"
Trốn Thoát Khỏi Thực Tại - Fumio Yamamoto full prc pdf epub azw3 [Hiện Thực]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trốn Thoát Khỏi Thực Tại - Fumio Yamamoto full prc pdf epub azw3 [Hiện Thực]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRỐN THOÁT KHỎI THỰC TẠI Tác giả: Fumio Yamamoto
Người dịch: Nguyễn Tiến Đạt Phát hành: AlphaBooks
Nhà xuất bản: NXB Văn Học 05/2016 —★—
ebook©vctvegroup
02/02/2020
Giun dẹp (Planaria): Giới Animalia, phân giới Eumetazoa, liên ngành Platyzoa, ngành Platyhelminthes.
Thân dẹp, dài từ 20-30 mm, phần miệng nằm giữa bụng. Sống dưới khe suối, thường được sử dụng trong các thí nghiệm tái sinh.
Giun dẹp
K
iếp sau mình phải làm giun dẹp!
Tôi buột miệng khi đang tán gẫu bên bàn rượu. Mọi người cũng tò mò nhìn sang. Ngồi cùng mâm rượu là ba người bạn: hai gái một trai quen từ hồi làm thêm, tuổi đều nhỏ hơn tôi, ngoài ra còn bạn trai tôi ngồi bên cạnh.
“Giun dẹp là cái giống gì vậy?”
“À, tớ biết rồi. Nó dạt theo những dòng chảy dưới núi băng, đáng yêu như một thiên thần nhỏ, đúng không?”
“Đích thị là thiên thần biển khơi rồi.”
Mọi người thi nhau nói.
Tôi lắc nhẹ ly rượu whisky Four Roses của mình, chậm rãi ngắt lời bọn họ.
“Không, không đúng. Giun dẹp cũng có kích thước tương đương nhưng nó không sống dưới biển, mà sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu.”
“Hả?” Cả ba người bạn đồng thanh kêu lên. Những câu chuyện đại loại như vậy bạn trai tôi đã nghe quen, nên chỉ ngồi lặng thinh nhấm nháp chút đồ nhắm còn sót lại.
“Trước đây tớ đã thấy ở trên tivi. Nó bám vào những tảng đá dưới khe suối, hoặc những mương nước trên cánh đồng không bị phun thuốc trừ sâu, dài khoảng một phân, màu nâu, nhìn rất giống con đỉa. Đầu của nó có hình tam giác, nếu quan sát kỹ sẽ thấy, có
chút dáng dấp của đồ cặn bã.”
Sao lại giống đồ cặn bã cơ chứ? Mọi người vừa cười vừa hỏi. Tôi uống cạn ly của mình và gọi thêm ly nữa. Sau gần ba tiếng đồng hồ, hai cô gái và bạn trai tôi không uống được nữa, mà chuyển sang gọi trà ô long.
“Sao cậu lại muốn biến thành thứ đó hả Hakura?”
Cậu bạn nồng nặc mùi rượu lên tiếng. Tôi chuẩn bị trả lời, thì một cô gái trong nhóm nhanh nhảu đáp: “Hình như tớ biết đấy. Loài sinh vật này chỉ cần được bơi lội tung tăng dưới làn nước trong xanh mà chẳng cần bận tâm bất cứ điều gì.”
“Gì chứ? Tớ ghét mấy thứ kiểu như đỉa hoặc bao quy đầu, kiếp sau được đầu thai làm siêu mẫu thì tốt biết mấy.”
“Toàn là gái nhà lành với nhau, đừng bao giờ nhắc tới mấy-thứ ấy chứ!”
Câu chuyện bắt đầu lan man, tôi cụt hứng và cố tình hắng giọng: “Giun dẹp dù có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết.” Mọi người nhìn tôi đầy kinh ngạc.
“Nghe nói, nếu chặt thành ba khúc, tự khắc nó sẽ tái sinh thành ba con, mà đừng nói ba con, dù chặt thành mười khúc, nó cũng sẽ giống đuôi thằn lằn tiếp tục sinh sôi, biến thành mười con.”
Cách giải thích ngang ngược và ấu trĩ của tôi khiến mọi người đứng hình trong giây lát. Đúng lúc đó, đồ ăn vừa gọi khi nãy được đem ra. “Ăn chút đồ tráng miệng nhé!” Hai cô gái mở thực đơn ra và bắt đầu bàn bạc.
“Những điều cậu vừa nói là thật hả?”
Chỉ còn cậu bạn cảm thấy hứng thú với chủ đề này, tôi mượn men rượu tiếp tục say sưa diễn giảng: “Nghe nói là vậy, cho dù chỉ
còn một mẩu nhỏ xíu xiu, nó cũng có thể tái sinh giống như bao quy đầu.”
“Thôi nào, Hakura.”
Bạn trai tôi khẽ lên tiếng. Trong quán rượu ồn ào, ba người ngồi đối diện bên kia bàn dường như không nghe thấy.
“Giun dẹp là loài động vật chi đốt sao?”
“Sao? Động vật chi đốt là gì nhỉ?”
“À, mấy con giống như bươm bướm hoặc giun đất hả?” “Không, nó giống con đỉa chứ!”
“Là loài động vật đơn bào?”
“Tớ không hiểu lắm. Nhưng nghe nói không cần chăm sóc, tự nó sẽ lớn lên rồi tách làm đôi tiếp tục sinh sôi, cho nên chắc là đúng.” Tôi nhoài người ra, cố nói to hơn:
“Tớ cũng không rõ lắm, chỉ biết dù băm chặt thế nào nó cũng sẽ hồi sinh, chẳng phải tốt lắm sao. Cậu nhìn tớ đây này, bị ung thư vú đúng không? Nếu đầu thai làm giun dẹp, bầu ngực bị cắt đi cũng sẽ tự sinh ra, chẳng cần mất thời gian và tiền bạc để phẫu thuật tái tạo vú.”
Vốn dĩ muốn đùa cho vui, nhưng nụ cười nhút nhát của cậu bạn đó dường như rất miễn cưỡng, hai cô gái đang tranh cãi nên gọi trà sữa trân châu hay kem dâu cũng ngượng ngùng cúi gằm mặt. “Chúng ta phải đi rồi.”
Bạn trai tôi nói xong, không chờ ai trả lời liền đứng dậy. Mọi người rõ ràng đều thở phào nhẹ nhõm.
“Đừng gây chuyện nữa,” Hyosuke nổ máy xe, giọng đầy khó chịu, “làm mọi người cảm thấy khó xử, tất cả đều do tính xấu của
em đấy, Kokura.”
“Em không cố ý, mà chẳng phải mọi người đều biết rồi sao.” “Không phải vấn đề đó. Mọi người đang vui vẻ, sao lại nhắc đến chuyện vớ vẩn như thế?! Em thật chẳng ra sao cả.”
Vậy sao? Ung thư vú hóa ra là chuyện vớ vẩn? Tôi thầm nghĩ, nhưng không dám nói trước mặt Hyosuke.
“Đừng bao giờ đem bệnh tật của mình ra để mua câu chuyện làm quà. Cứ thế này rồi em sẽ mất hết bạn bè cho xem. Lần sau uống rượu với bạn anh, em đừng cư xử như hôm nay nữa nhé!”
Không cần nói, Kokura chính là tôi. Hakura - Koharu - Haruko - Kokura, mọi thứ diễn biến như vậy. Khi có mặt người thứ ba, chúng tôi tạm thời xưng hô bằng tên thật của đối phương, nhưng những lúc chỉ có hai đứa, chúng tôi sẽ gọi nhau là Kokura và Suke. Tôi biết trong tình yêu, khi hai người bên nhau mọi thứ sẽ trở nên hết sức ngớ ngẩn, nhưng mỗi lần được gọi là Kokura, tôi vẫn cảm thấy vui sướng lạ thường.
“Ồ, hình như em lại cảm thấy khó chịu rồi.”
Tôi khẽ nói. Giữa lúc Hyosuke phanh xe chờ đèn đỏ, cảm giác buồn nôn bỗng trào lên.
“Lại phê pha rồi hả? Người ngợm chẳng ra sao mà một tuần uống dăm ba bữa, em cai rượu và chịu khó tập thể dục đi, nó còn có thể giảm béo nữa đấy.”
Khi nãy ở quán rượu, Hyosuke dường như không nói nửa lời, nhưng đến lúc chỉ còn hai với nhau thì lại lắm lời kinh khủng. Trước mặt mọi người, Hyosuke trầm ngâm ít nói vì thuộc tuýp giỏi bọc lót, cậu ấy mới học năm thứ ba đại học, dù còn trẻ nhưng kinh nghiệm sống phong phú hơn tôi rất nhiều, rất biết giữ thể diện cho người
bạn gái hơn cậu ấy tới bốn tuổi là tôi trước mặt người khác. “Kokura, về nhà anh nhé?”
Hyosuke đột nhiên dịu giọng. Chẳng phải tôi vừa nói cảm thấy khó chịu sao? Chở tôi về nhà ngay lập tức, ngay lập tức! Nhưng tôi không thể nói ra những lời như vậy được. Nhờ tình yêu thương của Hyosuke, tôi mới có thể giữ được bình tĩnh. Tất cả đều nhờ cậu ấy. Thiếu đi sự che chở của Hyosuke, chắc chắn tôi sẽ mất kiểm soát, gây phiền phức cho gia đình và mọi người xung quanh, sau đó tự suy sụp. Đây là những điều rõ như ban ngày. Năm ngoái, khi còn gần một tháng là đến ngày sinh nhật lần thứ 24, tôi phải cắt bỏ ngực bên phải vì bệnh ung thư. Cảm giác khi đó như sét đánh giữa trời quang, nhưng giờ nghĩ lại, câu ví von đó chẳng chính xác chút nào. Vì trong cuộc đời 23 năm trước đó, tôi dường như chưa từng có lấy một ngày tươi sáng. Đối với một đứa con gái kém may mắn như tôi, phải nói rằng số phận sắp đặt như vậy thì mới phù hợp. Những kẻ xấu số thì lúc nào chẳng đen đủi? Khi đó, dĩ nhiên tôi không thể phóng túng như thế này. Gặp phải cú sốc lớn nhất cuộc đời, tôi chỉ biết khóc lóc thảm thiết. Tế bào ung thư đã phát triển đến giai đoạn thứ tư, bác sỹ nói phải nhanh chóng cắt bỏ bầu vú, sớm ngày nào tốt ngày ấy.
Lần mổ đầu tiên cắt bỏ tế bào ung thư và mô mỡ xung quanh núm vú, lần thứ hai lấy lớp da sau lưng để phẫu thuật tái tạo vú. Nói thì dễ, nhưng tôi đã phải chịu đựng sự giày vò về cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy đã làm phẫu thuật tái tạo vú, nhưng tôi không thể lấy lại được hoàn toàn diện mạo như trước. Nửa năm sau, xung quanh gò bồng đảo vẫn chi chít những vết sẹo, sau lưng hằn hẳn một vệt dài 15 cm, giống như vừa bị chém bằng kiếm Nhật vậy. Hơn nữa, do quá trình phẫu thuật tái tạo vú vẫn chưa hoàn thiện, nên bây giờ
bầu vú của tôi không thể có núm. Trước đây, tôi muốn nhanh nhanh chóng chóng tạo núm vú, nhưng vừa nghĩ đến việc lại phải vào viện, gây mê, lên bàn mổ, liền cảm thấy cứ như vậy cũng được rồi.
Quen Hyosuke trước khi phát hiện bệnh ung thư ít lâu, khi đó tôi vẫn có một người bạn trai lâu năm. Một đứa con gái chưa từng được theo đuổi như tôi lần đầu tiên trong đời chơi trò bắt cá hai tay. Dĩ nhiên không liên quan gì tới chuyện ung thư vú, nhưng đôi lúc tôi cũng nghĩ rằng, một đứa ngáo ngơ như mình mà vẫn bất chấp chơi trò bắt cá hai tay, nên mới ra nông nỗi này.
Khi đó, Hyosuke làm công việc bán thời gian ở công ty tôi. Chúng tôi từng đi uống với nhau vài lần, cảm thấy tâm đầu ý hợp, sau dần trở nên thân thiết, say quắc cần câu rồi lên giường với nhau.
Nếu phát hiện ung thư trước khi ngủ với Hyosuke... Nghĩ tới đây, tôi chợt cảm thấy rưng rưng, xem ra mình vẫn còn một chút may mắn. Tất cả đều nhờ sự trẻ trung của cậu ấy. Ngoài ra, Hyosuke còn là con nhà gia giáo.
Bạn trai chính thức vừa hay tin về bệnh tình của tôi liền vội cao chạy xa bay. Tôi gọi điện khóc lóc kể lể, hắn ta nói “không sao, vẫn có anh ở đây”, nhưng ngay ngày hôm sau, cả điện thoại cố định lẫn di động đều không liên lạc được. Tôi gọi điện đến công ty nơi hắn ta làm việc thì nhận được thông tin hắn “đột ngột xin nghỉ phép một tuần không có lý do”. Bỗng dưng, một đứa chẳng liên can như tôi vô duyên vô cớ bị sếp của hắn trút giận lên đầu. Hyosuke thì hoàn toàn khác, cậu ấy và người nhà tôi ngày nào cũng vào thăm, an ủi vỗ về tôi, một đứa ngang ngạnh, xấu tính, hết thuốc chữa. Sau khi kết thúc ca mổ, tôi tỉnh dậy, thấy Hyosuke và bố mẹ tôi đang ở bên giường, khuôn mặt lộ rõ vẻ lo âu.
Từ đó trở đi, Hyosuke luôn ở bên tôi. Do tâm lý không ổn định,
nên mỗi lần mất kiểm soát, tôi hay làm mình làm mẩy, đôi khi quá sức chịu đựng, cậu ấy lại hét vào mặt tôi: “Đằng nào thì cũng đã bệnh rồi, biết làm thế nào bây giờ! Em đừng gây chuyện nữa!” Tuy nói vậy, nhưng Hyosuke chưa từng rời xa tôi.
Dừng xe tại bãi đỗ gần nhà, chúng tôi nắm tay nhau bước về căn hộ của Hyosuke. Bố mẹ cậu ấy là chủ một doanh nghiệp vận tải lớn ở tỉnh, vì vậy căn hộ của Hyosuke là quá đỗi xa xỉ đối với một sinh viên. Cậu ấy sẽ vẫn có một cuộc sống dư dả mà chẳng cần đi làm thêm.
Theo một thói quen, vừa vào phòng Hyosuke liền bật bình nóng lạnh. Cậu ấy thuộc tuýp người quá ư sạch sẽ, việc đầu tiên khi về nhà là tắm rửa. Lâu dần cậu ấy cũng gò tôi theo thói quen đó. Là một đứa lười nhác, tôi ghét sự phiền hà, vì thế mà chúng tôi đã chọn giải pháp vẹn cả đôi đường - tắm chung.
Việc này đã trở thành thói quen với cả hai chúng tôi. Tuy vậy, nó lại không hề gợi một chút nhục dục nào. Cậu ấy tỉ mẩn kì cọ, gội đầu cho cả hai đứa. Ban đầu, tôi phần vì xấu hổ, phần vì cảm động bởi với cơ thể không còn bình thường như thế này mà vẫn còn được yêu thương chăm chút như vậy, dần dà tôi chẳng buồn nghĩ ngợi gì nữa, cứ để mặc cho Hyosuke chăm sóc. Trước đó, tôi cảm thấy đó là do cậu ấy yêu tôi, nhưng gần đây, trong đầu tôi lại dấy lên một nỗi nghi hoặc, tại sao người đàn ông này lại có thể không ngại ngần chăm sóc cơ thể người khác như thế.
Không chỉ tắm gội, cậu ấy còn dùng khăn tắm mềm mại lau khô từng ngóc ngách trên cơ thể tôi, thậm chí còn giúp tôi sấy tóc. Trước đây, gội đầu xong tôi dùng lược chải rồi tự hong khô, Hyosuke thấy thế liền chủ động giúp tôi sấy tóc. Cậu ấy như một chuyên gia trang điểm chuyên nghiệp vậy. Thậm chí cậu ấy còn
dùng kéo chuyên dụng giúp tôi chỉnh sửa lông mi, còn tôi ngay đến bút chải lông mày cũng không có. Tôi từng nói với Hyosuke rằng, nếu mở hiệu làm tóc chắc chắn cậu ấy sẽ thành công rực rỡ, nhưng rồi nhận được câu trả lời rất đỗi thản nhiên, “anh chưa từng nghĩ tới chuyện đó, anh phải kế nghiệp công ty vận tải của bố nữa.”
Tắm xong là đến công đoạn làm tình. Sau phẫu thuật, tôi luôn phải tiêm hormone nên bị mất kinh nguyệt, vì thế tôi không thể vin vào cớ đó để từ chối Hyosuke được. Tôi từng lấy lý do bị mệt hoặc đau đầu, nhưng chúng thường khiến Hyosuke vô cùng chán nản, rồi tôi lại phải mất công dỗ dành. Vì thế, chẳng thà tôi cứ làm cho xong còn hơn.
Hệt như việc tắm rửa, tôi để mặc cho Hyosuke tự do làm gì tùy thích. Không biết có phải do tiêm hormone hay không, mà sự ham muốn hừng hực một thời giờ bỗng nguội lạnh. Nhưng tôi tự nhủ “vì cậu ấy yêu mình”, chỉ cần cố gắng rên thành tiếng, cơ thể ắt sẽ có đôi chút phản ứng. Để cảm ơn tình yêu của Hyosuke, phàm những gì cậu ấy yêu cầu, tôi đều thực hiện. Tuổi thanh xuân ngắn chẳng tày gang, đó là chiếc phao cứu sinh duy nhất của tôi.
Làm tình xong chúng tôi uống trà. Dù là trà ô long, cà phê, hồng trà hay trà xanh, tất cả đều được pha chế hết sức cẩn thận. Ban đầu tôi thấy cảm kích vô cùng, vì cậu tỉ mẩn như vậy chỉ để chăm sóc cho một người như tôi, nhưng gần đây tôi mới vỡ lẽ rằng đó chỉ bởi cậu thích uống trà.
“Suke, ngày mai có phải lên lớp không?”
“Ừm, bắt đầu từ tiết thứ hai. Kokura, em tỉnh rượu rồi hả?” Hyosuke ngồi trên giường, vừa nói vừa dán mắt vào màn hình ti vi. Có lẽ bản thân cậu ấy không ý thức được thái độ của mình khi nói từ “tỉnh rượu” đồng nghĩa với việc “em về được rồi đấy”.
Hyosuke không muốn tôi ngủ lại, cũng chẳng phải vì cậu có người đàn bà khác, tôi nghĩ chỉ là cậu không thích hai người quấn quýt trên một chiếc giường đơn chật hẹp.
“Em về đây, ngày mai phải đi tiêm, xong việc em sẽ gọi cho anh. Tối mai chúng mình cùng ăn tối được không?”
Tôi vừa nói vừa mặc quần áo. Hyosuke không lên tiếng, đưa tay bóp trán.
“Sao thế?”
“Không có gì, anh thấy hơi nặng đầu, chắc bị cảm rồi.” “Mệt lắm không? Đi khám nhé?”
“Không sao.”
“Đã bảo anh phải đi khám bác sỹ rồi, phải nghe lời người lớn kiêm bệnh nhân này chứ.”
Hyosuke đột nhiên đấm mạnh vào chiếc gối khiến một bên sườn gối rách toạc, đám lông vũ bên trong bắn ra tứ tung. “Im đi.” Hyosuke nói khẽ, sau đó thở dài một cách mệt mỏi: “Chẳng phải mọi chuyện kết thúc rồi sao? Em không còn là bệnh nhân ung thư nữa! Còn muốn lấy đó làm bình phong đến bao giờ? Có phải em cảm thấy cứ mãi thế này, chẳng cần phải đi làm, rồi cưới anh là xong không? Anh xin em đừng như vậy nữa!” Khi cậu nói mọi việc đã kết thúc, tôi định lên tiếng phản bác, nhưng nghĩ một đằng lại làm một nẻo, bèn chuyển giọng ngọt nhạt: “Em sai rồi, sau này không nhắc tới nữa... Em về nhé!” Nói xong, tôi bèn đứng dậy. Có lẽ Hyosuke cảm thấy hơi quá lời với tôi, nên đã tiễn tôi ra cửa và trao cho tôi một nụ hôn nhẹ lên má. Xem chừng cậu ấy cũng không có ý định tiễn xa, tôi bèn mỉm cười và đóng cửa lại.
