"
Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRONG ÁNH LỬA THÙ
Dã sử tiểu thuyết của Uyên Thao Tủ sách Tiếng Quê Hương
Xuất bản tại Virginia Hoa Kỳ 2002 Ebook: Cuibap
Cover: db
Nguồn text: vantuyen.net
Bụi một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
NGUYỄN TRÃI
Trong lịch sử nhân loại, những cuộc tranh chấp quanh chiếc ngai vàng bao giờ cũng đẫm máu. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, chúng tôi dừng lại với thời gian đầu thế kỷ 13, thời gian diễn ra những cuộc tàn sát thảm khốc giữa các tập đoàn thù nghịch vàcũng làthời gian cận kề vói những chiến công lẫy lừng của dân tộc.
Một câu hỏi đã vang lên: Do đâu mà ông cha ta dựng được những trang sử ngời sáng ngay sau thời gian người trong một nước chém giết nhau không thương xót?
Để giải đáp, không thể quên vừng sáng chói lòa trên mái điện Diên Hông và trên lều trại của tướng sĩ Bình Than - vừng sáng bùng lên từ tấm lòng yêu nước sắt son của mọi người dân Việt. Chính tấm lòng cao quí đó đã xoá nhoà mọi dấu vết phân rẽ hận thù, xóa nhoà mọi mưu mô phe nhóm mù lòa để làm sống lại sức mạnh bất khuất hào hùng của dân tộc. Nhưng cũng chắc chắn là mọi chuyện khó thể diễn ra trong êm ả bình lặng dù ở bên các lạch suối, bờ sông của miền thượng du heo hút hay ngay dưới mái những cung điện kinh thành Thăng Long.
Vì thế, nhìn ngược về một thời đã chìm khuất, chúng tôi không thể không nghĩ tới những oan khiên mà tiên nhân phải nhận chịu trong những ngày lòng yêu nước cố vẫy vùng để không chết nghẹt giữa các xu hướng phản tranh luôn có trong tay mọi phương tiện và quyền lực.
Bằng các tình tiết hư cấu dựa trên khung cảnh lịch sử, chúng tôi mong sẽ làm được phần nào công việc gợi ý cho những suy tư cần thiết trong giai đoạn cúa chúng ta.
SÀIGÒN 1990
Hồi 1:
Mặt trời chớm khuất sau những mỏm đá xám xịt cao ngất của dẫy Hoàng Liên Sơn khi đoàn người vượt qua con dốc
AN MIÊN LỮ QUÁN
cuối cùng dẫn đến Bến Chợ. Vài tia nắng chiều hất ngược lên nền trời những vệt sáng hình dẻ quạt nhuốm đỏ các cồn mây đang dồn lại thành những khối hình kỳ dị.
Dẫn đầu là một người vạm vỡ chít khăn đầu rìu, tuổi trạc ba mươi. Vận y phục phường săn bằng vải thô màu chàm, cặp mắt hơi lộ trên khuôn mặt vuông, nước da xạm nắng, gã có vẻ ngoài của một người miền núi chất phác nóng nẩy nhưng cách điều khiển ngựa và khoé nhìn sắc bén lại ngầm chứa vẻ linh lợi của một người từng trải. Kế sau gã là hai người nhiều tuổi hơn dắt theo cặp ngựa thồ chất đầy bao giỏ trên lưng. Cách cặp ngựa thồ chừng mươi sải là một thanh niên sóng ngựasong song với một ông già.
Cả năm đều im lặng như đang lắng nghe tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường lởm chởm sỏi đá. Từng cụm bụi tung lên dưới những chiếc móng sắt pha lẫn vào màn sương chiều đang buông xuống xóa nhoà lần cảnh vật. Đoàn người vào Bến Chợ lúc đèn trước các hàng quán vừa được thắp sáng.
Bến Chợ nằm ngay phần đầu của dải bình nguyên dọc hữu ngạn sông Thao ven con lộ lớn chạy qua nhiều vùng hiểm trở từ miền Hoa Nam về ngã ba Trung Hà. Toàn khu gồm hơn batrăm nóc nhà dài khoảng ba dặm dọc hai bên lộ và một bến sông không lúc nào vắng bóng thuyền bè. Đây là trạm dừng chân bắt buộc cho người qụa lại giữa hai mé thượng lưu sông Thao và từ bắc thùy về xuôi. Đây cũng là nơi trao đổi hàng hoá quan trọng của một vùng rộng lớn bao gồm miền tây bắc biên thùy Đại Việt, miền rừng núi tây nam nhà Tống và nước Đại Lý. Muối từ các trấn Hải Đông ngược sông Đà lên và trâu ngựa từ các miền rừng núi tây bắc dồn xuống là nguồn hàng đã giúp không ít người dựng nen cơ đồ khi tới Bến Chợ. Kẻ thanh công nhất trong số những người này là chủ nhân An Miên lữ
quán.
Ông xưng họ Vạn nhưng dân cư ở đây lúc đầu thường gọi ông là Phó Gíam vì nghe nói có một thời ông từng làm xã quan, chức Phó Sử Gíam. Lâu dần, mọi người lại đổi cách xưng hô gọi ông là Vạn lão gia.
Vạn lão gia tới Bến Chợ từ mười tám năm trước, khi ông mới ngoài bốn mươi. Khởi nghiệp bằng nghề buôn trâu rồi buôn thêm ngựa, một thời gian sau, ông mở cửa hàng bán đủ loại gạo muối vải vóc và cuối cùng lập khách điếm. Buổi đầu xuất hiện, ông chỉ có ba gia nhân với mấy chiếc túi khoác trên vai. Bốn thầy trò đều không có gia đình thân quyến. ít năm sau, số gia nhân của ông tăng lên trên năm mươi người. Ba gia nhân theo ông đầu tiên đều đã có vợ con và trở thành người đứng đầu một số cơ sở của ông. Riêng Vạn lão gia đích thân trông coi An Miên lữ quán và vẫn sống một mình.
Đoàn người kìm ngựa trước hàng rào nứa bao quanh quán, dưới ngọn đèn treo nơi cổng chính. Phía dưới tấm biển ghi tên quán là một tờ cáo thị lớn dán kín trên tấm bảng thường ngày vẫn ghi các món ăn đặc biệt của lữ quán. Tờ cáo thị còn mới, chi chít chữ.
Trong lúc gã chít khăn đầu rìu và hai người kia dắt ngựa vào sân, chàng thanh niên và ông già bước tới trước tấm bảng. Tờ cáo thị là bản sao một chiếu chỉ của nhà vua vừa được ban bố. Chàng thanh niên nhìn nhanh những hàng chữ:
- Hạ qua thì thu tới, đông tàn ắt xuân sang, luật biến thiên tự nhiên là thế. Cho nên, cuộc sống đổi thay, lẽ đời chuyển hoá, các triều đại nối tiếp nhau mà cầm đầu giềng mối xãtắc.
Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, kế ngôi nhà Lý đã tròn hai mươi bảy năm.
Nay, thấy một số người, hoặc trong tôn thân nhà Lý hoặc thuộc dòng thần tử cố thểu, còn lâm thế tiến lui nan giải, phải tiếp tục cầm gươm vác gíao, gối đất nằm sương đối chọi với triều đình, kéo dài tháng ngày gian khổ, vừa hao tổn tâm lực vừa tạo cảnh bất an cho trăm họ. Trẫm rất khổ tâm vì cảnh ngộ của những người đó và hết sức đau lòng vì chưa dứt cảnh cốt nhục tương tàn.
Để thoát vòng gian khổ và đem lại an vui cho trăm họ, các người nên từ bỏ binh giáp, gấp rút trở về Thăng Long cùng Trẫm tới đền Đông cổ, đứng trước anh linh tiên liệt mở cuộc hội thể xoá bỏ hận thù, chia hưởng lộc trời, chung lo
báo quốc.
Trẫm đãlệnh cho hết thấy các lộ trấn dứt bỏ mọi ý nghĩ, hành vi phân biệt đối với tôn thân nhà Lý và thần tử cố thểu. Đất nước là của chung trăm họ chứ không phải của riêng họ Lý, họ Trần. Ngôi cửu ngũ thuộc về ai chẳng qua do thiên định nhất thời để xãtắc luôn vững giềng mối màthôi...
Trẫm đang ngóng đợi mọi người tại Thăng Long và trông mong sớm có phút giây chúng ta cùng đứng dưới mái đền Đông cổ trước sự chứng gíam của tổ tông để cùng nói lên lời thề không giữ hận thù giữacon dân trong một nước...
Chàng thanh niên vừa đọc dứt chợt nghe có người lên tiếng:
-Thật là đại phúc cho quốc gia nếu phía sau chuyện này không có mưu sâu kế hiểm nào.
Người lên tiếng là một ông già bán thuốc dạo, da mặt nhăn nheo đang đứng sát bên. Chàng thanh niên ngạc nhiên không biết lão từ đâu hiện ra và tới bên chàng lúc nào. Lão thản nhiên hỏi chàng:
-Ý quan khách rasao?
Chàng mỉm cười từ tốn:
-Không rõ đây làlời của nhà vua hay lời của Quốc Sư?
-Sao quan khách lại phân biệt như vậy? Giữa nhà vua với Quốc Sư thì có gì khác?
Chàng thanh niên cười thành tiếng:
-Khác nhau chứ! Nhà vua là nhà vua, Quốc Sư là Quốc Sư, giống nhau thế nào được!
Lão còn toan lên tiếng nhưng chàng thanh niên đã quay đi trong lúc nói với lại:
-Chuyện này chẳng liên can gì tới mấy giỏ hàng của tôi cả. Ai nói cũng thế thôi!
Chàng ra dấu cho ông giàcùng bước vào sân.
Lão bán thuốc dạo cũng xốc lại hành lý trên vai bước theo. Lão vượt lên trước hai người, bước vào đại sảnh, đi tới chiếc bàn nhỏ kê sát bên khung cửa sổ trổ ra
khu vườn bên trái, gỡ bọc hành lý, ngồi xuống.
Lúc này chàng thanh niên và ông già mới bước ngang đại sảnh. Chủ quán lật đật rời quầy hàng, chạy ra chào đón. Tuy tuổi đã cao nhưng dáng đi của ông rất nhẹ nhàng và giọng ông chắc nịch. Ông đưa chàng thanh niên và ông già tới chiếc bàn rộng kê gần quầy hàng, ông già nghiêng người nói nhỏ và mắt chủ quan loé sáng liếc nhanh về phía chàng thanh niên, ông vội vã kéo ghế mời khách ngồi rồi bước ra nhàsau.
Hai người vừa yên vị, ông đã trở lại bưng theo một khay trà. ông đứng kề bên chàng thanh niên, nghiêng người đặt khay trà xuống bàn, rồi vừa loay hoay bày mấy chiếc ly, ông vừa nói nhanh:
-Xin vương gialưu tâm. Quán bữa nay có nhiều khách lạ đáng ngờ. Chàng thanh niên thờ ơ nhìn quanh, lên tiếng:
-Đatạ Vạn lão gia, xin cứ để chúng tôi tự lo.
Chàng đón bình trà trên tay chủ quán rót vào ly. Chủ quán lui xuống nhà sau và hai người ngồi lặng lẽ.
Từ bên ngoài bỗng vang lên tiếng vó ngựa khua dồn dập. Dường như người cưỡi ngựa phóng thẳng vào sân quán, tiếp liền đó là tiếng quát thét giận dữ. Cả hai nhìn ra phía ngoài nhưng không rõ chuyện gì.
Giữa lúc đó, gả chít khăn đầu rìu bước tới ngồi xuống bên chàng thanh niên, nói nhỏ:
-Bẩm vương gia, đãchọn phòng ở cuối tả vu.
Chàng thanh niên nhíu mày gắt:
-Kiều Phúc, ta đã dặn chỉ kêu talàchủ nhân.
Kiều Phúc bối rối đưa mắt nhìn quanh, vừa kịp thấy hai người lạ đột ngột xuất hiện ngay trước cửa đại sảnh. Hai người không bước vào mà dừng giữa cửa nhìn soi mói những người đang ngồi bên trong. Cả hai đều trọng tuổi. Một người lùn mập, mặt tròn, đầu hói, râu quai nón tua tủa che gần kín hai tai. Dưới ánh đèn sáng, trán lão bóng láng, mặt hầm hầm sắc giận, cặp mắt ốc nhồi quắc lên dữ tợn. Cạnh lão là một người hơi ốm, nước da xám ngoét. Người này cao hơn bạn một cái đầu có cái nhìn lạnh lẽo tựa hồ cái nhìn của một cặp mắt giả vô hồn. Đầu y cạo nhẵn thín nhưng y lại mặc áo gấm dài tới gần đầu gối, ngang lưng nịt chiếc
khăn lụa đỏ. Bộ dạng y rất khó phân định vì pha trộn nửa tăng, nửa tục, nửa quan, nửa dân. Điểm rõ rệt nhất ở y chỉ là cái vẻ lạnh lùng vừa tàn nhẫn vừa hiểm độc. Y lặng thinh trong lúc lão lùn dựng ngược hàm râu quai nón, trợn mắt nói như gầm lên:
-Kẻ nào vừatừ phía Bắc xuống, nói ngay!
Khắp đại sảnh đều hướng về phía lão với vẻ ngạc nhiên khó chịu, không ai lên tiếng. Cả hai chậm chạp bước tới, đi ngang những bàn có người ngồi, trừng trừng ngó. Kiều Phúc nói với chàng thanh niên:
-Hai gã này từ hướng bắc tới. Vừa tới sân họ đã quát tháo tra vấn đám gia nhân trong quán về một nhóm người nào cũng mới từ hướng bắc tới.
Chàng thanh niên quay về phía ông già, hỏi:
-Đại thúc biết mấy người này không?
Ông già khẽ lắc đầu:
-Chỉ biết sơ một người, nhưng ...
Ông không nói hết câu vì hai người kia đang lừ lừ tiến về phía họ. Tới nơi, lão lùn đưa bàn tay hộ pháp chỉ thẳng vào mặt chàng thanh niên, hỏi:
-Tiểu tử từ đâu tới?
Chàng thanh niên cố giữ giọng binh tĩnh hỏi lại:
-Chẳng hay nhị vị cần hỏi điều chi?
Lão lùn gằn giọng:
-Ta hỏi mi rồi, mi từ đâu tới?
Chàng thanh niên vẫn mềm mỏng:
-Việc đó đâu có liên can tới quí vị!
Chủ quán từ nhà dưới chạy lên, đứng phía sau chàng thanh niên. Nhận ra người đang gãy chuyện, ông vội xen vào:
-Hà trại chủ có điều chi mà nổi cơn lôi đình vậy? Xin thủng thẳng nói rõ đầu đuôi coi lão có thể tiếp được gì cho trại chủ chăng.
Lão lùn trợn mắt nói như hét vào mặt chủ quán:
-Mi tiếp gì? Tiếp cho mấy thằng họ Lý ở cái xó Khau Pho xúc phạm ta hả? Chủ quán toát mồ hôi, lắc đầu quầy quậy:
-Sao Hà trại chủ lại nói vậy? Lão sống gần trọn đời ở đất này có bao giờ biết đến những chuyện động trời ấy mà Hàtrại chủ nỡ ...
Không đợi chủ quán dứt câu, lảo lùn quát:
-Mi muốn nói ta dựng chuyện hả?
Toàn thân run lên vì kích động, lão giơ hai nắm tay ra, mặt đỏ rần. Chủ quán cố mỉm cười, dịu giọng:
-Xin trại chủ bớt nóng!
Chủ quán vừa dứt câu, lão đã đấm mạnh lên mặt bàn, chỉ vào mặt chàng thanh niên nói:
-Lão họ Vạn bênh mi nên chính mi làthủ phạm.
Lão quơ tay gạt phắt bình trà trước mặt chàng thanh niên xuống đất. Chủ quán còn đang lúng túng trước cơn giận điên cuồng củalão, lão đã hét tiếp:
-Nhãi ranh, thú tội đi! Chần chừ một giây, tasẽ chẻ xác mi thành hai mảnh.
Chàng thanh niên vội ngầm đưa tay dưới gầm bàn bóp mạnh tay Kiều Phúc rồi lên tiếng:
-Quả tình kẻ ngu này không liên can đến tiên sinh. Xin tiên sinh bình tĩnh kể lại sự việc coi rasao.
Lập tức, lão lùn quài tay ra sau lưng rút phắt lưỡi đao to bản chém chéo xuống đầu chàng thanh niên. Chàng vội bật người ra phíasaụ trong lúc Kiều Phúc và ông già đông xô mạnh chiếc bàn vào lão.
Hà trại chủ là Hà Đằng thuộc dòng họ nhiều đời truyền nối nắm quyền động chúa miền núi tây bắc sông Thạo. Lúc này các động đã thu hẹp thành một số sơn trại, nhưng họ Hà vẫn giữ nguyên thế nghênh ngang một cõi. Khi nghĩa binh Phạt Trần Hưng Lý của Võ Thành Vương lui về lập căn cứ tại miền tây bắc Qui Hoá, họ Hà càng tự tung tự tác hơn vi cả hai phe Lý, Trần đều muốn có sự hỗ trợ của các sơn trại.Các quan chức triều đình tại lộ Qui Hoá luôn tránh nhúng tay vào việc làm của họ Hà trong khi nghĩa binh Hưng Lý cũng cố không gãy va chạm. Hà Đằng là người hung hăng nóng nảy nên mặc sức buông lung.
Từ lúc chàng thanh niên bắt đầu đối đáp với Hà Đằng thì hai người ngồi bên chiếc bàn kê khuất trong góc đại sảnh đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều trạc ngoại ngũ tuần mặc đồ vải thường màu nâu sậm giống như các lái buôn trâu vẫn xuất hiện tại Bến Chợ vào các kỳ đầu tháng. Một người để râu ba chòm tỉa kỹ lưỡng còn người kia tóc đã bạc nhưng mặt mày nhẵn nhụi. Hai người nhìn chuyện đang diễn ratựa hồ cảnh trên sân khấu. Người tóc bạc nói với người kia:
-Hẳn không ngoài sắp đặt của Quách Bá Liêm.
Người kia gật đầu nói:
-Như thể lại càng chứng tỏ mức chính xác của những điều mà tôi với ông đã thu được.
-Ông nghĩ làlão Quách cũng đã biết như ta?
-Đúng thế!
Vừa đáp, người kia vừa mân mê mấy chòm râu trong lúc mắt không rời khỏi chàng thanh niên:
-Chưa biết chừng mấy thằng kia với lão chủ quán cùng một phe thật! -Ông đoán vậy sao?
-Tôi nghĩ chỉ có đám bộ hạ Võ Thành Vương mới được lão chủ quán săn đón lo lắng như thế.
Người đầu bạc trề môi:
-Vương hầu gì mấy thứ cá nằm trên thớt đó. Bất quá vài mẻ lưới là xong. Người kialắc đầu:
-Chớ nên khinh địch, ông Nguyễn! Tụi nó đứng vững hơn hai mươi năm và còn mở thêm đồn trại, đưatay tới tận Trường An phủ chứ chuyện chơi sao.
Người đầu bạc vẫn giữ nguyên giọng khinh miệt:
-Ông mới ngoại ngũ tuần mà nhụt chí sớm quá. Định xoá cái tên Trấn Giang Lê Bảo dễ vậy sao?
-Muốn xoá tên mình thì tôi sẽ tìm cách khác. Tôi chỉ nhắc rằng Võ Thành Vương không ươn hèn như người em chú bác của ông talà Lý Huệ Tôn đâu.
Lê Bảo ngưng lại gợi sự lưu tâm của bạn rồi tiếp:
-Cha ông ta bị truất ngôi Thái Tử phế làm thứ dân nên từ thuở nhỏ ông tachỉ là một đứa bé quê mùa. Khi Huệ Tôn lên ngôi vì thương hại mà ban cho ông ta vương tước, nhưng ông ta đâu có được tham dự chuyện triều đình nên thực tế vẫn là kẻ chân trắng. Một anh chân trắng mà đương đầu ngang ngửa với Quốc Sư suốt hơn hai mươi năm thì không thể coi thường được.
Nguyễn Đông, tức người đầu bạc, không bác được lập luận của Lê Bảo nhưng vẫn không đổi ý:
-Nhưng ông ta đâu còn nữa. Bộ ông không tin ông ta đãchết rồi sao?
-Ở tuổi ngoài sáu mươi thì sống chết là thường, nhưng cho rằng vì ông ta chết mà phe phản nghịch tan rã thì không chắc đúng. Một người như Võ Thành Vương phải biết sắp xếp chu đáo mọi chuyện thuộc về hậu sự. vả lại, tin tức đã cho hay đứacon trai của ông tacòn có phần trội hơn cha về nhiều mặt.
-Ông nghe nói về thằng đó thế nào?
-Thám tử của ta chưa hề biết gương mặt thật của y vì y che dấu hành tung rất kỹ. Tất cả chi tiết thu góp được cho tới nay chỉ gồm vỏn vẹn mấy điều về bản lĩnh võ công vô địch và mức tinh thông binh pháp của y. Y được coi là không có đối thủ trên toàn lộ Quí Hoá này vàcó tài điều binh xuất quỉ nhập thần.
Nguyễn Đông cười nhạt:
-Đã không gặp mặt thì làm sao biết tài cán thế nào. Bọn vô tích sự đó chỉ bày trò thêm chân cho rắn.
Lê Bảo trợn mắt:
-Ông cho rằng dễ bịt mắt Quốc Sư lắm sao? Tưởng thế thì sớm rụng đầu đó. Nguyễn Đông tỏ vẻ ngờ vực:
-Chỉ khó bịt mắt Quốc Sư về những chuyện Quốc Sư có thể biết thôi. Đây là chuyện một thằng nhãi chui rúc trong xó núi cách kinh thành mấy trăm dặm thì Quốc Sư làm cách nào để phân rõ thực hư.
Lê Bảo bật cười:
-Ông nhìn đời đơn giản quá. Quốc Sư không chỉ cỏ hai mắt, hai tai mà có cả ngàn mắt, ngàn tai. Hơn hai mươi năm nay, Quốc Sư không dám đưa quân triều
đinh tiến vào phía tây vùng núi Hoàng Liên đâu phải Quốc Sư mù tịt về phe họ Lý mà chính vì biết quá rõ. Hơn nữa, còn một chứng cớ rõ rệt là Quốc Sư đã đặt ông với tôi ở vùng này ngần ấy ngày tháng. Quốc Sư có khi nào dùng người không đúng nơi đúng chỗ đâu.
Câu nói cuối của Lê Bảo khiến Nguyễn Đông có vẻ hài lòng. Lão không tranh cãi thêm mà đưa mắt về phía Hà Đằng vàchàng thanh niên, hỏi:
-Thằng con của Võ Thành Vương chắc cũng trạc thằng nhãi kia? Lê Bảo gật đầu:
-Chắc cỡ đó.
-Tên nó là gì nhỉ? Tôi quên rồi.
-Lý Trung Chính!
-Ừ Lý Trung Chính!
Hai người ngưng nói, khi Hà Đằng chém lưỡi đao xuống và bị chiếc bàn lớn ập tới. Thay vì lui lại, lão đạp ngay một chân vào mép bàn tung người phóng vụt qua, lao tới trước chàng thanh niên. Nhưng chủ quán đã bước lên chắn ngang giữa hai người, năn nỉ:
-Hà trại chủ bất tất nóng nẩy động thủ như thế. Xin trại chủ hãy cho biết đã xẩy rachuyện gì.
