"Trư Cuồng - Nguyễn Xuân Khánh full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trư Cuồng - Nguyễn Xuân Khánh full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Mụclục Phần1 P1-A: P1-B: P1-C: P1-D: P1-E: P1-F: P1-G: P1-H: P1-I: P1-J: Phần2: P2-A: P2-B P2-C: PhầnIii P3-C: P3-B: P3-D: PhầnIv- P4-B: P4-C: PhầnV PhầnKết PhầnKếtB: PhầnKếtC: TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com Phần 1 Thiên chi đạo: tổn hữu dư bổ bất túc (Đạo trời : bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu) Phản giả Đạo chi động (Quay trở lại (cái Quân Bình ) đó là cái Động của Đạo) Lão Tử L’homme n’est ni ange ni bête, et le malheur veut que qui veut faire l’ange fait la bête (Con người chẳng thiên thần cũng không thú vật , song khốn thay ai đó muốn làm thiên thần thì thành ra lại là thú vật ) Pascal Nhật ký này là của ông Nguyễn Hoàng; ông Nguyễn Hoàng làm nghề viết báo , kiêm nghề nuôi lợn . Có lẽ , khi làm nghề cầm bút , ông đã phạm một cái cái ”húy” gì đó nên bị thất sủng, phải về nghỉ hưu. tuy chưa đến tuổi. Ông là ngươì lớn tuổi, lại mắc bệnh nghề nghiệp nên thích ghi chép. Ông đã ghi lại khá tường tận, thú vị công việc chăn nuôi của mình. Xét thấy nhật ký này có điều hay hay, nên cố sưu góp lại để các bạn cùng đọc . Ngày… Tháng… Nhà tôi đã có ba chú lợn ỉn khoảng 10 cân mỗi con rồi, hôm nay tôi lại mua thêm một chú lợn rất đặc biệt : Chú Lợn Bò Chú lợn này chỉ nhỉnh hơn cái phích lít rưỡi một chút . Lông nó mầu hung vàng, có một chút óng ánh, giống như mầu cỏ tranh vàng khô vào mùa lá rạc ở Tây Bắc . Mặt nó như thơ dại, ngơ ngác như mặt bò , đôi mắt có dân dân, nhưng đẹp. Người chủ bán hàng giới thiệu với tôi một cách hoang đường: Các nhà khoa học đã làm thí nghiệm thành công, họ đem tinh trùng của bò thụ tinh cho lợn; kết quả thu được một con thú nửa bò nửa lợn (1) Nó biết ăn cả cỏ, cả cám. Giống này được các nhà chăn nuôi sành sỏi và tài ba rất mê , bởi vì nó tăng trọng lượng rất nhanh, có thể nói phi thường, và nó có thể đạt tới trọng lượng ba trăm ki lô gam, thậm chí năm trăm … Nghe lời giới thiệu có vẻ siêu khuếch đại tôi liền vỗ tay đánh đốp vào tay ông lái lợn và cười hơ hớ. Cà chủ nhà và khách hàng đều có chút khoái nhau, cái tiếng cười hớ hớ ấy, cái bắt tay ròn rã ấy, cái kiểu giới thiệu hoang đường làm cho cuộc mua bán trở nên dễ dàng thoải mái. Tôi hí hửng suốt dọc đường từ chợ tỉnh Phú Yên về Hà Nội; hí hửng vì vớ được một con lợn tốt bằng giá rất hời. Thậm chí tôi còn dám tự khen thưởng mình bằng cách sà vào một quán nhậu ở bến đò chèm để uống một chén rượu với dăm củ lạc . Khi tôi định thả con lợn Bò vào chuồng, vợ tôi theo ra xem, cô ta nói rất mê tín: - Ông không được thả . Người ông gầy đét, ăn uống cảnh giả , tay ông không mát. Để tôi thả cho, lợn mới hay ăn chóng lớn. Tôi lắc đầu sốt ruột, đưa cho bà vợ lắm điều của tôi chiếc bao tải dứa trong đó đựng con Lợn Bò quí giá. Khi chú lợn lông vàng sợ hãi ngơ ngác từ cái bao chui ra, vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên : - Lợn gì mà kỳ quái ! Lông đỏ như con sâu róm! Cơn hứng của tôi như bị dội một gáo nước lạnh; tôi cáu kỉnh vặc lại: - Lợn quí đấy! - Vợ tôi bĩu môi, nhưng biết tính tôi khi đã thích cái là lập tức lên cơn như mê như dại, nên cô ta chẳng dám dây với tôi. Còn tôi, thực sự lúc này đang lên cơn mê lợn. Đời tôi đã khối lúc lên cơn: cơn bộ đội, cơn viết báo, cơn gác đêm, cơn lý tưởng, cơn mê gái, cơn thợ may, cơn đọc sách... Vậy thì, giờ đây tôi lên "cơn mê lợn" cũng chẳng có chi lạ. Mà chẳng cứ gì tôi, có thể nói, hiện giờ Hà nội đang lên cơn mê lợn. Cao trào nuôi lợn đang dâng; giới nuôi lợn dạo này rất vinh dự, bởi vì không những người nghèo nuôi lợn, mà có cả những vị quyền cao chức trọng nuôi lợn. Người ta kể ra: ông tổng bí thư nhà máy gạch N mới bán đôi lợn đại bạch trên hai tạ; ông thứ trưởng bộ X cũng nuôi bốn con lợn F1, lai giống Landrat, to như bốn con bê; ông T thành ủy viên, cứ đi làm về là vội thay quần áo và cởi trần trùng trục, chỉ mặc độc chiếc quần đùi và xông thẳng vào mê say cùng đàn lợn đẹp như tranh của mình; rồi cả ngài chủ tịch K, hễ mỗi lần đánh xe con đi công vụ nông thôn là khi về thế nào trong cốp xe cũng lỉnh kỉnh những bao ngô, bao gạo, bao thức ăn gia súc, và những rọ lợn giống buộc đàng sau xe mốt cô vích tấu lên một khúc nhạc eng éc, rền rĩ, rùng rợn, nhưng vui tai đối với người Hà Nội. ____________ (1) Thực ra giống lợn lông màu hung đỏ này là giống Durox TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P 1 - A: Ngày ... tháng ... Con Lợn Bò đúng như một con sâu dóm so với đàn lợn cũ của tôi. Nó đứng ở một xó chuồng , sợ sệt, lủi thủi, ngơ ngác, hèn mọn. Trông mà thương ! Lũ lợn ỉn, khi tôi đổ thức ăn vào máng, liền xông ra, tranh nhau sốc lấy sốc để. Còn chú Lợn Bò thì đứng im đần độn bọt mép sùi ra thèm thuồng. Khi quá thèm, nó cố vượt qua nỗi sợ, và mon men đến gần máng ; lập tức cả đàn ba con lợn ỉn ngừng ăn xông ngay lại, con cắn tai, con húc bụng, con đấm mõm. Chú Lợn Bò run lập cập, vội vã rút lui trở về xó chuồng xí của các chú lợn ỉn; và cũng chỉ đến lúc ấy, lũ lợn ỉn mới buông tha Lợn Bò. Tôi vốn là tay hiệp sĩ, thấy sự bất bằng chẳng tha; tôi tức giận vì lũ lợn ỉn cậy mạnh hiếp yếu; sẵn cái chổi tre trong tay, tôi vụt cho mỗi chú ỉn mấy quất vào mông. Nhưng kết quả chẳng ăn thua gì; lần thứ hai, chú Lợn Bò lại mon men đến gần máng, lần này có lẽ vì tức giận bị tôi trừng trị nên đã tấn công Lợn Bò dữ dội hơn. Rút kinh nghiệm đợt trước, chú Bò vội vã rút ngay vào nơi hang ổ tối tăm của mình để thoát hiểm. Hỡi ơi ! Nơi tối tăm bao giờ cũng là nơi cư ngụ của những kẻ hèn mọn. Cái qui luật người ấy cũng đúng cả với loài lợn. Tôi ngẫm nghĩ, định trừng trị lũ lợn ỉn một lần nữa, nhưng đầu óc tôi bỗng dưng lóe sáng : hãy cứ để cho lũ lợn hục hặc với nhau, cuối cùng đôi bên cũng thích ứng được với nhau. Ha ha! Tuyệt! Chí phải! Hãy để cho triết học tâm lý thấm nhuần đến tận chuồng lợn . Triết học thích ứng, thực dụng nguồn gốc tận bên Mỹ, nay đang được chiêm nghiệm ở cái xó chuồng lợn của một nhà báo thất thế đi vào nghề chăn nuôi ở một hẽm nghèo Hà nội. Thú vị thật! Nghĩ vậy, nên tôi buông chổi, quay vào bếp tìm một lỗ hổng kế vách, để quan sát đàn lợn. Kìa! Lũ lợn ỉn đã no nê phè phỡn, con nào bụng cũng căng tròn như trống. Chúng rời khỏi máng, ủn ỉn, đủng đỉnh đi về ổ, tức là nơi cao ráo sạch sẽ nhất trong chuồng lợn, chỗ đó tôi đặt một chiếc tải và một ôm rơm thơm tho ấm áp. Và chúng ngủ, mắt nửa hé nửa nhắm; chúng vừa ngủ vừa ì ạch thở. Chú Lợn Bò lấm lét nhìn bọn ỉn, rồi từ từ, ngập ngừng tiến lại máng ăn. Con ỉn lang chợt ho, chú Bò lùi phắt lại, nhưng sau đó, thấy im ắng, lại tiếp tục mon men đến máng, chú khẽ khàng liếm láp chỗ cám thừa, vừa ăn vừa liếc nhìn lấm lét. Vẫn im lặng! Tốt quá! Chú vội tranh thủ sốc lấy sốc để. Tộp! Tộp! Tộp! Chú Lợn Bò lúc này chẳng cần giữ ý tứ nữa, nó ăn xả láng, nó "vét đìa", nó háu ăn đến mức một cộng rau trong máng cũng chẳng còn. Tôi nghĩ: có lẽ nên đặt cho con lợn mới cái tên" Bò-Vét-Đĩa". Ngày... tháng ... Tôi ra thư viện để đọc sách về lợn. Tôi đi sưu tầm, mua, mượn hàng chồng sách về nhà để đọc. Có thể kể tên các cuốn sách: Giải quyết thức ăn cho lợn; Đạm và sự tăng trưởng của lợn; Những biện pháp trong chăn nuôi gia súc; Hỏi đáp về nuôi lợn lai kinh tế; Những nguyên tố vi lượng trong chăn nuôi; Chuyên đề lợn ỉ; Chuyên đề lợn Móng Cái ...v...v .. Có thể nói không gian, thời gian của tôi đang bão hòa chất lợn. Tôi sai con đi mua nứa về làm chuồng bèo; tôi phá hoang mấy đám đất đầu trâu mõm bò ở tận cuối hẽm để gơ dây khoai lang; tôi đi xin cô em tận nhà máy gỗ cầu Đuống một số tấm gỗ bìa bắp, và hai cha con tôi vất vả hì hục thồ cả ngày mới đem được hết gỗ bìa về nhà, để chuẩn bị làm một chuồng lợn thật đúng qui cách. Tôi phân công cả nhà vào chiến dịch nuôi lợn của tôi. Tôi đảm nhiệm việc chăm sóc cho lợn ăn, quét dọn chuồng lợn hàng ngày. Thằng con lớn là sinh viên đại học, thỉnh thoảng phụ giúp tôi. Thằng con thứ hai đảm nhiệm bèo bả rau xanh. Thằng con thứ ba hàng ngày đi nhặt nước gạo. Thằng con thứ tư và bà mẹ hằng ngày thái bèo. Còn vợ tôi, đi làm suốt ngày nên được miễn việc sưu dịch cho lợn. Tôi nói đùa với cả nhà: - Chúng ta là anh hùng nuôi lợn. Nghe oai chưa! Ngày ... tháng ... Giá cả hàng hóa của Hà Nội leo thang vùn vụt. Tôi ghi chép lại đây những con số đầy ý nghĩa với cuộc sống gia đình tôi: Su hào, một đồng một củ - Khoai lang, 22 đồng một yến - Rau muống lợn 1 đồng 5 hào một mớ - Bèo tấm 5 hào 5 nắm tay - Cá diếc 12 đồng một cân - Bơm xe 2 hào một bánh - Trà chén 2 hào một chén ... Ôi chao! Tòan tiền là tiền. Tiền tiêu như rác. Một nắm bèo cũng có giá. Trong khi đó, lương tôi được hơn 60 đồng, lương vợ tôi 70 đồng. Tôi mê sảng đi vì lo tiền. Trong nửa năm, hai vợ chồng tôi đã bán dần bán mòn các vật dụng: cái quạt máy, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cái quần lụa, hai mét si mi li, cái phiếu vải của con, ba chục trứng gà ... Chỉ những con số ấy cũng đủ biện hộ cho công việc nuôi lợn, mê say lợn của tôi. Có thể nói "cơn lợn" của tôi là tất yếu, nó là con đường cứu sống gia đình tôi. Ngày... tháng... Tôi còn có thể nói: lợn đã mở rộng thêm quan hệ con người. Nhờ nuôi lợn, đời tôi đã thêm những người bạn mới. Hôm nay, buổi sáng, khi cho lợn ăn xong, tôi thay quần áo, đủng đỉnh sang nhà Lân uống nước. Nhà Lân là một túp lều, một thứ nhà ổ chuột bên dòng sông Kim Ngưu (Trâu Vàng), còn tôi, tôi gọi nó là dòng suối đen. Lân là một thương binh, anh sinh viên trường đại học tổng hợp đó đã xung phong vào bộ đội vào những năm đầu của thập kỷ 60. Lân đã nằm trong chiến trường miền Nam suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, năm 1975 anh mới chuyển ngành về một cơ quan. Cuộc sống cơ quan quá bon chen, bê bối làm anh chán ngán, xin về nghỉ ở nhà nuôi lợn. Có lúc, anh đã chua chát nói: - Sống với lũ lợn còn thấy vui hơn. Những ngày gian khổ còn lưu lại cho anh một kỷ niệm quá ư vật chất, một cơ thể gầy gò, và một bộ óc lúc nào cũng như lửa đốt. Con người anh , lúc cởi trần, giống như một bộ xương được bọc một lần da mỏng, bộ xương quá mảnh dẻ để chống đở một cái đầu to quá kích cỡ, ở đó ta bị hút ngay vào một đôi mắt rất sinh động. Đôi mắt hơi to, hơi sếch; có lúc cảm giác như thứ mắt bị ma ám. Khi anh cất giọng nói một điều gì sôi nổi, lúc ấy đôi mắt như mở rộng thêm và bị nhiễm điện, một dòng điện nhấp nháy khi tăng khi giảm làm cho ánh mắt lúc rực rỡ lúc dịu dàng; thứ mắt mang nhiều sắc độ ấy là thứ mắt không giấu giếm, thấy không cần mặt chiếc áo khóac để ngụy trang nào dù sặc sỡ, dù nhiệm mầu đến đâu .... Căn liều của anh ở sặc mùi lợn, mùi lợn thoát ra từ một đàn lợn cả to cả nhỏ gần chục con; mùi lợn còn toát ra từ những bộ lòng lợn mà sáng nào, chiều nào anh cũng kiên nhẫn vớt từ dòng cống đen sì lên . Anh nói: - Cái dân Việt Nam mình thật kỳ dị. Nghèo khổ nhất mà cũng lãng phí nhất . Từ Lò Lợn, mỗi ngày người ta đổ xuống cống hàng tạ lòng lợn. Lòng lợn nối đuôi nhau lều bều trên sông diễu hành bới trên dòng nước đen sì trông vừa thảm thương vừa man rợ .... Một người đàn bà nghèo khổ ở cuối hẽm đã lén lút vớt những cỗ lòng về, rửa sạch đi bằng xà phòng, rồi đem luộc lên, mang ra quan bia bán cho nhũng con ma men cùng với nhũng bát mắm tôm tím biếc, những quả ớt đỏ chót và những cọng húng nhổi thơm lừng ... Lân đã thở dài khi kể với tôi chuyện đó với một ánh mắt run run hấp hối. Và từ phát hiện ấy anh đã nghĩ ra cách nuôi lợn độc đáo: nuôi lợn bằng những cỗ lòng phế thải lều bều trên sông. Từ hôm ấy, Lân dựng thêm một túp lều nhỏ sát ngay dòng cống; đó là nơi sản xuất thức ăn gia súc của anh; anh ta ta bắt gặp ở đây một bếp lò than và những thùng phuy, những vại, những hố đào xuống lòng đất và lát bằng những mảnh nylông rách . Qua Lân, tôi mới hiểu dòng cống cũng có qui luật nước chảy của nó, nước cống cũng dâng lên hạ xuống theo giờ trong ngày, cũng nhu nước thủy triều dâng lên hạ xuống theo qui luật sức hút. Hàng ngày, nước cống cao nhất vào lúc 10 giờ sáng và 4 giờ chiều, đó là lúc các bà nội trợ rửa rau, vo gạo, và người Hà Nội giặt giũ làm vệ sinh thân thể; cũng vào giờ đó những cỗ lòng từ Lò Lợn ra bị mắc kẹt vì nước cạn nay được giải phóng; nhũng cỗ lòng phả phê nước tung tăng bơi lội như những con rắn trắng lặn ngụp, ve vẩy trong dòng nước đen sì. Đúng vào giờ ấy, Lân hăm hở như một người chiến sĩ phục kích chờ giặc, anh cởi trần, mặc quần đùi, lội đứng ở chổ nông gần bớ, tay cầm một chiếc vợt đan bằng dây sắt, cán bằng cây nứa dài, và anh cắm cúi kiên nhẫn vớt... Công việc vớt lòng của anh vất vả nhất là vào dịp những ngày lễ lớn, hội lớn như mồng một tháng năm, mồng hai tháng chín và Tết Nguyên đán; vào những ngày ấy người Hà nội ăn thịt nhiều và Lò Lợn cũng lãng phí nhiều . Những ngày nhiều phế thải ấy, Lân hậm hụi làm việc như một ngươì tù khổ sai bẩn thỉu, hôi thối quần quật cho đến tận đêm. Đầu tiên, anh tháo phân, rửa sạch lòng ngay trong dòng nước đen, sau đó để vào những rổ sồng cho dóc nước. Những thừ dễ huy như gan, phỗi anh đưa lên bếp đun ngay, còn những thứ lâu bị hủy như lòng già lòng non anh đem muối, muối nghĩa là đem trộn với bã rượu rồi đem đổ đầy những thùng phuy, nhũng vại, những hố lót ni lông. Khi một ngọn khói đen bốc lên từ túp lều, tức là xong việc. Lân xin những chiếc lốp xe đạp hỏng về đun; cái thứ cao su hỏng ấy khi cháy tạo ra một ngọn khói đen nhánh, đặc quánh, chỉ cần một thoáng gió thổi tạt làm nghiêng ngọn lửa là một cơn rắn khói đen đã quấn ngay vào mặt vào ngực tạo nên nhũng vết đen khó kỳ cọ trên da. Những lúc chui ở bếp chế biến ra, Lân trôn thật thảm hại, anh như một con quỉ bẩn thỉu, với làn da đen xỉn nhễ nhại mồi hôi; nhưng trái lại , sao lúc ấy đôi mắt anh ngươì