"
Trở Về Từ Xứ Tuyết PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trở Về Từ Xứ Tuyết PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
TRỞ VỀ TỪ XỨ TUYẾT
Phóng tác: NGUYÊN PHONG
First News
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng Biên tập
ĐINH THỊ THANH THỦY
Chịu trách nhiệm bản thảo:
HOÀNG THỊ HƯỜNG
Biên tập: Nguyễn Thị Hoài Thanh
Bìa: Nguyễn Hùng
Trình bày: Bích Trâm
Sửa bản in: Lê Thị Kim Hồng
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q.1 - TP.HCM
ĐT: 38225340 - 38296764 - 38247225 - Fax: 84.8.38222726 Email: tonghop@nxbhcm.com.vn
Sách online: www.nxbhcm.com.vn / Ebook: www.sachweb.vn NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 1
62 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1, TP.HCM - ĐT: 38 256 804 NHÀ SÁCH TỔNG HỢP 2
86 - 88 Nguyễn Tất Thành, Q.4, TP.HCM - ĐT: 39 433 868 Thực hiện liên kết
Công ty TNHH Văn hóa Sáng tạo Trí Việt (First News) 11H Nguyễn Thị Minh Khai, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM In lần thứ 1, số lượng 4.000 cuốn, khổ 14.5 x 20.5 cm tại Công ty TNHH In SX-TM-DV Liên Tường (240/59 -240/61-240/63 Nguyễn Văn Luông, P. 11, Q. 6, TP. HCM). Xác nhận đăng ký xuất bản số 2341-2016/CXBIPH/04-161/THTPHCM ngày
19/07/2016 - QĐXB số 1042/QĐ - THTPHCM-2016 ngày 15/08/2016. ISBN: 978-604-58-5500-3. In xong và nộp lưu chiểu quý III/2016.
LỜI GIỚI THIỆU
M
ặc dù nhân loại đã đặt chân lên cung trăng, đã phóng phi thuyền lên những hành tinh cách xa trái đất hàng vạn dặm, nhưng mấy ai đã đến được những thung lũng
hoang vu, đầy kỳ hoa dị thảo trên dãy Tuyết Sơn hay tiếp xúc và học hỏi được với các vị thánh nhân, hiền triết đang ẩn tu trên đó?
Đối với người Âu Mỹ, Tuyết Sơn chỉ là một rặng núi tương tự như trăm ngàn các rặng núi khác trên mặt địa cầu, nhưng người châu Á lại xem Tuyết Sơn như một nơi chốn linh thiêng, có ảnh hưởng rất lớn đối với số phận nhân loại. Trong khi người châu Á sùng kính những bậc hiền triết ẩn tu nơi đây và thường không quản khó khăn trèo đèo lội suối để tìm thầy học đạo thì người Âu Mỹ chỉ coi các tu sĩ sống trên núi tuyết như những kẻ vô học, đầy mê tín dị đoan mà thôi.
Đầu thế kỷ XX, một giám mục người Anh, ông C.W. Leadbeater đã tìm lên Tuyết Sơn để nghiên cứu truyền thống tâm linh nơi đây. Đối với người châu Á, việc tầm sư học đạo không phải là một điều lạ, nhưng việc một người phương Tây mạo hiểm tìm lên Tuyết Sơn để học hỏi các ẩn sĩ nơi đây quả là một sự kiện vô cùng hiếm có. Đặc biệt hơn nữa, người này lại là một vị giám mục nhiều uy tín, cai quản một giáo xứ rộng lớn tại Anh quốc. Ông đã gạt bỏ những thành kiến hẹp hòi và các dư luận thiển cận về truyền thống phương Đông lúc đó để tìm hiểu về những chân lý cổ xưa vẫn được gìn giữ cẩn thận trải qua hàng ngàn năm nay.
Sau nhiều năm nghiên cứu, ông trở về Anh quốc và chia sẻ những kinh nghiệm thu tập được qua nhiều bài thuyết giảng và
những cuốn sách nói về những hiền triết trên Tuyết Sơn. Ông viết: “Tôi không đòi hỏi mọi người phải tin những điều tôi trình bày nhiều, chỉ muốn quý vị hãy bình tâm suy gẫm và nếu chưa thể chấp nhận được nó trong lúc này thì tôi hy vọng nó sẽ gây một hứng khởi tâm linh nào đó để trong tương lai, quý vị có thể tìm hiểu nó một cách rõ ràng hơn”. Theo ông, việc học hỏi với các hiền triết trên Tuyết Sơn đã củng cố niềm tin tôn giáo của ông một cách vững chắc hơn về những điều mà trước đó, tuy được học hỏi qua truyền thống phương Tây, nhưng ông không thực sự chứng nghiệm được.
Ông kết luận rằng trong vũ trụ vẫn có những định luật không bao giờ thay đổi hay những chân lý đã được những bậc giáo chủ khi xưa chứng nghiệm và giảng dạy cho học trò. Những lời dạy bảo này được đúc kết và truyền dạy qua các tôn giáo lớn nhưng theo thời gian, một số điều đã bị hiểu lầm hay giảng dạy sai lạc đi làm mất cái giá trị đích thực của nó khiến cho tôn giáo thay vì sống động đã trở nên khô khan, biến chất thành một hình thức giáo điều cứng nhắc. Vì thế, không những tôn giáo phải lùi bước trước trào lưu tiến bộ của nền khoa học mà còn bị lợi dụng để trở thành công cụ cho những chủ thuyết phi nhân. Ông quan niệm phải khôi phục lại nền tảng giá trị tâm linh bằng cách nghiên cứu các chân lý hằng có trong vũ trụ, phá vỡ các giáo điều thiển cận đang chia rẽ con người, và bổ túc cho sự bất toàn của khoa học để tránh cho nhân loại khỏi bước vào thảm trạng diệt vong của những trận chiến tranh, bạo động, thù hận đang bùng nổ khắp nơi trong thời buổi hiện nay.
- Nguyên Phong
CHƯƠNG 1
N
ếu quan sát những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy sự sống vốn tiềm ẩn, chỉ có những triển khai và kiến hiệu của nó được phơi bày ra mà thôi. Nền
khoa học nhờ quan sát sự triển khai này mà đặt ra được những lý thuyết để giải thích các hiện tượng trong thiên nhiên, như cây cối phát triển từ hạt giống, sinh vật có loài đẻ trứng, có loài phát triển từ bào thai… thì khoa học ngày nay vẫn chưa giải thích được cái mãnh lực thiêng liêng, vô hình đang âm thầm thúc đẩy mọi sinh hoạt của sự sống trên mặt địa cầu này vì nó tiềm ẩn, không thể quan sát bằng mắt thường hay các dụng cụ khoa học được. Do đó nền khoa học vẫn còn thiếu sót, cần được bổ sung thêm.
Nếu suy nghiệm kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy mọi hiện tượng trong trời đất không hề xảy ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên mà tuân theo những quy luật nhất định: Mọi sự đều thay đổi theo thời gian chứ không thể tồn tại mãi và mọi vật đều biến chuyển theo chu kỳ: sinh ra, trưởng thành, cằn cỗi rồi thoái hóa (Sinh, Trụ, Hoại, Diệt) tương tự như thời tiết có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Từ ngàn xưa, các đạo gia và hiền triết đã chứng nghiệm được những quy luật thiên nhiên này và gọi nó là chân lý vì tính cách bất biến, không thay đổi theo thời gian. Các hiền triết thời cổ cho rằng có một mãnh lực vô hình trong vũ trụ, điều hành tất cả mọi vật, vì thiếu một danh xưng chính xác nên họ đã tạm gọi nó là “tư tưởng của Thượng Đế”. Họ dẫn chứng rằng tư tưởng có trước hành động, thí dụ như trước khi sáng tác một bức tranh, người họa sĩ phải có ý tưởng về bức tranh đó trong tâm trước khi vẽ lên khung vải. Trước khi soạn một bản nhạc, người nhạc
sĩ phải có sẵn âm hưởng, tiết tấu trong đầu. Cũng như thế, Thượng Đế đã suy tưởng ra vạn vật trước khi chúng được hình thành và luồng tư tưởng này chính là cái động năng ẩn tàng đằng sau mọi sự kiện trong thiên nhiên, thúc đẩy mọi sinh hoạt của sự sống. Hiền triết Bruno* đã nói với học trò: “Hãy dệt cho Thượng Đế một chiếc áo, nhờ đó các con sẽ thấy được ngài vì qua các vật hữu hình mà các con sẽ thấy được những vật vô hình”.
(*) Giordano Bruno: Là một tu sĩ dòng Đa Minh, triết gia, nhà toán học và nhà thiên văn học người Ý.
Các bậc giáo chủ là những người đã chứng nghiệm và hợp nhất được với yếu tố này, rồi rút ra những quy tắc thích hợp với trình độ hiểu biết của con người trong lúc đó và mang ra giảng dạy. Chúng ta cần chú ý rằng chân lý đã được các bậc giáo chủ chứng nghiệm thì nhiều nhưng điều các ngài mang ra giảng dạy lại rất giới hạn. Đức Phật đã có nói với các đệ tử: “Điều ta biết thì nhiều như lá cây trong rừng nhưng điều ta dạy cho các con chỉ như nắm lá cây trong tay ta mà thôi”. Đức Jesus cũng nói với các tông đồ: “Ta còn nhiều điều để nói với các con nữa nhưng bây giờ các con không thể đương nổi”. (S. John 16:12). Một chi tiết khác rất quan trọng mà ít người để ý đến là các đấng giáo chủ không hề thành lập tôn giáo. Các ngài chỉ giảng dạy những điều đã chứng nghiệm được cho học trò mà thôi. Chính học trò các ngài đã đúc kết những lời giảng dạy đó lại thành một hệ thống tư tưởng với những quy luật nhất định. Theo thời gian, hệ thống tư tưởng này trở thành tôn giáo và những quy luật trở thành giáo điều. Nếu đi về cội nguồn thì mọi tôn giáo đều phát xuất từ những chứng nghiệm nội tâm của các bậc giáo chủ qua sự hiểu biết về chân lý hằng có trong vũ trụ. Do đó không một tôn giáo chân chính nào lại có thể đi ngược với các chân lý của vũ trụ được.
Chân lý là quy luật của vũ trụ nên không bao giờ thay đổi, nhưng tôn giáo là sự giải thích chân lý của con người nên chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán và thường bị thay đổi cho
phù hợp với hoàn cảnh thời gian và không gian. Trong giai đoạn mới thành lập, các quy luật tôn giáo còn theo đúng những lời dạy bảo của các bậc giáo chủ, hoặc nói một cách khác, phù hợp với chân lý của vũ trụ thì tôn giáo đã đào tạo biết bao thánh nhân, hiền triết mà tài năng, đức độ của họ đã cảm hóa và đem lại hứng khởi tâm linh cho hàng triệu người sau đó. Theo thời gian, một số giáo sĩ vì thiếu nghiêm cẩn trong việc hành trì giới luật, thiếu kinh nghiệm tâm linh, đã giảng dạy chân lý sai lạc hoặc thêm thắt ít nhiều khiến cho tôn giáo, thay vì là kinh nghiệm tâm linh sống động, đã trở thành một hình thức giáo điều khô khan và dần dần thoái hóa. Điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ, qua những tôn giáo thời cổ mà ngày nay ít ai biết đến, và sẽ xảy ra trong tương lai nếu chúng ta không biết gìn giữ cái gia tài tâm linh cao quý mà chúng ta có diễm phúc được thừa hưởng.
Hãy xét lại lịch sử châu Âu thời Trung cổ khi tôn giáo chiếm địa vị độc tôn. Bất cứ điều gì đi ngược lại sự giải thích của các giáo sĩ lúc đó đều bị coi là tà thuyết và kẻ đề xướng bị coi là phản đạo. Đây là giai đoạn mà tinh hoa Thiên Chúa giáo đã bị giảng dạy sai lạc rất nhiều khiến cho giáo lý đầy bác ái của Đấng Cứu Thế đã bị sửa đổi thành một thứ “Thần quyền” với những ngụy tạo trắng trợn, nhằm mục đích phục vụ cho thiểu số vua chúa đang nắm quyền.
Thời Trung cổ là một thời đại hết sức đen tối trong lịch sử châu Âu, người ta đã nhân danh Thượng Đế để đặt ra những luật pháp khắt khe và bất công để áp bức những kẻ không đồng ý kiến với họ và gây ra những cuộc tranh chấp đẫm máu. Sự phát triển của khoa học trong thời đại Phục Hưng đã đánh đổ những quan niệm hẹp hòi cũ kỹ này, đặt nền móng cho một xã hội dân chủ, khiến cho tôn giáo dần dần mất ảnh hưởng đối với quần chúng và phải lui bước trước trào lưu tiến bộ của khoa học. Tiếc thay, khoa học ngày nay lại đi đúng vào vết xe cũ, bước vào địa vị độc tôn, và bất cứ điều gì đi ngược lại sự giải thích của các khoa học gia đều bị coi là “phản khoa học” và không được chấp
nhận. Để vượt ra khỏi những cực đoan này, con người cần khôi phục nền tảng đạo đức tâm linh qua việc tìm hiểu các chân lý hằng có trong vũ trụ, để phá vỡ các giáo điều thiển cận đang chia rẽ con người và bổ túc cho sự bất toàn của khoa học. Chỉ có sự hiểu biết chân chính và tình thương rộng lớn mới tránh cho nhân loại khỏi các thảm trạng diệt vong, những nghi kỵ chia rẽ và những bạo động thù hận đang bùng nổ khắp nơi trên thế giới.
Các nhà khoa học cần biết rằng nền tảng khoa học hiện nay vốn xây dựng trên việc quan sát các hiện tượng bên ngoài còn thiếu sót và cần được bổ túc bằng các yếu tố bên trong thì mới toàn vẹn. Hãy lấy ví dụ một nhà khoa học sử dụng kính hiển vi để quan sát một hiện tượng gì đó. Ông ghi nhận các diễn tiến rồi đặt ra lý thuyết để giải thích sự kiện trên. Ít lâu sau, với sự phát minh ra kính hiển vi điện tử, có thể gia tăng cường độ ống kính lên hàng ngàn lần, nhà khoa học lại quan sát hiện tượng trên và khám phá thêm nhiều sự kiện mới lạ mà trước đây ông không biết. Vì thế, cái lý thuyết ông đưa ra lúc trước không còn đúng nữa. Sự quan sát lúc đầu của ông thật ra không sai nhưng khiếm khuyết và cái lý thuyết đưa ra khi trước không hoàn hảo vì xây dựng trên căn bản bất toàn. Do đó, người ta không nên vội vã kết luận rằng khoa học có thể giải thích tất cả mọi sự.
Đối tượng của khoa học là các sự kiện bên ngoài cần phải được bổ túc thêm bằng các sự kiện bên trong qua sự nghiên cứu các yếu tố còn tiềm ẩn. Các nhà khoa học cần phải quay về nội tâm để tìm hiểu cái động năng đã thúc đẩy họ nghiên cứu, phát minh và ý thức vai trò của khoa học đối với con người và xã hội. Nói một cách khác, ngoài việc phát triển kiến thức, các nhà khoa học còn phải ý thức về trách nhiệm của mình trong đại gia đình nhân loại nữa. Phát triển kiến thức để đem lại lợi ích cho con người là việc nên làm, còn nếu phát minh đó chỉ gây đau khổ cho người khác thì cần phải tránh. Khoa học mà thiếu lương tâm là một tai họa, kiến thức mà không có đạo đức sẽ là một mối đe dọa lớn. Một người hiểu biết không thể góp phần vào
những việc có tính cách gây chia rẽ, mâu thuẫn hay hủy hoại con người được.
Cũng như thế, các tín đồ tôn giáo cần nhận thức rằng trải qua bao nhiêu thế kỷ, tôn giáo đã ít nhiều bị thay đổi, khác với tinh hoa lúc đầu. Danh từ “Religion” (tôn giáo) gốc ở chữ Latin “Lier” có nghĩa là liên kết. Tôn giáo liên kết con người với Thượng Đế và các đấng giáo chủ là người đã được giao phó sứ mạng dạy dỗ con người về sự liên hệ mật thiết giữa con người và Thượng Đế này. Đức Jesus đã nói: “Không phải tự Ta mà chính Cha Ta sai Ta đến”. Ngài đã mang đến thế gian một thông điệp của Thượng Đế cho những kẻ biết lắng nghe và gieo những hạt giống yêu thương để chúng đơm hoa kết trái. Ngài đến với nhân loại không phải để thành lập một tổ chức hữu hình mà để phổ biến những chân lý trong vũ trụ để con người hiểu luật trời và theo đó mà sống. Tổ chức chỉ được dựng lên sau khi Ngài từ trần để học hỏi về những điều Ngài chỉ dẫn, nó vốn rất cao đẹp trong thời gian đầu nhưng sau đó nó dần dần thay đổi và biến chất. Đây không phải là điều ngạc nhiên vì trong vũ trụ không một cái gì có thể tồn tại mãi được, chỉ có chân lý hay khía cạnh ẩn mật đằng sau tôn giáo mới trường cửu muôn đời. Những lời dạy bảo nguyên thủy thường bị người đời sau thêm bớt, sửa đổi qua những cuộc bàn luận, tranh cãi về những điều mà Ngài đã giảng dạy cũng như ý nghĩa của các lời dạy bảo này. Hậu quả là tôn giáo bị phân chia thành các tông phái khác nhau, mỗi nhóm giải thích chân lý theo sự hiểu biết riêng của họ. Đây là tình trạng chung của những tôn giáo lớn hiện nay.
Là một giám mục, tôi thấy đã đến lúc cần phải lên tiếng về những sai lầm trong thời Trung cổ khi một số giáo sĩ đã “giản dị hóa” tinh hoa tôn giáo để bành trướng ảnh hưởng của họ. Những người này chủ trương “không có điều gì đáng được truyền bá ngoại trừ những điều mà bất cứ ai cũng có thể hiểu được”. Việc hạ thấp tinh hoa tôn giáo xuống thành một hình thức tin tưởng mù quáng để phục vụ quyền lực của thiểu số đã tạo mầm mống cho sự chia rẽ tôn giáo hiện nay. Thật là một sai
lầm tai hại khi có kẻ dám quả quyết giáo lý cao tột của Đấng Cứu Thế chẳng khác gì tư tưởng của một kẻ khôn ngoan hay đạo đức của một kẻ thấp hèn mà bất cứ ai cũng có thể hiểu được. Điều đáng tiếc là suốt bao năm qua, nhiều người vẫn chấp nhận quan niệm này mà không chịu tìm hiểu thêm về những ý nghĩa sâu xa, ẩn dụ mà Đấng Cứu Thế đã giảng dạy cho học trò.
Có người cho rằng những điều cần thiết đều được ghi rõ trong Kinh Thánh rồi và chỉ cần tin theo đó chứ không cần phải hiểu. Họ cần biết rằng Kinh Thánh được viết bằng ngôn ngữ đặc biệt với những ẩn dụ sâu xa, nhiều ý nghĩa mà một tín đồ chân chính cần phải suy nghiệm kỹ lưỡng chứ không thể đọc dưới hình thức “chữ đâu, nghĩa đó”. Cũng vì sự tin tưởng mù quáng này mà nhiều nhà khoa học đã lợi dụng cơ hội để chứng minh rằng các câu chuyện trong Kinh Thánh đều vô lý và phản khoa học, rồi phủ nhận giá trị của nó.
Nếu nghiên cứu lịch sử mọi tôn giáo, người ta sẽ thấy các đấng giáo chủ thường dạy riêng cho một số ít học trò những điều mà đa số quần chúng cũng không thể lĩnh hội. Hầu hết mọi tôn giáo đều có hai phần: công truyền và bí truyền. Phần công truyền được giảng dạy rộng rãi cho mọi người và được biết đến dưới hình thức quy luật, giáo điều. Phần bí truyền hay tinh hoa tôn giáo được gìn giữ cẩn thận, chỉ truyền cho những người đã được lựa chọn mà thôi. Theo thời gian, phần công truyền có thể bị sửa đổi để thích nghi với hoàn cảnh thời gian nhưng phần bí truyền, vốn là những tinh hoa phù hợp với sự chứng nghiệm tâm linh của các giáo chủ, thì không bao giờ thay đổi.
Qua các tài liệu lịch sử, người ta thấy khi xưa các giáo sĩ Ai Cập đã gìn giữ phần bí truyền của họ bằng mật ngữ (Hieroglyphic) mà chỉ một số ít đạo đồ được học hỏi. Cũng như thế, các hiền triết Hy Lạp lựa chọn một vài học trò để truyền riêng. Hiền triết Pythagoras tuyên bố: “Người ta không thể nuôi cừu bằng các tài liệu nghiên cứu về thảo mộc thay cho cỏ được, do đó chỉ những kẻ có thể tiêu hóa được các món ăn tinh thần mới xứng đáng
bước chân vào trường học của ta”. Đức Phật Thích Ca cũng nói: “Ta có Chánh Pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền chỉ truyền riêng cho tổ Ma Ha Ca Diếp”. Kinh Thánh cũng ghi nhận: “Khi Đức Jesus ở một mình thì mười hai môn đồ đã đến hỏi Ngài về những thí dụ đó và Ngài trả lời: ‘Thí dụ được đưa ra cho các con để biết được sự mầu nhiệm của Thiên quốc, nhưng chỉ riêng cho những ai biết đặt sự hiểu biết bên ngoài những lời nói bóng bẩy mà thôi, còn đối với đa số người ngoài thì mọi sự ấy chỉ là những thí dụ’”. (Mark 4:10). Người ta có thể hiểu rằng sau khi đám đông quần chúng đã giải tán thì một số môn đồ thân tín đến học thêm với Ngài và Ngài giải thích rõ ràng mọi điều cho họ.
Nhiều người không chấp nhận việc Đức Jesus đã dạy riêng cho ai và chủ trương rằng tất cả điều cần phải nói đã được Ngài nói ra cho quần chúng rồi. Họ dẫn chứng tài liệu của các tu sĩ thời Trung cổ ghi nhận: “Chỉ cần tin chứ không cần hiểu vì không có điều gì cần phải học ngoại trừ những điều đã được nói ra mà ai cũng biết”. Đây là một giải thích hẹp hòi, làm giảm giá trị chân lý cao siêu mà Đấng Cứu Thế đã dạy; không những thế nó còn ngụ ý một sự kiêu căng, khinh thường sự hiểu biết của mọi người.
Tôi thấy mình có bổn phận phải phủ nhận những lời giải thích có tính cách ngông cuồng đó và nhắc nhở những tín đồ chân chính hãy suy gẫm về câu “Đừng bỏ vật thánh cho chó và đừng quăng châu ngọc cho heo” (Mark 7:6). Hiển nhiên Đức Jesus đã giảng dạy rất nhiều nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được những điều Ngài chứng nghiệm. Đối với quần chúng, Ngài chỉ giảng dạy những gì thích hợp với khả năng và trình độ hiểu biết của họ mà thôi, nhưng điều này không có nghĩa rằng giáo lý của Ngài chỉ đơn giản như thế. Đôi khi một câu nói giản dị lại chứa đựng những ngụ ý cao cả, những xác quyết thâm sâu mà người khác không thể hiểu. Chỉ những môn đồ thân tín thường quy tụ quanh Ngài mới được chỉ dẫn. Bổn phận của chúng ta ngày nay là suy gẫm kỹ lưỡng những lời dạy của Ngài và thực hành giáo lý
đầy thương yêu đó để phục hồi những tinh hoa mà Ngài đã chỉ dẫn cho chúng ta.
