"
Trông Lên Rất Đẹp - Vương Sóc full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trông Lên Rất Đẹp - Vương Sóc full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRÔNG LÊN RẤT ĐẸP Vương Sóc
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: TRÔNG LÊN RẤT ĐẸP
Tác giả: Vương Sóc
Nguyên tác: 看上去很美
Dịch giả: Nguyễn Xuân Nhật
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2007
Số trang: 466
Khổ sách: 14 x 20.5 cm
Giá bìa: 64.000 đồng
Đánh máy: Tú Nguyễn
Soát lỗi: Hồng Sơn, Trịnh Cường, Quan Trường
Chế bản ebook: Hồng Sơn
Ngày thực hiện: 05/10/2012
Making Ebook Project #281 - www. BookaholicClub. com
Bạn đang đọc ebook TRÔNG LÊN RẤT ĐẸP của tác giả Vương Sóc do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
LỜI TỰA: BẮT ĐẦU HỒI TƯỞNG NGAY BÂY GIỜ Chương Một
Chương Hai
Chương Ba
Chương Bốn
Chương Năm
Chương Sáu
Chương Bảy
Chương Tám
Chương Chín
Chương Mười
Chương Mười Một
Chương Mười Hai
Chương Mười Ba
Chương Mười Bốn
Chương Mười Lăm
Chương Mười Sáu
Chương Mười Bảy
Chương Mười Tám Chương Mười Chín Chương Hai Mươi
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Vương Sóc sinh năm 1958 tại Bắc Kinh trong một gia đình quân nhân. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Vương Sóc đi bộ đội, làm y tá ở một đơn vị hải quân. Năm 1978 tác phẩm đầu tay “Chờ đợi” ra đời. Năm 1980 ông được điều về toà soạn tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Sau khi phục viên ông về công tác ở Công ty Dược. Năm 1984, Vương Sóc xin thôi việc, làm nhà văn tự do, chuyên viết tiểu thuyết, kịch bản phim, tuỳ bút và phê bình văn học. Năm 1992, Văn tập Vương Sóc ra đời, gồm 4 cuốn, 31 loại, 1 triệu 60 vạn chữ. Tác phẩm chủ yếu của Vương Sóc là “Cô gái hàng không”, “Mất đứt tình yêu của tôi”, “Một nửa là ngọn lửa, một nửa là nước biển”, “Nổi lên mặt biển”, “Nghiền cho đã rồi chết”, “Chúa gàn”, “Chơi nhưng mà hồi hộp”, “Tao là bố mày”, “Ðộng vật hung dữ”, “Xin chớ coi tớ là người”... Nhiều tiểu thuyết của Vương Sóc đã chuyển thành kịch bản phim như “Khát Vọng”, “Câu chuyện ở ban biên tập”, “Anh không phải là người thường”, “Yêu em không thương lượng”.... Văn của Vương Sóc hóm hỉnh, dí dỏm, phóng túng, thường hay dùng ngôn ngữ lưu hành ở đô thị, tự xưng là “tiểu thuyết mang mùi vị đô thị mới”.
Sau một thời gian bảy năm gác bút đi buôn, lập công ty làm kinh tế, tháng 3 năm 1999, Vương Sóc lại xuất hiện trên Văn đàn với tác phẩm hoàn toàn khác trước: “Trông vào đẹp lắm” có độ dài 233.000 chữ, do Nhà
xuất bản Hoa Nghệ xuất bản lần đầu 200.000 cuốn. Tháng 8 năm 2000, Vương Sóc lại cho ra cuốn phê bình tiểu luận: “Người đẹp bỏ tôi thuốc bùa mê”, dài 100.000 chữ do Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang xuất bản, in lần đầu 200.000 cuốn.
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Trông lên rất đẹp được Vương Sóc ra để tưởng niệm thời tuổi thơ của mình. Đó là câu chuyện về khoảng thời gian từ 3 tuổi đến 8 tuổi của một đứa bé trai ở một nơi rất đặc biệt.
Phương Thương Thương sinh vào năm 1960, khi mà cả đất nước Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc Cách mạng Văn hóa rầm rộ. Không có thời gian để chăm sóc con, bố mẹ cậu bé đã gửi cậu vào một trường quản dưỡng nội trú. Ở đây, trẻ em bị thiết quân luật chặt chẽ bỡi những cô giáo giáo điều và đôi khi tàn nhẫn.
Nhưng Phương Thương Thương là một trường hợp khiến họ cũng lắm lúc không khỏi đau đầu. Cậu bé sinh ra đã cứng đầu, lập dị. Những sinh hoạt hằng ngày nơi cái trại lính nhi đồng đó đã diễn ra hết sức đa dạng, bé nhỏ nhưng vô cùng sống động. Tất cả đã tương tác với tính cách của Phương Thương Thương, tạo nên những suy ngẫm trẻ thơ, những cú sốc, những vết thương. Từ đó, không khí của thời đại tiền Cách mạng Văn hóa được khắc họa sâu sắc, chất chứa những câu hỏi về sự hình thành ra nhân cách con người trong thế kìm hãm, mất tự do của bản ngã. Thêm một tác phẩm nữa từ một thế hệ nhà văn mới của Trung Quốc, những người không tin gì cả, cười nhạo tất cả…
LỜI TỰA:
BẮT ĐẦU HỒI TƯỞNG NGAY BÂY GIỜ
1
Năm 1991, viết hơn một triệu chữ cả tiểu thuyết, kịch bản phim truyện, phim truyền hình. Năm sau đã gặp báo ứng, rơi vào khủng hoảng sáng tác. Thực tình thì đó là sự khủng hoảng của tinh thần, tôi bỗng nảy sinh mối hoài nghi rất lớn trước cuộc sống sáng tác của mình lẫn tất cả những gì đã viết ra. Còn nhớ như in thời gian, địa điểm xuất hiện cảm giác lung lay đó. Một buổi trưa, mười một giờ, trước cửa hàng bán đồ ăn Tây Bá Hà bên đường vành đai ba, tôi rẽ qua đó ăn bữa cơm. Hôm đó, chớm sang hè, nắng rất đẹp, tôi đi giữa sương khói bảng lảng bỗng chân nhũn xuống, dùng giọng lưỡi thậm xưng của đám đàn bà tiểu tư sản là tôi thấy trong tôi sụp đổ. Dĩ nhiên là không ngã xuống, nằm giữa phố, mà vẫn bước đi, có điều đầu óc quay cuồng những câu hỏi ngắn vụt tới tấp: Tôi đang làm gì? Thế này coi như tôi đang sống chăng? Cái tôi cần chính là những thứ đang ở trước mắt đây?
Bỗng dưng mất sạch hứng thú trước lối viết vốn đã rất thuần thục, cảm thấy đi cùng với nó là sự đánh mất, sự mai một những ý tưởng ban đầu, thuần thục nhưng lại để vuột mất những điều cốt tủy. Đó là chỗ lung lay cực kì rõ ràng, như lỗ thủng trên bít tất, người khác không thấy nhưng chính mình rất rõ: cái lối viết mà tôi những hô hào với rêu rao kia thực chất chỉ là đơn giản hóa cuộc sống.
Ấy là nói đỡ cho. Nghiêm khắc thì là: bóp méo cuộc sống. Cuộc sống nào cũng đan xen chằng chịt trăm thứ cảm xúc, mà nào có ai giống ai, cớ sao phản ánh vào văn chương lại thành một bộ mặt sơ sài, đơn giản, chẳng hạn: mang tính chất của thể hài kịch. Dĩ nhiên, ở đây cũng bao gồm những hạn chế tự thân của văn chương - một thứ công cụ biểu đạt: câu chuyện thường vẫn có xu hướng tìm tòi một kết thúc viên mãn, sự giới hạn về số lượng chữ khiến người ta chỉ có thể tập trung vào những phát triển chính,
còn bao nhiêu sự thực khác đều không ôm đồm nổi. Cũng còn bởi vấn đề của sự thú vị. Tiếng Bắc Kinh đặc trưng khi nói có xu hướng ồn ào rôm rả, nói ra rất dễ lời tiếp lời, một chuyện giản đơn mà xoay tới trở lui viết ra hàng đống giấy, khoái cảm nơi cửa miệng khiến người nói say sưa, tưởng mình thông minh, lại càng “nổ”, càng “diễn”. Nếu đơn thuần chỉ để tạo điểm khác biệt, kiếm mấy tiếng tung hô, hoặc phụ họa cho hợp thế thời, thì cũng chả gì ghê gớm. Nhưng, không giấu quý vị, tôi còn có một “tâm nguyện ban đầu” với văn học, đó chính là: “trả lại cuộc sống nguyên vẹn”. Ý tôi là đi tìm những tác nhân thực sự ảnh hưởng đến hành động nhân vật, những thứ không bị đổi thay bởi ý thức con người, những nhân tố chi phối nguyên sơ nhất, ẩn bên trong của mọi thứ biểu cảm bề ngoài.
Bởi tôi không dám tin vào phản xạ đầu tiên của mình. Bởi hành động thường đa nghĩa. Bởi tư duy quá đỗi phức tạp, bóc tách từng chút một cũng chưa chắc đã khỏi bất ngờ sao mình lại có phản xạ như thế. Ở đây liên quan đến động cơ.
Chắc gì bạn có thể hiểu và nhìn thấu nhân vật dưới ngòi bút của chính mình. Chắc gì anh ta sẽ không mới vui đã buồn, gặp yêu sinh hận - dù nguyên mẫu chính là bạn. Động cơ không nắm rõ, hành vi trượt khỏi quỹ đạo, chỉ còn lại chút tính hài được dàn xếp sẵn, chạy theo những vui buồn yêu giận “lấy ngay”, tới đâu hay đó… trông cũng “thể diện”, nhưng rốt cuộc vẫn trơ trơ một lời tự vấn thiếu hồi đáp: vốn dĩ là vậy hay sao?
Khổ sở không chỉ mỗi điều đó. Chính bởi chưa tới được gốc gác nguồn ngọn, tự túm tóc phiêu diêu giữa lưng chừng, đã có người lôi xuống, thay mình tổng kết ra bộ ra hệ ra phương pháp nọ kia, nói mình chính là thế này thế này, lại còn được số đông chấp nhận. Tôi không nói những kẻ chê mắng tôi, quan hệ giữa tôi với bọn họ rất đơn giản, lập trường khác biệt, tình cảm, suy nghĩ tất thảy đều khác, những điều bọn họ chê tôi đại khái cũng không sai lệch, thỉnh thoảng có lạc sang tận nhà bà ngoại cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tôi muốn nói đến những người yêu quý tôi, muốn gặp tôi, coi những thứ của tôi kia là của quý. Trước khi nói ra những lời dưới đây, tôi phải thanh minh trước: ở đây tôi nói sự việc, không nhắm vào người nào hết, tôi chỉ muốn làm rõ một số hiểu lầm từ bấy lâu nay, muốn tháo gỡ những thứ vốn không liên quan đến nhau, có thể là không công bằng, nhưng hoàn toàn
không phải mượn dịp để hạ thấp ai đó, cố ý làm xấu ai đó, xin được độc giả chứng giám, xin người trong cuộc bỏ quá cho.
Tôi muốn nói tới những hình tượng nhân vật đã được điển hình hóa qua các phim ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi, hoặc do chính tôi viết kịch bản. Diễn viên rất thành công, được khán giả quan tâm yêu thích, tôi cũng thích thế, cũng như thích những nhân vật khác trong các vở kịch vui khác đã khiến tôi bật cười. Nếu bảo loại hình tượng đó xuất phát từ những sáng tác của tôi, một cách độc đáo, thực tình chẳng dám. Như thế là ốc mò cò xơi, cướp vinh quang của người ta; bất quá như kiểu khôn ngoan của loại người: nhờ người mang thai hộ.
Họ thuộc một dạng người Bắc Kinh khác. Nói thế nào nhỉ? Chắc cũng lương thiện thật, có chút ranh ma, cực kì biết lắng (lấy) phần trong, gạn (bỏ) phần đục, vốn liếng to nhất là đầy một miệng “thấu hiểu” với “cảm thông”, sống “cặm cụi” kĩ càng, không bỏ lỡ cái gì bao giờ, bàn tính gảy rào rào trong bụng người ngoài cũng nghe thấy, một chút xúc cảm đã ngỡ là sâu sắc.
Người tốt! Người có tính như thế, trong cuộc sống này chỉ có lợi, không hại, ra trước công chúng phần lớn đều được cưng chiều, nhưng xuất hiện trong tác phẩm của tôi lại thành lầm lẫn. Toàn thể hiện sai. Chính là kết quả của sự sáng tạo lại của nghệ thuật điện ảnh.
Khác biệt giữa điện ảnh với tiểu thuyết đại để ở chỗ cho ra sản phẩm của ý chí tập thể, rất nhiều người tham gia lao động, cuối cùng đều nêu ý kiến, đều “gửi gắm” những phẩm chất ưa thích của mình vào trong nhân vật, rốt cuộc trả về cho anh một con người hoàn toàn xa lạ. Đương nhiên, điện ảnh ngày nay trước tiên phải là lợi nhuận, được ưa chuộng tức là thành công, hỏi tôi về ý tưởng trong nguyên tác, tôi nào có định như thế, viết hàng lô lốc những thứ dớ dẩn kia chỉ để dựng cho quần chúng một con người tốt. Đúng như lời người phê bình, tôi toàn viết những thứ “láo lếu”. Những lời nói có vẻ đầy nhiệt tình kia thật ra là trêu chọc. Cái thú trêu chọc người khác bắt nguồn từ cảm giác thâm căn cố đế: hơn người. Đúng vậy, tự nghĩ mình “siêu”, có sức nhào nhồi, có tài lập thân lập ngôn, rơi xuống đáy của xã hội mà không hay biết, thịt nát xương tan cái miệng vẫn còn, cho nên nói năng tự cao tự đại, như sống trong mơ, không hòa đồng cũng chẳng hòa tan.
Là dạng thích ra oai, là lưu manh giả trượng nghĩa, không cam tâm sống đời hiu quạnh, nhưng rồi chẳng qua vẫn chỉ là hạng cười gắng nói gượng vô danh tiểu tốt.
Hồi nhỏ, tôi là đứa bé hư, quen nhận từ xung quanh những trách mắng và “lừ mắt”, như thế mới cảm thấy mình là mình. Bỗng một ngày, tiếng vỗ tay vang lên, lại còn có người đi theo, tôi hoang mang mất phương hướng, cảm giác đó thật lạ lẫm, đột ngột, vừa dễ chịu vừa không thoải mái, cùng lúc với dễ chịu thường là không tự nhiên, hay đó là sa ngã?
Còn nhớ năm ấy đọc được bài phê phán đầu tiên dành cho mình (trước đó cũng đã có, tôi muốn nói loạt mới khi tôi bắt đầu để mắt tới). Bài do một kẻ nhàn rỗi viết ra, đăng trên Nhật báo Bắc Kinh số cuối tuần. Nội dung phê phán không nhớ nữa, cũng chẳng quan trọng, tóm lại là nói tôi không tốt, chẳng có chỗ nào được, cũng chẳng sao, quan trọng là bài phê bình khiến cảm giác của tôi thay đổi, có thể miêu tả là “cả trái tim rơi tọt xuống ổ bụng”. So với những động viên, khen ngợi từ sau lưng, những công kích, chửi mắng vỗ ngang trước mặt càng khiến tôi nhìn rõ mình đang ở đâu, mình là cái thứ gì, nhờ vậy càng giữ được bản chất - ý tôi là: tính ăn miếng trả miếng của chó sói. Làm sói thực ra tôi không ham, thành chó tôi cũng chẳng thích, so sánh hơn thiệt phải chọn cái đỡ thiệt hơn. Đây chính là cái lợi và sự cần thiết của kẻ thù. Tôi nghĩ tôi cần kẻ thù còn hơn cần bạn bè chiến hữu. Dĩ nhiên, tôi không muốn nói người phê phán tôi đều là loại kẻ thù vác súng bắn, đó chỉ là phép tu từ, nếu nói thế không ổn, tôi rất vui lòng gọi đó là những người sáng suốt, ra roi chỉ lối.
Đó là lời nói thật, tôi cảm ơn những người phê phán tôi. Chính những phê phán “buốt tai” đó giúp tôi nhìn rõ hơn những thứ bị “trông gà hóa quốc”. Tôi nghĩ trước thực tại đó mình cũng không nên quá tiêu cực, nói cách khác là cự tuyệt với nó. Bị hiểu lầm vốn là cái nghiệp của người diễn đạt, cũng chẳng nên coi tất cả những người đó là ngu dốt hết thuốc chữa hoặc nhận định có âm mưu này khác. Một phần nguyên nhân chắc chắn là ở bản thân, chính mình diễn đạt có chỗ mâu thuẫn, để người khác túm được gáy. Tôi nghĩ có một lối viết truyện có thể đem cuộc sống mà tôi nhìn thấy - cái diện mạo vốn có của nó - lột tả một cách chân thực. Kể cũng khá thú vị, đối mặt với những phê phán và mô phỏng chế giễu, tôi lại cảm thấy tư liệu cuộc sống của mình đầy đủ và tròn trịa, vẫn giữ được sự mới lạ khi chưa bị
người ta khám phá, nhận biết, giữ được hương vị hoang dã, trinh nguyên. Điều đó quả thực không gì sánh nổi, cho một người viết lách ngót chục năm mà vẫn còn rất ham muốn sáng tác. Nó cũng có nghĩa là tôi vẫn còn cơ hội xây dựng một diện mạo mới mẻ, bước lên một bậc cao hơn, hoặc nói cách khác là lại tìm thấy chốn đào nguyên trong văn học.
Có thể chỉ là tôi đang quan trọng hóa mình quá mức, quá bận tâm với chính mình, không đủ thoải mái ung dung, làm hỏng mất tác phong của kiểu người như chúng tôi. Thế thì đã sao nhỉ? Thì coi như tôi còn thiển cận đi.
2
Cuốn sách này của tôi chỉ đơn thuần là tưởng nhớ cuộc sống đã qua. Một sự bắt đầu.
Đường Phục Hưng, Bắc Kinh, một dải hẹp và dài dọc theo đó chừng hơn chục ki-lô-mét được tôi coi như quê hương sinh ra mình (mặc dù tôi không đẻ ra ở đó). Dải không gian ấy trước gọi là “Bắc Kinh mới”, nằm cô độc phía Tây thành phố, một khu vực được xây mới sau năm 1949, dân cư đến từ bốn phương, không một ai người bản địa, tiếng phổ thông đủ mọi giọng, thói ăn nếp ở, ứng xử, suy nghĩ cho đến kiến trúc nhà cửa đều thành ra một lối riêng, không mảy may liên hệ với bảy trăm năm truyền thống văn hóa cực thịnh một thời của đất Bắc Bình xưa. Tôi gọi dải đất này là “Khu cát cứ của văn hóa tập thể”. Tôi tự coi mình sinh ra từ đó, tất tần tật trên người không thứ gì không bắt nguồn từ đó. Cho đến hôm nay tôi vẫn cảm nhận được dấu ấn của hơi hướng cuộc sống năm nào hằn sâu trong mình, gặp sự việc nào đó, một số thứ lập tức trào ra từ xương tủy. Nhưng gần đây, tôi càng sống càng không hiểu mình là ai nữa, dùng lời trong Hồng lâu mộng là “nhận ngược tha hương thành quê hương”. Viết cuốn sách này còn là ý thức về nguồn, nhận lại họ hàng tổ tông, giỏ nhà ai nhận quai nhà nấy.
Hình như Trần Thôn trong một sáng tác từng nói, cuốn truyện hay nhất của anh ta đang ở trong đầu, chỉ có điều không biết, hoặc không muốn, hoặc không có thời gian để viết nó ra. Sử Thiết Sinh cũng từng nói, trong đầu óc của mỗi người đều đã từng rất đặc sắc, nếu mọi người đều viết ra những
điều từng nghĩ, đó sẽ là hàng trăm triệu tác phẩm văn học xuất sắc. Nhớ đại khái thôi. Xem tới đó không khỏi giật mình: quả là anh hùng chí lớn gặp nhau! - Tôi cũng có suy nghĩ như vậy.
Cuốn sách này đã nung nấu suốt trong đầu tôi, có thể nói hẳn là đã dùng tế bào đại não sáng tác không ngừng. Ngày tháng bắt tay viết có thể lần ngược về hai mươi năm trước khi tôi chợt động lòng muốn “xông pha” trên con đường văn học. Vừa xây dựng ý tưởng về một truyện ngắn, tôi vừa manh nha luôn cuốn sách này. Trong khoảng thời gian đó, đã cho ra rất nhiều truyện, nhưng cuốn sách này vẫn không ngừng phong phú, phát triển và hoàn thiện thêm, mãi vẫn chưa muốn mang ra trình làng. Lắm khi chợt thấy mọi sáng tác trước mắt dường như đều là sự tập luyện chuẩn bị, tìm tòi kĩ năng, kĩ xảo, tích lũy, tìm kiếm kết cấu tối ưu và một điểm xuất phát cho cuốn sách này. Có lúc, có những ý tưởng tuyệt hay không nỡ dùng vào chỗ khác, bèn để dành cho cuốn sách. Phải khi bí bét, nghiến răng sử dụng vài đoạn của sách này cáng nội dung cho truyện ngắn, dùng rồi hối hận muốn chết đi sống lại, chẳng khác phụ nữ trong thời đại cũ đánh mất tiết trinh.
Đây là một cuốn sách về chính tôi, những cảm nhận tận cùng, về những gì từng thấy, từng trải qua, từng nghĩ, từng nghe, một cách triệt để, không một chút giấu giếm.
Nhờ bơi nhanh, đến được với thế giới này, không thể sống vô ích kiểu đến âm thầm đi lặng lẽ, tùy sinh tùy diệt như con bọ gậy. Dùng lối nói văn vẻ của ai đó, là: làm sao để lý giải sự tồn tại của chính mình. Còn nói toẹt ra là: sao tôi lại ra cái bộ dạng thế này.
Ngay từ đầu đã nghĩ phải là một tác phẩm dài. Chuẩn bị tư tưởng, nếu viết, quyết không tiết kiệm một chữ nào, phá bỏ mọi phong cách và thói quen sáng tác đã có. Sẽ không thèm đếm xỉa đến chương mục ngắn dài, đến cốt truyện, đến tình tiết, đến tiết tấu câu văn, sẽ tự do triệt để, muốn sao làm vậy, một phen chân thực đến hết mức có thể. Cho dù ngắt quãng liên tục, bất kể nhiều chỗ mâu thuẫn, thậm chí tàn sát lẫn nhau, mặc kệ hết. Chỉ xây dựng một nhân vật chính, đó là tôi, những người khác vẫy tay thì đến, phẩy tay liền đi, không cho họ bất kì cơ hội nào có thể vượt quá cuộc sống chân thực. Không để cho cuốn sách càng đọc càng giống một câu chuyện. Bất kể động chạm đến ai, nói thật, chỉ có nói thật, kệ vui hay không vui. Độc giả
cũng chẳng cần đắn đo, hàng này bán cho người biết dùng, có khoảng chục nghìn người hiểu được kể như lần xuất bản này không lỗ, không đủ chục nghìn, tôi giữ lấy coi như nhật kí. Tóm lại, vung tay viết, mình trần ra trận, gom góp tất tật cho một lần này.
Tôi viết từ đầu. “Nhân chi sơ” vừa mới chui ra, cái gì là thực?
Thực cũng là một mớ hỗn độn. Những người xung quanh rối rít tất bật, chẳng nhìn rõ đâu vào đâu, sự việc xung quanh cũng không đầu không đũa, đứt khúc, rời rạc, đôi khi chợt xuất hiện một sợi nghĩ suy, chẳng gốc rễ, không căn cứ, chẳng biết muốn nói gì. Xen giữa đó còn có những khoảng trống rỗng khá lớn, khi viết ra muốn tìm chữ để kết nối chuyển tiếp sao mà khó khăn, nhà “bình loạn” có “loạn” với “điên” đến mấy cũng không chỉ ra được ý nghĩa cụ thể - vốn chẳng ý nghĩa gì sất. Mỗi khi viết đến đây, bát ngát giấy chục nghìn chữ chẳng biết đâu vào đâu, tôi thấy cũng khoái, đúng là thứ để cho riêng mình đọc. - Nhưng nếu cố ý chỉ để một mình thưởng thức, thì việc gì tôi phải cạy cục đến chữ với nghĩa!
Đổ vỡ thực sự ở chỗ - và khiến tôi không ngừng tự vấn, là: phải chăng những gì anh nhớ lại đều là sự thật? Ai chẳng biết trí nhớ của con người khó tin cậy đến mức nào, ấy chính là lô-gíc khiến cơ quan tư pháp thường không sử dụng bằng chứng một chiều. Sự việc có thể là sự việc của thời điểm đó, cảm xúc, phản ứng khó tránh khỏi dấu ấn tình cảm của hôm nay - vậy nó có còn là chính nó nữa không? Nghĩ đến đó hoàn toàn tuyệt vọng, cố hết sức mình, cũng không gì khác hơn một sự thật ảo, thế thì việc gì phải vậy? Xem ra, “trả lại cuộc sống nguyên vẹn” chỉ là một lời đại ngôn, nào phải quyết tâm tột bậc, lấy giọng chân thành ra đổi mà có được. Tâm niệm càng nghiêm túc, xác suẫt hụt hẫng càng cao, đây cũng là một quan hệ tỉ lệ nghịch. Trên thực tế, đây chính là nỗi cùng đường. Thôi thì đừng tán dóc nữa, cũng đừng hậm hực nữa, có còn muốn viết cuốn sách này ra nữa không đây? Có chứ! Được rồi, cứ thành thật theo những quy luật của tiểu thuyết mà làm. Cái gì là tiểu thuyết? Hư cấu. Trước hết là hư cấu, tiếp đó là hư cấu, sau cùng vẫn là hư cấu.
