"Trọn bộ Sử Ta Chuyện Xưa Kể Lại PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trọn bộ Sử Ta Chuyện Xưa Kể Lại PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Hậu Lê Thánh Tông và lời tiên tri của Trạng Lường hà Lê đến đời Lê Thánh Tông đã đạt đến đỉnh cao thịnh trị. Dưới sự trị vì của ông, vị vua anh minh bậc nhất trong lịch sử Đại Việt, nước ta đã có bước phát triển toàn diện, từ việc tổ chức nhà nước, xã hội cho đến việc chăm lo đời sống của nhân dân. Bản thân nhà vua cũng cảm thấy yên tâm khi ông nghĩ mình có tới 14 con trai, không sợ thiếu người nối dõi. Ông thường mãn nguyện nói với các quan: “Trẫm có lắm con trai, cơ nghiệp sau này vững bền không phải lo gì nữa.” Không ít người hùa theo tán tụng, riêng Lương Thế Vinh lấy làm lo cho vua, ông thẳng thắn tâu bày: “Lắm con trai chỉ là đầu mối của loạn lạc.” Nhà vua có ý không bằng lòng, nhưng nể Lương là người tài, nói thẳng, nên không phạt tội. Ông chỉ quở trách: “Trạng Lường tính toán như thần, nhưng lần này khanh lầm rồi. Xưa nay người ta chỉ thấy không có con nối dõi thì mất cơ nghiệp, làm gì có chuyện ngược đời như khanh nói!” Thế rồi, theo quy luật tự nhiên, cả Lương Thế Vinh và Lê Thánh Tông lần lượt qua đời. Lương Thế Vinh mất trước, nhà vua vô cùng thương tiếc, làm bài thơ khóc Trạng, trong đó có câu: “Danh lạ còn truyền để quốc gia”. Một năm sau, đến lượt Lê Thánh Tông ra đi, nhưng xem ra ông không được hưởng cái chết tự nhiên như Trạng Lường. Nguyên Lê Thánh Tông có nhiều vợ. Hoàng hậu là bà Trường Lạc Nguyễn Thị Hằng vốn bị vua xa lánh lâu ngày, nên nuôi lòng oán hận. Năm 1497, khi Lê Thánh Tông bị bệnh phù thũng, bà lấy cớ vào thăm bệnh vua, rồi ngầm bôi thuốc độc vào tay xoa lên những chỗ loét của ông. Do đó bệnh vua càng nặng thêm và chẳng bao lâu sau thì mất. Hoàng thái tử Lê Tranh, con trưởng của Lê Thánh Tông với Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng lên nối ngôi, tức Lê Hiến Tông, vị vua thứ sáu nhà Hậu Lê. Là con trưởng, lên ngôi khi tuổi đã chín (vừa tròn ba giáp), bản thân cũng là người thông minh, nhân hậu, ở ông hội tụ đủ các yếu tố khiến cho việc làm vua diễn ra suôn sẻ. Ông luôn tâm niệm Lê Thái Tổ đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha đã sắp đặt mọi việc đâu ra đấy, đến lượt mình chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ, đặng làm sáng rõ công đức của ông cha. Trong những năm ông trị vì, đất nước yên ổn, không có loạn lạc. Nhà vua chú trọng chăm sóc bảo vệ đê điều, khai sông, đắp đường; khuyến khích nông dân làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm; ngăn ngừa tệ quan liêu, nhũng nhiễu chốn quan trường... Có thể nói, bảy năm dưới thời Lê Hiến Tông mọi việc vẫn y theo đời Hồng Đức, khác chăng người đứng đầu triều chính không có được tầm vóc như đức vua Lê Thánh Tông. Năm 1504, Lê Hiến Tông mất do bệnh nặng. Hoàng thái tử Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông, vị vua thứ bảy của triều Lê. Cũng giống như vua cha, Lê Túc Tông là người hiền hòa, được sử cũ miêu tả là vị hoàng đế có tính cách “vui điều thiện”. (Ông nguyên là con trai thứ ba, nhưng do chăm ngoan, hiếu học, nên được vua cha phong làm Hoàng thái tử kế vị.) Không lâu sau khi lên nối ngôi, ông đã làm được nhiều việc tốt, như phóng thích phi tần, giảm bớt sức lao động của nhân dân, giữ vững nền quân chủ, kỉ cương khiến người dân được sống thanh bình... Nhưng thật không may, cho ông cũng như cho vương triều, Lê Túc Tông lên ngôi khi 16 tuổi, ở ngôi mới được nửa năm thì bị bệnh nặng mất. Do chưa có con, nên ông chỉ định người anh em cùng cha khác mẹ là Lê Tuấn lên ngôi. Di chiếu của ông có viết về việc này như sau: “Bệnh trẫm chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham nổi. Con thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiền minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thần dân.” Thực hiện di chiếu của vua, đầu năm 1505 hoàng tử Lê Tuấn được đưa lên ngôi, trở thành vị vua thứ tám của nhà Hậu Lê. Song Lê Tuấn không phải là người “hiền minh, nhân hiếu” như Túc Tông trông đợi, mà ngược lại, là một ông vua hoang dâm tàn bạo khét tiếng trong lịch sử Đại Việt. Đó chính là Lê Uy Mục, hay Quỷ Vương, như dân gian vẫn gọi. Việc Lê Tuấn lên làm vua không chỉ là một trang sử buồn của đất nước, mà còn mở đầu cho sự suy vong của nhà Hậu Lê. Từ đây cho đến khi nhà Lê mất về tay nhà Mạc còn 22 năm nữa, nhưng đó là 22 năm kéo dài trong loạn lạc của một vương triều đã bị tha hóa từ những năm trị vì của vua Uy Mục. Đồng thời, đây cũng là minh chứng cho lời tiên đoán ngày nào của Trạng Lường Lương Thế Vinh: “Lắm con trai chỉ là đầu mối của loạn lạc”! Quỷ vương Lê Uy Mục ặc dù đã có di chiếu của Túc Tông đưa người con thứ hai của Hiến Tông là hoàng tử Lê Tuấn lên kế vị, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng vẫn kịch liệt phản đối. Lí do bà đưa ra là Tuấn xuất thân hèn kém, không được giáo dục tử tế, không có tư chất của bậc vương giả, nên không thể lên ngôi thiên tử. Nguyên mẹ của Lê Tuấn là Nguyễn Thị Cận vốn mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo khó nên phải tự bán mình cho một viên quan ở Đông Đô. Người này sau phạm tội nên Nguyễn Thị Cận bị triều đình bắt vào làm nô tì trong Cấm thành. Bấy giờ đang là đời vua Lê Thánh Tông, Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng bị vua ghẻ lạnh, phải ở cung riêng Vĩnh Ninh. Nguyễn Thị Cận được đưa vào hầu Hoàng hậu ở đó. Vua Hiến Tông, khi ấy đang là Thái tử vào thăm mẹ, thấy người nữ tì xinh đẹp liền đem lòng yêu mến ngay từ “cái nhìn đầu tiên”. Sau ông lấy Nguyễn Thị Cận làm thiếp, có với nàng một người con, đó chính là hoàng tử Lê Tuấn. Nguyễn Thị Cận sớm qua đời với thân phận thê thiếp, vì thế nên Tuấn bị bà nội tìm cách gạt bỏ sau khi Hiến Tông băng hà. Song triều đình vẫn tuân theo di chiếu của tiên vương. Ngày 22 tháng 1 năm 1505, Lê Tuấn lên ngôi, tức Lê Uy Mục, vua thứ tám của nhà Hậu Lê. Một trong những việc làm đầu tiên của tân vương 17 tuổi là giết hại chính bà nội mình, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng: Tháng 3 năm 1505, ngay khi chưa ấm chỗ trên ngai vàng, Uy Mục cho quân đến cung của bà nội giết chết bà. Đồng thời sai giết hai đại thần là Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ và Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, vì lẽ các ông này đã theo ý Hoàng thái hậu không muốn đưa Uy Mục lên làm vua. Máu hiếu sát của vua lộ rõ từ đấy. Ông thích xem người ta đánh giết nhau, nên thường tổ chức các cuộc tỉ thí của quân cấm vệ, hay giữa người hai bên ti Ngự Mã và Ngự Tượng, đến khi có người chết mới thôi. Đêm đêm, vua cho gọi các cung nhân, phi tần vào bày trò tiêu khiển, uống rượu say rồi hành lạc ngay tại chỗ, đến khi tan cuộc mây mưa thì đem giết đi. Để thỏa mãn thói rông càn, ăn chơi vô độ, Lê Uy Mục dựa vào bọn nịnh thần, tin dùng đám ngoại thích, đồng thời xua đuổi người trong tôn thất và công thần về xứ Thanh (đất phát tích của nhà Lê) cho rảnh mắt. Ông ta còn bí mật sai người trong cung dò xét hết thảy anh em, chú bác, ai có biểu hiện hay chỉ cần bị vu cho là chống đối lập tức bị bắt giam, tra khảo. Sự trác táng của Lê Uy Mục hiện ngay trên mặt. Sử chép rằng, trong lần sang sứ nước ta, phó sứ thần Trung Quốc là Hứa Thiên Tích trông thấy Uy Mục, đã làm bài thơ có câu như sau: An Nam tứ bách vận vưu trường Thiên ý như hà giáng quỷ vương? (1) Từ đó, “Vua Quỷ” hay “Quỷ Vương” trở thành tên gọi Lê Uy Mục! Tức nước vỡ bờ, sự tàn bạo của vua Uy Mục đã gây một làn sóng bất bình trong dân chúng, quan lại, và nhất là các tôn thất họ Lê bị bạc đãi, hay người nhà của những người bị hãm hại. Trong số các nạn nhân của Lê Uy Mục có cả vợ con của Kiến Vương. Ông là con thứ năm của Lê Thánh Tông, đồng thời là bác ruột của vua, vậy mà vợ và các con trai ông cũng bị bắt: người con trưởng là Cẩm Giang Vương Lê Sùng, người con thứ là Giản Tu Công Lê Oanh. Người con thứ khôn khéo đút tiền cho người canh ngục nên được ra, trốn về Tây Đô (Thanh Hóa). Ở đây, Lê Oanh được một công thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ, phất cờ chống lại Lê Uy Mục. Tháng 11 năm 1509, Lê Oanh, khi ấy mới 14 tuổi, đưa quân về Đông Đô, đánh chiếm kinh thành. Vua Uy Mục liền trả thù bằng cách giết Lê Sùng và bà mẹ. Tháng Chạp năm Kỉ Tị (1509), Lê Oanh vào được kinh thành, bắt Lê Uy Mục và bức vua tự tử. Giết được Lê Uy Mục, Lê Oanh vẫn chưa nguôi giận việc vua giết hại mẹ và anh mình. Ông sai lấy súng lớn, nhồi thuốc vào, để xác Uy Mục lên trên rồi đem bắn cho tan xác. Đó là việc làm của Lê Oanh trước khi tự lập làm vua, tức Lê Tương Dực, vị vua thứ chín nhà Hậu Lê. Cũng như người tiền nhiệm, ông được sứ Tàu đặt cho một cái tên, sau trở nên quen thuộc trong dân gian và cả trong sử sách: Vua Lợn! Lê Tương Dực, Vũ Như Tô và giấc mơ Cửu trùng đài hững năm lẻ mười của thế kỉ 16... Kinh thành Đông Đô không còn giữ được vẻ sung túc như khi còn là “đời vua Thái Tổ, Thái Tông” buổi đầu lập quốc, cũng không còn dáng vẻ huy hoàng của thời thịnh trị Lê Thánh Tông mấy chục năm sau. Nhưng dẫu sao đất nước vẫn được yên bình, nhân dân vẫn được yên ổn làm ăn, sinh sống. Người dân kinh thành vẫn có thú vui tao nhã tìm đến những nơi danh lam thắng cảnh để thưởng ngoạn, di dưỡng tinh thần. Hồ Dâm Đàm(1) là nơi được cả người đất đế đô lẫn khách bốn phương hay đến vào mùa thu, khi ấy trời xanh, mây trắng, gió thu thổi nhẹ vừa đủ khiến nước hồ gợn sóng làm xao xuyến lòng người... Chiều thu hôm ấy có một đám tao nhân mặc khách rủ nhau đến hồ vãn cảnh, uống rượu bình thơ. Đi nhiều đã mỏi, họ vào một quán nước bên hồ ngồi nghỉ, hóng những làn gió những tiếng reo hò, la hét, lẫn trong tiếng trống thúc quân dồn dập. Tiếng động vọng đến từ phía lòng hồ, thỉnh thoảng lại rộ lên rồi tắt, tắt rồi lại rộ. Loạn ư? Binh biến ư? Hay đã xảy ra chiến tranh, giặc đánh đến nơi rồi? Liên tưởng, họ nghĩ đến tin đồn người ta mới kháo nhau, rằng nhà vua cho đóng chiến thuyền, nhiều lắm, đẹp lắm, không biết để làm gì... Thôi, hay là có chuyện thật rồi, đánh nhau thật rồi! thu thổi hây hây. Giữa cảnh tĩnh mạc nơi đây, bỗng nổi lên Mọi người nhớn nhác, có người đã định bỏ chạy, nhưng định thần nghe thì quái lạ! Thấy như có cả tiếng đàn bà con gái. Cũng xung phong, cũng tấn công. Rồi là tiếng cười ngặt nghẽo, rồi lại tiếng hò reo thắng rồi, thắng rồi... Thấy lạ, mọi người đánh liều ra sát mép hồ để nhìn cho rõ: Đúng là có đánh nhau thật, nhưng là đánh trận giả. Trên hồ, dàn thành thế trận là hai đội chiến thuyền đang xông vào nhau trong một trận giao tranh. Đứng đầu đôi bên là hai tướng chỉ huy, một người trông to lớn, oai vệ, vai khoác hoàng bào; người kia mặc cũng rất sang, nhưng dáng trông thanh tú, yêu kiều giống như đám quân lính. Đó chính là vua Lê Tương Dực cùng các cung nữ do thứ phi Kim Phượng, người thiếp yêu của vua chỉ huy, tập đánh trận giả. Ông vua này có cái thú lạ đời là thích bày những trò vui quái đản cùng cung nữ. Không dừng lại ở trò đánh trận giả, tiến tới, ông còn bắt cung nữ khỏa thân, chèo thuyền chơi trên Hồ Tây giữa thanh thiên bạch nhật. Tất nhiên, những khi ấy nhà vua sai lính cấm vệ ngăn các ngả đường về phía hồ để không ai được thấy, ngoài ông ta, tấm thân “ngọc ngà” của người thiếp yêu cùng các cung nữ xinh đẹp... Lê Tương Dực tên húy là Oanh, con trai của Kiến Vương Lê Tân. Kiến Vương là con trai thứ năm của Lê Thánh Tông, do vậy Lê Tương Dực chính là cháu nội của đức vua anh minh, mặc dù xem ra ông ta không xứng đáng chút nào. Công bằng mà nói, Lê Oanh là một người có cơ mưu. Là con thứ của Kiến Vương, sau khi cha mất ông được phong tước Giản Tu Công. Đến thời Lê Uy Mục, Lê Oanh bị bắt giam cùng với mẹ và anh trai Lê Sùng, do nhà vua chủ trương triệt bớt những người trong tôn thất có thể gây nguy hiểm cho ngai vàng của mình. Tuy còn ít tuổi, Oanh đã tỏ ra rất khôn ngoan khi dùng bạc đút cho lính canh ngục và thoát được ra ngoài. Trốn về đến Tây Đô (Thanh Hóa), ông được một đại thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ để chống lại vua Uy Mục. Lê Oanh ra hiệu triệu kể tội Quỷ Vương, lấy danh nghĩa anh trai là Cẩm Giang Vương Lê Sùng phất cờ khởi nghĩa. Khi đó ông mới 14 tuổi. Về việc mạo tên này có người khen kẻ chê, nhưng rõ ràng là có lợi vì Giản Tu Công Lê Oanh khi ấy còn quá ít tuổi, lại là con thứ, trong khi anh trai vừa hơn về tuổi đời vừa hơn về vị thế (tước vương), chắc chắn sẽ được nhiều người theo hơn. Tháng 11 năm 1509, Lê Oanh kéo quân về đánh thành Đông Đô. Nghe tin, Lê Uy Mục tức giận sai giết mẹ và anh trai ông là Lê Sùng để trả thù. Điều đó khiến Lê Oanh càng căm phẫn, ra sức thúc quân đánh thành. Ngày 1 tháng Chạp năm Kỉ Tị (1509), quân của Giản Tu Công đại thắng, tiến vào thành Đông Đô. Giản Tu Công bắt được Lê Uy Mục, bắt vua tự tử, rồi tự lập làm vua, tức Lê Tương Dực, vị vua thứ chín nhà Hậu Lê. Ông lấy niên hiệu là Hồng Thuận, giống với chữ đầu trong niên hiệu của ông nội mình là Hồng Đức. Thời gian đầu trên ngôi báu, Lê Tương Dực xem ra là một tân vương khá có trách nhiệm. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có viết về ông như sau: “Vua buổi đầu lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, cũng đáng coi là có công nghiệp.” Một trong những việc tốt mà nhà vua làm được là cho soạn bộ Việt giám thông khảo: Năm 1510, một năm sau khi lên ngôi, Lê Tương Dực sai Thượng thư Vũ Quỳnh soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Đại Việt thông giám hay Việt giám thông khảo. Bộ sách gồm 26 quyển, chép từ kỉ Hồng Bàng đến đầu thời Lê Thái Tổ. Theo Phan Huy Chú, bộ sách này được đánh giá là “quy mô và đúng với kinh, trúng với sử”. Năm sau nữa, vua lại cho ban hành bộ Trị bình bảo phạm gồm 50 điều, trong đó nêu việc củng cố kỉ cương, giáo hóa, cẩn thận hình phạt để ngăn ngừa lòng dân, khắc phục tình trạng rối loạn do đời trước gây ra... Trong những “cái được” của Lê Tương Dực cho đến khi ấy, không thể không kể đến vai trò của các vị đại thần đã hết lòng phò tá. Đó là Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang, em vợ vua Lê Thánh Tông, người đã hậu thuẫn cho Lê Tương Dực từ khi mới thoát khỏi sự giam cầm của Lê Uy Mục cho đến khi khởi binh thắng lợi rồi lên làm vua; đó là Lại bộ Thượng thư Lương Đắc Bằng, người đã thảo hịch kể tội Lê Uy Mục khiến cho mọi người nức lòng theo về với Lê Tương Dực; đó còn là Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, viên tướng dũng lược đã lập công lớn trong việc đánh đổ Lê Uy Mục, rồi lại giúp Lê Tương Dực dẹp loạn sau khi lên ngôi... Nhưng rồi lòng người thay đổi, mọi sự khó lường. Lê Tương Dực dần dần đi vào con đường ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Về phương diện này, ít có vua nào trong lịch sử Việt Nam để lại nhiều tai tiếng như ông. Sử cũ chép Lê Tương Dực từng gian dâm với cung nữ của tiền triều, thậm chí thông dâm với cả thê thiếp của cha mình. Đầu óc toàn nghĩ những chuyện dâm dật, ông ta còn bắt cung nữ cởi truồng chèo thuyền ở Hồ Tây như trên đã nói... Chả trách sứ nhà Minh khi sang phong cho Lê Tương Dực làm “An Nam quốc vương”, đã bảo vua có tướng lợn: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích dâm, là vua lợn...” Dân gian cũng theo đó mà gọi Vua Lợn (Trư Vương). Nhưng có lẽ tên tuổi Lê Tương Dực gắn chặt nhất với việc xây Cửu trùng đài. Nguyên ở Cẩm Giàng có một người thợ xây dựng tài ba là Vũ Như Tô. Họ Vũ dùng mía dựng thành hình một tòa đài chín tầng, trăm nóc, gọi là “Cửu trùng đài” đem dâng vua. Là người thích hưởng lạc, lại giỏi tưởng tượng, Lê Tương Dực như bắt được của khi xem mô hình tòa lâu đài. Lập tức ông ra lệnh khởi công xây Cửu trùng đài, phong Vũ Như Tô làm đô đốc, tổng chỉ huy công trình. Cửu trùng đài do Vũ Như Tô xây là một công trình có tham vọng lớn lao bậc nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam. Để thực hiện tòa lâu đài chín tầng trăm nóc, Lê Tương Dực đã nghe theo họ Vũ, huy động hàng vạn thợ thuyền, phu phen, bắt nhân dân cả nước đóng góp sức người, sức của, gỗ quý, đá quý, đồng đỏ, đồng đen, ngà voi, đồi mồi... Lại trưng thu xe cộ, tàu thuyền, những phương tiện làm ăn sinh sống của người dân cho việc đài tải. Bao nhiêu tiền bạc để nuôi công trình, thóc gạo, muối mắm để nuôi thợ cũng không đủ, ông lại ra lệnh tăng thuế má các loại, bất chấp mất mùa, lụt lội, loạn lạc khắp nơi. Các quan thừa dịp đục khoét, tham nhũng, nhưng cũng có người can gián vua. Ngay đến các quan đại thần thân cận nhất cũng lấy làm bất bình. Những người như Nguyễn Văn Lang, Lương Đắc Bằng khuyên vua không được thì chỉ biết ngậm ngùi bất lực hay từ quan về mở trường dạy học, song cũng có người như Nguyên quận công Trịnh Duy Sản quyết can vua bằng được. Một lần, do nói quá lời, ông bị vua bắt tội sai chém, sau mọi người xin mãi mới được tha cho nhưng bị phạt đánh bằng trượng. Uất quá, Trịnh Duy Sản khởi binh nổi loạn giết Lê Tương Dực. Coi Cửu trùng đài là nguyên nhân của mọi sự, và Vũ Như Tô là kẻ mê hoặc vua xây đài, ông sai lính giết chết Như Tô, phá Cửu trùng đài. Tòa lâu đài mới xây được một phần, bỗng chốc bị đốt phá tan tành, nhấn chìm trong bể lửa khiến khói bụi bay khắp kinh thành. Cửu trùng đài bị phá, mọi người thoát được gánh nặng của một công trình hao tiền tốn của khiến đất nước khánh kiệt, dân chúng lầm than, nên ai nấy đều lấy làm hoan hỉ. Nhưng nước ta cũng mất đi một công trình kiến trúc đầy hứa hẹn; một khi được hoàn thành, chắc chắn đó sẽ là một tòa lâu đài rất vĩ đại, và đặc biệt, hết sức độc đáo, có thể trở thành niềm tự hào cho muôn đời về sau. Nhưng thật đáng tiếc, lịch sử đã xảy ra như vậy, và không thể thay đổi!(2) Trần Cảo và lời sấm truyền “Phương Đông có thiên tử khí” hời vua Lê Tương Dực, ở điện Thuần Mỹ có người làm chức giám tên là Trần Cảo. Ông vốn người trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên), Hải Phòng. Nghe lời sấm truyền “phương Đông có thiên tử khí”, Trần Cảo cho là ứng vào mình(1), bèn quyết định khởi binh mưu việc lớn. Ban đầu, ông tụ tập những người tha hương làm vây cánh, trong đó có nhiều người Chiêm lưu lạc đang phải trốn tránh triều đình. Để có danh chính ngôn thuận, Trần Cảo tự nhận mình là dòng dõi năm đời của vua Trần và là ngoại thích của bà Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Tháng 3 năm 1516, Trần Cảo và con là Trần Cung cùng các thủ hạ thân tín dấy binh khởi nghĩa ở chùa Quỳnh Lâm. Ông tự cho mình là Đế Thích giáng sinh, xưng làm vua, đặt niên hiệu là Thiên Ứng. Mỗi khi ra trậnn ông mặc áo đen, quân lính đều cạo trọc đầu, để ba chỏm tóc nên gọi là "quân ba chỏm". Quân của Trần Cảo đông tới vài vạn người, quân triều đình không sao chống đỡ nổi. Cả một vùng Hải Dương phía đông lần lượt thuộc về "quân ba chỏm". Không dừng lại ở “phương Đông”, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng và cũng rất táo tợn. Chỉ trong có mấy tháng, Trần Cảo đã hai lần tiến đánh kinh thành. Lần đầu, “quân ba chỏm” tiến về Bồ Đề, uy hiếp Thăng Long. Họ tuy ô hợp nhưng liều chết khiến quân triều đình rất khốn đốn. Bấy giờ quan đại thần Trịnh Duy Sản vì có thù riêng với vua, lấy cớ đi đánh Trần Cảo rồi bất ngờ đem quân quay về, giết chết Lê Tương Dực. Kinh thành náo loạn, binh lính đốt phá, cướp bóc loạn xạ. Trịnh Duy Sản phải đem vua mới lập là Lê Chiêu Tông chạy về Tây Đô. Kinh thành bị bỏ ngỏ, Trần Cảo liền đem quân qua sông tiến vào làm chủ thành Thăng Long. Sau Lê Chiêu Tông tập hợp lực lượng, kéo quân các trấn về đánh, có cả quân thủy lẫn quân bộ, Trần Cảo mới chịu bỏ kinh thành, chạy về Trâu Sơn (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương). Tưởng dễ dàng tiêu diệt được “quân ba chỏm”, Trịnh Duy Sản liền dẫn các tướng đi đánh. Không ngờ bị Trần Cảo lập mưu, đặt phục binh đánh cho một trận tan tành. Trịnh Duy Sản bị bắt sống mang về Vạn Kiếp giết chết. Thắng trận, Trần Cảo lại đem quân tiến đánh kinh thành. Lần này, do có phần chủ quan, lại gặp phải Trần Chân là một tướng giỏi của Lê Chiêu Tông, “quân ba chỏm” bị thua nặng. Trần Cảo phải chạy lên Lạng Nguyên. Quân Trần Cảo và quân triều đình lấy sông Cầu làm ranh giới. Sau nhiều ngày đánh nhau với Trần Chân không phân thắng bại, Trần Cảo “truyền ngôi” cho con là Trần Cung. Ông cạo đầu làm sư, giấu tên để trốn tránh. Mặc dù không biết kết cục của ông ra sao, nhưng tại các thôn Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên (thuộc phủ Lạng Giang, Bắc Giang) vẫn còn đền thờ Trần Cảo, nên người ta phỏng đoán ông chết ở đó. Trần Cung cũng xưng làm vua, tiếp tục chiếm cứ mạn phía đông chống lại triều đình. Tới năm 1521, ông mới chịu thất bại dưới tay Mạc Đăng Dung, viên tướng giỏi nhất của nhà Lê. Trần Cung bại trận chạy lên châu Thất Nguyên rồi bị triều đình tầm nã bắt được, giải về kinh hành hình. Khởi nghĩa Trần Cảo là cuộc khởi nghĩa lớn nhất thời Lê Sơ, được coi là một nguyên nhân khiến cho nhà Lê sụp đổ. Nhiều người cũng cho rằng, việc ông tin vào lời sấm truyền “phương Đông có thiên tử khí” để xưng vua phất cờ khởi nghĩa không phải là không có cơ sở. Bởi Mạc Đăng Dung, người đánh bại con ông cũng xuất thân từ phương có “khí thiên tử” đó(2), và không lâu sau cũng soán ngôi nhà Lê, tự lập làm vua(3). Kiến Vương Tân và các hậu duệ làm vua cuối thời Lê Sơ à con thứ năm của Lê Thánh Tông, Kiến Vương Lê Tân đi vào lịch sử với tư cách là cha của một ông vua và ông nội của hai ông vua khác. Sinh năm 1466, đến năm 1471 thì hoàng tử Lê Tân được cha phong cho tước vương. Tháng 7 năm ấy, đức vua sai Thái bảo Hộ bộ Thượng thư Lê Cảnh Huy mang kim sách, sắc phong cho hoàng tử làm Kiến Vương. Khi ấy ông mới lên năm tuổi, không rõ có nhớ được gì không, nhưng vì ông là hoàng tử con vua nên sự kiện này được sử sách ghi lại. Cũng từ đấy ông thường được gọi là Kiến Vương Tân. Tương truyền, Kiến Vương từ thuở bình sinh đã thông minh hiếu học. Khi vua Lê Thánh Tông làm thơ thường sai con họa lại. Kiến Vương còn biên soạn bộ Lạc Uyển thư nhàn, được Phan Huy Chú bình luận: “Vương là người trầm tĩnh sâu xa, ham học, giỏi văn, những bài họa thơ ngự chế của vua Lê Thánh Tông có nhiều câu hay... Cách điệu trong trẻo mà khỏe khoắn, được nhiều người đương thời khen ngợi.” Kiến Vương mất năm Nhâm Tuất (1502) dưới thời trị vì của vua anh Lê Hiến Tông, thọ 36 tuổi. Vua nghỉ chầu 3 ngày, ban cho ông tên thụy là Trinh Tĩnh. Đó là tất cả những gì sử sách ghi lại, và có lẽ đó cũng là tất cả sự nghiệp của ông. Song, như trên đã nói, Kiến Vương Tân được nhớ đến trước hết bởi những người con, cháu rất đặc biệt của mình – những ông vua trong lịch sử! Trong đó người “nổi tiếng” nhất phải kể đến Lê Oanh, con thứ của Kiến Vương, lên ngôi năm 1509 tức Lê Tương Dực (đã được viết thành một bài riêng). Một người con khác của Kiến Vương, tuy không làm vua, nhưng cũng cần được nhắc đến là Cẩm Giang Vương Lê Sùng, con trai cả của ông. Lê Sùng có hai con là Lê Y và Lê Xuân. Năm 1516, khi khởi binh giết vua, Trịnh Duy Sản lập Lê Y khi ấy mới 10 tuổi lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông. Như vậy, hậu duệ của Kiến Vương đến đây có thêm cậu cháu đích tôn được đưa lên ngai vàng. Lê Y làm vua trong bối cảnh loạn lạc, giặc giã nổi lên khắp nơi, trong đó có cuộc khởi nghĩa lớn của Trần Cảo làm chao đảo vương triều, dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lê. Khi quân khởi loạn đốt phá Cửu trùng đài, các tướng lập thành phe phái nổi lên, đua nhau tranh cướp, phá phách kinh thành. Trịnh Duy Sản phải đem Chiêu Tông chạy vào Tây Đô. Trần Cảo nhân cơ hội vào chiếm thành Thăng Long. Các tướng tạm gác việc xung đột để chống Trần Cảo. Trần Cảo thua phải chạy khỏi kinh thành, Lê Chiêu Tông được đưa về kinh, ra tay thanh trừng các lực lượng phản loạn. Trong một lần đi đánh Trần Cảo ở Chí Linh (Hải Dương), Trịnh Duy Sản bị chết. Trần Cảo lại mang quân về định đánh kinh thành. May có người con nuôi của Duy Sản là Trần Chân phá được Trần Cảo ở Gia Lâm. Trừ được mối nguy cho kinh thành, Trần Chân nắm ngay lấy binh quyền. Bấy giờ trong số những người “phò vua”, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người có tài năng và khôn khéo. Ông dần dần thâu tóm quyền hành và trở thành một nhân vật trụ cột của triều đình. Nhận thấy thế lực của Trần Chân, Mạc Đăng Dung tìm cách kết thân: ông hỏi con gái của Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh, kết thông gia giữa hai nhà Trần - Mạc. Bấy giờ Lê Chiêu Tông còn ít tuổi, mà uy thế của Trần Chân thì quá lớn. Vì thế các cận thần khuyên vua nên trừ đi. Chiêu Tông nghe lời gièm pha, cho triệu Trần Chân vào trong cung cấm, rồi hạ lệnh đóng các cửa thành lại, sai lực sĩ vây bắt. Trần Chân bị giết, song vây cánh vẫn còn, các tướng từ Sơn Tây mang quân về đánh kinh thành, báo thù cho chủ. Chiêu Tông lại phải triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung, khi ấy đang trấn thủ Hải Dương về cứu. Mạc Đăng Dung kéo quân thuỷ bộ về phá tan quân khởi loạn ở Từ Liêm. Lê Chiêu Tông phong Đăng Dung làm Minh Quận công, nhưng trong bụng luôn có ý lo sợ và muốn triệt đi. Vua bèn mật bàn với các nội thần mời binh sĩ các nơi về đánh Mạc Đăng Dung. Một đêm tháng 7 năm 1522, Lê Chiêu Tông cùng các nội thần chạy đi Mộng Sơn (Sơn Tây) gọi quân Cần vương. Nghe tin, Mạc Đăng Dung một mặt sai quân đuổi theo, mặt khác lập em vua là Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Từ đấy trong nước có hai vua là Chiêu Tông và Cung Hoàng, cả hai đều là con cùng cha cùng mẹ của Cẩm Giang Vương Lê Sùng và là cháu nội của Kiến Vương Tân. Lê Chiêu Tông được các tướng cũ về “cứu giá”, thanh thế rất lớn, áp đảo quân của Mạc Đăng Dung. Nhưng sau các tướng bất hoà, Trịnh Tuy đem vua vào Thanh Hoá để tranh công. Từ đó các tướng không theo Chiêu Tông nữa, nhiều người bỏ sang theo Đăng Dung. Sau khi phá được quân của Trịnh Tuy ở Thanh Hóa, giết chết Trịnh Tuy, tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung bắt được Lê Chiêu Tông mang về Thăng Long giam, được hơn một năm thì giết đi. Chiêu Tông bị giết, quân bài Cung Hoàng không cần đến nữa, vì từ lâu Mạc Đăng Dung đã tính chuyện cướp ngôi nhà Lê. Đăng Dung giả cách lui về quê ở Cổ Trai (Hải Dương), nhưng thực tế vẫn nắm triều đình. Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai các đại thần cầm cờ mao tiết, mũ áo, ô lọng, đai ngọc, kiệu tía... đến Cổ Trai phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng Vương. Vua còn tặng ông bài thơ “Chu Công giúp Thành Vương”, ý muốn ông ta sẽ giúp mình như Chu Công đời xưa. Nhưng chỉ hai tháng sau, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai về kinh, bắt Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Triều thần lúc đó hầu hết là người của Đăng Dung, liền “giúp” vua thảo chiếu nhường ngôi cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 âm lịch năm 1527, Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức Mạc Thái Tổ, mở ra nhà Mạc. Cung Hoàng bị giáng xuống làm Cung Vương, rồi sau cũng bị ép phải tự tử... Kiến Vương Tân sinh năm 1466, mất năm 1502 khi mới 36 tuổi. Ông không được trời cho tuổi thọ, âu cũng không có gì phải tiếc nuối. Nếu ông sống thêm 25 năm nữa, hẳn đã phải chứng kiến hết chuyện xấu xa của con trai (Lê Tương Dực), đến những chuyện đau lòng xảy đến với các cháu nội mình. Chưa kể phải chứng kiến kết cục thật đáng buồn của nhà Lê Sơ(1). May thay cho ông, số phận con người ta, cũng giống như lịch sử, là không thể thay đổi! Mạc Đăng Dung - từ đô lực sĩ tới ngôi vua uối thời Lê Sơ, triều đình mở khoa thi Võ. Hôm ấy, bà Từ Thục, con quan Thượng thư họ Nhữ cũng đi xem. Giữa những đô vật bốn phương về tụ hội, bà tình cờ gặp một chàng trai đánh cá tuổi vừa đôi mươi ở huyện Nghi Dương lên ứng thí. Đó là một người cao lớn, mặt vuông, mắt tròn, tiếng nói trầm hùng, ăn mặc rách rưới nhưng có phong độ đàng hoàng, đĩnh đạc. Vừa làm quen nhau sau dăm ba câu chào hỏi, nàng Từ Thục cất lời tự trách, tiếng than như phát ra tự đáy lòng: “Lúc trước chẳng gặp nhau, nay đến đây làm gì!” Bởi bà đã thấy được ở chàng trai ấy có khí tượng đế vương, sau này ngôi vua ắt về tay chàng. Bà Từ Thục từ thời trẻ đã tinh thông lí số, có tài tiên đoán tương lai. Bà biết rằng khí số nhà Lê đã đến ngày suy và một bậc đế vương sẽ xuất hiện. Sinh ra trong gia đình quyền quý, lại có khát vọng lớn, bà hi vọng sẽ lấy được một người làm vua hoặc chí ít cũng sinh được con có khí thiên tử. Kén chọn mãi bà mới lấy Nghiêm Quận công Văn Đình. Nhưng sau khi lấy nhau, bà mới biết mình nhầm, vì với người ấy giỏi lắm chỉ có thể sinh con đến bậc Trạng nguyên. Thế nên bà càng tiếc khi gặp gỡ chàng trai kia... Chàng trai ấy chính là Mặc Đăng Dung! Mạc Đăng Dung làm nghề đánh cá tại làng chài Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Chàng có sức khỏe lạ thường, bơi lội như con cá kình, chèo lái thuyền băng băng cả khi ngược gió. Chàng lại là hậu duệ bảy đời của vị Trạng nguyên hiển hách Mạc Đĩnh Chi, nhưng nhà thì rất nghèo. Ngay từ thuở còn để chỏm, Đăng Dung thường được nghe cha kể về sự tích cụ Trạng. Cụ Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn (1304), làm quan thanh liêm, được thăng tới chức cực phẩm. Cụ được cử sang sứ nhà Nguyên, nhờ tài đối đáp và văn thơ uyên bác đã giữ được uy phong cho đất nước, làm rạng danh kẻ sĩ Đại Việt. Vua Nguyên phong cho là Trạng nguyên, vì vậy cụ trở thành “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Lần giở lên xa hơn, cụ viễn tổ 16 đời là Mạc Hiển Tích đỗ đầu khoa văn học thủ tuyển năm Bính Dần (1086) đời vua Lí Nhân Tông. Cụ cũng được coi là Trạng nguyên, mặc dù thời bấy giờ chưa có danh vị này. Cụ được tin dùng, làm quan đến chức Thượng thư... Vốn dòng dõi trâm anh thế phiệt, nhưng sau đận nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, con cháu mấy đời nay đều lâm vào cảnh nghèo, phải bôn ba về xứ Hải Dương làm nghề chài lưới. Cha mẹ luôn nhắc nhở Đăng Dung phải cố theo gót các bậc tiên hiền để làm nên nghiệp lớn. Nhưng bấy giờ triều Lê đã suy tàn, giặc giã nổi lên khắp nơi, triều đình không trọng văn nữa. Đăng Dung cũng như nhiều kẻ sĩ khác muốn tiến thân phải theo đường võ nghiệp. Mạc Đăng Dung còn trẻ, nhưng đã là một đô vật nổi danh khắp xứ Đông. Ở đâu có đấu vật chàng đều đến ghi danh lên sới để thử sức và học hỏi. Năm ấy chàng lên kinh thi. Ở môn đấu vật, Đăng Dung lần lượt hạ các đô vật đến từ các lò vật nổi tiếng trong nước, từ Phong Châu phía Bắc đến Thức Vụ xứ Nam. Sau khi chàng hạ đô vật Mai Động, lò vật lừng lẫy ở kinh thành, trống trường thi giục đến ba hồi vẫn không có ai lên thượng đài đấu với chàng nữa. Mạc Đăng Dung được xướng loa trúng Đô lực sĩ Võ Trạng nguyên. Trong tiếng reo hò dậy đất, chàng xin biểu diễn múa đao, môn sở trường. Ánh đao loang loáng, tiếng xé gió vù vù, bụi đất cuồn cuộn bốc lên. Chiếc đại đao dài 2,5 mét, nặng 25 cân trong tay chàng nhẹ như món đồ chơi trong tay trẻ nhỏ. Ai cũng thán phục sức khỏe kinh người và tài võ nghệ của vị tân Trạng nguyên.(1) Thế rồi Đăng Dung được sung vào đội quân Túc vệ, khởi sự là một viên võ quan cấp thấp: cầm lọng che theo xe vua Uy Mục! Chiếc lọng ấy khá nặng, không phải võ sĩ nào cũng cầm được. Ngoài ra Đăng Dung còn được giao nhiệm vụ “chấp kích lang”: vác kích theo bảo vệ vua. Trải qua ba đời vua, từ một quan võ cấp thấp, nhờ tài trí, mưu lược, năm 25 tuổi Mạc Đăng Dung được phong Đô chỉ huy sứ đứng đầu quân Túc vệ. Năm 28 tuổi được tấn phong tước Vũ Xuyên bá. Năm 33 tuổi được cử đi trấn thủ Sơn Nam, và đến năm 35 tuổi được thăng Đề đốc, tước Vũ Xuyên Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng ngày nay). Do công đánh dẹp cuộc nổi loạn của Lê Do, chiêu hàng Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc nên năm 1519, khi 36 tuổi ông được phong tước Minh Quận công, rồi được giao Tiết chế các doanh thuỷ lục quân 13 đạo, thống lĩnh toàn bộ quân đội trong nước. Đến năm 40 tuổi, Mạc Đăng Dung lên tới chức cực phẩm khi ông được phong tước Thái sư An Hưng Vương. Chức trọng, quyền cao, lại là người đầy tham vọng, Đăng Dung không thể không mưu tính việc tiếm đoạt, khi trong tay phụ chính của ông lần lượt là những ông vua nhà Lê trẻ người non dạ, không có tài cán, đức độ lại càng không có chút thực quyền. Cuối cùng cái gì phải đến đã đến. Năm 1527 Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê, xưng vua, lập nên triều đại nhà Mạc ở nước ta. Bà Từ Thục quả đã không nhầm người.(2) Nguyễn Kim với sự nghiệp trung hưng nhà Lê, khởi nguồn Trịnh, Nguyễn hi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung tiếm ngôi năm 1527, các cựu thần hầu hết ngả theo họ Mạc hoặc bỏ đi nơi khác. Duy có một người là Nguyễn Kim đứng ra chiêu tập hào kiệt bốn phương lánh sang Ai Lao (Lào), mưu sự khôi phục. Nguyễn Kim sinh năm 1468 ở Thanh Hóa, là một danh tướng dưới thời Lê Chiêu Tông, từng lập nhiều công trạng với triều đình. Tại Ai Lao, ông được vua Sạ Đẩu cho mượn đất Sầm Châu lập bản doanh phò Lê diệt Mạc. Bấy giờ tôn thất nhà Lê đều phải thay tên đổi họ, trốn đi các nơi nên rất khó tìm. Mãi rồi ông cũng tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh đang lẩn trốn ở Thanh Hóa. Nguyễn Kim liền đưa Duy Ninh sang Sầm Châu, đưa lên ngôi vua, tức Lê Trang Tông. Khi ấy là năm 1533, sáu năm sau khi nhà Lê Sơ mất về tay nhà Mạc. Nhà Lê lại được tiếp nối, gọi là thời Lê Trung hưng. Thời gian đầu, triều đình phải “lưu vong” bên đất Ai Lao. Nguyễn Kim được vua Lê phong làm Thái sư, Hưng Quốc công, nắm giữ binh quyền. Ông tiến binh về nước, từng bước đánh chiếm các huyện ở Thanh Hóa. Dưới sự chỉ huy của ông, quân nhà Lê ngày càng mạnh, đến cuối năm Quý Mão (1543) thì chiếm được Tây Đô, tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc phải đầu hàng. Song chỉ hai năm sau, Nguyễn Kim lại bị chính viên hàng tướng này đầu độc chết. Chấp Nhất mời ông ăn dưa có tẩm độc rồi bỏ trốn. Khi đó ông 77 tuổi, để lại sự nghiệp Trung hưng còn dang dở. Trịnh Kiểm, một tướng giỏi đồng thời là con rể của ông lên nắm quyền. Lê Trang Tông tiếp tục làm vua cho đến năm 1548 thì mất, thọ 34 tuổi. Trịnh Kiểm lập con ông là thái tử Huyên lên nối ngôi, tức là Lê Trung Tông. Về sự nghiệp của Lê Trang Tông, Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Vua gặp vận gian truân, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài kết nước láng giềng, bên trong dùng được tướng giỏi, cho nên người đều vui lòng làm việc, nền móng Trung hưng gây ra từ đấy.” Âu đó cũng là những lời nhận xét tốt đẹp cho một ông vua mở đầu một triều đại. Song có lẽ, ông nổi tiếng hơn cả với những vấn đề về nhân thân. Chính sử vẫn coi ông là con (không chính thức) của Lê Chiêu Tông, được Nguyễn Kim tìm ra và đưa lên ngôi. Từ đó mà ra giai thoại rất nổi tiếng về Chúa Chổm: Sau khi bị bắt, Lê Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung đưa về Thăng Long giam lỏng ở phường Đông Hà. Bấy giờ có cô bán rượu xinh đẹp, thấy người bị giam còn trẻ, trông vẻ quyền quý liền đem lòng yêu thương. Hai người lén tự tình với nhau, cô gái có mang rồi sinh con trai, và đó chính là Lê Duy Ninh đã được nói đến ở đầu câu chuyện. Sau Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết. Cô gái lúc này đã biết thân phận con mình, liền mang con trốn đi. Suốt những năm lưu lạc, để giấu tung tích, cô đặt tên cho con là Chổm. Sau một thời gian sống lẩn lút, chịu khổ trăm bề, hai mẹ con thấy yên lại trở về chốn cũ ở kinh thành. Hằng ngày Chổm đi kiếm củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc đói bụng, Chổm thường vào ăn tại các quán cơm ở cửa ô. Quán nào được Chổm vào ăn là hôm đó đắt như tôm tươi. Các chủ quán cho là Chổm nhẹ vía nên ai cũng muốn mời anh chàng vào ăn, dù phải cho chịu. Được thể, Chổm ăn tiêu bạt mạng. Đến khi mọi người hỏi nợ thì bảo: - Mai này tôi làm nên, sẽ trả chu tất! Về sau quả nhiên Chổm lên làm vua, tức Lê Trang Tông. Thiên hạ hay tin đua nhau đến đòi nợ cũ, cả những người không dính dáng cũng đến đòi. Từ đó có câu nói dân gian “Nợ như chúa Chổm”... Đấy là giai thoại. Còn chính sử lại ghi Trang Tông sinh năm 1514, mà “vua cha” Lê Chiêu Tông thì sinh năm 1506, nghĩa là hai cha con chỉ hơn nhau có... 8 năm. Quả là điều phi lí! Đây cũng là lí do khiến cho nhiều người tin rằng Lê Duy Ninh chính là con của Nguyễn Kim. Do không tìm được một tôn thất nào của nhà Lê nên ông đã lấy con mình thế vào và gán cho một thân phận mới là Lê Duy Ninh, con của Lê Chiêu Tông. Về sau, khi nhà Mạc định dựa vào nhà Minh, họ cũng dâng biểu “kể tội” Nguyễn Kim để phân trần: Sở dĩ họ phải cướp ngôi nhà Lê là vì Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của vua Chiêu Tông. Dù sự thực là thế nào thì Nguyễn Kim đã thực hiện được một sự nghiệp thật hiển hách: giúp nhà Lê khôi phục vương triều, hay còn gọi là sự nghiệp “trung hưng” nhà Lê. Nhà Lê Trung hưng bắt đầu từ Lê Trang Tông lên ngôi năm 1533, sẽ tồn tại đến năm 1789, đời vua Lê Chiêu Thống, tổng cộng 256 năm. Và đây chính là triều đại dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam! Không chỉ có vậy. Nguyễn Kim còn là cha của hai người con trai tài giỏi, cùng làm tướng nhà Lê và đều được phong Quận công. Trong đó người em là Đoan Quận công Nguyễn Hoàng về sau trở thành người mở đầu sự nghiệp các chúa Nguyễn ở miền Nam. Đồng thời, ông còn là bố vợ của Trịnh Kiểm, cũng là một gương mặt lớn của lịch sử. Nguyên ông có người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, vì mến tài của viên tướng dưới quyền là Trịnh Kiểm nên đã gả con gái cho. Người con rể này sau sẽ thay ông nắm giữ quyền bính khi Nguyễn Kim bị sát hại, rồi trở thành thủy tổ của một dòng họ cũng rất vinh hiển trong lịch sử Việt Nam: nhà Trịnh, hay các chúa Trịnh, tồn tại cùng nhà Lê trong thế đối sánh “vua Lê chúa Trịnh” suốt một thời... Nguyễn Kim không là vua, cũng chẳng phải chúa. Thậm chí còn không thuộc dòng dõi vương hầu. Sau khi mất, ông được Lê Trang Tông truy tặng tước Chiêu Huân Tĩnh Vương. Về sau, các vua nhà Nguyễn mới truy tôn miếu hiệu là Triệu Tổ, thụy hiệu là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế. Nhưng ta hãy thử giả định một điều này. Giả sử trong lịch sử Việt Nam không xuất hiện một Nguyễn Kim. Nghĩa là cũng sẽ không có một Lê Trang Tông được phò tá để thành vua; không có một Nguyễn Hoàng được ra đời, được thừa hưởng các yếu tố của con nhà “danh gia vọng tộc” để lập nên cơ nghiệp chúa Nguyễn; không có một Trịnh Kiểm được phát huy tài năng, được trao binh quyền để trở thành trụ cột của triều đình, thủy tổ của các chúa Trịnh. Vậy thì ông đâu phải chỉ là người có công trung hưng nhà Lê; ông còn là khởi nguồn của các thực thể Lê, Trịnh, Nguyễn cùng song song tồn tại suốt thời Trung đại từ Bắc chí Nam. Nam - Bắc triều cuộc chiến 60 năm hế kỉ 16 đất nước ta diễn ra chiến tranh liên