đến thế, nồng ấm đến thế, đôi con mắt với tia nhìn long lanh, đôi con mắt thỏa mản, sung sướng. Những khi ấy nếu tôi sang, anh vội vàng cầm búi giẻ khéo léo lau mặt, lau tay, lau ngực và anh rủ tôi ra chuồng lợn, ngắm lũ ỉn; những lúc ấy, chúng tôi thường im lặng, đốt thuốc lên hút; và khi những điếu thuốc phì phéo trên môi đã cháy quá nửa, anh mới ngẩng đầu lên nhìn tôi rồi cười. Trên khuôn mặt vàng sạm của anh, một nụ cười hiếm hoi phô bày hai hàm răng trắng đều và đẹp. Nụ cười khắc kỉ ấy nhiều khi làm tôi bối rối. Lân suốt ngày ở trong lò chế biến thức ăn, hoặc bên chuồng lợn, ít khi thấy anh ló mặt ra đường, đến nỗi có lúc tôi phải bỡn: - Anh say mê lợn quá. phải tặng cho anh danh hiệu "Nghệ sĩ lợn" mới đúng. Lân hóm hỉnh: - Có lúc vợ tôi phát ghen lên đấy . Một đêm, bà ấy bảo: "Ông nên kê giường ra ngủ với lợn có lẽ hơn". Thật oan cho tôi. Bởi vì tôi mê bà ấy quá nhiều nên mới lăn lưng ra nuôi lợn chứ. Từ khi tôi ở chiến trường về, năm năm ở với bà ấy thì đẻ luôn một mạch năm cô con gái ... Hôm nay trông thấy tôi, Lân đã reo to mừng rỡ: - Cứ mong mãi. Có trà ngon đãi ông đấy. Trà Thái, loại cực kỳ. Lân nhóm bếp dầu đun nước, anh hâm ấm chén cho nóng khi chờ nước sôi. Anh xoa tay, vui thú: - Tôi đã bán được con lợn "Tên lửa" rồi. Con này tăng trọng vượt mức. Mỗi tháng tăng 25 cân. Tôi mỉm cười. Mỗi con lợn của Lân đều mang một cái tên rất chiến tranh: con "Tên lửa" là con tăng trọng nhanh, con "Lính thủy đánh bộ" là con ưa ăn loãng, con "Thần sấm" là con rú gào suốt ngày đòi ăn, con "Xung kích" là con phàm ăn … tôi trìu mến nhìn người bạn hiền lành cả đời làm lính ấy. Ngoài một mảnh đạn còn nằm trong phổi làm anh hay ho túc tắc, cuộc đời chiến trận còn theo anh kéo dài dấu vết vào đàn lợn. Tôi vẫn nói đùa Lân : - Đàn lợn của cậu sặc mùi thuốc súng. Hôm Lân sang xem tướng cho con lợn Bò, con lợn sâu dóm của tôi, anh bảo : - Con lợn này rồi sẽ có một tương lai rất huy hoàng. Sau vài tháng nữa, anh thử chiêm nghiệm lời nói của tôi xem sao . Bây giờ nó còn nhỏ bé , nhưng nó sẽ có một tiền đồ rấtvẻ vang – Lân cười - Đáng lẽ ra, anh phải đặt tên cho nó là "Xe tăng cọp" mới đúng. Cái tên "Bò vét đĩa" của anh nghe sặc mùi dân sự … Lân chế nước sôi vào ấm trà. Anh rót thứ nước thơm phức , vàng quánh ấy vào chén cho tôi, rồi mời mọc ân cần: - Uống đi. Uống mừng thắng lợi của tôi. Con "Tên lửa" chỉ trong ba tháng đã tăng từ 25 đến 100 cân. Chưa lứa nào tôi nuôi được con lợn tăng trọng nhanh như thế . Tính ra sau ba tháng, trừ chi phí còn lãi hơn hai nghìn bạc. Có khoái không anh? Tôi đã sắm cho các cháu mỗi đứa một bộ quần áo . Lợn còn dẫn tôi đến với người bạn thứ hai độc đáo không kém gì Lân. Đó là Tám Bách Khoa. Tám là một giáo viên cấp ba, dạy sinh vật . Anh này nuôi lợn ít thôi, nhưng lại say mê nghiên cứu về lợn. Tám nói với tôi: - Ở nước ta, hiện nay, ai nuôi lợn là người đáng quí trọng, bởi vì nuôi lợn là một công việc kiếm sống lương thiện nhất. (Ngay cả những ông lớn, dù lợi dụng đặc quyền mua rẻ con giống và thức ăn, thì việc nuôi lợn của họ cũng đáng khuyến khích hơn chuyện ăn cắp trắng trợn hoặc tham nhũng) . Anh biết không, ngày xưa, nghề dạy học của tôi vẫn được suy tôn là nghề cao quí nhất , lương thiện nhất , nhưng thực ra ngày nay những điều đó thay đổi rồi. Có lẽ ta phải cần rộng lượng, bởi vì quan niệm của con người về nghề dạy học đã bị thực tế làm biến đổi, bởi vì trí thức đang dần dần biến thành hàng hóa. Người có tri thức cũng giống bà bán thịt, cô bán gạo, chị bán bách hóa. Một bài toán, một ý tưởng cũng giống như một miếng thịt bò, một cân gạo, một chiếc áo. Thịt tăng giá ư? Gạo tăng giá ư? Vải tăng giá ư? Vậy thì một bài toán đại số của tôi, một bài văn mẫu của tôi, một đề luyện thi tủ của tôi cũng phải tăng giá, nếu không, các thầy cô sống bằng gì? Đấy bây giờ người ta lập luận về nghề thầy giáo như vậy đó. Tôi thầm nghĩ về Tám: "Anh chàng này hơi gàn, nhưng đáng yêu". Lân bảo, hồi còn học sinh Tám rất ít nói, và vẫn bị anh em cho là gàn. Hồi ở chiến trường B, Tám đã bị bom B52 của Mỹ chôn sống, lúc được anh em moi lên, Tám chết luôn cho một ngày một đêm. Vì bận đánh giặc, người ta chưa kịp chôn anh, khi Tám sống lại bò ra giao thông hào tiếp đạn, anh em sợ hãi hét lên tưởng Tám là quỉ nhập tràng. Từ đó Tám ít nói hơn trước và nhiều khi kỳ dị hơn trước. Có người bảo Tám tâm thần, song những hành vi của Tám trong những phút gay cấn nhất ngoài chiến trận lại tỏ ra vô cùng sáng suốt . Và một điều kỳ lạ nữa đã xảy ra khi Tám từ chiến trường trở về trường đại học, luận án "Những cây cỏ có tính kháng sinh ở vùng Trường Sơn" của anh đã được công nhận loại ưu. Và hiện nay, đề tài nghiên cứu khoa học của Tám là cuốn "Bách Khoa Toàn Thư về Lợn". Lân nói với tôi rằng Tám đang định dùng một cách tiếp cận rất mới mẻ đối với đề tài lợn, đó là một cách tiếp cận vừa khoa học vừa văn học . Nói theo ngôn ngữ cửa Tám thì đó là cách tiếp cận nằm trên giao tuyến của hai phương pháp khoa học và văn học. Có ý kiến cho rằng ý nghĩ của Tám là độc đáo, tài năng; nhưng cũng có ý kiến cho rằng Tám là một thằng điên. TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P1 - B: Ngày … tháng … Tôi hỏi Tám: - Tại sao anh lại dùng cách tiếp cận Khoa học – Văn học ? - Tôi thích những đường nét rõ ràng dứt khoát, nhưng tôi hiểu trong tôi còn có những vết nhòe mờ. Tôi thích một giai điệu đẹp,uyển chuyển, rực rỡ như một vườn hoa mùa xuân, nhưng thú thật có lúc nghe một tiếng u ơ trẻ nhỏ lòng tôi chợt run rẫy sung sướng. Một âm thanh chưa thành âm thanh ấy có khi còn đẹp hơn cả một giai điệu đẹp. - Tôi chưa hiểu … - Cần dè dặt với cái kỳ bí – Tôi biết mãi mãi trong óc tôi vẫn có những miền bóng mờ và cả một vương quốc tối lòa mà tôi như người mù bước đi dò dẫm. - Sao ý anh bồng bềnh khó nắm? Cách tiếp cận mới… Định nghĩa của nó… - Đó là bước đi dè dặt , bước đi của người. - Có lẽ tôi đã lóe hiểu một chút gì .. - Những con số , đó là ân nhân của chúng ta hôm nay; nhưng còn ngày mai? Có khi nào một ân nhân lại biến thành kẻ chôn vùi chúng ta không? Có khi nào miếng cơm ta ăn lại trở thành thuốc độc tàn hại đời ta? Có khi nào người yêu ta mê đắm lại trở thành kẻ thù và đôi tay ngọc ngà lại như chiếc thòng lọng siết quanh cổ ta mỗi ngày một chặt ? Có khi nào nọc độc rắn lại trở thành tiên dược? Ôi! Định nghĩa! Một định nghĩa làm đầu óc tôi phải sưng tẩy lên để tìm ra những đường nét lẫn trốn của nó. Phải chăng cách định nghĩa của người điên? Ngày … tháng… Sáng sớm, vợ tôi bảo : - Anh ơi! Hết gạo rồi. Anh cố xoay hai chục để em mua yến sắn cho con ăn. Tôi gắt um lên: - Ăn gì mà như thuồng luồng! Tháng này đã đong thêm hai yến mì mà vẫn thiếu. Giết ai ra tiền bây giờ? Vợ tôi cũng cáu kỉnh: - Ai ăn? tôi ăn à? Anh hỏi con anh ấy: đứa nào ăn? Nếu anh không muốn cho con ăn thì khâu mồm chúng nó lại. Nghe tiếng vợ chồng tôi vặc nhau, lũ lợn tưởng đến giờ ăn, bỗng rít lên cả đàn. Giọng đồng ca lợn nghe mà nẫu ruột . Tôi còn chục bạc, hôm qua đã đi mua năm đồng bạc cua về làm mắm cho lợn ăn rồi. Vậy bây giờ xoay tiền ra sao ? Vặc với tôi xong, vợ tôi hầm hầm dắt xe ra cửa. Tôi nhẫn nhục , quay ra sân, pha cám lợn. Và trong khi tôi cho lợn ăn, thì thằng con lớn của tôi cầm đàn ghi ta, hát một bài dân ca Pháp: .. . Xa em rồi, tim tôi sầu úa … .. . Xa em rồi, chìm trong biển nhớ … Tiếng lợn đòi ăn, hòa với tiếng ghi ta nỉ non, nghe mới thật nẫu lòng. Tôi cho lợn ăn xong, vào nhà, thì thấy thằng con của tôi đã nằm dài đọc một cuốn sách triết học Ấn Độ : "Nhất nguyên thế giới" ; một cuốn sách rất siêu linh nói rằng ta và thế giới là một ; có thể nói cuốn sách là một vết cắt rạch đôi sơn hà, nói lên cái khác biệt giữa triết phương đông và triêt phương tây băm vằm thế giới ra muôn mảnh để soi để ngắm; à… cũng có thể nói cuốn sách muốn ngụ ý tôi với lợn chẳng qua là một … Nhưng mà … Tôi còn đâu bụng dạ để suy ngẫm tới những lẽ đời thâm thúy đến như thế. Lòng tôi như đang trong cơn bãi hoãi. Tôi mệt mỏi bước vào nhà, nói như van xin với thằng con: - Linh ơi! Mày không thấy sốt ruột sao? Giờ này, mà mày vẫn nằm dài đọc triết học sao ? Linh uể oải: - Bố cứ yên chí. - Yên chí! – tôi đai lại một cách chán ngắt . Tôi bỗng buồn thiu, trèo lên gác xép, kéo chăn đắp, nằm dài để cho lòng dịu xuống để cho khuất mắt, để cho những bực bội lắng đọng, rồi hòa tan trong im lặng. Và tôi chập chờn, nửa mơ, nửa ngủ. Trong phút chập chờn đó, tai tôi bỗng vẳng nghe như thấy tiếng của Tám nói trầm trầm: - Ta hãy sống như con lợnỉn … Hãy chỉ biết ăn - Ăn toàn bèo cũng được . Cứ ăn cho đến lúc cái bụng ta to bằng cái thúng, và thế là cảm giác no nê, thỏa mản, hạnh phúc sẽ đến. Tuyệt đối chớ nên suy nghĩ, vì suy nghĩ là mầm tai ương … Đây, lý thuyết sống bây giờ là thế. - Anh định nói mỉa tôi sao? Thôi câm lặng đi hỡi anh chàng bẽm mép, hỡi triết gia lợn. Và tôi bực dọc , ngồi nhỏm dậy. Không trông thấy thằng Linh đâu. Chắc nó cũng chán đọc sách rồi, và lại đi chơi rông dài với bọn bạn. Tôi buồn. Buồn thì ra xem lợn ngủ - đó là thú giải trí của tôi. Trong chuồng, ba con lợn ỉn mỡ màng, bụng căng như ba cái trống, đang cưỡi lên nhau mà ngủ. Ba con lợn dáng thỏa thuê phè phỡn, nằm tênh hênh ngáy pho pho. Ba con lợn đen và loang, nhưng lông thưa để lộ làn da bóng, mọng và hồng lên như quả bồ quân … Còn con lợn Bò – vét - đĩa thì thảm hại, răn rúm, lông xù vàng quách, đang nằm phía dưới gần chỗ cứt đái, nó cố ghếch mõm vươn tới cái ổ rơm, mong hưởng một chút hơi ấm thừa. A ! Khá thật ! Chú Bò – vét - đĩa đã quỵ lụy và lân la để được phép nằm dưới chân bọn lợn ỉn rồi. Con lợn Bò dạo này đã có tí chút da thịt. Bụng nó bụng ngựa nhưng đã to phinh phính. Nó chịu khó ”vét đĩa” thật . Tôi quan sát và nhẫm ước lượng. Này đừng coi thường, có lẽ nó đã "vét đĩa" được một lượng thức ăn gấp đôi lần những chú lợn ỉn. Thức ăn thừa ở máng, trước khi nó về , mỗi bữa còn thừa rất nhiều, nay sạch sành sanh. Tôi đang mải say sưa ngắm đàn lợn, bỗng thấy tiếng Thằng Linh nói phía sau.Tôi quay lại. Cậu sinh viên của tôi từ dưới hồ lướt thướt bước lên, giọng tươi tỉnh : - Này bố xem ... Con đã bảo là bố cứ yên chí. Bố tính chừng này cua ốc, có đáng giá hơn chục bạc không? Bốn cân ốc, mỗi cân đồng rưỡi, vị chi là sáu đồng. Gần trăm con cua cũng ngót nghét mười đồng. Tôi lặng im cúi đầu. Còn thằng Linh, sau khi thay quần áo, lại tiếp tục leo lên giường và quần nhau với ông triết học. Ngày … tháng … Ngày mồng một Tết , vợ tôi đánh đổ nước mắm; mẹ tôi bảo đó là điềm xấu, quả nhiên dạo này vợ chồng tôi hay cãi nhau. Mẹ tôi thỉnh thoảng cứ hay nhắc lại, cho rằng nguyên nhân chính của những vụ lộn xộn eo óc là do Tết đổ nước mắm. Thằng Linh thì hài hước hơn bà, nó bảo năm nay là năm khỉ, loài nhăn nhó, năm của những gia đình lủng củng bê bối. Vợ tôi đi làm suốt ngày, chiều tối về, lại sắn quần vào cuốc đất ở những chỗ đầu trâu mõm bò cuối hẽm, nơi có những ao tù đặc quánh nước cống, và những đàn muỗi vo ve như ong ngay cả ban ngày. Ở ruộng về , khi cả nhà ngồi vào mâm, thì vợ tôi lại đủng đỉnh gánh nước giặt rũ. Thành thử hôm nào cũng phải phần cơm bà ấy. Tôi rất bực về chuyện này. Đi làm cả ngày chẳng nhìn thấy mặt chồng, mặt con; có bữa cơm là lúc gia đình tụ họp, lại còn đủng đỉnh, chẳng thèm ăn. Hết con lớn mời, lại con bé mời … Có lẽ cô không thiết đến cái gia đình này nữa? - Tôi lăn xương, sả thịt ra đến thế này mà anh còn bảo tôi không thiết đến gia đình. Còn anh anh thiết đến ai? Lúc nào cũng lợn, lợn, lợn. Anh thử ngẫm xem, anh còn coi lợn hơn cả vợ anh nữa chứ . Cái giọng dài ra của cô ấy, rồi khuôn mạt tái lại, rồi ánh mắt sáng lên lạnh ngắt làm không gian nhà tôi bỗng nhiên ắng lại rồi như sưng tấy lên. Nỗi bực bội bỗng nhiên dâng lên trong tôi. Nỗi bực bội làm lòng tôi run rẩy nhưng tôi cố kìm giữ , tôi cảm thấy nó nghẹn ngào trong họng. Tôi lại leo lên gác xép nằm dài, mắt trừng trừng mở to nhưng chẳng thấy gì hết . Mẹ tôi im lặng, vợ tôi cũng im lặng, con tôi cũng im lặng. Không gian đầy quá, đầy ứ - đầy một cái gì đó mà tôi không hiểu, nhưng tôi cảm thấy nó rất vật chất . Có lẽ cả nhà tôi đều cảm thấy nó nên không ai dám cất lời. Có lẽ ai cũng sợ tiếng nói của mình, âm thanh của mình sẽ như một giọt nước, và chỉ cần một giọt nước nhỏ xíu ấy thôi là cái đầy ứ nó sẽ tràn. Tôi thức trắng đêm, mắt trừng trừng nhìn vào miền tăm tối nhất của đêm đen bên trong tôi. Phải chăng tôi đang đi tìm tên gọi của cái ứ đầy đó. Tên người là chi ? Đêm đen trả lời tôi bằng tiếng rì rầm như sóng biển ru rím tôi vào giấc ngủ dịu dàng. Và tôi thở dài nhắm mắt ... Ngày... tháng ... Tám, ông triết gia lợn đến thăm. Nhà nghiên cứu về lợn ngồi uống nước, trầm ngâm thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn quanh quẩn như suy ngẫm về một điều gì đó. Tôi cũng ngồi trầm ngâm như anh. Bỗng nhiên, hình như Tám phát hiện được một điều gì đó. Thấy anh gật gù. Rồi anh nói một mình : - Đúng rồi! Tôi giật mình: - Anh bảo đúng cái gì? Tám ghé vào tai tôi thì thào: - Ô nhiễm! - Anh bảo sao? - Ô nhiễm - Tám vẫn nói khẽ. - Tôi vẫn chưa rõ... - Tôi nhíu mày hỏi lại. Còn giọng Tám thì buồn rầu. Lần này anh nói với rõ ràng hơn: - Tôi bảo nhà anh bị ô nhiễm . Tôi sửng sốt vì ý nghĩ có vẻ điên của Tám. Tám ngồi trầm ngâm thêm một phút, rồi hỏi như tra khảo: - Nhà ta có ai bị ốm không? - Không. - Quái thật! phải có chuyện gì đó xảy ra mới đúng chứ. Anh nghĩ kỹ xem, ít lâu nay trong nhà có chuyện gì lạ không? Tôi cười: - Vợ chồng có chút to tiếng... nhưng ổn rồi. Tám lắc đầu: - Không phải chuyện ấy. Ý tôi hỏi có ai bị ốm không? - Không - tôi ngạc nhiên về sự gặng hỏi của Tám. Tôi trả lời dứt khoát - Cả nhà đều khỏe cả . - Quái nhỉ! Tám vẫn có vẻ không tin. Anh kéo tôi đứng dậy, xuống bếp rồi ra thăm chuồng lợn. Anh chê bai: - Chuồng lợn của anh làm sát nhà quá . - Đất