Nước này, khóc ròng mà về, cam phận. Chấm dứt vướng mắc với sự chân thực, quay về với những yêu cầu cơ bản của tác phẩm đọc mà chúng ta gọi là tiểu thuyết. Thứ đó như thế nào? Không phải tự mình trút xả, tự thỏa
mãn, tự hóa thánh, mà là một sự điều khiển, chi phối chữ nghĩa, tạo dựng ra không khí, điều chỉnh cảm xúc, cô đọng suy nghĩ, đem tới cho độc giả sự ngạc nhiên thú vị.
Cũng vẫn cho phép hồi ức, nhưng hồi ức phải phục tùng sắp xếp của hư cấu, gặp khi phát triển thêm tất phát triển thêm, gặp khi chuyển biến tất chuyển biến, không ky kiết để gắn cho những ý nghĩa mới, không do dự gắn cho những cách giải thích mới. Chú trọng trôi chảy, chú trọng thoải mái, chú trọng chu đáo toàn diện, chú trọng tương phản nổi bật. có căn cứ, có dấu vết, có nhân quả trước sau. Thế là, những người chưa nghe nói bao giờ xuất hiện, việc chưa làm bao giờ cũng xuất hiện. Cuộc sống phẳng lặng như nước bồi đắp nên vô số điều bí ẩn, cuộc sống muôn vẻ, mênh mang vô bờ lại khắc họa nên vở kịch hoàn chỉnh. Thế gian vốn vô sự, nhà văn tự chuốc tự gây. Đám người vốn như nắm cát vãi bỗng giăng mắc vào với nhau, mâu thuẫn nhỏ lập tức dấy lên xung đột lớn, gặp kẽ là đẻ giòi, chỉ sợ không rôm rả, chỉ sợ không sắc sảo, lôi hết chiêu mánh, dùng hết ngón nghề, hoài nghi mọi thứ, thường cười người khác kém cỏi, mặc kệ hết thảy, lời nói không chấn động tâm can kẻ khác thì không chịu thôi, cũng chỉ để tăng thêm hứng xem cho độc giả. Bán, bán hơn chục triệu bản mới đáng.
Tốt cả, đều không tồi, chỉ một chút “sai lệch”: không còn là thứ nguyên trong mình trước kia nữa. Cũng không trách người khác được, ai bảo tôi không đủ bản lĩnh, chỉ biết viết tiểu thuyết thôi.
Cho nên, ở đây tôi phải nhắc trước độc giả: cuốn sách này của tôi đừng xem như một ghi chép hồi kí, chẳng có mấy chuyện là thực, nhiều lắm thì cũng chỉ trông có vẻ giống, ai tưởng thật người đó ngốc. Đây là một tiểu thuyết thông thường, ngôi xưng số ba và số một lẫn lộn, cha không phải cha, mẹ không phải mẹ, bạn không phải bạn, tôi không phải tôi, ai muốn so xét cự nự, tôi từ chối hết.
3
Cuốn truyện viết về lũ trẻ con ở doanh trại số 29 đường Phục Hưng, thời gian từ năm sáu mốt đến sáu sáu khi bắt đầu Đại Cách mạng văn hóa, địa
điểm chủ yếu là vườn trẻ, tiểu học Thúy Vy cùng với nhà tắm, nhà ăn tập thể của doanh trại, những dãy nhà tập thể và một gia đình sống trên đó. Nhân vật chủ yếu gồm bố mẹ, cô nuôi, cô giáo, một lũ bạn nhỏ và đôi ba chiến sĩ quân giải phóng. Không có kẻ xấu. Có một cô nuôi vườn trẻ hơi buồn cười, vậy thôi. Nhân vật nam chính tên Phương Thương Thương, là tên của nhân vật Phương Ngôn trong một số truyện trước đây, sau này lên trung học tôi sẽ đổi lại tên cho cậu ta. Các bạn chơi bạn học của cậu ta đều là nhân vật trong các truyện trước đây, của doanh trại, của trường, tất cả đều còn bé. Nữ sinh, một vài người già, phần lớn là mới. Tôi dự định cho một vài trong số họ sẽ tiếp tục về sau, đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của Phương Thương Thương khi trưởng thành, điều đó xuất phát từ yêu cầu của tiểu thuyết: bảo đảm tính liên tục của sự việc, chứ không phải sự thật. Doanh trại đó của chúng tôi cũng có một vài cấm ky, còn gọi là sự trong sáng thuần khiết khó bề phá vỡ, con trai con gái trong doanh trại rất ít “làm ẩu”, đều vừa phải, đáng tôn trọng. Không như bên hải quân, bọn họ lấy nhau cùng doanh trại rất nhiều, từ tình bạn trong sáng cuối cùng thành ra ở với nhau.
Ở đây bắt buộc phải giải thích một chút, không muốn bị người ta hiểu lầm từ nhỏ đã vấn vương ai đó, không dám nói, cuối cùng phải viết vào tiểu thuyết đỡ “bức”. Không hay.
Một vài chuyện của bọn con trai rất lẫy lừng, hễ nhắc tới là người cũ ở số 29 đều biết do ai làm, cũng không hoàn toàn chính xác. Cũng có kết hợp một vài chuyện đại loại tương tự, khiến tính chất thay đổi hẳn. Thực ra hồi đó mọi người cũng rất giống nhau, văn võ gì cũng có những sở trường tương tự nhau, đều có những hành động giống nhau đến kinh ngạc, có lúc đem sự tích anh hùng của Trương A gắn cho Lý B, vẫn rất chuẩn, đến nay người biết chuyện cũng chỉ cười độ lượng, có những chuyện là cố ý gắn nhiều nhiều cho Phương Thương Thương, để cậu có vẻ thêm phần quan trọng, ấy là tôi lợi dụng quyền hạn, khí không phải.
Một số nhân vật “đi qua”, trong lúc bêu riếu lỡ dùng tên thật, còn xếp ra không ít biệt danh có thật, chẳng phải vô ý đường đột, mà muốn tăng cường độ chân thực, càng là việc giả càng phải làm như có thật, mong các vị bao dung, đừng chấp nhất với tôi. Ở đây, tôi xin được thỉnh an Trương Minh thật. Đây là chỗ thiếu chu đáo của tôi. Trong truyện Một nửa ngọn lửa có
dùng tên này, ở đây cũng đành tiếp tục sử dụng, bởi chữ nghĩa nội dung có liên quan, không nỡ tay. Xin trịnh trọng thanh minh: Trương Minh này không phải Trương Minh thật của số 29. Trương Minh này có vấn đề về tư cách, tác phong, Trương Minh kia là người tốt hoàn toàn.
Để có thể làm giả như thật, bối cảnh trong tiểu thuyết của tôi được hết sức chú ý tạo dựng sao cho phong phú sinh động, tên đường, số cổng, số nhà, tên trường đều thật, những sự kiện sôi động của xã hội cũng được đề cập, chỉ có điều những sự kiện đó đều phản ánh qua đôi mắt con trẻ của Phương Thương Thương, không thể quá chính xác về mặt thời gian. Một số việc đến tai cậu có khác biệt so với ghi chép lịch sử, sai lệch một đôi năm cũng có, mà cũng đáng đời, tôi đâu phải làm việc chép biên niên sử cho người khác, chỉ muốn cho không khí thêm đậm đà màu sắc mà thôi.
Một số cách gọi thời đó cũng không chính xác lắm, bởi trẻ con không nhất định hiểu rõ chức tước cấp bậc quân đội, cũng có một số gọi nhầm, điểm này tôi cứ theo trẻ con. Còn có một số cách gọi chẳng ai giải thích nổi, ví dụ như trong sách nhắc đến “Tam quân xung phái”, tôi cũng chỉ mới làm rõ được đó là ba phái: “Lão tam quân”, “Tân tam quân”, thêm vào một cái “xung phái”. Trẻ con lúc đó gọi gộp làm một. Cái này cũng không chỉnh sửa nữa.
Đối với một số cách nói rút ngắn đương thời, thoạt đầu tôi thường có mấy câu làm cho rõ ý, về sau thấy lằng nhằng, nhiễu sự, ảnh hưởng đến mạch văn, nên thôi. Tin chắc người Trung Quốc đều hiểu được, ai chẳng quen biết vài người hơn bốn mươi tuổi, đi hỏi họ là ra, không khó gì.
Trong từ ngữ còn có những chỗ lời nói, có âm đó nhưng không có chữ đó, hoặc chữ không nhã, tôi bèn dùng từ đồng âm, hoặc tượng thanh ghép lại. Thỉnh thoảng có tiếng Anh, tôi cũng dùng chữ Hán để phiên âm toàn bộ. Tôi cố ý không dùng chữ cái Latin. Về điểm này, tôi thuộc phái thủ cựu, tôi nghĩ văn chương chữ Hán dính thêm mấy chữ cái giống bánh bao bị đặt cạnh miếng xúc xích, “ngoại đạo”, không chung đường lối, thấy gai gai.
4
Vấn đề cuối cùng tôi muốn dài dòng đôi chút. Trước không cẩn thận, từng “ăn đòn”, nay trời chưa mưa đã giương ô, đường ăn nói tôi xưa trơn truội mà thành tai tiếng, lần nào cũng bị người khác không hài lòng. Lần này viết tình cảm, lợp mái trải giường làm nhà mới, có phần lôi thôi, gượng gạo. Cũng có cả việc xây dựng không khí, tìm chút vui cho mình. Ngậm máu phun người tuyệt đối không. Đùa cợt, thì cũng chỉ một niềm yêu văn tạo thành mà thôi. Suốt chặng đường vẫn lăm lăm sẵn sàng phanh xe lại. Cũng là tình thế tất yếu, đứa trẻ trong truyện trước sau không hề quá tám tuổi, những lời ngớ ngẩn nói ra bất quá cũng thế. Nếu nói là có mưu đồ gì, thì đó là âm mưu tìm thấy một chút trái tim thơ trẻ, một khoảng trời trong sáng. Trẻ con đương nhiên sẽ có một vài suy nghĩ sai lệch, sinh ra trong thời đại lớn, cũng không thể không thuộc về thời đại đó, quan tâm “lác đác” vài chuyện chính trị, vội vã tán thành đôi câu thời sự là chuyện rất thường tình, cũng rất chính đáng, chẳng ai giễu cười, đến hôm nay những trung hậu chân thành đó có vẻ nực cười, thêm đôi ba phần xấu xa tâm địa, ít nhiều khoa trương bốc đồng bốc phét, nhằm tránh dẫn đến hiểu lầm, tất cả những thứ này trước khi thành sách đều thương lượng kĩ càng tỉ mỉ với biên tập, bóc tách sạch sẽ.
Chúng tôi đã kiểm tra nhiều lần, những chỗ xóa không xóa đều được: xóa!
Xóa tới xót xa, tự cảm thấy mình dụng tâm cực kì vất vả. Nhưng thận trọng trăm nghìn khó tránh một đôi sai sót, biết đâu vẫn có nửa câu đôi chữ tầm thường đụng chạm, chỉ mong các vị mắt nhìn bao dung, lướt qua không xem là được.
Nói thêm gì nữa đây? Mọi người chúng ta đừng ai nghĩ xiên nghĩ xẹo. Rất vui lòng nhận được những phê bình mạnh mẽ về văn học, cả tấn công xâm phạm thân thể cũng được. Nhưng đừng tầm chương trích cú, liên tưởng chắp nối lung tung, thái độ đó chắc không còn gọi được là thiện đãi con người nữa.
Ngày 12 tháng Hai năm 1992
Chương Một
Trần Nam Yến bước vào cuộc sống của tôi từ rất sớm, từ thuở kí ức vẫn còn mông lung. Hồi đó tôi với em gái cô, Trần Bắc Yến, giường sát giường trong vườn trẻ của một doanh trại quân đội. Căn phòng mênh mông tít tắp, cả trăm đứa trẻ sơ sinh nằm, mắt mũi nhắm tịt, ăn trên giường, ỉa trên giường, tiếng gào khóc đinh tai không dứt. Có rất nhiều người đi qua giường tôi, làm nhiều thứ động tác với tôi, đều bị tôi quên sạch. Tôi chỉ nhận ra, và ghi nhớ khuôn mặt của Trần Nam Yến.
Trước tiên là đôi mắt, lấp lánh như viên bi ve vừa bắn xuống lỗ vẫn còn xoay tít. Đôi con ngươi vừa cố định ở chính giữa lập tức ánh lên một điểm sáng nhỏ như đầu kim. Nhìn kĩ thì ra là hình ảnh một đôi bóng đèn nê-ông thu nhỏ, sáng lung linh. Đôi bóng đèn đó thường xuyên xuất hiện từ trên cao, cứ thế áp xuống gần, cho đến khi biến mất cùng lúc trên mặt tôi hoặc môi tôi cảm thấy một sự tiếp xúc ươn ướt. Đôi bóng đèn chợt đến chợt đi khiến tôi vô cùng khó hiểu, lần nào cũng muốn ngóc đầu dậy xem tăm tích chúng đi đâu. Chỉ thấy trên trần nhà có một bóng đèn nê-ông hình dạng y xì, chỉ có điều to đùng và sáng lóa, nhìn vào một chút liền chói hoa cả mắt. Phải rất lâu sau, tôi mới hiểu ra đôi bóng đèn bằng đầu kim chính là hình ảnh của cái đèn kia trong đôi mắt cô ấy.
Buổi sáng nắng chan hòa, đôi mắt nửa mở nửa nhắm. Tia nắng sớm xuyên vào thấy cả một vùng trong suốt, con ngươi đen đổi sang màu hổ phách, lòng trắng ngả xanh, hai màu hòa quyện với nhau, nhìn không ra được những ý nghĩ ẩn trong đó.
Đôi mắt ấy là phần rõ nét nhất của khuôn mặt, những thứ khác như lông mi, mũi, miệng đều như những nét nhạt vẽ vội trên giấy trắng bằng bút chì 5H siêu cứng, phải đặt lên phần nền màu sẫm mới nhìn rõ được. Chỉ cần ánh nắng hơi mạnh một chút, làn da như bị ánh sáng xuyên qua, cả đến tóc cũng như thể bị phai màu.
Vườn trẻ áp dụng biện pháp quản lí khá văn minh đối với những đứa bé còn chưa đủ sức tự lập, theo kiểu trại tù binh: tự quản lí. Nói cách khác là đứa lớn hơn lo cho đứa bé hơn. Sách vở có ghi, đó là khoảng thời gian mười năm sau khi chiến tranh dai dẳng và gian khổ kết thúc, mọi người còn chưa hết nỗi ám ảnh về sự suy giảm dân số trầm trọng. Chính phủ động viên nhân dân sinh đẻ. Nhà nào cũng đông con, ít thì vài ba đứa, nhiều có cả tá, ai chỉ đẻ một dễ bị nghi có trục trặc gì đó. Lũ trẻ chúng tôi đứa nào cũng có anh có chị, ở tất trong vườn trẻ này. Lũ họ tuổi nhỏ mà chí lớn, đi gánh vác cái hậu quả từ sự “dẻo dai” của cha mẹ.
Mỗi sớm tối, “anh, chị” từ các lớp khác tập trung về lớp nhỏ nhất của tôi, ai làm phận nấy để giúp các em mình thực hiện nhiệm vụ gian khó nhất trong ngày: mặc quần áo và cởi quần áo. Chẳng hiểu lúc mới bước vào vườn trẻ, bọn họ làm thế nào qua được ải này. Có lẽ họ cũng có các anh các chị, một truyền thống vĩ đại nối dài. Có thể đứa con đầu thường thông minh. Nghe nói tỉ lệ con trưởng ở các vĩ nhân khá cao.
Hình như tôi là một thằng nhóc đầu to. To đến độ nào? Có ảnh chụp làm chứng, tỉ lệ cơ thể tôi là chân một phần ba, người một phần ba, đầu một phần ba. Đầu to không nhất thiết não cũng to, bác sĩ bảo đó là chứng đầu vuông do thiếu can xi. Bằng chứng là trên đỉnh đầu có thể sờ tay thấy hai cái chóp nhọn, còn gọi đầu mọc ngạnh. Sách viết, mấy năm đó thiên tai khắp đất nước, chết đói mất một lượng người lớn. Về phía chính quyền cũng có ghi lại, rằng bên trên chẳng ai được ăn thịt. Tôi ra vừa đúng lúc, cũng chẳng đáng phàn nàn. Đầu to thì to thôi. Nhưng còn có một nguyên nhân nữa khiến đầu bị to, đó là nếp ngủ. Quanh năm tôi chỉ ngửa mặt nhìn trời mà ngủ, hô hấp rất thuận lợi nhưng bẹp mất sau ót, những thứ đáng lẽ phát triển ở đằng trước đằng sau, giờ dồn bù ra hai bên. Cái đầu quá cỡ đem lại khá nhiều bất tiện cho tôi. Bố mẹ vốn định tiết kiệm mấy cái cúc, chuẩn bị cho tôi toàn những thứ chui đầu, áo len, áo lót,… đều thế, mỗi lần mặc qua đầu thường mắc lại ở tai. Đặc biệt là khi cởi áo, mười lần có tới chín lần mắc ngay dưới cằm. Cổ bị kéo dài ra áo len vẫn còn vướng dưới đầu, tôi như ngồi đáy hang, giơ bàn tay nhìn không rõ ngón, chẳng biết ngày tháng năm nào mới được thấy lại ánh sáng cuộc đời.
Mỗi ngày, kẻ đến hành tôi là một anh cu mập mạp “năng lực” thường thường, ở lớp nhỡ trên tầng hai. Bố mẹ tôi đẻ liền tay ra hai anh em, nên anh cu mập hơn tôi một tuổi, kinh nghiệm còn non nớt, trí lực và thể lực cũng không hài hòa cho lắm. Gặp phải tình huống này, anh hoàn toàn không hiểu nguyên cớ ở đâu, biện pháp duy nhất là mời tôi ăn mấy bạt tai. Tát tôi khóc xong tự anh cu cũng lùi sang một bên vặn vẹo bàn tay, bối rối. Mỗi lần đến nước đó liền có một người nhảy lên giường tôi, hai chân kẹp tôi lại, túm cổ tay áo len, kéo mạnh một cái lên cao. Hai tai tôi lùng bùng, nước mắt ào ào tuôn chảy.
Vị cứu tinh đó là Trần Nam Yến. Cô làm xong cho em gái mình liền sang giúp anh tôi xử lý tôi. Công việc hoàn toàn giống, nhưng thái độ rất khác. Anh tôi thì chán ngán, nhiều lúc ngán phát khóc. Nhưng cô thì rất hào hứng, vừa chơi vừa làm hết mọi việc. Còn có một điều cô rất thích làm là bẹo má người khác. Thấy bé em mũm mĩm nằm trên giường, cô liền thò tay ra tóm lấy hai bên má mà kéo. Mặt người ta đang yên đang lành bị cô kéo ra thành mặt ông Phúc, tự mình còn cười ngặt nghẽo, rất lấy làm thú vị. Mấy thằng “dinh dưỡng đầy đủ” trong lớp tôi đều bị cô bẹo má không sót thằng nào. Cô nuôi thấy cô làm chuyện đó thì quát ngay, nói em bé cả lớp bị cô bẹo chảy hết nước dãi ra rồi.
Tôi thì không thấy hành động đó bất lịch sự. Khuôn mặt tôi thích cảm nhận những ngón tay mềm mại kia. Hễ cô dùng sức liền cảm nhận được cả độ cứng của xương cốt bên trong ngón tay. Những ngón tay tiếp xúc da thịt tôi bằng một thứ ngôn ngữ rất đặc biệt, dịch thành chữ nghĩa là: dịu dàng.
Giả sử nếu không có những bức ảnh kia, kẹp trong album gia đình, tôi sẽ không tin tuổi thơ của mình trôi qua bên cạnh mẹ. Trong kí ức của tôi không có bà ấy. Cố nhớ thêm, hình ảnh của bà cũng chẳng rõ rệt, đen trắng không màu, lặng lẽ không lời, loáng thoáng như người ở thế giới khác. Bà là bác sĩ, kiểu bác sĩ nội trú bận bịu với rất nhiều ngày trực đêm tại bệnh viện mỗi tuần.
Kể từ khi biết nhớ, tôi đã không sống cùng mẹ. Rất nhiều năm tôi chẳng biết mẹ đang ở đâu, về sau mới hay, bà chỉ xuất hiện vào ban đêm, trời vừa sáng lại đi mất. Bà không phải là người quan trọng trong cuộc sống của tôi.
Thậm chí tôi không hề biết tên bà. Mãi đến khi đi học, hay phải khai sơ yếu lí lịch, mới dần dần ghi nhớ. Nhớ được tên rồi, vẫn cảm thấy như một người lạ. Còn với chữ Mẹ, cũng biết đó là người sinh ra mình, nhưng trong cảm giác vẫn như một người họ hàng ở xa, ai ai cũng có. Đọc rất nhiều những bài văn nhớ về mẹ, có vẻ mẹ giống như một bà bảo mẫu qua đời đã nhiều năm. Đến giờ, mỗi khi nghe có người cất cao những giai điệu giọng thứ ngợi ca về mẹ, tôi vẫn không khỏi nổi da gà từng chập. Phi hành phi tỏi, ép lời thêm ý dẫu có hơi nhiều, thơm hơi quá cũng còn chấp nhận được, cũng chẳng ai lấy đó làm thật. Nhưng chịu không nổi mấy ông bà vừa “giọng” vừa “điệu” ra chiều rất “nhập vai”, chỉ còn thiếu nước khóc òa trước đông đảo quần chúng. Nhìn kiểu gì vẫn thấy giả giả. Phải chăng tâm hồn chúng ta đã quá khô cằn, nên thèm khát tự thỏa mãn, đem quan hệ huyết thống ra “luận sự”. Có thật tồn tại thứ tình cảm tự nhiên, không gì thay đổi được giữa người với người không?
Trong ảnh, mẹ là một phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp, miệng cười lanh lánh mấy chiếc răng cửa. Bất kì bức nào chụp với tôi cũng đầy ắp tình mẫu tử, toàn giành ôm tôi. Nói “giành” là vì chẳng có lần nào thấy tôi vui vẻ cả. Trong mỗi bức ảnh, tôi đều đang vùng vẫy, vặn vẹo không chịu áp vào người mẹ, còn dùng tay đẩy mẹ ra. Những cái ôm không trọn vẹn, cửa trập làm việc trước hình ảnh đầy “biến động”, vứt đi không ít kiểu. Chuyện này kể ra cũng hợp lô-gíc với nỗi ám ảnh không vui của tuổi thơ tôi: không thể hiểu nổi tại sao cứ mỗi lần chụp ảnh lại xuất hiện một người phụ nữ cố đòi chụp chung hình với mình, lại còn “ấm ớ” ôm ấp này nọ, chống cự thế nào cũng không xong. Tôi không quen thân nhiệt nóng hổi và mùi thơm từ cơ thể phụ nữ trưởng thành. Những phụ nữ trưởng thành mà tôi biết đều là những cô nuôi, đứng cách tôi ngoài ba bước. Khi ở quá gần họ, tôi lại cảm thấy rất thiếu an toàn.
Cha là quân nhân, phục vụ ngay trong doanh trại. Tôi thường xuyên bất chợt nhìn thấy ông, vì thế hình ảnh về ông tương đối chân thực, rõ nét. Tôi đã từng lầm tưởng rằng ông là người thân duy nhất của mình, nhưng cha ở trong ảnh so với trong kí ức của tôi vẫn có một khoảng cách rất lớn về tuổi tác. Trên ảnh, ông rất rắn rỏi, còn trong trí nhớ của tôi, ông đã bắt đầu béo phệ. Điều đó nói lên rằng ở giữa là một khoảng thời gian đáng kể tôi và cha không gặp nhau. Tôi không hiểu gì về công việc của cha, chỉ biết ông thường xuyên đi công tác, phơi nắng đen sì. Trong khu nhà ngày thường có
nhiều quân nhân bộ dạng rất nhàn nhã, tôi đã từng tưởng tượng ra chỉ có một mình cha chinh chiến “đánh đánh, giết giết” khắp nơi. Về điều này, ông cũng chưa bao giờ nói thật, chỉ lặng lẽ đi về. Thời kì đó, tất cả người lớn đều tỏ ra bận rộn, chẳng biết họ bận những gì, đã không tích lũy ra của cải vật chất cho chúng tôi, cũng chẳng thấy để lại bao nhiêu di sản văn hóa.