Như tôi đã trình bày ở trên, mục đích của mọi tôn giáo đều nhằm vào sự cải thiện và hướng dẫn con người sống thuận theo những chân lý hằng có trong vũ trụ; thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại từ chỗ man rợ, vô minh đến sự hoàn hảo hay Chân, Thiện, Mỹ; khuyến khích sự hợp nhất tinh thần con người với cái yếu tố thiêng liêng bao trùm khắp vũ trụ để cho “Thượng Đế là tất cả trong tất cả” (1 Cor. 15:28). Theo tôi, sự hiểu biết về chân lý là những nấc thang đưa nhân loại đến mục đích chung là sự hoàn hảo hay tận thiện, nhưng vì mỗi người đều có những quan niệm hay sự hiểu biết không giống nhau nên việc đưa ra một giáo lý chung cho tất cả sẽ không có lợi ích bao nhiêu. Điều mà người thông minh cho là hay thì kẻ dại khờ không thể hiểu; điều thích hợp với kẻ vô học sẽ không mang lại thích thú gì cho các học giả uyên bác. Do đó từ ngàn xưa, tùy theo phong tục tập quán và điều kiện xã hội mà các đấng giáo chủ đã xuất thế tại nhiều nơi khác nhau, giảng dạy chân lý dưới một hình thức thích hợp với thời gian và không gian lúc đó. Tôn giáo có thể ví như các nhánh của một thân cây lớn mà gốc của nó là chân lý, vì mọi tôn giáo đều phát xuất từ những chứng nghiệm nội tâm của các bậc giáo chủ qua sự hiểu biết về chân lý hằng có trong vũ trụ. Do đó không một tôn giáo chân chính nào lại có thể đề xướng một điều gì khác biệt với chân lý bất biến của vũ trụ được.
Điều quan trọng mà con người cần đặt câu hỏi là hiện nay tôn giáo có cải thiện đời sống và đem lại hạnh phúc thật sự cho con người hay không? Hiện nay tôn giáo còn theo đúng với các tinh hoa khi xưa hay không? Hiện nay tôn giáo có theo đúng mục đích ban đầu của các giáo chủ sáng lập hay không? Đây không phải những câu hỏi để đem ra tranh luận vì nó chỉ gây chia rẽ và không giải quyết được gì, nhưng là những câu hỏi riêng tư để mọi người tự đặt ra cho chính mình. Về phần tôi, tuy là một giám mục được huấn luyện cẩn thận, cũng đã có nhiều lúc băn
khoăn và tự đặt câu hỏi với chính mình như vậy. Sau nhiều năm suy nghĩ, tôi quyết định phải tìm thầy để học thêm. Việc “tầm sư học đạo” này đã đưa tôi đến nhiều nơi, học hỏi với nhiều vị thầy nổi tiếng và sau cùng tiếp xúc với các bậc hiền triết đang ẩn cư trên rặng Tuyết Sơn.
Theo tôi được biết, đây là những người có trình độ hiểu biết rất cao, có nhiệm vụ gìn giữ ngọn lửa tâm linh của nhân loại, không để tàn lụi theo thời gian. Các ngài không mấy khi xuất hiện trước quần chúng mà chỉ hoạt động âm thầm bằng cách phóng ra những luồng tư tưởng cao thượng, tốt lành để khuyến khích những người đang theo đuổi con đường tinh thần. Từ ngàn xưa, các đấng cao cả đã xuất hiện để hướng dẫn nhân loại, từ lúc con người còn ăn lông ở lỗ, sống trong hang đá, mặc áo da thú cho đến giai đoạn văn minh ngày nay. Hiện nay, các hiền triết hướng dẫn nhân loại đều phát xuất từ hàng ngũ những người như chúng ta. Các ngài đã vượt qua rất nhiều thử thách, khắc phục được những khó khăn để trở thành những bậc hiền triết. Các ngài đang tiếp tục công việc của những vị thầy cao cả đã đi trước, dạy dỗ nhân loại sống đúng theo các chân lý của vũ trụ, để trở nên hoàn hảo và tốt đẹp theo trào lưu tiến hóa. Điều chúng ta cần là sự thay đổi quan niệm hẹp hòi, đầy chia rẽ từ trước để phát triển một tình yêu thương rộng lớn. Thay vì chú trọng đến sự khác biệt giữa các tôn giáo, con người cần tìm hiểu về sự tương đồng của mọi tôn giáo để thấy rằng tất cả đều có một mục đích chung. Thay vì tìm kiếm một cái gì mới lạ, con người cần quay về nghiên cứu các giáo lý căn bản mà các giáo chủ đã đề xướng và thực hành những lời dạy bảo đó hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân loại.
Những phần trình bày trong cuốn sách này là những điều mà tôi được truyền dạy, tất nhiên nó chỉ là những nét đại cương chứ chưa hoàn toàn vì sự hiểu biết của tôi có giới hạn. Tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng điều mà các ngài biết thì nhiều nhưng điều các ngài chỉ dạy cho tôi chỉ là một phần rất nhỏ. Thật ra đây không phải là những điều mới mẻ gì vì nó đã được giảng dạy từ
xưa trong những đạo viện ở Trung Hoa, Ba Tư, Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp cho một số người đã được lựa chọn cẩn thận. Một vài điều có vẻ như huyền hoặc, khó tin, nhưng tôi không đòi hỏi độc giả phải tin mà chỉ mong quý vị hãy nhìn lại đời mình và những biến cố đã xảy ra để rút ra những bài học rồi so sánh với điều mà tôi trình bày. Chỉ khi nào quý vị hiểu rõ những điều này và thấy nó không hề mâu thuẫn với sự tin tưởng sẵn có của quý vị, thì quý vị có thể áp dụng nó làm phương châm xử thế cho đời sống hiện nay. Nếu quý vị có được những hứng khởi tâm linh hay tiến bộ gì thì tôi ước mong quý vị mang ra hướng dẫn người khác để chúng ta cùng nhau góp sức xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG 2
T
ừ ngàn xưa đã có các bậc giáo chủ xuất hiện trong những thời điểm quan trọng để hướng dẫn nhân loại. Lịch sử đã ghi nhận những nền tôn giáo cổ với những giáo chủ mà
ngày nay không mấy ai biết đến, vì những lời dạy bảo của họ chỉ còn sót lại trong các truyền thuyết mơ hồ. Hiện nay, người ta thường nói đến Đức Krishna của Ấn giáo, Đức Thích Ca của Phật giáo, Đức Jesus của Thiên Chúa giáo, vì các ngài gần với chúng ta hơn và những lời dạy bảo của các ngài vẫn còn được lưu truyền rộng rãi trong xã hội ngày nay. Tuy nhiên, ngoài những đấng cao cả đó còn biết bao các thánh nhân, hiền triết khác, hoặc trực tiếp học hỏi với các đấng giáo chủ đó, hoặc gián tiếp qua sách vở của các ngài để lại, đang theo gương các ngài để hướng dẫn nhân loại. Một số những người này hoạt động âm thầm, chỉ thu nhận một vài học trò để dạy đạo, chứ không xuất đầu lộ diện hay tuyên bố cho người đời biết họ là ai. Họ là những người đang gìn giữ kho tàng tâm linh của nhân loại và sự có mặt của họ trên thế gian là bằng chứng xác đáng về giá trị của những chân lý trong vũ trụ mà chúng ta vô tình không để ý đến.
Trong đời sống hiện nay, kẻ có lòng tin thì ít mà người ngờ vực thì nhiều, đề cập đến sự hiện diện của các hiền triết ẩn danh này chỉ gây bàn cãi sôi nổi, không ích lợi gì nên dù biết, chẳng mấy ai muốn nói ra. Tuy nhiên đã đến lúc tôi thấy cần phải lên tiếng về những người này và lời dạy bảo của các ngài với mục đích phục hồi giá trị đạo đức tâm linh trong thời buổi xã hội quá chú trọng về vật chất và coi nhẹ những truyền thống tâm linh hiện nay. Nhân danh khoa học, một số người đã đề xướng những lý thuyết viển vông, gây đau khổ cho con người. Để cổ xúy cho trào lưu tiến bộ một cách cực đoan, những người đó đã phủ nhận các
truyền thống tâm linh cao quý và thay thế bằng các học thuyết vô thần.
Trong chuyến du hành lên Tuyết Sơn, tôi đã gặp một số hiền triết, những người có trình độ hiểu biết thâm sâu hơn chúng ta. Với lòng thành kính, tôi đã hỏi bằng cách nào mà các ngài đã đạt đến trình độ như thế thì các ngài đều trả lời rằng cách đây không lâu, các ngài cũng ở mức độ tiến hóa như chúng ta hiện nay và với công phu tu tập chuyên cần thì một ngày kia, chúng ta sẽ tiến tới mức độ như các ngài. Câu trả lời giản dị này là bằng chứng hùng hồn về kết quả của công phu tu tập tâm linh. Từ trước đến nay, nhiều người đã quan niệm sai lầm rằng các đấng cao cả phải là những siêu nhân xuất phát từ một chốn nào đó, khác hẳn chúng ta, chứ ít ai tin rằng các ngài đều là người như chúng ta, và với công phu tu tập, một ngày kia chúng ta có thể tiến tới trình độ như các ngài vậy.
Tất cả các hiền triết mà tôi gặp đều không có gì lạ thường cả. Ngoài diện mạo ung dung và cử chỉ điềm đạm, họ không khác người thường bao nhiêu nhưng một khi đã gặp thì ai cũng biết rằng họ đang đứng trước những con người phi thường bởi những rung động thanh cao phát ra từ các ngài. Phần lớn các vị này đều ít nói, có lẽ các ngài chỉ lên tiếng khi có một mục đích nhất định nào đó. Tuy nhiên hầu hết đều có hảo ý và sở hữu một tinh thần hài hước dồi dào; phải nói thêm rằng sự hài hước ở đây không có tính cách mua vui nhưng là một tấm lòng đầy thiện cảm, không đụng chạm đến người khác, mà chỉ để làm nhẹ bớt những nỗi băn khoăn, lo lắng của họ mà thôi.
Vì các hiền triết này ẩn cư trên Tuyết Sơn nên nhiều người cho rằng các ngài phải là người Ấn Độ hay Tây Tạng; nhưng điều này đều không đúng vì tôi đã gặp nhiều vị xuất thân từ phương Tây, da trắng, mắt xanh và có mái tóc vàng sẫm. Các ngài đến từ khắp nơi trên thế giới và hoạt động trên một phạm vi rộng lớn, vượt xa tầm hiểu biết của người thường, do đó chúng ta không thể kết luận các ngài có xuất xứ từ một chủng tộc hay quốc gia
đặc biệt nào. Có người hỏi tôi tại sao các ngài lại sống trên Tuyết Sơn mà không ở một nơi khác? Nhiều vị đã từng tu tập tại các sa mạc miền Trung Đông, có vị sống trong rừng rậm Nam Mỹ nhưng có lẽ vì Tuyết Sơn có một tiềm lực thần bí và chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử nhân loại nên nhiều người đã tìm đến nơi đây ẩn tu. Điều này không có nghĩa là những nơi khác không có các nhân vật cao cả nhưng có lẽ vì truyền thống tầm sư học đạo và lòng sùng kính các bậc hiền giả của người châu Á mà các ngài đã đến ẩn tu tại đây nhiều hơn nơi khác.
Khi đến học hỏi với các hiền triết này, tôi nhận thấy các ngài đều sở hữu những khả năng đặc biệt, vượt xa tầm hiểu biết của người thường. Các ngài suy xét mọi vật với quan niệm khác hẳn chúng ta, vì đầu óc các ngài không còn dấu vết gì của sự tham lam, ích kỷ, thường thấy ở đa số người đời. Để đạt đến trình độ này, các ngài đã phải công phu tu tập để loại trừ bản ngã thấp hèn, để có một đời sống cao thượng, không phải cho mình, mà cho tất cả. Các ngài đã đạt đến trình độ hoàn toàn làm chủ thân, khẩu, ý nên không còn sơ sót gì trong hành động, lời nói hay tư tưởng. Một đặc tính biểu hiện rõ nhất của các ngài là sự phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Hầu hết chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến trình độ cao tột trong mọi lĩnh vực. Ngay cả những nhà bác học thông thái nhất cũng chỉ đạt đến một trình độ nào đó, tuy vượt xa người đương thời nhưng không thể gọi là hoàn hảo về mọi phương diện được. Tất cả chúng ta đều có sẵn mầm mống của một số đặc tính; nhưng mỗi người, tùy theo trình độ tiến hóa cá nhân mà các đặc tính này phát triển hay tiềm ẩn. Trái lại, các bậc hiền triết là những người đã phát triển hoàn toàn về mọi phương diện, và đặc biệt hơn nữa là trí tuệ của các ngài vượt xa người thường. Các ngài không sử dụng lý trí thông thường với những lý luận như chúng ta mà sử dụng một thứ trí tuệ siêu việt, có thể hiểu mọi việc một cách tổng quát, sáng suốt rõ ràng.
Phần lớn các vị tôi gặp đều có hình dáng bên ngoài rất đẹp. Có thể vì các ngài biết sinh hoạt theo đúng phép dưỡng sinh, không
lo lắng, ưu phiền nhưng cũng có thể vì nội tâm các ngài phong phú nên cái sức mạnh nội tại này đã biểu lộ khiến cho hình thể bề ngoài trở nên tốt đẹp hơn. Về sau tôi còn được biết thêm rằng các nghiệp quả xấu của các ngài đã chấm dứt từ lâu nên thể xác của các ngài đã biểu lộ trọn vẹn nguồn sống thiêng liêng vô tận.
Trong các hiền triết tôi đã gặp, đáng kể nhất là ba vị thầy mà tôi mang ơn rất lớn. Đó là hiền triết Morya, hiền triết Kuthumi và hiền triết Djwal Kul. Cả ba vị này đều sống trong một thung lũng nhỏ nằm khuất dưới các đỉnh núi bao la phủ đầy tuyết trắng. Hiền triết Morya và Kuthumi sống trong hai căn nhà ở hai bên sườn núi đối diện nhau, xung quanh có rừng thông xanh rì rào bao phủ và dưới đáy thung lũng có một khe suối, nước trong vắt chảy ngang. Gần đó là một cây cầu xây bằng đá bắc ngang qua suối và một ngôi chùa nhỏ mà thỉnh thoảng dân làng gần đó thường đến đốt hương cầu nguyện. Dọc theo bờ suối là một con đường mòn dài uốn khúc, khi ẩn khi hiện quanh những bụi sơn lựu trổ hoa màu sắc đẹp lạ thường. Vì thung lũng được những rặng núi rất cao bao bọc nên ít ai biết, chỉ có những người Tây Tạng cư ngụ trong làng mạc gần đó thường qua lại lễ Phật tại ngôi chùa dưới đáy thung lũng hoặc một vài vị lạt ma chuyên về dược học, thảo mộc học, biết công dụng của những kỳ hoa dị thảo trong vùng nên tìm đến hái thuốc mà thôi.
Ngôi nhà của hiền triết Kuthumi chia làm hai phần, chính giữa có một hành lang. Bước qua cửa chính là một căn phòng khá lớn, ở giữa đặt một tấm thảm dày mà ngài thường dùng để ngồi thiền. Vì căn phòng có ba mặt là cửa sổ nên ngồi trong phòng, người ta có thể quan sát cảnh vật xung quanh một cách rõ ràng. Cuối phòng đặt một cây dương cầm rất cổ. Phía sau là những kệ sách đóng sát vào vách. Điều làm tôi ngạc nhiên là ngoài những cuốn sách rất cổ được ghi chép bằng tay, còn có một số sách vở cận đại của châu Âu nữa. Hiền triết Kuthumi là một nhà ngôn ngữ học uyên bác, không những nói và viết thông thạo các thứ tiếng như Anh, Pháp, Đức mà còn có thể nói được nhiều thứ tiếng địa phương. Trong nhà còn có một bà lão mà ngài gọi bằng
chị và hai vợ chồng người lão bộc lo công việc cơm nước, vườn tược và dọn dẹp nhưng họ ít khi tham dự vào những buổi dạy đạo cho các đệ tử của ngài.
Hiền triết Kuthumi hiện thân là một người Bắc Ấn thuộc vùng Kashmir nên nước da trắng như người Âu, tóc dài xõa xuống hai vai, đôi mắt trong sáng đầy vẻ an lạc, râu tóc ngài màu nâu chiếu ánh vàng dưới ánh nắng mặt trời. Ngài có một cốt cách phi thường, khó diễn tả vì toàn thân ngài toát ra một luồng từ điện đầy bác ái khiến bất cứ ai đến gần cũng cảm thấy an lạc không sao kể xiết. Ngài thường ngồi yên lặng, đắm chìm trong trạng thái thiền định. Nếu không biết, người ta có thể nghĩ rằng ngài đang ngắm cảnh, nghe chim hót, hoặc lắng nghe tiếng nước suối róc rách chảy dưới khe; nhưng thật ra ngài đang hoạt động âm thầm bằng cách ban rải những luồng từ điện thanh cao đến muôn loài quanh đó. Người phương Đông hiểu và kính trọng sự thiền định nên mỗi khi thấy ngài ngồi yên như thế, không ai dám quấy rầy. Người phương Tây hiển nhiên không dễ gì chấp nhận việc một ông thầy suốt ngày chỉ ngồi yên lặng, không nói năng gì như vậy. Đối với họ, một vị thầy giỏi phải là người nói năng lưu loát, hùng hồn, giảng dạy các lý luận cao xa cho học trò bằng những danh từ cao siêu, huyền diệu. Họ không thể hiểu được rằng các vị thầy phương Đông rất ít khi dạy bằng lời mà thường bằng chính bản thân, nếp sống và cách hành xử của họ. Phải chăng vì lý do này mà các vị hiền triết thường thích sống ở phương Đông hơn phương Tây?
Hằng ngày, đệ tử của ngài, hoặc từ trong các làng mạc quanh vùng, hoặc từ miền xa kéo về, đến ngồi ở hàng hiên trước nhà để nghe dạy bảo. Có khi ngài bước ra dạy họ một vài điều, nhưng cũng có khi ngài tiếp tục thiền định nhưng không ai lấy thế làm phiền. Họ sẵn sàng nhận lãnh một nụ cười, một cái nhìn khuyến khích từ ngài và cung kính ngồi yên để thọ lãnh luồng từ điện an lành toát ra từ vị thầy mà họ vô cùng kính mến. Một đôi khi ngài ăn cơm chung với họ, nhưng thường thì ngài dùng cơm một mình trong phòng. Tôi không rõ ngài có tuân theo quy luật
của Phật giáo, chỉ dùng cơm trước giờ ngọ hay không, vì suốt trong thời gian sống tại đây, tôi không hề thấy ngài ăn cơm chiều bao giờ. Theo sự nhận xét của tôi, ngài không cần phải ăn mỗi ngày và nếu muốn thì ngài dặn người nhà làm một vài món giản đơn mà thôi. Có khi tôi thấy ngài nhịn ăn cả tháng, song cũng có lúc tôi thấy ngài ăn đều mỗi ngày. Bữa ăn của ngài rất thanh đạm, chỉ vài cái bánh nhỏ, một bát cháo hoặc một đĩa trái cây. Ngài ăn rất chậm, thong thả và luôn luôn thực hành những nghi thức nhất định, trước cũng như sau khi ăn.
Khi cần đi đâu, hiền triết Kuthumi thường cưỡi một con ngựa lông đỏ. Hình như cưỡi ngựa là môn thể dục chính của ngài. Ngài thường đến các làng mạc gần đó, thăm viếng vài ngôi chùa và đàm đạo với các vị sư trong vùng. Có khi hiền triết Morya cùng đi với ngài. Vị này thường cưỡi một con ngựa lông trắng rất đẹp. Mặc dù hai ngài là những vị thầy cao cả nhất mà tôi được gặp nhưng có lẽ dân làng quanh đó không biết gì nhiều về các ngài mà chỉ coi các ngài như những nhà quý tộc Tây Tạng rất khoan dung, hiền lành mà thôi.
Hiền triết Morya sống trong một căn nhà xây bằng gạch, có lối kiến trúc độc đáo với hàng hiên khá lớn trước cửa. Ngài có dáng dấp hiên ngang, một thân hình cân đối nảy nở, cặp mắt rất sáng, oai nghiêm, biểu lộ một uy quyền mà người nào nhìn thấy cũng phải kính nể. Tóc ngài đen sẫm xõa xuống tận vai với một bộ râu dài, chẽ ra làm hai phần. Ngài xuất thân là một vị tiểu vương xứ Rajputana thuộc Ấn Độ nên có nét oai nghi như một viên đại tướng. Ngài thường nói những câu ngắn gọn nhưng đầy uy lực khiến người xung quanh phải cung kính hết mực.
Hiền triết Djwal Kul thì sống trong một căn nhà đơn sơ, xây dựa vào một thân cổ thụ rất lớn. Ngài có thân hình nhỏ bé so với hiền triết Kuthumi hay Morya, tôi không rõ ngài là người Tây Tạng hay Ấn Độ. Ngài thường đi đây đó, hoằng pháp độ sinh khắp nơi nên ít khi có mặt trong thung lũng này.
Những vị hiền triết này đã đạt quả vị rất cao nên có thể kéo dài kiếp sống tại thế gian để trực tiếp hướng dẫn chúng sinh. Để thích ứng với mục đích phụng sự này, các ngài vốn là những linh hồn có tiến hóa rất cao, đã lựa chọn những thể xác lành mạnh, những gia đình với huyết thống đặc biệt và săn sóc thể xác rất cẩn thận từ khi nó còn là một mầm sống nằm trong bụng người mẹ. Cũng cần phải nói thêm rằng sự cấu tạo một thể xác là một tiến trình rất phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn đặc biệt và khi linh hồn chuyển kiếp đầu thai vào một thể xác thì xác thân này sẽ phải chịu ảnh hưởng các nghiệp quả của người đó. Tùy theo nghiệp quả mà thể xác dần dần thay đổi để trở nên thích hợp và phản ảnh phần bên trong, do đó một người biết xem tướng mạo có thể biết tiên đoán được phần nào số mạng của một người như lành dữ, hung cát, đoản mệnh hay thọ mệnh.
Hiển nhiên số mạng con người không bao giờ hoàn toàn nhất định mà thay đổi tùy thuộc vào những yếu tố xung quanh, do đó người châu Á, nhất là người Tây Tạng đã biết phép hoán cải số mệnh rất đặc biệt. Theo phong tục xứ này, thời gian bảy năm đầu sau khi sinh ra, linh hồn ảnh hưởng rất nhiều đến thể xác và tiếp tục nhồi nắn, thay đổi hình hài cho thích hợp với nghiệp quả của nó. Đây cũng là lúc đứa bé chịu ảnh hưởng rất nhiều của cha mẹ và môi trường xung quanh, do đó cha mẹ có thể giúp đỡ đứa con qua những việc làm có tính cách hướng thiện vào lúc này. Mặc dù không ai biết rõ số phận cá nhân sẽ ra sao nhưng theo truyền thống, trong vòng bảy năm đầu, các gia đình Tây Tạng thường cố gắng bố thí, phóng sinh, cầu nguyện để hồi hướng công đức cho đứa con, tạo ra các thiện duyên, giúp ích cho sự phát triển tâm linh của đứa nhỏ. Có lẽ thế, phần lớn gia đình Tây Tạng nào cũng có khuynh hướng thiên về tâm linh và một phần năm dân số xứ này trở thành tu sĩ.
Theo truyền thống phương Đông, đứa trẻ sinh vào một gia đình là do những liên hệ từ trước chứ không phải ngẫu nhiên nên việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đứa trẻ nên người là
bổn phận hết sức cao quý của bậc làm cha mẹ. Trái lại, truyền thống phương Tây coi việc nuôi dạy con cái như một trách nhiệm mà họ phải làm trong thời gian nào đó. Do đó đa số đều chú trọng đến các điều kiện vật chất mà xao nhãng phần tinh thần. Họ sẵn sàng bỏ ra những số tiền lớn để mua quần áo, đồ chơi cho con cái nhưng ít ai dành thì giờ tìm hiểu xem chúng có khuynh hướng hay khả năng gì. Đa số đều cho rằng phần tinh thần là trách nhiệm của các giáo sĩ và giáo dục là trách nhiệm của các giáo sư. Cha mẹ chỉ có trách nhiệm về phương diện vật chất như nuôi nấng, ăn mặc mà thôi.
Đây là một thiếu sót lớn, một sự thoái hóa trên phương diện tinh thần vì nó đã hạ thấp thiên chức cha mẹ xuống thành một thứ trách nhiệm trước pháp luật. Vì không chú trọng về luân lý đạo đức nên xã hội phương Tây càng ngày càng nảy sinh ra những con người hung dữ, nóng nảy, lúc nào cũng đòi hỏi đủ thứ. Một xã hội gồm những cá nhân ích kỷ, tham lam như thế sẽ không thể tiến bộ lâu dài được và nếu không có giải pháp cấp thời, trước sau nó cũng sẽ bị đào thải theo luật Tiến hóa chung. Điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ, qua các nền văn minh cổ đã suy tàn mà ngày nay ít ai biết đến.
Đối với các vị hiền triết thì thể xác các ngài chỉ là sự biểu lộ của nguồn sống tiềm ẩn bên trong. Nhờ biết săn sóc nên các ngài có thể duy trì thể xác tráng kiện và sống lâu hơn người thường rất nhiều. Tôi đã gặp nhiều vị trông bề ngoài chỉ trạc tuổi trung niên nhưng sự thật thì đã sống trên một trăm tuổi và có vị đã sống đến hơn hai trăm năm. Một thể xác được cấu tạo để phản ảnh những phần thanh cao như thế rất nhạy cảm và phải được săn sóc cẩn thận, tránh các rung động nặng nề, xấu xa. Có lẽ vì thế các vị thánh nhân, hiền triết thường sống đời ẩn dật, ít khi đặt chân vào những nơi phồn hoa, đô hội. Hiển nhiên việc kéo dài đời sống này có mục đích cao cả chứ không phải sự tham sống, sợ chết như thường thấy ở đa số con người.
Theo sự hiểu biết của tôi, các vị hiền triết đã đạt đạo quả vị rất cao thì nhiều nhưng số người quyết định kéo dài đời sống, ở lại cõi trần một thời gian thì không bao nhiêu. Các ngài nhận lãnh sứ mạng đặc biệt là duy trì kho tàng tâm linh của nhân loại và truyền dạy sự hiểu biết của mình cho một số đệ tử đã được lựa chọn cẩn thận. Tùy căn cơ và trình độ mà các đệ tử này có thể lĩnh hội được nhiều hay ít. Lần đó một đệ tử cho biết cuộc đời của anh đã thay đổi hoàn toàn từ khi được học hỏi các điều cao thượng này thì hiền triết Kuthumi đã nói: “Ta chỉ mới hé mở cho con một phần nhỏ của kho tàng tâm linh thiêng liêng này mà thôi. Tùy theo sự cố gắng và tiến bộ của con mà ta sẽ chỉ dạy cho con thêm nhiều nữa. Những kẻ nào quyết tâm tiến đến gần chân lý thì đường đạo nhiệm mầu sẽ mở ra cho họ”.
Có người hỏi tôi làm cách nào để gặp được các vị thầy cao cả như thế: giữa thầy và trò phải có những nhân duyên với nhau từ trước và tùy theo hạnh nguyện của mỗi cá nhân. Người châu Á có câu: “Thầy nào trò nấy. Một vị thầy chân chính không có đệ tử bất lương, và kẻ tà muội không tìm đến các bậc hiền triết”. Muốn tìm một thầy chân chính thì trước hết chính người đó phải có con tim chân chính và lòng thiết tha cầu đạo chân thành. Người ta chỉ có thể đến với các bậc hiền triết bằng cách trở nên trong sạch, vị tha như các ngài. Họ phải biết thanh lọc bản ngã, quên mình để hiến dâng trọn vẹn cho việc chung như các bậc hiền triết đang làm thì sẽ gặp được các ngài. Điều này có thể giải thích bằng nguyên lý “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Những người cùng nguyện vọng, sở thích sẽ tìm gặp nhau.
Cũng như thế, những kẻ tham lam mong cầu quyền năng thần thông hay những điều huyền hoặc thì chắc chắn sẽ gặp các pháp sư, phù thủy chuyên tu luyện bùa chú, phép thần thông, các trò nhiễu hoặc nhân tâm. Những kẻ lười biếng, ỷ lại, chỉ muốn đạt kết quả mà không cần cố gắng nhiều chắc chắn sẽ gặp các vị thầy tà, bạn ác chuyên lừa bịp, hứa hẹn rất nhiều để trục lợi mà kết quả chẳng đi đến đâu.
Trên thế gian, kẻ ích kỷ tham lam và hiếu kỳ thì nhiều chứ người thành tâm khẩn thiết muốn phụng sự nhân loại lại chẳng có bao nhiêu, nên khi một người thành tâm phát các hạnh nguyện cao thượng thì chắc chắn sẽ cảm ứng đến các vị chân sư, hiền triết ngay. Các vị này sẽ tìm cách hướng dẫn và tạo cơ hội để họ có thể đến được với các ngài. Các hiền triết không quản ngại khó khăn để giúp đỡ một người nào nếu các ngài thấy nơi họ có những triển vọng hữu ích ở tương lai. Các ngài không thiên vị một ai mà chỉ nghĩ đến ích lợi chung và thẩm xét giá trị của từng người đối với công việc hữu ích mà họ muốn làm.
Phụng sự nhân loại là việc lớn, đòi hỏi sự quên mình và rèn luyện nhân cách nghiêm cẩn nên bất cứ ai khi phát nguyện cũng đều gặp thử thách bất ngờ để trắc nghiệm lòng chân thành và ý chí cương quyết của họ. Chỉ khi nào vượt qua những thử thách này thì họ mới được giao phó những việc làm hữu ích. Trên đường đạo, thử thách là một diễn trình rất quan trọng để lọc lựa những người thành tâm và kiên trì. Ước nguyện càng lớn, sự thử thách càng cao và chỉ những người vượt qua được những thử thách này mới xứng đáng được giao phó trách nhiệm cao cả. Do đó, một người hiểu biết không bao giờ dám lập hạnh nguyện quá lớn ngoài sức mình mà phải tự nhận biết khả năng của mình. Sự tự biết mình là căn bản chính trên con đường tinh thần vì những kẻ kiêu căng, tự phụ chỉ thích làm những việc to tát như vá biển lấp trời sẽ không bao giờ đi xa được mà thất bại ngay ở thử thách đầu tiên. Phụng sự nhân loại bắt đầu bằng việc quên mình để lo cho công cuộc chung. Chỉ khi nào có thể tự thanh lọc bản ngã, loại bỏ lòng ích kỷ thì mới có thể góp phần vào việc lớn được. Đây là những việc hết sức vĩ đại vì các đấng cao cả ảnh hưởng đến thế gian bằng những luồng thần lực rất lớn và nếu ta may mắn được dự phần vào việc đó thì hãy tưởng tượng tính cách vĩ đại của nguồn thần lực đó liên hệ đến công việc của ta như thế nào.
Có người hỏi tôi: “Như vậy tôi phải làm gì?”. Theo tôi, chúng ta hãy làm bất cứ việc gì có thể làm trong lúc này để giúp cho sự
tiến bộ của nhân loại nói chung, nhưng phải làm với một tình thương rộng lớn, không phân biệt. Dù đó chỉ là một việc tầm thường, nhỏ mọn, nhưng nếu được làm với lòng chân thành để vun trồng các mầm thiện trong tâm thì nó cũng đem lại những lợi ích rất lớn. Một khi chúng ta đã có đầy đủ những đức tính cần thiết thì công việc quan trọng sẽ tự nhiên tìm đến. Tôi còn nhớ đã có lần đặt câu hỏi tương tự với hiền triết Kuthumi thì ngài trả lời: “Con phải tự tìm lấy những việc hữu ích để phụng sự nhân loại, giúp cho mọi người phát triển tình thương rộng lớn, loại bỏ lòng ích kỷ để khỏi rơi vào hố thẳm sa đọa của quá khứ. Nếu ta sai con làm một việc gì đó, ta chắc chắn con sẽ làm ngay, nhưng nếu thế, kết quả việc làm sẽ về tay ta, vì chính ta đã bảo con làm việc đó. Con chỉ được cái nhân tốt của sự biết tuân lời mà thôi. Ta khuyên con hãy tự mình hành động, thấy việc tốt thì làm, thấy việc xấu phải xa lánh. Con hãy hành động một cách tự nhiên, như ăn và ngủ, chứ đừng đắn đo suy nghĩ trước khi làm hầu đạt được kết quả gì đó”.
Tôi thiết nghĩ mọi người trong chúng ta đều có thể áp dụng câu trả lời đó cho chính mình. Chúng ta không nên chờ đợi một ai đó yêu cầu ta làm một việc gì, mà hãy tự tay mình bắt tay vào việc. Hiện nay trên thế giới không thiếu gì những công việc cần phải làm nhưng có lẽ nhiều người chỉ muốn làm những việc to tát lớn lao, đại khái như thành lập một tổ chức từ thiện, đọc diễn văn trước một cử tọa đông đảo, vận động để trở thành người lãnh đạo tổ chức chứ mấy ai chịu làm những việc nhỏ mọn, tầm thường như giúp đỡ người tàn tật, quét dọn lau chùi các nơi thờ phụng thiêng liêng. Thái độ của người đi trên đường đạo không thể như thế được vì họ cần ý thức rõ về hai yếu tố căn bản là “Phát triển nhân cách qua việc thanh lọc bản ngã và mở rộng lòng thương đến tất cả muôn loài một cách tự nhiên, không phân biệt”. Hiền triết Kuthumi nói: “Kẻ nào muốn làm việc với chúng ta phải biết từ bỏ cái thế giới riêng của họ để bước vào thế giới của chúng ta”. Nhiều người đã hiểu lầm và cho rằng họ phải từ bỏ các sinh hoạt hàng ngày để ẩn thân nơi chốn rừng sâu núi thẳm tu hành. Đây là một ngộ nhận rất lớn, vì theo tôi
hiểu, phụng sự nhân loại không phải từ bỏ xã hội để lui về ẩn náu một nơi chốn nào, mà là từ bỏ cái thái độ của người thế gian, để áp dụng thái độ của một hiền triết đối với cuộc đời. Đa số mọi người nhìn sự việc xảy ra hàng ngày với quan niệm rằng những việc này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến bản thân và quyền lợi cá nhân của họ. Trong khi đó, một bậc hiền triết nhìn những sự việc đó với quan niệm rằng nó sẽ ảnh hưởng như thế nào cho công cuộc tiến bộ chung của nhân loại. Bất cứ việc gì có tính cách giúp đỡ phát triển cho nhân loại đều đáng khuyến khích, và những gì làm ngăn trở việc này thì cần phải loại bỏ. Hiển nhiên, đây là một tiêu chuẩn khác xa với những tiêu chuẩn hiện nay của thế gian là chỉ làm những gì có lợi cho cá nhân mình, cho gia đình mình, giúp mình thành công, đem lại cho mình danh vọng, địa vị, tài sản.
Một người đi trên đường đạo phải ý thức rõ điều này và rèn luyện nhân cách để loại bỏ lòng ích kỷ cá nhân và phát triển tình thương rộng lớn, không phân biệt. Chỉ khi nào chúng ta trở nên trong sạch, chân thành thì việc làm của chúng ta mới có thể gọi là chân thành, trong sạch được. Chỉ khi nào chúng ta không còn nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ đến quyền lợi chung thì việc làm của chúng ta mới có ý nghĩa thực sự và chỉ khi đó, tâm hồn chúng ta mới có thể hòa hợp, cảm thông với sự rung động cao thượng của các bậc hiền triết. Nếu chúng ta hành động, suy nghĩ cùng đường lối với các bậc hiền triết, chúng ta sẽ hiểu các ngài hơn; và càng hiểu rõ các ngài, tư tưởng của chúng ta càng trở nên giống tư tưởng các ngài. Đến lúc đó, chúng ta mới có thể tiến đến gần các ngài qua lời nói, tư tưởng, hành động và tạo những nhân duyên tốt để chúng ta có thể tiếp xúc, học hỏi trực tiếp với các ngài.
Cách đây không lâu, một người đã nói với tôi: “Tôi đã theo đúng lời ông khuyên, chân thành sửa đổi tính tình và làm được nhiều việc cao thượng nhưng sao vẫn chưa thấy dấu hiệu gì là các hiền triết sẽ đến gặp tôi. Tôi muốn trực tiếp học hỏi với các ngài nhưng sao chưa thấy gì cả!”. Tôi không biết gì về ông này hay việc làm
của ông ta, nên chỉ khuyên ông cần khiêm tốn, và kiên nhẫn hơn vì đó là bước đầu của người đi trên đường đạo. Tuy nhiên, theo như tôi được biết, chúng ta làm việc tốt vì đó là việc cần phải làm chứ không phải để đạt một cái gì, dù đó là việc được một hiền triết hướng dẫn. Sự mong cầu được ban thưởng đã khiến cho công việc tốt đẹp đó mất đi giá trị đích thực lúc ban đầu và hạ thấp nó xuống thành một hình thức đổi chác. Các hiền triết chắc chắn không làm công việc trao đổi hay buôn bán với chúng ta như thế.
Trong thời buổi hiện nay, tôi thấy nhiều người còn kiêu căng, thích gán cho mình những thành tích lớn. Mỗi khi làm gì là họ quan trọng hóa nó lên để những người xung quanh phải thán phục. Tôi đã gặp nhiều người đến với tôn giáo như một hình thức giải trí, một nơi để cho họ khoe khoang sự thành công hay địa vị trong xã hội và đòi phải được đối xử đặc biệt hơn người. Khi không được thỏa mãn, họ quay ra nói xấu giáo hội, chê bai những người trong đó. Một người đi trên đường đạo phải biết khiêm tốn, chân thành và quán xét nội tâm để biết mình. Biết mình chính là điều căn bản quan trọng nhất trên tiến trình hướng về Chân Lý.
Trong đời sống ngày nay, nhiều người còn tỏ ra thiếu kiên nhẫn, muốn mọi việc phải xảy ra theo ý mình và ngay lập tức. Đây là hậu quả của những căng thẳng thần kinh do áp lực cuộc sống vội vã gây nên. Một người đi trên đường đạo cần biết thực hành những phương pháp làm thư giãn tâm cũng như thân qua việc nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Người phương Đông biết rõ hiệu năng của sự nghỉ ngơi nên đã sáng tạo ra những phương pháp thư giãn rất hiệu quả. Tiếc thay, người phương Tây lại xem “thì giờ là tiền bạc” và đặt nặng tầm quan trọng của sự làm việc tối đa. Bản chất của người phương Tây là hiếu động, họ làm việc không ngừng, hết việc này đến việc khác, đầu óc luôn luôn toan tính kế hoạch này nọ. Ngay cả lúc ngủ họ cũng không hề thực sự nghỉ ngơi mà vẫn suy nghĩ đủ thứ. Có lẽ vì thế xã hội phương Tây đã sản sinh ra đủ các bệnh thần kinh kỳ dị và càng ngày số người
mắc bệnh này càng gia tăng. Nếp sống càng vội vã bao nhiêu thì xã hội càng bệnh hoạn, sa đọa bấy nhiêu. Một người mà thần kinh lúc nào cũng căng thẳng như thế sẽ không thể giao tiếp với những rung động thanh cao được. Điều này có thể giải thích qua nguyên lý “đồng thanh tương ứng”. Những kẻ nóng nảy, vội vã không thể cảm thông được với người điềm đạm, ung dung.
Ngày nay nhiều người còn mắc một thói xấu khác là tính hay giận hờn. Điều này thường xảy ra tại những nơi chốn có tính cách xã hội hay tôn giáo. Tôi thấy nhiều người sẵn sàng bỏ công sức, tiền tài cho những việc tinh thần nhưng chỉ làm việc này theo ý kiến riêng của họ mà thôi. Họ đòi hỏi người khác phải tuân theo ý mình nhưng chính họ lại không chịu hòa mình với kẻ khác. Nếu suy xét cẩn thận, người ta thấy ngay đó chỉ là hình thức tế nhị của lòng thèm khát danh vọng. Đa số cho rằng chỉ riêng họ mới có thể đưa ra những ý kiến lớn lao hay đảm nhiệm các trách nhiệm cao cả này. Rất ít ai ý thức rằng động năng thúc đẩy họ làm việc đó không phải vì lòng thương yêu kẻ khác mà chỉ là sự thúc đẩy của lòng háo danh, thèm muốn chức tước. Có thể họ là những kẻ đã thất bại trên trường đời nên tìm đến các nơi chốn tinh thần để mưu cầu một chút danh vọng hão huyền chi đó. Thay vì lo tu tâm sửa tính thì họ lại lợi dụng các cơ sở tôn giáo như một nơi để họ phô trương bản ngã, để cho mọi người biết họ là ai. Dĩ nhiên họ sẽ gặp thử thách để học bài học về sự khiêm tốn nhưng phần lớn không mấy ai học hỏi được gì. Khi không được như ý, họ liền hờn giận, đổ lỗi cho những người xung quanh. Có kẻ bất mãn còn từ bỏ tôn giáo, đi tìm một tôn giáo khác để thỏa mãn những tham vọng riêng. Sự giận hờn này là một chướng ngại lớn trên đường tu tập tâm linh và cản trở việc gặp gỡ học hỏi với các vị thầy cao cả sau này.
Muốn tiếp xúc với các bậc hiền triết, người tu cần phải có một tinh thần cầu đạo vững chắc và sẵn sàng đương đầu với mọi nghịch cảnh. Ngoài việc học hỏi, tu sửa nội tâm, người ấy còn phải chiến đấu để chống lại áp lực của dư luận bên ngoài. Danh từ Thiên Chúa giáo gọi là “sự cám dỗ”, nghĩa là những áp lực
phát xuất từ thành kiến và điều kiện xã hội xung quanh. Trong thời văn minh hiện nay, hàng triệu con người chỉ nghĩ đến việc thụ hưởng các tiện nghi mà đời sống vật chất đem lại. Luồng tư tưởng ích kỷ này rất mạnh, có sức lôi cuốn hay chi phối những người có tâm hồn yếu đuối. Do đó người đi trên đường đạo cần phải có nghị lực vững vàng, phải can đảm, kiên tâm để vượt qua những cám dỗ vật chất này. Dù thất bại nhưng nếu giữ vững niềm tin, biết rút tỉa kinh nghiệm để học hỏi thì chắc chắn trước sau gì người ấy cũng sẽ vượt qua được những thử thách này.
Một thói xấu khác cũng thường thấy là thái độ lưng chừng, kinh tế nhất quyết. Kinh Thánh có nói đến trường hợp của Ananias và Saphira, cả hai đều muốn đi theo Đấng Cứu Thế, nhưng lại nghĩ rằng cần phải giữ lại một ít tiền của để phòng thân. Họ bàn với nhau nếu chẳng may có chuyện gì trục trặc thì lấy ai lo cho mình đây! Điều này cho thấy họ đã không hoàn toàn tin tưởng vào Đấng Cứu Thế và tệ hơn nữa, khi bị gạn hỏi thì họ chối quanh chứ không chịu thú nhận đã giữ lại ít tiền phòng thân mà quả quyết rằng họ đã từ bỏ tất cả. Hiện nay, nhiều người đi trên đường tinh thần cũng có thái độ tương tự, nghĩa là chân trong chân ngoài, không nhất quyết. Đa số không hoàn toàn xả bỏ tất cả cho lý tưởng thanh cao mà vẫn giữ lại một chút ít gì đó. Có người cất giấu tiền bạc, có người xả bỏ tài sản vật chất nhưng lại giữ những tư tưởng ích kỷ thầm kín mà vẫn cho rằng mình đã thực sự trong sạch. Họ nghĩ rằng không ai có thể biết những điều đó nhưng họ đã lầm vì các bậc cao cả không thể nào bị lường gạt được. Các ngài đã sáng suốt và sở hữu quyền năng có thể thấy được mọi việc hay tư tưởng người khác như mở một cuốn sách. Trên đường đạo không thể nào có việc trò lừa gạt thầy hay một sự mặc cả với các điều kiện như: “Tôi sẽ phụng sự nhân loại nếu tôi không phải giúp đỡ ông A hay bà B vì không thích họ”. “Tôi sẽ theo chân Đấng Cứu Thế nếu ngài đừng bắt tôi phải làm việc chung với cô C hay cậu X”. Đó là một thái độ không thể chấp nhận được vì nó hàm ý một điều kiện, một sự trao đổi, mua bán và các đấng cao cả không bao giờ làm việc bán buôn như vậy. Chỉ có hạng thầy pháp, thầy phù thủy không chân
chính mới đưa điều kiện mua bán đổi chác như: “Nếu ngươi theo ta thì ta sẽ ban cho ngươi danh vọng tài sản” hay “Nếu ngươi cầu xin ta thì ta sẽ cứu cho ngươi khỏi tai họa”. Tiếc thay, cái hình thức hứa hẹn quàng xiên, buôn thần bán thánh này càng ngày càng thịnh hành trong xã hội điên đảo ngày nay. Đa số con người chỉ thích kiếm những gì làm thỏa mãn tham vọng của mình chứ mấy ai chịu từ bỏ tất cả để giúp đỡ người khác. Có lẽ vì thế mà các hiền triết thường ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm và người cầu đạo phải khổ công tìm kiếm các ngài. Trong khi đó những kẻ lừa bịp thì quảng cáo rầm rộ khắp nơi rằng họ có quyền phép thần thông, có thể ban phước giáng họa và sẵn sàng thâu nhận học trò dưới một hình thức mua bán, đổi chác nào đó.
Một người đi trên đường đạo phải biết từ bỏ tất cả để dâng hiến cho lý tưởng thanh cao. Họ sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì để mang lại hạnh phúc cho nhân loại, vì đó là việc nên làm chứ không phải vì để đạt được một điều gì. Trong một buổi nói chuyện, hiền triết Kuthumi đã khuyên: “Các con hãy hoàn toàn hiến dâng cho đời cả xác thân lẫn tâm hồn của các con, dâng hiến cho đời cái gì mà người ta không thể cho lại thì mới thực sự gọi là hiến dâng”. Sự quên mình và hiến dâng này rất khó vì đa số chúng ta thường có thói quen làm việc để được một cái gì như lời khen tụng hoặc quyền lợi nào đó. Rất ít ai dành hết tâm hồn cho việc giúp đời hơn là nghĩ đến bản thân mình. Dù cố gắng thanh lọc thân tâm, nhiều người vẫn còn lưu lại một chút tham lam nào đó trong tâm. Vì thế họ sẽ gặp thử thách để thanh lọc các phần tử tế vi này và học thêm bài học cần thiết. Sở dĩ người đi trên đường tinh thần thường gặp nhiều thử thách vì đây là con đường gian nan mà chỉ những người kiên tâm bền chí mới khắc phục được nó để xứng đáng trở thành những bậc hiền triết.
Trong một buổi dạy đạo, hiền triết Kuthumi đã nói với một đệ tử trẻ tuổi vừa được thâu nhận như sau: “Con hãy nhận nơi đây lời chúc mừng của ta vì con là đệ tử mới nhất trong các đệ tử của ta.
