"Trổ Tài Thám Tử - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trổ Tài Thám Tử - Nhiều Tác Giả full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Lời giới thiệu Truyện hình sự - tên gọi chung cho những tác phẩm văn xuôi có chủ đề là việc khám phá ra sự thật trong một vụ tội phạm (thường là sát nhân hoặc trộm cắp) - ban đầu chỉ phục vụ nhu cầu giải trí của người đọc nhưng đã có những bước tiến rất dài trong thế kỷ 20 và đã trở thành dòng sản phẩm chủ yếu của ngành xuất bản tại nhiều nước Tây phương, đặc biệt là ở Mỹ. Nhiều nhà văn tên tuổi lẫy lừng chỉ nhờ viết truyện hình sự, như Arthur Conan Doyle, George Simenon hay Agatha Christie, và cả một bậc thầy văn học như Jorge Luis Borges cũng từng viết thể loại này (cùng viết với Adolfo Bioy Casares dưới bút hiệu chung Honorio Bustos Domecq). Tại Mỹ, nơi có nền báo chí thuận tiện cho loại truyện giải trí, truyện hình sự đã phát triển mạnh mẽ. Chính sự cạnh tranh quyết liệt giữa các tác giả và các nhà xuất bản, cộng thêm phần thưởng tài chánh hậu hĩ (nhuận bút cao, tác phẩm sau khi ra đời dưới dạng sách có thể được chuyển thể cho kịch nghệ hoặc điện ảnh) đã khiến các tác giả không ngừng tìm tòi và làm mới cho truyện hình sự. Kiến thức của đủ mọi ngành (y học, sinh hóa, luật pháp, tội phạm học, tâm lý học, lịch sử, xã hội học và thậm chí cả khảo cổ học) đã được các tác giả khai thác để việc khám phá tội phạm trở nên ly kỳ hơn, và do đó hấp dẫn hơn. Truyện hình sự ngày nay thực sự đã trở thành một dòng văn học, đòi hỏi ở người đọc một trình độ kiến thức nhất định. Văn hình sự phản ảnh rất rõ lối sống, suy nghĩ và ngôn ngữ thường ngày của những tầng lớp bình dân và thế giới ngầm. Nó tràn ngập tiếng lóng và đủ kiểu nói ngọng hoặc nói sai văn phạm của dân nhập cư hoặc ít học trong xã hội và do đó góp phần tồn lưu và phổ biến thứ văn nói thường nhật của các tầng lớp thấp, khẳng định sự tồn tại và giá trị của nó bên cạnh dòng văn nói và văn viết bác học hoặc văn chính quy. Không dừng lại ở đó, nghệ thuật hình sự đã lan vào tới giáo dục. Tại nhiều trường tiểu học tại Mỹ, các thầy giáo đã trình bày kiến thức bài học dưới dạng truyện hình sự (một vụ trộm cắp, cháy nổ, mất tích, hay một biến cố kỳ quái) và học sinh chỉ có thể tìm được câu hỏi nhờ vào kiến thức đã hoặc đang học. Kiến thức đó có thể là khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội. Nhiều cuộc thi viết loại truyện kỳ án dựa vào kiến thức học đường như thế đã được tổ chức hàng năm ở rất nhiều trường học. Cách làm này khiến việc dạy học trở nên hứng thú hơn cho cả thầy lẫn trò, và cũng khẳng định sức hấp dẫn không thể cưỡng được của văn học hình sự. Tập truyện các bạn đang cầm trên tay gồm những truyện hình sự đã được dịch và cắt tỉa ở phần đoạn kết với mục đích là khuyến khích các bạn suy luận dựa trên sự kiện trong truyện và vận dụng kiến thức phổ thông để tìm ra sự thật đằng sau vụ án. Tập truyện có ba phần: Phần I gồm những truyện tương đối ngắn và đơn giản, coi như phần tập dợt suy luận theo nhiều hướng khác nhau. Phần II gồm những truyện dài và phức tạp hơn, thường là của các tác giả thành danh với truyện hình sự, rất giỏi trong việc tung hỏa mù (làm rối trí người đọc) và tạo kết thúc bất ngờ dựa trên kiến thức ở nhiều lãnh vực chuyên môn. Sau cùng, bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho các vụ án ở phần III (Kết quả phá án) ở cuối sách. Hy vọng đây sẽ là một cuộc chơi thể thao trí tuệ, vừa giải trí vừa giúp bạn rèn luyện óc quan sát và suy luận trong những giờ rảnh rỗi. Phạm Viêm Phương Phần I Những vụ án đơn giản Gồm những truyện tương đối ngắn và đơn giản, coi như phần tập dợt suy luận theo nhiều hướng khác nhau. 1- Khoản lương cuối cùng Jay Matthews Văn phòng Công ty Carson nằm phía trên một ngân hàng trong một tòa nhà nhỏ ở đường Hawthorne. Một phụ nữ béo lùn đón tôi ở hành lang. “Tôi là thư ký của ông Carson”, bà ta nói, chìa ra bàn tay múp míp. “Tôi là thanh tra Nancy Marshall”, tôi nói, bắt lấy bàn tay đó. Bà ta dẫn tôi đến phòng họp và giới thiệu tôi với Brad Carson. “Chào thanh tra”, Carson nói, “Hy vọng cô sẽ tìm ra kẻ giết bà vợ tội nghiệp của tôi”. “Đó là việc của tôi mà”, tôi nói và bắt đầu đọc bản báo cáo. “Sáng thứ bảy, bà Carson, giám đốc công ty, ở trong văn phòng một mình. Vào lúc 10 giờ 30, ông Carson đến và thấy một nhân viên cũ rời khỏi tòa nhà”. “Eddie Morton”, Bà béo nói. “Eddie Morton”, Carson lặp lại. “Tôi sa thải Morton tuần trước”. Tôi tiếp tục. “Ông Carson tới văn phòng và thấy bà Carson đã chết. Cửa văn phòng đã bị tông vào”. Tôi nghĩ rằng không cần phải đọc tiếp rằng bà Carson tội nghiệp cũng đã bị đập vỡ đầu. Tôi tiếp tục. “Phòng điện thoại ở tầng hầm đã bị phá hỏng. Mọi điện thoại trong tòa nhà đều bị ngắt liên lạc”. “Tôi biết tại sao rồi”, Carson hớn hở. “Hắn làm vậy để ngắt hệ thống báo động. Nếu có cánh cửa bị phá là hệ thống báo động sẽ kích hoạt và gọi cho cảnh sát”. Ông ta nhìn tôi tự mãn. “Mà Morton đã từng làm bảo trì cho công ty điện thoại mà”. “Ông Carson, ông đến văn phòng vào thứ bảy để làm gì?” Tôi hỏi tiếp. “À, tôi biết vợ tôi sẽ ở đây xem xét các báo cáo...” “Báo cáo gì vậy?” “Báo cáo kiểm kê hàng. Có thất thoát trong kho hàng vừa bị phát hiện. Tôi nghĩ Morton giết vợ tôi vì sợ bị vạch mặt”. Ông ta nhìn bà béo lùn, và bà ta gật đầu. “Tôi đã gọi điện cho bà ấy, nhưng điện thoại bị treo. Tôi biết là có chuyện không ổn”. “Vậy là ông vào văn phòng, thấy xác vợ mình và gọi 911”. “Đúng vậy, nhưng tôi qua cây xăng bên kia đường. Điện thoại bị treo mà, nhớ không?” Tôi nhớ. Tôi muốn chắc rằng ông ta cũng nhớ. “Tôi là người cuối cùng thấy bà ta còn sống”, bà béo lùn lên tiếng. Tôi nhướng mày chờ đợi. “Tôi đang soạn mấy hồ sơ thì bà giám đốc đến. Chúng tôi nói chuyện vài phút rồi tôi đi. Trên đường đi ra tôi thấy Eddie Morton lái xe vô. Lúc đó khoảng 10:20, hay 10:25 gì đó”. Không tìm biết được gì thêm, nên tôi quay trở lại Sở Cảnh sát. “Vụ Carson ra sao rồi?” Phụ tá Emerson hỏi. “Carson cho rằng một nhân viên cũ, Eddie Morton, đã làm vụ này, để tránh không bị vạch mặt ăn cắp. Carson thấy Morton rời tòa nhà ngay trước khi phát hiện xác chết”. Emerson thấy ngay là tôi chưa tin chắc. “Nhưng...” “Bà thư ký cũng ở hiện trường trong khoảng thời gian xảy ra vụ án”. “Bà ta có đủ mạnh để phá cửa không?” “Cánh cửa đó là đồ dỏm. Một thằng nhóc cũng đạp tung ra được”. * * * * * “Tôi không giết bà Carson”, Eddie Morton nói vào chiều hôm đó khi tôi tới căn hộ của ông ta. “Ông đến văn phòng vào thứ bảy để làm gì?” Ông ta thở dài. “Khi Brad sa thải tôi vào thứ sáu, tôi đòi tiền lương. Brad nói sẽ chuyển cho tôi. Tôi không chịu, và bà Carson nói thứ bảy sẽ ký chi phiếu cho tôi, vì bà ta sẽ tới văn phòng hôm đó”. “Chuyện gì xảy ra khi ông đến đó?” “Cửa khóa, nên tôi nhấn chuông. Bà Carson mở cửa, ký chi phiếu cho tôi, chúc tôi may mắn, và khóa cửa sau khi tôi đi. Tôi xuống máy ATM ở tầng dưới, gởi tiền từ tờ séc rồi về nhà. Còn hóa đơn nè”. Ông ta lục trong ví ra một hóa đơn gởi tiền qua ATM. Tôi kiểm tra thời điểm. “10:28 sáng”. Không còn gì để hỏi, nên tôi về nhà, pha một ly rượu và suy nghĩ về vụ này. Nửa tiếng sau tôi gọi cho Emerson. “Tôi đã có lời giải”. ### * Câu hỏi: Thám tử Nancy nghi ai? [Đáp Án] 2- Đứa nào đánh đổ đống dưa? Thomas Stanwick Stamps vừa bước vào cửa hàng tạp hóa Krechman định mua ít trà và thuốc lá thì Otto Kreckman, ông chủ, vội vàng bước tới. “Ông Stamps, gặp ông tôi mừng quá”, ông ta nói. “Ông lại đây xem chuyện gì này”. Krechman dẫn Stamps tới một gian hàng nhỏ. Ở đó một đống dưa bày trên bàn đã bị xô đổ, bể tung tóe trên sàn. Bốn cậu bé độ mươi tuổi đang đứng bồn chồn quanh đó. “Mấy đứa này loanh quanh ở đây nãy giờ”, ông chủ nói bực bội, “và một trong chúng nó đã đánh đổ đống dưa. Vậy mà không đứa nào chịu nhận tội”. “Thiệt hại thì cũng không là bao”, ông ta nói nhỏ với Stamps, “nhưng tôi muốn đứa nào có lỗi thì phải biết nhận lỗi”. Stamps trầm ngâm nhìn từng đứa một. Tất cả đều sống ở khu phố này và ông biết tên chúng. “Richard”, bất thình lình ông hỏi, “đứa nào đánh đổ đống dưa?” “Thằng Harry với thằng Frank đó”, Richard đáp. Harry và Frank sừng cồ lên ngay. “Tao không có đánh đổ à nghe!” Frank nói tức tối. Stamps quay sang cậu bé tóc đỏ. “Còn cháu có ý kiến gì, Tommy?” Tommy ngọ ngoạy với vẻ khó chịu. “Chỉ có một đứa đánh đổ thôi”. “Còn cháu muốn nói gì, Harry?” “Thằng Tommy với thằng Frank nói thật đó”. Harry đáp cáu kỉnh. Krechman kéo Stamps ra xa. “Hồi nãy tôi hỏi bọn chúng cũng chỉ nói thế”, ông ta nói. “Mấy thằng này tôi rành quá mà. Tommy là đứa thật thà, tôi tin nó chẳng bao giờ nói láo, nhưng nó lại thương bạn bè nên không tố cáo đứa nào đâu. Còn thằng Harry thì ngược lại. Nó nói dối như cuội mỗi khi bị nghi ngờ. Còn hai thằng kia thì tôi không biết tin đứa nào, và cũng không cách chi suy ra ai là thủ phạm”. “Nếu thế”, Stamps mỉm cười tinh quái. “Tôi giúp ông được rồi. Tôi sẽ suy ra trúng phóc thủ phạm”. ### * Câu hỏi: Đứa nào là thủ phạm? [Đáp Án] 3- Kẻ sát nhân vô hình Thomas Stanwick Thanh tra Matthew Walker thấy dễ chịu với làn gió biển khi bước vào nhà hàng Sea Maiden. Bên trong, hai sĩ quan đang ghi tên họ và địa chỉ những người có mặt ở đó khi phát hiện xác chết. Việc phát hiện xảy ra lúc 3:30 chiều, chưa đầy một giờ trước khi ông tới đây, và hiện diện ở đó chỉ có sáu khách - một cặp vợ chồng và một gia đình bốn người - Ngoài ra còn có một thu ngân, hai bồi bàn, một cậu dọn bàn, hai nữ tiếp viên, và chủ nhà hàng. Walker tự giới thiệu với chủ nhà hàng, Steven Evans, ông này vẫn còn bối rối, rồi họ đi qua thực phòng chính, có tới 17 bàn, để vào thực phòng phụ ở mé phải. Các nhân viên cảnh sát đang chụp hình và lấy dấu tay các loại. Phòng này chỉ có một cửa thông với thực phòng chính. Một trong năm cái bàn ở đây vẫn còn ngổn ngang mấy đĩa thức ăn dang dở và muỗng nĩa. Nằm gục trên cái bàn này là nạn nhân, Gerald Hottleman, với một lưỡi dao cắm trên lưng. “Đây là dao ăn bíttếch của nhà hàng, không có dấu tay”, một nhân viên nói. “Đã bị chùi sạch”. Walker nhìn quanh phòng, mấy cửa sổ nhỏ gần trần nhà không đủ sức làm giảm không khí ngột ngạt và nóng bức ở đây. Trong phòng còn đầy mùi cá nướng. “Xác chết được phát hiện ra sao?” Walker hỏi ông chủ. “Độ một tiếng trước, Kris, tiếp viên phụ trách phòng này, định vào để xem khách còn cần gì không”, ông chủ kể lại. “Cô thấy ông ta thế này ngay khi mở cửa và đứng ở đó gào lên”. “Lúc đó không có ai khác trong phòng sao?” Walker hỏi. “Chỉ có mình ông ta thôi. Một cặp vợ chồng già ăn xong đã ra về khoảng hai mươi phút trước khi chúng tôi phát hiện nạn nhân”. “Có ai thấy Hottleman còn sống sau khi họ ra về không?” Walker hỏi. “Có chứ. Khi hai ông bà già ra tới quầy, ông Hottleman chạy ra đưa bà già chiếc kính mát bà ta bỏ quên trên bàn”. “Rồi ông ta trở vào ăn tiếp?” “Phải”. “Từ lúc ông ta trở vào tới lúc phát hiện xác chết có ai ra vào phòng đó nữa không?” “Đâu có ai. Mọi khách khác đều ăn bên phòng lớn, còn Kris được tạm nghỉ”. “Làm sao ông dám chắc không có ai lẻn vào phòng đó?” Walker nhìn ông chủ soi mói. “Tôi ngồi ngay cái bàn cạnh quầy thu ngân để cộng hóa đơn”, Evans đáp, “có ai ra vào thì tôi phải thấy chứ”. Walker nhìn quanh ngẫm nghĩ. Chỉ có một cửa từ thực phòng chính vào căn phòng nhỏ đó. Cửa sổ phòng đó thì nhỏ, khó ai chui lọt, và cũng quá cao để không thể từ ngoài phóng dao vào. Vả lại góc cắm của con dao trên lưng nạn nhân đã loại bỏ giả thuyết này. Ông quay sang hỏi mấy viên cảnh sát. “Matt, ông ta có mất gì không?” “Chắc Hottleman mất cái ví”. “Làm sao biết ông ta là Hottleman?” “Chủ nhà hàng với nhân viên đều biết ông ta. Khách quen mà”. “Ăn trưa giờ này thì hơi trễ he”. Walker lẩm bẩm. “Vậy mà chẳng ai nghĩ thế”. Anh cảnh sát đáp. Các nhân viên khám nghiệm và bác sĩ pháp y đã xong việc. Họ mang xác đi. Cậu dọn bàn đẩy cái xe nhỏ vào phòng để dọn bàn ăn của nạn nhân. Walker bước ra cửa. “Ai ra vào phòng ông chủ cũng thấy. Không ai vào phòng sau khi cặp vợ chồng già kia ra về. Ông ta rời phòng, rồi trở vô, và không có ai vào phòng cho đến lúc phát hiện xác chết. Kẻ sát nhân này vô hình sao? Nhưng tao biết vì sao mày trở nên vô hình rồi”. ### * Câu hỏi: Ai đã giết Hottleman? [Đáp Án] 4- Oan gia giữa đường Hy Conrad Hans Groaner bước lên sân ga và đưa mắt nhìn con tàu. Con tàu Orient địa phương này chẳng đời nào bảnh bằng tàu Orient Tốc Hành. Ngày nay nó chỉ còn là một khối rệu rã được gắn kết lại bằng vô số đinh ốc và đai kẽm. Từ Paris tới Istanbul, ga nào nó cũng dừng lại và chỉ dành cho những khách cực kỳ kiên nhẫn và cực kỳ túng thiếu. Hans có cả hai điểm đó. Là một nhân viên Interpol hết thời, ông chẳng còn đi được tới đâu và cũng chẳng vội vàng đi đâu cả. “Chào Groaner”. Hans ngước lên và thấy gương mặt quen quen của tay soát vé đang săm soi tấm vé của ông. “Không nhận ra tôi hả?” Người đó nở một nụ cười đáng ngại. “Tôi là Bella Barstol. Hai năm trước tôi là chủ một công ty xuất khẩu cho đến khi ông moi được tài liệu khiến giấy phép kinh doanh của tôi bị thu hồi”. “À, phải, Barstol”. Goaner nhớ mơ màng. “Thấy ông có việc làm là vui rồi. Không bực bội chứ?” “Dĩ nhiên”, Bella ầm ừ và hướng dẫn ông lên toa. Groaner đi dọc hành lang chật hẹp để tìm khoang của mình. Một phụ nữ xinh đẹp đang khệ nệ đưa va-ly vào một khoang nọ. Bà ta trông giống y hệt... Ôi trời! Không lẽ... “Chào Hans!” Vera McClurg có thời rất thân thiết với Hans, dù không muốn. Họ đụng nhau nhiều năm trước khi Hans đang thu thập bằng chứng về gian lận ngân hàng. Vera đã năn nỉ ông đừng đưa tên bà ta vào báo cáo, và họ đã du hí với nhau nhiều dịp cuối tuần ở Paris. Rồi mọi chuyện chấm dứt năm năm trước khi Hans thấy không thể tiếp tục bao che cho bà ta được nữa. “Hết hạn tù rồi hả?” Hans hỏi. “Nhờ hạnh kiểm tốt”. Vera đáp lạnh lùng và bước