Lão xô chủ quán sang một bên và lưỡi đao lại vung lên. Đột nhiên, lão giật mình khựng lại, bước lui, mặt càng đỏ gắt hơn. Nơi chiếc bao da bọc quanh cườm tay cầm đao của lão đang rung lên một mũi tiêu nhỏ. Lão kéo mũi tiêu ra, giơ lên quát như sấm nổ:
-Tên khốn kiếp nào làm việc đê mạt này?
Khắp đại sảnh im phắc. Lão liền quay về phía chàng thanh niên ném thẳng mũi tiêu vào mặt chàng. Chàng thanh niên nghiêng đầu như ánh chớp trong khi mũi tiêu xẹt qua bên tai cắm vào bức vách phía sau. Chàng có vẻ không kìm nổi cơn giận xấn lên, nhưng từ phía bên kia đại sảnh bỗng có người lên tiếng:
-Sao lại có kẻ ngang ngược lỗ mãng như vậy?
Tất cả đều quay về phía vừa phát ra tiếng nói và thấy một thư sinh đang nhìn Hà Đằng bằng ánh mắt khó chịu. Thư sinh ngồi chung với hai người khác cùng
trạc tuổi trên dưới hai mươi.
Hồi 2:
Hà Đằng chưa từng gặp ai
LỬA ĐỎ RỪNG KHUYA
dám nhìn thẳng mặt lão nên lời lẽ và thái độ của thư sinh như lửa đốt trên đầu. Lão quên luôn chàng thanh niên, co chân đá tung chiếc bàn, hầm hầm bước về phía thư sinh. Nền đất rung chuyển dưới từng bước đi của lão. Dừng lại cách thư sinh một khoảng, lão gằn giọng:
- Thằng nhãi đui điếc kia muốn gì?
Thư sinh tiếp tục nhìn Hà Đằng bằng ánh mắt khinh thị, chậm rãi nhấn từng tiếng:
- Ta muốn đánh đòn mấy đứa ngang ngược. Hà Đằng tưởng như vừa có một mũi gươm thọc vào lông ngực. Lão gầm lên tung người về phía trước. Chân chưa đạp đất, lão đã chém ngang một nhát đao cực mạnh. Thanh đoản đao như làn chớp vạch một vòng sáng rợn người. Thư sinh lui một bước cười nhạt:
- Múa may chút nữarồi cúi đầu nhận đòn phạt.
Hà Đằng giận tới phát cuồng. Lão nhắm ngay mặt thư sinh quăng thanh đao tới. Lưỡi đao xé gió rít lên. Thư sinh vội nghiêng mình, phất mạnh tay áo. Một luông kình lực cuốn tới xô vẹt lưỡi đao đập vào bờ vách văng xuống nền nhà chát chuá. Cùng lúc, Hà Đằng hất tung một chiếc bàn khác xấn tới đối diện với thư sinh. Mặt lão tím ngắt, hai mắt đỏ ngầu như máu. Lão hét lớn đánh bổ một tay xuống đầu thư sinh trong lúc tay kia phóng thẳng vào giữa ngực chàng. Đòn phân thủ liên công của lão đặt thư sinh vào thế trên đe dưới búa cực kỳ hung hiểm. Nhưng thư sinh đợi cho tay đối phương áp tới mới nhẹ nhàng lách sang bên như một làn gió. Hà Đằng chỉ kịp thấy một chiếc bóng vụt qua thì cả hai tay đã đánh vào khoảng không. Lão hoảng hốt bước lui, phòng chống một đòn đánh trả.
Chủ quán lợi dụng cơ hội chen vào giữa hai người, ông đưa tay chặn Hà Đằng
lại trong lúc hai người bạn cùng đi bước tới lôi thư sinh về phíasau.
Lúc này trong đại sảnh gần như vắng hoe. Ngoại trừ mấy người đang gãy gổ chỉ còn ông già bán thuốc dạo đang loay hoay xóc hành lý lên vai, gíao dác nhìn quanh. Chàng thanh niên cũng bước tới bên chủ quán cố tìm cách cản Hà Đằng. Chàng ôn tồn nói:
-Xin trại chủ bình tâm cho biết rõ mọi chuyện trước đã. Nếu quả chúng tôi có lỗi thì sau đó trại chủ trách phạt vẫn kịp.
Hà Đằng tuy hung hăng nhưng rất mau đổi ý. Lão thấy chàng trai nhún nhường vàcó vẻ thành thực thì dịu giận. Lão ngó chàng một hồi rồi hỏi:
-Đúng làtụi mi không dính đến chuyện đó sao?
Chàng thanh niên lắc đầu:
-Kẻ ngu này có biết chuyện gì xẩy ra với trại chủ đâu.
Hà Đằng nhíu mày, xuatay:
-Đúng vậy thì thôi. Tụi mi lui ra đi.
Rồi, lão xô mạnh chủ quán, nói:
-Ta phải xử cái tội láo xược củathằng nhãi kia.
Lão vừa xoay người lại thì chàng thanh niên vội bước lên trước, níu lấy ống tay áo lão, lên tiếng:
-Hàtrại chủ!
Hà Đằng bỗng dướn người trợn mắt một cách khác lạ. Lão như muốn la nhưng không la nổi. Chàng thanh niên chưa hiểu lão muốn gì thì Hà Đằng loạng choạng ngã xấp xuống ngay trước mặt chàng. Lão đầu trọc vẫn im lặng từ đầu, kinh hoàng nhào tới vạch áo Hà Đằng racoi rồi lalớn:
-Trại chủ bị hại rồi!
Lão đặt Hà Đằng xuống, xốc tới trước chủ quán nói như rít giữa hai hàm răng:
-Lão Vạn, mi ám toán trại chủ ngay trước mặt ta!
Chủ quán kinh hãi lui lại không lên tiếng được.
Giữa lúc độ, nhiều tiếng quát thét nổi lên ngoài sân quán rồi một toán tuần đinh ào vào đại sảnh. Viện tuần trưởng lăm lăm tay thước nói lớn:
-Tất cả đứng im tại chỗ, không được vọng động.
Tuần đinh tại Bến Chợ không được gọi ra từ đám trai tráng địa phương mà do An Phủ Sứ đưa thẳng từ lộ phủ tới. Dân địa phương vẫn thì thầm rằng đám tuần đinh này đều được tuyển từ đạo Thần Sách và người tuần trưởng là một Vệ úy cấm quân. Thấy tuần đinh xuất hiện, lão đầu trọc vội lên tiếng:
-Chủ quán An Miên vừa hạsát Hàtrại chủ!
Mười gả tuần đinh lập tức tỏa ra bao quanh trong lúc tuần trường bước về phía Hà Đằng. Nhưng y vội dừng lại vì có tiếng vó ngựa ngoài sân quán rồi ba người phóng vào đại sảnh như cơn lốc. Vừa thoáng thấy mấy người, lão đầu trọc đãlalớn:
-Các ngươi tới đúng lúc đó. Trại chủ nguy rồi.
Cả bacùng hỏi một lượt:
-Trại chủ làm sao, Quách tiên sinh?
Lão đầu trọc chỉ tay về phía Hà Đằng:
-Trại chủ bị chủ quán An Miên hại rồi.
Ba người lập tức xông về phía chủ quán, nhưng tuần trưởng giơ cao tay thước, dõng dạc nói:
-Không ai được gãy chuyện. Những kẻ liên can tới chuyện này sẽ về trạm chờ lệnh quan Thủ Ngự.
Thấy đám tuần đinh dàn hàng chận phía trước, ba người lạ hậm hực quay lại bên Hà Đằng. Một người áp tai lên ngực Hà Đằng nghe ngóng rồi bế xốc lão lên. Trước khi bước đi, gã quay về phíachủ quán nói:
-Lão Vạn, bọn tasẽ trở lại gặp mi!
Gã gườm gườm nhìn tuần trưởng rồi hất hàm ra dấu cho hai đông bọn cùng bước ra khỏi đại sảnh. Tuần trưởng biết ba người lạ là dũng binh sơn trại họ Hà nên im lặng. Nhưng khi lão đầu trọc toan bước theo mấy người kia thì gã đưa tay cản:
-Phiền tiên sinh ở lại, theo chúng tôi về trạm.
Gâ nhìn khắp mọi người trong đại sảnh, nói:
-Mọi người đều phải về trạm làm cung từ.
Thư sinh lên tiếng:
-Chúng tôi không can dự chuyện này thì làm cung từ gì?
Tuần trưởng lắc đầu:
-Bây giờ chưathể nói chắc ai can dự,ai không. Tất cả đều phải về trạm hết.
Thư sinh cau mày có vẻ khó chịu, nhựng một người bạn khẽ vỗ lên vai như ngầm nhắc nhẫn nhịn. Toán tuần đinh dồn mọi người lại nhưng hai người đã biến dạng từ lúc nào không ai hay là lão bán thuốc dạo và ông già gia nhân của chàng thanh niên.
Mọi người theo toán tuần đinh về tới tuần trạm đúng lúc ánh đuốc sáng loá trên hướng đường từ miền xuôi đi lên. Chốc lát, tiếng vó ngựa khua rầm rập dội tới rồi một đoàn kỵ binh xuất hiện, dẫn đầu là một võ tướng râu tóc bạc phơ.
Đoàn quân dừng lại trước cửa tuần trạm đang có tuần trưởng đứng đón sẵn. Tuần trưởng kẹp tay thước sau nách kính cẩn cúi chào viên tướng già và nói một hồi dài. Viên tướng già nghe xong liền thúc ngựa tiến vào sân. Dưới ánh đuốc sáng, ông kinh ngạc khi nhìn thấy lão đầu trọc và chàng thư sinh, ông trợn mắt hỏi:
-Quách tiên sinh dính vào chuyện này sao? Còn Quốc Ân, cháu tới đây làm gì ?
Thư sinh vội vòng tay chào, thưa:
-Cháu cùng bạn từ Thăng Long thả thuyền ngoạn cảnh. Tới đây vào quán uống trà,ai dè gặp chuyện này.
Vị lão tướng là Đỗ Nghiêm,anh em kết nghĩa với An Phủ Sứ Trần Kiều. Trần Kiều vừa là em họ vừa là thủ hạ thân tín của Quốc Sư nên được giao trấn nhậm lộ Qui Hoá, nhân đó Đỗ Nghiêm thành người lo việc binh tại đây. Trần Kiều chỉ có một người con trai là Quốc Ân, gửi nhờ Quốc Sư trông nom cho theo học tại Thăng Long. Đỗ Nghiêm lộ vẻ không vui:
-Cha mẹ cháu sẽ hết sức buồn nếu biết cháu lêu lổng thế này. Cháu nên về
Thăng Long ngay, chú sẽ giữ kín chuyện cho.
Quốc Ân nói:
-Đa tạ ơn che chở của chú. Hiện đang kỳ hạ khoá, cháu được phép về thăm song thân ít ngày. Chỉ xin chú cho phép cháu và hai người bạn vốn vô can được tách khỏi chuyện này để xuống thuyền về nhà.
Đỗ Nghiêm gật đầu nói với viên tuần trưởng:
-Những người vô can thì giữ lại làm gì. Để Trần công tử vàcác bạn ra đi. Rồi ông quay về phíalão đầu trọc:
-Quách tiên sinh vướng chuyện này thể nào?
Lão đầu trọc cười nói:
-Lão lâu ngày mới ghé thăm Hà trại chủ, không may gặp đúng lúc chuyển hàng do trại chủ đặt mua từ Vân Nam về bị phe đảng họ Lý chận cướp. Đoàn hộ tống hơn mười người chỉ còn một tên thoát chết chạy về báo tin và cho biết đám hung phạm đang trên đường kéo về An Miên lữ quán. Thế là trại chủ đùng đùng phóng ngựa chạy đi không kịp kêu thủ hạ. Lão buộc lòng phải theo để đỡ tay khi cần thiết. Ai dè Hà trại chủ vốn nóng nẩy vừa tới quán lại gãy gổ với Trần công tử khiến Vạn chủ quán có cơ hội lợi dụng tình thế, dùng ám khí đánh lén trong lúc bất phòng.
-Hiện Hà Đằng rasào?
-Gia nhân đã kịp mang về trại, nhưng e là khó qua khỏi.
Đỗ Nghiêm vẫn thường đưa quân tới Bến Chợ do vùng này là địa đầu của lộ phủ Qui Hoá chặn giữ hướng xâm nhập từ bắc thùy và từ vùng đất phía tây Hoàng Liên Sơn kéo dài từ ô Qui Hồ tới đèo Mây bọc qua Mộc châu về đèo Cón. Vì thế gần như mọi việc lớn nhỏ tại đây đều do đích thân ông xử trí.
Nghe lão họ Quách nói xong, ông quay qua viên tuần trưởng ralệnh:
-Ta sẽ đưa Quách tiên sinh tới An Miên lữ quán để nhìn tại chỗ. Ngươi cho thủ hạcanh chừng những người khác chờ tatrở lại liệu định.
Ông lệnh cho tuần trưởng lấy thêm ngựa cho Quách Bá Liêm rồi giựt cương phóng đi. Chờ đoàn quân đi khuất, tuần trưởng quay lại nói với chủ quán và thầy trò chàng thanh niên:
-Ba người hãy đưa tay cho bản chức tạm cùm trong lúc chờ thượng quan trở lại xét xử.
Chàng thanh niên gằn giọng:
-Vô cớ màcùm người dễ vậy sao?
Đám tuần binh lập tức ùatới vây ba người vào giữa. Chủ quán vội nói:
-Xin quan khách dằn lòng nhẫn nhịn để tránh việc không hay. Lão chắc quan Thủ Ngự không dễ tin những lời vu cáo mơ hồ đâu.
Chàng thanh niên hàm hầm nói với tuần trưởng:
-Ta bằng lòng ngồi đây chờ tới khi được xét xử nhưng hãy để cho ba người chúng ta được thảnh thơi.
Tuần trưởng toan lên tiếng thì Quốc Ân bước tới ra dấu cho gã im. Từ lúc biết Quốc Ân là con trai An Phủ Sứ, tuần trưởng vẫn bứt rứt không yên về thái độ đã có trước đó. Thấy Quốc Ân muốn nhúng tay vào việc, gã bèn vội vã lên tiếng:
-Xin công tử liệu định giùm cho.
Quốc Ân tới trước chàng thanh niên, vòng tay vái chào. Tuy còn bực tức, chàng vẫn đứng lên đáp lễ:
-Tiện dân xin cảm tạ về sự giúp đỡ màcông tử đã dành cho tại lữ quán. Quốc Ân khẽ lắc đầu:
-Tiểu đệ không rõ sức mình, làm chẳng tới đâu đến nỗi còn gãy phiền hà cho quí vị, không bị trách phạt đãlà may lắm rồi.
Chàng đổi giọng hỏi thanh niên:
-Chẳng hay tiêu sinh có được cái may biết người đang đứng trước mình là ai không?
Thanh niên đáp:
-Tiện dân họ Nguyễn.
Quốc Ân nói một cách thân mật:
-Chẳng hay Nguyễn huynh ghé đây vì việc chi?
-Tiện dân không dám nhận lời tôn xưng quá đáng của công tử. Tiện dân là kẻ xuôi ngược mưu sinh, hiện đang trên đường chở hàng đi tìm mối.
Quốc Ân mỉm cười:
-Tiểu đệ thấy Nguyễn huynh không có vẻ giống như lời giới thiẹu của mình. Chẳng hay Nguyễn huynh tính dừng tại đây hay còn đi về đâu?
-Đến giờ này, tiện dân cũng chưa quyết xong chuyện đó. Nếu có mối nhận mua hết hàng thì tiện dân có thể ngược về đèo Cón, bằng không chưa biết chừng tiện dân sẽ về Thăng Long.
Quốc Ân lắc đầu:
-Tiểu đệ không tin Nguyễn huynh phải xuôi ngược mưu sinh, nhưng vào lúc sơ giao này tiểu đệ không dám vượt quá phận mình. Tiểu đệ chỉ có một điều thực lòng muốn nói, không rõ Nguyễn huynh có muốn nghe không?
Chàng thanh niên thắc mắc nhìn Quốc Ân:
-Chẳng hay công tử muốn chỉ gíao điều chi?
Quốc An cầm tay chàng thanh niên, thân mật:
-Không hiểu sao khi vừa thấy Nguyễn huynh tiểu đệ bỗng nẩy ngay ý nghĩ là giữa mình sẽ có một sự ràng buộc. Nếu Nguyễn huynh không chê tiểu đệ là thứ trẻ thơ vô dụng thì tiểu đệ rất mong sẽ có lúc được đỡ đần Nguyễn huynh với tư cách là một người bạn nhỏ. Chẳng hay ý Nguyễn huynh thế nào?
Chàng thanh niên ngạc nhiên nhìn Quốc Ân:
-Công tử đang nói giỡn sao?
Quốc Ân nghiêm giọng:
-Tiểu đệ đâu dám vô lễ như vậy. Những lời tiểu đệ vừa nói là những lời hết sức chân thực vàtiểu đệ đang sợ Nguyễn huynh sẽ lắc đầu từ chối.
Chàng thanh niên vội nói:
-Kẻ dân đen hèn mọn này đâu có đủ quyền từ chối một điều may mắn lớn lao như thế. Nhưng e rằng thân phận chân trắng của tiện dân sẽ đem lại sự bất tiện cho công tử chăng?
Quốc Ân lắc đầu:
-Được kết giao với người như Nguyễn huynh là mong mỏi của tiểu đệ. Giả dụ có điều nào thực sự bất tiện thì cũng là điều vui đối với tiểu đệ.
Câu chuyện giữa hai người bị cắt ngang đột ngột do Đỗ Nghiêm dẫn quân trở lại. Ông thấy Quốc Ân đang đứng với chàng thanh niên thì nói lớn:
-Sao cháu vẫn chưa đi?
Rồi không nghe lời đáp của Quốc Ân, ông quay quachàng thanh niên hỏi: -Ngươi họ tên gì, quê quán ở đâu?
Chàng thanh niên đáp:
-Tiện dân là Nguyên Diên, người xứ Mộc châu, lộ Đà giang, nhưng không có chỗ ở nhất định vì quanh năm ngược xuôi buôn bán ở khắp nơi.
Đỗ Nghiêm hỏi tiếp:
-Ngươi tới đây cùng với ai?
-Tiện dân chỉ có vài gia nhân theo phụ khiêng vác hàng hoá.
Hất hàm về phía Kiều Phúc, Đỗ Nghiêm hỏi:
-Tên kialà gia nhân của ngươi?
Chàng thanh niên gật đầu. Đỗ Nghiêm tiếp:
-Còn những tên khác hiện ở đâu?
-Từ lúc xãy ra chuyện lộn xộn, tiện dân không biết gì về những người khác ở xung quanh. Có lẽ lúc này tất cả vẫn còn ở phòng trọ.
Đỗ Nghiêm “hừ” một tiếng quay quachủ quán:
-Lão Vạn cần nói điều chi không?
Chủ quán chắp tay phân trần:
-Xin thượng quan minh xét. Những điều do Quách tiên sinh nói hoàn toàn không đúng vàlão cũng không hề biết chuyện xẩy racho Hàtrại chủ thế nào.
Đỗ Nghiêm nghiêm giọng:
-Ta sẽ xét ky chuyện xãy ra. Bây giờ hây nói rõ lúc Hà Đằng trúng ám khí có những ai ở xung quanh?
Chủ quán nhắc tên mọi người. Quốc Ân xen vào:
-Thưachú, quảlàlúc đó chỉ cỏ ngần ấy người.
Đỗ Nghiêm nói:
-Quốc Ân với gã họ Nguyễn đứng đối diện với Hà Đằng nên không thể ám toán từ phía sau. Chỉ còn lại bốn người là Quách tiên sinh, chủ quán và hai tên gia nhân của gã họ Nguyễn. Quách tiên sinh với Hà Đằng là bằng hữu nên đáng ngờ chỉ còn lại ba kẻ kia. Trong ba kẻ đó có một kẻ bỏ trốn là tên gia nhân của gã họ Nguyễn. Vì vậy, ta phải giữ gã họ Nguyễn lại vì gia nhân thường chỉ làm theo ý chủ.
Dứt lời, Đỗ Nghiêm quay về hàng quân ralệnh:
-Trói batên đó lại, đưa về phủ!
Sáu kỵ binh tung mình xuống ngựa cùng lúc chàng thanh niên trợn mắt ra dấu cho gã gia nhân. Quốc Ân như đoán rõ ý chàng, vội lên tiếng:
-Xin Nguyễn huynh chớ nóng nẩy. Tiểu đệ sẽ gánh vác chuyện này .
Chủ quán cũng ra dấu ngăn cản và đưa tay cho người kỵ binh vừa bước tới. Thấy chủ quán đãchịu trói, chàng thanh niên quay về phía Đỗ Nghiêm:
-Xin thượng quan xét lại. Chính thượng quan vẫn chưa xác quyết ai là thủ phạm mà chỉ ngờ vực có liên can. Vậy xin thượng quan cho phép chủ quán cùng tiện dân và gã gia nhân được tự nguyện theo về phủ thay vì cùm trói như một tội đồ thực sự.
Đỗ Nghiêm vẫn theo dõi Nguyễn Diên và lúc chàng lên tiếng ông lại bắt gặp ánh mắt có vẻ khẩn nài của Quốc Ân.Ông nhìn chàng một hồi rồi gật đầu:
-Được!
Ông sai cởi trói cho chủ quán, bảo tuần trưởng lấy thêm ngựa. Trước khi lên đường, ông nhắc:
-Ta đối đãi đặc biệt thế này là để tỏ lòng ưu áp với mọi người. Nhưng đừng vì vậy mà mưu toan xằng bậy trong lúc di chuyển về lộ phủ.
Ông quay về phía Quốc Ân:
-Cháu hãy lên đường về nhà gấp, không được nấn náthêm giây nào ở đây.
Ông giơ cao thanh trường kiếm vẫy nhẹ. Toán kỵ binh phân thành hai hàng bọc ba người vào giữa. Tiếng vó ngựa bắt đầu khua dồn dập trong đêm xa dần theo ánh đuốc bập bùng.
Quốc Ân đứng nhìn theo cho tơi khi ánh đuốc chìm hẳn vào màn đêm mới cùng hai ngưới bạn rời trạm. Ba người đang đi bỗng thấy từ khu trung tâm Bến Chợ, ánh lửa bốc lên sáng rực và xôn xao tiếng la hét. Ba người ngạc nhiên dừng lại đúng lúc tuần trưởng xuất hiện dẫn đám tuần đinh chạy về phía lửa cháy. Quốc Ân nói với hai người kia:
-Tatheo họ coi có chuyện gì?
Lúc này trên quan lộ chen chúc người chạy ngược lại. Thấy ai nấy đều lộ vẻ hoảng hốt, Quốc Ân liền chận một người lại hỏi:
-Có chuyện gì ở phía đó?
Người nọ tiếp tục chạy trong lúc nói với lại:
-Dũng binh sơn trại đang đốt phá lử quán An Miên. Mau tránh xa đi kẻo vạ lây đó!
Quốc Ân cùng hai người bạn tiếp tục bước tới.
Lửa cháy càng lúc càng dữ, soi sáng một vùng. Hoà trong tiếng lửa gầm rú lả những gióng bương lớn nổ liên hồi như pháo lệnh vàtiếng la hét cuồng loạn.