Vườn trẻ của chúng tôi là một khu nhà hai tầng khá đẹp. Trẻ con đều gọi nó là “nhà tàu bay”. Nghe nói nhìn bao quát từ trên không xuống, sẽ thấy khu nhà như hình chiếc máy bay. Nhà tôi rất gần vườn trẻ, chỉ cách hai dãy nhà tập thể. Từ ban công tầng bốn nhà tôi nhìn sang, có thể thấy tất cả. Nhưng tôi nhìn nó suốt bao năm vẫn không sao nắm bắt được tinh thần “tàu bay”, chẳng biết đôi cánh của nó nằm chỗ nào. Có thể là những bức tường trát đá rửa trắng toát cùng với những ô kính rộng khiến khu nhà trông xinh xắn nhẹ nhõm, rất giống thứ gì đó chỉ cần ráng một cái là bay lên được, như kiểu máy bay.
Phòng ốc của vườn trẻ vừa cao vừa rộng, cửa đóng kín mít vẫn cảm nhận được không khí đang tự do lưu thông, ruồi bay lên giống như tàu lượn. Mặt tường phía nam của phòng ngủ, phòng chơi đều làm cửa kính xuống tận sàn. Quanh năm bốn mùa, ngày nắng đêm thâu đều không kéo rèm. Mọi người ở bên trong ăn ngủ, nô đùa, đi lại chẳng khác gì đang ở trên sân khấu. Tầm nhìn rộng mở, nhưng trong lòng hồi hộp căng thẳng, tự hiểu mình có thể bị một vài ánh mắt nào đó dõi theo từ bên ngoài bất cứ lúc nào. “Nhất cử nhất động” đều chứa đựng ít nhiều tính biểu diễn. Không gian cuộc sống vô hình chung thấm đượm không khí văn nghệ, cảm giác thành công hay thất bại đều rất mãnh liệt, rất nhiều sự việc xảy ra như là đang diễn cho một nhân vật thứ ba khuất mặt xem vậy.
Trẻ con trong vườn trẻ ở đó suốt ngày, hai tuần mới được đón một lần, có lúc hai tuần vẫn chẳng đón. Lũ trẻ lúc mới vào hay khóc, dần dần cũng thôi, tựa như vừa đẻ ra đã sống ở đây. Nhiều khi lâu không gặp cha mẹ, đến khi gặp lại thành ra khóc, không chịu theo. Có đứa thậm chí tưởng mình là con em liệt sĩ, hoặc bốc phét rằng cha mình là Mao Chủ Tịch, là thủ tướng Chu Ân Lai, toàn hô những vị to nhất. Trong vườn trẻ có cả nghìn lý do khiến một đứa trẻ khóc, nhưng không hề vì nhớ cha nhớ mẹ.
Tôi thích từ vườn trẻ hơn cái tên đại loại như “trường giáo dưỡng”, nghe rất giống một nơi dành cho trẻ hư, trẻ ốm, hoặc lang thang cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Có một câu chuyện nhỏ về Lênin như sau: sau Cách mạng tháng Mười, Matxcơva có rất nhiều người lang thang, Lênin đã bắt gặp hai người trong số đó. Vị lãnh tụ vĩ đại rất quan tâm, lập tức ra lệnh đưa họ vào “trường giáo dưỡng”.
Tôi quá quen với việc sinh hoạt giữa chốn công cộng, mỗi một sự việc đều làm cùng với rất nhiều người, ăn - ngủ - đái - ỉa tập thể là phương thức sinh hoạt duy nhất của chúng tôi. Phần lớn thời gian trong ngày, tôi và mọi người đều nằm trên giường, ngủ rồi lại ngủ. Tỉnh dậy có lúc là ban ngày, mặt trời vẫn ngoài cửa sổ. Mọi người trong phòng hãy còn ngủ say, cô trông trẻ cũng đang ngủ ở giường mình, tôi trợn mắt nhìn lên trần nhà, tìm kiếm cái gì đó để cố định tầm mắt. Cái trần nhà mênh mông, chẳng có tí trang trí nào ngoài mấy bóng đèn rủ xuống. Mặt phẳng màu trắng trơn vươn hết cỡ ra bốn xung quanh, ngay cả những bức tường vôi trắng cũng thành ra một bộ phận của nó. Mắt nhìn không hết, ánh mắt rời dần xuống nền nhà như quĩ đạo parabôn của viên đạn. Lúc này nó sẽ hơi cong lên, mặt phẳng kia biến thành hình vòm, như có sự sống. Trên đó thường xuyên vọng xuống những tiếng bước chân và tiếng những chiếc ghế dịch chuyển. Tôi không biết đó là âm thanh của những đứa trẻ khác trên tầng hai, ngỡ là tiếng thì thầm của cái trần nhà. Lâu dần, trong mắt tôi, cái trần nhà có một số biểu hiện tựa hồ một quái vật giả dạng hóa đá giờ đang sống lại. Điều đó khiến tôi bất giác cảm thấy mình thật nhỏ bé. Tôi thấy sợ cái khối tinh thần nặng nề đang treo lơ lửng trên đầu mình. Một không gian mênh mang khiến tôi như cảm nhận rõ hơn sức mạnh của nó. Tôi nghĩ nó cứ ở trên cao thế kia, chỉ với một mục đích: một ngày nào đó sẽ rơi xuống.
Thường thì đến tối nó sẽ khẽ khàng mò xuống. Màn đêm bắt đầu từ những vệt tối tụ tập trên trần nhà. Suốt tuổi thơ tôi thường ngỡ rằng, đêm tối không phải là sự biến mất của ánh sáng, mà là màu đen trĩu nặng ồ ạt kéo đến, kiểu như giọt mực rơi vào lọ nước. Màu đen kia có khả năng xuyên tường, càng dễ dàng lọt qua những tấm kính mỏng. Chúng kết bè kết lũ, càng chui vào càng đông, thế là ban ngày thất thu. Ánh nắng khắp phòng bị đánh tan, theo chân những tia sáng bên ngoài rút chạy thật xa thật xa, nhưng vẫn có thể nhìn thấy chúng. Tất cả chúng đều ở trên trời, những
mảnh còn lại to nhất thì bằng tấm kính, có khi nhỏ chỉ bằng một mẩu dưa hấu.
Từ vị trí giường tôi nằm, có thể nhìn thấy bầu trời sao lấp lánh và vầng trăng vằng vặc. Những vì tinh tú phát sáng kia khiến cho đêm đen không còn yên tĩnh cho lắm, tựa hồ như đang gắng ra hiệu cho tôi biết đêm tối không có nghĩa là mọi việc đều ngưng nghỉ, ngược lại có những thứ càng trở nên sống động. Lợi dụng màn đêm, những thứ kia đang khe khẽ tiến đến gần tôi, trong những hình dạng không rõ ràng. Chúng lần mò theo trần nhà, từ từ tụt xuống. Cái trần nhà không chịu đựng nổi quá nhiều những vật màu đen, như một con tàu đắm dần xuống đáy biển. Tôi có thể nghe thấy tiếng nó ép dần xuống các bức tường, ken két cọ trên những tấm kính. Đó là quá trình không gì ngăn cản nổi, cũng chưa bao giờ tự dừng lại, nó cứ thế chạm xuống gần đầu mũi của tôi, bắt tôi phải giơ tay lên chống đỡ. Nhưng nó chẳng để cho tôi chạm được vào. Lúc này, nó tỏ ra có tí đàn hồi. Nếu tôi không nói năng gì, nó sẽ tiếp tục bắt nạt tôi, chỉ để lại một khoảng cách rất mong manh dọc theo cơ thể nằm ngửa của tôi.
Khối đen dày đặc và đồng đều bao trùm khiến tôi mềm nhũn, không cả đủ sức trở mình. Dù biết trong phòng còn rất nhiều người cùng ngủ vẫn chẳng cảm thấy chút ấm áp an ủi nào. Tiếng khò khè, tiếng nghiến răng, tiếng nói mê nổi lên xung quanh càng làm nổi bật sự cô độc của tôi. Những thứ đáng ra mọi người phải cùng sợ hãi lại bắt tôi một mình đối mặt. Không khí nặng nề trong cả phòng dường như được rót qua phễu tập trung xuống chỗ tôi. Đi ngủ tập thể mà còn lại mỗi mình vẫn thức quả là đáng sợ. Tôi muốn chạy trốn khỏi hiện thực này, trở về nơi an toàn trước kia, khi chuẩn bị đến với thế giới. Tôi mường tượng ra hễ mình ngủ thiếp đi lập tức sẽ bị biến mất khỏi thế giới này, ước gì không phải nhìn thấy tình cảnh trước mắt thêm một lần nào nữa, điều kiện thế nào tôi cũng sẵn sàng chấp nhận.
Như một cỗ tàu hỏa, xuyên qua mọi ý nghĩ quay cuồng, lần nào cũng vào ga lúc trời nhập nhoạng. Cảnh sắc xung quanh vô cùng u ám, tầm nhìn như chim bồ câu bị buộc cánh, bay chưa được hai bước đã rơi xuống đất. Chẳng nhìn rõ được gì. Cố trợn mắt lên nhìn đến nỗi tròng mắt nhức nhối. Đi ra không xa có thể nhìn thấy thành phố, có đường sá và một số công trình kiến trúc thấp lè tè. Nhìn thấy vườn trẻ hai tầng mới hốt nhiên tỉnh ngộ: hóa ra vườn trẻ nằm trên con đường này. Vườn trẻ ban đêm khác xa so
với ban ngày, giống một đám hoang tàn sau hỏa hoạn, cũng giống một khu nhà bỏ hoang lần đầu đặt chân vào, những lối đi giao nhau và cả những góc khuất bí ẩn nhiều hẳn lên. Cô nuôi và các bạn nhỏ đều ở đây, chỉ có điều thần thái khác lạ, ai làm việc nấy, rất kì quái, chẳng ai đếm xỉa đến tôi, như không hề nhìn thấy. Họ nói với nhau cái gì, tôi không sao hiểu được, như là bọn họ đều biết ngoại ngữ, lúc bình thường không dùng mà thôi. Tôi loanh quanh một hồi, buồn tè ghê gớm, lần theo lối cũ qua phòng chơi, mở cửa nhà vệ sinh. Bệ xí bồn cầu vẫn dùng ban ngày biến đâu mất cả. Bên ngoài là một bãi đất rộng rãi, trồng bắp cải. Dãy nhà tôi ở tường gạch màu hồng đang ngự ở một phía của bãi đất. Giữa vườn bắp cải có lối đi nhỏ hướng về đó. Tôi nghĩ có lẽ mình đi nhầm, mở phải cánh cửa bình thường ít người sử dụng. Tôi tìm trong phòng chơi, nhưng không thấy một cánh cửa nào khác. Thật bí bét, tôi nghi ngờ trí nhớ của mình. Bụng nhịn căng rất khó chịu, có lẽ phải tìm một chỗ vắng vẻ. Trốn xuống gốc cây, nghe thấy cô nuôi đang nói chuyện ở đó, chui vào những luống hoa, thấy một vài đứa đang lom khom bên dưới, thây kệ, vội vã quay lại phòng ngủ, tính tranh thủ tối trời làm luôn ra phòng. Ai dè mọi người đã dậy cả rồi, đang mặc quần áo trên giường, bước đến đâu cũng có người quay đầu nhìn tôi. Tôi cố ý dừng hẳn một lúc tại một góc tường, tìm khoảng trống, định lúc không ai để ý lặng lẽ “thiên nhiên” luôn cho khỏe. Chẳng ai để ý tôi nữa, nhưng Trần Bắc Yến vẫn không rời mắt khỏi tôi. Đôi mắt lấp lánh dường như đã đoán ra âm mưu của tôi. Tôi luồn xuống dưới, quỳ gối, đầu húc lên gầm giường, lôi “thằng cu” ra trong một tư thế hết sức gian khổ. Đang nghĩ lần này sẽ thành công, chuẩn bị “thoải mái”, Trần Bắc Yến thò đầu xuống, bím tóc rủ sát đất, hai mắt nhìn không chớp. Lại phải bôn ba, nước tiểu đã rơi ra quần đùi. Cuối cùng, tôi phát hiện ra một nhà vệ sinh nhỏ ở giữa hai vế cầu thang. Tôi thấy bực mình, nhà vệ sinh chuyển ra đây cũng chẳng thèm thông báo người ta một tiếng. Trinh sát vài lần, kết luận đích thị là một cái nhà vệ sinh rồi mới dám buông lỏng cảnh giác, đứng vào bệ, vừa lôi ra vừa tự phê bình: thường ngày quá sơ ý không cả biết chỗ này có một cái nhà vệ sinh. Giờ phải nhớ kĩ, lần sau thì không cần vất vả thế này nữa. Nghĩ được một tẹo, bắt đầu tè ra.
Nước tiểu vừa ra khỏi lỗ, lập tức thành đang ở trong chăn. Biết là hỏng chuyện, con người mà để cho “ham muốn” giật dây chi phối, nhưng cũng không quá hối hận. Lặng lẽ tận hưởng giây lát rồi trề môi khóc.
Tôi ở vườn trẻ, nhiều năm được phong “vua tè giường”. Danh hiệu đó ai ai cũng biết, khiến tôi rất mất mặt trước sau không thể nào tạo được uy tín. Đêm nào cũng bày ra một bãi, lắm hôm còn làm mấy lần, khắp người ướt nhẹp, áo quần, ga đệm đều phải lấy ra, tôi trần truồng ngủ trên lưới lò xo thép của giường. Sáng sau tỉnh dậy, mông đít, lưng và nửa khuôn mặt đều hằn những ô vuông nhỏ, trông như thịt mới pha trong chợ sớm bị nhét vào giỏ lưới xách đi suốt quãng đường. Có lần tôi đái cả lên gối, cũng chẳng hiểu làm thế nào mà được, song đủ thấy trình độ khá cao. Nhưng điều khiến tôi buồn bực hơn là những thành tích này còn bị đem ra trưng bày. Chăn đệm dính nước tiểu ban ngày được phơi trên giây thép trong sân thành một hàng dài dưới nắng. Bọn trẻ gọi đó là “vẽ bản đồ”. Quả thật những vết nước tiểu ố vàng trên nền vải trắng rất giống bản đồ vẽ theo trí nhớ sai sót lung tung của các nhà hàng hải xa xưa. Mỗi sáng đều có vài đứa vô duyên, mở mắt ra là chạy đi tham quan mấy thứ đó, rồi vội vã trở về công bố danh sách, và đặt tên cho “hình vẽ” mới. Trên chăn đệm đều có thêu tên, muốn chối cũng chẳng được. Ban đêm tôi ngủ không ngon, sáng toàn dậy muộn hơn các bạn một chút. Thường là mắt chưa kịp mở tai đã nghe thấy tên tuổi mình được loan báo khắp phòng. Đến khi tôi ngơ ngác ngồi dậy đã thấy những khuôn mặt bạn bè cười cười kéo đến chúc mừng. Người ta ba ngày đánh cá, hong lưới hai ngày, còn tôi đêm nào cũng “ra khơi”, sáng nào cũng có tên trên “bảng phong thần”, chưa lần nào trượt. Được cái mặt tôi cũng dày, coi như đang rèn luyện để trưởng thành trong nghịch cảnh, nghe mấy câu trêu chọc móc kháy, tôi với mọi người cùng cười.
Để được ít nhất một lần không làm “người vẽ tranh”, tôi nhịn uống suốt một ngày, ăn cơm cũng không đụng một giọt canh. Khắc khổ đến thế mà vẫn đái nhiều hơn người khác. Chẳng hiểu nổi chỗ nước kia đến từ đâu. Nước tiểu của tôi số lượng rất khá, độ trong cũng rất cao, nếu là lạc đà chắc đã phải chết khô. Tôi đoán chắc mình được làm ra từ băng đá, đem phơi nắng cứ thế giọt giọt chảy ra. Chính vì vậy, đã có một thời gian tôi đâm ghét “con giống” của mình. Chưa hiểu gì về hệ bài tiết, tôi cứ tưởng mọi chuyện chỉ do một mình “nó” gây ra. Nếu nó đừng bé tí như thế, nếu trữ lượng của nó lớn hơn, hoặc nếu được như con gái, không có nó hẳn đi, thì chắc tôi đâu đến nông nỗi này!
Hình như để tập cho bọn trẻ thói quen tốt bài tiết đúng giờ, nhà vệ sinh chỉ mở cửa vào một số thời điểm nhất định trong ngày, giống những chỗ trưng bày bảo vật quý hiếm ở viện bảo tàng. Ngộ nhỡ phân và nước tiểu không “về” đúng hẹn, xin lỗi, đành tự bảo quản trong trực tràng hoặc trong đũng quần mình. Với tôi, đái ra quần là chuyện cơm bữa, chẳng đáng để xấu hổ, hơn nữa “đồng hội đồng thuyền” cũng đông. Có khi hai thằng muốn gặp riêng nhau, chỉ việc cùng đái ra quần, kéo nhau vào phòng ngủ vừa nói chuyện vừa đợi quần khô. Đau khổ nhất có hai lần không sao nhịn nổi, ị thẳng ra quần bông. Mặc dù là quần xẻ đũng, vẫn dính bết lung tung, mùi vị khiến tám hồn khó bề tĩnh tại. Một người có chút ít lòng tự trọng nếu để xảy ra vụ việc mức độ như thế, nhiều ngày sau dù đã tắm rửa sạch sẽ nhiều lần, người khác vừa gặp vẫn lập tức giơ tay bịt mũi, thử hỏi lòng dạ thấy chua chát cỡ nào.
Mỗi lần gặp chuyện như thế, trong thâm tâm tôi lại teo lại thành số không, tự nhủ: Biến! Mong sao mặt đất nứt ra một kẽ, hoặc mọi người bị gió quét đi hết, hoặc mình hóa thành cái cây, viên gạch, vẫn còn hơn phải làm người.
Tôi hết sức bất mãn với cái thằng mọi người vẫn gọi Phương Thương Thương. Tôi ngao ngán vì cái sự thiếu kiềm chế đến thường xuyên thành trò cười trước thiên hạ của nó. Chẳng khác gì dắt thằng ngốc ra đường, thằng ngốc vì ngốc sinh chuyện, người ta lại chửi vào đầu mình.
Tại sao tôi không thể là người khác? Tôi thấy xung quanh mình nhiều người rất khá, đâm ra hâm mộ, rồi ngưỡng mộ: giá mà mình sinh ra đã sáu tuổi thì tốt; giá mà mình làm cô nuôi thì tốt, giá mình không phải là Phương Thương Thương thì tốt. Mỗi ngày tôi lại chọn một nhân vật xuất sắc nào đó để giá mà. Càng ê mặt, rơi bát, đái dầm, trượt ngã,… sự giá mà của tôi càng phong phú đa dạng. Đến nỗi khi vụ việc còn ngổn ngang chưa giải quyết, bản thân còn giữa nghìn trùng hiểm nguy, tôi đã đứng đó hoặc nằm đó mà bắt đầu mơ màng ước ao, giá mà… Những kẻ ngốc nghếch không biết tôi đang tư duy, lại nói tôi đần độn, còn rình rang đem tôi đi kiểm tra. Ông bác sĩ cũng là thứ lang băm, kê cho tôi uống thật nhiều dầu gan cá.
Ngày hai buổi, mỗi buổi một giờ, bọn trẻ được cô nuôi dẫn đi bộ ngoài sân. Con trai một hàng, con gái một hàng, cầm tay nhau, cứ thế ngơ ngơ ngẩn ngẩn men theo tường rào đi hết vòng này đến vòng khác. Tù phạm gọi việc này là “thả gió”. Vườn trẻ “thả gió” vào những giờ cố định. Hàng ngũ lớp này nối tiếp lớp kia. Nhìn từ xa dễ lầm là có biến, toàn thể vườn trẻ đang biểu tình tuần hành. Đi đến những chỗ ngoặt, bọn trẻ đều quay đầu tìm người thân. Tôi cũng ngoảnh ra tìm anh cu mập tên là Phương Siêu, nhìn ra anh liền cảm thấy ấm lòng lên đôi chút, tựa như nhìn thấy đàn anh cùng bị bắt. Anh tôi tính xã giao, rất chú ý giữ gìn quan hệ quần chúng, cả một hàng chỉ thấy anh kéo trước kéo sau, nói năng trò chuyện với bên phải bên trái rất vui vẻ. Nhìn tôi thì chỉ một ánh mắt, một nụ cười bí hiểm. Tôi không hiểu hàm ý ánh mắt và nụ cười đó là gì, vừa đi vừa băn khoăn suốt chặng đường còn lại. Đi hết vài trăm mét, các lớp giải tán tại chỗ, cô nuôi túm tụm chuyện trò. Bọn trẻ lớn bắt đầu đến tìm em. Anh tôi cũng kéo một đám nghênh ngang tiến lại phía tôi, chỉ vào thằng em nói: đây là em tớ. Tôi nghĩ như thế nghĩa là anh đã nhận mình, họ đi đâu thì tự giác theo sau đến đấy, cho giống là một bọn. Phương Siêu là một “đầu lĩnh” nho nhỏ, dưới tay có một đám lâu la đủ tổ chức một trận đấu súng giữa hai phe ta địch, đầy đủ chỉ huy, lính tốt. Lúc đánh nhau thì anh tôi không màng đến tôi nữa. Trừ khi thua trận bị bắt làm tù binh giải đi, tôi mới có cơ hội gia nhập hàng ngũ, quýnh quýnh theo đuôi, thỉnh thoảng còn bị quân áp giải chửi mắng. Chỉ vậy thôi tôi đã thấy thỏa mãn, dường như được gần gũi gì đó hơn rất nhiều.
Có đôi lúc đang bước trong hàng tù binh, ánh mắt và sự chú ý của tôi bỗng bị Trần Nam Yến cướp lấy. Cô không thuộc nhóm của Phương Siêu. Nhóm họ có bốn năm đứa con gái đều sạch sẽ sáng sủa, vừa gầy vừa cao. Họ chơi đùa một cách nhẹ nhàng, trong tay là búp bê và ống nghe. Em gái của họ cũng chơi ở đó, rất được ưu ái, lúc nào cũng được nhường chơi trước. Bọn họ trao đổi thì thầm với nhau rất nhiều, rất chăm chú, y hệt người lớn đang bàn bạc. Thế rồi thấy họ chuyển sang trò chơi khác một cách rất ăn ý, có tổ chức.
Mấy cô gái đó đều xinh, nhưng tôi thích nhìn Trần Nam Yến nhất. Nhìn mãi không chán. Tựa một chiếc đĩa sứ hoa văn tinh xảo, bóng trơn, một cái ly thủy tinh trong suốt lấp lánh, một giỏ trái cây tươi rói óng ánh những giọt nước đọng lại, càng nhìn càng thấy vui vẻ, dễ chịu. Tôi chưa bao giờ so sánh cô với những cô bé khác bên cạnh, căn bản chưa bao giờ nghĩ tới điều
đó, tựa hồ như chưa coi cô là người, mà là phong cảnh để thưởng ngoạn, là đồ vật tinh xảo để ngắm.
Tôi tưởng tượng mình là em trai của Trần Nam Yến - em gái cũng được. Mỗi ngày, cô, chứ không phải thằng anh béo của Phương Thương Thương, sẽ giúp tôi thay quần áo, dỗ tôi ngủ. Thứ Bảy chúng tôi dắt tay nhau về nhà, thứ Hai lại dắt tay nhau đến lớp. Tôi khóc, tôi tè ra quần, cô sẽ vội vã chạy đến dỗ tôi, thay quần cho tôi, chẳng sợ bẩn, cũng chẳng sợ khai. Bất kể lúc tập thể dục buổi sáng hay lúc đi bộ, chỉ cần ánh mắt chúng tôi giao nhau là cô lập tức nở nụ cười với tôi. Chỉ có với tôi mới là nụ cười như thế, thuộc về những gì giữa hai chúng tôi, như một thứ ám hiệu, một bí mật. Cũng chỉ có hai chúng tôi mới hiểu ý. Nội dung cụ thể để sau hẵng hay. Có nụ cười ấy, tôi cảm thấy ngày tháng trong vườn trẻ không còn quá khổ sở. Không phải tôi cố ý “kì thị” Trần Bắc Yến. Cô bé cũng đáng thương lắm. Nói là biết tự mặc quần áo, nhưng hai chân vẫn xỏ vào một ống quần, xuống khỏi giường là trượt chân ngã. Đi dép cứ năm phút là tuột ra. Chỉ biết có khóc. Bắc Yến nói năng lí nhí như muỗi kêu, ăn cơm chậm nhất, lại hay rơi vãi. Nếu cô bé muốn gia nhập gia đình chúng tôi, bắt buộc phải làm chị kế, thì ít nhiều cũng phải chăm sóc tôi một chút. Không được đái dầm! Không được khóc! Lúc đi ngủ phải nói chuyện với tôi. Khăn mùi soa phải cho tôi mượn lau nước mũi. Đồng ý thì tôi sẽ bằng lòng cho thứ Sáu được dắt tay nhau về nhà, thứ Hai lại dắt tay nhau đến vườn trẻ. Tôi sẽ cho phép Trần Nam Yến cũng cười với cô bé. Tôi suy nghĩ khá nhiều có nên cho Phương Siêu cùng gia nhập gia đình ba người chúng tôi hay không. Cuối cùng quyết định không phê chuẩn.
