"Trái Tim Ngọt Ngào - Chelsea Cain PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Trái Tim Ngọt Ngào - Chelsea Cain PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo [ebook©vctvegroup] TRÁI TIM NGỌT NGÀO (Archie Sheridan & Gretchen Lowell #2) —★— Tác giả: Chelsea Cain Người dịch: Orkid Phát hành: Phúc Minh Books Nhà xuất bản Văn Học 2020 CHƯƠNG 1 C ông viên Forest vào mùa hè rất đẹp. Bầu trời màu tro xám của Portland chỉ vừa lấp ló sau tán lá những cây dương, độc cần, tuyết tùng và cây phong; ánh sáng bị lọc thành một màu lục nhạt lấp lánh. Một làn gió nhẹ lùa qua kẽ lá. Hoa bìm bìm và thường xuân trườn quanh các thân cây rêu phủ, siết chặt bụi việt quất và dương xỉ thành một mạng dây leo ngoằn ngoèo cao ngang bụng người ở hai bên con đường đất nện. Dòng suối ầm ào sủi bọt, chim chóc ríu rít. Mọi thứ đều rất đáng yêu, đậm chất Walden, chỉ trừ cái xác. Người phụ nữ đã chết được ít lâu. Hộp sọ hở ra; mái tóc đỏ cách đường chân tóc đến vài phân. Bọn thú đã ăn mất khuôn mặt thi thể. Chỗ thịt ở mũi đã biến mất, chỉ còn hốc xương bên dưới, cái miệng há hốc như một bộ xương ngày Halloween. “Anh có ở đó không?” Archie quay lại với chiếc điện thoại đang áp lên tai. “Ờ.” “Có muốn em chờ anh về ăn tối cùng không?” Anh liếc nhìn người phụ nữ đã chết, tâm trí anh lúc này bắt đầu làm việc với vụ án. Có thể là một vụ sốc thuốc. Có thể là án mạng. Cũng có thể cô ta bị rơi xuống từ buồng chứa hàng của một chiếc 747. Archie từng xem một vụ như thế trong một tập phim Law & Order. “Anh nghĩ là không”, anh nói qua điện thoại. Anh có thể nghe ra nỗi lo lắng quen thuộc trong giọng nói của Debbie. Anh đang làm rất tốt. Anh đã giảm dùng thuốc giảm đau, tăng cân chút ít. Nhưng cả anh và Debbie đều hiểu, mọi chuyện vẫn còn quá mong manh. Chủ yếu là anh chỉ giả vờ. Anh giả vờ sống, hít thở, làm việc; anh giả vờ mình sẽ ổn. Dường như việc ấy có ích cho những người mà anh yêu thương. Chỉ từng ấy thôi cũng đã tốt lắm rồi. Ít nhất, anh có thể làm việc đó vì họ. “Anh nhớ ăn cái gì đấy nhé”, cô thở dài nói. “Anh sẽ ăn tạm cái gì đó với Henry.” Archie gập điện thoại và thả nó vào túi áo khoác. Những ngón tay anh chạm vào hộp đựng thuốc bằng đồng trong túi và do dự trong một giây. Đã hơn hai năm rưỡi kể từ sự cố đó. Anh mới kết thúc thời gian dưỡng bệnh được vài tháng; đủ lâu để bắt một kẻ sát nhân hàng loạt thứ hai trong sự nghiệp của mình. Anh đang nghĩ đến việc cho in mấy tấm danh thiếp ghi: Chuyên gia tìm hiểu kẻ sát nhân hàng loạt. Có khi phải cho dập nổi dòng chữ ấy. Đầu anh đau nhức, theo phản xạ, anh thò tay định mở hộp thuốc, nhưng rồi lại nhấc tay ra và lùa vào tóc. Không! Không phải bây giờ. Anh ngồi thụp xuống cạnh Lorenzo Robbins, anh ta ngồi xổm cách thi thể vài phân, những lọn tóc dài được giấu dưới mũ trùm của bộ đồ bảo hộ Tyvek. Những tảng đá phẳng lì dưới đáy con lạch trơn trượt vì rêu bám. “Vợ anh đấy à?” Robbins hỏi. Archie lôi ra một cuốn sổ nhỏ và cây bút từ trong túi áo. Đèn flash nhá lên lúc thợ ảnh hiện trường chụp đằng sau lưng họ. “Vợ cũ.” “Hai người vẫn gần gũi như thế à?” Archie vẽ phác họa hình dáng người phụ nữ vào cuốn sổ. Đánh dấu chỗ mấy cái cây, con suối. “Chúng tôi ở cùng nhà.” “Ồ.” Đèn flash lại nhá lên lần nữa. “Chuyện dài lắm”, Archie nói và dụi mắt bằng một tay. Robbins dùng một cái kẹp nhấc phần da đầu của thi thể để nhìn hé vào trong. Một đám kiến đen túa ra khỏi cái sọ và chạy vào lỗ mũi đang thối rữa. “Bọn chó đã ghé qua đây.” “Chó hoang à?” Archie hỏi và xoay người ra sau để nhìn khu rừng xung quanh. Công viên Forest rộng hai mươi ki-lô-mét vuông và là công viên hoang dã lớn nhất trong nội đô của đất nước này. Nơi đây có cả những khu vực hẻo lánh lẫn đông đúc. Nơi người ta tìm được cái xác nằm ở phần thấp hơn của công viên. Nhiều người đi bộ, leo núi và chơi xe đạp thường xuyên lui tới đây. Thậm chí từ trên lưng đồi, bạn có thể trông thấy vài ngôi nhà. “Có thể là chuyện lục đục