Từ một khoảng xa, ba người nhìn thấy trong ánh lửa sáng, tuần trưởng và các tuần đinh đang bị một đám đông vây đánh dữ dội. Đám đông đều mặc võ phục đen xử dụng đủ loại võ khí. Quốc Ân nói:
- Đám đỏ chắc chắn là dũng binh của họ Hà.
Tuần đinh chỉ có khoảng mười người nên chống đỡ rất khó khăn. Nhưng tất cả tuần đinh đều là binh sĩ thiện chiến nên đám đông dũng binh không thể đẩy lui họ. Từng đợt dũng binh la hét xông lẽn rồi lại dội ngược về phía sau như chạm phải một bờ vách sắt. Tuy vậy đám tuần đinh cũng không thể tiến bước nổi để tới sát An Miên lữ quán đang chìm trong ánh lửa.
Thình lình dũng binh nhất loạt giạt sang hai bên mở ra một khoảng lộ trống ngay phía trước đám tuần đinh. Chưa ai kịp đoán đối thủ tính toán gì thi một loạt mưatên ập tới. Tuần trưởng hoảng hốt hét lớn:
-Coi chừng!
Nhưng ba tuần đinh đã ngã xuống cùng lúc đợt mưa tên thứ hai bay ra khỏi cánh cung. Toán cung thủ phục ngay phía sau các dũng binh đã khai thác đúng cơ hội khi dũng binh tách ra hai bên để biến toàn bộ tuần đinh thành những tấm bia trên quan lộ. Tuần trưởng vội gom một số tuần đinh lại múa tít binh khí để vừa chống đỡ các loạt tên vừa che chở cho những người bị thương lui về phía sau. Trong một khoảnh khắc, bên cạnh tuần trưởng chỉ còn vỏn vẹn bốn tuần đinh. Năm người toan lui lại nhưng không kịp. Đám đông dũng binh vừa tách ra đã uà lên và từ trong đó, một người như con chim ưng bay vụt tới, chém xả xuống đầu tuần trưởng một nhát dao cực mạnh. Tuần trưởng vội đưa tay thước lên đỡ. Một tiếng chát dữ dội vang lên. Tuần trưởng từng là một Vệ úy cấm binh trong đạo quân Thần Sách lừng danh vẫn loạng choạng lùi lại, hai cánh tay tê rần. Cùng lúc, ngựời kia vụt chuyển thế đâm mũi dao thẳng tới nhắm giữa yết hầu tuần trưởng. Trong thế hạ phong, tuần trưởng vẫn kịp nghiêng mình tránh mũi dao và phạt ngang tay thước trả đòn tức khắc. Đòn phản công của tuần trưởng có thể hạ đối thủ trong nháy mắt với chiếc tay thước quét như ánh chớp. Nhưng người kia điềm nhiên như không tung mình lên cao cho chiếc tay thước vụt qua dươi gầm bàn chân đông thời chém ngược một dao vao sườn tuần trưởng trước khi đặt chân xuống đất. Nhát chém dữ dội này buộc tuần trường phải thối lui. Mấy tuần đinh thấy rõ chủ tướng yếu thể vội nhào lên. Nhưng dũng binh đã tràn tới như thác đổ vây tất cả vào giữa. Quốc Ân thấy bên cạnh tuần trường chỉ còn hai tuần đinh thì lắc đầu:
-Họ nguy mất.
Một ngươi bạn cũng băn khoăn hỏi Quốc Ân:
-Em tính sao bây giờ?
Quốc Ân nhìn người vừa tấn công viên tuần trường đã lui lại đứng khoanh tay bên mé quan lộ. Chàng nói:
-Nểu gã kia không nhập cuộc thì họ cầm cự nổi.
Lúc này ba người bị dũng binh dồn đánh tới tấp liên tục lui về phía ngôi nhà đóng cửa kín mít ở me bên kia đường. Chàng quan sát một hồi rồi tiếp:
-Họ khó tránh bị hại, nếu không được giúp đỡ.
Người bạn hỏi:
-Mình làm gì được bây giờ?
Quốc Ân nói nhanh:
-Phải liều thôi. Hai người ẩn kín vào bóng tối đi. Em sẽ giúp họ.
Dứt lời, chàng phóng mình vào giữa đám dũng binh. Chàng vung chưởng đánh một dũng binh ngã xấp xuống và xấn lên vừa lúc một dũng binh khác giơ cao cây trường côn đánh xuống. Quốc Ân chụp đầu cây côn giựt mạnh đông thời phóng một cước vào giữa ngực đối thủ. Gã dũng binh hét lên đau đớn thì cây côn đã nằm gọn trong tay Quốc Ân. Chàng múa như bão táp, đánh dạt đậm dũng binh về một phía. Tuần trưởng được tiếp trợ cũng đánh ngã liền hai đối thủ. Dũng binh vừa bị đánh giạt ra thì người tấn công viên tuần trưởng lúc nãy lao tới. Quốc Ân bước lên nhưng tuần trưởng đã vượt lên trước đối mặt với y. Quốc Ân thấy y trùm kín mặt bằng một mảnh vải lớn chỉ để lộ hai ánh mắt lạnh lẽo ghê người.
Vừa bước lên, tuần trưởng vừa quát:
-Các ngươi dám chống lại quân triều đình sao?
Y hừ một tiếng gằn giọng:
-Lũ thuyền chài họ Trần có tới đây tacũng chém hết thôi.
Y chưa dứt lời, Quốc Ân đã nện chéo xuống vai y một đường côn mạnh như núi đổ. Lập tức, y lách mình sang bên, xoạỵ mũi dao lại đâm thẳng vào ngực chàng. Quốc An chỉ kịp nhẩy vội sang một bên và khoảnh khắc đó, đối thủ như một tiachớp phóng theo tung chân đá bật cây côn trong tay chàng, đông thời quài tay chém vớt về phía bên cắt ngang chiếc tay thước do tuần trưởng đánh tới. Hai đòn đánh của y đặt tuần trưởng và Quốc Ân vào thế tay không thụ địch. Hai người vội lui lại tựa lưng vào nhau trong lúc hai tuần đinh khác lại bị dũng binh bao kín.
Đúng lúc đó, nhiều tiếng kêu kinh hãi bỗng bật lên và toàn thể đám dũng binh đều bước lui nhìn nhau ngơ ngác. Người bịt mặt cũng khựng lại nhìn quanh. Rồi không ai bảo ai tất cả đều đông loạt đưa một cánh tay lên ngó. Trên tay mỗi ngươi đều bị một mũi tiêu cắm ngập. Mọi người vừa gỡ những mũi tiêu ra thì một tràng cười vang dội lan dài khắp vùng. Tiếng cười như hoà nhịp với tiếng lửa reo và tiếng nổ liên hồi của các đốt bương tre khiến ai nấy đều choáng váng. Người bịt mặt nổi giận hét lớn:
-Kẻ đê mạt hãy chường mặt ra!
Vừa dứt lời, y bỗng giật nảy mình, đau nhói ở bàn tay trái. Cùng lúc, xung quanh y nhiều tiếng kêu đau đớn bật lên. Tất cả lại bị trúng tiêu một lần nữa, nhưng xung quanh vẫn không một bóng người. Đảo mắt nhìn quanh, tất cả chỉ thấy ánh lửachập chờn lay động trên các vòm cây, mái lá.
Người bịt mặt rút mũi tiêu khỏi bàn tay, ra dấu cho các dũng binh đứng gom lại rồi nói vọng vào khoảng không:
-Tại hạ mong diện kiến cao nhân.
Xung quanh vẫn im lìm như cũ.
Cách người bịt mặt và đám dũng binh một khoảng, Quốc Ân cùng mấy tuần đinh cũng kinh ngạc không kém. Họ biết co người hỗ trợ nhưng không hiểu đã được hỗ trợ bằng cách nào và người hỗ trợ cho họ đang ở đâu. Tất cả đang ngơ ngác nhìn nhau thi đã nghe người bịt mặt hét lên vang dội tung mình về mái hiên cặn nhà đối diện bên kia đường. Y lao đi như tên bắn,ánh thép loé sáng trong tay.
Hồi 3:
Quốc Ân phát gíac hành
MỘT HÌNH TÍCH BẠI Lộ
động của người bịt mặt thì la lên kinh hãi. Chàng lập tức tung mình lao theo, nhắm lưng y đánh tới một chưởng. Đòn đánh của Quốc Ân buộc y phải thu tay đao về chống đỡ nhưng y đã kịp đặt chân xuống mái hiên căn nhà trước chàng. Quốc Ân chỉ kịp kêu lên khi thấy y lao thẳng vào chỗ hai người bạn của chàng đang đứng:
- Không được đụng tới họ.
Nhưng người bịt mặt đã chộp vào vai một người đẩy tới trước cất tiếng cười ha hả:
- Ai màtachẳng đụng được!
Bỗng y khựng lại có vẻ ngạc nhiên rồi lại vùng cười tiếp khoái trá: - Thì ra đây chỉ là mấy con nữ tì!
Hướng về đám dũng binh đang chạy tới, y gọi lớn:
- Hãy tới đưa mấy vị cô nương này đi cho ta. Tuần trưởng đã cùng hai tuần đinh chạy tới đứng bên Quốc Ân. Người bịt mặt nhìn bốn người đứng dàn hàng phíatrước lên tiếng:
- Các ngươi đừng mơ tưởng cản đường ta. Ngay cái mạng của các ngươi cũng không giữ nổi lâu đâu.
Đám dũng binh uà tới đẩy hai người bạn của Quốc Ân lên. Cả hai kinh hoảng cố cưỡng lại. Quốc Ân quay qua nói nhỏ với viên tuần trưởng. Lập tức, gã như mũi tên bay thẳng tới trước người bịt mặt. Lúc này gã cầm trong tay thanh gươm dài của một tuần đinh. Thanh gươm như cơn bão lốc cuốn gã thẳng tới. Người bịt mặt nhìn thấy có cả một rừng gươm quay cuồng trước mắt. Nhưng y chĩ bật
lên một tiếng cười khô khốc vươn tay ra chộp một người con gái giật tới trước mặt mình. Người con gái thất thần hét lên khi thấy mình đang đứng trước ánh gươm loang loáng. Tuần trưởng kinh hoảng lật đật thu gươm nhảy lui lại và chỉ kịp thấy Quốc Ân vừalao lên. Gã quát lớn:
-Công tử, coi chừng!
Nhưng Quốc Ân đã lọt vào giữa vòng đai dũng binh. Quốc Ân tính lợi dụng cơ hội người bịt mặt lo đối phó với tuần trưởng để cướp lại hai người bạn từ tay dũng binh nhưng sự việc diễn ra ngoài hẳn dự liẹu của chàng. Chỉ bằng cái vươn tay giật một người con gái lại, người bịt mặt đã bức lui tuần trưởng, đông thời dũng binh hoàn toàn rảnh tay đương đầu với Quốc Ân. Chàng không có võ khí trong tay nên bị kìm chế tức thì. Người bịt mặt thấy Quốc Ân bị ghìm cứng giữa đám dũng binh thì lớn tiếng ralệnh:
-Dắt luôn thằng nhải đó theo!
Y vừa nói dứt, một tiếng quát bỗng vang lên:
-Tất cả đứng im!
Người bịt mặt giật mình kinh ngạc. Giọng nói lại cất lên khàn khàn lạnh lẽo với mộtâm vang kỳ lạ khiến không thể biết phát ratừ đâu:
-Hãy thả mẩy người kia và rời đây tức khắc. Chậm một giây ta sẽ cắm tiêu vào họng từng đứa!
Đám dũng binh nhất loạt bước lui đầy vẻ hoang mang. Người bịt mặt cũng bối rối nhìn quanh. Y cố giữ bình tĩnh lên tiếng:
-Món nợ này ắt phải có lý do. Ngươi có thể ra mặt để nói rõ chăng?
Đáp lại câu nói của y là một giọng cười sang sảng và cuối cùng là một tiếng quát:
-Coi!
Một tiếng rú kinh hoàng bật lên sát bên tai người bịt mặt. Gã dũng binh đứng cạnh y dưa cả hai tay lẽn ôm ngang yết hầu lảo đảo xụm xuống. Từ trong bóng tôi, vang lên giọng nói khàn khàn lạnh lẽo:
-Y không chết đâu, vì ta mới nhắc nhở thôi. Nhưng nếu không tuân lệnh thì những mũi tiêu kế tiếp cua ta sẽ cắm sâu hơn nhiều và mọi loại thuốc giải độc đều
vô ích.
Mấy tiếng cuối cùng như truyền đi một sức mạnh ma quái lùa đám dũng binh dạt tới bên người bịt mặt để tìm sự che chở. Quốc Ân ngỡ như mình đang trong mơ khi bước tới bên người bạn đang đứng ngơ ngác không xa chàng. Giọng nói đe doạlại cất lên:
-Đi ngay! Ta không chờ lâu đâu.
Tất cả dũng binh đều nhốn nháo sẵn sàng lao đi khiến người bịt mặt đành lên tiếng:
-Thôi được! Ta nhường ngươi một bước nhưng sẽ không quên chuyện này. Y buông người con gái đang giữ trong tay, quát dũng binh:
-Gom ngựatới đây.
Dũng binh ùachạy đi. Y nhìn theo nghĩthầm:
-Chắc gì y đãlàm được như lời nói.
Đảo mắt nhìn quanh, y thấy hai người con gái gom lại bên Quốc Ân tại một góc hiên trong lúc tuần trưởng và hai tuần đinh cũng đứng chụm lại có vẻ ngơ ngác vì chuyện đang xẩy ra. Cả hai nhóm đều chỉ cách y mấy bước chân và y có thể dễ dàng chộp bất kỳ người nào. Nhưng chính y lại hoang mang với ý nghĩ:
-Nếu y làm được như đã nói thì sao?
Đang lúc phân vân, y thấy một dũng binh dắtngựa tới. Một ý nghĩ bỗng loé lên trong đầu và y có vẻ hậm hực tung mình lên ngựa. Y nhìn quanh thêm một lần, hô đám dũng binh sẵn sàng lên đường. Cùng lúc thúc ngựa bước tới, y bất thần nhoài người ôm ngang lưng một người bạn của Quốc Ân kéo lên lưng ngựa. Y ra tay bất ngờ như cơn lốc cuốn khiến cả Quốc Ân lẫn mấy tuần đinh chỉ kịp kêu lên một tiếng kinh hoàng rồi đứng như chết sững. Y giật mạnh dây cương nhưng con ngựa bỗng chồm thẳng lên, đứng dựng trên hai chân sau hí vang dội rồi ngã vật xuống, quăng y và người con gái ra xa. Y vừa tung mình đứng lên đã nghe vang bên tai giọng nói đầy đe dọa:
-Tathacho một lần. Đi mau cho khuất mắt.
Y không kịp thấy Quốc Ân lao tới phía ngườicon gái, cũng không lưu tâm tới con ngựa vừa chồm dậy và nổi điên phóng ra quan lộ. Chụp vội dây cương con
ngựa của một dũng binh kế bên, y phóng lên lao đi. Tất cả dũng binh quất ngựa phóng theo. Cả đám băng vụt qua vùng lửa sáng mất hút vào bóng tối mênh mông cùng với tiếng vó ngựa khua xa dần.
Quốc Ân đỡ người con gái đứng lên lo lắng:
-Chị Thụy An, chị có sao không?
Thụy An lắc đầu. Lúc này Quốc Ân mới sực nhớ tới người bịt mặt. Chàng hầm hầm xoay lại nhưng dưới mái hiên chỉ còn tuần trưởng và hai tuần đinh vẫn đang ngơ ngác ngó quanh. Cái nhìn của Quốc Ân khiến tuần trưởng như sực tỉnh. Gã vội chạy lao ra giữalộ gọi lớn:
-Ân nhân!
Tiếng gọi của gã vang xa nhưng không một lời đáp lại. Quốc Ận bước ra cùng tuần trưởng tìm kiếm một vòng rồi quay lại. Quoc Ân nhắc tuần trưởng:
-Hãy cho người gom đám trai tráng trong vùng lại chuyển người bị thương về trạm vàlo dập lửa để tránh cháy lan thêm.
Chàng quay lại nói với Thụy An:
-Mình về thuyền thôi.
Trước khi bước đi, Thụy An nói:
-Đám họ Hàlộng hành quá độ.
Nhớ lại chuyện vừa xẩy racho mình, nàngtiếp:
-Thật may mắn ...
Thụy An không nói hết câu, nhưng Quốc Ân hiểu ý. Chàng tiếp:
-Đúng là may mà có người tiếp cứu. Nếu không thì em có bao nhiêu mạng cũng không giải hết tội.
Thụy An nói:
-Thôi, không nhắc chuyện này nữa.
Quốc Ân im lặng nhưng chàng vẫn không hết băn khoăn về sự việc xẩy ra. Vừa xuống thuyền, chàng ralệnh cho các tay chèo:
-Rời bến ngay. Nhớ chia nhau canh gác kỹ lưỡng suốt dọc đường.
Khi chàng quay vào trong khoang, Thụy An đang ngồi trầm ngâm bên ngọn đèn khơi lớn. Mái tóc đen dài óng ả phủ kín một bên vai làm nổi bật nước da trắng hông mịn màng. Quốc Ân ngắm khuôn mặt thanh tú diễm lệ của nàng và mơ hồ ngỡ như đang đứng trước một bức tranh tố nữ. Chàng im lặng nhìn nàng hồi lâu và lại trở lại với nỗi băn khoăn đã có. Nhẹ nhàng bước tới bên nàng, chàng ngồi xuống hỏi:
-Chị có buồn em không?
Thụy An ngước lên nhìn Quốc Ân, mỉm cười. Trong ánh mắt chàng, nàng thấy tất cả nỗi băn khoăn trĩu nặng. Nàng nói:
-Em có gì lầm lỗi đâu mà không yên nhưvậy
Quốc An nói:
-Chuyện nguỵ hiểm xẩy racho chị hoàn toàn do em. Không lầm lỗi sao được. Thụy An lắc đầu:
-Lúc chuyện xẩy ra, chị hết sức kinh hoàng, nhưng lúc này chị chỉ nghĩ về điều có vẻ bí ẩn ở phíasau những chuyện mình đãthấy từ hồi chiều tới giờ.
Nàng ngưng lại hỏi Quốc Ân:
-Em có thấy nhiều sự bất thường quanh những chuyện vừarồi không? Quốc Ân lúng túng thú thực:
-Em chẳng nghĩ gì về những chuyện đó cả. Đoạn chàng nhìn Thụy An chờ đợi. Nàng cúiđầu suy nghĩ hồi lâu rồi lại hỏi:
-Em còn nhớ mối lo của mẹ chị không?
Quốc Ân gật đầu nhưng thắc mắc:
-Những chuyện này liên quan gì đến mối lo của Quốc Mẫu?
Thụy An nói như đang tiếp tục mạch suynghĩ:
-Chị ngại là những việc này đã được thúc đẩy bởi chính chachị. Quốc Ân kêu lên:
-Quốc Sư? Làm sao Quốc Sư có thể nhúng tay vào chuyện ở xó núi xa xôi này?
-Cậu em tôi quả là ruột ngựa. Em dư biết rằng cha chị có khi nào phải trực tiếp nhúng tay vào thứ gì. Nhưng một khi cha chị muốn thì có nơi nào mà cha chị không với tay tới nổi vì luôn luôn có hàng ngàn thủ hạ thân tín sẵn sàng tuân lệnh.
Quốc Ân chưa hiểu điều Thụy An muốn ám chỉ:
-Nhưng, những việc như vừa xẳy rathì đem lại được thứ gì cho Quốc Sư?
-Em sẽ nhận ra ngay nếu chịu bình tâm suy nghĩ một chút. Cho tới lúc này, cha chị vẫn bị ám ảnh về mối họa họ Lý. Chị thường nghe cha mẹ bàn chuyện và chaluôn nói cơ nghiệp nhà Trần chưathể vững vàng khi chưa diệt xong tàn dư họ Lý. Những ngày gần đây, chachị còn nói rõ là phe họ Lý tại Qui Hóa và Đà Giang đang trở thành nguy hiểm. Nhiều người đã nghĩ đến chuyện triều đình phải động binh, đưa đại quân lên đánh dẹp, nhưng Hoàng Thượng không chịu. Hoàng Thượng cho rằng binh đao chỉ khiến tình thế rối loạn thêm nên quyết định chọn con đường hoà giải với người họ Lý. Ngày Hoàng Thượng ban chiếu chiêu an, chị thấy cha hầm hầm tức giận vì cho rằng Hoàng Thượng nhu nhược đang làm hư cơ đồ của dòng họ. Hôm đó là lần đầu tiên chị bị cha gắt đuổi về phòng không cho luẩn quẩn bên mẹ. Thành ra chị đoán là cha vẫn không chịu từ bỏ ý đồ tận diệt người họ Lý. Nhưng lúc này, cha chị không thể dùng binh lực triều đình nên chắc chắn phải tìm cách thúc đẩy những thế lực khác làm thay, chẳng hạn thúc đẩy sơn trại họ Hà tranh chấp với họ Lý rồi thừa cơ ngầm cho người các trấn lén đóng vaibên này, bên kia mà diệt trừ cả hai. Như thế chính là thượng sách, sao dám bảo không đem lại được thứ gì!
Quốc Ân lặng thinh trước lời phân giải của Thụy An, nhưng chưa hết thắc mắc:
-Dù cho Quốc Sư quả có ý ấy cũng không dễ sai khiến các thế lực, nhất là sơn trại họ Hà. Tới nay họ Hà vẫn không nhận cho triều đình chi phối và vừa rồi chị đãthấy chúng còn công khai chống báng nữa.
Thụy An nói với giọng quả quyết:
-Cha chị không khi nào dùng lệnh triều đình để sai phái họ Hà mà có nhiều cách sai phái khác. Qua việc Hà Đằng gãy gổ tại An Miên lữ quán, chị nghĩ họ Hà đãlầm rơi vào cái bẫy nào đó do thuộc hạcủachachị giăng ra. Còn việc họ Hà ngỗ ngược không tuân lệnh triều đình thì có ai lạ gì. Nhưng họ Hà cứ chống lại triều đình mà vẫn bị triều đình sai xử cũng làchuyện thường thôi.
Quốc Ân hỏi:
-Do đâu màchị cho rằng Hà Đằng lầm mưu?
-Việc Hà Đằng đi cùng với Quách Bá Liêm khiến chị nghị thế. Em nhớ lão họ Quách chứ?
Quốc An lắc đầu:
-Em đã gặp lão ta khi nào đâu?
Thụy An bật cười:
-Đúng là em chỉ vùi đầu vào mấy cuốn sách và mấy lưỡi gươm thôi. Lão họ Quách có mặt ít nhất hai lần mỗi năm tại phủ suốt mười mấy năm nay mà em không hề biết lão thì khó tin nổi.
-Y tới phủ làm gì?
-Y là khách buôn chuyên cung cấp vải vóc và đồ dùng cho phủ. Chị nghe nói y tới tận KimLăng của nhà Tống để mua hàng về bán. Mỗi năm y mang hàng về phủ hai lần và bao giờ chị cũng thấy cha chị cho gọi y vào thư phòng sau khi y giao hàng cho mẹ chị.
Thấy Quốc Ân ngẩn người, Thụy An tiếp:
-Chị cho rằng y cũng là thuộc hạ của cha chị và lần này y có sứ mạng đẩy họ Hàchống lại họLý.
-Vậy chị tin chủ quán An Miên và mấy người kia đều thuộc phe họ Lý?