Tôi tưởng tượng mình chính là Trần Nam Yến, rất mực yêu thương chăm sóc Phương Thương Thương, bởi vì cậu ta thật đáng yêu, vừa biết tự mặc quần áo, vừa không hay tè dầm, trên người lúc nào cũng thơm tho mùi sữa. Tôi thích ôm cậu ấy, thơm lên khuôn mặt sạch sẽ phúng phính của cậu. Phương Thương Thương không chịu, rất kiêu, nhưng tôi quyết tâm, nhất định, nhanh chóng dấn tới… Chúng tôi biến vườn trẻ thành mái ấm, cô nuôi thành người giúp việc. Phương Siêu dẫn đám lâu la của anh ta đứng khóc ngoài cửa xin được vào… Lúc này mặt tôi bỗng đập vào thân cây. Đoàn tù binh rẽ ngang, một mình tôi vẫn mải nghĩ về Trần Nam Yến nên quên rẽ. Anh tôi và mọi người cười lăn cười bò. Mặt tôi dán vào thân cây xù xì, bất
động, nước mắt khiến vỏ cây trở nên thẫm màu, tôi lấy tay bóc miếng vỏ gỗ bị ướt.
Đêm hôm đó, chờ các bạn và cô nuôi ngủ say, tôi khẽ khàng bò xuống giường, chân không chạy vào nhà vệ sinh, bật đèn, kiễng chân lên soi vào tấm gương bên trên bồn rửa tay. Tôi muốn nhìn xem bộ dạng của mình. Tôi soi gương rất lâu, chỉ nhìn thấy một thằng Phương Thương Thương ngốc nghếch. Mắt cậu ta quá đen, dù tôi có nhìn sát đến mức lông mi cong gập, mặt lạnh toát, đôi mắt vẫn đen một màu nhưng nhức. Cảnh vật xung quanh phản chiếu qua gương cũng không sao xuyên thủng được màu đen bao trùm ấy.
Chương Hai
Cô Lý vóc dáng khá cao, kể cả so với nam giới. Giả sử phong trào bóng chuyền nữ phát triển sớm lên vài chục năm, biết đâu cô chẳng đem lại vinh quang cho tổ quốc nhờ vào chiều cao ấy. Cô có đôi mắt hai mí rất to, rất hiếm thấy đối với người Mông-gô-lô-ít, nhưng đôi mắt đẹp ít cười đó không có tí dịu dàng nào. Cô là vợ sĩ quan, hồi nhỏ không bó chân[1], luôn đi đôi giày quân đội bằng da của chồng. Đôi giày nặng nề có cá sắt, đi đường vang như tiếng móng ngựa, phối hợp với chiếc áo choàng bác sĩ ngoại khoa màu trắng to lớn và một ánh mắt nhọn như mũi tên khiến cô mang trên mình sức mạnh của nhà sinh vật học uy quyền.
Gần đây trong vườn trẻ lan truyền một chuyện ma. Trẻ con lớn bé thì thầm sợ hãi. Nguyên nhân bắt đầu từ một cô bé lớp nhỡ ở tầng hai vốn không bao giờ tè dầm, bỗng nhiên liên tục để xảy ra sự cố. Chuyện đáng lý cũng chỉ “thường ngày ở huyện”, rất nhiều trẻ con trong quá trình lớn lên đều có hiện tượng “bị lại” kiểu ấy, rất nhiều “nguyên lí cơ bản” của cuộc sống tưởng đã nắm rất vững, bỗng dưng chẳng biết gì nữa cả. Nhưng cô bé tên Trần Nam Yến lại cả quyết bãi nước tiểu mỗi đêm kia không phải là của cô, mà có một con ma, đêm nào cũng lên giường nằm cạnh cô, tè ra xong lại đi mất. Ban đầu cô nuôi tưởng Trần Nam Yến xấu hổ, nhưng rất nhiều bạn lớp nhỡ đều đồng ý, còn khẳng định tận mắt nhìn thấy con ma đó đi ngang qua giường của họ. Làm nghiêm hay đe dọa bọn họ đều kiên quyết không nói khác. Theo lời tường thuật, con ma đó không cao lắm, đầu rất to, bước đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn. Chủ nhiệm cho họp các cô nuôi, yêu cầu họ ban đêm ngủ cố mở một mắt lưu ý xem trong lớp mình có cháu nào bị mộng du không. Cô Lý đề nghị coi đây là một vụ phá hoại, cần quán triệt nâng cao ý thức. Cô đã phát hiện ra rất nhiều trẻ bắt đầu tò mò với cách thức đi tè của bạn khác giới, “có cả bé trai lẫn bé gái”. Đề nghị đó hoàn toàn xuất phát từ tinh thần trách nhiệm, nhưng bị chủ nhiệm nhẹ nhàng phủ quyết. Điều càng khiến cô Lý bực bội là các cô nuôi khác lại nhìn nhìn như thể cô hơi “nhạy cảm”.
Cô Lý đứng bên cửa sổ, quay lưng về phía mặt trời, mắt cô lia sang phải, quét sang trái, bao quát toàn bộ hoạt động của đám trẻ trong phòng chơi. Nắng rực rỡ soi rọi từng ngóc ngách, ai nấy đều như tắm trong ánh nắng, riêng có chỗ cô đứng chừa lại một vật bóng đen như chỗ răng sứt trong mồm. Mặt và tóc cô tối om, càng nổi rõ màu trắng của răng và tròng mắt. Dẫu biết đó là cô Lý - người Trung quốc, nhưng mỗi lần nhìn cô không khỏi liên tưởng một ông lính Tây mới đến.
Cô Lý khá là khó chịu khi thường xuyên bắt gặp ánh mắt của Phương Thương Thương. Thằng bé này đang ngầm “đo đạc” cô. Cho dù có vẻ bề ngoài của một nhà khoa học và những tố chất của lính đặc công, nhưng trên thực tế công việc của cô cùng lắm chỉ như người dạy thú. Không biết một người dạy thú thực sự có thể đối xử công bằng với các con vật trong đoàn xiếc hay không, còn cô Lý luôn là người “yêu ghét rõ ràng”, cô không định thay đổi và cũng không thể không có những yêu ghét riêng tư đối với những đứa trẻ khác nhau. Phương Thương Thương là đứa trẻ mà cô không ưa. Những đứa khác dần dà đều có thể tự mặc quần áo và đái ỉa đúng giờ, riêng nó vẫn bĩnh lung tung, mọi lúc mọi nơi, khắp người luôn khai mù như một con tinh tinh con. Trong lớp chỉ cần có một đứa như thế thì đừng mong ngủ yên giấc. Cô Lý nhận xét thằng bé không hề đần độn bẩm sinh, nó ăn cơm không để rơi một hạt, còn liếm bát sạch bóng. Nhìn vào ánh mắt “khả nghi” của nó, sẽ phát hiện trong đó không chỉ có những ngây thơ trứng nước. Ở đó có tư duy đang hoạt động, có những ý định rất rõ ràng vụt thoáng qua. Cô Lý bình sinh ghét nhất kẻ nào cố ý chống đối mình. Mặc dù lô-gíc thông thường không cho phép cô kết luận, nhưng cô không thể không nghi ngờ thằng lỏi cố tình rắc rối, đủ sức tự lập từ đời nào nhưng vẫn không chịu tự giác.
Ánh mắt của cô Lý đủ sức bắn hạ một con ruồi đang hăng hái bay. Phương Thương Thương đang chồng xếp các khối gỗ thành một cái tháp vẹo vọ, khoái chí bật cười nhìn tháp đổ sụp. Cái sự hào hứng kia chỉ là đóng kịch, cô Lý thầm cười nhạt, thằng nhóc này không hề đơn giản như bề ngoài mọi người vẫn thấy.
Trước ba tuổi, Phương Thương Thương hiền lành như một con rối, mặc người khác giật dây vô tư với mình với người, cần thì đến, không thì thôi, bị
tát thì khóc, được cho kẹo thì dạ, mau khóc mau cười, ưa ngọt không ưa nặng, sấp sấp ngửa ngửa qua ngày đoạn tháng. Một đứa bé ngoan, lặng lẽ lớn lên trong vườn trẻ như một hạt giống nằm trong đất âm thầm nảy mầm. Cho đến một ngày đông tỉnh giấc sau trưa, cậu phát hiện trong mình còn có một đứa bé cùng mở bừng đôi mắt. Khoảnh khắc đó xảy đến thật tự nhiên, không chút đột ngột hay lạ lẫm, mà như gặp thằng anh họ được bố mẹ nhắc đến từ lâu. Ngẫm nghĩ thêm chút nữa, phát hiện ra đứa bé kia đã có mặt từ trước, hai đứa đã ở bên nhau không ít tháng ngày. Dường như còn dấu vết của những ngày xa xôi hơn nữa, lúc đó cậu được ở nhà, căn phòng rất bé thường vắng vẻ không người. Ngoài cửa sổ rất nhiều cành cây xanh nhảy múa. Sữa đã sôi, những bong bóng trắng toát trồi ra từ mép vung xoong bị ngọn lửa đốt cho khô vàng. Đứa bé nhìn thấy những điều đó. Còn có một buổi trưa, đứa bé ở một mình giữa vườn bắp cải mênh mông, nắng chiếu khiến nó lơ mơ buồn ngủ, chẳng còn biết mình là ai, mình đang ở đâu. Lại một buổi trưa khác, đứa bé nhìn qua lớp cửa lưới thấy ngoài ban công một bầy gà con vàng ươm liếp chiếp mổ ăn. Thông qua đứa bé đó, Phương Thương Thương hình dung lờ mờ về thời kì “tiền sử” của mình. Còn có nhiều điều quan trọng khác Phương Thương Thương không nhớ được. Nhiều sự việc có tiết tấu và hình ảnh nồng nàn mà nó không hiểu, chỉ để lại những mẩu ấn tượng vụn vặt có thể đứa bé kia đã giúp cậu ghi nhớ chúng. Đứa bé tỏ ra mềm yếu hơn cậu về nhiều mặt, dễ bị xúc động, không chịu nổi oan ức. Phương Thương Thương hơi lo cho cậu ta, nên thường xuyên nhủ thầm: ở đây chẳng có ai giúp mày đâu, yếu đuối thế làm sao sống nổi trong vườn trẻ này.
Một chiều mùa đông, Phương Thương Thương bước xuống khỏi bậc thềm ngoài hiên của phòng chơi, đứa bé kia cũng theo cậu ra ngoài sân. Từ trong nhà ấm áp bước ra gió lạnh, hai đứa đều cảm thấy “chim” sun cả lại. Trong lớp của Phương Thương Thương, bất kể nam nữ đều mặc quần xẻ đũng, trang phục truyền thống của nhi đồng cả nước trước khi có bỉm. Phải công nhận đó là một kiểu ăn mặc đáng yêu. Một bầy trẻ “bán lõa thể” nhốn nháo xếp hàng dưới cái nắng nhợt nhạt mùa đông, hai đứa một nắm tay nhau. Khi cả bọn bắt đầu cất bước, gió lạnh lập tức luồn vào đũng quần chúng như bàn tay của mấy đứa mất dạy, cứ thế lần trên đùi chúng mà sờ, xuống tận mắt cá chân. Đi đến hàng cây phía trước, một bé gái rét quá tè ra quần. Phương Thương Thương vô cùng căng thẳng, ráng hết sức kẹp chặt
hai mông, tính toán có lẽ mình còn gắng được ba vòng. Bỗng Trần Bắc Yến chỉ tay lên cao kêu: Bố của Thương Thương!
Cả lớp nháo nhác ngẩng đầu tìm khắp bốn phía, tiếp đó một tiếng kêu khác: Thấy rồi! Cả anh bạn ấy!
Phương Thương Thương cũng ngẩng đầu, nhìn dãy tập thể bốn tầng nhà mình màu gạch đỏ sừng sững đang lọt trong tầm bắn, trên ban công một căn hộ ở tầng cao nhất xuất hiện hai người một cao một thấp đang nhìn ra xa. Từ vị trí của cậu nhìn lên đó cũng bằng khoảng cách từ sân cỏ nhìn lên hàng ghế thứ ba chục, người to bằng ngón tay, mắt mũi lờ mờ, nhưng dáng hình và động tác rất rõ ràng. Phương Thương Thương thoạt đầu nhìn ra mấy chậu hoa trên ban công nhà mình, sau đó nhận ra một cái đầu nhô lên của Phương Siêu, bên cạnh đó là một người lớn mặc quân phục. Nói chính xác thì chỉ đoán được đó là bố của cậu. Hai người đang chỉ trỏ chuyện trò rôm rả, ra chiều rất hào hứng. Ánh nắng trên đó cũng như ấm áp hơn, chiếu vào màu hồng của gạch, màu sơn của cửa sổ và lan can như đậm đà hơn, mặt người cũng như được tô thêm sắc thắm.
Đi hết vòng thứ hai, hai người vẫn còn trên ban công. Họ không hề phát hiện ra Phương Thương Thương đang đi trong đội hình ở ngay phía dưới, ánh mắt họ đang vượt qua những những mái nhà, những vòm cây, tập trung về khu doanh trại hải quân. Có một lúc bố Phương giơ tay lên, làm Phương Thương Thương ngỡ bố đang vẫy tay với mình, nhưng cánh tay đó giơ thẳng, chỉ về phía xa.
Hơn nửa số trong lớp đều thắc mắc với Phương Thương Thương: Sao bố cậu không đón cậu về nhà, sao lại chỉ đón anh thôi?
Nhất là mấy đứa con gái, gần như bao vây Phương Thương Thương, ngoẹo cổ, bước giật lùi, léo nhéo không ngừng như lũ chim, chưa có trả lời là chưa chịu buông tha.
Phương Thương Thương cứng người như con rối, ra sức làm công tác tư tưởng cho bản thân: mình người lớn, mình không khóc. Hôm nay tuần nhỏ[2], tức là không được đón trẻ con về nhà. Anh phải ở nhà vì anh bị lên
sởi. Thực ra họ đã nhìn thấy mình, nhưng sợ cô nuôi nói nên mới làm như không thấy. Nhà thì có gì ghê chứ, ai chẳng có nhà. Ở vườn trẻ có bánh bao mứt, nhà có không?
Đi thêm được mấy bước, tôi vẫn không nhịn được bật khóc. Bọn con gái lập tức đua nhau báo tin: Bạn Thương Thương khóc rồi.
Cô Lý quay đầu lại liếc một cái, hừ, nhìn là biết ngay còn chưa tỉnh giấc mơ màng.
Cô Lý tiếp tục cắm cúi bước đi, lũ trẻ ngơ ngác bước theo sau.
Tôi vừa đi vừa khóc, hai tay đều bị các bạn gái quan tâm nắm chặt, lôi lôi kéo kéo, nước mắt nước mũi không lau được, khô keo lại khiến mặt cứng đờ. Phương Thương Thương biết tôi rất bực mình, cậu ta quên cả cảm xúc bản thân, chỉ lo tôi vì uất ức mà làm điều dại dột, cậu dồn hết nghị lực lên đôi chân bước theo đội hình. Tôi thấy tội nghiệp quá, còn bé như vậy mà đã phải kiềm chế bản thân. Nếu không vì sợ cậu ấy bị phạt, chắc chắn tôi đã co giò chạy một mạch về nhà.
Trời ngả tối, các phòng trong vườn trẻ đều sáng đèn, như một con tàu du lịch khổng lồ đang dừng bến. Lũ trẻ đi bộ xong, tụ tập trước mấy bể nước rửa tay, sau đó nối đuôi nhau chìa đôi tay ướt cho cô Lý kiểm tra, như những người tí hon trước tên khổng lồ đã đánh bại họ. Cả lũ ngồi xuống hai bên dãy bàn ăn dài kê ghép từ những chiếc bàn nhỏ, đợi chờ bữa tối của mình. Cô Lý nhiều lần lên giọng ngăn cấm, nhưng lũ nhỏ vẫn dùng thìa gõ vào bát leng keng leng keng. Mấy đứa trẻ chưa biết cầm lòng, nước dãi thòm thèm chảy ướt cằm, ướt cả một mảng yếm ngực.
Phương Thương Thương giải quyết hết suất của mình dưới ánh đèn sáng trắng. Món cơm rang có táo, cà rốt thái hạt lựu và một chút xíu trứng gà. Bữa ăn đặc biệt cuối tuần. Cậu rất coi trọng ăn uống, hễ cơm lên là chuyên tâm chăm chú, nỗi niềm gì cũng lập tức gạt sang bên. Đó cũng là ưu điểm của trẻ con thời kỳ ấy.
Trước khi ngủ, cả lớp đi vệ sinh, Phương Thương Thương không tè. Cô Lý còn bắt cậu đứng yên trên bệ tiểu hồi lâu, tận mắt nhìn thấy vài giọt rơi ra mới chịu buông tha.
Bước vào phòng ngủ, còn một khâu bắt buộc trước khi lên giường là rửa đít. Đầu tiên cô Lý bê vào một chậu nước lạnh có ngâm một cái khăn bông, sau đó đổ nước nóng từ phích vào, thỉnh thoảng cô thò tay vào khoắng để thử nhiệt độ. Khi thấy đã vừa, cô bèn vò khăn mấy cái rồi gọi bọn trẻ đang ngồi trên giường của mình lần lượt bước lại để rửa. Chậu nước bốc hơi nghi ngút, cô Lý ngồi đằng sau như người bán cá vàng. Bọn trẻ xách quần lục tục bước tới trước chậu, chìa mông ra cho cô dấp cả khăn lẫn nước lên lau mấy vòng. Người nhiều nước ít, lần nào cũng rửa được một lúc nước đã nguội và vơi phân nửa, cô Lý bèn chế thêm nước phích. Hoạt động này dù nói thế nào cũng có gì đó thiếu lành mạnh. Một lũ trẻ ngây ngô, chưa biết trên đời có từ hổ thẹn, dẫu ngày đêm ở với nhau, dùng chung nhà vệ sinh, trai gái chẳng giấu nhau điều gì, nhưng đứa nào bước tới trước cái chậu rửa đít cũng mang ít nhiều nét ngại ngần. Tiếng là đi làm vệ sinh, nhưng cảm giác như đang bị hành hạ. Tôi nghĩ sở dĩ mỗi lần đến trước mặt cô Lý, Phương Thương Thương đều thấy sợ hãi, thấy mình nhỏ bé vô vọng, có lẽ bắt nguồn từ nghi thức rửa đít mỗi tối. Trông hoàn toàn giống tư thế chịu khuất phục của loại động vật có vú.
Phương Thương Thương rửa đít đúng sau khi bổ sung nước nóng, cô Lý cũng chẳng thèm kiểm tra nhiệt độ, lỗ đít bỏng nhói một cái, đi về giường trùm chăn khóc mất hồi lâu, thò đầu ra thì đèn đóm trong phòng ngủ đã tắt hết. Ánh trăng rọi vào phòng như một tấm màn lớn. Bầu trời đêm đông sáng như một khối băng, nằm trên giường cảm giác đang đi cắm trại. Bọn trẻ hầu hết đều bị ánh trăng quyến rũ tới mức khó ngủ, khắp phòng là tiếng cút kít của giường lò xo, tiếng vươn vai duỗi chân và tiếng nhóp nhép từ miệng. Có đứa ngồi hẳn dậy ngắm trăng. Trong bóng tối vọng đến một tiếng quát trầm trầm của cô Lý. Mặc dù không nhìn thấy cô, nhưng âm thanh kia vẫn mang đầy đủ uy quyền và sức mạnh. Phương Thương Thương giơ ngón tay chọc chọc vào mặt Trần Bắc Yến. Trần Bắc Yến dùng mấy cái răng mới mọc cắn lấy ngón tay cậu. Phương Thương Thương đau rụt tay lại. Trần Bắc Yến há miệng cắn, cậu liền lẩn tránh, trêu cho Trần Bắc Yến chảy nước bọt ra cả gối. Hai đứa bé đùa nghịch một lúc, Trần Bắc Yến ngủ khì, Phương Thương Thương chọc thế nào cũng chẳng thấy phản ứng. Thương
Thương ngáp một cái, nghiêng mình chập hai bàn tay kê xuống má, lặng lẽ ngắm trăng. Cậu còn chưa định ngủ, mà muốn ra ngoài chơi. Thương Thương ngáp liên hồi kì trận, hai mắt vẫn cố mở trừng trừng. Cậu thấy mình trèo xuống khỏi giường, đi luôn ra ngoài phòng, chẳng thèm đi giày. Cậu cảm thấy mình thật dũng cảm, chẳng thèm sợ bị cô Lý mắng. Cậu đi qua đầu giường của những đứa trẻ ngủ say, nhìn thấy cô Lý nằm trên giường như con trăn khổng lồ với đôi mắt vẫn còn chấp chới sáng. Cậu ngồi thụp trước đầu giường cô Lý hồi lâu cho đến khi tin chắc cô Lý đã ngủ say mới đứng dậy đi tiếp. Vừa đi vừa nghĩ bụng: ngày mai nhất định phải kể cho các bạn là cô Lý ngủ mở mắt.
Phương Thương Thương mở cánh cửa đi từ phòng chơi ra sân, cậu bước ra ngoài trời. Chẳng hề lạnh. Cậu nghĩ, mùa đông chỉ có mỗi mặt trăng là không mặc áo vẫn chẳng bị lạnh. Cậu tưởng chừng mình vừa phát hiện ra một chân lý. Khắp sân như lát bằng gạch bạc, những cành cây, mái nhà cũng sáng lung linh như làm bằng kim loại. Cả sân được chiếu sáng bừng, như một sân trượt băng đầy ắp ánh đèn. Phương Thương Thương thử trượt một cái. Quả là rất trơn. Có lẽ ánh sáng khá trơn, chiếu lên mặt đường có thể khiến người ta như bước trên vỏ dưa hấu. Phương Thương Thương trượt một lần được khá xa, ra khỏi chỗ có ánh trăng. Cậu nhìn thấy dãy tập thể nhà mình đen sì sì không hề có một ô cửa nào sáng đèn. Tất cả đều đang ngủ say. Cậu xoay người định trượt về thì lại bắt gặp khoảng vườn trồng bắp cải thảo ấy. Những bắp cải thảo găm xuống đất, giữa mùa đông giá vẫn căng đầy, màn đêm dày nặng cũng không thể che nổi những bẹ lá xanh mơn mởn. Tại sao lúc ban ngày toàn quên không tìm ra chỗ vườn cải này nhỉ, một ý nghĩ thoảng qua đầu Phương Thương Thương.
Khu sân của vườn trẻ biến thành nước tự lúc nào? Mặt nước dập dềnh lấp lánh, phủ một lớp mỏng trên mặt đất, giẫm chân vào lập tức dạt ra như khói bụi, vừa để yên liền tụ lại, ngập chưa đến cổ chân, thực sự là cảm giác mát lạnh của nước. Phương Thương Thương bước từng bước mạnh lên mặt nước, để lại bao nhiêu là dấu chân. Phải về phòng gọi thêm mấy bạn ra chơi. Mình vi phạm kỉ luật một mình ra ngoài chơi lúc nửa đêm, có phải là tự do quá trớn lắm không? Cậu định thử xem bước của mình dài đến đâu, bèn xoạc chân sải một bước lớn nhất trong đời, giữ nguyên tư thế, cúi đầu nhìn xuống chân. Lúc này, cậu nhìn thấy cái bóng của mình - bị hai chân
tách ra, giạng ngang giữa đất, to gấp mấy lần kích thước thật, đen sì và lặng lẽ.
Tôi giật thót mình, tỉnh dậy giữa phòng ngủ. Trần nhà đã xuống thấp tới tầm nguy hiểm, hòa cùng màu đen bốn xung quanh thành vùng tối mênh mông vô tận. Vùng tối khổng lồ vẫn không ngừng lớn thêm, ngày càng lớn, càng nặng. Nó đè lên người tôi nặng trĩu. Khắp mình mẩy tay chân không chỗ nào không có cảm giác sức nặng và độ căng của bóng tối. Nó thấm qua da thịt, xương cốt, mạch máu, khiến người tôi rã dần ra, xương long thịt bở, máu huyết khô kiệt. Có lẽ con gà mái già bị hầm bằng lửa liu riu trong nồi cũng có số phận như vậy. Tôi thấy người nát bét, như một đám bùn bị giày xéo đang ngày một khô đi. Tôi tự ra lệnh cho mình ngồi dậy, nhưng chỉ có đầu óc đang vùng vẫy không thôi, còn tay chân tê dại đờ đẫn như người thực vật, cả đến ngón chân cũng không thể nhúc nhích. Tôi dùng ý thức để xoa bóp cho từng ngón chân, kích thích mỗi vị trí trên cơ thể mình, tìm kiếm một mẩu da thuộc về mình trong tuyệt vọng. Vài lần ngỡ đã nhúc nhích được, nhưng đều chỉ là ảo mộng bong bóng vỡ tan. Có đôi lần tưởng đã đứng lên được, nhưng khi bước đi mới cảm thấy như đang gánh vật nặng, thoắt một cái, thì ra người vẫn đang bất động trên giường. Tôi cảm thấy hít thở khó khăn, không khí ngày càng loãng, lúc này chẳng còn sợ chết nữa, chỉ mong sao chóng rơi vào hôn mê. Đúng vào lúc không còn chịu đựng hơn được nữa, chuẩn bị chết ngay trên giường, bỗng giật mình tỉnh giấc. Lồm cồm bò ngay dậy, huơ tay huơ chân lao xuống khỏi giường, vùng chạy. Vừa chạy vừa cảm nhận niềm sung sướng dâng lên vì thấy mình vẫn sống.