gia đình”, Robbins nói. Anh ta quay lại, chỉ một ngón tay cái đeo găng về phía đồi. “Cái cách thi thể nằm sau bụi cây thế này, từ ngoài đường nhìn vào không thấy được. Mọi người thường chạy bộ cùng với chó của họ, lũ chó bị tuột xích. Lục sục dưới này, thi thể bị mất một bên má.” Anh ta nhìn vào cái xác và nhún vai. “Họ sẽ nghĩ là con chó đã tìm được một con chim chết hay đại loại thế. Người chủ để nó hít hà quanh đây chốc lát. Rồi họ đi tiếp.” “Anh đang nói là cô ta bị lũ pug[1] ăn thịt ư?” “Được một thời gian rồi. Khoảng vài tuần.” Archie lắc đầu. “Hay gớm.” Robbins nhướng lông mày lên trong lúc liếc nhìn con đường. “Kì lạ là không ai ngửi thấy mùi gì nhỉ!” “Có một ống cống bị rò”, Archie nói. “Một trong những ngôi nhà trên đỉnh đồi kia.” Lông mày Robbins càng nhướng lên. “Trong tận hai tuần ư?” Archie vẽ thêm một đường leo núi ngang trang giấy. Điểm gần nhất có thể cao khoảng mười hai mét. Rồi nó vòng xuống và vươn lên xa hơn trên đồi, dẫn sâu hơn vào rừng. “Con người ta thường đơn giản hóa mọi chuyện.” “Anh có nghĩ cô ta là gái điếm không?” “Dựa vào đôi giày à?” Cô ta vẫn mang một bên giày - đó là một chiếc giày gót nhọn bít mũi màu hổ phách. Họ tìm thấy chiếc còn lại trong đám rêu bên dưới bụi dương xỉ cách đó vài mét. “Có thể. Có khi cô ta chỉ là một đứa bé mười ba tuổi đỏm dáng. Khó mà nói chắc được.” Archie nhìn vào cái miệng nhe ra, hàm răng ngay ngắn, trắng muốt đối chọi với cái viền máu me xung quanh. “Cô ta có hàm răng đẹp.” “Ừ”, Robbins khẽ đồng ý. “Răng đẹp thật.” Archie theo dõi trong lúc cộng sự của mình - Henry Sobol - chậm rãi và ngập ngừng đi xuống đồi. Anh đang mặc quần bò đen, áo sơ mi đen, khoác áo da đen bất chấp cái nóng. Henry cụp mắt xuống, môi bành ra tập trung, hai tay dang ra giữ thăng bằng. Với hai cánh tay giăng ngang và cái đầu cạo nhẵn, anh trông như một lực sĩ của rạp xiếc. Anh đi nép vào một bên, cố bước theo dấu chân Archie nhưng bàn chân anh to hơn chân Archie, mỗi bước của anh lại làm một nhúm bụi đá tung lên và lăn xuống dải đê. Phía trên họ, bên một sườn đồi, Archie có thể trông thấy mọi người đều đã dừng lại nghe ngóng, khuôn mặt ai nấy đều căng thẳng. Một người đàn ông vô gia cư đang tìm chỗ cắm trại đã phát hiện ra thi thể và gọi cho cảnh sát từ một cửa hàng tiện lợi cách công viên vài dãy nhà. Ông ta gặp cảnh sát đầu tiên đáp lại cuộc gọi và dẫn anh ta tới đây. Anh cảnh sát chẳng may sảy chân trên đất nhão và bị trượt xuống đồi, lao xuống suối làm hỏng luôn cả hiện trường và suýt bị gãy một chân. Họ sẽ phải chờ đến lúc có kết quả khám nghiệm tử thi mới biết đây có phải là vụ án mạng hay không. Henry đã xuống chân đồi, nháy mắt với Archie rồi quay đi và vui vẻ vẫy tay với người bên trên. Cảnh sát trên đỉnh đồi đều đã quay lại với việc căng dây bảo vệ hiện trường, đẩy lùi nhóm người leo núi và chạy bộ trong những bộ đồ thể thao. Henry trầm ngâm dùng ngón cái và ngón trỏ vuốt phẳng cặp ria mép muối tiêu và bước tới quan sát thi thể. Anh cho phép mình nhăn mặt một cái theo bản năng. Sau đó vào việc. “Cái gì đã giết chết cô ta?” Anh hỏi. Robbins đặt một cái túi trên bàn tay trương phềnh và lấm chấm vết thối của thi thể rồi thắt lại bằng sợi dây buộc túi. Anh ta làm việc đó một cách ngần ngại, cứ như thể cô gái chỉ mới ngủ gật và anh ta không muốn làm cô ta tỉnh giấc. Những ngón tay đã cong vòng, phồng rộp và sưng lên, móng tay đen sì nhưng bàn tay thì vẫn còn nhận ra được, dù không lấy được dấu vân tay nữa. Bàn tay kia còn vùi một nửa dưới đất và rêu, lũ bọ bám đầy ở đó. “Soát người tôi đi”, Robbins nói. “Cô ta chết ở đây à?” Henry hỏi. “Khó mà nói được cho đến khi chúng ta biết cái gì đã giết chết cô ta”, Robbins trả lời. Anh ta nhìn lên Henry. “Anh có bôi sáp lên đầu không hay là nó bóng tự nhiên thế?” Archie cười. Henry đã cho Robbins ra nghỉ trong trận bóng mềm của cảnh sát vào mùa xuân năm đó. Suốt từ hồi ấy đến giờ, hai người luôn như thế. “Tôi chỉ hỏi