hẹp, ai chả làm thế. - Không có lợi đâu - Tám nhìn tôi, cầm tay tôi rồi nói ra vẻ quan trọng - Hoàng nên nghe mình. Nên chuyển chuồng lợn ra ngay chỗ khác . - Anh định đặt hướng, tìm đất cho chuồng lợn như kiểu thầy địa lý tìm đất để mả? - Chứ sao? Tôi ngạc nhiên nhìn Tám không hiểu anh đùa hay thật . Vẻ mặt nghiêm túc của Tám làm tôi không thể nào nói đùa được nữa. Tôi hiểu Tám đang quan tâm tới gia đình tôi thực sự, tôi phải tìm lời giải thích cho bạn tôi yên tâm: - Đã đành nuôi lợn sát nhà không vệ sinh, nhưng anh thử nhìn chuồng lợn của tôi ... Sạch sẽ đấy chứ? Làm gì có mùi hôi vào nhà ... Lúc nãy, anh nói ô nhiễm làm tôi sợ hãi quá ... Anh cho rằng ... mùi lợn nguy hiểm ... - Chứ sao! Nguy hiểm! Tám gật đầu công nhận. Nhìn đôi mắt kỳ lạ của Tám, tôi lắc đầu không dám tranh cãi tiếp với anh chàng gàn dở ấy nữa Ngày... tháng... Lĩnh lương hưu được trăm tám, tôi cắt ra một trăm đong cám bã cho lợn. Vợ tôi bảo - Con mấy hôm nay phải ăn sắn trừ bửa đấy. Phải để tiền đong thêm mì sợi cho chúng . Ăn sắn mãi là bủng beo ra đấy. Tôi giảng giải: - Em đừng lo. Chả mấy chốc đâu, chỉ ba tháng nữa sẽ có tiền bán lợn. Nuôi lợn phải cho nó ăn, thì cuối cùng mới có tiền em ạ. Vợ tôi bĩu môi: - Lúc nào cũng chỉ lợn với lợn . Tôi nói thật, anh nên bán ngay cái lũ lợn quỉ quái ấy đi. Lúc nào cũng rú rít đòi ăn ... Ôi! tôi nhức đầu ... Mà không chừng nó lăn quay ra cả lũ ... là đi đời bao nhiêu vốn liếng chắt bóp ... - Cô không tin tôi ... - Tôi tin anh ư? Cái ngữ học trò dài lưng tốn vải như anh mà nuôi lợn có lãi , thì xin chặt đầu tôi đi . Tôi mềm dẻo: - Cô đừng nên bàn ngang. Người như tôi mà không nuôi nổi mấy con lợn thành công hay sao? Vợ tôi có vẻ bực bội: - Thế ... anh định treo mồm lũ trẻ lên hết sao? Giảng giải mãi không xong, tôi đâm bực nói ngang: - Ừ! Cứ treo mồm chúng nó lên. Vợ tôi lắc đầu: - Anh điên rồ rồi! Anh quí lợn hơn con anh sao? Mặt nóng bừng, tôi nói bừa: - Đúng lợn quí hơn người. Thế là vợ chồng tôi lại giận nhau. Cả ngày hôm nay, vợ tôi không thèm nói với tôi nửa lời. Cả lúc đêm xuống, vợ tôi cũng nằm quay lưng lại. Khi bóng đêm sụp xuống, đó là thời cơ để vá víu những rách nát vợ chồng. Nhưng đêm nay, bóng tối đôn hậu dịu dàng cũng chẳng xóa nổi giận dỗi vợ tôi. Tôi nằm thừ, vắt tay lên trán. Rồi nghĩ miên man; rồi tự nhủ thầm: " Có thể ta thô lỗ quá chăng? Cục cằn nửa? Trước kia, có lúc nào ta như thế? Cái anh chàng thanh niên thanh nhã xưa kia đã biến mất tự lúc nào chẳng hay. Cái tế nhị xa xỉ đã hàng ngày đánh vật cùng cái thô nháp cường tráng để cuối cùng thua trận , nó lùi dần và chết chìm trong đêm dài vô thức, để thỉnh thoảng u ơ cựa dậy bằng những câu mỉa mai bất lực, hoặc bằng những trắng đêm thao thức sám hối, như tiếc nuối một cái gì đó không tên, không diện mạo , hoặc bằng những cơn rồ dại phi lý ngớ ngẩn ..." Tôi tự phân tích mình, tự đào sâu vào những kẽ nứt tâm hồn, tự nậy mở những vết thương mà thời gian đã cố đắp những mảnh da non mỏng manh vốn có hiệu lực phủ lên mắt ta một màng mờ giấc ngủ. " Sao tôi cứ trong mắt ra như thế này hở trời! Sao tôi cực đến thế này hở trời? Hình ngục nan đào! tôi đã bị giam cầm bơ vơ trong một thế gian đông đúc. Chẳng ai thông cảm với tôi lúc này hay sao? Ngay cả vợ tôi, người bạn đường cũng quay lưng lại." Từ những suy nghĩ toan tính xa vời, đầu óc của tôi bay tới những đám mây mông lung chua chát, rồi cuối cùng trở về với những lo toan thường nhật. "Ta trách vợ ta ư? Ta đâu có lỗi, hay cô ta có lỗi, hay chẳng có ai có lỗi? Người ta cho ta về hưu sớm. Thực ra, người ta chẳng muốn dùng ta nữa. Thời buổi đói kém, sáu chục đồng bạc hưu gày còm ấy, ta nuôi sao nổi bốn đứa con với một mẹ già. Nhìn đứa con út vêu vao, sớm đi học không cả bát cơm nguội, sao mà sót xa. Muốn kiếm tiền lắm chứ. Đã hết mọi sĩ diện. Hết mọi ảo tưởng, hết cả những ý nghĩ viển vông trong óc. Rất muốn làm một điều gì đó có ích, thiết thực. Muốn làm một nghề gì đó bằng trí óc; nhưng viết thì chẳng được, dịch cũng chẳng ai giao. Muốn làm một nghề gì đó bằng chân tay, nhưng sau ba mươi năm trời làm anh bộ đội và làm cán bộ, sự khéo léo của đôi tay đã hết rồi, mà bắt đầu học nghề thì quá muộn. Cũng có lúc muốn xuống đường, nghĩa là đi buôn, chạy áp phe, nhưng ba mươi năm trời ấy cũng đã biến ta thành một con người sơ cứng, ngây ngô quá đỗi, mình không còn quá mềm dẻo, thớ lợ để thích ứng với cuộc sống cạnh tranh, giành giật từng giây phút. Vậy thì nuôi lợn là kế sách cuối cùng. Người ta bảo những người thanh cao, những lúc khốn khó càng biểu hiện sự thanh cao một cách toàn vẹn. Còn tôi, lúc khốn khó này, tôi đã trở nên thô tục , cục cằn. Tôi không phải kẻ thanh cao; điều đó là hiển nhiên ... Trong giấc ngủ, vợ tôi bỗng thở dài. Tội nghiệp! Sao sống với anh đời em lắm thở dài? Đêm hôm ấy, tôi có một giấc mơ rất đẹp: giấc mơ lợn. Tôi mơ thấy con lợn Bò của tôi biết nói. Nó lớn rất nhanh. Nó sừng sững trước mặt tôi như một con bê. Nó chồm hai chân trước bíu lên cái gióng tre cũi lợn. Nó nói : - Ông đừng lo. Ta ăn một miếng cám, ta trả một cục vàng. Ta sẽ lớn nhanh không thể tưởng tượng. Rồi ông xem. Ta sẽ đem lại cho ông nhiều tiền của ... Và nhiều điều lạ. - Sao lại điều lạ? Tôi hỏi ngạc nhiên - Còn con lợn thì cười. Giấc mơ lợn kỳ cục thật. Thật vô lý và ngây ngô, nhưng chí ít giấc mơ cũng đem lại cho tôi một chút hy vọng, cũng xoa dịu được lòng tôi đôi phần. Ngày... tháng ... Ai cũng khen con Bò -vét -đĩa lớn nhanh như thổi. Bao giờ nó cũng ăn đến phút cuối cùng và cũng "vét đĩa" sạch sành sanh. Và đặc biệt, thỉnh thoảng, mắt nó lại nhìn lấm lét. Tôi chúa ghét lấm lét, nhưng tôi lại yêu con lợn Bò lấm lét của tôi. Tôi yêu nó vì cảm thấy có lẽ nó là cứu tinh của gia đình tôi. Tôi chăm chú quan sát cái sự lấm lét ấy, và phát hiện ra nhiều điều mới lạ. Mắt con lợn này đúng là loại mắt bò, thứ mắt lơ đãng, thơ ngây, có thể là dại dột nữa. Người Ấn Độ thường nói khen: "Cô con gái ấy có đôi mắt đẹp như mắt bò". Vậy thì theo phép suy luận lô gích tam đoạn luận, mắt con lợn Bò của tôi ắt là phải đẹp. Thật là một nghịch lý, một đôi mắt đẹp mà lại biết lấm lét à! Ghê thật! Con mắt lấm lét ấy cũng biết hận thù đấy. Có lúc tôi đã ghi nhận được những ánh căm thù trong mắt con Bò - vét - đĩa; là lúc tôi đổ thức ăn vào máng và ba con lợn ỉn hả hê tranh nhau nốc thức ăn, lúc ấy Bò-vét-đĩa đứng lặng im trong xó sỉnh tăm tối của mình và giương đôi mắt bò mở to ra mà nhìn, đồng thời rãi rớt trều ra quanh mõm. Những chú lợn ỉn cũng quái ác. Khi chúng đã no phềnh, và con lợn Bò bắt đầu vét đĩa, thì mỗi chú ỉn, trước khi vào chỗ nằm, thế nào cũng phải đấm, dúi, cắn vài cái vào bụng, vào đầu hoặc vào tai con lợn Bò. Có thể đó chỉ là sự ra oai, sự cho biết lễ độ, sự phân rõ đẳng cấp, vì vậy, những cú đánh ấy thường không đau, ít tác hại. Vả lại, Bò ta cũng hiểu rõ thân phận của mình nên không bao giờ chống trả, do đó cuộc sống chung hòa bình trong đàn lợn của tôi vẫn tốt đẹp. Ngày ... tháng ... Người hàng xóm hơi xa của tôi là ông chủ lò (tiếng xưa), còn nói theo ngôn ngữ ngày nay, anh ta là quản đốc lò sát sinh. Một con người cao lớn to béo như tây, đeo kính dâm màu phớt hồng, mắt kính Pháp, gọng vàng tây chính hiệu, nói chung một cái kính rất đắt. Anh ta ưa mặc quần soóc, mặc thế để khoe cặp đùi nhẵn nhụi, trắng hồng, mỡ màng. Anh ta đi một chiếc xe máy Pháp kiểu mới nhất. Lẽ dĩ nhiên anh ăn nói đàng hoàng, đối xử với hàng xóm rất đàng hoàng. Anh đến chơi, đề nghị thằng Linh con tôi, giúp anh việc kèm cặp học hành cho đứa con thứ hai sắp sửa thi vào trường cấp 3 . Anh rộng rãi bảo cùng tôi: - Bác có cần mua tóp mỡ bồi dưỡng cho lợn không? Giá cung cấp. Chỉ vài đồng bạc một cân thôi. Ăn tóp mỡ lợn sẽ lớn rất nhanh ... Mà nếu cần, tôi sẽ giúp bác mua cả phổi lợn nữa ... Thằng Linh hay tếu, nó cười to : - Chú Hợi ạ, tóp mỡ thì cháu cũng thèm, chứ chả nói chi đến lợn. - Được rồi! Nếu mày giúp chú, chú sẽ giả công bằng tóp mỡ. Con tôi cười to. Và Hợi chìa tay ra: - Thế nào xong chứ? - Cháu xong ngay. Hai chú cháu bắt tay. Cả nhà tôi cười ròn, đúng là ròn như tóp mỡ. Thật tuyệt. Căn nhà của tôi lại sặc mùi tóp mỡ lợn. Đêm nay, đi ngủ tôi còn mơ thấy mùi ngầy ngậy của những tảng tóp mỡ. Cuộc đời kỳ lạ thật! Ngày xưa, tôi đã làm nghề thầy giáo tư gia. Ngày đó, cậu gia sư phải đạo mạo nghiêm trang; đầu tháng khi trả tiền, người chủ nhà khi xưa vẫn đặt tiền trong chiếc phong bì thơm phức và nói bằng một giọng thật khách sáo: "Gọi là có một chút ít để cậu tiêu vặt." Còn ngày nay, cuối tháng ông chủ sẽ đem chiếc cân ra, bốc tóp mỡ lợn và cười nói oang oang : - Tháng này chú trả công cho cháu ba cân tóp mỡ nhé. Thế nào? Muốn trả làm một kỳ hay hai kỳ? Hoặc: - Tháng này ít tóp mỡ quá. Thay thế một cân tóp mỡ bằng ba cân phổi tươi nhé? Xong chứ? Cứ tưởng tượng ra cái cảnh đặc biệt, kỳ dị ấy, đã thấy thú vị, và nụ cười đã bất giác nở trên môi. TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P1 - C: Ngày... tháng ... Tôi đọc những trang bản thảo còn tản mạn, cuốn "Bách Khoa Lợn" của Tám. Đó là cuốn từ điển viết theo chủ đề. Tám đã tạo ra những chữ hoàn toàn mới lạ như Bái - trư - giáo, Trư luận, Trư học. Có lẽ vào thời buổi đói khát nên chữ Thịt Lợn được tôi đọc trước tiên. Đây là một bữa cỗ ngôn ngữ, bữa cỗ trên trang giấy. Chúng ta gặp ở đây những chế phẩm của thịt lợn từ đông sang tây: những pa-tê, dăm bông, xúc xích của người châu Âu; rồi đến giò, nem, ninh, mọc của tổ tiên ta. Riêng giò chả đã có giò lụa, giò hoa, giò xào, giò chả cầy, chả quế, chả rán, chả nướng, chả băm viên, chả bì ... tôi thật không ngờ riêng thịt lợn mà con người đã có hơn một trăm cách chế biến. Cái món tiết canh, thứ chế phẩm độc đáo có một không hai trên thế giới, thứ thức ăn Việt đã được nhiều người ưa thích nhất và cũng bị nhiều người lên án và ghê tởm nhất, đã được giáo sư Tám dùng bút xem xét kỹ lưỡng: "Có lẽ đây là món ăn sống nguyên thủy nhất, cổ sơ nhất của loài người từ thời hồng hoang còn sót lại chỉ riêng trên đất Việt. Tổ tiên chúng ta ngày xửa ngày xưa, khi săn bắt được con thú, đã biết sử dụng triệt để; có lẽ việc đầu tiên, khi con thú ngã xuống, là cắt cổ con vật và toàn thể bộ tộc thay nhau xô tới, áp mồm vào cổ con vật mà hút, mà nuốt cái dòng nước đỏ lòe, mằn mặn, ngòn ngọt, âm ấm. Rồi việc đó được áp dụng cho cả loài người, những tù binh, những kẻ bị hiến tế. Tổ tiên ta đã đốt lửa lên, đánh trống bập bùng, rồi nhảy nhót, rồi cắt cổ một tên tù binh nào đó và tất cả bộ tộc cũng xô vào mồm bám chặt lấy cổ tên giặc mà hút, mà rít, mà nuốt cho đến khi tên địch đờ đẫn và ngoẹo đầu xuống. Người Việt ta vốn là dân sành ăn, tinh tế trong ăn uống. Cái món ăn kiểu hút cổ họng đó chắc chắn bất tiện và thiếu đàng hoàng. Ra chốn đình trung, các cụ cần khề khà, cần rung đùi, cần chậm chạp vừa ăn cỗ vừa nghĩ mưu , nghĩ mẹo. Chính vì vậy nên nhân tiết canh, rồi lá húng, rồi lạc rang giả nhỏ được ra đời, để tạo ra món ăn có một không hai trên toàn vũ trụ." Khi đọc môn tâm lý học quản lý của người Nhật, tôi biết ở bên đó , ở nhiều xí nghiệp đều có "phòng hả giận" (desagressivity hall) . Nguyên do là thế này, môn tâm lý học phương tây cho rằng trong mỗi con người đều có một bản năng thô bạo cuồng điên. Nếu không giải quyết, chất cuồng điên ấy sẽ tích tụ, và sẽ gây nhiễu loạn ; vậy thì mỗi xí nghiệp, đều cần phải có "phòng hả giận" , đó là gian phòng trong đó có những găng bốc, những đao kiếm, những bao cát , những hình nhân; và người công nhân, sau giờ làm việc, hãy vào đấy mà đâm, mà chém, mà đánh bốc vào những bao cát, những con nộm để đến cuối cùng mồ hôi toát ra và tất cả nỗi bực bội của kiếp nhân sinh cũng hả theo. Người Nhật quá sùng phương tây, họ quên mất ở phương đông, cụ thể là ở Việt Nam, còn có món tiết canh, một món ăn giải nhiệt, hả giận cực kỳ. Đông y có nói: Tiết vị hàn, mát , có thể giải nhiệt, chữa được chứng phong cuồng. Tôi khuyên người Nhật nên mở những quán tiết canh thay cho "phòng hả giận". Sau giờ làm, người công nhân vào quán, ăn món ăn hả giận đó, mồm sẽ nhoe nhoét đỏ, và nỗi phiền muộn tích tụ cũng sẽ được tiêu t an…" Tôi đọc xong mục tiết canh lợn, thấy ngồ ngộ, môi chợt nở nụ cười không cưỡng nổi. Và tôi bị hút vào cuốn Bách Khoa. ĐẠM Đạm là một loại thức ăn cực kỳ quan trọng để tăng trọng lượng lợn. Trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã vắt óc ra để giải quyết vấn đề đói đạm cho lợn . Người ta nghiền cá tạp nhạp để làm bột cá. Người ta cố tăng sản cây họ đậu để tạo ra nguồn đạm thay thế. Người ta nghĩ cách nuôi vi sinh vật trong cặn dầu hỏa để thu hái nguồn đạm động vật rẻ tiền ....v.v... Đó là những vấn đề người khác đã phát minh, tìm tòi ra. Riêng tôi, tôi cũng đi sâu vào đạm, nhưng chỉ đi vào một nét rất nhỏ của vấn đề đạm. Một hôm về quê, tôi được bà chị tôi kể lại cho nghe một câu chuyện : "Một chị xã viên nông nghiệp một buổi ra đồng về. Mọi khi, về đến đầu ngõ, chị bao giờ cũng nghe tiếng reo mừng của đứa con lên ba "A! Mẹ! Mẹ ... " Hôm nay, về đến nhà, chị vẫn chưa nghe thấy tiếng con reo. Chị ngạc nhiên réo gọi: Tí ơi! Cu Tí ơi! Gọi mãi chẳng thấy con thưa, chị cuống cuồng chạy ra giếng, rồi lội cả xuống ao tìm con, nhưng vẫn không thấy. Chị ra chuồng lợn, và bỗng phát hiện ra một điều kỳ lạ: con lợn lai kinh tế nặng trên một tạ của chị, mỗi buổi chiều, khi chị ở ruộng về, vẫn rống gào đòi ăn, hôm nay lại nằm im ngoan ngoãn. Chị bỗng rùng mình, sỡn hết gai ốc lên; chị nhìn vào chuồng lợn, thì thấy thằng cu Tí chỉ còn lại cái đầu lâu bị gặm nham nhở. Chị nông dân ngất đi, và người ta đem con lợn ra bắn chết." Tôi chợt lóe nghĩ : "Có lẽ lợn thích ăn thịt người nhất." Rất có thể, vì nhiều nhà khoa học cho rằng thịt người là loại thịt bổ nhất; nhiều bộ lạc ăn thịt người, sau khi được văn minh hóa cũng thú nhận thịt người rất ngon. Ý nghĩ ấy cũng hay, nhưng làm cách nào để chứng minh được nó . Rất bí! Bởi vì lấy đâu ra thịt người để cho lợn ăn. Nghĩ mãi mới tìm ra được cách thực hiện. Tôi liên hệ với mấy bà hộ sinh và hàng ngày bỏ tiền ra mua nhau bà đẻ. Nhau là thứ thịt người tốt nhất . Sau đó , tôi lại mua thịt bò để làm đối chứng. Tôi để hai máng thức ăn vào chuồng, một máng trộn thịt bò, một máng trộn thịt người. Con lợn lai của tôi ngửi hai máng thức ăn, và lập tức xô tới máng có thịt người ăn lấy ăn để. Tiếp đó, tôi tiến hành một thí nghiệm thứ hai. Tôi lấy sơ ranh rút ở tĩnh mạch ra mười phân khối máu của chính tôi. Tôi để hai máng thức ăn, một bên trộn cá, một bên trộn máu người. Kết quả con lợn lại xô đến máng ăn có máu người. Vậy có thể kết luận : "Trong các loại đạm, thịt người là loại đạm lợn thích ăn nhất". Tôi càng đọc càng bị lôi kéo vào những dòng ý nghĩ như ma ám của Tám. Những ý nghĩ như gàn như dại ấy phải chăng bắt nguồn từ những sợi rễ li ti nằm trong những miền đáy thẳm âm ti của ta. Nhưng phải chăng đó chỉ là những ý nghĩ bâng quơ? Tôi hút thuốc lá, lan man suy nghĩ để rồi càng ngày càng lạc vào thế giới rất thật mà lại hoang đường của những ý tưởng vừa như khoa học vừa như huyền thoại. NGUỒN GỐC NGƯỜI Tiến hóa luận của Đác Uyn cho rằng thủy tổ loài người vốn là loài khỉ. Cổ sinh vật học và khảo cổ học đã chứng minh điều đó. Người Trung Hoa chưa cần đến khoa học, cũng phát hiện ra điều đó trước mấy trăm năm so với phương Tây. Trong Tây du ký đã nói Tề thiên đại thánh vốn là con khỉ, tu luyện mãi sau đó hóa thành người, tiếp nữa thành Phật (Phật là một loại người hoàn chỉnh nhất). Nhưng sách Tây du ký còn phát biểu thêm một mệnh đề nữa mà chưa ai để ý tới : Lợn cũng có thể trở thành người và Phật. Trư Bát Giới là một con lợn đã dần trở thành phật . Nói một cách khác đi : nguồn gốc loài người có thể là khỉ nhưng cũng có thể là lợn. TÂY DU PHIẾM LUẬN Phiêu diêu Tử ngồi uống rượu cùng sư Vô Trụ. Khi bầu hồ lô rượu đã cạn quá nửa, Phiêu diêu lòng lâng lâng hỏi cùng thầy tăng: - Xin giảng lẽ huyền diệu: Phật là gì.? Sư Vô Trụ nhắm mát nói : - Con lợn. Phiêu diêu Tử điềm nhiên: - Xin nói thêm. - Con khỉ. - Còn gì nữa? - Thằng đần. Phiêu diêu Tử nghĩ mãi chẳng ra, liền van nài : - Tôi vẫn không hiểu, xin thầy tăng giảng rõ hơn. Sư Vô Trụ từ từ mở mắt : - Cả ba họp lại thành Phật . Nói xong, sư lại nhắm mắt và lặng lẽ ngồi thiền, không nói thêm một lời. Phiêu diêu Tử ngồi ngẫm nghĩ nhưng vẫn chỉ thấy mung lung. Ông uống hết bầu rượu thứ ba, ngoảnh nhìn vẫn thấy sư ngồi yên lặng. Họ ngồi ba ngày ba đêm, phơi thây cùng trời, đất, trăng, sao ; một bên cứ uống, một bên cứ lặng lẽ . Phiêu diêu Tử thả hồn vào cõi khôn cùng, đánh đu cùng nàng gió, đùa cợt nàng trăng, chân đi khấp khểnh và quên hết sự đời. Chính lúc ấy, chàng chợt hé nhìn vào cửa huyền vi. Chàng chợt cười ha hả mà rằng: - Phải chăng lấy đôi vú đàn bà làm nấm rượu để uống cho đất trời nghiêng ngửa? Lấy cái thân xác trắng ngần để mà mê đắm, để mà xuất thần, hòa tan cùng trời đất. Mê đắm kiệt cùng sẽ đến bến bờ tĩnh lặng. Bên kia nó là cái t inh khôi nguyên thủy. Phải chăng cái nộ khí xung thiên là cội nguồn vũ trụ. Ta phá trờii, ta khuấy nước, ta đào cho đến miền âm ti tìm cho đến những sợi rễ tột cùng của lẽ vô thường. Và ta bỗng bưng mặt thương cho kiếp nhân sinh. Hay là ta ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, thân lang thang như con phù du trôi nổi, bồng bềnh thả mặc con sóng, đói ta bứt quả rừng, khát ta uống nước suối, mệt ta ngả lưng trên đất, vui cùng trăng sao thuận cùng trời đất, mặc cho gió giăng buồm kéo ta ra khỏi bến mơ ... Sư Vô Trụ đột nhiên mở mắt. Phiêu diêu Tử hỏi: - Ông thấy sao? - Kẻ đi đến nửa đường là kẻ trần tục. Kẻ đi cho đến cùng đường sẽ nhìn thấy Phật. Cả hai nhìn nhau và bỗng cười ha hả. Rồi mỗi người một vò rượu, họ uống cho đến khi quay cuồng vũ trụ. Ngày... tháng ... Sức mạnh của con lợn Bò - vét - đĩa là ăn. Nó ăn sáng, ăn trưa, ăn ngày, ăn đêm, ăn bất cứ lúc nào, miễn là trong máng có thức ăn. Nó lại có thể ăn rất tạp: ngon cũng ăn, dở cũng ăn, thậm chí thiu thối cũng ăn. Nó ăn bèo đã đành, đằng này nó ăn sống cả cỏ hôi, cả lá cúc tần hắc sì, lá ổi chát lẹt, lá rau sam chua lè... Nó ăn bã đậu, bã đậu, bã ma di, chén tươi cả loại bã rượu nhà máy là thứ bã hầu như đã kiệt chất . Nó ăn quá phàm, quá tích cực, quá kỳ dị như một thứ quỉ đói .... Có lúc vừa mới ăn xong được mươi phút, đã thấy nó chồm chân lên dóng tre, gào rú. Tôi thử lấy một chậu nước gạo, rồi thái một rổ bèo sống, đổ vào máng, thế mà con quái chỉ nhồm nhoàm và hút chùn chụt một loáng đã sạch bay. Tôi đâm ra ngẫm nghĩ và e sợ vì không hiểu đằng sau cái dáng ăn quái quỉ ấy có ẩn tàng một điều gì khác lạ không. Nhưng rồi tôi lại yên tâm vì thấy con lợn vẫn bình thường , tức là vẫn lớn một cách tỷ lệ thuận với số lượng thức ăn nó đã ngốn. Sau cái yên tâm là sự phấn khởi bởi vì nó lớn rất nhanh, có thể nói tốc độ lớn phi thường . Khi mới về, nó còn bé hơn cả ba con ỉn, so với con ỉn út còn bị lút số; thế mà chỉ qua một tháng, nó đã vạm vỡ, to hơn cả con ỉn đầu đàn. Tuy to xác, nhưng nó vẫn ngờ nghệch. Mặc dù vậy, với cái thể xác mới của nó, bầy ỉn đã có phần nể lợn Bò. Mới về, nó nằm trong xó bẩn, nửa tháng sau, nó đã nằm dưới chân bầy ỉn, còn bây giờ nó đã dám chen rúc lẫn cùng bầy ỉn, tuy đôi lúc vẫn bị bầy ỉn xua đuổi, chèn ép, nhưng không dám chống lại . Ngày ... tháng .... Hôm nay cho lợn ăn, tay tôi quệt phải đinh chảy máu. Tôi chợt nhớ tới một ý của Tám trong "Bách Khoa Lợn". Tôi tinh nghịch, bèn vắt cho máu tay chảy vào máng thức ăn. Kỳ dị chưa! Bầy lợn ăn sốc hẳn lên; chúng tranh nhau ăn như điên rồ. Mõm lợn vỗ vào máng tồm tộp với một nhịp điệu quá hối hả. Phải chăng câu nói: "Lợn thích ăn thịt người" là đúng? Ngày ... tháng .... Hết cám. Dầu hỏa lại đắt. Tôi đem bán một tháng phiếu dầu gia đình để mua cám lợn, bà vợ tôi kêu la ầm ĩ: - Tôi van ông. Lợn với chả bò! Chẳng ăn thua gì đâu! - Nào! Nào! Cô cứ yên chí . - Tôi không thể yên chí được. Lợn của anh đã ăn hết cái quần si ba ta của con, bây giờ nó lại nhai đến phiếu dầu. Không khéo mai kia, nó sẽ ăn thịt nốt đàn con của tôi cũng không chừng. Tôi chợt bặt lặng, không dám cãi lại vợ nữa. Ừ! Phải chăng lời tiên tri? Tại sao vợ tôi có thể nghĩ rằng lợn ăn thịt con tôi? Tại sao ý nghĩ của vợ tôi lại có thể trùng hợp với ý nghĩ của Tám? Ngày ... tháng .... Chủ lò Hợi kéo tôi đến nhà chơi. Anh đã mời tôi năm lần bẩy lượt nhưng tôi chưa đến bao giờ. Không đến bởi vì anh ta giàu có, còn tôi thì nghèo. Khi nghèo, dù ta là người trải đời thế nào, ta vẫn có mặc cảm, và lúc đó ta thường phản ứng lại kẻ giàu bằng cách chê bai họ, khinh bỉ cái giàu của họ, hoặc chí ít không chê bai, khinh bỉ thì cũng lảng tránh, tránh xa khỏi họ. Quan hệ giữa Hợi và tôi cũng nằm trong qui luật ấy. Nhưng, thằng Linh, cậu sinh viên của tôi đã bắt cầu giao tiếp giữa hai người lớn. Từ khi có Linh dạy thêm, con gái Hợi đã học khá hẳn lên. Học kỳ vừa rồi, cô bé được xếp loại học sinh tiên tiến. Vì lý do ấy, nên ông Hợi đã mời tôi đến chơi cho bằng được.Một gian buồng rộng rãi lát đá hoa nhìn ra một vườn hồng nhỏ. Khi vào nhà, phải theo một lối đi nằm dưới một giàn thiên lý thơm mát. Hai bên lối đi đặt những chậu địa lan, ở góc trong cùng của giàn thiên lý, treo lủng lẳng một dò phong lan tai trâu đơm nụ. Gian phòng toát lên sự sang trọng bởi nền đá hoa mầu cẩm thạch, loại đá lát đặc biệt mà nhà máy xây dựng A đã làm riêng để tặng những khách quí. Cái nền ấy chắc được lau chùi thường xuyên nên bóng lộn. Một chiếc đàn Piano Nhật mới mang từ Sài gòn ra kê ở góc. Giữa phòng nhìn ra cửa là chiếc tủ chè lèo kép. khảm trai, trên nóc tủ chỉ để một lọ hoa hồng loại nhỏ.... Hợi trang trọng mở tủ chè, lấy ra một gói thuốc lá tây chưa bóc và một gói trà rồi hỏi: - Anh thích trà Thanh tâm hay trà Thái mộc? - Trà Thái anh ạ . - Anh giống tính tôi. Không gì bằng trà Thái anh nhỉ. Để anh thưởng thức một loại trà Thái đặc biệt mà họ mới biếu. Xong tiệc trà, đến tiệc rượu. Anh đốt cồn lên nướng mấy con mực rồi nói cười vui vẻ: - Có lẽ anh cũng chỉ thích rượu quốc lủi? Đúng thế chứ? Tôi nghiệm thấy một điều: các đồ ăn uống của tây chỉ có thuốc lá là ngon, còn thì hỏng bét, rượu không bằng của ta, còn trà thì khỏi phải bàn, tây họ không biết uống trà anh ạ, ai đời trà lại pha đường ... Tôi không dám luận bàn về cái cách thưởng thức chủ quan, tự coi mình là nhất đời ấy - Tôi chăm chú nhìn người bạn rượu đương rót vào chén cho tôi một thứ nước trong vắt thơm phức. Rượu ngon đã xóa dần đi cái kênh kiệu, cái khoe khoang ngô nghê. Hương men nếp ngan ngát làm cho Hợi trở nên bình dị. Giọng nói của anh bỗng có màu sắc, lúc lãng đãng, lúc sôi nổi , trở về với những niềm tâm sự mà hiếm khi anh cởi mở: - Xưa kia tôi "làm nhau" ngoài lò lợn. Chắc anh chưa biết thế nào là "làm nhau" nhỉ? Làm nhau tức là xách cái sô tiết, cầm dụng cụ mổ lợn, chạy theo sau và chịu sự sai vặt của những người đồ tể chính thức. Ông đồ tể già, ông thầy dạy nghề của tôi, là một người rất ngộ. Ông hay uống rượu, uống ít thôi, nhưng lai rai suốt ngày mỗi lúc một hớp; ông uống chỉ đủ để bốc ra miệng những tiếng cười ha hả, và đủ để tuôn ra những chuyện tiếu lâm thú vị và tục tĩu. Đó là lượng rượu duy trì trong ngày; còn buổi sáng , trưóc khi vào lò lợn, thầy tôi uống nhiều hơn; ông thường ngửa cổ uống một hơi, tu suông ừng ực hêt phăng một cút rượu, rồi mới săn tay áo kiểm tra đồ nghề, và mài dao. Một cái bị toàn là dao, con dao lá lúa để đâm cho ngọt, con dao rựa để chẻ xương sống, con dao bầu đê cạo lông pha thịt, ngoài ra còn thêm mấy con dao dự phòng. Buổi sớm ở lò lợn thật ồn ào kỳ dị: tiếng những con lợn ngửi thấy mùi thần chết gào lên hoang rợ, tiếng ăng ặc thảm thê , tiếng liếc dao soèn soẹt, tiếng mài dao đều đều, tiếng chặt xương công cốc, tiếng cạo lông sồn sột , tiếng những con dao va chạm vào nhau leng keng, tiếng người nói chuyện với nhau bằng giọng hò hét . Những ông đồ tể khác đã lao vào công việc, nhưng thầy tôi bao giờ cũng đủng đỉnh. Ông mài dao thật kỹ càng, cho đến lúc con dao cạo được râu mới thôi; bởi vì ông thích một lưỡi dao phóng vào tim bao giờ cũng phải ngọt, ông thích hóa kiếp cho những con lợn được chết nhanh hơn. Sáng nào thầy tôi cũng dạy tôi bằng một câu nói gần như thuộc lòng: "Hãy cắt tiết con lợn như cắt tiêt cuộc đời cho đến cùng giọt máu. Chớ có run tay. Này, cắt ngang một đường, rồi chếch lưỡi dao đâm chéo vào tim. Ngoáy lưỡi dao một vòng cho đứt hết những mạch máu nhằng nhịt, Ấn dao về một phía cho cửa ra mở rộng. Thế là tiết sẽ ồ ồ chảy ra như vòi nước. Đạp chân vào bụng cho tiết chảy nhanh hơn. Và dốc chân sau lên cho máu ra đến cùng. Hãy nhớ lấy - Hãy đâm cho trúng - Không được phép run tay. Hãy vắt máu cho kiệt. Có như thế thịt mới ngọt, mới thơm. Hãy cắt tiết cuộc đời như ... " Thế rồi thầy tôi cười, một tiếng cười hư hư thực thực. Ông đồ tể già muốn nói với tôi cái gì qua câu nói đó tôi cũng chẳng hiểu nữa, nhưng câu nói đó đã như cái bóng theo tôi suốt cả cuộc đời . - Cắt tiết cuộc đời? Tôi ngơ ngác hỏi . Lúc này Hợi ngơ ngác chẳng kém gì tôi. - Nhiều lúc tôi định nói chuyện với anh, định nói anh nghe câu chuyện ấy. - Định kể với tôi? - Vâng. Kể với anh . Nhưng có lẽ anh khinh tôi ... à ... người ta vẫn bỉ tôi ... - Tôi? Khinh anh? Tôi ngơ ngác thêm. - Chả cứ anh ... đến vợ tôi cũng mặc cảm với tôi. Cô ta không nói ra nhưng tôi biết ... Này ... Tôi hỏi thật anh có ghê sợ tôi không? Tôi càng đi sâu vào chỗ lúng túng, và tôi chợt hiểu con người ngồi trước mặt tôi. Con người hình như phú quí, hình như tàn ác, hình như tàn ác, hình như kênh kiệu rởm ấy ... Thực ra anh ta cũng yếu đuối, cũng khốn cùng ... Tôi chưa kịp biểu lộ cái thương cảm ngớ ngẩn ấy của tôi ra với Hợi , thì Hợi bỗng cười to. Anh ta uống một tợp rượu rồi cườu ngất. Cái vui có lúc như bông phèng lại trở về giọng nói của Hợi. - .....Tôi đi làm cách mạng. Tôi bỗng hiểu ra câu nói "Hãy cắt tiết..." của ông thầy, người công nhân lò mổ năm xưa. Tôi hiểu đó là sự kiên quyết, sự dứt khoát, sự mạnh mẽ. Cách mạng đã cắt tiết chế độ cũ. Máu tiết ở tim, gan, phổi, óc của chế độ cũ phải kiệt đi, phải chảy đến giọt cuối cùng để cách mạng thay vào đó một dòng máu mới. - Anh đã tham gia vào việc đó ra sao? - Năm 13 tuổi tôi là liên lạc trong Trung đoàn Thủ đô. Năm 17 tuổi tôi là tiểu đội trưởng vệ quốc đoàn. Năm 18 tuổi tôi giết tên giặc Pháp đầu tiên. - Anh kể cho tôi nghe chuyện đó đi. - Anh nghĩ thế này có tức không? Chúng tôi có một trung đội, vây hãm một bốt Tây đánh cho lúc gần nhọm nhẹm sáng chúng mới chịu hàng. Trung đội trưởng chết. Trung đội phó chết. Chúng tôi bắt được một thằng Tây trắng và hai thằng Tây đen. Thằng Tây trắng chỉ huy đã bị thua còn ra vẻ, còn khệnh khạng. Tôi hỏi: "Anh tên gì? Cấp bậc gì?" Nó trả lời : "Tôi là com măng đăng, là thiếu tá, tôi không nói chuyện với các anh". Tôi hét lên: "Mày có nói không?" Nó trả lời: "Tôi nói với người cấp bậc ngang tôi". Tôi giận dữ chửi vào mặt nó: "Thằng ngu". Thằng Tây quắc mắt nhìn tôi. Tôi tát vào mặt nó. Nó dướn cổ nhìn tôi căm thù. Tôi bắt nó quì, nó không quì. Thế là tôi rút dao ra, đâm vào cổ nó, sọc vào tim nó... Hợi trầm ngâm, tay run run vê một điếu thuốc lào, và anh hút bập bập, tiếng điếu cày kêu tanh tách cắt thành từng đợt , qua làn khói anh tư lự đặt câu hỏi: - Chỉ có một điều tôi vẫn chưa hiểu. Lúc đó, tay tôi cầm khẩu súng lục tước được của chính thằng xếp bót đó, nhưng không biết tại sao tôi lại không bắn? Bắn như thế sẽ giản đơn hơn, thằng Tây sẽ chết nhanh hơn, quang cảnh sẽ bớt ghê rợn . Nhưng tôi lại đút súng vào túi quần và rút con dao lá lúa ra, tôi giơ con dao sáng loáng trước mặt nó. Lúc bây giờ thằng Tây mới sợ. Nó tròn mắt và kêu to một tiếng ô ô gì đó. Và tôi đâm vào cổ nó ... Ừ nhỉ! Tại sao tôi không dùng súng nhỉ? Tôi lặng yên, không dám trả lời Hợi, cứ để cho anh ta tự độc thọai bằng những lời không thốt ra, những lời như những bọt nước sôi từ đáy lòng cuộn lên làm đôi mắt anh ta chớp chớp. Sự im lặng kéo dài đến vài phút. Sự im lặng hình như có độ co dãn. Lúc này nó lắng tịt xuống, chìm sâu hẳn xuống để cho tiếng một con thạch sùng tặc lưỡi bâng quơ cũng được chúng tôi chú ý nghe rõ mồm một.Tiếng con vật đánh thức Hợi dậy, đánh thức tôi dậy khỏi một dòng suy tư đang chực hình thành. Tôi hỏi một câu hỏi chẳng ra đầu ra cuối: - Thế còn bây giờ? - Sao? - Bây giờ? - A à ...