Tôi loạng quạng bước tới bãi đỗ xe, trả tiền vé rồi nổ máy. Đó là xe của bố mẹ, nhưng họ không hay dùng nên tôi trưng dụng luôn. Trước khi quen tôi, Hyosuke cũng được bố mẹ mua cho một chiếc xe hơi, nhưng sau một vụ tai nạn, nó đã thành đống sắt vụn. Từ đó về sau, Hyosuke không dám lái xe, trừ khi tôi say bí tỉ, bằng không cậu ấy nhất quyết không chịu cầm lái. Tôi hay đùa Hyosuke rằng người thừa kế của công ty vận tải mà lại nhát vậy sao? Lúc đó gần như cậu ấy đã nổi đóa: “Kokura, em thì biết gì hả!” Tôi uể oải nổ máy. Ngày mai, sau khi tiêm thuốc theo định kỳ, hẳn là sẽ vô cùng mệt mỏi, bước đi cũng khó khăn. Thật nẫu ruột! Một mình lái xe trên đường quốc lộ giữa đêm khuya, tuy biết là uổng công vô ích, nhưng tôi vẫn hướng lên những vì sao và cầu nguyện: “Kiếp sau, xin hãy để tôi được làm giun dẹp.” Tôi là một đứa thất nghiệp, cứ cách bốn tuần lại phải đến bệnh viện lớn nhất tỉnh một lần. Quyết định lựa chọn bệnh viện lớn và hiện đại nhất tỉnh này có lẽ là một sự sai lầm. Bởi dù có đến đúng 9 giờ sáng, tôi vẫn phải ngồi đợi tận bốn tiếng đồng hồ mới đến lượt, sau đó để bác sỹ điều trị xem bệnh cũng mất hơn bốn tiếng. Bệnh viện này lúc nào cũng trong tình trạng quá tải, mọi người nối đuôi nhau đi lấy máu giống như việc xếp hàng rồng rắn trước cửa hàng mỳ Ramen. Tôi rất khó lấy ven, phải chọc mấy mũi mới xong. Tôi luôn tự nhắc bản thân chớ nên phiền não vì mấy chuyện vụn vặt này, nhưng rồi lại phát hiện ra mình đã chán nản đến tột cùng.
Nếu không bị ung thư thì tốt biết mấy. Dù biết nghĩ cũng chẳng giải quyết được gì, nhưng tôi vẫn không thể ngừng suy nghĩ, tại sao lại bắt tôi hứng chịu sự đau khổ này? Tôi không thể giải thích mọi
chuyện theo vận số xui xẻo một cách đơn giản như vậy. Tiêm tiêm chọc chọc không biết bao nhiêu lần, vậy mà tại sao không phải mụ y tá kia, mà chỉ có mình tôi mắc căn bệnh ung thư quái ác đó? Không, chỉ mình tôi có lẽ không chính xác cho lắm. Giờ phút này, đám người già trẻ lớn bé ngồi chầu chực tại đây chỉ để chờ đến lượt bác sỹ khám qua loa vài phút, có lẽ đều là bệnh nhân ung thư. Do có rất nhiều người bị ung thư, nên việc lấy máu xét nghiệm dĩ nhiên phải tiến hành tuần tự.
Nhưng do phải chờ đợi quá lâu, tôi luôn cảm thấy không cam tâm. Tại sao không hẹn lịch khám một cách bài bản khoa học? Tôi thất nghiệp đã đành, nhưng những người ngày ngày vẫn phải đi làm, cuối tuần mới được nghỉ ngơi thì vất vả biết mấy! Hơn nữa, bắt người ta chờ lâu như vậy mà thời gian khám bệnh của bác sỹ chỉ vỏn vẹn trong vòng năm phút. Bác sỹ chỉ bảo rằng tôi sẽ không có kinh nguyệt, nhưng tiêm hormone xong, tôi liền cảm thấy hoa mắt chóng mặt, cách hai giờ đồng hồ mồ hôi lại vã ra, sau khi tỉnh dậy không tài nào ngủ tiếp được, và cảm giác nóng nực kỳ quái cứ tiếp diễn, tình trạng mệt mỏi, uể oải khiến tôi cảm thấy lợm giọng.
Tôi kể những triệu chứng đó cho bác sỹ điều trị, nhưng những gì nhận được chỉ là một câu trả lời bâng quơ “cũng có thể”. Không chỉ có vậy, hôm đó bác sỹ còn buột miệng “loại thuốc này có thể ức chế tế bào ung thư vú, nhưng dễ khởi phát ung thư tử cung”. Thế rồi tôi đành lọ mọ đi khám phụ khoa. Vị nữ bác sỹ nói: “Thông thường loại thuốc này chỉ tiêm trong vòng nửa năm, cô lại tiêm tận một năm rưỡi.” Sau đó, bà ta giúp tôi nói chuyện với bác sỹ điều trị, kết quả là nếu ngừng thuốc e rằng tôi sẽ bị biến chứng, chẳng may tế bào ung thư tái phát thì có hối cũng không kịp.
Loại thuốc thông thường chỉ tiêm nửa năm lại tiêm hơn một năm
rưỡi, liệu nó có để lại di chứng? Liệu tôi còn khả năng sinh nở không? Dù thấp thỏm không yên, nhưng tôi chưa thể tìm ra câu trả lời. Tôi đến cả thư viện để tìm đọc một số tài liệu liên quan, nhưng không thấy nhắc một chữ nào đến vấn đề này. Bác sỹ điều trị hay bác sỹ phụ khoa xem ra cũng chẳng có đâu thời gian, tôi cũng không thích suốt ngày bám riết bọn họ để truy vấn. Hơn nữa, bác sỹ không có ý gây khó dễ cho tôi, chắc là cũng không biết thật.
Ngoài ra, tế bào ung thư đã phát triển có đường kính 5 cm, bệnh lý sau phẫu thuật vẫn đang ở giai đoạn một, không cần xạ trị cũng không cần hóa trị, các bác sỹ cho rằng như vậy đã quá may mắn rồi. Nhưng dẫu sao tôi cũng không hề cảm thấy biết ơn các bác sỹ vì đã cứu mạng. Tôi đã mất nhiều tiền đến thế kia mà.
Hôm nay, sau khi chờ đến tận bốn tiếng mười lăm phút, y tá liền gọi tôi tới và nói: “Bây giờ bác sỹ điều trị phải đi mổ gấp, bác sỹ thay ca khám cho chị có được không? Hay vài hôm nữa chị quay lại đây?”
Vốn dĩ tôi mắc bệnh thiếu máu, khi nãy lại vừa bị chích mất vài chục cc, muốn nổi cáu cũng chẳng còn hơi sức, đành ngậm ngùi gật đầu. Nhưng tôi biết nói gì với bác sỹ thay ca bây giờ?
Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn bước vào phòng khám. Tôi nói về những triệu chứng buồn nôn, chóng mặt và một số lo lắng khi phải tiêm hormone với bác sỹ thay ca. Tay bác sỹ xem ra chưa đầy 35 tuổi trả lời hết sức ngắn gọn: “Tôi là bác sỹ thay ca, nên không rõ lắm, nếu đau đầu thì đi khám phụ khoa xem sao.” Tôi rủa thầm trong bụng, ông mà là bác sỹ sao? Nhưng vẫn gật đầu cảm ơn và rời khỏi phòng khám.
Hôm nay tôi vẫn bị chích một mũi đau điếng, hơn nữa không hiểu sao lại chẳng thể thanh toán bằng bảo hiểm, nên đành phải trả tiền
khám cắt cổ. Tôi đã tự nhắc nhở bản thân không để mấy chuyện vớ vẩn này làm nản chí, nhưng trên đường đi ra bãi đỗ xe, nước mắt tôi vẫn giàn giụa. Tôi rút điện thoại, gọi cho Hyosuke. “Kokura à? Em khám xong chưa vậy?”
Giọng nói vô tư lự của Hyosuke khiến cho tôi buồn vui lẫn lộn. “Anh vẫn ở trường sao? Em qua đón nhé?”
“Vậy hả? Tốt quá! Anh đợi em trước cửa hàng Mc.Donald’s nhé!” Tôi cúp máy, tâm trạng đã có chút phấn chấn hơn. Một cô gái vóc người nhỏ nhắn đang băng qua bãi đỗ xe gật đầu chào tôi. Hai người cách nhau một quãng, nhưng ngay lập tức tôi biết đó là ai và cũng gật đầu đáp lễ. Trong thời gian nằm viện, chúng tôi từng gặp nhau mấy lần tại phòng hút thuốc, đây là lần đầu tiên tôi gặp lại cô ấy sau khi ra viện.
Bệnh viện đồ sộ với ba dãy nhà cao tầng nơi tôi điều trị chỉ có duy nhất một phòng hút thuốc, hơn nữa chỉ có điều hòa mà không có cửa sổ, diện tích vỏn vẹn khoảng mười mét vuông. Nhưng chỉ cần có cơ hội ra khỏi buồng bệnh, tôi sẽ cầm ngay bao thuốc được một người bạn tặng và đi loăng quăng. Ở đó, đôi khi tôi trông thấy cô ấy trong bộ đồ bệnh đang lặng lẽ hút thuốc một mình. Tuy có vẻ đẹp trời phú thu hút mọi ánh nhìn, nhưng cô ấy dường như rất khó gần. Mấy gã ríu rít như chim chích, cố gắng bắt chuyện với cô nàng bệnh nhân xinh đẹp dù chỉ là vài câu. Ban đầu, cô ấy còn trả lời một cách khiên cưỡng, nhưng không lâu sau chẳng biết có phải vì chán ngán với cái kiểu trò chuyện vô bổ này hay không, mà cô ấy không còn xuất hiện ở phòng hút thuốc nữa. Có người nói trông thấy cô ấy hút thuốc trên tầng thượng, tôi nghĩ bụng chẳng phải các người rảnh việc quá hay sao. Dù không thể trò chuyện, nhưng nhìn khuôn mặt trắng hồng và đôi tay mảnh dẻ của cô ấy, tôi cũng cảm thấy nhẹ
nhõm hơn đôi chút. Mỗi khi được chiêm ngưỡng ai đó có nhan sắc, tôi đều thẳng thắn bày tỏ lòng ngưỡng mộ, như đối với cô ấy chẳng hạn: “Nếu sinh ra đã có được vẻ đẹp như cô, tôi chắc sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.” Ít lâu sau, cô ấy ra viện, từ đó chúng tôi không gặp lại nhau lần nào nữa.
Dù chỉ mặc quần bò và áo phông, nhưng dáng điệu của cô ấy vẫn thướt tha yêu kiều. Cô ngồi trên chiếc xế hộp nội địa siêu sang, lái xe khỏi bãi đỗ một cách điêu luyện. Tôi đưa mắt dõi theo, nghĩ đến việc mình đang giống như một kẻ theo dõi khi cố gắng ghi nhớ biển số xe của cô ấy mà không nhịn được cười.
Tôi và Hyosuke dùng bữa tối trong một quán ăn gia đình. Khuôn mặt trắng bệch vì tiêm hormone của tôi rốt cuộc cũng khiến Hyosuke rủ lòng thương, hôm nay, cậu ấy để tôi về từ rất sớm. Cảm giác buồn nôn lại xộc lên, tôi cố nhịn không cho ra hết đống hải sản hấp bia đang nằm yên trong bụng nãy giờ, lê thân xác bải hoải rã rời lái xe về nhà. Mẹ tôi hôm nay cũng về sớm hơn mọi ngày.
“Hôm nay về sớm quá nhỉ?”
Mẹ cất giọng mỉa mai. Tôi quạu lại “Mẹ cũng thế còn gì”, rồi nằm vật ra sô pha.
“Hôm nay đến bệnh viện rồi chứ?”
“Đến rồi.”
“Thế nào?”
“Không sao.”
Tôi trả lời nhát gừng, mẹ mím chặt môi, vẻ mặt khổ não xen lẫn tức giận.
“Hôm nay gặp thằng Hyosuke rồi phải không?”
Cảm giác nóng bức và buồn nôn lại xộc lên, mồ hôi trán và nách
của tôi vã ra như tắm, tôi mệt đến mức chẳng buồn trả lời. “Đã ốm đau như thế thì đừng chạy lông nhông cả ngày nữa, chịu khó ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng đi.”
“... Hôm nay đi tiêm, bình thường con không đi như thế.” “Vậy kiếm việc gì làm đi,” tôi những tưởng mẹ sẽ nói thế, không ngờ bà quay lưng bước khỏi ra phòng khách. Từ xưa, mẹ đã làm việc cho cơ quan nhà nước, thu nhập hàng năm cao hơn nhiều với đồng lương nhân viên cửa hàng giày dép của bố tôi. Ngày nào mẹ cũng làm việc quần quật tới khuya, còn bố thì suốt ngày say khướt, mò về đến nhà cũng đã nửa đêm gà gáy.
Tuy nói vậy, nhưng có lẽ do tôi là con một nên cũng được lớn lên dưới sự nuông chiều bao bọc của bố mẹ. Tôi được yêu thương, cưng nựng, muốn ăn thứ gì bố mẹ đều đáp ứng, nên từ khi biết nhận thức, tôi đã béo ục ịch.
Béo phì thì hay bị bắt nạt, từ hồi mẫu giáo tôi đã ý thức được điều này. Nhưng không hiểu sao chỉ mỗi mình tôi bị các bạn nam ném đá và bị các bạn gái tẩy chay. Mặc dù vậy, thói quen ăn uống theo ý thích bắt đầu ngay từ khi lọt lòng mẹ, chỉ dựa vào ý chí của một đứa trẻ thôi thì rất khó để thay đổi.
Hồi tiểu học và trung học, tôi bị bạn bè đặt biệt danh “lợn con”. Điều này chẳng có gì là ngạc nhiên. Năm mười lăm tuổi, tôi nhận thấy nếu không quyết tâm giảm cân một cách nghiêm túc, tôi sẽ bị ức hiếp tới chết mất. Mới vào cấp ba, chỉ vì trông “béo” và “ngứa mắt”, tôi đã bị các bạn học hành hạ đủ đường. Tôi quyết tâm giảm cân bằng mọi giá, kết quả một năm giảm được hơn 40 cân, tuy vẫn hơi tròn trịa, nhưng đã có thể hòa nhập với “cộng đồng”. Từ đó về sau, tôi không dám tin rằng sẽ có một ngày cuộc đời tôi sẽ hết bị hành hạ, bắt nạt.
Trước đây, khi đề cập đến chuyện béo phì với bác sỹ điều trị, ông ấy nói: “Đó có lẽ là một trong những nguyên nhân gây bệnh.” Sau đó, có một lần tôi mượn rượu để chì chiết mẹ: “Tất cả đều là lỗi của mẹ, bắt con ăn nhiều, làm con béo phì nên mới mắc ung thư!” Mẹ vừa khóc vừa xin lỗi, nhưng điều đó cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Tôi biết chẳng qua mình cũng chỉ muốn giận cá chém thớt, không có ai làm vật tế thần khiến tôi cảm thấy ấm ức.
Như Hyosuke từng nói, mọi việc đã kết thúc. Đúng vậy, tôi cũng biết phải đặt dấu chấm hết cho câu chuyện ung thư này. Suy cho cùng, mọi việc thành ra như vậy tất cả đều do bản tính lười nhác của tôi. Thực ra, hai năm trước khi phát hiện ra ung thư, tôi đã nhận thấy đôi lúc đầu vú của mình rỉ ra một chút dịch màu nâu sẫm. Nó không ngứa cũng chẳng đau. Khi đó, tôi vừa đi làm vừa mải mê yêu đương nên cũng không để ý. Sau đó, tần suất làm tình dày đặc, tôi luôn cảm thấy vùng bụng dưới hơi ngưa ngứa, bạn bè nói có thể bị viêm nhiễm do cọ sát với nội y, tôi bèn đi khám phụ khoa. Khi đó, tiện thể nói luôn triệu chứng vùng đầu vú, kết quả bác sỹ ngay lập tức yêu cầu tôi đi kiểm tra. Ngày hôm sau, bệnh viện gọi điện đến công ty, nói tôi phải qua đó ngay. Đầu dây bên kia nói giọng chắc nịch: “Qua ngay lập tức, tốt nhất nên đi với người nhà.” Tại bệnh viện, bác sỹ không hề lựa lời hay giấu nhẹm, mà nói thẳng với tôi: “Cô bị ung thư vú, tốt nhất nên nhanh chóng tiến hành phẫu thuật.”
Cả tôi lẫn bố mẹ đều choáng váng. Bác sỹ nói nếu phát hiện sớm mọi chuyện sẽ khác, nhưng bây giờ khối u đã phát triển đến mức này. Tôi không còn thời gian tìm kiếm phương pháp điều trị khác hoặc hoài nghi về kết luận của bác sỹ, dù sao đây cũng là bệnh viện lớn và hiện đại nhất vùng này, nhiều bệnh nhân ngoại tỉnh cũng đến
đây chạy chữa, hơn nữa bác sỹ chủ nhiệm khoa ngoại lại là người có uy tín. Tôi và gia đình không còn sự lựa chọn nào khác. Mẹ tôi khóc nức nở, bảo rằng nếu có thể chịu kiếp nạn thay cho tôi thì tốt biết mấy. Từ bé đến giờ, dường như chưa bao giờ chứng kiến cảnh bố tôi vừa nắm chặt tay tôi vừa rơi nước mắt. Tôi nghĩ mọi người đều yêu thương mình, bạn bè và người thân cũng chia sẻ nhiều điều. Thế nhưng, yêu thương và chia sẻ cũng chẳng thể chữa khỏi căn bệnh quái ác này. Một người bạn cũ hiểu rõ tính cách gàn dở của tôi nói rằng, nếu phẫu thuật thành công, có lẽ tôi sẽ thay đổi phần nào.
Nhưng nếu nhìn vào kết quả, tôi vẫn chẳng thay đổi chút nào. Đọc vài cuốn sách và những bản chép tay về hành trình đấu tranh chống lại bệnh ung thư của những người đồng cảnh ngộ, một số dấu hiệu tích cực như: sau khi mắc bệnh ung thư mới hiểu rõ giá trị của sức khỏe, ý nghĩa của cuộc sống và sự yêu thương của gia đình... tất cả đều không hiện hữu trong tôi.
Trong khoảng thời gian mổ lần đầu và phẫu thuật tái tạo vú vào năm thứ hai, người nhà, người yêu và bạn bè đều rất mực ân cần, nhỏ nhẹ đối với tôi. Khi gây mê, do vấn đề cơ địa, tôi nôn thốc nôn tháo, khóc thút thít vì đau đớn bởi cơ thể bị cắm chi chít kim tiêm và ống truyền. Trước một bệnh nhân như tôi, mọi người đều dốc hết toàn lực.
Nhưng khi ngoảnh đầu nhìn lại, tôi lại thắc mắc. Sự ân cần đó là gì vậy? Phải chăng nó chỉ mang tính hình thức? Người yêu và bố mẹ đều nói tôi đã khỏe lại, đừng tự nhận mình là bệnh nhân nữa. Nhưng nếu như mọi việc đã kết thúc, tại sao ngày nào tôi cũng cảm thấy chóng mặt, buồn nôn và mất ngủ triền miên. Rõ ràng bệnh tình trong cơ thể vẫn chưa có dấu hiệu chấm hết.
Dù rằng như vậy, tôi cũng từng có thời gian cố gắng tái hòa nhập xã hội. Sau ca mổ đầu tiên, tay phải của tôi chỉ cần động nhẹ cũng đau, tôi nỗ lực điều trị phục hồi chức năng, đồng thời quay lại làm việc. Giám đốc nói: “Bị bệnh nặng như vậy, em vẫn lạc quan, sống nghị lực, thật là phi thường!” Tôi không đón nhận câu nói đó bằng thái độ chân thành, và cũng biết đó là do cái tính gàn dở của bản thân.
Tôi xin nghỉ việc cũng chỉ vì cảm thấy mệt mỏi với tất cả, mọi thứ đều quá phiền phức. Bản thân cuộc sống đã phiền phức, nhưng muốn chết đi cũng phiền phức không kém. Tôi cũng từng nghĩ nếu cương quyết không đi bệnh viện, ung thư tái phát thì thà tôi chết quách cho xong, nhưng thật lòng mà nói, đó lại là điều tôi lo sợ nhất. Mâu thuẫn, tự mâu thuẫn với chính mình khiến tôi cảm thấy sức cùng lực kiệt.
Sau khi nghỉ làm, ngoài việc đều đặn bốn tuần một lần đến bệnh viện kiểm tra, về cơ bản, tôi vô công rồi nghề. Ngày nào cũng gặp Hyosuke - cậu ấy vẫn là sinh viên nên thời gian rông dài, thi thoảng đi làm thêm vài bữa kiếm chút tiền tiêu vặt.
Bố mẹ nghe tôi nói “Hai người bắt con ăn nhiều đến mức béo phì, nên mới thành ra ung thư” hình như bị sốc nặng, không còn cất nổi câu “kiếm công việc tử tế mà làm đi”. Về phần tôi, vốn tàn ác nên cứ vờ như không, vẫn ăn chơi nhảy múa ngày này qua ngày khác. Có lúc tôi nghĩ, đây có lẽ là một cách trả thù bố mẹ, trả thù việc họ nuông chiều tôi quá mức dưới danh nghĩa yêu thương. Tôi thật đúng là đồ ngốc. Tuy vậy, tôi không muốn đi làm, không muốn tái hòa nhập với xã hội, không muốn bất chợt ở một nơi nào đó, có người khen ngợi mình bằng vẻ mặt như thể đã quen biết từ lâu: “Mắc bệnh hiểm nghèo mà vẫn kiên cường như vậy, thật phi
thường!”