thôi mà”, Henry nói với Robbins. “Khám nghiệm tử thi xong rồi hỏi”, Robbins làu bàu. Anh ta lại lấy ra một cái túi khác và giật một cái trong không khí, rồi nhẹ nhàng nhấc một bàn tay cô gái lên để có thể trượt nó vào trong túi. Lũ bọ tản đi, Henry phải bước lùi lại một chút. Archie ghi chép gì đó vào sổ. Đã mười ba năm kể từ khi họ đứng bên thi thể của một nữ nạn nhân khác trong công viên đó. Ngày hôm đó đã đặt họ vào con đường của Mỹ nhân đoạt mạng. Lúc ấy, họ không biết rằng nó sẽ thành cả một sự nghiệp. Hoặc biết rằng Archie rồi sẽ trở thành một trong những nạn nhân của ả ta. Một giọng nói trên sườn đồi vẳng xuống. “Này.” Henry nhìn lên con đường nơi Claire Masland đang vẫy họ lên đồi. Anh chống tay lên hông. “Cậu đùa tôi đấy à”, anh nói với Archie. Claire lại vẫy. Lần này cô giơ hẳn cả cánh tay lên. “Tôi lên trước nhé”, Archie nói. Anh liếc lại nhìn Henry và nói thêm, “Để lúc ngã, anh không lôi cả hai chúng ta cùng lăn xuống.” “Ha ha”, Henry đáp lại. “Cô có gì nào?” Archie hỏi Claire khi họ tới chỗ con đường. Claire là một cô gái nhỏ bé và gầy gò với mái tóc cắt rất ngắn. Cô mặc áo sơ mi kẻ sọc và quần bò. Phù hiệu màu vàng được móc vào thắt lưng, cùng một chiếc điện thoại, một khẩu súng trong bao da và cặp kính râm màu đỏ tung tẩy trên một đỉa quần. Cô nghiêng đầu với một cảnh sát trẻ mặc đồng phục lấm lem đất bùn. “Đây là cảnh sát Bennett”, cô nói. “Người đầu tiên phản hồi.” Bennett trông như một cậu bé, cao ráo với khuôn mặt non choẹt và dáng dấp cái cằm thứ hai nực nội đè lên cần cổ gầy. Anh ta so hai vai lại khổ sở. “Tôi rất tiếc”, anh ta nói. “Chỉ cho họ đi”, Claire bảo Bennett. Anh ta thở dài não nề và quay lại. Anh ta đã ngã cắm đầu xuống khe suối và đồng phục bị lấm bê bết bùn, mẩu cây vẫn còn lấm chấm vương trên áo sơ mi. Cả Henry và Archie đều vươn người tới để nhìn cho rõ hơn. Rõ ràng trên một bên bả vai Bennett, giữa những hạt mầm cây dương xỉ, mẩu rêu và đất bùn là một manh mối không thể nhầm lẫn. Henry nhìn sang Archie. “Đó là tóc”, anh nói. “Khi cậu, à, ngã ấy”, Archie hỏi Bennett. “Cậu đã thực sự chạm vào thi thể, phải không?” Sống lưng Bennett cứng lại. “Chúa ơi, không, thưa Thanh tra. Tôi thề.” “Chắc là bị dính vào khi ngã xuống”, Henry nói. Archie rút một chiếc đèn pin nhỏ màu đen ra khỏi túi và chiếu dọc theo độ dài sợi tóc đỏ. Anh giữ như thế cho Henry nhìn. Có một mẩu da bé xíu ở chân tóc. “Trên đó có da đầu”, Archie nói. Bennett quay ngoắt ra sau, mắt mở to. “Lấy nó ra khỏi người tôi đi”, anh ta cầu xin. “Lấy nó ra được không?” “Từ từ nào, con trai”, Henry nói. Thấp hơn Bennett ba mươi phân, Claire vươn tay lên, nhấc sợi tóc rồi thả vào túi đựng bằng chứng. Archie gọi một kĩ thuật viên hiện trường đến. “Đóng túi toàn bộ quần áo của cậu ta. Cả tất nữa, mọi thứ.” “Nhưng tôi biết mặc gì?” Bennett hỏi khi được kĩ thuật viên dẫn đi. Claire quay sang Archie và Henry. Họ đang đứng trên một con đường rộng khoảng chín mươi phân, được đào sơ sài trên sườn đồi. Họ phải nhấc đoạn băng ở cuối đường để một nhóm phụ nữ trung tuổi đi qua. Như vậy, họ sẽ không phải đi vòng hơn một cây số vào rừng và bị lỡ mất buổi hẹn ở spa. Một chú Lab[2] màu sô-cô-la nhảy phốc qua tán lá trên sườn đồi, trong khi chủ của nó, mặc bộ soóc, tay cầm sách và đeo kính râm phản quang, đi bộ ngang qua mà không buồn liếc một giây vào hoạt động dưới chân đồi. “Sao nào?” Claire hỏi. “Chấn thương đầu”, Archie nói. “Đúng”, Henry đế theo. “Có thể cô ta bị ngã”, Claire lập luận. “Giống như T.J. Hooker ấy, ngã xuống, đập đầu vào đá.” “Hoặc tảng đá đập vào đầu cô ta”, Henry nói. “Hoặc là”, Archie nói, “có lẽ Sparky đã sục sạo dưới kia và gí mõm vào thi thể, rồi sợi tóc rơi ra từ người nó khi nó trở lại bờ đê.” Cả Claire và Henry đều nhìn Archie. “Sparky ư?” Henry hỏi. “Thế thì kinh khủng quá”, Claire nói. CHƯƠNG 2 S usan Ward thấy buồn nôn đến tận cổ. Có lẽ do bồn chồn. Có thể chỉ vì cái nóng. Cũng có thể vì mùi thuốc