Ta biết việc quên mình để phụng sự nhân loại một cách tuyệt đối không dễ dàng gì. Con hãy sống như thế nào để trở thành một nguồn ân huệ cho kẻ khác. Khởi sự làm những việc tốt lành là điều rất hay nhưng trên đường tinh thần còn nhiều việc khác nữa. Con cần tu sửa nội tâm, kiểm soát tư tưởng không để cho nó dầy lên những gì tiêu cực, giận hờn. Con hãy sẵn sàng đón nhận những lời khuyên bảo cũng như chỉ trích của những người xung quanh và học lấy những bài học đó một cách hoan hỉ mà không cảm thấy cay đắng. Con cần trau dồi đức tính khiêm tốn và nhẫn nại. Khi có đầy đủ những đức tính này thì con sẽ trở thành một luồng vận hà ban rải những tư tưởng thanh cao tốt đẹp cho nhân loại, một chiến sĩ trong đạo binh ban rải tình thương của Đấng Cứu Thế. Để giúp con thực hiện điều này, ta nhận con làm đệ tử chính thức”.
Ngoài các đức tính trên, muốn được các hiền triết thâu nhận còn tùy thuộc vào những nguyên nhân từ trước. Trong số các bạn tôi có một người học lực uyên thâm, nguyện hiến dâng cuộc đời cho việc phụng sự nhân loại. Tôi thấy ông này có đầy đủ các đức tính để trở thành đệ tử của các hiền triết nhưng không thấy các ngài nhắc gì đến ông ta cả. Sợ rằng người bạn này bị bỏ quên nên một hôm tôi mạo muội nhắc đến tên ông ta với hiền triết Kuthumi thì ngài mỉm cười nói: “Này con, không một ai đi trên đường tinh thần mà bị bỏ rơi hết. Tuy nhiên người bạn của con vẫn còn một số nghiệp quả mà ông ta phải trả cho xong nên ta không thể chấp nhận lời đề nghị của con lúc này được, sở dĩ bạn con học lực uyên thâm vì ông ta đã từng được giáo dục cẩn thận trong tiền kiếp nhưng khi đó ông quá tự hào về khả năng hiểu biết của mình và khinh thường mọi người. Ông ta tuyên bố rằng ông sẽ vào nước Chúa trước các huynh đệ đồng môn. Vì lời tuyên bố ngông cuồng đó nên kiếp này ông phải gánh chịu hậu quả. Người bạn của con cần phải học bài học khiêm tốn một cách thấm thía rằng không ai có thể bước chân vào nước của Đấng Cứu Thế khi trong lòng còn tự hào về mình”.
Với kinh nghiệm này, tôi có thể xác định rằng chúng ta cần cố gắng sửa mình một cách thành khẩn, phát các hạnh nguyện vô
ngã, lợi tha để chuẩn bị cho công cuộc chung và khi có đầy đủ nhân duyên thì việc được các đấng cao cả hướng dẫn chỉ là một điều tất nhiên mà thôi.
Trước khi được thâu nhận làm đệ tử chính thức, các vị thầy phương Đông thường thử thách học trò xem người đó có xứng đáng với công phu dạy dỗ của họ hay không. Do đó phần lớn học trò được đặt vào giai đoạn dự bị (probation) với những thử thách bất ngờ mà họ phải khắc phục. Người phương Tây khó có thể chấp nhận những thử thách như thế vì họ quan niệm trình độ học trò phải được khảo nghiệm qua những kỳ thi tuyển dựa trên những tiêu chuẩn nhất định. Họ không phân biệt được rằng con đường tinh thần và khả năng thu tập kiến thức vốn khác nhau rất xa. Các vị thầy phương Đông không dạy kiến thức từ chương mà dạy kinh nghiệm sống qua chính bản thân họ. Chỉ khi sống gần các ngài, tôi mới ý thức rõ việc này. Tuy bên ngoài các ngài thường ngồi im lặng, bất động nhưng bên trong, các ngài hoạt động không ngừng để theo dõi hành vi, tư tưởng của học trò bằng cây cầu tâm thức giữa thầy và trò. Nhờ mối liên hệ mật thiết này mà các vị thầy có thể thấy rõ tư tưởng của học trò biến chuyển như thế nào để giúp đỡ cho họ. Các ngài hiểu rõ tâm trạng học trò lúc hoang mang, chán nản ra sao hoặc có tư tưởng sợ hãi, hoảng hốt như thế nào. Tôi cũng phải nói thêm rằng, một đệ tử đang còn ở trong giai đoạn dự bị không có gì tài giỏi hơn người mà chỉ có những tiềm năng xét ra hữu ích cho công cuộc chung và cần được thời gian thử thách. Tôi biết nhiều người rất nhiệt thành trong lý tưởng phụng sự, có khả năng tốt đẹp nhưng sau một thời gian hoạt động, họ lại mệt mỏi, chán chường rồi bỏ cuộc sớm. Do đó chỉ những người kiên gan, bền chí, vượt qua mọi thử thách và cương quyết đi đến cùng mới được các ngài chọn lựa làm đệ tử chính thức.
Nhiều người nghĩ rằng khi được thâu nhận làm đệ tử chính thức, họ phải từ bỏ mọi việc thế gian để bước vào đời sống của một ẩn sĩ. Đây là điều không đúng vì các hiền triết tôi gặp không hề đòi hỏi việc này. Các ngài chỉ khuyến khích học trò theo đuổi
những sinh hoạt bình thường của đời sống hàng ngày nhưng phải làm nó với một tâm trạng khác hẳn trước như chuyển hóa tư tưởng ích kỷ thành vị tha, chuyển hóa lòng oán hận thành tình thương rộng lớn; làm sao giúp đỡ mọi người mà không cầu mong một ân huệ gì cho mình. Người đi trên đường đạo không nhất thiết phải vào ẩn tu nơi rừng hoang núi thẳm hay tránh né đời sống xã hội mà phải ý thức rằng mình là một thành phần của xã hội. Thay vì chối bỏ hay tránh né nó thì họ phải tìm cách thay đổi chính mình. Đời sống đầy phức tạp của thế gian là một trường học với vô số thử thách, cám dỗ mà người đi trên đường đạo cần phải vượt qua. Vì các vị thầy thường xuyên theo dõi phản ứng và thái độ của học trò trước những thăng trầm của đời sống nên một học trò biết sửa đổi tính tình, giữ tâm bình thản trước mọi khía cạnh phức tạp của cuộc sống và không bao giờ mất niềm tin thì chắc chắn sẽ được các vị thầy giúp đỡ, hướng dẫn rất nhiều.
CHƯƠNG 3
T
ừ khi biết suy tư, con người đã đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời. Tôi cũng đặt câu hỏi này với hiền triết Kuthumi thì ngài cho biết: “Đời sống là một môi trường để con người
học hỏi, mỗi kiếp sống đều có mục đích là để kinh nghiệm những điều cần thiết và thay đổi để tiến hóa và trở nên hoàn hảo hơn”.
Có người hỏi: “Chúng ta cần phải học những gì?”. Theo tôi được biết thì vũ trụ có những định luật quan trọng mà con người cần phải hiểu thật rõ ràng để sống thuận theo đó. Trong giai đoạn hiện tại, có ba định luật quan trọng chúng ta cần phải học đó là Luân hồi, Nhân quả và Tiến hóa. Trên nguyên tắc, người ta chia ra thành ba định luật cho dễ hiểu nhưng thật ra những định luật này liên quan với nhau hết sức chặt chẽ. Người ta không thể giải thích một định luật này mà không đề cập đến những định luật kia. Cũng như thế, người ta sẽ không thể chấp nhận một định luật này mà phủ nhận những định luật kia vì nếu thế, người ta sẽ không thể hiểu trọn vẹn được sự mầu nhiệm, hoàn hảo của các chân lý hằng có trong vũ trụ.
Nhân quả (Karma) là định luật đã được giảng dạy trong hầu hết giáo lý của các tôn giáo lớn. Nhân là hạt giống, là nguyên nhân; quả là trái, là kết quả. Luật Nhân quả dạy rằng nhân luôn luôn sinh quả và nhân nào sẽ tạo quả đó. Nhiều người cho rằng Nhân quả là lý thuyết của đạo Phật, nhưng thật ra đây là chân lý của vũ trụ mà tôn giáo nào cũng nói đến. Đức Phật nói: “Gieo nhân nào gặt quả đó”. Đức Krishna của Ấn giáo cũng nói: “Trồng đậu được ăn đậu và trồng khoai được ăn khoai; muốn ăn đậu chớ có trồng khoai”. Đấng Cứu Thế cũng nói: “Kẻ nào sử dụng gươm giáo sẽ chết vì gươm giáo”. Ngày nay khoa học đã chứng minh rằng: “Mỗi động lực gây ra đều tạo một phản lực tương đồng và ngược
chiều, động lực và phản lực không bao giờ tách rời nhau”. Danh từ Karma theo tiếng Ấn có nghĩa là hành động nhưng cũng bao hàm ý nghĩa phản động vì hành động và phản động không bao giờ tách rời nhau. Mỗi khi có hành động là có phản động, do đó mọi sự, mọi vật đều liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ.
Nhân quả là luật vũ trụ nên có tính cách bất di bất dịch chứ không như pháp luật của con người, thường thay đổi theo thời gian và không gian. Luật Nhân quả công bình tuyệt đối, nó không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, vua chúa hay thứ dân trong khi với pháp luật của loài người, người hiền có thể bị xử oan ức, kẻ ác có thể thoát vòng pháp luật. Quy tắc của luật Nhân quả chặt chẽ đến nỗi không một việc gì xảy ra mà không bị chi phối bởi nó vì bất cứ một lời nói, hành động hay tư tưởng nào tạo ra cũng đều có những phản lực tác động lại.
Kinh Pháp Cú có đề cập đến một đệ tử của Phật tên là Cakkhupala, tu hành siêng năng có đức hạnh rất cao nhưng lại mù mắt. Các đệ tử khác bèn hỏi Phật tại sao một người hiền lành, siêng năng tu hành như vậy lại chịu cảnh mù lòa thì Đức Phật giải thích rằng ở một tiền kiếp, ông này là y sĩ có tài, đã chữa lành bệnh cho nhiều người. Một bệnh nhân đến xin chữa đã hứa rằng nếu hết bệnh anh sẽ đến làm công trong nhà y sĩ một thời gian nhưng khi hết bệnh, anh này lại thất hứa. Y sĩ giận quá, sửa đổi liều thuốc chữa khiến cho bệnh nhân thất hứa kia bị mù. Vì làm người khác mù mắt nên kiếp này Cakkhupala phải trả quả, vừa sinh ra đã bị đui mù.
Nhiều người không chấp nhận luật Nhân quả vì thấy có người hiền lành mà vẫn gặp đau khổ trong khi kẻ hung ác lại được hưởng sung sướng. Những người ấy chưa nắm vững quy tắc hiện hành của luật Nhân quả vì tiến trình từ hành động đến phản động hay từ nhân sang quả không hẳn phải xảy ra ngay tức khắc. Một nhân đã gieo trong quá khứ có thể sinh quả ở hiện tại hay tương lai, tùy theo sự sắp đặt mầu nhiệm của các yếu tố khác là:
1/ Hiện Báo: Gây nhân gì phải chịu hậu quả ngay trong kiếp hiện tại.
2/ Sinh Báo: Tuy gây nhân nhưng quả chưa chín mà sẽ xảy ra trong kiếp sau.
3/ Hậu Báo: Quả xảy ra vì nguyên nhân đã gây ra từ trước.
Do đó kẻ xấu xa đôi khi được hưởng tốt lành trong lúc này vì những nguyên nhân tốt đã, tạo từ trước (Hậu Báo) chứ không phải vì việc làm xấu xa hiện nay. Cũng như thế, người hiền lành lại bị tai ách vì nguyên nhân xấu đã gây ra từ quá khứ chứ không phải vì làm điều lành hiện nay mới gặp đau khổ. Vì thiếu khả năng nhìn rõ mọi vật một cách toàn diện nên nhiều người đã xét đoán vội vã rồi kết luận rằng chẳng có trật tự, công bình gì hết mà chỉ có sự tranh giành, mạnh được yếu thua mà thôi. Vì không biết về luật Nhân quả nên nhiều người đã sống bừa bãi, tham lam ích kỷ, gây đau khổ cho người khác và chắc chắn sẽ phải gặt hái hậu quả về những việc họ đã làm.
Khi sinh ra đời, ai cũng mang theo mình một khối nhân đã tạo ra từ trước, tốt cũng như xấu, lành cũng như dữ, và trong đời sống hiện tại, con người tiếp tục gieo thêm nhiều nhân nữa. Có nhân ắt có quả, do đó khối quả mà họ phải trả sẽ tiếp tục gia tăng theo thời gian. Vì không ai có thể trả hết những quả này trong một kiếp nên khối nhân đã tạo đó trở thành động lực lôi kéo, dẫn dắt con người từ kiếp này qua kiếp khác, đó là sự Luân hồi (Reincarnation). Người ta thường gọi khối nhân này là “định mệnh” hay “nghiệp”, có nghĩa là “động lực thúc đẩy, tạo tác” nhưng Nghiệp không có tính cách cố định như nhiều người lầm tưởng. Con người có tự do ý chí nên có thể thay đổi, hoán cải được định mệnh.
Hôm đó sau khi giảng dạy về luật Nhân quả, hiền triết Kuthumi đã chỉ xuống dòng suối và nói với học trò: “Này các con, định mệnh như dòng suối đang chảy xiết và con người như loài cá đang
bơi lội trong đó. Đành rằng dòng nước chảy nhanh lôi cuốn những con cá đi nhưng vẫn có những con cá, nhờ cương quyết, có thể lội ngược dòng. Con người cũng thế, họ có thể thay đổi số mạng bằng những hành động thiện lành. Mặc dù cái nhân đã tạo khi xưa không bao giờ mất đi vì gây nhân nào gặt quả đó nhưng thời gian để quả xảy đến có thể thay đổi. Đáng lẽ nó xảy ra trong lúc này thì ta có thể hoãn lại để quả trổ vào một lúc khác”.
Người Tây Tạng có câu chuyện sau: Một thanh niên trên đường đi Lhassa dự thi, tìm đến một đạo sĩ huyền thuật để hỏi về tương lai. Đạo sĩ quan sát tướng mạo, xem chỉ tay và lấy số chiêm tinh rồi cho biết anh này sẽ chết trước khi đến Lhassa vì số phận đã định như thế. Bán tín bán nghi về lời tiên đoán ghê gớm đó nhưng thanh niên nọ vẫn tiếp tục lên đường. Hôm đó trời đổ tuyết rất nhiều, đang đi men theo khe núi chợt anh nghe tiếng cầu cứu trong một hang đá. Thì ra một đoàn thương buôn tránh tuyết đã chui vào hang nọ nhưng bị tuyết rơi lấp kín cửa hang. Thanh niên bèn đào tuyết, cứu được họ ra rồi tiếp tục lên đường đi Lhassa. Anh thi đậu kỳ thi Lạt Ma một cách vẻ vang. Trên đường về, anh ghé qua gặp vị đạo sĩ huyền thuật và chê trách ông này bất tài, đã tiên đoán sai. Đạo sĩ quả quyết đã nghiên cứu rất kỹ lá số tử vi của thanh niên nọ và cho biết nếu anh không chết thì ắt phải có một hành động phúc đức lớn lao nào mới thay đổi được số mạng của anh như thế. Thanh niên sực nhớ ra việc đã cứu thoát đoàn thương buôn bị chôn trong hang núi tuyết và công nhận vị đạo sĩ có lý. Đó chính là nguyên tắc hoán cải số mạng qua các hành động phúc đức, cứu giúp người khác. Nên nhớ luật Nhân quả không bao giờ thay đổi, đã gây nhân ắt phải gặt quả nhưng người ta vẫn có thể thay đổi thời gian mà hậu quả xảy ra qua những việc làm thiện lành.
Một phong tục khác của Tây Tạng cũng dựa trên nguyên tắc hoán cải số mạng này là mỗi khi trong nhà có người bị bệnh nặng, gia đình thân quyến thường hay làm phúc, phóng sinh chim cá, bố thí cho người nghèo và tránh mọi sự giết chóc với hy vọng hành động thiện lành đó sẽ làm giảm bớt tình trạng bệnh
tật của người thân. Người phương Tây không thể chấp nhận điều này và coi đó là mê tín dị đoan. Họ quan niệm bệnh tật thuộc thẩm quyền của y giới và nếu y sĩ đã bó tay thì không ai có thể làm gì khác được.
Khi trở về Anh quốc, tôi có đề cập đến phong tục này trong một buổi thuyết giảng. Ít lâu sau, một người chủ công ty đánh cá đến gặp tôi và kể câu chuyện như sau: Ông này mắc bệnh ung thư, mọi việc chạy chữa đều vô hiệu. Bác sĩ cho biết ông chẳng còn sống được bao lâu nên ông làm chúc thư để lại gia sản cho người con trai duy nhất rồi cùng vợ đi dưỡng bệnh, chờ việc phải đến sẽ đến. Cậu con trai của ông này có đi dự khóa giảng Thánh Kinh của tôi nên đã nghe kể về phong tục Tây Tạng kia. Cậu có một quyết định táo bạo là tạm thời đình chỉ công việc đánh cá hay sát sinh để mong cho người cha khỏi bệnh. Điều bất ngờ là sau khi việc đánh cá được hoãn lại, bệnh tình ông chủ hãng bỗng thuyên giảm và vài tháng sau, trước sự ngạc nhiên của các y sĩ, vết ung thư tự dưng biến mất. Thấy vậy, cậu con trai quyết định bỏ nghề đánh cá, cho sửa đổi đoàn tàu đánh cá hơn ba chục chiếc thành những con tàu chuyên chở hàng hóa. Không những thế, cả gia đình đều phát nguyện ăn chay trường, không dùng thịt cá nữa. Tám năm sau, khi tôi viết cuốn sách này thì ông chủ hãng đánh cá kia vẫn còn sống, cả hai ông bà và cậu con trai vẫn thường tham dự các buổi thuyết giảng của tôi.
Nếu chúng ta tin rằng mọi động lực đều gây ra phản động lực; động lực là nhân mà phản lực là quả, thì chúng ta sẽ thấy trong vũ trụ, các động lực xảy ra từng giây, từng phút và các phản lực cũng xảy ra từng giây từng phút và toàn thể vũ trụ luôn luôn linh động, biến đổi một cách kỳ diệu. Do đó, không thể có sự hỗn độn, may rủi như nhiều người đã nghĩ mà tất cả đều được tạo lập trong một trật tự nhất định. Các bậc giáo chủ đều dạy rằng những điều trái với lẽ công bình là nguyên nhân của mọi khổ đau. Đức Phật đã dạy: “Nếu một người nói và hành động với tư tưởng xấu thì sự đau khổ sẽ đến với y như bánh xe lăn theo bước chân con bò đang kéo. Nếu một người nói và làm với tư tưởng tốt
thì hạnh phúc sẽ theo y như bóng với hình”. Nếu đã biết gây nhân nào gặt quả đó thì ta có thể suy nghiệm thêm rằng trải qua vô số kiếp sống, con người đã gây biết bao nhiêu nhân và sẽ phải trả hết từng đó quả. Tuy nhiên, vì không hiểu biết nên khi trả quả, họ lại tiếp tục gây thêm nhân nữa nên cứ luẩn quẩn không sao thoát khỏi sự ràng buộc nhân quả và luân hồi này. Mục đích của đời người là học hỏi để hiểu biết và thay đổi tâm tính cho đến khi biết sống làm sao để không gây thêm nhân nhưng sẵn sàng trả hết quả, cho đến khi không còn quả để trả nữa thì sẽ giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đây chính là giáo lý căn bản của đạo Phật, sống trong tỉnh thức, biết rõ từng tư tưởng, từng hành động để không tạo nghiệp và để phá tung màng lưới sinh tử.
Theo tôi, nếu luật Nhân quả được giảng dạy như căn bản của nền giáo dục thì thế giới ngày nay chắc chắn sẽ đổi khác. Sở dĩ con người có những hành động xấu xa, gian tham, trộm cắp, vơ vét, chém giết lẫn nhau vì họ nghĩ rằng các hành động đó sẽ gia tăng hạnh phúc cho họ. Họ đã lầm lẫn rất lớn vì những hành động như thế chỉ mang lại khổ đau, vì có vay ắt có trả, gieo gió ắt gặt bão, mỗi tác nhân đều phải gánh chịu những hậu quả mà họ gây ra. Nhiều người nghĩ rằng họ khôn ngoan, có thể trốn tránh được pháp luật nhưng mấy ai có thể tránh được luật trời?
Điều đáng tiếc là con người chỉ chú trọng đến việc trốn tránh luật pháp của con người mà không biết rằng còn có một định luật của vũ trụ, bất di bất dịch và không thể tránh. Nếu hiểu như thế thì mấy ai dám làm những việc sai trái như vậy!
Theo tôi, nếu tất cả mọi người đều được giáo dục cẩn thận luật Nhân quả thì các hoạt động gian tham, ích kỷ, hung ác đang đục khoét nền móng của mọi quốc gia và gây thảm cảnh bi thương cho nhân loại sẽ phải chấm dứt. Chúng sẽ được thay thế bằng các hành động vị tha, thương yêu vì ai chẳng muốn làm lành khi biết hành động đó sẽ đem lại cho họ niềm hạnh phúc và thúc đẩy sự tiến hóa của họ đến mục đích cao cả hơn.
Thế giới ngày nay đang trải qua một giai đoạn khó khăn với những vấn đề phức tạp, không thể giải quyết, vì căn bản điều hành xã hội hoàn toàn dựa trên lý luận của tri thức. Tri thức là sản phẩm của đầu óc con người, phát xuất từ căn bản vật chất vốn có giới hạn. Điều con người cần hiện nay là Trí Tuệ hay sự hiểu biết toàn vẹn phát xuất từ tâm linh. Tri thức và trí tuệ khác nhau rất xa nhưng ít ai phân biệt rõ. Tri thức có tính cách thu vào, kết nạp, phân biệt và chịu ảnh hưởng của thời gian và không gian. Trí tuệ là giải thoát, cho ra, không phân biệt và vĩnh cửu nên không chịu ảnh hưởng của thời gian hay không gian.
Các phát minh khoa học kỹ thuật, mọi lý thuyết về kinh tế chính trị đều phát xuất từ căn bản tri thức - vật chất nên khó mà mang lại hạnh phúc thật sự cho nhân loại. Những sự kiện xây dựng trên địa hạt vật chất chỉ đem lại khoái cảm nhất thời những giá trị tương đối và thường bị chi phối bởi dục vọng. Dục vọng thôi thúc con người thu nạp vơ vét và tìm kiếm không ngừng, được cái này lại đòi thêm cái khác. Dục vọng dạy con người rằng càng nhiều càng tốt, càng sở hữu nhiều càng hạnh phúc thêm. Trong đời sống văn minh, nhu cầu của con người càng lúc càng nhiều hơn xưa, vì được kích thích bởi những phương pháp quảng cáo khéo léo để tạo sự tiêu thụ. Sự kích thích dục vọng này đã thúc đẩy con người trở thành ích kỷ, tham lam chỉ biết nghĩ đến mình thay vì người khác. Vì bản chất của dục vọng là hưởng thụ nên thế giới càng văn minh bao nhiêu, con người càng ích kỷ bấy nhiêu. Nền giáo dục đáng lẽ ra phải giúp con người biết mình, biết quay về với bản tính của mình, đã trở thành một nền giáo dục chú trọng đến việc đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người. Hiển nhiên, trong sự hưởng thụ sẽ làm nảy sinh cảm giác tham lam, chia rẽ và đó chính là nguyên nhân của thảm trạng xã hội hiện nay. Người ta sẵn sàng làm đủ mọi việc, kể cả việc tranh giành, chém giết lẫn nhau chỉ vì nhu cầu hưởng thụ vật chất này.