vào trong khoang. Hans chưa đến được khoang của mình thì lại đụng một gương mặt quen thuộc nữa. Morris Darling đang đứng ở cửa khoang, tự hỏi có mùi gì khó chịu thế, khói ở đầu máy hay nệm vải của ghế ngồi. “Ô, Groaner đó phải không?” ông ta kêu lên khi nhìn thấy Hans. Morris có tên trong hồ sơ Interpol cả mấy thập niên, và một trong những chiến công hiếm hoi của Hans là tìm đủ chứng cớ để bắt giữ và kết án Morris. “Ra sớm nhờ hạnh kiểm tốt hả?” Hans hỏi yếu xìu. “Nhờ vượt ngục”. Hans không hiểu hắn ta nói thiệt hay nói chơi. Vụ ám sát được một nhân viên soát vé khác phát hiện tại một ga lẻ loi ở phía tây Venice. Thanh tra Testarosa tới hiện trường và thu thập dữ liệu có liên quan. “Chúng ta đã xác định gần đúng thời điểm xảy ra án mạng”, ông ta nói khi liếc mắt qua những ghi chép trong sổ tay. “Có một đoạn đường rất xấu. Nửa giờ liền qua đoạn đường xe lửa xấu nhất thế giới. Có lẽ chính trong đoạn này mà Hans Groaner bị tấn công bằng cái kìm bấm vé sắc cạnh khủng khiếp này”. “Đó là kềm bấm vé của tôi”. Barstol thừa nhận. “Tôi treo áo ngoài hành lang. Ai cũng có thể dễ dàng lấy nó ra khỏi túi áo”. Ông ta thấy mọi người cứ nhìn một vết xước ở cổ tay phải của ông. “Lúc nãy tôi có vào phòng vệ sinh, uống một chút rượu, rồi bị té và trầy tay”. Viên thanh tra vào phòng vệ sinh và tìm thấy vết máu quanh bồn rửa tay. “Tôi ở trong khoang viết thư”, Morris Darling nói khi chìa ra một xấp năm trang thư viết ngay ngắn, “cho mẹ tôi”. Đọc sơ lá thư thì quả là Morris viết thư cho mẹ - một công nhân ở Hoboken. “Tôi cũng ở trong khoang của mình suốt thời gian đó”, Vera khai. “Để sơn móng tay”. Rồi bà ta bối rối thọc tay vào túi áo, viên thanh tra nhận thấy có một vết ướt ở váy của bà ta. Giữa vết ướt là một bệt màu đỏ không chịu phai sau khi được xả nước sơ sài. Thanh tra Testarosa lập tức nhận thấy rằng một trong ba bằng chứng ngoại phạm này là không đáng tin cậy. ### * Câu hỏi: Testarosa đã nghi ngờ ai? [Đáp Án] 5- Tấm bảng mất tích Hy Conrad Nina đang ăn trưa với bánh pizza lạnh ở nhà Max một ngày tháng 6 nóng nực thì bà Decker bước vào với vẻ mệt mỏi. “Bực quá đi”, bà ấy nói. “Cháu còn nhớ cái nhà cũ xì trên đường Norton không? Sáng nay bác cắm một tấm biển ‘Nhà Bán’ ngay trước sân. Hồi nãy bác chạy xe ngang qua thì tấm biển biến đâu mất rồi. Vậy là tháng này bác đã mất ba tấm biển như thế”. “Ai mà lại đi lấy trộm một tấm biển như thế nhỉ ?” Nina hỏi. “Mà người ta lấy để làm gì?” “Ai biết?” bà Decker rót một ly nước chanh. “Hay chỉ là mấy thằng bé rắn mắt. Tụi nó lấy bảng để làm nhà chòi không chừng”. Max huých cùi chỏ vào Nina. “Đạp xe qua đó coi thử nghe?” “Có gì đâu mà coi”. Bà Decker, mẹ Max, nói. Cả đoạn đường đó chỉ có hai căn nhà. Bà Sterns sống ở căn gần bên ngôi nhà mẹ đang rao bán”. “Biết đâu bà ấy có trông thấy cái gì đó”, Nina nói. “Đi coi thử”. Khi hai đứa đang đạp xe đến cuối đường Norton, chúng thấy một chiếc xe tải đậu ngay trước ngôi nhà rao bán. Một người đàn ông đứng trên lề đường nhìn quanh quất. “Mấy cháu biết khu này không?” ông ta hỏi. “Tôi ở ngoại ô, có đứa cháu, tên là Paul, mách cho biết có cái nhà đang rao bán trên đường này, nên nó cho tôi mượn xe chạy vào đây. Mà tôi có thấy bảng ‘Nhà Bán’ nào đâu”. “Nhà này đang rao bán đó”. Max đáp. “Mẹ cháu là môi giới địa ốc mà”. “Hay quá! Thế mẹ cháu tên gì? Văn phòng của bà ấy ở đâu? Tôi muốn hỏi thêm chi tiết. Thằng cháu tôi nói nhà ở khu này bán lẹ lắm. Hy vọng chưa có ai mua. Tôi bận quá đâu có giờ đi dò hỏi”. Khi Max trả lời xong, ông ta lên xe đi ngay. Nina nhìn theo. “Ai mà biết được? Cháu ông ấy có thể lấy tấm bảng đi vì không muốn có người khác mua mất căn nhà trước khi ông chú xem qua. Cái thùng xe đó giấu được cả đống thứ”. Max gật đầu. “Thử hỏi bà Sterns xem có thấy gì lạ sáng nay không”. Bà Sterns xuất hiện ngay khi hai đứa gõ cửa. Tuy tóc đã muối tiêu nhưng trông bà ta còn khoẻ mạnh. “À, bác đoán ra ai lấy tấm bảng rồi”, bà ta nói. “Freddie Swanson chứ ai. Nó sống cách đây một dãy phố, nhưng mà chuyên môn phá phách”. Bà ta để cửa mở trong khi nói chuyện và Nina nhìn vào trong. Phòng khách coi bảnh dữ. Cái trường kỷ và mấy ghế nệm bọc nhung rõ ràng là đồ cổ. Cái bàn phủ khăn thêu ren sang trọng. Một bức tranh lớn treo trên bệ lò sưởi chạm trổ tinh xảo, trong lò, một ngọn lửa đang nhảy nhót vui mắt. “Cháu biết thằng Freddie đó rồi”, Max nói. “Để cháu đi tìm nó coi”. Freddie đang chạy máy cắt cỏ khi hai đứa tới. Nó nhíu mày khi nghe Max hỏi. “Tao lấy tấm bảng đó làm cái quái gì?” nó nói. “Mà suốt sáng tới giờ tao ở đây cắt cỏ còn chưa xong, còn đi đâu được nữa”. Nina nhìn vô nhà xe. Ở nhà, ba má nó dễ gì đưa xe vào nhà xe được vì trong đó chất đủ thứ đồ lẩm cẩm. Còn nhà xe Freddie thì trống trơn. Rồi nó thấy một căn chòi gỗ trên cây giữa sân. Vách gỗ xám xịt và bạc màu vì mưa gió. Nó với Max trao đổi ý kiến khi đạp xe về. Bà Decker đang rửa chén sau bữa trưa khi chúng về tới. “Cháu đoán ra ai lấy trộm tấm bảng rồi”. Nina nói với bà Decker. ### * Câu hỏi: Nina nghi ngờ ai? [Đáp Án] 6- Vụ trộm kho bánh Trung Thu Jack Christone “Hinters, tới trụ sở liền được không? Walejade nói qua điện thoại. “Tôi biết đang là tối thứ bảy và ông thích ở với vợ con. Nhưng tôi đang gặp một chuyện nát óc mà chắc giỏi suy luận như ông cũng chưa chắc giải nổi”. Ông thanh tra rên rỉ. “Được rồi, nếu chuyện không quan trọng thì ông đâu có kêu. Tôi tới liền. Nếu hên thì mình sẽ giải quyết xong kịp giờ cho tôi về với món rô-ti của bà xã trong lò”. Tay bác sĩ đáp. Walejade đón Hinters ngay cổng đồn cảnh sát và dẫn ông ta vào phòng thẩm vấn, nơi Henry Watchman đang ngồi bồn chồn bẻ đốt ngón tay. “Ông có nghe vụ trộm kho bánh Trung thu tối qua không?” Walejade hỏi. “Có đứa đột nhập và chở đi toàn bộ kho trứng để làm nhân bánh. Ông Watchman đây là bảo vệ nhà kho, giữ ca trực đêm qua. Tôi vừa lấy lời khai của ông ta xong”. “Như ông thanh tra vừa nói”, Watchman lên tiếng. “Nhà kho bị đột nhập ngay ca trực của tôi tối qua. Tôi không hay biết gì vì lúc đó tôi bỏ đi uống càphê, nhưng khi từ quán cà-phê trở về, tôi thấy một trong những tay đã làm vụ này. Đó là John O’Henry, thằng đó vừa bị đuổi việc mấy bữa trước. Tôi thấy nó đang chuồn đi với mấy cái thùng. Trăng tròn nên tôi thấy rõ lắm. Nó còn có một đồng bọn nữa, nhưng thằng đó quay lưng về phía ánh trăng nên tôi không nhìn rõ mặt. Tôi nghi thằng O’Henry muốn trả thù vì bị đuổi việc. Cũng may, Trung thu là Chủ nhật vừa rồi, nếu không là có biết bao nhiêu tiệm bánh khiếu nại vì không có bánh bán”. “Chuyện rắc rối là ở chỗ”, Walejade nói sau khi ông bảo vệ được cho về, “cái gã O’Henry đó lại có bằng chứng ngoại phạm. Chiều nay tôi mới thẩm vấn nó. Nó khai cả buổi tối ở nhà với vợ coi phim Titanic. Con vợ làm chứng cho nó. Thằng cha chủ tiệm cho thuê băng đĩa cũng xác nhận có cho nó thuê đĩa phim đó. Ông suy ra được cái gì không?” “Tôi suy ra là tôi thừa sức về nhà để kịp ăn món rô-ti với vợ tôi”. Hinters nói. “Ông khỏi phải ưu tư về tay O’Henry nữa. Cứ hỏi lại cha Watchman xem cha làm gì lúc bỏ vị trí nhiệm sở đi uống cà phê”. ### * Câu hỏi: Tại sao Hinters nghi ngờ tay bảo vệ? [Đáp Án] 7- Đánh nhanh rút lẹ Gary Sensenig Câu chuyện giữa buổi sáng ở Câu lạc bộ Thể hình thường đơn điệu. Ngày nào cũng vậy, Brett Mosher theo một lịch trình cố định: thứ hai tập chân; thứ ba tập ngực và tay; thứ tư vai và lưng; rồi lặp lại thứ tự đó, Chủ nhật nghỉ. Norma Dolle, một thành viên thường xuyên luôn nói về chế độ ăn của mình - buổi sáng chỉ ăn trái cây, từ trưa tới 5:00 ăn một bữa phối hợp đa dạng, uống nước có đạm. Sau 8:00 không ăn gì cả và không bao giờ dùng sản phẩm sữa. Marge, phụ trách quầy nước trái cây, lúc nào cũng than vãn khách hàng (Nó bảo tôi pha ly này đừng cho đường hay mật ong, rồi lại kêu rêu là lạt quá). Và Doug, đồng chủ nhân phòng tập, luôn chê bai vóc dáng người khác. (Coi thằng Danny ngồi xuống là mông bụng gì tràn hết ra ngoài kìa. Thế nào nó cũng bị hư cột sống, tôi đã nói với nó cả triệu lần rồi). Nhưng sáng thứ sáu này thì khác. Họ có một án mạng trong phòng tập. “Tôi tin là thế nào cũng có người nhìn thấy”. Norma nói khi làm vài động tác co giãn bắp tay. Brett ngồi cạnh bàn trong khi Marge và Doug nhấm nháp chút nước pha đạm. “Sáng nào cũng vậy thôi. Chỉ có hai đứa tụi tôi với ba bạn là khách tập thường xuyên”, Doug nuốt nước miếng khó khăn. Bây giờ chỉ còn hai. Tội nghiệp Danny”. Sáng hôm qua, khoảng 11:30, người ta phát hiện xác Danny Bernstein trong phòng tập trên lầu, ngồi trên máy tập cơ chân, gáy bị đập vỡ bằng một đĩa tạ 12 ký. “Danny mê gái lắm”, Norma thừa nhận. “Lúc nào nó cũng tán tỉnh một cô nào đó”. “Phải, nhiều cô cũng thích nó”, Doug nói. “Tôi nghe đồn nó chuyên môn cưa đổ cô này, chừng một tuần sau thì bỏ rồi chạy theo cô khác”. “Chắc nhờ nó đẹp trai”. Marge ngáp. “Nó hơi bị làm phách. Lúc nào cũng khoe qua mặt được người khác trong các vụ làm ăn. Danny cũng đầu tư nhiều chỗ phải không?” “Phải”, Doug và Brett cùng đáp, gần như đồng thanh, nhưng không ai nhìn ai. “Tôi nghe nó cãi cọ với ai đó trước khi bị đập”. “Tôi cũng nghe”, Doug nói. Anh ta uống cạn cốc nước rồi ném chính xác vào giỏ rác ở góc phòng. Trong bóng rổ thì hắn đã được ba điểm. “Anh nghe tiếng nó trên lầu hả?” Marge nhíu mày hỏi. “Cô biết là thằng đó to mồm mà. Lúc đó tôi ở sau quầy”. Doug chỉ vào quầy tiếp tân ngay chân cầu thang dẫn lên phòng tập chân trên lầu. “Nhưng tôi không nghe được nó cãi với ai”. “Không phân biệt được giọng nam hay nữ luôn?” Norma hỏi. “Không. Nhưng tôi nghe tiếng đập mạnh. Rồi im lặng hoàn toàn. Tôi chơi xong ván bài trên máy vi tính rồi mới lên lầu coi”. “Thế thì anh là người phát hiện cái xác. Lúc đó không còn ai ở đây sao?” “Không. Chỉ còn mình nó trên đó. Thủ phạm chắc theo cầu thang phụ xuống phòng thay đồ. Từ đó hắn muốn ra ngoài hay vào trong này đều được. Mấy cửa thoát hiểm đâu có khóa hay chuông báo động”. “Vậy là thủ phạm đến rồi đi mà mình đều không thấy”, Brett nói. “Tôi chẳng thấy ai cả”, Norma nói. “Tôi đang ở trong phòng giải lao coi TV. Tôi chẳng nghe thấy gì cho tới lúc có chuông báo động”. “Tôi đang ngồi ở máy tập vai”, Brett nói. “Doug phóng từ trên lầu xuống, kêu tôi gọi 911 liền”. Anh ta nuốt nước bọt. “Lúc đó, tôi còn chưa xong bài tập khởi động”. “Còn tôi chẳng biết gì cả”, Marge nói. “Lúc đó tôi đang lui cui trong phòng kho sau quầy nước giải khát. Công việc ở đây lu bu lắm, hết kiểm kho rồi chuẩn bị hàng để bán. Khách nào cũng muốn mình được phục vụ thiệt lẹ”. Và rồi tất cả lại im lặng. Một sáng thứ hai sau đó, đề tài câu chuyện của họ lại thay đổi. Họ tạm gác đề tài quen thuộc lại để bàn chuyện đã có người trong bọn họ bị bắt - vì tội sát nhân. ### * Câu hỏi: Ai đã bị bắt? Chi tiết nào chỉ ra thủ phạm? [Đáp Án] 8- Tang vật biến mất Gary Sensenig Vụ đột kích vậy là thắng lợi, Thanh tra Phil Weaver hài lòng. Ông xách va-li đầy tiền mặt và mấy túi heroin bỏ vào cốp xe rồi khóa lại. Ông nhìn ánh mắt thèm thuồng của hai thuộc viên mặc thường phục. “Chuyến này nhiều tiền đây. Mọi khi mình chỉ bắt được vài trăm đô là cùng”. Rồi ông giúp Rodrigo còng tay và lùa mấy tội phạm vào xe. “Mình kiếm cả năm cũng chưa được cỡ đó”. Rodrigo ca cẩm. “Tao biết”. Ông cũng thấy thèm thuồng, nhưng rồi thở dài và lắc đầu. “Nhưng phải mang về đồn thôi. Lên xe”. Ba chiếc xe không huy hiệu của họ từ một nhà kho bỏ hoang phóng ra đường và tiến về đồn cảnh sát cách đó chừng ba dặm. Ernie, nhân viên bãi đậu xe, kéo cổng rào dây thép gai ra và vẫy tay cho họ chạy vào. Khi Ernie kéo rào và khóa cổng lại. Weaver, Murphy và Rodrigo áp tải đám tội phạm theo cửa sau vào phòng lập hồ sơ. Smithy, trung sĩ trực tiếp dân, đi theo họ, lắng nghe họ kể chiến tích của mình và phụ giúp lập hồ sơ tạm giam. “Ê”, Rodrigo nói, anh ta chúa ghét chuyện làm hồ sơ giấy tờ. “Mình phải có người ra mang tang vật vào chứ”. “Đâu có được”. Murphy cười khùng khục. “Mày đâu có kiếm cớ chuồn đi như vậy được. Mày là thằng gõ bàn phím nhanh nhất trong bọn mà”. Nửa giờ sau, Ernie hớt hải chạy vào. Ông ta không thấy ai trong tiền sảnh hay hành lang. Ernie chạy tuốt vào tòa nhà chính của đồn cảnh sát và thấy Smithy đang nhâm nhi cà-phê ở bàn trực tiếp dân. “Có người cạy thùng xe rồi”. Ernie hổn hển la lên. “Thùng xe nào?” Smithy hỏi. “Thì ba cái xe mới về đó, của Rodrigo, Weaver với Murphy”. Smithy phóng ra bãi giữ xe phía sau và xem hiện trường. Ba chiếc xe không phù hiệu đậu lẫn với cả chục xe tuần tiễu khác. Cả ba thùng xe đều bị nạy tung. Và thùng nào cũng trống trơn. Lúc đó chưa tới 6:00 sáng, nhưng sự cố này đã lan khắp đồn cảnh sát như lửa cháy vậy. Smithy chưa thẩm vấn Ernie xong thì Weaver, Murphy và Rodrigo chạy vào đồn theo cửa sau. “Có phải ba ông đã lấy tang vật rồi, phải không?” Smithy kêu lên. “Phải vậy không?” Ba nhân viên điều tra nhìn nhau kinh hoàng. “Tôi có nhắc chuyện ra lấy tang vật”, Rodrigo nói. “Nhưng Murphy cản tôi lại. Rồi tụi tôi lu bu làm hồ sơ. Rồi đám báo chí gọi điện thoại lại. Tôi phải trả lời. Sếp Weaver thấy tôi nói chuyện điện thoại mà”. Weaver gật đầu. “Phải. Tôi với Murphy áp tải lũ kia uống khu tạm giam. Rồi tôi ghé phòng vệ sinh, bụng tôi có vấn đề mấy bữa nay. Trên đường trở lên phòng hồ sơ thì tôi nhìn ra cửa sổ thấy Smithy với Ernie chỉ trỏ gì ở bãi xe. Tôi biết ngay là có chuyện rồi”. “Lẽ ra sếp phải mang tang vật vào”, Murphy nói. “Chúng nằm trong xe của ổng. Ổng giữ chìa khóa. Sau khi tống tụi nó vào phòng tạm giam. Một đứa trong bọn gọi tôi lại đòi cho gặp luật sư. Hai thằng kia cũng hùa theo. Tôi phải áp tải lần lượt từng đứa ra gọi điện thoại. Mấy ông cứ hỏi lại tụi nó”. Smithy gạt bỏ đề nghị đó và quay sang Ernie. “Anh không gác ở bãi đậu xe sao?” “Lúc 5:30 là giờ nghỉ giải lao của tôi”, Ernie rên. “Mấy ông đều biết mà. Tôi sang quán Ethel ngay bên kia đường