mấy người lớn nói đến bố, mặc dù họ đều không nhắc đến tên của bố nhưng cô biết họ đang nói về bố cô. Mẹ nói với ông ngoại: - Giờ bố cũng bị họ dán nhãn kẻ thù mà bố vẫn cho rằng anh ấy là người xấu? Ông ngoại đỏ mặt tía tai nói: - Bố không giống nó, bố là quần chúng đấu tranh với quần chúng, do những kẻ thường ngày không phục mình giờ muốn trả thù mình, sớm muộn gì Đảng và Chính phủ cũng sẽ minh oan cho bố. Còn nó là phái hữu, bị Đảng định tội, vĩnh viễn không thể sửa sai được. Mẹ liển cãi lại: - Ai bảo vĩnh viễn không sửa sai được? Những Đảng viên tháng Chạp của Nga đấy cuối cùng chẳng phải đã được minh oan đó sao? Lê nin đều gọi họ là “nhà cách mạng dân tộc” đấy. - Những người theo Đảng tháng Chạp phản đối sự độc tài của Sa hoàng, lật đổ chuyên chủ nên Tôn Trung Sơn mới có thể so sánh với Đảng tháng Chạp đó. Còn cái thằng chống lại Đảng ai sẽ sửa sai cho nó? ♥STENT: http://www.luv-ebook.com Bà vội xen vào: - Đã lấy nhau rồi, con cũng còn bé bỏng gì nữa đâu, giờ nói những thứ này thì có tác dụng gì? Lẽ nào ông còn muốn chọc ngoáy phá hai đứa chúng nó? Ông ngoại thở dài nói: - Chọc phá thì không thể, con cái có rồi, lẽ nào lại để con không có cha? Tôi chỉ lo lắng thằng đó đối xử không ra gì với con gái mình, nhiều thằng đàn ông chỉ có thể đồng cam mà không thể cộng khổ, giờ tôi ra nông nỗi này, không biết liệu nó có phản lại mà ghét bỏ nhà chúng ta không? Mẹ an ủi nói: - Anh ấy không phải là người như vậy. Hơn nữa anh ấy bị coi là phái hữu thì còn có thể ghét bỏ ai chứ? Bà lo lắng nói: - Ừ! Mẹ chỉ sợ nó cả đời không may mắn, càng ngày càng tồi tệ hơn. Mẹ nói với vẻ rất tự tin: - Không thể như thế được. Cái hay của việc lấy người phái hữu chính là trước khi lấy đã biết anh ấy bị đày xuống đáy vực sâu của cuộc đời rồi, từ nay về sau không còn chỗ cao nào đi nữa, cũng chẳng còn chỗ nào thấp hơn. Sau này nhớ lại, mẹ vẫn luôn tự trách mình vì đã nói những lời huyênh hoang đó. Phải biết rằng vực sâu của đời người không có chỗ thấp nhất mà chỉ có chỗ thấp hơn. Chương 6 Sau một chuyến lên tỉnh, Sầm Kim thấy mình khác với đám trẻ thành phố E, hơi chút khoe khoang kiểu tư bản. Trong đám trẻ có rất ít đứa từng được lên tỉnh, ngay đến con tàu trông như thế nào cũng chưa thấy bao giờ, nói gì đến chuyện được đi tàu, vì vậy chúng tôn vinh cô như thần thánh. Hơn nữa cô còn mang một ít kẹo từ tỉnh về nên vào thời gian đó, cô rất được bọn trẻ trọng vọng, thường xuyên có đứa chơi với cô, ban đầu cô còn phát được cho mỗi đứa một cái kẹo, nhưng sau đó số kẹo càng ngày càng ít đi, chỉ có thể mỗi đứa cắn một miếng, rồi sau nữa thì ăn hết mất, chỉ còn lại vài cái giấy kẹo xanh xanh đỏ đỏ, cô cẩn thận mở ra rồi ép vào trong quyển sách cho thật phẳng phiu và cất giữ nó như một báu vật. Kẹo đã bị ăn hết, vai trò của cô cũng bắt đầu