" Trọn bộ Hiền Tài Là Nguyên Khí Quốc Gia PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trọn bộ Hiền Tài Là Nguyên Khí Quốc Gia PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo "HLỜI ĐẦU SÁCH iền tài là nguyên khí của quốc gia". Câu nói ấy, quan niệm ấy ngày nay đã trở thành quen thuộc, như một chân lí được ông cha ta truyền lại từ mấy trăm năm trước. Đó là lời khẳng định nổi tiếng được khắc trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên vinh danh các tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442). Nguyên văn đầy đủ như sau: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển cửa đất nước. Vì thế, cái ý tôn trọng họ, thật là vô cùng... " (Theo bản dịch Tuyển tập văn bia Hà Nội). Tác giả những lời này là Thân Nhân Trung, Phụng trực đại phu, Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đông các đại học sĩ dưới thời Lê. Năm 1484, khi Lê Thánh Tông cho khắc thiếu các bậc anh tài, nhất là vào thế kỉ 20, khi mà khát vọng độc lập tự do hòa đồng với khát vọng tự tôn, vươn lên "sánh vai các cường quốc năm châu" như lời Bác Hồ hằng mong ước. Không chỉ ở một hai lĩnh vực, mà hầu như trong mọi lĩnh vực chuyên môn đều xuất hiện các nhà khoa học tài ba, nhiều người trong số đó đã trở thành danh nhân của đất nước, hoặc có tầm cỡ quốc tế. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi chia sách thành hai tập, xếp theo trình tự thời gian năm sinh năm mất của nhân vật; nhưng cũng có khi trình tự này được đảo đôi chút cho phù hợp với giai đoạn xuất hiện của nhân vật trong bối cảnh chung. Do trình độ có hạn của người biên soạn và cũng do sự hạn chế về tư liệu, chắc chắn tập sách này còn để sót không ít bậc "hiền tài" xứng danh là "nguyên khí quốc gia". Rất mong được bạn đọc lượng thứ và coi đây như một cuốn sách để ngỏ, hi vọng sẽ có dịp bổ sung, chỉnh lí khi tái bản. Hà Nội, Năm Thanh niên 2011 NHÓM BIÊN SOẠN (915 - 990) Tác giả bản "Tuyên ngôn hòa bình" đầu tiên T hời Tiền Lê, Lê Hoàn làm vua trong 25 năm (980 -1005; khi mất được gọi là Lê Đại Hành). Ông đã để lại những dấu ấn khó phai trong lịch sử Việt Nam, nhất là vào buổi đầu dựng nước đầy chông gai. Nhận long bào từ tay Thái hậu Dương Vân Nga, chưa đầy một năm sau, ông đã phải lo đối phó với cuộc xâm lăng hung hãn của quân Tống. Với chiến thắng lừng lẫy trên ải Chi Lăng và đặc biệt chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai (981), ông đã đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù, giữ vững được nền độc lập tự chủ từ thời Đinh Tiên Hoàng để lại. Nhờ đó đất nước được thái bình, đồng thời mở ra một thời kì hòa hiếu khá êm đẹp với triều đình nhà Tống. Liên tiếp trong hai năm 986 - 987, nhà Tống hai lần cử sứ thần Lý Giác đi sứ sang kinh đô Hoa Lư. Lý Giác là người rất giỏi thơ phú, ở lần sang thứ nhất ông ta đã thể hiện tài đối đáp khó ai sánh được. Cho nên khi ông ta sang lần thứ hai, vua Lê quyết định cử Đỗ Pháp Thuận, vị pháp sư cố vấn của triều đình giả làm người chèo thuyền đi đón sứ Tống. Trên đường về kinh đô Hoa Lư, khi thuyền đến sông Hoàng Long (khúc sông thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình ngày nay), bất chợt Lý Giác thấy hai con thiên nga (ngỗng trời) bơi trên sông. Tức cảnh sinh tình, Lý Giác cao hứng ngâm: Nga nga lưỡng nga nga, Ngưỡng diện hướng thiên nha. Nghĩa là: Song song ngỗng một đôi, Ngửa mặt ngó ven trời. Sứ đang khoái trá nhấm nháp dư âm câu thơ của mình, bỗng thật bất ngờ nghe người lái đò ngâm tiếp: Bạch mao phô lục thủy, Hồng trạo bãi thanh ba. Nghĩa là: Lông trắng phơi dòng biếc, Sóng xanh chân hồng bơi. Lý Giác vô cùng thán phục nhân tài nước Đại Cồ Việt, đến người lái đò cũng hay chữ. Vì thế đến kinh đô Hoa Lư, khi được vua Lê tiếp kiến, sứ Tống đã có thái độ khá biết điều... Câu chuyện trên có thể chỉ là một thi thoại vốn không thiếu trong các chuyện đời xưa. Song có điều chắc chắn, sứ thần Trung Hoa khi ấy đã phải rất dè chừng trước các "đối tác" phương Nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, khi ra về, Lý Giác đã làm một bài thơ lưu biệt tặng Đỗ Pháp Thuận, vói tư cách là pháp sư cố vấn của triều đình. Bài thơ có hai câu kết: Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, Khê đầm ba tĩnh kiến thiềm thu. Nghĩa là: Ngoài trời lại có trời lên chiếu, Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu. Pháp sư đem bài thơ dâng lên vua. Vua cho thiền sư Khuông Việt (cũng là một vị đại sư) xem và hỏi ý. Khuông Việt cắt nghĩa: "Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống". Ý rằng, vua Tống tự nhận mình là trời thì cũng phải thừa nhận ngoài mình ra còn có "trời" khác nữa (ở phương Nam) cũng chiếu sáng không khác gì mình!... Đỗ Pháp Thuận là vị thiền sư nổi tiếng thời Tiền Lê. Ông được Lê Hoàn tôn làm đại sư cố vấn. Tiếc là sử sách không lưu lại được nhiều và cụ thể về ông. Chỉ biết ông sinh năm 915 nhưng không rõ quê quán, mất năm 990, thọ 75 tuổi. Ông xuất gia từ thuở nhỏ, tu ở chùa Cổ Sơn, Thanh Hóa, sau theo học ở chùa Long Thụ. Thiền uyển tập anh có lẽ là cuốn sách chép về ông kĩ nhất: "Sư là người học rộng có tài phò vua, hiểu rõ thế cuộc đương thời... Khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, Sư có công luận bàn, hoạch định các sách lược bảo vệ, xây dựng đất nước thịnh vượng. Khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng, nên vua Đại Hành lại càng kính trọng, thường tôn xưng là Đỗ Pháp sư, chứ không dùng tục danh như đối với các vị đại thần khác...". Tương truyền, nhiều lời phát ra của Pháp sư được coi như những lời "sấm", ứng vói những việc lớn (đại sự) của đất nước và triều đình. Tiếc rằng không lưu lại được. Tuy nhiên, sách Thiền uyển tập anh đã ghi lại một bài thơ của ông làm để trả lời vua Lê khi được hỏi về vận nước. Bài thơ không có tên, được chép lẫn trong một cuốn sách cách đây đã nhiều thế kỉ, nhưng cùng vói thời gian đã phát lộ vị trí "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử văn hiến Việt Nam. Nguyên văn bài thơ đó như sau: Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh. Bùi Duy Tân dịch: Vận nước bền vững mãi Trời Nam mở thái bình Vô vi trong điện gác Chốn chốn hết đao binh. Sau những năm trường rơi vào quên lãng, đến nửa sau của thế kỉ 20, bài thơ mới lại được biết đến với tên gọi Quốc tộ (đặt theo hai chữ đầu của bài thơ), hoặc dịch ra là Vận nước hay Ngôi nước. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được những người làm sách, kể cả sách giáo khoa văn học, đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Chỉ riêng điều ấy đã giá trị lắm rồi. Song ý nghĩa của bài thơ còn lớn hơn nhiều: Trả lời câu hỏi của nhà vua về "vận nước ngắn dài", Pháp Thuận đã dùng bốn câu thơ với ngôn từ giản dị mà thâm thúy để nói rằng, vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình cho đất nước. Ba chữ "quốc tộ", "thái bình", "vô vi" trong bài thơ được coi là ba nhãn tự có hàm ý rất sâu sắc: "Quốc tộ" ở đây được hiểu là vận mệnh quốc gia; "thái bình" để chỉ một xã hội yên vui, thanh bình, không bạo lực, chiến tranh; "vô vi" trong sách Phật có nghĩa là từ bi, bác ái, vị tha, nhưng ở đây còn thể hiện phương thức đức trị - nhà vua lấy đức để trị dân. Với bốn câu thơ ấy, thiền sư - thi sĩ Pháp Thuận đã trở thành người đầu tiên thể hiện lí tưởng thái bình muôn thuở của dân tộc ta từ thời Lê Hoàn. Đặt bên cạnh bài "Nam quốc sơn hà" vẫn được biết đến như một bản "Tuyên ngôn Độc lập", bài thơ Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận xứng đáng được coi là bản "Tuyên ngôn Hòa bình" đầu tiên của đất nước. THIỀN UYỂN TẬP ANH Tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của nước ta, có nghĩa là "Tập hợp tinh hoa vườn Thiền". Sách ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và 68 tiểu truyện các thiền sư nổi tiếng kể từ cuối thời Bắc thuộc đến cuối thời Lý đầu thời Trần. Tập sách được nhiều người biên soạn kế tiếp nhau, hoàn thành vào khoảng thời Trần. Hiện còn lưu giữ được bản chữ Hán in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 đời Lê Dụ Tông (1715). Thời Tiền Lê, Lý, Trần, Phật giáo có một ảnh hưởng vô cùng to lớn. Nhiều vị vua sáng suốt đã tôn các bậc thiền sư làm cố vấn triều đình, và như lịch sử đã ghi lại, nhiều vị thiền sư - cố vấn đã phò giúp được rất nhiều cho vua, cho nước. Nếu như trước đây, người ta đã biết về vai trò của Thiền sư Pháp Thuận trong việc phò vua giúp nước, thì ngày nay, nhờ tác phẩm Thiền uyển tập anh, một cuốn sách Phật mà chúng ta được biết đến một đóng góp khác cũng rất lớn của ông đối với lịch sử văn học và tư tưởng Việt Nam. Đó là bài Quốc tộ được chép trong sách như trên đã nói. V (1230 - 1322) Nhà viết sử đầu tiên của nước Đại Việt ào thế kỉ 10, ở đất Thanh Hóa có vị hào trưởng Lê Lương, nổi tiếng một nhà cự phách, thóc chứa hàng trăm lẫm, thực khách ba trăm người. Lê Lương có công giúp rập Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn mười hai sứ quân, được phong tới chức Trấn quốc Bộc xạ tướng quân. Có lần Thập đạo tướng quân Lê Hoàn kéo quân đến thăm, ông đãi quân sĩ ăn uống suốt mấy ngày liền, bát đĩa không kịp rửa, thức ăn ê hề. Nhân dân trong vùng còn truyền tụng câu: "Nhất nhật đãi tam thiên khách" (một ngày đãi ba ngàn khách). Vị quan đó chính là ông tổ khai sáng của dòng họ Lê ở Kẻ Rị (xã Thiệu Trưng, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Tại quê nhà, ông cho xây dựng một ngôi chùa lớn là chùa Hương Nguyên, đến nay chỉ còn hai cột đá treo chuông khánh làm chứng tích. Các con cháu đời sau vẫn giữ mấy viên ngọc quý truyền từ cụ tổ làm của gia bảo. Đến đời thứ sáu là Lê Văn Minh, ông chính là cha của Lê Văn Hưu, nhưng chưa thấy mặt con đã bị bệnh mất. Mồ côi cha từ khi còn trong bụng mẹ, Lê Văn Hưu được bà mẹ họ Đỗ ở vậy tảo tần nuôi nấng. Ông ngoại Đỗ Tất Bình dạy cháu biết chữ từ khi cháu còn nhỏ. Đầu làng Thần Hậu có xây một ngôi nhà làm quán học cho những người biết chữ đến bình văn, giảng thơ. Cậu bé Hưu mới lên bốn, lên năm đã lảng vảng đến quán nghe hóng. Có lần, thấy mấy anh học trò lớn bí chữ, cứ ấp a ấp úng như gà mắc tóc trước đề ra của thầy đồ, Hưu đã mách chữ cho khiến ai nấy đều kinh ngạc. Lê Văn Hưu nổi tiếng thần đồng từ đó. Ngày xưa, người hay chữ thường thể hiện bằng cách làm câu đối. Người ta kể rằng, khi lên mười, mười một tuổi Lê Văn Hưu đi học với thầy đồ họ Nguyễn ở Kẻ Bôn. Trên đường đi học cậu hay ghé vào thăm quán lò rèn bên đường. Một lần, trò Hưu thấy bác thợ rèn treo một xâu dùi trên vách, cậu ngắm nghía ra chiều thích lắm, ước gì có một chiếc để đem về dùi vở. Bác thợ rèn cũng là người hay chữ bèn bảo: - Tôi sẽ ra cho cậu một vế đối, nếu cậu đối được tôi sẽ tặng ngay chiếc dùi. Vế đối như thế này: Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở. Không cần suy nghĩ lâu, Lê Văn Hưu đáp: Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên. Bà mẹ thấy con chăm chỉ học hành thương lắm. Bà đến nhờ bác thợ rèn đúc cho một chiếc đèn đồng hình con rồng. Bà đưa hai viên ngọc gia bảo cất giữ từ đời cụ tổ, nhờ bác thợ khảm vào hai mắt rồng. Mỗi khi thắp đèn, đôi mắt rồng chiếu ánh sáng lấp lánh. Mẹ cậu thường dặn: "Con là chắt đời thứ bảy của dòng họ, phải làm sao cho xứng với tổ tiên và tiếp nối chí hướng giúp dân giúp nước của cụ tổ." Nhớ lời mẹ dặn, nghĩ đến oai linh cụ tổ Lê Lương anh hùng, đêm đêm Lê Văn Hưu chong đèn đọc sách. Chiếc đèn trở thành vật gắn liền với ông trên con đường học hành và lập nghiệp. *** Năm Đinh Mùi (1247) vua Trần mở khoa thi lần đầu tiên lấy ba người đỗ đầu gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đây cũng là khoa thi vô tiền khoáng hậu, vì cả ba vị Tam khôi đều rất trẻ: Trạng nguyên Nguyễn Hiền mười hai tuổi, Bảng nhãn Lê Văn Hưu mười bảy tuổi và Thám hoa Đặng Ma La mười bốn tuổi. Trong ba vị Tam khôi ấy, Bảng nhãn Lê Văn Hưu là người lớn tuổi hơn cả, lại có vẻ đĩnh đạc, nên được nhà vua tin cậy giao cho dạy vị hoàng tử thứ ba Trần Quang Khải lúc ấy mới lên sáu, bảy tuổi. (về sau, vị hoàng tử này trở thành Thượng tướng Chiêu Minh Vương lừng lẫy văn võ song toàn, người góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông). Lại thấy Lê Văn Hưu là người tài trí đáng tin cậy, nhà vua sung ông vào chức Kiểm pháp quan trông coi việc hình luật, rồi thăng tới chức Binh bộ Thượng thư (như bộ trưởng Quốc phòng bây giờ). Điều đó chứng tỏ ông tài kiêm văn võ, lại là người chính trực, liêm khiết. Cho đến bấy giờ nhà nước ta chưa có bộ sử chính thống nào. Biên soạn một bộ quốc sử là công việc được đặt ra cấp thiết, nhưng cũng hết sức hệ trọng. Nhà vua đã cân nhắc tất cả các trạng nguyên, tiến sĩ đương triều và cuối cùng chọn mặt gửi vàng, giao cho Lê Văn Hưu chức Học sĩ Hàn lâm viện, kiêm Giám tu Quốc sử viện để thực hiện nhiệm vụ này. Biên soạn sử là một việc chưa có tiền lệ ở nước ta. Lê Văn Hưu phải cho thu thập các sách sử Trung Quốc để tham khảo. Lại cho sưu tầm các huyền thoại, truyền thuyết đang lưu truyền trong dân gian. Kho sách trong Quốc sử viện ngày một đầy thêm lên. Lê Văn Hưu phải tập hợp, chắt lọc ra những gì tinh túy nhất để ghi lại một cách khách quan, chính xác từng thời kì, từng sự kiện trong quá trình mở nước, dựng nước và giữ nước của quốc gia Đại Việt. Ông ý thức không chỉ viết cho triều đình hôm nay mà còn để lun truyền cho hậu thế muôn đời. Và cũng như thời còn đi học, đêm đêm, dưới ánh đèn mắt rồng của mẫu thân, Lê Văn Hưu lại miệt mài biên khảo, ghi chép. Năm 1272, bộ Đại Việt sử ký hoàn thành, gồm 30 quyển, ghi lại lịch sử 15 thế kỉ của nước ta, từ thời Triệu Đà đến Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của nhà Lý. Mùa xuân năm ấy, Lê Văn Hưu dâng bộ sách lên vua Trần Thánh Tông. Đức vua xem hết sách, tỏ ra rất đẹp lòng, ban chiếu hậu thưởng. Vua lại sai khắc chữ đem in lưu vào Quốc sử viện và làm sách học cho các hoàng tử. Tiếc rằng bộ Đại Việt sử ký không còn lưu lại đến ngày nay, song công trình của Lê Văn Hưu đã được Ngô Sĩ Liên, sử quan thời Lê, dùng làm cơ sở biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Trong bộ "Toàn thư" này, có nhiều chỗ Ngô Sĩ Liên dẫn lời nhận xét, lời bình của Lê Văn Hưu. Qua những đoạn trích ấy, ta thấy Lê Văn Hưu có những đánh giá rất công tâm đối với những con người và sự kiện đã qua. Ông hết lời ca ngợi những vị anh hùng có công với dân với nước, như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Hoàn, song không ngại phê phán những vua hèn, quan tham để làm bài học cho đời sau. Chẳng hạn, khi viết về đạo luật của Lý Thần Tông (1128 - 1137) cấm con gái nhà quan không được lấy chồng trước khi dự tuyển vào cưng, ông thẳng thắn phê phán: "Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sát phu sát phụ không được có nơi có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là tấm lòng của người làm cha mẹ dân!" Sau những năm tháng giữ trọng trách của triều đình, Lê Văn Hưu xin nghỉ việc quan, rời Thăng Long về lại đất quê Kẻ Rị. Ông bỏ lại mọi thứ bổng lộc, nhưng vẫn nhớ mang theo chiếc đèn đồng mẹ cho ngày nào. Ông sống giản dị, mở trường dạy học và thanh thản đi du ngoạn khắp nơi. Lê Văn Hưu sống thọ đến năm 92 tuổi mới mất. Ông được chôn cất ở quê hương. Tương truyền, chiếc đèn bảo vật cũng là vật tùy táng mà ông đem theo xuống nơi chín suối. TÌM VỀ TỪ NƯỚC PHÁP Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu được coi là bộ quốc sử đầu tiên của nhà nước Đại Việt. Từ công trình này của tiền nhân, theo dòng thời