chứ đâu. Có xe nào muốn ra vô, cứ bấm còi là tôi qua liền”. “Ông có thấy ai không?” Weaver hỏi. “Không”, Ernie đáp. “Tôi khóa cổng rồi mới đi, và nó còn khóa nguyên xi khi tôi trở lại. Lối duy nhất thoát ra khỏi đồn là qua tòa nhà chính”. “Biết rồi”, Rodrigo quay lại nhìn cả bọn. “Có vẻ thủ phạm là người trong bọn mình rồi”. Mọi người quay nhìn những thùng xe bị nạy tung. “Ai làm vụ này thiệt liều mạng”, Ernie nói, “Tôi có thể từ bên quán nhìn qua, và lúc nào cũng có thể có người ra vào”. “Nhưng chẳng ai thấy”, Smithy nói. “Bây giờ mình mất cả tiền lẫn ma túy tang vật. Thế thì lấy gì kết tội bọn kia trước tòa?” “Đó là chưa kể còn vụ phạm pháp này”, Weaver nói. “Ngay trước mũi tụi mình”. ### * Câu hỏi: Ai ăn cắp tang vật? [Đáp Án] 9 - Lá thư của Lincoln Stan Smith Thanh tra Kracnow và cảnh sát Agnes Greens ngồi ở bàn trong khi Donald Herbert Davis, giáo sư sử học Dartmouth, rót cà phê rồi ngồi xuống. “Giáo sư, chắc ông phải kể lại sự vụ”. Kracnow nói. “Thì như tôi đã kể đó”, Davis nhíu mày đáp, “lá thư là của tổng thống Lincoln viết năm 1863 gửi cho John Hacker, học giả chuyên về Shakespeare. Nội dung thư đã được in lại trong nhiều sách báo. Như ông thấy, tầng hầm nhà tôi rất chắc chắn. Cho đến tuần rồi, lá thư ấy vẫn còn được lộng kiếng treo trên tường, ngay ngoài cửa phòng tắm dưới đó. Sáng thứ sáu rồi tôi xuống thì thấy ai đó đã lấy lá thư và tráo vào đó bản sao một diễn văn viết tay khác của Lincoln”. “Ông có được lá thư đó từ hồi nào?” Kracnow hỏi. “Chín năm rồi. Tôi vừa quyết định tặng nó cho thư viện Dartmouth vào cuối tháng này. Tôi cũng chưa từng nghĩ tới chuyện mua bảo hiểm cho nó”. Kracnow liếc Greens, anh này gật gù hiểu ý. “Có ba người bước xuống tầng hầm này tuần rồi, thưa giáo sư”. Greens báo cáo. “John Healy của công ty bảo trì hệ thống sưởi đến vào chiều thứ ba. Anh này mới vào công ty được năm tháng. Ken Cantwell, nhân viên công ty cấp nước, đến ghi số đồng hồ nước vào chiều thứ tư. Anh này làm ở đây khá lâu năm và cứ bốn tháng lại tới ghi đồng hồ một lần. Đến sáng thứ năm, bồn nước nhà vệ sinh bị nghẹt và vợ ông gọi điện cho Russell McNutt, một thợ ống nước ở khu này”. “Đúng rồi. Cả ngày thứ năm tôi đi họp”. “Hồi sáu năm trước McNutt từng bị truy tố vì ăn cắp, nhưng được tha bổng”, Kracnow nói. “Anh có tìm thấy dấu tay nào trên khung kiếng không?” “Không. Và trong giang hồ cũng chưa nghe nói có ai muốn bán lá thư đó”. “Làm sao bán được!” Davis kêu. “Nó nổi tiếng quá mà. Ở Dartmouth này ai mà không biết tôi sắp tặng nó cho thư viện”. “Được rồi”. Kracnow nói. “Thế là không có dấu vết cạy cửa. Nhà luôn được khóa kỹ, và hai ông bà chẳng có khách khứa gì cả tuần rồi, phải không?” “Đúng thế”. Davis đáp rầu rĩ. “Có chuyện gì khiến ông phải kêu người bảo trì hệ thống sưởi vậy?” “Cứ hai ba năm thì tôi cho bảo trì một lần, lúc nào nhớ thì làm. Có tám hay chín công ty chuyên về vụ này ở đây. Tôi không nhớ lần trước mình gọi công ty nào, cứ mở danh bạ rồi chọn ngẫu nhiên thôi. Cách đây hai hôm, họ hẹn ngày tới làm”. “Thưa giáo sư”, Greens nói. “Theo tôi biết thì không có ai giám sát khi họ làm việc cả, phải không?” “Phải. Vợ chồng tôi chỉ chỗ cho họ làm rồi thôi. Tôi chẳng có việc gì xuống tầng hầm từ sáng thứ ba đến thứ sáu”. Kracnow mỉm cười, “Greens, có tay nào trong đó trước đây từng quan tâm tới cổ vật hay tài liệu lịch sử không?” “Không hề, thưa sếp”. Greens cũng cười theo. “Hay lắm”, Kracnow xô ghế đứng dậy. “Xin cám ơn giáo sư. Tôi biết phải đi thẩm vấn tay nào để phá vụ án này rồi”. ### * Câu hỏi: Kracnow nghi ai dính vào vụ trộm? [Đáp Án] 10- Nhà an toàn chết người Gary Sensenig Dù trời lạnh, cảnh sát Martin vẫn toát mồ hôi khi đứng trong căn nhà an toàn bên hồ, chờ cấp trên đến tiếp quản vụ án với cái xác bị xiết cổ chết trên sàn. Anh được giao nhiệm vụ bảo vệ người này, bởi thế nên mới toát mồ hôi. Hai hôm nay, anh và một đồng nghiệp được giao việc bảo vệ Jake Fishel, một kế toán tình cờ chứng kiến một vụ thanh toán băng đảng. Cảnh sát hứa bảo vệ anh khỏi tay trùm Popov nếu anh chịu đứng ra làm chứng. Martin đã ở cạnh Fishel, mỗi ca 12 tiếng, và bắt đầu thấy thích anh kế toán rụt rè này. Vậy mà bây giờ... Chuông cửa reo và anh ra mở cửa. Đại úy Huxley ào vào trong bộ vest bèo nhèo phất phơ trong gió lạnh. Huxley nhìn cái xác. “Tại sao anh ta chỉ có một mình?” ông ta hỏi. “Tôi nhận được cú điện từ văn phòng đại úy”, Martin lúng búng, móc máy bộ đàm ra như để chứng minh điều gì. “Và được lệnh quay về sở. Văn phòng nói sẽ có người thay ca. Nửa tiếng sau tôi mới hiểu ra và quay lại thì thấy thế này”. “Thấy cú điện ở đúng tần số cảnh sát nên anh không hỏi lại chứ gì? Nhà Popov quen biết cả đống cảnh sát, anh ngu thật”. Đại úy thở dài. “Những ai có chìa khóa vào đây?” “Tôi giữ cái chìa duy nhất. Tôi đã bảo Fishel không mở cửa cho bất cứ ai. Khi tôi đóng cửa là chốt tự động khóa lại. Tôi còn nghe anh ta cài móc cửa nữa. Tôi biết anh ta rất cẩn thận, thưa Đại uý”. Huxley quì xuống bên xác chết. “Xiết cổ từ đàng sau. Chắc bằng dây thép. Fishel mở cửa cho ai nhỉ? Ai biết anh ta ở đây? Mình phải tìm cho ra câu trả lời”. Đại úy lấy áo khoác trên móc và ra khỏi cửa. Martin cũng chộp áo khoác của mình và chạy theo ra xe. Kiểm tra các cú điện thoại từ nhà an toàn thì thấy: đêm hôm trước Fishel đã lén gọi cho Luther Dross, em rể anh ta, một thợ khóa. “Vợ tôi đang cấp cứu”, Luther khai với Martin và Huxley khi họ đến hỏi thăm hắn sau đó. “Anh Jake rất thương vợ tôi, nên anh ấy muốn biết bệnh tình cô ấy. Chúng tôi nói chuyện chừng năm phút. Anh ấy biết làm thế là vi phạm qui định nên không hề nói cho tôi biết anh ấy đang ở đâu”. Đại úy móc sổ trong túi áo khoác ra. “Khoảng hai giờ chiều nay anh ở đâu?” “Anh ấy chết giờ đó sao?” Luther hỏi yếu ớt. “Tôi đang lắp khóa cho một căn hộ mới trên đường Prospect. Nhiều công nhân khác có thể làm chứng. Rồi tôi trở về đây dọn dẹp trước khi vào nhà thương”. Martin truy theo đầu mối thứ hai. Bốn tháng trước anh cũng dùng nhà an toàn này để bảo vệ Buddy Banks, một tay điểm chỉ. Khi cảnh sát thuyết phục được Fishel ra làm chứng, Martin đã dẫn Buddy tới để trấn an Fishel và chứng tỏ nhà an toàn này rất ngon lành. “Buddy biết địa chỉ này, lại từng có liên hệ với băng đảng. Fishel cũng biết mặt y nên có thể đã mở cửa cho y”. Buddy đã tới một thị trấn khác và đổi tên họ. Huxley và Martin truy ra hiện y đang làm nhân viên tổng đài cho một hãng điện thoại. Huxley giơ thẻ cảnh sát ra và nói chuyện với y. “Trời đất”, Buddy nói với vẻ muốn ói. “Kinh khủng quá. Phải chi tôi đừng thuyết phục anh ta ra làm chứng thì chắc anh ta còn sống”. “Fishel có liên lạc với mày không?” Huxley hỏi. “Không. Tôi thề đó. Tôi chỉ gặp anh ta lần đó ở sở cảnh sát. Tôi làm sao biết các ông sẽ đưa anh ta tới cái nhà an toàn đó được?” “Nhưng mày có thể điều tra ra”. “Sếp coi nè, tôi đã không còn liên lạc gì với thế giới ngầm nữa. Tôi làm việc từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, bây giờ tôi hiền như cục bột”. Huxley và Martin lái xe trở về, cả hai cùng ngẫm nghĩ. “Hung thủ bao giờ cũng có sai lầm”. Viên đại uý lầm bầm. “Đúng thế”. Martin đồng ý. Rồi họ im lặng suốt quãng đường về tới sở cảnh sát. ### * Câu hỏi: Sai lầm của hung thủ là gì? [Đáp Án] 11- Nhà văn khó ưa Stan Smith Cái máy đánh chữ và khắp mặt bàn giấy đều vung vãi vết máu. Dưới sàn cạnh chân bàn là xác của nhà văn Paul Katz, khuôn mặt nát bấy vì một viên đạn từ khẩu súng trường nằm cạnh xác ông ta. Nữ Thanh tra Claire Keegan nhìn quanh căn phòng nhỏ, hầu như chẳng có đồ đạc gì. Một cái giường nhỏ, quần áo nhét lòng thòng trong các ngăn kéo và vất dưới sàn. Sách vở chất trên cái bàn ăn, một cái TV, một cái bàn nhỏ cạnh giường ngủ, chỉ có vậy. Thư từ, của nhà xuất bản và độc giả, chất trên cái ghế bành duy nhất trong phòng và nhét đầy các ngăn kéo, cùng các phong bì, bút chì và giấy ghi chú chi tiết tiểu thuyết. Cạnh máy đánh chữ là chương 19 của tiểu thuyết ông ta đang viết dở. Ngoài cái tủ lạnh và giỏ giấy vụn, cả hai đều hầu như trống trơn, thì trong phòng chẳng còn đồ đạc gì khác. Căn phòng này không có phòng tắm hay nhà vệ sinh kèm theo. Katz phải sử dụng một nhà vệ sinh cách đó chục thước, muốn tắm rửa thì dùng cái giếnggần đó. Căn phòng chỉ có một cửa chính và một cửa sổ nhỏ, cả hai đều ở mặt tiền. Chuyên gia dấu tay John Rumore báo cáo: “Có dấu ngón trỏ tay phải của nạn nhân trên cò súng”. “Chữ viết cũng cho thấy ông ta thuận tay phải”, Claire đáp và lúc lắc đầu. “À, Walter đâu rồi?” “Đi thẩm vấn Ed Welenck, người cắt cỏ ở đây mỗi thứ hai. Có thể ông ta thấy được cái gì đó”. Claire đi ra ngoài, dọc bãi cỏ được cắt xén gọn ghẽ, để nói chuyện với Mary Cashman, bà chủ cho thuê căn phòng này, và John Ball, một hàng xóm. “Ông Ball”, Claire hỏi, “ông phát hiện xác chết vào buổi trưa hả?” “Phải”, Ball bồn chồn vuốt hàm râu. “Tôi ghé đây để hỏi Paul có muốn mua vé số từ thiện của Hội sử học Cedarville không. Chúng tôi tổ chức xổ số để giúp bệnh nhân ung thư. Tôi nghe tiếng súng nổ bên trong nên sựng lại một lúc. Rồi thấy yên lặng tôi mới mở cửa nhìn vào - cửa không khóa - thấy Paul nằm đó. Tôi mới chạy về nhà gọi điện cho quý vị”. “Có ai khác trong phòng không?” Ball lắc đầu. “Bà Cashman”, Claire hỏi tiếp, “bà cho ông Katz thuê phòng này bao lâu rồi?” “Ông ta thuê đến nay là bảy mùa hè rồi. Ông ấy thích về đây để viết. Ông ta chẳng rời phòng bao giờ, trừ lúc vệ sinh tắm rửa, mà cũng chẳng giao du với ai. Ông ta còn thuê tôi kiểm tra hộp thư của ông ta ở bưu điện, gửi thư hay mua thực phẩm giùm ông ta nữa. Nhiều người ở quanh đây yêu văn chương, thậm chí thích viết văn nữa, như ông Ball đây. Nên chúng tôi rất vui khi có hàng xóm là nhà văn. Chẳng ai quấy rầy ông ấy bao giờ”. “Bà có chuyện gì với ông ta không?” Bà Cashman bồn chồn hắng giọng. “Ồ, tôi có đề nghị tăng tiền thuê, lần đầu tiên trong ba năm nay. Ông ta có càu nhàu nhưng vẫn đều đặn trả trước hai tuần. Ông ta hơi keo kiệt nhưng cũng đàng hoàng về tiền bạc. Không hiểu sao ông ấy lại tự sát cơ chứ”. “Ông Ball”, Claire hỏi tiếp, “ông thân với ông Katz không?” “Không thân lắm. Tôi mới gặp ông ta mùa hè rồi ở cửa hàng bách hóa tại Cedarville, và cũng chưa vào phòng ông ta bao giờ”. Nhân viên Walter Hinkel tới gần Claire, hai người bước ra xa để trao đổi. “Tôi vừa thẩm vấn Ed Welenck xong”. Anh ta báo cáo. “Hắn xác định là có cắt cỏ ở đây sáng nay. Hắn đang định đi thăm đứa em ở Iowa. Tôi yêu cầu hắn ở lại cho đến khi kết thúc vụ án”. “Hắn ta có gặp Katz không?” “Không. Hắn nói hai tuần trước hắn cãi lộn với ông ta về thù lao xén cỏ nên không muốn gặp. Nhưng hắn nói lúc tới đây hắn có nghe tiếng máy đánh chữ, một giờ sau lúc ra về hắn vẫn còn nghe đánh máy”. “Vụ này ly kỳ đây”, Claire nói. “Tiền bạc trong tủ và trong ví nạn nhân vẫn còn nguyên. Như thế trông có vẻ một vụ tự sát lắm. Nhưng Walter à, đây là một vụ sát nhân”. ### * Câu hỏi: Chi tiết nào giúp Claire xác định đây là một vụ sát nhân? [Đáp Án] 12- Thám tử tư hết đời Guy Belleranti Căn phòng được bài trí đẹp với những tác phẩm nghệ thuật đắt tiền trên tường, bàn làm việc lớn bằng gỗ sồi sang trọng. Nhưng nó chẳng còn đẹp nữa với cái xác của Harry Clifford gục trên vũng máu ở chân bàn kê ngay dưới cửa sổ. Nắng mùa hè chiếu qua cửa sổ duy nhất ấy. Nắng thì ấm nhưng căn phòng lại lạnh lẽo vì xác chết. Harry làm cảnh sát, rồi xin nghỉ và mở văn phòng thám tử tư. Thanh tra Grove Molroy nhận định. “Có vẻ như bị đập vào đầu từ phía sau”. “Đúng”, cảnh sát Dawson Knights đáp. “Cái búa dính máu kia chắc chắn là hung khí”. “Chắc cái búa này cũng gõ vào đầu cảnh sát Molly. Ra hỏi xem ông ta có biết gì hơn không”. Cảnh sát tuần tra Molly Duncan đang chườm một túi nước đá vào cục u ở mé sau đầu ông ta. “Tôi ghé lại uống cốc cà-phê bên kia đường. Lúc ra khỏi quán tôi nghe có tiếng rú bên này nên chạy qua, thấy cửa không khóa tôi vô luôn. Cửa vào văn phòng trong này cũng không đóng, tôi bước vào thì thấy liền cái xác... như mấy ông cũng thấy đó”. “Rồi có chuyện gì nữa?” Grove hỏi tiếp. Molly nhăn nhó vì đau. “Lúc đó tôi ngu thiệt. Không kịp suy nghĩ tôi tiến tới, khom xuống nhìn cái xác. Có bóng người từ sau đổ xuống chỗ tôi ngồi, tôi chưa kịp quay lại...” Ông ta nhắc túi nước đá ra khỏi cục u, nhăn nhó, rồi nhúc nhích thân hình đồ sộ trên ghế. “Vậy là không kịp nhìn thấy hung thủ?” Dawson hỏi. “Sao nhìn được. Bị giáng một cú tôi ngất đi mấy phút, kế đó tỉnh lại vì tiếng gào la của cô thư ký của Harry”. Grove liếc Dawson, “Phải đi thẩm vấn cô thư ký thôi. Còn Molly, không chừng ông phải vô bệnh viện khám cái đầu coi”. Marie Falcone lau nước mắt bằng khăn tay, “Harry vừa hỏi cưới tôi. Mới hôm qua thôi. Vậy mà bây giờ...” “Harry thường tới văn phòng trước cô hả?” Grove hỏi nhẹ nhàng. Cô ta gật đầu. “Anh ấy thích tới sớm - ngay cả khi không bận rộn lắm”. “Việc làm ăn hồi này hơi yếu phải không?” “Phải. Đâu có vụ điều tra gì có thể dẫn tới chuyện này”. Cô ta lại sụt sịt. “Có thể là do những vụ trước đây”. Dawson nói. “Nghề này dễ gây thù chuốc oán lắm”. “Chắc vậy, Harry chẳng bao giờ cho tôi biết rõ về các vụ ảnh đang điều tra. Ảnh nói tôi biết càng ít càng an toàn”. “Khi tới đây cô thấy có gì lạ không?” Grove hỏi. “Chắc tôi tới sau anh Harry một lát. Lúc tôi đậu xe thì thấy cửa sổ còn chưa mở”. “Chưa mở sao?” Grove nhìn qua ô cửa sổ nhỏ hẹp sang cửa hàng nhiếp ảnh nằm bên kia bãi đậu xe. “Sáng nay cô vào đây bằng cửa nào?” “Chỉ có một cửa duy nhất - ở mé bên kia tòa nhà”. “Cám ơn. À... còn hung khí...” “Cái búa đó hả? Không phải của Harry. Nhưng tôi thấy Jim Lacey xài một cái búa giống vậy ở trước cửa hiệu hôm qua”. “Jim Lacey nào?” “Anh chủ hiệu ảnh bên kia kìa. Hắn với anh Harry không ưa nhau lắm”. Grove và Dawson đi sang gặp Lacey. “Tôi biết gì đâu mà khai?” Lacey cằn nhằn. “Nghe nói hôm qua