Muốn thay đổi xã hội, người ta cần phải cải thiện toàn bộ căn bản của nền giáo dục hiện đại. Đã đến lúc con người cần phải
được giáo dục về các giá trị tinh thần, các căn bản đạo đức, các quy luật trong vũ trụ mà các đấng giáo chủ đã chỉ dạy. Nhân quả là một định luật cần được giảng dạy rộng rãi để giúp con người ý thức rõ về những nguyên nhân cũng như hậu quả của những biến chuyển xã hội đã và đang xảy ra cho nhân loại. Sở dĩ các hiền triết trên Tuyết Sơn bằng lòng hướng dẫn cho tôi cũng không ngoài mục đích cảnh tỉnh nhân loại về các nguy cơ sắp xảy ra trong tương lai.
Nếu chúng ta tin rằng mục đích cuộc đời là để học hỏi, thay đổi để trở nên hoàn hảo hơn thì chúng ta sẽ thấy kiếp người ngắn ngủi, vỏn vẹn vài chục năm, không thể đủ để học những điều cần thiết. Do đó, con người phải đầu thai từ kiếp này qua kiếp khác, để tiếp tục học hỏi cho đến khi trở nên toàn hảo và đó chính là sự Luân hồi (Reincarnation). Nhiều người cho rằng Luân hồi là lý thuyết của Phật giáo và Ấn giáo nhưng thật ra sự tin tưởng rằng có một linh hồn trường tồn tái sinh qua nhiều kiếp sống đã có từ lâu và được giảng dạy trong các tôn giáo thời cổ ở khắp nơi trên thế giới. Sách vở tài liệu của người Hy Lạp, Ba Tư đều đề cập đến sự hiện hữu của những kiếp sống khác nhau. Ngay trong Kinh Thánh cũng có rất nhiều ẩn dụ về những kiếp sống luân hồi.
Một số người không chấp nhận luân hồi mà chủ trương đời người chỉ có một kiếp duy nhất vì chết là hết nên con người cần hưởng thụ tất cả mọi thứ mà cuộc đời có thể đem lại. Nếu đời người chỉ giới hạn trong một kiếp và mục đích của nó là để hưởng thụ thì tại sao chỉ có một số rất ít có điều kiện để thụ hưởng mà thôi? Tại sao lại có sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo? Tại sao có người khỏe mạnh tha hồ hưởng thụ vật chất khi người khác ốm đau bệnh tật chẳng hưởng được gì? Tại sao lại có sự bất công như vậy? Không ai có thể giải thích những điều trên một cách hữu lý nếu họ phủ nhận định luật Luân hồi.
Nhà khoa học Charles Darwin, người lập ra thuyết Tiến hóa thực nghiệm, đã lý luận như sau: “Sự tiến hóa hoàn toàn đặt căn
bản trên sự sinh tồn của các loài vật mạnh nhất qua sự truyền giống”. Theo ông, thiên nhiên là một môi trường tranh đấu không ngừng và mạnh sống, yếu chết. Chỉ những con vật mạnh nhất mới sống sót, sinh con đẻ cái để truyền giống; loài người cũng thế, cha mẹ khỏe mạnh sẽ sinh sản ra những đứa con mạnh khỏe.
Hãy quan sát thiên nhiên, những con vật khỏe nhất, hung dữ nhất như loài cọp beo đâu giết hết được những sinh vật yếu đuối hơn như hươu nai. Luật vũ trụ định rằng loài nào phát triển theo trật tự riêng của loài đó, cọp beo hung dữ nhưng sinh sản chậm trong khi hươu nai yếu đuối nhưng sinh sản nhiều. Cũng thế, nếu quan sát kỹ các hiện tượng thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy rõ một sự sắp đặt trật tự và mầu nhiệm vì mỗi loài, mỗi vật, từ sâu bọ bé nhỏ đến loài to lớn như cá voi đều tuân theo một trật tự tuyệt đối, không loài nào lấn át được loài nào.
Nhìn vào xã hội loài người, thuyết Tiến hóa thực nghiệm của Darwin còn lập luận chưa thuyết phục rằng vì sao cha mẹ khỏe mạnh có thể sinh con tật nguyền hay cha mẹ bình thường lại sinh con thông minh tuyệt thế. Điển hình là các thiên tài về âm nhạc như Mozart biết soạn nhạc khi vừa lên 4 tuổi, mặc dù không ai dạy mà ông vẫn sử dụng được rất nhiều nhạc khí khác nhau. Ông còn soạn những hòa tấu khúc phức tạp vượt xa những bậc thầy về âm nhạc lúc đó. Cha mẹ của ông chẳng phải nhạc sĩ tài ba và sau này các con của ông cũng không có ai trở thành nhạc sĩ. Nếu thuyết Tiến hóa của Darwin đúng thì những nhạc sĩ giỏi phải tiếp tục sản sinh ra nhạc sĩ tài ba nhưng sự thật thì con cháu của các thiên tài âm nhạc như Mozart, Beethoven, Bach, Chopin đâu có ai trở thành thiên tài âm nhạc. Nếu không tin luân hồi thì chúng ta phải giải thích như thế nào về hiện tượng thần đồng như Mozart, Beethoven, hay Bach?
Nếu suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ thấy quan niệm rằng đời sống là sự tranh đấu, mạnh được yếu thua, và chỉ có đấu tranh mới đưa nhân loại đến chỗ tiến bộ chỉ là lý thuyết đề xướng bởi
những kẻ theo Chủ nghĩa Thực dân. Theo lý thuyết này kẻ mạnh sẽ thắng, làm bá chủ thiên hạ và lãnh đạo thế giới. Một quốc gia tiến bộ là quốc gia có sức mạnh quân sự để cai trị và bóc lột các quốc gia khác. Hiển nhiên, đứng vào địa vị của kẻ mạnh đàn áp người yếu thì lý luận này dễ nói nhưng không ai có thể chấp nhận lý thuyết này nếu đứng vào vị thế của nạn nhân bị bóc lột, của người bị lợi dụng, của quốc gia bị xâm lăng, đô hộ. Điều đáng tiếc là một lý thuyết phi nhân và phi lý như thế mà vẫn còn được giảng dạy trong học đường trong khi những định luật như Luân hồi, Nhân quả thì không được ai nói đến. Không những thế, hiện nay nhiều người vẫn còn tin tưởng ở thuyết Tiến hóa thực nghiệm này và tiếp tục cổ xướng cho nó nhưng trước sau họ sẽ phải học bài học mà họ cần phải học.
Nếu kiếp này họ là người thông thái, tự hào về sự thông minh của mình thì kiếp sau họ sẽ sinh ra là kẻ đần độn, ngu xuẩn, bị chế giễu, khinh thường để kinh nghiệm về những nỗi thất vọng ê chề của người kém may mắn. Nếu họ thích giết hại loài vật thì họ sẽ sinh ra trong kiếp thú, bị bắt giết, mổ thịt để học bài học về sự đau đớn, sợ hãi. Nếu kiếp này họ sử dụng quyền lực để đàn áp người khác thì kiếp sau họ sẽ trở thành nạn nhân của sự ngược đãi để nếm mùi đau khổ. Chỉ trong kinh nghiệm mà con người học hỏi và thay đổi tâm thức để sống theo những định luật vũ trụ. Con người có thể quyết định số phận của mình qua những cố gắng cá nhân, họ có thể tiến hay lùi, thay đổi hay không thay đổi, nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay đều và kẻ đi ngược luật vũ trụ sẽ phải học những bài học cần thiết. Thí dụ, một kẻ hung dữ chuyên cướp bóc, giết người không gớm tay, khi chết sẽ bước vào cõi giới bên kia cửa tử để ôn lại hành động của mình. Y sẽ gặp những người bị y giết và ý thức rằng chỉ có cái xác bị chết thôi nhưng người bị giết vẫn sống, và chắc chắn họ sẽ không đối xử tử tế gì với y. Từ đó y khởi tâm suy nghĩ về việc làm của mình. Hiển nhiên không mấy ai học được bài học này một cách dễ dàng nhưng trải qua nhiều kiếp sống, khi giết người, khi bị người khác giết, ân oán triền miên cho đến khi y học được bài học thực sự rằng: có vay ắt có trả, làm ác sẽ gặp ác, giết người sẽ
bị người giết lại, giết người là sai lầm. Đến khi đó, trước sự chém giết, y sẽ chùn tay không dám làm nữa. Cái mà người ta gọi là lương tâm chính là cái ý thức về kinh nghiệm sẵn có từ trước. Một người biết sống với lương tâm, tức là người ta đã học được bài học cần phải học.
Các hiền triết trên Tuyết Sơn dạy rằng mỗi kiếp sống đều đem lại cho con người một số kinh nghiệm làm gia tăng sự hiểu biết của họ. Sau khi chết, con người bước vào trạng thái an nghỉ để rút tỉa kinh nghiệm vừa qua. Họ sẽ thấy rõ những lỗi lầm đã phạm, những điều tốt đã làm và tự duyệt xét về bài học mà họ cần phải học. Sau đó, qua sự sắp xếp nhiệm mầu của luật Nhân quả, Luân hồi, họ đầu thai vào một hoàn cảnh khác để học hỏi, kinh nghiệm thêm. Các định luật vũ trụ này giúp con người đúc kết kinh nghiệm thành cá tính riêng biệt hay trình độ tiến hóa cá nhân vì mỗi kiếp sống đều là một bài học cần thiết. Tính tình con người chẳng qua chỉ là tư tưởng của người đó được xây dựng trên những kinh nghiệm học hỏi từ trước. Do đó, con người chính là chủ nhân số phận của mình và sự tiến bộ nhanh hay chậm, hoàn toàn do chính họ quyết định. Có người lười biếng hay kiêu căng, không chịu thay đổi nhưng càng kéo dài con đường sinh tử, họ càng chịu trăm cay ngàn đắng để học hỏi. Trong khi đó một người hiểu biết, nhờ biết thay đổi để sống theo luật vũ trụ, đã nhẹ bước thang mây, ung dung tự tại để bước vào những cảnh giới phúc lạc, cao thượng.
Một số người không chấp nhận rằng con người có ý chí riêng mà cho rằng tất cả đều do thiên ý và giải thích thiên ý như một “Thượng Đế” nắm quyền định đoạt số phận và con người không thể thay đổi. Đây chỉ là quan niệm của đạo Do Thái thời thượng cổ. Các giáo sĩ Do Thái đã đưa ra hình ảnh Thượng Đế như một kẻ “độc tài”, luôn luôn nổi giận khi có kẻ nào làm trái ý, để dọa nạt tín đồ bắt họ phải tùng phục. Có thể khi đó loài người còn man rợ, hung hăng nên việc đưa ra một hình ảnh “Thượng Đế hung ác” để gieo rắc sợ hãi có thể làm họ bớt hung ác chăng? Tuy nhiên quan niệm này đã lỗi thời từ lâu, qua sự chỉ dạy của
Đấng Cứu Thế, chúng ta thấy một “Thượng Đế” tùy cảm hứng mà ban cho người này điều kiện tốt đẹp và đày đọa người khác trong hoàn cảnh xấu xa, là điều không thể chấp nhận được. Đức Jesus đã dạy: “Thượng Đế là một người cha nhân từ, rất thương yêu chúng ta”. Nếu đã tin Ngài thì làm sao chúng ta có thể chấp nhận quan niệm rằng con người chỉ là những nạn nhân hèn yếu, không có ý chí, hoàn toàn lệ thuộc vào sự trừng phạt của một “hung thần” như thế được!
Con người sinh ra như thế nào hay trong hoàn cảnh nào hoàn toàn do những nguyên nhân từ trước, được quy định bởi những định luật Nhân quả, gây nhân nào gặt quả đó, chứ không phải do sự quyết định của một quyền năng nào. Người cao thượng là một linh hồn đã tiến bộ, đã học hỏi và thay đổi, trải qua hàng ngàn kiếp sống. Người xấu xa là một linh hồn còn non nớt, chưa học hỏi được nhiều nên còn phải trải qua nhiều đắng cay, đau khổ để học bài học cần thiết. Sự khác biệt giữa con người với nhau chẳng qua chỉ là sự trưởng thành trong trình độ tiến hóa và hiểu biết mà thôi. Hãy tự hỏi nếu cuộc đời chỉ ngắn ngủi trong một kiếp thì việc hy sinh, giúp đỡ người khác có ích lợi gì? Một anh hùng hy sinh mạng sống cho đất nước sẽ có lợi gì, nếu không nói quốc gia đó sẽ thiệt hại mất một nhân tài? Những vị thánh tuẫn tiết vì đạo cũng thế, nếu chết là hết thì phải chăng nhân loại rất thiệt thòi vì mất đi những người cao thượng? Theo luật Nhân quả và Luân hồi, việc làm đầy hy sinh của những người đó không hề vô nghĩa, vì nó sẽ trở thành bài học cho người khác, giúp người khác noi theo gương hy sinh của họ. Riêng về cá nhân họ, nhờ biết quên mình để phụng sự cho một lý tưởng sẽ giúp cho họ trở nên hoàn hảo tốt đẹp hơn vì trong tương lai họ sẽ trở lại để hướng dẫn nhân loại.
Cách đây ít lâu, một nhà tâm lý học đã lập thuyết về ảnh hưởng môi trường xung quanh đối với tính tình con người. Ông này cho rằng tâm hồn mọi người khi mới sinh ra đều giống nhau, ngây thơ như tờ giấy trắng mà người ta có thể hướng dẫn, giáo dục theo một chiều hướng nào đó. Các chuyên viên tâm lý đã
phát minh ra những phương pháp giáo dục để uốn nắn trẻ thơ vào những khuôn mẫu nhất định. Tuy nhiên, những ai đã từng làm cha mẹ đều thấy rằng mỗi đứa bé đều có tính tình, tài năng đặc biệt, và không đứa nào giống đứa nào. Sự giáo dục chỉ có thể uốn nắn, sửa đổi phần nào nhưng không thế thắng bản tính tự nhiên sẵn có. Nếu quan sát, chúng ta sẽ thấy có những đứa bé ngay từ khi còn nhỏ đã hung hăng mà trường học không thể giáo huấn và có những đứa trẻ dù sống trong hoàn cảnh xấu xa nhất vẫn trở thành những bậc thánh hiền. Chỉ có sự hiểu biết về định luật vũ trụ mới có thể giải thích rằng tùy theo sự tiến hóa cá nhân, trải qua muôn vạn kiếp sống luân hồi mà tính tình con người khác biệt nhau. Bất cứ một áp lực nào để nhồi nắn con người theo đường hướng riêng biệt đều không thể đem lại kết quả khả quan.
Có người đã hỏi: “Nếu có luân hồi, con người tiếp tục tái sinh trở lại trần gian thì tại sao dân số trên thế giới không cố định mà lại gia tăng?”. Theo các hiền triết trên Tuyết Sơn thì trong vô số linh hồn đang sống ở cõi giới bên kia cửa tử, chỉ một số nào đó, tùy hoàn cảnh và nghiệp quả, sẽ tái sinh xuống trần gian vào một thời điểm nhất định nào đó. Điều này cũng giống như dân số của thành phố thì cố định nhưng số người đi dạo chơi ngoài đường phố có khi tăng khi giảm tùy theo hoàn cảnh thời gian. Gặp ngày lễ, ngày hội, người ta kéo nhau ra đường đông hơn ngày thường.
Hoàn cảnh nhân loại trên thế giới cũng như thế, có những thời điểm đặc biệt mà một số linh hồn đến đầu thai vào một nơi nào với mục đích là để phá hoại hay giúp ích cho sự tiến bộ của xứ đó. Nói một cách khác, một quốc gia tiến bộ hay suy thoái là tùy theo người dân trong nước có trình độ hiểu biết và tiến hóa cao hay thấp. Những linh hồn kém tiến hóa, còn nhiều hung tính, dã man thường đầu thai vào những nơi chốn mà trình độ dân trí thấp kém, xã hội kém mở mang. Ngược lại, một quốc gia trở nên hưng thịnh là nhờ những linh hồn có trình độ hiểu biết
thâm sâu đến đầu thai vào để giúp đỡ và đem lại những điều tốt đẹp.
Trong một buổi giảng dạy, hiền triết Kuthumi đã nói: “Các con nên để ý đến trình độ chung của mọi người và làm thế nào để giúp cho nhân loại khai tâm, mở trí hầu trở nên sáng suốt và biết rõ ràng về các định luật vũ trụ. Nếu một quốc gia đang ở trong tình trạng suy kém, mê muội thì các con cần tạo ra những hoàn cảnh thuận đó. Các con cần chú trọng đến sự giáo dục con người, cải thiện đời sống xã hội theo căn bản đạo đức, sắp đặt luật pháp quốc gia cho công minh vì khi dân trí đã phát triển thì các bậc cao cả sẽ đến đầu thai vào để giúp cho xứ sở đó tiến bộ thêm”.
Có người hỏi tôi: “Nếu có luân hồi, tại sao người ta lại không nhớ được các việc xảy ra trong kiếp trước?”. Hiển nhiên có biết bao sự việc trong đời sống hiện tại mà người ta còn không nhớ được huống chi những kiếp đã qua. Trong mỗi kiếp sống, chúng ta khoác lấy một thân xác vật chất để học hỏi và bộ óc được cấu tạo trong thân xác mới mẻ này chỉ ghi nhận được những gì xảy ra trong kiếp đó thôi chứ không thể biết được những gì thuộc về kiếp trước. Tuy nhiên, tất cả kinh nghiệm đều được lưu trữ trong tàng thức, vốn là một phần của Chân ngã chứ không có gì mất đi cả. Trong lúc được thôi miên, vài người đã nhớ được những ký ức xa xôi trong tiền kiếp. Một hành giả nhập định, quán chiếu nội tâm cũng có thể hồi tưởng được tiền kiếp.
Trong một buổi dạy đạo, hiền triết Kuthumi cho biết: “Hầu hết mọi nỗ lực của con người thường hướng ra bên ngoài vì nó liên quan đến quyền lợi, dục vọng, ham muốn của con người nhưng khi họ biết quay vào bên trong, sử dụng mọi năng lực để đào sâu vào tâm thức cho đến khi không còn một ý nghĩ vẩn vơ về bên ngoài nào thì tâm thức của họ sẽ bắt liên lạc được với các thể tinh thần và họ có thể thấy rõ các sự kiện xảy ra từ tiền kiếp phơi diễn ra trước mặt họ như một cuốn phim”.
Tuy nhiên, việc nhớ lại tiền kiếp là một con dao hai lưỡi và tùy trình độ hiểu biết mà con người nên hay không nên khơi lại dĩ vãng này. Chúng ta không thể thay đổi những việc đã qua nhưng có thể thay đổi được việc đang và sẽ xảy ra trong tương lai. Dĩ vãng của ai cũng có những lầm lỡ, những điều đáng hổ thẹn và trải qua bao kiếp sống, con người đã gây biết bao lỗi lầm và việc hồi tưởng tiền kiếp sẽ không có lợi ích gì nếu nó làm cho đời sống hiện tại mất đi ý nghĩa. Hơn nữa, việc này còn dẫn đến liên hệ dĩ vãng của ta và những người khác. Chúng ta phải đối xử ra sao nếu người thân yêu của chúng ta trong kiếp này lại là kẻ thù của ta ngày trước? Luật vũ trụ định rằng đời sống là môi trường để học hỏi và sau đó con người bước vào cõi giới bên kia cửa tử để ôn lại những bài học cần thiết này. Tùy theo kinh nghiệm và những liên hệ với nhau chi phối bởi luật Nhân quả và Luân hồi mà con người tái sinh vào một kiếp sống khác để học hỏi thêm. Do đó đã có một bức màn mầu nhiệm tạm thời che khuất dĩ vãng để tránh cho con người những bi phẫn và đau khổ vì đời sống là môi trường để học hỏi chứ không phải một nơi để trừng phạt. Những duyên nợ, ân oán và liên hệ sẽ được thu xếp và sắp đặt ở cõi giới bên kia cửa tử chứ không phải trong đời sống hiện tại.
Nhiều người không tin luân hồi mà cho rằng sau khi chết linh hồn con người sẽ lập tức lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Đây là một quan niệm không đúng vì nó hàm ý một sự thay đổi trọn vẹn sau khi từ trần: Hoặc là người đó bỏ hết thói hư tật xấu, trở thành một vị thánh rồi lên thiên đàng; hoặc người đó phải vất bỏ mọi tính tốt, khoác lên người mọi tội lỗi, trở thành một loài yêu ma quỷ quái để bị đày đọa xuống địa ngục. Thượng Đế nhân từ và bác ái không thể chơi trò “may rủi” như thế, vì sự thay đổi nào cũng phải diễn ra từ từ chứ không thể đột ngột như thế được. Sự thật là, lúc sống người ta ra sao thì khi chết bản tính họ cũng thế thôi, không hề đổi thay chi hết. Nếu khi còn sống họ ham ăn ham uống thì sau khi chết họ vẫn ham uống ham ăn. Nếu khi còn sống họ mến Chúa, thương người thì sau khi chết vẫn một lòng như thế. Chết chỉ là sự cởi bỏ chiếc áo vật
chất chứ linh hồn nào thay đổi gì! Cõi trần hay cõi giới bên kia cửa tử cũng đều là những cõi giới trong vũ trụ và phải chịu sự chi phối của các định luật vũ trụ chứ không thể khác được.
Sự hiểu biết về luật Luân hồi rất hữu ích, nó giúp con người có thái độ bình tĩnh trước nghịch cảnh vì biết rằng mọi sự đều có nguyên nhân từ trước chứ không phải may rủi. Người hiểu Nhân quả, Luân hồi sẽ không ganh ghét những người có địa vị cao sang hơn mình, không khinh thường những người thua kém mình mà có một nhân sinh quan rộng lớn, quảng đại, khoan dung trước những biến chuyển thời cuộc.
Sau định luật Luân hồi và Nhân quả là luật Tiến hóa. Đây là một định luật quan trọng vì nó giải thích được nhiều sự việc và bổ túc cho sự bất toàn của nền khoa học ngày nay. Nếu quan sát xã hội, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người, ở một trình độ nào đó, đã vượt xa chúng ta; trong khi lại có người thua kém chúng ta rất nhiều. Có khi nào chúng ta tự hỏi vì sao lại có những người thông minh xuất chúng, chỉ cần đọc lướt qua một cuốn sách đã nắm vững nội dung, trong khi chúng ta dù cố gắng nghiền ngẫm từ ngày này qua tháng nọ mà vẫn chẳng hiểu gì cả! Nếu sự thông minh chỉ là những phản ứng hóa học, điện học trong bộ óc như khoa học thực nghiệm đã giải thích thì tại sao con người lại khác nhau nhiều thế? Nếu con người chỉ là một bộ máy hữu cơ, hoàn toàn chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền như khoa Sinh vật học đề xướng thì tại sao anh em cùng cha mẹ mà tính tình lại khác nhau? Tại sao có người phát triển năng khiếu khoa học khi người khác lại thiên về lĩnh vực nghệ thuật? Nếu môi trường sinh sống quyết định tâm tính con người như khoa Tâm lý học đề xướng thì tại sao được nuôi dưỡng cùng hoàn cảnh gia đình lại có người thông minh xuất chúng và người khác ngây thơ, dại khờ? Tại sao trong hàng tỷ người sống trên địa cầu mà không ai giống ai? Chỉ có luật Tiến hóa mới giải thích được điều này: Mỗi người đều có một mức độ hiểu biết và tiến hóa khác nhau, do đó xã hội mới có những sự khác biệt như vậy.