miên, riêng cuộc chiến Nam - Bắc triều cũng kéo dài suốt sáu thập kỉ. Bắc triều là nói về nhà Mạc. Nam triều là nói về nhà Lê Trung hưng. ∗ ∗ ∗ Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập nên triều Mạc vào năm 1527. Sáu năm sau (1533), Nguyễn Kim, một cựu thần nhà Lê chạy sang Ai Lao (Lào) tìm được hậu duệ nhà Lê lập lên làm vua của triều Lê. Và thế là cuộc chiến tranh bắt đầu. Trong những năm đầu, lực lượng của nhà Lê còn non yếu, mấy lần kéo quân về nước đều không thành công, lại phải rút về Sầm Châu bên đất Lào. Đến năm 1539, Nguyễn Kim đánh chiếm được Lôi Dương, Thanh Hóa và năm sau chiếm được Nghệ An, tạo địa bàn vững chắc để làm căn cứ địa. Về phía nhà Mạc, Đăng Dung ở ngôi hai năm thì truyền cho con là Đăng Doanh. Đăng Doanh chết trẻ, chỉ ở ngôi được 10 năm. Con trưởng là Mạc Phúc Hải lên ngôi cũng chỉ được 5 năm thì chết. Trong những năm ấy, nhà Mạc nhiều lần đánh dẹp, nhưng không nổi; ngược lại nhà Lê càng lúc càng mạnh lên. Năm 1543, quân nhà Lê do Nguyễn Kim chỉ huy đánh chiếm được thành Tây Đô (Thanh Hóa), Tổng trấn giữ thành là Dương Chấp Nhất buộc phải đầu hàng. Hai năm sau, Nguyễn Kim lại cầm quân tiến đánh Sơn Nam, nhưng mới đến Yên Mô, Ninh Bình thì ông bị Dương Chấp Nhất lừa đánh thuốc độc chết. Tất cả quyền bính chuyển sang tay con rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm lui quân về Thanh Hóa, lập hành điện tại sách Vạn Lại làm “tổng hành dinh” như một kinh đô mới cho vua ở và tập hợp lực lượng, chiêu mộ quân sĩ, tích trữ lương thảo... Bấy giờ Thượng hoàng Mạc Đăng Dung đã mất. Chắt là Mạc Phúc Nguyên (đời thứ tư) lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, binh quyền, triều chính giao tất cả cho chú là Mạc Kính Điển trông coi. Từ đây trên hai trận tuyến Bắc - Nam có hai vị tướng tài ba, kì phùng địch thủ, chống chọi với nhau cân tài cân sức. Phía nhà Mạc, đại tướng Mạc Kính Điển là một nhà quân sự thao lược. Lại có Lê Bá Li, một lão tướng trải nhiều kinh nghiệm trận mạc trợ giúp. Phía nhà Lê là Trịnh Kiểm, tài kiêm văn võ, giương ngọn cờ phò Lê diệt Mạc, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, rất giỏi điều binh khiển tướng. ∗ ∗ ∗ Dưới thời Mạc Phúc Nguyên, Mạc Kính Điển đã mười lần cầm quân đánh vào Thanh Hóa. Quân Trịnh chống đỡ vất vả, nhưng cũng buộc được quân Mạc phải lui binh. Ngược lại, quân Trịnh sáu lần đem quân đánh ra Bắc, nhưng chiến sự cũng chỉ diễn ra quanh quẩn vùng Sơn Nam, Ninh Bình. Năm 1551, một biến cố xảy ra trong triều đình nhà Mạc. Bị vu oan, lão tướng Lê Bá Li và thông gia là Thượng thư Nguyễn Thiến đem hàng loạt tướng giỏi và hàng vạn binh mã vào Thanh Hóa quy phục nhà Lê. Nhân cơ hội này, Trịnh Kiểm dẫn quân ra Bắc ba mặt tấn công Đông Đô. Chiếm được kinh đô, nhưng thế lực quân Mạc còn mạnh, Trịnh Kiểm chưa dám rước vua ra Bắc, mà lại lui về trấn giữ Thanh Hóa. Mạc Kính Điển củng cố lực lượng, lại nhiều phen đem quân thủy bộ tấn công trở lại. Có lần ông đem 300 chiến thuyền vượt qua cửa Thần Phù, tiến đánh đến gần sách Vạn Lại, nhưng bị phục binh của Trịnh Kiểm đánh tan. Trịnh Kiểm cũng nhiều lần đánh ra Sơn Nam vơ vét thóc gạo mang về Thanh Hóa. Chiến tranh liên miên, dân tình khốn khổ chẳng bao giờ được sống yên bình. Năm 1559, Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh, chiếm được một vùng rộng lớn ở Thái Nguyên, Kinh Bắc, Hải Dương. Tưởng đã cầm chắc thành công, song quân của Mạc Kính Điển lại đánh tập hậu vào Thanh Hóa, khiến quân Nam triều phải vội kéo về giữ Tây Đô. Hai bên cứ thế giằng co. Nhà Lê tuy đã “trung hưng” nhưng thực ra chỉ chiếm được xứ Thanh. Ngay đến đất Nghệ An cũng thường bị thủy quân Mạc đột nhập đánh phá, quân Trịnh ứng cứu không kịp. Về sau tướng nhà Lê là Nguyễn Hoàng (con trai Nguyễn Kim) chiếm cứ Thuận Hóa, quân Mạc mới không tiến đánh Nghệ An nữa. Về phần mình, nhà Mạc cũng chỉ làm vua ở miền Bắc thôi. ∗ ∗ ∗ Một sự kiện xảy ra khiến nội bộ Nam triều biến loạn. Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, con trưởng là Trịnh Cối lên thay. Cối ham mê tửu sắc, làm nhiều việc thất nhân tâm. Trịnh Tùng là em đem quân đánh lại Trịnh Cối. Mạc Kính Điển nhân cơ hội đem 10 vạn quân và 700 chiến thuyền chia làm sáu đạo quân tiến đánh. Trịnh Cối bị kẹp giữa phía bắc là quân Mạc, phía nam là quân Trịnh Tùng, biết không chống cự được, bèn đem quân đầu hàng Mạc Kính Điển. Suốt cuộc chiến tranh Lê - Mạc, không năm nào Mạc Kính Điển không động binh nhằm tiêu diệt quân Lê Trịnh. Các vùng từ Ninh Bình trở vào đều là bãi chiến trường, dân kéo nhau chạy loạn, làng mạc hoang tàn. Trịnh Tùng một mặt chỉnh đốn quân đội, xây thành đắp lũy cố thủ, mặt khác củng cố lực lượng, chiêu tập nhân tài, nắm quyền trong tay, chờ thời cơ đánh trả. Thời cơ đó đã đến. Năm 1580 Mạc Kính Điển chết, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay anh phò tá Mạc Mậu Hợp. Mậu Hợp là ông vua đồi bại, hoang dâm, chỉ thích nghe bọn nịnh thần. Còn Mạc Đôn Nhượng thì tài đức đều tầm thường, chẳng làm được việc gì đáng để quan quân nể trọng. Mười năm tiếp theo, năm nào vào mùa thu, Mạc Đôn Nhượng cũng cầm quân đánh vào Thanh Hóa, nhưng đều vấp phải sự chống trả quyết liệt của Trịnh Tùng: khi thì bị phục binh đánh thua, khi hết lương thảo phải kéo quân về. Lúc này Trịnh Tùng đã có đủ lực để ăn miếng trả miếng. Năm 1583, kéo quân ra Sơn Nam, thu thóc lúa rồi kéo về. Năm 1584, lại đánh Trường Yên (Ninh Bình). Năm 1585 tiến đánh xa hơn, tới tận Mĩ Lương, Thạch Thất (Hà Tây cũ). Giờ đến lúc nhà Mạc phải lo phòng thủ. Mạc Mậu Hợp cho đắp thêm ba bức lũy, đào thêm ba lần hào bên ngoài thành Đại La, lại trồng chông gai suốt vài chục dặm bao xung quanh. Năm 1587, Trịnh Tùng kéo đại quân ra đánh lớn. Chiến trường diễn ra ở phía tây kinh đô Thăng Long. Các năm tiếp theo, năm nào Trịnh Tùng cũng đánh ra, mỗi năm một áp sát kinh thành. Tình hình nguy cấp là thế, song Mạc Mậu Hợp vẫn không tỉnh ngộ, bỏ ngoài tai mọi lời can gián của trung thần. Đã vậy, năm 1592 vua còn tìm cách chiếm đoạt vợ viên tướng Bùi Văn Khuê đang giữ trọng trách trấn giữ Sơn Nam. Bùi Văn Khuê liền đem quân đầu hàng Trịnh Tùng. Không bỏ lỡ cơ hội, Nam triều đem toàn quân chia thành nhiều hướng ồ ạt tấn công Thăng Long. Chủ tướng Trịnh Tùng đích thân cầm cờ lệnh chỉ huy. Chiều mùng 6 Tết năm Kỉ Sửu (1592), bốn mặt thành bị tan vỡ. Tướng Mạc phải bỏ thành chạy trốn. Mạc Mậu Hợp cũng bỏ trốn, giả làm sư ẩn núp ở chùa Mô Khuê (Bắc Giang). Nhưng rồi cũng bị bắt về treo sống trước cổng thành Thăng Long ba ngày trước khi bị giết chết. Con là Mạc Toàn được đưa vội lên ngôi, chưa từng một ngày ngồi trên ngai vàng cũng bị giết chết. Trịnh Tùng đưa Lê Thế Tông trở về Thăng Long, lập phủ chúa bên cạnh triều đình vua Lê. ∗ ∗ ∗ Cuộc chiến 60 năm Nam - Bắc triều coi như kết thúc. Nhưng chiến tranh trên đất nước ta vẫn chưa thực sự chấm dứt. Các tôn thất nhà Mạc chạy thoát vẫn tập hợp lực lượng, khởi binh chống lại ở nhiều nơi. Nhà Mạc còn kéo dài được thêm bốn đời vua nữa hùng cứ ở đất Cao Bằng. Cuộc chinh phục của họ Trịnh phải 85 năm sau nữa mới hoàn tất. Vạn Lại - kinh đô của sự nghiệp trung hưng hà Lê Trung hưng bắt đầu khởi nghiệp kể từ Lê Trang Tông, khi ông được Nguyễn Kim đưa lên làm vua năm 1533 ở Ai Lao (Lào). Nguyễn Kim là một tướng tài, có công rất lớn với vương triều, được vua phong là Thượng phụ Thái sư. Trong các năm chinh chiến, ông từng giành được thành Tây Đô từ tay nhà Mạc, tòa thành lớn ở Thanh Hóa, được sánh ngang với thành Đông Đô, kinh đô của các đời vua thời Lê Sơ. Song, vai trò lịch sử của kinh đô đầu thời Lê Trung hưng lại thuộc về một nơi khác. Đó là Vạn Lại, một địa danh thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hoa (nay là xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Tại đây, năm 1546, Trịnh Kiểm đã cho xây dựng hành điện, kinh đô tạm thời của triều đình và rước vua Lê về đó ở. Và cũng từ đó, thế Nam - Bắc triều được hình thành. Vạn Lại thực sự trở thành nơi đầu não của Nam triều trong một khoảng thời gian khá dài, đóng vai trò trung tâm của đời sống chính trị, văn hóa thời bấy giờ. Việc chọn Vạn Lại để dựng đô đã chứng tỏ tầm nhìn lớn lao của Thái sư Lạng Quốc công Trịnh Kiểm. Về việc này, Việt sử thông giám cương mục viết: “Thái sư Trịnh Kiểm cho rằng lập quốc tất phải căn cứ vào nơi hiểm trở. Sách Vạn Lại, núi đứng sững, nước uốn quanh, thực đáng gọi là nơi hình thế đẹp. Đấy là do trời đất xếp đặt để làm chỗ dấy nghiệp đế vương. Trịnh Kiểm bèn sai đào hào đắp lũy, xây dựng hành điện, mời nhà vua đến đóng tại đó.” Đó là về phong thủy. Còn về quân sự, nơi đây vừa có thế thủ lại vừa có thế công, tiến lui đều thuận lợi. Khi tiến có thể theo sông Chu, sông Mã để ra Bắc, vào Nam. Thực tế, từ đây Trịnh Kiểm đã nhiều lần cầm quân tiến ra Bắc, hay qua sông sang tổng Lôi Dương theo đường đánh vào Nghệ An. Khi lui, phía sau là vùng núi Lam Sơn bao la, nơi Lê Thái Tổ xưa kia đã lấy làm căn cứ dấy nghĩa... “Đất lành chim đậu”, Vạn Lại nhanh chóng trở thành nơi thu hút hào kiệt, danh sĩ bốn phương tìm đến tiến thân, và giúp vua giúp nước. Các danh sĩ danh vang bốn bể như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan cũng góp mặt. Một triều đình có đầy đủ văn quan, võ tướng được thiết lập. Từ đây, nhiều ý chỉ của vua đã được ban, nhiều sắc phong đã được xét để làm phấn khởi ba quân. Quân sĩ nhà Lê ngày càng lớn mạnh, đánh đâu được đấy nên càng nức lòng nức chí. Nhiều quan tướng nhà Mạc cũng dẫn quân trốn vào Thanh Hóa quy theo, như Lê Bá Li, Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện... Vua Lê đều trọng thưởng. Thanh thế của Nam triều lên như diều gặp gió. Trong gần nửa thế kỉ cho đến khi nhà Lê chiếm lại được Thăng Long (1593), Vạn Lại là nơi diễn ra nhiều sự kiện. Tháng Giêng năm Mậu Thân (1548), vua Lê Trang Tông băng hà, được an táng tại chính đất này (đến nay vẫn còn bia và dấu vết mộ chí, gọi là Cảnh Lăng). Thái tử Huyên (tức Lê Trung Tông) làm lễ đăng quang cũng là ở đó, theo đúng lễ nghi thiên tử. Nơi đây cũng đã trở thành một trong ba địa điểm thi tuyển tiến sĩ trong lịch sử khoa cử nước ta: Thăng Long, Vạn Lại và Huế. Từ 1546 đến 1593, ở Vạn Lại đã tổ chức bảy khóa thi, chọn ra được nhiều hiền tài góp công với đất nước vào những năm cuối thế kỉ 16, đầu thế kỉ 17. Có thể kể đến các tiến sĩ Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Thực, Lê Trạc Tú, về sau đều làm đại quan của Lê triều... Tại Văn Miếu Hà Nội ngày nay có 82 bia tiến sĩ, trong đó có bảy bia ghi các tiến sĩ đỗ các khoa thi ở Vạn Lại. Bia tiến sĩ năm Canh Thìn (1580) có ghi: “Nay hoàng thượng ở nơi tôn vinh, giữ quyền chế tác, sửa sang chế độ, bồi dưỡng nhân tài. Dựng đá làm bia cho người đời sau lấy làm khuôn mẫu, khắc tên họ để cho thiên hạ để ý quan chiêm. Trên là để phát huy lòng trung nghĩa của người trước, dưới là để cảm kích kẻ hào kiệt đương thời, mà trong đó vẫn ngụ ý khen thưởng khuyến miễn”... Thế lực Nam triều ngày càng lớn mạnh, đến năm Quý Tị (1593) thì đánh đuổi được nhà Mạc ra khỏi Thăng Long. Vua tôi nhà Lê ca khúc khải hoàn trở về đất đế đô. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Lúc ấy vua từ hành tại Vạn Lại, tháng Ba thì khởi hành, qua thành Tây Đô, tiến thẳng theo đường Quảng Bình ra Thiên Quan, qua các huyện Mĩ Lương, Chương Đức đi một tháng đến huyện Thanh Oai thì đóng quân. Tiết chế Trịnh Tùng đem các quan văn võ đến Thanh Oai đón rước thánh giá, cử nhã nhạc cùng đi về kinh... Tháng Tư ngày 16, vua lên chính điện nhận lễ chầu mừng của trăm quan. Đại xá thiên hạ.” Sau 47 năm giữ vai trò là hành điện của vua Lê (1546-1593), Vạn Lại kết thúc sứ mệnh của một kinh đô thời loạn, nhưng đã giữ yên thế ổn định, vững vàng cho xã tắc. Ngày nay, dấu tích còn lại trên nền móng cung điện hoang phế là đôi voi đá và đôi ngựa đá. Voi dài 2,6 m, cao 1,4 m, ngựa dài 1,4 m, cao 0,95 m, được tạc theo phong cách tả thực bằng đá xanh nguyên khối trên thềm cung điện xưa, nơi các vua Lê từng thiết triều. Đây là hai cặp linh thú lớn nhất thời Lê Trung hưng còn lại với thời gian. Thế tổ Trịnh Kiểm au nhiều lần công thành thất bại, quân nhà Mạc tăng cường lực lượng, mở cuộc tấn công quyết định vào thành của quân nhà Lê. Bên giữ thành vẫn ra sức cố thủ, nhưng đến lúc này xem ra họ không còn chống đỡ được mấy nữa. Những lính Mạc đầu tiên leo lên mặt thành bị chém ngã gục, nhưng cũng đã có nhiều viên tì tướng dạn dày trận mạc lọt được vào thành. Ào ào, ào ào, hết lớp này đến lớp khác quân nhà Mạc tiếp tục xông tới. Với lực lượng áp đảo, họ lần lượt chọc thủng các ổ kháng cự của quân nhà Lê, dồn quân giữ thành vào giữa. Chủ tướng Nguyễn Kim cùng các tướng sĩ ra sức chống trả. Song vòng vây mỗi lúc một khép chặt. Đối phương đã nhận ra Nguyễn Kim nên càng tập trung quân vây chặt lấy ông. Khi đã bị đẩy lùi đến sát chân cột cờ, Nguyễn Kim bảo mấy tướng tâm phúc còn lại bên mình: Ai có thể giải cứu ta và mọi người ra khỏi vòng vây, ta sẽ gả con gái cho. Một viên tướng nhà Lê vẫn theo sát ông cho tới khi ấy, luôn có ý che chắn trước sau để bảo vệ chủ tướng, nghe vậy bỗng thúc ngựa xông ra. Mọi người trông theo thì là Trịnh Kiểm, một viên đô tướng đảm lược lại có tiếng giỏi về ngựa. Kiểm xông thẳng vào đám quân địch vừa ào tới khiến cho chúng hết sức bất ngờ, luôn tay chặt chém buộc chúng phải giạt ra, mở đường máu cho Nguyễn Kim và quân nhà rút chạy. Quân địch định thần đuổi theo thì Kiểm đã quay ngựa chắn trước mặt chúng, lia một đường kiếm đốn ngã luôn hai tên lính liền. Khiếp sợ trước uy phong của viên tướng nhà Lê, đối phương không dám đuổi nữa, để mặc họ chạy thoát... Nguyễn Kim y theo lời hứa, gả con gái là Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm để làm vợ lẽ, vì bấy giờ Kiểm đã có vợ. Song ông cũng không phải hối tiếc vì Trịnh Kiểm tỏ ra là một viên tướng có triển vọng lại rất đắc lực, giúp ông được nhiều việc, nhất là trong việc huấn luyện đội kị binh. Mặt khác, Trịnh Kiểm cũng tỏ ra yêu thương người vợ mới, con gái cưng của chủ tướng. Trịnh Kiểm sinh năm 1503, quê ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm mồ côi cha từ lúc 6 tuổi, sống cảnh nghèo khó với mẹ là bà Hoàng Thị Dốc ở quê ngoại bên thôn Hổ. Từ nhỏ, cậu đã tỏ ra lanh lợi, biết ứng xử, giỏi đối đáp và đặc biệt rất dũng cảm. Kiểm thường tụ tập trẻ chăn trâu chia phe đánh trận trong rừng. Phe của cậu luôn chiến thắng. Tuy ham chơi, nghịch ngợm, Kiểm rất có hiếu với mẹ, làm thuê gánh mướn không từ một việc gì để nuôi mẹ già. Một hôm đi làm về không thấy mẹ, cậu bổ đi tìm mới hay mẹ bị ngã xuống vực chết thảm. Khi ấy Kiểm mới 16 tuổi. Sau khi làm tang cho mẹ xong, cậu bỏ quê đi lưu lạc, vào chăn ngựa cho nhà giàu. Nhờ đó, Kiểm rất rành về ngựa, tích được nhiều kinh nghiệm chăm sóc, huấn luyện ngựa, nhất là ngựa chiến... Gặp buổi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi vua Lê, Nguyễn Kim phất cờ khởi nghĩa “phò Lê diệt Mạc”. Trịnh Kiểm đầu quân theo Nguyễn Kim, được cho làm gia tướng. Ông luôn theo sát bên chủ tướng, tham gia nhiều trận đánh, lập được nhiều chiến công. Có tài đảm lược, lại khôn khéo, ông được chủ tướng tin cậy, giao phó trọng trách. Từ khi lấy nàng Ngọc Bảo, Trịnh Kiểm càng trở thành người thân tín của bố vợ. Năm 1539, khi 36 tuổi, Trịnh Kiểm được giao đem binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông về Thanh Hóa. Do có công lớn, ông được phong làm Đại tướng quân; vua Lê thấy ông dung mạo tuấn tú lại phong cho tước Dực Quận công. Sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc (1545), toàn bộ binh quyền của nhà Lê về tay Trịnh Kiểm, khi ấy được phong tới chức Thái sư Lạng Quốc công. Lên nắm giữ ngôi vị của Nguyễn Kim trong khi hai người con của chủ tướng là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều là những viên tướng giỏi của triều đình, được phong đến tước công, đương nhiên Trịnh Kiểm rất lo ngại. Và ông đã giải quyết “mối lo” này bằng cách bày mưu giết chết Nguyễn Uông. Phải rất khôn khéo, Nguyễn Hoàng mới thoát khỏi bị anh rể giết nốt và về sau trở thành người đối đầu xứng tầm với Trịnh Kiểm. Năm 1546, Trịnh Kiểm lập hành điện của vua Lê ở Vạn Lại thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hoa (nay là xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Từ kinh đô tạm thời này, ông lấy danh nghĩa vua Lê tiếp tục chiêu mộ hào kiệt chống Mạc. Lực lượng phù Lê mạnh dần. Hai năm sau, Trang Tông mất (1548), Trịnh Kiểm lập con lớn của vua là Lê Duy Huyên lên nối ngôi, lấy hiệu là Trung Tông. Năm 1551, Trịnh Kiểm sai Lê Bá Li cùng các tướng chia đi các nơi đánh Bắc triều, hẹn cùng ông tụ hội ở Thăng Long. Trước khi xuất quân, ông viết một bức thư Nôm, kêu gọi mọi người hãy nhớ đến công ơn đức Thái Tổ Lê Lợi năm xưa đánh đuổi giặc Minh, giành độc lập cho đất nước, để đồng lòng tôn phù vua Lê, tiêu diệt kẻ soán ngôi. Chiếm được kinh thành, nhưng thấy lực lượng địch quân còn mạnh, ông cho rút quân về Tây Đô để tránh quân Mạc huy động viện binh đánh úp. Năm 1553, Trịnh Kiểm bành trướng lực lượng xuống phía Nam, giao cho Nguyễn Hoàng (con thứ của Nguyễn Kim) trấn giữ, nhằm tạo chỗ dựa vững chắc ở phía Nam cho mình. Đồng thời, ông cũng nhiều lần tấn công ra Bắc. Tổng cộng, Trịnh Kiểm đã sáu lần đánh ra Sơn Nam, thu hồi các huyện Yên Mô, Yên Khang, Gia Viễn (thuộc Ninh Bình, Nam Định), mở rộng phạm vi quản lí của Nam triều. Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất không có con nối. Trịnh Kiểm lúc đó binh quyền rất lớn, muốn thay nhà Lê làm vua, nhưng còn ngại nên sai người đi hỏi ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình bảo khéo rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản.” Trịnh Kiểm hiểu ý bèn tìm người trong dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Bang (cháu sáu đời của Lê Trừ, anh Lê Lợi) lập làm vua, tức Lê Anh Tông. Năm 1569, vua Lê Anh Tông gia phong cho Trịnh Kiểm làm Thượng tướng Thái Quốc công và tôn là Thượng phụ. Một năm sau ông qua đời. Mặc dù không xưng chúa, nhưng cũng như Nguyễn Kim với nhà chúa Nguyễn, Trịnh Kiểm được các chúa Trịnh về sau truy tôn là Thế Tổ Minh Khang Thái Vương, hiệu là Trung Huân. Trịnh Tùng - Tào Tháo của Việt Nam ỗi khi xuất phủ, chúa Trịnh thường cưỡi voi. Hôm ấy cũng vậy, chúa cưỡi voi đi xem xét việc xây dựng cung điện đang tiến hành. Xong việc trở về, Chúa bỗng thấy trong lòng không yên, liền cho voi ngựa và thị vệ đi trước, còn mình ngồi kiệu đi sau. Đến chỗ ngã ba, chợt có tiếng súng nổ, bắn gãy cây lọng trên lưng voi. Ngựa, voi và mọi người đều nhớn nhác. Qua phút hoảng loạn ban đầu, Chúa sai người truy tìm, thì bắt được Văn Đốc cùng đồ đảng. Đem về phủ tra hỏi, Đốc khai là nhà vua và Trịnh Xuân sai làm. Trịnh Xuân chính là con thứ của Chúa, được phong tước Vạn Quận công... Ngày 12 tháng Năm năm Kỷ Mùi (1619), Chúa ngự ra phủ đường, tập hợp bách quan. Chúa cho vời vua Kính Tông vào, khóc mà nói: “Thời kì họ Mạc, nhà vua đã không còn thiên hạ. Cha tôi thân khởi nghĩa binh, đón tiên đế từ trong hang núi trở về, sáng lập triều đình. Tôi tôn phò ba triều, thân trải trăm trận đánh, thu phục giang sơn, tổn phí bao tâm lực, tuổi đã 70. Nay nhà vua nghe đứa con phản nghịch, nhẫn tâm làm việc này.” Các triều thần văn võ ai cũng phẫn uất, nói: “Vua vô đạo thì phải phế.” Vậy là, vua Lê Kính Tông, khi đó mới 32 tuổi, buộc phải thắt cổ chết. Đó là những gì được viết trong Đại Việt sử kí toàn thư, và đó cũng là một nét chân dung khá điển hình của chúa Trịnh Tùng, người được ví là “Tào Tháo của Việt Nam”. Điều đáng chú ý là lời ví này không phải do người Việt đặt, mà bắt đầu từ một người nước ngoài – nhà Việt Nam học người Nga, tiến sĩ sử học Vladimir Ivanovitch Antoshchenko... ∗ ∗ ∗ Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, sinh năm 1550 ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Mẹ là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, con gái Nguyễn Kim. Do đó, Trịnh Tùng gọi Nguyễn Kim bằng ông ngoại, gọi Nguyễn Hoàng bằng cậu ruột. Ông được phong tước Phúc Lương hầu. Khi Trịnh Kiểm mất, vua Lê Anh Tông trao binh quyền cho Trịnh Cối, con vợ cả của Trịnh Kiểm. Tuy nhiên, Trịnh Cối ham mê tửu sắc, ngày càng càn rỡ kiêu ngạo, không thương gì đến quân lính, vì thế các tướng không phục, theo về với Phúc Lương hầu Trịnh Tùng. Được các quan quân tôn phò, Tùng đem quân đến yết kiến vua Lê. Trước mặt vua Lê, Phúc Lương hầu rập đầu khóc mà tâu rằng: - Anh thần là Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm muộn thế nào cũng sinh loạn. Thần phải nửa đêm đến cửa khuyết tố cáo, xin thánh thượng thu nạp cho. Rồi Trịnh Tùng mật tâu vua rời vào cửa Vạn Lại lập hành cung, chia quân canh giữ đề phòng Trịnh Cối. Hôm sau Trịnh Cối đốc các tướng đem quân đuổi theo đến Vạn Lại, đóng quân bao vây ở ngoài. Hai bên cầm cự nhau đến bảy ngày trời, Trịnh Cối thấy đánh mãi không phá được thành, tự lui quân về. Vua Mạc biết tin hai anh em họ Trịnh tranh nhau quyền vị nên tháng 8 năm 1570, sai Mạc Kính Điển đem quân đánh vào Thanh Hóa. Trịnh Cối liền đầu hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển chấp thuận, phong Cối làm Trung Lương hầu, rồi rút quân về. Quân Bắc triều rút rồi, Trịnh Tùng nắm binh quyền ở Nam triều. Thời gian đầu, quan hệ giữa vua Lê Anh Tông và Trịnh Tùng khá hòa thuận. Nhà vua vẫn can dự việc triều chính, kể cả việc quân. Mặc dù giao quyền hành cao nhất cho Trịnh Tùng, ban tước Trưởng Quận công nắm giữ binh quyền, nhà vua vẫn nhiều lần đích thân thống lĩnh đại quân cùng Trịnh Tùng ra Bắc đánh Mạc. Các tướng họ Lê như Lê Cập Đệ, một viên tướng giỏi của Trịnh Kiểm khi xưa vẫn tiếp tục “phục vụ” đắc lực cả hai họ. Nhưng rồi đến năm 1572, nội bộ Nam triều bắt đầu lục đục. Lê Cập Đệ mưu giết Trịnh Tùng để giành quyền lại cho vua Lê. Âm mưu bị bại lộ. Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết chết. Vua Lê Anh Tông biết tin sợ hãi, đang đêm phải đem bốn hoàng tử chạy vào thành Nghệ An. Trịnh Tùng cho người hạ sát vua Anh Tông, đón hoàng tử thứ năm là Lê Duy Đàm lập làm vua, tức là vua Lê Thế Tông. Tân vương phong Trịnh Tùng làm Đô tướng Tiết chế các xứ thủy bộ chủ dinh kiêm quản Bình chương Quân quốc Trọng sự. Từ đây, Trịnh Tùng nắm trọn quyền trong triều, ngoài trấn, vua không có chút thực quyền gì. Sau khi Thế Tông qua đời, Trịnh Tùng cùng với triều thần lập vua Lê Kính Tông lên ngôi. Mùa xuân năm 1593, sau khi chiếm được Thăng Long, Trịnh Tùng cho khôi phục lại kinh thành bị tàn phá, xây dựng cung điện, lập hành cung ở phía tây nam thành Thăng Long, công việc gấp rút ngày đêm, độ một tháng thì xong. Rồi Trịnh Tùng sai các đại thần và các quan văn võ sắm bày cờ xí, chỉnh đốn binh tượng để chuẩn bị đón thánh giá và thân đem các quan đến Thanh Oai đón rước, vua tôi cùng về kinh. Ngày 16 tháng 4 năm 1593, trong lời chiếu ban từ chính điện, vua Lê Kính Tông viết: “Việc dực phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn thì nhờ ở công đức của Minh khang Thái vương [Trịnh Kiểm] cùng Tổng quốc chính Thượng phụ Trịnh Tùng.” Đi đôi với lời khen “có cánh” đó là những tước vị vào hàng cao nhất: Vua phong Trịnh Tùng làm Đô Nguyên suý Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương. Từ đây, Trịnh Tùng bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị quy mô của vị chúa nắm thực quyền. Ông cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục phiên, tương đương với lục bộ của triều đình. Phủ chúa toàn quyền đặt các chức quan, thu thuế, bắt lính. Con chúa cũng được quyền thế tập, gọi là Thế tử. Vua Lê chỉ có mặt trong những dịp lễ lạt hoặc khi tiếp sứ Trung Quốc. Đó bắt đầu thời kì mà sử gọi là thời “Vua Lê chúa Trịnh”. Xét theo thế thứ, Trịnh Tùng là đời thứ hai của họ Trịnh kế tục việc “phù Lê”. Tuy nhiên, Trịnh Kiểm khi tại vị mới được phong tước công, còn tên thụy Thái Vương của chúa tiên khởi là do đời sau đặt. Phải từ Trịnh Tùng trở đi, họ Trịnh mới nhận tước vương khi còn tại vị, được gọi là chúa. Vì vậy, ông được xem là vị chúa Trịnh chính thức đầu tiên. Cầm quyền trong thời loạn với vị trí “dưới một người trên vạn người”, Trịnh Tùng luôn phải quyết đoán, hành động quyết liệt. Cũng chính điều này đôi khi đẩy ông vào vị trí của kẻ “tiếm quyền”. Thực tế, trước sự lộng quyền của chúa, vua Kính Tông đã cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân lập mưu giết ông. (Sự việc đã được thuật ở đầu câu chuyện.) ∗ ∗ ∗ Trịnh Tùng đưa thái tử Lê Duy Kì, con trưởng của Kính Tông lên ngôi, tức vua Lê Thần Tông. Còn con của Trịnh Tùng là Trịnh Xuân thì bị giam vào nội phủ, nhưng sau vài tháng lại được thả ra. Năm 1623, Bình An Vương Trịnh Tùng bị cảm, sai các quan bàn việc chọn thế tử. Triều thần đều tâu lấy thế tử Trịnh Tráng giữ binh quyền, còn con thứ là Trịnh Xuân giữ chức phó. Nghe tin, Trịnh Xuân lại nổi loạn, phóng hỏa đốt phủ chúa, lửa lan khắp kinh kì. Trịnh Tráng đem vua chạy ra ngoài thành, họp các quan văn võ ở chợ Nhân Mục huyện Thanh Trì bàn việc đối phó với Trịnh Xuân. Trịnh Tùng khi đó đã quá ốm yếu, nhưng một lần nữa ông lại chứng tỏ sự cứng rắn, quyết liệt của mình. Ông sai người dụ Trịnh Xuân đến Quán Bạc (nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội) để trao cho binh quyền. Khi Trịnh Xuân đến, Trịnh Tùng liền ra lệnh bắt giết đi! Ngày 20 tháng 6 năm 1623, Bình An Vương Trịnh Tùng qua đời, thọ 73 tuổi. Có thể nói, ông là một quyền thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam. Chịu trách nhiệm chính trước dòng họ và quốc gia, lại luôn phải đối phó với nhiều lực lượng, cho nên, để giữ vững ngôi vị, Trịnh Tùng buộc phải trở thành con người cứng rắn, quyết đoán, thậm chí đôi khi tàn nhẫn. Sử sách còn ghi lại, ngày 17 tháng 8 năm 1586, dinh Trường Yên bị hỏa hoạn, mẹ chúa bị chết cháy. Khi ấy Trịnh Tùng đang đi đánh trận, song ông vẫn tiếp tục lo việc quân, không về chịu tang tránh làm xao động lòng quân. Về sau, nhiều người cho là ông vô cảm, nhưng cũng không ít người coi đó là phẩm chất mà một vị tướng cần phải có. Là người sẵn sàng tiêu diệt những kẻ chống đối, Trịnh Tùng không hiếm khi thể hiện lòng nhân của người chiến thắng. Năm 1581, trong trận đại thắng quân Mạc ở Quảng Xương, ông ra lệnh: “Tù binh được cấp lương ăn cho về quê cũ.” Mọi người đều thầm cảm ơn lớn; từ đấy quân Mạc không dám nhòm ngó nữa, cư dân Thanh Hóa, Nghệ An được yên ổn làm ăn. Hay trong trận đánh tháng 12 năm 1589, ông “sai cởi trói cho 600 tù binh, vỗ về yên ủi cấp cho cơm áo rồi thả hết về quê quán”. Trong lịch sử các cuộc nội chiến ở nước ta, không phải bao giờ bên thắng cuộc cũng đối xử với quân địch bị bắt như vậy. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết về Bình An Vương Trịnh Tùng như sau: “Ông tính khoan hòa, yêu người, khéo vỗ về tướng sĩ, dùng binh như thần. Ông thực sự làm chúa, cầm quyền chính, công lao sự nghiệp danh vọng lừng lẫy...”. Không chỉ là người xác lập vị thế vững chắc cho cơ nghiệp hơn hai trăm năm của họ Trịnh ở Đàng Ngoài, ông còn xứng đáng được ghi nhận là đã “bày mưu đặt kế giữ yên xã tắc công lao tỏ sáng giữa trời”, như sách xưa từng viết. Không tiếm ngôi vua Lê, giữ ổn định thế “vua Lê chúa Trịnh” khiến trăm họ an tâm, triều đình, phủ liêu cùng lo việc nước, gương ấy của Trịnh Tùng đã truyền mãi về sau cho các đời chúa Trịnh noi theo. Có thể, so với Tào Tháo ông không bằng về “tài” khuynh đảo thiên hạ, về “mưu kế” gian hùng, song riêng về phẩm chất của người đứng mũi chịu sào trước quốc gia, dân tộc, ông đáng được người sau kính nể, hay ít nhất cũng phải nghĩ lại về những định kiến suốt một thời áp đặt cho ông cũng như nhiều chúa Trịnh về sau... Mạc Kính Điển - ông vua không ngai của triều Mạc úa xong bài kiếm, Khiêm Vương Mạc Kính Điển trở về thư phòng. Ông định nghỉ ngơi một lát rồi sẽ vào cung thăm vua anh đang ốm nặng, không biết sống chết thế nào. Chợt có viên tổng quản thái giám xin vào gặp. Người thái giám già truyền khẩu dụ của Thái hậu đòi Kính Điển vào cung gấp. Mạc Phúc Hải, vua thứ ba nhà Mạc và cũng là anh của Mạc Kính Điển, đang hấp hối. Khi Khiêm Vương đến bên long sàng thì đã thấy hoàng thái hậu, hoàng hậu và hoàng tử Phúc Nguyên. Ngoài ra còn có hai vị tướng tâm phúc là Nguyễn Kính và Lê Bá Li. Thấy Kính Điển, nhà vua ra hiệu ngồi xuống bên cạnh. Vua ứa nước mắt, nắm tay em nói: - Anh biết mình không qua khỏi nữa. Con anh còn nhỏ tuổi. Anh cậy nhờ em giúp nó mọi việc triều chính, để giữ vững giang sơn họ Mạc ta. Mạc Kính Điển khóc lóc xin vâng. Nhưng khi triều đình nghị bàn về việc lập vua mới, Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi đứng lên nói: - Hiện trong nước đương lúc nhiễu loạn, nên lập vua lớn tuổi. Hoằng Vương Chính Trung là con thứ của Thượng hoàng Mạc Đăng Dung, đã nhiều phen cầm quân và thường thắng trận. Vậy nên đưa lên nối ngôi. Mọi người xì xào bàn tán. Nguyễn Kính đứng dậy, nóng nảy nói: - Tiên đế mới băng, để lại ý chỉ truyền ngôi cho hoàng tử điện hạ, sao Tứ Dương hầu lại bàn ngang làm vậy! Phạm Tử Nghi hậm hực bỏ về, tụ họp quân bản bộ, lôi kéo một số triều thần bất mãn lập Chính Trung lên làm vua. Rồi đang đêm bí mật kéo đến bao vây kinh thành. Bị bất ngờ, triều đình phải đưa Mạc Phúc Nguyên qua sông lánh nạn. Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính khởi binh đánh Phạm Tử Nghi. Ban đầu bị thất thế, nhưng sau có Lê Bá Li kịp dẫn các đạo quân thủy bộ kéo về, đánh tan quân của Tử Nghi. Chính Trung và bộ sậu chỉ còn hơn một trăm người phải chạy sang Khâm Châu, Trung Quốc... Dẹp được loạn xong, Mạc Kính Điển trước hết lo ổn định triều chính, vỗ về an dân, khôi phục kinh thành. Không chỉ giúp vua thưởng phạt quan lại trong triều, ông còn bắt tay vào việc tổ chức các kì thi Hương, thi Hội để chọn người tài ra giúp việc triều đình. Nhưng việc trọng đại nhất vẫn là phải đối phó với quân Lê - Trịnh đang ngày càng lớn mạnh ở phía Nam... Về việc này, Mạc Kính Điển tỏ ra là một vị tướng mưu lược và can trường. Ông đã mười phen cầm quân đánh vào Thanh Hóa, căn cứ địa của quân Lê - Trịnh. Ông luôn đồng cam cộng khổ với quân lính, biết dùng người tài, đối xử phân minh nên trong quân ngũ ai cũng tin tưởng, nể trọng. Song cuộc đời làm tướng của ông cũng lắm gian truân. ∗ ∗ ∗ Hoàng tử Kính Điển khi mới sinh luôn ốm o, sài mòn. Trong cung đã thay nhiều nhũ mẫu mà vẫn không kết quả. Thái tể Lê Bá Li bèn sai vợ Phạm Quỳnh là một tôi tớ trong tướng phủ vào làm vú nuôi Kính Điển. Nhờ vậy Kính Điển lớn lên khỏe mạnh. Khi đã trở thành Khiêm Vương phụ chính triều đình, Mạc Kính Điển nhớ ơn cũ cho vời bố con Phạm Quỳnh, Phạm Dao vào triều ban cho chức tước. Hai cha con họ Phạm vốn là kẻ tiểu nhân, khi được quyền cao chức trọng, bắt đầu lên mặt, coi thường chủ cũ, ghen ghét với gia thế của Lê Bá Li. Chúng vu oan cho cha con Bá Li và tìm đến Khiêm Vương để tố cáo họ có ý làm phản. Tin vào lòng trung của vị lão tướng, Mạc Kính Điển gạt đi ngay. Không ngờ bố con họ Phạm bất chấp lời can ngăn của ông, ngay trong đêm đem quân vây bắt Lê Bá Li và thông gia là Thượng thư Nguyễn Thiến. Lê Bá Li và Nguyễn Thiến thoát được, đem quân bản bộ đánh tan quân của cha con họ Phạm. Quân tướng của Lê Bá Li bao vây kinh thành, đòi nhà vua giao Phạm Quỳnh, Phạm Dao thì sẽ lui quân. Nhưng Phúc Nguyên không chịu. Quá uất ức, lão tướng Lê Bá Li đem hơn một vạn quân kéo về Thanh Hóa, quy hàng Nam triều. Trịnh Kiểm đâu thể bỏ qua cơ hội. Ông lập tức chớp thời cơ, đem đại quân tiến ra Bắc và lần đầu tiên chiếm được Thăng Long. Quân Mạc tan tác, chỉ còn Mạc Kính Điển hộ giá chạy về Kim Thành (Hải Dương). Sau đó ông quay trở lại, tập hợp quân sĩ các vệ chiến đấu với quân Trịnh. Trịnh Kiểm thấy thế bất lợi phải lui binh về Thanh Hóa. Mạc Kính Điển đón vua về kinh thành, chỉnh đốn lại triều chính, mộ thêm quân lính, chủ động tiến hành nhiều cuộc hành quân đánh xuống Thanh Hóa, Nghệ An. Không phải lần nào cũng đánh thắng, nhưng ông đã chuyển nguy thành an, đẩy họ Trịnh vào thế bị động. Mạc Kính Điển thông thạo đánh thủy. Ông đã nhiều lần đưa thuyền chiến vượt qua cửa Thần Phù, đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An. Trận đánh năm 1557, Kính Điển ngồi trên thuyền soái, trực tiếp chỉ huy các chiến thuyền tiến đánh Tống Sơn, Nga Sơn. Khi đang thừa thắng đuổi theo quân Nam triều, đoàn thuyền của ông bất ngờ bị phục kích, quân Trịnh từ hai bên bờ sông nhất loạt phản công. Một viên tướng Trịnh nhìn thấy cờ soái, bèn nhảy sang chém chết người lính cầm lọng. Mạc Kính Điển chỉ kịp nhảy xuống sông. Ông ngụp lặn, lần mò vào được một hang núi. Suốt ba ngày đêm ông phải nhịn đói, uống nước sông mà sống. Một đêm, Kính Điển thấy cây chuối trôi qua cửa lạch, bèn ôm lấy tìm đường bơi về. Mấy hôm thì về được bến Trinh Nữ, hạt Yên Mô (Ninh Bình). Vừa bước lên bờ thì ngã lăn ra bất tỉnh. May được một người đánh cá ở đấy cứu thoát. Nhớ ơn người này, khi về kinh ông phong thưởng rất hậu. Tài năng của Mạc Kính Điển không thay đổi được tình thế. Vua Mạc Phúc Nguyên khi đã trưởng thành muốn tự mình chấp chính. Nhưng vì thiển cận và ưa nịnh, không chịu nghe lời can gián, nên các bậc trung thần ngày càng lảng tránh. Mạc Kính Điển thì luôn bị thúc đi đánh Lê - Trịnh. Mạc Phúc Nguyên làm vua được 18 năm thì mắc bệnh đậu mùa chết. Con trai là Mạc Mậu Hợp mới hai tuổi được đặt lên ngai. Gánh nặng giang sơn lại một lần nữa đè lên vai Mạc Kính Điển. Ông trao bớt việc cho em là Mạc Đôn Nhượng trông coi, để tập trung lo việc quân cơ. Dưới triều Mạc Mậu Hợp, Mạc Kính Điển nhiều lần tấn công vào Thanh Hóa, Nghệ An. Hầu như trận đánh nào vào Nghệ An cũng giành được thắng lợi. Mỗi khi quân Mạc kéo đến, người xứ Nghệ đều chịu hàng phục. Nhưng về sau Nguyễn Hoàng trấn thủ giữ vững Thuận Hóa, đánh trả, nhà Mạc phải bỏ Nghệ An, chỉ còn giữ được Bắc Hà. Bên phía Nam triều có Trịnh Tùng là một đối thủ xứng tầm nên vẫn giữ được thế cân bằng với nhà Mạc. Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất sau 34 năm phò giúp ba đời vua Mạc. Đôn Nhượng thay anh nắm quyền bính, nhưng để thua trận liên miên. Đúng 10 năm sau, Trịnh Tùng kéo đại quân ra Bắc đánh chiếm Thăng Long, tiêu diệt nhà Mạc. ∗ ∗ ∗ Nhà bác học Lê Quý Đôn thời Hậu Lê có để lại bộ Đại Việt thông sử, trong đó chép cả thời nhà Mạc. Theo quan điểm phong kiến chính thống, ông gọi nhà Mạc là “ngụy triều”. Nhưng là nhà khoa học, ông thật khách quan khi dành hẳn một mục về Mạc Kính Điển trong chương viết về thế thứ các vua Mạc. Thậm chí ông đặt Kính Điển tương đương các vua Mạc, với ghi chú là “Thân vương nhà Mạc, không xưng vua”. Lê Quý Đôn trân trọng viết: “Kính Điển là người nhân hậu, linh mẫn, dũng cảm có thừa.” Đại Việt sử kí toàn thư cũng ghi nhận: “Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm...” Thật khó có lời đánh giá tốt đẹp hơn đối với một “ông vua không ngai” của “ngụy triều”. Có một lão tướng Lê Bá Li trong lịch sử ê Bá Li nổi tiếng là người dũng tài, đã được phong tới tước Mai Xuyên bá dưới thời Lê Chiêu Tông. Mạc Đăng Dung bấy giờ cũng được phong tước Vũ Xuyên bá. Hai người mến mộ tài nhau, trở thành bạn tri âm tri kỉ. Lê Bá Li là một trong những người hậu thuẫn cho Mạc Đăng Dung lên ngôi vua thay thế nhà Lê. Bởi vậy, ông được Mạc Đăng Dung tiến phong lên tước hầu, lại gả em gái là công chúa Lương Thượng cho. Đồng thời được vua tin cậy giao giữ đạo quân vệ Kim Ngô. Đến đời vua thứ tư là Mạc Phúc Nguyên lên ngôi khi còn nhỏ tuổi. Người chú là Mạc Kính Điển được giao phụ chính. Tướng Phạm Tử Nghi không đồng tình, đưa con thứ của Mạc Đăng Dung là Mạc Chính Trung lên tranh ngôi. Quân của Tử Nghi bao vây kinh thành, Mạc Kính Điển phải đưa vua trẻ vượt sông Hồng đi lánh nạn. May sau được Lê Bá Li sai các con đem quân đến hỗ trợ, lại gửi hịch kêu gọi các đạo đem quân về cứu giá. Phạm Tử Nghi thua trận, phải đem Chính Trung trốn chạy sang Trung Quốc. Bấy giờ trong triều, ngoài Mạc Kính Điển thì không ai quyền uy, vinh hiển bằng gia đình lão tướng Lê Bá Li. Ông được thăng chức Thái tể, tước Phụng Quốc công, là vị trọng thần chuyên giữ binh quyền, ai nấy đều nể sợ. Con trai trưởng của ông là Lê Khắc Thận, tước Phổ Quận công, lấy trưởng công chúa Cẩm Hương con vua, lại giữ quyền Tiết chế lộ Sơn Nam Thượng. Con trai thứ Thuận Lương hầu quản đội Cấm binh trong triều. Con rể ông là tướng Nguyễn Quyện, con trai Thư Quận công Nguyễn Thiến, người đang giữ chức Đô ngự sử kiêm Thượng thư bộ Lại. Khỏi cần kể thêm những người con nuôi, con gái ông cũng là những gương mặt nổi tiếng của kinh thành Thăng Long khi ấy... Trong vụ bị gian thần Phạm Quỳnh, Phạm Dao vu khống và đưa quân đến bắt (ngày 12 tháng Hai năm Đinh Hợi), lão tướng Lê Bá Li đã nhanh chóng tập hợp quân dưới trướng và người nhà, đồng thời cấp báo các con về cứu viện. Không lâu sau, các con trai, con nuôi và con rể ông dẫn quân đến giao chiến. Quân của cha con Quỳnh, Dao thua trận, phải chạy trở về đóng cửa thành. Lê Bá Li cùng thuộc hạ đem quân đến chiếm giữ cửa Chu Tước. Kinh thành cực kì náo loạn. Mạc Phúc Nguyên hoảng sợ trốn qua sông đến đóng ở Bồ Đề. Một mặt cấp báo với Kính Điển, một mặt sai sứ thần mang thư đến dụ Lê Bá Li bãi binh. Lê Bá Li đòi bắt cha con Quỳnh, Dao mang đến nộp thì mới bãi binh. Mạc Phúc Nguyên triệu tập các tướng từ Sơn Tây hợp quân về đánh Lê Bá Li, nhưng bị Bá Li đánh bại. Ông tiến quân đến Cầu Hà, đối mặt với nhà vua bên kia sông, sụp xuống vái vọng và cất lời thống thiết: - Cha con hạ thần thực không dám mưu tính sự gì, chẳng qua vì kẻ gian thần bức bách, vu cho hạ thần là phản nghịch. Chúng định hãm hại, cho nên hạ thần phải dùng binh tự vệ. Xin bệ hạ bắt cha con Quỳnh, Dao, giải đến để úy lạo ba quân thì hạ thần xin bãi binh ngay. Mạc Phúc Nguyên tảng lờ không nghe, quay phắt đi, võng lọng bầy đoàn tiến về phía đông. Lê Bá Li nổi giận, mắng nhiếc vua là hôn quân, ngu tối. Lão tướng không đuổi theo mà thu quân về kinh thành. Ông tập hợp con cái và các tướng lại, giãi bày tâm sự: - Ta có chút tài mọn, đã dựng nên bốn đời vua nhà Mạc, hao phí biết bao tâm lực. Nay gặp hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe lời kẻ gièm pha, khiến cho bao nhiêu nghĩa biển tình non đều thành băng tan, ngói trút! Ta nghe vua Lê lên ngôi ở Thanh Hóa, có Thái sư họ Trịnh là một vị anh hùng tài lược, chuyên ý phò tá, ra quân có danh, bốn phương quy phụ. Đó thực là vị chúa trung hưng vậy. Thế rồi ông ngỏ ý đem quân về với nhà Lê, các tướng đều nghe theo. Tháng 3 năm ấy, cha con Lê Bá Li đem một vạn bốn nghìn quân cùng cha con Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện kéo về Vạn Lại, nơi đặt hành dinh của Nam triều, xin quy hàng. Vua Lê và Trịnh Kiểm thấy vị lão tướng 77 tuổi, râu tóc bạc phơ vẫn còn quắc thước thì cả mừng, đón tiếp vô cùng trọng hậu. Các tướng đi theo đều được ban chức tước như cũ. Nắm bắt cơ hội, Trịnh Kiểm phát động