anh sửa chữa gì đó với một cây búa”. “Phải. Tôi đóng thêm tấm bảng quảng cáo kia kìa. Có chuyện gì vậy?” “Cái búa đó đâu?” “Không biết. Hôm qua tôi quên mang vô. Nãy giờ tôi đang tìm nó đây, mà... Ê! Đừng có nói nó là hung khí đã giết...” “Rất tiếc chuyện là thế”. “Vậy không phải tôi à nghe. Tuy tôi không ưa gì ông Harry đó. Tôi có lần rửa cho ông ta mấy tấm ảnh điều tra. Hình chụp bất nhơn lắm. Tôi có nói ông đi chỗ khác mà rửa ảnh. Thằng chả chuyên môn theo dõi rồi thọc vào chuyện đời tư người khác... Tệ hết sức”. Khi quay trở lại hiện trường, Dawson nói, “Ai cũng có thể làm vụ này. Chôm cái búa để quên ngoài cửa hiệu rồi nện Harry một phát”. Anh ta chỉ cái cửa sổ mở. “Nếu cửa sổ còn đóng như cô thư ký nói, thì chắc khi cô đậu xe hung thủ vẫn còn trong này, rồi y thoát qua cửa đó”. Grove gật đầu, nhíu mày. Khi cúi xuống bên xác chết xem xét lần nữa, anh ta chợt quay lại nói với Dawson. “Vậy mà mình nhìn không ra. Dawson, tôi biết thủ phạm là ai rồi”. ### * Câu hỏi: Grove nhìn thấy cái gì, và nghi thủ phạm là ai? [Đáp Án] 13- Người bạn học nhẫn tâm Ben Goheen Thám tử Dolan đang rầu rĩ. Anh tham gia tổ chức họp mặt bạn thời trung học. Nhưng rồi mọi chuyện rối tung. Những chỗ đặt trước bị thay đổi, phòng tiếp tân quá nhỏ, thực đơn bị đổi món, con đường vào khu du lịch đang được trải nhựa lại khiến khách phải đi bộ một đoạn xa, nguồn nước lại bị cắt để sửa chữa ngay chiều hôm đó. Lại còn một án mạng nữa chứ! Chuyện xảy ra vào 7:15 tối. Dolan đang ở ngoài cổng nói chuyện với một bạn cũ thì Maddy Rich tông cửa chạy ra, miệng gào la chói lói. “Rolly chết rồi!” và cô ta gục xuống. Dolan dặn bạn chăm sóc Maddy rồi chạy vào trong. Khu giếng trời ở giữa tòa nhà trồng nhiều hoa kiểng, có vòi nước phun và suối giả róc rách, chung quanh lắp cửa kính dày. Anh theo lối đi lót đá tới chỗ Rolly nằm. Đầu anh ta gục trên một luống phong lữ thảo. Nhìn sơ là biết anh ta bị đập vào gáy. Nằm gần đó là một tảng sa thạch to cỡ trái banh bóng chuyền, loang lổ máu. Dolan cẩn thận nhấc tảng đá lên xem rồi bỏ xuống. Anh rút khăn ra lau cát bám trên tay rồi nhìn quanh. Anh thấy những vết tròn màu đen dọc lối đi lát đá. Chúng có đường kính khoảng ba phân, nằm rải rác cách nhau khoảng hai bước chân. “Khổ tôi quá”, ông chủ khu resort nói khi biết chuyện. “Vầy thì còn ai dám đến đây nghỉ nữa”. “Muốn vào đây phải dùng thẻ phòng trọ để mở cửa phải không? Ông cho tôi danh sách những người vào đây trong nửa giờ qua được không?” “Được. Khu giếng trời này đóng cửa để sửa hệ thống nước. Nó vừa được mở lại chừng 15 phút”. Ông quản lý gõ vài phím trên máy vi tính và ghi lại được ba số phòng, trong đó có phòng của nạn nhân. Billy Craig lập tức cự nự khi Dolan thẩm vấn. “Dĩ nhiên là tôi có vào đó”, anh ta nói. “Nhưng tại sao anh lại nhắm vào tôi?” “Đâu có”. “Ai cũng nhắm vào tôi hết. Còn nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái cứ cười vì móng tay tôi dính dầu mỡ do tôi phải đi rửa xe kiếm tiền”. “Rolly cư xử với ông thế nào?” “Thằng đó lúc nào cũng vậy. Bây giờ giàu có nó còn tệ hơn”. “Ông vô khu giếng trời làm gì?” “Tôi thấy lạc lõng giữa những người có bộ đồ cả ngàn đô. Tôi muốn ở một mình, nên vô đây ngồi cạnh vòi phun nhâm nhi cốc rượu, rầu tới độ muốn bỏ về”. “Ông có nghe hay thấy cái gì không?” “Không. Tiếng nước phun ồn lắm”. Dolan đề nghị cho xem đế giày và Billy đồng ý. Đế giày anh ta gần như vuông, không có vết gì màu đen cả. Họ bắt tay nhau và Dolan đi. Số phòng thứ nhì là của Jack Briggs, cựu ngôi sao bóng bầu dục. Dolan thấy anh ta ở một cái bàn gần đó và bước lại. “Khỏe không, Jack?” Dolan hỏi khi họ bắt tay nhau. “Tàm tạm”, Jack đáp. “Chỉ khổ với cái đầu gối. Chấn thương từ hồi học đại học mà mỗi năm mỗi tệ. Đi đâu cũng phải có cây gậy chống này, mà cũng không đi xa được”. Dolan chùi tay vào quần và nhận ra hành vi này có thể khiến anh trông hơi bồn chồn. “Jack này, ông làm gì trong khu giếng trời vậy?” “Ông hỏi vậy là sao?” “Ông có mặt ở đó khi án mạng xảy ra. Theo tôi nhớ thì ông với Maddy Rich có hẹn hò hồi còn đi học”. “Ừ, cho tới khi Rolly chen vào. Tụi tôi tính làm đám cưới khi tôi xong đại học. Ông nhớ tôi được học bổng nhờ chơi bóng không?” “Nhớ chứ”. Dolan đáp. “Xong chưa?” Jack nói. “Tôi phải đi dời cái xe đây. Quản lý không chịu cho tôi đậu gần cổng vào, cho dù tôi bị tật chân”. “Nè, cho xem cây gậy của ông được không?” Jack nhún vai và đưa gậy cho Dolan. Đầu cây gậy gỗ phẳng trơn, không có vết đen. “Cám ơn”, Dolan nói và nhìn anh cựu vận động viên khập khiễng bước đi. Sau cùng, anh trở lại chỗ Maddy Rich ngồi nghỉ và nhẹ nhàng cầm tay cô. “Maddy. Kể lại cho tôi nghe mọi chuyện đi”. Dolan nói. Cô lau nước mắt. “Gần đây tôi với Rolly cứ cãi nhau hoài. Tối nay tụi tôi dàn hòa và đi dạo trong khu giếng trời. Được một lát thì Rolly thông báo sẽ tiến hành thủ tục ly dị khi tụi tôi trở về nhà”. “Sao vậy? Anh ấy có bồ hả?” “Ảnh không nói”. “Rồi cô làm sao?” “Tôi tát anh ấy một cái rồi bỏ đi. Tới một góc xa tôi đứng lại khóc. Rồi tôi nghe tiếng động lạ, như có cái gì rơi xuống. Chạy trở lại thì thấy ảnh nằm đó”. “Cho tôi coi đế giày của cô đi?” Dolan xem xét hai đế gót tròn. Chúng bằng cỡ vết đen trên lối đi, nhưng không bám chất gì màu đen cả. Anh cám ơn cô ta và ra một góc xem lại những ghi chép của mình. Người bạn cũ tới bên anh. “Không lẽ một bạn học của mình lại là kẻ sát nhân sao?” Dolan lắc đầu. “Tôi e rằng thế. Và tôi biết đó là ai rồi”. ### * Câu hỏi: Dolan nghi ai? [Đáp Án] 14- Lanh tay lẹ mắt Thomas Stanwick Stewart Whites về thị trấn quê hương Baskerville để dự lễ hội Chiến sĩ trận vong hàng năm. Bữa sáng ở kho đạn cũ là dịp cho ông bắt kịp những tin đồn ở địa phương. Cuộc diễn hành ở phố Main bắt đầu lúc 10 giờ, với cờ xí, cựu chiến binh, vệ binh địa phương trong đồng phục thời thuộc địa, lại có ban nhạc trường học chơi rất sôi nổi. Các nhà lãnh đạo, viên chức thị trấn, và cả những cựu chiến binh danh dự vẫy chào khi đoàn diễu hành đi qua. Stewart cũng đứng xem trên lề đường trước cửa hàng Ollie’s Army & Navy Store. Ngay khi một đơn vị bồng súng trường đi qua chỗ ông, đoàn diễu hành đứng lại. Trong hai phút, khi mọi người đều im lặng hoàn toàn, đơn vị này biểu diễn một màn bồng súng, di chuyển nó quanh người và tung lên không trung theo một trình tự được tính toán nhịp điệu chính xác. Khi họ kết thúc, ban nhạc phía sau chơi liền một điệu quân hành và đoàn diễu hành tiếp tục, trong tiếng hoan hô la hét của đám đông. Ngay sau đó, Stewart nghe tiếng quát tháo giận dữ trong cửa hàng sau lưng ông. Bước vào trong, Stewart thấy Ollie Fortison, ông chủ cửa hàng đang đỏ mặt tía tai đứng sau quầy với ngăn kéo của máy nạp tiền trống trơn. Ollie, cựu trung sĩ huấn luyện, trợn mắt nhìn bốn người khách đang hoang mang trong cửa hàng. “Có chuyện gì vậy, Ollie?” Stewart bước tới hỏi. “Chuyện này nè!” Ollie chìa cái ngăn kéo trống trơn ra. “Mới năm phút trước tôi kiểm tra thấy được hơn ba trăm, bây giờ biến mất sạch”. “Kể lại từ đầu cho nghe coi”. Ollie hít một hơi dài. “Anh biết đó, Stewart, tôi mở cửa bán hàng cho tới khi hết diễu hành, để bán thêm cờ xí các thứ. Tôi vừa mở ngăn kéo kiểm lại tiền thì đám đông bên ngoài đột nhiên im re. Rồi tôi nhớ ra là tới tiết mục biểu diễn của đội súng trường. Tôi cũng muốn xem, nên tôi chạy tới nhìn qua cửa kiếng, để nguyên ngăn kéo như vậy. Ngu quá trời! Có mấy người khách cũng bu quanh cửa kiếng nhìn ra như tôi, nhưng tôi không nhớ là khách nào. Khi hết màn diễn tôi trở lại quầy thì thấy tiền đã mất sạch!” “Đứng ngoài đường tôi còn nghe tiếng ông la nữa. Gọi cảnh sát đi, Ollie”. Stewart quay sang những khách hàng, “Và tôi đề nghị quí vị ở lại đây để chờ cảnh sát tới lấy lời khai”. Stewart quen mặt hai trong số bốn khách đó. Thứ nhất là Ellen Lilliot, một cô tóc nâu xinh đẹp mặc áo thun sát nách, quần soóc, và đôi guốc gỗ cột dây quanh cổ chân, cô có quầy bán hoa dưới phố. Thứ nhì là Paul Breen, quản trị viên hói đầu đã ngoài năm mươi. Breen mặc đồ lớn cứ như sắp đi làm với giày doanh nhân bóng loáng. Hai khách còn lại đều là thanh niên, một cậu có tóc húi cua kiểu lính, mặc quân phục và đi giày bốt cao cổ; còn cậu kia mặc áo thun, quần lửng, đi giày vải thể thao. Nhìn quanh cửa hàng, Stewart không nhận ra điều gì bất thường. Trên các kệ trưng bày là áo quần, dụng cụ cắm trại, và đủ loại quân trang quân dụng lặt vặt. Sàn nhà lót gỗ thuộc loại được lau chùi và đánh bóng thường xuyên. Mọi sự hết sức bình thường. Ngay khi Ollie gọi điện cho cảnh sát xong, Stewart hỏi: “Sau khi ông phát hiện mất tiền, có ai rời khỏi cửa hàng không?” “Không thể được!” Ollie đáp. “Ở đây chỉ có một cửa ra vào, lại có chuông tự động nữa. Cứ mở cửa là chuông reo. Hồi nãy ông bước vào nó cũng reo đó. Từ hồi bắt đầu diễu hành tới giờ đâu có thêm ai vào đây”. “Nếu thế”, Stewart mỉm cười nói nhỏ, “ông phải bảo đảm không cho vị khách nào đi ra trước khi cảnh sát tới, nhất là...” ### * Câu hỏi: Stewart sắp vạch mặt kẻ trộm, kẻ đó là ai, và tại sao ông đoán ra? [Đáp Án] 15- Ông chủ nhà tội nghiệp Kevin Hammonds Thám tử Rob Michael đến hiện trường thì thấy một đám đông đã bu quanh nạn nhân. Xác của Louis Andrews nằm ngay trên vỉa hè trước tòa nhà mười hai tầng của ông ta. “Ông ta là Louis Andrews”, anh cảnh sát bảo vệ hiện trường nói. “Chủ cao ốc này”. “Rơi từ nóc nhà xuống hả?” Thám tử Michael hỏi. “Không”, anh cảnh sát đáp. “Cửa lên nóc nhà còn khóa phía trong và chỉ có Andrews giữ chìa khóa. Mớ chìa đó còn nằm trong túi của ông ta”. “Có nhân chứng không?” “Chỉ một người”, anh cảnh sát dẫn Michael tới gặp một bà già đang ngồi trong tiền sảnh toà nhà. “Đây là bà Seana Walters, ngụ ở tầng mười. Bà này nói thấy có người rơi xuống qua cửa sổ vài phút trước đó”. Thám tử Michael cùng bà Walters trở lên căn hộ của bà ta để nghe lại lời khai. “Tôi đang treo tấm màn cửa mới thì nghe tiếng la khủng khiếp”, bà Walters nói, “Rồi qua cửa sổ tôi thấy ông ta rớt xuống như một bao khoai”. Bà ta ngồi xuống cái ghế đu ngay cạnh ô cửa sổ bà ta vừa đề cập. Michael nhìn quanh căn hộ. Nó gần như trống trơn. Ngoài cái ghế đu và tấm màn cửa mới thì chỉ có một chiếc trường kỷ cũ ở cuối phòng và một cái TV cũ. “Sau khi thấy vậy thì bà làm gì?” Michael hỏi. “Tôi lập tức kêu cảnh sát”, bà ta đáp. “Rồi dùng thang máy xuống tiền sảnh”. Michael leo thang lên tầng 11 và hỏi chuyện Sam Carton, người sống ngay bên trên căn hộ của bà Walters. “Tôi chẳng thấy gì cả”, Sam nói. “Vợ tôi đi làm cả ngày. Tôi phải chăm sóc bọn trẻ”. Michael bước tới cửa sổ phía mặt tiền và cố mở ra. “Không mở cái cửa đó được đâu. Tôi đóng đinh chốt lại lâu rồi. Nhà có trẻ con mà, mình phải cẩn thận”. Michael thấy dấu mũ đinh đóng chốt cửa bên dưới lớp sơn khô cứng. “Ông biết rõ nạn nhân không?” Michael hỏi. “Tôi không muốn nói xấu người chết”, Carton đáp. “Nhưng ông Andrews chẳng tốt lành gì. Khu này hồi xưa vốn tồi tàn, bây giờ thì đỡ hơn nên có người cũng muốn đến ở. Thế là tự nhiên ông ta thông báo tăng tiền nhà lên gần gấp đôi. Nhiều người đã ngụ ở đây nhiều năm. Bây giờ làm sao họ trả nổi? Hay ông ta muốn tống bớt người nghèo để nhận khách thuê khá giả hơn?” Sau cùng, Michael leo một tầng nữa để gặp người ở tầng 12, bà Grace Andrews, vợ của nạn nhân. “Ông ấy mới đi khỏi một tiếng là bị té”. Bà góa phụ nức nở. “Ông nói phải làm mấy việc lặt vặt, lại còn hứa về ăn trưa nữa chứ”. “Việc vặt gì vậy?” Michael hỏi. “Ổng không nói rõ”, bà Andrews đáp trong khi tưới bồn hoa hồng ngoài bậu cửa sổ mặt tiền. “Ông ấy lúc nào cũng lo cho nhu cầu của khách trọ. Ông ấy tốt bụng lắm”. “Còn ai khác có chìa khóa lên nóc không?” “Không, chỉ mình ông ấy có”. Bà Andrews đáp. “Ông hỏi chi vậy?” “Để loại suy thôi”, thám tử đáp. “Đến đây thì tôi suy ra ai rồi”. ### * Câu hỏi: Michael đã suy ra ai? [Đáp Án] 16- Cái chết của nhà điểu học Philippe Jette Buổi sáng rất đẹp khi bác sĩ Halldent bắt đầu đi bách bộ. Trời nắng ấm và chim hót khắp nơi. Nhưng khi rẽ theo con đường mòn thì ông thấy Vincent Lowery, nhà điểu học nổi tiếng thế giới, nằm úp mặt xuống đất với một lỗ đạn xuyên lồng ngực. Giữ nguyên hiện trường, bác sĩ Halldent chỉ rờ vài chỗ trên cái xác và xác định nạn nhân mới chết trong vòng một giờ. Nhìn theo đường mòn, Halldent thấy cơn mưa tối qua giúp ông nhìn rõ những dấu chân trên đất ướt. Có hai nhóm dấu chân tới chỗ cái xác, nhưng chỉ có một dấu đi ngược lại theo đường mòn về phía Tây. Ông đi theo dấu chân đó và tới cửa một căn nhà gỗ khiêm tốn. Khi ông gõ cửa, thư ký của Vincent Lowery ra mở. Đó là một người thấp bé, hói đầu, với cặp mắt láo liên. Ông ta thở hổn hển và coi bộ đang choáng váng sợ hãi. “Tiến sĩ Lowery bị bắn chết rồi”, ông ta lắp bắp một cách hoảng loạn. “Tôi đang tính xuống thị trấn kiếm bác sĩ rồi báo cảnh sát”. “Tôi là bác sĩ đây, và cũng thường giúp thanh tra Winters điều tra phá án. Bình tĩnh lại đi, và kể lại đầu đuôi mọi việc”. Halldent nói. “Ông Vincent với tôi sáng nào cũng đi dạo sau khi mặt trời mọc, vì đó là lúc tốt nhất để quan sát thói quen kiếm ăn của nhiều loại chim. Sáng nay cũng vậy, nhưng khi đi được chừng 15 phút thì có tiếng súng nổ. Tiến sĩ Vincent ôm ngực gục xuống liền. Tôi không biết phải làm sao nên trở về đây, chuẩn bị chạy xuống thị trấn thì ông tới”. “Ông có thấy ai trong rừng sau khi nghe tiếng súng không?” “Hình như tôi nghe có tiếng chân chạy xa xa, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ quá và lập tức chạy về đây”. Anh thư ký lắp bắp. “Lúc này là mùa săn, chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng nổ nên chắc đây là tai nạn”. “Ông mô tả hiện trường lúc đó được không?” Halldent nói. “Tôi nhớ lúc đó tiến sĩ kêu tôi để chỉ cho thấy một con chim tước bách hương hiếm gặp đang đậu trên một ngọn cây ngay trước mặt chúng tôi. Ngay lúc đó thì tôi nghe tiếng súng nổ và tiến