phai nhạt trong mắt lũ trẻ, có đứa còn đứng ra thách thức cô. Một hôm, chị Hồng long trọng tuyên bố: - Bố chị cũng từng lên tỉnh, ông còn được đi rất nhiều nơi. Có đứa không tin hỏi: - Tại sao bố chị lên tỉnh mà không đưa chị đi? - Vì nhà trường cử bố chị đi chứ không cử chị đi. - Nhà trường cử bố chị đi chơi xa à? - Không phải đi chơi mà là đi điều tra. Không biết tại sao khi nghe thấy hai từ “treo lên”[1]thì trong đầu Sầm Kim lại hiện lên một sợi dây thép được mắc ở trên cao, còn bố chị Hồng thì bị treo lủng lẳng trên sợi dây thép đó, trông rất khổ sở. [1] Trong tiếng Trung, “điều tra” và “treo lên” là hai từ đồng âm khác nghĩa, Sầm Kim nghe hiểu nhầm thành “treo lên” Cô liền hỏi với vẻ rất thông cảm: - Chị Hồng, tại sao bố chị lại bị “treo lên” như vậy? - Bởi vì nhà trường tín nhiệm bố chị mà. - Nhà trường tín nhiệm cho nên “treo” bố chị lên? - Tất nhiên rồi, nhà trường tín nhiệm ai thì cử người đó đi điều tra. Trường học không tín nhiệm bố mọi người nên đã không cử bố mọi người đi điều tra. Câu này khiến đứa nào cũng giống như những chú gà trống bị thua cuộc sau hiệp đấu, mặt mày ủ ê thất vọng. Sầm Kim không phục: - Bố chị đi rất nhiều nơi nhưng chị chưa bao giờ được đi! - Bố chị được đi cũng giống như chị được đi, vì bố chị mang về rất nhiều quà về cho chị. Mọi người tranh nhau hỏi: - Có mang kẹo về cho chị không? - Có, chị ăn hết rồi. Sự phẫn nộ trong lòng quần chúng lập tức dâng cao, dường như chị Hồng cũng nhận ra được đều đó nên đã nhanh chóng dịch chuyển sự chú ý của mọi người: - Mấy hôm nữa bố chị lại đi điều tra, đi điều tra bố của Kim Kim. Sầm Kim hỏi: - Tại sao phải “treo” bố em? - Bởi vì chú ấy là người xấu. - Bố em không phải là người xấu. - Bố em là người xấu, nếu không bác sĩ quan quân đội đã không bảo bố chị đi điều tra chú ấy. Cô biết bác sĩ quan quân đội chính là bố Vệ Quốc, sống ở gian nhà phía sau nhà cô, luôn mặc quân phục, đội mũ lính, cài cúc kiểu kín cổng cao tường của quân đội, chỉ lộ ra một chút tóc hoa râm dưới vành mũ, trông rất hòa nhã dễ gần, bình thường rất thích chơi đùa với trẻ con, hay lấy đồ chơi trên tay tụi trẻ rồi làm ảo thuật, món đồ chơi đó biến mất. Đợi đến khi đứa trẻ lo phát khóc lên thì bác ấy lại đột ngột biến món đồ chơi đó quay trở lại. Đám trẻ đều rất quý bác sĩ quan, đứa nào bạo dạn một chút còn chủ động nói chuyện với bác ấy, nhìn thấy bác đến là giơ đồ chơi cầm trên tay ra gọi: - Bác ơi, bác làm ảo thuật với đồ chơi của cháu đi! Có lúc, bác sĩ quan sẽ nhận lấy món đồ chơi đó rồi làm ảo thuật, có lúc lại nói: - Không được, đồ chơi của cháu to quá, bác chỉ biến được đồ chơi nhỏ thôi. Đôi khi bác lại nghiêm giọng nói: - Hôm nay bác bận lắm, để hôm khác nhé. Sầm Kim không tin bác sĩ quan nói bố cô là người xấu, cô nghĩ bác ấy rất quý cô, vì mỗi lần nhìn thấy cô