- Hợi chợt cười một cái cười hài hước nửa miệng -Bây giờ thì tôi chả cần "cắt tiết" nửa rồi. Cuộc đời đã tự cắt tiết mình hiến dâng cho tôi... Tôi lạ lùng, ánh mắt tỏ vẻ không hiểu. - Dễ hiểu thôi, anh Hoàng ạ. Bây giờ thì tôi cần chi phải dùng con dao lá lúa. Tôi đã để nó vào trong cái tủ chè kia, dành làm kỷ niệm. Bây giờ, tôi có hàng loạt người quen bạn bè ở khắp các cơ quan. Tôi lại có lòng lợn thịt lợn trong tay - Anh cười to - Tôi chỉ cần sống lương thiện, chỉ cần các cơ quan bạn giúp đỡ tôi một cách trong sạch nhất, hợp lý nhất. Tôi chỉ cần sống như thế là cũng đủ có một đời sống sung túc. Mắt tôi chợt dừng lại ở dò phong lan tai trâu lủng lẳng trên vườn hồng. Chúng tôi rủ nhau ra xem hoa. Tôi hỏi dò hoa hay tự hỏi lòng mình : - Ôi cái lương thiện thời nay mà cũng bi thảm đến thế sao? TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P1 - D: Ngày ... tháng ... Con lợn Bò-vét-đĩa của tôi hình như cũng biết triết lý sống của ông chủ lò. Nó ăn rất điên. Nó ăn say sưa như một nghệ sĩ. Có nghĩa là từ lúc tôi đổ thức ăn vào máng con Bò đã xông ngay vào và say sưa "Cắt tiết cuộc đời". Nó ăn không ngừng, không thở, ăn một mạch bất chấp có gì xảy ra xung quanh. Lũ ỉn tấn công, dúi, cắn, hất. Mặc, nó cứ ăn. Nó ăn liên tục gần nửa tiếng như vậy; và sau khi đã vét đĩa sạch sành sanh, nó lặng lẽ liếm mép, đủng đỉnh vào chỗ nằm. Và chỉ vài phút sau nó đã ngáy o o. Thậm chí, khi lũ ỉn cưỡi lên lưng nó, con Bò cũng vẫn ngủ. Con lợn Bò của tôi cũng ngủ theo kiểu "cắt tiết cuộc đời"? Ngày ... tháng ... Tôi sang nhà Lân, thấy anh ta mặt đen thui, bực bội đứng trước cái lều chế biến thức ăn. Từ căn lều bốc lên một con rắn khói đen sì ngoằn ngoèo múa lượn. Lân bứt rứt đi lại. Hình như anh đang bị khích nộ. Cái đầu to đen của anh lắc lư trên cái thân gầy đét. Tôi im lặng chờ đợi Lân nói . Lân thỉnh thoảng lại mắc một trận khích nộ như vậy, một trận khích nộ khùng khùng dại dại. Kìa, Lân đã sáng mắt lên. Đôi mắt long lanh trên khuôn mặt đen sạm hình như có lửa nung: - Tôi khinh bỉ con lợn Bò của anh. Đúng! Nó là đồ vét đĩa. - Hôm nọ, anh khen nó lắm cơ mà? - Tôi điềm đạm. - Hôm nọ tôi khen, còn hôm nay tôi khinh. Bởi vì... bởi vì nó không xứng đáng. - Xứng đáng? Lân giang tay ra giải thích: - Tôi thích nó mạnh mẽ... Thích nó cứng rắn ... Thích nó chiến đấu. - A à ... Tôi lặng lẽ nhìn người bạn của tôi đang lên cơn "sặc mùi thuốc súng". Mắt Lân sáng chừng kia. Tay Lân hoa lên như thế kia. Cái đầu anh lắc lư. Môi anh run lên bần bật. Lắp bắp ... có lẽ bộ óc kích động của anh đang đi tìm chữ ... có lẽ nó đang đi tìm những chữ nào mạnh mẽ và cuồng nộ nhất, báng bổ nhất, nổ bùng nhất, để làm tan dần, hả dần những âm vang cay đắng còn dư đọng từ những ngày chiến trận. Lân cần một người nghe, một người biết chịu đựng những bầu tâm sự, biết để cho những kho thuốc súng trong tâm hồn anh được bung ra một cách tự nhiên không cản trở. Tôi nhẫn lắng nghe, với ước mong dần dần đầu óc bạn tôi trở về mát mẻ. Tôi hút thuốc lá, thở khói im lặng, chăm chú nghe Lân nói. - Con lợn Bò của anh là cái ... thứ gì nhỉ? Đôi mắt lấm lét... A, cái giống hèn mạt ... Quen cái thói nô lệ rồi ... Cam chịu ... Cam chịu ... Thế mà còn tự ru ngủ mình ... rồi tự đế mình ... tự khen mình nữa ... rồi lập lờ ... lộn ngược giá trị ... tôn vinh cho sự ti tiện ... Lân ơi ! Tôi biết nói với anh sao đây? Một người điên, hay một kẻ thất vọng? Hay một kẻ mộng du đi trong một cõi người điên đảo? Hay một người cố chấp ương bướng? Anh phóng chiếu lòng anh vào đàn lợn. Những gì anh không thấy ở đời thì anh đi tìm nó ở đàn lợn, ở một sinh vật hạ đẳng hơn. Những con vật được anh nhân hóa; anh tạo cho chúng một hồn người ... Lân ơi! Tao biết khóc hay cười cùng mày đây? Mày muốn tao trả lời những tra vấn của mày ư? Cặn kẽ ư? Tôi bối rối. Nhưng dù sao, tôi cũng kéo anh ngồi xuống bên tôi, rồi đưa thuốc lá cho anh hút. Lân chăm chú nhìn tôi và hít những hơi dài, nhả khói ra liên tục. Tôi khẽ khàng gật đầu: - Anh nói đúng. - Thế chứ! Lân vội vã nắm lấy tay tôi bóp mạnh. Hỉ hả, vui sướng như một đứa trẻ thơ. Tôi thấy điếu thuốc lá trên tay anh run lên. Rồi bỗng nhiên, anh đứng dậy, cầm tay tôi kéo ra chuồng lợn, dáng vẻ hân hoan: - Anh phải ra đây. Ra đây mới hiểu hết lời tôi nói. Anh dừng lại giải thích cố cho tôi hiểu mạch lạc: - Tôi mới mua được con lợn chiến sĩ. Anh hiểu chưa? - Sao? - Chiến sĩ! Tôi đặt tên cho nó là Chiến sĩ bởi vì ... Bởi vì nó có thái độ rất liêm sỉ. Anh hiểu chưa? Thì nào tôi đã hiểu gì đâu, nhưng vì thấy Lân rất ân cần tôi hiểu nên tôi cứ gật đầu bừa. Lân vẫn nói: - Liêm sỉ, nghĩa là nó biết sống. Đến lúc này, Lân mới chỉ vào chiếc bao tải dứa nằm dưới gốc cây bưởi. Và anh bùi ngùi: - Nó đấy! Con Chiến sĩ của tôi đấy. Tôi ngơ ngác vẫn chưa hiểu hết chuyện. Còn Lân, anh nghiêm trang mở chiếc tải đắp, để lộ ra một chú lợn con đã chết. Đó là một chú lợn Móng Cái, lưng choàng một vệt loang đen hình yên ngựa, trán đốm một vệt lang trắng hình ngôi sao. Và Lân đã cảm động kể với tôi về tiểu sử ngắn ngủi của chú lợn con: Lân mua con Chiến sĩ về mới hơn một ngày. Anh mua nó hai trăm đồng, tiền trích ra từ số lãi của con Tên lửa. Chú lợn Móng Cái nhỏ con nhưng hay ăn và rất bướng. Lân không có thói quen nhốt riêng lợn khi mới mua về. Vừa từ trại giống về đến nhà, anh đã thả ngay con chiến sĩ vào chuồng. Con Chiến sĩ vừa mới chân ướt chân ráo từ lồng chui ra, đã xông ngay vào máng ăn, để tranh ăn với con Thần sấm. Thần sấm là một chú lợn tây khoảng 95% máu ngoại. Hầu như chả thấy dấu hiệu nào của máu ỉn trên người chú. Một con lợn trắng toát, tai to, chân cao, bụng ngựa... Trông nó giống như một con béc giê. Nó rất hiền nhưng khá ích kỷ. Nó chuyên ăn riêng, một mình một máng. Nếu không con nào đụng đến máng của nó thì Thần sấm rất hiền lành, không gây gổ, ăn xong đủng đỉnh vào ngay chỗ ngủ. Nhưng nếu con lợn khác động đến máng ăn của Thần sấm là không xong với nó. Nó khỏe nhất, lớn nhất trong đàn lợn hiện nay. Thường dễ nó đã tới bốn chục cân. Thế mà con Chiến sĩ, chú lợn ranh con lại dám xông vào máng của nó. Thần sấm nổi giận ra oai ngay. Nó chồm lại định cắn vào tai Chiến sĩ. Chiến sĩ rất nhanh; thoắt cái đã lẩn được ra phía sau, và cắn vào đuôi con Thần sấm . Nó vừa cắn vừa lôi đến nỗi con Thần sấm phải kêu rống lên. Và Thần sấm đành chịu để cho Chiến sĩ ăn vào máng của mình. Đó là câu chuyện bữa ăn hôm qua. Sáng nay, lúc đến giờ ăn, Chiến sĩ lại quen mùi xông thẳng vào máng Thần sấm. Hôm nay, Thần sấm mưu mẹo hơn; nó giả vờ cúi đầu xuống, cùng tranh ăn. Nhưng, bất thình lình, nó ngẩng lên và cắn vào tai Chiến sĩ. Nó nhai, nó rứt đến lúc tai con lợn nhỏ bị rỉ máu ra mới thôi. Trừng trị xong, Thần sấm tưởng con Chiến sĩ sợ hãi, sẽ bỏ đi ăn máng khác. Nào ngờ, Chiến sĩ đã không sợ, mà trái lại còn hung hãn hơn trước. Nó không cần ăn nữa, và tuyên chiến ngay với Thần sấm. Nó nhanh như chớp, định cắn đuôi Thần sấm như hôm qua. Nhưng hôm nay, Thần sấm đã biết chỗ yếu của mình; nó bám sát không để cho Chiến sĩ lẻn ra sau đánh tập hậu. Hai con lợn một bé, một lớn loạn đả inh ỏi, đến nỗi cả đàn lợn của Lân phải dạt hết ra chung quanh, chúng không dám ăn và nhìn hai con lợn tham chiến. Lân không có thói quen can lợn đánh nhau. Kinh nghiệm của anh là cứ để mặc cho lợn đánh nhau, và như thế lợn sẽ nhanh chóng làm quen với nhau hơn. Cuộc chiến diễn ra gần nửa tiếng. Chiến sĩ tuy bé nhưng nhanh nhẹn. Thần sấm tuy to khỏe nhưng vụng về. Vì vậy cuộc chiến không phải là không cân sức, cả đôi bên đều bị thương sây sát đầy mình. Chiến sĩ đã hoàn toàn thắng lợi. Cuối cùng, Thần sấm không dám đánh nhau nữa, nó đủng đỉnh quay về chỗ nằm. Còn Chiến sĩ cũng tộp tộp ăn vài miếng cho oai, nhưng có lẽ đau quá ăn không nổi, nên nó cũng đủng đỉnh quay về chỗ của mình. Lân khoan khoái vào nhà hút thuốc vặt, anh yên trí rằng con lợn nhỏ của anh đã qua được cuộc chiến nhập môn và nó đã được chấp nhận vào đàn. Nhưng thương thay! Vì chiến đấu quá sức Chiến sĩ đã bị ngất xỉu đi. Lúc Lân biết thì chú lợn con chỉ còn thoi thóp. Lân mang con vật ra gốc cây tiêm cho nó, bơm cháo cho nó. Không kịp nữa rồi! Mặc dù Lân tận tình cứu chửa, nhưng Chiến sĩ đã hy sinh. Lân vuốt mắt cho nó, đắp cho nó chiếc tải ... Lân bùi ngùi cầm tay tôi: - Anh giúp tôi một tay nhé. - Làm gì? - Đào một cái huyệt để chôn con Chiến sĩ. - Chôn? - Vâng. Đem chôn. Vợ tôi muốn giết thịt, nhưng tôi không bằng lòng. Anh ngừng một lát rồi nói thêm: - Tôi là người lính. Anh hiểu không? ... Ă thịt một con vật như thế, tôi nuốt sao trôi. Tôi lặng lẽ cùng Lân đào một cái hố sâu. Lân đã chôn con vật như chôn một đồng đội. Tôi nhìn anh đứng lặng bên nấm mồ lợn ... Những câu hỏi chợt thì thầm trong óc tôi: ở thời buổi này, đem chôn xuống đất mười cân đạm, đó là hành động của một kẻ điên hay của một con người rất người? ... Hay của một con người đóng kịch đại tài? ... Cả khi điên, cả trong giấc mơ, con người vẫn đóng kịch hay sao? Trong đời thường ta sắm vai anh hùng và vai trò ấy đeo đuổi ta cả đến khi ta khùng khùng dại dại? Cảnh đám ma lợn ấy là bi hay là hài, hay là một cảnh bi hài mà ta chẳng nhận ra? Hay là tình cảnh riêng đã làm con mắt tôi trở nên độc ác? Đêm ngủ, vắt tay lên trán tôi cố nhớ lại cảnh đám ma lợn, cố nhớ lại những nét hài hước của nó để tự chế diễu thói đa cảm của mình và của bạn. Nhưng không hiểu sao lại chỉ thấy một tác động trở ngược; tôi chợt thấy thương mình và cả thương Lân nữa. Thế hệ chúng tôi là thế hệ những người anh hùng và cả những người sắm vai anh hùng. Cái chất men Prômêtê ấy thấm vào từng tế bào trong cơ thể, bừng bừng ở những khung cảnh vĩ mô, ngột ngạt sặc sụa ở những khung cảnh vi mô, đến nỗi chúng tôi không phân biệt nổi khi nào ta thực, khi nào ta giả. Chúng tôi lên đồng đến nỗi không nhìn ra được cái ngô nghê thảm hại khi mình rởm ấy. Chúng tôi đã đánh mất cái giản dị tinh tế của đời thường, nhưng có lúc chợt u ơ run rẩy khi đi trên con đường thánh của mình. U ơ bởi vì lắm lúc ngẩn ngơ thấy trong mình thiếu vắng một cái gì rất cơ bản mà mình không xác định nổi; run rẩy vì chợt có lúc thoáng thấy nỗi sợ hãi của phi nhân ... Ngày ... tháng ... Lại thiếu gạo. Lại hốt hoảng chạy vạy. Và vợ tôi lại lái lại một điệp khúc thường diễn: - Anh đi vay vài chục. Em mua yến sắn cho con. Lại eo óc, gắt gỏng cấu xéc càu nhàu. Lại bực bội vì tiền vì miếng cơm. Lại tính toán ti tiện. Cái tế nhị âu yếm thời xưa, vợ chồng tôi đánh mất lúc nào chẳng hay. Thậm chí có lúc vì một sự vui hiếm nào đó, tôi muốn đùa vui âu yếm với vợ con một chút, thì lại bị cô ấy chê ngay là giả dối. Chập tối, tôi cầm chiếc ghi ta của thằng con, và bắt chước nó, đánh rải một hợp âm và hát một câu tình ca của Pháp: ... Xa em rồi , tim tôi sầu úa ... Vừa hát, tôi vừa mỉm cười bâng quơ. Lập tức, vợ tôi dội ngay một gáo nước lạnh : - Thôi ! Tôi xin. Ông đừng đóng kịch. Tôi vứt cây đàn xuống giường, rồi bực bội: - Toàn là gây sự! - Ai gây sự? - Thật là ô nhiễm! "Ô nhiễm!!!". Tôi muốn hét to lên hai chữ ấy, nhưng họng tôi khô khốc. Tôi nghẹn lại, tắc lại. Tiếng nói của tôi biến mất. Ngày ... tháng ... Tám cho tôi xem một mục trong Bách Khoa Lợn. RAU Rau rất cần thiết cho sự phát triển cơ thể lợn. Trong rau có rất nhiều vitamin, chất khoáng, và một lượng nhỏ đạm, đường, chất béo. Điều thú vị là một số nhà bác học phát hiện cho ta biết rằng: Muốn lợn tăng trưởng nhanh thì ta cần cho lợn ăn nhiều đạm; còn đối với lợn nái, muốn cho đẻ tốt thì cần phải cho ăn nhiều rau. Vậy có thể nói: Đạm phát triển cá nhân con lợn, còn rau phát triển nòi giống lợn cho đông đàn dài lũ. Điều phát hiện trên thấy đúng với cả loài người. Nền văn minh phương tây, nếu đứng về góc độ thức ăn mà nói, là nền văn minh đạm; nó chú trọng vào sự phát triển cá nhân. Người phương tây chăm chỉ ăn đạm nên vóc dáng càng ngày càng to, và càng thưa đẻ. Nền văn minh phương đông là nền văn minh rau. Người Ấn độ, Trung hoa, Việt nam ăn rau nhiều nên vóc dáng nhỏ và ngày càng đẻ khỏe . Trong văn minh rau, loài phát triển mạnh và cá nhân chỉ là những bóng mờ. Chủ nghĩa thực dân là sự chiến thắng của Văn minh Đạm đối với Văn minh Rau. Rau là biểu tượng của sự đói khổ đi đến cuồng dại. Rau là biểu tượng của sức sống bản năng, của phần tăm tối nhưng đẹp đẽ trong con người. Đạm là biểu tượng của sự giàu sang đi đến phè phỡn. Đạm là biểu tượng của sức sống lý trí kiêu căng, và khôn ngoan đến ngu ngốc. Thiếu đạm thừa rau, và thừa đạm chê rau là hai đối cực dẫn loài người đến khủng hoảng hủy diệt. Chao ôi! Rau thì điên cuồng nổi loạn, còn đạm thì kệch cỡm, cứ tưởng mình toàn năng. Sẽ có lúc rau và đạm sẽ làm rối bời trái đất và con người trong cuộc quyết chiến Rau-Đạm này đang gào thét kéo nhau vào hố thẳm. Hỡi những kẻ ăn đạm , đừng khinh miệt sức mạnh của rau. Và hỡi những kẻ ăn rau, đừng tưởng rau mang phép thần kỳ. Rau cũng mang trong nó những ngòi độc mà ta không lường nổi. Hơn nữa, những ai chiến thắng, chiếm được đạm thì lập tức họ cũng thuộc ngay về đạm, vì đạm sẽ tiêm truyền cho họ cái máu chuếnh choáng của sự kiêu sa ngu ngốc. Tôi không muốn như con lợn tây, suốt ngày gào rú chỉ đòi ăn đạm.Và tôi cũng chẳng muốn giống