sĩ Lowery ngã vật xuống”. “Được rồi”, Halldent nói ngay. “Khi gặp cảnh sát, ông ráng bịa ra một chuyện khá hơn. Còn tôi thì tự hỏi tại sao ông phải nói láo như thế”. ### * Câu hỏi: Làm sao Halldent biết anh thư ký nói láo? [Đáp Án] 17- Ngài cố Thống đốc Stan Smith Khoảng 9:30 tối, bà gia nhân Lidya Bronson đưa cảnh sát vào thư phòng của Robert Calvins. Ông cựu Thống đốc nằm chết trên thảm trong vũng máu. Giấy tờ trên bàn giấy bừa bộn. Khung cửa sổ kiểu Pháp mở hé, gió lùa vào lạnh cả căn phòng. Thanh tra Joan Katrine cũng tới. Bà thẩm vấn Lidya trong phòng ngủ nhỏ xíu của gia nhân. “Tôi đã làm cho ông Calvins ba chục năm rồi”, bà ta nói, “và chưa bao giờ gặp chuyện gì kinh khủng như thế này. Tôi không dám nói ông ta là người tử tế, nhưng từng này tuổi rồi tôi còn kiếm được việc làm ở đâu nữa?” “Bà nói đêm nay ông Thống đốc có khách hả?” Katrine hỏi nhẹ nhàng. “Có người tới lúc 7:30 nhưng ông Calvins đích thân ra mở cửa. Ông có dặn tôi trước rằng sẽ có khách tới bàn chuyện chính trị và muốn đích thân đón khách. Nên khi nghe chuông cửa tôi vẫn tiếp tục rửa chén. Rửa xong, tôi về phòng này coi TV. Khoảng 8:00, tôi nghe cửa ngoài đóng lại”. “Nhưng bà không biết khách đó là ai?” Lidya lắc đầu. “Sau 9:00 một chút”, Lidya tiếp, “tôi đi một vòng kiểm tra cửa nẻo với đèn đuốc thì thấy thư phòng còn sáng đèn, rồi có gió lùa dưới cửa lạnh cả chân tôi. Nên tôi gõ cửa. Không nghe tiếng động nên tôi mở cửa nhìn vào, và thấy...” Lidya nhún vai. “Thống đốc có ghi hai cái tên trong lịch hẹn hôm nay”, Katrine nói. “Patrick Shepard và William Mason. Bà có nghĩ khách đêm nay là một trong hai ông này không?” “Tôi không biết. Họ mà vào thư phòng rồi thì bên ngoài chẳng nghe được gì”. Patrick Shepard, nghị sĩ của tiểu bang, có mặt ở nhà tối hôm đó, và Katrine tìm gặp dễ dàng. Họ ngồi trong phòng khách, trên lầu văng vẳng tiếng nhạc nhè nhẹ. “Robert bị giết à?” Shepard giật mình. “Kinh khủng quá. Cả tối nay tôi ở nhà đọc sách, chẳng nghe radio hay xem TV gì cả”. “Hôm nay ông có ghé thăm ông ấy không?” “Không, nhưng ông ta có gọi điện cho tôi ở văn phòng lúc 4 giờ chiều. Ông ta muốn giảng hòa sau vụ tụi tôi cãi nhau”. “Cãi nhau về chuyện gì vậy?” “Ồ, chúng tôi vốn là đồng minh chính trị, nhưng gần đây ông ấy lại ủng hộ một ứng viên nghị sĩ khác. Robert còn nhiều ảnh hưởng lắm”. “Vậy là ông ta có thể có kẻ thù chính trị”, Katrine mỉm cười. “William Mason có phải là kẻ thù như thế không?” “Có thể lắm”, Shepard đáp. “Ông ta cũng là thượng nghị sĩ, và đối địch Robert nhiều năm nay”. “Calvins có nói ông ta sẽ gặp Mason tối nay không?” “Chẳng nói gì với tôi cả”. Katrine tới ngay nhà William Mason. Ông này mặc đồ ngủ ra mở cửa. Trong phòng khách, ông ta lấy khăn lau mấy cái ly. “Chắc thanh tra tới vì vụ ám sát Calvins”, ông ta nói mệt nhọc. “Nghe tin trên TV tôi kinh hoàng quá”. “Đúng vậy. Tôi được biết ông có xung khắc với ông ấy từ lâu. Trên lịch hẹn của ông ta cũng có tên ông. Lý do gì vậy?” “Tôi không rõ. Có thể ông ta dự định gọi điện cho tôi. Điện thoại có reng mấy lần nhưng tôi để máy tự động trả lời. Tôi muốn nghỉ ngơi”. “Ông biết có ai muốn hại Thống đốc không?” “Tôi cũng nghĩ nát óc mà không ra”, Mason nói. Có người chắc cũng nghĩ tôi thù oán ông ấy. Nhưng thiệt tình tôi bị bao tử hành suốt ba bữa nay mà chưa bớt. Tôi chẳng ra khỏi nhà, ngoài chuyện bước ra ngoài bỏ bao rác hôm qua và coi thùng thư. Tôi sống một mình, bà thấy rồi đó”. “Có ai tới thăm ông mấy ngày nay không?” “Không. Nếu nhớ ra gì, tôi sẽ gọi cho bà. Bây giờ bà đi rót giùm tôi cốc nước được không?” Katrine rót nước trong căn bếp, nhìn thấy chồng thư trên kệ bếp. Liếc vào thùng rác để xác minh chuyện Mason có đi bỏ rác. Trong thùng rác chỉ có mớ thư quảng cáo và mấy vỏ lon súp, sữa và thịt hộp dầm ớt. Thỏa mãn, bà đưa cốc nước ra cho chủ nhà và cáo lui. Khuya đó, lúc 3:00 sáng, Katrine bật dậy và gọi cho công tố viên tiểu bang. “McCoy hả?” bà nói. “Ông viết cho tôi lệnh bắt khẩn cấp. Tôi nghĩ ra nghi can trong vụ Calvins rồi”. ### * Câu hỏi: Katrine nghi ai là thủ phạm? [Đáp Án] 18- Đường dây điệp viên Thomas Stanwick Gerald Everton, nhà lo-gic học, sáng nay có khách lạ tới thăm. Với khả năng suy luận, ông thường giúp giới an ninh phá nhiều vụ án quan trọng. Nên người khách sáng nay đến cũng vì lý do đó. Ông ta là Alan Cooper, nhân viên FBI. Sau khi chào hỏi, tự giới thiệu, nhấp một hớp trà, ông ta đi ngay vào công việc. “Sau một thời gian điều tra, chúng tôi khám phá ra một đường dây gồm năm điệp viên ở Royston, họ bán bí mật của công nghiệp quốc phòng cho một tòa đại sứ nước ngoài ở New York. Tên họ năm người này đã được xác minh. Chúng tôi đang nghe và xem trộm các liên lạc của họ với nhau. Chúng tôi tin rằng nhờ những liên lạc này mà chúng tôi sẽ tìm ra một đường dây tương tự ở Midwest, nên chúng tôi chưa muốn bắt họ vội. Rắc rối là ở chỗ họ liên lạc với nhau qua bí danh, và chúng tôi muốn xác định bí danh của từng người để hiểu trọn vẹn các liên lạc của họ”. Everton lấy ra giấy bút sẵn sàng và hỏi, “Đến nay các ông thu được sự kiện nào rồi?” Cooper mở sổ tay ra. “Chúng tôi có các bí danh như sau”, ông ta nhếch miệng cười. “Comet, Cupid, Dasher, Dancer và Donder. Còn các điệp viên ở Royston gồm có: Một là Sal Abelardo, kỹ sư xây dựng của hãng Spacetech có vợ làm trong một nhà xuất bản và có vẻ không biết gì về chuyện ông chồng làm gián điệp. Thứ nhì là Peter Bircham, độc thân, làm gác dan ở nhà xuất bản nói trên. Thứ ba là John Cantrell, quản trị viên của công ty Aeroco, vợ chồng ông ta sống chung với em gái ruột của ông ta trong một tòa nhà ở trung tâm thành phố. Thứ tư là Tim Delmarin, độc thân, chuyên viên viễn thông cũng của công ty Aeroco. Người thứ năm là Telly Ephesos, nhân viên ngoại giao đã về hưu từng công tác hai mươi năm ở nước ngoài, ông ta có vợ nhưng không có anh em gì cả”. Everton im lặng ghi chép trong khi Cooper ngồi chờ. Khi thấy Everton ngừng bút, Cooper nói tiếp. “Qua các liên lạc nghe trộm được và qua điều tra, chúng tôi biết thêm được mấy chi tiết sau. Cantrell với bí danh ‘Dasher’ đôi khi cùng đưa vợ đi nghỉ hè chung. Bí danh ‘Cupid’ rất bất mãn với công việc hiện nay. Bà Abelardo thường xuyên thư từ với vợ của bí danh ‘Donder’. Hai bí danh ‘Comet’ và ‘Dasher? chưa từng ra khỏi tiểu bang. Bà Abelardo từng hứa hôn với anh trai của ‘Donder’. Sau cùng, Bircham tháng nào cũng đi Mexico City”. Ngưng một lát, Cooper tiếp. “Ông Everton, việc xác định bí danh của từng điệp viên là rất quan trọng đối với chúng tôi. Mong ông giúp cho càng sớm càng tốt”. Everton ngồi im đọc lại các chi tiết ghi chép trên giấy, ngón tay ông vân vê mấy sợi ria mép. Lát sau ông viết vài dòng trên giấy và đưa cho Cooper. “Đây, bí danh của từng điệp viên đây. Chúc chiến dịch thành công”. ### * Câu hỏi: Bí danh nào là của ai? [Đáp Án] 19- Ăn trưa ở quán Quill Eleanor Valleroy Thanh tra Gilbert Bodwin của Scotland Yard cùng cố vấn Lesley Stanford bước vào căn hộ của Roger Sumpter lúc gần bốn giờ chiều. Sumpter, một người ngoài năm mươi, nằm bật ngửa trên ghế bành phòng khách, một lỗ đạn khoét ngay cuống họng. Máu chảy đầm đìa áo quần và chiếc ghế. Cái gối nhỏ để hãm thanh tiếng súng nổ vất ngay trên bàn. Những món khác trong phòng chẳng có gì đáng chú ý ngoài một bình oxy dựa trong góc phòng. Các nhân viên điều tra đang thu nhặt các chứng cứ hiện trường. Bodwin trao đổi một lát với hai nhân viên rồi cùng Lesley bước ra hành lang khi Trung sĩ Caufield ra hiệu. “Đây là Matthew Hanselman, thưa sếp”, Caulfield nói, chỉ vào một người mặt mày xanh lét đứng bên cạnh. “Ông này phát hiện xác chết và gọi điện cho cảnh sát từ căn hộ tầng dưới”. “Tôi bán bảo hiểm, sếp”, Hanselman bồn chồn nói. “Tôi có cái hẹn lúc ba giờ với ông Sumpter. Một người giao hàng bước vào đây ngay trước tôi, nên tôi vào theo không cần bấm chuông, lên căn hộ số 3 của Sumpter như ông ấy chỉ dẫn. Khi gõ cửa không thấy ai mở, tôi vặn thử tay nắm thì thấy nó không khóa. Tôi hé dòm vô thì thấy ông ta nằm đó, máu me tùm lum. Tôi hoảng hồn chạy xuống tầng dưới, đập cửa một căn hộ, rồi gọi nhờ điện thoại ở đó”. “Ông không bước vô hả?” Bodwin hỏi. “Không sếp. Đến giờ tôi cũng không muốn vào nữa kìa!” “Cám ơn, ông Hanselman”. Bodwin quay sang Lesley. “Bây giờ đi hỏi chuyện hàng xóm thôi, đi với tôi không?” “Tôi có hẹn ăn trưa với bạn ở quán Quill”, Lesley đáp, “Hay ngày mai ông ăn trưa với tôi ở đó rồi kể chuyện cho tôi nghe, được không?” Quill là một quán nhỏ gần khu nhà nơi xảy ra vụ án. Thực phòng ngộp mùi khói thuốc lá và khói từ nhà bếp. Bodwin và Lesley chọn một bàn trong góc. “Sumpter bị suyễn, sống bằng nghề làm cố vấn quảng cáo”, Bodwin nói, “bị nghi có chơi trò đe dọa tiết lộ bí mật của người khác để tống tiền. Tụi tôi đang nghiên cứu giấy tờ của y xem có manh mối gì về động cơ giết người không”. “Có tin gì từ hàng xóm không?” Lesley hỏi tiếp. “Có chứ. Căn hộ tầng trên không ai ở. Hai căn tầng dưới là của hai bà già. Căn số 1 của bà Karen Sabre, góa phụ gần tám mươi rồi. Lúc 11:30, bà này có nhìn ra cửa sổ và thấy Sumpter đi vào tòa nhà. Khoảng 12:15, bà ta thấy một người nữa tới bấm chuông, nhưng không biết đó là ai. Bà Ruth Wentworth, sống trong căn số 2, cũng nghe tiếng chuông. Bà này cũng ngoài bảy mươi rồi”. “Hai bà là bạn bè hả?” Lesley hỏi. “Phải. Lúc 12:30, hai bà cùng ăn trưa với nhau. Họ còn ngồi chơi với nhau trong căn số 2 đến hơn 3 giờ thì Hanselman đập cửa xin gọi nhờ điện thoại. Wentworth có bấm nút mở cửa tòa nhà cho người giao hàng và đã nhận gói hàng, của một đứa cháu gửi cho. Bà này không thấy người đàn ông lạ và Hanselman vào lúc nào, nhưng có tiễn người giao hàng ra khỏi cửa”. “Vậy là phải tìm ra người đàn ông lạ mặt kia?” Lesley nói. “Tìm thấy rồi. Qua mô tả của bà Sabre, tụi tôi tìm ra một gã tên Paul Meyers, điều hành một công ty kiểm toán ở gần đây. Khi nói chuyện với Meyers ở văn phòng ông ta, ông ta thừa nhận có ghé thăm Sumpter. Ông ta nói đang nhờ Sumpter làm thiết kế quảng cáo cho công ty của ông ta, và họ là bạn bè”. “Theo Meyers”, Bodwin nói tiếp, “ông ta với Sumpter có tới đây ăn trưa, tháng nào cũng một hai lần như vậy. Meyers ghé lại rủ Sumpter đi, nhưng Sumpter nói bị kẹt công việc nên Meyers đi ăn một mình”. “Chắc ông phải xác minh người giao hàng tới đó vào giờ nào”. Lesley nói. “Đang điều tra. Cả Wentworth lẫn Hanselman đều không nhớ được tên công ty trên áo người giao hàng, nhưng chúng tôi đang liên lạc với người cháu của bà ta”. “Tìm ra khẩu súng chưa?” “Chưa. Mà cửa vào tòa nhà còn nguyên vẹn, được khóa cẩn thận”. “Coi bộ ông điều tra đúng bài bản đó”. Lesley nói, nhưng xác định được kẻ tình nghi thì tập trung điều tra dễ hơn. Biết tôi nghi ai không?” ### * Câu hỏi: Lesley nghi ai? Tại sao? [Đáp Án] 20- Dấu giày kẻ trộm Hy Conrad Chiều thứ bảy, Nina và Max chạy chơi trong rừng. Lúc nghỉ xả hơi, Max nói: “Hôm nay lạ ghê, không nghe thầy Reed tập kèn”. Reed là thầy dạy nhạc trong trường. Khu rừng này nằm kế điền trang của thầy và thứ bảy nào chơi ở đây hai đứa cũng đều nghe thầy tập kèn trong căn chòi gỗ sau tòa nhà chính của thầy. Ngay lúc đó hai đứa nghe tiếng quát tháo xa xa. “Nghe giống tiếng thầy quá”. Max nói. Hai đứa chạy ra bìa rừng, dừng lại trước sân sau nhà thầy. Giữa sân sau là căn chòi gỗ. Thầy Reed đang đứng ngay cửa chòi mở rộng, mặt mày cau có. Khi hai đứa chạy tới, thầy đang cố kềm cơn giận dữ. “Thầy lại bị ăn trộm nữa rồi. Tối qua chắc thầy quên khóa cửa chòi”. Max với Nina chưa từng vào đây nhưng có nghe nói về chuyện của thầy. Năm ngoái căn chòi tập kèn của thầy cũng bị trộm vào vơ vét sạch. Khi sắm đồ đạc mới, thầy đã bắt vít hết vào nền nhà, từ cái bàn, cái ghế cho tới tủ hồ sơ. Nhìn thoáng qua, mọi thứ vẫn gọn gàng. Rồi Nina thấy những mảnh vỡ của con heo đất trên bàn. “Nó đập con heo đất của thầy rồi hả?” cô bé hỏi. “Thầy đựng bộ sưu tập những đồng xu bạc trong đó”. Thầy Reed tức tối nói, rồi chỉ một chỗ trống trên kệ gắn cao trên vách. “Mọi khi thầy vẫn để nó ở đó”. “Vậy là kẻ trộm thấy cửa không khóa nên lẻn vào, thấy con heo đất nên lấy xuống, đập ra...” Max nói với vẻ rành rọt. “Coi nè”, Nina nói, “Có dấu giày. Đâu phải của thầy, phải không?” “Không”, thầy Reed đáp, cúi xuống coi dấu giày. “Từ thứ bảy rồi thầy đâu có vào đây. Ở đồng trống thế này, sàn nhà đóng bụi nhanh lắm”. Max dò theo dấu giày, từ cửa tới kệ, trở lại cái bàn giữa chòi. Rồi dấu giày đi lung tung trong phòng. Còn Nina săm soi ở chân chiếc tủ hồ sơ. “Đây có vẻ là dấu đầu gối”. Cô bé chỉ hai dấu tròn trước tủ hồ sơ. “Làm gì mà kẻ trộm quỳ gối ở đây?” Cô bé cũng quỳ xuống nhìn vào gầm tủ và thấy ngay một vật kim loại. Nina thò cánh tay gầy gò vào gầm tủ hẹp và nhặt được một đồng xu bạc trong đó. “Kẻ trộm chắc muốn nhặt lại đồng xu này”, cô bé nói khi đưa đồng xu cho thầy Reed. “Y đi giày thể thao hiệu SkyMaster”. Max nói tiếp. “Coi dấu giày là biết liền. Thế nào em cũng tìm ra kẻ trộm cho thầy”. Hai đứa bắt đầu điều tra. Nơi chúng đến đầu tiên là tiệm Garvey, hiệu giày dép duy nhất trong thị trấn. Ông Garvey cho biết SkyMaster là kiểu giày mới nhập về. “Bác nhập về tuần rồi, mới bán được ba đôi”. Rồi bác kiểm tra trên máy vi tính để tìm tên khách hàng qua hóa đơn. “Người thứ nhất là Todd Jones, biết nó không?” “Cháu biết chứ”. Nina đáp. Dân thị trấn này lạ gì Jones, nó cao kều, gầy gò, chơi vị trí trung phong trong đội bóng rổ của trường trung học. “Đôi thứ hai bán cho Ollie Infree. Chắc hai đứa không biết tay này”. Ông Garvey nói. Nhưng chúng biết. Ollie Infree là chúa ăn cắp vặt. Nó ưa mặc đồ màu đỏ nên trông giống một ông già Noel lùn tịt mà không có râu và từng bị bắt giữ nhiều lần, nhưng lần nào cũng thoát không bị kết án. Đôi thứ ba bán cho Mona Everest. Cô này cao như Jones và to con như Ollie, từng là võ sĩ môn vật tự do. Hai năm