Cuối tuần đó, Hyosuke nói phải tổ chức sinh nhật mẹ nên trở về quê, tôi bèn hẹn đứa bạn đã lâu không gặp đi lượn lờ phố xá. Nó là bạn tốt của tôi từ hồi còn để chỏm, chính là con bé đã thốt ra câu “nếu phẫu thuật thành công, có lẽ Hakura sẽ thay đổi phần nào.” Nó vừa chia tay bạn trai, đang buồn bã nên hẹn tôi đi mua sắm để giải khuây. Tôi đồng ý ngay vì đằng nào ngồi chết dí ở nhà cũng chán ngấy.
Trung tâm thương mại mà chúng tôi ghé qua mới được khánh thành cách đây ít lâu, nghe nói ở đó có siêu thị lớn nhất thành phố. Đánh xe vào bãi đỗ mới phát hiện chiếc xe bên cạnh nhìn rất quen mắt. Xác nhận lại biển số xe, quả nhiên là của “mỹ nhân bệnh viện” mà tôi quen ngày trước. Ở cái thành phố bé bằng lòng bàn tay này, dù có đụng mặt trong một trung tâm mua sắm cũng chẳng có gì là lạ. Tuy vậy, tim tôi vẫn đập thình thịch, thầm hy vọng rằng có thể gặp lại cô ấy một lần nữa.
“Của người quen à?”
Thấy tôi dán mắt vào chiếc xe bên cạnh, đứa bạn hỏi giọng châm chọc.
“Ừm, quen sơ sơ.”
“Đàn ông à? Có cần dán mẩu giấy bắn tin cho người ta không?” “Không, là một cô gái quen biết trong thời gian nằm viện.” Đứa bạn ậm ừ với vẻ hoài nghi, đúng lúc đó điện thoại của tôi đổ
chuông liên hồi, tôi vội vàng bấm nút nghe, quả nhiên là Hyosuke. “Kokuro, em đang làm gì vậy?” Cậu ấy ngân dài giọng, giả vờ ẻo lả.
“Đang đi mua đồ với người đẹp, Suke thì sao nhỉ?”
“Anh cũng đang đi chợ, định làm bữa tối cho mẹ, đã mua thịt bò thái lát loại xịn và bánh ga-tô rồi.”
“Tuyệt quá, em cũng muốn ăn thử.”
“Lần sau, anh làm cho em nhé! Đừng đi chơi khuya quá đấy, về nhà sớm một chút!”
“Vâng.” Nói xong tôi cúp máy, ngay lập tức bị đứa bạn cốc đầu. “Người đẹp cái nỗi gì hả? Kokuro à, nghe chối tai thế. Ghê cả người, không thấy xấu hổ sao?”
“Tớ tự biết mà.”
Tôi ưỡn ngực nói giọng bâng quơ, cô bạn nhún vai tỏ vẻ ngạc nhiên. Trước kia khi còn yêu nhau, chẳng phải mỗi lần gọi điện thoại cô ấy cũng gọi anh chàng kia là “cục cưng” sao, chẳng biết ai mới là người phải xấu hổ hơn chứ.
Rời bãi đỗ xe bước vào siêu thị, tôi và cô bạn hẹn gặp lại nhau sau hai tiếng nữa rồi đường ai nấy đi. Mấy bộ quần áo nó muốn mua tôi không ưng chút nào, mà ưng cũng chẳng có tiền mua, vì vậy tôi định đến hiệu sách để giết thời gian.
Nhưng chẳng mấy khi có dịp đến trung tâm thương mại mới, trước tiên phải xuống khu bán đồ thực phẩm dưới tầng hầm lượn vài vòng cái đã. Tôi đi cầu thang cuốn. Có lẽ do thời tiết đẹp hoặc đúng vào ngày nghỉ, nên lượng khách đến mua sắm rất đông, rất nhiều đôi tình nhân và những cặp cha mẹ trẻ dắt theo con nhỏ. Xuống đến tầng hầm, tôi thấy một dãy cửa hiệu bán bánh ngọt kiểu Pháp, dáo dác nhìn đám hàng mẫu bày trong tủ kính, tôi chợt nhớ lại lời Hyosuke nói khi nãy. Liệu có nên mua gì đó cho mẹ không nhỉ, bánh ngọt hay đồ ăn đây?
Tuy nói những lời khó nghe với mẹ, nhưng tôi vẫn thường xuyên
mua đồ ăn cho bà, hôm nào mát trời còn giúp mẹ làm cơm, dọn dẹp nhà cửa. Hai mẹ con thường cùng nhau đi mua sắm, thi thoảng còn đến suối nước nóng gần nhà. Trong mắt người ngoài, có lẽ hai mẹ con sống rất tình cảm, nhưng tôi biết đó chỉ là một bà mẹ không thể rời xa con và một đứa con không thể rời xa mẹ mình.
Còn lâu mới đến giờ cơm tối, nhưng các bà nội trợ đã xếp hàng dài trước cửa hiệu bán thực phẩm. Có lẽ do bị chen lấn xô đẩy khi đi ngang qua đám đông, tôi lại cảm thấy chóng mặt. Bên cửa tiệm bánh ngọt Nhật Bản có vẻ thưa người, đang định bước sang, bỗng có người túm chặt tay áo tôi.
“Cháu à, lối ra ở đằng nào nhỉ?”
Tôi kinh hãi ngoảnh lại nhìn, đó là một bà cụ nhỏ thó, thấp hơn mình một cái đầu.
“Dạ, cái này...”
“Lối ra ở đâu vậy? Bà tìm từ nãy đến giờ mà không thấy.” Bà lão giữ khư khư lấy vạt áo của tôi. Bà mặc chiếc áo mở vạt và quần thụng có màu nước tương, một tay chống gậy, đôi mắt nhìn tôi chằm chằm. Lòng trắng mờ đục khiến tôi có cảm giác hình như đã gặp bà ở đâu đó, đống mỳ xào ăn lúc trưa lại chực trào lên cổ họng. Tôi vội lấy tay che miệng, không thể nôn ở đây được. Cánh tay phải bị bà cụ níu chặt, không tài nào nhúc nhích. Hai con ngươi của tôi long sòng sọc, đầu gối mềm nhũn.
“Cháu biết lối ra ở đằng nào không?”
Tôi không thể đứng vững, ngồi phịch xuống dưới đất, nhưng bà lão vẫn không chịu buông tha. Đám người ở những cửa hiệu xung quanh đó rốt cuộc cũng để mắt tới, liền bu lại, một người hỏi tôi có sao không.
“Là cô sao?”
Tôi cố gắng kìm nén cảm giác buồn nôn và ngẩng đầu lên. Một người phụ nữ mặc áo khoác màu trắng, chính là cô ấy. “Ừm, chào chị......”
“Thiếu máu à, đừng nói gì nữa. Cô có tự đứng lên được không? Tôi dìu cô đến phòng y tế nhé. À bà ơi, cháu xin phép, buông tay ra được không?”
Cô ấy lại giúp mình một lần nữa, tôi vừa nghĩ vừa choàng tay vào vai cô ấy rồi cố gắng đứng dậy.
Hai lần nhập viện khiến tôi hiểu rõ, mình chưa từng có khả năng sống trong môi trường tập thể. Thời gian hậu phẫu khi chưa thể cựa mình, tôi khiến đám y tá ghét bỏ. Không tươi cười, không một lời cảm ơn và luôn mồm kêu than “đau quá, khó chịu quá, sao lại đày đọa tôi thế này”. Và thế là bọn họ dần trở nên lạnh nhạt với tôi. Tuy gọi là thiên thần áo trắng, nhưng sau khi trút bỏ bộ đồng phục, bọn họ chẳng qua chỉ là mấy con bé sàn sàn tuổi tôi. Tôi ghen tị với họ vì không có một cơ thể khỏe mạnh và tinh thần sung mãn. Gắng lên nào, cố chịu thêm chút nữa. Mỗi lần nghe đám y tá nói thế, dù biết đang hiểu sai ý người ta, nhưng tôi vẫn nổi giận với vẻ mặt câng câng và đôi lúc họ hỏi cũng không thèm trả lời.
Rốt cuộc, các y tá cũng vì công việc mà không chấp một bệnh nhân như tôi, hơn nữa không được họ để mắt tới nữa cũng rất tốt. Vấn đề là mấy người lớn tuổi và các bà thím nằm cùng buồng bệnh.
Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy nổi da gà. Hai lần vào viện đều bầu bạn với toàn ông bà già tuổi đời trên dưới 70. Tại sao con người ta về già đều giống nhau? Hơn nữa bệnh nhân trong bệnh viện này đều mặc đồng phục áo kẻ sọc theo quy định, rất khó phân biệt. Tôi
không thể nhớ nổi khuôn mặt và tên họ từng người, một phần là bởi tôi không muốn ghi nhớ.
Giờ ăn cơm là khoảng thời gian tôi ghét cay ghét đắng. Đồ ăn thức uống chỉ chú trọng đến hàm lượng ca-lo đặt trong khay nhựa, mùi thuốc sát trùng và mùi do ai đó phóng uế quyện chặt lại thật kinh khủng! Tôi luôn ăn bánh ngọt do những người thăm nom mang đến, nên dĩ nhiên không có cảm giác thèm ăn. Nhìn mấy ông bà già móm mém trệu trạo nhai từng hạt cơm, khiến tôi muốn hét thật to: “Các người muốn sống như vậy sao?” Nhưng chợt nghĩ đến rồi một ngày chính tôi cũng sẽ trở thành một người trong số họ, cảm giác bất lực lại bao trùm trong tim, tôi liền cắm đầu cắm cổ khoắng hết khay thức ăn của mình.
Mấy ông bà già không thể tự rời khỏi giường bệnh kia vẫn chưa khiến tôi cảm thấy phiền hà, chính mấy bà thím vẫn còn đôi chút minh mẫn mới là vấn đề.
Ngoài cô bệnh nhân xinh đẹp kia ra, tôi không hứng thú với bất cứ ai, nhưng người khác lại không như tôi. Từ lúc tôi có thể đứng dậy, có thể tự mình chống cọc truyền đi vệ sinh, mấy bà thím liền xúm tới bắt chuyện.
Cháu ở đâu? Cháu làm nghề gì? Bố còn đi làm không? Bệnh gì mà vào viện thế? Nếu tôi không trả lời, mấy bà thím sẽ thao thao bất tuyệt tự trình bày nhân thân lai lịch, rồi kể lể bệnh tình. Tôi cảm thấy mình giống hệt phạm nhân mới nhập trại, càng không muốn trả lời. Tôi cố gắng tránh dây dưa với bọn họ, vì vậy mặc kệ ai nói gì tôi đều lặng thinh. Kết quả một hôm y tá nói: “Mọi người đều nói cô Uehara không được thân thiện cho lắm, mong cô hãy quan tâm tới cảm nhận của người khác nhiều hơn.” Tôi thấy quá mệt mỏi.
“Trong người thế nào rồi?”
Tôi nằm một mình trong phòng y tế chật chội của trung tâm thương mại, nghĩ lại từng cảnh tượng trước đây, nước mắt lại trào ra. Một lúc sau, cô gái khi nãy bỗng bước tới. Tôi vội vàng lau nước mắt, ngồi dậy.
“À, không sao rồi. Khi nãy em đứng lâu quá nên hơi chóng mặt.” “Em không sao thật chứ?”
“Vâng, em không sao thật mà.”
Chị ấy mỉm cười, kéo chiếc ghế ngồi sát bên cạnh giường. “Chị làm ở đây ư?”
“Đúng vậy, cửa hàng bánh Amanatto, ngay phía trước chỗ em bị ngã. Lúc đó chị đang nghĩ, một thanh niên như em mà lại bị bà già túm áo ngã quỵ xuống, tuy biết không nên cười, nhưng vẫn cảm thấy thật khôi hài.”
Tôi cười ngượng ngùng. Khi nằm viện, tôi cũng được cô ấy giúp đỡ trong một tình huống tương tự. Nằm mãi trong buồng bệnh cũng chán, tôi liền thơ thẩn ra sảnh, không ngờ bị một bà cụ lẩm cẩm bám riết không buông. Bà cụ ngồi cạnh tôi, kể lể một thôi một hồi về bệnh tình, gia cảnh, do cũng đang rảnh nên tôi ngồi nghe chơi, nhưng sau một lúc nhìn cái miệng móm mém đảo qua đảo lại, tôi cảm thấy khó chịu và muốn trở về buồng. Ai ngờ lại bị bà cụ trách móc: “Sao cháu lại đòi đi thế, ngồi đây nghe xem nào!” Do cũng nổi nóng nên tôi hơi to tiếng rồi thành ra cãi nhau với bà cụ. Bao nhiêu người hiếu kỳ xúm lại. Đang khó chịu, tôi còn bị đám nhân viên hành chính phê bình là bắt nạt người cao tuổi. Tôi đang bần thần ngồi trên sô pha và không biết phải làm sao thì chị ấy bỗng đứng ra giải nguy: “Cô gái này không có lỗi.” Tôi quay trở lại buồng bệnh như vừa thoát khỏi kiếp nạn, còn không chắc khi đó đã nói lời xin lỗi
hay chưa.
“Lần đó cũng cảm ơn chị rất nhiều!”
“Chuyện xưa rồi, thôi bỏ đi. Lần trước trông thấy em ở bãi đỗ xe trong bệnh viện, em vẫn đến khám à?”
“Mỗi tháng một lần.”
“Chị thì ba tháng một lần. Nhưng lần nào cũng đợi dài cổ. Sao bệnh viện không có chế độ hẹn trước nhỉ? Khó khăn lắm mới có một ngày nghỉ, lại phải phí hoài như vậy.”
“Đúng.”
Tôi bất giác trả lời một cách dứt khoát, và cảm thấy nói chuyện với chị ấy rất hợp cạ. Giọng chị ấy dịu dàng trầm ấm, thân hình thon gọn trong bộ đồng phục của tiệm bánh ngọt, trên đầu đội chiếc khăn tam giác, tuy chừng 30 tuổi nhưng nhìn bề ngoài không hề có dáng vẻ của một phụ nữ trung niên. Nhờ cái biển tên trước ngực ghi dòng chữ “Nagase”, tôi mới biết tên của chị ấy. Tôi chợt nhớ ra khi nãy chị ấy gọi mình là “Uehara”.
“Chị biết tên em ư?”
“Ừ, hồi mới vào viện, cho dù chị không hỏi, mấy bà thím cũng chạy lại ton hót ngay.”
Vậy thì bệnh tình của tôi chắc chắn cô ấy cũng đã biết. Tuy tôi và người nhà không nhớ đã từng nói cho ai, nhưng trong thời gian nằm viện rất nhiều người đều hỏi: “Nghe nói cháu bị ung thư vú?” Bệnh nhân nằm viện hình như chẳng có chút quyền riêng tư nào thì phải.
“Hôm nay em được nghỉ à?”
“Dạ, không phải... À, hiện là giờ nghỉ của chị à?”
“Đúng, sao em lại hỏi như thế?”
“Thật xin lỗi chị, thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi lại bị em quấy rầy.”
Câu nói của tôi khiến chị ấy nở một nụ cười dịu dàng. “Chị lo cho em, với lại cũng muốn bắt chuyện với em nữa. Cảm ơn em đã nghĩ cho chị, em tinh tế quá!”
Đã lười nhác và quậy phá đến nước này mà vẫn được người khác khen là “tinh tế”, tôi xấu hổ đến đỏ cả mặt. Thấy không thể lừa dối chị ấy, tôi bèn nói thật:
“Em đang thất nghiệp mà.”
“Ồ, thật vậy sao?”
“Em đã khỏe lại rồi, nhưng không muốn đi làm, cứ lười nhác mãi thôi.”
Nagase nghe xong trầm ngâm một lát. Tôi cúi gằm mặt, căng thẳng tột độ, không biết liệu chị ấy có khinh thường mình hay không. Cánh tay áo khi nãy bị bà lão lạ mặt túm lấy giờ nhàu nhĩ, nhăn nhúm.
“Nếu em bằng lòng”, chị ấy nói một cách cẩn trọng, “em có muốn làm việc ở tiệm bánh Amanatto của chị không? Một nhân viên vừa đột ngột xin thôi việc, chị đang đau đầu vì chuyện tuyển người đây.” “Có điều là...”
“Không cần trả lời ngay, em cứ suy nghĩ đi.”
Bỗng nhiên tôi hơi hoảng loạn khi nghe được thông tin này. “Có điều là, việc này...”
Tôi liên tục nhắc đi nhắc lại câu nói đó khiến chị ấy phì cười. “Em thuộc tuýp người không thích ứng với xã hội.”
Nagase trợn tròn mắt rồi cười ngặt nghẽo, nói một cách dứt khoát: “Không phải đâu.”
Một tuần bốn ngày, tôi tạm thời đến làm việc tại tiệm bánh
Amanatto. Cha mẹ và bạn trai của tôi đều vui mừng khôn xiết, “Cuối cùng con cũng lấy lại được tinh thần rồi hả.” Một đứa quái gở như tôi lại thấy không vui chút nào. Tuy vậy, thực ra tôi cũng muốn cố gắng một chút, tuy tiền lương mỗi giờ làm việc chỉ bằng hai phần ba mức trung bình.
Sau này tôi mới biết, chị ấy chính là chủ tiệm bánh, hơn nữa hai chúng tôi chỉ chênh nhau đúng một tuổi. Là tôi quá non nớt, hay chị ấy quá già dặn?
Tôi không biết thương hiệu Amanatto có quy mô lớn đến vậy, có một chuỗi cửa hàng trên phạm vi toàn quốc và chi nhánh tại hầu hết trung tâm mua sắm và siêu thị lớn trong tỉnh. Tiệm bánh tôi làm việc thuộc loại nhỏ, chỉ có ba người là chủ tiệm, một bà thím làm thuê và tôi. Nagase còn quản lý luôn tiệm bánh ở tòa cao ốc cạnh bến xe gần đó, thường xuyên đi lại như con thoi, thi thoảng còn phải bàn bạc với nhân viên kinh doanh của công ty con, hiếm khi có mặt ở tiệm. Bà thím làm thuê chỉ chào hỏi qua loa khi tôi mới bắt tay vào công việc, tôi đến thay ca cũng là lúc bà ấy ra về, chúng tôi cũng rất ít có cơ hội chạm mặt nhau.
Do đó, thường chỉ có mình tôi trong tiệm, nhưng sự thực không phải như thế. Quầy hàng của chúng tôi thông với tiệm bánh ngọt Nhật Bản, thế nên lúc nào cũng giáp mặt với mấy bà thím làm công cho những cửa hàng khác. Đối với tôi, việc này chẳng hề dễ chịu chút nào.
Cách sống của mấy bà thím dù là ở đâu cũng đều giống nhau. Đặc biệt là trong những tiệm bánh ngọt Nhật Bản thưa khách. Mỗi khi không có khách, ngay lập tức tôi sẽ bị vây hãm và bị hỏi tới tấp.
Ở đâu? Bao nhiêu tuổi? Chưa chồng à? Học trường nào thế cháu? Trước đây làm nghề gì? Vì không muốn Nagase mất mặt,
nên tôi đều trả lời mọi câu hỏi đó, hơn nữa tôi cũng không tỏ vẻ khó chịu mà trái lại còn niềm nở, tươi cười. Nghe xong chuyện của tôi, mấy bà thím đã thỏa mãn sự tò mò rồi quay sang tâm sự về chuyện nhà cửa, con gái. Tôi đành ậm ừ làm ra vẻ lắng nghe.
Bản thân công việc không có gì khó khăn. Cách sử dụng máy thu ngân đời mới và gói quà tặng hơi phức tạp, nhưng sau hai tuần tôi đã làm thành thạo mà không cần tới sự giúp đỡ của các bà thím cửa hàng bên. Việc khiến tôi đau khổ nhất vẫn là buộc phải tỏ vẻ đáng yêu trước mặt họ, và khách hàng ở đây đa phần cũng là người cao tuổi.
Mấy ông cụ mua thứ gì cũng chần chừ do dự rất lâu, đôi khi đến cả mười lăm phút, mấy bà cụ thì muốn kiếm người để hàn huyên, cũng cứ loanh quanh không chịu rời, nhiều lần tôi muốn phát điên lên được. Bà lão lần trước níu tay tôi và hỏi lối ra hầu như ngày nào cũng loanh quanh ở khu vực bán đồ thực phẩm, quấy rầy nhân viên hoặc khách mua hàng.
Chết tiệt, mình có lẽ đã làm nhầm nghề rồi. Tuy nghĩ vậy, nhưng do Nagase tha thiết mời nên tôi đành gắng chịu. Hơn nữa, chị ấy là một bà chủ rất biết quan tâm đến tình hình sức khỏe của nhân viên, luôn sẵn sàng thu xếp để tôi nghỉ bất cứ lúc nào mà tôi cảm thấy không được khỏe.
“Uehara, sao cô và Nagase lại quen biết nhau?”
Bà thím ở tiệm bánh Yokan quay sang hỏi:
“Chúng cháu quen nhau khi nằm viện.”
Tôi chẳng buồn suy nghĩ mà buột miệng nói, bà thím lập tức hớn hở như bắt được vàng: “Nằm viện ư? Cô khó chịu chỗ nào?” “Vì ung thư vú.”
“Cái gì? Là cô Nagase ư?”
Bà thím bỗng rít lên.