cuộc Bắc tiến. Lão tướng Lê Bá Li và các tướng dưới quyền được cử làm tiên phong chia ba ngả đánh vào Thăng Long. Lê Bá Li lại viết tờ văn bằng chữ Nôm, kể tội Mạc Phúc Nguyên và bọn gian thần gửi đi các lộ, làm nao núng quân tướng nhà Mạc. Mạc Phúc Nguyên hoảng sợ chạy đi Kim Thành (Hải Dương) để mặc Mạc Kính Điển cầm quân chống cự. Kinh thành bỏ trống, lần đầu tiên quân Lê Trịnh chiếm được Thăng Long. Tuy nhiên lực lượng Mạc Kính Điển còn mạnh, Trịnh Kiểm chưa dám mời vua Lê ra Thăng Long mà rút quân trở lại Thanh Hóa. Cuộc chiến Nam - Bắc triều kéo dài mấy chục năm không phân thắng bại, đến đây đã có bước chuyển biến mới. Có điều, người làm nghiêng lệch cục diện đôi bên không phải là một “nhân tố mới” nào, mà chính là Lê Bá Li, một lão tướng 77 tuổi mà có thể còn ít được biết đến trong lịch sử. Kết cục của một ông vua ham mê tửu sắc và sự sụp đổ của Mạc triều ách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn có ghi: “Mùng 1 tháng Tám năm Mậu Thìn (1592) có sao sa xuống, sắc đỏ, dài chừng 5 trượng, lóe sáng như tia chớp, chiếu sáng rực vào nóc nhà, rơi xuống đất có tiếng ầm như tiếng sấm.” Theo quan niệm của người xưa, đó là triệu bất tường, sẽ có binh biến xảy ra. Xem ra, điều đó đã ứng vào nhà Mạc. Bấy giờ, vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp đã lập chính phi, lại tuyển không thiếu phi tần, mĩ nữ. Song Mậu Hợp vẫn say mê em gái của chính phi là nàng Nguyễn Thị Niên xinh đẹp. Mà nàng là gái có chồng: Sơn Quận công Bùi Văn Khuê, khi ấy đang trấn thủ đạo quân phía Nam, thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân của nhà Mạc. Mạc Mậu Hợp tính kế giết họ Bùi đi để chiếm đoạt vợ ông. Bùi Văn Khuê biết được, vội đem quân sang hàng Trịnh Tùng. Thế là thủy quân, chỗ mạnh nhất của binh lực nhà Mạc đã về tay quân Trịnh. Được cơ hội “trời cho”, tháng 12 năm ấy, quân Trịnh huy động lực lượng thủy, bộ, với đạo quân của Văn Khuê làm tiên phong, mở cuộc tổng tấn công chiếm Thăng Long. Mạc Mậu Hợp khiếp hãi, phải vội nhường ngôi cho con là Toàn rồi tìm đường chạy trốn. Quân Mạc khắp các đạo tan vỡ, kinh thành bị tàn phá, quân lính bị giết, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể, hơn mười viên tướng ra hàng. Trịnh Tùng vào Thăng Long, nghe có người bẩm báo Mạc Mậu Hợp giả làm sư lẩn trốn tại chùa Mô Khuê, hạt Phượng Nhãn (nay thuộc huyện Lạng Giang, Bắc Giang). Trịnh Tùng liền sai quân đi bắt. Đến nơi, dân địa phương mách: “Hôm nọ thấy có người giả làm sư ông đến ẩn ở chùa này đã được 11 ngày.” Quân Trịnh xông vào lục soát, quả nhiên thấy một người đang ngồi xếp bằng hoa sen tụng kinh. Hỏi thì “vị sư” đáp loanh quanh: - Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ ở am mây này, chén muối đĩa rau, hằng ngày trai dưỡng; thắp hương thờ Phật, công đức chuyên làm. Nghe giọng điệu và hình dạng, biết đích xác là người quyền quý giả sư, quân Trịnh hô nhau bắt. Biết không thể chối được, Mạc Mậu Hợp đành thú nhận: - Mấy ngày trước phải chạy trốn trong rừng, lẩn lút, đói khát, dám xin một bình rượu uống cho đã. Đến nước này mà còn thèm khát rượu! Quân lính đem rượu đến, nhà sư giả nốc lấy nốc để. Mạc Mậu Hợp bị bắt về Thăng Long, cùng bị áp giải theo còn có hai kĩ nữ! Trịnh Tùng sai treo sống Mậu Hợp ba ngày trước cổng thành, rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề. Sau sai người mang thủ cấp đến dâng vua Lê tại hành dinh Vạn Lại, Thanh Hóa. ∗ ∗ ∗ Mậu Hợp là vị vua thứ năm của triều Mạc, lên ngôi năm 1560, khi mới hai tuổi. Việc triều chính và đánh dẹp đều do chú là Mạc Kính Điển điều hành. Mạc Kính Điển là một tướng tài, nhiều lần đánh thắng quân Lê - Trịnh. Ông lại là người khoan dung, chính trực nên được các quan trong triều nể phục. Mạc Kính Điển chết đi giao lại quyền phụ chính cho người em là Mạc Đôn Nhượng. Mạc Đôn Nhượng bất tài, cầm quân luôn thua, quyền hành trong tay nhưng bị bọn gian thần lũng đoạn. Năm 16 tuổi, Mậu Hợp ngồi trong cung điện bị sét đánh trúng, không chết nhưng mắc chứng bán thân bất toại. Sau may chữa khỏi, nhưng lại càng ăn chơi trác táng. Năm 20 tuổi mắt bị thong manh, chữa mấy năm liền mới đỡ. Vua bắt đầu tự nắm quyền, nhưng chỉ dựa vào bọn a dua xiểm nịnh. Mạc Mậu Hợp cho dựng một ngôi điện lớn gọi là “điện giảng học”, thực ra là để làm nơi yến tiệc, chơi bời. Triều thần có nhiều người cương trực tìm cách khuyên can, như khi tòa điện bị cháy, có người dâng sớ nói thẳng: “Nay bệ hạ mới ngự ngôi điện vừa dựng, đáng lẽ là lúc bắt đầu ban bố chính sự và giáo hóa, thế mà lại tới đây để thỏa vui yến tiệc, không có đề phòng, đến nỗi ngôi điện bị cháy... Ý trời răn bảo đã rõ ràng như vậy, chính là lúc bệ hạ nên lo sợ, chăm chỉ.” Mậu Hợp khen là thích đáng, phán sẽ “suy nghĩ”, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Cứ như vậy, dần dần các vị tướng giỏi, các công thần đều xa lánh, thờ ơ hoặc xin về ở ẩn. Tiêu biểu là Thái bảo Giáp Trưng, vị lão thần đầu triều cũng cảm thấy bất lực, không sao xoay xở được tình thế, nên năm ba bận xin về trí sĩ. Cuối cùng, sau 30 năm ở ngôi (1562 - 1592), Mạc Mậu Hợp phải chịu chết thảm, không những thế còn để lại di họa cho cả vương triều. Con là Mạc Toàn được dựng vội lên cũng bị bắt và chém đầu. Nhà Mạc trải 65 năm đến đây bị đánh bật vĩnh viễn ra khỏi kinh thành. Con cháu còn sống sót chạy giạt lên miền núi chiếm lĩnh một rẻo đất Cao Bằng kéo dài được thêm bốn đời nữa. Nhưng thực chất không còn đóng vai trò gì trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Nhà Mạc với sách lược ngoại giao “nhẫn nhục” hi soán ngôi vua Lê, Mạc Đăng Dung đã lo rồi sẽ bị nhà Minh ở phương Bắc làm khó dễ. Quả nhiên, không ngoài dự liệu. Nguyễn Kim tìm được người dòng dõi nhà Lê dựng lên làm vua, lập tức cho người theo đường biển lên phương Bắc tố cáo họ Mạc cướp ngôi, nhờ nhà Minh đem quân sang hỏi tội. Được tin, Mạc Đăng Dung liền cử Phạm Chính Nghị mang thư sang Vân Nam biện bạch. Trong thư giải thích rõ con cháu nhà Lê đã không còn, Mạc Đăng Dung là người có công phò tá nhà Lê, nay tạm thay quyền; còn Lê Ninh là người không rõ lai lịch, được Nguyễn Kim đưa lên làm vua chỉ là giả trá. Kèm theo bức thư, Mạc Đăng Dung dùng rất nhiều vàng bạc đút lót, mua chuộc bọn quan lại Vân Nam để chúng tâu lên triều đình có lợi cho mình. Chuyện tạm yên được chục năm, cho phép nhà Mạc có điều kiện ổn định đất nước. Song vua Thế Tông nhà Minh vẫn không từ bỏ dã tâm lấy đấy làm cớ, đem quân xâm chiếm nước ta. Sở dĩ ông còn chưa động binh vì có rất nhiều quan lại dâng sớ can ngăn. Quan thị lang bộ Hộ nêu bảy điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi, kể từ thời Mã Viện đến đời Minh Thái Tông. Thị lang Phan Trần thì phân giải: “Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy. Nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được.” Sở dĩ có tâm lí này vì dư âm cuộc chiến thắng quân Minh của Lê Lợi thuở nào vẫn còn ám ảnh ở phương Bắc. Nhưng mộng xâm lăng cũng đâu dễ từ bỏ. Năm 1541, vua Minh cử Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ lo việc tiến đánh nước ta. Các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây phải lập tức cung ứng lương thảo cho quân đội... Để kiếm cớ xâm lược, tướng Trương Nhạc trấn giữ Châu Liêm truyền yêu sách đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân tới cửa quan, nộp đất dựng mốc, từ bỏ đế hiệu, chịu tiến cống và tuân theo lịch “chính sóc” của Trung Hoa. Bấy giờ Mạc Đăng Dung đã có tuổi, con là Đăng Doanh lên ngôi vừa mới mất, cháu là Phúc Hải hơn một tuổi được đặt lên ngai. Nếu chiến tranh nổ ra, nguy cơ thất bại là chắc chắn. Mạc Đăng Dung biết được rằng nhiều quan lại nhà Minh và ngay cả Mao Bá Ôn được lệnh đem quân đi đánh, nhưng vẫn có thái độ chùng chình. Cân nhắc kĩ từng yêu sách của chúng đưa ra, ông quyết định trước mắt phải chịu nhịn nhục đã. Mạc Đăng Dung cùng một số cận thần lên đường đến trấn Nam Quan để “hội khám” với sứ Tàu. Lúc này ông đã trạc lục tuần, gánh nặng quốc gia càng khiến ông trông già sọm. Ông lựa theo yêu cầu của chúng, không xưng đế nữa, nghĩ bụng cốt sao mình vẫn làm chủ đất nước và dân mình thì được yên. Chúng đòi trả mấy động mà Nùng Chí Cao đã chiếm của nhà Tống từ thời nhà Lí, ông thấy cũng chấp nhận được, miễn là chúng không đòi hỏi thêm đất đai của ta. Chuyện cống nạp thì trước nay vẫn vậy. Còn việc dùng lịch Tàu, các triều đại trước có thời cũng từng theo ngày Sóc, ngày Vọng do họ tính toán, nay cứ tạm coi như mượn dùng lại vậy. Mạc Đăng Dung tự nhủ thầm sau mỗi điều khoản sứ giặc đưa ra... Đạt được các yêu sách, Mao Bá Ôn yên tâm dâng sớ lên triều đình, lại vẽ vời thêm những cái lợi để rút quân về. Vậy là cuộc chiến tranh tàn khốc đã không xảy ra. Mạc Đăng Dung trở về Dương Kinh (cung điện của ông ở quê hương Cổ Trai, Hải Dương), trút được một phần mối lo nhưng lòng vô cùng phiền muộn. Có ai làm vua mà phải tự hạ mình trước ngoại bang như ông không? Liệu có đúng ông chịu nhẫn nhục cho sự yên dân, yên nước, hay chẳng qua là để được yên mình? Liệu cái giá phải trả có là quá đắt? Sự tủi nhục ngày đêm gậm nhấm khiến cho cơ thể vốn cường tráng của một đô lực sĩ như ông khó mà chịu hơn được. Sức khỏe của Đăng Dung suy sụp nhanh chóng, và ngay khi Mao Bá Ôn về đến Bắc Kinh thì cũng là lúc ông trút hơi thở cuối cùng. Mạc Đăng Dung chết, nhưng lệ “hội khám” vẫn không bỏ. Năm sau, Mạc Kính Điển và Lê Bá Li lại phải đưa Mạc Phúc Hải lên Nam Quan để “ra mắt” sứ Tàu. Phúc Hải được cho tập tước của ông nội (An Nam Đô thống sứ ti) để “cai quản” nước Nam!?... Việc bang giao với nhà Minh, có thể nói, luôn là những thách thức căng thẳng với các vua Mạc. Chẳng hạn mấy đời vua Mạc liền, Trạng nguyên Giáp Hải đã phải năm lần lên quan ải để giao tiếp với sứ Tàu. Nhờ sự khéo léo và tài tranh biện, Trạng đã giải tỏa được những khó khăn, lắt léo trong quan hệ với Bắc phương. Đặc biệt phải kể đến chuyến đi sứ của Lê Quang Bí, một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử ngoại giao Đại Việt, đồng thời cũng cho thấy sự cam go trong quan hệ đối ngoại với nhà Minh dưới thời nhà Mạc. Năm Mậu Thân (1548) đời Mạc Phúc Nguyên (tương đương với niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh), sứ thần Lê Quang Bí được giao đem cống vật sang triều cống theo lệ hằng năm. Ông theo đường Quảng Tây đến Nam Ninh thì bị giữ lại vì bị nghi ngờ là giả mạo, phải chờ tra xét. Nhà Minh gửi công văn đòi nhà Mạc thẩm tra, nhưng mãi không thấy hồi âm. Bởi vì bấy giờ ở trong nước, Mạc Phúc Nguyên đang gặp nhiều khó khăn do mất mùa và chiến tranh liên miên với Nam triều nên nhiều việc để bê trễ. Thế là Quang Bí cứ phải ăn dầm nằm dề ở quán dịch Nam Kinh, đi không được, về không xong. Cho mãi đến 15 năm sau, viên quan đến trấn nhậm Lưỡng Quảng biết chuyện, mới cho ông đi theo về Bắc Kinh thông báo với bộ Lễ. Đến lúc đó, vua Mạc mới gửi thêm cho ông 25 lạng bạc để úy lạo. Nhưng không hiểu vì sao, một lần nữa Lê Quang Bí lại phải chờ đợi ở sứ quán thêm ba năm ròng rã. Khi ông đi sứ là vào năm Gia Tĩnh đời vua Thế Tông nhà Minh, lúc này đã sang năm Long Khánh đời vua Mục Tông mà ông vẫn long đong nơi đất Bắc... Thường các sứ thần ta, tuy rất giỏi chữ Nho nhưng lại ít giao tiếp. Vì thế thông thường khi đàm đạo với người Hán phải dùng cách bút đàm, nếu không có người phiên dịch. Nhưng Lê Quang Bí sau mười mấy năm ở bên ấy đã nói làu thông tiếng Bắc Kinh. Ông có dịp làm quen, giao du với nhiều danh sĩ Trung Hoa. Vị đại học sĩ Lí Xuân Phương rất kính trọng sự hiểu biết và nhất là lòng trung trinh của ông với vua nước Việt. Lí Xuân Phương đã tâu sự việc lên vua Minh để sứ An Nam được vào dâng cống phẩm. Vua Minh ngay giữa triều đã khen ngợi ông là người tiết tháo và ban thưởng rất hậu, sau đó cho trở về nước. Người Minh còn ví Quang Bí với Tô Vũ thời nhà Hán, đi sứ Hung Nô phải chăn dê 19 năm mới được về. Chuyến về của Lê Quang Bí cũng lắm sự li kì. Vua Mạc phải cử Thái bảo Thượng thư Giáp Hải lên tận Lạng Sơn đón sứ về. Lúc đi là đời vua Phúc Nguyên, lúc về đã sang đời vua Mạc Mậu Hợp. Lê Quý Đôn về sau có viết lời cảm khái về ông: “Lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ phơ”! Khi Lê Quang Bí trở về Thăng Long ra mắt nhà vua, ông được ban thưởng và phong tước Tô Quận công, do chuyện đi sứ của ông cũng chẳng khác gì chuyện Tô Vũ mục dương nước Tàu khi xưa... Nhà Mạc và Thành Nhà Mạc ăm 1592 nhà Mạc bị đánh bại ở Thăng Long. Vua Mạc Mậu Hợp bị giết chết, tôn thất và quan lại chạy giạt khắp nơi. Mạc Kính Chỉ, con cả của Khiêm Vương Mạc Kính Điển chiếm cứ vùng Đông Triều, xưng vua được một thời gian thì bị Trịnh Tùng tiêu diệt. Danh tướng Mạc Ngọc Liễn, tước Đà Quốc công tìm gọi các chi phái họ Mạc còn lại về tụ họp ở châu Văn Lạn, Lạng Sơn để thống nhất lực lượng, tìm kế sách khôi phục nhà Mạc. Mọi người đồng thuận chọn Mạc Kính Cung là con thứ của Mạc Kính Điển lên làm vua. Đồng thời, theo lời khuyên của Trạng Trình, chọn