-Chị đâu biết gì về họ mà tin với không. Nhưng dù thế nào thì có nhiều phần chắc chắn là họ bị vô cớ gãy sự vàchịu thiệt thòi, nhất là Vạn chủ quán.
Quốc Ân nói:
-Ngày mai về lộ phủ, em sẽ theo dõi chuyện này để nếu cần thì giúp họ. Mà này, chị có thấy không?
Thụy An ngạc nhiên:
-Em muốn nói về điều gì?
-Em không tin anh bạn mới họ Nguyễn của em là kẻ đi buôn. Anh ta có vẻ khác hẳn từ tướng mạo tới phong thái so với đám dân thường. Ngoài ra, em còn
nghĩ anh talà một tay có bản lĩnh võ công rất cao.
Thụy An gật đầu:
-Chị cũng nghĩ như em. Nhưng bản lĩnh võ công cao thì đâu phải chỉ những người đặc biệt mới có nổi. Em có nhớ người bí mật đã cứu mình không? Người này cũng có bản lĩnh không vừa.
Quốc Ân như trút hết mọi gánh nặng khi nghe nhắc tớl người bí mật. Chàng lên tiếng sôi noi:
-Em không dám tin trên đời lại có nổi một người như thế. Em từng so tài với nhiều nhân vật võ lâm kinh thành và nể phục bản lĩnh của nhiều người, nhưng em dám chắc không ai so nổi với người đã cứu chúng minh, ông ta xuất hiện như quỉ thần vàtài đánh ám khí ngoài hẳn tưởng tượng.
Chàng tắc lưỡi:
-Thật tiếc là ông ta không chịu xuất đầu lộ diện cho mình được thấy dung mạo.
Thụy An nói:
-Chị nghĩ là người đó đã có mặt trong đại sảnh An Miên lữ quán và đã phóng ám khí cản Hà Đằng không cho y chém người bạn họ Nguyễn của em. Chưa biết chừng người này còn có liên quan đến việc Hà Đằng bị ám toán khi y gãy gổ với em.
Cả hai cùng im lặng rồi Thụy An lên tiếng:
-Nếu có những người như thế tiếp sức thì mối lo của Quốc Mẫu chắc không còn nữa.
Quốc Ân trợn tròn mắt nhìn Thụy An:
-Chị định cản trở công việc của Quốc Sưsao?
Thụy An thở dài:
-Chị đâu dám nuôi ý định chống lại cha. Nhưng chị không thể an lòng khi thấy mẹ ngày đêm phiền não ưu tư. Gần một tháng nay, lần nào ngồi với chị, mẹ cũng thở dài nói:“Cha con lầm quá rồi. Thế này thì nguy mất”. Em nghĩ coi, trong tình cảnh như vậy, chị phải làm sao bây giờ ?
Quốc Ân nói:
-Nhiều khi chỉ do Quốc Mẫu quá lo xa. Giả dụ họ Lý bị diệt hết như ý Quốc Sư thì có gì nguy hại cho xã tắc đâu? Hơn nữa, em thấy việc đó còn có lợi lớn cho họ Trần củata. Đãchắc gì ý Quốc Sư làlầm!
Thụy An nghiêm mặt nhìn Quốc Ân với vẻ không bằng lòng. Nàng nói chắc từng lời:
-Quốc Ân, em còn nhỏ dại gì nữa mà nông cạn hẹp hòi vậy! Hiện nay, cả triều đình đều vô cùng lo lắng về hiểm họa Thát Đát từ phương bắc. Chính vì thế mà đại quân mới rời Đông Bộ Đầu chuyển lên Ngã Ba Hạc, Phù Lỗ và Chi Lăng. Tình cảnh đó có khác gì kẻ cướp đã tới ngoài ngõ. Vậy mà trong nhà anh em tiếp tục đâm chém lẫn nhau thì sẽ lấy đâu rasức lực ngăn chống kẻ thù khi hữu sự. Khi đó giặc sẽ tràn vào nhà và liệu còn ai có thể giữ nổi mạng sống của mình, nói gì đến quyền lợi riêng. Em hãy nghĩ lại coi họ Lý hay họ Trần sẽ ra sao nếu xã tắc này rơi vào tay quân Thát Đát? Vậy, cần giữ vững xã tắc này hay chỉ cần giữ quyền lợi của dòng họ Trần chúng ta?
Quốc Ân nói:
-Thực tình đã vài lần em nghe Quốc Mẫu phân bày như thế với Quốc Sư. Nhưng ý Quốc Sư cũng chưa hẳn sai vì rõ ràng hiện nay họ Lý chính là mầm loạn ở bên trong. Vậy muốn gom sức chống giặc ngoài thì đâu còn cách nào khác sự diệt trừ thật mau mầm họa bên trong tức là mau chóng đánh tan phe đảng họ Lý.
Thụy An lắc đẩu:
-Việc chấm dứt mầm loạn bên trong là điều cần và làm càng mau càng tốt. Nhưng cứ khăng khăng cho rằng họ Lý là mầm loạn thì phải nhìn lại thật kỹ, vì nếu bảo họ Lý chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mà quên xã tắc thì mưu đồ tận diệt họ Lý để giữ vững cơ đồ cho họ Trần có phải vì xã tắc không? Như thế chị e rằng cái mầm loạn lớn nhất lúc này chưa hẳn là họ Lý mà chính là họ Trần chúng ta. Chính họ Trần đã vì quyền lợi riêng của dòng họ mà tạo ra tình cảnh cốt nhục tương tàn. Chỉ dụ của Hoàng thượng đã nêu rõ cho mọi người thấy rằng xã tắc không phải của riêng dòng họ nào mà là của chung trăm họ. Không thể lo cho trăm họ khi chỉ nghĩ đến lợi riêng của chính mình. Theo chị thì ý chỉ của Hoàng thượng kêu gọi tất cảcùng xoá bỏ hận thù là điều đúng nhất trong lúc này.
-Chị muốn nói tới việc chiêu an?
Thụy An gật đầu:
-Chỉ có cách này mới tránh cho xã tắc khỏi lâm cảnh đầu rơi máu đổ. Cũng chỉ có cách này mới mong sẽ có thêm nhiều cánh tay cùng chung lo giữ gìn xã tắc khi ngoại thù kéo tới. Đây còn là con đường duy nhất có thể dẹp yên mọi mầm mống nội loạn khi mà việc động binh liên tục hơn hai mươi năm nay chỉ như đổ thêm dầu cho ngọn lửa chia xé hận thù ngùn ngụt bốc cao. Mẹ chị nói cha chị lầm không phải nói sai đâu. Chachị lầm thực rồi.
-Nhưng nếu phe đảng họ Lý khăng khăng không hưởng ứng chiếu chiêu an thì sao?
-Chị cho rằng việc đúng ắt có người theo miễn là người đề xướng thực lòng làm việc đó. Khi triều đình quyết tâm đặt xã tắc lên trên quyền lợi riêng của mình, tận tụy chăm lo cho hạnh phúc trảm họ thì chính trăm họ sẽ biết phân biệt phải trái mà chọn lựa nên hành động ra sao. Em nghĩ coi có ai muốn đi theo con đường sai trái? Nếu cho rằng họ Lý cứ khăng khăng không hưởng ứng chiêu an thì trong tinh cảnh đó chắc chắn họ khó có sự tiếp sức của dân chúng như hiện nay để duy trì sức mạnh.
Thụy An ngưng lại nhìn ngọn đèn đang lay động cân nhắc từng lời nói tiếp:
-Theo ý nghĩ của mẹ chị, rất có thể cha chị đang tìm cách biến chiếu chiêu an của Hoàng Thượng thành một cạm bẫy. Như vậy, phe đảng họ Lý không hưởng ứng chiếu chiêu an thì không phải lỗi của họ mà là do lỗi của cha chị cố tình ngăn trở việc hưởng ứng của họ.
-Quốc Mẫu sợ Quốc Sư ngăn trở chiếu chiêu an bằng cách nào?
-Mẹ chị cho rằng cha chị có thể dùng quyền lực buộc các lộ trấn thl hành thủ đoạn ngầm hại những người họ Lý bằng lòng từ bỏ binh giáp. Ngoài ra, các lộ trấn cũng có thể tìm cách kích động cho các phe đảng họ Lý gãy thêm biến động vàtình hình sẽ thành trầm trọng hơn so với hiện nay.
Quốc Ân lắc đầu:
-Em không nghĩ sự việc sẽ diễn ra như thế. Trong chiếu chiêu an, Hoàng Thượng đã nói rõ là các lộ trấn phải giúp đỡ những người hưởng ứng việc chiêu an và không được có thêm hành vi thù nghịch nào với người họ Lý thì các lộ trấn đâu dám nghịch chỉ.
Thụy An thở dài:
-Em bao giờ cũng nhìn sự việc một cách đơn giản và quên những khúc mắc của thực tế. Lẽ ra em phải thấy rằng hết thẩy quan chức cầm đầu các lộ trấn đều là người thân tín của cha chị từ mấy chục năm rồi. Tuy không ai dám công khai làm trái ý Hoàng thượng, nhưng nếu cha chị ngầm ra lệnh cho họ thì cũng không phải không có người kín đáo tuân theo. Vảlại, có ai không biết Hoàng thượng luôn coi trọng cha chị như cha đẻ? Vậy khi nhận được lệnh của cha chị, họ có dám cãi lại không?
Quốc Ân chưa bao giờ nghĩ về những điều này nên không thể biện bạch với Thụy An. Thêm nữa, chàng vẫn nể phục người chị họ là người luôn tỏ ra chín chắn, sâu sắc trước từng sự việc. Phía sau vóc dáng yêu kiều, yếu đuối của Thụy An bao giờ cũng tỏa ra một sức mạnh lạ kỳ trước mắt Quốc Ân. Chàng tìm cách lảng sang chuyện khác:
-Có thể Quốc Mẫu quá lo xa mà tưởng tượng ra như thế chứ Quốc Sư hành sự ra sao có trời mà đoán biết nổi. Em nghĩ là nên chờ một thời gian coi sự việc diễn biến rasao thay vì bàn trước quásớm.
Thụy An chưachịu chấm dứt câu chuyện:
-Chị sợ là khi sự việc đã xẩy ra thì không ai còn cách gi ngăn trở nổi nữa, nhất là vào lúc mà quân Thát Đát đang sẵn sàng có mặt ở bắc thùy như thế này.
Quốc Ân nói:
-Em nghe nói là Thát Đát chỉ động binh vượt biên thùy sau khi chiếm xong nước Đại Lý. Lúc này tình hình chiến trận tại Đại Lý còn chưa ngã ngũ thì ngay cả mối lo Thát Đát cũng là quásớm.
Chàng nhìn Thụy An đổi giọng:
-Nhưng nếu chị thấy cần phải làm gì cho vơi bớt mối lo của Quốc Mẫu và của chị thì cứ nói. Lúc nào em cũng sẵn sàng làm theo ý chị.
Thụy An vỗ nhẹ vai Quốc Ân cảm động nói:
-Chị mừng có em sẽ cùng chia xẻ mối lo.
Nàng nhìn vào cặp mắt đang chờ đợi của
Quéo Ân hathấp giọng đáp:
-Chính do ý của mẹ chị nên chị mới được theo em đi ngoạn cảnh thế này và về Qui Hoá thăm chú thím. Mẹ chị cho rằng nếu cha chị cố ý cản trở chiếu chiêu an thì người đầu tiên nhận lệnh chắc chắn là chú. Cho nên mẹ chị muốn biết rõ ràng sự việc thế nào. Công việc của chị trong chuyến đi này là dò xét ý tứ của chú coi chú đã nhận lệnh củachachị chưa. Nếu quảchú đã nhận lệnh thì phải báo cho mẹ chị biết ngay để mẹ chị kịp thời lo liệu hầu giảm bớt những điều nguy hại có thể xẩy ra.
Quốc Ân gật đầu lialịa:
-Chuyện chỉ có thế thì em tin sẽ lo xong. Mấy năm gần đây, cha em vẫn đem một số việc lộ trấn racho em góp ý. Em sẽ có cách hỏi để biết rõ hư thực.
Bức rèm buông nơi ô cửa ngăn giữa hai khoang chợt vén lên cắt ngang câu chuyện. Nữ tì Thảo Nhi từ khoang bên bước sang nói với Thụy An:
-Khuyalắm rồi, xin Quận Chúa đi nghỉ!
Thụy An theo Thảo Nhi về khoang thuyền kếbên, kéo cánh rèm xuống.
Quốc Ân vặn nhỏ ngọn đèn, bước ra mũi thuyền, ngồi ngắm dòng sông mờ sáng dưới ánh trăng hạ tuần. Con thuyền rời Bến Chợ đã xa nhưng phía sau chàng như còn rạng ánh lửa. Quốc Ân rùng mình nhớ lại chuyện vừa xẩy ra. Chàng chưa qua nổi nỗi kinh hoàng khi thấy Thụy An bị người bịt mặt kiềm chế. Chàng lẩm bẩm tự trách:
-Mình thật đáng chết vì ngu dại manh động.
Bỗng chàng giật mình thấy một con thuyền từphía sau đang phăng phăng lao tới. Thuyền nhẹnước xuôi lại chèo gấp nên phóng tới rất nhanh. Chốc lát con thuyền đãtới sát phíasau thuyền Quốc Ân. Chàng nghĩ thầm:
-Lại có chuyện rắc rối nữachăng!
Con thuyền vượt lên ngang thuyền Quốc Ân và tiếp tục lướt tới. Quốc Ân thấy người trẽn thuyền không lưu ý tới thuyền chàng nên chỉ lặng lẽ quan sát. Chiếc thuyền lạ đã lên ngang chổ Quốc Ân ngồi và qua khoang thuyền để ngỏ, chàng thấy hai người đang ngồi đối diện bên một ngọn đèn. Ngay cái nhìn đầu tiên, Quốc Ân đã nhận ra hai người lái trâu từng có mặt hồi chập tối tại An Miên lữ quán. Hai người có vẻ đang bàn một chuyện gì quan trọng và bỗng nhiên Quốc Ân chợt nghĩ:
-Mấy người này có thể liên can đến những chuyện vừa xãy ra.
Nhưng thuyền của họ vượt lên rất mau khỏi thuyền chàng và hối hả lao về phía trước. Quốc Ân quay lại thúc các tay chèo bơi nhanh hơn nhưng con thuyền lạ đã xa dần vàchìm khuất vào bóng tối."
Đầu giờ Dần thuyền về tới bến.
Từ bến sông về lộ phủ băng ngang một cánh rừng thưa gần mười dặm nên Quốc Ân phải chờ tới lúc mặt trời xuất hiện ờ phía đông mới lệnh cho gia nhân lên đường và giữa giờ Tỵ mới về tới lộ phủ.
Từ xa, Quốc Ân thấy cửa dinh mở rộng và một đoàn người ngựa đang kéo ra dẫn đầu là một kỵ binh giơ cao lá hiệu kỳ mầu đỏ sẫm. Nối theo sau là hai hàng kỵ binh vác gíao dài kìm ngựa đi chậm từng bước. Cách toán kỵ binh một khoảng ngắn, viên Thừa Lệnh ty Nội Hàn mặc phẩm phục cho ngựa đi giữa hai người mặc áo lụa xanh. Quốc An quan sát hai người này một hồi và bật kêu lên:
-Sao lại có chuyện này?
Thụy An ngạc nhiên nhìn Quốc Ân nhưng chàng không rời mắt khỏi hai người đang thả ngựa đi song song với viên Nội Hàn. Chàng đã nhận ra đó là hai người ngồi trên chiếc thuyền nhẹ đêm qua và từng xuất hiện tại An Miên lữ quán như những lái buôn trâu.
Thấy Quốc Ân có vẻ khác thường, Thụy An hỏi:
-Chi vậy, Quốc Ân?
Đoàn người đã đi qua một khoảng dài. Quốc Ân quay lại nhìn Thụy An, nói: -Chuyện lạlắm. Nhưng mình hãy về phủ rồi em sẽ kể chị nghe.
Hồi 4: An Phủ Sứ Trần
BIẾN ĐỘNG TRÊN SƠN TRẠI
Kiều đang ngồi với Thủ Ngự Đỗ Nghiêm tại Nghị Sự đường thì binh sĩ vào báo:
- Bẩm tướng công, công tử từ Thăng Long về thăm nhà, có quận chúa Thụy An cùng đi.
Trần Kiều vội bước ra khách sảnh. Quốc Ân quì lạy ra mắt:
- Thưacha, con vừa về tới.
Thụy An toan quì xuống nhưng Trần Kiều đưa tay ngăn lại. Giọng ông sang sảng:
- Cháu gái talớn mau quá!
Ông quay qua nạt Quốc Ân:
-Sao mi không phái người về báo tin có quận chúa đi cùng để ta cho người đón?
Thụy An vội nói:
-Thưachú, đây là ý của mẹ cháu nên Quốc Ân phải làm theo.
Quốc Ân giải thích thêm:
-Quốc Mẫu nói tuyệt đối không được báo cho bất kỳ ai về chuyến du ngoạn của quận chúa để tránh gãy phiền phức cho quan viên các trấn lộ.
Trần Kiều lắc đầu:
-Bà chị ta quả là kỳ. Quan viên các trấn lộ bất quá là thuộc hạ của mình để sai phái khi hữu sự mà lại sợ phiền hà là làm sao! Nhưng thôi, ý của Quốc Mẩu là lệnh truyền. Bây giờ con hãy đưa quận chúa vào hậu dinh gặp mẹ con và nghỉ ngơi
cho lại sức. Nhớ nhắc tất cả gia nhân và người trong phủ tuyệt đối giữ kín chuyện. Kẻ nào lẻo mép tasẽ treo cổ lên.
Ông đổi giọng nói với Thụy An:
-Cháu hãy đi nghỉ cho đỡ mệt, chờ ta lo xong công việc ở đây rồi chú cháu sẽ hàn huyên.
Ông ra trước khách sảnh nhìn theo Thụy An đi về phía hậu dinh và thấy mình quan trọng hẳn lên. Từ lâu, ông vẫn tự hào về tương quan cốt nhục với Quốc Sư nhưng cũng nhiều lần thất vọng về điều này vì sự lạnh nhạt của Quốc Sư. Nhiều lúc, Trần Kiều thầm nhủ:
-Ông ấy coi mình không hơn những người khác.
Sự xuất hiện đột ngột của Thụy An khiến nỗi thất vọng kéo dài đó của ông vụt tiêu tan tựa hồ chưa bao giờ từng có. Vừa nhìn theo Thụy An, ông vừa nghĩ đến cảnh hiếm muộn của người anh họ vàtắc lưỡi:
-Tội nghiệp, ông ấy chỉ có một mụn con gái yếu đuối.
Ý nghĩ của ông chuyển dần về thời gian sát cánh ngày đêm bên người anh họ. ông khẽ lắc đầu:
-Có khi nào ông ấy rời khỏi công việc đâu.
Trong khoảnh khắc đó, ông bỗng nhớ tới nỗi ưu tư đang đè nặng tâm trí ông. Gân nửa tuần trăng, ông cùng người em kết nghĩa là Đỗ Nghiêm không tìm nổi lời giải đáp cho một câu hỏi mà cứ mỗi khi nhớ tới là ông lạnh người. Chỉ mười ngày sau khi nhà vua ban chiếu chiêu an, ông nhận một lá thư riêng của Quốc Sư dặn dò phải hành xử như thế nào. Sau một đêm trằn trọc, ông đành đưa thư cho Đỗ Nghiêm đọc với hy vọng Đỗ Nghiêm sẽ giúp ông hiểu sự việc dễ dàng hơn. Vừa đọc xong láthư, Đỗ Nghiêm trợn tròn hai mắt nói gần như kêu lên:
-Quốc Sư tính chuyện đoạt ngôi sao?
Câu hỏi đó cũng chính là câu hỏi nổi lên trong đầu ông và ông không biết tiến thoái ra sao. Một bên là chiếu chỉ của nhà vua, một bên là lệnh riêng của Quốc Sư và hai cái lệnh lại buộc ông phải làm những việc hoàn toàn trái ngược. Đỗ Nghiêm bàn:
-Có lẽ lão huynh nên về kinh diện kiến Quốc Sư để biết rõ ràng hơn.
Trần Kiều lắc đầu:
-Làm thế thì có khác gì tự thú về việc mình do dự không chịu thi hành lệnh của Quốc Sư. Ta không thể về kinh trong lúc này.
Nhưng ông không thể tìm ra cách nào khác ngoài việc dùng dằng suy tính và thoáng chốc gần nửa tuần trăng đã trôi qua. Sáng sớm nay ông toát mồ hôi khi nghe gia nhân vào báo:
-Có hai khách lạ xin được yết kiến đại nhân.
Trần Kiều ngạc nhiên:
-Chưatới giờ talên công đường màcó khách xin gặp làthế nào? Gia nhân thưa:
-Thuộc hạ đã nhắc điều đó, nhưng họ nói cứ vào thưa với đại nhân là có Nguyễn Đông và Lê Bảo ở Kinh Bắc ghé thăm đại nhân.
Trần Kiều ngỡ như sét nổ trên đầu. ông cho triệu ngay Đỗ Nghiêm tới trong lúc nhắc sai nhân:
-Ngươi ra mời khách vào khách sảnh và thông báo là ta sẽ tới khi sửa soạn xong.
Ông đón Đỗ Nghiêm trước hậu dinh, nói ngay:
-Quốc Sư cho người tới kiếm. Lê Bảo, Nguyễn Đông đang chờ tại khách sảnh. Đỗ Nghiêm nhíu mày:
-Mấy tên này về lập trại ở Kinh Bắc gần mười năm nay rồi, đâu còn là người của phủ Quốc Sư nữa.
Trần Kiều lắc đàu:
-Ta vẫn đoán việc họ rời phủ Quốc Sư thuở đó chỉ là do Quốc Sư sắp đặt để dùng họ vào những công việc đặc biệt thôi. Lão đệ hẳn chưa quên họ là những tùy tùng thân tín nhất của Quốc Sư nên không thể có chuyện Quốc Sư cho họ về nghỉ sớm như thế. Có thể Quốc Sư phái họ tới trách cứ chúng ta.
Đỗ Nghiêm nói:
-Bề gì thì ta cũng cần gặp họ coi sự thể ra sao. Tình cảnh lúc này của ta là tùy
cơ ứng biến.
Lê Bảo, Nguyễn Đông có vẻ đang nóng nẩy bồn chồn trong khách sảnh. Trần Kiều cùng Đỗ Nghiêm bước vào, Lê Bảo nói ngay:
-Chúng tôi đang thi hành lệnh Quốc Sư, hiện có việc khẩn cấp cần bàn với đại nhân và tướng quân. Trần Kiều mời khách vào Nghị Sự đường. Lê Bảo tiếp tục lên tiếng:
-Lộ Qui Hoá là nơi Quốc Sư đặc biệt lưu tâm. Chúng tôi nhận lệnh cố tim cách thúc đẩy cho các sơn trại ra mặt kình chống với phe đảng họ Lý. Quốc Sư dặn kỹ là có thể nhờ cậy hoàn toàn vào sự hỗ trợ của đại nhân vì Quốc Sư đã có lệnh cho đại nhân rồi.
trần Kiều nhủ thầm:
-Vậy là Quốc Sư chưa ngờ vực gì về thái độ củata đối với cái lệnh đã đưara. Ông cảm thấy yên tâm, nói:
-Bản phủ đã nhận lệnh Quốc Sư phổ biến chiếu chiêu an, ngoài ra chưa nhận được lệnh chi tiết nào về việc đối phó với các sơn trại và phe đảng họ Lý.