Dù trong bụng cười khẩy, nhưng tôi vẫn đon đả trả lời: “Không, là cháu. Cháu phải cắt bỏ ngực phải, dùng lớp da phía sau lưng làm phẫu thuật tái tạo, và đã ăn không ngồi rồi từ bao lâu nay.”
“Xấu tính”, câu nói của Hyosuke chợt thoáng qua. Bà thím lộ vẻ khó xử, nhưng khuôn mặt hiện rõ dòng chữ “ta đã có được tin sốt dẻo.” Ngày mai, chuyện của tôi nhất định sẽ được truyền tai khắp khu bán bánh ngọt Nhật Bản.
“Chà, cháu còn trẻ mà đã chịu biết bao đau khổ, nhưng vẫn sống đầy nghị lực, thật phi thường!”
“Không, cháu chẳng cố gắng chút nào.”
“Còn Nagase bị làm sao mà phải vào viện vậy?”
Không hổ danh là mấy “bà tám”, đánh hơi được thông tin là phải làm rõ đầu cua tai nheo. Thật ghê gớm!
“Cháu không biết, hỏi chuyện đó trước mặt người ta không phải hơi bất lịch sự hay sao?”
Tôi nói giọng mỉa mai, nhưng bà thím chỉ gật đầu cười trừ. “Đúng thế.”
Nhưng, đúng là Nagase vào viện vì bệnh gì nhỉ? Không phải tôi không tò mò, mà chỉ cảm thấy người ta không nói tức là không muốn nói. Thú thật tôi chẳng biết gì về gia cảnh cũng như nhân thân của chị ấy cả.
Đúng lúc đó, điện thoại của tôi đổ chuông. Tiệm bánh này nằm dưới tầng hầm, điện thoại di động thông thường hay bị mất sóng, mà nếu tôi không ở trong tình trạng có thể liên lạc được bất cứ lúc nào, Hyosuke chắc chắn sẽ cằn nhằn, vì thế cậu ấy đã mua cho tôi
chiếc điện thoại loại đặc biệt mà dù ở dưới tầng hầm vẫn có thể hoạt động tốt.
“Kokuro, giờ em nói chuyện có tiện không?”
“Ừm, giờ không có khách, anh nói đi.”
“Hôm nay tới nhà anh nhé, anh sẽ làm bò bít tết cho em.” “Ồ, hết giờ làm việc em sẽ đến luôn.”
Bà thím ở tiệm bánh Yokan khi nãy còn trò chuyện rôm rả, giờ đã quay lưng bước đi một cách lạnh lùng.
Ngày hôm sau, Nagase hẹn tôi đi ăn sau khi tan làm. Có lẽ chị ấy đã có gia đình, vì thường vừa hết giờ làm, chị ấy sẽ mau chóng khóa máy thu ngân, đóng cửa tiệm và ra về. Cho đến tận bây giờ, chúng tôi vẫn chưa từng uống trà cùng nhau. Tôi vui mừng khôn xiết, liền hủy hẹn với Hyosuke để đi cùng Nagase.
Chị ấy bảo gần như chẳng bao giờ ăn cơm bên ngoài nên để tôi chọn quán. Đoán chắc nhiều khả năng Nagase sẽ mời, nên tôi không dám chọn quán sang, mà chỉ lựa một quán rượu tầm trung, mang chút phong vị phương Tây, ngày trước thi thoảng cùng Hyosuke lui tới. Khi bước vào quán, Nagase rất ngạc nhiên trước sự náo nhiệt của nơi đây. Tôi chợt chột dạ, Nagase ghét những nơi ồn ào sao. Chúng tôi uống bia và hàn huyên một cách vui vẻ.
“Hakura, em đã quen việc rồi chứ?” Nagase hỏi tôi.
“Vâng, cũng tàm tạm chị ạ.”
“Sức khỏe em sao rồi?”
“Cũng tàm tạm.”
Tôi nói vậy vốn dĩ muốn chọc cho Nagase cười, nhưng chị ấy lại bình thản châm điếu thuốc, dường như muốn nói điều gì đó. Sau đó, chị ấy quyết định mở lời:
“Nghe nói em bị ung thư vú, thấy mấy người ở tiệm bên cạnh nói vậy.”
Trong giờ làm việc, tôi thường buôn điện thoại với bạn trai, đôi lúc còn ăn vụng vài miếng bánh Amanatto nhân hạt dẻ, cứ tưởng chị ấy sẽ nhắc nhở tôi chú ý thái độ làm việc, không ngờ lại là chuyện này. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
“Dạ, chị không biết sao?”
“Làm sao chị biết được.” Nagase nói, giọng đầy trách móc. “Khi nằm viện, bệnh của em ai nấy đều biết cả, nên em nghĩ kiểu gì chị cũng biết.” Tôi phân bua.
“Chỉ cần em nói với chị một câu là được rồi. Chị muốn nghe chuyện từ chính em, chứ không phải mấy bà thím hay ngồi lê đôi mách.”
“Nếu biết trước như thế, chị sẽ không thuê em chứ?” Nghe xong, Nagase dụi điếu thuốc đang hút dở vào gạt tàn. “Chị có vẻ giống loại người đó sao?”
“Em xin lỗi.” Tôi cúi gằm mặt, nói lí nhí. Sao mình luôn khiến người khác cụt hứng vậy chứ?
“Có điều, sao em lại nói với mấy người đó? Em cũng biết đó là chủ đề dễ bị người ta bàn ra tán vào mà?”
Nagase dường như thật sự không hiểu. Thiếu chút nữa tôi nói ra là do “xấu tính”, nhưng liền vội dùng từ khác.
“Là do... đặc tính.”
“Đặc tính?” Nagase hỏi với giọng kinh ngạc, “bệnh đó mà là đặc tính sao?”
“Đúng. Nếu nói đặc tính hơi quá. Đó là chủ đề trò chuyện duy
nhất. Ngoài ra, em không còn sở trường nào khác.”
Hình như Nagase càng nghe cảm thấy khó hiểu, chị nhấp một ngụm bia mới được mang lên. Tửu lượng của Nagase có vẻ không được cao, mới uống nhiêu đó mà hai mắt chị đã đỏ ngầu, hơi lơ mơ. Người đàn bà này thực sự có sức hút đối với cánh mày râu, trực giác mách bảo tôi như vậy.
“Vậy giờ bệnh tình của em không còn nghiêm trọng nữa chứ?” Nagase quay sang hỏi.
Tôi bèn xổ một tràng như súng liên thanh:
“Vì thường xuyên bị hỏi như vậy và không thích phiền phức nên em đều trả lời không sao. Bị cắt bỏ một bên ngực, làm phẫu thuật tái tạo, dù có vẻ không cần lo lắng về biến chứng, nhưng em cũng không thể hoàn toàn chắc chắn. Hơn nữa, đến giờ em vẫn phải tiêm hormone, không biết có phải do nguyên nhân đó không mà vừa chóng mặt vừa buồn nôn, khó chịu đủ đường. Những người xung quanh nói mọi chuyện đã qua, hãy quên đi thôi, nhưng em vẫn thấy hoàn toàn chưa hề kết thúc.”
Tôi hít thật sâu, nhấp một ngụm bia, dù biết rõ uống rồi sẽ còn cảm thấy khó chịu hơn.
“Cơ thể đã hồi phục và em đã có thể đi làm, vì vậy em buộc phải cố gắng quên đi căn bệnh này thôi. Tuy vậy, bây giờ bên ngực giả thi thoảng vẫn cảm thấy ngưa ngứa.”
“Cái gì?”
“Khi làm phẫu thuật, một phần da bị tụt vào trong vết khâu như miệng hang. Đôi khi nóng nực, chỗ đó lại ngứa dữ dội. Nhưng nó lại nằm ở bên trong người nên có muốn gãi cũng đành bó tay. Cố thì vẫn chịu được, nhưng em thấy đau lắm. Đó không phải vấn đề
nghiêm trọng sao?”
Thấy tôi bất ngờ liến thoắng không ngừng, Nagase ngồi ngây ra không biết phải làm sao. Chị ấy thở dài và nói:
“Chị xin lỗi.”
“À, không ạ, em không trách chị.”
“Chị cũng hiểu phần nào. Chị chỉ khác em một chút thôi, chị bị dị ứng với bột sắn. Dĩ nhiên chị sẽ cẩn thận, nhưng một lần ăn ở ngoài hình như trong nước chấm có pha bột sắn, sau khi ăn xong, mề đay nổi từ miệng lan tới tận thực quản, ngứa đến nỗi chị tưởng mình sắp chết đến nơi.”
“Ồ, trong thực quản cũng chẳng gãi được nhỉ.”
Chúng tôi cùng cười phá lên. Cuối cùng nét mặt Nagase cũng đã có chút tươi tỉnh, khiến tôi cũng cảm thấy vui lây.
“Đúng rồi, em lỡ mồm nói với bà thím ở tiệm bánh Yokan là quen chị trong thời gian nằm viện. Hình như bà ta rất tò mò muốn biết chị nằm viện vì bệnh gì... Em xin lỗi.”
“Chuyện này đã lan truyền khắp trung tâm mua sắm cùng với tin đồn về em.” Chị cười nhạt.
“Dạ, em xin lỗi.”
“Không sao. Cũng chẳng cần giấu giếm. So với Hakura, bệnh của chị có nhằm nhò gì. Chị bị u nang buồng trứng, mổ xong thì không còn vấn đề gì, nghe nói vẫn có thể sinh con, chuyện của chị mới gọi là đã kết thúc.”
Những ngón tay mảnh dẻ của Nagase uể oải mân mê miệng cốc để trên bàn. Tôi đoán rằng cho dù độc thân, chị ấy chắc chắn cũng có bạn trai, hơn nữa phải là một người khá hơn Hyosuke rất nhiều. “Bệnh này không hiếm gặp, nhưng trước đây khi làm việc tại một
cửa hàng, mấy chị đồng nghiệp đều bảo rằng đó là vì chị quá xinh đẹp, lả lơi nhiều với gã đàn ông nên thành ra bị như vậy. Có lẽ đó chỉ là một câu nói đùa, nhưng sao con người ta lại có thể ăn nói cay nghiệt đến thế.”
Từ trước đến giờ, tôi vẫn cho rằng người đàn bà đẹp không nên tự lăng xê bản thân, nên nghe Nagase nói vậy tôi bỗng thấy hơi lăn tăn. Dù không định soi mói đời tư người khác, nhưng rốt cuộc tôi vẫn buột miệng hỏi: “Nagase, chị có bạn trai chứ?”
“Không phải bạn trai, mà là ông xã.”
Tôi thần người nghĩ ngợi vẩn vơ, phát hiện Nagase ngồi cạnh đang ngán ngẩm không buồn nói nửa lời. Để phá vỡ khoảng lặng này, tôi quyết định nhắc tới giun dẹp.
“Nagase, giả sử có kiếp sau, chị muốn đầu thai làm con gì?” “Sao em đột nhiên lại nhắc đến chuyện đó? Lẽ nào có kiếp sau sao?”
“Thì em giả sử mà.”
Chị trầm ngâm suy nghĩ rồi bắt đầu lẩm bẩm liệt kê tên những con vật.
“Chị muốn làm giun dẹp.”
“Giun dẹp? Cái thứ bị chặt làm hai khúc mà vẫn phục hồi nguyên trạng, nhìn giống con sên biển phải không?”
“Ồ, lần đầu tiên chị gặp người biết về giun dẹp đấy.” Tôi cảm thấy cực kỳ phấn chấn. Khi Nagase hỏi lý do, tôi lặp lại câu trả lời như đã nói với đám bạn của mình trong lần uống rượu trước.
“Sống dưới những phiến đá giữa dòng suối trong veo, những con giun dẹp không đáng yêu, cũng không bị con người phát hiện,
không cần bận tâm về bất cứ điều gì. Hơn nữa, dù có bị băm chặt thành trăm mảnh nó vẫn có thể sống lại, không hề bị cái chết làm cho sợ hãi. Cũng không cần làm tình, cứ vứt một chỗ tự nó sẽ lớn lên rồi phân thành hai cá thể, sống đơn giản như vậy mới sung sướng làm sao.”
“Ừm, nhưng đến tuổi cũng sẽ khô quắt rồi chết đi.”
“Thật vậy hả chị?”
“Cái này chị xem trên ti vi, cũng không rõ lắm.”
Tôi cũng đã xem chương trình đó, đang định nói thì Nagase lên tiếng.
“Nếu kiếp sau có thể đầu thai, chị vẫn muốn làm chính mình.” Cảm giác sung sướng râm ran trong cơ thể nãy giờ giống như quả bóng đang dần xì hơi. Đối với tôi, nếu không phải trước kia được Nagase đặc biệt chú ý quan tâm thì đó sẽ chỉ là câu nói suông. Tôi từng cảm thấy Nagase rất “giả tạo.” Sao tôi lại gàn dở thế nhỉ? Không thể thừa nhận mỗi người có một quan điểm, một cách nghĩ khác nhau.
Trước khi ra về, tôi cảm ơn vì bữa tối mà Nagase mời. Chị mỉm cười và hẹn một dịp khác chúng tôi sẽ lại làm vài ly với nhau. Dù thế nào trong mắt tôi, chị vẫn là một người tốt, một người khiến tôi vô cùng ngưỡng mộ. Cảm giác một người như chị không hề tồn tại trên thế gian này. Một mình bước trong đêm tối, tôi vừa đi vừa lẩm bẩm. Không thể nhụt chí vì chuyện cỏn con này. Mặc dù vậy, cái dự cảm chẳng mấy tốt lành gì lại biến thành sự thật, giáng xuống đầu tôi nhanh hơn dự tính.
Ngày nghỉ của tuần kế tiếp, Hyosuke bận rộn làm báo cáo nên không thể gặp mặt. Bố mẹ đi làm hết, chỉ có tôi trong ngôi nhà vắng
lặng và chẳng có việc gì làm, đúng lúc đó có bưu kiện chuyển phát nhanh.
Người gửi là Nagase, chiếc thùng giấy cỡ trung bình nhưng tương đối nặng. Một tuần thì bốn ngày chúng tôi đều có thể gặp nhau ở tiệm bánh, sao chị ấy phải gửi bưu kiện cầu kỳ như thế nhỉ? Tôi vừa bóc băng dính vừa thắc mắc.
Một bưu kiện toàn sách, tổng cộng có sáu cuốn, tất cả đều liên quan đến bệnh ung thư. Tôi cầm chúng và ngây người trong giây lát.
Trong số đó có một cuốn nói về hành trình đấu tranh chống lại căn bệnh ung thư của giới nghệ sỹ mà trước đây tôi đã từng đọc, còn lại là năm cuốn dày như sách y học. Cầm một cuốn na ná sách chuyên ngành lên lật vài trang xem thử, một bức hình chụp lại cảnh cả bầu vú bị cắt bỏ đột nhiên đập thẳng vào mắt khiến tôi cuống cuồng gấp sách lại. Sau khi định thần và lấy hết can đảm lật ra, tôi chỉ lướt qua loa mấy bức ảnh. Cuốn sách với đủ thể loại ảnh lâm sàng ghê rợn sau phẫu thuật thản nhiên phơi bày trước mắt, cũng có rất nhiều bức ảnh chụp cảnh phẫu thuật giữ lại vú và phẫu thuật tái tạo vú, nhưng chỉ có một ca bệnh giống tôi, một lần nữa tôi nhận thức được sự phong phú, đa dạng của các liệu pháp điều trị.
Trong đó kinh hoàng nhất phải kể đến bức ảnh ghi lại trường hợp ung thư vú kéo dài hơn mười năm mà chưa hề trải qua bất cứ hình thức điều trị nào. Bi thảm đến mức ngay cả một bệnh nhân ung thư vú như tôi cũng không dám nhìn thẳng mà phải vội vàng gấp sách lại.
Ngoài ra, trong bưu kiện còn có một phong bì làm bằng da bò. Bên trong chiếc phong bì là một xấp giấy in với màu sắc tươi sáng, đối lập hoàn toàn với đống sách viết về bệnh ung thư.
Chỉ cần nhìn tờ đầu tiên, ngay lập tức tôi đã nhận ra đó là ảnh giun dẹp phóng to. Những bức hình này hình như đều được tải trên mạng về. Từ trong xấp giấy rơi ra một phong bì thư in hoa văn bằng màu mực nhạt. Đó là thư của Nagase.
Bức thư chỉ vỏn vẹn một trang giấy, rất ngắn gọn, trong đó đại ý viết rằng trước đây chị ấy cũng có người họ hàng từng bị căn bệnh giống như tôi, vì vậy chị mới mượn số sách do người đó sưu tầm, đồng thời lên mạng tìm thông tin về giun dẹp và gửi tất cả cho tôi.
Mặt sau thư còn có thêm một dòng: “Yêu cầu không dùng điện thoại di động trong giờ làm việc, không được ăn vụng!” Còn chèn thêm biểu tượng mặt cười, hình trái tim và lời rủ rê “Lần sau lại cùng nhau uống vài ly nhé!”
Tôi ngồi bần thần trên sàn, xung quanh ngổn ngang sách và giấy in, chân tay bải hoải rã rời. Lúc này tôi biết mình cần nói lời cảm ơn với chị. Mọi thứ mà chị làm cho tôi đều xuất phát từ lòng nhiệt tình. Chị gửi những tư liệu này đến vì cho rằng chúng có thể cần thiết đối với tôi.
Hơn nữa, việc nhắc nhở thái độ và ý thức đối với công việc rõ ràng do chị ấy tiện tay viết vào, cũng có thể là vì khó mở lời khi chúng tôi đối mặt trực tiếp. Nếu đúng là như vậy, thì Nagase quả là một người dịu dàng.
Thế nhưng từ sâu thẳm trong lòng, tôi vẫn cảm thấy một cảm xúc sục sôi khó tả. “Không thể như vậy được!” Tôi thầm nghĩ, nhưng lại không có cách nào kiểm soát bản thân. Tôi muốn gọi điện cho Nagase ngay lập tức, hoặc phi thẳng đến tiệm bánh để trút hết uất ức với chị. Khó khăn lắm tôi mới kiềm chế được. Ngày mai khi bình tĩnh lại, có thể tôi sẽ thấy cảm kích, có thể tiếp nhận thành ý của Nagase một cách thoải mái hơn.
Nhưng tôi không muốn đọc số sách kia, cũng như những tài liệu về giun dẹp, nên đã tiện tay ném lại vào thùng rồi nhét vào tủ. Trời còn chưa tối mà tôi đã tắt điện thoại, trèo lên giường nằm và òa khóc như một đứa trẻ, cứ như thế cho đến khi mệt mà ngủ thiếp đi.
Sau đó, hai lần tôi nghỉ làm mà không có lý do. Đến cả một cuộc điện thoại xin nghỉ ốm tôi cũng không gọi, đơn giản là vì tôi không thích thế. Tôi đã bình tĩnh lại, nhưng sự hăng hái một cách miễn cưỡng lại nhanh chóng tiêu tan. Tất cả thật quá phiền phức!
Tôi để mặc cho Hyosuke trang điểm giúp, sau đó theo cậu ấy tới một quán rượu gần trường. Chuông điện thoại vang lên. Quả nhiên là Nagase.
“Em bị ốm hay sao?” Chị hỏi một cách khách sáo.
“Chỉ là em không muốn đi làm nữa thôi.” Tôi đáp.
Nghe xong, Nagase có vẻ vô cùng sửng sốt, “Không đi làm nữa ư? Tại sao vậy?”
Tôi rời khỏi bàn rượu nơi Hyosuke và đám bạn đang ngồi, vừa bước về phía nhà vệ sinh vừa cố gắng trả lời một cách bâng quơ: “Vì em phải đứng suốt ngày, vất vả quá. Khách lại toàn người già, em thấy chán lắm. Lương lại chỉ ba cọc ba đồng.”
Sau một giây im lặng, không biết có phải do cố nuốt cơn giận hay không, Nagase vẫn đáp lại bằng một giọng vô cùng nhẹ nhàng: “Vậy mà em cũng chẳng thèm gọi điện thoại cho chị... Em có biết mọi người thấy khó xử thế nào không? Chị đặt nhiều niềm tin vào em nên mới giao tiệm bánh cho em đấy.”
Âm thanh ồn ào xen lẫn giọng nói già dặn của Nagase, kèm những tiếng la hét của đám sinh viên đang say khướt. Tôi đoán chị có thể cũng nghe thấy.
“Đằng nào em cũng không làm nữa.”
“Chị không ngờ em lại vô trách nhiệm như vậy, xem ra chị đã nhìn lầm người!”
Cuối câu chị còn rít lên như thể đã mất hết kiên nhẫn với tôi. “Ngay từ đầu chị đã đánh giá em quá cao rồi, Nagase ạ.” “Đến một lời xin lỗi mà em cũng không nói được hay sao? Chị
những tưởng rằng chúng ta đã thân thiết lắm rồi cơ đấy.” Tôi lặng thinh. Như thể mãi mới chợt nhớ ra, Nagase hạ giọng: “Chị bất chợt gửi bưu kiện khiến em không vui phải không? Là do chị không tốt, làm việc thiếu cân nhắc.”
“Không sao đâu chị.”