gian, các nhà chép sử đời sau sẽ viết tiếp các trang sử của đất nước. Trong đó có một dấu mốc quan trọng là năm 1479, khi Ngô Sĩ Liên soạn xong bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Trong lời Tựa sách, ông có nói rõ cách làm của mình là "lấy hai bộ sách tiên hiền ra, hiệu chính biên soạn lại". Hai bộ sách ấy là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và phần "Tục biên" của Phan Phu Tiên. Sau Ngô Sĩ Liên, các sử quan thời Lê tiếp nối công việc biên soạn bộ quốc sử, "cập nhật" các sự kiện tiếp tục diễn ra. Có thể kể đến các tên tuổi: Vũ Quỳnh, Lê Tung, Phạm Công Trứ và cuối cùng là Lê Hy, người đã "chốt" lại "diện mạo" của bộ Đại Việt sử ký toàn thư như ta biết hiện nay. Lê Hy hoàn thành công việc này vào năm 1697 là năm Chính Hòa thứ 18 đời Lê Hy Tông. Khoảng cuối năm đó, ông đem bộ sử dâng nộp lên và được triều đình cho "sai thợ khắc in, ban bố trong thiên hạ, để cho những sự tích trước đây trăm ngàn năm chưa tập hợp lại, nay được hoàn thành", như lời Tựa sách của ông có viết. Như vậy có thể nói, bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã được khắc in từ thời Lê, cụ thể là vào năm 1697. Tuy nhiên, cho đến thập kỉ 80 của thế kỉ trước, các ấn bản Đại Việt sử ký toàn thư mới được phổ biến ở nước ta là bản dịch từ các bản khắc in dưới triều Nguyễn. Những bản này có nhược điểm là bị sai nhiều do "tam sao thất bản", nhưng điều còn đáng nói hơn là nhiều tên riêng bị đổi đi, do lệ kiêng húy rất triệt để dưới thời Nguyễn. Phải đến đầu những năm 80, nhà sử học Phan Huy Lê mới tìm được bản in năm 1697 ở thư viện nước Pháp, trong một chuyến sang công tác và ông đã đưa được văn bản này về nước. Từ đó, các bộ Đại Việt sử ký toàn thư được xuất bản và sử dụng ở nước ta đều là dịch từ bản này, còn được gọi là bản Chính Hòa. Đây có thể coi là phần đóng góp quan trọng của các nhà sử học hiện đại vào việc gìn giữ, phát huy giá trị bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. N (1258 - 1308) Phật Hoàng - Nhà vua khoác áo cà sa ăm 1258, quân dân nhà Trần chiến thắng cuộc đọ sức đầu tiên với quân xâm lược Mông cổ. Sau ngày đại thắng, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Đông cung Thái tử Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông. Mùa đông năm đó, triều đình đón tin vui: hoàng hậu sinh hạ hoàng tử đầu lòng. Sử cũ chép rằng: "Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiền đồng tử. Trên vai trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn." Quả nhiên "Kim Tiền đồng tử" ấy sau trở thành đức vua Nhân Tông, vị vua thứ ba triều Trần. Hơn 20 năm sau chiến công của ông cha, ngài sẽ là người đưa hai vai ra gánh vác sơn hà, đương đầu với hai cuộc xâm lăng của đế chế Nguyên Mông vào thời kì hùng mạnh nhất của chúng. Vị vua anh hùng Trong chiến công oanh liệt chiến thắng giặc Nguyên Mông, nhân dân đời đời suy tôn vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người trực tiếp cầm quân đánh giặc. Vua Nhân Tông chính là linh hồn của cuộc kháng chiến, là chỗ dựa vững vàng cố kết toàn dân tộc, tạo điều kiện để Trần Hưng Đạo thể hiện được hết tài thao lược kiệt xuất của mình. Năm 1278, ngay khi Trần Nhân Tông vừa lên ngôi, Hốt Tất Liệt lúc bấy giờ đã thâu tóm cả Trung Hoa xưng là Nguyên Thái Tổ, sai thượng thư bộ Lễ sang hạch hỏi vua mới An Nam. Ý rằng sao dám tự lập mà không theo thánh mệnh của thiên triều, và bắt vua ta phải sang triều kiến. Thượng hoàng Thánh Tông và vua lấy cớ ốm đau từ chối. Năm sau chúng lại cử thượng thư bộ Lễ (Sài Thung) và thượng thư bộ Binh (Lương Tằng) sang, buộc nhà vua phải đích thân sang triều cống, nếu không phải dâng "người vàng mắt ngọc" thế thân. Để trì hoãn, vua Trần Nhân Tông cho chú họ là Trần Di Ái theo sứ bộ Tàu sang triều cống. Hốt Tất Liệt biết rõ mẹo kéo dài thời gian của nhà Trần, trả đũa bằng cách phong ngay cho Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và xuống chiếu thư: "Ngươi đã cáo bệnh không vào chầu, nay cho ngươi được nghỉ mà thuốc thang điều dưỡng, ta đã lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm vua nước An Nam, cai trị dân chúng của ngươi." Trần Nhân Tông đã cho quân đón lõng, tiêu diệt gọn bầu đoàn phản bội trên đường về cùng đội quân Nguyên Mông hộ tống. Tận dụng thời gian, Trần Nhân Tông và triều đình ra sức củng cố lực lượng, mà trước hết là cố kết lòng người. Năm 1282, vua Nguyên sai Toa Đô đem 50 vạn quân lấy cớ mượn đường nước ta sang đánh Chiêm Thành. Nhà Trần đã cương quyết khước từ. Trần Nhân Tông phong cho Trần Quốc Tuấn chức Quốc công Tiết chế, thống lĩnh toàn bộ quân đội. Đích thân ngài tới bến Bình Than, "họp vương hầu và trăm quan bàn kế hoạch công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu", như sử sách đã ghi lại về sự kiện này, còn được gọi là Hội nghị Bình Than. Tại đây có câu chuyện Trần Quốc Toản nhỏ tuổi không được dự bàn đã bóp nát quả cam để tỏ ý chí "Phá cường địch, báo hoàng ân". Và cũng tại đây, như dã sử lưu truyền, khi thấy một người bán than chèo thuyền qua trông dáng quen quen, nhà vua đã cho gọi lại. Người đó chính là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, do phạm tội đã bị triều đình giáng chức, bắt làm thường dân. Người có tội đã phải chịu tội, nay cũng nên để cho người ta được lập công chuộc tội. Và đức vua đã phục chức cho vị vương công. Sau này, cả Trần Quốc Toản và Trần Khánh Dư đều lập công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Cuối năm 1284, đích thân Thoát Hoan, thái tử vua Nguyên thống lĩnh 50 vạn quân tiến đến biên giới nước ta. Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã triệu tập các bô lão về kinh để hai vua hỏi ý kiến đánh hay hàng. Cuộc hội nghị diễn ra ở điện Diên Hồng nên còn được gọi là Hội nghị Diên Hồng. Đây là sự kiện có một không hai trong lịch sử thời phong kiến nước ta: dân chủ bàn bạc, lấy ý dân làm gốc, động viên toàn dân một lòng đánh giặc giữ nước. Tiếng hô "Đánh" muôn người như một đã vang vọng non sông và trai tráng khắp nơi xăm hai chữ "Sát Thát" lên cánh tay mình, tỏ rõ ý chí giết giặc lập công. Trước thế giặc manh, vua Trần chủ trương "vườn không nhà trống" rút ra khỏi kinh thành Thăng Long. Những ngày đầu, mặt trận Khâu Cáp - Nội Bàng tan vỡ, đại quân Trần phải rút về Vạn Kiếp. Thuyền ngự chạy về Hải Đông tránh giặc truy đuổi, trong quan quân không ít người hoang mang, vua Nhân Tông đã viết lên mạn thuyền hai câu thơ: Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ Hoan, Ái ta còn mười vạn binh(1). Câu thơ ấy đã nhanh chóng lan truyền khắp các đạo quân. Sự bình tĩnh, tự tin của đấng quân vương đã làm yên lòng quân sĩ. Và cuối cùng, với sự chỉ huy tài tình của Trần Quốc Tuấn, quân ta đã chuyển bại thành thắng. Tháng 6 - 1285, vua tôi nhà Trần ca khúc khải hoàn tiến về giải phóng Thăng Long. Bại trận, nhưng ý chí xâm lược của giặc chưa bị bẻ gãy. Năm 1288, một lần nữa Thoát Hoan lại đem 50 vạn quân sang đánh nước ta. Lần này quân ta đã có kinh nghiệm và được sự chuẩn bị kĩ càng, nên Trần Quốc Tuấn khẳng định với nhà vua: "Năm nay đánh giặc nhàn." Quân dân ta đã bài binh bố trận để giặc rơi vào thiên la địa võng, và cuối cùng kết thúc cuộc chiến bằng trận đại thắng Bạch Đằng lịch sử. Trong bài Bạch Đằng Giang phú, Trương Hán Siêu đã ghi nhận tài đức của vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông như là yếu tố quyết định làm nên chiến thắng này: Vua Trần hai vị thánh quân Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh Nghìn xưa gẫm cuộc thăng bình Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.(2) Trong lễ dâng công tại Chiêu Lăng, đức vua Trần Nhân Tông tự hào đọc hai câu thơ hào sảng: Xã tắc hai phen bon ngựa đá Non sông ngàn thuở vững âu vàng(3). Nhà vua khen thưởng những người có công, đồng thời xử phạt những kẻ có tội, bất kể có phải là hoàng thân quốc thích hay không. Chuyện kể rằng, sau khi thắng trận nhà vua có lệnh để cho quân giặc rút chạy an toàn về nước. Vậy mà Hưng Trí Vương vẫn cho quân đuổi theo đánh giết, nên mặc dù có công lớn vẫn bị khiển trách và không được thăng phẩm trật. Hay một chuyện khác, sau khi vào lại kinh thành, quân ta bắt được một hòm biểu thư của khá nhiều quan lại đầu hàng giặc. Mọi người dâng lên vua để trừng trị bọn họ. Thấu hiểu tình cảnh của những người đó, chẳng qua cũng là do bị o ép, họ làm thế cốt để được yên thân, Trần Nhân Tông đã ra lệnh đốt tất cả các biểu thư đó để yên lòng người. Còn đối vói nhân dân, Trần Nhân Tông ban chiếu đại xá thiên hạ, miễn giảm tô tịch, khoan sức dân. Có lẽ trên đời ít có vua nào gần dân như Nhân Tông. Mỗi lần đi chơi đâu, thấy gia đồng các vương hầu ở ngoài vua đều vẫy đến hỏi han tên gì, là gia đồng của nhà ai. Nhà vua dặn các vệ sĩ không được quát tháo, mắng mỏ các gia đồng và có lần nói với hoàng tử đi theo: - Ngày thường thì bao nhiêu người hầu hạ quanh ta. Nhưng khi nước nhà gặp hoạn nạn thì chính họ đã vì ta mà không tiếc thân. (Về chuyện này về sau, trong sử triều Nguyễn, Tự Đức phê rằng xử sự như vậy làm mất vẻ tôn nghiêm của thiên tử!) Sáng lập Thiền phái Trúc Lâm tu hành không xa lánh việc đời Trần Nhân Tông ở ngôi 14 năm, đến năm 34 tuổi truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thượng hoàng. Những năm đầu ngài rời Thăng Long về ngự tại hành cung Thiên Trường vui cảnh đồng quê: Xóm trước, thôn sau tựa khói lồng Bóng chiều dường có lại dường không Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.(4) Bài thơ này là bài Thiên Trường vẫn vọng nổi tiếng của Trần Nhân Tông, hiện được dạy trong chương trình văn học bậc phổ thông. Từ Thiên Trường, Thượng hoàng vẫn luôn theo dõi để nhà vua trẻ điều hành chính sự. Có lần Thượng hoàng đột ngột về kinh, đã quá trưa mà nhà vua vẫn chưa dậy vì suốt đêm ham mê rượu chè. Thấy vậy, Thượng hoàng không nói một lời, lẳng lặng ngồi kiệu trở về hành cung. Khi tỉnh rượu, nhà vua sợ hãi toát mồ hôi, vội vã về Thiên Trường quỳ lạy trước sân phủ của Thượng hoàng. Nhờ có tờ biểu thống thiết của nho sinh Đoàn Nhữ Hài, Thượng hoàng mới tha cho. Việc đi tu của Trần Nhân Tông không phải là một quyết định nhất thời. Ngay từ khi còn trẻ, ngài đã có tâm nguyện đi tu để tìm hiểu chân lí cuộc đời. Cũng chính vì thế mà đức vua chỉ thích ăn mặc đạm bạc, đến nỗi mình gầy vóc hạc. Năm 16 tuổi, khi còn là thái tử Khâm, ngài được vua cha có ý truyền ngôi cho, nhưng đã một mực chối từ, xin nhường ngai vàng cho hoàng tử em là Đức Việp. Giờ đây, thấy Anh Tông có thể đảm đương việc triều chính, đã đến lúc Thượng hoàng xuất gia. Ban đầu ngài tu tại cung Vũ Lâm (Ninh Bình) rồi lên núi Yên Tử sáng lập Thiền phái Trúc Lâm mà chính ngài là vị tổ thứ nhất, lấy hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng, còn được gọi là Phật Hoàng. Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ lâu đời và từng góp phần dựng nên cơ nghiệp nhà Lý. Trần Nhân Tông mong muốn hợp nhất và phát triển ba thiền phái đã có mặt tại Đại Việt thành một thiền phái mới phù hợp hơn với thời thế. Theo đường lối tu hành của ngài, đi tu không phải là xa lánh cõi trần, mà để soi sáng chính tâm hồn mình. Một mặt, đức Điều Ngự truyền bá đạo, giáo huấn dân chúng, mặt khác, ngài vẫn lo cho đất nước, đích thân ngự giá đi vỗ về các châu động miền núi, dẹp loạn biên cương Ai Lao. Mọi chuyện đã yên, ngài lại vân du phương Nam đến tận kinh đô Chiêm Thành, ở lại đó từ tháng 3 đến tận tháng 11 năm Tân Sửu (1301) đàm đạo thân mật với vua Chiêm. Để tạo sự hòa hiếu lâu dài giữa hai dân tộc, ngài đã quyết định gả con gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm. Đối với phương Bắc, tuy quân dân ta đã chiến thắng oanh liệt, Trần Nhân Tông vẫn khôn khéo giữ quan hệ mềm dẻo, nhưng luôn đề cao cảnh giác và nhất là không bao giờ chịu khuất phục. Trước khi viên tịch (1308), Phật Hoàng còn viết di chúc cho muôn đời sau: "Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo... Họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu." HƠN BẢY TRĂM NĂM SAU Ngày 10-10-2010, đêm cuối của mười ngày Đại lễ 1000 năm Thăng Long được tổ chức tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình với một màn trình diễn rực rỡ sắc màu. Các luồng tia laze chiếu lên nền trời những hình ảnh khổng lồ tái hiện những chặng đường lịch sử của đất nước. Bên cạnh các anh hùng chiến trận như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung với những võ công chiến tích oanh liệt, người ta thấy hiện lên một hình tượng khác thường: Một vị vua không ngồi trên ngai vàng mà ngồi thiền định trên tòa sen. Đó là Trần Nhân Tông - vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm cách nay đã hơn bảy trăm năm. Lịch sử dân tộc Việt không chỉ được viết bằng những trang rực lửa anh hùng, mà còn có những trang thấm đượm tinh thần nhân ái, khoan dung, tràn đầy khát vọng hòa bình, độc lập và tự do. Trần Nhân Tông chính là hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần đó của dân tộc. THIỀN PHÁI TRÚC LÂM Phật giáo qua những con đường khác nhau đã du nhập vào nước ta từ lâu đời với các dòng thiền khác nhau cùng tồn tại. Phật giáo phát triển cực thịnh vào thời Lý, đến thế kỉ 13 đời Trần, ba dòng thiền Thảo đường, Vô ngôn thông và Tì-ni-đa-lưu-chi đã được hợp nhất thành dòng thiền Yên Tử. Trên cơ sở dòng thiền Yên Tử, Trần Nhân Tông đã hoàn thiện tạo dựng nên Thiền phái Trúc Lâm. Ba vị tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm là: Trần Nhân Tông (Trúc Lâm đầu đà) - hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng, được dân chúng gọi là Phật Hoàng. Vua ở ngôi 14 năm, làm thượng hoàng 5 năm, xuất gia 8 năm. Mất ở am Ngọa Vân núi Yên Tử. Pháp Loa - vị tổ thứ hai, tên tục là Đồng Kiên Cương, quê ở Hải Dương, đồ đệ của Trần Nhân Tông. Pháp Loa đã biên soạn Đại Tạng kinh, sau này bị Trương Phụ, tướng nhà Minh thiêu hủy. Còn để lại nhiều trước tác về thiền học. Huyền Quang - vị tổ thứ ba, tên thật là Lý Đạo Tái, đỗ Trạng nguyên khoa thi 1272, theo Trần Nhân Tông đi tu. Trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận có nhận xét: "Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình." Đ (Thế kỉ 13 - 14) Nhà thiên văn và lịch pháp lỗi lạc ặng Lộ là cháu nhiều đời của Đặng Nghiêm, người quê ở An Để, Vũ Thư, Thái Bình, đỗ đại khoa năm Ất Tị (1185) đời Lý Cao Tông khi mới 15 tuổi. Là người khai khoa cho cả trấn Sơn Nam Hạ, cụ được coi là bậc "tiên hiền" của một dòng họ được truyền tụng là "Nam phương vượng tộc". Hậu duệ của vị tiên hiền này có nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng. Trong số đó có Đặng Ma La đỗ Thám hoa năm 14 tuổi, khoa thi năm 1247 đời Trần Thái Tông, cùng với hai vị khôi nguyên nữa đều là những người tuổi trẻ tài cao - Trạng nguyên Nguyễn Hiền và Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Cháu đích tôn của Đặng Ma La là Đặng Nhữ Lâm được vua Trần cử đi sứ nhà Nguyên năm 1299. Quan sứ Đặng Nhữ Lâm bị vua Nguyên Thiết Mộc Nhĩ hạch tội vì đã tự ý vẽ đại đồ Cung Uyển thành Đại Đô (Bắc Kinh). Đặng Nhữ Lâm bị quản thúc tại Đại Đô trong hai năm, đó là thời gian ông có điều kiện tranh thủ giao du, học hỏi với các học giả phương Bắc và đặc biệt quan tâm đến khoa thiên văn và lịch pháp. Khi được trở về nước ông đã bí mật mang một số sách cấm về, sau này truyền lại cho con là Đặng Lộ. Cho đến nay chưa có tài liệu nào nói về ngày tháng năm sinh, năm mất của Đặng Lộ. Chỉ biết rằng ông sinh ra ở huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam (nay là huyện ứng Hòa, ngoại thành Hà Nội), làm quan dưới thời vua Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông (vào khoảng cuối thế kỉ 13, đầu thế kỉ 14). Ngay từ nhỏ, Đặng Lộ đã say mê quan sát bầu trời. Đêm đêm trăng sáng, cậu nằm ngửa trên chiếc chõng tre xem xét Mặt Trăng và các vì sao lấp lánh, chỉ cho các bạn biết đâu là sao Bắc Đẩu theo như những ghi chép trong sách do bố cậu đem về. Cậu còn biết Sao Mai và Sao Hôm chỉ là một ngôi sao mọc ở hai thời điểm khác nhau. Đặng Lộ sớm nhận biết sự thay đổi vị trí của các vì sao theo mùa, sự tròn khuyết của Mặt Trăng theo quy luật đều đặn hằng tháng... Đặng Lộ đã từng đỗ kì thi Hương và được nhận vào học Quốc tử giám nên được gọi là giám sinh. Song có lẽ do ông mải mê tìm hiểu về thiên văn, không quan tâm đến việc học hành thi cử theo kiểu từ chương cử tử, nên không thấy tên ông trong danh sách các Thái học sinh (Tiến sĩ) được lưu danh trên bảng vàng bia đá. Dẫu không phải là nhà khoa bảng, nhưng tiếng tăm về sự hiểu biết uyên bác của Đặng Lộ cũng đến tai vua. Trần Minh Tông (làm vua từ 1314 - 1329) cho vòi ông vào triều hỏi chuyện. Qua cuộc "phỏng vấn" trực tiếp này, nhà vua thấy không có bất cứ vị tiến sĩ đương triều nào có được kiến thức "trên tỏ thiên văn, dưới tường địa lí" như chàng giám sinh họ Đặng. Vua phong cho ông chức Hậu Nghi đài lang Thái sử Cục lệnh, chuyên trách công việc quan sát thiên văn ở đài Hậu Nghi, đặt trong Khâm thiên giám. Cơ quan này cũng có nhiệm vụ xem xét "thiên tượng", chiêm tinh, dự báo thời tiết mùa vụ và làm lịch... Đặng Lộ bắt tay vào việc, ông tiến hành quan sát bầu trời, nhưng trong tay không có một thiết bị máy móc nào. Vào thời ấy, cư dân nông nghiệp nước ta hầu như chưa cần tới những đồng hồ xác định thời gian chính xác. Khoảng năm 1029 dưới triều vua Lý Thánh Tông mới biết sử dụng đồng hồ nước hay đồng hồ cát để phân định thời gian đánh trống cầm canh. Ngoài ra người ta còn dùng một chiếc cột dựng trên bãi rộng đo bóng Mặt Trời để biết thời gian trong ngày. Tuy nhiên, những phương tiện như thế còn quá sơ đẳng và không thật chính xác. Việc trước tiên và quan trọng nhất đối với Đặng Lộ là tạo ra một thiết bị có nhiều tính năng và độ chính xác cao để giúp cho công việc của mình. Ông nghĩ ra một thiết bị gọi là Linh lung nghi, bao gồm một quả cầu thủy tinh, xung quanh có những vòng đồng tâm xoay được. Nhờ nó, ông có thể đo đạc, xác định được vị trí các vì sao, độ lệch hoàng đạo, bạch đạo (quỹ đạo của Mặt Trời, Mặt Trăng) đối với xích đạo qua các thời gian trong năm... Sử sách xưa rất kiệm lời, cũng phải khen: "Linh lung nghi để xét nghiệm thiên tượng đều được đúng cả." Lịch vốn có xuất xứ từ thời nhà Tống bên Trung Quốc (gọi là lịch Thụ), được đem vào sử dụng ở nước ta bấy lâu nay, không phù hợp vói vị trí địa lí, quy luật thời gian, thời tiết, khí hậu Việt Nam. Qua thống kê kết quả quan trắc nhiều năm, đến mùa xuân năm 1339, ông nhận thấy, lịch Thụ có khá nhiều bất hợp lí. Ông tâu với vua Trần Hiến Tông xin đổi sang lịch Hiệp kỉ do ông tính toán và sửa đổi, và được vua chuẩn y. Những công trình nghiên cứu công phu về thiên văn của Đặng Lộ đã giúp ích cho việc tính toán, chia thời vụ trong sản xuất nông nghiệp và đắp đê phòng chống lũ lụt mà đương thời các vua nhà Trần rất quan tâm. Kế tục sự nghiệp của Đặng Lộ còn có một nhà thiên văn và lịch pháp tài giỏi của nước ta. Đó là Trần Nguyên Đán (1326 - 1390), hậu duệ của Thượng tướng Trần Quang Khải và là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Trần Nguyên Đán đã tổng kết các quan sát thiên văn và viết nên tác phẩm Bách thế thông kỉ có ghi chép đầy đủ những hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, động đất, thủy triều lên xuống, biến đổi thời vụ... hàng nhiều thế kỉ. Tiếc là tác phẩm đó đến nay không còn. Có thể nói, vào thời Trần khoa thiên văn học nói riêng và khoa học tự nhiên đã có những tiến bộ đáng kể, mà Đặng Lộ là một nhà khoa học lỗi lạc đương thời. Sau đó nhà Hồ tiếm ngôi nhưng chưa được bao lâu thì giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chúng đã thu hết sách vở và phá hủy những công trình khoa học, trong đó có Linh lung nghi. Đồng thời thay thế lịch Hiệp kỉ bằng lịch Đại thống của Trung Quốc. Từ đó cho đến các triều đại về sau, khoa thiên văn và lịch pháp nước ta càng trở nên lạc hậu so với thế giới. ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI TRÊN TRỐNG ĐỒNG Chứng tích cho nền văn hóa Đông Sơn đã hình thành và phát triển rực rỡ ở nước ta cách đây từ 2000 - 3000 năm trước là các trống đồng. Trong số đó có trống đồng Hoàng Hạ được phát hiện vào tháng 3-1937, trong khi đào mương dẫn nước, ở độ sâu 1,50 m, thuộc thôn Nội, xã Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ. Trống có đường kính mặt 0,79 m, cao 0,615 m, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội). Có thể nói trống đồng Hoàng Hạ là một thứ lịch Mặt Trời mà ngày nay xem vẫn thấy đúng. (Người ta cho rằng "tấm lịch" này được dùng để phục vụ nông nghiệp và nghề đi biển của ông cha ta thời cổ đại). Vành ngoài cùng mặt trống là giới hạn của điểm đông chí. Với một gậy đo dài 80 cm dựng ở tâm trống, bóng của nó sẽ ngả tới đúng các điểm xác định trên mặt trống tương ứng với các ngày tiết trong năm: đông chí (22-12), xuân phân (thường vào 21-3), và hạ chí (22- 6). Ngoài trống đồng Hoàng Hạ, trống đồng Ngọc Lũ cũng thể hiện sự phân chia mùa vụ trong năm. Trên mặt trống này có hình bốn người cầm gậy đo bóng đặt vào mặt bốn cái trống, tượng trưng cho bốn mùa. T (1292 - 1370) Bậc thầy muôn đời riều Trần khởi nghiệp từ những vị vua anh hùng chiến thắng quân Nguyên Mông hung bạo, đã dựng nên một thời đại huy hoàng, thịnh trị. Nhưng đến đời vua thứ bảy là Trần Dụ Tông thì bắt đầu suy vi. Thực ra khi còn trẻ, được sự kèm cặp của Thượng hoàng Trần Minh Tông, ông vua này cũng tỏ ra thông minh, tài trí, chăm lo cho dân, trọng dụng người tài. Nhưng sau khi Thượng hoàng qua đời, Dụ Tông sinh ra ăn chơi trác táng. Đại Việt sử ký chép: "Có lần nhà vua đi chơi đêm, đến canh ba mới về, khi về đến sông Chủ Gia (Bắc Ninh) bị mất cả ấn báu gươm quý". Dụ Tông còn sai người đắp núi giả hồ lớn đổ nước biển vào bắt cá sấu nuôi chơi. Thuở nhỏ, nhà vua từng suýt bị chết đuối, may nhờ có Trâu Canh, viên tướng Nguyên Mông theo hàng nhà Trần châm cứu cho mới sống được. Lớn lên, vua mắc chứng vô sinh. Nhà vua nghe lời xúi của Trâu Canh, uống mật trẻ con và thông dâm với chị gái hòng chữa khỏi bệnh. Xung quanh vua là đám gian thần như Bùi Khoan, Trần Ngô Lang... chỉ tìm mọi cách xiểm nịnh mua vui cho vua, gièm pha các bậc trung thần. Triều đình không ai dám can ngăn. Hoặc giả có ai dám liều lên tiếng thì lập tức bị hại. Cho nên bá quan lo sợ, triều đình ngả nghiêng, nhân dân oán thán. "Đâm mấy tháng gian bút chẳng tà" Hiếm khi vua Dụ Tông thiết triều. Hôm ấy, sau nhiều ngày đắm say tửu sắc, vua mới gượng ra ngự. Sau vài lời hiểu dụ, thấy hai hàng văn võ bá quan đứng im, vua cất tiếng: - Các khanh không có gì tấu trình, trẫm bãi triều. Bỗng một vị cố lão râu bạc tóc bạc trong hàng văn quan bước ra: - Muôn tâu, thần Tư nghiệp Quốc tử giám có sớ dâng bệ hạ ngự lãm. Tờ sớ ấy chính là bản "Thất trảm sớ" đòi giết bảy tên gian thần lộng hành. Và người dâng sớ là Chu An, nổi tiếng cương trực, đã nhiều lần lên tiếng can ngăn vua, nhưng không có kết quả. Sợ rằng sớ tấu bị bọn quyền thần ỉm đi, nên lần này đợi đến phiên vào chầu, ông dâng tận tay nhà vua. Vẫn biết chắc quan Tư nghiệp lại lên tiếng can gián điều gì, nhưng vừa liếc xem bản sớ, nhà vua giật mình, lúng túng mất một lúc rồi mới nói: - Được rồi, khanh hãy lui, trẫm sẽ xem xét bản tấu. Tất cả triều thần đều xanh mắt, đoán chắc tất có gì chuyện nghiêm trọng... Mặc dù bài sớ cho tới nay chưa rõ nội dung cụ thể nhưng ai nấy đều biết quan Tư nghiệp không chỉ hặc tội bảy tên quyền thần mà còn đòi phải đem chém chúng (nên mói gọi là "Thất trảm sớ"). Cả kinh thành xôn xao, đâu đâu cũng chỉ thấy bàn về chuyện "kinh thiên động địa" này. Bấy giờ, quyền can gián vua thuộc các quan ngự sử, nhưng các vị này đều khiếp nhược, không ai dám lên tiếng. Một vị quan như Chu An (còn chưa phải đại thần) can ngăn vua, chỉ có thể là người coi thường cái chết. Bởi như thế không chỉ phạm tội chống phép vua mà còn chống lại cả một tập đoàn quyền thần thao túng triều chính. Hành động ấy của quan Tư nghiệp là vô cùng dũng cảm, vì nước quên thân! Nhiều vị quan sợ liên lụy, gặp Chu An đều lảng tránh. Nhưng cũng có nhiều người đến thăm hỏi, trong đó có các học trò của ông. Chờ đợi ít lâu không thấy nhà vua đả động gì đến bản tấu và bọn gian thần vẫn nhơn nhơn tự đắc, thậm chí còn nhắn nhe đe dọa, Chu An biết nhà vua vẫn giữ thói cũ, không nghe lời nói thẳng, ông bèn đem mũ áo vua ban, treo ở cửa Huyền Vũ - ở phía bắc Hoàng thành - trả lại mọi danh lợi của triều đình. Ông lên núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh làm nhà ở ẩn, lấy hiệu là Tiều Ân - người tiều phu đốn củi đi ở ẩn. Vua không dám bắt tội, đành nuốt giận bỏ qua trước uy tín lẫy lừng của ông. Chu An là ai mà dám thách đố bọn quyền thần ngay giữa triều đình như vậy? Chí hướng khác thường Chu An sinh năm Nhâm Thìn (1292) tại làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (sau đối là Thanh Trì vì kị tên huy của vua Lê Thế Tông), thuộc Hà Nội ngày nay. Từ thủa lọt lòng, cũng như bao đứa trẻ khác, cậu An lớn lên cùng những lời ru của mẹ, trong đó có lời ru dành cho con trai: "... Trai thì đọc sách ngâm thơ / Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa / Mai sau nối được nghiệp nhà / Trước là đẹp mặt sau là ấm thân"... Được ăn học, An rất chăm đọc sách và chịu khó suy nghĩ, từ nhỏ đã "tiếng tăm lừng lẫy khắp xa gần". Thế nhưng lớn lên, tuy cũng dùi mài kinh sử nhưng anh lại hết sức dửng dưng vói việc thi cử, vốn là cách lập thân duy nhất để đạt được đồng thời hai chữ danh lợi ("đẹp mặt" và "ấm thân"). Đã mấy khoa thi trôi qua, không thấy con lều chõng như bao bạn học lên kinh ứng thí, bà mẹ hỏi vì sao thì An từ tốn đáp: - Con vẫn nhớ những lời ru của mẹ, nhưng chí hướng của con không đặt ở chốn quan trường. Lợi danh nhiều khi làm người ta không giữ được mình. Bà mẹ hiểu ý con, từ đó không bao giờ nhắc đến chuyện ấy nữa. Duy thầy và các bạn đều tiếc, thường bảo nhau, với sức học ấy, nếu An đi thi hẳn sẽ đứng trong bảng tam khôi (gồm trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), đứng đầu các sĩ tử. Chí hướng của An quả là khác người, và khác với "đạo" của giới nho sĩ xưa nay. Sách Luận ngữ từng chép: Khi Tử Cống - một trong vài học trò thân cận nhất - hỏi thầy là Khổng Tử: "Có hòn ngọc tốt, bỏ vào tủ mà cất đi chăng? Hay tìm giá cao mà bán chăng?" Khổng Tử liền đáp: "Bán đi! Bán đi!". Câu này được hiểu theo nghĩa, đã bỏ công đèn sách ăn học thành tài thì khi có cơ hội, phải làm quan ngay đi! Chính Khổng Tử cả đời đã đi hết nước này sang nước khác tìm công danh, mà không đạt. Chí hướng của Chu An, ấy là ra sức học tập và dạy người khác học như một mục đích mà kẻ sĩ chẳng mấy người đạt được: "Học không biết chán, dạy không biết mệt" ("Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện" là một câu các sĩ tử phải nhớ nằm lòng trong Luận ngữ). Lê Quý Đôn cho biết Chu An thường nói vói học trò rằng: "Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy là phận sự của nhà nho chúng ta" (Quế Đường thi tập). Ông đầu tư mọi sức lực cho học tập, học để biết, biết để truyền lại cho nhiều người đều biết, chứ không phải để đi thi cầu danh kiếm lợi. Nức tiếng thầy Chu Cả cuộc đời, Chu An đã dành hết tâm lực để thực hiện chí hướng của mình. Ông mở trường lấy tên là trường Huỳnh Cung, bên bờ sông Tô Lịch, nơi sau khi ông mất dân làng lập đền thờ gọi là đền Đức Thánh Chu. Trường của thầy Chu được biết đến như một điểm sáng văn hóa trong cả nước. Thầy Chu nức tiếng tài cao đức trọng, học vấn uyên thâm, tính tình điềm đạm mà quyết liệt, thẳng thắn, nghiêm khắc mà bao dung, có đầy đủ những đức tính của bậc đại nho quân tử. Mến mộ thầy, học trò từ các tỉnh gần xa đổ về "chật cửa", có lúc đến ba ngàn người. (Người ta còn đồn con trai vua Thúy Tề cũng tìm đến học, vì quá trọng ông). Trường có nơi ăn chốn ở, có thư viện, có hội đồng môn do thầy chọn từ các môn sinh. Hội đồng môn lại suy tôn trưởng tràng là những người giỏi giang, tư cách tốt. Dạy học, thầy không chỉ lo truyền bá kiến thức cho trò mà luôn răn dạy phải lấy đạo làm người làm trọng. Bản thân thầy không phải bậc khoa bảng, nhưng học trò nhiều người là tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Trường như một lò đào tạo nhân tài cho đất nước, những trụ cột của triều đình, có người làm lên đến Hành khiển (như Phạm Sư Mạnh, tương đương Tể tướng), Thượng thư (như Lê Bá Quát)... Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Công khanh đương thời đều là học trò ông cả". Tiếng tăm của thầy Chu khiến vua Minh Tông mấy lần vời ra làm quan cực phẩm trong triều, nhưng thầy đều từ chối. Mãi đến khi nhà vua mời về làm Tư nghiệp Quốc tử giám thầy mới nhận lời, vì công việc này cũng hợp với sở nguyện: "Có ra làm quan thì cũng là một học quan". Trong thời gian làm Tư nghiệp, thầy Chu đã soạn xong bộ Tứ thư thuyết ước, biện giải khái quát về bốn pho sách kinh điển (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung) gọi chung là Tứ thư dùng cho các sĩ tử. Vua Minh Tông đã từng đến trường Giám để nghe Chu An giảng dạy. Tận mắt chứng kiến phẩm cách cao đẹp của quan Tư nghiệp, nhà vua giao cho ông kèm cặp thái tử Trần Vượng. Ông nhận lời, hi vọng sẽ đào tạo được một vị vua hiền. Mói lên lo tuổi, thái tử Trần Vượng được vua cha nhường ngôi, trở thành Trần Hiến Tông, vị vua thứ sáu nhà Trần. Vì Hiến Tông còn nhỏ tuổi, mọi việc chính sự đều do Thượng hoàng điều hành. Tiếc thay, chưa kịp thi thố tài năng được thầy dày công dạy bảo, Hiến Tông đã mất sớm, ở tuổi 23. Ý nguyện của Chu An thế là không thành. Em của Hiến Tông là hoàng tử Hạo lên nối ngôi, tức Trần Dụ Tông. Dụ Tông vốn cũng là người thông minh, khi còn nhỏ rất kính sợ sư phụ của hoàng tử anh (và dường như cũng từng học thầy Chu). Nhưng rồi vì mải mê tửu sắc nên đã để bọn gian thần lộng quyền. Nhà vua hiểu uy tín của thầy Chu cực cao và học trò ông đầy triều, nên có ý nể trọng. Chính vì vậy, cho dù Chu An đưa ra tờ sớ như sấm động tròi quang, nhà vua cũng chỉ có cách là... lờ đi không trả lời. Song ba chữ "Thất trảm sớ" đã được truyền từ đời này sang đời khác, trở thành một thước đo về sự cương trực và khí phách cho người sau noi theo... Về Chí Linh, gọi là ở ẩn, nhưng Chu An vẫn không xa rời phận sự của một nhà nho. Ông mở trường dạy học và luôn để tâm đến vận mệnh đất nước. Về sau, vua Dụ Tông có ý hối hận, muốn mời Chu An về kinh trao cho chức trọng quyền cao. Nhà vua nhờ mẹ là Hiến Từ Hoàng thái hậu dùng uy tín của mình để vời thầy, nhưng bà nói thẳng: - Đấy là người không thể bắt làm tôi tớ được, ta sai bảo thế nào được ông ta. Cho đến tận cuối đời, Chu An chỉ một lần về kinh. Đấy là khi nhà Trần giành lại được ngôi báu, đưa Trần Nghệ Tông lên làm vua. Trước đó, Dụ Tông mất mà không có con. Nhân lúc triều chính rối ren, Dương Nhật Lễ (con nuôi của Cung Túc Vương) lên tiếm ngôi, toan đổi triều đại nhà Trần sang họ Dương. Nhật Lễ lên trị vì chưa đầy năm thì bị giết chết. Nghe tin ngôi báu được khôi phục, Chu An lúc ấy đã già cả, chống gậy về kinh chúc tụng Trần Nghệ Tông, rồi lại cáo biệt trở về nơi ẩn cư... Chu An sáng tác rất nhiều thơ trong Quốc âm thi tập bằng chữ Nôm và Tiều Ấn thi tập bằng chữ Hán. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu Đông y để chữa bệnh, biên soạn cuốn Y học yếu giải tập chú di biên. Chu An mất năm 78 tuổi, được vua Trần Nghệ Tông ban tặng tên thụy là Văn Trinh, có nghĩa là người bên ngoài thuần nhã, hiền hòa, bên trong chính trực kiên định. Do tên thụy này người đời mới gọi ông là Chu Văn An. Chu Văn An lại được một vinh dự lớn bậc nhất là được thờ tại Văn Miếu với danh hiệu "Vạn thế sư biểu" (người thầy tiêu biểu của muôn đời). Học giả Phan Huy Chú đời Nguyễn đã ca ngợi ông: "Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông; các ông khác không thể so sánh được". Và có lẽ cũng chỉ có ông là người duy nhất không xuất thân khoa bảng, không làm quan đầu triều, nhưng luôn được nhắc đến trong bất cứ quyển chính sử nào bằng những lời lẽ trân trọng nhất... SỰ TÍCH ĐẦM MỰC Chuyện xưa kể rằng, thuở Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, trong số rất nhiều môn sinh có một học trò dung mạo khác người, hôm nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thấy người học trò này rất chăm chỉ và học giỏi, nhưng không rõ tung tích ở đâu, người ta theo dò thì thấy khi người này ra về, cứ đến khu đầm Đại thì biến mất. Chu Văn An biết đây là thần nước, nhưng không đả động gì đến. Gặp lúc đại hạn kéo dài, ruộng đồng khô cạn, hôm ấy sau khi giảng bài xong thầy Chu hỏi học trò xem ai có tài thì làm mưa cứu dân. Người học trò kì lạ tỏ vẻ ngần ngại, sau đó tiến đến thưa: - Thưa thầy, con xin vâng lời thầy, nhưng như vậy sẽ trái lệnh thiên đình. Sau này xảy ra chuyện gì không hay cho con, xin thầy chu toàn cho. Nói rồi, anh học trò lấy nghiên ra giữa sân mài mực, rồi ngẩng đầu cầu khấn và nhúng bút vẩy mực lên khắp nơi. Bỗng bốn phương trời mây đen ùn ùn kéo tới, sau đó mưa trút xuống ào ào. Đêm ấy trên trời có tiếng sét nổ rất to và sáng hôm sau, người ta thấy xác một con thuồng luồng nổi lên giữa đầm. Thầy Chu vô cùng thương xót, sai học trò làm lễ an táng. Nhân dân quanh vùng nhớ ơn đã lập đền thờ bên mộ thần. Nơi nghiên mực bị ném rơi xuống biến thành một cái đầm có nước đen như mực, nên được dân gian gọi là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, nên nơi này trở thành đất văn học, quê hương của các nhà khoa bảng nổi tiếng như Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm... Câu chuyện nhuốm màu huyền thoại này nói lên tài cao và đức độ của Chu Văn An đã làm lay động cả quỷ thần. TỂ TƯỚNG PHẢI QUỲ GỐI BÊN GIƯỜNG THẦY Một hôm quan Hành khiển (Tể tướng đương triều) Phạm Sư Mạnh về thăm thầy Chu. Gặp ngày phiên chợ, người mua kẻ bán chật đường. Quân lính thét loa, vung roi dẹp lối. Chuyện đến tai thầy. Khi quan Hành khiển vào nhà, thầy chỉ thẳng vào mặt mà mắng: - Về thăm thầy mà làm náo động cả bàn dân thiên hạ thì ta còn mặt mũi nào mà ngẩng nhìn mọi người. Nói đoạn, thầy đứng dậy, phủi áo, bỏ vào nhà trong. Phạm Sư Mạnh vừa sợ thầy, vừa hối hận, cứ quỳ gối bên giường chờ thầy tha lỗi rồi mới dám ra về. Từ đó mỗi khi về làng thăm thầy, quan hành khiển họ Phạm chỉ dám mặc áo vải thâm, đi một mình như người dân thường để giữ đúng lễ thầy trò. CAO BÁ QUÁT VỊNH CHU VĂN AN Chu Văn An là danh sĩ đất Thăng Long thế kỉ 14. Cao Bá Quát là danh sĩ Hà Nội thế kỉ 19. Hai người là đồng hương, cách nhau năm thế kỉ. Cảm phục người xưa, Cao Bá Quát có làm một bài thơ chữ Hán vịnh Chu Văn An, dịch nôm như sau: Tiết cứng, lòng trong, khí phách hùng Một tay muốn kéo lại vầng hồng Cô trung sấm sét không chồn chí Thất trảm yêu ma phải rợn lòng Trời đất soi chung vầng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong Suối rừng nơi ẩn nay đâu tá? Văn Miếu còn tên hương khói nồng. (Vũ Mộng Hùng dịch) T (1330 - khoảng 1400) "Nam dược trị Nam nhân" hời Trần, ngay từ cuối thế kỉ 13, đức vua Trần Nhân Tông (lên ngôi năm 1279) đã cho lập Thái y viện nhằm phát triển thuốc Nam. Nhà vua còn khuyến khích trồng cây thuốc ở nhiều nơi, như vườn thuốc Vạn An, rừng thuốc ở Yên Tử (Đông Triều), hay ở vùng Phả Lại, trên núi Nam Tào, Bắc Đẩu cũng có trồng nhiều loại cây thuốc quý mà tương truyền, từng được chính đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chăm lo... Tuy nhiên, cho đến giữa thế kỉ 14, người ta vẫn không quen dùng thuốc Nam; ai bị ốm đau, bệnh tật, dù nhà nghèo cũng cố lo chạy tiền mua thuốc Bắc, vừa tốn kém mà nhiều khi chưa chắc đã hợp. Nguyễn Bá Tĩnh không khỏi chua xót nhận thấy sự vô lí ấy khi bắt tay nghiên cứu thuốc Nam để chữa bệnh cho dân. Quê ở làng Xưa, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương), Bá Tĩnh mồ côi cả cha lẫn mẹ khi mới sáu tuổi. Cậu được các sư chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy cưu mang, sau được Thượng tọa chùa Giao Thủy đón về nuôi cho ăn học. Chùa Giao Thủy là một chùa nổi tiếng ở vùng Sơn Nam (Thái Bình - Nam Định ngày nay). Hằng ngày, Bá Tĩnh được đến trường theo học. Vốn siêng năng, sáng dạ, lại có ý thức mình là đứa trẻ nghèo, mồ côi, cậu càng cố gắng học hành cho giỏi để đền đáp công ơn nhà chùa, và nhất là không để ai coi thường. Bấy giờ đạo Phật đang rất thịnh, chùa Giao Thủy được mở rộng nhanh đến khó ngờ, người tu hành tìm đến chùa ngày một đông. Năm Bá Tĩnh 15 tuổi thì Thượng tọa quyết định cậu phải thôi học, để tập trung đỡ đần các công việc nhà chùa. Ngài thực lòng thương yêu cậu và trong thâm tâm vẫn muốn Bá Tĩnh trở thành người chân tu. Bá Tĩnh cũng biết tấm lòng của ngài, nhưng cậu rất tiếc phải thôi học. Những lúc rỗi rãi cậu lại tranh thủ mở sách vở ra xem lại những bài giảng của thầy ở trường cũ. Nhưng việc ở chùa nhiều đến nỗi chả mấy khi cậu được rảnh rỗi mà hưởng niềm vui học tập. Chả lẽ chịu bó tay?! Không, gương tự học của chàng thanh niên làng Phù Úng Phạm Ngũ Lão, cũng con nhà nghèo khó mà tự phấn đấu trở thành người văn võ song toàn, đã thúc giục cậu. Không được đến trường, cậu sẽ kiếm sách tự học. Không được rảnh rỗi lúc ban ngày, cậu sẽ học về khuya. Từ đấy, đêm đêm ở góc chùa Giao Thủy, Bá Tĩnh chong đèn thức học. Thiếu dầu, thiếu nến, cậu gom lá đa đốt, dù bị khói chảy cả nước mắt cậu vẫn cố chịu. Chẳng mấy chốc, người trong vùng đều kháo nhau về chú tiểu ở chùa Giao Thủy ham học lại hay chữ, không có sách gì là không tìm đọc. Nhiều người đồ rằng chú không thể cứ mãi ở chùa, mà đang quyết chí học đi thi để ra làm quan... Một trận dịch bệnh khủng khiếp hoành hành khắp vùng Giao Thủy, gieo rắc cái chết cho biết bao gia đình. Chùa Giao Thủy cũng không thoát khỏi dịch bệnh. Mấy vị sư thầy, sư ông đã bị chết. Nhiều người đang lâm bệnh, trong đó có vị Thượng tọa trụ trì. Bá Tĩnh vô cùng đau xót chứng kiến vị Thượng tọa mà anh mang ơn đang lả dần về cõi chết. Mặc dù mới chỉ được đọc về âm dương, ngũ hành, tự học ít nhiều về y thuật, Bá Tĩnh quyết lao vào cuộc chiến giành lại mạng sống cho Thượng tọa và những người bệnh khác. Anh quên ăn quên ngủ tìm hiểu sách thuốc, chạy đôn chạy đáo tìm thầy tìm thuốc chữa cho Thượng tọa. Nhưng tất cả đều vô vọng. Thượng tọa đã đến lúc lâm chung. - Con thật vô dụng. - Bá Tĩnh quỳ sụp xuống nhìn Thượng tọa, nghẹn ngào nói không nên lời. - Không, mấy ngày nay con vất vả nhiều vì ta, ta biết lắm, - Thượng tọa cố mở mắt nhìn Bá Tĩnh nói. - Con là người sáng láng. Con hãy trung với đạo để mở mắt mở trí cho người đời... - A di đà Phật, con sẽ đi theo con đường người bảo. Con sẽ theo đạo làm thuốc để khỏi phải thấy cảnh đau lòng như thế này nữa. Thượng tọa gật đầu định nói thêm điều gì, nhưng bàn tay đang nắm tay Bá Tĩnh đã buông ra, mặc cho anh cuống quýt níu lại... *** Đường đi đã vạch, Bá Tĩnh dốc toàn tâm trí theo học nghề y. Trước hết phải đọc kĩ sách để nắm cho vững nguyên lí về bệnh. Bá Tĩnh đọc lại các sách về âm dương, ngũ hành, tìm đọc sách mới, nghe nói ở đâu có sách hay là anh cố tìm đến tham khảo. Càng đọc anh càng vỡ ra nhiều điều, trong đó có một điều cốt lõi: Bệnh tật có nhiều loại nhưng rút cục đều do sự chênh lệch về thể trạng của âm dương thịnh hay suy, và cơ năng của khí huyết hư hay thực mà sinh ra. Do đó, phép trị bệnh chính là lấy việc điều hòa âm dương, lấy chính khí áp đảo tà khí, bồi bổ chính khí làm chủ. Như thế lại càng thấy việc sính thuốc Bắc của người Nam là cực kì vô lí. Vì thể trạng con người, khí hậu, đất đai mỗi nơi một khác, thuốc Bắc của người ta cứ để nguyên thế mà dùng tất không thể hợp. Vả lại, thuốc Bắc xưa nay vẫn hiếm, chỉ các nhà quyền quý và người giàu có mới mua được. Người nghèo lấy đâu ra tiền mua, mà có chạy được tiền, chữa khỏi bệnh thì cũng mang nợ suốt đòi; còn nếu chẳng may không khỏi thì đúng là "tiền mất tật mang"! Vậy nên, người Bắc dùng thuốc Bắc thì người Nam cũng nên dùng thuốc Nam - "Nam dược trị Nam nhân", vấn đề là ở chỗ, làm sao để thuốc Nam thực sự linh nghiệm, để cho người ta tin dùng. Giải quyết được điều mấu chốt này chính là giải thoát cho trăm họ lầm than khỏi sự bế tắc, ai ai cũng có thể chữa khỏi bệnh bằng những phương thuốc rẻ tiền, dễ kiếm. Hơn thế, còn mở ra tương lai cho ngành thuốc của người Nam, giúp cho các lương y không phải bó tay trước nỗi đau của con người chỉ vì thiếu thuốc. Niềm tin vào sự linh nghiệm của thuốc Nam khiến Bá Tĩnh đi khắp nơi trong nước sưu tầm các bài thuốc dân gian, tìm mua các phương thuốc bí truyền. Vói mỗi loại bệnh, anh xét các triệu chứng của bệnh, tìm ra nguyên nhân gây bệnh, rồi đối chiếu với bài thuốc được sử dụng trong dân gian, tìm hiểu dược tính của mỗi loại cây thuốc, phân loại các dược liệu dùng trong đơn thuốc... Anh nghiên cứu và ghi chép thành từng mục cụ thể, nhưng tự thấy như thế mới là một nửa phần công việc. Nửa kia, và đây mới là phần quyết định, là thể hiện những hiểu biết đó vào việc chữa bệnh, tìm ra những vị thuốc mới, định rõ giá trị của từng phương thuốc. Thầy thuốc giỏi hay kém không chỉ ở chỗ biết nhiều phương thuốc, đoán đúng bệnh, mà cái chính là phải biết linh hoạt gia giảm đối với từng căn bệnh cụ thể, với từng người bệnh cụ thể. Chỉ như thế mới đúng là "Nam dược trị Nam nhân". *** Bá Tĩnh mở gian trị bệnh ngay tại chùa Giao Thủy. Một lần nữa, nhà chùa lại là bệ đỡ cho sự nghiệp của anh. Các sư dành cho Bá Tĩnh cả một khu đất rộng ngay cạnh chùa để trồng các loại cây thuốc. Tuy vậy, số người đến chùa chữa bệnh vẫn rất ít. Người ta vẫn chưa tin vào thuốc Nam và vẫn tìm đến các thầy thuốc Bắc. Cũng chả trách được, Bá Tĩnh tự nhủ, mình mới vào nghề, đã chữa được cho mấy người mà mong người ta tin ngay. Vậy thì phải làm ngược lại. Dân chúng ít đến xem bệnh thì mình đi xem bệnh cho mọi người!... Thế là, nghe nói trong vùng ở đâu có người đau ốm, Bá Tĩnh tự nguyện tìm đến cứu chữa, không quản ngại xa gần, không tính chuyện tiền nong. Một lần, có một cậu bé nọ bị hóc xương; hóc xương mà gia đình cũng sính thuốc đến mức cho dùng thuốc Bắc, đương nhiên mãi vẫn không khỏi! Bá Tĩnh đến xem, cho cậu nuốt hai cục mỡ lợn, tự khắc xương trôi hết hóc! Lần khác, có một thiếu phụ bị hậu sản, chữa chạy mãi bằng thuốc Bắc vẫn không khỏi. Bá Tĩnh tìm đến chữa, chỉ cho dùng hoa kinh giới và hạt đào mà công hiệu ngay, trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Tiếng đồn về thầy Bá Tĩnh chuyên thuốc Nam ở chùa Giao Thủy ngày một lan xa... Để cho việc chữa bệnh được thuận lợi hơn, Bá Tĩnh quyết định đi thi. Sau những ngày miệt mài sôi kinh nấu sử, Bá Tĩnh ra ứng thí và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Năm ấy anh vừa 22 tuổi. Vua Trần Dụ Tông muốn giữ Bá Tĩnh ở lại trong triều, giao cho làm quan Ngự y, song anh xin khước từ, để được chuyên tâm nghiên cứu Nam dược chữa bệnh cho dân. Nhà vua lại hỏi anh có cần giúp đỡ gì không, anh cũng khước từ! *** Đỗ tiến sĩ, lại được nhà vua để mắt tới, Bá Tĩnh càng phấn khởi lo trị bệnh cứu người. Một hôm, có một người tìm đến xin thỉnh giáo. Anh ngờ ngợ rồi nhận ra đó là một thầy thuốc chuyên dùng thuốc Bắc, trước đây vẫn bài bác cách chữa bệnh bằng thuốc Nam của anh. Những tưởng người đó lại muốn sinh sự gì, không ngờ là đến để tạ lỗi, đồng thời xin được nhập môn để học nghề. Bá Tĩnh cả mừng, vì như thế nghĩa là công việc của mình đã được "tâm phục khấu phục", và một khi đã thu phục được những người như thế, chắc chắn phương châm "Nam dược trị Nam nhân" của anh sẽ ngày càng sáng tỏ. Quả nhiên, người bệnh tìm đến chùa Giao Thủy xin chữa trị ngày một đông. Không chỉ lo mở rộng nhà trị bệnh, Bá Tĩnh thấy đã đến lúc mở lớp dạy Đông y, để phổ biến các phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam. Và để có danh nghĩa thu hút thêm tăng đồ, cắt đặt người và việc được dễ dàng hơn, Bá Tĩnh quyết định đi tu. Năm 35 tuổi, ông trở thành sư trụ trì chùa Giao Thủy, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Không chỉ các tăng đồ chùa Giao Thủy mà nhiều tăng ni, phật tử trong vùng cũng tìm đến ông học làm thuốc. Việc giảng dạy đòi hỏi phải có sách. Tuệ Tĩnh gấp rút biên soạn bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa, đúc kết các bài thuốc dân tộc cổ truyền. Bằng 580 vị thuốc Nam, ông đúc kết thành 3873 phương thuốc, ứng trị 184 loại bệnh, tất cả đều qua thực tế chữa bệnh của mình. Vói mỗi loại bệnh, Tuệ Tĩnh nêu rõ nguyên nhân, bệnh lí, phương pháp trị liệu rồi đề ra các phương thuốc cổ truyền, ứng theo triệu chứng. Đặc biệt, ông còn biên soạn bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư bằng quốc âm. Bộ sách gồm hai quyển, Nam dược quốc ngữ phú và Trực giải chỉ Nam dược tính phú. Ở quyển thứ nhất, ông dùng chữ Nôm viết theo thể Đường luật, giói thiệu 500 vị thuốc Nam; ở quyển thứ hai, ông cũng dùng quốc âm viết theo thể phú, nêu 630 vị thuốc dân tộc. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm. Với hai tác phẩm này, Tuệ Tĩnh không những có cống hiến quan trọng trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học nước nhà. Vừa viết sách, vừa chữa bệnh, vừa đi các nơi gây dựng cơ sở chữa bệnh bằng thuốc Nam, tính ra với mỗi bộ sách, ông phải mất đến 9, 10 năm trời mới hoàn thành. Nếu tính cả thời gian sưu tầm tài liệu, thu thập bài thuốc đưa vào sách thì thậm chí không dưới 20 năm! *** Nhà Trần đến những đời vua cuối cùng thì suy yếu, phải cống nạp cho nhà Minh không chỉ các đồ quý hiếm, đặc sản phương Nam mà cả người có tài khéo nghề tinh. Tài năng của Tuệ Tĩnh đã không lọt qua được con mắt nhòm ngó của triều đình Trung Hoa. Năm 1385, khi đã 55 tuổi, Tuệ Tĩnh bị bắt đem cống cho nhà Minh. Đây là một nỗi buồn vô hạn đối với ông, đồng thời cũng là một thiệt thòi lớn cho nền y thuật nước nhà. Tương truyền sang Trung Quốc, ông được vua nhà Minh phong cho chức Y tư cửu phẩm. Sau, do có công chữa khỏi bệnh hậu sản cho hoàng hậu nhà Minh nên ông được phong là Đại y thiền sư. Mặc dù được trọng dụng, Tuệ Tĩnh không bao giờ nguôi nhớ quê hương. Biết mình sẽ không còn có dịp về lại quê nhà, ông cho khắc một tấm bia ý nói: "Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với". Tấm bia sau này đã được rập và đưa về Hải Dương khắc lại. Hiện nay ở quê hương Tuệ Tĩnh có một ngôi đền gọi là "Đền Bia", thờ tấm bia được rập khắc lại đó. Và cũng còn có một "tấm bia" khác của Tuệ Tĩnh được khắc sâu trong lòng mọi người. Đó là hai câu thơ đúc kết thuật dưỡng sinh ông truyền lại cho đời, tóm lược những gì là cốt lõi nhất của việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. "ÔNG THÁNH THUỐC NAM" Danh hiệu cao quý này dành cho bậc Đại danh y Tuệ Tĩnh quả là xác đáng. Trong trước tác của mình, ông không rập khuôn theo những gì các đời trước đã đặt ra. Ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v... ĐỀN XƯA, CHÙA GIÁM VÀ ĐỀN BIA Đây là ba di tích liên quan mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của Tuệ Tĩnh. Đền Xưa là ngôi đền gọi theo tên làng ông trước đây, nơi cậu bé Bá Tĩnh đã sinh ra và lớn lên đến năm lên 6 tuổi (là năm cậu bị mồ côi cha mẹ). Chùa Giám xưa có tên là chùa Hải Triều, thuộc địa phận Yên Trang, nay thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Khi Bá Tĩnh lâm cảnh mồ côi, cậu được các sư chùa Hải Triều đón về nuôi. Sau này, chùa được đổi tên thành chùa Giám, và là ngôi chùa chính thờ Tuệ Tĩnh. Lễ hội chùa Giám thường được tổ chức từ 13 đến 15 tháng Hai hằng năm để tưởng nhớ công đức Đại danh y Tuệ Tĩnh. Chùa được xây dựng công phu với tư duy nghệ thuật cao, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Đền Bia nằm ở vị trí giáp giới giữa thôn Vân Trai và thôn Nghĩa Phú, quê của Tuệ Tĩnh. Tương truyền, đến thế kỉ 17 có Nguyễn Danh Nho, người cùng làng ông đi sứ sang Trung Quốc. Ông đọc thấy câu nhắn gửi của Tuệ Tĩnh trên mặt sau tấm bia mộ, bèn cho rập rồi đem về Hải Dương thuê khắc một tấm giống như thế. Tấm bia được đưa về làng để thờ, nhưng dọc đường gặp lụt nên bị rơi xuống cánh đồng giữa hai thôn. Dân làng bèn đắp một cồn cát để dựng bia và xây một bệ thờ tại đó. Sau này nhân dân lập đền, gọi là "Đền Bia". H (1374 - 1446) Người tài chẳng gặp thời ồ Nguyên Trừng là con trai cả của Hồ Quý Ly, ông vua mang tai tiếng tiếm ngôi nhà Trần nhưng là người có đầu óc cải cách. Những cải cách của ông đi trước thời đại, song không được lòng dân nên đã bị thất bại. Hồ Nguyên Trừng vừa là con trưởng, vừa là người có tài năng lỗi lạc, song đã không tiếp nối ngai vàng của cha mình. Khi Hồ Quý Ly, theo lệ các vua nhà Trần nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng, ông đã trao ngôi báu cho người con thứ - Hồ Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng chỉ được giao làm Tả tướng quốc. Mặc dù vậy, ông đã để lại không ít dấu ấn trong lịch sử đất nước cũng như trong các lĩnh vực quân sự, khoa học, văn học... Người cha - Nhà đại cải cách thất bại Hồ Quý Ly vốn là một người tài, được vua Trần ban cho quốc tính - Lê Quý Ly - và tin cậy giao cho trọng trách xây dựng lại kỉ cương triều đình. Thượng hoàng Nghệ Tông còn gả em gái là công chúa Thụy Ninh cho ông. Hồ Quý Ly đã biên soạn sách Minh đạo (Con đường sáng) gồm 14 thiên để dạy các hoàng tử. Tuy nhiên, nhà Trần với những vị vua một thời oanh liệt đã đến hồi suy vi, triều chính đổ nát, khó có thể khôi phục. Năm 1393, chứng kiến sự bất lực của dòng họ mình, Nghệ Tông đã nói vói Quý Ly: "Bình Chương (tức Quý Ly) là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia (tức vua) nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua". Đó có thể xem như một di chúc truyền ngôi, và Hồ Quý Ly đã không bỏ qua cơ hội. Sau khi xây thành Tây Đô (thành nhà Hồ) ở Thanh Hóa, ông ép vua rời về kinh đô mới và đến năm 1400 thì truất ngôi của Trần Thiếu Đế bấy giờ mới 5 tuổi. Quý Ly tự lên làm vua, lập nên nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách lớn về chính trị, xã hội và kinh tế, đảo lộn cả thể chế đã tồn tại mấy trăm năm. Ông đặt ra chế độ hạn điền, hạn nô chỉ cho phép các quý tộc sở hữu một số ruộng đất và gia nô nhất định. Khác với các triều đại trước, nhà Hồ nghiêm cấm không cho người thân thích tham gia triều chính. Một việc chưa từng có là phát hành tiền giấy thay cho tiền kim loại, điều mà các triều đại sau đó cũng không thực hiện được. Nhà vua ban hành các tiêu chuẩn đo lường "cân, thước, đấu, thưng" thống nhất trong toàn quốc. Mở các "quảng tế thư" để chữa bệnh cho người nghèo. Giáo dục và học hành thi cử có sự đổi mới hầu như toàn diện. Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc. Việc thi cử và chọn lựa quan chức cũng đi vào thực chất, không nặng về văn chương mà có cả môn toán học. Tuy chỉ tồn tại ngắn ngủi, triều Hồ đã qua thi cử chọn được những nhân tài xuất chúng cho đất nước, như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân... Tiếc thay, những cải cách của ông chưa thực hiện được mấy thì đã bị giặc Minh ồ ạt đem quân xâm lược (1407). Tồn tại vẻn vẹn có bảy năm, nhà Hồ là triều đại "đoản mệnh" nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Nhà sáng chế lớn của thời đại Hồ Nguyên Trừng là con cả của Hồ Quý Ly. Nguyên Trừng từng làm quan dưới triều Trần, năm 20 tuổi đã được trao chức Phán sư tự và đến năm 1399 được thăng tới chức Tư đồ (tương tự như cố vấn của nhà vua). Khi người cha thoán ngôi nhà Trần, Nguyên Trừng vào tuổi 26, tài năng đang độ thăng hoa. Hồ Quý Ly đã chọn ngôi Thái tử cho người con thứ là Hồ Hán Thương, có lẽ bởi Hán Thương là cháu ngoại của vua Trần Minh Tông, dễ tranh thủ được sự chấp thuận của các quan lại cũ triều Trần. Khác với nhiều trường họp tranh giành ngôi vị thường xảy ra khi "bỏ trưởng lập thứ", Hồ Nguyên Trừng không màng chuyện làm vua mà chỉ lo làm tròn chức phận Tả tướng quốc của mình. Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa cho đến nay vẫn được xem là một kì tích. Thành có hình chữ nhật vuông vắn, dài 900 m, rộng 700 m, được xây bằng những khối đá vôi xanh, kích thước phổ biến theo chiều dài, chiều cao và bề dày là 1,4 X 1,0 X 0,7 m, có khối dài tới 7 m, nặng 15 tấn. Các khối đá được vận chuyển từ xa đến, vậy mà theo sử cũ, chỉ ba tháng đã xây xong! Đến nay người ta cũng chưa xác định được, việc tính toán cắt xẻ đá được thực hiện thế nào để khớp được với nhau như thế, và làm sao vận chuyển được những khối đá lớn như vậy, theo những cách nào và bằng phương tiện nào. Tương truyền, người thiết kế và chỉ huy thi công chính là Hồ Nguyên Trừng. Tuy chỉ còn là một phế tích, song quy mô và tính chất độc đáo của tòa thành này khiến cho nó đang được đề nghị lên UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giói. Tài năng thiết kế, xây dựng của Hồ Nguyên Trừng còn thể hiện trong việc lập một phòng tuyến chặn giặc dài tói 400 km, vói tâm điểm là thành Đa Bang ở Ba Vì hết sức kiên cố. Về mặt quân sự, ông cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh, từng khiến cho thủy binh giặc nhiều phen khiếp đảm. Sáng chế nổi tiếng của Hồ Nguyên Trừng còn lưu lại trong sử sách là việc chế tạo ra loại súng có sức công phá lớn, được gọi là "thần cơ". Súng thần cơ có nhiều loại, từ nhỏ như súng trường dùng cho bộ binh đến loại nhỡ đặt trên lưng voi hay di chuyển trên bánh xe. Đặc biệt là loại "thần công pháo" hạng nặng, dùng để giữ thành hoặc đặt trên hạm thuyền. Để chế tạo các loại pháo này, ông đã cải tiến kinh nghiệm chế tạo thuốc nổ từ xưa, đồng thời cho xây dựng nhiều lò luyện đồng, luyện gang công suất lớn. Ngoài việc lo chế tạo vũ khí, Hồ Nguyên Trừng còn trực tiếp chỉ huy những trận đánh lớn với quân Minh. Nhưng cuối cùng quân ta đã bị thất bại trước lực lượng áp đảo của giặc, lại không được sự ủng hộ của chính dân mình. Cha con Hồ Quý Ly phải rút chạy về phía nam, bị truy đuổi và cuối cùng bị bắt tại Hà Tĩnh. Sử sách còn ghi lại câu nói nổi tiếng của Hồ Nguyên Trừng khi được vua cha hỏi về việc chống giặc ngoại xâm: - Thần không ngại đánh mà chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi. Như vậy, Hồ Nguyên Trừng đã lường thấy được nguyên nhân thất bại của nhà Hồ trước cuộc xâm lăng của giặc Minh chính là do chưa cố kết được lòng dân như các vua Trần thuở trước. Giấc mộng của "Ông già nước Nam" Cả Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng cùng các con cháu và nhiều vị quan văn võ trong triều bị quân Minh áp giải về Kim Lăng, Trung Quốc. Hồ Quý Ly khi đó đã 70 tuổi, bị sung làm lính thú, đi đầy biệt xứ tới Quảng Tây và mất trên đường đi. Những người khác chẳng biết số phận ra sao. Thật may, trong chuyến đi sứ sang Trung Hoa, Lê Quý Đôn đã đọc được nhiều thư tịch của Trung Quốc và ghi chép được nhiều sự kiện quý, được kê biên trong tác phẩm Vân đài loại ngữ của ông. Qua đấy, người ta mới biết được hành trạng của Hồ Nguyên Trừng trong những năm sống ở Trung Hoa. Hồi đó, nhà Minh đã biết rõ tài năng của Hồ Nguyên Trừng nên không giết mà còn trọng dụng. Trước hết, họ giao cho ông một chức quan thuộc bộ Công, với nhiệm vụ chế tạo hỏa súng, hỏa tiễn và thuốc súng trong Binh trượng cục (Cục chế tạo vũ khí). Mặc dù Trung Quốc là nơi phát minh ra thuốc súng đầu tiên trên thế giói, nhưng họ vẫn phải dùng đến Hồ Nguyên Trừng, chứng tỏ tài năng hơn người của ông. Lê Quý Đôn cho biết, sử nhà Minh chép: Sau khi học được phép đúc súng "thần cơ sang pháo" từ Giao Chỉ thì thành lập cả một binh chủng riêng chiến đấu bằng loại vũ khí này, gọi là "Thần cơ doanh". Binh chủng này được trang bị "súng lớn súng nhỏ không đều nhau. Súng to thì đặt trên xe để bắn. Súng cỡ trung và súng cỡ nhỏ thì dùng cái giá để gác lên hoặc vác trên vai. Súng lớn tiện cho việc phòng thủ. Súng nhỏ tiện cho việc chiến đấu". Minh sử còn chép: "Niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 - 1424) vua nhà Minh thân chinh đi đánh mặt Bắc, quân giặc ùa đến đông đảo, lúc ấy mới được thần sang của nước An Nam, liền đem ra đánh, quân giặc sợ hãi bỏ chạy. Vũ khí quý thì phải giữ gìn cẩn mật. Minh sử viết tiếp: "Vua Tuyên Tông (1426 - 1435) nhà Minh có xuống sắc cho quan Tổng binh ở Tuyên phủ rằng: "Súng thần cơ là loại binh khí quốc gia quý trọng, liệu lường mà cấp cho các đồn ở biên giới, để làm dũng uy của quân đội. Không nên cấp một cách khinh suất". Xem như vậy đủ thấy nhà Minh rất quý loại vũ khí do Hồ Nguyên Trừng thiết kế chế tạo. Quý súng, họ cũng biết trọng người làm ra súng. Cũng theo Lê Quý Đôn ghi lại, sách Cổ thụ biểu đàm của nhà Minh chép rằng: "Lê Trừng con của Hồ Quý Ly được cho làm Hộ bộ thượng thư, chế tạo súng rất giỏi. Vào những ngày lễ tế binh khí thì cũng tế luôn cả Lê Trừng". Mặc dù không tránh khỏi bị gièm pha là người "ngoại bang", Hồ Nguyên Trừng vẫn được thăng chức tới Thượng thư bộ Công, hàm nhị phẩm (tương đương bộ trưởng ngày nay). Đôi dòng lịch sử chép lại của Trung Hoa cũng đủ cho chúng ta hiểu được tài năng xuất chúng của Hồ Nguyên Trừng: một nhà kĩ thuật quân sự tài ba của Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 15. Chỉ tiếc rằng tài năng ấy không được dùng để phục vụ đất nước mình mà lại phải phục vụ đất nước đã đặt ách thống trị lên dân tộc mình. Bất đắc dĩ làm quan ở phương Bắc, Hồ Nguyên Trừng khôn nguôi nhớ về cố quốc, nơi nước mất nhà tan. Ông dành nhiều thời gian để ghi lại những hồi ức về lịch sử nước nhà trong bộ sách Nam Ông mộng lục, có nghĩa là "Ghi lại những giấc mộng của ông già nước Nam". Trong lời tựa, ông viết: "Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì? Các bậc đại nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn hai tiếng Nam Ông thì chính là tên chữ, của Trừng tôi vậy". Sách gồm 31 thiên, nay chỉ còn 28 thiên, ghi chuyện những người tài, những sự kiện lịch sử thời Lý Trần theo trí nhớ của Hồ Nguyên Trừng. Đó là những nhân vật như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Lê Phụng Hiểu, Trần Nguyên Đán... Đây cũng là một nguồn sử liệu quý của nước ta. Nam Ông mộng lục được khắc in tại Trung Quốc năm 1442. Hồ Huỳnh - Thượng thư bộ Lại triều Minh nhận xét: "Văn họ Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác, theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục, biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể nuôi dưỡng tính tình...". Hồ Nguyên Trừng mất năm 72 tuổi, được an táng tại Nam An Hà, cách Bắc Kinh 30 km. TỘI ÁC TẦY TRỜI CỦA GIẶC MINH Đầu thế kỉ 15, giặc Minh sang xâm lược, đã gây nên biết bao tội ác đối với nhân dân ta. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã vạch tội bọn chúng: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ .................. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Thâm độc hơn, chúng còn muốn xóa sạch nền tảng văn hóa của dân tộc ta. Không chỉ ra sức vơ vét của cải, chúng đã phá hủy hầu hết các công trình văn hóa, trong đó có "An Nam tứ đại khí" để lấy đồng đúc vũ khí, đốt hết sách của người Việt hoặc đem về nước. Sau khi diệt được họ Hồ, chúng bắt giải 17.000 người về nước, trong đó có những người tài giỏi như công trình sư Hồ Nguyên Trùng, Tư nghiệp Quốc tử giám Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi), kiến trúc sư Nguyễn An... Một mặt, chúng muốn làm cho nước Nam hết người tài, mặt khác chúng tìm mọi cách để khai thác, sử dụng nguồn chất xám của người Việt. Thực tế đã cho thấy, sức sống của nền văn hóa dân tộc là vô cùng mạnh mẽ. Đời này sang đời khác, các triều đại nước ta luôn giữ được các giá trị văn hóa với bản sắc riêng so với nước láng giềng Trung Hoa, và các nhân tài người Việt vẫn đua nhau xuất hiện để đóng góp cho đất nước, hay có ra nước ngoài thì cũng góp phần làm rạng danh đất nước mình bằng những công trình khiến người ta phải nể trọng. (1380 - 1442) Vì sao Khuê trên bầu trời văn hóa thế giới N hà thơ, nhà chính trị Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giói, được sinh ra từ mối tình nồng giữa thầy đồ trẻ Nguyễn Ứng Long và cô Thái, con gái của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (tức Băng Hồ tiên sinh) là một vị đại quan và một nhà nho lớn, nhưng ông không quá câu nệ những khuôn phép khắt khe của Nho giáo. Ông không bắt cô Thái - cô con gái yêu chỉ rèn giũa "công dung ngôn hạnh" mà còn cho học chữ thánh hiền. Nghe tiếng thầy Ứng Long, ông mời về dạy chữ cho con. Lửa gần rơm, cô Thái "phải lòng" thầy, trót có mang. Thầy Ứng Long sợ hãi bỏ trốn. Đằng nào thì sự cũng đã rồi, quan Tư đồ cho gọi thầy về, không trách mắng gì, chỉ khuyên bảo anh cố công trau dồi tài đức, lập nên sự nghiệp, mong sao đóng góp được gì với đời. Cảm tấm lòng độ lượng của ông bố vợ, anh càng thấy phải làm sao cho xứng. Nguyễn Ứng Long hiệu là Nhị Khê, quê làng Ngọc Ổi, huyện Thượng Phúc, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 1374 dưới thời vua Lê Duệ Tông, chàng học sinh Ứng Long khi ấy 19 tuổi ứng thí ở hành cung và đã đỗ Thái học sinh, tức Tiến sĩ. "Vinh quy bái tổ", vị tân tiến sĩ về quê mở trường dạy học. Do danh tiếng của một ông Bảng trẻ tuổi, tài cao, học trò theo học rất đông. (Nhiều dấu tích của ngôi trường ông mở, qua bao nhiêu thế kỉ vẫn còn lại đến ngày nay tại xóm Hạ nằm bên bờ sông Tô trong làng; cũng do danh tiếng của thầy Ứng Long mà làng Ngọc Ổi được đổi theo tên hiệu của thầy là Nhị Khê - cái tên nay vẫn quen gọi). Khác thường từ tuổi còn thơ Mặc dù đỗ đạt, lại ít nhiều đã có danh phận, song là con nhà thường dân mà lại "dám" lấy con nhà tôn thất, thế là không phải đạo, nên Nguyễn Ứng Long không được Thượng hoàng Trần Nghệ Tông trọng dụng. Ngài chỉ cho ông một chức Kiểm chính nhỏ. Ông cũng chẳng lấy thế làm buồn, mà càng yên tâm chăm lo cho ngôi trường của mình. Trong khi cha dạy học ở quê, cậu bé Trãi ở lại cùng mẹ tại dinh ông ngoại ở Thăng Long. Quan Tư đồ đang rầu lòng với thời cuộc, chính trị suy vi, lòng người li tán, đất nước yếu hèn, quân Chiêm Thành luôn quấy nhiễu mạn Thanh Hóa, Nghệ An. (Thậm chí, trong các năm từ 1371 đến 1378, Chế Bồng Nga còn ba lần xâm phạm đến kinh thành, khiến vua tôi nhà Trần phải bỏ cả Thăng Long chạy giặc). Ông lấy việc dạy cháu đôi ba chữ làm vui và nhiều khi kinh ngạc thấy đứa cháu có những tư chất khác thường... Năm Ất Sửu (1385), thấy cơ đồ nhà Trần nghiêng ngả, không thể cứu vãn được, Trần Nguyên Đán cáo quan, rời Thăng Long về sống tại động Thanh Hư trên núi Côn Sơn (Hải Dương), mang theo hai mẹ con Trãi. Năm sau, bà Thái ốm nặng và mất. Trần Nguyên Đán rất buồn, trút hết tình thương yêu vào đứa cháu sớm mồ côi mẹ và thường trò chuyện với Trãi những điều ông chiêm nghiệm trong đời như với một người bạn. Tuy còn quá nhỏ, nhưng Trãi cũng hiểu được phần nào niềm tâm sự của ông ngoại. Những điều ông nói đã ảnh hưởng sâu đậm đến suy nghĩ của cậu bé nhiều năm sau này. Những lần về thăm nhạc phụ, Nguyễn Ứng Long cũng rất ngạc nhiên thấy con trai đã được ông ngoại dạy cho biết chữ và suốt ngày quấn quýt bên ông trong thư phòng đầy sách vở. Ông từng viết về con: Lục tuế nhi đồng phả ái thư. (Trẻ thơ sáu tuổi đã ham đọc sách.) Năm Canh Ngọ (1390), quan Tư đồ Trần Nguyên Đán qua đời. Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha, phụ giúp cha trông nom các em và được cha trực tiếp kèm cặp. Ông Long tiên liệu tình hình, chuẩn bị cho con những tri thức cần thiết để vào đời, tìm sách quý hiếm cho con đọc, giảng giải, tranh biện với con về những điều trong sách vở. Vì vậy, Trãi đã tích lũy được nhiều kiến thức vượt hẳn mọi người. Làm quan nhà Hồ Tháng Hai năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, dựng nên nước Đại Ngu, rời đô về Thanh Hóa (Tây Đô). Cùng năm này, nhà Hồ mở khoa thi đầu tiên. Nguyễn Trãi đi thi và đỗ Thái học sinh. Ông vua mới đặc biệt chú ý đến Nguyễn Trãi. Thấy được trí tuệ, sự sáng suốt và khí phách của vị tân khoa mới 20 tuổi, vua đã giao cho ông một cương vị rất cao là Ngự sử đài chánh chưởng, chuyên phản biện lại những việc mình làm. Hồ Quý Ly còn nghĩ, một người như Nguyễn Trãi ắt phải được người thầy dạy bảo tốt. Ông chợt nhớ đến Nguyễn Ứng Long, người từng đỗ cao từ nhiều năm về trước mà không được trọng dụng. Vua bèn cho triệu vào triều. Ông Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, nhận chức Đại lí tự khanh thị lang tòa Trung thư, Hàn lâm viện học sĩ kiêm lãnh chức Tư nghiệp Quốc tử giám. Hai cha con làm quan cùng triều. Trong khi nhà Hồ đang tiến hành những cải cách lớn để chấn hưng nền kinh tế đất nước thì nhà Minh cử Trương Phụ mang quân sang xâm lược nước ta. Sự thoán đoạt ngôi nhà Trần của Hồ Quý Ly không được lòng dân nên nhà Hồ nhanh chóng thất bại. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần (trong đó có Nguyễn Phi Khanh) bị giặc bắt, đưa về Kim Lăng (tức Nam Kinh). Nguyễn Trãi trốn thoát, bí mật theo cha lên đến Lạng Sơn. Phi Khanh biết, nhờ người nhắn lại: "Con là người có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu". Vâng lời cha, Nguyễn Trãi quay trở về, nhưng đến Thăng Long thì bị giặc bắt. Giặc dụ hàng, phong quan tước nhưng ông khảng khái chối từ. Biết ông là người có tài, chúng không giết, nhưng giam lỏng ở Thăng Long, khi ấy đã bị giặc Minh đổi tên thành Đông Quan. Nguyễn Trãi nhẫn nhục chờ đợi thời cơ, đồng thời nghiền ngẫm chiến lược giải phóng đất nước mà ông gọi là Bình Ngô sách... Mười năm kháng chiến Theo một tư liệu, Nguyễn Trãi đã cùng Trần Nguyên Hãn tìm cách thoát khỏi thành Đông Quan, và đến tháng Hai năm Bính Thân (1416), người ta thấy ông có mặt ở Hội thề Lũng Nhai. Đó là tên gọi sự kiện lịch sử Lê Lợi cùng 18 nghĩa sĩ làm lễ ăn thề cùng nhau sinh tử, chuẩn bị sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại giang sơn. Do hội thề được tổ chức ở Lũng Nhai đất Lam Sơn mà có tên như vậy. (Nơi này nay thuộc làng Mễ, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa). Tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi chính thức xưng Bình Định Vương, nổi dậy khởi nghĩa vũ trang chống quân Minh xâm lược. Được Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách, Lê Lợi rất vừa ý. Vương phong Nguyễn Trãi làm Tuyên phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, giữ luôn bên cạnh để cùng bàn mưu tính kế như một người tâm phúc. Không chỉ định ra chiến lược, sách lược chống giặc, ông còn làm tất cả các việc giao thiệp với quân Minh. Suốt trong cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm, Nguyễn Trãi với vai trò quân sư của từng chiến dịch, luôn chủ trương thuyết "tâm công" (đánh vào lòng người). Qua đó, ông đã tỏ ra là một nhà lí luận quân sự thiên tài, thể hiện ở những điểm như dựa vào dân để đánh lâu dài, triệt để sử dụng chiến tranh du kích, luôn luôn phân tích thời thế để tạo cơ hội, "biết trước từ khi sự việc chưa thành hình" và áp dụng cách đánh thần tốc khi cơ hội đến. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định Nguyễn Trãi là "người đầu tiên trong lịch sử nước ta đã trình bày một cách hoàn chỉnh và có hệ thống tư tưởng quân sự Việt Nam độc đáo và sáng tạo". Cùng với dũng lược của các tướng sĩ chiến đấu sinh tử ngoài chiến trường, Nguyễn Trãi đề xuất "công tác địch vận" rất có hiệu quả. Nhân danh Bình Định Vương, ông viết thư cho bọn chỉ huy quân Minh như Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Phúc, Vương Thông... để mắng nhiếc, khiêu khích cho chúng mất khôn, hoặc phân tích cho chúng thấy cái thua tất yếu để dụ chúng ra hàng. Ông còn đích thân mạo hiểm đến thành Tam Giang (Việt Trì) gọi hàng tướng Minh giữ thành là Lưu Thanh. Cũng chính ông đã viết thư chiêu dụ quân Minh ở Nghệ An, Thanh Hóa, Tây Đô, các thành này đều "không phải đánh mà ra hàng cả" (Đại Việt sử ký toàn thư). Cuối năm Bính Ngọ (1426), sau khi lấy lại được gần khắp đất nước, nghĩa quân bắt đầu vây đánh cứ điểm cuối cùng và quan trọng nhất của giặc là thành Đông Quan. Chiến thắng Chi Lăng đánh tan cánh quân cứu viện do Liễu Thăng chỉ huy, từ Trung Quốc sang theo đường Lạng Sơn, đã khiến cánh quân cứu viện thứ hai qua cửa Lê Hoa theo đường Hà Giang của Mộc Thạnh sợ hãi phải rút về nước. Được rảnh rang, quân ta bao vây Đông Quan khi trong thành vẫn còn tới 10 vạn lính địch. Các tướng nhất loạt đòi đánh để giết hết quân Minh, nhưng Nguyễn Trãi chủ trương nên dụ hàng địch để tránh tổn thất sinh mạng cả hai bên. Lê Lợi đã nghe lời ông, nới lỏng vòng vây để Nguyễn Trãi bất chấp nguy hiểm, một mình một ngựa vào thành gặp tướng giặc Vương Thông thuyết khách. Cả thảy ông đã 5 lần vào thành, phân tích vói y điều hơn lẽ thiệt, mà sau này ông có nhắc lại trong câu: "Miệng hổ lăn mình, quyết nghị hòa để hai nước can qua được nghỉ". Cuối năm Đinh Mùi (1427), Vương Thông không đợi lệnh vua Minh đã đầu hàng, khiến quân ta giành được chiến thắng mà không tốn một mũi tên hòn đạn. Có lẽ giờ phút sảng khoái nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi là được thay mặt vua viết Bình Ngô đại cáo - một áng "thiên cổ hùng văn" - làm nức lòng mỗi người dân Đại Việt, nêu lên cái đạo lí của dân tộc: Đem đại nghĩa thắng hung tằn Lấy chí nhân thay cường bạo. Công lao và sự nghiệp đánh giặc cứu nước của Nguyễn Trãi thật to lớn, như sử gia Lê Quý Đôn nhận định "Ngàn năm không thể mai một được". Thần tử của triều Lê Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (tức Lê Thái Tổ), lập nên triều Lê. Nhưng chính khi "giang sơn từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền" như lời Nguyễn Trãi trong bài cáo, thì ngay từ những ngày đầu, trong vương triều đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến những cuộc thanh trừng thảm khốc. Những tướng lĩnh họ Lê quê ở Lam Sơn (Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khả, Lê Khắc Phục.) kết bè kết đảng, lợi dụng tính đa nghi của Lê Thái Tổ lấn át các khai quốc công thần. Công lao như Nguyễn Trãi mà chỉ được phong tước Quan phục hầu, với chức Nhập nội hành khiến, Lại bộ thượng thư. Đó chỉ là những chức vụ bậc trung ở triều đình, không đủ quan trọng cho phép ông thi thố tài kinh bang tế thế. Năm sau (1429), vua Thái Tổ sai bắt Trần Nguyên Hãn, một đệ nhất công thần chỉ vì Nguyên Hãn họ Trần, sợ ông có ý định khôi phục vương triều của dòng họ mình, khiến ông phải nhảy xuống sông tự tử. Sử không chép, nhưng qua thơ văn Nguyễn Trãi, có thể thấy ông cũng bị hạ ngục vì... liên quan. (Nguyên Hãn là cháu nội Trần Nguyên Đán, còn Nguyễn Trãi là cháu ngoại). Tuy chỉ bị bắt một thời gian ngắn thì được tha, nhưng từ đấy ông không còn được tin dùng nữa, thậm chí bị nhà vua ghét bỏ. Ông sống tủi khổ ở Đông Đô (nhà Lê dùng tên này thay cho Thăng Long) vói thân phận "triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải", vì tuy vẫn mang danh này nọ nhưng hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Chỉ những lúc cần người thay mặt mình viết chiếu, vua mới vời đến. Chẳng hạn, khi xuống chiếu Cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở Viện, sảnh, Cục tham lam, lười biếng, Chiếu "Hậu tự huấn" để răn bảo Thái tử... Đặc biệt, năm 1431, ông thay mặt Lê Lợi soạn Lam Sơn thực lục, tác phẩm ghi lại toàn bộ cuộc kháng chiến chống quân Minh, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị về sử liệu. Trước khi mất, Lê Thái Tổ dường như có ân hận về sự đối xử "không phải" với các công thần, nên đã dặn lại con phải đặt Nguyễn Trãi vào một chức vị xứng đáng. Lê Quý Đôn viết "Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi làm phụ chính" (Toàn Việt thi lục). Bởi vậy, ông lại được triệu vào triều dạy vị vua còn ở tuổi thiếu niên. Thòi gian này, ông đã soạn sách Dư địa chí để nhà vua có kiến thức về đất nước. Ông thường dặn bảo nhà vua "Phúc chu thủy tín dân do thủy" (Lật thuyền mới biết sức mạnh của dân như nước). Khi được Lê Thái Tông cử ra làm lễ nhạc, ông cũng nhân dịp ấy khuyên vua: "Dám xin bệ hạ rủ lòng thương mà chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong thôn cùng ngoài xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là đã giữ được cái gốc của nhạc...". Thế nhưng Nguyễn Trãi không thể can thiệp được sâu hơn vào triều chính. Sử gia Trần Trọng Kim cho biết "công việc gì cũng ở quan phụ chính Lê Sát quyết định hết cả... hễ triều thần ai là người không phục tòng thì tìm cách làm hại" (Việt Nam sử lược). Nguyễn Trãi chán nản, xin về Côn Sơn hưu trí. Tại đây, ông sửa lại động Thanh Hư của ông ngoại, mở rộng chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Ông làm thơ, ca ngợi cuộc sống an nhàn: Nước biếc non xanh thuyền gối bãi, Đêm thanh, nguyệt bạch khách lên lầu. Song thực ra, đây mới chính là lúc buồn chán nhất của con người thèm khát được cống hiến cho nhân dân, đất nước. Hằng đêm, ông vẫn "Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên" (Cả đêm ngồi khoác tấm chăn lạnh / Lo nghĩ về dân không ngủ được.) vì niềm trăn trở: Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông. "Tấc lòng ưu ái cũ" ấy là lòng lo cho nước cho dân mà ông ngoại Trần Nguyên Đán đã dạy từ buổi còn thơ. Trong thơ văn, Nguyễn Trãi không ít lần nói về tấc lòng "mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" này. Năm 1439, Lê Thái Tông đã 16 tuổi, giành lại quyền chấp chính, tiến hành thanh trừng các quyền thần, giết Lê Sát, rửa oan cho những người bị hãm hại. Năm 1440, nhà vua vời Nguyễn Trãi quay trở lại giúp triều đình, phong cho ông chức Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ học sĩ, coi việc Tam quán (các cơ quan phụ trách về văn hóa, giáo dục thời Lê)... Mặc dù đã bước vào tuổi 60, Nguyễn Trãi vô cùng hào hứng, không phải vì quyền trọng, chức cao mà vì lại có cơ hội thực hiện lí tưởng mình theo đuổi. Ông viết Biểu tạ dâng vua: Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi, Coi thần như thông qua năm rét, càng dạn tuyết sương. Và hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ: Thần xin giữ bền tiết cũ, mong kịp người xưa. Thảm kịch Lệ Chi viên Song Nguyễn Trãi đã không thực hiện được ước vọng của mình. Số là, trong các phi tần được vua sủng ái có hai người là Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc Dao. Cuối năm 1440, Nguyễn Thị Anh có mang, sinh ra hoàng tử Bang Cơ. Là người khôn ngoan, lấy được lòng vua, bà được vua phong làm Thần phi, đồng thời lập Bang Cơ làm Thái tử. Cũng vào lúc đó, có tin Ngô Thị Ngọc Dao mang thai, lại có tin đồn hôm bà mang thai đã mộng thấy "Kim tiên đồng tử" giáng sinh, tất sinh quý tử. Lo cho địa vị của con và chính mình, Nguyễn Thị Anh tìm mọi cách hãm hại Ngọc Dao. Để bảo vệ cho đứa trẻ còn trong bụng mẹ và người đàn bà vô tội, Nguyễn Trãi và người thiếp là Nguyễn Thị Lộ, khi ấy giữ chức Lễ nghi học sĩ dạy học các cung phi, xin vua cho bà Ngọc Dao ra ở chùa Huy Văn, sau đó bí mật đưa về vùng Thái Bình ngày nay, để giữ an toàn cho bà sinh nở mẹ tròn con vuông. Thần phi (tức Hoàng hậu) Nguyễn Thị Anh thâm thù vợ chồng Nguyễn Trãi từ đó và rắp tâm trả oán. Năm 1442, vua Lê Thái Tông đi duyệt võ tại Chí Linh, xong việc ghé Côn Sơn vãn cảnh. Trên đường về cung, vua nghỉ ở Vườn Vải (tức Lệ Chi viên) ở thôn Đại Lai trên bờ sông Thiên Đức (nay thuộc xã Tân Lập, tỉnh Bắc Ninh). Theo hầu vua có Nguyễn Thị Lộ để quản số cung nữ mà nhà vua trẻ đi đâu cũng mang theo. Nửa đêm, vua lên cơn sốt rét nặng rồi mất vì không chữa chạy kịp (Đại Việt sử ký toàn thư). Tùy tùng bí mật đưa thi hài vua về cung rồi hai ngày sau mới phát tang. Dịp trả thù Nguyễn Trãi đã tới. Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh gấp rút tổ chức lễ đăng quang cho Bang Cơ mới 2 tuổi lên ngôi (tức Lê Nhân Tông) và buông rèm chấp chính. Tên hoạn quan thân cận của bà là Tạ Thanh đứng ra vu cáo, buộc tội Nguyễn Trãi đầu mưu cho Nguyễn Thị Lộ giết vua. Bà hoàng hậu nhân danh nhà vua chấp nhận lời cáo buộc và tuyên xử mức tội lớn nhất đối với Nguyễn Trãi là "tru di tam tộc". Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19-9-1442), Nguyễn Trãi và ba họ đã bị chết thảm dưới lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình do chính ông đã chiến đấu gian khổ hơn 10 năm để góp phần xây dựng nên. Nói về cái chết của Nguyễn Trãi, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: "Đối với triều đình nhà Lê lúc bấy giờ, sau khi "bốn biển đã yên lặng", Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá. Nguồn gốc sâu xa thảm án vô cùng đau thương của Nguyễn Trãi bị tru di ba họ là ở đó". Song lịch sử bao giờ cũng công bằng. Mười tám năm sau cái thảm án bi thương ấy, người con của bà Ngô Thị Ngọc Dao được Nguyễn Trãi cùng người thiếp Nguyễn Thị Lộ cứu ngày nào, đã trở thành Thái tử Lê Tư Thành. Năm 1460, Thái tử lên ngôi, tức Lê Thánh Tông, vị vua anh minh, sáng suốt bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Một trong những việc tốt đẹp nhất mà Lê Thánh Tông sớm làm là minh oan cho Nguyễn Trãi, đồng thời cho sưu tầm tất cả các trước tác của ông, ghi nhận tấm lòng, nhân cách và những đóng góp vô song của ông đối với dân tộc và văn hóa dân tộc. Bản thân vua cũng để lại một câu thơ vào hàng đẹp nhất, có ý nghĩa nhất đối với việc vinh danh Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo", ý là Ức Trai lòng soi sáng văn chương (sao Khuê trong quan niệm của phương Đông, là ngôi sao trong nhị thập bát tú cai quản về văn chương). Năm 1980, nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Tổ chức Văn hóa - Giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giói và tổ chức các hoạt động kỉ niệm tại Việt Nam và nhiều nước khác. Thế giới đánh giá cao Nguyễn Trãi, trước hết là nhà tư tưởng kiệt xuất (tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng nhân dân và tư tưởng yêu nước). Bên cạnh đó, ông còn là một nhà quân sự thiên tài, lấy chinh phục lòng người làm phương châm hành động, một nhà thơ đặc sắc, một nhà văn chính luận đanh thép, một nhà soạn lễ nhạc đã nhìn thấy cái gốc của âm nhạc, một nhà giáo dục nhân bản, một nhà ngoại giao khôn khéo... Với từng ấy phẩm chất trong một con người, vì sao Khuê Nguyễn Trãi hơn sáu trăm năm qua luôn tỏa sáng trên bầu trời Việt Nam, góp một ánh sao không trộn lẫn trên bầu trời văn hóa thế giới. DƯ ĐỊA CHÍ- TÁC PHẨM ĐỊA LÍ VIỆT NAM CỔ NHẤT Năm 1435, thực hiện cố mệnh của Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi được triều đình tiến cử vào tòa Kinh Diên "hầu dạy" vua. Để ông vua thiếu niên hiểu được tình hình đất nước, Nguyễn Trãi đã viết "giáo trình" Dư địa chí bằng chữ Hán cho vua học. Lần đầu tiên, địa lí đất nước ta được trình bày một cách toàn vẹn. Sách gồm 54 mục, trình bày cặn kẽ về vị trí địa lí, hình thể núi sông, lịch sử, thổ nhưỡng, đặc sản, một số nghề thủ công truyền thống và tập quán của cư dân các đạo. Một số mục kèm theo số lượng và tên gọi của các đơn vị hành chính như phủ, huyện, xã, thôn của các đạo đó. Đây không phải là cuốn địa lí đơn thuần mà là cuốn địa lí - lịch sử trên lịch trình tiến hóa của dân tộc ta từ thời Kinh Dương Vương, qua Hùng Vương, Thục Vương, trải thời Bắc thuộc cho đến khi Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán, khôi phục quyền tự chủ, và cuối cùng là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, xây dựng vương triều Lê. Sử chép, Nguyễn Trãi viết tác phẩm này trong 10 ngày, bằng một trí nhớ sâu sắc, chứng tỏ ông thuộc nằm lòng đất nước đến mực độ nào. C (1381 - 1456) Tác giả thành cổ Bắc Kinh ó dịp tham quan Bắc Kinh, ai cũng phải thán phục khi ngắm nhìn những cung điện nguy nga, các lâu đài tráng lệ của thành phố châu Á này. Nhưng dường như ít ai biết tác giả, tổng công trình sư của khu thành cổ Bắc Kinh là Nguyễn An - một người Việt Nam. Bị giặc bắt sang làm Thái giám Năm 1407 ghi dấu một trang sử đau thương của nước ta. Giặc Minh lấy cớ giúp nhà Trần diệt nhà Hồ, sang xâm chiếm nước Nam. Trương Phụ, tướng giặc Minh thực hiện chính sách cướp sạch, phá sạch, không những vơ vét của cải mà còn bắt các quan lại, trí thức và những người tài giỏi nước ta sang Tầu. Từng đoàn người lũ lượt bị giải trên đường thiên lí qua ải Bắc. Trong đoàn người khốn khổ ấy có chàng trai Nguyễn An 25 tuổi. Anh nguyên là một người làm nghề mộc quê ở mạn Hà Đông, phía tây Hà Nội ngày nay. Ngay từ khi lên mười, An đã theo chân cha anh trong làng đi "ăn cơm thiên hạ" - xây dựng các đền chùa khắp vùng Sơn Tây, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ... Anh chẳng nề hà làm đủ thứ việc, từ điếu đóm đến học bào, học đẽo. Nhờ có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, chẳng bao lâu Nguyễn An đã lên bậc thợ cả, vào hàng trẻ tuổi nhất bấy giờ. Với một cây thước tầm trong tay, anh có thể chỉ huy lắp ráp cột kèo, xây dựng cả một ngôi đình, không xê xích một li, không sơ sểnh một chi tiết. Tiếc rằng thuở xưa những công trình kiến trúc, điêu khắc không để lại tên tác giả, nên ngày nay chúng ta không biết những đền đài miếu mạo khắp nước thuộc "bản quyền" của ai! Tuổi trẻ tài cao, Nguyễn An được tuyển chọn vào các hiệp thợ tham gia xây dựng hoàng thành Thăng Long vào cuối triều Trần, mà di tích hiện còn lại trong lòng đất vừa được xuất lộ thời gian gần đây. Khi nhà Hồ soán ngôi nhà Trần, cấp tập xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, hiệp thợ của Nguyễn An cũng được đưa vào tham gia xây thành, dưới sự điều hành của Hồ Nguyên Trừng. Xem ra anh đã học hỏi được nhiều từ vị "tổng công trình sư" này, người mà tương truyền, chỉ trong ba tháng đã chỉ huy thợ thuyền, phu phen, binh lính dựng lên cả tòa thành bằng đá xanh hiện vẫn khiến người ta kinh ngạc... Nhưng đó là chuyện đã qua, còn lúc này, cùng với đoàn người bị áp giải, Nguyễn An lê bước trên đường thiên lí sang nước người. Sau hàng mấy tháng trời thì đến Kim Lăng, rồi lại tiếp tục bị giải ngược lên Yên Kinh vào mùa giá lạnh. Tù nhân được phân loại. Các trai tráng trẻ trung, mặt mũi sáng sủa, trong đó có Nguyễn An, được chọn ra để "tịnh thân" (đem thiến) làm hoạn quan phục vụ trong cung cấm. Nguyễn An được đối tên là A Lưu và được sung vào hàng thái giám trong cung vua Thành Tổ Xây ba cung hai điện Vào thời Nguyên, quyền thống trị thuộc về người Mông Cổ vốn sống trên thảo nguyên thoáng đãng trong những chiếc lều du mục, nên việc xây dựng nhà cửa, lâu đài không được chú trọng lắm. Kinh thành Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) cũng chỉ có quy mô nhỏ. Đã vậy qua chiến tranh, loạn lạc, Yên Kinh bị tàn phá hầu như chẳng còn gì. Nắm được quyền lực trong tay, Minh Thành Tổ quyết định xây dựng lại kinh thành. Công việc đầu tiên là xây Tử cấm Thành cho nhà vua và cung tần mĩ nữ. Vào thòi gian ấy, thái giám A Lưu, tức Nguyễn An đã bước qua tuổi ba mươi. Biết là không có chút hi vọng trở về cố quốc, anh đành cam chịu thân phận phục dịch trong cưng. Những lúc rảnh rang, Nguyễn An vẫn nhớ nghề cũ, anh tẩn mẩn lấy tre gỗ làm những chiếc lồng để nuôi chim cảnh. Nhưng rồi nghĩ đến thân phận cá chậu chim lồng của mình cũng chẳng khác gì những con chim kia, anh lại thả cho chúng bay đi. Thỉnh thoảng anh được theo hầu vua đi thị sát công việc xây Tử Cấm Thành. Những khi ấy, anh đều để ý xem xét địa hình, địa vật kinh thành. Trở về, anh âm thầm vẽ vẽ vạch vạch đồ án theo chủ kiến của mình, sắp đặt những cung điện, lâu đài phù hợp với phong thủy và điều kiện tự nhiên vùng đất này. Nhưng anh không đưa cho ai xem, càng không hề lộ cho nhà vua biết. Ngoài ra, anh còn thu nhặt những mẩu gỗ, cành cây, lau sậy... tỉ mẩn đẽo gọt, lắp ghép thành các mô hình lâu đài trông như thật. Công trình Tử Cấm Thành đã khỏi công từ năm 1406 nhung tiến triển rất chậm. Vua Minh Thành Tổ ngày càng sốt ruột, đứng ngồi không yên. Một hôm đi dạo trong cung, qua chỗ của A Lưu, nhà vua bất chợt rẽ vào, thấy anh đang miệt mài đục đẽo. A Lưu sợ hãi quỳ xuống tung hô vạn tuế, không ngờ vua không quở mà còn bắt dẫn đi xem các mô hình. Rồi vua ngồi lại hỏi han về nghề nghiệp trước đây của A Lưu khi còn ở Đại Việt. Biết gặp được người tài, Minh Thành Tổ liền hỏi anh về việc xây Tử Cấm Thành. Gặp được dịp may, A Lưu manh dạn tâu bày những ý tưởng của mình và đem các bản phác họa dâng vua xem. Nhà vua càng xem càng tỏ ý hài lòng. Ngay hôm sau, trong buổi thiết triều, Minh Thành Tổ hạch hỏi Thượng thư bộ Công về tiến độ xây dựng Tử cấm Thành và quở trách khá nặng nề. Đồng thời vua phán truyền cho kiến trúc sư Thái Tín cùng với A Lưu bổ sung, chỉnh sửa lại thiết kế. Được chính nhà vua làm hậu thuẫn, mọi việc đều răm rắp thi hành. A Lưu được đặc cách lo việc dựng các cung điện chính, gồm ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân, hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh. Vốn tinh xảo nghề mộc, A Lưu thiết kế các cung điện này bằng gỗ, được nhà vua chuẩn y. Gỗ quý từ các nơi kìn kìn chở về. A Lun chọn những thợ khéo tay người Hán và người Việt để "đào tạo lại", miệng nói tay làm, sống gần gũi chan hòa với thợ theo cách các hiệp thợ Việt ngày trước, nên được thợ thuyền nể phục, răm rắp làm theo. Đen năm 1420 thì Tử Cấm Thành hoàn thành. Toàn bộ Tử Cấm Thành rộng 720.000m2, có tới 800 cung và 8.886 phòng thất. (Tử Cấm Thành đến đời Thanh được đổi tên là Cố Cung. Năm 1987, Cố Cung được UNESCO xếp hạng quần thể kiến trúc cổ bằng gỗ lớn nhất thế giới và công nhận là Di sản Văn hóa Lịch sử Thế giới.) A Lưu được nhà vua thưởng công, nhưng đem phân chia hết vàng bạc cho những người thợ đã đồng cam cộng khổ với mình. Ông vẫn giữ phận thái giám, không màng chức tước gì cả. Ba điện và hai cung vừa xây xong năm 1420 thì năm sau bị sét đánh. Khắp nơi loan truyền rằng do Minh Thành Tổ tàn ác nên Tròi phạt. Thành Tổ bị ốm và đến năm 1424 thì chết. Tổng công trình sư thành cổ Bắc Kinh A Lưu vẫn tiếp tục làm thái giám trong cung các vua tiếp theo là Nhân Tông và Tuyên Tông. Đến đời Anh Tông thì triều Minh đã đi vào ổn định, kinh tế dồi dào. Năm 1437 nhà vua quyết định cải tạo xây dựng lại thành Bắc Kinh theo ý nguyện chưa thành của vua Thành Tố. "Dự án" khổng lồ, như cách nói ngày nay, được giao cho Thái Tín, lúc này là Thị lang bộ Công. Thái Tín tâu trình lên triều đình cần huy động 18 vạn dân phu mà phải là thợ giỏi, cùng một lượng tiền của to lớn và hứa 5 năm mới xong. Quần thần tâu bày, cho là quá tốn kém. Lúc này mọi người mới nhắc nhà vua trẻ nhớ tới thái giám A Lưu, tức Nguyễn An. A Lưu khi đó đã 56 tuổi, được nhà vua triệu đến hỏi. Ông trình bày ý tưởng và phương thức thực hiện rất rạch ròi và có lí, nên được nhà vua cử làm tổng đốc công (tổng công trình sư) trùng tu thành Bắc Kinh. Sách Kinh thành kí thắng của Dương Sĩ Kỳ viết: "... Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ Công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng." Nghĩa là, từ vẽ đồ án thiết kế, đào tạo nhân lực, đến chỉ đạo thi công ông đều tham gia. Công việc của ông làm chính là kết hợp nhiệm vụ của một nhà kiến trúc sư công trình, một nhà quy hoạch, một kĩ sư xây dựng lẫn một nhà quản lí dự án, như ở thời đại ngày nay. Năm Chính Thống thứ hai (1437), ông xây dựng Thành nội tức Hoàng thành, Thành ngoại với chín cửa... Tất cả được thực hiện trong hơn hai năm, mà chỉ dùng hết 1 vạn nhân công. Tháng 3 - 1440, ông lại được nhà vua giao cho 7 vạn thợ xây dựng và trùng tu ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân cùng hai cung Càn Thanh, Khôn Ninh. (Các tòa cung điện này đã bị sét đánh từ năm 1421 đời Minh Thành Tổ). Chỉ một năm rưỡi thì xong. Vua Anh Tông thưởng cho A Lưu 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấn thóc và 1 vạn quan tiền. Đến tháng 10 năm Chính Thống thứ mười (1445), ông lại được giao xây dựng lại tường thành Bắc Kinh, vốn trước bên ngoài xây bằng gạch nhưng ở trong đắp đất nên hễ mưa là sụt. Trị thủy sông Hoàng Hà và các công trình khác Cũng vào thời điểm này (1444 - 1445) nước sông Hoàng Hà dâng to làm vỡ đê, dân tình đói kém, chạy lụt náo loạn. Nguyễn An được cử cấp tốc đến chỉ huy hàn khẩu những nơi xung yếu nhất và xây dựng, củng cố lại các công trình trị thủy con sông này. Sau đó, ông còn tiến hành trị thủy sông Tắc Dương ở thôn Dịch, nạo vét sông Trạch Chư ở thôn Dương. Ông đích thân chỉ huy đào đắp các công trình thủy lợi rất lớn. Năm 1449, Nguyễn An được cử đi tuần tra tuyến kênh đào từ Thông Châu đến Nam Kinh. Năm 1453, niên hiệu Cảnh Thái thứ tư, đời vua Minh Đại Tông (1450 - 1456), đê sông Trương Thu ở Sơn Đông bị vỡ, tu sửa mãi không xong. Khi ấy Nguyễn An đã tuổi cao sức yếu nhưng vẫn được nhà vua cử đến trị thủy. Công việc chưa xong thì ông mất, thọ 75 tuổi. Nguyễn An, tức A Lưu, có công lao lớn và theo điển lệ được triều đình cho xây lăng mộ huy hoàng. Nhưng trước khi chết, ông đã trăng trối hãy chôn ông như một người dân thường và tất cả của cải ông được thưởng đem phát chẩn hết cho dân chạy lụt ở Sơn Đông. Công ấy ai hay? Quả thật rất ít sử liệu trong nước cho biết về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn An. Chỉ thấy cách đây ba thế kỉ, Lê Quý Đôn dựa vào sách Hoàng Minh thông kỉ ghi lại nhưng còn rất sơ sài. Trong khi đó, rất nhiều sách xưa của Trưng Quốc, kể cả chính sử triều Minh (Minh sử) đều có ghi chép về ông và sự kiện xây thành Bắc Kinh. Tuy nhiên sử sách hiện đại thì hầu như không nhắc đến. Song vẫn có những người công tâm. Nhà sử học Trương Tú Dân từng làm việc tại Thư viện Bắc Kinh, đã sang tận Đài Bắc để thu thập tài liệu viết sách về Nguyễn An. Trên tờ Ích Thế báo số ra ngày 11-11- 1947, ông đã cho đăng bài: Thị dân Bắc Kinh nên kỉ niệm Nguyễn An, người An Nam, Thái giám nhà Minh, Tổng công trình sư tạo dựng lầu thành Bắc Kinh thế kỉ XV. Trong bài báo, ông nêu ý kiến: "Từ xưa đến nay, người tốt trong hoạn quan trăm ngàn người không được một. Còn An hết lòng vì công việc, thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không có nén vàng nào trong túi, là một con người cao thượng, chỉ để lại công đầu ở Bắc Kinh. Nguyễn An cùng thời với Tam Bảo (thái giám Trịnh Hòa) ba lần sang Tây Dương, đều là những người kiệt xuất trong hoạn quan, có công với quốc gia không thể phai mờ. Ngày nay tên Tam Bảo thái giám, đàn bà trẻ con đều tỏ tường, còn tên nhà đại kiến trúc Nguyễn An - A Lưu thì ngay học giả, chuyên gia ít ai hay biết. Thật bất hạnh thay. Tôi nghĩ, với An không chỉ riêng giới công trình đáng ngưỡng mộ mà thị dân Bắc Kinh cũng nên uống nước nhớ nguồn, kỉ niệm chớ quên". Nguyễn An là kiến trúc sư thiết kế và là tổng công trình sư xây dựng thành cổ Bắc Kinh. Điều này đã được cả sử sách Trung Quốc và phương Tây ghi nhận. Dẫu công trình vĩ đại này được xây dựng ở Trung Quốc, nhưng cũng là một kì quan của nhân loại, là cống hiến của một nhân tài đất Việt. Ông hoàn toàn xứng đáng được tôn vinh là một danh nhân - kiến trúc sư vĩ đại người Việt, có tầm cỡ thế giới. TỬ CẤM THÀNH - DI SẢN CỦA TÊN BẠO CHÚA (La Cité interdite de Pékin - L 'Heritage du tyran) Đó là tên bộ phim tư liệu dài 53 phút, được chiếu trên Đài truyền hình ZDF Dokukanal của Cộng hòa Liên bang Đức năm 2008. Nội dung tóm tắt của bộ phim là: Ngay khi lên ngôi, Minh Thành Tổ lo sợ bị trả thù nên quay về đất của mình là Yên Kinh (trong phim gọi là Bắc Bình), đổi tên là Bắc Kinh, tiến hành xây dựng cung điện mới. Nguyễn An, tù nhân Việt Nam, khi bị bắt qua Trung Quốc đã bị hoạn, trở thành thái giám. Nguyễn An được vua tin dùng, vì ông là người tài năng thật sự, và cũng bởi Minh Thành Tổ chỉ tin thái giám, sợ quan lại sẽ phản mình. Quá trình từ khi quyết định, chuẩn bị và xây dựng hoàn thiện Tử cấm Thành kéo dài nhiều năm, trong đó có đến 13 năm được dành để thiết kế công trình, chuẩn bị tập kết nguyên vật liệu từ khắp nơi trên đất nước Trung Hoa, và chỉ có ba năm (1417 - 1420) để xây dựng, lắp ráp hoàn thành công trình. Về tài năng của Nguyễn An, bộ phim đã chỉ rõ Tử cấm Thành được ông thiết kế theo quan niệm vũ trụ trời tròn đất vuông, nơi ở của vua là ở vị trí trung tâm (như sao Bắc Đẩu trên bầu trời), với kiến trúc hào nhoáng và diễm lệ như cảnh thiên giới dưới hạ trần. Để thực hiện bốn tháp tại bốn góc thành, Nguyễn An vô tình quan sát lồng con dế yêu của mình và đã thiết kế một cách ngẫu nhiên, được vua khen ngợi. Trong đó có Thiên An Môn - cổng trời bình yên, nằm xa nhất ở phía Nam, một điểm tham quan nổi tiếng ngày nay của Bắc Kinh. Một trong những trường đoạn ấn tượng của phim là đưa một khối đá chạm rồng nặng hàng trăm tấn từ cách xa hàng trăm dặm đến lắp vào vị trí. Trong điều kiện trời rét khắc nghiệt và sức người có hạn, Nguyễn An đã cho đào hàng trăm giếng cách đều nhau, đổ nước lên để nước đóng thành một lớp băng trơn, nhờ đó dễ dàng kéo tảng đá về cung điện. Trên mạng YouTube, bộ phim được chia làm 6 phần, có phụ đề tiếng Việt dịch khá sát nghĩa. N (khoảng 1370/1371 - ?) Chép thơ, nối sử cho đời ói ông "chép thơ" là chỉ việc ông là người biên soạn bộ Việt âm thi tập, bộ tuyển thơ văn đầu tiên của Việt Nam. Còn nói ông "nối sử" vì ông là người, sau Lê Văn Hưu, viết tiếp bộ chính sử đầu tiên của nước ta - Đại Việt sử ký, phần viết tiếp của ông được gọi là "Tục biên", chép các sự kiện lịch sử từ thời Trần Thái Tông, vị vua khởi nghiệp nhà Trần, đến khi quân Minh bị Bình Định Vương Lê Lợi đánh bại, phải rút về nước. Nhà sử học, nhà thơ Phan Phu Tiên