Lẽ Bảo giải thích:
-Không phải đó là hai việc mà chỉ là một. Theo Quốc Sư, phe đảng họ Lý đang mưu đồ lợi dụng chiếu chiêu an cho người len lỏi tìm thời cơ thi hành kế sách nội ứng ngoại hợp hòng phá nát công lao gian khổ của chúng ta mẩy chục năm qua. Vì thế ta không thể thành tâm chào đón họ mà phải tương kế tựu kế, một mặt kín đáo triệt hạ người của họ Lý tìm về, một mặt trút trách nhiệm cho các sơn trại để họ xâu xé lẫn nhau. Sở dĩ Quốc Sư không thể nói rõ vì muốn sự việc xẩy ra hết sức kín đáo và các lộ trấn chỉ ngầm yểm trợ cho những người như chúng tôi khi được yêu cầu.
Trần Kiều hỏi:
-Chẳng hay bữa nay nhị vị yêu cầu điều gì?
Lê Bảo nói:
-Tối qua chúng tôi có mặt tại Bến Chợ, chứng kiến tẩt cả chuyện xẩy ra nên biết đại nhân hiện đang giữ trong tay những phạm nhân vô cùng quan trọng. Chúng tôi e rằng đại nhân có thể thiếu tin tức xác đáng, thả các phạm nhân kia ra
thì một cơ hội tốt sẽ trôi qua. Chính vì vậy mà chúng tôi cố gặp đại nhân sớm như thế này.
Thấy Trần Kiều có vẻ chưa hiểu rõ, Lê Bảo tiếp:
-Sơn trại có thế lực nhất vùng này là sơn trại họ Hà. Cái cơ hội mà ta đang có là cơ hội độc nhất vô nhị để vừa khiến sơn trại họ Hà sống chết với phe đảng họ Lý vừa kéo sơn trại họ Hà nghiêng về phía triều đình. Đặc biệt là việc khai thác cơ hội này rất dễ dàng nếu đại nhân cho làm theo suy tính củachúng tôi.
-Nhị vị định làm gi?
-Chúng tôi biết một người đang bị giữ tại lộ phủ là người rất quan trọng của phe đảng họ Lý. Nội sáng nay, đại nhân nên cử người tới ngay sơn trại họ Hà lấy danh nghĩa thăm hỏi sức khoẻ Hà Đằng đông thời giao cho họ các phạm nhân kia như món quà thân hữu. Trong tình thế hiện nay sơn trại sẽ hạ sát ngay các phạm nhân và cái hố sâu thù hận giữa sơn trại với họ Lý không cách nào san lấp nổi. Khi hai bẽn hết nương tay với nhau, ta chỉ kín đáo thổi cho lửa thù bùng thêm bằng cách cho người giả trang bên này hoặc bên kia mà tỉa lần người của họ để đạt cái điều mà từ lâu chúng ta vẫn mong là tiêu hao sức mạnh của họ mà vẫn giữ nguyên thế đứng ngoài vòng tranh chấp.
Trần Kiều nhíu mày suy nghĩ rồi hỏi:
-Chẳng hay người quan trọng của phe họ Lý mà nhị vị nhắc tới làai? Lê Bảo nói:
-Người đó chính là Vạn chủ quán. Chúng tôi đi lại vùng này từ lâu theo lệnh Quốc Sư và vừa biết chắc cái họ Vạn của chủ quán An Miên chỉ là một họ giả. Lão đích thực là Trung Dũng Hầu Lý Bảo Tuấn, viên tướng nổi danh một thời của nhà Lý. Kỳ tế tiên hậu năm Thìn trước đây, y thoát chết và biệt tích gần hai chục năm nay. Một người như Lý Bảo Tuấn mà bị giết thì phe đảng họ Lý phải coi là mối đại thù không nguôi ngoai nổi. Chính vì vậy, chúng tôi mới nghĩ nên giao y cho sơn trại họ Hà để đẩy hai bên vào thế không đội trời chung.
Lẽ Bảo vừa dứt lời thì Đỗ Nghiêm lalớn:
-Không thể được! Không thể làm thế được!
Lê Bảo ngạc nhiên nhìn Đỗ Nghiêm:
-Tướng quân thấy không được vì lẽ gì?
Đỗ Nghiêm không giấu vẻ hậm hực:
-Làm thế là vứt bỏ hết thể diện triều đình và uy quyền phủ quan trên đất Qui Hoá này.
Giọng Lê Bảo trở thành lạnh lẽo:
-Tướng quân quá lời chăng? Việc của triều đình do chính Quốc Sư ra lệnh sao lại có thể bảo là vứt bỏ hết thể diện triều đình?
Đỗ Nghiêm thấy Lê Bảo cố nhắc hai tiếng Quốc Sư đề trấn áp mình thì nóng bừng toàn thân. Ông nói:
-Quốc Sư không hề trực tiếp ra lệnh làm công việc này. Đây chỉ là ý riêng của nhị vị về cách thi hành lệnh của Quốc Sư. Nhưng nhị vị đã nhìn sự việc từ phía của nhị vị chứ không hề nhìn từ phía triều đình. Nhị vị quên rằng đất Qui Hoá này là đất của triều đình và người cầm cân nẩy mực ở đây là phủ quan chứ không phải người của sơn trại họ Hà. Mọi chuyện xẩy ra tại đây chỉ có người thay mặt cho triều đình mới có quyền phân xử. Nay bỗng dưng phủ quan hạ mình mang tội phạm nộp cho họ Hà mặc tình chém giết thì có khác gì quì gối dâng đất triều đình cho kẻ khác. Bao lâu nay họ Hà vẫn tự tung tự tác coi như trên đầu không có ai. Nếu không có những khó khăn do phe đảng họ Lý gãy ra khiến triều đình phải giả điếc làm ngơ thì toi đã trói đầu họ Hà điệu về cho phủ quan trừng phạt từ lâu rồi. Hơn nửa, ba người đang bị giữ kia chưa hẳn đã mắc tội thì đâu có thể nhẫn tâm đẩy họ vào cái chết oan ức như thế. Phủ quan là ngựời thay mặt triều đình mà lại làm một việc vừa bất trung, bất chính vừa bất nghĩa, bất nhân như thế thì thể diện triều đinh còn gì nữa.
Thấy Đỗ Nghiêm đầy sắc giận, Lê Bảo đổi giọng:
- Ý Đỗ tướng quân hoàn toàn chính xác ở cương vị một mệnh quan triều đình chăm lo cho bách tính. Đó là điều ai cũng phải nghĩ tới trong lúc bình thường. Hiện nay, chúng ta ở một tình thế khác. Một mặt chúng ta không thể trễ nải thi hành lệnh Quốc Sư, mặt khác không phải lúc nào chúng ta cũng có cơ may hiếm có như đang có. Chính vì sợ cái cơ may này qua mất khiến không làm tròn phận sự do Quốc Sư giao nên chúng tôi mới nghĩ đến việc kiachứ không phải chúng tôi bỏ quên thể diện triều đình. Vả lại, thể diện triều đình đâu có thể dễ dàng mất đi chỉ do một việc làm mà phải tùy thuộc vào nhiều công việc kéo dài theo năm tháng, về điều này, chúng tôi tin là đại nhân cùng tướng quân không thể nào sơ khoáng.
Đỗ Nghiêm toan lên tiếng thì Trần Kiều đưa tay ngăn lại. Từ lâu, Trần Kiều cũng không ưa Lê Bảo, Nguyễn Đông, nhưng ông không muốn gãy bất hoà vì họ là người thân tín của Quốc Sư. ông nói:
-Tốt nhất là ta hãy nhìn lại chính công việc mà nhị vị nêu ra. Theo bản phủ, cử người lên thăm hỏi sức khoẻ Hà Đằng là điều nên làm và cần làm ngay. Bản phủ sẽ cho thực hiện tức khắc theo ý nhị vị. Riêng việc giao các phạm nhân cho sơn trại họ Hà thì cần xem xét lại, nhất là Lê tướng quân vừa cho biết Vạn chủ quán có thể là Trung Dũng Hầu Lý Bảo Tuấn. Nếu quả điều này là đúng thì so phận phạm nhân không thể do lộ trấn quyết định mà phải chờ lệnh Quốc Sư, thậm chí phải chờ lệnh Hoàng Thượng. Ý của bản phủ là thế, chẳng hay nhị vị thấy sao?
Lê Bảo nhìn Nguyễn Đông dò hỏi nhưng thấy Nguyễn Đông im lặng nên đành gật đầu:
-Chúng tôi chỉ nêu ý kiến thôi. Mọi việc ở đây vẫn do đại nhân định đoạt. Trần Kiều nói:
-Nếu vậy phiền nhị vị vui lòng chịu khó nhọc tháp tùng sứ giả cùng lên sơn trại họ Hà để công việc tốt đẹp hơn. Sứ giả sẽ nhất nhất tuân theo hướng dẫn của nhị vị trong cách hành xử sao cho họ Hà dễ dàng thân thiện với ta. Bản phủ còn nghĩ đây cũng là cơ hội để nhị vị thấy tận mắt cách thức sắp đặt của họ Hà trên sơn trại và điều này ắt có lợi không nhỏ về sau.
Ông truyền đòi Thừa Lệnh ty Nội Hàn tới, nói:
-Ngay lúc này ngươi thay mặt bản phủ lên sơn trại thăm hỏi sức khoẻ Hà trại chủ và bày tỏ tình thân của bản phủ đối với sơn trại. Nhị vị đây sẽ là tùy nhân của ngươi, nhưng mọi việc lớn nhỏ ngươi đều phải dựa theo ý kiến của nhị vị để tránh sơ thất.
Nội Hàn nhận lệnh lui ra chuẩn bị lễ vật rồi cùng Lê Bảo, Nguyễn Đông tức khắc lên đường.
Trần Kiều, Đỗ Nghiêm tiễn đoàn người xong, quay lại Nghị Sự đường thì nhận tin Thụy An tới.
Trong lúc nhìn theo Thụy An, ông lại thấy hiện lên thật rõ mối tương quan thân tộc giữa ông với Quốc Sư. Những e dè về sự có mặt của Lê Bảo, Nguyễn
Đông tan đi rất nhanh, ông nhủ thầm:
-Vậy là ông ấy ngầm nhắc mình rằng không lúc nào ông ấy không lo cho mình. Người xưa nói một giọt máu đào hơn ao nước lã quảlà không sai.
Ông quay vào Nghị Sự đường với tâm trạng lâng lâng thư thái. Vừa bước đi ông vừa nghĩ:
-Ngay cả trường hợp mình phạm lỗi với triều đình thì vẫn có ông ấy ngồi đó. Vảlại, nếu mình phạm lỗi chỉ vì tuân theo lệnh của ông ấy thì có gì đáng lo.
Chợt một ý nghĩ bỗng loé sáng trong đầu ông. Ông thở ra một hơi dài, tự trách:
-Mình thật u tối. Có thế mà băn khoăn bao nhiêu ngày.
Bước về phía Đỗ Nghiêm, ông hối hả nói:
-Chúng tacạn nghĩ, suýt mắc tội lớn.
Đỗ Nghiêm ngạc nhiên:
-Đại huynh muốn nói việc gì?
Trần Kiều hạ giọng:
-Gần nửa tháng nay, ta và lão đệ đều ngủ mơ cả. Việc Quốc Sư ra lệnh ngược với lời lẽ của Hoàng Thượng trong chiếu chiêu an chẳng qua là thường tình trong việc binh. Ta vừa sực nghĩ điều này đã được Quốc Sư và Hoàng Thượng bàn tính rất kỹ để mau chóng diệt trừ phe đảng họ Lý. Hoàng Thượng ban chiếu chiêu an chỉ để mở ra một cái bẫy và chính Quốc Sư sẽ làm cho cái bẫy đó sập xuống. Binh bất yếm trá mà. Lẽ ra chúng ta phải tuân hành lệnh của Quốc Sư ngay khi vừa nhận được.
Thấy Đỗ Nghiêm trầm ngâm, Trần Kiều hỏi:
-Lão đệ còn nghi ngờ suy nghĩ củatasao?
Đỗ Nghiêm khẽ lắc đầu:
-Không, tiểu đệ đang nghĩ về tung tích Vạn chủ quán theo tiết lộ của Lê Bảo. Có thể y nói không sai...
Trần Kiều cắt ngang:
-Tasẽ biết ngay thôi, hàtất phải ưu tư. Đích thân tasẽ tra xét việc này.
Vào lúc đó, Nội Hàn cùng đoàn tùy tùng đang trên đường hướng về Bến Chợ. Tại đây cảnh hỗn loạn chưa chấm dứt hẳn. Nhiều đám đông còn tụ tập ồn ào bàn tán quanh An Miên lữ quán và những khu nhà bị cháy hồi đêm. Tuần trưởng cùng một đám tuần đinh cũng có mặt trong đám đông. Khi thấy hiệu kỳ của lộ phủ, tuần trưởng vội dẹp đám đông hiếu kỳ về một phía để mở đường. Đoàn người vượt qua Bến Chợ nhắm hướng bắc đi tới.
Khi thấy xa xa ở phía trước một lá cờ đen đang vùng vẫy tung bay, một tùy nhân nói với Nội Hàn:
-Mình đang đi tới ranh giới địa đầu phía nam củasơn trại họ Hà.
Nội Hàn lập tức cho đoàn người dừng lại và lệnh cho toán kỵ binh hộ tống quay về.
Sơn trại họ Hà bao gồm nhiều ngọn đồi nối tiếp nhau kéo dài gần hai mươi dặm, chiếm một vùng đất bao la phía bắc đèo Cón. Dân toàn trại đông trên mười ngàn người quây quần theo tộc hộ sống trong các khu riêng biệt. Mỗi tộc hộ có một tộc trưởng cầm đầu nhưng mọi việc đều theo lệnh trại chủ luôn là người thuộc tộc họ họ Hà. Khu tộc hộ họ Hà nằm dọc một bên quan lộ và là cửa ngõ của toàn trại giao tiếp với ba hướng đông, nam, bắc. Nội Hàn đã nhìn rõ chữ Hà bằng chỉ thêu màu đỏ xẫm chiếm gần trọn nền đen của lá cờ. ông nói với Lê Bảo, Nguyễn Đông:
-Người họ Hà thường quen xử dụng binh khí trước lời nói với những người đặt chân vào vùng đất của họ mà không kịp nêu rõ lý do. Xin nhị vị lưu tâm.
Lê Bảo lên tiếng:
-Theo tin đồn, dũng binh sơn trại đều võ nghệ siêu quần và khi hữu sự, toàn sơn trại đều là dũng binh. Như vậy, già trẻ trai gái trên sơn trại đều thuộc võ lâm sao?
Nội Hàn nói:
-Tin đồn thì có thể hư hư thực thực nhưng chắc chắn dưới tay Hà Đằng luôn có hơn batrăm thủ hạ võ nghệ cao cường vàlà những tinh binh thiện chiến.
Nội Hàn ngưng nói khi thoáng thấy dũng binh xuất hiện trước trạm canh, ông đưa tay ra dấu cho đoàn người dừng lại và sai một tùy nhân xuống ngựa tiến
lên trước nói rõ ý định viếng thăm.
Trưởng trạm dũng binh liền trương cung bắn thẳng lên không liên tiếp ba mũi tên lửa. Đường tên nối theo nhau vạch thành ba luông khói vươn dài như ba con rông nhỏ quẫy lộn trong gió. Từ một khoảng xa phía sâu trong thung lũng ba con rông khói khác lập tức vụt bay lên.
Chưa đầy một khắc sau, một toán người ngựa rầm rập phi tới và người dẫn đầu ra lệnh ngưng lại khi nhận ra hiệu kỳ của lộ phủ Qui Hoá, rồi thả lỏng tay cương cho ngựachậm rãi bước lên.
Nội Hàn cho ngựa bước tới vái chào, lên tiếng:
-Bản chức được lệnh An Phủ Sứ tới vẩn an Hà trại chủ. Xin phiền tôn ông thông báo và hướng dẫn cho bản chức cùng tùy tùng được tới diện kiến.
Người nọ lặng lẽ quan sát Nội Hàn và những người đi theo. Tất cả chỉ gồm vỏn vẹn chín người không mang võ khí. vẫn lặng lẽ, y đưa tay ra hiệu cho dũng binh đứng về một bên đường rồi quay lại phía Nội Hàn buông thõng:
-Xin mời!
Nội Hàn cùng tùy tùng vượt qua trạm canh, tới đại trại sau hơn nửa giờ ngựa chạy. Đoàn người được đưa vào căn lều vải lớn. Lều rộng thênh thang với hai hàng ghế dài bọc da cọp kê chính giữa. Trước cửa lều, một toán dũng binh bận võ phục đen, áo khoác ngoài bằng da cọp, chít khăn ngang kết búi một bên thái dương, tay gíao tay khiên đứng dàn hàng như những pho tượng. Nội Hàn cùng tùy nhân vừa bước vào lều thì từ phía cửa sau, một ông già xuất hiện. Người dẫn khách nói nhỏ với Nội Hàn:
-Đó là Hà trưởng lão, thúc phụ của trại chủ chúng tôi. Trường lảo sẽ thay mặt trại chủ tiếp quí vị.
Ông già vóc người cao lớn, râu tóc bạc phơ. Ông tiến về phía đoàn người đang đứng chờ, mặt hầm hầm sắc giận. Chìa một bàn tay ra phíatrước, ông nói lớn:
-Mời ngồi.
Ông ngồi xuống chiếc ghế đầu hàng phía đối diện, cất giọng sang sảng như tiếng chuông:
-Các người muốn tới đây nhòm ngó sơn trại để liệu bề động binh chăng?
Nội Hàn chờ ông dứt lời mới điềm đạm nói:
-Từ khi về trấn nhậm lộ này, Trần đại nhân vẫn coi Hà trại chủ là bằng hữu. Nay nghe tin trại chủ gặp chuyện không may vội cho ty chức tới vấn an cùng kính tặng một chút quà mọn để bày tỏ tình thân với trại chủ.
Nội Hàn ra dấu cho tùy nhân khiêng mấy rương đồ tặng, đặt lên chiếc án kê bên trái Hà trường lão. Hà trưởng lão khoanh tay ngang ngực nhìn thẳng về cửa lều. Chờ mọi người lui về chỗ, ông mới lên tiếng, giọng mỉa mai:
-Ngài tới tỏ tình thân bằng quà cáp và lời lẽ trong khi triều đình dồn quân từ Thăng Long lên Ngã Ba Hạc hẳn để chờ cơ hội tỏ tình thân bằng cung tên gíao mác!
Nội Hàn nói:
-Triều đình không chỉ đưa quân lên Ngã Ba Hạc mà còn đông loạt đưa quân lên Phù Lỗ và Chi Lăng. Việc này đã được trù liệu từ hơn mười năm trước nhắm giải quân khỏi Đông Bộ Đầu để việc binh khỏi cản trở việc làm ăn của bách tính chứ không hề có ý nghĩa nào khác.
Hàtrưởng lão cười nhạt:
-Không cản trở việc dân tại Đông Bộ Đầu thì cản trở việc dân tại Ngã Ba Hạc. Riêng ta biết rõ Trần Thủ Độ từ thuở Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn còn vẫy vùng nên không lạ gì thủ đoạn của ông ta. Ta nói để chư vị hay rằng dưới tay ta lúc nào cũng sẵn sàng hàng ngàn dũng sĩ đầy đủ giáp mũ cung tên. Chư vị cứ đưa quân ngược sông Thao tới đây, lúc nào tacũng sẵn sàng nghênh đón.
Giọng Hàtrưởng lão càng lúc càng kích động nhưng Nội Hàn vẫn tươi cười:
-Ty chức vâng lệnh đem tới sơn trại ý nguyện kết thân của Trần đại nhân nên chỉ có thể nói cùng trưởng lão chuyện này thôi chứ không dám lạm bàn về điều gì khác.
Hàtrưởng lão suy nghĩ một hồi rồi đổi giọng:
-Thôi được! Binh bất yếm trá! Chư vị muốn mưu tính gì, ta cũng không có quyền chê trách. Còn chuyện kết thân thì không phải chuyện của lời nói xuông mà cần phải xem xét theo nhiều cách. Ta sẽ bàn với chư vị sau khi nắm được ý kiến củatoàn trại. Bây giờ dù sao cũng không thể thất lễ với khách.
Ông vỗ nhẹ hai bàn tay vào nhau. Từ hàng ghế sau, hai người bước lên. Ông
nói:
-Hãy thu nhận quàtặng của Trần đại nhân vàlo bày tiệc tối đãi khach. Ông nói với Nội Hàn:
-Bản trại sẽ thông báo sau về tình trạng sức khỏe của trại chủ. Tạm thời xin mời chư vị vễ nhà khách nghỉ ngơi trước khi dành cho bản trại cái hân hạnh được cùng chư vị nâng chén.
Giữa giờ Dậu, khách được mời dự tiệc ngay trên sân đại trại dưới ánh đuốc rực sáng. Hà trưởng lão mặc áo lụa, đi giầy thêu phong thái khác hẳn lúc tiếp Nội Hàn trong lều hội. Ông hướng về Nội Hàn lên tiếng:
-Bữa tiệc đêm nay không thể hiện hết nghi thức đãi khách của sơn trại vì trại chủ vắng mặt vàlão hủ không dám vượt quyền. Mong chư vị hãy coi đây như một dịp chung vui nhỏ giữachúng ta và niệm tình khoan dung cho sự thất lễ.
Ông rót đầy ly rượu mời Nội Hàn:
-Xin mời cạn ly và nếm thử vài đặc sản miền núi củachúng tôi. Nguyễn Đông ghé tai Lê Bảo thì thầm:
-Thái độ củalão già này có vẻ thuận lợi cho ta.
Lê Bảo không trả lời, chỉ khẽ hất hàm ra dấu cho Nguyễn Đông nhìn về cuối dẫy bàn đối diện. Dưới ánh đuốc, Nguyễn Đông nhận ra lão già bán thuốc dạo đang ngồi trầm ngâm trước vò rượu. Lê Bảo nói nhỏ:
-Lão này đã có mặt tại Bến Chợ hồi tối qua. Không dè lão là người của sơn trại.
Y nhíu mày tiếp:
-Sơn trại chưa hẳn có ý tốt. Có thể họ đang theo đuổi mưu tính gì nên mới cho người thay hình đổi dạng đi sâu về phía nam trong phần đất triều đình như thế.
Nguyễn Đông im lặng nhìn trân trối. Trong khi đó, lão bán thuốc dạo như không lưu ý tới ai. Nguyễn Đông quan sát hồi lâu rồi quay qua nhắc Lê Bảo:
-Lão có vẻ cách biệt với người củasơn trại ngồi xung quanh. Chuyện thật lạ! Lê Bảo toan nói thì vội ngưng lại vì Hà trưởng lão đã đứng lên ra dấu cho mọi
người lắng nghe, ông hắng giọng hướng về phía Nội Hàn nói lớn:
-Bản trại xin báo cùng chư vị là Hà trại chủ đã may mắn qua cơn nguy kịch và đang được điều trị. Nhưng do trại chủ chưa bình phục nên mọi việc quan trọng của trại tạm thời không thể có quyết định rõ ràng. Dù vậy, theo ý chung của các tộc trưởng mà bản trại được biết chiều nay thì cũng cỏ những điều tốt lành để gửi tới chư vị.