Tôi cúi đầu, vừa nhìn những ngón chân được sơn màu thò ra ngoài đôi xăng đan vừa nói. Ngay cả móng chân Hyosuke cũng bắt tôi sơn màu hồng.
“Vì em muốn tránh đọc những sách như thế được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Kể cả giun dẹp nữa, em cũng chưa từng nghĩ sẽ tìm hiểu thông tin về nó.”
Im lặng một hồi, tôi nghe thấy tiếng chị thở dài.
“Nhưng Hakura à, chẳng phải em nói đó là ‘đặc tính’ ư? Sao em lại không tìm hiểu?”
Cuộc đôi co với Nagase khiến tôi cảm thấy rất khổ sở. Trong một khoảnh khắc, câu trả lời bỗng thoáng qua trong suy nghĩ. Tôi rời mắt khỏi ngón chân và ngước lên. Trước cửa toilet, một đôi tình nhân nom chưa đầy đôi mươi đang hôn nhau say đắm.
“Vì cho dù có tìm hiểu, núm vú của em sẽ không bao giờ mọc ra, em cũng không thể trở thành giun dẹp được.”
“Đó là hai chuyện hoàn toàn khác, Hakura!”
Tôi không nói gì thêm, liền lẳng lặng cúp máy. Tôi muốn trở về bên Hyosuke, nhưng bước đi có vẻ run rẩy. Khó khăn lắm tôi mới mò về được bàn rượu, đúng lúc câu chuyện cũ kết thúc, một người vô tư hỏi:
“Hakura, cậu không đi làm ư?”
“Ừm, tớ bị ung thư vú.”
Vừa ngồi xuống tôi đã nói như vậy khiến Hyosuke trợn trừng mắt. Hôm nay chúng tôi uống rượu cùng đám bạn của cậu ấy. Trước đó, Hyosuke đã nói chắc như đinh đóng cột, rằng nếu tôi còn nhắc đến chuyện này, cậu ấy dứt khoát sẽ chia tay.
Tôi đứng phắt dậy, rời khỏi bàn rượu đang im phăng phắc. Quán rượu rộng mênh mông khiến một đứa say như tôi không định nổi phương hướng. Vừa may, tôi níu tay được một nhân viên phục vụ vừa bước tới để hỏi lối ra. Cô nhân viên nom có vẻ vẫn còn là sinh viên chỉ hướng cho tôi, song tỏ vẻ hơi khó chịu.
Trần trụi
G
ần đây tôi say sưa với thú làm búp bê bằng len. Một lần đi qua cửa hàng lưu niệm, tôi bắt gặp một chú gấu được làm bằng len trông vô cùng đáng yêu. Ngay lập tức, tôi đến tiệm thủ công mỹ nghệ ngắm nghía. Ở đây bán đủ nguyên cả bộ đồ nghề, từ len, kim đan đến phụ kiện đi kèm, tất cả đều là đồ đang thịnh hành. Tôi mua một bộ để về nhà làm, chỉ trong một buổi tối, tôi đã đan xong được một chú ếch. Ngày hôm sau, tôi mua thêm mấy mẫu con thú và cũng làm xong tất cả chỉ trong một tối. Sau đó, tôi đi mua len, vải nhung và những chiếc cúc áo dùng để làm mắt, sau khi làm xong vài mẫu, tôi nắm được một số bí kíp và quyết định tự thiết kế mẫu riêng của mình xem sao. Tuy nhiên, bẩm sinh tôi đã không được trời phú cho khả năng sáng tạo, chú hà mã tôi vừa đan xong chẳng đáng yêu chút nào. Tôi bèn đến hiệu sách mua cuốn Tuyển tập thú cưng, trong đó mô phỏng rất nhiều loại thú cưng. Tôi quên ăn quên ngủ để đan đủ bộ tuyển tập thú cưng, nào là Purin, Togebi, Psyduck, Bulbasaur, Charmander, Squirtle, Eevee...
Đột nhiên, tôi nảy ra ý tưởng thử làm một chú gấu đưa thư. Tôi mở chiếc máy tính đã vứt xó lâu ngày và phát hiện có tới 12 email chưa đọc trong hộp thư đến.
Có một quãng thời gian, tôi phát cuồng với những chú thú cưng trong ứng dụng email, khi gửi email cũng đều dùng thú cưng để gửi. Vì vậy, phần nhiều trong số 12 email kia đều do những người bạn quen trên mạng nhưng không biết mặt, cũng chẳng rõ tên thật là gì
gửi tới. Từ trước đến giờ vẫn vậy, để thú cưng của mình nhận và gửi thư là đặc điểm thú vị nhất của trò này, còn đâu toàn là nội dung tào lao, vì thế, tôi không mong ngóng và cũng chẳng thấy hẫng hụt khi nhận được những email có nội dung như thế. Thế nhưng, trong số thú cưng hôm nay bỗng xuất hiện một chú gấu trúc có tên “Momotaro nhà Asuka”, gửi thư cho tôi với nội dung:
“Thứ bảy tới, tớ sẽ đến Shinjuku mua quà cho lễ Vu Lan, có muốn đi ăn trưa cùng nhau không?”
Căn cứ vào thời gian gửi thư, “thứ bảy tới” có nghĩa là ngày mai. Tôi định gọi một cuộc điện thoại, nhưng nghĩ biết đâu người bạn đó đang bận nên đành hồi đáp qua thư: “Thời gian, địa điểm cụ thể tùy cậu sắp xếp nhé.” Chưa đầy hai tiếng sau, Asuka liền gọi tới:
“Đã lâu không gặp, cậu vẫn khỏe chứ? Không thấy trả lời email, mình nghĩ có thể cậu đang bận nên không dám gọi điện thoại.” Hình như cô ấy vẫn chưa quen với việc tôi là người nhàn rỗi. “Bận gì chứ, tớ chẳng có việc gì làm cả.”
Tuy thái độ của tôi hết sức cởi mở, nhưng dường như Asuka không biết nên trả lời thế nào, đầu dây bên kia im lặng hồi lâu. Cảm thấy như đã làm sai điều gì, tôi bèn mở lời:
“Thực ra tuần trước tớ bận một việc đến nỗi chẳng có thời gian ngủ nghỉ, vì vậy mới quên kiểm tra email. Nhưng nó cũng không phải là công việc đâu.”
“Cậu bận gì thế?”
“Tớ làm búp bê. Tớ có những tác phẩm nghệ thuật kỳ công lắm, rất muốn cho cậu xem.”
Lại là một khoảnh lặng, lẽ nào tôi lại khiến cô ấy không biết nói gì sao. Tôi vờ như không biết và tiếp tục nói: “Ngày mai mấy giờ nhỉ?
Tớ theo ý cậu nhé.”
“Không ngờ cũng có lúc câu nói như vậy được phát ra từ chính miệng của Izumi (nick của tôi), thật không biết nên vui hay buồn.” Sau khi thống nhất thời gian địa điểm, tôi cúp máy. Không cảm thấy đau lòng nhưng cũng chẳng vui vẻ gì, chỉ có một cảm giác hoàn toàn trống rỗng bủa vây lấy tôi.
Thất nghiệp đã gần hai năm nay, khi nghe ai đó nói “34 tuổi, vô công rồi nghề”, ban đầu khiến tôi có cảm giác mình như một tội đồ, vô cùng sợ hãi. Dần dà, nó đã thành thói quen mà đến chính bản thân tôi còn phải ngả mũ thán phục khả năng thích ứng của mình. Hai năm trước, chồng tôi đơn phương tuyên bố ly hôn, tôi đang làm việc cho công ty anh ấy nên cũng tự nhiên mất việc. Một loạt những chuyện phi lý diễn ra dồn dập khiến tôi phải gồng mình chống chọi, cảm giác như muốn phát điên, hơn nữa mọi việc diễn ra quá chớp nhoáng, ngay cả bản thân tôi cũng cảm thấy kinh ngạc khi thẫn thờ lĩnh tiền trợ cấp thất nghiệp, cam kết sẽ tách khẩu và rời khỏi căn nhà đó.
Những ngày sau đó, tôi sống một cuộc sống không buông xuôi, cũng chẳng u uất. Tôi cũng không biết mình có còn hăng hái làm việc nữa hay không? Nằm vật trên giường ngước ra ngoài cửa sổ, dãy nhà trước mắt đứng sừng sững giữa mưa mù. Tháng bảy rồi mà vẫn mưa dầm dề.
Khoảng nửa năm trước, tôi say sưa với việc may đồ cho gấu Teddy và gấu trúc, cuối cùng lại tặng hết cho đám nhóc nhà Asuka. Tính tôi vốn sáng nắng chiều mưa, từ khi nghỉ ở nhà, tôi ngày càng trở nên thất thường. Thế nhưng, được làm theo ý mình thật thoải mái, tôi thấy có lẽ mình đang vô cùng hạnh phúc.
Ngày hôm sau, tôi và Asuka cùng dùng cơm trưa tại một nhà
hàng tọa lạc ngay ở tòa cao ốc có thể nhìn thấy từ nhà tôi. Tôi vừa nói vừa đưa đống đồ chơi bỏ trong thùng cho Asuka để tặng cho bọn trẻ. Cô ấy không vui mừng như lúc được tặng gấu Teddy. “Oaaa, Pikachu à!” Asuka cố ra vẻ hứng khởi.
“Có đẹp không?”
“Đẹp quá, đẹp quá! Xem ra, Izumi có thể làm giáo viên dạy môn thủ công được đấy. Tớ có thể nhận thật chứ?”
“Chẳng qua tớ làm cho vui thôi, giết thời gian ấy mà.” Asuka cảm ơn và nhận món quà, nhưng hình như vẫn lăn tăn điều gì đó. Dù gì cũng chẳng phải món quà dành cho riêng ai, tôi từng nghĩ nếu cô ấy không thích nó, đến ngày nào đó tôi cũng sẽ quẳng hết vào thùng rác, vì thế nếu Asuka lặng lẽ vứt đi thì cũng chẳng sao.
Asuka là người bạn thân duy nhất của tôi từ hồi tiểu học đến tận bây giờ. Cô giờ đã là mẹ của hai đứa trẻ. Ba năm trước, sau khi đứa nhỏ nhất vào lớp một, cô ấy chuyển từ công việc bán thời gian sang công việc toàn thời gian. Ngày nào cũng đầu tắt mặt tối với việc công ty, việc nhà và nuôi dạy con cái, còn thi thoảng tranh thủ thời gian tới thăm tôi. Trước kia tôi hiếm khi rảnh rỗi, cô ấy luôn phải phụ thuộc vào lịch trình của tôi, nhưng giờ đây mọi thứ đã đảo lộn.
“Izumi, cậu lại gầy đi rồi.”
Asuka coi tôi là người bệnh. Có thể dễ dàng nhận thấy sự quan tâm mà cô ấy dành cho mình khiến tôi hơi ngại ngùng. “Thật sao? Tớ không cân nên cũng chẳng biết nữa.” “Sắc mặt cậu cũng không tốt.”
“Vì tớ không trang điểm ấy mà.”
Asuka chỉ diện áo khoác xuân hè mỏng nhưng trang điểm rất kỹ,
tóc búi gọn gàng, sợi dây chuyền trân châu sáng lấp lánh hững hờ sau cổ áo. Trong khi tôi chỉ mặc chiếc áo phông bạc phếch và chiếc quần bò rộng thùng thình. Gần đây tôi đã không còn mặc mấy kiểu quần áo chỉ giặt bằng tay nữa. Người tất bật với cuộc sống thường nhật lẽ ra phải là Asuka chứ không phải tôi, chẳng thiết trang điểm để che đi quầng thâm trên mắt, trông tôi mới thê thảm làm sao.
“Cậu vẫn lãnh bảo hiểm thất nghiệp đấy chứ?”
Mỗi lần gặp mặt, Asuka đều từ từ tiếp cận vấn đề chính như thế. “Không, tớ lĩnh hết từ lâu rồi.”
“Vậy, cậu nghĩ mình có nên làm chút việc gì đó cho đỡ cuồng tay cuồng chân không?”
Tôi cười gượng, biết rõ Asuka đang đắn đo cân nhắc trong từng câu nói.
“Một thời gian nữa rồi tính. Cảm ơn cậu đã lo lắng cho tớ, tạm thời tớ vẫn có thể xoay sở được.”
“Là vấn đề tiền bạc, nhưng lại không phải.”
Asuka nói lí nhí với vẻ sốt ruột, rồi nhấp một ngụm nước. Tôi biết nên trả lời thế nào để cô ấy yên tâm, nhưng lại cố ý nói ngược lại: “Đan búp bê mãi cũng chán. Sắp tới mùa hè rồi, có nên may kimono không nhỉ?”
“Hay là khắc cục tẩy đi?”
Bị người khác nói như thể mình đã hết thuốc chữa khiến tôi cúi gằm mặt bối rối. Bầu không khí trở nên căng thẳng, chúng tôi đang chăm chú ăn món cá thì hình như Asuka nhớ ra điều gì đó.
“Cậu thử lập một trang web xem sao? Cậu có nhiều tác phẩm như vậy cơ mà?”
“Tác phẩm gì chứ, toàn đồ bắt chước.”
Cô ấy thở dài ngao ngán. Không biết có phải cô ấy nghĩ rằng tôi là đồ cứng đầu không thể cải tạo. Lần này Asuka nở nụ cười, dịu dàng nói: “Không thể làm lại từ đầu một cách đơn giản như vậy, phải không? Tớ không nói nữa, xin lỗi nhé.”
Trước đây, tôi luôn đóng vai một người chị, lắng nghe Asuka than vãn về chuyện công việc, gia đình, nhưng chẳng biết bắt đầu từ lúc nào, tôi lại trở thành một đứa em khờ dại, vụng về cần người khác cưng nựng dỗ dành. Nếu ngày trước, tôi không suốt ngày ăn vận chỉn chu, hết lần này tới lần khác khất hẹn với Asuka vì bận việc, thì cô ấy sẽ không khuyên tôi làm lại từ đầu. Mấy cuộc gặp gần đây, Asuka đều so sánh tôi của bây giờ với tôi của ngày xưa, rồi thở dài chán nản.
Dù tôi khăng khăng từ chối, nhưng Asuka vẫn một mực đòi mời bữa trưa hôm ấy. Từ khi thất nghiệp, mỗi lần ăn cơm bên ngoài chắc chắn đối phương sẽ là người thanh toán. Ban đầu tôi còn xấu hổ, nhưng dần dà cảm thấy phiền phức nên quyết định không nhún nhường nữa.
Asuka cũng chẳng dư dả gì, cô ấy đi làm vì nếu chỉ dựa vào đồng lương của chồng thì không đủ trang trải tiền thuê nhà và ăn học cho hai đứa con. Thế nhưng tuy đang bận đi giao quà lễ Vu Lan cho người khác, cô vẫn mời một đứa bạn thất nghiệp như tôi đi ăn tại nhà hàng Pháp. Đứa bạn của cô ấy rõ ràng thất nghiệp vì không muốn đi làm, và thực ra vẫn còn hai triệu yên tiền tiết kiệm. Nếu nói thẳng ra, Asuka sẽ cảm thấy sao nhỉ, cô ấy là người tốt bụng, có lẽ sẽ nói: “Giữ lấy phòng lúc tuổi già, đừng tiêu pha phung phí.”
Chúng tôi chào tạm biệt với một lời nhắn nhủ giữ liên lạc qua email. Không còn hứng may vá thêu thùa, mà cũng không biết giết thời gian bằng cách nào, tôi quyết định đến quán cà phê truyện
tranh.
Trên tầng hai tòa nhà thuộc khu phố ăn chơi sầm uất, có một quán cà phê truyện tranh đã trở thành chốn yêu thích nhất của tôi. Tòa nhà văn phòng kết hợp căn hộ chung cư nằm giữa trung tâm thành phố này được thiết kế theo xu thế thịnh hành, gần đây trên mỗi tuyến phố đều dễ dàng bắt gặp những quán cà phê truyện tranh. Có thời gian tôi lê la không sót một quán nào và phát hiện ra quán này có rất nhiều đầu sách, thái độ phục vụ tốt, cà phê pha cũng ngon. Giá cả hơi chát một chút, vì vậy khách hàng có tuổi thường chiếm phần đông. Tuyệt nhất vẫn là căn phòng biệt lập bố trí ghế sô pha trắng, rộng rãi và sạch sẽ. Tôi không hút thuốc nên có thể có một chỗ ngồi ưng ý tại khu vực vắng vẻ và cấm hút thuốc.
Hôm nay tôi đã đọc hết veo tập một và tập hai truyện Đức Phật của Tezuka Osam. Tôi bèn cầm cả bộ ra bàn, chăm chú đọc đến mức quên cả uống cà phê. Khi đọc đến tập ba, không thể nào tập trung nổi, tôi đưa mắt đảo qua khung cửa sổ, trời đã nhá nhem tối. Tôi không đeo đồng hồ nên chẳng biết bây giờ là mấy giờ, đi vệ sinh tiện thể gọi ly cà phê mới, ngước nhìn đồng hồ trên quầy thu ngân thì đã sắp bảy giờ tối.
Nên trở về nhà, hay đọc nốt bộ Đức Phật nhỉ? Tôi nhâm nhi ly cà phê và nghĩ ngợi miên man. Hiếm khi tôi ăn một bữa tử tế vào buổi trưa nên giờ vẫn chưa thấy đói, nhưng ngày mai, ngày kia, ngày kìa nữa, tôi vẫn chưa có kế hoạch gì, vì vậy sao cũng được. Mọi việc của tôi chẳng có thứ tự ưu tiên nên cũng không thể quyết định trước việc gì. Tôi chán nản ngước lên giá sách, phát hiện ra bộ Phút giây gặp gỡ của Takahashi Rumiko đang bày trên đó. Hồi đi học tôi nghiền truyện dài kỳ, truyện này tôi còn chưa biết kết thúc, nên để lần sau đọc vậy. Muốn thế tôi phải nhanh chóng đọc xong truyện
Đức Phật đã, vừa nghĩ tôi vừa nhỏm dậy cầm quyển truyện. Tôi đọc một mạch tới tận nửa đêm, sau đó cuốc bộ 20 phút về nhà. Dường như đến ngần này tuổi, lần đầu tiên tôi mới thấm thía được trạng thái và cảm xúc khi trở nên nhàn rỗi. Nó khác biệt đôi chút với sự buồn tẻ. Hồi cấp ba, tôi ngán ngẩm nghe thầy giáo chủ nhiệm giảng bài còn tệ hơn giáo viên phụ đạo. Vào đại học, tôi bị ép tham gia những buổi giao lưu kết bạn, những cuộc họp lan man không hồi kết ở công ty xuất nhập khẩu sau khi đi làm, những lúc đó, tôi cố nén cơn ngáp ngủ và cảm giác buồn tẻ, làm bộ chăm chú lắng nghe.
Vô nghĩa và có ý nghĩa. Bao lâu nay, thời gian của tôi chỉ thuộc hai phạm trù này.
Hồi cấp ba, suốt ngày tôi chỉ nghĩ đến chuyện thi đại học, đến khi vào đại học rồi ít nhiều cũng thảnh thơi hơn đôi chút, dù cũng hay đi chơi, nhưng tôi chưa từng lơ là chuyện viết báo cáo và thi cử. Dù bị bạn bè gọi sau lưng là “sinh viên ưu tú nhàm chán”, nhưng khi bọn họ tới mượn vở ghi trước kỳ thi để phô tô, tôi vẫn vui vẻ cho mượn. Những kẻ thường ngày coi tôi là mọt sách nay lại đột nhiên hạ mình nhờ giúp đỡ, điều đó khiến tôi cảm thấy thích thú.
Tôi không làm việc cho doanh nghiệp lớn mà chọn một công ty xuất nhập khẩu và bán hàng có quy mô vừa, vì cảm thấy lựa chọn đó có thể giúp mình khẳng định sở trường nhanh hơn. Đúng như dự đoán, ngay lập tức, tôi được cử đi thực hiện vài thương vụ mua bán. Tôi cảm thấy sung sướng và say mê. Ý tưởng của tôi tuôn trào ào ạt. Để biến những ý tưởng đó thành hiện thực, cho dù phải quên ăn quên ngủ, đi tập huấn hay đi tiếp khách, tôi cũng không thấy vất vả. Sau khi quen biết chồng cũ, rồi bỏ việc về làm tại công ty anh ấy, thói quen này cũng chưa từng thay đổi. Tôi từng say mê công việc
và ghét sự lười nhác. Trước khi ly hôn, chồng cũ của tôi nói tôi có “lối sống tham lam vô độ”, lúc đó tôi không hiểu được suy nghĩ của anh ta.
Từ bé đến năm 30 tuổi, tôi đều tràn đầy nhiệt huyết, đến bây giờ cũng không hề cảm thấy đó là một sai lầm. Tôi chưa từng biết, con đường đáng nhẽ vô cùng bằng phẳng mà mình đang bước đi, hóa ra chỉ là mặt băng dễ dàng nứt toác. Ngỡ rằng, sau khi mặt băng nứt ra, tôi sẽ chìm xuống đáy và chết cóng, nhưng không ngờ dưới đó lại là dòng suối nước nóng để tôi có thể “thư giãn”. Cảm giác ngâm mình trong dòng nước nóng thư thái hơn tưởng tượng, không thể tìm thấy bất cứ lý do hoặc mục tiêu nào để phải trồi lên trên.