Bóng tối vẫn chưa rút lui. Nó chỉ như con gấu đen hơi nhấc đít lên, giờ đang đuổi sát sau lưng tôi. Nó vừa ở cả dạng khí lẫn dạng rắn, nó chuyển động bằng dạng khí, nhưng khi dừng lại thì sinh sôi nảy nở như vi trùng. Tôi chỉ có thể chạy không dừng mới mong giữ được tính mạng, mới có thể tách rời khỏi cái vật thể khổng lồ đó. Tồi luồn qua mỗi chiếc giường trong phòng trên đôi chân trần, sao cho không bị nó phát hiện. Tôi nghĩ ra ngoài phòng chơi có lẽ số lượng của nó sẽ giảm đi đôi chút, thê là cong lưng chạy ra. Tôi trốn sau một dãy bàn nhỏ kê dựng đứng trong phòng chơi, như một thằng trộm đang lẩn tránh đám đông truy đuổi. Mỗi khi tôi vừa cảm thấy an toàn, định dừng lại thở lấy hơi, đã thấy nó mau chóng tụ lại trước mặt như
một đám mây đen. Tôi sợ phát khóc, không còn sức để chạy nữa, vừa đi vừa rên rỉ: mày làm gì thế này, mày cứ bám theo tao làm gì thế. Định dàn hòa với nó. Nhưng nó trước sau chỉ câm lặng theo sát tôi không rời. Tôi vừa đi vừa ngoái lại, muốn nhìn rõ hình dạng của nó, xem rốt cuộc thì nó là ai. Nhưng khuôn mặt đó quá lớn, đi mãi vẫn chưa nhìn hết được. Tôi không dám gọi cô nuôi. Nó khổng lồ quá, có thể nuốt chửng vài chục người to cao như cô Lý. Tôi không muốn làm cô bị liên lụy. Cả vườn trẻ này chỉ có một người có thể đối địch lại với nó, chiếc giường ấy rất an toàn.
Tôi bước lần từng bậc cầu thang lên gác hai, mở cánh cửa của lớp nhỡ, đi thẳng đến bên giường Trần Nam Yến, trèo thoăn thoắt lên một cách quen thuộc, giở chăn chui tọt vào. Vừa chạm phải cơ thể ấm áp đó, ngửi mùi thơm quen thuộc của chăn đệm, tôi lập tức thấy yên tâm, ngủ thiếp đi bên cạnh cô.
Rất nhiều năm sau, Phương Thương Thương vẫn tin chắc là ánh mắt của cô Lý đêm ấy phát sáng xanh như mắt chó sói. Đôi chấm sáng long lanh xuất hiện nơi lối ngoặt trên cầu thang tầng hai, khiến cho cậu càng sợ hãi, không thể nào nghĩ ra đó là đôi mắt của cô Lý. Khi đầu vừa kê lên gối, mơ mơ màng màng thì bỗng cả cơ thể cậu bị một đôi tay to lớn bê đi trong không trung như chuột Tom trong phim hoạt hình, trước mặt còn có một đôi mắt to đùng sáng chấp chới của cô Lý. Sự việc bất ngờ như sét đánh không kịp che tai, Phương Thương Thương còn tưởng mình đang có ngay một cơn ác mộng thứ hai. Cả quá trình theo dõi, ẩn mình, rình rập đến lao vào, lật chăn, tóm người, giải cứu nạn nhân sao mà thuần thục, gọn ghẽ và thành công đến thế. Hầu như không hề kinh động đến những người đang ngủ xung quanh, cả Trần Nam Yến cũng chẳng hề hay biết. Chỉ cảnh sát đặc nhiệm chuyên giải cứu con tin mới sở hữu trình độ thân thủ phi phàm như thế. Cô Lý có một động tác khiến Phương Thương Thương không sao lý giải được. Sau khi tóm gọn được cậu và giao qua tay cô nuôi lớp nhỡ, cô Lý cúi xuống nhanh nhẹn kiểm tra đũng quần và chỗ giữa hai chân của Trần Nam Yến, khi đó vẫn đang ngủ say.
Những việc tiếp sau đó, Phương Thương Thương nhiều lúc tưởng rằng đã quên sạch, nhưng đó chỉ là một niềm ao ước của cậu. Cậu bị bế đến phòng làm việc của chủ nhiệm, đặt ngồi trên giường trực. Tất cả cô nuôi
trực đêm đều khoác áo chạy đến nhìn mặt “con ma” bị tóm cổ. Những cô nuôi trẻ tóc tai rối bù, quần áo xộc xệch chen nhau vào văn phòng chủ nhiệm. Họ vui mừng rạng rỡ, nói nói cười cười như thể đang ở đồn công an chứng kiến các chiến sĩ phá được vụ án lớn. Giữa những người phụ nữ đó, chỉ có một người đàn ông duy nhất, vóc dáng cao gầy, mà lũ trẻ gọi là bác chủ nhiệm. Nếu nói về sự từng trải, ông già thừa sức làm tướng lĩnh, không thì ít nhất cũng đến hàm đại tá. Những vị tướng thật trong doanh trại rất kính trọng ông. Nghe đồn ông già rất thích văn học thiếu nhi, đã nghiên cứu, chỉnh sửa không ít bài đồng dao. Có người còn nói ông đã từng viết một cuốn truyện cổ tích thực sự, đã xuất bản, thậm chí được dịch sang tiếng Tạng. Nội dung công việc chủ yếu của bác chủ nhiệm là đi hết lớp này sang lớp khác, chơi với bọn trẻ con và cho chúng kẹo như Ông già Nô-en. Trong vườn trẻ vốn cấm trẻ con ăn vặt, nếu đem theo từ nhà đến cũng bị tịch thu, chỉ có một mình ông cứ mang tùy thích, ngang nhiên không theo quy định gì cả. Các cô nuôi rất không bằng lòng về điều đó, nhưng lũ trẻ thì ngược lại. Cũng chẳng thấy đứa trẻ nào vì mấy viên kẹo bé xíu của bác chủ nhiệm mà đau răng hay trục trặc bụng dạ.
Bác chủ nhiệm cũng cười như các cô nuôi, cười cả với phạm nhân. Đôi mắt ông già dịu dàng nhìn chăm chú vào đứa trẻ. Ông già đối với tôi rất tốt, hình như còn nói đùa với tôi mấy câu, khiến tôi cảm thấy mình giống một anh hùng, lập được công lớn, bất giác cũng vui vẻ trở lại, nói nhăng nói cuội những chuyện linh tinh chẳng đâu vào đâu.
Sáng sớm hôm sau, Phương Thương Thương bị nỗi mót tiểu dựng dậy, nhìn ra cả lớp các bạn đều đã xuống khỏi giường, mặc quần áo xong xuôi, đang chơi giữa nhà. Các cô nuôi không thấy vội vã thúc lũ trẻ ra sân tập thể dục, mà đứng túm tụm nói chuyện với nhau. Thấy cậu tỉnh dậy, một cô nuôi trẻ tuổi mới nhận ca mà lũ nhóc đặt rên “kẹo Đường” ân cần bước lại mặc quần áo cho cậu. Cô Đường này thường ngày cũng là một vị mềm cứng chẳng sờn, ngọt nhạt chẳng thấm, ghê gớm ra trò. Phương Thương Thương không hiểu lý do gì khiến hôm nay cô lại vui vẻ đến thế, cứ nhìn mình cười suốt. Kiểm tra chăn đệm thấy Phương Thương Thương không tè dầm, cô còn khen: giỏi lắm, giỏi lắm, thật không tin được. Phương Thương Thương không khỏi lòng dạ lâng lâng, tự giác cài lấy cúc áo, ra sức bày tỏ: sau này
cháu sẽ vẫn không tè dầm. Cô Đường cười to, che hàm răng nhiễm flo, nói đứt quãng: tốt lắm… triển vọng…
Phương Thương Thương nhảy xuống đất, nắm tay cô Đường tung tăng bước ra ngoài. Ra khỏi cửa thì phát hiện cả lớp hôm nay tập thể dục muộn. Lớp lớn và lớp nhỡ đều hàng ngũ chỉnh tề, đã tập được gần nửa bài. Mặt trời đã lên đến cái chóp nhà bên hải quân. Một chùm sáng rọi tới, vừa vặn soi ngang tầm mắt của Phương Thương Thương. Cậu ra sức gập đầu, đá chân, ngoáy hông. Cậu muốn cô nuôi đang thương yêu mình nhận thấy khả năng xuất sắc của cậu, mấy bài tập bình thường của vườn trẻ có thấm vào đâu. Đến động tác vặn mình, cậu vẫn không quên nhân tiện quay đầu nhìn sang Trần Nam Yến. Trần Nam Yến đang vừa tập vừa nói chuyện với một cậu bạn, động tác thể dục có vẻ hời hợt bớt xén, chỉ tập cầm chừng. Trong mắt Phương Thương Thương, những động tác “rút gọn” của Trần Nam Yến thật là trơn tru. Đến động tác nhảy, bím tóc của cô bỗng trở nên sinh động, phất phới lên xuống, còn bay cao hơn cả chính cô. Phương Thương Thương nhìn với tất cả lòng ngưỡng mộ, cảm thấy bản thân quá đơn điệu tẻ nhạt, thiếu vắng quá nhiều ưu điểm.
Cô nuôi của các lớp chia nhau đứng bốn góc sân, đều dõi ánh mắt về phía Phương Thương Thương và Trần Nam Yến. Thấy Phương Thương Thương tập tành cật lực thì khẽ nhìn nhau, tặc lưỡi không ngớt.
Giải tán, các lớp về phòng. Bọn trẻ rồng rắn trước cửa vào, ủn nhau thật lực. Phương Thương Thương để hai tay trên vai Trần Bắc Yến, dùng sức đẩy cô tiến lên, miệng nghêu ngao những giai điệu không tên. Trần Bắc Yến ra sức vùng vằng hai vai, mỗi bước một cái liếc xéo, một câu “ghét”. Bữa sáng đã được bày lên phòng chơi, những chiếc ghế để trống đang mời gọi. Một lồng bánh bao nhân đậu, cái nào cái nấy nhỏ nhắn mềm mại, tỏa khói nghi ngút. Phương Thương Thương hào hứng đi vào nhà, vừa bước qua ngưỡng cửa bỗng đần mặt đứng tại chỗ như bị điểm huyệt: cô Lý đứng sau bàn đang cúi người nghiêng mặt, con mắt bên trái của cô nheo lại nhìn cậu. Chỉ một con mắt đó thôi đã nhổ phứt cậu ra khỏi cả đám trẻ. Phương Thương Thương rụt lùi như gặp ma giữa ban ngày, nhưng lưng đã bị dòng người ồ ạt đẩy tới vài bước, vẫn ở đầu hàng, mắt dán chặt vào người cô Lý, như bị mắc câu không thể gỡ ra được.
Cô Lý xách một thùng sắt to đùng loại chuyên dùng tưới nước chống hạn, trong đựng đầy cháo ngô, một tay đang cầm chiếc muôi sắt cán dài, múc cháo vào mỗi bát. Cô đi dọc theo dãy bàn, bước một bước lại múc lên một muôi cháo ngô đặc sánh vàng rười rượi, một động tác nghiêng tay điệu nghệ, cháo tuôn vào bát như dòng sao băng, con mắt bên trái lại lóe sáng. Cứ đi một bước lại múc một muôi, mắt lóe lên một cái. Động tác của cô hiên ngang rắn rỏi, ánh mắt không nặng không nhẹ. Cô đi đến cuối dãy bàn lại quay lại, múc cháo cho hàng bên kia. Động tác không thêm không bớt, bước chân không ngắn không dài, chỉ đổi sang mắt phải cho tiện quán xuyến tình hình. Cô đi qua mặt Phương Thương Thương, cậu liền tự động theo sau như một cái đuôi, cô quay người cậu cũng quay, cô dừng cậu cũng dừng.
Cứ đi theo cô làm gì thế? Cô Lý múc cháo xong, vứt muôi vào thùng “coong” một tiếng, bước lại đứng bên cạnh cửa sổ.
Phương Thương Thương đứng trước mặt cô, cúi đầu, không nói không rằng, hai khóe miệng trễ xuống hết cỡ, thành hình chữ bát, giống đôi ria của con mèo, cụp cụp.
Cô Lý nhìn chòng chọc vào cậu. Nhìn được vài phút, cuối cùng Phương Thương Thương bật khóc. Cậu mím chặt môi, không phát ra tiếng, hai mắt ảo não nhìn cô Lý, nước mắt tràn xuống má ròng ròng.
Khóc rồi à. Cô Đường đang đứng cạnh bật cười.
Cậu bé này biết lắm đấy, cái gì cũng hiểu. Cô Lý vừa xoa đầu đứa bé dưới chân mình vừa bảo với cô Đường.
Đi thôi đi thôi, đi ăn cháo của con đi. Cô Đường bước tới, đẩy Phương Thương Thương về phía bàn ăn.
Phương Thương Thương không chịu đi, đôi mắt ầng ậc nước vẫn dán chặt vào cô Lý không rời.
Đi đi. Cô Lý thở dài một tiếng. Cho phép cháu rồi.
Phương Thương Thương bước xiêu vẹo đến chỗ ngồi của mình, bê bát lên ngang mặt, húp thật to, một con mắt còn lộ ra vẫn không quên nhìn về phía cô. Tất cả bọn trẻ đều bê bát lên che kín cả mặt, húp cháo rất chăm chú. Cảnh này, vật này có cái vẻ gì đó thật xót xa.
Cô Lý oai nghiêm đi lại như chúa tể sơn lâm trước cửa sổ, ghếch chân sau tì gót lên tấm tỏa nhiệt của lò sưởi, thò tay vào túi áo blu lần mò, lôi ra một điếu thuốc đưa lên bập giữa môi, không châm lửa, qua một chập đỡ thèm lại thả điếu thuốc trở lại vào túi. Cô Đường gửi tới một nụ cười tươi tắn, cô Lý cũng cười đáp lại.
Ngoài cửa sổ, bụi xoáy hình tròn trên mặt đất rắn đanh, giống mấy đứa trẻ túm áo chạy đuổi co kéo nghịch ngợm. Hàng cây dương trụi lá chìa những cành khẳng khiu như ngón tay của người khổng lồ chỉ chỉ trỏ trỏ giữa trời. Cô Lý khoanh tay dựa lưng vào bệ cửa sổ, một mình đứng bên ngoài lớp học. Từng sợi khói xanh nhẹ nhẹ bay lên từ phía trước mặt cô, nhanh chóng tan theo gió. Lũ trẻ chen nhau áp mặt vào ô kính, nhìn đi nhìn lại vẫn không đoán được cô Lý làm cách nào hóa phép ra làn khói kia.
Bác chủ nhiệm bịt khẩu trang, đội mũ bông, quấn khăn cổ, cắm cúi vội vàng đi ngang qua cửa kính. Cô Lý lên tiếng chào ông mới ngẩng mặt lên, dừng bước ghé mặt kề tai nói chuyện với cô. Bọn trẻ đứng trong nhà nhận ra bác, liền reo hò phấn khởi, cả lớp thi nhau cất tiếng chào. Bác chủ nhiệm chỉ thấy lũ trẻ há miệng mà không nghe thấy tiếng, nhưng bác vẫn kéo khẩu trang xuống để lộ một khuôn mặt vô vàn nếp nhăn đáng kính và một nụ cười thật tươi. Cô Lý thấy bác chủ nhiệm tự dưng cười, liền quay đầu lại. Lũ trẻ trong lớp kinh ngạc nhận ra cô Lý cũng đang “thường trực” một nụ cười, vèo một cái đều chạy mất.
Cô Lý vào nhà, mang theo hơi lạnh và mùi khói thuốc. Cô chế một ca lớn đầy nước trà, rồi bê ca nước của quân tình nguyện có dòng chữ “người đáng yêu nhất” chậm rãi đi ngang giữa phòng. Cô vừa bước vừa quan sát một lượt mọi việc đang diễn ra. Lũ trẻ đang chơi mấy trò linh tinh, ồn ào gào thét với những chuyện không đâu, đứa thì khóc, đứa thì cười, lộn xà lộn xộn, kêu la inh ỏi. Không ít đứa chạy lại mách tội với cô, nhưng cô Lý phớt lờ hết thảy, không muốn để bị lôi cuốn vào những phải phải trái trái của lũ
trẻ con. Đi thêm được mấy bước, cô bỗng cảm giác có gì đó không bình thường, liền đứng lại điều tra nghiên cứu, nhưng nhất thời vẫn ngơ ngác chẳng hiểu thế nào. Tựa như chủ nhà vừa bị trộm ghé thăm, bước vào cửa cảm thấy có bàn tay lạ sờ vào nhà mình mà vẫn không phát hiện được điểm bất thường nằm ở đâu. Nhưng nói chung là không bình thường. Cô Lý bất giác bắt đầu đếm đầu bọn trẻ, vừa lúc sắp vụt hiểu ra thì bác chủ nhiệm bước vào phân tán mất suy nghĩ của cô.
Cả lớp hoan hô ùa về phía bác như chạy ra Thiên An Môn, đứa nào đứa nấy sà vào lòng bác như đàn cá heo nhoi lên nhoi xuống. Bác chủ nhiệm loạng choạng suýt ngã phệt ra nền nhà. May mà cô Lý đã nhanh tay giữ chắc lấy bác.
Trong tích tắc, bác chủ nhiệm tựa hồ trở thành bức tượng một danh nhân giữa quảng trường đầy bóng chim câu. Tới gần nửa lớp đang thi nhau đu lên người bác, reo hò ồn ã, hơn trăm ngón tay thò vào tất cả bốn chiếc túi trên cái áo đại cán của bác. Bức tượng nặng nề chuyển động như một cánh quạt khổng lồ bắt đầu quay. Người này trước khi vào cách mạng chắc chắn làm nghề khuân vác đầu bờ cuối bến. Cô Lý nghĩ thầm. Bác chủ nhiệm kể cho bọn trẻ nghe một câu truyện, bảo là của Andersen, về cá lớn nuốt cá bé. Cô Lý chưa bao giờ nghe nói tới, cho rằng bác ta hoàn toàn bịa đặt.
Bác chủ nhiệm lại trèo lên tầng hai, phá hỏng trật tự giáo dục ở trên đó. Trần nhà bỗng rần rần rung chuyển với vô vàn tiếng bước chân. Đủ để hình dung đại loạn đang nổ ra. Ước sao về già mình vẫn có một trái tim thơ trẻ như thế. Cô Lý khoan khoái ngồi xuống một chiếc ghế con của lũ trẻ, khẽ thổi những vụn trà nổi trên mặt nước, uống một ngụm thật đã. Ngụm nước trà còn ở lưng chừng chưa về đến bụng, gương mặt bỗng trầm hẳn xuống, cô bật dựng dậy như gai chọc phải mông, phóng luôn vào phòng ngủ. Từ phòng ngủ ra, cô lại phóng tiếp vào toa-lét. Lũ trẻ nhìn theo hoa cả mắt. Cô Lý ở trong toa-lét khá lâu, lúc trở ra trông như vừa bị ăn một gậy đánh lén, người không còn tỉnh táo lắm nhưng vẫn cố gắng duy trì diện mạo đường hoàng.
Cô từ từ vừa nói vừa như hỏi cả lớp: Phương Thương Thương…
Nửa câu tiếp theo, cô Lý không kiềm chế được nữa, tiếng hét thoát ra tự đáy lòng:… lại biến đi đâu rồi?
Chương Ba
Gió bên ngoài kéo đến ầm ầm như đội kỵ binh, rồi ào ào cuốn đi, kéo đến đâu quét sạch đến đó. Phương Thương Thương kinh ngạc nhận thấy bên ngoài toa-lét là một khoảng sân lát gạch vuông, có trồng một hàng cây tùng còn bé. Chẳng hề có khoảnh vườn trồng cải bắp nào cả. Dãy tập thể nhà mình cũng không ở chỗ cũ, mà hiện ra rõ mồn một phía sau mấy dãy nhà. Cậu dấn bước như đang đẩy cả một bức tường dày, hai tay nắm chặt, đỉnh đầu và hai vai căng thẳng nhọc nhằn. Bông trên người mỏng dần đi, nhiệt độ cơ thể tản mát rất nhanh. Đến trước cổng dãy nhà mình, gió bỗng hú lên thật lớn, Phương Thương Thương như bước chân xuống biển, trước mắt một con sóng khổng lồ bỗng ập đến, đổ ụp lên người cậu. Khuôn mặt lập tức đỏ bừng, sặc ho liên hồi, phế quản đột ngột đông cứng như một đoạn băng đá, xuyên vào tận tim.
Rẽ qua chỗ ngoặt, gió nhẹ bớt, ánh mặt trời như ấm thêm một chút. Cảnh tượng thật quen thuộc: sân vận động rộng mênh mông, sạch không bóng người; từng dãy nhà tầng cửa đóng im ỉm, gió quét sạch mọi dấu vết hoạt động của con người; chỉ có những cây liễu vật vã tứ tung như đang đón chờ một tai họa sắp đến, khiến khung cảnh vốn tĩnh lặng bỗng đầy biến động.
Áo bông của Phương Thương Thương dính một lớp màu gạch đỏ. Cậu gần như bị những cánh cửa đang đóng mở ầm ầm điên dại hất tọt vào bên trong.
Bước lên mỗi bậc thang, Phương Thương Thương đều phải nhấc chân thật cao. Cậu tập trung toàn lực chú ý vào hai đầu gối của mình, dùng tay hỗ trợ, giúp chúng hết co lại duỗi để trèo lên bốn tầng lầu.
Lên mỗi tầng cậu đều phải vượt qua ba lần cửa một cánh sơn màu của chùa chiền. Ở cầu thang này, mỗi hành lang có tới mười hai cánh cửa giống nhau. Phương Thương Thương dùng trực giác chọn một cái, gõ liên hồi.
Cánh cửa có vẻ mặt của kẻ lâu ngày không gặp lại người quen, một thứ mùi cũ kĩ len lỏi qua khe cửa và lỗ khóa ra ngoài, lay động bao nhiêu kí ức.
Cửa mở, một cô gái trẻ tóc tết bím trông thấy Phương Thương Thương liền kinh ngạc reo lên. Phương Thương Thương cắm đầu đi thẳng vào nhà, trông thấy một bà già lạ mặt đang khoanh chân ngồi trên giường với Phương Siêu, bà già cũng dành cho cậu một vẻ mặt hết sức kinh ngạc. Phương Siêu chui vào lòng bà lão, tròn mắt nhìn em mình như không hề quen biết. Phương Thương Thương leo lên giường, bàn tay rất mềm của bà lão chạm vào khuôn mặt lạnh cứng của Phương Thương Thương, bất giác khẽ run rẩy.
Đây chính là căn phòng lớn đằng sau cái ban công màu đỏ gạch ấy. Ánh nắng soi rọi khắp phòng, hắt cả lên trần nhà. Không khí tung bay vô vàn hạt bụi giống như đang có tuyết, nụ cười trên khuôn mặt mọi người thật rạng rỡ, những sợi lông măng được chiếu rõ mồn một khiến mặt ai nấy đều viền lông lá giống mặt khỉ. Lò sưởi trong nhà nóng như thiêu, mọi người chỉ mặc một chiếc áo len mỏng. Phương Thương Thương như quả hồng đóng băng với một lớp sương bám trên mặt đang bắt đầu tan ra, những giọt nước mũi tí tách nhỏ xuống. Bà lão và cô gái dùng khăn tay vắt mũi cậu, nhưng hai lỗ mũi vẫn trái một hàng, phải một hàng, như đang vẽ ria mèo.