đều trêu cô, không giống như những người lớn khác, nhìn thấy cô cứ coi như không thấy gì, cũng không giống như hai chú bộ đội trẻ, hay đùa với mấy đứa trẻ, đặt hai tay dưới quai hàm từng đứa, kẹp cổ lại, nhấc bổng lên như nhấc gà con vậy, nhưng họ chưa hề nhấc cô lên như thế. Cô từng tấm tức phàn nàn với mẹ: - Tại sao hai chú bộ đội đấy không nhấc con? Mẹ cô hỏi rõ sự tình rồi an ủi: - Con đừng để mấy người đó nhấc lên, làm như thế sẽ kéo đầu con đứt khỏi cái cổ đấy! Cô cho rằng mẹ nói đúng, bởi vì bố từng làm cho cô một con búp bê bằng dây thép và ống tre, đầu chính là một cái ống tre, bên trên dùng bút vẽ mắt mũi, dùng lò xo để nối đầu với cổ, đầu con búp bê có thể quay trước quay sau, ngoài ra còn có thể cúi xuống, ngửa lên. Cô tưởng tượng đầu của con người chắc cũng nối với cái cổ như vậy, nếu bị kéo mạnh lên quá có thể sẽ khiến lò xo đứt, như vậy chắc chắn đầu sẽ lìa khỏi cổ. Cô liền cảnh cáo mấy đứa: - Đừng để chú bộ đội nhấc cổ mấy bạn, như thế sẽ lôi luôn cái đầu ra đấy! Nhưng mấy đứa trẻ đều không sợ: - Cậu muốn người khác nhấc nhưng người ta không nhấc nên cậu mới bịa ra chuyện đó để hù dọa bọn tớ. Chú bộ đội từng nhấc đầu tớ, đầu tớ vẫn không bị long ra. Mặc dù thật sự cô cũng sợ để hai chú bộ đội nhấc cổ như vậy nhưng họ cũng chưa hề yêu cầu nhấc cổ cô, khiến cô cảm thấy rất hẫng hụt, tự khẳng định rằng hai người đó không thích cô. ♥STENT: http://www.luv-ebook.com Nhưng bác sĩ quan quân đội thì lại khác, nếu chơi với đám trẻ trong đó có cô thì chắc chắn bác ấy sẽ quan tâm chu đáo đến từng đứa, sẽ không tách cô ra, có lúc còn đùa với cô trước, cho nên cô không tin bác ấy nói bố cô là người xấu. Sau hôm đó về nhà cô hỏi: - Bố, người ta nói bác sĩ quan cử bố chị Hồng đi điều tra bố, còn nói bố là người xấu, bố có tin không? Cô còn định hỏi thêm “treo” có giống như kiểu cô tưởng tượng là treo lên một sợi dây thép cao không, nhưng bố vội hỏi cô, giọng rất căng thẳng: - Con nghe ai nói thế? - Chị Hồng nói. Bố không tra hỏi nữa mà nói nhỏ gì đó với mẹ, đều là những câu cô không hiểu, nhưng mẹ vẫn nói: - Anh đừng nói nữa, con nó đang ở đây, để nó nghe thấy không hay, nó sẽ đi nói ra ngoài. Cô ấm ức nói: - Con sẽ không nói ra bên ngoài đâu. - Con không nói? Việc ông ngoại con bị bắt đưa đi diễu phố chẳng phải con đã nói ra ngoài đó sao? Giờ mọi người đều biết, khiến mẹ không ngóc đầu lên nổi. Mẹ đã dặn đi dặn lại con rồi, bảo con đừng nói linh tinh ra ngoài mà con vẫn không nghe. Nói đến chuyện đi diễu phố của ông ngoại cô liền chột dạ, bởi vì đúng là cô đã kể cho lũ trẻ. Nhưng đó là vì bọn chúng cứ cò kéo cô kể chuyện ở tỉnh, mà cô thì đã kể hết những gì có thể kể rồi, cô sợ khi mình không còn gì để kể thì lũ trẻ đó sẽ không quan tâm đến cô nữa, cho nên cô mới kể chuyện ông ngoại bị đưa đi diễu phố. """