Tôi tỉnh giấc sau một giấc ngủ miên man. Hôm nay là thứ mấy, ngày bao nhiêu vậy nhỉ? Tôi không đặt báo, tivi cũng đã hỏng từ tháng trước, chẳng có cách nào xem ngày giờ. Trên đài đang phát chương trình buổi trưa, lại nhảy luôn sang kênh phát thanh mà trước đây tôi chưa từng nghe, tôi phát hiện ra một tuần trở lại đây, vào khung giờ này mỗi ngày, không phải giọng đọc của cùng một phát thanh viên, ngay cả chuyện vớ vẩn như thế cũng khiến tôi vui mừng, thật không ngờ.
Với tay lấy chiếc đồng hồ vứt chỏng chơ cạnh gối để đặt lại ngày giờ. Đó là món quà Giáng sinh hàng hiệu của chồng cũ tặng cho tôi trước khi cưới, mặt sau có khắc tên tôi, cho đến giờ, nó vẫn là vật dụng tôi dùng thường xuyên.
Căn hộ cũ kỹ này nằm ở phía tây Shinjuku, gồm một phòng ngủ và một phòng khách, nồng nặc mùi ẩm ướt của mùa mưa dầm, một số tờ giấy dán tường trong phòng còn bị tróc, lộ ra những mảng mốc đen. Căn hộ được xây từ 20 năm trước, tường ngoài trát xi măng đôi chỗ đã nứt toác, gian bếp và cửa sổ bé tí ti. Đó là căn nhà
mà tôi đã mua bằng tiền dành dụm của mình. So với căn hộ chung cư ven biển ở cùng chồng cũ, nơi đây thoải mái gấp trăm lần. Khi ký vào đơn ly hôn và dọn khỏi nhà chồng, tôi thấy quảng cáo bán nhà đăng trên báo, “máu” lên tôi liền mua luôn. Dù cũng có đôi phần hối hận, nhưng ngẫm lại trạng thái tinh thần của bản thân trong khoảng thời gian đó, tôi đã vô cùng sợ hãi. Tôi không đủ tự tin để trả tiền thuê nhà hoặc mua căn hộ trả góp, dù tạm bợ cũng muốn mau chóng có chỗ nương thân. Nếu ra vùng ngoại thành, với số tiền tương đương có lẽ tôi sẽ mua được một căn hộ đàng hoàng hơn, nhưng tôi không thể tưởng tượng cuộc sống khi phải rời xa trung tâm thành phố. Nếu ở trong khu chung cư ngoại thành mà bốn bể đều là những gia đình hạnh phúc đầm ấm, chắc tôi sẽ phát điên lên mất. Đây là nơi ít bị chú ý nhất, có vẻ phù hợp với một kẻ ngấp nghé 35, không chồng và thất nghiệp như tôi - nếu xét ở điểm này, sự lựa chọn của tôi là hoàn toàn chuẩn xác.
Trong tòa nhà mười tầng đơn sơ một nửa là văn phòng, nửa còn lại chẳng biết có ai ở không, khi chờ thang máy, thi thoảng tôi cũng có thể bắt gặp vài người mặc quần bò áo phông, lếch thếch xách túi đựng đồ của cửa hàng tiện lợi như mình. Không ai chào ai, không ai nhìn ai, giống hệt mấy cặp đôi lén lút hẹn hò bất chợt chạm mặt trong khách sạn, chỉ muốn nhanh chóng biến mất khỏi tầm mắt của nhau.
Hôm nay, trời lất phất mưa và hơi oi bức. Tôi muốn bật điều hòa, bèn rời khỏi giường. Trong phòng ngổn ngang len đan, vải vụn, tạp chí truyện tranh và túi ni lông đựng đồ ăn, sau một hồi vật vã, tôi mới tìm thấy chiếc điều khiển trong bãi chiến trường, đang định nhấn nút “bật”, nhưng màn hình không hiển thị. Hết pin rồi sao? Tôi đành lấy pin đài ra lắp tạm nhưng nó vẫn không chạy. Tức mình, tôi
quẳng nó sang một bên. Tôi đứng lên ghế, đưa tay quờ quạng tìm nút bật trên thân điều hòa nhưng cũng không thấy. Tivi hỏng từ lâu, đèn bếp cũng tắt ngóm. Đồ đạc cứ thi nhau hỏng, rồi chắc sẽ đến lượt con người mất thôi. Tôi chẳng buồn gọi người đến sửa vì cảm thấy quá phiền phức.
Từng khao khát có thật nhiều thời gian, nhưng nay quỹ thời gian quý giá lại bị tôi phung phí không thương tiếc.
Sau khi ra trường đi làm, ngày nào tôi cũng bận bù đầu, tôi luôn muốn làm rất nhiều việc dù thời gian rảnh rỗi chẳng là bao. Tôi và chồng cùng mở một cửa hiệu, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Nhật Bản và đồ tạp hóa, nên tôi rất muốn tìm hiểu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước. Cửa hiệu chính đặt tại Asakusa, nơi có rất nhiều du khách nước ngoài lui tới, tôi muốn tìm vài nghệ nhân trà đạo hoặc origami để làm giáo viên hướng dẫn cho khách hàng. Do khá bận rộn nên tôi luôn từ chối lời mời của bạn bè, tôi lấy làm hổ thẹn, dù rất muốn cùng mấy cô bạn đi ăn hoặc tắm suối khoáng. Tôi cũng muốn đến phòng gym - nơi từ sau khi đi làm chưa từng đặt chân tới, cho dù chỉ một lần trong tháng. Tôi cũng muốn có nhiều thời gian hơn để đi mua sắm, làm đẹp và du lịch nước ngoài.
Thế nhưng, một khi thật sự nhàn rỗi, tất cả những điều đó đều mất đi ý nghĩa. Tôi đã được can dự vào công việc của chồng, những người muốn gặp tôi dường như chỉ muốn gặp “bà chủ thành đạt của cửa hàng tạp hóa” thay vì con người thật của tôi. Những người đó cũng chẳng đoái hoài đến tôi từ khi tôi mất việc. Giờ đây, trang sức hàng hiệu, tập tành, đi làm đẹp đối với tôi đều trở nên vô nghĩa. Bây giờ tôi thích ở nhà đan lát hơn là đi ra ngoài.
Lẽ nào do không phải nhàn rỗi một cách chủ ý, nên tôi mới cảm thấy mọi thứ hỗn loạn.
Khi mười mấy tuổi, tôi đã bất chấp tất cả để vươn lên khẳng định mình. Tôi muốn chiến thắng bằng mọi giá. Một đứa từng ghét cay ghét đắng sự thất bại, giờ chỉ cần trong người khó ở một chút là lăn ra ngủ. Phải chăng ngay từ đầu tôi đã không biết tự lượng sức mình, phải chăng lười nhác mới là bộ mặt thật của tôi? Tôi chán chẳng buồn suy nghĩ nữa.
Sau khi ăn bánh kẹp thịt ở một tiệm ăn nhanh gần nhà, tôi lại đến quán cà phê truyện tranh. Tôi không thích truyện tranh cho lắm, chỉ là từ khi thất nghiệp, không còn mục tiêu sống, tôi không tiêu hóa nổi mấy thể loại sách khác. Tôi cũng từng tới thư viện, nhưng việc giải mã từng dòng chữ và dùng trí tưởng tượng để biến chúng thành những hình ảnh sống động cũng khá tốn sức. Thực ra nhẹ nhàng nhất vẫn là xem tivi, nhưng tivi cũng đã hỏng, nên tôi chỉ còn một sự lựa chọn là đọc truyện tranh. Nhưng việc này cũng chỉ như một trò tiêu khiển ngôn ngữ, bởi tôi chẳng có chút cảm xúc hay rung động nào.
Tôi pha cà phê và đặt cả bộ Phút giây gặp gỡ lên mặt bàn, lần lượt đọc từng tập một. Đọc xong bộ truyện, cảm thấy hình như khoảng mười giờ tối, tôi tới quầy thu ngân xem đồng hồ, hóa ra đã hơn ba giờ đêm. Đảo mắt một vòng quanh quán, rất nhiều khách say lỡ tuyến tàu điện cuối cùng. Tôi phân vân không biết có nên về nhà hay không. Hôm qua tôi đã bị một gã say quấy rối, vì thế hôm nay quyết định ở đây cho đến sáng. Chờ thêm hai tiếng nữa sẽ có chuyến tàu điện đầu tiên, khi đó chắc sẽ an toàn hơn.
Tôi cầm một cuốn truyện tranh bìa ngoài trông tương đối thanh thoát và trở về ghế, không biết từ bao giờ, một gã nhân viên văn phòng khá trẻ tuổi say khướt nằm vật ra ngay chỗ bên cạnh. Khuôn mặt đó gợi cho tôi cảm giác khá quen thuộc. Tôi nhìn kỹ bộ mặt của
gã say nhếch nhác, cậu ta có vẻ đang gặp ác mộng, thi thoảng lại nhíu mày ú ớ. Là người quen ở công ty cũ chăng? Đang mải nghĩ ngợi thì cậu ta chợt tỉnh giấc, như một phản xạ có điều kiện, cậu ta hô to: “Xin, xin lỗi!” Những người còn thức trong quán đều đánh mắt nhìn sang, khuôn mặt và dáng vẻ sợ sệt đó ngay lập tức giúp tôi nhớ ra đó là ai.
“Hả? Chị Izumi?”
Tôi lặng lẽ ngồi xuống cạnh cậu ta.
“Tại sao chị lại ở đây?”
“Câu đó phải tôi hỏi cậu mới đúng chứ!”
Tôi hỏi với vẻ không vui. Cậu ta từng là thuộc cấp của tôi, nhưng thời gian làm việc chung không dài. Hình như cậu ta nhỏ hơn tôi năm tuổi, làm việc lóng ngóng, thường bị trách mắng.
“Chị làm tôi sợ chết khiếp. Đang mơ bị cấp trên quát, kết quả vừa mở mắt ra lại thấy chị Izumi đứng ở đó “
“Xin lỗi cậu!”
“Vậy, sao chị lại ở đây? Ôi trời, làm tôi sợ muốn chết, chị đang làm ở đâu?”
Tôi cảm thấy bối rối. Vừa không thể nói rõ ngọn ngành tại sao đêm hôm khuya khoắt một thân một mình ở quán cà phê truyện tranh chờ trời sáng, cũng không muốn phí lời với một người đàn ông không thân thiết.
“Đã mấy năm rồi nhỉ, không ngờ lại gặp nhau ở đây, đúng là số phận trêu ngươi, chị Izumi cũng đợi chuyến tàu điện đầu tiên à?” Thông thường, khách hàng của quán cà phê truyện tranh về cơ bản đều đến một mình, vì vậy nơi đây còn yên tĩnh hơn thư viện, ấy vậy mà ngay tại đây, một gã say đang oang oang. Số phận gì chứ,
số phận chết tiệt. Tôi thấy mất mặt quá, liền đứng dậy và rời đi. “Chị muốn về rồi sao?”
“Cậu thật lắm lời.”
Tôi tới quầy thu ngân trả tiền, cậu ta cũng lẽo đẽo bám theo. “Vậy tôi cũng đi.”
“Cậu ở đây đợi tàu điện đi.”
“Giờ này đàn bà con gái đi một mình trong khu Shinjuku nguy hiểm lắm, để tôi gọi taxi cho chị.”
Tôi quay đi, nhanh chóng mở cửa bước ra ngoài. Tôi muốn dứt được cái đuôi này để về nhà, ai dè khi chạy xuống cầu thang, tôi cảm thấy người lảo đảo, rồi loạng quạng ngã. Đầu óc quay cuồng một cách kỳ lạ.
“Chị có sao không?”
Được cậu ta dìu dậy, tôi buộc lòng phải nhìn vào khuôn mặt ấy, một khuôn mặt non nớt tưởng như có thể búng ra sữa. Tôi vội túm lấy tay cậu ta, cố đứng dậy thật nhanh.
“Chị đói bụng hả, chúng ta đi ăn mỳ Ramen nhé?”
Cậu ta tên là Ohara Kenta. Tôi nhớ ra khi nhìn thấy tấm danh thiếp của cậu ta khi ngồi cạnh bàn ăn trong tiệm mỳ Ramen. Trên danh thiếp không in tên cơ quan cũ, mà là công ty con của một thương hiệu điện máy, The second Buytiness Section.
“Cậu nghỉ việc rồi ư?”
Tôi vừa ăn vừa hỏi.
“Sau khi chị nghỉ việc không lâu. Sếp mới lên thay còn ghê gớm hơn gấp trăm lần. Bởi cảm thấy nếu cứ tiếp tục như vậy, có lẽ tôi sẽ nổi điên mà làm liều, nên liền xin thôi việc.”
Cấp trên nghiêm khắc sẽ bắt chết được người khác sao? Tôi thầm nghĩ, nhưng hình như Ohara đoán được, bèn chỉ thẳng đũa vào mặt tôi.
“Này, chị đang nghĩ tôi là thằng đàn ông vô tích sự đúng không?” “Ờ.”
Tôi đáp lại ngay mà không cần khách sáo.
“Không sao, dù gì chúng ta đều là những kẻ thất bại, là con chó vô chủ chạy loăng quăng mà.”
Cậu ta thốt ra những lời lẽ thô thiển với vẻ rất khoái chí. “Izumi, sau đó chị sống ra sao? À, đúng rồi, chị lấy chồng, không còn mang họ Izumi nữa? Xin lỗi, tôi quên mất họ mới của chị, là gì nhỉ? Nhưng tôi vẫn nhớ như in tên chị, Hirosue Izumi, ngay từ lần đầu tôi đã thấy cái tên đó nghe thật êm tai.”
Ohara nói luôn miệng và bát mỳ không vơi đi chút nào. Tôi ăn xong từ lâu và lấy giấy ăn lau miệng.
“Này, lấy cho tôi tờ giấy ăn được không?”
Tôi dúi một tờ qua, cậu ta vụng về hỉ mũi, sau đó nhét vào túi áo vest rồi cắm đầu ăn nốt bát mỳ. Tôi chống cằm nhìn Ohara. Chiếc áo vest rẻ tiền kết hợp với cà vạt buông lơi, nhưng móng tay lại được cắt tỉa gọn gàng sạch sẽ. Cặp xách gác dưới ghế hình như dùng đã lâu, nhưng giày lại được đánh xi cẩn thận. Thắt lưng không có nhãn mác, nhưng ăn vận vẫn tươm tất.
“Vậy bây giờ cậu làm gì?” Tôi không bận tâm tới vấn đề của cậu ta, tiếp tục hỏi.
“Tôi làm bán hàng, chủ yếu xử lý khiếu nại và bố trí thợ sửa chữa. Tự tôi cũng phải đi sửa, bị gọi, bị ăn chửi, xong xuôi cúi đầu xin lỗi khách hàng, công việc cứ lặp đi lặp lại như vậy.”
“Cậu mà cũng có tài lẻ đó sao.”
“Không phải tài lẻ, dù gì tôi cũng tốt nghiệp chuyên ngành kỹ thuật mà.”
Ohara húp cạn nước dùng trong bát với vẻ đắc ý, rồi lại nhìn tôi chằm chằm, khiến tôi cảm thấy ngượng ngùng.
“Tôi có thể hỏi chị một câu được không?”
Ăn xong tôi cũng thấy lơ mơ, vừa ngáp vừa khẽ gật đầu. “Nhà chị ở đâu? Sao giờ này còn ngồi đây ăn mỳ Ramen với tôi? Anh nhà không ghen chứ?”
“Tôi ở Shinjuku, đi bộ chỉ mất 20 phút. Ngồi đây ăn mỳ Ramen là do cậu mời. Tôi ly hôn từ năm ngoái, giờ đã là gái không chồng, chơi đến mấy giờ, ở đâu, làm gì cũng chẳng khiến ai tức giận cả.”
Để bầu không khí bớt căng thẳng, khi trả lời tôi đã cố gắng kìm nén cảm xúc. Ohara nghe xong bỗng trở nên thất thần. Nếu có thiện chí, tôi nên giải thích cho cậu ta đôi chút, nhưng tôi đang mệt, buồn ngủ, và ghét phiền phức.
“Sắp có chuyến tàu điện đầu tiên rồi đấy. Hôm nay cậu không đi làm sao? Mau về thôi!”
Một lúc sau cậu ta mới định thần lại, rồi cất lời: “Izumi, hiện tại chị làm gì?”
“Chẳng làm gì hết, tôi đang thất nghiệp.”
“Không phải chứ, tại sao?”
Câu nói đó đã lại chạm đến lòng tự trọng của tôi. Tôi khen mỳ ngon với chủ quán rồi đứng dậy, cậu ta vội vàng rút ví. Mồm nói không cần, nhưng tôi lại để người khác trả tiền.
Câu nói của Ohara khiến tôi không ngừng suy nghĩ. Trên chiếc giường lò xo đơn sơ tại căn hộ phía tây Shinjuku, Ohara ôm tôi ngủ
ngon lành. Đã tỉnh giấc nhưng lại bị một cậu trai ôm khư khư chẳng thể nào ngồi dậy được, tôi đành ngước mắt lên trần nhà. Ăn mỳ xong tôi muốn về nhà, nhưng cậu ta cứ lẽo đẽo bám theo đòi đưa về bằng được. “Tôi không muốn đi làm.” Ohara nói giọng tiu nghỉu. Tôi liền đề nghị cậu ta nghỉ một ngày, chỉ chờ có vậy, cậu ta vui mừng gật đầu. “Ngày trước, tôi rất ngưỡng mộ chị, vì vậy Izumi nhất định phải mạnh mẽ lên!” Ohara an ủi một cách vụng về, đồng thời nắm chặt tay tôi. Từ trước đến giờ, tôi chưa hề có cảm giác với cậu ta, nhưng hành động đó của cậu ta cũng không khiến tôi cảm thấy ghét bỏ. Vì thế nên tôi mới để cậu ta vào nhà. Sau đó, Ohara tự cởi bỏ áo quần. Cậu ta muốn làm tình ư? Kết quả là chúng tôi đã ân ái với nhau tới ba lần liền.
Đã lâu rồi tôi không đụng chạm xác thịt với đàn ông. Tôi còn chẳng nhớ lần cuối tôi và chồng mặn nồng với nhau là từ bao giờ nữa. Mấy năm nay tôi chưa từng hôn ai, thậm chí còn không cầm tay, vỗ vai hay vỗ lưng với người đồng giới cũng như khác giới, chứ đừng nói đến chuyện làm tình.
Sống chay tịnh cảm giác thật thoải mái, nhưng tôi bất ngờ phát hiện ra mình vẫn còn ham muốn nhục dục. Ohara cọ nhẹ chóp mũi vào xương đòn của tôi, thì thào điều gì đó. Tôi ôm đầu cậu ta và xoa nhẹ lên mái tóc, Ohara lại im lặng, giống hệt chú cún con.
Một tay ôm chặt Ohara, tay kia với lấy chiếc đồng hồ để bên gối, vừa quá mười giờ sáng. Tôi vẫn còn chưa đẫy giấc, dù sao tôi cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay ra ngủ tiếp. Ohara ghì chặt đầu trên vai tôi. Tôi thích gối đầu lên tay chồng mỗi khi ngủ, nên chưa từng biết xương sọ của con người lại nặng đến như vậy.
Nỗi nhớ chồng lại ùa đến một cách da diết. Anh ấy thật dịu dàng. Anh là con trai độc nhất trong gia đình địa chủ vùng nông thôn, nhìn
điệu bộ tuy hơi lơ ngơ, nhưng tính cách lại rất cởi mở, hòa đồng và kiên nhẫn. Anh khác hẳn tôi, không bao giờ châm chọc hoặc nói xấu người khác. Ban đầu, tôi rất thích tính cách của anh, nhưng chỉ được vài ngày đã cảm thấy không vừa ý. Tôi thích làm theo ý mình. Khi đó, tôi tin rằng mình vui, chồng ắt cũng sẽ vui.
Kẻ thất bại. Câu nói đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi. Có lẽ sau khi tắm rửa sạch sẽ, tóc Ohara không có sợi xơ rối, nên chạm vào rất thích. Tôi dụi mũi vào mái tóc cậu ta để hít hà, mùi hương từ cơ thể đàn ông, thật không ngờ lại tươi mới như vậy.
Ohara và tôi đều là những kẻ thất bại, xứng đôi vừa lứa. Tôi không đặt bất kỳ sự mỉa mai hay tự ti nào vào suy nghĩ này, mà chỉ nghĩ như vậy một cách tự nhiên. Sự gần gũi xác thịt đã gieo mầm trong tôi tình cảm với người đàn ông mà mình chưa từng có chút rung động. Phải chăng đây là sức mạnh của sự hòa quyện giữa hai cơ thể. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn và nực cười.