luôn được coi là một nhân vật lỗi lạc của nền văn hiến Việt Nam qua mọi thòi đại. Mặc dù sự nghiệp của ông khá sáng tỏ để ông xứng đáng được tôn vinh như vậy, song về cá nhân ông thì có nhiều điều không được tỏ tường. Người ta không rõ ông gốc gác từ đâu, chỉ biết rằng ông quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ngay đến năm mất ông, vị Đồng tu sử ở Quốc sử quán của triều đình cũng không được ghi lại, chỉ biết rằng ông mất ở quê vợ, xã Yên Quyết, nay thuộc Yên Hòa, Từ Liêm, Hà Nội. Năm 1396, niên hiệu Quang Thái thứ chín đời Trần Thuận Tông, ông thi đỗ thái học sinh, tức tiến sĩ theo cách gọi thời bấy giờ. Đây là khoa thi cuối cùng của nhà Trần, vì chỉ mấy năm sau, nhà Trần mất vào tay Hồ Quý Ly. Sau khi thi đỗ, Phan Phu Tiên được bổ vào làm việc ở Quốc sử quán (chép sử) và Quốc tử giám (dạy học). Nhưng cụ thể ông làm những việc gì và làm đến bao giờ thì không được ghi lại. Bẵng đi đến năm 1429, nghĩa là 33 năm sau, ta mới lại được biết ông ra ứng thí khoa thi Minh kinh năm Thuận Thiên thứ hai dưới thời Lê Lợi, do Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân... làm giám thí. Phan Phu Tiên đỗ thứ ba. Khi ấy ông đã gần 60 tuổi! Đến đây phải dừng một chút để nói rõ hơn về giai đoạn lịch sử này. Chúng ta biết rằng nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần được bảy năm thì bị nhà Minh mượn cớ sang xâm lược (1407). Sau đó là một khoảng thòi gian dài nước ta nằm dưới ách đô hộ vô cùng hà khắc của giặc Minh. Các vua nhà Hậu Trần khởi binh đánh chúng nhưng đều thất bại. Đen khi Bình Định Vương Lê Lợi phất cờ khỏi nghĩa, nằm gai nếm mật kháng chiến ròng rã mười năm trời, cuối cùng mới giành được thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên... Như vậy, ta có thể hình dung, những năm giữa hai cột mốc từ cuối đời Trần đến đầu đời Lê ấy, Phan Phu Tiên đã có cuộc sống không dễ dàng gì, nhất là trong những năm đô hộ của giặc Minh. Nhưng trước sau ông vẫn giữ cốt cách của một nhà nho. Với ông, đã là kẻ sĩ thì chỉ có một việc là học cho thành tài để ra thi thố giúp đời, ngay khi có dịp... Và cũng giống như sau lần đỗ đạt trước, Phan Phu Tiên được bổ nhiệm làm Đồng tu sử ở Quốc sử quán, đồng thời có tham gia dạy học ở Quốc tử giám. Có điều thú vị, mặc dù được giao nhiệm vụ chính là chép sử, song việc đầu tiên ông hiến cho đời - ít nhất theo những gì chúng ta biết ngày nay - lại là... chép thơ. Đúng hơn, biên soạn thơ của người đời trước cho đến thời mình. Có một thực tế là thơ từ thời Trần trở về trước chỉ có những tập riêng của một số người, mà chưa có một hợp tuyển nào giúp lưu lại cho mai sau một cách hệ thống. Chính Phan Phu Tiên là người đầu tiên làm việc đó. Ông đã sưu tập thơ của 119 nhà thơ từ thời Trần đến đầu thời Lê, tất cả gồm 624 bài được tập hợp trong một tuyển tập mà ông đặt là Viêt âm thi tập. Gọi là "Việt âm" là có ý nói rằng, thơ tuy được viết bằng chữ Hán nhưng lại là của người Việt, phát âm theo kiểu người Việt. Năm 1433, Phan Phu Tiên đã viết bài Tựa cho tập sách để nói rõ việc làm của mình: "... các tập thơ truyền ở đời, qua cơn binh hỏa, chẳng còn được mấy... Phu Tiên này chẳng nề nông cạn, vốn xưa nay nghe thấy được những gì về thơ, đều ghi lại tất cả, dù đó là những bài thơ hay có quan hệ đến nước nhà, hoặc những câu bình dị của các bậc hiền ngu, gộp lại được một số, gọi là Việt âm thi tập". Việc chưa xong thì đến năm 1435, ông được triều đình bổ đi làm An phủ sứ (người đứng đầu cơ quan hành chính) ở lộ Thiên Trường (Nam Định) rồi Hoan Châu (Nghệ Tĩnh). Công việc của ông sau đó được Chu Xa tiếp nối và sách Việt âm thi tập được khắc in năm 1459. Sự nghiệp quan trọng nhất của Phan Phu Tiên mà nói đến ông người ta nghĩ đến ngay là biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên. Năm 1448, sau một thời gian làm An phủ sứ, ông được vua Lê Nhân Tông vời về kinh, giao cho làm việc ở Quốc sử quán. Theo lệnh vua, Phan Phu Tiên bắt tay biên soạn phần Tục biên, tiếp nối bộ quốc sử đầu tiên của đất nước đã được bắt đầu từ Lê Văn Hưu trước đó gần hai thế kỉ. Bộ Đại Việt sử ký tục biên ghi lại lịch sử nước ta từ đời Trần Thái Tông (1226) đến khi quân Minh bị Bình Định Vương Lê Lợi đánh cho thua phải rút về nước (1427). Sách hoàn thành năm 1455, khi Phan Phu Tiên đã 84,85 tuổi. Sau này, Ngô Sĩ Liên đã dựa vào cuốn sách này để biên soạn những phần có liên quan trong Đại Việt sử ký toàn thư. Nhờ đó, mặc dù phần Tục biên của Phan Phu Tiên sau không còn, nhưng qua các trích dẫn của Ngô Sĩ Liên trong bộ Toàn thư, người đời sau cũng biết được phần nào dấu ấn của ông trong bộ quốc sử. Ví dụ như việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, lại tự nhận là dòng dõi xa của Ngu Thuấn ở Trung Quốc, ông có lời phê rất nặng: "Khổng Tử nói: Không phải là ma của nhà mình mà cúng, thế là xiểm nịnh... Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mãn tế Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để chiếm ngôi, không gì to bằng!" Nói đến công việc trước tác của Phan Phu Tiên còn phải kể đến việc biên soạn cuốn Bản thảo thực vật toát yếu (Sách tóm lược về thực vật) bằng chữ Nôm, trong có nhiều nội dung bàn về y học. Tiếc rằng sách này nay không còn. Sử sách không thấy chép năm mất của ông. Cũng như nhiều chi tiết trong cuộc đời ông không được ghi lại, phần lớn trước tác của Phan Phu Tiên không còn lại đến ngày nay. Nhưng qua hai việc làm có tính cách khởi đầu về lịch sử và văn học, Phan Phu Tiên xứng đáng là một nhân sĩ cấp tiến ở thời đại mình. Ông còn để lại tấm gương sáng nghìn thu về một nhà nho làm việc suốt đời, đến ngoại bát tuần vẫn còn cống hiến cho vua, cho nước một bộ sử được lưu danh muôn thuở. Ngô Sĩ Liên, người tiếp nối Phan Phu Tiên, tôn ông là "bậc cố lão của thánh triều", quả là đúng lắm! VIỆT ÂM THI TẬP Với việc biên soạn Việt âm thi tập, Phan Phu Tiên trở thành người đầu tiên làm hợp tuyển thơ, văn ở nước ta. Việc làm này của ông càng có ý nghĩa, khi được tiến hành ngay sau khi nước ta thoát khỏi ách đô hộ của quân Minh. Cuộc xâm lược của giặc Minh đã gây ra rất nhiều tội ác với nước ta, trong đó tội hủy hoại văn hóa được coi là nghiêm trọng nhất. Chúng đã phá hủy các đền miếu, đốt sạch các sách vở, thư tịch nhằm xóa sổ kí ức văn hóa của người Việt. Vì vậy, việc khôi phục các giá trị văn hóa của đời trước là vô cùng cấp thiết, và Phan Phu Tiên đã làm được việc ấy chỉ vài năm sau khi đất nước được thái bình. Mặc dù ông rất khiêm tốn khi nói về công việc của mình: "Lúc đi làm, thường tìm sâu, hỏi rộng, lúc về nhà vẫn cầm bút, mài nghiên... làm cho những áng văn đã bao năm mai một, bỗng chốc được tỏ rạng ra đời". Song ta có thể hình dung công việc biên soạn một bộ tuyển thơ của nhiều đời phức tạp như thế nào, nhất là trong hoàn cảnh nhiều văn bản chắc chắn đã bị đốt hoặc thất tán trong thời gian giặc Minh chiếm đóng. Và đồng thời, ta cũng có thể nghĩ mà không sợ sai rằng, chính trong những năm còn trống vắng trong tiểu sử của Phan Phu Tiên, kể từ cuối đời Trần đến đầu đời Lê, ông đã lo ẩn náu để lưu giữ các sách của người xưa, ghi chép hoặc ghi nhớ đề phòng chúng bị thất truyền. Rồi đến khi có điều kiện, ông đã tiến hành ngay công việc biên soạn thành bộ Việt âm thi tập để lại cho đời. TUYỂN THƠ VĂN XƯA VÀ NAY Tiếp sau Phan Phu Tiên, nhiều người khác cũng làm các bộ thi tuyển, văn tuyển. Có thể kể đến các tập Cổ kim thi gia tinh tuyển của Dương Đức Nhan (thời Lê Thánh Tông), Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương (cũng thời Lê Thánh Tông), Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784), Hoàng Việt thi văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744 - 1818)... Nhờ đó mà nhiều áng thơ văn cổ có giá trị của dân tộc đã được lưu lại. Bên cạnh đó, một số văn bản đặc biệt còn được ghi lại trong các bộ chính sử của nước ta, như Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của Lý Công uẩn lần đầu tiên được Ngô Sĩ Liên chép trong Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XV), sau đó được Bùi Huy Bích tuyển trong sách Hoàng Việt thi văn tuyển, ở vị trí đầu tiên. Thời hiện đại cũng có nhiều người làm tuyển thơ văn cổ hoặc hiện đại, như bộ Thơ văn Lý Trần (hai tập, 1977; 1989) do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chủ biên; bộ Tinh tuyển Văn học Việt Nam (2005) do Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên... Đặc biệt phải kể đến bộ Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh là một công trình biên soạn có giá trị không chỉ ở việc tuyển chọn được những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ Mới, mà còn giới thiệu được những tác giả xuất sắc nhất của nền thi ca hiện đại Việt Nam. V (THẾ KỈ 15) Nhà làm luật đầu tiên của nước ta ào những năm cuối cùng của thế kỉ 14, nhà Trần trở nên suy yếu. Vua Nghệ Tông trước khi mất (1394) giao cho một người họ hàng bên ngoại vua là Lê Quý Ly làm Phụ chính Thái sư. Quý Ly rất chuyên quyền, có mưu đồ thoán đoạt. Bốn năm sau, ông phế bỏ Thuận Tông, đưa Thái tử Án mới 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Hai năm sau nữa (1400), ông bắt Thiếu đế (vốn là cháu ngoại) nhường ngôi cho mình, đổi thành họ Hồ vì tổ tiên từ Trung Quốc sang, vốn họ này, lập ra nhà Hồ. Nhà Hồ có nhiều chính sách tiến bộ. Riêng về việc tuyển chọn nhân tài, Hồ Quý Ly thấy được sự cần thiết của các tri thức thực tế nên đặt thêm môn Toán pháp vào các kì thi, người đỗ đạt được gọi là Thái học sinh (tức Tiến sĩ). Lấy cớ giúp nhà Trần khôi phục lại cơ nghiệp, triều đình nhà Minh bên Trung Hoa đem quân sang đánh nước ta. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt về Kim Lăng giam giữ. Quân Minh còn truy tìm những người có tài đức, học rộng, văn hay, hiểu toán pháp... đưa sang Trung Quốc để nước ta hết người tài. Trong số những người bị bắt ấy có một thanh niên tuấn tú, đã đỗ kì thi hương là Triệu Thái (chưa rõ năm sinh), quê ở xã Hoàng Chung, huyện Lập Thạch, thuộc Tây Đạo (nay là thôn Hoàng Chung, xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Thái thông minh, ham học, thích đọc sách để mở mang kiến thức. Trong tình thế gần như giam lỏng bên nước người, Thái tận dụng mọi điều kiện để học hành. Mấy khi có thể đến tận "quê hương của chữ thánh hiền" (tức chữ Nho, theo quan niệm thời ấy) với sách vở đầy đủ như thế! Chẳng bao lâu, sức học của anh vượt chính những người Trung Quốc và không ai dám coi thường chàng trai từ xứ "man di" bị bắt sang ấy, thậm chí nếu ai "bí" về điều gì trong ngôn ngữ, điển tích Trung Hoa cũng tìm hỏi anh. Đến kì thi, anh lều chõng lên Yên Kinh (kinh đô của nhà Minh, nay là Bắc Kinh) ứng thí. Triệu Thái đỗ tiến sĩ trong cuộc tranh tài với các thí sinh từ khắp nước Trung Hoa rộng lớn bằng chính ngôn ngữ của họ. Trị vì nhà Minh lúc đó là Vĩnh Lạc (1403 - 1424), hoàng đế thứ ba triều Minh. Khi nhà vua triệu các tân khoa tiến sĩ vào triều ban yến, ông rất khen ngợi vị tiến sĩ xuất thân từ "huyện Giao Chỉ" xa xôi và phong cho Triệu Thái chức Hàn lâm học sĩ tại triều đình. Lương nhiều, bổng hậu, nhà cao, cửa rộng... sống giữa kinh đô tráng lệ của một nước lớn nhưng quan Hàn lâm học sĩ vẫn cảm thấy thân phận cô đơn của kẻ đất khách quê người. Luôn nhớ về cố quốc, ông hồ hởi theo dõi từng bước phát triển, từng trận thắng của nghĩa quân Lam Sơn qua những công văn báo tin thất trận của tướng giặc trị nhậm ở Đông Quan (tên nhà Minh đặt cho Thăng Long khi ấy). Rồi những cánh quân cứu viện hùng hậu của Liễu Thăng kéo sang Đại Việt bị đánh tan tác, quân của Mộc Thạnh sợ hãi tự động rút lui, Vương Thông bị vây hãm bốn bề ở thành Đông Quan... Biết tin cuộc khỏi nghĩa sắp toàn thắng, Triệu Thái vào chầu vua nhà Minh, lấy cớ cha mẹ bị ốm đau xin về quê ít lâu để phụng dưỡng. Năm 1428, Bình Định Vương Lê Lợi lấy lại được giang sơn Đại Việt. Ông lên ngôi Hoàng đế, tức Lê Thái Tổ, luận công khen thưởng, ban chức tước cho các quan, tổ chức lại công việc triều chính. Ông bỗng giật mình nhận ra, xung quanh ông đều là những võ tướng trên lưng ngựa, chỉ quen chiến trận, vào sinh ra tử để giành lại non sông. Trừ Nguyễn Trãi và một số người giúp việc, vị Thái tổ nhà Lê thấy thiếu hẳn những văn thần lo việc an dân trị nước, tổ chức bộ máy hành chính và kiến tạo các quy chế xã hội. Ông liền bàn với Nguyễn Trãi và triều đình, ngay năm sau mở khoa thi đầu tiên để tuyển người ra làm quan, giúp nước. Với danh hiệu một vị Tiến sĩ ở Trung nguyên, hẳn Triệu Thái sẽ được trọng dụng ngay nếu ông vào yết kiến nhà vua. Song vì danh dự kẻ sĩ, ông không tìm cách tự đề cử, mà chờ. Quả nhiên ông đã không phải đợi lâu. Ngày 25 tháng Hai năm Kỉ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ mở khoa thi Minh kinh. (Khoa thi Minh kinh có từ thời Lý, người đỗ được gọi là Minh kinh bác sĩ, khoa sau gọi là Tiến sĩ và các sử gia cũng thường dùng từ này). Tiêu chuẩn để lấy đỗ gồm Hiền, Lương, Phương, Chính (tài giỏi, lương thiện, đức hạnh, ngay thẳng). Nghĩa là ngoài sự học rộng, tài cao, còn phải đạt cả những phẩm chất về đạo đức, tư cách. Triệu Thái dự thi với danh nghĩa một ẩn sĩ. Kì thi đầu tiên dưới triều Lê này chỉ lấy được có bảy người, đủ thấy tiêu chuẩn chọn lựa khắt khe thế nào. Theo Đại Viêt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, cũng như bia Tiến sĩ ở Văn Miếu, Triệu Thái là người đỗ đầu khoa Minh kinh năm ấy (năm Thuận Thiên thứ hai, Kỉ Dậu, 1429). Theo lệ, người đỗ thủ khoa được gọi là Trạng nguyên, song vua Lê mới lên ngôi, chỉ khiêm tốn ban danh hiệu Tiến sĩ. Như vậy, về danh nghĩa, Triệu Thái là "Lưỡng quốc Tiến sĩ" do trước đó ông cũng đã có được danh hiệu này của triều đình Trung Hoa ban. Song về thực chất, ông còn hơn thế nữa. Chính vì vậy, tại đền thờ ông ở quê hương Lập Thạch có đôi câu đối: Tiến sĩ lưỡng bang nhân mạch đối Lưu danh vạn cổ nhật chỉ quang. Có nghĩa là "Tiến sĩ hai bang không người sánh / Tên ghi muôn thủa sáng ngày nay". Vua Lê Thái Tổ gặp ông như cá gặp nước, vì ông chính là người mà nhà vua cần hơn hết trong việc soạn thảo luật lệ, quy định những kỉ cương, phép tắc của một xã hội vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh. Nhà vua đã trao cho ông một chức vụ quan trọng: Thị ngự sử (thời sau gọi là Đô ngự sử), đứng đầu Ngự sử đài. Nhiệm vụ của ông là soạn ra một bộ luật cho đất nước. Thực ra, ở các triều đại trước không phải là không có luật, nhưng còn thiếu hệ thống, các điều được đặt ra thường là rời rạc, chắp vá, đôi khi hết sức tùy tiện! Với sự hiểu biết sâu sắc luật lệ của triều đình Trung Hoa, nhà nước phong kiến điển hình, lại nắm vững phong tục tập quán của người Việt, thấu hiểu khát vọng vươn lên của xã hội nước Việt đương thời, Triệu Thái đã nhận thức được rõ rệt sự khác nhau cơ bản giữa hai dân tộc. Ông đầu tư suy nghĩ để tìm ra cái gì là đặc thù Đại Việt. Cùng vói sự tham bác ý kiến của hai vị đại thần rất uyên bác là Nguyễn Trãi và Phan Phu Tiên, ông đã viết nên bộ luật chính thống đầu tiên của nước ta: bộ "Quốc triều điều luật". Bộ luật này có tính khoa học và phù hợp vói đặc điểm của xã hội Việt Nam. Nó lập lại kỉ cương trong bối cảnh nước ta đã chấm dứt chiến tranh song còn nhiều tệ nạn và thói quen tùy tiện nhân danh thời chiến, giải quyết các việc theo kiểu quân sự hóa mà thiếu căn cứ cụ thể. Nhiều nhà làm luật cho rằng luật tuy nghiêm khắc nhưng chính nhờ thi hành nó mà xã hội đi vào nền nếp, xóa bỏ được nhiều hủ tục. Tất nhiên, vì lần đầu xây dựng nên nó không thể đầy đủ. """