Ông ngừng lại như cân nhắc lời nói tiếp theo. Bất ngờ, mọt tiêng pháo lệnh nổ vang và tất cả ánh đuốc vụt tắt cùng lúc với nhiều tiếng rú thất thanh thảm thiết.
Nội Hàn chỉ kịp chụp cánh tay Lê Bảo, lui khỏi chỗ ngồi trong khi hỗn loạn diễn ra khắp sân trại. Dường như ở mọi góc sân đều có tiếng binh khí va chạm chát chúa, tiếng chân người khua động và tiếng hò hét kinh hoảng. Lê Bảo kéo Nội Hàn len lách qua các đám đông cố tách xa xuống triền đồi. Từ phía sau, một giọng nói bốc lên át hẳn mọi tiếng ồn ào khác:
-Hà trưởng lão bị ám hại rồi. Mau đốt đuốc lên diệt hết lũ khởi loạn và bọn chó má họ Trần.
Nhiều ánh đuốc bùng lên rồi lại vụt tắt. Nội Hàn run rẩy:
-Chúng ta nguy rồi.
Lê Bảo đảo mắt nhìn quanh trong ánh lửa bập bùng, thấy trên sân có nhiều nhóm người giao đấu còn ngay sát bên trái y là Nguyễn Đông và batùy nhân đang loay hoay tìm đường trốn chạy. Lê Bảo lập tức kéo Nội Hàn tới nhập bọn rồi cùng ẩn minh trong bóng tối đi thẳng xuống chân đồi.
Hồi 5:
Lê
MỐI HẬN HAI MƯƠI TRƯỢNG ĐÒN
Bảo, Nguyễn Đông dẫn Nội Hàn và ba tùy nhân đi một hồi lâu thì không còn nhận ra mình đang ở đâu. Nguyễn Đông lo lắng bàn:
- Nên kiếm chỗ ẩn mình, chờ tới lúc trăng lên mới có thể nhận ra hướng đi. Lê Bảo lắc đầu:
- Chỗ này vẫn thuộc về phạm vi sân đại trại, không thể nấn ná dừng chân được. Tốt hơn hết làcứ nhắm thẳng phíatrước đi tới cố rời xasân trại.
Ba tùy nhân dìu đỡ Nội Hàn. Lê Bảo, Nguyễn Đông bước lên trước mở đường. Đường đi dầy đặc cây cỏ nhưng không ai nghĩ đến chuyện dừng chân. Rồi Lê Bảo, Nguyễn Đông bỗng thầy giống như mình vừa bước vào một vùng đông trống. Nguyễn Đông thì thào:
- Có lẽ mình đãratới quan lộ.
Cùng lúc, Lê Bảo nhìn thấy cách không xa từ phía trước sừng sững một trạm canh. Y vừa bấm tay Nguyễn Đông thì đã nghe vang lên tiếng quát dữ dội:
- Đứng im!
Tiếp theo,ánh đuốc bừng sáng soi rõ từng ngọn cỏ. Dưới ánh đuốc hơn mười dũng binh dàn hàng ngang, mũi gíao chĩa thẳng tới. Phía sau toán dũng binh là viên trạm trưởng đứng trên một mỏm gò. Gã có vẻ ngạc nhiên nhận ra Nội Hàn và các tùy nhân. Toán dũng binh cũng kịp nhận ra những người đang đứng trước mặt chính là khách của sơn trại. Tất cả đều khựng lại đợi lệnh. Viên trạm trường nghiêm giọng:
-Cớ sao giưã đêm các người lén ra đi thế này?
Lê Bảo toan lên tiếng thì trên sườn đồi có ánh đuốc chiếu sáng và nhiều tiếng la hét. Vượt lên khỏi tiếng la hét ồn ào là một giọng nói lanh lảnh:
-Tất cả các trạm canh không được để một con chó ngao nào của Trần Thủ Độ chạy thoát.
Trạm trưởng lập tức quát dũng binh xấn tới. Một dũng binh lao lên phóng mũi gíao vào ngực Nguyễn Đông. Từ thuở hai mươi tuổi, Nguyễn Đông đã nổi danh là Thần Sóc nhờ tài đánh gíao. Y cười gằn nhìn đối thủ đang phóng mũi gíao tới như mũi tên lao khỏi cánh cung. Chờ mũi gíao tới sát bên, y vụt đảo người cho sướt qua trước ngực. Trong khoảnh khắc đó, y như một bóng ma xuất hiện ngay trước mặt gã dũng binh. Tay trái y đập vào giữa mặt gã và cùng với tiếng kêu kinh hãi của gã, cây gíao đã nằm trong tay y cầm ngang cây gíao, Nguyễn Đông nhếch mép cười nhìn gã dũng binh loạng choạng bước lui trước khi gục xuống.
Toán dũng binh sững sờ trước thủ đoạn đoạt gíao của Nguyễn Đông, rồi nhất loạt tiến lên. Mười mũi gíao cùng phóng tới. Nguyễn Đông đang đứng trơ trơ như bức tượng bỗng hét lên một tiếng nhức óc. Cây gíao trong tay y vụt biến thành một màng lưới thép chặn ngang binh khí của đối thủ. Toán dũng binh gần như cùng lúc đều cảm thấy chấn động do một va chạm mạnh. Mười cây gíao đang chĩa thẳng bị hất ngược lên buộc tất cả loạng choạng bước lui. Cây gíao trong tay Nguyễn Đông vừa quét một đường ngang cực mạnh đã lập tức đâm thẳng tới cực nhanh. Chỉ trong chớp mắt, y đã đả thương ba dũng binh sau khi đánh bay ba cây gíao khỏi tay họ. Trạm trưởng lao tới hỗ trợ vừa kịp nhận một cán gíao bổ xuống như ánh chớp. Gã đưa ngang cây gíao lên chặn lại và cảm thấy hổ khẩu như bị xé toạc. Trước một đám đông, Nguyễn Đông vẫn ung dung xung đông đột tây, đánh nam đỡ bắc. Lê Bảo quay lại nói với batuỳ nhân:
-Cần hiệp sức thanh toán bọn này gấp để kịp thoát khỏi đây trước khi viện binh củachúng từ tren đồi kéo tới.
Bốn người nhào tới cướp những cây gíao bị Nguyễn Đông đánh văng trên mặt đất, đông loạt ào lên. Nhưng toán dũng binh từ trên đồi đã xuống tới nơi dẫn đầu là một người bịt mặt bằng vuông vải đen lớn. Gã bịt mặt dừng lại trẽn gò đất cao mà viên trạm trưởng vừa đứng, hô lớn:
-Không được để một tay chân nào của họ Trần trốn thoát. Hãy bằm nát chúng racho ta.
Ba tùy nhân là những tay gươm cự phách nhưng cộng thêm Lê Bảo, Nguyễn
Đông, họ cũng chỉ có vỏn vẹn năm người trong khi dũng binh đông tới gần hai chục. Họ lại còn phải lo che đỡ cho Nội Hàn nên trong khoảnh khắc đã bị vây bọc khắp bốn phía.
Tình hình đang trở thành tuyệt vọng cho họ thì viên trạm trưởng bỗng la lên, hốt hoảng xoay ngang ngọn gíao. Nguyễn Đông không bỏ lỡ cơ may, gạt bật mũi gíao của một dũng binh phía trước và đập mạnh cán gíao vào giữa ngực trạm trưởng. Gã ngã bật về phía sau khiến hai dũng binh kế bên lâm vào thế bất ngờ lúng túng trước sự tấn công dồn dập của Nguyễn Đông. Khi trạm trưởng vùng dậy được thì hai ngọn gíao từ tay các dũng binh nọ đã bị hất văng lên không, cả hai chỉ kịp chụp lấy viên trạm trưởng kéo lui lại và một đoạn vòng vây đã bị phá vỡ.
Sợ Nguyễn Đông thoát ra, các dũng binh khác liền dồn qua. Lê Bảo và ba tùy nhân được giảm áp lực lập tức phản công tới tấp vàtình thế đảo ngược hẳn.
Gã bịt mặt hừ lên một tiếng khó chịu, đưatay ra phíasau nắm lấy cán lưỡi đao to bản. Nhưng gãchưa kịp rút binh khí thì phíasau có tiếng gọi hối hả:
-Ôn sư phụ! ôn sư phụ!
Từ sườn đồi, một dũng binh giơ cao bó đuốc tất tả chạy xuống, lao thẳng tới nói không kịp thở:
-Hàtrại chủ biến mất rồi!
Ánh mắt gã bịt mặt long lên giận dữ. Gã chộp lấy vai tên dũng binh nói như quát:
-Sao? Trại chủ biến mất hả?
Tên dũng binh lắp bắp:
-Dạ! Không thấy... trại chủ ở đâu!
Gã bịt mặt gầm lên giận dữ, lôi tên dũng binh chạy ngược lên đồi. Sự việc xẩy ra ở sát bên nhưng không một dũng binh nào hay biết, kể cả trạm frường và hai dũng bỉnh bị Nguyễn Đông đánh bật ra ngoài vòng chiến. Tất cả đều tập trung vào trận đánh, cố kìm giữ Lê Bảo, Nguyễn Đông và các tùy nhân không cho thoát khỏi vòng vây. Khi gã bịt mặt và tên dũng binh cầm đuốc vừa chạy ngược lên sườn đồi thì ngay tại gò đất cao đã xuất hiện một người bịt mặt, vóc vạc y hệt gã bịt mặt kia. Người này cũng che mặt bằng vuông vải đen lớn và đeo lủng lẳng sau
lưng lưỡi đao to bản. Gã đảo mắt nhìn diễn biến phíatrước rồi quát lên giận dữ : -Lui hết! Đê lũ chó ngao này cho ta!
Gã chồm tới như con sư tử, ánh đao loé sáng. Nguyễn Đông chấn động vì một va đập mạnh vào cây gíao buộc y phải bước lui về phía sau để không mất thế thăng bằng. Cùng lúc, lưỡi đao trong tay người bịt mặt lia nhanh về phía Lê Bảo. Lê Bảo vội đưa gíao lên cản lại và cũng lảo đảo bước lui, kinh hãi nhìn đối thủ. Người bịt mặt có vẻ hoàn toàn yên tâm sau khi tung hai đòn đánh. Gã dừng lại quát đám dũng binh:
-Các ngươi về ngay đại trại truy diệt bọn khởi loạn.
Đằm dũng binh thu khí giới lui ra. Gãtiếp:
-Mang theo tất cả người bị thương. Nhớ báo với gíao lãnh là ta sẽ về ngay, sau khi xử xong lũ chó ngao này của họ Trần.
Quay lại phía Lê Bảo, Nguyễn Đông, gã gằn giọng:
-Tốt hơn hết là buông gíao qui hàng. Các ngươi không còn hy vọng thoát thân đâu.
Lê Bảo nhìn Nguyên Đông ra dấu. cả hai đã hiểu đang đối mặt với một địch thủ khác hẳn đám dũng binh. Nguyễn Đông hiểu ý Lê Bảo ngầm nhắc chờ lúc thuận tiện sẽ đông loạt ratay. Lê Bảo khẽ nhắc batùy nhân:
-Các ngươi lo cho Nội Hàn để chúng ta đối phó.
Người bịt mặt cười nhạt:
-Không buông gíao xuống thì mạng sống củacác ngươi không kéo dài đâu.
Y nhích mũi đao tới nhưng vẫn đứng im. Lê Bảo, Nguyễn Đông cũng không tấn công trước chỉ xiết chặt cán gíao chờ đợi.
Đám dũng binh bắt đầu rời trạm canh chạy ngược lên đồi, bỏ lại giữa vòng đuốc sáng ba người đang ghìm võ khí thủ thế. Người bịt mặt chậm chậm nhích lên trong lúc Lê Bảo khẽ nhắc Nguyễn Đông:
-Cẩn thận!
Cả hai hạ thấp mũi gíao xuống và không rời khỏi ánh mắt loé sáng của người bịt mặt. Gã nhích thêm một bước roi dừng lại. Lê Bảo, Nguyễn Đông căng thẳng
chờ đợi. Nhưng thay cho một đòn đánh tới, cả hai chỉ nghe một giọng nói nhẹ nhàng:
-Nhị vị hãy thu khí giới, đưa Nội Hàn chạy mau!
Cả hai không tin ở chính tai mình, nhưng người bịt mặt tiếp:
-Cứ theo hướng nam băng rừng đi tới thì có thể về tới Bến Chợ vào lúc trời sáng. Hãy lên đường ngay. Phía nam ở sau lưng nhị vị.
Trước khi Lê, Nguyễn kịp lên tiếng, người bịt mặt đã cài thanh đao ra sau lưng, nhắc:
-Không nên để mất thời giờ! Dũng binh sơn trại sắp trở lại rồi.
Người bịt mặt rời khỏi chỗ như một ảo ảnh và hàng đuốc đang rực sáng bỗng vụt tắt biến khu rừng trở lại thành một vùng bóng tối. Lê Bảo, Nguyễn Đông vừa đưa Nội Hàn vượt qua khu bâi trống len vào rừng cây phía sau lưng thi trên sườn đồi xuất hiện một toán dũng binh đang giơ cao đuốc chạy xuống, dẫn đầu là một người bịt mặt.
Toán dũng binh xuống tới nơi thì trước mắt họ chỉ là sự im lìm với những ngọn đuốc bị dập tắt từ lúc nào. Người bịt mặt giận dữ đập tay vào ngực quát dũng binh:
-Bắn vào rừng cây!
Một trận mưa tên bay vụt đi và mất hút trong rừng cây dầy đặc. Người bịt mặt lặng người một hồi rồi hậm hực ralệnh:
-Dũng binh trạm canh ở lại đây. Tất cả những người khác theo ta về đại trại.
Trên sân đại trại lúc này như có cả một rừng đuốc và chen chúc người đang ồn ào bàn tán. Người bịt mặt ra dấu cho dũng binh dừng lại ngoài sân rồi lặng lẽ bước vòng về phía cửa sau lều hội. Trong lúc đó, cửa trước lều hội được kéo lên và một đoàn người gồm tộc trưởng các tộc hộ từ lều hội bước ra. Các tộc trưởng bước thẳng tới trước toán dũng binh dàn hàng ngang trước cửa lều, phận thành hai nhóm dừng lại. Lúc này, từ cửa lều xuất hiện gíao lãnh Hà Đại Đởm, em họ của trại chủ Hà Đằng. Hà Đại Đờm bước lên đứng giữa hai nhóm tộc trưởng nhìn thẳng về đám đông bằng ánh mắt khó chịu. Y trạc tuổi tứ tuần, vóc ngươi cao lớn với những bắp thịt cuồn cuộn dưới lớp áo mỏng. Đã hơn mười năm, Đại Đởm lãnh nhiệm vụ gíao lãnh của sơn trại lo việc rèn luyện võ nghệ cho dũng
binh. Cái nhìn gườm gườm khó chịu của Đại Đởm khiển tiếng ồn ào trên sân ngưng bặt. Y hắng giọng, lên tiếng:
-Ta báo tin cho toàn tộc hộ và sơn trại hay là trại chủ đả mệnh chung cùng Hà trưởng lão và năm vị tộc trưởng các tộc hộ khác.
Một loạt tiếng la kinh hãi^ bật lên và tiếng ồn ào bùng trở lại khắp sân át hẳn giọng nói của Hà
Đại Đởm đang kể tên những tộc trường bị chết. Y nổi nóng đập mạnh tay vào đốc gươm, quát:
-Ngậm miệng lại hết!
Ánh mắt y loé lên giận dữ như muốn nuốt sống tức khắc hết đám đông. Tiếng y cất lên oang oang:
-Cái chết của trại chủ là do bọn họ Lý gãy ra, như mọi người đã rõ. Còn Hà trưởng lão và các vị tộc trưởng đả bị một bọn phản phúc hèn mạt muốn bán đứng sơn trại cho Trần Thủ Độ bất ngờ ám toán ngay giữasân đại trại.
Nhiều tiếng thở dài hậm hực trút ra từ khắp các góc sân. Đại Đởm cao giọng hơn:
-Ta và các dũng binh trung thành của sơn trại đã diệt trừ xong bọn chúng. Kể từ giờ này, ta tạm nắm quyền trại chủ, ban bố mọi hiệu lệnh cho toàn sơn trại. Ngày mai, lễ tang sẽ được cử hành. Ngay lúc này, tat cả hãy trở ve nhàchuẩn bị các thứ cần thiết theo đúng nghi thức chịu tang trại chủ. Toàn thể dũng binh tiếp tục lo thi hành nhiệm vụ được giao, ncịoại trừ những người bị thương được tạm nghỉ để điều trị. Bất kỳ ai trái lệnh của ta đều bị coi là tùng đảng của bè lũ phản phúc và sẽ bị nghiêm trị.
Y hướng về phíacác tộc trưởng đang dàn hàng hai bên, nói:
-Sau lúc này, các vị hãy tức tốc trở về trại của mình, chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho tang lễ trại chủ. Riêng các trại có người bị thiệt mạng, ta sẽ cử người tới nơi báo tin vàchỉ dẫn các điều cần làm.
Y vẫy tay cho tất cả tan hàng, đứng lặng hồi lâu nhìn theo đám đông rời sân trại rồi quay vào lều hội.
9
Trong lều, xác Hà trường lão cùng các tộc trưởng bị giết được đặt trên những tấm da cọp trải giữa hai hàng ghế. Gã bịt mặt đang ngồi bên xác Hà trưởng lão. Đại Đởm bước tới ngồi xuống bên gã, nói nhỏ:
-Mọi chuyện xong rồi. Chỉ còn mối lo về vụ Hà Đằng mất tích. Nhị ca thấy sao?
Gã bịt mặt đảo mắt một vòng quanh lều, nói:
-Ta đoán lão bán thuốc dạo đã mang Hà Đằng đi trong lúc chúng ta bận lo việc ngoài sân trại.
Gã hừ lên một tiếng bực dọc, tiếp:
-Ta khinh suất nên đãlầm về lão già này. Chuyện hao tổn bao tâm cơ lại thành khong trọn vẹn chỉ vì lảo ta.
Đại Đởm hỏi:
-Nhị cacho rằng lão biết rõ công việc củatatừ trước sao?
Gã bịt mặt lắc đầu:
-Lão chẳng biết gì đâu cho tới khi sự việc xẩy ra. Có thể ngay lúc đó lão cũng chỉ cố lo cứu Hà Đằng vì lâo là người đang có phận sự chửa trị cho hắn. Thầy thuốc đâu có thể bỏ mặc khi bệnh nhân gặp lâm nguy.
Đại Đởm chưa kịp góp ý thì gãlại lắc đầu:
-Cũng có thể không phải thệ. Lâo có thể là một nhân vạt giang hồ giả làm thầy thuốc, xâm nhập sơn trại vì một mưu đồ riêng.
Trong lúc nói, gã nhớ lại chuyện xẩy ra với gã vào đêm trước tại Bến Chợ và việc đám dũng binh vừa bị gạt tại trạm canh. Gã gằn giọng tức tối:
-Lão này không phải lang thuốc bình thường. Ta sẽ không tha cho lão nếu gặp ở bất kỳ nơi nào.
Đại Đởm thắc mắc:
-Bây giờ thỉ sao?
-Tam đệ vừa nói với mọi người là Hà Đằng chết rồi, phải không? Đại Đởm gật đầu. Gã bịt mặt tiếp:
-Vậy thì hãy kiếm ngay một cái xác nào có vóc vạc tương tự, sai người thân tín tẩm liệm ngay trong đêm nay là xong.
Đại Đởm vẫn băn khoăn:
-Nếu mai mốt Hà Đằng đột ngột xuất hiện tại sơn trại thì sao? Gã bịt mặt giơ một bàn tay lên với vẻ quả quyết:
-Ta đã coi kỹ vết thương trên lưng Hà Đằng và thấy chỉ có thần y xuất thế mới cựu nổi mạng cho hắn. Lâo bán thuổc dạo là một thầy thuốc giả mạo thì tài cán gì mà chữa trị. Chỉ đáng giận là tên dũng binh kia lại lơ là khiến lúc này mình phải bận tâm một chút.
Đại Đởm như sực nhớ ra, hỏi:
-Tên đó đâu rồi?
Gã bịt mặt bật lên một tiếng cười lạnh lẽo:
-Dũng binh chắc đã gom được xác một người bị chém bay đầu ở đầu dốc trước sân đại trại.
Gã hỏi lại Đại Đởm:
-Những tên được giao việc xử trí với Hà trưởng lão và các tộc trưởng kia thì sao?
Đại Đởm đáp:
-Cũng vậy thôi. Tất cả đang chờ chôn cất. Có điều đệ không phải nhúng tay kết liễu bọn chúng mà do dũng binh sơn trại làm, đúng như mình trù tính.
Gã bịt mặt gật gù tỏ vẻ hài lòng, từ từ kéo tấm vải che để lộ một khuôn mặt xương xẩu với cặp mắt đảo lộn liên hồi. Đại Đởm nói:
-Mọi người trên sơn trại đều biết rõ nhị ca. Hà tất nhị ca phải giữ mãi tấm vải đó cho phiền phức.
Gãlắc đầu:
-Ta đâu cần che dấu người sơn trại mà chỉ phòng xa với những kẻ gặp gỡ bất ngờ. Tam đệ dư hieu là đám cầrn gươm tại Thăng Long vẫn co thể có mặt ở khắp nơi trong khi không ít người từng có dịp biết ta. Hơn nữa, có thể tacũng còn phải lo công việc tại Thăng Long nên không thể không đề phòng được.
Đại Đởm hỏi:
-Đại ca hiện đã về Thăng Long hay ở đâu?
Gã nói một cách thờ ơ:
-Ta không hỏi lão đại về việc đó. ông ấy đi đâu cũng vậy thôi.
Đại Đởm nói:
-Lẽ ra vào lúc này đại ca nên ờ đây với chúng tathì hay hơn.
Giọng gã bịt mặt đều đều một cách bình thản:
-Có gi khổ khằn đâu. Tất cả gần như không trật với dự tính thì mình cũng theo dự tính mà lo tiếp mọi sự. Sau tang lễ, tam đệ hãy đòi các tộc trưởng tới thông báo là giữa ta và triều đình không thể có chuyện hòa thuận, vì họ Trần đang chuẩn bị động binh bằng cách dồn một bộ phận đại quân lên Ngã Ba Hạc và còn lôi kéo những kẻ bội phản tạo biến động ngay giữa sơn trại của chúng ta, gãy ra cái chết cho Hà trưởng lão cùng một số tộc trưởng. Cho nên toàn sơn trại phải nghiêm ngặt
tuân hành mọi biện pháp kiểm soát chặt chẽ để kịp thời đối phó với chuyện bất ngờ.
Gã nhìn Đại Đởm chăm chăm trong lúc nói
tiếp:
-Việc chủ yếu của ta vẫn là cái kế sách tiên hạ thủ vi cường mà lão đại đã vạch ra. Ngay khi nắm chắc các tộc trưởng trong tay, ta không cần chờ đợi thái độ của họ Trần màlập tức đưa người qua đông ngạn sông Thao thực hiện liên kết với các trại nằm dọc chân dải Ngãn Sơn cho tới Bằng Giang. Ngoài ra, ta còn cẩn đặc biệt nghĩ tới việc phá hư chiếu chiêu an của vua Trần. Điều này không khó lắm vì cũng chính là điều mà Trần Thủ Độ đăng muốn làm.