trước cô ta giải nghệ, về đây mở trại nuôi chó kiểng. “Mình phải đi dò xét từng người thôi”. Nina lầm bầm khi rời hiệu giày. “Không chừng còn phải lẻn vào nhà họ...” “Khỏi cần”, Max nói ngay. “Tớ biết kẻ trộm là ai rồi”. ### * Câu hỏi: Max suy ra kẻ trộm là ai? [Đáp Án] Phần II Những vụ án phức tạp Gồm những truyện dài và phức tạp hơn, thường là của các tác giả thành danh với truyện hình sự, rất giỏi trong việc tung hỏa mù (làm rối trí người đọc) và tạo kết thúc bất ngờ dựa trên kiến thức ở nhiều lãnh vực chuyên môn. 21- Một vụ án đầy mâu thuẫn Huge Pentecost Trung úy Pascal thuộc Đội Chuyên án Sát nhân ném tàn thuốc qua cửa sổ xuống ngõ hẻm bên dưới - một sự vi phạm quy định của thành phố. “Nào, nhóc”, anh nói nhẹ nhàng. “Kể nghe coi”. “Đừng gọi tôi là nhóc!” Pascal nhìn nghi can đang co người trên chiếc ghế ọp ẹp đối diện với anh. Hắn cao khoảng mét rưỡi, tóc vàng và mũi hỉnh. Bộ đồng phục nhà hàng khiến hắn trông như một cậu bé mười lăm. Qua thẩm vấn sơ khởi, Pascal biết hắn đã hăm tám. “Xin lỗi, Eddie”, Pascal nói. “Tôi hay vụng về kiểu đó khi muốn tỏ ra thân thiện”. “Bọn cớm mấy ông không hề thân thiện với ai cả”. Hắn nói, đôi mắt đỏ quạch. Pascal là một người da ngăm, với mái tóc đen dày xoăn tít và khuôn mặt có những nếp nhăn sớm. Eddie Connors khiến anh bối rối. Thường thì không có ai lại hăng hái nhận tội giết người như vậy. “Anh nhận là đã giết Sam Lorrimer bằng sợi dây xích vàng đó hả?” “Phải”. “Động cơ gì?” “Ông ta nhờ tôi ghi cá độ một ngàn đô cho con ngựa Samovar hai mươi ăn một ở chỗ Mike Braxton. Tôi nghĩ con ngựa này không về nhất nên ém số tiền này không chuyển lại cho Braxton, đến khi nghe kết quả cuộc đua trên radio, tôi biết mình gặp rắc rối lớn nên giết ông ta”. “Anh vòng sợi xích vàng qua cổ ông ta và siết cho đến chết hả?” Eddie nhìn xuống sàn như thể vẫn còn thấy cái xác nằm đó. “Phải”. “Anh, một người cao mét rưỡi, chỉ khoảng sáu mươi ký, lại khống chế được một tay cao gần mét chín, nặng cả trăm ký, rồi vòng sợi dây xích qua cổ ông ta và siết cho đến chết. Eddie này, ông ta có thể bẻ giò anh như bẻ một cành củi khô như chơi”. “Có lẽ ông ta bị bất ngờ”. Eddie nói. “Lúc người ta phát hiện cái xác, thì trên tay ông ta vẫn còn nắm chặt tờ phơi do anh viết. Vậy sao anh không lấy lại tờ phơi đó. Như vậy chẳng ai nghi ngờ anh cả”. “Tôi không nghĩ đến chuyện đó. Có lẽ lúc đó tôi run quá”. Pascal thở dài. “Y học không phải luôn luôn chính xác. Bác sĩ không thể nói chính xác được thời điểm tử vong. Nhưng có thể phỏng chừng. Tay bác sĩ pháp y nói Lorrimer bị giết ít nhất là một giờ trước khi xác ông ta được tìm thấy. Có lẽ hơn - nhưng ít nhất là một giờ”. “Vậy thì sao?” Eddie hỏi, lần đầu tiên hắn ngước nhìn Pascal. “Vậy là Lorrimer bị giết trước khi con Samovar về nhất. Anh lại nói anh giết ông ta vì chuyện con Samovar thắng. Tôi đã kiểm tra mọi chi tiết rồi”. “Ơ”, Eddie thốt ra, giọng trống rỗng. “Anh không có động cơ, Eddie à. Tôi không thể nuốt nổi ý tưởng anh khống chế được tay Lorrimer. Điều đó thật vô lý”. Eddie ngồi im trên ghế, cắn móng tay. Pascal bước đến cửa sổ, thả tàn thuốc xuống mười hai tầng lầu bên dưới. Eddie hít một hơi thật sâu. “Thật ra tôi không hề giết ông ta”. Pascal nói với vẻ phấn khởi. “Có thế chứ. Bây giờ kể lại cho đàng hoàng coi”. “Mỗi ngày ông Lorrimer đều gọi tôi lên để ghi độ cá ngựa do Braxton làm cái. Không nhiều, chỉ năm mươi đô. Ngày nào ông ta cũng thua. Braxton đã hốt của ông ta bảy, tám trăm đô. Rồi hôm nay ông ta lại đặt vào một con ngựa hai mươi ăn một. Tôi thấy con ngựa này khó lòng thắng nên định ém số tiền đó. Đến khi tôi nghe qua radio về vụ con Samovar về nhất, tôi biết mình chết tới nơi rồi”. “Tiếp đi, Eddie”. “Tôi lên tầng trên, và gặp một tay sát thủ của Braxton”. “Gã tên gì?” “Tôi không biết. Nhưng trước đây tôi đã từng gặp gã. Tôi biết ngay là Braxton phái gã đến thanh toán tôi”. “Tại sao?” “Vì tôi không đưa tiền cá độ của Lorrimer cho hắn”. “Nếu vậy thì Braxton phải cám ơn anh mới phải chứ. Anh đã giúp hắn không bị mất hai mươi ngàn đô”. “Tôi đã qua mặt hắn. Hắn không chấp nhận chuyện đó. Vậy nên tôi mới nghĩ đến chuyện nhận mình giết Lorrimer. Thà ngồi tù còn hơn đối mặt với tay sát thủ của hắn”. “Eddie này, tôi không phải là Sherlock Holmes, nhưng cũng không tồi đâu. Tôi đã nói với anh là tôi có thể chưa biết nhiều thứ, nhưng tôi luôn kiểm tra”. “Ông nói vậy là sao?” Eddie hỏi, đầy lo lắng. “Eddie này, theo cô trực tổng đài thì Lorrimer đã gọi anh lên phòng ông ta lúc một giờ kém năm. Anh đã lên đó. Khoảng mười phút sau anh xuống bằng thang máy. Có một cú gọi nữa cho anh từ phòng 1214. Người ở phòng này muốn gặp anh ngay. Anh đã lên đó, ở lại khoảng mười đến mười lăm phút. Rồi anh xuống, nhờ một người bồi khác trực thay anh một lát vì anh phải ra nhà thuốc Tây gần đó. Anh mua phấn trang điểm - anh nói với người bán là anh mua cho một người để đánh lên chỗ mắt bị bầm tím. Anh quay lại khách sạn trong vòng mười lăm phút và trở lên lầu, mang cái gói đến phòng 1214. Không ai nhìn thấy lại anh trong khoảng một tiếng đồng hồ - cho đến khi cô hầu phòng phát hiện ra xác Lorrimer. Tôi cho rằng mình nên đến gặp cô gái trong phòng 1214”. “Không!” Eddie cứ vặn vẹo trên ghế. “Quỷ bắt ông đi!” Hắn co ro trên ghế, có vẻ run rẩy và già đi nhiều. Pascal đốt một điếu thuốc nữa, do dự, và thả que diêm lên bàn. “Anh biết đấy, Eddie”, anh nói nhẹ nhàng, “người ta nói cớm là những kẻ lạnh lùng với một khẩu súng và một phương pháp thô bạo. Nhưng không có đâu. Tôi cũng là con người như anh. Cũng biết yêu, biết đói, biết vui buồn. Thậm chí cũng biết sợ hãi nữa. Vì vậy, nếu anh nói sự thật là tôi biết liền”. Hai tay Eddie ôm lấy mặt. “Tôi thà chết còn hơn lôi cô ấy vào vụ này”. “Ai, Eddie?” “Cô Russell”. “Cô gái ở phòng 1214 hả?” Eddie gật. “Cô ấy là người duy nhất đối xử với tôi như... như một con người”. Pascal nheo mắt để tránh khói thuốc. “Kể tôi nghe đi, Eddie”. “Cô ấy đăng ký phòng cách nay hai tuần”, Eddie nói. “Cùng lúc với Lorrimer hả?” “Đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi”, Eddie nói nhanh. “Họ chẳng quen gì nhau cả”. “Tôi biết”. “Cô ấy đẹp”, Eddie nói. “Cao hơn tôi - nhưng tử tế, và đẹp. Cô ấy là vũ công, múa chung với Sebastian. Tôi đoán họ làm việc ở khách sạn và các hộp đêm. Tay Sebastian này là đồ chó đẻ. Hắn cao lớn, đen và luôn hằn học với tôi. Hắn không ở khách sạn mà chỉ đến gọi cô khi họ có sô biểu diễn”. “Họ đi làm đều không?” “Không. Một tuần hai ba lần gì đó. Hồi Linda mới đến đây...” “Linda?” “Linda Russell. Tên cô ấy. Hồi mới đến đây cô ấy cần một người bồi và tôi đến”. Hai má Eddie bắt đầu đỏ lên. “Có lẽ như ông nói, trung uý, ông là con người, biết yêu và sợ hãi. Nhưng ông không phải là người chỉ cao mét rưỡi! Người ta không vỗ đầu ông, gọi ông là ‘nhóc’ và cho ông kẹo thay vì tiền boa. Người ta không bế ông lên đùi và cư xử với ông như một đứa bé lớp sáu, khi ông là một người đàn ông, ông xúc cảm như đàn ông, muốn những điều mà đàn ông muốn. Ông muốn làm tình, muốn trở thành một người lớn, muốn đứng trên đôi chân của mình, và được tôn trọng”. Eddie thở dài đánh sượt. “Đó là điều ông không thể biết”. “Linda không hề cư xử với tôi theo kiểu đó. Cô ấy không cười cợt vì tôi nhỏ con. Cô ấy nói chuyện với tôi cứ như tôi là một người bình thường. Trong phòng cô ấy có nhiều đĩa nhạc và cô ấy rủ tôi ở lại nghe, mời tôi hút thuốc, và có khi là một ly rượu. Cô ấy kể chuyện hồi còn nhỏ cho tôi nghe, cô ấy thật tốt với tôi. “Tôi tâm sự nỗi buồn của một người lùn như tôi cho cô ấy. Và lần cuối cùng khi chúng tôi ra ngoài đi chơi với nhau, cô ấy đã để cho tôi hôn tạm biệt. Cô ấy không ra vẻ ban ân đâu, mà làm như cô ấy muốn vậy! Cho nên thà tôi lên ghế điện còn hơn để ông kết cô ấy tội giết người vì tôi”. “Ai làm mắt cô ta bầm tím vậy?” Pascal đột ngột hỏi. “Ông đã gặp cô ấy!” giọng Eddie run lên. “Không, nhưng cô ấy bảo anh đi mua phấn để bôi lên con mắt bầm tím, đúng không?” “Phải, nếu tôi kể hết cho ông nghe, ông sẽ để cô ấy yên chứ?” “Tôi hứa với anh nếu được tôi sẽ để cô ấy yên”. “Lorrimer đã gọi tôi đến lúc gần một giờ”. “Sao anh lại chắc về thời gian vậy?” Pascal ngắt lời. “Bởi vì khi tôi đang nói chuyện với ông ta thì người phục vụ phòng gõ cửa báo bữa trưa của ông ta đã đến. Mỗi ngày ông ta ăn trưa lúc một giờ. Người phục vụ luôn gõ cửa báo và để xe thức ăn ngoài cửa. Chừng nào xong việc ông ta sẽ ra lấy”. “Ông ta nói chuyện với ai vậy?” “Tôi không biết. Nhưng qua giọng nói và tiếng cười của ông ta tôi đoán đó là một phụ nữ”. “Tiếp đi, Eddie”. “Ông ta nằm trên giường, ghi ghi chép chép gì đó và đưa tôi một ngàn đô - hai tờ năm trăm - bảo tôi đặt cược cho con Samovar. Tôi ghi phơi cho ông ta và rời phòng. Tôi nghĩ mình nên nộp phơi cho ông Braxton ngay. Có cái gì đáng ngờ trong vụ cá cược này”. “Đáng ngờ?” “Nghe nè, một kẻ cứ đánh cá năm mươi đô mỗi ngày trong hai tuần và thua suốt. Rồi bất ngờ đánh cá một ngàn đô vào một con ngựa cùi. Chắc chắn hắn ta đã biết điều gì đó! Braxton không thể từ chối bởi hắn ta đã thắng của ông ta suốt hai tuần liền. Vậy cho nên tôi phải đến gặp Braxton ngay. “Tôi sắp rời khách sạn thì Fay, người trực tổng đài báo là Linda gọi và muốn tôi lên gặp cô ấy ngay. Tôi định lên đó báo cho cô ta biết tôi đang bận rồi sẽ ghé qua chỗ Braxton. “Tôi lên phòng cô ấy và gõ cửa, thường thì cô ấy mở cửa, nhưng lần này cô bảo tôi cứ vào. Giọng cô nghe như bị nghẹn. Cô ấy ngồi trên ghế, lưng quay về phía tôi. Phòng tối mờ mờ, cô ấy ngồi che mặt và khóc. Cô bảo tôi đừng đến gần vì không muốn tôi nhìn thấy mặt cô. Tôi thắc mắc không biết có chuyện gì, cô nói mắt cô bị tím bầm ghê lắm. Tôi hỏi ai đánh cô, cô chỉ lắc đầu, rồi cười khóc lung tung. Lúc đó tôi nghĩ dù kẻ đó là ai thì tôi cũng sẽ giết hắn. Tôi cho rằng đó là Sebastian. Cô ấy không nói gì chỉ cố tìm cách cho tôi bình tĩnh lại và nói giờ cô ấy chỉ muốn có thứ phấn để đánh lên chỗ mí mắt bầm đó. Cô nhờ tôi ra nhà thuốc Tây Gorton gần đó mua vài thứ cô đã ghi ra giấy”. “Cô ta có thừa nhận là bị tay Sebastian đó đánh không?” Pascal hỏi. “Không, cô ấy chỉ cố làm tôi bình tĩnh lại, nhưng tôi chắc đó chính là hắn”. “Được rồi, tiếp đi, Eddie”. “Khi tôi trở lại thì cô ấy đang nằm đắp khăn ướt lên mắt. Tôi đặt gói phấn vừa mua lên bàn và cô nhờ tôi bật radio. Đài đang chơi nhạc cổ điển. Cô ấy bảo tôi hãy ở lại với cô ấy. Thế là tôi ngồi xuống giường, lòng vẫn cháy bỏng ý nghĩ giết Sebastian. Bất ngờ nhạc ngừng và loan báo kết quả đua ngựa. Tôi gần như muốn xỉu. Trong lúc lu bu tôi đã quên mất số tiền của Lorrimer trong túi. Tôi đã quên mọi thứ trừ việc giúp đỡ Linda. Tôi ngồi đó, cứng người, nghe thông báo kết quả. Nếu Samovar thắng, coi như tôi tiêu. Và quả đúng là Samovar đã thắng”. “Anh có nói với Linda chuyện đó không?” “Không. Tôi chỉ ngồi đó, cố nghĩ nên làm gì. Rồi tôi nghe tiếng tiếng om sòm trong đại sảnh. Đó là cô phục vụ phòng đã phát hiện ra xác của Lorrimer. Rồi cớm đến, tìm ra tờ phơi trong tay Lorrimer. Họ biết được tôi là người lo vụ đánh cá trong khách sạn nên bắt giữ tôi. Rồi ông đến”. Pascal im lặng hồi lâu, có vẻ như đang ngẫm nghĩ điều gì. Cuối cùng anh bước ra cửa. “Cô ấy đã cho anh chứng cứ ngoại phạm. Anh sẽ cần điều đó khi gặp công tố viên”. “Bộ cần phải kéo Linda vào chuyện này hả?” Eddie hỏi. “Chắc phải vậy rồi”, Pascal đáp. “Đi nào”. Pascal gõ cửa phòng 1214. Có chút lần lữa, rồi Linda Russell ra mở. Cô ấy thật đẹp, và có chút lo lắng. Đôi mắt nâu của cô hết nhìn Pascal đến Eddie. “Có chuyện gì vậy, Eddie?” cô ta hỏi. Pascal tự giới thiệu mình. “Eddie cần một chứng cứ ngoại phạm, cô Russell, và theo anh ta thì cô có thể chứng minh điều đó”. “Tôi đã cố giữ cho cô đứng ngoài chuyện này, Linda”. Eddie nói. “Phải, anh ta còn nhận tội giết người để cô thoát khỏi vụ này nữa đó”, Pascal nói. “Nhưng Eddie! Anh biết là tôi sẵn sàng nói với trung úy đây là anh đã ở đây mà?” Đó là một câu trách yêu. “Tôi không muốn cô dính vào vụ này”. “Ngốc thiệt! Mời hai anh vào”. Căn phòng lúc này đã sáng. Pascal nhìn vào những thứ linh tinh trên bàn - một cây son, một hộp phấn, một cái gương nhỏ, kéo cắt móng, một gói giấy nhỏ màu xanh, một xắc tay với mẫu tự “L.R” bằng vàng trên nắp. “Cô kể lại mối quan hệ của cô với Eddie vào buổi chiều này được chứ?” “Dĩ nhiên rồi”, Linda đáp. “Tôi gọi điện xuống yêu cầu gặp anh ta lúc một giờ. Tôi... tôi gặp rắc rối”. “Con mắt bị bầm đó hả?” “Phải, tôi cần ít phấn và muốn nhờ anh ta đến nhà thuốc Tây mua giùm. Anh ấy đi mua và quay lại đây. Chúng tôi là chỗ bạn bè nên anh ấy ở lại đây nói chuyện với tôi một hồi”. “Ở lại chừng bao lâu?” “Chắc khoảng một tiếng đồng hồ”. “Có lý do đặc biệt gì khiến anh ta rời đi không?” Pascal hỏi. “Vụ ồn ào trong đại sảnh”, Linda nói. “Đó là cô hầu phòng phát hiện ra vụ giết người. Ông có manh mối gì về vụ này chưa, trung úy?” “Vụ này thật phức tạp”, Pascal nói. “Nó bắt đầu từ một vụ cá cược mà không cá. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà không phải trùng hợp ngẫu nhiên. Rồi chúng ta có một tên giết người mà không hề giết ai. Rồi chúng ta có một chứng cứ ngoại phạm mà không phải là chứng cứ ngoại phạm. Thật là rối”. Linda nhíu mày. “Tôi không hiểu kịp ý ông, trung úy. Sự trùng hợp ngẫu nhiên gì?” “Rằng cô và Sam Lorrimer đến thuê khách sạn này cùng một lúc”. Linda thở gấp. “Nhưng...” “Cô không biết Sam Lorrimer hả?” “Không. Chưa từng gặp. Thậm chí đến giờ tôi cũng chưa biết mặt ông ta ra sao nữa”. “Vậy sao? Tôi đã liên lạc với tay cảnh sát trưởng ở Texas, quê hương của Sam Lorrimer. Lorrimer từng là chủ một nông trại ở đó, và đã bị một tên bạc bịp lừa hết gia sản. Vợ Lorrimer đã bỏ đi với tay bạc bịp đó. Theo ông cảnh sát trưởng thì Lorrimer luôn thề sẽ trả thù. Cách nay ba tuần ông ta đã lên miền Bắc này để tìm tên bạc bịp đó với vợ mình. Và vợ ông ta tên là Linda”. “Vậy ông nghĩ tôi là bà Linda đó hả? Trên đời này có biết bao người tên Linda. Ông nghi tôi giết ông ta hả? Sai rồi. Tôi có thể chán ông ta, nhưng không giết”. “Không đâu”, Pascal nói, giọng đều đều. “Sao lại không? Tôi đã ở đây với cô ấy hơn một tiếng đồng hồ mà”. Eddie cãi. “Eddie, tôi đã nói chứng cứ ngoại phạm mà không phải chứng cứ ngoại phạm mà. Trong mười lăm phút đi mua thuốc anh đâu biết Linda đã làm gì, đúng không?” “Ở ngay trong phòng tôi, chườm mắt chứ làm gì”. Linda phản đối. “Con mắt bầm tím mà không bầm tím”, bất ngờ anh nhặt gói giấy xanh trên bàn lên. “Đây là gói anh đã mua ở nhà thuốc Tây phải không, Eddie? Nó chính là chất gây xuất huyết dưới da, giống như bị đấm bầm tím đó. Hiểu chưa?” Linda không nói gì, mặt cô biến sắc, môi cô trễ xuống. “Eddie nè, trong lúc anh đi ra nhà thuốc, thì cô Russell - hay bà Lorrimer - đã ra hành lang sang phòng ông chồng”. “Chứng minh đi!” Giọng cô ta không còn dịu dàng nữa. “Cô ấy không thể giết ông ta! Ông nói tôi nhỏ con không thể giết ông ta được, vậy thì cô ấy cũng đâu đủ mạnh!” Pascal gật. “Cô ấy không giết. Cô ấy chỉ thúc đẩy thôi”. “Ông điên rồi hả, trung úy?” Linda kêu lên. Pascal cầm cái xắc tay của Linda lên. “Cái túi này thật ngộ, hả cô Russell. Không có dây, dù có mấy cái móc vàng. Còn sợi dây xích vàng đâu?” “Bị đứt mất rồi”. “Cô Russell này, ông Lorrimer bị siết cổ đến chết bằng một sợi dây xích vàng”. “Bị siết cổ!” Mắt cô ta lộ vẻ không tin. “Cô không tin à? Không ai cho cô hay là ông ta bị siết cổ bằng sợi xích vàng sao?” “Không!” Đôi mắt cô ta lóe lên. “Tôi cho rằng...” “Rằng ông ta bị ngộ độc chứ gì?” Pascal nói với giọng lạnh tanh. Rồi anh trút túi xắc của Russell Lorrimer ra bàn. Lẫn lộn trong mớ phấn son, anh cầm lên một lọ thuốc nhỏ, đưa lên mũi ngửi và gật gù. “Nghe nè, trung úy, tôi chỉ muốn bảo vệ Eddie, nhưng tôi không lên ghế điện thế anh ta đâu. Phải, tôi là vợ của Lorrimer. Việc tôi đến đây không phải là trùng hợp ngẫu nhiên, mà tôi muốn bảo ông ta đừng nghĩ chuyện trả thù nữa. Rồi tên Eddie này lại mê tôi. Có một lần hắn thấy tôi nói chuyện với Lorrimer trong hành lang, và Lorrimer có hành động thô bạo. Hôm nay khi tôi nói với Eddie mắt tôi bị bầm, hắn nghĩ ngay đó là Lorrimer. Tôi đã nói với hắn đó là do Lorrimer làm!” “Nói láo! Cô không hề nói ai làm cả. Cô...” “Cô ta chỉ khiến cho anh nghĩ thế thôi”. Pascal nói với Eddie. “Eddie giữ sợi dây xích vàng đó, hôm qua tôi đã đưa cho hắn để hắn gắn lại cho tôi. Làm sao tôi biết trước là hắn lại dùng nó để giết người chứ?” ### * Câu hỏi: Kết cục thì ai đã giết ông Lorrimer? Động cơ sát nhân là gì? [Đáp Án] 22- Chiến lợi phẩm Lawence Treat Giữa buổi sáng, Mitch Taylor lái xe tuần tra vào sân rộng ở giữa sở cảnh sát. Anh đậu xe trong khoảng trống dành riêng, cầm cái mâm xe có lỗ đạn - nếu đó là lỗ đạn - và cắp vào nách. Cách đây vài giờ anh đã ghé một tiệm sửa xe nhờ sửa tay lái. Tại đó anh mua một mâm xe của tay chủ bãi rác xe Jackson giá năm mươi xu. Trên mâm xe có một lỗ thủng giống như lỗ đạn. Vốn là dân điều tra tội phạm, thói quen nghề nghiệp nổi lên, anh mang nó đến cho Jub Freeman ở phòng thí nghiệm của sở cảnh sát, một chuyên gia về những chuyện như thế này, để xác minh. Jub đang ngồi trên một chiếc ghế cao, nghiên cứu cái gì đó qua kính hiển vi, thì Mitch bước vào. “Xin chào”, Jub vui vẻ nói. “Có chuyện gì hả?” Jub liếc nhìn cái mâm trên tay Mitch. “Tôi có cái này, anh nên xem qua một chút”. Jub cầm lấy và xem xét một cách cẩn thận. Anh ta nghiêng nó để ánh sáng chiếu thẳng vào mép mâm, rồi cúi xuống nheo mắt nhìn cái lỗ. Anh ta rà ngón tay theo vành mâm, nghiên cứu bên trong. Một lát sau anh ta đặt nó xuống băng ghế. “Loại xe Chevy”, anh ta nói. “Hầu như mới toanh. Anh nhặt nó ở đâu vậy, Mitch?” “Bãi rác xe”, Mitch đáp, và không nói gì thêm. “Một cái Chevy mới toanh”, Jub nói lại. “Anh có nhớ tới chuyện gì giống tôi không?” “Rogan”, Mitch lẹ làng đáp. Jub gật. Rogan là tên cướp ngân hàng vừa mới vượt ngục cách nay một tháng và vẫn chưa bị bắt lại. Hình của hắn được phát đi khắp nơi, mắt lộ, trán dồ, tai giảo. Một nhân viên ngân hàng Farmer đã nhận dạng hắn là một trong hai tên đã cướp ngân hàng này cách nay một tuần, lấy đi 14.000 USD. Chúng đi trên một chiếc Chevy mới toanh, sau đó chúng giấu chiếc xe này, đổi xe khác, và tông thẳng vào rào chắn giết chết một cảnh sát liên bang sau cuộc đọ súng rồi tẩu thoát bằng xe của người này. Chiếc xe của cảnh sát sau đó được tìm thấy cùng xác một tên đồng bọn của hắn trong đó. Nhưng không thấy tiền cũng như Rogan đâu cả. “Anh có thấy chiếc Chevy mới toanh nào trong bãi rác xe không?” Jub hỏi. “Tôi đâu quan tâm đến mấy chiếc xe làm chi”. “Nghe nè. Bây giờ anh quay lại đó trong khi tôi kiểm tra vết lủng này xem có phải do đạn bắn không. Nếu là vết đạn, tôi sẽ lái xe tới đó sau và thử tìm chiếc Chevy này xem”. Nhưng khi đến bãi rác xe anh mới thấy ngán ngẩm. Có đến mấy mẫu đất chứa xe - đủ các loại xe hư đủ kiểu chồng chất lên nhau, biết đâu mà lần ra chiếc Chevy đó bây giờ. Lại còn 14.000 USD tiền mặt, cất cẩn thận trong thùng xe nữa... Mà dám lắm - giấu tiền ăn cướp trong nghĩa địa xe là quá an toàn. Ngay giữa bãi rác xe có một nhà kho, chắc là văn phòng, nhưng không hề thấy bóng Jackson đâu cả. Mitch đi lòng vòng, nhìn xuống chân để không giẫm phải đinh ốc gỉ sét, lúc đó anh nghe giọng một đứa trẻ vang lên. “Bùm-bùm, ông chết rồi!” Mitch quay lại và thấy một thằng nhóc đang cầm cây súng đồ chơi. Nó khoảng sáu tuổi, thoạt nhìn nó là Mitch cứng người lại. Không thể có hai khuôn mặt nào giống nhau như thế được - cũng cặp mắt lộ, đôi tai giảo và trán dồ. Lúc đó Mitch cứ tưởng mình đang gặp Rogan thu nhỏ. Thằng nhỏ này chắc chắn là con của Rogan. Anh dám chắc điều đó. Mitch nở nụ cười, giơ hai tay lên, giả bộ nói. “Cháu bắt được chú rồi. Giờ tính sao đây?” Đôi mắt lộ của nó nhìn chăm chăm. Mitch tỏ vẻ thân thiện, nói. “Cháu tên gì, hả?” Thằng nhóc không đáp. “Cháu biết phải làm sao không?” Thằng nhóc không nhúc nhích. Mitch hạ hai tay xuống và nói. “Chú đầu hàng. Bây giờ cháu bắt nhốt chú lại. Giả bộ như xe cháu ở bên kia”, Mitch nói nhẹ nhàng. “Cháu đưa chú qua đó rồi bắt chú lái xe. Cứ dí súng vào chú”. Thằng nhóc vẫn đứng yên, không nói gì. Mitch ôm vai nó, thằng nhóc cố đẩy ra, Mitch bế nó lên và nói. “Cháu tên gì? Cháu làm gì ở đây vậy?” Thằng nhóc lắc đầu và làm rớt khẩu súng. Mitch cúi xuống nhặt và nhét vào túi anh, rồi anh bế nó lên xe, lái thẳng về sở cảnh sát. Anh dắt thằng bé vào phòng trung úy Decker. Decker ngẩng lên, hỏi. “Chuyện gì vậy?” Thằng nhóc òa khóc. Luôn miệng kêu mẹ. “Con trai Rogan đó”. Decker nhỏm dậy. “Nó nói với anh vậy hả? Sao anh bắt được nó?” “Không, nhưng anh thấy nó giống hệt hắn chứ. Nó đi lạc. Bây giờ mình sẽ mô tả nhân dạng nó rồi thông báo trên T.V. Thế nào cũng có người đến nhận, từ đó mình lần theo”. Decker nhíu mày, rồi gật đầu. “OK, anh biểu thư ký lo chuyện đó đi”. Mitch thở phào, anh dẫn thằng nhóc ra ngoài giao mệnh lệnh của Decker cho cô thư ký, rồi lên lầu đến phòng thí nghiệm của Jub. “Vụ cái mâm xe tới đâu rồi?” Mitch hỏi. “Một viên đạn sáu ly. Chiếc xe lãnh phát đạn này khi đang chạy rất nhanh. Còn vụ chiếc Chevy anh làm tới đâu rồi?” “Thay vào đó tôi tìm thấy thằng nhóc này. Tôi nghĩ chắc Rogan trốn đâu đây”. Lát sau mẹ thằng nhóc đến. Bà ta có cặp mắt lộ, màu nâu, trán dồ và hai tai giảo. Bà ta xưng là Leonard Jackson, chồng bà ta điều hành bãi rác xe và con họ đang chơi trong đó thì biến mất. Trung úy Decker cảnh báo bà không được cho trẻ con chơi trong bãi rác xe, và vợ chồng bà có thể bị buộc tội không chăm sóc con cái cẩn thận. Ngay khi bà ta ra về, trung úy Decker phá ra cười dữ dội. Và Mitch biết ngay đó chỉ là màn mở đầu của trò chế nhạo. Nhưng Mitch vẫn cứ ưu tư về cái mâm có vết đạn và việc thằng nhóc giống Rogan như đúc khi nó chĩa khẩu súng đồ chơi vào anh, về việc chiếc Chevy và 14.000 USD ăn cướp đó có thể còn nằm trong bãi rác xe. Anh thọc tay vào túi và đụng phải khẩu súng đồ chơi, anh móc ra và nói chắc anh phải đem trả nó lại cho thằng nhóc. Trung úy Decker ừ. Nhà Jackson nằm ở phía Tây thành phố, không xa bãi rác xe lắm. Trên đường riêng đậu hai chiếc xe, một chiếc bà Jackson vừa mới lái từ sở cảnh sát về cũ xì, còn chiếc kia mới tinh. Mitch cảm thấy hài lòng vì theo anh không một tay chủ bãi rác xe nào lại có một chiếc xe ngon lành như vậy và ở trong một ngôi nhà bảnh như thế này cả. Anh bấm chuông, bà Jackson ra mở cửa, rồi cao giọng gọi. “Len, có khách”. Jackson từ sau nhà bước ra. “Mời vào”. “Con trai ông bỏ quên món đồ chơi này”, Mitch nói. “Tụi tôi cũng mới vừa gọi điện đến sở cảnh sát hỏi, họ nói ông đang trên đường đến đây”. Hắn chộp lấy khẩu súng. Bà Jackson tiếp lời. “Nó thích cái súng này lắm. Nãy giờ nó buồn hiu vì bị mất”. “Vậy à”, Mitch nói và nhớ ra thằng nhóc đã quên phắt khẩu súng từ khi anh nhặt nó nhét vào túi và còn thấy Jackson không hề vội đi trả khẩu súng cho thằng nhóc. Vậy món đồ chơi đó chỉ là cái cớ để họ kéo anh tới đây; họ muốn nói chuyện với anh, trông họ có vẻ căng thẳng, nhưng anh vẫn không thể nghĩ ra trò chơi này là gì. Jackson hỏi, “Làm một cốc gì nhé?” “Cho một chai bia đi”, Mitch nói, nhìn quanh phòng. Căn phòng có vẻ bình thường, trừ việc nó có vẻ như ít được sử dụng. Mitch hỏi. “Hôm nay ông không làm việc hả?” “Ừ, tôi lo cho thằng bé quá, không biết chuyện gì xảy ra cho nó”. Mitch tự nhủ vậy sao hắn không đích thân đến sở cảnh sát mà lại để cho vợ đi? “Tôi thấy nó đi lạc nên dắt nó về sở cảnh sát”, Mitch nói. “Trên đường đi nó có nói gì với ông không? Ý tôi là nó có nói nhiều không? Bọn nhỏ mà, đôi khi tụi nó nói nhiều chuyện tầm bậy tầm bạ”. Jackson vội nói. “Thì nó cũng nói nhăng nói cuội vậy thôi”, Mitch đáp và anh bắt đầu hiểu. Jackson lo không biết thằng nhóc có tiết lộ điều gì không - để anh có thể tìm ra. Hắn nói vớ vẩn về thời tiết và láng giềng, khi Mitch hỏi Jackson sống ở đây bao lâu thì hắn lái sang chuyện khác mà không trả lời thẳng. Lúc này đầu óc Mitch rối bời, anh cố nghĩ ra lý do Jackson gọi điện kêu anh đến. Ngoài việc muốn biết thằng nhóc có nói gì không, hắn còn muốn anh về sở nói lại hắn là một người bình thường, chẳng có gì để giấu, thậm chí còn mời anh vào nhà uống bia nữa. Điều đó có nghĩa là hắn không bình thường và có nhiều thứ cần giấu diếm. Rồi Mitch chợt nhận ra rằng có thể họ đang che giấu Rogan. Thằng nhóc này nhất định là con của Rogan, biết đâu người phụ nữ này cũng không phải là vợ của Jackson, mà là vợ của Rogan nữa không chừng, hay là chị em ruột gì đó với y. Anh hỏi tiếp, “Cháu học lớp mấy?” “Anh nghĩ gì vậy?” Jackson đổ quạu. “Nó mới sáu tuổi. Anh nghĩ nó học trung học hả?” Mitch vẫn tỉnh bơ. “Nó học trường nào vậy?” Jackson nhặt cây súng đồ chơi lên, giữ thăng bằng nó trên một ngón tay như thể hắn rất quen sử dụng súng. Nghe vậy hắn dừng lại, nhìn Mitch một thoáng, rồi ngoái ra sau hỏi. “Betty này, ông bạn của mình muốn biết thằng nhỏ học trường nào nè?” À, là bố mà không biết con mình học trường nào, Mitch nghĩ thầm, và biết rằng anh đã đi đúng hướng. Anh đứng lên. “Tới giờ tôi phải về rồi, cám ơn và xin chào”. Mitch ra xe và ngẫm nghĩ. Anh hy vọng Jub sẽ đào được cái gì đó ở bãi rác xe hoặc Jackson sẽ sợ hãi và dẫn đường thẳng tới chỗ của Rogan. Mitch nổ máy xe, lái đến góc đường, tấp vào lề chỗ anh có thể quan sát toàn diện ngôi nhà của Jackson. Khoảng mười phút sau Jackson rời nhà, lên xe lái thẳng ra đường, qua mặt Mitch. Mitch theo sau, vẫn giữ khoảng cách khoảng hai mươi mét và cố tình để cho Jackson thấy anh. Hắn quẹo cua, anh quẹo theo, hắn dừng, anh dừng, cuối cùng hắn tấp xe vào lề, bước ra hỏi. “Anh theo đuôi tôi hả?” Mitch tỉnh bơ. “Có lẽ”. “Chi vậy?” “Anh tự đoán coi”. “Nghe nè, cớm - tôi có quyền đi bất cứ nơi nào tôi muốn”. “Dĩ nhiên rồi - có ai cản anh đâu”. “Thôi được, muốn gì anh đến văn phòng tôi, mình nói chuyện ở đó. Tôi sẽ chờ anh”. Rồi Jackson lên xe lái đi tiếp, Mitch vẫn theo sau. Hắn làm như anh ngu lắm vậy. Chắc là Rogan trốn trong văn phòng đó, và khi Mitch bước vào, chúng sẽ bắn gục anh, rồi liều mạng. Chúng đâu có gì để mất đâu? Và anh vẫn cứ lái xe theo hắn. Khi chạy ngang bãi rác xe anh thấy xe của Jub đang ở đó. Anh ta đang cầm chiếc xà beng, cố nạy thùng một chiếc Chevy. Anh chờ Jackson quẹo vào đó, nhưng hắn phóng đi thẳng. Anh gắn đèn cảnh sát lên mui xe và nhấn còi liên tục. Mồ hôi anh chảy ròng ròng xuống mắt, anh muốn giơ tay lên chùi, nhưng hai tay anh vẫn ghì chặt tay lái. Đàng trước xe Jackson đã tăng tốc. Rồi Mitch thấy đường cao tốc cắt ngang đàng trước, thấy đèn đỏ của Jackson chớp lên. Xe của Jackson như lắc lư, rồi đảo ngang, rời khỏi con đường và lảo đảo lao vào đường cao tốc. Mitch đạp thắng từ từ - anh không muốn lao vào đường cao tốc với tốc độ tám mươi - hoặc sáu mươi hay năm mươi dặm một giờ. Lẫn trong tiếng rít của gió và tiếng bánh xe thắng lại, Mitch nghe tiếng một va chạm kinh khủng. Dạ dày anh thắt lại và thầm mong không có ai khác dính vào vụ đụng xe này... Khi Mitch về đến nhà đã bảy giờ. Amy đang cho con ăn tối, cô ôm chầm lấy anh khi mở cửa. “Ôi, Mitchell, em lo muốn chết, không biết có chuyện gì mà anh về trễ dữ vậy”. “Tụi anh điều tra vụ cướp ngân hàng Farmer. Jub đã tìm ra được số tiền bị cướp trong một chiếc ô-tô nằm ở bãi rác xe, và một tay bỏ mạng khi phóng xe bỏ trốn”. “Thôi, chuyện này để lát nữa kể. Anh quên điền vào phiếu liên lạc của Joey rồi đó. Anh chỉ nghĩ đến công việc mà quên cả vợ con”. “Rồi, anh điền ngay. Amy này, Joey có giống anh không hả?” Cô cười to trước câu hỏi ngớ ngẩn đó. “Đôi khi. Có người nói giống, người nói không. Chi vậy?” “Chẳng có gì cả. Thôi để anh điền vào phiếu cho con. À, Amy này, con học trường nào vậy em?” ### * Câu hỏi: Ai là thủ phạm vụ cướp ngân hàng đó? Nhờ đâu Mitch tìm ra được thủ phạm? [Đáp Án] 23- Sập bẫy Julian Symons George Mobley là tay bợm chỉ thích đàn bà với tiền. “Tin tao đi”, hắn nói, “tao ngửi được lúc nào một em đã sẵn sàng”. Và hắn đã chứng minh được điều đó qua những cuộc chinh phục ngoạn mục của hắn. Còn việc kiếm tiền thì hắn cũng đã vài lần chứng tỏ - theo kiểu có lợi về tài chánh cho hắn hơn là cho những người cộng sự - chẳng hạn như khi công ty cá ngựa thuê hắn đi thu nợ hay công ty bảo hiểm thuê hắn bán bảo hiểm, thì hắn luôn bỏ túi một số phần trăm nhiều hơn mức quy định. Vì những trò đó nên hắn không thể ở một chỗ nào đó quá lâu được, và dĩ nhiên hắn luôn chấp nhận cuộc sống là phải luôn vận động, một dòng chảy không ngừng. Nhân đọc tờ Worthing, một mẩu quảng cáo đập vào mắt hắn. “Cần một thư ký tạm thời (đàn ông) để giúp công việc địa mạo học”. Lúc đó George không cần tiền lắm, nhưng hắn lại đang vô công rồi nghề, và mẩu quảng cáo này có vẻ gì đó hấp dẫn hắn. Thế là hắn đến gõ cửa ngôi nhà đăng quảng cáo, nhưng khi gặp Genevieve Foster, cái mũi của hắn ngửi ra ngay đây là một trái đào chín muồi sẽ rơi vào tay hắn. Hắn cứ tưởng sẽ có một ông già đeo kính cận phỏng vấn mình, nhưng ông Foster đi vắng, ông ấy đang ở thư viện Worthing, theo như bà vợ ông ta giải thích, ông ta ở đó hầu như suốt ngày. “Ông ấy giao cho tôi phỏng vấn anh”, bà vợ giải thích. “Ổng rất dở đánh giá con người. Tay thư ký trước của ông ấy chỉ đánh máy có hai ngón thôi. Anh biết đánh máy chứ?” George khẳng định hắn vừa biết đánh máy vừa biết viết tốc ký. Bà Foster gật đầu. Chính xác thì bà Foster không đẹp, nhưng có vẻ hấp dẫn nhục dục hút hắn như một cục nam châm. Khi bà ta yêu cầu giấy chứng nhận thì hắn chìa ra cả đống thư, nhưng rồi bà ta gõ lên một lá thư được cho là của ngài Chalmsley Baker ở Shropshire và hỏi liệu hắn có phiền không nếu bà kiểm tra. “Bà cứ tự nhiên, nhưng tôi e rằng phải mất một hai tuần mới có hồi âm, vì ông ta vừa đi du lịch nước ngoài, ông này sướng thiệt”. “Xét cho cùng thì đây chỉ là một việc tạm thời”, bà ta cười, gõ móng tay lên lá thư. “Thực ra thì mục tiêu là giữ cho chồng tôi có chuyện gì đó để làm. Ổng bị yếu tim và không thể vận động nhiều”. Trong nụ cười của bà khi trả lại mấy lá thư, hắn cảm thấy như có một sự đồng lõa, một thỏa thuận ngầm giữa họ. Ngày hôm sau hắn trình diện lúc 10:30 và bắt đầu làm việc. Ông Foster là một ngạc nhiên với hắn. Hắn cứ tưởng mình sẽ làm việc với một lão công chức về hưu (theo kiểu bà vợ tả), nhưng đây lại là một tay nhỏ con ngoài ba mươi, thậm chí còn có vẻ trẻ hơn bà vợ cỡ một hai tuổi. Họ tiếp hắn trong một phòng khách trang nhã, và Gen (giờ trong đầu hắn luôn gọi bà ta như thế) là người nói suốt buổi gặp mặt, luôn gợi hắn hình ảnh con mèo đang thèm liếm những cốc kem. Rồi hắn theo ông Foster vào một phòng làm việc ở tầng trệt. “Anh có quan tâm đến địa mạo học không?” Foster hỏi hắn. “Thật tình thì tôi chẳng biết tí gì về nó cả”, George mỉm cười nói. “Nhưng tôi có thể học”. Họ chỉ nói có bấy nhiêu, rồi Foster thuyết về những cuốn sách to đùng đặt trên bàn trước mặt. Đó là những cuốn sách về địa mạo miền Tây Sussex, và George có cảm giác như chúng cổ lắm rồi. Khi đang đánh máy hắn bắt gặp Foster nhìn mình với cái nhìn khó hiểu. Như thể ông này - thế nào nhỉ? Sợ, ghen, đánh giá hắn như một đối thủ? Có lẽ là tất cả, với một điều gì nữa mà George không thể xác định rõ. Mười phút sau Gen thò đầu vào hỏi, “Anh xong chưa, Eversley?” “Hôm nay như vầy là được rồi”. “Anh uống chút gì với chúng tôi trước khi về chứ, Mobley?” Họ uống rượu sherry trong phòng khách, rồi chính Gen tiễn hắn ra cửa. “Rất tiếc là không mời anh dùng bữa trưa được. Buổi trưa tụi tôi chỉ ăn qua loa, chiều Eversley phải nằm nghỉ. Ông ấy không được khỏe mà”. Bà ta mở cửa cho hắn với một nụ cười như mèo, gợi ra một sự thông đồng bí mật đầy khêu gợi. Ngày hôm sau, thứ tư, giống như ngày thứ ba - người đọc, người đánh máy, và uống rượu sherry. George thấy dường như Foster đọc các đoạn trong mấy cuốn sách tham khảo, và hắn đề nghị ông ta cứ đánh dấu, rồi hắn tự đánh máy cũng được, nhưng Foster từ chối. “Không được, tôi trích ở mỗi cuốn vài đoạn, và phải đánh máy theo một trật tự nhất định mới được”. George thấy bàn tay ông ta run run. “Xin lỗi, tôi chỉ muốn tiết kiệm thời gian”. Foster cố kiềm chế mình. Thậm chí ông ta cười to. “Tôi mong mình không khiếm nhã, nhưng các thư ký trước của tôi làm theo cách của họ và kết quả là mọi thứ lộn xộn hết trơn. Làm theo cách này lâu hơn, nhưng bảo đảm mọi thứ theo trật tự”. Sáng thứ năm Gen nói. “Eversley không có nhà. Ổng lên London, tới bảo tàng Anh kiếm tài liệu gì đó. Nhưng ổng có để lại mấy thứ cho anh đánh máy”. Khi hắn theo bà ta vào nhà, bà ta ngoái lại nói. “Để tôi đi pha trà. Anh uống với tôi một tách”. Đây chính là cơ hội hiếm có. Trong đại sảnh hắn vòng tay từ sau qua người bà ta và ôm lấy bộ ngực săn cứng. Cơ thể bà ta căng cứng, rồi bà ta quay lại ép chặt môi vào môi hắn. Làm như thể bà ta đang tấn công hắn. “Lên lầu”, bà ta thì thào. “Lên lầu đi”. Hắn theo bà ta vào phòng ngủ, một lần nữa bà ta khiến hắn ngạc nhiên. Hắn có cảm giác mình là kẻ thụ động chứ không phải là một kẻ chinh phục... Kinh nghiệm này thật mới lạ nhưng không phải là không thú vị. Sau đó, khi ngồi hút thuốc, hắn mới quan sát vẻ xa hoa của phòng ngủ - những chiếc thảm lụa Trung Hoa, cái giường khổng lồ, tất cả đều hết sức đắt tiền. Chắc chắn hắn lãi to rồi. “Em biết anh đang nghĩ gì rồi”, Gen nói. “Eversley không tốt”. “Anh hiểu”. “Hắn ta không tốt với em, không tốt với chính hắn. Eversley giàu khủng khiếp - vậy nên em mới lấy hắn. Ồ, đừng lo, em nói thẳng như vậy với hắn mà. Nhưng hắn vẫn muốn cưới em. Có điều em không biết là hắn bị đau tim, và hắn sắp rụi tàn ở đây”. Bà ta thè lưỡi liếm môi. “Nếu tụi mình cưới nhau, anh có muốn làm cái công việc nghiên cứu địa mạo học chán ngắt này không?” Hắn nói, “Eversley là một tên ngốc”. Bà ta lại thè lưỡi liếm môi, với vẻ háo hức, giống như con mèo đang rửa mặt. “Điều rắc rối là anh không có tiền. Bọn có tiền toàn làm trò cà chớn”. Hôm đó hắn ra về rất hứng khởi, lần đầu tiên trong đời hắn gặp một phụ nữ coi hắn như một bạn tình chứ không phải một vật thể để sử dụng. Sáng hôm sau Foster đã ở nhà, ông ta mang từ London về một số tài liệu. Họ làm việc đến mười một rưỡi thì Foster nói. “Anh làm một mình nghe, Mobley? Tôi phải đến thư viện tra cứu mấy chi tiết”. Ngay khi cửa trước đóng lại thì Gen xuất hiện, nắm tay hắn. “Lên lầu đi. Mình kéo màn lại”. Thứ ba kế tiếp Foster lại lên London, George ở lại đó cả ngày. Về mặt tình dục, hắn là nô lệ của bà ta, nhưng hắn vẫn là George Mobley, và vẫn tỉnh táo để chờ vận may, và hắn thấy Gen cũng đang chờ như hắn. Hắn tin chắc bà ta có kế hoạch trong đầu nhưng chưa nói với hắn, hắn rất muốn nghe. Cuối cùng hắn hỏi. “Em đang nghĩ gì vậy, Gen?” Bà ta lăn sang, nhìn hắn. “Làm cho anh hạnh phúc”. “Ngoài chuyện đó không còn gì khác sao?” “Thông minh thiệt”. Bà ta lại liếm môi. “Em đã nói với anh là Eversley không tốt. Hắn làm em chán. Hắn ngốc. Thỉnh thoảng hắn đi du lịch một mình, độ hai ba tuần gì đó”. “Vậy là anh sẽ được gặp em thường xuyên hơn”. “Vấn đề không phải ở chỗ đó. Nhưng đã đến lúc anh phải về rồi”. Một bữa sáng hắn giật mình khi mở cửa cho hắn không phải là Gen mà là một mụ già. Foster cũng không có nhà, Gen lạnh nhạt giới thiệu. “Sarah, đây là ông Mobley, ông ta làm thư ký cho chồng tôi”. Sarah gật đầu chào. Sáng đó hắn không gặp Gen nhiều. Hôm sau Gen giải thích Sarah bất chợt đến vào buổi sáng thay vì buổi chiều. Rồi bà ta tặng hắn một món quà, đó là một bộ khuy măng sét. Hắn liền đem dọ giá, tay bán nữ trang nói nó trị giá 200 bảng và nói nếu hắn bán gã sẽ mua lại với phân nửa giá. Dĩ nhiên là hắn không bán. Hắn đang nghĩ đến một dự án kiếm tiền khác. Rốt cuộc thì có phải Gen cần một người tình không nhỉ? Một sáng khi Foster đang đọc cho hắn đánh máy thì Gen xuất hiện và nói bà ta muốn đóng một cái đinh lên tường. Bà ta phớt lờ ông chồng và nhờ George. Khi đang đóng hắn hỏi sao Foster không làm chuyện này. Bà ta thì thào. “Em nói rồi, hắn hết sức vô dụng. Thậm chí chẳng treo nổi một tấm hình”. Hôm đó cả ba ngồi uống rượu sherry, George nhìn hình treo trên tường và hỏi họ là ai. Gen nói. “Dì Edith và cậu William”. George chỉ ông già nhỏ con, với hàng ria mép thưa, hỏi. “Ai vậy?” “Đó là em họ của tôi. Mortimer Lands”. Rồi mọi người im lặng. Thứ sáu của tuần thứ hai, Gen thông báo công việc đã kết thúc. Hắn ngạc nhiên. “Kết thúc? Nhưng ý ông ấy là muốn làm cả một cuốn sách mà”. “Em biết. Nhưng đây chỉ là công việc giải trí của ông ấy thôi. Ông ấy thu thập, rồi bỏ dở. Thực ra thì ổng không thích anh, George”. Bà thè lưỡi ra, liếm môi. “Có lẽ ổng nghi ngờ”. “Nhưng chuyện này đã xảy ra trước đây. Chính em đã nói với anh mà”. Hay là mụ ta muốn thay đổi người tình. Hắn cảm thấy cáu. “Anh biết đó, George. Eversley rất kỳ cục. Khi chuyện này xảy ra ông ấy sẽ bỏ đi. Chủ nhật này ông ta sẽ đi”. “Chủ nhật! Nhưng đi đâu?” “Dễ gì ổng nói. Chỉ khi nào sắp về ổng mới gửi thư báo cho em biết. Nhưng lần này ông ấy sẽ không về nữa đâu”. Hắn ngạc nhiên. “Ý em là sao, Gen?” “Ông ta không phải đi đâu cả”. Rồi Gen nói toạc ý định của bà ta ra. Eversley và Gen có chung tài khoản ở ngân hàng, và bà ta có thể rút trong mức giới hạn nào đó - khoảng 3000 bảng. Nhưng giả sử rằng Eversley quyết định ở hẳn nước ngòai - Argentina chẳng hạn - và giả sử rằng ông ta đã viết một lá thư yêu cầu các chứng khoán của ông ta được chuyển đến ngân hàng bên đó thì sao? Ở Argentina, nơi mà chẳng ai biết Eversley Foster, thì chuyện giả mạo chữ ký của ông ta, rút các chứng khoán, và sống thoải mái ở đó một thời gian dài là dễ ợt. Hắn không muốn nói với bà ta về tài giả mạo giấy tờ của hắn. Hắn chỉ nói là việc giả mạo chữ ký ở ngân hàng Argentina thì không sợ, nhưng ngân hàng của Foster ở Anh thì coi bộ hơi gay. “Em đã nghĩ đến chuyện đó”, bà ta đưa ra một tập chi phiếu có sẵn chữ ký của Eversley Foster ở dưới. “Em đã yêu cầu ổng ký nó vì em cần chút tiền, thế là ổng ký. Em đã nói là ổng ngốc lắm mà”. “Vậy ở Argentina anh sẽ là ông Eversley Foster?” “Đúng. Bây giờ anh cần hộ chiếu mang tên Eversley”. “Chuyện đó dễ mà, có tiền là xong ngay”. Rồi đến câu hỏi mà hắn không thể tránh né. Chuyện gì sẽ xảy ra với Eversley? Hắn không ưa bạo lực. “Sẽ chẳng có bạo lực gì hết”. “Nhưng...” “Eversley bị yếu tim. Em pha thuốc cho ông ta mỗi tối. Chỉ cần hơi mạnh đô một chút là ổng khỏi dậy nữa”. Bà ta mỉm cười với hắn và hắn tự hỏi chắc người tình trước của bà ta là một bác sĩ. “Nếu anh sợ thì em làm một mình cũng được. Việc vứt ổng đó”. “Ở đâu?” “Ngoài sông. Em thích mang ổng ra biển, nhưng vậy khó lắm”. Sự lạnh lùng của bà ta làm hắn thấy sợ, và hắn thấy nao núng cho đến khi bà ta nói nếu hắn muốn thì hắn cứ bay một mình đến Buenos Aires trước. Bà ta sẽ đưa hắn tiền. “Và anh sẽ sống ra sao khi đến đó?” “Hình như anh không tin em?” Đúng vậy. Bà ta là người bạn tình trong mơ của hắn, và hắn chẳng muốn gì hơn là ở cùng bà ta, nhưng hắn không tin cậy bà ta. Bà ta lấy 250 bảng vừa rút ở ngân hàng ra và đưa cho hắn. “Tạm thời là như vầy, chừng nào anh cho em coi vé máy bay, em sẽ đưa thêm”. Thật may là hộ chiếu của hắn hợp lệ. Hắn lên London vào chiều thứ sáu và mua vé, kiếm một cô gái và vui chơi một đêm ở đó rồi quay về Worthing. Mười giờ đêm Chủ nhật hắn có mặt ở nhà Eversley. Gen đã mở cửa trước khi hắn bấm chuông. Dù trời tối nhưng hắn vẫn thấy khuôn mặt bà ta trắng bệch khác thường. “Xong rồi hả?” Hắn hỏi khi thấy cái xác trên sàn. Bà ta đã quấn nó bằng vải trải giường và bó chặt bằng dây thừng. Cả hai khiêng nó ra ga-ra mà không nói một lời. Xe hơi đã đậu sẵn ở đó. “Còn mấy cục đá đâu?” hắn hỏi. “Để sẵn trong xe rồi”. bà ta mở cửa ga-ra và họ lái đi. Xe chạy qua những con đường hắn không quen được khoảng mười lăm phút thì bà ta đậu lại trong một bụi rậm. Hắn nhìn quanh, bối rối. Bà ta chỉ con đường hầu như vắng ngắt. “Băng qua khu rừng này là tới con sông, chỉ vài chục mét thôi. Anh vác hắn ta hén”. Ý tưởng vác cái xác suốt khoảng đường dài khiến hắn kinh hoàng. “Không biết anh vác nổi không nữa”. Khuôn mặt bà ta lạnh tanh. “Vậy thì em vác. Anh ôm mấy cục đá”. Đi tới cây cầu, họ buộc đá vào đầu và chân xác. Cả hai khiêng ra giữa cầu và quăng xuống. Một tiếng ùm vang lên rồi cái xác biến mất. Bà ta xoa hai tay như thể đang rửa chúng. Vào xe hắn móc túi đưa vé cho bà ta coi. “Đây, trình em”. Bà ta móc túi đưa hắn thêm tiền. Đêm đó hắn bắt xe lửa lên London, nghỉ ở khách sạn rồi ra phi trường chờ chuyến bay đi Buenos Aires. Cảnh sát tại phi trường chặn hắn lại. Kế họach có gì sai chăng? George nghĩ chỉ có một chuyện duy nhất - cái xác đã nổi lên. “Các anh tìm được ông ta rồi hả?” hắn hỏi. Tay thanh tra đang thẩm vấn hắn nói. “Giỡn mặt hả. Chúng tôi đang nói về vụ giết ông Foster. Eversley Foster”. Họ chưa tìm thấy cái xác? Nếu thế hắn vẫn còn cơ hội. “Tôi không hiểu các ông muốn nói gì?” “Anh làm thư ký cho ông Foster, đúng không?” “Chỉ có hai tuần thôi. Nhưng đã xong rồi”. “Rồi bất ngờ anh bay đi Nam Mỹ. Tiền đâu anh có?” “Tôi để dành”. “Còn về mấy tờ này?” Tay thanh tra vẫy vẫy một bó giấy bạc vừa moi trong túi hắn ra. “Đừng nói với tôi là anh để dành nghen, chúng còn mới tinh, và chúng tôi biết là ông Foster vừa rút ra cách nay mấy ngày. Còn cái khuy gài măng sét này cũng của ông ta”. Hắn ngỡ ngàng, cho đến khi tay thanh tra chìa ra tấm hình chụp thi thể Eversley Foster nhỏ thó với hàng ria mép thưa nằm trên sàn nhà với cái đầu bị đập bằng búa, thì hắn chợt hiểu ra là mình không thể chạy tội được. ### * Câu hỏi: Vì sao George nghĩ mình không thể chạy tội khi hắn chỉ đồng lõa phi tang cái xác? [Đáp Án] """