lá độc hại trong quán bar. “Cô muốn một ly nữa không?” Quentin Parker hỏi. Parker là phóng viên tin tức tội phạm của tờ Người đưa tin lâu đến nỗi chẳng ai nhớ nổi. Susan không biết ngay từ đầu ông đã là kẻ nghiện rượu, hay chính công việc đã biến ông thành như vậy. “Lần này là món gì có ô nhé?” Ông nói. Parker uống Wild Turkey. Không đá. Bà cô bồi bàn đã rót cho ông một ly trước khi họ kịp ngồi xuống. Susan lờ đi câu cợt nhả về cái ô và rút một điếu từ bao thuốc lá trên bàn. “Tôi chỉ hút thuốc thôi”, cô nói và quan sát quán bar. Parker đã gợi ý chỗ này. Nó nằm ở trung tâm, và tiện đi từ tòa soạn đến. Susan chưa bao giờ nghe về nó, nhưng Parker có vẻ biết tất cả mọi người ở đây. Ông biết rất nhiều người ở các quán bar. Quán này nhỏ, nên Susan có thể để mắt đến cửa ra vào, trông chừng người đàn ông mà họ chuẩn bị gặp. Parker đã sắp đặt chuyện này. Susan thường làm việc với các biên tập viên chuyên mục, nhưng đây là câu chuyện về tội ác, và điều đó có nghĩa là Parker. Cô đã cố xin cuộc hẹn này hai tháng nay. Parker chỉ mất một cú điện thoại. Nhưng cả câu chuyện này đã là như vậy. Cô định một mình hủy hoại sự nghiệp của một chính trị gia được yêu mến. Hầu hết nhân viên tờ Người đưa tin đều bầu cho ông ta. Susan cũng bầu cho ông ta. Cô sẽ lấy lại phiếu bầu nếu có thể. “Tôi đã có thể đi một mình”, Susan nói. “Anh ta không biết cô”, Parker nói. “Và tôi muốn giúp.” Tất nhiên ông chỉ đùa. Rộng lượng không phải là từ bạn nghĩ đến khi nói về Quentin Parker. Hiếu thắng? Đúng. Phân biệt giới tính? Đúng. Nhà báo giỏi chết tiệt? Đúng. Ma men? Tuyệt đối đúng. Hầu như tất cả mọi người đều nghĩ ông là một tên khốn. Nhưng vì lí do nào đó, từ cái ngày đầu tiên ở tòa soạn, cách đây hai năm, Parker đã luôn để mắt trông chừng cho Susan. Cô không biết tại sao. Có lẽ ông thích mồm miệng đốp chát của cô. Hoặc các bộ quần áo không thích hợp. Hay là màu tóc của cô lúc ấy, dù nó là gì. Không quan trọng. Cô đã đỡ một viên đạn cho ông, và cô khá chắc là ngoài sự xao nhãng từ một ly rượu hay một đầu mối hay ho, ông cũng sẽ làm điều tương tự cho cô. Susan lại nhìn khắp quán bar. Parker chọn rất hay. Rất ít có khả năng ai đó nhìn thấy bọn họ ở cùng một chỗ. Bên trong quán là chủ đề hàng hải mơ hồ: một cái bánh lái từ chiếc thuyền cũ treo trên tường, một cái neo gắn bên trên quầy rượu. Người pha chế trông như đã một trăm mười tuổi, còn bà phục vụ thì không trẻ hơn bao nhiêu. Món ăn duy nhất của chốn này là bắp rang bơ. Cả quán bốc mùi món đó. Nhưng nó tối và mát mẻ, bên ngoài còn lâu mới được như vậy. Susan kéo cái áo ba lỗ màu đen của mình, vắt ngang ngực áo là dòng chữ Smell Bullshit ngoằn ngoèo, và các chữ cái có xu hướng dính chặt vào da khi cô đổ mồ hôi. Cửa quán mở ra và một góc ánh sáng hình chữ nhật chói lói tràn vào trong bóng tối, biến bầu không khí oi khói của quán thành những làn sương gây ung thư cuộn xoáy khá xinh đẹp. Dạ dày Susan thắt lại. Một người đàn ông trung niên mặc vest bước vào và đang nghịch chiếc điện thoại BlackBerry. Anh ta nặng nề, dù chưa bằng Parker, và đeo cặp kính hình chữ nhật quá thời trang so với chính mình. Cô quay sang Parker. “Giấu những con bài giá trị của mình”, Parker thì thào, bốc một nắm bắp rang bơ từ cái bát trước mặt. “Ông chắc đó là anh ta chứ?” Susan, lại giật áo, hỏi. Parker cười hực lên, tiếng cười nghe như hơi thở rít. Ông thảy cả nắm ngô vào miệng và nhai. “Ba mươi năm làm tin hình sự”, ông nhồm nhoàm nói. “Cô sẽ biết rất nhiều luật sư.” “Đây này”, Parker nói và ra hiệu cho luật sư tới chỗ họ bằng bàn tay nhờn bơ. Luật sư ngồi xuống. Nhìn gần, anh ta già hơn đến chục tuổi. “Parker”, anh ta gật đầu nói, rồi nhìn sang Susan. Ở hai bên gọng kính của anh ta đều có chữ Prada. “Cô ta đây à?” Anh ta hỏi. “Brenda Starr[3] của chúng tôi đấy”, Parker nói, miệng vẫn còn nhai. Ông cười, hàm răng vàng nhỏ và sáng trong ánh đèn mờ của quán bar. “Bọn trẻ làm tôi ấm lòng đấy, cái cách cô ấy lao