Đại Đởm không nghĩ nhiều về mọi thứ nhưng chưa quên lời lẽ của Hà trưởng lão trong buổi họp các tộc trưởng chỉ diễn raít giờ trước đó. Y băn khoăn:
-Sợ không ai tin là Hà trưởng lão bị hại vì chủ trương đối đầu với triều đình. Các tộc trưởng đều đă nghe chính Hà trường lảo bàn nên tạm thời hoà thuận với triều đình để tránh cái thế lưỡng đầu thọ địch.
Gã nọ cười nhạt:
-Chuyện từ lúc này tùy thuộc thái độ của tam đệ chứ không tùy thuộc lời nói đã qua của Hà trưởng lão. Tam đệ chỉ cần cho tẩt cả thấy ai tin theo thì sống, ai không tin theo thì chết là không còn vấn đề gì nữa.
Đại Đơm vẫn chưa yên tâm, thắc mắc:
-Nếu Hà Đằng đột ngột trở về thì sao?
Gã nọ khoát tay:
-Tam đệ chọn ngay cho ta một số dũng binh thân tín và cứ yên tâm. Việc nhỏ mọn màsợ thì danh tiếng mấy chục năm trên giang hồ củatalà hư sao?
Giọng gã đầy quả quyết, nhưng Đại Đởm bất chợt rùng mình. Mấy tiếng cuối cùng của gã như ngọn roi đột ngột quật vào đầu y vàlàm nẩy ra một ý nghĩ:
-Sao ta quên điều này? Họ đâu phải là những khách thương có một chút tài nghệ khác thường!
Y cúi đầu nhớ về chuyện đã xẩy ra từ hơn mười năm trước. Y đang thơ thẩn thả cương cho ngựa bước chậm rãi dọc quan lộ thì thấy hai thương khách xuất hiện. Cả hai đi bộ từ phía Bến Chợ lên, dắt theo một con ngựa thồ. Một người bước tới vái chào Đại Đởm, ngỏ ý muốn được giúp đỡ để mua một cặp ngựa vì đường đi của họ còn rất xa. Đang trò chuyện, người nọ bỗng hỏi Đại Đởm:
-Quan nhân có vẻ bị hao tổn vì ngoại thương?
Đại Đởm lúc đó mới tròn ba mươi tuổi, vừa qua một cơn bệnh nặng và đang phiền muộn cùng cực. Câu chuyện chỉ kéo dài thêm một hồi là hai người khách lạ biết rõ cả về thân phận lẫn những sự việc đã xẩy ra với y vào ít ngày trước. Hà Đại Đởm vừa là em họ của trại chủ Hà Đằ0ng vừa là đệ nhất cao thủ của sơn trại. Vì vậy y được Hà Đằng chọn làm phó trại chủ. Mỗi mùa xuân, sơn trại đều tổ chức hội tỉ võ và người đoạt chức vô địch luôn dành được sự ngưỡng mộ cuồng nhiệt. Đại Đởm từng có lần dành được sự ngưỡng mộ đó và vẫn mong sẽ được tiếp tục như thế. Nhưng thể lệ tỉ võ không cho phép trại chủ và phó trại chủ tham gia nên y đành phải đứng ngoài nhìn những người thắng cuộc lần lượt được chào đón. Hội tỉ võ càng kéo dài, mức chào đón càng cuồng nhiệt hơn với những người chiến thắng. Suốt thời gian đó, Đại Đởm cảm thấy mình chìm hẳn vào đám đông và trở nên cáu kỉnh. Đang giữa cơn bực bội, y chợt nhận ra một tộc trưởng đeo sát bên trại chủ Hà Đằng suốt mấy ngày liền. Trong mấy ngày đó, các đấu thủ của tộc hộ này lại không dành được thắng lợi nào. Đại Đởm bỗng không dằn được cơn
giận đột ngột bùng lên. Y đưa cao tay ra dấu gọi vị tộc trưởng tới. Vị tộc trưởng sắp tới tuổi bước vào hàng trưởng lão nên giữ nguyên vẻ tự nhiên thân mật cho ngựa chậm rãi bước một tiến về phía Đại Đởm. Hai đầu ngựa giao nhau, Đại Đởm xẵng giọng:
-Ông điều hành việc trại rasao?
Vị tộc trưởng ngạc nhiên vì thái độ bất ngờ của Đại Đởm. ông dừng ngựa nhìn sững vào mặt Đại Đờm không trả lời. Cái nhìn của ông khiến lửa giận bùng cao trong người Đại Đởm. sẵn sợi roi ngựa trong tay, y hét lên quất vào giữa mặt vị tộc trưởng. Vị tộc trưởng không kìm chế nổi, rút gươm chém bay đầu ngựa của Đại Đởm. Trong chớp mắt cả hai đã lăn vào nhau giữa những đường gươm loang loáng. Hà Đằng thúc ngựa bay tới thì Đại Đởm đã chém đứt lìa một cánh tay của vị tộc trưởng. Cùng với tiếng hét như sét nổ của Hà Đằng là đường gươm chém xả vào giữa mặt Đại Đởrn. Đại Đởm lạt đật nhảy về phíasau. Hà Đằng quát lớn:
-Điệu rachém ngay giữa diễn võ trường!
Dũng binh xúm lại cùng lúc tất cảcác trưởng
lão đông loạt quỳ xuống trước Hà Đằng khẩn khoản:
-Xin trại chủ bớt giận.
Mặt Hà Đằng như đang hơ trên chảo lửa. Lão nói như gầm lên: -Không thể thathứ cho những kẻ ngỗ ngược.
Nhưng vị tộc trưởng vừa bị chém đứt cánh tay đã bước tới trước đâu ngựa Hà Đằng, thều thào nói:
-Lỗi tại già này, xin trại chủ trừng phạt giàtrước.
Vừa dứt lời, vị tộc trưởng gục xuống ngất xỉu. Hà Đằng vội quát dũng binh buộc thuốc cầm máu cho vị tộc trưởng, chuyển gấp vào lều hội lo điều trị. Quay lại, Hà Đằng thấy Đại Đởm quì mọp giữa sân bên cạnh các trưởng lão. Cơn giận đã nguôi phần nào, nhưng Hà Đằng vẫn lớn tiếng:
-Vô cớ hành hung các bậc trưởng thượng không phải là tội nhỏ. Ta nể tình các trưởng lão và Gíap tộc trưởng tha chết cho nhưng không thể không trừng phạt.
Lão nói cho tất cả người đang có mặt cùng
nghe:
-Phạt đòn hai mươi trượng giữa diễn võ trường. Thi hành ngay! Trong lúc dũng binh lôi Đại Đởm ra đánh, Hà Đằng nói tiếp:
-Kể từ lúc này, Đại Đởm không còn là phó trại chủ mà phải quay lại với công việc gíao lãnh trước đây.
Trận đòn khiến Đại Đởm phải phục thuốc nhiều ngày vẫn chưalại sức. Nghe xong câu chuyện, một khách thương nói:
-Tuy chỉ mới một lần gặp gỡ mà quan nhân
đã khônci giấu chuyện mình thì quả là một tay hào kiệt. Chang hay chúng ta có thể cùng kết nghĩa kim bằng để sống chết mãi mãi với nhau chăng?
Đến lúc đó, Đại Đởm mới biết tên hai khách thương kia là Quách Bá Liêm và Ôn Tử Mị. Sơn trại trở thành trạm dừng chân của hai người kể từ đó và mấy năm sau, cả hai đã thành bạn thân của trại chủ Hà Đằng. Hà Đằng rất ngưỡng mộ tài nghệ của cả hai, mời ở lại sơn trại cùng Đại Đởm lo việc gíao lãnh nhưng chỉ có ôn Tử Mị nhận lời còn Quách Bá Liêm vẫn tiếp tục ngược xuôi, lâu lâu mới ghé thăm. Hà Đằng gần như đã quên hẳn chuyện xẩy ra với Đại Đởm, nhưng Đại Đởm không lúc nào quên, nhất làluôn có Quách, ôn ở bên nhắc lại.
Khi Hà Đằng bị ám toán, ôn Tử Mị vội kiếm ngay Đại Đởm nhắc:
-Cơ hội trang trải hận thù của tam đệ đã tới. Tam đệ cần ra tay ngay để trở thành trại chủ cho bù lại những ngày nuốt hận vừa qua.
Đại Đởm hỏi:
-Trại chủ có mệnh hệ nào thì người quyết định là Hà trưởng lão. Trưởng lão không hô trợ tiểu đệ đâu.
Ồn Tử Mị trợn mắt:
-Đại trượng phu dựng lấy cơ đồ chứ đâu có thể chờ ai ban phát cho như những kẻ tầm thường. Ta và lảo đại đã sắp đặt xong cho tam đệ đoạt kiếm lệnh trại chủ và quét sạch những kẻ cản đường. Bây giờ tam đệ chỉ cần làm đúng theo chỉ dẫn.
-Đại ca và nhị catính sao?
Ôn Tử Mị kề tai Đại Đởm:
-Chờ khi các tộc trưởng tới đây hội với
trưởng lão, tasẽ cho người khử hết đi.
Đại Đởm trợn mắt kinh hoảng:
-Đâu có thể dễ như vậy. Dù ta thành công thi người trong toàn trại cũng không thacho tiểu đệ.
Tử Mị cười nhạt:
-Tất cảsẽ đội ơn và ngưỡng mộ tam đệ vô
cùng.
-Sao lại như vậy được?
Tử Mị nhìn Đại Đởm lắc đầu:
-Chuyện đâu có khó gì! Một mặt tam đệ chọn những người thân tín nhất của mình giao cho ta và dặn kỹ họ phải làm tất cả những việc gì mà ta sai họ làm. Tam đệ chỉ cần chọn đúng những người tuyệt đối tuân lệnh là xong. Trong khi đó, tam đệ kín đáo thông báo cho một số đầu lãnh dũng binh là tam đệ nghe tin có thể có nội biến do trại chủ lâm bệnh. Họ bắt buộc phải theo chỉ dẫn của tam đệ để sẵn sàng đối phó khi nội biến xẩy ra. Lúc đó tam đệ chỉ cần bố trí để xuất hiện kịp lúc trường lão và các tộc trường vừa bị hạ sát. Tam đệ sẽ là người có công dẹp nội biến, trừ kẻ gian. Nhưng tam đệ cần làm sao cho không còn một kẻ thân tín nào đã nhận lệnh riêng của tam đệ được sống sót. Với cách sắp xếp đó, rõ ràng tam đệ đãthành cứu tinh củatrại và phải được ngưỡng mộ rất lớn.
Đại Đởm trút ra một hơi thở dài hỏi:
-Giết hết người thân tín làm việc cho mình
sao?
-Người cầm gươm thì sống chết là thường tình. Còn mưu sự thì cổ nhân đã dạy “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Mất vài ba chục người mà thành sự là tài cao hơn cả người xưa nữa.
Lúc này Đại Đởm bất ngờ nhớ lại cách nói lạnh lùng của ôn Tử Mị và rùng mình. Nhưng y nghĩ:
-Lúc này dù có biết họ là gì cũng quátrễ rồi.
Y liếc nhanh khuôn mặt khô lạnh của ôn Tử
Mị giọng cam chịu:
-Tiểu đệ sẽ chọn một số dũng binh để theo giúp nhị ca. Mong nhị ca sẽ không gặp nhiều khỏ khan.
Dứt lời, Đại Đởm bước ra khỏi lều. ồn Tử Mị nhìn những xác chết đặt nằm phía trước, nhếch mép cười nhạt. Nụ cười khiến một nửa mặt gã căng ra. Gã khẽ gật gật đầu rồi kéo mảnh vải xuống phủ kín mặt.
Ánh bình minh vừa rạng phía trời đông, gã đã bước lên yên, nhìn đám dũng binh đang chỉnh tề chờ sẵn trẽn lưng ngựa. Gã không quay về phía Hà Đại Đởm đứng nơi cửa lều hội, giơ cao roi ngựa ngoắc tay. Đoàn kỵ binh cuốn vó vùn vụt lao xuống chân đồi.
Hồi 6:
Hai người, một già một trẻ, ngồi
Huyền Không Cở Tự
trầm ngâm dưới mái hiên chùa. Ngôi chùa ẩn sau lùm cây dày đặc lưng chừng sườn đồi thông, mái lợp bằng những mảnh bương dài hư mục nhiều đoạn với đủ loại dây leo phủ kín khiến không dễ nhận ra đó là một mái nhà. Quang cảnh toàn khu đồi cũng hoà nhập vào việc che lấp ngôi chùa. Lá khô chông chất quanh những gốc thông gai sù sì mọc chen chúc khắp nơi. Một dong suối bọc theo chân đồi uốn vòng dưới các gốc thông chảy miết trên những ghềnh đá nhỏ hoà với tiếng gió vờn các tàng thông tạo thành mộtâm thanh đều đều bất tuyệt.
Cả hai như đang thả hồn theo cái âm thanh mơ hồ và thanh thoát này. Hồi lâu, người già quay nhìn chàng thanh niên. Người già là một nhà sư có cặp mắt tương phản với làn da gấp nếp chằng chịt. Nhà sư nhìn thẳng, ánh nhìn hiền hoa nhưng ngầm chứa một uy lực khiến chàng thanh niên vội cúi xuống. Chàng như đoán biết nhàsư sắp lên tiếng. Quả nhiên nhàsư nói, giọng ấm áp:
- Xacách đã ba năm mới gặp lại, ta mừng thấy con được như thế này. Ngừng một lát, nhàsư tiếp:
- Chuyện đời như dòng nước chảy, lúc theo đất bằng, lúc qua ghềnh đá. Phải tùy duyên sở ngộ mà ứng xử nhưng lại phải tránh vì ngoại cảnh mà động tâm.
Chàng thanh niên chắp hai tay lên trước ngực, cúi đầu thấp hơn chăm chú lắng nghe trong lúc nhàsư nói:
-Ta đã nghe mọi chuyện xẩy ra mấy ngày nay do Lý Đại ke lại, ngoại trừ những chuyện liên hệ đến con, vì lão cho biết chưa gặp lại con từ khi nhận lệnh qua lộ Đà Giang đón Long Diên. Nay gặp lại con thì ta đã nắm vững tất cả. Nhưng như con biết, chuyện đời với ta bây giờ chỉ còn là một cơn gió thoảng. Bản thân ta không muốn nhúng vào bụi trần rnà cũng không muốn qua bất kỳ ai khác
can dự vào cõi tục. Cho nên tachỉ nghe mà không nói,
Nhà sư ngưng lại như để ôn những việc đã được nghe và vẫn giữ giọng đều đều:
-Theo Lý Đại thì người họ Lý hiện cỏ mặt tại Bến Chợ đang cố kiếm cách giải nguy cho em con thoát khỏi tay quan binh lộ Qui Hoá. Họ cố làm một việc mà theo sở kiến là không thể không làm dù phải trả bằng gía nào. Vi chưa được gặp con nên họ cử Lý Đại tới xin ý ta, nhưng ta không thể góp ý về chuyện này.
Chàng trai ngước lên khi nhà sư ngưng lại nhìn sâu vào ánh mắt của chàng. Nhàsư nói chậm hơn rô từng lời:
-Giờ này gặp con, ta cũng không có ý kiến gì. Lời dạy của đức Phật chí tôn mà ta hằng tâm niệm là “hây tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Con phải tự quyết bằng tất cả trí tuệ và tâm tư của con. Ta hiểu trên vai con hiện đang chất nhiều gánh nặng. Con không thể quên lời di huấn của cha con về trách nhiệm đối với cơ đồ của tiền nhân và lòng con chắc cũng đang nặng chĩu ưu tư về trách nhiệm của kẻ đang bẻ lái con thuyền giữa nhiều luông sóng dữ. Để con khỏi rối trí, ta chỉ nhắc với con lời cuối cùng này: Bể khổ không tự dâng đầy nhưng vẫn đầy mãi mãi vì suối nguồn dục vọng và mê chấp không lúc nào voi.
Nhà sư ngước nhìn qua một kẽ tàng thông lên khoảng trời cao đang rạng sáng. Lúc này đã vào cuối giờ Thìn, toàn bộ vùng đồi rộng như bừng lên những màu sắc chói chạng. Nhàsư nhẹ nhàng đứng lên, đổi giọng nhắc:
-Chỗ này đả là nhà của con mười mấy năm từ khi con còn nhỏ. Lệ cũ không hề thay đổi. Con cẩn chi cứ theo đó mà làm. Riêng người bệnh mà con vừa đưa về, ta sẽ thay con chăm sóc. vết thương nơi lưng không nguy hiểm lắm. Chắc chắn y sẽ lành. Khi đó, tasẽ trao y lại cho con.
Dứt lời, nhà sư bước về phía hậu vu, tiến vào gian phòng nhỏ đang dành cho người bệnh. Chàng trai lặng lẽ theo sau nhà sư như cái bóng. Hai người cùng tới bên giường bệnh nhân. Nhàsư cúi xuống khẽ gọi:
-Hatrại chủ!
Người bệnh chính là Hà Đằng vẫn thiêm thiếp trong cơn mê. Nhà sư gọi thêm một tiếng nữa rồi khẽ cầm cổ tay bệnh nhận. Chỉ chưa đầy hai ngày, tính từ khi ngộ nạn, sắc diện Hà Đằng thay đổi khác hẳn. Nhàsư nói:
—vết thương không đáng gì nhưng mối nguy do ám khí có tẩm Đoạn Mạch Cao. May mà con đã dùng thủ pháp ngăn chặn và kịp xử dụng Bảo Huyết Hoa. Ngoài ra, chính cán cốt phi phàm của người này đã giúp cơ thể vượt qua cơn nguy. Tiếp tục điều trị trong không khí yên tĩnh ở đây thì bệnh sẽ lành rất mau.
Mãi lúc này chàng trai mới lên tiếng:
-Thưa Ngoại!
Nhàsư nhìn chàng :
-Con cần chuyện chi?
-Con xin Ngoại cho được nghe vài lời về chiếu chiêu an của vua Trần.
Cặp mắt nhà sư vẫn nhìn sâu vào gương mặt khẩn nài của chàng như đột ngột mờ đi. Nhàsư thở dài:
-Từ nhiều năm qua, ta vẫn thương yêu cha con vì tài năng và chí khí của một bậc anh hùng. Vì thế, tạ đã không tránh khỏi gánh nặng ưu tư về cuọâc sống gian nan của cha con. Tình thương và tâm sự đó, bây giờ ta chuyển sang cho con vi con đã thay vào chỗ của cha con. Còn về chiểu chiêu an, vua Trần đã nói lên một điều cần nói. Đó là giang sơn này không của riêng dòng họ nào mà thuộc chung về trăm họ. Con có khi nào nghĩ con đang hành động vì nguyện vọng chính đáng của trăm họ không?
Chàng trai cúi đầu rất lâu trước nhà sư rồi lên tiếng vừa như kể lể vừa như nài xin:
-Con chĩ mơ hồ thấy không dễ tìm được thông hoà trọn vẹn với mọi người, dù là thân quen hay xa lạ. Hầu hết thủ lãnh nghĩa binh đều coi chiếu chiêu an như cơ may vừa để giữ gìn sức lực vừa để chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng với họ Trần bằng cách bất ngờ gãy binh biến ngay tại Thăng Long. Riêng Trung Dũng Hầu lại cho những ý nghĩ đó là vô cùng nguy hại vào lúc này.
Nhàsư từ tốn hỏi:
-Ý Trung Dũng Hầu rasao?
-Trung Dũng Hầu quả quyết hiểm họa xâm lược bắc phương đang tơi rất gần. Việc lớn nhất hiện nay của người dân Đại Việt là phải dốc lòng chuẩn bị tạo lại chiến công Như Nguyệt của Lý
Thường Kiệt dưới thời Anh Võ Chiến Thắng. Do đó, hưởng ứng chiếu chiêu an là việc cần làm và còn cần phổ cập tinh thần chiêu an giữa mọi phe phái bất kể ở nơi nào. Trung Dũng Hầu nói với con rằng tinh thần chiêu an phải được hiểu theo chiều hướng xoá bỏ hận thù giữa người cùng một nước và chỉ xoá bỏ hết hận thù mới có hy vọng giữ vững hơi thở cho trăm họ cũng như cho chính bản thân vào những ngày đang tới.
-Phần con nghĩ sao?
-Con mới chỉ chấp nhận một thỉnh nguyện của Trung Dũng Hầu là dành cho Trung Dũng Hầu quyền triệu mời thủ lĩnh trên các lộ trấn về Bến Chợ bàn thảo. Khi mọi người đi đến một ý kiến chung thì con sẽ dựa vào đó để cân nhắc quyết định sau cùng. Nhưng riêng con vào lúc này vẫn hết sức phân vân. Con thấy bản thân con sẽ mang trọng tội nếu vì vụng tính mà góp phần đẩy đất nước vào cảnh ngộ lầm than dưới vó ngựa ngoại thù. Nhưng quên lời di huấn của cha ông thì cũng khó tránh khỏi một trọng tội khác. Ngoại dư hiểu dù sao con vẫn chưa đủ trí tuệ để quyết định chín chắn trong tình thế hiện nay. Trên thực tế con chỉ là đứa trẻ mới rời xa vòng tay dìu dắt của Ngoại ba năm nay nên vẫn rất cần những lời chỉ dẫn của Ngoại.
Nhàsư đặt bàn tay lên vai chàng trai, mỉm
cười:
-Trung Chính! Ta thường nghe nhắc về con kể từ khi con rời Huyền Không cổ Tự. Cho tới nay, ta không có điều gì chê trách con. về những người xung quanh con, ta biết Trung Dũng Hầu rất rõ. Trung Dũng Hầu không chỉ là một danh tướng, một hiền thần mà còn là một cao nhân thức giả đời nay. Với những thủ túc như Trung Dũng Hầu, con không sợ sẽ phạm tội với bất kỳ ai. Chỉ có điều ...
Đột nhiên nhàsư hỏi:
-Con đã biết rõ thái độ của Thủ Độ đối với chiếu chiêu an chưa? Trung Chính đáp:
-Con chưa biết chắc Thủ Độ thuận hay chống việc ban chiếu chiêu an. Nhưng qua thông báo của thám binh, con biết trẽn đất Qui Hóa này hiện cỏ một số thủ hạ thân tín của Thủ Độ. Chính mằt con đã trông thấy một thủ hạ của Thủ Độ ra tay ám toán Hà Đằng tại An Miên lử quán.
Nhà sư lặng lẽ bước ra khỏi phòng đi ngược lại hàng hiên trước đại điện. Đưa tay ra dắu cho Trung Chính cùng ngồi xuống, nhàsư nói:
-Ta e giữa vua Trần và Thủ Độ không có sự đông tình về việc ban chiếu chiêu an. Vụ Hà Đằng vô cớ gãy ồn ào tại An Miâên lữ quán có thể là một sắp đặt có dụng ý do các thủ hạcủa Thủ Độ.
Thấy Trung Chính ngước nhìn mình, nhàsư nói:
-Thực tâm ta không muốn đưara nhận xét nào về những chuyện như thế này. Nhưng ta không thể cầm lòng trước nỗi băn khoăn day dứt của con. Dù vậy, ta vẫn muốn con coi những lời ta nói chỉ là một cách luận bàn thôi.