Chúng ta thường coi những người có trình độ tiến hóa cao như các nhà bác học, các bậc anh hùng và hơn nữa là những vị hiền triết hay thánh nhân. Lịch sử mọi quốc gia đều chứa đựng công trình của những người này và nếu chịu khó nhìn lại các bài học lịch sử, chúng ta sẽ thấy quốc gia nào cũng có những vị anh hùng hy sinh cho đất nước; những bậc hào kiệt tranh đấu để bảo vệ giống nòi; những nhà bác học phát minh khám phá, nâng cao đời sống mọi người và những bậc hiền triết giảng dạy chân lý cao thượng hướng dẫn con người biết sống thuận thảo, thương yêu. Một sử gia đã kết luận rằng lịch sử của một quốc gia có thể tóm tắt bằng công trình của một số người xuất sắc, đã khắc phục những khó khăn, trở ngại để thực hiện những công trình lớn lao đem lại lợi ích cho tất cả. Họ hoạt động trong mọi lĩnh vực từ nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, khoa học, xã hội đến triết học, tôn giáo và cải thiện xã hội, đưa quốc gia đến thịnh vượng, phú cường. Hiển nhiên so với đa số mọi người thì những người này đã vượt xa trình độ của người đương thời về sự hiểu biết trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Con đường tiến bộ của nhân loại có thể coi như một cái thang dài mà mỗi nấc thang là một mức độ tiến hóa, và ở mức nào cũng đã có người đạt đến đó rồi. Nếu chúng ta thẩm định giá trị những người phi thường này, xem họ đã vượt xa những người khác như thế nào thì chúng ta sẽ thấy đó là một con đường dài vô tận vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta và cái lý trí giới hạn của con người hiện nay khó có thể suy nghĩ cho được.
Trong lịch sử loài người, đã có những cá nhân phát triển hoàn hảo trên mọi phương diện và trở thành những con người siêu việt mà chúng ta gọi là các bậc giáo chủ, các thánh nhân, hiền triết. Sự hiện diện của những người này là bằng chứng rằng có một con đường tiến hóa tâm linh rõ rệt mà nếu tuân theo thì chúng ta cũng sẽ đạt đến mức độ huy hoàng, tốt đẹp đó. Đây chính là căn bản của luật Tiến hóa vì mọi vật, vô hình hay hữu hình, thấp hay cao, sang hay hèn, đều đang phát triển để hướng về một mục tiêu cao thượng. Tiến hóa chính là sự biểu lộ của sức sống tiềm ẩn trong tất cả mọi vật trong không gian và thời
gian. Hình hài tuy thay đổi nhưng tinh thần bên trong vẫn thường hằng vì nó chính là sự sống thiêng liêng, xuất phát từ nguồn sống cao cả, vô biên được biểu lộ qua muôn vàn hình thể trong vũ trụ. Con người thật sự là một trí thức trường tồn, nó chỉ khoác lấy thể xác vật chất để học hỏi mà thôi. Thể xác giống như chiếc áo được cấu tạo bằng nguyên tử vật chất, không thể tồn tại mà chỉ được sử dụng trong thời gian nào thôi. Trên tiến trình học hỏi, con người sẽ thay đổi tâm thức, từ thô thiển đến thanh cao cũng giống như học sinh đi học phải bắt đầu từ Tiểu học, Trung học trước khi tiến vào Đại học. Khi học xong bài học cần thiết thì họ đầu thai qua kiếp khác để học hỏi thêm và tiếp tục từ trình độ thấp đến cao, từ thô sơ đến tế vi, từ vô minh đến hiểu biết và chuyển đổi tâm tính, trả hết nghiệp quả, không tạo thêm nhân, rồi trở nên hoàn hảo để bước vào giai đoạn hợp nhất hay giải thoát.
CHƯƠNG 4
H
ầu hết các nhà khoa học đều coi thuyết Tiến hóa (Evolution) của Charles Darwin như một khám phá quan trọng, đặt nền tảng cho môn Sinh vật học hiện nay
nhưng theo sự học hỏi của tôi với các hiền triết trên Tuyết Sơn thì khoa học ngày nay chỉ mới hiểu được một phần rất nhỏ về định luật Tiến hóa của vũ trụ mà thôi.
Hiền triết Kuthumi cho biết sự thay đổi của các hình thể vật chất bên ngoài chỉ là kết quả tự nhiên của sự tiến hóa và biểu lộ của phần tinh thần hay sự sống tiềm ẩn trong tất cả mọi loài. Các hình thể bên ngoài luôn luôn thay đổi theo thời gian nhưng phần tinh thần bên trong thì trường tồn và tiến hóa qua các kiếp sống. Do đó nó tự biểu lộ qua những hình thể thích hợp với sự phát triển tâm linh của nó. Nói một cách khác, thuyết Tiến hóa của Darwin cho rằng các sinh vật tiến hóa để thích nghi với môi trường sống xung quanh rất giới hạn. Nó không giải thích được những đổi thay lớn lao trong thiên nhiên, vì Darwin không lý giải được những động năng tiềm ẩn trong mọi sinh vật. Khoa học cũng không giải thích về sự sống mầu nhiệm đang tuôn chảy khắp vũ trụ vì các nhà khoa học không thể lặp lại những điều kiện này trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên những người có trực giác bén nhạy đều cảm nhận được sự hiện diện của các mãnh lực kỳ diệu đang thấm nhuần khắp vạn vật này. Chúng ta có thể thấy sự sống biểu lộ trong hương sắc của những bông hoa muôn hồng ngàn tía, trong sức mạnh của những cổ thụ thâm trầm, trong sự linh động uyển chuyển của loài cầm thú, cũng như trong tâm hồn thanh cao của con người. Chính sự sống này đã thúc đẩy cơ tiến hóa của vũ trụ mà Thái Dương Hệ của chúng ta chỉ là một phần nhỏ với các hành tinh xoay vần, với các sinh vật linh động biến chuyển.
Nếu quan sát vũ trụ, chúng ta sẽ thấy có hai yếu tố dường như đối nghịch nhau, đó là “Tinh Thần” và “Vật Chất”, cái “Thật” và cái “Không Thật”, nhưng cả hai đều liên hệ với nhau rất chặt chẽ do đó mới nảy sinh ra yếu tố thứ ba là sự liên giao giữa tinh thần và vật chất hay giữa cái “Thật” và “Không Thật”. Ba yếu tố này được gọi là Ba Ngôi hay Tam Vị Nhất Thể (Trinity). Từ ngàn xưa, các đạo gia và hiền triết đã biết rõ về sự liên kết giữa con người và vũ trụ nên các đạo gia Ai Cập đã đề cập đến yếu tố Ba Ngôi này qua hình ảnh Osiris, Isis và Horus*; người Ba Tư gọi là Ahura Mazda, Asha và Vohumano**; và người Trung Hoa gọi đó là Thái Cực, Lưỡng Nghi và Tứ Tượng. Yếu tố ba ngôi này cũng được đề cập trong các tôn giáo lớn: Thiên Chúa giáo gọi là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần; Phật giáo tượng trưng bằng Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Âm và Bồ Tát Thế Chí hay Đức Phật Thích Ca, Bồ Tát Phổ Hiền và Bồ Tát Văn Thù. Ấn Độ giáo gọi là Brahma, Vishnu và Shiva. Cũng như thế, con người được cấu tạo bởi ba phần chính là tinh thần, linh hồn và thể xác. Theo các hiền triết trên Tuyết Sơn, Tinh thần (Spirit) chính là hơi thở của Thượng Đế vì danh từ Spirit, gốc Latin Spiro, có nghĩa là hơi thở, hay điểm linh quang của Thượng Đế. Nó chính là “con người thật” (Chân ngã) của con người chứ không phải cái xác thân bằng xương bằng thịt như đa số đã hiểu lầm. Chương trình tiến hóa của nó là phải giáng xuống cõi vật chất để học hỏi kinh nghiệm. Vì tinh thần hay cái điểm linh quang này được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh nhẹ, có tỷ lệ rung động rất cao khác hẳn với sự rung động nặng nề, ô trược của các nguyên tử thuộc cõi vật chất nên nó không thể giao tiếp với các rung động của cõi này mà cần phải có một yếu tố trung gian. Phần Tinh thần (Spirit) này tự phân tách ra mội phần nhỏ khác gọi là Linh hồn (Soul) làm trung gian tiếp xúc với xác thân. Điểm quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là Linh hồn chỉ là một phần nhỏ của phần Tinh thần được tạo ra để tiếp xúc với các rung động vật chất mà thôi. Trong sự tiếp xúc này, nó tự khoác lấy một ấn tượng, một hình ảnh có “tính cách cá nhân” mà ta gọi là Phàm ngã (Ego). Cái mà mọi người cho là mình hay Phàm ngã chỉ là một ảo ảnh không thật vì nó chỉ đóng
y g ộ g ậ g vai trò trung gian rất thô thiển của “con người thật” (Chân ngã) mà thôi. Tuy nhiên trong sự tiếp xúc với các yếu tố vật chất để học hỏi và thu tập kinh nghiệm, cái “ảo ảnh” này đã khoác lấy một xác thân vật chất rồi tự gán cho mình một địa vị quan trọng như một “thực thể” có đời sống riêng biệt và chỉ hoạt động cho mục đích riêng của mình.
(*) Osiris là thần của thế giới bên kia. Ông được coi là con trai của thần Trái đất Geb và nữ thần bầu trời Nut. Isis là em gái và cũng là vợ Osiris. Horus là con trai của họ, được Isis sinh ra sau khi Osiris chết.
(**) Ahura Mazda là vị thần tối cao của Hỏa giáo, tượng trưng cho sự sống, ánh sáng. Asha là vị thần tượng trưng cho trí tuệ. Vohumano là vị thần tượng trưng cho hạnh phúc.
Sự đồng hóa một cái gì “không có thật” thành một cái gì “hiện hữu” này chính là sự hiểu lầm tai hại mà kinh điển Ấn giáo gọi là sự “Hiểu lầm nguyên thủy”; danh từ Thiên Chúa giáo gọi là sự “Sa ngã đầu tiên” và Phật giáo gọi là sự “Vô minh, lầm lạc”. Các hiền triết trên Tuyết Sơn cho biết: “Mục đích của kiếp người là học hỏi để biết rõ mình là ai, từ đâu đến, và sẽ đi về đâu. Khi con người ý thức mình không phải là Phàm ngã và nguồn gốc của mình vốn cao thượng chứ không thấp kém thì họ đã tiến được một bước rất xa rồi. Sự biết mình và ý thức sự tương quan giữa mình và vũ trụ chính là căn bản chính yếu của mọi tôn giáo”. Truyền thống phương Tây thường đề cập đến cái chén và chất rượu trong đó.
Cái chén tượng trưng cho sự hoàn hảo của vật chất nhưng nó không có một giá trị gì cho đến khi được rót chất rượu hay sự sống thiêng liêng vào. Cũng như thế, thể xác con người được tạo ra cho linh hồn tạm thời trú ngụ để học hỏi, thu tập kinh nghiệm và nó chỉ hoàn toàn phát triển khi được đặt dưới sự kiểm soát của phần tinh thần. Vì không biết mình chính là phần tinh thần bất diệt mà hiểu lầm rằng mình chỉ là phần xác thân tạm bợ nên con người đã để cho xác thân điều khiển. Vì chạy
theo cảm xúc, như con ngựa bất kham không để ai điều khiển, con người mất tự chủ, buông thả theo sự lôi cuốn của dục vọng và hậu quả là họ gây đau khổ cho nhau. Sự đau khổ có giá trị của nó vì trong đau khổ mà con người học hỏi, rút kinh nghiệm và thay đổi. Trong cơ tiến hóa, phần tinh thần phải làm chủ thể xác, như viên kỵ mã kiểm soát con ngựa của mình một cách thuần thục. Sự tiến hóa của con người là sự khai mở mối liên hệ giữa con người thật hay Chân ngã và Phàm ngã để cho Chân ngã được biểu lộ mỗi ngày một rõ ràng hơn. Khi Chân ngã hoàn toàn làm chủ được Phàm ngã; thì con người hoàn tất sự nhập thế học hỏi và chuẩn bị bước vào trình độ tiến hóa của các bậc thánh nhân.
Luật Tiến hóa ấn định rằng mọi loài phải đi từ thấp lên cao, từ các loài vô tình như đất đá, cây cỏ rồi đến loài hữu tình như cầm thú rồi đến loài người trước khi bước vào giai đoạn tiến hóa của các vị thánh. Thật ra tiến hóa chỉ là những giai đoạn chuẩn bị để đưa con người trở về nguồn gốc cao quý lúc ban đầu. Danh từ Phật giáo gọi là sự hòa hợp với Chân Như và Thiên Chúa giáo gọi là sự hợp nhất với Thượng Đế.
Khi giải thoát, không còn chịu ảnh hưởng của luân hồi sinh tử, các bậc toàn thiện thường bỏ lại thể xác vật chất, vì các ngài đã sở hữu những quyền năng có thể khoác lấy bất cứ một hình hài, thể xác nào, để sử dụng theo ý muốn. Các ngài thường xuyên sống ở một cảnh giới cao cả nhưng đôi khi, vì một lý do gì hay cần giúp đỡ người nào, các ngài có thể hóa thân trở lại thế gian, khoác một thể xác tạm thời nào đó để giúp đỡ, an ủi, cứu giúp những người thế gian. Dĩ nhiên, những người tiếp xúc với các ngài không hề hay biết các ngài là ai và các ngài cũng chỉ làm việc này trong những trường hợp cần thiết mà thôi. Việc làm của các đấng cao cả thiêng liêng vô cùng, không ai có thể biết được. Có nhiều vị nghe tiếng kêu cầu của nhân loại đau khổ mà hóa thân xuống cứu giúp; có nhiều vị phóng ra những tư tưởng thương yêu tốt lành để cảnh tỉnh nhân loại; có nhiều vị gieo rắc hạt giống yêu thương và sự hiểu biết cho người có tinh thần
hướng thượng, giúp họ hoàn tất những công việc phụng sự, giúp đời. Phần lớn việc làm của các đấng cao cả đều âm thầm, ít ai có thể hiểu nhưng tác động của nó thì to lớn vô cùng. Vì tình thương nhân loại mà các ngài thường xuyên giúp đỡ thế gian dưới muôn vạn hình thức khác nhau và tùy theo sự tin tưởng của tôn giáo, phong tục hay tập quán xã hội mà người thế gian gọi các ngài bằng những danh từ khác nhau như: Thiên Thần, Bồ Tát, Hóa Thân, Chân Sư Thánh Nhân, v.v…
Nhiều người không tin rằng các hành tinh vô tri mà cũng tiến hóa nhưng nếu quan sát qua kính viễn vọng, chúng ta sẽ thấy vũ trụ, với hàng triệu hành tinh, không hề bất động mà biến chuyển không ngừng với những hành tinh đang tàn lụi và các hành tinh khác được sinh ra. Thật ra điều này không có gì lạ vì mọi sự, mọi vật trong vũ trụ đều thay đổi theo một chu kỳ nhất định: Sinh ra, trưởng thành, suy hoại và tiêu vong (Thành, Trụ, Hoại, Diệt). Quả đất mà chúng ta đang sống cũng thế, nó được thành lập từ triệu năm về trước, đang phát triển nhưng rồi sẽ suy tàn và tiêu vong, có thể trong hàng triệu năm nữa.
Nếu nhìn một cách tổng quát hơn, chúng ta sẽ thấy quả đất chỉ là một hành tinh nhỏ trong Thái Dương Hệ và toàn thể Thái Dương Hệ cũng chỉ là một phần nhỏ của dải Ngân Hà (Galaxy). Và dải Ngân Hà cũng chỉ là một phần nhỏ của khối Tinh Vân (Nebular) đang xoay vần trong vũ trụ.
Sự hiểu biết của con người về vũ trụ tạm thời giới hạn ở đây nhưng một ngày nào đó, người ta sẽ khám phá rằng các khối Tinh Vân cũng chỉ là một phần nhỏ của một đại thể khác rộng lớn hơn nữa và cứ thế vô cùng tận. Tuy nhiên, vũ trụ không phải là cái gì hỗn độn, tình cờ và vô trật tự mà là một hệ thống tiến hóa với những quy luật hết sức rõ rệt. Luật vũ trụ điều khiển tất cả vạn vật, trong đó luật Tiến hóa xác định rằng mọi loài, mọi vật trên mọi hành tinh đều tiến hóa theo những chu trình đã được ấn định. Trong Thái Dương Hệ của chúng ta, sự tiến hóa khởi đầu với loài đất đá, kim thạch rồi qua loài thảo
mộc, loài cầm thú sẽ tiếp diễn sau loài thảo mộc, và loài người tiếp sau loài cầm thú. Loài người có một chu trình tiến hóa nhất định, một giới hạn mà khi vượt qua, họ sẽ bước vào trình độ tiến hóa của các bậc hiền triết, thánh nhân rồi tiếp tục tiến hóa thành các bậc tiên thánh...
Nhiều người không tin những loài vô tri như đất đá, cây cỏ lại có thể tiến hóa được nhưng luật vũ trụ không hề có sự phân biệt. Trên diễn trình tiến hóa, loài đất đá vì được cấu tạo bằng các nguyên tử rung động nặng nề, thô thiển nên chưa phát triển được các thể tình cảm do đó nó có vẻ ù lì, không tri giác. Loài cây cỏ nhờ tiến hóa hơn nên đã có thể đón nhận vài rung động rất giới hạn. Sự phát triển của loài cầm thú đi song song với sự phát triển các thể tình cảm và đặc biệt là sự phát triển về phần hồn. Mỗi con thú đều có một linh hồn riêng biệt nên có cảm xúc, mặc dù tình cảm của chúng còn giới hạn. Tuy nhiên linh hồn con thú không tái sinh vào một thể xác độc lập như con người mà trở về khối hồn chung gọi là Hồn Nhóm (Soul Group). Điều này có thể ví như một hồ nước mà mỗi linh hồn con thú khi sinh ra như một bình nước được múc từ hồ lên và khi chết thì tựa bình nước được đổ trở lại vào cái hồ đó. Hiển nhiên, mỗi loài vật lại có các hồn nhóm khác nhau nên điều này giải thích tại sao những con vật đồng loại có tính tình, thể xác và hành động như nhau. Một con voi sẽ hành động như một con voi và một con chó sẽ hành động như một con chó chứ không thể khác được. Ngày nay, khoa học chứng minh rằng đó là yếu tố di truyền, nhưng yếu tố này chỉ là sự biểu lộ của sự sống tiềm ẩn trong hồn nhóm mà thôi.
Trong kiếp sống, con thú thu tập được các kinh nghiệm và học được những bài học nhất định. Khi chết, linh hồn của nó trở về hồn nhóm ví như một bình nước đã nhuộm màu được đổ trở lại cái hồ khiến cho màu sắc của nước trong hồ thay đổi. Nhờ đó một con thú sinh sau từ hồn nhóm đó sẽ tiến hóa hơn con thú đã sinh ra trước vì được chia sẻ sự học hỏi của con thú kia và đó chính là diễn trình tiến hóa của các loài cầm thú. Sự tiến hóa cứ
thế tiếp diễn trong các sinh vật cho đến khi một con thú phát triển trọn vẹn những điều cần thiết thì hồn của nó không trở về hồn nhóm hay hồ nước kia nữa mà chuyển qua một nhóm khác của loài thú có trình độ tiến hóa cao hơn. Một con vật hung dữ có thể tiến hóa thành con vật thuần lương. Một con chó sói có thể đầu thai thành loài chó giữ nhà rồi được dạy bảo để trở thành loài chó được huấn luyện để hiểu được mệnh lệnh của loài người. Một con heo ù lì chỉ biết ăn với ngủ có thể sẽ tiến hóa thành loài trâu bò kéo cày và sau có thể chuyển kiếp qua loài khỉ vượn, tinh khôn lanh lợi hơn. Khi con thú phát triển trọn vẹn để có thể bước vào con đường tiến hóa của loài người thì lúc bỏ xác, hồn của nó sẽ trở thành một thực thể độc lập với một cá tính riêng biệt chứ không trở lại hồn nhóm nữa.
Khi thoát kiếp thú thành người, nó vẫn còn nhiều thú tính như ích kỷ, hung ác, say mê dục lạc nên gây nhiều đau khổ cho người khác. Đây là lúc nó tạo nhiều nhân xấu và sẽ gánh chịu hậu quả, nhưng theo thời gian, trải qua nhiều kiếp sống và vô số bài học khổ đau, con người bắt đầu học hỏi và kiềm chế các thú tính này. Con người tiến hóa của nhân loại kéo dài rất lâu, đưa con người từ hoàn cảnh này đến môi trường khác, từ quốc gia này đến quốc gia kia để học hỏi và kinh nghiệm. Có lúc họ sinh làm thân người nam, có khi sinh vào thân người nữ và con người dần dần thay đổi, từ thấp lên cao, từ xấu đến tốt, từ hung dữ trở nên thuần lương, từ ngu si trở nên sáng suốt. Khi đã học được những bài học cần thiết và phát triển được lòng bác ái, con người biết làm điều lành, tránh điều ác, giảm bớt ích kỷ, biết hy sinh cho kẻ khác và càng ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Trong chu trình tiến hóa, họ sẽ học hỏi kinh nghiệm về các định luật vũ trụ như Luân hồi, Nhân quả, Tiến hóa và biết rằng ngoài các yếu tố vật chất vô thường, nay còn mai mất, vẫn có một cái gì thiêng liêng, trường tồn tiềm ẩn bên trong. Họ sẽ ý thức được rằng đời sống không phải là môi trường để chém giết, tranh đua, mà để trở về sự thương yêu. Qua các kinh nghiệm này, họ biết chuyển hướng để góp phần phát triển một xã hội thực sự tiến bộ vì hạnh phúc không phải là vun vén, thu vào cho mình
mà là sự phân phát, ban rải những gì mình có để giúp người, giúp đời. Khi con người ý thức được vai trò của mình với đồng loại cũng như sự tương quan giữa con người và môi trường sống xung quanh thì họ đã bước chân vào giai đoạn tiến hóa rất cao trước khi chuyển sang giai đoạn tiến hóa của các bậc hiền triết, thánh nhân.
Vì tiến hóa là luật vũ trụ nên sự tiến hóa xảy ra ở khắp nơi chứ không nhất thiết phải trong thế giới của chúng ta hay giới hạn trên quả địa cầu này. Con đường tiến hóa bao la vô tận, đi từ hoàn cảnh này đến hoàn cảnh khác, từ quốc gia này đến quốc gia khác, từ thế giới này đến thế giới khác, từ hành tinh này qua hành tinh khác và từ thái dương hệ này qua thái dương hệ khác. Mọi sinh vật đều tiến hóa theo những chu trình nhất định của hệ thống tiến hóa hay thiên cơ vĩ đại.
Theo sự học hỏi của tôi với các hiền triết trên Tuyết Sơn thì Thái Dương Hệ là một hệ thống mà trong đó mọi hành tinh đều có mức tiến hóa khác nhau và những sinh vật sống trên đó cũng tuần tự trải qua những chu trình tiến hóa nhất định. Thái Dương Hệ gồm có bảy cõi giới là: Tối Đại Niết Bàn (Mahaparanirvana), Đại Niết Bàn (Paranirvana), Niết Bàn (Nirvana), Bồ Đề (Boudhe), Thượng giới (Celestial), Trung giới (Astral) và Hạ giới (Physical). Mỗi cõi giới được cấu tạo bởi những nguyên tử có sự rung động khác nhau. Những người khai triển được quyền năng như Thần Nhãn, Thiên Nhãn, Huệ Nhãn, Phật Nhãn thì có thể thấy được những cõi giới kia. Đây là những khả năng tiềm ẩn bên trong mọi chúng ta và tùy trình độ tiến hóa mà nó tự nhiên khai mở chứ không phải một cái gì mà người ta có thể tìm kiếm được. Mục đích của con đường đạo chân chính là phát triển được các đức tính để trở nên tốt đẹp hơn, để sống đúng theo các chân lý cao thượng chứ không phải để phát triển quyền năng.