đất Cao Bằng làm nơi đóng đô. Tháng Ba năm Quý Tị (1593) tại Nà Lữ, Cao Bình, đã diễn ra lễ đăng quang của vua Mạc Kính Cung, đặt niên hiệu là Càn Thống năm thứ nhất. Nhân dân vẫn còn tôn quý nhà Mạc nên kéo đến dự rất đông, cùng tung hô vạn tuế. Mạc Ngọc Liễn được phong Thái phó nắm việc quân cơ. Ông chủ động đem quân đi đánh quân Lê Trịnh ở vùng Vạn Ninh (Quảng Ninh) để mở rộng địa bàn. Nhưng giữa chừng thì Ngọc Liễn bị ốm nặng. Trước khi mất, ông gửi cho Mạc Kính Cung một bức di thư, căn dặn mấy điều đại ý như sau: “Nay nhà Lê dấy lên được, nhà Mạc ta thất thế, nhân dân nào có tội tình gì đâu. Nếu ta tránh được can qua thì nên tránh để dân đỡ khổ. Nay lực lượng ta đã hao mòn, nên ẩn nhẫn nuôi dưỡng sức để chờ đợi thời cơ. Nhưng dứt khoát không được rước giặc Minh về để gây ra hậu họa làm cho mất nước, dân chúng lầm than.” Các nhà viết sử đời sau, kể cả thời Lê Trung hưng vốn coi nhà Mạc là “ngụy triều” cũng phải khen ngợi tấm lòng yêu nước thương nòi của một vị tướng nhà Mạc dù đang lúc thất thế. Nhà Mạc xúc tiến tu sửa thành Nà Lữ để làm vương phủ đóng đô ở Cao Bình, đồng thời lập các đồn ngoại vi là đại đồn Mục Mã, đại đồn Khau Cút, đại đồn Háng Quang để chặn đường quân Lê Trịnh từ Lạng Sơn đánh lên, từ Nà Rị, Bạch Thông hay từ Bảo Lạc đánh xuống. Thành Mục Mã (nay là pháo đài thành phố Cao Bằng) có núi đất cao, là thế đất rất hiểm yếu, thành đắp bằng đất, bên ngoài có hàng rào bằng gỗ kết lại. Nhờ có địa hình bốn bề núi non hiểm trở, nhà Mạc thu phục được nhân tâm các dân tộc miền núi. Cao Bằng trở thành chốn đô hội sầm uất. Mặc dù chỉ chiếm một cương vực nhỏ bé, các vua Mạc vẫn cho tổ chức các khoa thi Hội tại Cao Bình vào các năm Sửu, Mùi, Tuất, Thìn, tất cả là 12 khoa thi. Ngay năm 1595 đã mở khoa thi đầu tiên lấy Nông Văn Noọng người châu Thượng Lang đỗ tiến sĩ. Khoa thứ hai (1598) lấy Bế Văn Phụng người châu Thạch Lâm đỗ tiến sĩ. Đặc biệt tại khoa thi thứ tám, người đỗ đầu tiến sĩ là cô gái giả trai Nguyễn Thị Duệ. Và đó cũng là nữ tiến sĩ duy nhất thời phong kiến nước ta! Chính sách giáo dục và chế độ khoa cử của nhà Mạc ở Cao Bằng cởi mở hơn so với sự bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc đã mở trường quốc học ở Bản Thảnh, đào tạo được một tầng lớp trí thức bản địa, góp phần xây dựng chữ Nôm Tày-Nùng. Nhờ có sự kết hợp giữa văn hóa miền xuôi với miền ngược nên Cao Bằng đã phát triển nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú, như hát then, hát lượn, hát sli cũng như các sáng tác văn học bằng chữ Nôm, thơ ca phong slư bằng tiếng Tày... Việc sản xuất cũng được đẩy mạnh, nhiều năm được mùa nên lương thực tương đối dồi dào. Chợ búa được mở mang, việc buôn bán giao thương với Trung Quốc tấp nập. Có thể nói nhà Mạc đã có công biến miền đất hẻo lánh Cao Bằng thành một nơi trù phú, văn minh nhất vùng biên giới nước ta. Sau Mạc Kính Cung, nhà Mạc còn truyền thêm được các đời vua là Mạc Kính Khoa và Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng. Tuy nhiên, cuộc chiến với quân Lê Trịnh vẫn còn tiếp diễn. Chúa Trịnh nhiều lần đem quân lên đánh Cao Bằng, nhưng do địa hình hiểm trở, tiếp tế khó khăn, nên phần nhiều phải rút quân về. Năm 1623, Trịnh Tráng đốc binh đánh Cao Bằng, dùng hỏa công đánh bại quân Mạc, bắt được Kính Cung đem về giết tại kinh đô Thăng Long. Nhân khi triều đình Lê Trịnh có biến, quân Mạc đã có lần chiếm lại Thăng Long, có lần đem quân đóng ở Gia Lâm, nhưng sau đó đều bị quân Trịnh đánh bại. Lần khác, do Trịnh Tráng bận đánh nhau với chúa Nguyễn ở Thuận Hóa, Mạc Kính Vũ cũng đem quân xuống chiếm Bắc Kạn, Thái Nguyên. Ngược lại, sau khi tạm ổn ở mặt trận phía Nam, chúa Trịnh cũng liên tiếp ba lần đem quân lên đánh Cao Bằng. Từ khi nhà Thanh thay thế nhà Minh (1644) trị vì Trung Quốc, nhà Mạc mất đi sự “bảo trợ” từ nước ngoài nên khó mà giữ được vùng lãnh thổ của mình. Cuối cùng, năm 1677, chúa Trịnh sai tướng Đinh Văn Tả đem quân đánh úp, Mạc Kính Vũ bị bất ngờ phải thua chạy sang Trung Quốc. Từ bấy giờ nhà Mạc mới thực sự chấm dứt hẳn. Tính từ khi Mạc Mậu Hợp bị quân Trịnh giết chết (1592) đến khi ấy, tổng cộng đã kéo dài thêm 85 năm! Hiện nay ở Cao Bằng cũng như một số nơi như Lạng Sơn, Tuyên Quang vẫn còn lưu các dấu tích lịch sử gọi là Thành Nhà Mạc. Những ông trạng, ông nghè thời Mạc ạc Đăng Dung xuất thân con nhà võ, thi đỗ Đô lực sĩ (Trạng võ). Là hậu duệ nhiều đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, ông cũng rất coi trọng việc học hành, thi cử, tuyển chọn nhân tài. Chỉ ba năm sau khi lên làm vua, ông đã tổ chức thi đại khoa theo lệ ba năm một lần của triều Lê. Khi làm Thượng hoàng, ông cho sửa sang lại Quốc tử giám đã bị chiến tranh tàn phá, và đích thân đến nhà Thái học làm lễ tế Khổng Tử. Nhà Mạc chính thức tồn tại 65 năm, đóng đô ở Thăng Long. Trong thời gian đó, họ đã tổ chức được 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên. Năm 1592, khi quân Lê Trịnh đánh đến kinh thành Thăng Long, nhà Mạc vẫn tổ chức khoa thi bên kia sông Hồng. Đến khi phải chạy giạt lên chiếm cứ một rẻo đất Cao Bằng, các vua Mạc vẫn tiếp tục tổ chức thi cử. Chính nhờ vậy, nhà Mạc đã có được nhiều ông trạng, ông nghè ra làm việc triều đình, giúp việc nước, nhiều người đã để lại dấu ấn trong lịch sử. Nguyễn Thiến sinh năm 1495, đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1532) đời Mạc Đăng Doanh, khi 37 tuổi. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại, đứng đầu Ngự sử đài phụ trách giám sát quan lại và can gián vua. Về tước vị, ông được thăng Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, Thư Quận công. Chỉ vì trong triều có kẻ vu oan giá họa, ông phải cùng thông gia là Lê Bá Li đem quân về hàng quân Trịnh. Nguyễn Thiến được Trịnh Kiểm cho giữ chức tước cũ, và trong tám năm trước khi mất ông được giao tuyển chọn quan lại của nhà Lê ở Thanh Hóa. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 trong một gia đình trâm anh thế phiệt, ông ngoại là quan Thượng thư, mẹ là người có tiếng tài hoa. Ông lại được thầy là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng dạy dỗ. Sau một thời gian dài không đi thi do chán cho thời cuộc, khoa thi năm Ất Mùi (1535), Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng thí và đỗ ngay Trạng nguyên. Khi ấy ông đã 44 tuổi và mới bắt đầu ra thi thố với đời. Về sự nghiệp bao trùm thời đại của ông, có một bài riêng mang tên: Trạng Trình với bàn cờ thế sự. Một ông trạng cũng rất nổi tiếng là Giáp Hải. Ông trạng này có rất nhiều giai thoại bí ẩn về xuất xứ của mình. Người ta đồn rằng hồi nhỏ ông bị bắt cóc lên mạn ngược. Về sau, khi ông đã đỗ trạng, mẹ con ông mới nhận ra nhau qua nốt ruồi đỏ trên lưng trạng. Do quê ở làng Dĩnh Kế, Bắc Giang, nên ông được dân gian gọi là Trạng Kế. Giáp Hải thông minh từ nhỏ, lại rất chăm chỉ dùi mài kinh sử. Tương truyền hồi nhỏ Trạng thường tới chân núi Kế ngồi dưới lùm cây, đặt chân lên một phiến đá đọc sách. Hòn đá chỗ cậu bé ngồi học còn in dấu hình bàn chân. Buổi tối cậu thường rang một túi hạt tiêu, khi nào buồn ngủ thì lấy ra nhấm nháp cho cay để tỉnh ngủ. Khi đã học “hết chữ” của các ông đồ trong vùng, cậu được cha cho lên kinh học. Khoa thi Mậu Tuất (1538) đời vua Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải thi đỗ Trạng nguyên. Năm ấy ông 31 tuổi. Hai năm sau, Mạc Đăng Doanh đột ngột qua đời, con là Mạc Phúc Hải lên thay. Vì phải kiêng húy tên vua nên Giáp Hải mới đổi là Giáp Trưng. Làm quan trong triều, Trạng nhiều lần dâng sớ nêu kế sách an dân, chấn chỉnh triều chính. Một lần, nhân có sao chổi (người xưa cho là điềm chẳng lành), Giáp Hải dâng sớ tâu “sáu điều đáng sợ”, trong đó nói thẳng những người bên cạnh vua đều là phường nịnh hót, dỗ dành nhà vua ăn chơi. Các quan bảy tám phần là người hám lợi, vơ vét chiếm đoạt ruộng đất của dân. Các tướng lĩnh thì năm bè bảy mối, đố kị lẫn nhau. Rồi Giáp Hải thẳng thắn khuyên vua: “Nếu bệ hạ chỉ say đắm về sự yên vui, không chịu răn chữa, sửa đổi thì sẽ có ngày nguy vong không sao giữ được.” Mạc Mậu Hợp tiếp sớ, nhưng không làm theo. Còn bọn gian nịnh thì gọi sau lưng ông là Trạng Ác. Ít ai trong chốn quan trường xưa nay, được thăng chức hay phong tước lại luôn khước từ như Giáp Hải. Khước từ nhưng không được, Trạng đã năm lần phải lĩnh chức Thượng thư. Rồi lại phải ép nhận hàm Thái bảo, tước Luân Quận công... Ông năm lần bảy lượt xin về trí sĩ nhưng nhà vua không cho, ép phải ở lại tới năm 79 tuổi mới cho về. Chỉ mấy tháng sau ông mất. Thời Mạc cũng nên nhắc tới một ông nghè khác nữa đó là Dương Văn An, quê ở Quảng Bình, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1547 đời Mạc Phúc Nguyên. Ông đã để lại cho đời một cuốn địa phương chí tuyệt tác: Ô châu cận lục. Đó là một tác phẩm có giá trị cả về khoa học và văn học. Sách gồm sáu quyển, viết rất sống động về núi rừng, sông biển, sản vật, hoa trái, cầm thú, phong tục tập quán xứ Thuận Hóa; kèm theo danh mục các phủ, huyện, châu, xã là những mô tả về thành quách, chợ búa, trang trại, bến đò, danh lam thắng cảnh, cùng tiểu sử của hơn một trăm nhân vật từ thời Lê Sơ đến giữa thế kỉ 16: công thần, quan lại, những người đỗ đạt, sư tăng chân tu, phụ nữ tiết hạnh... Với tác phẩm này, Dương Văn An xứng đáng được xem là danh nhân văn hóa thời Mạc. Sau khi rút lên Cao Bằng, nhà Mạc vẫn tổ chức thi cử. Chính thời gian này đã xuất hiện một nữ trạng nguyên duy nhất của nước ta. Nguyễn Thị Duệ quê làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ hồi thiếu nữ, cô đã nổi tiếng thông minh, tài sắc. Đến khi Trịnh Kiểm chiếm Thăng Long, cô cùng gia đình chạy theo lên Cao Bằng. Năm 1594, Mạc Kính Cung tổ chức khoa thi Hội vừa lúc Nguyễn Thị Duệ tròn 20 tuổi. Thời phong kiến nước ta, đàn bà con gái không được học hành, thi cử, cô Duệ đã giả trai đi thi và đỗ đầu (tương đương với Trạng nguyên). Khi nhà vua mở yến tiệc thết đãi các tân khoa, thấy chàng thủ khoa trẻ tuổi, dáng thanh nhã, xinh đẹp liền tỏ ý nghi ngờ. Tuy bị phát hiện là gái giả trai, nhưng Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội mà còn được vua ban khen, cho vào cung dạy các cung phi. Sau bà được tuyển làm Tinh Phi, vì thế dân gian quen gọi là Bà Chúa Sao (tinh trong tiếng Hán có nghĩa là sao). Năm 1625, quân Lê Trịnh tiến vào Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ chạy vào rừng nhưng không thoát. Bắt được bà, vua Lê chúa Trịnh trọng người tài hoa, giữ bà ở trong cung dạy các cung tần mĩ nữ. Khi tuổi cao, bà cáo quan về mở quán Đào Hoa, đọc sách, làm thơ và dạy dỗ học trò ở quê nhà. Thời nhà Mạc chiến tranh liên miên, nhưng cứ ba năm lại mở khoa thi, chứng tỏ các vua Mạc rất chú trọng giáo dục, đào tạo nhân tài. Các triều đại sau coi nhà Mạc là “ngụy triều”, nhưng luôn coi trọng các nhân tài xuất thân qua khoa cử của họ. Họ thật xứng đáng có tên trong lịch sử văn hiến nước nhà. Trạng Trình với bàn cờ thế sự riều Lê đổ nát, không thể là nơi thi thố tài năng giúp dân cứu nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua sáu kì đại khoa liền. Đến khi nhà Mạc lên thay, ông vẫn nghe ngóng, và tiếp tục... chờ xem. Mãi đến khoa thi thứ ba, năm Ất Mùi (1535), ông mới quyết định lên kinh ứng thí. Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ ngay Trạng nguyên. Năm ấy, ông đã 44 tuổi. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung và vua Mạc Đăng Doanh đều rất trọng vọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được bổ làm Đông các Hiệu thư, Tả thị lang bộ Hình, kiêm Đông các Đại học sĩ. Năm 1540, sự qua đời đột ngột của Mạc Đăng Doanh đã kết thúc giai đoạn thịnh trị nhất dưới triều Mạc, khiến cho mong muốn thực hiện hoài bão trị quốc của Nguyễn Bỉnh Khiêm mất đi một chỗ dựa. Mạc Phúc Hải lên ngôi, tin dùng bọn gian thần khiến Mạc triều bắt đầu suy vi. Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ đòi trị tội 18 tên lộng thần (trong đó có Phạm Quỳnh, Phạm Giao là thông gia và con rể ông), song nhà vua không đếm xỉa đến. Nguyễn Bỉnh Khiêm thác bệnh, xin về trí sĩ tại quê nhà. Tuy vậy, vì trách nhiệm của kẻ sĩ, ông lại ra tham chính khi được gọi trở lại triều đình... Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trải qua các đời Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp với các chức Tả thị lang, Thượng thư bộ Lại, Thái phó, Trình Tuyền hầu rồi Trình Quốc công, nên người ta thường gọi ông là Trạng Trình. Tuy không ở hẳn kinh đô, nhưng suốt gần hai mươi năm ông vẫn thường xuyên đi lại, cáng đáng nhiều việc triều chính, được các vua Mạc tôn kính như bậc quân sư. Mãi đến năm 73 tuổi, ông mới thực sự treo ấn từ quan. Về quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại, xây chùa và mở trường dạy học. Thiên hạ tôn ông là Tuyết Giang phu tử, coi ông như bậc thầy “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lí, trung tri nhân sự” (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lí, ở giữa """