theo anh chàng của anh.” “Anh chàng của tôi”, tay luật sư nói, “là đương kim Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ.” Parker lại bốc một nắm bắp rang bơ. “Không lâu nữa đâu”, ông nói với điệu cười toe toét. Susan rít thêm một hơi thuốc và sờ tay vào máy ghi âm nhỏ kẹp trong đùi để đảm bảo nó vẫn bật. Nó rung nhẹ dưới đầu ngón tay và cô lập tức thấy bình tâm hơn. Đằng sau tay luật sư, một chàng trai trẻ đội mũ bóng chày màu đỏ vừa bước vào quán và ngồi một mình. Luật sư quẹt mồ hôi trên trán. “Vậy là tờ Người đưa tin đang cho chạy câu chuyện này?” “Thượng nghị sĩ Castle muốn bình luận ư?” Parker hỏi. Ông đưa tay lên và thả vài hạt ngô vào cái miệng đang há ra. “Ông ấy phủ nhận”, luật sư nói. Susan cười. Luật sư đẩy cặp kính Prada lên sống mũi. “Cô sẽ may mắn nếu thu được bất kì lời bình luận nào”, anh ta nói, mặt đã ửng lên. Susan hạ quyết tâm ngay tại đây và ngay lúc này rằng cô sẽ hạ bệ John Castle và lũ khốn nạn vẫn bảo vệ ông ta từng ấy năm. Người ta thần tượng Castle vì những gì ông ta đã làm cho tiểu bang. Nhưng sau ngày thứ Năm này, họ sẽ thấy rõ con người thật của ông ta, một tên hiếp dâm, một kẻ thao túng, một gã tống tiền và một kẻ lừa đảo. Cô dụi phần còn lại của điếu thuốc vào chiếc gạt tàn nhựa màu đen đặt trên bàn. “Ông ta chối hả?” Cô nói. “Ông ta ‘chơi’ người giữ trẻ và làm đủ chuyện để che giấu, bao gồm cả việc đưa tiền cho cô ta.” Cô lôi một điếu thuốc nữa ra khỏi bao và dùng bật lửa bằng nhựa để châm. Susan chỉ hút khi nào căng thẳng. Nhưng tay luật sư không biết điều đó. “Tôi đã dành hai tháng để theo đuổi chuyện này”, cô nói. “Tôi đã ghi âm cuộc phỏng vấn Molly Palmer. Tôi đã có những cuộc phỏng vấn với bạn của Molly về các thời điểm khớp với câu chuyện từ phía cô ta. Tôi có cả lịch sử giao dịch cho thấy tiền được chuyển từ hãng luật của anh tới tài khoản cô ta.” “Cô Palmer là thực tập sinh”, luật sư nói, giơ hai bàn tay ra vẻ vô tội. “Trong một mùa hè”, Susan nói. Cô kéo một hơi thuốc, dựa đầu ra sau và thả khói. Cô nhẩn nha vì biết mình đã có anh ta. “Hãng luật của anh tiếp tục trả tiền cho cô ta trong năm năm sau.” Khóe miệng luật sư nhếch lên. “Chắc là có sai sót trong giấy tờ hồ sơ ở văn phòng”, anh ta nói. Susan muốn quét nụ cười đểu khỏi mặt anh ta bằng cùi tay. Sao anh ta còn chường mặt ra chứ? Một lời chối tội qua điện thoại cũng xong. “Toàn là vớ vẩn”, cô nói. Luật sư đứng dậy và nhìn Susan một lượt. Khi ai đó có bề ngoài giống như cô, họ sẽ quen với chuyện đó, nhưng cái nhìn của anh ta khiến cô hơi bực. “Cô bao nhiêu tuổi rồi?” Anh ta hỏi Susan. “Hai mươi lăm?” Anh ta búng nhẹ vào đầu cô. “Cô nghĩ người dân của tiểu bang này sẽ để một đứa con gái tóc xanh với chương trình nghị sự gì đó hạ bệ ngài Thượng nghị sĩ được yêu mến suốt năm nhiệm kỳ ư?” Anh ta hạ mặt mình ngay trước mặt cô, gần đến nỗi cô ngửi được cả mùi nước hoa sau khi cạo râu. “Kể cả nếu cô đăng bài báo đó, nó cũng sẽ trôi tuột thôi. Và cô sẽ không đăng nó. Bởi vì nếu Người đưa tin mới chỉ ngấp nghé làm việc đó, tôi sẽ kiện cô.” Anh ta chọc một ngón tay vào Parker. “Cả ông nữa.” Anh ta đẩy kính lên lần cuối và bước lùi khỏi bàn. “Ngài Thượng nghị sĩ phủ nhận mọi cáo buộc”, anh ta nói. “Ngoài chuyện đó ra, ông ấy không có bình luận nào khác.” Anh ta quay người, đi ra cửa. “Tôi hai mươi tám tuổi”, Susan gọi với theo. “Và tóc tôi màu ngọc lam nguyên tử đấy nhé.” Parker cầm cốc whisky đưa lên miệng. “Tôi nghĩ câu chuyện tiến triển tốt”, ông nói. “Đúng”, Susan nói. “Bọn họ đang run như cầy sấy rồi.” “Tin tôi đi”, Parker nói. Ông cầm một cái tăm trên chiếc đĩa ở bàn và cậy mẩu ngô bám vào kẽ răng, xương hàm đánh qua đánh lại. Susan chưa bao giờ yêu ông hơn thế. Ông nhìn cô và nháy mắt. “Họ sợ tè ra quần rồi”, ông nói. Susan nghĩ mặt ông đỏ lên vì tự hào. Nhưng cũng có thể chỉ vì ly whisky. CHƯƠNG 3 A rchie đứng trước cửa nhà, cầm chìa khóa trong tay. Trong một năm rưỡi sau khi anh và Debbie chia