Lúc đó, tiếng chuông điện thoại từ đâu vọng lại, chắc là của cậu ta vì tôi không có di động. Giai điệu bài Chú chó Vlaanderen khiến tôi không nhịn được cười. Có nên đánh thức chú cún đang say ngủ này không nhỉ? Đang chần chừ thì hình như Ohara nghe thấy tiếng chuông, liền mở mắt, lồm cồm bò dậy. Với điệu bộ ngơ ngác không nhớ ra đây là đâu và mình đang làm gì, Ohara đưa mắt nhìn tôi và dáo dác một vòng quanh căn hộ. Tiếng chuông điện thoại cứ réo liên hồi càng khiến cậu ta luống cuống. Ít lâu sau, đầu bên kia hình như đã cúp máy.
“Hả, đây là...”
“Chào buổi sáng. Hôm nay cậu nghỉ làm đúng không?” “Hôm nay là thứ mấy?”
Đúng lúc đó, giai điệu bài Chú chó Vlaanderen lại vang khắp căn phòng. Ohara chỉ kịp mặc quần đùi và nhảy phắt khỏi giường, rút vội điện thoại nhét trong túi áo vest vắt trên lưng ghế, quỳ mọp xuống sàn gỗ rồi luôn miệng nói câu xin lỗi, bờ vai gầy guộc thi thoảng rung lên bần bật.
“Giờ tôi phải đến công ty, sếp của tôi vừa sạc cho một trận.” Ohara tiu nghỉu.
“Tất cả đều tại tôi, xin lỗi nhé!”
“Không phải, không phải... Chị Izumi không cần xin lỗi.” Ohara thất thểu xỏ áo sơ mi, quần dài và đeo cà vạt. Vừa vận bộ áo vest lên người, người đàn ông đó lại trở nên tầm thường vô vị. Tôi mặc tạm chiếc áo phông, lấy chai nước trong tủ lạnh rót vào cốc và đưa cho cậu ta.
“Cảm ơn, không ngờ chị Izumi lại dịu dàng đến thế.” Được người khác khen như vậy, khiến tôi chỉ biết cười trừ. Không biết có phải sau khi tỉnh ngủ cậu ta đã vứt bỏ mọi tự ái hay không mà lại quay ra hỏi:
“Tôi có thể gặp lại chị nữa chứ?”
“Này, cậu biết sửa tivi và điều hòa không?”
“Đồ của chị bị hỏng rồi hả?”
Ohara bật tivi lên, nhìn vào những hình ảnh méo mó trên màn hình, sau đó tháo pin từ điều khiển điều hòa ra rồi lắp lại. Sau khi suy nghĩ một hồi, cậu ta ghi lại các thông số kỹ thuật vào cuốn sổ tay, sau đó viết số điện thoại lên một mẩu giấy và xé ra đưa cho tôi.
“Chị gọi vào số công ty cũng được, nhưng tôi thường ở ngoài, nên chị gọi vào số di động được không?”
Tôi cầm lấy tờ giấy, khẽ gật đầu. Ohara cười thật tươi, hôn nhẹ
lên môi tôi và bước ra ngoài cửa.
Khoảnh khắc hình bóng cậu ta khuất xa khiến những chuyện xảy ra trước đó cũng vỡ tan như bong bóng xà phòng. Từ đó, cảm giác hiện thực cũng bị đánh mất. Chầm chậm quay trở về giường, nơi mùi hương của “chú cún nhỏ” vẫn còn quyện chặt, tôi cuộn mình trong chăn và ngủ thiếp đi.
Tầm chiều tối, chuông điện thoại réo lên. Đang mơ màng, tôi nghĩ bụng có lẽ là Ohara, nhưng hóa ra lại là người khác. Một đồng nghiệp nam quen biết trước đây, nói muốn mời tôi dùng bữa tối. Đằng nào cũng rảnh rỗi, lại không có lý do từ chối nên tôi đồng ý.
Không hiểu sao bỗng nhiên tôi lại được nhiều người quan tâm đến vậy. Đã lâu lắm rồi không trang điểm, tôi lôi bộ quần áo xuân hè cất dưới đáy hòm lên ướm thử, chẳng biết từ bao giờ tôi không còn thấy hợp với nó chút nào nữa, có lẽ vì lâu rồi tôi chẳng đi tiệm làm tóc chăm chút, để đầu tóc bù xù nên mới thế. Tôi thay đổi ý định, quay về kiểu thường ngày hay mặc với chiếc quần bò rộng thùng thình.
Đồng nghiệp của tôi chọn một quán ăn “không quốc tịch” ở phía bắc Aoyama, muốn đến nơi đó, tôi phải băng qua một con phố mà cửa hiệu của tôi cũng nằm trên con phố đó. Phải chăng cậu ta cố ý? Từ đại lộ Aoyama rẽ hướng đông, tôi quả thật có đôi chút hồi hộp. Vị trí cửa hiệu trước kia nay trở thành điểm bán cà phê tự động do người Mỹ đầu tư. Tuy biết cửa hàng không còn nữa, nhưng tôi vẫn cảm thấy đau lòng. Đối với một cá nhân, muốn thuê mặt bằng kinh doanh trên tuyến phố này, tiền đặt cọc là con số khổng lồ, nhưng có lẽ chẳng thấm tháp vào đâu so với các doanh nghiệp. Thời điểm đó, chỉ vì chuyện có nên mở cửa hàng thứ ba trên tuyến phố này không mà tôi và chồng đã tranh cãi gay gắt. Tôi khăng khăng chắc chắn sẽ
thành công, nhưng anh ấy lại lăn tăn chuyện tiền đặt cọc nên dùng dằng không quyết.
Tôi đến muộn khoảng mười lăm phút, bạn tôi vẫn chưa tới. Tôi gọi một cốc bia uống trước, khi cậu ta đến, tuy miệng nói “xin lỗi” nhưng nét mặt thì chẳng có chút thành ý nào cả. Người đàn ông đó mang họ Hyodo, phụ trách mảng kinh doanh hàng tạp hóa tại khu vực châu Á cho chuỗi cửa hiệu trực thuộc một công ty thời trang lớn. Cậu ta bằng tuổi tôi, đã lâu không gặp nhau, Hyodo nom phát tướng thấy rõ. Cậu ta vội vàng gọi món và đồ uống với nhân viên phục vụ.
“Izumi, giờ cậu làm gì?”
Không xã giao cũng chẳng khách khí, cậu ta thẳng thừng hỏi tôi. “Chẳng làm gì sất.”
“Ồ, xin lỗi cậu! Thực ra tớ nghe nói dạo này cậu rảnh rỗi, vì vậy hôm nay mới hẹn riêng ra đây để nhờ cậu một việc.” Hyodo thò tay vào túi áo khoác được may đo tỉ mỉ cho những người có thân mình mập mạp, rút danh thiếp ra. Khác với Ohara, tấm danh thiếp màu trắng sắc lẹm đến mức có thể cứa đứt tay. Trước đó công ty của cậu ta là loại hình trách nhiệm hữu hạn, giờ chuyển sang cổ phần, nên cậu ta cũng được thăng chức giám đốc điều hành, nghe có vẻ rất oai.
“Lần này, công ty tớ thuê lại toàn bộ tầng một của tòa cao ốc để đầu tư vào lĩnh vực hàng tạp hóa và đồ dùng ăn cơm kiểu Nhật Bản, cậu có thể giúp tớ một tay không?”
Cậu ta nói với một giọng điệu vô cùng tự tin và có vẻ không hề sợ bị từ chối.
Cửa hiệu nằm trên ga cuối của tuyến tàu điện tư nhân, nơi đó
năm ngoái vừa khánh thành cao ốc văn phòng cho thuê, cậu ta muốn thuê tôi làm chuyên viên tư vấn mua hàng. Thực ra mà nói, phạm vi công việc của chuyên viên tư vấn còn rộng hơn nhân viên bán hàng, phải biến triết lý kinh doanh của công ty thành hình thức cụ thể. Ngoài việc quyết định hình ảnh sản phẩm, cửa hiệu đến phán đoán ngày giờ, số lượng hàng hóa mua vào bán ra, còn phải chỉ đạo nhân viên thực thi việc tiêu thụ, việc gì cũng phải nhúng tay vào. Hồi còn đi làm, tôi phụ trách mảng hàng hóa châu Âu, khi cộng tác với chồng, tôi chuyên tâm vào mặt hàng thủ công mỹ nghệ Nhật Bản, vì thế tôi có đủ kiến thức và quan hệ kinh doanh trên cả hai lĩnh vực.
“Nhưng tớ không tìm hiểu thị trường từ hai năm nay rồi.” “Với Izumi, tớ tin là cậu có thể bổ sung được thông tin. Cậu cũng không cần nể mặt chồng cũ nữa. Đã đến lúc phục thù rồi!” Từ “phục thù” khiến tôi ngạc nhiên quá đỗi. Chưa bao giờ tôi nghĩ tới chuyện phục thù, thì ra trong mắt người khác, câu chuyện của tôi dường như là một bi kịch thê thảm.
Tôi và chồng cũ gặp nhau trong một buổi triển lãm do Hyodo chủ trì. Tôi chỉ mon men tới xem giá tiền, nhưng có một chàng thanh niên trẻ tuổi, mặc kimono lại chăm chú quan sát mẫu sản phẩm và mục lục, rất thu hút sự chú ý của người khác. Tôi bèn bước tới làm quen. Anh ấy nói bà cố nội của mình đã mất từ năm ngoái và đang cân nhắc cải tạo nhà của bà cố nội thành cửa hiệu tạp hóa kiểu Nhật. Nghe nói căn nhà đó xây từ thời Taisho, tôi khuyên anh đừng sửa chữa, mà treo một chiếc rèm màu xanh da trời, theo phong cách cửa hiệu cổ xưa, khiến anh ấy rất thích thú. Từ đó, chúng tôi trở nên tâm đầu ý hợp, tình cảm ngày một tiến triển. Không lâu sau, anh ấy ngỏ lời hỏi cưới và đề nghị tôi về cùng kinh doanh. Tôi xin
thôi việc tại công ty đã từng cống hiến sáu năm mà không chút lưu luyến. So với việc tranh quyền đoạt lợi, lấy một người đàn ông mình yêu và cùng nhau mở một cửa hiệu nhỏ, đối với tôi còn hạnh phúc hơn nhiều.
Tôi từng mời một nghệ sỹ origami trẻ tuổi thiết kế một loạt mẫu giấy ăn và sáp nến kiểu Nhật, chồng cũ không đồng ý và nói đó đều là hàng rẻ tiền. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhất quyết bày lên kệ, không ngờ lại nhận được phản hồi tích cực, vượt xa dự tính. Tôi chào hàng với tạp chí phụ nữ, nhờ bên đó quảng cáo giúp, kết quả các thiếu nữ ngoài Tokyo đến mua nườm nượp, siêu thị bách hóa tổng hợp cũng đến cửa hàng của chúng tôi hỏi rằng có thể bán buôn cho họ không. Giờ nghĩ lại, có lẽ những chuyện đó đã khiến chồng cũ của tôi cảm thấy tự ái.
“Đợi chút, đừng tiến cử tớ nhanh như vậy!”
Nghe tôi nói thế, Hyodo ấm ức hạ cốc bia xuống.
“Nói thế này có vẻ thất lễ, nhưng đây là cơ hội tốt để làm lại từ đầu, cứ tiếp tục ăn không ngồi rồi, cậu sẽ bị lãng quên.” “Nhưng tớ không thích hàng thủ công mỹ nghệ và tạp hóa.” Tôi buột miệng nói suy nghĩ thực sự của mình. Lần này Hyodo nhoài người về phía tôi. “Cậu xem, các cô gái yêu thích những món đồ tạp hóa xinh xắn cứ đổ xô vào mua, nhưng một số người mặc dù thích, lại chỉ thích một tí ti, như vậy thì không được.” Tôi nhìn cậu ta chằm chằm, không ngờ Hyodo lại nói ra những lời như vậy.
“Izumi, cậu cũng biết đấy, một món hàng tốt và một món hàng bán chạy là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Tớ cũng muốn bán những tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sỹ nổi tiếng, nhưng khách
hàng không có con mắt thẩm mỹ. Chỉ cần thấy xinh xắn dễ thương, dùng một mùa không thích có thể bỏ đi, trên thực tế những món hàng với phân khúc giá như vậy bán rất chạy. Tuy vẫn biết không thể cái gì được ưa chuộng là bán cái đó, nhưng nếu không bán, đợi đến khi gặp được một mặt hàng cao cấp mà mình tâm đắc, cũng chẳng có vốn lớn mà đầu tư.”
Cậu ta khẩn khoản nài xin. Tôi nhớ mình cũng từng nói giọng điệu hệt như vậy với chồng cũ. Qua những lời của Hyodo, tôi cũng biết mình không thể sống dựa vào việc đan những con búp bê, nhưng vẫn chẳng hề mảy may động lòng.
Có lẽ nhận ra tôi không hào hứng, Hyodo đột nhiên im bặt, không giấu được vẻ thất vọng, chán nản châm điếu thuốc. “Cậu bị tổn thương nhiều vậy sao, chuyện với chồng cũ ý?” Mấy vị khách ở bàn bên cạnh ồn ào khiến tôi không nghe rõ những gì Hyodo nói.
“Tớ ngỡ cậu sẽ làm lại từ đầu, không ngờ lại khiến cậu nhớ về chuyện buồn trước đây, thật xin lỗi!”
Vốn dĩ tôi muốn phủ định, nhưng chẳng thể mở lời.
“Khi nào tớ phải trả lời cậu?” Tôi ngồi trước bàn rượu thịt mà chưa hề động đũa, cất tiếng hỏi.
“Thế này đi, bây giờ vẫn còn sớm quá, mùng một tháng chín được không? Coi như cậu nghỉ hè.”
Đáng nhẽ đã quen với việc được người khác mời, nhưng khi thấy Hyodo rút tiền trả cho nhân viên phục vụ, không hiểu sao tôi vẫn cảm thấy không vui. Tôi nhớ lại thời huy hoàng của mình, khi đi ăn với Asuka hoặc những người bạn khác, tôi tiêu tiền không phải nghĩ. Tôi chưa từng nghĩ tới cảm giác của người được mời.
Vì lâu lắm mới uống rượu, tôi bắt đầu cảm thấy đau đầu. Tôi bắt một chiếc taxi về nhà. Trước cửa có một bưu kiện chuyển phát nhanh, người gửi là Asuka. Dự cảm chẳng lành, tôi mở ra xem. Tất cả đều là búp bê do chính tay tôi làm, cộng thêm bảy chú gấu Teddy mặc đồ ngộ nghĩnh được tặng trước đó.
“Izumi à, tớ biết nhận chúng mới không khiến cậu tổn thương, nhưng vẫn không thể làm như vậy. Xin lỗi, tớ không biết phải nói thế nào, chỉ cảm thấy nghỉ ngơi khác với trốn chạy. Những người chứng kiến cậu như vậy cũng rất đau khổ, thật sự xin lỗi.”
Tôi đọc thật to bức thư của Asuka. Con người này thật thẳng thắn, cứ lẳng lặng vứt đi chẳng phải xong rồi sao. Cái thứ gọi là tình bạn đúng là vừa sôi nổi lại vừa tàn nhẫn, tôi đưa tay bóp trán suy nghĩ.
Nhìn lại số búp bê, con nào cũng khiến người ta cảm thấy không vui. Rất giống miếng lót cốc mẹ thường đan trước đây, chẳng ai muốn mua, bản thân lại không dùng, nhưng bà không bận tâm và cứ đan, đan mãi. Tôi từng vô cùng thương xót cho bà, nhưng không biết bắt đầu từ bao giờ, bản thân tôi cũng lại bước vào hoàn cảnh tương tự.
Chẳng thèm tẩy trang, tôi cởi đồ rồi leo lên giường. Mùi hương của “chú cún nhỏ” vẫn còn thoang thoảng, nhưng đã thấm mệt nên tôi không muốn gọi điện.
Tám giờ sáng, họa hoằn lắm tôi mới thức dậy đúng giờ như vậy. Bầu trời u ám bấy lâu nay cũng đã xanh ngắt một màu, tôi mở toang tất cả cửa sổ, đem ga trải giường và gối ra hong, tiện tay giặt luôn đống quần áo. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, tôi mới thấy căn phòng của mình nhem nhuốc biết bao, bèn quyết định dọn dẹp. Tôi cầm túi đựng rác, tống mấy thứ vương vãi trên sàn vào, đống búp bê được
gửi trả lại hôm qua cũng cho vào hết. Đang định buộc túi lại, cặp mắt tròn xoe của Pikachu lại nhìn tôi âu yếm. Vẫn cảm thấy tiếc rẻ, chí ít tôi cũng phải chụp vài kiểu ảnh chứ. Khi đó, tôi bỗng nhớ tới lời của Asuka về việc lập một trang web mua bán trực tuyến. Đúng vậy, mình phải mua máy ảnh về chụp vài kiểu mới được. Tôi vui mừng khôn xiết vì lại phát hiện ra thú tiêu khiển mới.
Bỏ dở việc dọn nhà, tôi đi tới phố kinh doanh đồ điện tử, mua một chiếc máy ảnh kỹ thuật số rẻ tiền. Tôi phải đến ngân hàng để rút tiền, vẫn một trăm nghìn yên như thường lệ, tiện thể xem qua bảng kê chi tiết và giật nảy mình. Số dư tài khoản tiết kiệm linh hoạt của tôi gần như bằng không. Dù cuộc sống so với trước kia đã đạm bạc đến mức khó tin, nhưng không đi làm kiếm tiền dĩ nhiên sẽ chẳng mấy chốc mà chẳng còn một xu dính túi, tôi chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về chuyện này. Tôi bỗng cảm thấy hành động mua máy ảnh khi nãy và gọi taxi tối qua quá lãng phí. Tiền tiết kiệm cũng chỉ còn chưa đầy hai triệu yên. Nếu đi làm bình thường thì đó là một số tiền tiết kiệm rất lớn, nhưng cứ tiêu như vậy thì chẳng được mấy năm. Từ hồi đi học, tôi đã học tập nghiêm túc và làm việc chăm chỉ hơn bất cứ ai, nhưng đổi lại tôi chỉ tích góp được con số khiêm tốn kể trên. Tôi phải cố gắng đến nhường nào mới có thể kiếm đủ số tiền tiêu cả đời không hết? Tuy không muốn, nhưng tôi cũng đành đi làm cho công ty của Hyodo. Tuy nhiên, hết mùa hè họ mới cần có câu trả lời, tạm thời cứ mặc kệ vậy đi. Tôi khẽ lắc đầu.
Trở về nhà, tôi lập tức bật máy tính lên. Chiếc máy để bàn mua trước khi lấy chồng, ngày trước chỉ dùng để gửi email và lướt web, nhưng giờ tôi còn phát hiện ra nó có phần mềm tạo trang web. Tôi chẳng buồn đọc hướng dẫn sử dụng, bắt tay làm chỉ dẫn tra cứu.
Sau đó, tôi say mê với thú vui mới, ngoại trừ những lúc tới cửa
hàng tiện lợi mua đồ ăn, gần như tôi không bước chân ra khỏi nhà. Một tối nọ, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Nếu là nhân viên chuyển phát nhanh hoặc người đưa báo thì thường sẽ bấm chuông, ban đầu tôi còn tưởng mình nghe nhầm, bèn tạm ngưng việc đánh máy, dỏng tai lên nghe. Rõ ràng là tiếng gõ cửa, nhòm qua mắt thần, tôi thấy Ohara trong bộ vest đang đứng trước cửa nhà.
Tôi mở cửa ra và nói: “Việc gì vậy? Sao cậu không bấm chuông, làm sao tôi nghe thấy được.”
Cậu ta nói giọng run run: “Buổi tối tốt lành.”
“Mời vào.”
“Tôi lại làm phiền chị rồi.”
Khác hoàn toàn với lần trước, lời nói và cử chỉ của Ohara vô cùng khách sáo, dúi túi đựng đồ của cửa hàng tiện lợi vào tay tôi, cậu chỉ nói gọn lỏn một câu “Tôi mua đấy.” Hai lon bia Sapporo và hai cây kem ốc quế.
“Không biết Izumi thích loại nào?”
“Gọi điện thoại cho tôi chẳng phải sẽ biết ngay hay sao?” “Nhưng tôi không biết số. Izumi, có biết tôi mong ngóng cuộc điện thoại của chị đến nhường nào không?”
Tôi kêu Ohara ngồi xuống ghế máy tính, còn mình thì ngồi trên giường. Lần trước uống bia xong bị đau đầu, vì vậy lần này tôi chọn ăn kem.
“Cậu đến đây là được rồi.”
“Vì thế tôi mới nói chị chẳng hiểu gì cả. Chị thử đặt mình vào vị trí của tôi xem. Việc chị không gọi đến chỉ có thể được giải thích rằng chị chẳng qua muốn chơi trò tình một đêm. Tôi cũng có thể sẽ bị cấm cửa, nên sao có thể nói đến là đến được, tôi đâu phải trẻ
con...”
Nếu tôi thú nhận không gọi điện thoại chỉ vì quên, có lẽ sẽ khiến cậu ta tổn thương hơn.
“Xin lỗi, mấy ngày vừa rồi tôi hơi bận!”
“Nếu thấy phiền, thì tôi về nhé!”