loài lợn ỉ, những con lợn mặt nhăn cổ đại, với chiếc bụng to đùng như trống nhưng mổ ra chỉ thấy rau bèo. Đêm khuya. Tôi đọc xong trang giấy và nằm dài im lặng. Tôi, một con vật người nhai rau đang nghĩ suy về đạm. Ở bên kia vách, con lợn Bò của tôi cũng đang tóp tép nhai rau. Lợn ơi ! Mày có nghĩ ngợi gì khi mày cắn một cọng rau, một lá bèo trong miệng? Không biết, vào giờ này, có con người đạm nào còn thức và đang trằn trọc như ta không? Ngày ... tháng ... Lân đánh giá con lợn Bò của tôi đã lớn gấp rưởi con lợn ỉn. Về mặt kinh tế, Lân khen tôi đã thắng lợi. Nhưng về mặt tinh thần, anh cho là tôi đã thất bại, bởi vì. tôi đã mang thân đi hầu hạ một con lợn vô liêm sĩ, một con lợn to thân xác nhưng lại sợ những con vật bé nhỏ hơn mình, thậm chí còn lấm lét, khúm núm với chúng. Lân đứng bên chuồng lợn, và nói giọng điên điên khùng khùng, anh động viên con lợn Bò: - Nào ! Tiến lên! Đừng sợ hãi! … Hãy vứt bỏ cái thói vô liêm sĩ… Hãy chống lại thói quen hèn hạ …Nào ! Hãy cắn … Hãy vồ … Hãy xé xác bọn ỉn thử xem sao … Tôi mỉm cười, cố xoa dịu Lân. Tôi cũng đùa cợt : - Ông bạn ơi! Ông định làm kẻ đầu sỏ , khuấy động gâ bất bình trong đàn lợn của tôi sao? Anh nên nhớ đây là chuồng lợn … Tôi chợt ngừng lại giữa chừng câu nói vì nhận thấy con mắt nghiêm trang của Lân. Thì ra người không biết đùa, hay là người đã quên mất thói quen đùa cợt, hay là người vẫn lạc trong những cơn mê chiến trận, ở đó bên cái chết con người chỉ mặc bộ đồng phục nghiêm trang. Anh nhìn sâu vào mắt tôi rồi giảng giải : - Ý anh muốn nói chuồng lợn không phải là sân khấu chính trị? - Sao? Tôi giật mình vì Lân đang kéo tôi vào một cuộc nói chuyện mà nhiều lần tôi đã cố tình lảng tránh. Còn Lân anh vẫn nói phăng phăng, rất hùng biện. - Anh là kẻ đọc sách mà ý nghĩ vẫn thô sơ. Anh nên nhớ trái đất chúng ta đang nồng nặc ngột ngạt mùi chính trị . Đâu người ta cũng dạy dỗ, lôi kéo, hướng dẫn con người làm chính trị . Đó là thứ men nồng trên miếng đất ta ở … Phải! Men chính trị đã thấm vào ta từ thủa bào thai … Lân chỉ vào mặt tôi: - Anh định lẫn trốn chăng? Sợ hãi chăng? Định làm trò khoác cho mình một bộ áo cà sa chăng? Ha ha … Con lợn Bò … lợn Bò … Nhưng dù có chui vào hang, vào hầm, vào hố , vào xó, vào xỉnh …dù có trốn lên rừng, hay lặn xuống biển thì chính trị cũng đuổi theo anh … lôi anh nhập cuộc . Tôi bàng hoàng nhìn người bạn rồ dại của tôi. Nhưng có thực anh ta điên không? Anh đang moi móc tim gan ra và phơi bầy dưới ánh mặt trời. Tôi lúng túng trả lời : - Anh biết đấy … từ lâu rồi … tôi đâu còn quan tâm tới điều đó. Anh cũng thấy đấy … Tôi đang lo miếng cơm … Và nói thật, tôi cũng thích nghề nuôi lợn … - Anh thích nghề nuôi lợn? - Thích … Thậm chí … Ừ nhỉ ta có thể biến nghề nuôi lợn thành một nghệ thuật … Có thể được không? - Ha ha … Vòng vo! Vòng vo! Tôi giật bắn người. Còn Lân vẫn cười. Anh không biết là anh đã chạm vào một điểm rất nhạy cảm của đời tôi. Tiếng cười của Lân làm tôi bỗng chợt lùi về dĩ vãng. "Vòng vo!" tiếng nói đó vang lên trong óc . Tôi nhớ lại cái phòng hỏi cung trần trụi mà năm ấy tôi vẫn thường ngày phải lui tới hai buổi chăm chỉ, đều đặn như một chú học trò . Cái phòng rộng, ở giữa kê một chiếc bàn và hai chiếc ghế , một chiếc dành cho người cán bộ an ninh, và một chiếc ghế dành cho tôi. Căn phòng trần trụi màu trắng lạnh, không có một vật gì thừa. Chỉ một chiếc bàn và hai chiếc ghế , một mẩu giấy lộn cũng không, một cái đinh vô dụng cắm bâng quơ trên tường cũng không, một con gián, một con nhện cũng không. Không có một sinh vât nào, một đồ vật nào nằm ngoài mục đích lại được phép có mặt; có lẽ người ta sợ một sự phân tán, một sự liên tưởng nào đấy có hại cho sự tập trung cửa kẻ bị hỏi. Của đáng tội, cũng có hai vật thừa. Đàng trước mặt tôi, tức là đàng sau người cán bộ an ninh, phía trên cao tường có treo một bảng khen, ông bộ trưởng đã ngợi khen một tổ trinh sát số 3 nào đó đã phá tan một vụ án chính trị nào đó, một cách xuất sắc. Vụ nào nhỉ? Những ai bị bắt? Họ là những người ra sao? Những người phe phái, hay những kẻ lý tưởng điên cuồng, hay những con người vô tội chỉ thèm khát sự công bằng, những kẻ bị bắt vì còn chút lương tâm? Thế đấy! Có lẽ tờ giấy trên tường kia tồn tại cũng chỉ vì mang một công năng đàn áp, muốn đè bẹp ý chí của kẻ bị hỏi cung ngay từ phút đầu nhìn thấy nó . Nó như muốn cười mỉm, một nụ cười bí mật và khoe rằng: đừng có ảo tưởng che giấu, chúng tôi biết hết, chúng tôi có nghìn mắt nghìn tay. Và sau lưng tôi cũng có một vật thừa thứ hai: cái ba lô bộ đội trong chỉ có chiếc bàn chải đánh răng, vài bộ đồ lót, một chiếc áo bông … Người cán bộ an ninh đã bảo tôi phải mang đến: - Anh hãy mang ba lô đến hàng ngày. Để ở góc phòng ấy. Anh bướng lắm. Ngoan cố . Không khai hết sự thật . Kẻ cầm đầu đã khai hết rồi. Bạn bè anh đã khai hết rồi. Còn anh, sao anh vẫn quanh co? Nếu còn tiếp tục vòng vo thì sẵn ba lô đây, chúng tôi phải bắt buộc có biện pháp cứng rắn, cho anh ngồi vào một phòng giam để anh suy nghĩ … Tôi im lặng. Thì ra cái ba lô cũng chẳng phải vật thừa. Nó là của tôi; chiếc ba lô tôi đã được phát trong bộ đội, năm 1953. Nó đã theo tôi lang thang lên rừng, xuống biển. Bây giờ nó lại ở bên tôi. Trước kia khác, bây giờ khác, cả chiếc ba lô vô tri vô giác kia lúc này cũng chống lại tôi. Cái vật dụng thân quen mà tôi vẫn cõng trên lưng ấy, lúc này cũng là một vật nhắc nhở, đe dọa. Người cán bộ an ninh chăm chú đọc tờ lời khai tôi viết hôm trước. Trên trán anh bỗng xuất hiện những nét cau có. Cuối cùng, anh ngẩng đầu lên, bỏ chiếc kính ra. Rồi anh đứng dậy giảng cho tôi như giống cho một chú học trò: - Ha ha! Thật là bác học . Anh dẫn ra nào là Nguyễn Du, là Mác, là Đốt, là … Thôi đi! Anh định làm trò gì, chúng tôi đã đi guốc vào bụng anh. Anh định đóng kịch, làm trò thông thái rởm … Thoát bào nhượng vị. Cởi áo bào ra, trốn lủi, để chúng tôi đuổi theo cái vỏ áo bào tư biện. Chúng tôi không có thì giờ cãi cọ với anh về lý luận. - Chúng tôi sai về tư tưởng … vì vậy tôi kiểm điểm tư tưởng … - Không phải sai tư tưởng mà là hành động. Anh đã hành động. - ? ? ? - Đảng nói A, anh cãi lại B. Nói cho người khác nghe tức là vận động kẻ khác theo mình. Nói khác tức là đã hành động chống đối. Anh hiểu chưa? - ? ? ? - Lại còn vờ vĩnh: "Tôi không làm chính trị". Bộ anh ngây thơ đến thế sao? Sở dĩ anh muốn trốn hai chữ chính trị vì anh có ý thức là anh đã mắc vào một tội ác to nhất trong xã hội chúng ta : tội chống Đảng. - Không! Tôi là người viết báo, viết văn. Người cán bộ an ninh đập bàn và con mắt sau cặp kính của anh bỗng long lanh tức giận. Anh nói to, dằn từng tiếng: - Các anh đã tổ chức chống Đảng. - Tổ chức ? - Tổ chức! Đúng vậy ! Tổ chức chính trị khéo léo . Tôi im lặng. Tôi đã hiểu từ lâu người ta muốn dẫn tôi đến cái nút ấy, cái thòng lọng ấy. Khi cái thòng lọng đã quàng vào cổ rồi, nhưng do bản năng tự vệ, tôi vẫn cố rãy rụa, cố bào chữa. Tôi đứng lên và nói rất to : - Các ông không có chứng cứ . Làm gì có tổ chức … Người cán bộ an ninh chỉ vào mặt tôi và cũng quát : - Ngồi xuống! Tội của anh càng nặng thêm vì cố tình vòng vo trốn tránh … "Vòng vo ! Vòng vo ! "… Những tiếng vang kỷ niệm xa xôi ấy, lúc này bỗng lại sống dậy trong óc tôi. Tôi cố ôm lấy đầu, che kín đôi tai, để khỏi nghe tiếng của Lân. Nhưng che làm sao được . Giọng của Lân khích nộ, cũng có tính chất rao giảng như giọng của anh cán bộ an ninh hôm xưa. - Khi ta yêu một điều gì, ghét một điều gì tức là ta đã làm chính trị. Chỉ khi nào hết yêu ghét , tức là đến ngày tận thế, thì bấy giờ mới hết chính trị. Chính vì vậy, khi nói không làm chính trị, ta đã tự lừa dối, ta đã hèn nhát lẫn trốn. Anh nói nuôi lợn như một nghệ thuật, tức là anh đã tự phỉnh nịnh, tự coi mình hơn kẻ khác, trong khi đó thực chất anh đang tôn vinh cho sự vô liêm sĩ, sự nô lệ… Chính vì vậy nên tôi khinh bỉ con lợn Bò … Lân im lặng nghĩ một lát rồi tuyên bố : - Chuồng lợn cũng là một sân khấu chính trị. Tôi cúi đầu, không cãi lại. Trong lòng tôi bỗng dấy lên một nỗi buồn phiền mơ hồ. Hôm nay, tôi hình như đã hiểu thêm một chiều độ của bản thân. Có lẽ Lân nói đúng. Tôi đã trốn chạy, và hình như tôi đã lập lờ … ngay cả khi nuôi lợn. Trời ơi! Tôi muốn trốn lên núi quá. Người xưa lên núi để trốn việc đời. Ngày nay, trên núi cũng có đời. Nuôi lợn là một cách "trốn vào núi" hiện đại. Nhưng hoá ra, trong chuồng lợn cũng có đời. Ngày... tháng ... Kỳ lương dạy học tư đầu tiên của con tôi, Linh mang về ba ki lô gam tóp mỡ. Cậu sinh viên mê triết học ấy cười khanh khách: - Bố ơi! Đúng là cách mạng. Đảo lộn hết cả nếp đời. Mọi cung cách sống thay đổi đến tận gốc rễ. Hết mọi sĩ diện, mọi đài các, mọi thớ lợ . Khi con bưng rổ tóp mỡ đi dọc phố xá, những người quen thuộc nói: "Cậu Linh trúng rồi nhé. Bao nhiêu là tóp mỡ!" Có người hỏi mua, trả mười lăm đồng một ký, nhưng con không bán. Con dành cho lợn của bố. Tôi cười: - Thế là cậu còn sĩ diện hão. Đáng lẽ ra cậu nên bán đi hai ký lô, như vậy cũng được ba chục bạc đỡ mẹ cậu mua gạo. - Linh vẫn cười ròn: - Đúng là như bố đã tưởng tượng cách trả lương. Chú Hợi bắc cái cân ra, treo bên cạnh dò phong lan tai trâu, rồi cân trả lương cho con. Cân xong, ông ấy bốc thêm nắm, vứt vào cái rá và nói: "Đây là phần thưởng thêm cho cháu đã giúp chú tháng qua rất tốt." Hôm nay, bà vợ tôi, cả gia đình tôi bỗng nhiên vui hẳn lên; có lẽ không khí ấy do mùi ngầy ngậy của tóp mỡ tạo nên. Vợ tôi hôm nay cũng biết nói đùa: - Nhà chú Hợi có hai cô con gái. Cái Lan học lớp bảy, mày đang dạy thì còn bé. Chị nó là cái Cúc làm thợ dệt năm nay thường dễ đã hai mươi. Con bé hay đáo để, Linh nhỉ? Đôi tai con tôi bỗng đỏ nhừ, nhưng nó vẫn vui vẻ: - Cô ấy rất hay, mẹ ạ. - "Hay" nghĩa là thế nào? Tôi hỏi. - Nghĩa là cô ta khác hẳn tính ông bố. Ông bố bông phèng, còn cô ta kín đáo. Ông bố tính toán, còn cô ta thì thờ ơ vô tư lự trước tiền bạc ... - Cái tính ấy có lẽ hợp với mày Linh ạ - Tôi cười - A, mẹ mày thích mày có vợ rồi đấy. Tai con tôi đỏ thêm. Cậu ta lắc đầu: - Khó lắm bố ơi! - Sao lại khó? - Bởi vì chú Hợi yêu cầu rể của chú phải có một điều kiện. Một hôm chú tuyên bố: "Đứa nào lấy cái Cúc nhà tao, dứt khoát phải biết làm nghề đồ tể". - Đồ tể? Cả nhà tôi cười ròn. Linh giải thích thêm: - Điều kiện của chú Hợi rất khôn ngoan. Thứ nhất: nếu chàng rể là đồ tể, thì người đó không thể nào coi thường ông bố vợ vốn gốc gác là đồ tể. Thứ hai: nghề đồ tể hiện nay là nghề kiếm tiền nhiều nhất; chỉ vài tiếng đồng hồ buổi sáng sớm người ta có thể kiếm tiền bằng một tháng lương. Thứ ba: chú Hợi muốn tìm vây cánh. Bố nên nhớ chú Hợi là người giỏi nghề chính trị. - Cả đến lò mổ cũng là một sân khấu chính trị? - Dĩ nhiên, bố ạ. Ngày... tháng ... Từ ngày có tóp mỡ, con lợn Bò lớn nhanh như thổi. Hàng tuần, tôi đo lồng ngực và chiều dài của lợn. Tuần này, số đo lồng ngực lợn tăng bốn cm, như vậy theo bảng thống kê tổng kết, tương ứng với lồng ngực, lợn Bò đã tăng thêm năm cân. Con lợn Bò đã gần ba mươi cân, vóc dáng nó đã to gần gấp đôi chú lợn ỉn. Với cái vóc dáng đồ sộ ấy, lúc này lợn Bò đã được lũ ỉn cho phép nằm ngang hàng. Tuy nhiên, Bò vẫn phải chịu một chỗ nằm lép vế, nghĩa là bao giờ Bò cũng phải nằm ngoài cùng, chịu đựng gió rét và làm tấm bình phong, tạo ấm cho lũ ỉn. Có những lúc Bò tỏ ra tinh ma, khi ăn xong, vội vã tranh vào nằm sát tường tức là chỗ ấm nhất; khi ấy, lập tức lũ ỉn không chịu khoan nhượng, chúng leo lên lưng, cắn tai, húc vào bụng con lợn Bò, cho đến lúc con lợn quỉ quái ấy không chịu nổi, bắt buộc phải đứng dậy để chấp cái vị trí nằm lép vế của mình thì cuộc tranh chấp mới kết thúc. Ngày... tháng ... Đài phát thanh Hà Nội báo tin có đợt gió mùa Đông bắc tràn về, và nhiệt độ sẽ giảm xuống tới mười độ. Để chống rét cho lũ lợn, tôi vứt hai cái tải vào trong chuồng. Rét về, lũ ỉn ăn kém hẳn đi. Riêng Bò vét đĩa vẫn ăn hung như trước. Nó ăn thêm phần thức ăn bỏ dở của lũ lợn ỉn, nên hôm nay bụng nó căng phồng. Ăn xong, nó lùi lũi vào chỗ ấm nhất, ủi cái tải sù ra phía trước, rồi nằm xuống, ung dung chúi mõm vào đống tải, để bảo vệ, để gây ấm cho cái mũi vốn là cơ quan nhạy cảm và quí giá nhất của loài lợn. Lũ lợn ỉn vừa đói vừa rét nên càng tức tối. Cả đàn cả lũ, chúng hùng hổ xông ngay lại, cưỡi ngay lên lưng con Bò. Con lợn Bò liền đứng ngay dậy, lắc mình hất tụi lợn ỉn xuống, nó chúi đầu đứng gầm gừ, đối mặt nhìn lũ lợn ỉn, khiến bọn này phải dừng lại ngay không dám tấn công. Lợn Bò vốn tính hiền, nên cuộc chiến tranh đã không xảy ra. Tuy vậy, hôm nay nó bỗng sáng kiến ra một cách ngủ khác trước; nó chiếm phắt ngay một cái tải dành riêng cho mình, nó dùng cái mõm ủi tải ra một góc khác; nó dùng chân, dùng mõm, khéo léo trải cái tải thừa ra phía ngoài; vậy là đằng trước tải, một bên vách, một bên tải, nó che ấm được cả mõm và hai bên sườn. Nó đắc chí, nằm ngáy pho pho, và mặc đàn lợn ỉn tranh giành kéo co nhau chiếc tải thứ hai. Cứ bảo con lợn Bò ngu ngốc. Hôm nay, nó đã tỏ ra không ngốc tí nào. Nó đã biết tẩy chay bọn ỉn. Ngày... tháng ... Tôi thông báo thái độ mới của con lợn Bò cho Lân biết. Lập tức, Lân khoác áo bông sang nhà tôi ngay. Nhà chuyên gia chăn lợn ấy đã đứng bên chuồng lợn, vứt nắm rau muống xuống trước mặt lợn Bò, rồi vuốt ve nó khi nó đang ngấu nghiến nhai rau. - Khá lắm! Có thế chứ! Chẳng lẽ mày lại hèn. Ở đâu có áp bức là khắc có đấu tranh. Hãy tiến lên Bò ạ. Tôi ôm bụng cười: Quỉ quái chưa! Ông lại tin có cả đấu tranh giai cấp trong chuồng lợn? Chứ sao! Đây là một chàng khổng lồ đang mơ ngủ. Ngủ chán, nó sẽ dậy. Này! Hãy nghe lời tôi khuyên. Cần phải hết sức chú ý, kẻo rồi lại xảy ra rắc rối trong chuồng lợn. Ngày... tháng ... Việc quan sát sự phát triển của chú lợn Bò phải tạm dừng bởi lẽ gạo tăng quá nhanh. Mấy hôm trước giá gạo tám mươi, mấy hôm sau gạo đã tăng mỗi ngày