Con người được cấu tạo bởi nguyên tử của bảy cõi giới kia và những nguyên tử này kết hợp thành bảy thể (Bodies) tương ứng
với bảy cõi giới ấy. Đó là: thể Xác, thể Vía, thể Phách, thể Hạ Trí, thể Thượng Trí, thể Bồ Đề và thể Thiêng Liêng. Ba thể Thiêng Liêng, Bồ Đề và Thượng Trí thì trường tồn, không thay đổi nhưng các thể như Hạ Trí, thể Phách, thể Vía và thể Xác thì luôn luôn thay đổi theo kiếp sống tùy theo sự chi phối của các luật vũ trụ như Nhân quả, Luân hồi.
Con đường tiến hóa trải qua rất nhiều giai đoạn nhưng đến khi làm người thì đây là một giai đoạn đặc biệt vì con người đã phát triển về thể Trí nên có thể quyết định số phận của họ. Họ có thể tiến hay lùi, đi nhanh hay đi chậm, và sống thuận theo đà tiến hóa chung hay đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại. Vì đã phát triển về lý trí nên cơ hội học hỏi để tiến hóa của họ trở nên phức tạp hơn các loài cầm thú vốn sống bằng bản năng. Nếu tiếp tục tiến hóa, họ sẽ bước vào con đường của bậc hiền triết, thánh nhân và nếu tiến xa hơn nữa thì họ có thể trở thành một vị Chân Tiên cai quản một cõi trời, một vị Bồ Tát có thể đi khắp các cõi giới, và khi giác ngộ hoàn toàn sẽ trở thành một vị Phật.
Thể xác con người là một bộ máy hết sức tinh xảo với những giác quan đặc biệt nhưng ít ai biết rõ vì khoa học ngày nay chỉ chú trọng đến một phần rất nhỏ của nó hay các giác quan thể xác mà thôi. Căn bản của khoa học là sự lặp đi lặp lại một số điều kiện trong phòng thí nghiệm rồi đặt ra lý thuyết để giải thích các hiện tượng này chứ không để ý đến những điều mà họ không thể giải thích.
Khi sống trên Tuyết Sơn, tôi đã gặp nhiều đạo sĩ có thể làm những việc kỳ lạ như làm tim ngưng đập trong nhiều giờ, phi hành trên những sườn núi cao chênh vênh, tọa thiền trên băng tuyết lạnh giá mà vẫn không hề hấn gì. Các khoa học gia tuy biết thế nhưng vì không thể giải thích nên đã phủ nhận nó. Họ sợ những gì có thể làm đảo lộn giá trị của lý luận khoa học hiện nay. Thí dụ, khoa học cho rằng vì sống bằng thực phẩm, người ta chỉ có thể nhịn đói vài ngày hay nửa tháng nhưng không thể kéo dài quá lâu vì sẽ chết đói. Tôi đã gặp nhiều đạo sĩ ngồi thiền
suốt mấy tháng trong động đá, chẳng ăn uống gì mà vẫn khỏe mạnh như thường. Khi tôi kể chuyện này cho các nhà khoa học, họ cho biết đã có những phái đoàn khoa học gia đi tìm hiểu về hiện tượng lạ lùng này nhưng vì không thể giải thích nên họ giữ thái độ im lặng.
Trong thời buổi khoa học là quyền uy tối thượng, không ai dại gì đưa ra những hiện tượng mà họ không thể giải thích vì nó sẽ gây hoang mang, khiến mọi người không còn tin tưởng tuyệt đối ở khoa học nữa. Bất cứ điều gì đi ngược lại sự giải thích của các khoa học gia đương thời đều bị coi là “phản khoa học” và người đề xướng sẽ bị chỉ trích nặng nề. Do đó, thay vì tìm hiểu thêm những khả năng đặc biệt này, khoa học lại chủ trương “những gì không thể chứng minh được thì không nên công bố”. Chủ trương “đơn giản hóa” tinh hoa tôn giáo để bành trướng thế lực là nguyên nhân của nhiều tranh chấp phe nhóm và đưa châu Âu vào hoàn cảnh đen tối của thời Trung cổ. Cũng như thế, các nhà khoa học ngày nay đã bỏ qua những cơ hội nghiên cứu về những hiện tượng không thể giải thích, những giác quan tiềm ẩn trong con người khiến cho khoa học bị giới hạn trong phạm vi các phòng thí nghiệm, không tiến xa hơn nữa.
Vì con người được cấu tạo bởi nguyên tử tương ứng với bảy cõi giới khác nhau nên tùy sự rung động của những nguyên tử này phù hợp với sự rung động của cõi nào mà con người khai triển những giác quan tương ứng với cõi đó. Nguyên tử cấu tạo thể xác của con người hiện nay có sự rung động tương ứng với cõi Hạ giới nên họ chỉ sử dụng được các giác quan tương ứng với cõi này hay giác quan thuộc về thể xác. Nhờ phát triển về lý trí, con người cố gắng làm chủ xác thân và đặt nó dưới sự kiểm soát của lý trí. Khi tâm kiểm soát được thân thì các giác quan thể xác sẽ không còn ảnh hưởng nhiều nữa, bằng chứng là những người có đời sống tinh thần rất cao ít khi chú ý đến nhu cầu thân xác. Nếu họ biết hướng tư tưởng vào những điều cao thượng, tâm thức của họ sẽ rung động đồng nhịp với sự rung động của các
cõi giới cao hơn và giúp họ khai mở các giác quan của cõi này như thần nhãn, thiên nhĩ v.v...
Tôi muốn nhấn mạnh rằng quyền năng chỉ là những giác quan sẽ tự nhiên hoạt động khi tâm thức con người đạt đến một mức độ tiến hóa nào đó chứ không bao giờ là mục đích của con đường đạo. Khi các giác quan này khai mở, con người có thể nhìn được mọi sự, mọi vật một cách rõ ràng sáng suốt hơn. Thế giới của họ sẽ mở rộng và họ sẽ có một kiến thức thâm sâu hơn một người bình thường. Điều này có thể ví như một người suốt ngày chỉ ngồi trong nhà thì không thể hiểu biết bằng một người đã du lịch nhiều, giao thiệp rộng. Sự khai mở giác quan này chỉ là một tiến trình tự nhiên để giúp con người học hỏi, thu thập kinh nghiệm và giúp họ tiến hóa theo những chu trình đã được ấn định bởi những quy luật nhiệm màu của vũ trụ. Tất cả mọi chúng sinh đều có cùng một nguồn gốc nhưng ít ai ý thức được điều này cho đến khi tâm thức của họ mở rộng và đạt đến tâm thức Bồ Đề. Điều này có thể ví như một người đang sống ở đáy giếng, họ có thể ngẩng mặt để nhìn ánh sáng mặt trời nhưng đây là một ánh sáng bị giới hạn. Chỉ khi nào thoát ra khỏi cái giếng sâu đó thì họ mới thấy bầu trời rộng lớn bao la, và ánh sáng của Đấng Duy Nhất chiếu soi tất cả.
Trên đường tu học, việc nuôi dưỡng thể xác bằng các thức ăn tinh khiết thích hợp với các rung động thanh cao rất quan trọng. Các thức ăn như thịt cá mang vào thân thể chúng ta những nguyên tử thấp thỏi của loài cầm thú, làm khơi dậy những chủng tử nặng nề của giai đoạn tiến hóa trước và làm cản trở sự tiến bộ tâm linh. Mỗi loài thú đều có những đặc tính riêng nên khi ăn thịt chúng, con người sẽ thu hút vào mình đặc tính của con thú đó. Những con vật được nuôi để mổ thịt như gà vịt, trâu bò khi bị giết rất sợ hãi, đau đớn, có tư tưởng oán thù. Khi hấp thụ những nguyên tử này vào mình, người ăn vô tình đã mang vào trong thân thể họ mầm mống của sự lo sợ, giận hờn, nỗi đau đớn, quằn quại khi bị giết và hậu quả sẽ đưa đến
những căn bệnh như ung thư, lở loét bao tử, cao huyết áp và đặc biệt là bệnh thần kinh.
Nhiều người không tin việc ăn thịt cá lại gây ra bệnh tật. Khoa học hoàn toàn phủ nhận lý luận này và chứng minh rằng bệnh tật là do vi trùng gây ra. Người ta đã trút tất cả tội lỗi cho vi trùng và tìm đủ mọi cách để giết những vi trùng gây bệnh. Thế nhưng, hễ trừ được bệnh này thì lại nảy sinh những loại bệnh tật khác ghê gớm hơn. Vào thời Trung cổ, bệnh dịch hạch là một đe dọa hết sức ghê gớm, giết hại gần một nửa dân số châu Âu. Khi khoa học phát minh ra những phương pháp trừ bệnh dịch hạch thì xã hội lại nảy sinh các bệnh khác như: ho lao, sưng màng óc và khi người ta trừ được các bệnh này thì lại nảy sinh bệnh ung thư, huyết áp cao v.v...
Nguyên nhân sâu xa của những căn bệnh này là do những yếu tố tiềm ẩn mà vi trùng chỉ là những tác nhân gây bệnh mà thôi. Ngày nay, nếu người ta quan sát những quốc gia có mức sống cao, thực phẩm dư thừa, dân chúng ăn nhiều thịt cá thì họ sẽ thấy tỷ lệ người mắc bệnh ung thư hay cao huyết áp gia tăng rất nhiều so với các quốc gia chậm tiến hơn. Khi khoa học không thể đổ lỗi cho vi trùng được nữa thì họ phải đặt ra một lý thuyết khác để giải thích và quan niệm dinh dưỡng qua việc phân loại thực phẩm được đề xướng. Dân chúng được khuyến khích tiêu thụ các loại thức ăn theo một tiêu chuẩn giới hạn để tránh bệnh tật nhưng khoa học chưa dám công bố rằng thịt cá hay thực phẩm do sự giết chóc là nguyên nhân chính. Các khoa học gia chưa nắm vững nguyên lý về sự liên quan giữa tinh thần và xác thân nên không thể giải thích tại sao xã hội càng văn minh, số người mắc bệnh thần kinh càng nhiều, nơi nào càng ăn nhiều thịt cá, số người gây tội ác như bạo động, sát nhân càng gia tăng.
Một người đi trên đường đạo và mở rộng lòng thương không thể tiếp tục ăn thịt cá vì nó ngăn trở việc phát triển tâm linh. Có người không đồng ý với tôi và lý luận rằng các loài ăn cỏ như trâu bò đâu phát triển tâm linh hay có tiến bộ gì! Điều tôi muốn
trình bày là việc ăn rau cỏ chỉ là những yếu tố trợ giúp cho sự phát triển cá nhân, tránh mang vào thân thể những nguyên tử ô trược, nặng nề mà thôi. Ngoài ra, người ta còn phải thực hành các quy tắc cần thiết để kiểm soát thân cũng như tâm và học hỏi để phát triển những quang năng giúp họ tiến hóa. Các loài ăn cỏ như trâu bò chưa phát triển về lý trí mà sống bằng bản năng nên không phát triển tâm linh như loài người được, nhưng vì chỉ ăn rau cỏ nên bản tính của chúng thường hiền hòa không quá hung dữ như loài cọp beo.
Các hiền triết trên Tuyết Sơn còn cho biết thực phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, phong tục và sự phát triển của các quốc gia. Nếu để ý quan sát, người ta sẽ thấy dân trí của những quốc gia tiêu thụ thực phẩm như rau trái, ngũ cốc thường hiền hòa, thuần hậu so với các quốc gia tiêu thụ nhiều thịt cá. Mỗi quốc gia đều có mức độ tiến hóa khác nhau tùy theo trình độ hiểu biết của các cá nhân sống trong đó. Một quốc gia phát triển huy hoàng là nhờ những linh hồn đã tiến hóa rất cao đầu thai vào đó để xây dựng, giúp cho xã hội trở nên phồn thịnh. Một quốc gia suy kém là do những linh hồn kém cỏi đầu thai vào để phá hoại khiến nó chóng suy tàn. Thời gian hưng thịnh hay suy tàn của một nước hoàn toàn do tập thể sống trong đó biết cách gìn giữ, bảo vệ và xây dựng hay chỉ biết hưởng thụ, tiêu pha những gì họ có thể sử dụng được. Ngày nay, đa số mọi người đều thẩm định trình độ phát triển quốc gia qua những tiêu chuẩn vật chất và cho rằng sự văn minh và tiến bộ của một quốc gia phải được xây dựng trên những lực lượng quân đội hùng mạnh hay đời sống xã hội với nhiều tiện nghi vật chất. Không mấy người hiểu rằng giai đoạn phát triển của một quốc gia hoàn toàn dựa trên những tiêu chuẩn thuộc phạm vi tinh thần và khi quốc gia đó bước vào địa hạt của những giá trị vật chất thì nó đang ở trong tiến trình suy thoái rồi. Hãy nhìn lại lịch sử, chúng ta đã học được gì ở những nền văn minh thời cổ như Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã hay những nền văn minh cổ xưa hơn nữa như Atlantis, Toltec và Lemuria. Tất cả những nền văn minh này sau giai đoạn phát triển cực thịnh đã suy tàn nhanh chóng vì người
dân không biết gìn giữ gia sản tâm linh quý báu mà chỉ lo thụ hưởng những tiện nghi vật chất.
Có người hỏi tôi: Nếu như thế thì người ta phải làm gì để góp phần xây dựng cho sự tiến bộ chung của nhân loại? Theo tôi, người ta cần tu tâm sửa tính, loại bỏ các lầm lạc do sự thiếu hiểu biết về mình để cho con người thật hay Chân ngã hiển lộ. Trong đời sống này, người ta cần hướng tầm mắt lên những điều cao thượng, vượt các sự việc nhỏ nhen để tránh hao tốn thời giờ hay năng lực vào những việc vô ích. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải ngoảnh mặt trước các công việc bé nhỏ. Đôi khi một việc nhỏ lại có ý nghĩa lớn lao trong khi một việc dường như to tát lại hóa ra tầm thường nếu chúng ta không biết phân biệt rõ ràng. Giá trị mọi việc hoàn toàn tùy thuộc vào tinh thần làm việc hay động năng thúc đẩy người làm việc đó. Nếu người ta hành động với một tâm hồn trong sạch thì các khiếm khuyết về kỹ thuật không quan trọng lắm. Khi đã hiến mình cho lý tưởng cao thượng, con người cần đặt trọn vẹn tâm hồn vào mục tiêu cao cả đó và khi nào họ đã quên mình trọn vẹn, thì việc làm đó mới thực sự tốt đẹp vẹn toàn.
Tôi đã gặp nhiều người thích làm việc từ thiện, xã hội nhưng lại xem việc này như cơ hội để họ tự đề cao cá nhân. Đó không phải việc làm chân chính mặc dù họ đạt được kết quả khả quan. Một việc tốt nhưng làm bởi mục đích ích kỷ cũng khiến cho nó mất giá trị rất nhiều. Tôi đã gặp nhiều người có khả năng hoạt động rất cao nhưng vì thiếu ý thức nên họ chỉ hoạt động hữu hiệu khi được mọi người xung quanh tán thưởng hay để ý đến. Tuy thành công nhưng động năng thúc đẩy họ làm việc đó lại hoàn toàn vì quyền lợi riêng chứ không phải lợi ích chung. Thánh Francis thành Assisi*** đã hỏi: “Có ai đã phụng sự Thượng Đế mà không đòi hỏi gì không?”. Ngài giải thích rằng chỉ có sự làm việc chân thành, không mong cầu, không ao ước, không xin ban thưởng gì khi còn sống cũng như không mong được vào Thiên Đàng khi chết, mới là phụng sự chân chính và trong sạch nhất. Ngài nhấn mạnh: “Chỉ những ai làm được điều đó mới xứng
đáng thành người ban rải tình thương của Thượng Đế”. Thử hỏi trong xã hội văn minh tiến bộ hiện nay, đã mấy ai có thể phụng sự chân thành như thế?
(***) Thánh Francis thành Assisi còn gọi là Thánh Francis Khó Khăn, là một tu sĩ Công giáo đã sáng lập ra Dòng Anh Em Hèn Mọn. Giáo hội xem ông là Thánh bổn mạng của loài vật, chim trời, môi trường và nước Ý. Ngày lễ kính Thánh Francis là 4 tháng 10.
CHƯƠNG 5
V
iệc học hỏi với các hiền triết trên Tuyết Sơn không diễn ra trong lớp học như nhiều người thường nghĩ mà trong sự gặp gỡ, sinh hoạt hoặc qua sự liên lạc bằng tư tưởng.
Hàng ngày, các đệ tử thường kéo đến tụ họp trước nhà các ngài để nghe dạy bảo. Phần lớn những người này sống ở các làng mạc xung quanh vùng, nhưng thỉnh thoảng cũng có một số người ở xa tìm đến. Mặc dù thầy và trò có thể liên lạc bằng tư tưởng qua cây cầu tâm thức nên việc gặp gỡ thường xuyên để học hỏi không hẳn là cần thiết nhưng nhiều người vẫn thích tìm đến để được khuyên dạy trực tiếp.
Hôm đó sau khi vắn tắt vài lời với các học trò, hiền triết Kuthumi đã quay qua một đệ tử đến từ miền nam xứ Ấn và ân cần khuyên: “Này Ajuta, cho đến nay, con đã thi hành rất đúng đắn những công việc ta giao phó cho con. Ta đã đưa đến cho con nhiều cơ hội để phụng sự nhân loại và lần nào con cũng làm một cách trọn vẹn. Từ nay, ta sẽ trao cho con nhiều cơ hội quan trọng hơn nữa, và sự tiến bộ của con sẽ tùy nơi con hành xử những việc đó. Con cần biết rằng sự hoàn hảo trong những công việc nhỏ sẽ dẫn dắt đến những việc lớn hơn. Con có một khả năng thương yêu rộng rãi, đã gieo rắc những điều tốt lành khắp nơi nhưng con chớ nên tự mãn. Ta thấy trong bông hoa tâm linh của con vẫn còn ẩn nấp những con sâu nhỏ của sự kiêu hãnh mà nếu con không cẩn thận, một con sâu nhỏ có thể làm hư hại cả một đóa hoa tươi đẹp. Này Ajuta, con cần phải khiêm tốn hơn nữa nếu muốn đạt đến sự minh triết cao cả và ngay khi đạt được sự minh triết ấy rồi thì con lại càng phải khiêm tốn hơn nữa. Con cần trau dồi đức tính này cho đến khi nào nó hoàn toàn thấm nhuần khắp làn da, thớ thịt trong thân con, chi phối mọi tư tưởng của con, cho đến khi con không còn
thấy có việc để làm, có người để giúp đỡ thì con mới đạt đến sự hợp nhất thực sự”.
Ngài quay sang một đệ tử khác, ôn tồn nói: “Này Deependra, ta biết tâm nguyện của con là phụng sự nhân loại nhưng con đường này đòi hỏi một sự cảnh giác không ngừng. Lý tưởng quên mình để lo cho người khác là tấm khiên chắc chắn giúp con chống lại những tư tưởng nhỏ mọn vẫn còn lởn vởn quanh tâm thức con. Chỉ một giây xao nhãng, nó sẽ gây trở ngại cho con. Ta biết sự an lạc chưa đến với con trong lúc này. Ta cũng biết những người đang chung sống với con không hiểu con, không giúp đỡ gì cho con, nhưng việc chính của con là tiếp tục con đường mà con đã chọn. Con chớ tự mãn với thành tích đạt được mà phải tiếp tục đi nữa. Một kẻ phụng sự không bao giờ được ngơi nghỉ khi thế gian còn cần đến họ. Kẻ đi trên đường phụng sự phải biết chịu đựng những đắng cay, chua chát mà người thế gian, vì không hiểu biết, đã tạo ra cho họ. Mọi sự bất mãn, khó chịu hay những lời nói, dù chỉ để biện minh việc làm của mình, cũng cần phải tránh. Hãy giữ thái độ yên lặng, khiêm tốn và đừng bao giờ làm gì mà không suy nghĩ trước rằng điều mình nói ra có dễ nghe và hữu lý hay không. Ta biết con đã cố gắng rất nhiều nhưng con cần phải cố gắng hơn nữa để dẹp bỏ những tư tưởng vô ích đang lẩn quẩn trong đầu óc của con. Ngay những lý luận để giải thích về việc làm của mình cũng là điều không cần thiết. Kẻ đi trên đường phụng sự nhân loại phải biết lấy sự thiệt thòi của mình làm hành trang, lấy tình thương làm phương châm xử thế với mọi người vì không có tình thương thì mọi việc làm chỉ là những điều vô ích, như nước tưới lên sa mạc mà thôi. Này Deependra, con đã lựa chọn con đường hy sinh và biết trước rằng đây là con đường đầy chông gai, hiểm trở rất khó đi. Con cần ý thức thêm rằng kẻ đi trên đường này không làm những gì họ thích mà chỉ làm những gì để giúp đỡ người khác thôi. Giây phút nào mà con không sử dụng để giúp đỡ người khác thì đó là giây phút lãng phí. Tuy nhiên con không đi trên con đường này một mình vì hiện nay có nhiều người khác cũng đang phụng sự nhân loại như con và họ cũng đang trải qua những điều mà con đang kinh nghiệm. Con đừng bỏ lỡ cơ hội để phụng sự thế gian, mặc dù ta vẫn thường
xuyên dõi theo con nhưng ta không thể làm việc này thay cho con được. Sự cố gắng phải do chính con tạo ra. Con hãy làm một cách chu đáo và trung thành với lý tưởng cao quý mà con đã chọn. Ta ban ân huệ cho con”.
Ngài mỉm cười và nói với một đệ tử khác đến từ Mumbai: “Hỡi Deshanda, ta rất vui khi biết con đã làm được nhiều điều tốt trong việc hướng dẫn, giúp đỡ những người thấp kém hơn con. Không việc gì tốt đẹp hơn việc giúp người và nhờ vậy con đã gặp lại một người bạn cũ. Ta biết hai con đã từng làm việc với nhau trong nhiều kiếp nên lần này công việc chung sẽ có nhiều hiệu quả tốt đẹp hơn. Hai người chắc chắn phải hơn một người rồi! Con đã khởi sự đúng đắn, vậy con hãy tiếp tục công việc đã được giao phó với lòng tin sắt đá rằng con đã đi đúng con đường mà con đã chọn từ nhiều kiếp trước đây”.
Một người không có kiến thức về sự liên hệ giữa thầy và trò của người phương Đông chắc hẳn sẽ ngạc nhiên và tự hỏi làm sao một người sống ẩn dật trên rặng Tuyết Sơn hoang vu lại có thể biết rõ tư tưởng và hành động của những người sống trong thành phố cách đó hàng ngàn dặm? Rõ ràng, đây là bằng chứng rất rõ về cây cầu tâm thức và sự hướng dẫn học trò của các vị thầy phương Đông. Các ngài thường xuyên theo dõi và liên lạc với học trò bằng phương pháp “thần giao cách cảm” mà khoa học ngày nay chưa thể giải thích.