tay, cô chưa bao giờ đòi lại chìa khóa nhà, và anh cũng chưa bao giờ đề nghị trả. Nó vẫn nằm nguyên trên chùm chìa khóa của anh suốt thời gian ấy, một lời nhắc nhở liên tục về thứ mà anh đã để mất. Anh chỉ là một đống hỗn độn khi cô yêu cầu anh ra đi. Anh mới ra viện được vài tháng và vẫn đang trong thời kì đen tối nhất của tiến trình hồi phục. Anh không đổ lỗi cho cô. Anh đã buộc cô phải làm như vậy. Ở một mình vẫn dễ dàng hơn. Anh lôi hộp thuốc bằng đồng ra khỏi túi quần, mở ra và lấy ba viên thuốc hình thoi màu trắng. Anh giữ chúng một lát trước khi thả vào miệng, tận hưởng vị đắng quen thuộc trước khi nuốt. Rồi anh tra chìa khóa vào ổ và đẩy cánh cửa lớn mở ra. Ngôi nhà này là kiểu nhà trang trại trần thấp từ hồi giữa thế kỉ, người chủ trước đã cải tạo lại nó. Khi họ mua ngôi nhà, Debbie đang mang thai Sara. Nó cao hơn nhiều so với mức chi trả của anh, nhưng lúc ấy Debbie vừa được thuê làm nhà thiết kế cho Nike và họ đã tiêu vung một chút. Debbie đã để sẵn một ngọn đèn, nó thả nửa quầng sáng ấm áp ngang qua tiền sảnh tối tăm. Archie tụt đôi giày lấm bùn ở cửa và đi qua chỗ cái bàn trong sảnh, thả chùm chìa khóa xuống cạnh đèn. Một bức ảnh chụp anh và Debbie cùng lũ trẻ ngồi dựa vào một cái bàn được lồng vào cái khung viền bạc. Anh có vẻ hạnh phúc, nhưng anh không nhớ nổi là khi nào và ở đâu. Anh cảm thấy Debbie sau lưng mình một giây trước khi hai cánh tay cô vòng quanh eo anh. “Chào em”, anh nói. Cô dụi má vào bả vai anh và ôm anh. “Có tệ lắm không?” “Anh từng thấy chuyện tệ hơn.” Câu nói đó treo lơ lửng trong không khí một lát. Rồi Archie quay lại và vòng hai tay quanh người cô. Mái tóc ngắn màu nâu của Debbie rối bù và cô mặc áo ba lỗ đen, quần cộc màu đỏ. Cơ thể cô vừa mềm mại vừa mạnh mẽ trong vòng tay anh. Đó là cơ thể mà anh thân thuộc không khác gì bản thân mình. “Bọn trẻ ổn chứ?” Anh hỏi. Cô nép vào và hôn nhẹ lên cổ anh, chỗ dưới xương hàm. “Bọn nhóc ngủ khì từ đời nào rồi”, cô nói. Archie giơ một tay lên má Debbie và nhìn vào khuôn mặt cô, tốt bụng và cởi mở, gò má mạnh mẽ, sống mũi thon dài, chút tàn nhang trên má. Và rồi, một thoáng tóc vàng, mùi tử đinh hương, và ả lại ở đó: Gretchen Lowell luôn lảng vảng bên rìa nhận thức của anh. Archie nhăn mặt. Anh có thể cảm nhận người Debbie cứng lại dưới tay anh. “Có phải cô ta không?” Cô hỏi. Anh hắng giọng và lắc hình ảnh ấy ra khỏi đầu. Tay anh rơi khỏi má cô. “Anh nên đi ngủ một lát.” Anh lại muốn móc thuốc từ trong túi, uống thêm một viên nữa, nhưng anh không muốn làm việc đó trước mặt Debbie. Việc ấy làm cô đau đớn quá. “Không gặp cô ta khó khăn lắm à?” Debbie hỏi. Đôi khi Archie tự hỏi Debbie biết đến đâu về mối quan hệ của anh với Gretchen. Debbie biết rằng Gretchen ám ảnh anh. Thậm chí cô có thể dùng từ “anh bị ám”. Nhưng anh không nghĩ Debbie biết mình đã vượt qua lằn ranh xa đến đâu. “Chúng ta đã nói là sẽ không nhắc đến chuyện này nữa mà”, Archie khẽ nói. Debbie xoay người Archie lại, đối diện cái gương treo trên tường đằng sau bàn. “Nhìn xem”, cô nói, và thò hai tay xuống dưới vạt áo sơ mi của anh, đẩy nó lên ngực và giữ nó ở đó. Archie do dự rồi nhìn vào hình ảnh phản chiếu của họ. Vợ cũ đứng sát người anh, đầu cô gục lên vai anh, cặp mắt đen sáng lên. Mặt anh có vẻ nhăn nheo, bị khuất bóng một nửa do ánh đèn, chiếc mũi dài và khóe miệng lệch, mái tóc dày và cặp mắt buồn bã, mỗi đường nét lại mang một đặc điểm của một vị tổ tiên nào đó, người Ai len đen, Croatia, người Do Thái. Anh cho phép mình nở nụ cười méo xệch. Đến cả nguồn gene của anh cũng khác người. Debbie lần một bàn tay xuống bụng anh và chạm vào vết sẹo dài bên trên cơ hoành, nơi người ta đã cắt bỏ lá lách. Đó là vết sẹo sâu nhất, một đường cắt xấu xí dài hơn mười lăm phân, những vệt trắng của chỉ khâu vẫn còn lộ rõ, khiến nó đặc biệt giống dáng dấp những vết sẹo của Frankenstein. Mô tế bào chỗ vết sẹo rất cứng, và anh gần như không cảm nhận được đầu ngón tay Debbie