vài giá. Tám mươi, lên tám lăm, rồi chín mươi, hôm nay gạo tròn một trăm. Cơn sốt gạo Hà nội cứ ít lâu lại xảy ra như một bệnh dịch đe dọa người nghèo. Lo âu. Ngoắc ngoải. Người ta lại đồn đại chính phủ sắp thả nổi gạo. Phần lớn dân Hà nội sẽ phải ăn gạo giá ngoài. Trong khi đó, thằng Minh, đứa con thứ hai của tôi cũng đang bén máng như chú lợn Bò. Bữa cơm, nó có thể ngồi ăn lì không biết no. Vợ tôi cáu kỉnh, hể về nhà là gắt đủ điều: - Thằng Linh! Còn nằm ườn ra mà đọc sách hả?.... - Thằng Minh đâu rồi? Sáng hôm nay mày chỉ đi chơi, sao không xếp hàng rau? Chỉ được cái ăn là giỏi. - Lợn Bò với lợn Bê! Bán mẹ nó đi cho rảnh mắt. - Hạn chế lại! Nấu cháo mà húp! Tao không còn hơi sức đâu mà chạy gạo cho chúng mày ăn. - Cả nhà này có ai thương tôi đâu. Người ta còn đọc sách, còn đi chơi, còn suy nghĩ, còn nghiên cứu cơ ... Còn tôi thì lăn lưng vào mà vẫn chẳng kiếm ra đủ cho các con ông ăn. Đi làm xí nghiệp về, lại đi đưa bánh đa, hai xu một chiếc. Đạp xe thắt ruột lại ... Hào quà cũng chẳng dám ăn ... Thế mà ... Thế mà có ai biết sót xa cho tôi đâu. Tôi bực bội và tê tái đi vì những lời than oán kể khổ ấy. Tôi cố gắng ngọt ngào: - Thôi ! Tôi xin bà. Đừng có làm tôi rối lên như thế. Kêu ca nào có ích gì. Có đỡ khổ đi chút nào đâu. Cần phải bình tỉnh mới được. - Tôi không bình tỉnh. Cáu quá, tôi vặc lại vợ: - Thôi câm mồm đi ! - Anh nói như thế mà nghe được? Có học đấy! Đọc sách đấy! Đạo đức đấy! Lúc nào cũng lý thuyết! Lý thuyết suông!... Đạo đức giả! Tôi im lặng, không nói nữa. Nhưng tôi càng im lặng càng nói già, nói dai: - Tôi lấy anh thật phí cả đời. Tôi là người công nhân. Đáng lẽ ra tôi lấy một người công nhân, thì những lúc này người ta còn biết thương tôi. Ôi chao! Lúc nào anh cũng tử tế, nhân nghĩa. Anh là kẻ đạo đức giả. Anh khinh tôi không có học, nên anh mới dám ăn nói như thế. - Ai khinh cô? - Anh chửi tôi. - Ai chửi cô? - Anh bảo tôi: câm mồm, tức là anh chửi tôi. Tôi phát điên lên: - Đồ vu vạ! Thôi bà chiến sĩ thi đua của tôi ơi! Bà lại học được cái trò nam nữ bình đẳng nửa mùa để đem về áp dụng ở gia đình ... vứt mẹ cái trò vớ vẩn ấy đi. - Hừ! Giỏi quá nhỉ! Không khéo cái mồm ấy, có lúc người ta cho đi rũ tù. Ai gô cổ? Ai rũ tù? Đứa nào bắt tao? Cô định dọa nạt hả? Dọa tao à? Đểu ! Đồ đểu. Vợ tôi thấy tôi la hét thì bặt lặng. Cô ta biết đã lỡ lời. Cô ta đã ngoáy một lưỡi dao nhọn vào vết thương của tâm hồn tôi. Sự vu cáo .... Những ngày thẩm vấn ... Sự đe dọa tù đày triền miên ... sự theo dõi, bóng gió dọa nạt ... sự thỉnh thoảng hỏi thăm nhắc nhở ... tội chống Đảng ... cắt việc ... rồi treo bút cấm viết ... những ngày lao động cải tạo nhục nhằn, những nghề nghiệp lầm than mà tôi dấn thân chỉ cốt kiếm được đồng tiền nhỏ nhoi cũng được đó là tất cả những điều mà tôi đã trải qua. Và tôi đã tự hào là trong cơn bão, vẫn giữ lại được một gia đình toàn vẹn, với người vợ chịu đựng cùng tôi, với đời sống lương thiện mà chưa bao giờ tôi phải hổ thẹn, niềm tự hào cuối cùng của tôi đang bị lung lay. Gia đình tôi bắt đầu nghiêng ngửa, hay nó đã rạn nứt từ lâu rồi mà bộ óc u mê của tôi chẳng nhận thấy. Hừ! ... Có thể lắm chứ ... Những người đàn bà yếu đuối ... Một người bạn gái đã phản lại tôi ... Vợ một anh bạn đi tù đã tố cáo chồng, ly dị khi vắng mặt chồng, thậm chí bắt con không được nhận bố ... Nhưng lẽ nào ... Vợ tôi cũng thế hay sao?.... Những dòng suy nghĩ u uất lướt qua bộ óc. Tôi rên lên: - Đồ đểu! Đồ đểu! Đồ khốn nạn! Tôi cầm chiếc điếu cày đập mạnh xuống nền nhà. Cái điếu vỡ, đổ ùa ra một dòng nước đen sì, lênh láng, hôi hám. Bên kia vách, đàn lợn rống lên đòi ăn. Sặc sụa lợn! Ôi ! Ô nhiễm! Ô nhiễm! Tôi ném nốt bình trà xuống đất và cổ họng tôi nghẹn lại. Tức thở! Tắt thở! Vợ tôi lặng lẽ đi khỏi nhà lúc nào chẳng hay. Còn tôi thi ngồi thừ cay đáng trên chiếc ghế bành cà khổ, nơi mà tôi vẫn hằng ngồi hàng giờ để suy ngẫm, tưởng tượng viển vông. Chiếc ghế bành chỉ biết run rẩy chứng kiến những giấc mơ bất tận, hôm nay đã tận mắt chứng kiến một sư thực cay đắng … Lần đầu tiên, tôi thấy lộ nguyên hình sự nanh ác của vợ tôi. Cũng lần đầu tiên sự nanh ác cửa tôi xuất hiện phũ phàng chẳng kém. Tôi thầm hiểu lúc đó tôi muốn tát vào mặt cô ta … Cũng lần đầu tiên, tôi cảm nhận được sự giả dối của đời sống vợ chồng. Sự biết điều, sự nhẫn nhục chẳng qua là trò đóng kịch. Tôi muốn chạy trốn, không dám nhìn vào sự thật đau đớn. Chúng tôi làm gì còn tình yêu. Cuộc sống vợ chồng tôi chỉ còn là một sư cộng sinh. Những thói quen, chỉ còn tồn tại do sợ hãi một cuộc chia ly, sợ hãi rơi vào một cuộc phiêu lưu mới kông có gì đoán chắc là ổn định. Mà thực vậy. Tại sao cô ta cứ phải gánh chịu mãi cái số phận lênh đênh hình ngục nan đào của tôi. Tôi là một quả đắng cay đối với người đàn bà nào dính líu với tôi … Tôi bỗng dưng nghe thấy một tiếng động. Tôi quay đầu nhìn và thấy thằng con trai lớn vẫn ngồi thản nhiên ở một góc giường. Cặp mắt của nó lặng lẽ không biểu hiện, nhưng tôi cũng thoáng đọc thấy trong ánh mắt ấy một nụ cười mỉm. Ánh mắt ấy như muốn bảo : "Thưa bố ! Màn kịch đã hạ rồi!" Đột nhiên, cái nhìn của đứa con làm những nộ khí trong tôi bỗng xẹp xuống. Con tôi không nhìn tôi nữa, nó lên gác xép đọc sách. Cơn tức giận tan nhanh, để lại một chỗ trống cho nỗi buồn đen thăm thẳm choán ngập linh hồn tôi. Tôi vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế bành cà khổ, mắt nhắm không buồn nhúc nhích, và tôi đã vào một giấc mơ ngủ lung linh mà không ai đánh thức nổi từ đây . °°° TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P1 - E: Ngày … tháng … Chiến tranh lạnh! U ám gia đình ! Tôi không nói. Vợ tôi không nói. Mẹ tôi không nói. Con tôi không nói. Vợ tôi không nói chuyện vì giận tôi. Mẹ tôi không nói vì buồn phiền. Còn con tôi không nói vì chán nản. Những đứa trẻ vốn là diện mạo tinh thần của gia đình. Nhìn lũ trẽ, ta có thể xem tướng một gia đình. Trẻ con tươi tắn, cởi mở, đôn hậu, là gia đình đang vượng. Trẻ con ủ rũ là gia đình đang biến. Trẻ con khùng loạn là gia đình đang suy. Cậu Linh dạo này lại đọc tới Nam Hoa Kinh của Trang Tử . Con ơi ! Mày định ru hồn vào giấc mơ bướm của Trang Tử hay sao? Thì cứ mơ đi! Giấc mơ đôi lúc cũng cứu người. Ta chỉ sợ cái thực của đời đến một ngày nào đó sẽ giết hết giấc mơ của người. Mất Phật, mất Chúa, con người đã mất một giấc mơ lớn. Mất giấc mơ lớn, con người lồng lộn săn đuổi những giấc mơ nhỏ nhoi thường nhật, nhưng rồi cũng chẳng đạt được. Cuối cùng người ta phỉ báng sự mơ. Con người trở nên què quặt, bất túc . Con ơi cha cũng đang trở nên bất túc đây. Ngày … tháng … Ta bỏ bê "con lợn" . Ta mặc xác con lợn Bò. Ta cưỡi xe đạp dong chơi phố phường Hà Nội. Ta trốn chạy cái nhà ta ở. Ta sà vào quán nước, quán rượu. Ta lê la các nhà bạn bè để nói những chuyện tầm phào. Ri-gân đắc cử ư? Một người phẫn chí tự thiêu ư? Cải cách giáo dục ư? Chủ nghĩa Mao man rợ ư ? Cải cách nội các ư? Chuyện một bà lớn áp phe kim cương ư? … Để rồi, đêm ta về nhà, bật chiếc đèn ngủ, mà nghe lợn kêu, mà mung lung chán phèo … Buổi chiều, Tám đưa ta một mảnh giấy. A! Một mảnh Bách Khoa Lợn. Nào, thì đọc. NGƯỜI LỢN và LỢN NGƯỜI Văn chương thế giới và đời sống thực đều có những chú "Lợn Người". Trư bát Giới là lợn người. Phải kể thêm con lợn Chiến sĩ của Lân cũng là một thứ lợn người. Có lẽ nên để bạn đọc tự rút ra định nghĩa về khái niệm "Lợn Người". Còn khái niệm "Người Lợn" cũng thấy sách sử ghi lại. Tư mã Thiên có nói Lã hậu chặt chân, chạt tay người phi yêu dấu của Hán Cao Tổ, vứt vào nhà xí và gọi đó là con lợn. Sợ rằng xác định khái niệm người lợn như vậy là quá ư thô thiển. Tôi đọc sách thấy có nhiều đoạn nhắc đến thứ Người Lợn, vậy xin ghi lại để tham khảo. Thời nhà Lê, thời kỳ cực thịnh của phong kiến Việt nam có khá nhiều người lợn. Cái hồi Trần nguyên Hãn và Nguyễn Trãi mới gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, Hãn bảo Trãi: " Tướng Lê Lợi là tướng lợn, người ấy chỉ có thể vui với ta lúc đói nghèo, gối đất nằm sương, chứ không thể chung hưởng với ta khi phú quí." Quả nhiên về sau, Lê Lợi giết Trần nguyên Hãn đầu tiên khi kháng chiến thành công. Té ra Lê Lợi là một thứ người lợn. Cháu chắt ông ta là Tương Dực Đế xây Cửu trùng đài cũng được dân Thăng Long gọi là Vua Lợn. Quan lợn thời Lê cũng có. Thời Lê nhân Tông, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi: "Đến khi thi Đình, vua đích thân ra đầu đề văn sách, hỏi về lễ nhạc hành chính, cho Nguyễn nghiêu Tư đỗ Trạng nguyên.... Nghiêu Tư đã từng thông dâm với mẹ vợ ... Có người hát ở đường cái rằng: "Trạng nguyên Trư, Nguyễn nghiêu Tư" nghĩa là "Trạng nguyên lợn, Nguyễn nghiêu Tư". Té ra ngày xưa có cả ông nghè lợn. Đêm đen. Chẳng thấy gì . Chỉ nghe tiếng con lợn Bò ngáy ngoài chuồng lợn ... và tiếng vợ ta thở dài trong giấc mơ. Ta ngủ sao nổi.Cứ nghĩ vẩn vơ mãi. Có ai thì thầm trong óc: "Hãy suy nghĩ cho kỹ. Có phải anh cùng duộc với Nguyễn nghiêu Tư hay không?" Thằng Linh mê ngủ bỗng thét lớn: "Đồ tể! Đồ tể!" Và con lợn Bò giật mình cũng rống lên hồng hộc. Ta bịt tai lại. Phải rồi! Đúng rồi! Ô nhiễm! Đúng nhà ta đang bị ô nhiễm như hôm nào Tám đã tiên tri. Ngày … tháng … Nói theo kiểu cô Sa-gan nước Pháp: "Chào cái buồn". Còn nói theo kiểu của ta: "Thôi cút đi cái buồn". Ừ, ta cần gì cái buồn, ta cần cái vui cơ. Thì vui. Thì say sưa. Một người bạn rủ ta đi uống rượu, nào ta đi uống cho say. Bạn ta tổ chức một tiệc rượu. Có hoa, có ảnh, có đàn, có hát, có bánh ga tô ... có lòng lợn, có tiết canh, có xôi, có thịt ... có họa sĩ, có giáo sư, có nhà thơ, có nhạc sĩ và nhiều nhà cầm bút. Đấy, cái lương tâm thời đại. Đấy, cái gương mặt Hà Nội ... Người bạn già vẽ phố đổ, mặt siêu ... Tiếng lảnh lót ngâm thơ về một dòng sông mộng mơ cổ kính. Người ta luận đàm về những phạm trù triết học, sử học ... Xin lỗi các bạn. Tôi không nhớ gì cả, tôi không cần gì cả, lúc này, chỉ mỗi điều tôi thèm khát: cái vui. Và cả theo định nghĩa của tôi, người ta chỉ vui khi người ta thật, nghĩa là ta lột vỏ, là ta nguyên hình, là ta bình đẳng, là ta ... tuyệt đối. Hãy tung hê hết cả mọi ước lệ, mọi quá khứ, mọi qui định, mọi trói buộc ... để trở về với cái thần ngây thơ và lung linh. Những phút hiếm. Giấc mơ xác định nhân dạng tôi: "Anh là Người Lợn". Hỡi ôi! Tôi đích thực là giống thô bỉ. Chối sao được. Có người định nghĩa tôi : thằng hề. Có bạn bảo tôi: thằng khùng, thằng say. Một nhà nhân đạo chủ nghĩa nhận xét tôi: thằng gàn ... Tôi biết chọn tính từ nào để mặc cho hợp cái dáng lom thom gày guộc, để đắp cho tròn cái típ người - phổi lép xẹp. Tôi biết chọn ngôn từ phấn son nào để xoa kín những nếp nhăn nhó trên khuôn mặt quắt queo xám ngoét hằn in những dấu vết của số phận nguyền rủa. Không! Tôi không thèm phấn son. Thèm khát một lõa thể, dù một lõa thể nhăn nheo. Trong những giấc mơ xưa, tôi bị chôn sống trong một đống ngôn từ óng ánh sắc cầu vồng. May mà tôi thức dậy kịp. Bây giờ thì tôi dị ứng sắc cầu vồng. Cám ơn các bạn đã tặng tôi thứ tính từ xam xám. Tức là các người đã nhân đạo với tôi, đã thể tất cho tôi. Cám ơn! Cám ơn! Nhưng có lẽ các bạn không hiểu, trong khoảnh khắc tiệc ấy, tôi đã nhìn thấu sự trần truồng; không gian trần truồng và người trần truồng, tôi uống rượu. Tôi đã xem tướng và ngây thơ muốn giao cảm với các bạn: - Sao mọi khi anh thành thật, mà lúc này anh dối trá? - Cớ sao anh run rẩy và cổ kính? - Đừng có lên mẽ ông tướng, dù là phò mã. Hãy ngồi cho bằng tròn, ngang phẳng, và dốc chén cho cạn. Chén rượu sẽ làm con người thực sự bình đẳng, anh em. Tôi bảo: - Ta là thế giới. Bạn ta chỉnh lại: - Ta là dân tộc. Tôi khăng khăng: - Ta là bất đồng. Tôi muốn nói đến "vết cắt". Một lưỡi dao sắc ngọt xả đôi ta ra ... Vết cắt tức là giã từ, là siêu việt, là lột xác, là trở về cái đích thực ta, cội nguồn ta. Ôi! Giã từ thật là khó khăn. Ai thét lên như người đau đẻ? Ai giơ dao lên đâm chém tương tàn trong trái tim ta? Tôi say như muốn khóc lên trong cõi bơ vơ. "Ta là dân tộc". "Không! Ta là thế giới". Giã từ sao mà đứt ruột. Nhớ chứ! Yêu chứ! Tôi vẫn yêu con sông Đuống mộng mơ của anh, bởi vì chính từ con sông nên thơ ấy, ta hành trình đến được "vết cắt". Tôi cũng yêu luôn những dãy phố nghiêng nghiêng cổ kính của anh, bởi vì nó là khởi đầu "vết cắt". Tôi yêu cả cái dân tộc của anh, bởi vì chính chúng ta đã chập chững tập đi, tập nhảy từ cái phạm trù thần thánh ấy. Nhưng ta không dừng lại ở những bước đi, điệu nhảy; chúng ta còn muốn vươn lên khoảng không bao la, muốn vươn khỏi cái hạn hẹp để hành trình đến cái đích thực nhân đạo. - Tôi đếch cần mọi thứ linh thiêng. - Thằng say nói bậy. -Bậy nhưng mà vui. Ta vui trong nỗi lo âu run rẩy, bởi vì ta là nô lệ, ta là hèn hạ. - Tôi đéo vào sự nô lệ. - Tôi đếch cần cái buồn. - Tôi đéo vào sự vô sỉ. Bạn ơi! Tôi đang kể cho bạn nghe về con lợn Chiến sĩ đó. Thât ngoắt ngoéo. Thật mập mờ. Nhưng mà vui. Bởi vì trong cái mập mờ, ta đã nhìn thấy, qua tấm màn tuyn, một lõa thể, một trần truồng : đó là cái vui. Tôi cứ mê man đi trong cái nửa thật, nửa mơ như vậy. Cái bảng lảng theo chiếc xe đạp chuếnh choáng của tôi diễu binh trên phố vắng đem Hà nội. Đến tận 12 giờ khuya, tôi mới lần được về đến trước cửa nhà tôi. Thàng Linh vẫn còn nằm đọc Trang Tử, nó thò đầu ra khỏi màn và hỏi: - Bố ăn cơm chưa? - Tao mới chỉ uống rượu. - Bố say rồi. - Có để phần cái gì không? Có lẽ nhắm ít ngũ cốc vào bụng là hết say. - Hôm nay không có gạo bố ạ. - Thì mì sợi. - Mì hết. - Thì sắn. - Mẹ không có tiền mua. - Thì tớ nhịn vậy. Thằng con tôi chợt cười: - Có món đặc biệt đấy bố ạ. - Thứ gì? - Hôm nay, con thử nấu cháo bằng cám ngô. - A! tranh ăn của lợn. - Cám ngô rắc ít tóp mỡ. Ngon tuyệt! Thơm phức! Béo ngậy! Thế là hành trình tôi đi từ một bửa tiệc đến một bữa cháo cám. Bát cháo cám chợt làm tỉnh cơn say. Cuộc hành trình bắt đầu từ một cơn