Có người nói với tôi rằng các bậc hiền triết ắt hẳn phải có những lời dạy bảo cao siêu chứ những lời nói trên quá giản dị, làm sao có thể hướng dẫn giúp ai trong đời sống phức tạp, quay cuồng! Họ không biết rằng các hiền triết vốn rất ít nói và khi nói, các ngài đều sử dụng những lời khuyên chân thành, giản dị để đi thẳng vào lòng người. Người đi trên đường đạo là người biết từ bỏ cái thế giới của họ để bước vào thế giới của các hiền triết, nghĩa là biết gạt bỏ những hình thức hào nhoáng của ngôn ngữ để bước vào thế giới của tư tưởng, mà trong đó mọi sinh hoạt đều giản dị với những nguyên tắc rõ ràng, minh bạch. Họ phải
biết sống chân thật, hồn nhiên vì đây là chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh mầu nhiệm vẫn khép kín từ trước đến nay. Đức Jesus đã dạy: “Các ngươi không bao giờ có thể bước chân vào Thiên Đàng trừ khi các ngươi thức tỉnh và trở lại ngây thơ như con trẻ”. Phải chăng điều này có nghĩa rằng người ta không thể nào bước vào thế giới tâm linh khi trong lòng còn ham thích những hình thức bên ngoài, những hào nhoáng của ngôn ngữ và quan niệm tham lam ích kỷ của thế gian?
Truyền thống giáo dục phương Đông không tổ chức thành lớp học hay phân chia trình độ học trò như phương Tây. Các hiền triết tuyển chọn học trò, quy tụ thành nhóm để dạy đạo nhưng các ngài không giảng dạy nhiều nên học trò học được gì đều do sự quan sát cách hành xử của thầy. Phương pháp giáo dục này được gọi là “Thân giáo”, không dạy bằng lời nhưng bằng hành động, và theo tôi, đây là đường lối giáo dục chân chính nhất. Người phương Tây lại thích những vị thầy có tài hùng biện nhưng phần lớn những người này chỉ có khả năng sử dụng ngôn ngữ tài tình chứ thật ra bên trong chưa chắc đã có gì. Vì các hiền triết đã đạt đến trình độ tiến hóa cao nên quanh các ngài đều có những rung động tốt lành và học trò gần cận sẽ tiếp nhận được ảnh hưởng thanh cao đó. Nếu họ phát triển các đức tính cao thượng và có những rung động tương tự thì sự cảm thông giữa thầy và trò trở nên vô cùng mật thiết. Khi đó họ không cần phải sử dụng ngôn ngữ nữa, mà có thể thông cảm nhau qua tư tưởng vì họ có thể đọc rõ tư tưởng của nhau một cách dễ dàng. Một vị thầy như thế sẽ hiểu rõ học trò hơn ai hết và có thể giúp học trò phá vỡ những thành kiến sai lầm, để quán triệt chân lý một cách hiệu quả. Vì trình độ học trò không giống nhau nên các vị thầy phải áp dụng những phương pháp khác nhau để hướng dẫn. Do đó đường lối giáo dục của người phương Đông không chú trọng đến số lượng mà đề cao đến phẩm hạnh. Sự quy tụ họ thành một nhóm cùng nhau tu học cũng tạo ra những luồng tư tưởng hỗ tương, giúp cho sự phát triển các đức tính cao đẹp nói chung.
Sau thời gian dự bị (Probation), những người vượt qua các thử thách sẽ được tuyển chọn thành đệ tử chính thức. Đây là một thay đổi lớn trong đời người đệ tử và cũng là lúc cây cầu tâm thức giữa thầy và trò được nối liền vĩnh viễn. Tôi muốn nhấn mạnh rằng được thu nhận làm đệ tử chỉ là bước đầu của con đường đạo. Người đệ tử càng phải học hỏi, phát triển các khả năng phụng sự hơn nữa để tiến hóa thành người hướng dẫn, để trở thành những bậc thầy, những bậc hiền triết.
Tôi xin thuật lại một cuộc lễ nhập môn chính thức như sau:
Hôm đó, đám học trò chúng tôi đến nhà hiền triết Kuthumi. Chúng tôi thấy ngài và hiền triết Morya đang đàm đạo với nhau nên rụt rè đứng chờ ngoài hành lang. Vừa thấy chúng tôi, hai ngài đã ra dấu cho chúng tôi bước vào. Sau khi chờ cho chúng tôi an tọa thì hiền triết Kuthumi quay sang Miranda, một đệ tử dự bị đã theo học với ngài từ nhiều năm và nói: “Này Miranda, con có sẵn sàng làm việc dưới sự hướng dẫn của ta và cương quyết hiến mình để phụng sự nhân loại không?”
Tôi biết rõ Miranda rất tôn kính đức Kuthumi và đã hoàn tất rất nhiều việc mà ngài giao phó nên không ngạc nhiên khi thấy anh này cung kính trả lời rằng đã sẵn sàng. Hiền triết Kuthumi mỉm cười nói: “Ta rất hài lòng về những cố gắng của con và hy vọng rằng con sẽ tiếp tục như thế. Việc làm và lòng dũng cảm để vượt qua những khó khăn, thử thách của con thật đáng khen; do đó ta quyết định thâu ngắn thời kỳ dự bị của con. Ta rất mừng khi thấy con đã lựa chọn con đường ngắn nhất nhưng khó nhất là hy sinh tất cả để hướng dẫn người khác cùng đi trên con đường phụng sự này. Lòng thương yêu chân thành của con là một sức mạnh rất lớn và ít ai có thể giữ vững nó một cách hoàn toàn tinh khiết, không ô nhiễm. Con đã làm được điều này và sự tiến bộ của con hoàn toàn do chính con đã giữ được ngọn lửa bác ái trong tâm hồn luôn luôn chói sáng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Con đã phát triển tinh thần độc lập và ý chí bất khuất trước mọi nghịch cảnh, nhưng ta mong con sẽ phát triển thêm về sự phân biệt và khả năng quyết định mau chóng hơn
nữa. Nếu thấy sự gì cần làm thì con hãy làm ngay chứ đừng đắn đo suy nghĩ nữa. Dù sao con đã cư xử đúng đắn trên nhiều lĩnh vực và ta rất hài lòng về sự tiến bộ của con”.
Ngài ngưng nói, chăm chú nhìn Miranda rồi đưa tay đặt lên đầu anh này với một cử chỉ âu yếm: “Ta thâu nhận con làm đệ tử chính thức theo đúng các nghi thức cổ truyền”.
Khi ngài vừa dứt lời thì căn phòng chợt bừng sáng lên bởi một luồng ánh sáng thiêng liêng. Hầu như mọi người hiện diện đều được thấm nhuần luồng từ điện phát ra nơi ngài và cảm thấy bình an vô tả. Đức Morya cũng lên tiếng: “Con còn trẻ mà đạt đến trình độ này quả thật là hiếm có. Ta có lời khen ngợi. Kể từ nay con hãy cố gắng sống làm sao cho xứng đáng với trình độ mà con đạt được”.
Buổi lễ nhập môn diễn ra giản dị như thế thôi nhưng về sau tôi được biết, nếu người ta quan sát nó qua khả năng Thần Nhãn (The Third Eye) thì họ sẽ thấy những luồng ánh sáng rực rỡ phát ra quanh vị thầy bao trùm lên học trò. Khi vị thầy đặt tay lên đầu học trò thì luồng hào quang của thầy đã bao phủ và hòa hợp với luồng hào quang của học trò. Lúc đó tâm thức học trò sẽ rung động đồng nhịp với tâm thức của thầy. Cây cầu tâm thức giữa thầy và trò được hoàn tất và từ đó dù xa cách muôn trùng, tâm thức của học trò sẽ vĩnh viễn rung động đồng nhịp với tâm thức của vị thầy. Nhờ những rung động thanh cao này mà các giác quan cao thượng của học trò sẽ được khích động và khai mở. Nếu học trò tiếp tục học hỏi, biết cư xử đứng đắn thì họ sẽ trở thành một con đường vận hà của những luồng thần lực rất lớn và từ đó việc gì họ cũng có kết quả vô cùng tốt đẹp.
Không một người nào được thâu nhận làm đệ tử nếu họ không biết cách hướng dẫn luồng thần lực vĩ đại đó từ trong tâm hướng ra ngoài để giúp đỡ người khác. Thông thường người ta chỉ muốn thu hút chứ mấy ai muốn cho ra và nếu có cho ra chút gì thì họ lại muốn thu vào nhiều hơn thế nữa. Vì thói ích kỷ này
mà con người chỉ thu hút được những tư tưởng lộn xộn, tiêu cực khiến tâm hồn họ trở nên lạnh lùng, chai đá. Một người đã được chọn làm đệ tử phải biết cách hướng dẫn luồng thần lực mà y nhận được từ vị thầy để ban phát cho muôn loài chúng sinh. Tâm thức của người đệ tử có thể ví như một cái phễu đón nhận luồng thần lực từ cõi cao tuôn tràn xuống để phân phát cho người xung quanh. Vì là người ban rải tình thương nên tâm hồn của họ trở nên phong phú khiến họ biến thành một khí cụ hoàn hảo hơn trên con đường đạo.
Một đệ tử phát nguyện làm kẻ ban rải tình thương sẽ thường xuyên cảm thấy một sức mạnh nồng nhiệt của luồng thần lực dồi dào, của khối tình thương từ cõi trên chuyển xuống đi xuyên qua thân thể họ như một khối lửa. Nếu biết tập trung tư tưởng theo dõi luồng thần lực đó đi về đâu thì họ có thể biết được các đấng cao cả đang ban phát ân huệ, gieo rắc các rung động tốt lành như thế nào. Tuy nhiên người đệ tử cần ý thức rõ ràng rằng họ chỉ là con đường vận hà của luồng thần lực phát xuất từ vị thầy và vị thầy cũng chỉ là con đường vận hà của những luồng thần lực phát xuất từ các đấng cao cả hơn mà thôi. Một hiểu lầm tai hại của những người vừa sở hữu khả năng này là sự đồng hóa mình với luồng thần lực vĩ đại kia. Vừa kinh nghiệm được chút ít quyền năng, họ lầm lạc nghĩ rằng mình đã đắc thần thông, sở hữu quyền năng, chứng đắc quả vị này nọ và có quyền ban phúc, giáng họa cho mọi người. Thay vì khiêm tốn thực hành những điều cao đẹp đã được dạy bảo, họ lại để cho Bản ngã phát triển và nghĩ rằng mình đã trở thành một “đấng” nào đó có phép thần thông biến hóa. Một số tự xưng là thầy, là tổ sư, hay tệ hơn nữa, tự nhận mình là giáo chủ có quyền phép để thành lập môn phái, thu nhận đệ tử, bành trướng thế lực, để thỏa mãn các ước vọng thầm kín. Họ quên rằng khi vừa được nhận làm đệ tử, họ chỉ là kẻ mới nhập môn, vừa đặt chân vào con đường tiến hóa chứ chưa đi được bước nào đáng kể. Dù đã vượt qua vài thử thách nhưng đường đạo còn dài, đầy chông gai thử thách mà chỉ một số ít đi trọn vẹn để trở thành các bậc hiền triết. Do đó tôi không ngạc nhiên khi thấy một vài đệ tử sau một thời gian làm
việc bỗng đổi tính, làm những việc kỳ lạ, như tự xưng có địa vị rất lớn, thu nhận học trò bừa bãi rồi đi lạc vào con đường tà muội, khác hẳn với mục đích cao đẹp ban đầu.
Tất nhiên vị thầy theo dõi tâm thức học trò và biết rõ việc này hơn ai hết; nhưng vì hiểu rõ luật Nhân quả nên họ không can thiệp mà để cho luật vũ trụ hành động. Họ chỉ cắt đứt cây cầu tâm thức giữa thầy và trò, và rút đi luồng ân huệ mà họ đã chuyển qua cho học trò. Thật là bất ngờ khi học trò bị ngăn cách với vị thầy như thế. Tôi đã thấy một vài người chới với, hụt hẫng. Họ mất hết quyền năng, trở lại là một người bình thường như trăm ngàn người khác. Lúc đó họ chỉ có hai giải pháp để chọn lựa: Một là ăn năn sám hối vì biết mình chưa kiềm chế được Bản ngã, xin trở về tu học với vị thầy cũ để rèn luyện tâm tính, xem việc vừa xảy ra như một thử thách mà họ đã thất bại. Hai là tiếp tục con đường tà muội dưới các hình thức quảng cáo, khoe khoang sự hiểu biết của họ trong quá khứ và sử dụng mánh khóe tiểu xảo để bịp đời. Phần lớn đều chọn giải pháp thứ hai vì ít ai có thể kiềm chế được Bản ngã. Họ trở thành những thầy pháp, thầy phù thủy, hay giáo chủ của tôn giáo mà họ đã tạo ra để lôi cuốn những kẻ hiếu kỳ, nhẹ dạ. Họ sử dụng các hình thức quảng cáo, hứa hẹn quàng xiên và hưởng thụ những phẩm vật dâng cúng của tín đồ. Và họ sẽ phải gặt hái hậu quả vì gieo nhân nào gặt quả đó vì luật vũ trụ không bao giờ sai trật.
Con đường tinh thần là một lối đi mà trong đó con người hoàn toàn tự do quyết định số phận của mình. Họ có thể tiến hoặc lùi, đi nhanh hoặc đi chậm và hoàn toàn lãnh chịu mọi hậu quả hành động của mình theo các định luật vũ trụ như Luân hồi, Nhân quả. Bước vào cửa đạo là một bước tiến rất lớn nhưng càng lên cao, thử thách càng lớn; càng đắc quả lớn, thử thách càng khó khăn hơn. Do đó các hiền triết luôn luôn khuyên học trò phải biết khiêm tốn, quay vào bên, thẩm xét chính mình để kiểm soát Bản ngã nên làm những việc phù hợp với trình độ và khả năng của mình mà thôi.
Tôi đã gặp nhiều người có tinh thần phụng sự rất cao, làm được nhiều việc đáng kể nhưng họ quá mải miết với việc giúp người mà lãng quên công phu tu tập của chính mình. Họ quá say mê việc cứu nhân độ thế mà lại chểnh mảng việc quán xét nội tâm để kiểm soát Bản ngã. Sau một thời gian, họ để Bản ngã chi phối lúc nào không biết. Họ trở nên kiêu ngạo, thích dạy bảo người khác, muốn được người đời xưng tụng. Họ ra những chương trình lớn lao mà quên rằng khả năng của họ còn giới hạn nên ít khi thành công.
Trên đường tinh thần, việc giữ quân bình trong tư tưởng và hành động đòi hỏi một công phu tu tập với kỷ luật tự giác rất cao. Từ ngàn xưa, các đấng giáo chủ đã đặt ra những giới luật nghiêm cẩn để giúp các tín đồ tránh các cám dỗ lầm lạc này. Tiếc thay ngày nay nhiều người không hiểu rõ lợi ích của các giới luật đó mà cho rằng nó chỉ là những điều đã lỗi thời, làm cho mất tự do nên không mấy ai tuân hành cẩn thận. Có lẽ vì thế mà ngày nay không mấy người đi xa trên đường tinh thần so với thời xưa.
Dù đã được các hiền triết thu nhận hay mới chỉ trong giai đoạn dự bị, người đệ tử cần ý thức rằng đây là một con đường hết sức chông gai, đầy thử thách chứ không bằng phẳng dễ đi. Do đó, người đi phải tập tính kiên nhẫn cương quyết đi cho đến cùng, mặc dù thất bại nhiều lần. Bất kể vấp ngã bao lần, họ vẫn phải đứng dậy dũng mãnh tiến bước. Dù đó là thử thách lần đầu hay lần thứ mấy trăm ngàn họ vẫn phải bền chí vì mỗi thất bại là một bài học mà họ cần phải học, mỗi vấp ngã là một kinh nghiệm mà họ cần phải trải qua. Chỉ như thế họ mới khắc phục được những khó khăn sau này vì sự tiến hóa của con người không giới hạn trên địa hạt vật chất mà còn cả lĩnh vực tinh thần.
Theo các hiền triết trên Tuyết Sơn, sự rèn luyện ý chí, trau dồi phẩm hạnh và kiểm soát tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đối với những giác quan tế nhị và tinh vi của phần tinh thần. Bình
thường, có nhiều việc mà con người không thể làm được vì giới hạn vật chất nhưng nếu biết áp dụng những giác quan thuộc phần tinh thần, con người có thể làm được nhiều việc phi thường. Thí dụ, một người bình thường không thể nhấc tảng đá nặng một tấn lên được, dù đó là một lực sĩ khỏe mạnh đã tập luyện cẩn thận vì bắp thịt con người có giới hạn. Tuy nhiên với sự luyện tập ý chí và sử dụng giác quan của thể tinh thần, người ta có thể nhấc tảng đá hàng tấn lên một cách dễ dàng. Điều này xét ra có vẻ khó tin và phản khoa học, nhưng khoa học xây dựng trên căn bản giới hạn của vật chất không thể giải thích được những hiện tượng siêu nhiên vượt ngoài áp lực vật chất được. Trong thời gian sống trên Tuyết Sơn, tôi đã chứng kiến nhiều điều mà một người bình thường cho là “phép lạ”. Tôi đã thấy có những đạo sĩ có thân thể gầy gò, mình hạc sương mai nhưng có thể nhấc bổng những tảng đá khổng lồ, nặng cả tấn lên để lấp cửa hang vì không muốn ai quấy nhiễu sự tĩnh tu của họ. Một số người khác mặc áo mỏng ngồi thiền trên tuyết lạnh ngày đêm mà không hề hấn gì. Hiển nhiên, họ không sử dụng bắp thịt mà áp dụng một sức mạnh nội tạng, một sức mạnh siêu nhiên mà khoa học chưa thể giải thích. Họ không làm thế để biểu diễn mà làm nó một cách tự nhiên như hàng trăm việc tương tự vẫn xảy ra trên rặng núi quanh năm phủ đầy tuyết trắng này.
Hiền triết Kuthumi cho biết: “Con người sử dụng giác quan thể xác vì đó là những hành động tự nhiên như đi đứng, nằm ngồi nhưng thật ra thể xác chỉ hoạt động dưới sự kiểm soát của tư tưởng. Nếu không có tư tưởng, thể xác kinh tế không thể hoạt động”. Tư tưởng có trước hành động, tư tưởng ra lệnh cho giác quan hành động. Tuy nhiên vì thói quen, đa số đã hành động một cách tự nhiên chứ không quan tâm tới việc này. Do đó, tư tưởng của họ trở nên máy móc vì họ không ý thức đến nó nữa. Một tư tưởng máy móc sẽ đưa đến những hành động có tính cách máy móc. Thiếu sự ý thức của tư tưởng, mọi hành động của con người sẽ trở nên vô ý thức. Trong cuộc sống vội vã hiện nay, con người đã ít nhiều bị điều kiện hóa bởi các yếu tố xung quanh nên đầu óc của họ càng ngày càng lệch lạc, toan tính, không thể kiểm soát
tư tưởng được nữa. Do đó, họ sống và hành động theo thói quen của tập quán, xã hội và tiêm nhiễm mọi thói hư tật xấu. Trong tiến trình tu tập, việc kiểm soát tư tưởng hết sức quan trọng vì có kiểm soát được tư tưởng hoàn toàn thì họ mới có thể sai khiến được mọi giác quan, kể cả những giác quan thuộc về tinh thần và làm được nhiều điều phi thường.
Khi sống trên Tuyết Sơn, tôi gặp một đạo sĩ chỉ khoác tấm áo mỏng ngồi thiền trên băng tuyết. Khi hỏi về cách luyện tập thì ông cho biết nếu con người nghĩ rằng thân thể của họ không thể chịu nổi thời tiết giá lạnh thì không bao giờ họ có thể làm được việc này. Khi đã có những tư tưởng tiêu cực thì không bao giờ người ta có thể làm những việc tích cực được. Vì khoa học đã nói rằng thân thể con người không thể chịu đựng được thời tiết lạnh gắt gao và mọi người tin như thế nên đa số không thể làm được việc này. Mặc dù đạo sĩ cho biết rằng ông đã được thực hành một phương pháp khí công, thở hít và dẫn hơi thở đi khắp thân thể theo các kinh mạch đặc biệt, nhưng theo ông, đó chỉ là việc phụ và tư tưởng vẫn là yếu tố chính. Ông kết luận: “Bất cứ ai cũng có thể học phương pháp khí công nhưng rất ít ai có thể mình trần ngồi trên tuyết lạnh trong nhiều ngày mà không hề hấn gì, trừ khi họ có một tinh thần vững mạnh và công phu kiểm soát tư tưởng rất cao”.
Một số người thắc mắc về cây cầu tâm thức giữa thầy, trò và tỏ ra nghi ngờ về hiện tượng này, nay tôi xin kể một việc đã xảy ra với chính tôi như sau: Lần đó hiền triết Kuthumi nhờ tôi chuyển giao thông điệp cho một nhân viên cấp cao trong Chính phủ Anh mà tôi không hề quen biết. Lúc đó, tôi đã trở về Luân Đôn trông coi giáo khu Bramshott thì nhận được thông điệp bằng tư tưởng này. Tôi lúng túng không biết phải làm gì nhưng khi sư phụ đã yêu cầu thì tôi phải hoàn tất. Sau một lúc đắn đo, tôi liên lạc với văn phòng Thủ tướng để gặp nhân viên nọ. Khi bước vào phòng làm việc của ông, tôi lễ phép nói: “Thưa ông, sư phụ tôi có nhờ tôi chuyển cho ông một bức thư riêng. Tôi không có bằng chứng gì để chứng minh với ông rằng đây là bức thư của thầy tôi nên xin
tùy ông muốn nghĩ thế nào cũng được”. Nói xong, tôi đưa bức thư mà chính tay tôi đã viết ra giấy sau khi đọc được thông điệp bằng tư tưởng, dĩ nhiên tôi biết rõ nội dung bức thư, trên hình thức nó không có gì quan trọng, chỉ vài lời thăm hỏi thân hữu nhưng bề ngoài giản dị đó lại hàm chứa những ẩn nghĩa sâu xa mà người ngoài cuộc không thể hiểu được.
Vừa đọc xong bức thư, ông ta đã nồng nhiệt nói ngay: “Xin đức Giám mục đừng ngại vì tôi nhận ra ngay luôn lối hành văn của đức Kuthumi. Không ai có thể mạo nhận lời văn như thế được. Có lẽ Giám mục không hiểu được tầm quan trọng của bức thư này đâu nhưng tôi xin cám ơn ngài đã mang đến đây cho tôi bức thư này để giúp tôi giải quyết được một vấn đề nan giải khiến tôi bận tâm suy nghĩ bao lâu nay”. Sau này tôi được biết bức thư đó rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với hoàn cảnh châu Âu lúc đó, nhưng thú thật tôi vẫn không hiểu nội dung bức thư nói gì mặc dù chính tôi là kẻ đã viết nó ra giấy.
Nhờ cây cầu tâm thức liên kết giữa thầy và trò mà đôi khi người đệ tử có thể thẩm định tư tưởng của mình theo đường lối suy nghĩ của vị thầy. Họ có thể nhận định, hòa nhập tư tưởng của mình với tư tưởng của thầy để kiểm điểm xem việc làm của mình như thế nào trước khi quyết định. Điều này cũng như việc sử dụng một cái thước để đo lường một vật gì chứ không phải việc thụ động nhờ thầy quyết định giùm vì các hiền triết không bao giờ bị học trò lạm dụng điều đó. Đây là phương pháp so sánh tư tưởng trước một việc khó khăn để kiểm điểm sự thẩm định của người đệ tử đó có đi đúng con đường đã định hay phù hợp với những tiêu chuẩn một cách đúng đắn mà thôi.
Trên tiến trình tu học, việc kiểm soát tư tưởng, hành động, lời nói qua các phương pháp tu tập rất quan trọng. Thật ra việc này không quá khó khăn như nhiều người vẫn nghĩ nhưng vì đa số đã quen phóng túng, hành động bừa bãi, không ý thức về việc làm của mình nên ít ai chịu tuân theo kỷ luật một cách đúng đắn. Xã hội càng văn minh, đời sống càng trở nên phức tạp với
"""