Nhàsư nói tiếp trở lại:
-Từ lâu Thủ Độ vẫn đắm mình trong cơn mê chấp, bo bo với ý nghĩ phân lập, cố vun bồi quyền lợi riêng của họ Trần bằng cách theo đuổi biện pháp diệt trừ người họ Lý. Việc vua Trần ban chiếu chiêu an có thể không được ông ta tán đông nhưng ông ta không thể chống lại lệnh vua nên việc duy nhất ông ta làm nổi là ngầm sai thủ hạ
gãy khó khăn cho bất kỳ ai muốn hường ứng chiếu chỉ của vua Trần. Những khó khăn đó có the mang thiện hình vạn trạng khó bề lường đoán nhưng chỉ nhắm gãy ra cảnh hận thù xâu xé giữa các phe phái. Chính mắt con đã thấy một thủ hạ của ông ta ám hại Hà Đằng và vu cáo cho An Miên lữ quán là điều có ý nghĩa đó. Theo tathì hình tích Trung Dũng Hầu bị lộ rồi nên mới có chuyện đỏ
Nhàsư ngưng lại hỏi:
-Con biết rõ thủ hạcủa Thủ Độ đến lộ Qui Hóa này làai không?
-Do chỉ dẫn củathám binh vàchính mắt con đãthấy thì hiện có ba người là Lê Bảo, Nguyễn Đông và Quách Bá Liêm. Chính Quách Bá Liêm đã ám toán Hà Đằng khi hai người đứng cách nhau cỡ mười bước chân. Con chưa thấy ai cỏ thủ pháp thần tốc như thủ pháp của y lúc đỏ.
Mắt nhàsư chợt loé lên một tia nhìn kỳ dị, nhưng nhàsư vẫn dịu giọng: -Quách Bá Liêm hả?
Trung Chính đáp:
-Dạ!
-Y đi một mình hay đi cùng với ai?
-Dạ, y đi cùng Hà Đằng khi tới An Miên lữ quán.
Nhàsư khẽ lắc đầu:
-Ta muốn hỏi có một người nào khác cùng chung lo công việc với Quách Bá Liêm không?
-Y hành sự một mình cho tới khi một đám dũng binh sơn trại kéo tới An Miên lữ quán. Con vẫn bám sát y từ lúc y ám toán Hà Đằng nên phát gíac y gặp một đầu lanh dũng binh sơn trại trước khi người này tới An Miên lữ quán. Đầu lãnh này luôn che kín mặt bằng vuông vải đen, nhưng khi ở sơn trại, con đã biết tên y là ôn Tử Mị.
Nhàsư nói như thảng thốt kêu lên:
-Ôn Tử Mị!
Trung Chính ngạc nhiên vì thái độ có vẻ bị kích động của nhàsư. Chàng nói:
-Chính Ôn Tử Mị và Ha Đại Đởm tạo ra biến động trên sơn trại. Nhưng theo con thì Quách Bá Liêm dự phần lớn vào biến động này. Rẩt có thể Ôn Tử Mị và Hà Đại Đởm chỉ làm theo chỉ dẫn của Quách Bá Liêm.
Nhàsư khẽ nhắc:
-Quách Bá Liêm, ôn Tử Mị! Thật khó ngờ!
Trung Chính không thể dằn thắc mắc, rụt rè
hỏi:
-Ngoại biết hai người đó sao?
Nhàsư nhìn chàng không trảlời mà hỏi lại:
-Con thấy võ công hai người đó thế nào?
-Theo con thì họ ôn không bằng họ Quách. Nhưng cả hai đều có bản lãnh hơn người.
Chàng nhắc lại câu hỏi:
-Ngoại biết hai người đó?
Nhàsư khẽ gật đâu:
-Nếu không do ngẫu nhiên trùng tên thì đó là những người mà con cần thận trọng khi phải đối đầu. Gần bốn chục năm trước đây, vùng Thập Vạn Đại Sơn xuất hiện hai nhân vật mà giới võ lâm coi như hai con cọp dữ thành tinh. Võ lâm không biết tên thật của họ nên đặt tên cho họ lả Đại Sơn Nhị HỔ. Ta do tình cờ mà biết đó là hai anh em kết nghĩa, anh là Quách Bá Liêm, em là ôn Tử Mị. Cả hai tuyệt tích giang hồ từ hơn hai mươi năm nay không dè lại trơ thanh thủ hạ của Trần Thủ Độ.
Nhàsư trầm ngâm rồi hỏi quachuyện khác:
-Lê Bảo, Nguyễn Đông có làm việc chung với Quách Báíiêrn không?
-Hai người đó đi riêng, hiện đang làm việc với An Phủ Sứ Trần Kiều. Theo con thì giữa họ không có tương quan gì. Vào lúc sơn trại biến động, Ôn Tử Mị tỏ ra không nương taỵ chút nào với hai người này. Nếu không có may mắn bất ngờ xẩy ra khiến con dễ dàng giúp Lê Bảo, Nguyễn Đông trốn vào rừng thì chắc ba người đảtử đẩu.
Nhà sư buông một hơi thở dài khi Trung Chính ngưng nói. vẫn đăm đăm nhìn vào khoảng không phíatrước, nhàsư chậm rãi lên tiếng:
-Thủ Độ đã đưa về đất Qui Hoá này hai thủ hạ thân tín nhất của ông ta là Lê Bảo, Nguyễn Đông. Vậy mà ông ta còn dùng thêm hai con manh thú Đại Sơn Nhị Hổ thì chủ đích không phải nhỏ. Ta nghĩ rằbng ông ta hiểu khá rõ về con và nghĩa binh Hưng Lý tại vùng này. Con đang đứng trước một cuộc cờ mà mỗi nước sơ sẩy đều đưa đến hậu quảthảm khốc khó lường.
Chuyển tia nhìn vào gương mặt căng thẳng của Trung Chính, nhà sư hạ thấp giọng hơn:
-Hơn bất kỳ ai trên đời này, ta hiểu con rất rõ. Đức độ và tài năng của con là niềm sở cậy vững vàng không cho riêng bản thân con mà còn cho cả đại cuộc. Chỉ tiếc là tuổi con còn quá trẻ, mức kinh lịch chưa tròn e khó tránh khỏi những khi bông bột. Nhưng ...
Nhà sư đột ngột ngưng lại, khoát tay cho Trung Chính lui vào hậu vu. Trung Chính cũng đã kịp phát gíac có tiếng động lạ ợ phía ngoài. Chàng lật đật bước vào phong Hà Đằng khép cánh cửalại.
Giây lát, tiếng người xì xào nổi lên rõ hơn rồi một đám đông dat díu nhau tiến vào hậu viên, người đi dầu là Lê Bảo. Ai nấy bơ phờ mệt mỏi vẫn lăm lăm gíao
nhọn trong tay. Tất cả đều giật mình khựng lại khi thoáng thấy phía trước có bóng người nhưng kịp nhận ra chỉ có một nhà sư già ngồi trơ trọi. Lê Bảo tiến lên trước vái chào:
- Chúng tôi không may lạc đường ngẫu nhiên qua đây. Hiện ai nấy đều mệt mỏi không thể đi tiếp. Xin hoàthượng mở lòng tế độ cho phép
lát trước cửachùa và xin chỉ
Nhà sư mời mọi người ngồi nghỉ ngay dưới mái hiên trước đại điện. Thấy Lê Bảo nhìn quanh, nhàsư nói:
-Bần tăng chỉ có một mình nên không thể tiếp khách chu đáo. Trong chùa hiện còn một ít ngũ cốc xấu hẩm, trước sân chùa thì có sẵn hoa trái. Quí khách cần dùng chi xin cứ cho hay.
Lê Bảo chắp tay đáp:
-Chúng tôi chỉ xin được nghỉ nhờ một lát và xin hòa thượng bố thí cho một ít nước uống.
Nhà sư vừa đưa tới một vò nước thì lại nghe tiếng vó ngựa khua trên sườn đồi phía trước. Rồi, một đoàn người ngựa xuất hiện dàn hàng ngang tiến thẳng vào sân chùa. Nhà sư nhận ra là một toán dũng binh sơn trại, ai nấy đều dựng ngược gíao trên yên ngựa, sắc mặt lầm lì theo sau một người che kín mặt dưới mảnh vải đen. Vừathấy đám Lê Bảo, người nọ ralệnh:
-Lôi chúng đi!
Dũng binh chialàm hai cánh từ từ tiến lên.
Lẽ Bảo, Nguyễn Đông cùng ba tùy nhân vùng dậy nắm chắc cán gíao. Nhưng nhàsư đã bước
lên trước họ, dang hai cánh tay, nói với các dũng binh:
-Xin quí khách dừng chân tại chỗ.
Nhà sư nói nhỏ nhẹ nhưng đám dũng binh cảm thấy có một sức mạnh vô hình đập thẳng vào tim họ khiến tất cả đều bất ngờ choáng váng. Gã bịt mặt cũng kinh ngạc nhìn nhà sư. Cặp mắt gã đảo lộn liên hồi như cố tỉm ra một điều gì đó trong khi đám dũng binh nhất loạt khựng lại. Cặp mắt đảo lộn của gã khiến nhà sư thầm nhủ:
-Quảỉa Ôn Tử Mị!
Ồn Tử Mị gằn giọng:
-Lão già kia muốn cản đường chăng?
Nhàsư khẽ mỉm cười:
-Đây là thiền môn chớ đâu phải chiến trường mà quan khách nỡ nặng lời như vậy. Chẳng hay quan khách cần chi, xin cho bần tăng hay đẹ tiện bề lo liệu.
Ôn Tử Mị chợt nhận thấy nét quẹn thuộc trong nụ cười hiền hoà củạ nhà sư vàsống lưng gã bỗng lạnh buốt. Gãcố giữ bình tĩnh nhưng giọng nói vẫn lạc hẳn:
-Ngươi... ngươi làai?
Nhàsư hơi nghiêng đầu đáp:
-Bần tăng là đệ tử thiền môn như quan khách đãthấy?
Tử Mị gắt:
-Tên ngươi là gì?
vẫn với nụ cươi hiền hoàtrên môi, nhàsư
đáp:
-Thân xác này cũng là cát bụi thì tên họ có nghĩa gì đâu. Bần tăng chỉ biết ngôi chùa này là Huyền Không cổ tự và bần tăng là kẻ đã từ lâu gửi mình vào hai tiếng Huyền Không ấy.
Câu trả lời của nhà sư khiến cặp mắt Tử Mị đảo lộn dữ dội hơn. Gã như không còn tự chủ nổi, bàn tay run run nắm vào chuôi gươm, nhưng lại buông ra. Rồi bàn tay ẩy đưa lên ngang mặt, kín đáo kéo lại mảnh vải che. Gã có vẻ băn khoăn ngờ vực một điều gì đó. Cuối cùng, để tự trấn an mình, gãlên tiếng:
-Ta chỉ cần nói chuyện với những người đang được hoà thượng che chở thôi. Hẳn hoàthượng đã nhận rachúng talà người củasơn trại?
Nhàsư chiếu tia nhìn thăũng vào mắt gã nói:
-Dù quan khách là ai thì bần tăng cũng kính mộ vì dưới mái chùa không có phân biệt sang hèn hay xa gần. Cửa chùa luôn mở rộng với hết thẩy người lơ độ đường, dù là người ở gần bên như sơn trại hoặc ở xa thật xa như Thập Vạn Đại
Sơn cũng vậy.
Bốn tiếng Thập Vạn Đại Sơn được nhà sư nói ra rõ ràng chậm rãi bỗng khiến Tử MỊ toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Gã như không còn dũng khí, cổ nói lảng:
-Giữa ta với hoà thượng chẳng có gì cần nói. Ta chỉ cần trò chuyện với mây ngươi kiathôi.
Gãlập tức hướng về phía Lê Bảo cao giọng:
-Tên kia! Xuống chân đồi cùng ta bàn chuyện!
Dưới cái nhìn sắc bén của Lê Bảo, cử chỉ khác thường của người bịt mặt trước nhà sư đã được lưu ý ngay từ lúc đầu. Giữa lúc hai người đối đáp, Lê Bao thầm nghĩ:
-Hai người này đều có thể là nhân vật giang hồ từng biết nhau và gã bịt mặt kiacó vẻ rât sợ nhàsư.
Y quyết định không bỏ lỡ cơ may này. Khi gã bịt mặt dứt lời, Lê Bảo lập tức bước lên ngang hàng nhàsư, cắm mạnh mũi gíao xuống đấùt nói:
-Giữa chúng ta đâu có chuyện khuất tất cần che giấu. Nếu đầu lĩnh cần thi chúng ta hãy nói ngay tại đây. Như thế vừa đỡ mất thời giờ lại vừa may mắn có sự chứng kiến của một bậc cao tăng đạo hạnh, phòng tránh những ngoa truyền lệch lạc. Bây giờ xin đầu lĩnh cứ cho biết đầu lĩnh cần bàn chuyện gì?
Biết chac Lê Bảo không đi, Tử Mị hậm hực hỏi:
-Hồi đêm, ngươi đãlàm gì trại chủ chúng ta?
Câu hỏi được đưara bất ngờ ngay với chính Ôn Tử Mị vì gãtin chắc Hà Đằng không thể cùng đi với mẩỵ người này. Lê Bảo đáp thành thật:
-Đấu lĩnh dư biết chúng tôi chưa giáp mặt trại chủ, thậm chí còn không rõ trại chủ tĩnh dưỡng tại đâu. Thiết nghĩ câu hỏi đó nên dành cho người sơn trại.
Tử Mị đành chuyển câu chuyện qua hướng
khác:
-Sự có mặt của các ngươi khiến sơn trại bỗng nhiên có biến động. Ngươi nói sao về điều này?
Lê Bảo nghiêm giọng:
-Chuyện sơn trại thì chỉ người sơn trại mới rõ. Chúng tôi vâng mệnh triều đình tới bày tỏ tình thân nhưng sơn trại tỏ ra thất lễ với khách. Chính đầu lĩnh đã mang gươm gíao ra xử sự với chúng tôi không khác một bầy lạc thảo. Mai mốt, Hàtrại chủ sẽ là người phải phân giải chuyện này khi triều đình hỏi đến.
Ôn Tử Mị chỉ muốn kéo dài câu chuyện khi lâm thế tiến thoái lưỡng nan nên không mảy may lưu tâm tới lời lẽ trói buộc của Lê Bảo. Trong lúc Lê Bảo nói, gã liên tục đảo mắt về phía nhà sư. Hai ba lần gã đặt tay vào chuôi gươm rồi lại vội vã buông ra, bồn chồn bất định. Cuối cùng, gã đột ngột lên tiếng:
- Thôi được! Ta không thể kéo dài câu chuyện ở đây. Nhưng ngươi đừơng nghĩ rằng cái danh ncỊhĩa triều đình của các ngươi có thể khuất phục noi người trẽn sơn trại. Sẽ có lúc đám thuyền chài khố dây họ Trần kia được thấy mũi gíao củachúng ta bén nhọn thế nào.
Gã nhìn về phía nhà sư, rút mạnh lưỡi gươm ra khỏi vỏ. Đứng cách đầu ngựa của gã chưa đậy mười bước, nha sư vẫn cúi đầu lim dim hai mắt, không có vẻ lưu tâm tới bất kỳ ai. ôn Tử Mị ngập ngừng một giây rồi đưa cao lưỡi gươm ngoắc dũng binh trở lui.
Bầy ngựa chồm lên đạp vó trên đám lá khô, khua động một góc rừng vắng. Xuống hết triền đồi tới sát bờ suối, Tử Mị cho lệnh ngưng lại. Gã tung người xuống ngựa, vụt ẩn mình sau một lùm cây. Lat sau, từ lùm cây trở rạ gã đã biến thành mọt khách thương phương bắc. Gã ra dấu cho toán dũng binh phóng đi rồi nhẹ nhàng tung mình lên một tàng thông cao, mất dạng sau vùng lá dày đặc. Từ chỗ nẩp, Tử Mị dễ dàng quan sát mọi hoạt động quanh chùa, nhất là trên sườn đồi phía đông nam. Nhưng vào lúc, gã tung mình lên tàng thông thì ở một khoảng cách không xa, một người đang tựa lưng trên một ngọn thông cao lặng lẽ mỉm cười. Tử Mị không hề hay biết mình đang bị theo dõi nên gật gù đắc ý khi thấy đám Lê Bảo rời chùa đi về sườn đồi phía đông nam. Gã chờ đám người xuống tới chân đồi mới nhẹ nhàng đáp xuống nhắm hướng đi theo. Cùng lúc, người lạ cũng rời chỗ nấp chuyền qua các tàng cây, quan sát từng cử động của Tử Mị.
Lúc đó đã qua giờ Ngọ và đám sáu người Lê Bảo đang mải miết bước nhanh ở phíatrước.
Hồi 7:
Trời chuyển dần về chiều. Ánh nắng
BA TUÀN TIÊN TỪU
bắt đầu nhạt màu khi đoàn người gặp con đường mòn băng về hướng nam. Lê Bảo lên tiếng:
- Đúng như chỉ dẫn của vị sư giàthì con đường này chạy thẳng về lộ phủ.
Gió từng đợt nhẹ thổi phảng phất một hương thơm ngọt dịu. Mùi hương mỗi lúc đượm nông hơn khiến al nấy đều cảm thấy khinh khoái.
Nội Hàn chợt nhìn lên và mừng rỡ nói lớn:
- Ta tới rừng quế rồi. Vậy là không phải qua Bến Chợ và chỉ còn cách lộ phủ không bao xa nữa.
Tất cả cùng quan sát xung quanh. Những hàng thông gai biến mất từ lúc nào. Trước mắt mọi người lúc này là những gốc quế xù xì. Trên các tàng lá xanh mượt mà, tiếng chim chiều cất lên thánh thót như muốn hoà cùng hương quế tăng thêm vị ngọt cho cảnh rừng. Nội Hàn vui vẻ nói:
- Rừng quế cách lộ phủ chỉ khoảng mười dặm. Trước canh ba đêm nay ta đã an toàn dưỡng sức tại dinh rồi.
Ông nhớ lại khoảnh khắc kinh hoàng trước hàng chục mũi gíao và có cảm gíac vừa sống lại. Tất cả dường như mang cùng tâm trạng với Nội Hàn và bước nhanh hơn. Vượt thêm chừng non dặm, mọi người thấy một trang viện nằm sát bên mé cỏ đường mòn. Cửa trang viện xây cuốn bằng đá xanh như cửa một tòa thành. Bóng tối bắt đầu phủ trên cảnh vật nhưng hàng chữ lớn khắc sâu trên cửa vẫn lồ lộ. Nội Hàn không kìm được niềm vui, bật reo lên:
-Quế Lâm Nguyệt Độ trang!
Mọi người chưa kịp hỏi, Nội Hàn đã giục một tùy nhân tới đập cửa. Trong
trang viện đèn đuốc sáng trưng. Cửa vừa chớm hé, Nội Hàn đã xấn tới xưng tên nhờ báo ngay với trang chủ. Chưa đầy một khắc sau, một người mập mạp hông hào, râu dài ngang ngực hối hả bước ra. ông đi giữa hai gia đinh cầm đuốc, cất tiếng oang oang khi thấy Nội Hàn:
-Ngọn gió nào đưa người ngọc tới vậy? Thảo nào suốt chiều nay, ngoài vườn chim khách liên tục báo tin.
Ông quát gia đinh mở rộng cửa, bước tới nắm tay Nội Hàn:
-Chuyện đời thực khó lường nổi. Ai dè lại gặp nhân huynh ở đây. Nội Hàn nói:
-Hoàng lão huynh quả là có con mắt tinh đời. Dứt khoát từ bỏ quan trường để trở thành trang chủ ở một nơi u tịch thế này thì đúng là rời hang tối để lên đình non cao.
Trang chủ từng một thời tòng sự tại lộ phủ Qui Hoá và giao dịch khá thân VƠI Nội Hàn. Nội Hàn kể sơ về điều mình vừa trải và giới thiệu những người cùng đi với trang chủ. Hoàng lão vòng tay chào Lê Bảo, Nguyễn Đông:
-Nghe đại danh nhị vị đãlâu, bữa nay bất ngờ hội ngộ, thật là đại hạnh. Ông nói lớn với mọi người:
-Bữa nay tệ trang xin được biến thành trạm nghỉ đỡ chân của chư vị. Mời chư vị quá bộ vào
khách sảnh.
Lúc dẫn đường đưa khách vào nhà, ông tiếp:
-Lão hủ hiện có một cố hữu đang ngồi trong khách sảnh. Xin mời quí vị tới cùng tương hội.
Nội Hàn bất ngờ gặp bạn cựu giao nên vô cùng hào hứng. Nhưng Lẽ Bảo, Nguyễn Đông đều sửng sốt khi nhận ra người khách của Hoàng lão trang chủ là Quách Bá Liêm. Quách Bá Liêm cũng nhận ra Lê Bảo, Nguyễn Đông, lật đật đứng dậy. Lão đưatay xoa xoachiếc đầu nhẵn bóng của mình, cười sảng khoái:
-Quả là sắc đẹp không thể nhốt trong am, thiên tài không thể vùi góc núi. Nhị vị chán cảnh cày bừa, khoác lại phẩm phục là đúng rồi.
Lê Bảo cũng cầm tay Quách Bá Liêm cười nói:
-Còn Quách tiên sinh thỉ sao? Những kiện hàng căng phông chắc không chỉ do gấm vóc màcòn phải do một chí lớn khác nữa!
Quách Bá Liêm tiếp tục xoa đầu, cười lớn
hơn:
-Chí lớn là của riêng các bậc đại nhân. Lão vốn mang thân phận di núi sẻ đông nên tối ngày chỉ dám ôm một tiểu chí thôi.
Nội Hàn thấy Quách Bá Liêm là người quen với Lê Bảo, Nguyễn Đông thì thân mật hỏi:
-Chẳng hay Quách tiên sinh có sẵn sàng cho nghe về cái tiểu chí mà tiên sinh đang ôm ấp chăng?
Quách Bá Liêm nheo mắt nhìn Hoàng lão một cách thích thú. Hoàng lão giải thích:
-Quách tiên sinh lúc nào cũng mê thứ rượu chỉ có ở tệ trang của lão hủ. Cho nên, dù đi đâu, tiên sinh cũng ghé đây đòi cho bằng đủ batuần rượu đó. Tiên sinh bảo đó là điều đắc chí nhất của tiên sinh. Bữa nay gặp dịp nhất sinh hạnh ngộ thế này, lão hủ sẽ xin tận tình bồi tiếp để quí vị cùng thấy cái tiểu chí của Quách tiên sinh rasao. Bây giờ xin mời quí vị lo gột rửa bụi đường để kịp thời nhập tiệc.
Trong khi gia đinh hướng dẫn mọi người đi tắm rửa, Quách Bá Liêm cùng Hoàng lão ra hiên ngồi đợi.
Hoàng trang chủ từ quan về ẩn mình trong rừng quế đã mười mấy nam. ông dành gần ba năm xây ngôi trang viện, đặt tên là Quế Lâm Nguyệt Độ trang. Ngay khi vừa khởi công xây dựng, Quế Lâm Nguyệt Độ trang đã nổi tiếng khắp vùng Qui Hoá về bề thế rộng lớn và nét đẹp thanh cao. Tuy nhiên, trang viện nằm khuất giữa vùng rừng rậm lại xacách các trục lộ nên rất ít người được thấy.
Quách Bá Liêm đặt ly tràthơm đang bốc hơi nghi ngút xuống chiếc khay bằng gỗ quí, gật gù:
-Bến trăng rừng que! Chỉ qua cái tên đặt cho toà nhà, trang chủ đã trở thành bậc thi bárồi.
Trang chủ im lặng nhận lời khen trong lúc nhìn vơ vẩn ra vườn. Quách Bá
"""