chạm qua nó. Cô lại di chuyển đến mấy vết sẹo nhỏ hơn trên ngực anh. Những vết thương ngày càng đỡ hơn, con dao mổ đã được ấn mạnh vào da anh để giết thời gian hơn là gây đau đớn. Trông chúng như những lưỡi cỏ màu bạc, vết nọ gần bằng vết kia, như những dấu ấn đậm nét của một tấm thẻ ghi điểm. “Bọn anh đã có một thỏa thuận”, Archie nói. “Đổi thành án chung thân để lấy vị trí các nạn nhân của cô ta. Cô ta đã giữ lời. Chính anh là người không thể xử lý nổi chuyện này. Cô ta không chịu nói chuyện với ai khác, Debbie. Hãy nghĩ đến những nạn nhân cô ta đã giết. Nghĩ đến gia đình họ.” Đó là câu chuyện mà anh đã nói đi nói lại với bản thân suốt hai năm trời phải tới gặp Gretchen Lowell mỗi tuần. Anh đã phải nỗ lực hết mình thuyết phục bản thân rằng anh chỉ đang làm việc. Anh không còn tin vào nó nữa. Anh tự hỏi Debbie có tin nổi không. Debbie nói. “Anh là nạn nhân cuối cùng, Archie. Và anh vẫn còn sống.” Cô đưa tay lên một vết sẹo khác, dưới núm ngực trái của anh, một hình trái tim. Gretchen Lowell xăm một trái tim trên tất cả các nạn nhân của mình. Đó là chữ ký. Nhưng những nạn nhân khác của ả chỉ còn là những thi thể, những trái tim đẫm máu bị hoại tử và bị những trò tra tấn che mất. Với tư cách là Đội trưởng Đội Đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng, Archie đã đứng bên trên hình hài bọn họ, nhìn đăm đăm vào các ảnh chụp trong nhà xác, và chỉ chậm chân hơn ả một bước suốt một thập kỷ. Cho đến khi anh bước vào cái bẫy do Gretchen bày ra. Ả đã xâm nhập vào Đội đặc nhiệm sáu tuần trước khi tiết lộ cho anh biết trong cái đêm ả đánh thuốc anh. Họ đã tưởng ả là một chuyên gia tâm thần học đang giúp đỡ họ bằng ý kiến chuyên môn. Giờ đây anh tự hỏi mình có quá vội tin tưởng ả đến thế nếu như ả không xinh đẹp nhường ấy. Vết sẹo hình trái tim vẫn còn nhạy cảm, lớp thịt mới có màu nhạt hơn. Vết sẹo xinh xẻo nhất của anh. Hàng tháng trời, anh không dám nhìn vào nó. Bây giờ nó gần như là một phần thân thể anh, chẳng khác nào trái tim đang đập bên dưới nó. Ngón tay Debbie lần theo nó và Archie cảm nhận một chút nhoi nhói trong hệ thần kinh của mình. Anh đưa tay lên nắm cổ tay cô. “Đừng”, anh nói. Debbie dúi mặt vào vai anh. “Cô ta đang giết dần giết mòn anh”, cô nói, giọng nhỏ nhẹ và bị nghẹt trong lớp vải. “Cô ta đang giết dần chúng ta.” Giọng Archie chỉ hơn tiếng thì thào một chút, “Anh yêu em”, anh nói. Và anh thực sự có ý đó. Anh yêu cô và các con của họ hơn bất kì điều gì. Anh yêu họ tuyệt đối, và điều đó vẫn không đủ. “Anh chỉ không thể quên nổi cô ta.” Debbie nhìn xoáy vào hình ảnh phản chiếu của Archie. “Em sẽ không để cô ta chiến thắng.” Điều đó làm trái tim anh tan vỡ. Không phải vì cô lo lắng rằng anh đang gặp nguy hiểm, mà vì cô vẫn nghĩ có thể cứu được anh. Dù trò chơi của anh và Gretchen quái gở thế nào, nó vẫn là trò chơi giữa hai người. Gretchen không quan tâm đến Debbie bởi vì ả biết rằng Debbie không phải là nguy cơ. “Đây có phải là cuộc thi đâu.” Điều anh không nói là, ả đã thắng mất rồi. Debbie nhìn anh thêm một phút mà không nói gì. Rồi cô chậm rãi hôn lên má anh một cách ngọt ngào. “Thức thêm một lúc nữa nhé”, cô nói. “Cùng xem tivi chẳng hạn.” Archie mừng vì được đổi chủ đề. “Như những cặp đã kết hôn”, anh nói. Debbie cười, “Ừ.” Giả vờ bình thường. Đó là điều mà Archie làm rất giỏi. “Anh sẽ đóng vai ông chồng”, anh nói. Anh đi theo cô vào phòng khách, ngay khi những viên thuốc bung ra và chất codein[4] trào khắp cơ thể. Như một nụ hôn, nó mềm mại và ấm áp, đầy hứa hẹn. CHƯƠNG 4 S usan ngồi trên sàn nhà, chưa mặc quần áo, trước cái quạt bàn, gai ốc cô nổi lên mỗi lần hơi ấm của quạt thổi vào. Cô đã tắm nước lạnh và mái tóc xanh lam đang ướt nhẹp, chải ép sát vào đầu. Cô vừa mới chuyển màu tóc từ hồng sang xanh hai ngày trước, và da đầu vẫn còn xót vì thuốc nhuộm. Chuyện đó, cộng với thời tiết ba mươi lăm độ trên tầng hai trong một căn nhà chật chội từ thời Victoria, khiến cô