vui điên cuồng đi đến một lặng lẽ tư lự. Chắc chắn tên gọi của nó là: Cái buồn. Tôi nhắc lại câu nói của Sa-gan: "Chào cái buồn!" và nước mắt tôi ứa ra. Tôi đi uống rượu trong khi các con của tôi ăn cháo cám, tranh phần lợn. Có thể gọi đó là tội lỗi. Đừng có bẻm mép lý thuyết thêm nữa; đừng tìm cách biện hộ, che giấu. Trong lúc này, không lo đủ miếng ăn cho lũ con, đó là tội lỗi. Cớ sao anh lại phè phỡn. Anh dửng dưng chăng? Anh còn lo hão những chuyện to tát đâu đâu chăng? Anh còn tự phỉnh nịnh ru ngủ bằng cái nghèo đẹp đẽ, bằng những ngôn từ vĩ đại sáo rỗng đến buồn nôn chăng? Anh là kẻ vô sỉ, thứ Người - Lợn. Tâm hồn tôi rưng rức khóc; và những giọt nước mắt nóng hổi tràn trụa trong lòng khiến toàn thân tôi rung lên. Ôi chao! Sao ta bất lực. Ngày … tháng … Vẫn chiến tranh lạnh. Suốt ngày tôi không nói với vợ con một câu. Suốt ngày tôi ngồi im lặng trong chiếc ghế bành cà khổ ấy, và buồn rầu lạc vào cái vương quốc tưởng tượng mà chỉ mình tôi biết, ở đó cả lũ quỉ và cả những ông thánh đều là những vị khách thân quen. Không hiểu sao hôm nay tôi lại lạc về căn phòng hỏi cung trần trụi mà tôi đã nhiều lần phải có mặt . Tôi nhớ đó là cuộc hỏi cung lần thứ hai mươi thì phải. Người cán bộ an ninh đeo kính trắng hôm ấy có vẻ nóng nảy sốt ruột, đó là một tâm lý mà người hỏi cung thường không bao giờ để lộ ra trên nét mặt hay sắc điệu của giọng nói. Anh ta nhìn tôi chăm chăm, không chớp mắt. Tôi biết mình đang nằm trong một giai đoạn đấu tranh kịch liệt nhất, và anh ta quyết định đánh gục tôi hôm nay. Ánh mắt anh ta nóng bỏng áp đảo, còn ánh mắt tôi cố giữ vẻ điềm tĩnh phớt đời. Ánh mắt thôi miên ấy bỗng lóng lánh vẻ tinh quái : - Này, có phải anh tự cho rằng anh chỉ là con người ưa trầm tư suy ngẫm chứ không phải con người muốn hành động? Tôi đột nhiên bị lúng túng, vì không hiểu ẩn ý của câu hỏi là gì? Phải chăng anh ta châm biếm chế nhạo tôi? Phải chăng trong câu hỏi có gài một cái bẫy? Tôi nghĩ ngợi rồi trả lời : - Nói chung ai chả hành động ... - Không nói chung. Riêng anh thì sao? - Tôi ư? Cũng thế thôi. Nhưng không phải hành động chính trị. - Này, thế cái "Que faire" thì sao? Tôi nhìn anh ta trừng trừng - Anh nói gì? - A... a... Tôi choáng voáng không tin ở tai mình nữa. Và hai tiếng "Que faire" như một điệp khúc bỗng vang vang trong trí não tôi. Thì ra họ biết cả chuyện ấy nữa ư? Một cảm giác vừa tức giận, vừa sợ hãi, vừa buồn bã bỗng xâm chiếm toàn thể con người tôi, chắc nó đã làm cho gương mặt tôi sạm lại. Anh ta tiến công liên tục không cho kịp hồi tỉnh: - Người ta đã khai hết cả rồi. Ngay cả X người cầm đầu cũng khai lời nói của anh ta. Vậy mà anh, anh còn cố quanh co che giấu cho họ làm gì? Sao anh dại vậy. Trong nhóm chống Đảng anh chỉ là một quân tốt đen. Người ta thí tốt, vậy thì anh cần gì phải bảo vệ cho họ ... Tôi lặng lẽ ngồi trước tờ giấy trắng. Và trong óc tôi thì dấy lên biết bao ý nghĩ ... Hôm đó, gia đình tôi tiếp khách. Khách gồm có anh X, một cô bạn gái mà một thời tôi đã yêu, một anh bạn trai viết văn vốn là bạn nối khố với tôi. Về phía gia đình có tôi và vợ tôi. - Anh nhớ lại đi, hôm ấy X mang đến chai rượu Liên xô, vợ anh rang lạc, còn cô bạn gái pha cà phê ... có đúng không nào? Tiếng nói của anh cán bộ an ninh gợi ý như muốn đưa cho tôi một cái cột mốc để níu lại những bóng mờ dĩ vãng. Tôi cần gì một điểm bấu víu. Buổi hôm ấy tôi nhớ rành rành. Que faire? (Làm gì?) Que faire? (Làm gì?) Đó là tên cuốn sách của một nhà văn nổi tiếng Nga thế kỷ 19. Tôi không phải người sính dùng tiếng nước ngoài nhưng bởi vì tôi chú ý đến câu hỏi đó, mà hai tiếng Que faire lại gợi cho tôi một âm hưởng đặc biệt nên tôi cứ hay dùng hai chữ đó để thay thế cho hai chữ làm gì. Thú thực, tôi đã cố gắng đọc cuốn tiểu thuyết đó mấy lần, nhưng chịu không đọc nổi, đọc vào cứ bật ra, không nhớ nổi nội dung câu chuyện. Có lẽ cuốn sách không hợp khẩu vị của tôi. Nhưng điều kỳ lạ, cái tên cuốn sách hấp dẫn tôi ghê gớm. "Làm gì? Làm gì?" . Tôi cứ hay thầm nhắc trong óc câu hỏi ma quái đó. Lắm lúc trong những đêm trắng nằm bâng quơ buồn rã rượi tôi lại cứ tự hỏi tôi "Làm gì đây? Làm gì? " Ô hay! Đời đang vui, đời đang lên, sao ta lại hỏi "Làm gì?" . Số kiếp tôi là số kiếp những kẻ mua dây buộc vào mình nên cứ hay lẩn thẩn như vậy. Khi con người ta đứng trước giông tố, đứng trước một bước ngoặt, đứng trước cái sống và cái chết, phải đối mặt giữa cái thiện và cái ác, thì câu hỏi "làm gì" là câu hỏi của lương tri. Lúc đó con người phải lựa chọn, phải tra vấn lương tâm của mình, phải ra quyết định cho thái độ của mình. Lúc đó, biết mà dửng dưng, mà trốn chạy câu hỏi đó lại là một tội ác. Tôi là một thằng điên, hay thằng gàn, hay một kẻ mộng du ... vì thế chính cái hôm ấy, trong bửa ăn vui, tôi đã hỏi mọi người: - Que faire? - Sao? - Làm gì? Vợ tôi thì dĩ nhiên im lặng vì không phải lĩnh vực của cô ấy. Người bạn nối khố của tôi thì lặng lẽ buồn rầu. Anh X thì nắm tay tôi thông cảm: - Hoàng nghĩ vậy là phải. Còn người đàn bà có một thời đã yêu tôi, thì lúc tôi tiễn cô ra về , đã nói: - Hoàng ơi! Hoàng vẫn kỳ cục như xưa. - Nghĩa là cô đã thất vọng vì tôi chăng? - Sao lại thất vọng. Có lẽ càng thích thêm thì có. - Đừng có đùa. - Mình nói thật. Thấy tiếc Hoàng rồi đó. - Lúc nào cũng đùa dai. Tôi quay đi để tránh những kỷ niệm cũ bỗng hiện về. Và người bạn gái thở dài bắt tay tôi từ biệt. ........... Tiếng người cán bộ an ninh khêu gợi cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi: - Đấy, hành động bắt đầu từ buổi họp mặt hôm ấy. "Làm gì" đó là những câu hỏiđể dẫn tới những kế hoạch, chương trình, dẫn tới những giải pháp tổ chức. Hôm ấy X có nói : "Không tổ chức !Ở Xã hội chủ nghĩa tổ chức là chết". Hắn ta làm động tác giả đấy. X là một con cáo già,đã tù Tây ở Sơn La,đã tham gia hoạt động thời bí mật, hắn hiểu rõ hoạt động chống đảng không thể bàn ở một cuộc họp như vậy, mà phải cực kỳ bí mật, khéo léo ... Thực ra trước khi anh hỏi "làm gì", hắn đã có sẵn một tổ chức chống đảng rồi. Tôi không nghe thấy tiếng hắn nữa, dòng suy nghĩ của tôi làm chìm tiếng nói của người cán bộ an ninh đi. Lúc này trong tôi là day dứt. Chúng tôi năm người hôm ấy. Vậy thì ai đã khai chuyện ấy với an ninh? Anh X ư? Vô lý, đó là người mà nhân cách của anh tôi vô cùng kính trọng. Anh bạn nối khố của tôi ư? Hay người bạn gái thân thương đã một thời dan díu cùng tôi? Vô lý! Vô lý! Hay là vợ tôi? Máu ghen của người đàn bà... Sự trả thù của người đàn bà ... Sự yếu đuối của người đàn bà ... Kể cả có thời tôi đã sa cơ thất thế quá chừng, khi tôi đã là kẻ khố rách áo ôm , khi tôi đang bị rình rập đe dọa ... thì ... thì tất cả đều có thể lắm chứ ... Chính vợ tôi đã kể lại cho tôi nghe rằng một bà phó giám đốc đã thương vợ tôi hồng nhan bạc mệnh, lấy phải thằng văn sĩ gàn mà phản động, nên đã giới thiệu cho cô ta gặp gỡ một cậu thiếu tá công an ... Cũng chẳng hiểu cái duyên nợ nào đã trói buộc cô ta ở lại với tôi . ... ... Trong chiếc ghế bành tả tơi rách nát ấy, tôi liên tục rít thuốc lào để lạc về những hồi ức tối đen, chúng từ những đáy thẳm lãng quên lồm cồm thức dậy, làm trĩu nặng lương tâm, tạo ra những màn khói ngờ vực hận thù kéo mờ ý thức. "Làm gì?" "Làm gì?" Câu hỏi khi xưa lại trở về tra vấn tôi. Tôi chợt thở dài. Cũng may ở đời còn có câu hỏi đó. Tôi khóa kín tôi trong cái hình hài lom thom gầy guộc để nó tự giãy dụa tuyệt vọng, tự tìm ra lối thoát bằng những hồi ức, những liên tưởng, những độc thoại... Ừ! Tại sao nhỉ? Tại sao tôi lại tập trung vào cái người đàn bà đã sống hơn hai chục năm cùng tôi? Tại sao tôi lại trút nghi ngờ, và căm giận lên đầu cô ta. Vì cô ta đã làm vỡ nốt cái ảo vọng cuối cùng của đời tôi chăng? Vì cô đã phá vỡ cái lô cốt cuối cùng, cái tế bào gia đình mà tôi đã cố công xây dựng, là ốc đảo của đời mình chăng? Có thực là cô ta đã phản bội tôi không? Cô ta đã nói chịu, nói lỡ mồm: "Không khéo rũ tù!" . Rồi cô ta lại bĩu môi, cái bĩu môi đầy hàm ý nghĩa. Có người bảo rằng cái nói nhịu mới là những ý nghĩa ý nghĩa thầm kín trung thực nhất của con người mà bao giờ con người cũng cố giấu kín đi. Vậy chắc chắn, trong thẳm sâu, cô ta muốn tôi đi tù. Chắc chắn, trong thẳm sâu, cô ta căm thù tôi. Thế đấy! Sự thực cay đắng đến thế đấy. Nhưng cũng có thể lý giải tình cảm theo một cách khác. Có thể cô ta chỉ là một cái cớ để trút giận. Thực ra tôi oán giận một cái gì đó to lớn hơn, bao trùm hơn, và tôi đã chuyển di nỗi hờn giận đó lên cô ta. Người đàn bà mềm yếu đáng thương của tôi chỉ là một cái thùng để tôi nôn mửa những nọc độc ghê tởm chán chường của cuộc đời mình vào đó chăng ... Và nếu như vậy,đốivới cô ta tôiđã bất công, và có tội ... Những ý nghĩ giằng xé ấy cuối cùng đã dẫn tôi đến một liều thuốc ngủ.Cũng may, liều thuốc ngủ tôi có trong tay chỉ đủ để cho tôi một giấc ngủ dài suốt một đêm ngày. Giấc ngủ triền miên ấy là một liều thuốc an thần; cũng may loài người cơ cực còn có giấc ngủ xoa dịu; nó đẩy lùi mọi đắng cay, chôn vùi mọi thất vọng vào tận thẳm cùng những miền âm ti sọ não, nó tắm rửa sạch sẽ những bụi bặm của kiếp sống, khoác cho tâm hồn ta một bộ áo tươi mát, đôn hậu, ban cho ta một tinh lực mới để khi tỉnh dậy ta mới có đủ can đảm để sống tiếp. Tôi đã may mắn gặp được giấc ngủ đầy ơn phước và quên lãng ấy. Khi tôi tỉnh dậy thì lòng tôi chỉ còn chút bùi ngùi. Giá như tôi lại tiếp tục nhận được những kích mới, có thể tôi sẽ điên rồ trở lại. Nhưng vợ con tôi đều lặng lẽ và ân cần; có thể họ đã bàn luận với nhau trong khi tôi ngủ, có thể họ còn chút thương tôi, còn chút luyến tiếc với cái ốc đảo mà họ đã cùng tôi bao năm chắt chiu xây dựng; và tôi chắc rằng trong tôi cũng còn chút lương tri, tôi cúi đầu xuống tránh gặp ánh mắt ngơ ngác dò hỏi của vợ tôi. Cầu xin cho màn sương lãng quên đôn hậu hãy phủ xuống chúng tôi, để xóa kín những vết rạn nứt của kiếp sống bọt bèo; cầu xin cho sự bằng an đã bao năm ở cùng chúng tôi trở về trên ốc đảo, xứ thiên đường ảo tưởng của chúng tôi ... TRƯ CUỒNG Nguyễn Xuân Khánh www.dtv-ebook.com P1 - F: Ngày ... tháng ... Thường dễ đã nửa tháng, hôm nay tôi mới ngó đầu vào chuồng lợn. Tôi giật mình; con lợn Bò của tôi đang đứng sững im lặng trước chậu cám, vẻ tư lự. Tôi gọi: - Linh ơi! Lợn làm sao? Hôm nay, con lợn Bò không ăn. Linh cười: - Cậu ấy làm điệu đấy. Thùng tóp mỡ vơi rồi. Hôm nay, cám ít tóp mỡ nên cu cậu biếng ăn. - Sao không cho thêm vào? Được đến đâu, hay đến đó. Hết lại tính sau. Linh rầu rầu: - Bố không biết là nhà ta đã hết gạo, hết tiền phải ăn cháo cám ư? Và cả cám ngô cũng sắp hết. Lợn biếng ăn là dĩ nhiên. Mẹ con bảo: người trước tiên ... sau đó mới đến lợn. Tôi im lặng, nhìn chú lợn Bò. Con Bò nghiêm trang nhìn tôi như muốn bảo: - Các người đã tranh cám và tóp mỡ của ta. Tôi bực bội với con lợn láo xược: - Chính ngươi mới là kẻ tranh phần của chúng ta. Chúng ta phải làm quần quật để nuôi ngươi. Con ta hết cái ăn; còn ngươi, mỗi ngày ta vẫn cung phụng cho hàng chục bạc. - Khu ta mới về, người săn sóc, chăm chút ta, ta cứ tưởng ngươi là kẻ thông hiểu sự đời. Mi tưởng ta hèn hạ ư? Hãy nhìn vào cơ bắp ở vai ta, ở lưng ta, ở mông ta ... Hãy nhìn vào chiếc miệng bẹ dừa to lớn của ta ... Mi thấy chưa ? Ta là quý tướng. Rồi con lợn bỗng cười to, và giọng nói trở nên hùng hồn, kỳ dị: -Quý tướng! Người biết không? Rồi ... ta sẽ là bão tố ... là khủng khiếp ... là tuyệt đối ... là tất cả ... Người hãy chiêm nghiệm lời ta ... Rồi sẽ thấy. A, mà ta cần gì tranh cải nhỉ ... Bây giờ đây, ta đang chỉ cần tăng nhanh sức vóc của ta ... Rồi ta ... tương lai ... tương lai sẽ là của ta ... Tất cả sẽ là của ta... Tôi ngây người, có pha chút sợ hãi trước những lời tiên tri đầy bí ẩn và quỉ quái của chú lợn lông hung vàng, mà trước đây tôi cứ tưởng là ngây ngô, chẳng biết gì. Con lợn Bò bỗng không thèm nhìn tôi nữa. Nó cúi xuống, và mặc dù trước mặt nó là máng cám đầy bèo, nó cũng ăn ngon lành. Nó ăn với một tốc độ kinh hoàng. Tộp! Tộp! Tộp! ... Nó ăn như vỗ tay reo, không ngơi nghỉ. Tộp! Tộp! Tộp! ... Tiếng ăn ròn rã tưởng như súng nổ liên hồi. Tôi ngây người nhìn con lợn. Thật hay là ảo? Có phải đúng là con lợn đã nói với tôi lúc nãy? Một thoáng gai gai, rờn rợn, chạy dài suốt dọc sống lưng tôi. Kìa! Cái máng như đã chùi sạch nhẵn. Con lợn Bò ngước mắt nhìn tôi bằng đôi mắt to màu nghệ hay màu trắng nhởn. Ma quái! Ngày ... tháng ... Ít lâu nay, Tám liên tục viết cuốn Bách Khoa Lợn. Nhà giáo hí hửng trao cho tôi một đoạn bản thảo. Anh nói: - Đoạn này, tôi nghiên cứu chồng chéo sang cả lĩnh vực ngôn ngữ học. Có lẽ ... thú vị chăng? - Nhà sinh vật cả gan thật! Dám đặt chân sang cả mảnh đất ngôn ngữ. Không sợ cấm địa sao? Tám dụt dè: - Thì cũng thử một chút xem sao. Tôi đeo kính trang trọng cúi đọc. Đồ tể Tìm từ nguyên của từ "đồ tể" thấy gồm hai thành tố: tiền tố đồ và hậu tố tể. Riêng hậu tố "tể" chỉ thấy hiện diện trong hai từ khác: chúa tể và tể tướng. Hóa ra anh làm nghề giết lợn lại có họ hàng gần với những bậc chí cao: ông vua và ông quan đại thần tột bậc. Họ gần gũi với nhau ở điểm gì? Xét cả ba giống nhau ở chỗ đều có uy quyền giết chóc kẻ khác. Vua và tể tướng có quyền giết dân, đồ tể có quyền giết lợn. Giết người là một quyền uy to lớn nhất, tối cao nhất trong mọi quyền. Suy cho cùng, có thể nói nghề vua quan cũng là một thứ nghề đồ tể;chỉ có khác đối tượng giết ở đây là con người. Thế mà nghề đồ tể lại bị khinh rẻ. Ngày xưa, nhà Mạnh Tử ở gần nhà đồ tể, Mạnh Tử bắt chước chọc tiết lợn; mẹ Mạnh Tử là hiền mẫu, không muốn con tập nhiễm thú tính, bà liền dời nhà đi nơi khác. Xã hội khinh rẻ kẻ chém giết lợn, cho là kẻ thất đức nên trước chữ tể đặt thêm chữ đồ. Đồ lưu manh, đồ ăn cướp, trong hai từ ấy, tiền tố đồ dùng để chỉ sự khinh miệt. Người ta khinh kẻ giết lợn, nhưng lại trọng kẻ giết người. Trong thiên hạ, ai cũng ham """