Phương Thương Thương rất hiếu động, ngọ nguậy không ngừng. Cậu ngửi thấy mùi mồ hôi đầu của mình trên khăn trải gối, phát hiện ra cả mùi chân mình lẫn trong chăn đệm; trong cái tủ năm ngăn là những bộ quần áo của cậu đã giặt sạch sẽ xếp ngay ngắn; trên mặt chiếc bàn ba hộc đang để ảnh của mình; hộp sáp màu kia là tài sản của cậu; những hình vẽ nguệch ngoạc trong cuốn vở bìa vàng kia chính là tinh hoa sáng tác của cậu. Không cần lôi ngăn kéo ra cậu cũng có thể nói chính xác trong đó đựng những đồ vật yêu quý nào; dưới gầm bàn nào là kiếm đã tróc màu nhựa, súng không kêu, xe ôtô rụng bánh còn đầy vết tay cầm của cậu, cậu từng giương cao chúng, từng xung phong, từng chiến đấu, mới khiến chúng hỏng đi, cũ đi. Cô gái trẻ cười chúm chím, đem ra một hộp bánh quy hiệu gà vàng. Cái đó cũng rất quen thuộc, nhưng toàn bị giấu đi đằng nào chẳng biết, và mỗi lần hiện ra đều như có phép lạ. Hộp bánh quy đó chưa bao giờ phụ lòng cậu. Mỗi khi thò tay vào đều có thể tìm thấy những chiếc bánh trứng gà vàng rượi, hoặc các loại bánh quy hình con vật, đủ kiểu. Tuyệt vời nhất là những
vụn bánh ngọt nằm dưới đáy hộp. Cậu và anh trai đã vô số lần ngửa cổ thay phiên nhau dốc hộp bánh đổ vào mồm, như hai con vịt giống tự cho mình ăn. Cậu còn biết bật chiếc máy thu thanh hình bánh mì kia, biết xoay núm cho chiếc kim chuyển động trên mặt số hình tròn để tìm người hát. Cậu biết dưới gầm chiếc giường đơn kê sát tường kia có hai cái rương bằng mây rất to, còn dưới cái giường lớn mình đang ngồi lên này cũng có ba chiếc va li bằng da. Những chiếc rương, hòm đều bám dày bụi bặm, lần nào bò vào đây cũng bị dính khắp mình. Đó là hang ổ của cậu. Mỗi con thỏ, con cáo đều phải có hang ổ riêng. Cậu đang hớn hở như con gấu nhỏ được trở về khu rừng của mình. Cậu muốn ở đây, chứ không phải ở vườn trẻ, nơi gió lúc nào cũng vi vút lùa qua căn phòng, lúc nào cũng có cả đám nằm ngửa, rồi dậy, rồi đi lại không thôi, một cái vườn thú, đủ rộng để làm phòng đợi cho ga tàu hỏa của một thành phố nhỏ.
Phương Thương Thương ấp úng gọi bà lão là bà ngoại, cậu hiểu đó là một thứ quan hệ ruột thịt rất gần gũi. Cô gái trẻ kia, cậu gọi là dì út, tức là em gái út của mẹ mình. Cậu hiểu được ý nghĩa của từ em gái. Cậu tiếp xúc với hai người phụ nữ này vô cùng vui vẻ, cậu hơi có tí làm càn, mắt lom lom nhìn Phương Siêu, tranh giành tất cả mọi thứ của anh. Phương Siêu sờ vào súng, cậu liền cướp súng, anh cậu sờ vào kiếm, lập tức cậu giật kiếm, thậm chí anh uống thuốc cậu cũng làm ồn ào, đòi uống thuốc, ít hơn một viên cũng không được. Cậu giống như một tội phạm chiến tranh vừa được ân xá trở về, nâng niu mỗi một biểu hiện phục hồi quyền công dân của mình. Trong con mắt cậu, ông anh đã hưởng thụ một cách bất công rất nhiều thứ mà đáng lẽ cậu cũng phải được hưởng. Điều này khiến Phương Thương Thương thấy ghen tị.
Trước sự hoành hành ngang ngược của cậu, Phương Siêu đành đi ngủ. Cậu lại cưỡi cả mông lên cổ anh, kề kiếm ngang cổ người ta, quát người ta có khai hay không. Phương Siêu lật mình một cái, hất được cậu xuống. Bà ngoại đứng bên lại bênh, con để cho em cưỡi một tí nào. Dì út xách tai Phương Thương Thương lôi sang bên giường đơn.
Lúc bà ngoại đút canh trứng gà, cậu bỗng chỉ tay về phía cửa bật khóc. Cả nhà ngơ ngác, chẳng hiểu cậu lại làm sao, hỏi thì chỉ khóc không nói, một lúc đã có người gõ cửa. Từ khi cô Lý bước trong hành lang, Phương Thương Thương đã nghe thấy tiếng chân đi. Cậu ra sức tì lưng vào cửa,
kiên quyết không cho cô Lý vào. Bà ngoại sợ cháu đau cũng không dám kéo mạnh, đành nói chõ qua khe cửa với vị phó chủ nhiệm vườn trẻ cùng đến. Phó chủ nhiệm họ Trương thì nói tình nói lý, cô Lý thì hùng hồn áp đảo. Hễ cô Lý nói một câu, Phương Thương Thương đứng trong cửa lại ré lên một tiếng.
Cuối cùng, phó chủ nhiệm họ Trương và cô Lý cũng chen vào được.
Phương Thương Thương quỳ trước chiếc ghế tựa, hai tay bịt mắt, lớn tiếng gào khóc. Cái sự khóc lóc do kéo dài không nghỉ, hơn nữa lại chạy đua theo tiếng nói chuyện của người lớn, mỗi lúc một cao giọng, đã lộ ra tính chất biểu diễn, giảm sút rất nhiều không khí thương đau. Nhìn qua kẽ tay, tôi thấy cô Lý và bác Trương đều có cùng một thái độ: vừa nghiêm túc, vừa bất lực. Bà ngoại là người hiểu biết từng trải, vô cùng khéo léo, tiếp chuyện hai người từ đầu đến cuối luôn mỉm cười, giọng nói nhẹ nhàng nhưng thái độ lại rất cương quyết. Bà muốn giữ đứa cháu ở nhà ăn xong bữa tối mới đem trả vào tay các cô.
Hôm đó, Phương Thương Thương được ăn tối ở nhà. Thức ăn chẳng hề phong phú hơn so với vườn trẻ, nhưng mỗi hạt cơm, mỗi cọng rau đều thấm thía ngon lành. Phương Thương Thương như một vị tù trưởng, hoặc một tên tướng cướp, chẳng đợi cậu ra tay tranh giành, các thức ngon vật lạ đều tự động tập trung vào bát cậu, anh trai cậu phải xếp thứ nhì. Anh chàng lớn hơn cậu một tuổi tỏ ra rất phong độ, khiêm nhường như một vị hoàng tử, lại còn học theo người lớn, xúc một thìa thức ăn cho vào bát em, được cả nhà khen ngợi.
Con nhường em đấy. Anh chàng ngọt giọng.
Phương Thương Thương nói nói cười cười, tự nhiên thoải mái, hứng chí còn đứng lên ghế, biểu diễn giậm chân tại chỗ.
Đúng lúc đó, một phụ nữ trẻ tóc uốn xoăn, dùng chìa khóa mở cửa bước vào, nhìn thấy Phương Thương Thương đang là trung tâm của sự hào hứng, cô bất giác ngẩn người. Người phụ nữ lập tức to tiếng với bà ngoại cậu. Cô khiển trách bà ngoại, nói không nên lưu giữ đứa bé này ở nhà, chẳng khác gì cán bộ cấp trên phê bình cán bộ cấp dưới. Cô nhả chữ rất nhanh, thái độ
rất kích động, diễn biến tâm lý đều thể hiện rõ mồn một trên khuôn mặt: một chặp giận dữ lôi đình, một chặp lại hoảng hốt lo lắng như tai nạn sắp ập xuống, một chặp lại ai oán tuyệt vọng ta thán nghẹn ngào. Bà ngoại biện bạch mấy tiếng, giải thích vài câu, cả mắng lại mấy tiếng. Người phụ nữ kia hầm hầm đi thẳng về phòng mình, trước khi vào phòng còn chõ lại một câu:
Cho nó xuống, còn ra cái thể thống gì nữa.
Mọi người bấy giờ mới nhận ra Phương Thương Thương vẫn đứng nguyên trên ghế, đầu cúi xuống nhìn ngón chân như đang bị phạt.
Tôi để ý thấy phòng của người phụ nữ này bị khóa lại. Khi cô ta khuất sau tấm rèm cửa, một tiếng khóa lách cách vang lên, sau đó đèn trong phòng bật sáng. Ánh sáng hắt ra ngoài khiến chân ghế và nền nhà láng xi măng bỗng có thêm nhiều điểm phản quang.
Chỗ cơm trong bát Phương Thương Thương vĩnh viễn không thể ăn hết. Cậu như một con kiến, cõng dần từng hạt cơm. Cậu vun cơm thành một cái tháp nho nhỏ, thịt và rau xếp gọn, cách hẳn ra. Hoàn thành xong công trình, cậu lại đổi một kiểu khác, vùi thịt vào trong cơm, vừa ăn vừa quan sát xem đầu đuôi miếng thịt lộ dần ra khỏi đống cơm như thế nào. Chỉ vừa nghe thấy một loạt âm thanh guốc gỗ gõ dồn như trống bên tai, Phương Thương Thương đã bị người phụ nữ nhấc bổng, đặt xuống đùi mình. Chỗ cơm và thức ăn trong bát vốn ăn mãi chẳng hết, chỉ vài thìa đã bị nhét gọn vào mồm cậu. Người phụ nữ bế cậu cúi xuống thay giày, vừa quay người, cả chiếc bàn cũng trượt theo, phát ra tiếng ma sát rất lớn - hai tay Phương Thương Thương đang ra sức túm chặt lấy mép bàn. Người phụ nữ cúi xuống cậy tay cậu ra, vừa quay người, cậu lại túm được áo của bà ngoại. Bà ngoại bị cậu kéo đứng bật cả dậy. Người phụ nữ gỡ mạnh tay cậu ra, vừa gỡ được tay này, tay kia đã nhanh chóng thế chỗ. Hai bàn tay nhỏ như hai cái móc, gặp gì là móc nấy, kéo rơi cả bức ảnh lãnh tụ lồng khung kính treo trên tường, một cái đũa bắn ra như phi đao. Cả nhà náo loạn, rối tung. Giữa quang cảnh hỗn độn ấy, tôi nghe rõ mồn một tiếng của người phụ nữ đầy hằn học: Tao không tin, trị không nổi mày à, tao không tin…
Tôi giáng một tát thật mạnh vào mặt người phụ nữ, lại giáng thêm một nhát nữa, tôi nhổ tất cả thức ăn đang nhét căng trong miệng Phương
Thương Thương ra, rồi hét lên thảm thiết.
Tôi ngồi trên nền nhà, như một chí sĩ cách mạng vừa bị lôi xuống khỏi ghế tra tấn, hai chân đã gãy. Vài cánh tay người lớn đang cố xách cổ áo tôi, chỉ cần họ hơi sơ sẩy là tôi lập tức lăn ì ra đất. Phương Thương Thương lúc này cũng phải được hơn hai chục ki-lô-gam trọng lượng. Nếu tôi không hợp tác thì một phụ nữ khó lòng kéo nổi cậu ta lên. Mẹ cậu đã bỏ vào nhà vệ sinh ngồi khóc, cách chừng năm phút lại chạy ra, chỉ mặt cậu ta nói lảm nhảm:
Hôm nay mày không quay về vườn trẻ là không được… dám đánh cả mẹ nữa rồi.
Nói được nửa câu, nước mắt lại trào ra, vội quay người chạy vào nhà vệ sinh tìm khăn lau.
Bà ngoại đàm phán với tôi: Hôm nay ta về vườn trẻ, đến ngày kia là Chủ nhật nhất định sẽ đón cháu, bà nói mà cháu còn không tin à.
Dì út cũng khuyên tôi, kèm thêm đe dọa: Xem cháu làm mẹ giận đến thế kia, nếu không nghe lời là mẹ không nhận cháu nữa, có mà suốt đời phải ở trong vườn trẻ không ai đón về.
Phương Siêu cầm một chiếc khăn mặt bước tới, đỡ mặt Phương Thương Thương, lau nước mắt cho em.
Tôi chỉ vào Phương Siêu, kiện: Anh ấy còn không đi mà. Anh không đi, cháu cũng không đi.
Phương Siêu lớn tiếng đáp: Anh bị ốm.
Em cũng bị ốm.
Phương Siêu nhìn tôi soi mói, bỗng giơ tay nhằm mặt tôi tát một cái.
Phương Thương Thương và Phương Siêu đều được mặc áo bông, tay vịn vào vai người lớn để đi giày bông.
Dì út hai tay hai đứa, dắt xuống lầu. Lối đi trong hành lang rất tối, Phương Siêu vừa đi vừa thút thít. Ra đến bên ngoài, chỗ có trăng sáng, nhìn thấy được trên mặt cậu chàng lấp lánh những giọt nước mắt. Thỉnh thoảng gặp người đi trong đêm cũng không dám quay mặt nhìn.
Về đến vườn trẻ. Các bạn đang rửa đít. Nhìn thấy Phương Thương Thương trở về, vừa hồi hộp ái ngại vừa hào hứng tò mò, rất nhiều bộ mặt nhìn cậu cười. Phương Thương Thương rất đắc ý, không nói không rằng bò lên giường mình như thể Lôi Phong vừa lặng lẽ làm được một việc tốt. Đáng đời! Cậu tự nhủ, đều phải về vườn trẻ hết, không được giả vờ ốm để ở nhà, dì đã nói vậy rồi - lần sau sẽ lại bắt về đây.
Cậu vùi đầu vào chăn loạt soạt bóc lớp giấy bóng kính của viên kẹo bạc hà mang theo từ nhà, cho kẹo vào mồm xong mới thò đầu ra. Trần Bắc Yến há mồm đòi, cậu đẩy viên kẹo xuống dưới lưỡi rồi mở to mồm làm như không có gì.
Sáng hôm sau lúc tập thể dục, Phương Thương Thương tận dụng những động tác vặn mình để quay đầu tìm Phương Siêu. Cổ quay mỏi dừ vẫn chẳng thấy bóng anh đâu. Tới lúc đi bộ, cậu để ý nhìn lên ban công, một hàng quần áo mới giặt và những chậu cây cảnh lấp lánh những giọt nước, thỉnh thoảng lại rỏ giọt xuống đất - rõ ràng sớm nay đã có người ra ban công tưới cây, phơi quần áo lên dây.
Tiếp đó, cậu sững sờ nhìn thấy Phương Siêu vác súng đứng trên ban công, kê súng nhắm về phía mình, đầu súng dịch chuyển theo bước đi của cậu. Phương Siêu giơ cao súng hoan hô. Mặc dù không nghe thấy tiếng, nhưng cũng đoán được anh chàng đang kêu: bắn trúng rồi. Suốt một giờ đồng hồ, Phương Siêu thị uy vũ trang trên ban công, biểu diễn quân sự: lúc thì ôm súng sải bước, ngó trước nghiêng sau như giặc về làng, lúc lại nắm chắc súng trong tay, đứng nghiêm, mắt nhìn đăm đăm về phía xa.
Tôi hiểu mình đã trúng kế.
Bàn tay cô nuôi Lý ngửa ra, cánh tay khẽ đưa lên, từ sau một loạt hàng ghế, Phương Thương Thương đứng bật dậy như bị phù phép. Cô Lý khẽ khoát bốn ngón tay về phía mình, Phương Thương Thương phục tùng, sải bước tiến lên trước bảng.
Thẳng… Nghiêm!
Phương Thương Thương ráng sức đứng thẳng.
Ưỡn ngực, ngẩng đầu, nhìn thẳng về phía trước, hai tay đặt lên mép chỉ quần. Cô Lý sửa tư thế của Phương Thương Thương, mở hai bàn tay nhỏ của cậu ra, năm ngón khép lại đặt thẳng trên mép chỉ quần.
Làm tốt lắm. Cho thấy chẳng có gì là không học được. Bây giờ quay mặt lại trước các bạn.
Cô Lý đẩy thân hình thẳng đuỗn như cây bút của Phương Thương Thương xoay một vòng. Cả lớp đang mở căng những đôi mắt đen lay láy lớn lớn bé bé, chăm chú quan sát cậu. Tất cả đều vòng hai tay ra sau lưng, tựa như vừa đi lên đây đã có một thằng giặc lẻn vào bắt tất cả họ trói ra đằng sau ghế.
Sáng nay có tự mặc áo quần không?
Phương Thương Thương lắc đầu.
Nói! Trả lời cô nuôi phải nói thành tiếng, nghe rõ chưa?
Không ạ.
Ai mặc cho?
Cô Đường ạ.
Nói to lên!
Cô Đường ạ!
Bây giờ cô hỏi cả lớp, ai buổi sáng dậy mặc quần áo không cần cô nuôi giúp, xin mời giơ tay.
Tất cả mấy chục đứa bé đồng loạt giơ tay như đại biểu hội đồng nhân dân biểu quyết. Ai nấy đặt khuỷu tay lên mặt bàn, bàn tay bé nhỏ giơ lên. Có bạn ngồi khá xa bàn, đủ thấy lưng tương đối dài.
Hạ tay… xuống! Cô Lý kéo dài mệnh lệnh ra hơi quá mức, thiếu chút nữa thì hụt hơi. Cô dùng tay che miệng khẽ ho mấy tiếng, hai má chợt ửng lên. Lập tức, cô lại mỉm cười trước ánh mắt lo lắng của lũ trẻ, cất giọng sang sảng:
Tại sao mỗi một bạn nhỏ đều phải biết tự mặc quần áo? Bây giờ cô mời một bạn đứng dậy trả lời cô.
Đôi mắt to của cô Lý đảo một vòng, lại đảo vòng nữa, bất thần bắt sống một con ruồi ốm o cũ kĩ.
Cô chỉ một bạn gái giơ tay cao nhất, hở cả rốn: Vu Sảnh Sảnh.
Là vì mỗi bạn nhỏ đều phải biết tự mặc quần áo là vì không nên bắt người khác giúp đỡ mình là vì mọi người đều rất bận…
Vu Sảnh Sảnh lắp ba lắp bắp, nói ra một tràng “là vì” rồi ngừng bặt. Hai dòng nước mũi xanh lè sắp thò xuống quá mồm bỗng roạt một tiếng lại rút hết vào trong lỗ mũi.
Trả lời tốt lắm, biểu dương bạn Vu Sảnh Sảnh. Cô Lý cười với cả lớp, ném chết con ruồi. Từ sau lưng xuất hiện một bàn tay chọc vào Phương Thương Thương: Nghe rõ chưa hả - bạn Thương!
Bả vai Phương Thương Thương nhoi nhói.
Bây giờ cả lớp chỉ có mỗi mình Phương Thương Thương không biết tự mặc quần áo, chúng ta phải làm thế nào?
Giúp… đỡ… bạn!
Cô Lý nhìn cả lớp đạo đức sáng ngời, hài lòng vui vẻ: Ai đồng ý bước lên làm mẫu cho Phương Thương Thương?
Cô nhìn qua nhìn lại một hồi: Vu Sảnh Sảnh nhé.
Vu Sảnh Sảnh vừa đi vừa lóng ngóng cởi cúc, chưa đến chỗ Phương Thương Thương đã bắt đầu cởi áo, thoáng cái đã gần như cởi trần, hai hàm răng bắt đầu va vào nhau, hai tay vẫn tiếp tục cởi quần.
Cô Lý đứng bên nói: Quần áo trong thì không phải cởi nữa.
Vu Sảnh Sảnh lại nhặt nhạnh quần áo la liệt trên nền nhà lần lượt tròng vào người. Vừa mặc vừa giải thích từng động tác, có lúc còn ngừng hẳn lại cho Phương Thương Thương nhìn được kĩ. Cô Đường đem áo len bước lại gần, ngồi xuống chiếc ghế đặt gần lò sưởi, vừa thoăn thoắt đan, vừa liếc nhìn quang cảnh trong lớp một cách hứng thú.
Vu Sảnh Sảnh mặc quần áo xong, trên mặt đất thừa ra một cái quần len. Cô Lý vỗ tay, cúi xuống nhặt lên rồi vắt lên vai cô bé, nói: Cháu về chỗ.
Cô Lý nhấc một chiếc ghế nhỏ, ngồi xuống vị trí khán giả, nói với Phương Thương Thương đang đứng trơ trọi ở khu vực biểu diễn: Cháu làm một lần đi.
Phương Thương Thương không nhúc nhích, len lén nhìn cô Lý.
Cô Lý dựng ngược lông mày, mắt trợn tròn vo, câu nói thứ hai vừa chực phát ra, đã thấy Phương Thương Thương vội vã để tay lên cúc áo ngực.
Cậu cởi dần từng chiếc cúc nhựa to đùng, bụng ngực phơi bày, lại tiếp tục cởi cúc dây đeo quần. Lỗ cúc quá chật, đầu ngón tay cậu đỏ ửng.
Cô Đường cúi mặt đếm mũi đan, nói: Không ổn, chậm quá.
Vai Phương Thương Thương đã lộ ra, cánh tay cậu gập lại trong ống tay áo định rút lên qua lỗ nách. Chiếc áo tròng trên người khiến cậu như con chim bị trói giật khuỷu, ra sức vùng vẫy, xoay vòng vòng một chỗ. Cuối cùng, tay cũng rút được ra, dây vai của quần như hai con rắn, rơi tuột xuống khỏi vai, chiếc quần bông tự động rũ xuống một đống ở chân cậu.
Cả lớp cười ồ.
Cô Đường và cô Lý cũng lần lượt bật cười.
Áo len quả nhiên mắc lại dưới cằm. Chiếc quần bông quấn chặt dưới chân Phương Thương Thương khiến cậu tiến thoái lưỡng nan. Cậu đứng ngay giữa lớp như một quả tạ dựng đứng. Đầu dưới bọc một cái quần bông, đầu trên trùm chiếc áo len lùng bùng, mẩu giữa là thân mình nhỏ bé của cậu. Cả phòng cười râm ran, tôi bị vướng áo len suýt chết ngạt. Phương Thương Thương dùng tay đẩy cái cổ áo lên đến mũi, lộ được cái miệng ra, tôi mới hít được một hơi. Tôi đứng sau lớp áo len cảm thấy thật an toàn, bèn không nhúc nhích nữa, cứ thế đứng ngây ra.
Được một lúc.
Cô Lý lên tiếng: Vậy thì cứ bôi ra đấy, không ai giúp cả.
Tôi cũng chẳng màng, thì cứ bôi ra vậy.
Cô Lý lại gần chọc chọc tôi, phê bình này nọ. Tay cô cứng như gậy Như ý, tôi cố nén đau không kêu la gì. Cô không nhìn thấy tôi, tôi không sợ cô. Cô bê tôi sang một bên như bê thương binh, gõ vào trán tôi qua lớp áo len, nói:
Lúc nào nghĩ thông suốt thì lúc đó tiếp tục, bằng không thì đứng nguyên ở đây một ngày.
Tôi nhìn qua kẽ hở của những sợi len thấy bác chủ nhiệm đẩy cửa bước vào, bác ra sức xua tay với cô Lý đang quay lại chào đón, ý bảo rằng không được gây chú ý. Bác đứng ở cửa một lúc, nhắc nhở cô Lý nhặt áo bông lên buộc ngang qua hông tôi để tránh nhiễm lạnh, nói xong rón rén bước đi.
Trò biểu diễn thoát y vũ của cô Lý kết thúc. Mặc dù vũ công nam hơi kém hấp dẫn, không “thoát” được đến tận cùng, nhưng cô vẫn cảm thấy rất vui vẻ. Tiếp đó, cô cho cả lớp học giờ tập tô màu, giọng cô vô cùng dịu dàng, lòng cô hết sức khoan dung. Tiếng phấn vẽ loẹt xoẹt trên mặt bảng đen, cô tuyên bố mình đã vẽ xong một vầng mặt trời đỏ rực, đang tỏa sáng. Sau đó vẽ tiếp một bông hướng dương, có từng cánh hoa, hạt hướng dương, cành lá. Cô phát giấy cho cả lớp, cho mọi người bắt chước vẽ theo. Tiếng bước chân trầm, nặng của cô vang lên từ bên phải sang bên trái, như một con voi lững thững trong lớp học. Bóng của cô che khuất được cả vầng mặt trời ngoài cửa sổ. Lúc cô đi ngang qua, Phương Thương Thương vốn đang chìm trong tăm tối ba bề bốn bên vẫn cảm nhận được mọi thứ tối sầm hơn nữa.
Hảo hán bịt mặt Phương Thương Thương dựa vào tấm lò sưởi nóng ấm thiếp đi chốc lát. Cậu có một số nước tiểu muốn tè và một số phân muốn thải ra, nhưng cậu chẳng lên tiếng, cũng không vọng động, mà lặng lẽ chịu đựng như một tín đồ đang mài luyện ý chí. Cứ thế kiên tâm cho đến lúc phòng tuyến hoàn toàn thất thủ, thể xác suy sụp, tan tành.
Thời khắc đó thật là dễ chịu đến cùng cực. Như một tên gián điệp cho nổ trái bom khí độc giữa chốn đông người, khắp không gian nồng nặc hôi thối.
Một khuôn mặt bé gái áp lên mặt kính cửa sổ, dõi mắt nhìn vào trong phòng ngủ tìm kiếm. Hai tay cô choãi ra, bàn tay đỡ hai má. Nhìn từ đằng sau, cô bé như đang tìm cách khoét kính ra một lỗ tròn tròn đủ để chui đầu vào.
Cô bé hiện ra trước cửa phòng ngủ, mỗi bước chân, mỗi động tác vung tay đều hãm lại thật chậm, đặt gót xuống không phát một tiếng động, như con rối bóng[3]đi đi một vòng thì lộ diện ra phía trước. Sự cẩn thận của cô bé thực ra là thừa. Các cô nuôi đang dẫn cả đám trẻ ra ngoài sân hoạt động. Trong ngoài phòng ngủ chẳng còn ai ngăn cản cô nữa. Chẳng qua cô đang tuân theo thói quen của trẻ con trong vườn trẻ này. Bọn trẻ đã phát minh ra
bước chân đặc biệt đó. Khi muốn lén lút làm điều gì không cho cô nuôi biết, chúng đều sử dụng bước đi như vậy. Cô bé đi được vài bước, một tay một chân đang nhấc lên bỗng dừng lại giữa không trung như gặp phải mìn, cảnh giác liếc khắp xung quanh, liền đó như một cơn gió lốc cuốn về phía chúng tôi. Bước chạy của cô trở nên tự nhiên, nụ cười như chiếc quạt giấy vụt mở bừng ra.