“Nếu thấy phiền, tôi đã để cậu đứng ngoài kia rồi.”
Ohara cuối cùng cũng nở nụ cười, khui lon bia và uống một cách ngon lành. Chỉ một hơi cậu ta đã cạn lon đầu tiên, rồi tiếp tục khui lon thứ hai để uống. Tôi vừa dùng thìa nhởn nhơ xúc kem, vừa nghĩ chắc tên này hay có tật mượn rượu làm liều. Ngoảnh đi ngoảnh lại cậu ta đã uống cạn lon thứ hai, sau khi buông câu “tuyệt quá” rồi đứng dậy, cậu ta rút một hộp giấy trong ba lô. Đó là một chiếc điều khiển điều hòa. Ohara lấy pin trong ba lô lắp vào điều khiển, sau đó nhấn nút “bật”. Cục nóng ngoài ban công kêu ù ù, điều hòa hoạt động trở lại, phả ra làn gió sặc mùi ẩm mốc.
“Sửa được rồi, sửa được rồi!”
Tôi reo lên vui sướng, Ohara nhún vai tỏ vẻ đắc ý.
Chỗ khay pin của điều khiển bị rỉ sét, nếu không dùng điều hòa, nó phải được tháo pin ra cộng thêm vệ sinh cả lưới lọc nữa. “Cậu cừ quá!”
Tôi đóng các cửa sổ lại rồi quay ra nhìn, Ohara đang xoay chiếc tivi, dùng tuốc nơ vít tháo nắp sau ra.
“Cậu biết sửa cả tivi nữa ư?”
“Đây là nhãn hiệu của công ty tôi, nên chuyện này cũng đơn giản thôi. Tuy nhiên, sẽ hơi mất thời gian một chút, chị bận gì thì cứ làm đi.”
“Tiện thể cậu thay luôn đèn bếp giúp tôi nhé, tôi đứng lên cả ghế
mà vẫn với không tới.”
“Ok.”
“Có cần tôi giúp gì không?”
Cậu ta ngồi trước đống linh kiện tivi bày la liệt, nghĩ vài giây rồi nói: “Tôi vẫn muốn uống thêm chút bia.”
“Để tôi đi mua.”
Tôi cầm ví tiền chạy tới cửa hàng tiện lợi gần nhà. Làm việc này mà lòng vui phơi phới, mình thật ngốc. Trong bụng nghĩ vậy, nhưng mặt cười tươi như hoa. Mua bốn lon bia và chút đồ nhắm, về đến nhà, Ohara đang đặt tivi vào vị trí ban đầu. Màn hình đã rõ nét như in.
“Ồ, có hình ảnh rồi!”
Tôi hét to khiến cậu ta cười thẹn thùng.
“Khiến Izumi cảm động như vậy, tôi đến cũng thấy bõ công. Chỉ có điều độ cân bằng màu sắc hơi có vấn đề. Hơn nữa bên trong toàn bụi bặm, thi thoảng chị phải chịu khó lau chùi, quá nhiều bụi cũng sẽ gây hỏng hóc. Bóng đèn để thay ở đâu?”
“Có ngay, có ngay.” Tôi vừa nói vừa lôi chiếc bóng đèn mua hơn nửa năm vẫn vứt trong xó tủ ra đưa cho Ohara. Ohara chỉ nhỉnh hơn tôi khoảng năm phân, nhưng khoảng cách đó cũng đủ khiến tôi không chạm nổi tới đui đèn.
Gian bếp sáng trưng. Mấy hộp mỳ ăn dở và đống bát đũa cáu bẩn trong bồn rửa lộ rõ mồn một khiến tôi thật xấu hổ. Tôi vội vàng đẩy Ohara ngồi vào giường, thơm nhẹ lên má. Cậu ta cười khanh khách, khui lon bia tôi vừa mua về.
“Cảm ơn cậu rất nhiều, giúp tôi cả núi việc!”
“Không có gì!”
Tôi vẫn luôn nghĩ cậu ta chỉ là một gã vô dụng, nhưng thực tế lại là một người đàn ông rất tháo vát.
“Để tôi trả tiền cho cậu, điều khiển mới cũng chẳng phải tự dưng nhặt được.”
“Không cần, ông chủ một cửa hàng điện máy thân quen bán cho tôi với giá rẻ như cho. Đúng rồi, chị nói dạo vừa rồi bận làm gì vậy? Chị đã bắt đầu đi làm rồi sao?”
“Không, tôi đang điều hành một trang web.”
“Mua bán trực tuyến?”
“Cậu muốn xem không?”
Tôi để Ohara ngồi xuống trước máy tính, cho cậu ta xem trang web mà tôi thiết kế cả tuần nay.
“Tuyệt thật đấy! Chú Pikachu này là thế nào?”
“Chính tay tôi đan đấy. Nếu bị phát hiện có bị tính là phạm pháp không nhỉ, cái này ấy?”
“Không bán thì chẳng sao.”
Hai chúng tôi cười nói vui vẻ. Tôi bỗng có cảm giác hơi kỳ lạ, như thể chúng tôi là một cặp tình nhân vậy.
Một lời khen đơn giản của Ohara cũng khiến tôi cảm thấy bối rối. Chỉ lập một trang web thôi mà, có gì ghê gớm đâu, tôi tham khảo những trang web do dân IT và dân không chuyên thiết kế, rồi lựa chọn chút tài liệu chắp vá vào là xong. Tự mình lại kết nối với trang chủ, thông báo cho những người bạn trên mạng thú cưng đưa thư, kết quả chẳng cần nhờ cậy ai, đã có người để lại lời nhắn trên mục bình luận. Thậm chí có người còn gửi email với ý muốn mua lại số quần áo của búp bê và gấu Teddy của tôi. Thật không thể ngờ. Nhưng tôi vẫn phải làm nhiều thứ khác nữa, cho dù muốn viết nhật
ký trên mạng, cũng chẳng lấy đâu ra chuyện hay hằng ngày để viết. Thật lòng, tôi đã bắt đầu cảm thấy ngán ngẩm.
Ohara ngồi trên ghế, tôi nhẹ nhàng ôm lấy đầu cậu ta, hai đôi môi dính chặt vào nhau không rời. Tôi thích người đàn ông này, nhưng có lẽ cũng giống như việc đan len và lập trang web, tôi sẽ “cả thèm chóng chán” thôi. Dù tự nhận thấy sự vô trách nhiệm đó thật hết thuốc chữa, nhưng khi ở bên cạnh cậu ấy, tôi không thể kìm nén nổi những rung động man dại này. Chẳng cần tắm rửa chuẩn bị gì, chúng tôi liền trút bỏ quần áo và lao vào cuộc ân ái đê mê.
“Nói thế này có lẽ hơi thất lễ, nhưng anh thích Izumi bây giờ hơn là thời làm cùng công ty.”
Máy điều hòa mà Ohara vừa sửa xong phả hơi lạnh vù vù, khiến hai cơ thể trần trụi cuộn chặt lấy nhau trên ga trải giường. Tôi hơi giật mình khi nghe cậu ấy nói vậy.
“Mọi người đều nói hy vọng em có thể mau chóng gượng dậy, trở về là Izumi của ngày xưa.”
“Ừm, khi em đứng trước công ty và nói muốn nghỉ việc để lấy chồng, trông em rất hạnh phúc, rất xinh đẹp. Nhưng trước đó, anh luôn cảm giác người đàn bà này ăn nói gai góc, chẳng có chút thiện cảm nào.”
“Lần trước anh còn nói khi xưa rất ngưỡng mộ em cơ mà.” “Đúng, rất ngưỡng mộ. Em khác anh, trước kia là một quý bà thành đạt.”
“...”
“Vì sao em ly hôn?”
Ohara hạ giọng hỏi. Tôi đang không biết nên trả lời ra sao thì cậu ấy vội vàng chen vào: “Nếu không muốn kể anh sẽ không hỏi nữa,
xin lỗi em.”
“Ohara, khi không mặc gì anh là một người đàn ông tốt.” Tôi mở đầu câu chuyện bằng một vấn đề chẳng liên quan, Ohara cười rất khó hiểu.
“Em đang khen ngợi anh sao? Bộ vest đó là đồ rẻ tiền, nhưng nhân viên chăm sóc khách hàng dù ngày nắng như thiêu như đốt hay ngày mưa dầm dề vẫn phải mài mặt ngoài đường, vì vậy anh cần phải mua vài bộ. Mà tồng ngồng ra khỏi công ty thì hẳn là không được rồi.”
Xem chừng Ohara có vẻ không vui, nên tôi vội vàng đặt nụ hôn lên trán, không để cậu ấy nói tiếp.
Sau đó mỗi tuần một hoặc hai lần sau khi hết giờ làm, Ohara lại tiện đường ghé qua chỗ tôi. Cuối tuần thi thoảng cũng diện áo phông quần bò, giúp tôi dán lại những mảng tường bị tróc, hoặc cùng nhau tới quán cà phê truyện tranh đổi gió. Ohara không bao giờ đề cập tới chuyện tỏ tình, dọn về sống chung hoặc về chuyện đi làm của tôi. Chúng tôi trò chuyện rất thoải mái, khiến tôi không cần bận tâm suy nghĩ bất cứ điều gì.
Mùa hè ở khu trung tâm mới của thành phố, mặt đường nhựa nóng như chảo lửa, bản tin thời tiết nói nhiệt độ sẽ vượt ngưỡng 40 độ C, chỉ đi một quãng tới cửa hàng tiện lợi cũng khiến tôi hoa mắt chóng mặt. Tôi thực sự vô cùng biết ơn Ohara vì đã giúp tôi sửa điều hòa và tivi ngay trước khi mùa hè nóng nực ập đến. Những giờ nóng đỉnh điểm, nhiều khả năng bạn sẽ ngất xỉu nếu dại dột bước ra đường. Cho dù mặt trời lặn thì nhiệt độ trung bình cũng không xuống dưới 30 độ C. Tôi đã chán đến tận cổ việc lập trang web, ngồi ngây xem tivi hay ngủ nướng cả ngày. Tôi cũng chẳng thiết tha ăn uống gì, chỉ lót dạ qua loa bằng chút mỳ ăn liền và kem do Ohara
mua về. Tôi vẫn đang sống một cuộc đời lay lắt.
Bỗng nhiên tôi bị cúm rồi sốt cao, khi ấy đã vào tháng 8. Đây là điều khó tránh khỏi khi ngày nào tôi cũng bật điều hòa ở mức lạnh nhất. Ohara đến nhà vào buổi tối như thường lệ, phát hiện ra tôi đang sốt 39 độ C. Cậu ấy cuống cuồng tìm một phòng khám mở cửa 24/24 rồi cõng tôi tới đó. Bác sỹ nói tôi bị thiếu máu nghiêm trọng, ngoài ra cơ thể còn suy nhược, sức đề kháng thấp. Bác sỹ cảnh báo, nếu coi thường bệnh này có thể dẫn đến tử vong, và căn dặn tôi cần ăn uống điều độ. Cuối cùng, Ohara bắt tôi lên taxi về thẳng căn hộ của cậu ấy.
Nơi ở của Ohara cách trung tâm thành phố khoảng 30 phút đi tàu điện tư nhân, căn hộ hai tầng lát gỗ cũ kỹ tả tơi, nhưng xung quanh nhiều cây xanh, rất thoáng đãng. Tôi ngủ trên giường cậu ấy, điều khiển điều hòa chẳng biết bị giấu đi đâu. Ohara nói đợt này vừa hay có thể xin công ty nghỉ tránh nóng, nên đã xin nghỉ liền ba ngày phép, túc trực đến khi tôi hạ sốt. Cậu ấy đều đặn ngày nấu ba bữa cơm, trời nóng còn dùng quạt tay quạt cho tôi. Phòng Ohara cũng bừa bộn như nhà tôi, nhưng đi chân đất trên thảm tatami cảm giác rất thoải mái. Được Ohara chăm sóc ân cần chu đáo, tôi vừa cảm động vừa hoài nghi. Ohara có lẽ không phải một người thành đạt, nhưng nom đứng đắn, lại nói năng nhỏ nhẹ. Từ những việc tại công ty mà cậu ấy kể, dường như Ohara cũng được lòng cấp trên và đồng nghiệp, do đó, không thể có chuyện cậu ấy không có sức hút đối với phái nữ. Tôi có gì tốt đẹp để cậu ấy tận tâm như vậy?
Cuối cùng, tôi cũng dứt cơn sốt. Lâu lắm rồi tôi mới được tắm một trận sảng khoái như vậy. Bồn tắm gỗ sồi của Ohara rất dễ chịu, tuy hơi cũ nhưng khá sạch sẽ. Cuối tuần, tôi nói với Ohara rằng mình đã bình phục và muốn về nhà. Trong giây lát, vẻ mặt Ohara
dường như rất hụt hẫng, sau đó cậu ấy nói: “Vậy anh đưa em về Shinjuku.” Bởi không thể tiếp tục làm phiền cậu ấy, tôi từ chối và nói chỉ cần tiễn đến bến xe là được. Cả kỳ nghỉ của Ohara đã bị tôi chiếm trọn, khiến tôi cảm thấy áy náy vô cùng.
Mười giờ sáng của ngày hè chói chang nhất, trời nóng như thiêu như đốt. Trên đường ra bến xe, Ohara nói tiện đường tới công viên dạo. Công viên đó cây cối tốt tươi, hàng ghế đá dưới tán lá xum xuê mát rượi.
“Căn hộ ở Shinjuku phong thủy không được tốt cho lắm.” Nhấp một ngụm trà ô long đóng hộp mua ở máy bán hàng tự động, Ohara lên tiếng.
“Cho dù không tốt, nhưng trót mua rồi, không thể nói chuyển là chuyển được.”
“Anh luôn cảm giác căn hộ đó chất chứa quá nhiều u uất.” “Đừng nói nghe đáng sợ như vậy chứ!”
Tôi khẽ cười, nhưng sắc mặt Ohara vẫn nghiêm trang như cũ. “Anh chưa từng nói ra, có điều...”
Ohara không nhìn thẳng vào mắt tôi và bắt đầu trầm ngâm. Nếu cậu ấy nói “về sống với nhau đi”, tôi sẽ phải trả lời sao đây? Tôi thấy hơi căng thẳng.
“Sau lần đầu tiên ngủ qua đêm tại nhà Izumi, anh không thể nào yên tâm, nên đành tìm đến Hyodo.”
“Hả?”
“Giờ cậu ấy đã là giám đốc điều hành. Rất khó tưởng tượng cậu ấy và anh lại bằng tuổi nhau, người ta giỏi giang như thế...” Tới đây, hình như tôi đã đoán được Ohara muốn nói điều gì.
“Anh biết làm như vậy là sai, nhưng chuyện của Izumi, anh đã hỏi rõ ngọn ngành. Quả thật em đã quá vất vả.”
Chuyện tôi và chồng cũ ly hôn nhất định đã lan truyền nhanh chóng. Tin đồn thường khó mà theo hướng tốt, chắc chắn nó sẽ bị thêm mắm dặm muối, đi kèm với không ít lời gièm pha ác ý.
Chồng cũ đòi ly hôn với tôi, nguyên nhân không hề phức tạp như người ta đồn đoán. Tôi muốn đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của cửa hiệu, nên đã tự xông xáo xử lý mọi công việc, chỉ vậy mà thôi. Những món đồ xuất phát từ ý tưởng của tôi đều được ưa chuộng. Từ lúc kinh doanh những mặt hàng giá rẻ, số lượng lớn, doanh thu của cửa hiệu tăng nhanh tới mức chóng mặt, tôi muốn nhân đà này mở thêm cửa hiệu thứ hai tại ga Sendagi, cửa hiệu thứ ba tại Aoyama, mấy chuyện đó chồng cũ đều miễn cưỡng thỏa hiệp. Là một người sinh ra và lớn lên tại Asakusa, anh ấy rất chú trọng vấn đề truyền thống, bạn bè thân thiết và cha mẹ chồng cũng từng mỉa mai “bán mấy thứ ấy là không có tầm nhìn”. Những điều đó tôi hiểu hết, nhưng cứ vờ như không biết. Tôi nghĩ rằng chẳng lâu nữa chúng tôi sẽ có con, lúc đó tôi không thể đầu tắt mặt tối được nữa, vì vậy tôi muốn việc kinh doanh sớm đi vào quỹ đạo.
Doanh số bán hàng của cửa hiệu tăng một cách thuận lợi, nhưng không lâu sau, tôi và chồng xảy ra mâu thuẫn. Vừa bước chân về căn hộ do bố mẹ chồng mua vốn định để đầu tư, tôi đã cảm thấy ngột ngạt. Tôi vẫn thường nán lại cửa hiệu càng lâu càng tốt, dù biết điều đó là không nên. Chồng cũ của tôi là con một của gia đình giàu có, vì thế không muốn phấn đấu, không biết kinh doanh. Trên thực tế, tôi cũng từng có cái nhìn phiến diện như vậy.
Không lâu sau, chồng tôi có người đàn bà khác. Nếu chỉ là chuyện bồ bịch lăng nhăng thì tốt biết mấy. Mẹ chồng là giáo viên
dạy môn múa Nhật Bản, tuy không treo biển hiệu, nhưng nhờ truyền miệng nên vẫn có nhiều học viên tới đăng ký. Một học viên của bà và chồng cũ của tôi đã phải lòng nhau. Cô bé đó từng mấy lần tới cửa hiệu, mái tóc cắt ngắn rất hợp với bộ đồ kimono. Sức quyến rũ và ấn tượng của cô bé lưu lại trong lòng người khác rất giống với cảm giác lần đầu tiên khi tôi gặp chồng cũ.
“Anh muốn sống với cô ấy, không cần phải lao vào kiếm tiền, anh và cô ấy sẽ sống một cuộc sống thú vị hơn.” Khi nói những lời này, anh ấy đã hoàn toàn hạ quyết tâm. Anh ấy quỳ trước mặt, cầu xin tôi gạch tên khỏi sổ hộ tịch, còn nói sẽ cố gắng đền bù thỏa đáng. Tôi khóc lóc, dứt khoát không ký đơn ly hôn. Dù phản ứng gay gắt, nhưng khi nghe chồng tôi nói những lời ấy, tôi biết mình đã thua. Anh ấy nói ghét sự tham lam, cách sống trước đó của tôi quả thật cũng đúng như thế. Không ngừng vươn lên, không ngừng phấn đấu, nhưng lại không hề nghĩ tới cảm giác của người khác.
“Có lẽ em cảm thấy anh nhiều chuyện, nhưng quả thật Izumi thay đổi nhiều quá, anh không yên tâm. Nếu có thể, chúng ta hãy về ở cùng nhau, như vậy anh cũng cảm thấy yên tâm hơn chút ít.”
Tôi không rõ Hyodo biết đến đâu và nói với Ohara những gì, nhưng tôi biết mình đã nhận được sự cảm thông sâu sắc của cậu ấy.
Thời gian lặng lẽ trôi, tôi và Ohara không nói một lời. Tiếng ve kêu, mùi hương của đất, những tia nắng xuyên qua tán lá rung rinh. Tôi thấy rối bời không biết nên nói gì.
“Thực ra, một người bạn hỏi em có muốn làm việc cho cửa hiệu tạp hóa hay không, nhân viên loại một...”
Tôi buột miệng nói ra mà không cần nghĩ ngợi.
“Vậy ư? Thật tuyệt vời, đó chẳng phải chuyện rất tốt ư?” Ohara vui mừng như thể đó là chuyện của cậu ấy vậy. “... Nhưng bản thân em cũng chẳng rõ rốt cuộc có muốn đi làm hay không?”
“Trải qua nhiều chuyện như vậy, việc em chần chừ do dự, anh cũng rất thông cảm.”
“Không phải như thế.”
Giọng tôi bất giác trở nên nghiêm khắc, Ohara trợn tròn mắt. Tôi biết mình sẽ sớm gượng dậy, dù còn hoài nghi nhưng tôi vẫn tiếp tục tiến lên. Nhưng không hiểu vì sao việc này khiến tôi không cam tâm. Cho dù gục ngã thương tích đầy mình, nhưng sau một thời gian bình phục vẫn phải đứng dậy, đó mới là con người. Tuy nhiên, không biết tự bao giờ, khả năng tự hồi phục của cơ thể khiến tôi sầu muộn vô cớ.
“Hơn nữa nếu bận rộn, em sẽ không có thời gian cho anh.” Vừa dứt lời, tôi đã biết mình lỡ miệng.
“Vậy là em rảnh rỗi quá nên mới qua lại với anh?”
Ohara cúi gằm mặt, khẽ nói.
“Em không có ý đấy.”
“Không sao, anh hiểu. Đợi đến khi Izumi lấy lại được tinh thần, mải mê với công việc, một thằng đàn ông chẳng ra gì như anh sẽ chẳng còn ý nghĩa gì với em, phải không?”
Dù đã phân bua, nhưng Ohara vẫn đứng dậy, quẳng cốc trà ô long uống dở vào thùng rác cạnh đó, lủi thủi đi trên con đường tới công viên khi nãy hai đứa vừa tay trong tay. Tôi dõi theo bóng cậu ấy, nhưng chẳng thốt nên lời.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là nóng lòng chờ điện thoại của
"""