Trần Nam Yến đang chạy đến giường em gái liền phanh gấp, quay người chín mươi độ: Sao em lại tè ra quần rồi?
Trần Bắc Yến nghe chị hỏi, nghẹn ngào thút thít, ánh mắt oán hận chiếu sang giường bên cạnh, một tên đang ngồi trong chăn với bộ mặt vô liêm sỉ, Phương Thương Thương.
Bản tính cô ta vốn đã thiếu thốn phẩm chất kiên định. Nuôi dưỡng ý chí cũng cần phải có môi trường hoàn cảnh thích hợp. Ở cạnh Phương Thương Thương cũng giống như hàng xóm có một ca sĩ hò hát suốt từ sáng đến tối, dù không học dần dần cũng biết ngân nga. Hay là như lúc bước qua đường, mình còn đấu tranh tư tưởng đang kịch liệt để quyết định có làm người tuân thủ luật giao thông hay không, người bên cạnh đã bất chấp xông bừa ra, khác nào dỡ bỏ lệnh giới nghiêm, mình không xông ra theo dường như có gì đó thiệt thòi. Ngày hôm nay cũng vậy, Trần Bắc Yến đang yên đang lành, chỉ có lúc vẽ hoa hướng dương là hơi bắt đầu phân tâm. Phương Thương Thương đứng kia thoải mái vừa phóng vừa thải rất phê, chỉ một giây sau, Trần Bắc Yến cũng chẳng kiềm chế nổi nữa. Bị Phương Thương Thương lây nhiễm sang không chỉ một mình Bắc Yến, hai đứa con gái và một thằng cu nữa cũng vượt đèn đỏ. Lúc này cả lũ đang bị lột truồng, ngồi ủ rũ trong chăn trên giường mình. Một đứa ngồi phía đông, hai đứa kia ngồi phía tây.
Ghét. Trần Nam Yến lườm Phương Thương Thương một cái, kéo chăn lên thấy hai chân trần của em, hỏi: Quần đâu?
Trần Bắc Yến vươn cổ nhìn về mấy tấm lò sưởi ở hai đầu phòng tìm kiếm, dùng tay chỉ: Kia.
Trần Nam Yến chạy đi, ôm về một chiếc quần bông đã bị hong khô cong, cứng như hai cái chân giả.
Quần và tất vẫn còn trên lò sưởi cơ. Bắc Yến nói.
Trần Nam Yến lại chạy đi lần nữa.
Trương Yến Sinh ngồi trên giường ngay gần sát lò sưởi kêu lên: Cô không cho.
Hai cô bé kia cũng quay lại nhìn Trần Nam Yến.
Trần Nam Yến hếch mặt nhìn trời, bước vòng lại trước giường cậu ta. Trương Yến Sinh hùng dũng trợn mắt nhìn rồi nói: Cô không cho tự tiện xuống khỏi giường.
Trần Nam Yến thộp luôn cổ cậu bé, lên mặt hăm dọa: Còn kêu nữa bóp chết luôn.
Tiếng của Trương Yến Sinh tắc trong cổ họng, mắt nhìn Trần Nam Yến một cách đáng thương, mặt mũi ửng đỏ.
Trần Nam Yến đắc ý quay về.
Trương Yến Sinh khóc thút thít nói với theo: Em mách anh trai em đánh chết.
Trần Nam Yến chẳng thèm quay mặt: Anh mày đánh không lại chị.
Trần Nam Yến đỡ em gái đứng dậy, tay banh rộng quần cho em nhìn rõ để xỏ chân, cứ thế từng lớp quần áo được mặc lên. Giậm mấy cái, bàn chân thòi hẳn ra ngoài. Tiếp đó, cô lại bảo em nằm ra, giơ chân lên, rồi thọc cả cánh tay vào trong kéo lớp quần bông xuống, xắn gấu quần lên đi tất vào cho em.
Đi tất xong, cô lôi sợi chun buộc lỏng trên tóc em gái xuống, chải đầu cho em lần nữa. Chỉ thấy cô một tay vén tóc, một tay vòng dây chun, thoắt một cái đã được một cái bím tóc. Buộc xong hai bím, cô nâng cằm em gái lên, cười lim dim, ngắm nghía.
Cô bồng em xuống khỏi giường, một tay dắt, một tay chỉ hết lượt khắp xung quanh: Bọn nhóc, ai tâu với cô nuôi sẽ lằn năm dấu ngón tay lên má.
Trần Nam Yến uy nghi chuẩn bị bước ra khỏi phòng.
Em sẽ mách cô. Phương Thương Thương ngồi bên lên tiếng, thò cả mặt ra: Chị đánh đi xem.
Trần Nam Yến chỉ cười một tiếng, chẳng đếm xỉa tới cậu.
Cô ơi! Phương Thương Thương lớn giọng gọi, thoắt một cái đứng dậy trên giường, mông đít trần trụi. Miệng cười hì hì nhìn Trần Nam Yến.
Trần Bắc Yến trợn mắt giận dữ: Mặc kệ nó, chơi hèn.
Trần Nam Yến kéo em gái đi tới bên giường cậu. Phương Thương Thương bịt đầu chờ đợi. Trần Nam Yến không hề động vào cậu, chỉ nhìn chằm chằm một cách hiếu kì vào con gà giống của cậu rồi nói: Em xuống đây.
Phương Thương Thương nhảy thịch một phát xuống đất: Xuống rồi đây.
Trần Nam Yến chạy đến chỗ ghế tựa của cô Lý, mắm môi mắm lợi kéo nó đến dưới cửa sổ: Em dám đến đây không?
Phương Thương Thương khuỳnh khoàng bước tới: Đến rồi đấy, thì sao? Em dám trèo lên không?
Lên rồi đây.
Phương Thương Thương vừa trèo lên ghế, còn chưa kịp quay người lại, Trần Nam Yến đã trèo lên theo, hai đứa đứng trên ghế, chân chạm sát chân.
Phương Thương Thương nhìn thấy các bạn và cô nuôi đang ở ngoài sân, tính chuyện rút lui nhưng không ngờ vừa mới đứng thẳng lên đã bị Trần Nam Yến quỳ xuống ôm chân đẩy luôn lên bệ cửa sổ.
Bệ cửa sổ rất hẹp, chỉ vừa nửa bàn chân, Phương Thương Thương đành đứng áp chặt vào mặt kính, không cả quay lại được. Bồng người ta xuống - cậu ú ớ kêu.
Trần Nam Yến đã nhảy xuống khỏi ghế từ bao giờ, vội vã kéo chiếc ghế trở về vị trí cũ. Hai chị em đứng một bên cười khúc khích, vỗ tay lêu lêu: Thằng ngốc xuống không được rồi. Thằng ngốc lên cao nhìn xa trông rộng rồi…
Hai chị em cười được một lúc, tiếng bước chân vang lên, chẳng nghe thấy gì nữa.
Này, này… Phương Thương Thương gọi những người khác trong phòng. Trương Yến Sinh và hai cô bé kia bước lại, ngửa cổ nhìn cậu chẳng nói chẳng rằng, chỉ tập trung chăm chú mút ngón tay.
Không xuống được nữa rồi. Phương Thương Thương tố cáo, giọng nghẹn ngào. Hai tay cậu dang rộng, áp vào lớp kính. Trong bóng chiều, một chữ “Thái”[4]đậm đà in hình lên mặt kính.
Tôi dán mình trên kính như một hình thủ công khổng lồ, sống động và chân thực tới mức buồn nôn. Phía ngoài cửa sổ đã tụ lại được một đám trẻ con đang mút ngón tay nhìn tôi. Tôi còn thấy rất nhiều bạn dừng cuộc chơi của mình, từ xa kéo nhau chạy đến. Cô Lý đang quay lưng về phía tôi, nói chuyện với người khác. Cô cũng sắp sửa quay đầu lại mất rồi - cô nuôi lớp nhỡ đứng đối diện tôi đã trông thấy trước, kinh ngạc nhướn lông mày, đôi môi mấp máy càng nhanh hơn. Tôi hoàn toàn lực bất tòng tâm, đành giương mắt lên nhìn mọi việc cứ thế diễn ra: Cô Lý giận méo cả mặt, sải từng bước dài về phía tôi, hai tay vung vẩy loạn xạ, mồm ngoác ra như có thể nhét được cả nắm tay của cô vào trong đó.
Cửa kính cách âm quá tốt đã ngăn trở cuộc trao đổi giao lưu giữa chúng tôi. Tiếng gầm giận dữ của cô chỉ giống như muỗi vo ve, tôi cảm thấy như mình đang chọc giận một người câm. Nhìn thấy người tàn tật giận dữ đến thế, tôi vô cùng hối lỗi. Tôi không hiểu, cũng không thể giải thích cho cô tình cảnh của mình, chẳng có ai lại muốn áp cái bụng trắng hếu của mình lên mặt kính, bò đi bò lại như loài động vật lưỡng cư trong công viên thủy sinh. Tôi hướng về phía cô cười ngượng nghịu, nhưng chắc chắn cô sẽ coi đó là sự xem thường và khiêu khích công khai. Có lúc tôi tuyệt vọng và tính chuyện trèo lên cao nữa để bám được vào song cửa phía trên. Cô đứng bên ngoài đập mạnh vào kính, tựa như muốn rung cho tôi rơi xuống. Tôi chưa bao giờ nhìn một người ở cự li gần đến vậy, lớp kính còn có chút tính chất phóng to, lớp rêu lưỡi của cô khá dày, vài cái răng hàm, bên trên môi là một hàng ria mép lờ mờ. Bỗng cô biến mất.
Đến giờ tôi cũng không biết đã xoay mình trên cái bệ cửa sổ hẹp đó như thế nào. Có thể là nỗi sợ cô Lý đã giúp tôi khắc phục được khó khăn, phát huy vượt mức. Tôi chỉ nghĩ làm sao rời khỏi đó trước khi cô bước vào. Việc đó là một sai lầm. Khôn khéo hơn một chút thì phải đứng nguyên hương nguyên vị ở trên đó, đợi xa giá cô Lý đến nơi sẽ nhận ra ngay: lỗi không phải tôi, cũng không thể là tôi.
Trương Yến Sinh và hai cô bé đứng kia lại ra sức cổ vũ, giậm chân kêu gọi: Nhảy đi! Nhảy đi!
Tôi dùng mắt ước lượng một cách đơn giản khoảng cách đến chỗ chiếc giường gần nhất, tung mình lao xuống, suýt nữa thì trượt. May mà bản thân vốn cũng rất có sức bật, lại mang tâm trạng liều mình chó cùng dứt dậu. Một cục phân rơi bịch văng xuống giường, để lại một vết nhoe nhoét, cẳng chân đập mạnh xuống thành giường, cơn đau dội ngược lên khiến đầu óc choáng váng. Tôi bật khóc một tiếng, lập tức ý thức được chưa phải lúc, nén đau loạng choạng tụt xuống, tập tà tập tễnh chạy về giường mình. Một chiến sĩ nhỏ bé mang cái chân bị thương thì chạy được bao xa. Sắp sửa đến được giường, một bàn tay to lớn đè nghiến tôi xuống nền nhà, hoảng hồn quay lại - cô Lý. Cô cũng hơi quá tay, chỉ là tóm một đứa bé mà vặn tay khóa trái ra sau lưng như bắt trộm.
Hoạt động thẩm vấn hoàn toàn là bức cung. Người tra người khai đều có phần kích động, người làm chứng hoàn toàn là ngụy chứng. Tôi chặp khóc chặp nói, toàn thân run rẩy. Ráng sức giải thích biện hộ cho mình, nhưng chỉ nói ra được có ba chữ: cháu không làm. Thậm chí tôi không nhắc tới Trần Nam Yến lấy nửa lời, làm như giữa cô và vụ án này căn bản chẳng hề liên quan. Một bên là đùa chơi, một đằng là gây chuyện, rõ ràng chẳng có chút tư duy lô-gíc nào hết. Những gì Trương Yến Sinh và những kẻ có mặt nhìn thấy cũng chỉ là những sự việc đơn lẻ, chỉ biết mô tả lại một số hình ảnh để lại ấn tượng sâu sắc đối với bọn họ. Chẳng hạn tôi bám lên bức kính giống con thạch sùng làm sao. Càng phiền phức hơn là, một khi trong kí ức của những chuyên gia cung cấp ngụy chứng kia xuất hiện các khoảng trắng, họ bèn hư cấu. Một đứa mào đầu, những đứa khác tô hoa vẽ lá, càng kể càng lung tung, cuối cùng biến sự việc thành một câu chuyện hoang đường. Nếu tin lời bọn họ, tôi chính là thần tiên.
Nhà duy vật biện chứng triệt để họ Lý lúc này cũng cảm thấy thế giới quan của mình đang bị thách thức. Cô dang hai tay ra khẩn thiết đề nghị: dừng lại, dừng lại. Không ai được nói nữa. Một phút, để cho tôi sắp xếp các suy nghĩ.
Tức là, cháu đã bay lên từ cái ghế này, bay một mạch rồi đáp lên bệ cửa sổ - không xuống được nữa? Cô Đường phục hồi lý trí sớm hơn cả. Cô đếm số bước từ vị trí ghế của cô Lý đặt ở cửa phòng ngủ ra đến cửa sổ, vừa đi vừa đặt câu hỏi. Đến đúng cửa sổ, cô dừng lại: Mười bước.
Có phải thế không? Cô Đường nghiêng đầu hỏi tôi.
Phải ạ.
Phải không? Cô Đường lớn tiếng hỏi những người khác.
Phải ạ.
Phải không? Cô Đường, cô Lý đồng thanh hỏi cả lớp.
Phải ạ! Sự khẳng định của chúng tôi không phải là khẳng định cái sự bay lên, mà khẳng định cái chữ cô nuôi vừa nói ra đó, chính là “Phải.”
Cô Đường bước tới trước cái ghế, quay lại nhìn tôi: Cháu bay lại xem nào.
Cô Lý xách Trần Nam Yến từ tầng hai xuống đối chất. Trần Nam Yến vừa bước vào phòng, chưa nói gì đã khóc, Trần Bắc Yến bị giải đến cùng lúc, cũng đang khóc lóc sụt sùi. Phương Thương Thương vốn đã khô nước mắt, lòng dạ âu sầu, trông thấy vậy lại cũng bắt đầu giọt ngắn giọt dài. Bọn họ như can phạm gặp nhau chốn công đường, ngoài mặt rầu rĩ nhỏ lệ, bên trong ngấm ngầm hỗ trợ bảo vệ nhau. Thậm chí Phương Thương Thương cảm thấy hơi thích thú cảnh tượng này, “đồng bệnh tương lân, đồng nạn tương cầu” khiến cho mối quan hệ giữa cậu và chị em nhà họ Trần thêm phần gần gũi. Nhất thời cậu quên bẵng thân phận khổ chủ của mình, chỉ ước ao mình được cùng “tình cảnh” với người ta.
Phương Thương Thương bắt chước Trần Nam Yến một cách gần như vô thức, từ bắt chước tư thế động tác thành ra lặp lại lời cô như một cái máy. Trần Nam Yến nói “phải”, cậu cũng nói “phải”. Khi tường thuật lại sự việc khách quan, mọi người không phát hiện ra điều đó mà chỉ thấy sự việc trở nên hiển nhiên rõ ràng. Đoạn sau bắt đầu liên quan đến khá nhiều hành vi cá nhân, cô Lý phát hiện ra Phương Thương Thương lẫn lộn lung tung giữa các ngôi xưng hô, đáng lẽ phải dùng ngôi thứ ba Phương Thương Thương vẫn dùng ngôi thứ nhất. Chẳng hạn: Trần Nam Yến nói: “Cháu bóp cổ bạn ấy.” “Cháu kéo ghế ra.” Phương Thương Thương cũng nói: “Cháu bóp cổ bạn ấy”. “Cháu kéo ghế ra.”
Cậu nói như thế, vô hình trung đang giải thoát cho Trần Nam Yến, chỉ vì say mê sự phát âm “cháu” của Trần Nam Yến và cả ý nghĩa bản thân hàm chứa trong từ vựng đó. Dường như từ “cháu” ở đây có số nhiều, giống như “đảng viên”, “đồng chí”, hoặc “nhân dân”, có thể chứa hai người.
Nếu cô nuôi dùng tên Trần Nam Yến thay cho đại từ nhân xưng để hỏi cậu: “Có phải Trần Nam Yến kéo ghế ra không?” thì cậu có thể hiểu ra cần trả lời: “Phải ạ.” Nhưng nếu lại dùng đại từ xưng hô để đặt câu hỏi nhấn mạnh: “Rốt cuộc là ai đã kéo ghế? Bạn ấy hay là cháu?” thì cậu lại mơ hồ: “Cháu ạ.”
Về sau nữa, sự hỗn loạn về nhân xưng của Phương Thương Thương thành ra lấy ngôi thứ ba để chỉ mình: “Bạn ấy tự đi đến đấy.” “Bạn ấy không mặc quần.” Vân vân.
Cô Đường phát hiện ra mối liên hệ không bình thường giữa Phương Thương Thương với Trần Nam Yến. Một động tác vén tóc đặc trưng ở nữ giới của Phương Thương Thương đã khiến cô chú ý. Tiếp đó, cô phát hiện ra Phương Thương Thương có tư thế đứng và động tác y hệt Trần Nam Yến. Số lượng giọt nước mắt trên mặt hai đứa cho đến tốc độ rơi lệ hay tần số hít nước mũi của hai đứa giống nhau đến kinh ngạc. Đứa này không khác gì phiên bản của đứa kia. Cô Đường khắp mình bỗng nổi gai ốc. Lập tức cô đồng ý với nhận định của cô Lý, chằng bé này tinh thần không được lành mạnh lắm.
Cô đứng chen vào giữa hai đứa bé, che khuất Trần Nam Yến, nghiêm giọng nói với Phương Thương Thương:
Phương Thương Thương, cháu phải có thái độ nghiêm túc.
Tôi bắt chước giọng Trần Nam Yến, nói khẽ khàng: Cháu sai rồi, lần sau xin sửa.
Trong khi việc này tiếp diễn, còn nảy sinh một trận náo loạn. Dùng lời của cô nuôi nói, đó là một sự hiểu lầm. Tam đường hội thẩm tra xét còn chưa xong, trời đã bắt đầu ngả tối. Đến giờ ăn cơm, cô Lý đi lấy cơm cho mọi người, để cô Đường ở lại công đường kết án. Cô lần lượt phê bình nghiêm khắc những đứa trẻ liên quan vụ án. Nhận lỗi xong thì đi ăn cơm. Trương Yến Sinh và mấy đứa con gái kia được thả trước, tiếp đó là chị em Nam Yến Bắc Yến lần lượt được giải thoát. Cuối cùng, còn lại một mình Phương Thương Thương. Cô Đường đang chuẩn bị nói chuyện với cậu một cách dịu dàng, kiên nhẫn chỉ bảo, để làm rõ căn nguyên những suy nghĩ của cậu. Cứ thế này là không được, cậu đang sắp trở thành vua rắc rối ở đây. Nếu cứ vậy thì không biết về sau sẽ thành một yêu ma quỷ quái thế nào. Trước khi trao đổi, cô Đường vội vã vào nhà vệ sinh thay đồ, mới quay lại đến phòng chơi thì vừa vặn gặp phó chủ nhiệm Trương đang gọi cô Lý sang
phòng làm việc của mình có điện thoại nhà gọi đến, cô Lý nhờ cô trông bọn trẻ đang ăn tối. Cô vẫn còn kịp nghĩ hay là để dành cả phần cơm cho Phương Thương Thương. Vừa mới định tìm bát, Vu Sảnh Sảnh đã đánh đổ hết canh lên ngực áo, cô phải chạy vội đến dọn dẹp. Uông Nhược Hải ngoạm mất một miếng bánh bao nhân thịt của Dương Đan, tham lam đến mức ngoạm cả vào ngón tay con người ta. Dương Đan khóc òa, cô Đường lại phải đứng ra phán xử. Quay đi quay lại một hồi, cô quên phắt Phương Thương Thương, bụng lại đói, bèn lựa một cái bánh nhân dày nhất, khoan khoái ngồi xuống chiếc ghế nhỏ, bắc chân lên, chậm rãi thưởng thức hương vị thịt lợn băm lẫn với bắp cải và tép.
Lúc đó trời đã tối, chẳng ai để ý thấy ngoài cửa sổ có một bóng người. Người đó đứng trong bóng tối, lặng lẽ quan sát thầy trò đang hoạt động trong căn phòng sáng trưng. Nhìn suốt một vòng đám trẻ đang ăn, người đó lấy làm khó hiểu, vẻ như đang muốn tìm một ai đó. Vụt bước sang phía bên cạnh, nhìn qua cửa sổ phòng ngủ vào bên trong. Không có đèn, khá tối. Khi mắt bắt đầu quen với bóng tối, người này phát hiện Phương Thương Thương đang đứng trước cửa sổ, cúi đầu ủ rũ, trên mặt còn vệt nước mắt, xem ra đang khá sợ hãi.
Người đó nổi giận, gần như đạp cửa xông vào lớp. Tất cả mọi người đang mải ăn bánh bao trong phòng, từ nhỏ đến lớn đều giật thót mình. Cô Đường lập tức đứng lên, liền sau đó đã bị người kia áp tới trước mặt hỏi dồn:
Tại sao không cho con trẻ ăn? Ai cho cô quyền được cấm nó ăn? Cô là Phát xít hay Quốc dân Đảng? Đây là nhà tù Tra Tử Động hay là ngục Bạch Công Quán[5]?
Cô Đường bị tấn công quá đột ngột, miếng bánh bao nghẹn cứng cổ họng ú ớ không nên lời. Miệng càng cố nhai cho nhanh, hai mắt lại cứ nhìn trân trân vào người đối diện. Người kia cho rằng cô thật trơ trẽn, triệt để nổi khùng, gầm lên một tiếng rung chuyển tòa nhà, bộ dạng chuẩn bị giáng một bạt tai nếu cô Đường còn không chịu mở miệng.
Đúng lúc cam go, cô Lý và phó chủ nhiệm Trương kịp tới nơi, khuyên giải cha của Phương Thương Thương. Hai người luôn miệng xin lỗi đồng chí Phương Tế Thành. Cả hai đều là chỗ quen biết với đồng chí sĩ quan tham mưu. Chồng cô Lý và ông đều chuyển từ tổng hiệu cán bộ quân sự cao cấp Nam Kinh đến. Ở Nam Kinh cùng một phòng nghiên cứu, bây giờ cũng cùng đơn vị. Phó chủ nhiệm Trương ở cùng cầu thang với nhà họ Phương. Nhà họ Phương tầng bốn, họ Trương ở tầng ba. Chồng cô cũng thuộc “Dã hai”[6], đã từng làm thư ký cho chỉ huy giống bố Phương, nhưng thời điểm khác nhau. Lúc này hai người đang phê bình cô Đường. Phó chủ nhiệm Trương hối hả sải bước vào phòng dắt Phương Thương Thương ra. Cô Đường cay đắng nuốt trôi miếng bánh bao cuối cùng trong mồm, nhưng giải phóng được cái miệng cũng chẳng còn cơ hội biện bạch, hai hàng nước mắt lặng lẽ lăn xuống khuôn mặt đỏ bừng. Giận nhất là bà Lý, cứ thế trợn đôi mắt sáng rực lên trách mắng cô, làm như chỉ một mình cô phải chịu trách nhiệm. Người này không chơi được. Cô Đường tự nhủ.
Phương Thương Thương đứng một mình trong phòng ngủ vốn đã rất căng thẳng. Cậu không hề nhận ra, cũng chẳng nghĩ ra người đứng ngoài cửa sổ kia lại là bố cậu, vừa đi đánh Ấn Độ về. Ngoài sân tối om vắng vẻ bỗng dưng hiện ra một người to lớn, Phương Thương Thương nghĩ ngay đến con ma bọn trẻ vẫn hay kể cho nhau. Phòng ngoài bỗng rung lên với tiếng gầm dữ tợn càng phù hợp với khung cảnh ma quỷ xông vào ăn thịt người mà Phương Thương Thương hình dung ra.
Phó chủ nhiệm Trương dắt cậu ra xong, chỉ thấy một chiến sĩ quân giải phóng cao lớn đang đại náo lớp học, cảnh tượng có vẻ không đáng sợ như vẫn nghĩ. Nhưng cô Đường đang đầm đìa nước mắt cũng đủ khiến Phương Thương Thương hồn xiêu phách lạc. Đến cô nuôi còn bị như thế thì mạng sống mình có giữ nổi không? Mặc cho mọi người ra sức bảo ban kêu gọi, Phương Thương Thương vẫn không dám nhìn thẳng vào ông giải phóng, mặt gằm xuống sắp chạm vào rốn, tóc sau ót dựng đứng từng hàng như bàn chải, lộ cả lớp da trắng xanh. Ông giải phóng sờ sờ bàn chải, một cơn rùng mình kinh hoảng chạy tuốt dọc sống lưng xuống tận xương cụt của Phương Thương Thương. Cậu bỗng nghe thấy từ “bố”, căng thẳng tột độ khiến khả năng tư duy của cậu tê liệt hoàn toàn, nghe xa lạ như tiếng nước ngoài.
Không hiểu từ đó nghĩa là gì, cũng chẳng hiểu nó liên quan đến mình như thế nào. Phó chủ nhiệm Trương ấn vào tay Phương Thương Thương một cái bánh bao mới khiến cậu phần nào bình tĩnh trở lại, nhận ra đó là thứ dùng để ăn, bèn cắn một miếng.
Ăn hết cái bánh bao thứ hai, cậu sực nhớ đến “bố”, tay cầm cái bánh thứ ba, vụt đứng dậy. Ông giải phóng đã đi khỏi. Các bạn cũng đang lục tục rời bàn, vào phòng trong chuẩn bị đi ngủ. Ngoài phòng chơi thoắt chốc đã vắng vẻ như rạp hát hạ màn. Căn phòng rộng mênh mông chỉ còn lại Phương Thương Thương và cô Đường đang tủi thân lặng lẽ lau nước mắt bên cửa sổ. Phương Thương Thương bỗng cảm thấy lúc này mình với người phụ nữ vốn rất xa cách kia lại có nhiều điểm tương đồng, đều đang nghĩ về cùng một sự việc. Cậu vẫn chưa hiểu điều đó rất giống lúc lạc đường, bỗng nảy sinh sự thương xót chính bản thân. Cảm giác không hài lòng nhưng lại cũng khá dễ chịu. Có lẽ phải gọi đó là thương cảm.
Chương Bốn
Mùa hè đến. Buổi trưa thường sấm chớp đì đùng, mưa sầm sập sầm sập. Ngủ trưa trong tiếng mưa thực là mười phần dễ chịu, giấc ngủ rất sâu, rất say, đến giờ dậy không sao mở mắt ra được.
Bọn trẻ mặc quần cộc xẻ đũng, đùi cẳng tênh hênh suốt mùa hè, đầu cổ bôi đầy bột chống chấy, trông như những mầm cây con con mới được khử nấm. Cả bọn đều cao thêm nửa cái đầu, có vẻ như biết cách “hợp tác” với người lớn hơn trước. Cách nói năng diễn đạt cũng thấy ngôn ngữ tự nhiên hơn, tính người nhiều hơn, ngoài ngôn từ thường ngày bắt đầu xuất hiện thêm những từ ngữ cách mạng như “Mao Chủ Tịch”, “Thiên An Môn”, “Giai cấp vô sản”, “Muôn muôn năm”, v.v… Mùa thu này, bọn trẻ sẽ được lên lớp nhỡ.
Tính kỉ luật và khả năng tự lập của Phương Thương Thương đều tiến bộ nhiều. Mặc dù tè vẫn lắm, nhưng chủ yếu tập trung vào buổi tối, những hôm uống nước quá độ hoặc nô đùa quá sức. Cậu lớn hơn, tỉ lệ giữa đầu và mình không còn tương đương nhau như trước, tai mắt mồm mũi cũng hài hòa hơn, trông ra dáng thanh tú sáng sủa, thường được những người qua đường cất tiếng khen. Tóc cậu hơi hoe vàng, dài quá tai, người không quen thường nhầm với con gái. Cô nuôi đã nhiều lần nói chuyện với phụ huynh, đề nghị cắt cao tóc lên, mùa hè mà để tóc dài thế chỉ tổ nuôi chấy.
Đến tuần được nghỉ hai ngày, Phương Thương Thương về nhà. Bố cậu dẫn hai anh em lượn ra cửa hàng bách hóa đường Thúy Vy, dùng kem que lừa hai đứa vào tiệm cắt tóc. Vừa nhìn thấy mấy người ăn mặc như bộ đội sinh hóa: áo choàng khẩu trang trắng muốt, người nào người nấy ra sức lạng dao huơ kéo, cắt cắt gọt gọt, bao nhiêu sĩ quan lục quân hải quân không quân đều cúi rạp vầng trán bất khuất phó mặc cho người ta xuống tay dao kéo, Phương Thương Thương giật nảy lên vì sợ. Ngửi cái mùi hắc nồng của dầu bóng, tóc vụn, xà phòng lẫn lộn, cậu thấy choáng váng, chạy vội ra ngoài nôn. Nôn ra hết cả cơm đậu luộc và dưa chuột xào trứng. Co kéo thế nào cậu cũng không chịu quay vào nữa. Phương Tế Thành giải thích thế nào
cũng không được, giữa đường phát luôn cho hai nhát, cậu con trai khóc ré lên như loa. Mấy người nhà đi theo các sĩ quan phải lên tiếng phê bình bộ đội gì mà ngược đãi con bé như thế. Phương Tế Thành giận quá, kéo Phương Siêu quày quả bỏ đi, “con bé” vừa khóc vừa chạy theo, suýt nữa lại được một số người dắt về bốt cảnh sát giao thông.
Đến lần sau phải đặt vấn đề từ trước khi đi, đồng ý với mọi yêu cầu chính đáng lẫn không chính đáng của Phương Thương Thương, nhưng vừa đến trước cửa tiệm cắt tóc, hai chân cậu đã lại mọc rễ trên bậc tam cấp. Chưa kịp đánh đã khóc hu hu, ai thấy cũng phải mủi lòng.
Phương Tế Thành nói với cô nuôi là ông đã hết cách với thằng bé này, lần nào đến tiệm cắt tóc cũng như ra pháp trường. Thôi cứ để tóc dài ra đã, không được nữa thì tết bím, chờ mẹ nó có thời gian sẽ xử lí nó sau.
Cô Đường thầm nhủ: Thì đánh đi. Ông biết trợn mắt há mồm nhe nanh múa vuốt như hổ, thế hóa ra cũng tùy người. Chỉ có con nhà mình là người, nhà khác không phải.
Người quen thân với gia đình họ như phó chủ nhiệm Trương cũng nghĩ: không phải là cắt không được, mà là không muốn cắt. Nhà này không có con gái, từ hồi ở Nam Kinh đã hay cho Phương Thương Thương ăn mặc như con gái rồi. Trước khi vào vườn trẻ, một hai tuổi đã tết tóc bím cho cậu ta rồi.
Cô Đường giận dữ: Trẻ con mà chiều quá đi. Nhà càng chẳng mấy khá giả càng chiều con hơn trứng mỏng. Cô Đường phát hiện ra điều đó như một quy luật. Trong vườn trẻ cũng không ít cháu là con em cán bộ cấp cao, nhưng chẳng một ai được coi như cục cưng. Đưa đến là giao phó hoàn toàn, không khác gì đi lính, vườn trẻ toàn quyền dạy dỗ. Những đứa dạn dày “mưa gió” như vậy sau này mới biết cương nhu tiến thoái, lên được chỗ quyền quý, cũng xuống được những đội lao cải.
“Kẹo đường” nếu không vì trình độ văn hóa thấp, viết tên mình còn hay thiếu nét, chắc chắn cô sẽ viết một tập “bài ca giáo dục”, đem trao đổi góp ý với các vị chuyên gia. Cô lập tức quyết tâm “khép lại quá khứ” thù hận, nhận cô Lý - người bị trường Cao đẳng quốc dân nữ sinh đất Phụng
Thiên[7]khai trừ - làm giáo viên văn hóa, bắt đầu từ nhận mặt các chữ Nhân, chữ Khẩu, chữ Đao, chữ Thủ, chữ Xích[8].
Dưới nắng hè, Phương Thương Thương đội một mái tóc chấm tai kiểu mũ sắt Đức, tung tăng chạy đi chạy lại. “Tóc gió thôi bay” phất pha phất phơ khiến ai nhìn cũng khen “cô bé này thật dễ thương”. Cậu ta rất lấy làm tự hào. Thỉnh thoảng lại dùng tay vén tóc ra hai bên tai, dẩu mồm thổi rèm tóc rủ trước trán, Đông Thi bắt chước Tây Thi, ra điều rất nữ tính. Làm như bàn tay cưa đục của ông thợ mộc mà vào nhạc viện thì nghiễm nhiên cũng được gảy dây đàn, Phương Thương Thương đang rất khoái chí vì được gia nhập một thế giới khác.
Trong vườn trẻ, hầu hết bé gái đều phát triển sớm hơn bé trai, tay chân khéo léo nhanh nhẹn, đầu óc sáng sủa, từ nhận mặt chữ đến học động tác múa đều nhanh hơn, nhớ kĩ hơn. Bọn họ còn chú ý vệ sinh hơn, lễ phép hơn, đối xử với xung quanh rất có nền nếp. Lũ con trai còn mải xông lên xông lên, đám con gái đã biết những trò chơi phức tạp và thú vị hơn: chơi gia đình, khám bệnh, cho bé ăn, v.v… Trong số đó lại có một vài bé phát triển sớm hơn cả, ăn nói đi lại rất đàng hoàng, tuổi đi vườn trẻ mà đã biết gương mẫu, hằng ngày biết trang phục chỉnh tề, trau chuốt lời ăn tiếng nói. Từ khả năng diễn đạt đến kinh nghiệm xã hội đều vượt trội so với lũ con trai. Các cô nuôi rất thích bọn họ, giao phó các trọng trách theo dõi báo cáo hoặc các chức vụ quản lí nho nhỏ. Phương Thương Thương còn mơ hồ về ý thức giới tính, chỉ thấy các bạn kia thật ưu tú, nổi bật giữa tập thể như các nhân vật triển vọng chốn quan trường, hay những học trò cưng của các vị giáo sư nổi tiếng ở trường đại học lớn. Cậu ngưỡng mộ, luôn ước ao đến một ngày cũng được như vậy.
Phương Thương Thương tin tưởng rằng mình đang phấn đấu vươn lên làm một đứa bé ngoan. Cậu cũng muốn được các cô chú ý, giao phó các trọng trách. Nào có ai muốn bị người khác coi thường, bà không yêu, cậu không thương - ham học hỏi lẽ nào là một tội?
Cơ thể của phái nữ có thể bắt gặp bất cứ đâu trong cuộc sống hằng ngày, bọn trẻ ở đây đều không coi đó là điều bí mật hay kỳ lạ. Trên thực tế, những
đường nét hết sức giản đơn mộc mạc của đám con gái rất dễ bị bỏ qua dưới những ánh mắt vô tư lự. Phương Thương Thương có lúc nảy ra ý định tò mò là vì bọn họ “chẳng có gì cả”, thắc mắc về chỗ đó của con gái không thể nào tự lý giải được. Của mình thì “ở chỗ sáng”, của người ta lại “ẩn chỗ tối”, tự dưng thấy mình quá thua thiệt. Ai mà chẳng là thiếu nhi của xã hội mới Trung Quốc, đều đoàn kết, tương thân tương ái, ấy vậy tại sao chỉ có bọn họ được gọn ghẽ nhẹ nhõm, không hề trở ngại đến mọi hoạt động. Nhất là đôi khi trèo qua thành giường bị va hai hột, hoặc đang đi tự dưng bị người lớn bất ngờ khều một phát vào lỗ quần, cậu càng thấy cái cụm thịt ấy của mình trở nên thừa thãi vô lý, cản trở giao thông, còn làm bản thân dễ bị bại lộ thân phận. Trong lớp chúng tôi, cậu bạn Cao Dương có “con chim” khác hẳn bình thường, căng tròn như lụt đậu, các cô nuôi phải lấy làm lạ, khi không cũng chỉ trỏ nói cười, khiến cậu ta thành ra người nổi tiếng trong vườn trẻ. Thường xuyên có mấy ông người lớn mà vô duyên, đến tham quan, bao nhiêu bàn tay cứ sờ sờ mó mò, sờ đến viêm tấy, sưng đỏ. Phương Thương Thương vô tình nhìn thấy, để lại dấu ấn nặng nề quái đản, trong lòng càng thêm chán ghét.
Về sau học lõm bõm được vài mẩu kiến thức về thuyết tiến hóa, còn chưa hiểu đầu đuôi đã tự dựng lên thành: Con gái đã tiến hóa nên không còn nữa, con trai còn chưa tiến hóa xong nên vẫn còn.
Phương Thương Thương hay tưởng tượng mình là một cô bé xinh xắn: khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, mắt đen láy cong cong, không cần phải to lắm, nhưng nhất định phải là mắt hai mí; sống mũi thật cao, mỏng như dao ăn có thể cắt được đậu phụ; còn đầu mũi tròn hay nhọn, Phương Thương Thương đã phải đắn đo khá lâu, cuối cùng quyết định không tròn cũng chẳng nhọn, mà là hếch lên; miệng là đôi môi anh đào xinh xắn, nhưng không được nhỏ quá - nếu giống anh trai Phương Siêu, lúc tranh cơm sẽ bị thiệt thòi.
Cậu còn muốn có một cái nhân trung dài bằng đoạn đầu lọc thuốc lá; một cái cổ lớn bằng chai rượu nho; đôi lúm đồng tiền đựng được giọt nước mắt, một cái rốn đẹp như cái cúc áo; mười ngón tay như mười sợi mì, một đôi chân dài như ghế bar.
Cậu không thèm cái gọi là đường cong cơ thể, mà muốn mình tròn đều chắc chắn như một đoạn ống nước, trắng bóng không gợn “tì vết”, cầm lên được đặt xuống cũng dễ, lúc không mặc gì cũng chẳng phải xấu hổ, đến đâu cũng có thể tự tin.
Ban đầu những ý nghĩ đó nảy sinh là xuất phát từ Trần Nam Yến. Về sau qua sửa đổi đã vượt hẳn nguyên mẫu. Vì bản mẫu vẫn tồn tại bên cạnh, so với đồ mẫu thì hàng nhái đã không còn giống nữa. Mặc cho tự mình cảm thấy tốt đẹp đến thế nào chăng nữa, hễ Trần Nam Yến xuất hiện là như có kính chiếu yêu, Phương Thương Thương liền cảm thấy mình bị lộ nguyên hình dạng.
Phương Thương Thương tập trung chọn lọc học hỏi tất cả những đặc điểm của các bạn gái trong vườn trẻ. Một số bạn trai cũng khá xinh, cậu dũng cảm tiếp thu những điểm đơn lẻ rời rạc ấy. Cả những điểm chẳng một ai có, cậu cũng kiên quyết trang bị cho mình, chẳng hạn như khí chất, phong thái. Cậu tự sáng tạo ra những thứ đó, dĩ nhiên là vậy.
Cậu cảm thấy cần phải kiêu hãnh.
Mình xinh xắn đến thế này, cả vườn trẻ đừng mong tìm ra người thứ hai, không được tỏ ra quá giản dị dễ gần. Mấy đứa nhỏ bọn mình còn chưa cả bắt đầu phát triển về mọi mặt, ngây thơ ngơ ngác, kém về học thức, càng không xứng đáng nói những tư tưởng với đạo đức. Chỉ một người duy nhất hội tụ mọi ưu điểm - nên không ai được gọi mình là “bình hoa di động”.
Một lần, bác chủ nhiệm bắt gặp Phương Thương Thương ngắt hoa trong vườn, tay bóp bông hồng đưa lên mũi hít lấy hít để, mắt mơ màng lúng liếng. Thấy có người để ý liền ra dáng đắm say bởi hương hoa, ngúng nguẩy bước đi. Bước chân cũng khá đặc biệt, nhấc gót thật cao, giữa đường bằng lại trông như đang bước lên cầu thang.
Bác chỉ tay theo, tự hỏi: Đứa bé này là con trai… hay con gái, trông ghê quá!
Còn có một lần, ra chơi xong, mọi người về lớp, chen nhau đi vệ sinh, cô Lý cũng khá vội. Cô cho bọn con gái vào, chặn lũ con trai lại bên ngoài,
tự mình cũng theo vào trong, chốt cả cửa lại. Vừa ngồi xuống, chợt phát hiện Phương Thương Thương đang ngồi bên cạnh, giận muốn khùng mà không tiện làm ồn ào. Phương Thương Thương làm bộ làm tịch, tè xong đứng dậy, mở toang cửa. Cô Lý gai hết người như nuốt nguyên con ruồi vào bụng, bất giác gầm gừ, tiên sư nó thằng lưu manh, tiên sư thằng lưu manh. Cô Đường nghe tiếng hỏi: Lưu gì đấy?
Cô Lý mím môi mỏng như sống dao, dáng điệu bất khuất dường như muốn bảo cô Đường có đánh chết cũng không bao giờ khai.
Bộ dạng không giống ai và thái độ cô độc tự cao của Phương Thương Thương bị cả vườn trẻ tẩy chay. Bọn con trai coi cậu là đồ quái vật, phản bội, gọi cậu là: “đồ vợ giả” - tôi cho rằng đó là lời cô nuôi qua miệng lưỡi bọn học vẹt. Thừa khi vắng cô, bọn chúng dồn cậu vào góc cầu thang, đè nghiến xuống đất.
Phương Thương Thương xinh xắn gọn gàng thường xuyên phải chịu đầu bù tóc bẩn, tả tơi hoa lá. Trong lòng cậu càng căm ghét bọn con trai thô lỗ dữ dằn, thề không bao giờ đứng cùng “hàng ngũ”. Kiêu hãnh một mình cũng chán, cậu muốn kiếm vài cung nữ, mắt dán về phía đám con gái cao cao. Dù biết mình chỉ là hàng nhái, vẫn liều lân la lại gần. Được vài ngày thì tiếp cận, ngọt ngào lên tiếng: Các bạn chơi gì đấy?
Bọn con gái đu đưa những con búp bê què chân cụt tay trong lòng, không ai nói gì, cũng chẳng ai thèm nhìn cậu.
Cho mình chơi với, mình đóng giả làm người nấu cơm cho các bạn.
Dương Đan trừng mắt với cậu trước tiên, tiếp theo từng người từng người lần lượt trừng mắt lên. Trần Bắc Yến trợn to nhất, lòng đen như lồi cả ra ngoài.
Giờ ngủ trưa, cậu bóp nghiến vào chỗ mềm nhất trên tay Trần Bắc Yến: Tại sao không cho ta chơi với?
Trần Bắc Yến đau quá khóc ré lên.
Phương Thương Thương nghiến răng nói: Từ nay về sau không cho chơi với mọi người, chỉ được chơi với ta.
Cô Đường đi tuần tra đến nơi, cậu vội vã rụt tay về, kéo chăn lên như đã ngủ.
Cậu nghe thấy cô Đường gặng hỏi Trần Bắc Yến vì sao khóc, Trần Bắc Yến không dám nói, bị cô Đường phê bình cho một trận.
Buổi chiều, Phương Thương Thương đi tới đâu, Trần Bắc Yến theo tới đó. Bọn con gái gọi, cô bé chỉ nhìn Phương Thương Thương, chân không dám đụng đậy. Dương Đan quàng cổ lôi cô đi, chỉ một chốc đã thấy cô ngoan ngoãn quay lại.
Phương Thương Thương rất khoan khoái, muốn đối đãi tử tế với cô, bèn nhổ một ít cỏ, tụm lại như một bó hoa cho cô cầm trong tay.
Cậu bảo cô ngồi lên đu quay, đẩy cho quay nhật nhanh, lùi ra một bước vẫy tay chào: Tạm biệt! Bao giờ đến nơi nhớ viết thư về.
Phương Thương Thương còn kéo Trần Bắc Yến ngồi lên xích đu, tự mình làm chàng lực sĩ đẩy bạn đu lên lưng chừng cao.
Đu dừng lại bước xuống xong, cậu hỏi người ta: Có thích không? Trần Bắc Yến không gật đầu cũng chẳng lắc đầu, Phương Thương Thương đánh cho một bạt tai, chỉ tay vào mặt: Khóc à?
Trần Bắc Yến không khóc.
Phương Thương Thương nghĩ có lẽ mình nên nhẫn nại hơn, làm cho bạn có cảm giác tham gia chơi thực sự. Cậu bèn kéo tay cô, mặt mũi hớn hở đề nghị: Mình chơi đánh trận đi.
Phương Thương Thương đóng giả bộ đội quân Bát Lộ, Trần Bắc Yến đóng vai quân chính phủ đuổi theo. Phương Thương Thương vừa chạy vừa bắn, ném lựu đạn, thực hiện đúng quy tắc quân sự: đạn sắp nổ thì nằm
xuống, khi bắn thì ẩn nấp. Trần Bắc Yến chẳng biết gì, cứ thế xông về phía trước như quân cảm tử, súng cầm trong tay cũng là súng lục, bắn không kêu. Nữ chiến sĩ thường không thạo trận mạc. Phương Thương Thương nói, bạn chơi như thế không đúng, khi chiến đấu thật bị dính đạn rất sớm. Cậu dạy cho cô mấy động tác cơ bản của bộ binh, đổ người thế nào, trườn lên như thế nào, bắt cô luyện tập tại chỗ vài lần. Tập chưa đúng quy phạm phải tập lại. Trần Bắc Yến nằm trên mặt đất khóc. Phương Thương Thương chẳng hề động lòng, lạnh lùng ra lệnh cô phải tiếp tục. Cho đến khi thực sự không thể nào dạy nổi mới gọi cô đứng lên, dặn đi dặn lại: Bắn súng phải có tiếng nổ, phải thường xuyên ngã người tránh đạn, không thì đánh trận thế nào được. Nói rồi hùng hổ chạy ra xa mấy bước, tuyên bố chiến tranh bắt đầu lại. Lần này cậu đóng vai lính Mỹ, Trần Bắc Yến đóng quân tình nguyện; cậu đi tuần tra, Trần Bắc Yến đánh mai phục.
Chiến đấu thấm mệt, Phương Thương Thương chạy đến bên đống cát, nằm thẳng đơ, nói với Trần Bắc Yến vừa đuổi đến nơi, còn chưa biết phải làm gì tiếp theo: Giả vờ là tôi bị hi sinh, giả vờ đồng chí chôn tôi xuống đất.
Trần Bắc Yến quỳ xuống đống cát, nắm cát đầu tiên rắc luôn lên mặt Phương Thương Thương.
Phương Thương Thương hoa cả mắt, vừa dụi vừa ngồi dậy, nhưng không nổi cáu mà hào hứng thay đổi kiểu chơi: Giả vờ tôi bị thương nhé, giả vờ là đồng chí cứu tôi, giả vờ đưa tôi ra bệnh viện.
Trần Bắc Yến dùng tất cả sức lực mới đỡ nổi Phương Thương Thương dậy. Cậu được Trần Bắc Yến dìu, mặt mũi hết sức đắc ý, tập tà tập tễnh đi xuyên qua khu sân, chốc chốc lại ngất đi một lúc. Trương Yến Sinh và đám con trai hò hét chế nhạo.
Phương Thương Thương nằm dưới bóng cây cho Trần Bắc Yến chữa thương, mặt trời chiếu đến đâu dịch chuyển đến đấy.
Trần Bắc Yến cho cậu thuốc uống, thuốc bôi, còn bị ép buộc dùng tay làm kim tiêm tiêm thuốc lên mông cậu.
Để cho giống thật, cậu nhặt một cái cúc áo bằng nhựa dưới gốc cây làm thuốc viên uống vào mồm, giấu ở dưới lưỡi.
Vết thương của cậu đã lành, có thể đóng giả bộ đội truy đuổi rồi. Trần Bắc Yến bực dọc kết thúc điều trị, dành cho bệnh nhân một thái độ khó chịu, không khác gì bác sĩ trạm xá của vườn trẻ.
Giả vờ là đồng chí bị thương, giả vờ tôi chữa bệnh cho đồng chí.
Phương Thương Thương nhè cái cúc ngậm trong mồm ra, nhét vào mồm Trần Bắc Yến: Giả vờ tôi cho đồng chí uống thuốc trước, sau đó tiêm, cởi quần ra.
Trần Bắc Yến nằm sấp, kê đầu lên cánh tay, lặng lẽ cởi quần.
Phương Thương Thương nhặt một khúc cành cây, bẻ ngắn đi làm kim tiêm. Miệng còn thao thao:
Giả vờ tôi đã rút thuốc vào ống tiêm, giả vờ tôi vẩy vẩy kim tiêm, giả vờ tôi… Cậu đang giơ ống tiêm lên cao, chuẩn bị chích mông Trần Bắc Yến, bỗng nghe một tiếng gầm lớn. Cô Lý đang đứng dưới một bóng cây khác:
Làm gì kia hả!
Âm thanh còn vang vang, thân hình đã phóng tới nơi, gạt bay Phương Thương Thương sang một bên, xốc Trần Bắc Yến dậy, thần tốc kéo quần cô bé lên, miệng mắng nhiếc: Ngu quá!
Phương Thương Thương đang chơi vui bỗng bị chẹn ngang, nụ cười chưa kịp tắt trên môi: Cháu làm sao ạ?
Cô Lý ngồi xổm, phủi đất cát cho Trần Bắc Yến, quay mặt sang, gầm tiếp một tiếng trong cổ họng: Cút…!
Phương Thương Thương ra khỏi đám cây, đến chỗ có nắng. Mặc dù đã gần chiều, nắng vẫn rất tràn trề, chiếu lên da bỏng rát. Khắp người cậu mồ hôi ròng ròng, áp vào tường vào cửa đều là những vết ướt rộng. Cậu đi vào
"""