không tài nào ngủ nổi. Tắm nước lạnh giúp ích đôi chút. Cô đã rũ được mùi khói thuốc khỏi mái tóc. Mặc dù vì lí do gì đó mà mùi bắp rang bơ của Parker thì không thể rửa trôi được. Cô nhìn chằm chằm vào chiếc laptop màu trắng nằm trên sàn nhà bên cạnh mình. Bản thảo cuối cùng của câu chuyện về Molly Palmer sắp được in ra ngày hôm sau. Lão khốn cuối cùng cũng sẽ nhận được thứ lão đáng phải nhận. Cánh cửa dẫn vào phòng hé mở. “Mẹ!” Susan kêu lên. Bà Bliss, mẹ của Susan, có vẻ giật mình. Những lọn tóc nhuộm dài của bà được quấn cao trên đỉnh đầu; chiếc áo dài caftan[5] khẽ phất phơ quanh cơ thể dẻo dai nhờ yoga. Bà bê một ấm trà kiểu Nhật trên cái khay liễu đan. “Mẹ chỉ mang trà bạc hà cho con thôi mà”, bà nói. Susan lùa tay qua mái tóc ướt và kéo đầu gối sát ngực để che thân hình mình. Trong khi bà mẹ đã năm mươi nhưng mang dáng dấp của một cô gái ba mươi, còn Susan hai mươi tám nhưng lại có cơ thể của cô bé mười lăm tuổi. “Mẹ gõ cửa được không ạ? Con không muốn uống trà. Trời cứ như là bốn mươi độ thế này.” “Mẹ đặt nó ở đây nhé”, bà Bliss nói, cúi xuống đặt khay lên sàn. Bà nhìn lên Susan. “Con vừa mới ăn bắp rang bơ đấy à?” Bà hỏi. Susan đã chuyển về sống với mẹ. Đây không phải là cách Susan kể chuyện với bất kì ai chịu lắng nghe. Với bất kỳ ai nghe chuyện, cô giải thích là cô chỉ đang ở tạm chỗ mẹ. “Ở tạm” là một từ chủ động, ám chỉ tình trạng nhất thời. Thực ra cô đang “ở tạm” căn phòng cũ của mình. Nó đã là phòng của Susan mười năm về trước. Nhưng bà Bliss đã biến nó thành phòng thiền chỉ hai phút sau khi Susan bước chân ra khỏi cửa để đi học đại học. Các bức tường được sơn màu quả quýt, rèm Ấn Độ đính hạt cườm màu bạc treo trên cửa sổ, và chiếu tatami trải khắp sàn. Trong phòng không có lấy một cái giường, hay bất kì đồ đạc nào khác, nhưng Bliss đã đoán trước tương lai mà treo một cái võng, để phòng có lúc cần phòng ngủ cho khách. Khi Susan gợi ý là cô có thể mua một cái đệm hơi, hoặc một cái futon[6], Bliss đã giải thích rằng một phần tư dân số thế giới vẫn nằm trên võng như thế nào, và cái võng cụ thể này lại là phiên bản móc ba chính hiệu tận Yucatán[7], chứ không phải loại rác rưởi móc đơn người ta vẫn treo ở sân sau. Susan biết tốt hơn là không nên tranh cãi với mẹ. Nhưng cô vẫn chưa thể xoay người mà không bị đau dữ dội ở bả vai kể từ đêm đầu tiên nằm trên cái võng khốn kiếp ấy, dù có móc ba hay là gì. Căn phòng có mùi ngọt và nồng như của một trăm cây nhang Trung Quốc. Nó càng tệ hơn trong thời tiết nóng nực, và dù có mở cửa sổ ra thì không khí trên tầng hai căn nhà Victoria này cũng rất ngột ngạt, cứ như bộ quần áo quá chật vậy. Ít nhất cái võng còn thoáng lưng. Susan tự nhủ sẽ tìm một căn hộ sau khi kết thúc bài báo về mối quan hệ giữa Thượng nghị sĩ và Molly Palmer. Ngay bây giờ, câu chuyện đó phải là ưu tiên hàng đầu. Cô không thể phí hoài thời gian vào việc tìm kiếm chỗ cho thuê nhà và đi xem các căn hộ được. Câu chuyện đó phải được ưu tiên trên hết. Cô quay sang chiếc laptop và bật nó lên. Câu chuyện lại sáng trắng trên màn hình xanh nhạt. Con trỏ chuột đang nhấp nháy. Cô bắt đầu gõ. Cô thà chết còn hơn kể cho ai biết sự thật: rằng cô sợ phải ở một mình. Rằng cô vẫn còn cảm nhận áp lực của chiếc thắt lưng quanh cổ mình. Rằng cô vẫn nằm mơ về Kẻ bóp cổ sau giờ học. Cô điền mục “không bình luận” của Castle vào đoạn hai của câu chuyện và cười. Trước đây không lâu cô vẫn còn làm các bài luận cá nhân và những chuyên mục dễ thương về lễ hội cá hồi và các chương trình đốn gỗ. Rất nhiều chuyện đã thay đổi trong chín tuần qua, kể từ khi cô được phân công câu chuyện kể về Thanh tra Archie Sheridan, trong lúc anh săn lùng Kẻ bóp cổ. Cô đã thay đổi. Cô đã nghĩ đến việc gọi cho Archie cả chục lần trong hai tháng qua. Nhưng cô chưa từng làm thế. Không có lí do gì để gọi. Chuỗi bài về anh đã được đăng. Anh có gửi một tin nhắn tử tế sau bài cuối viết về Kẻ bóp cổ, và chúc cô những điều tốt nhất đẹp nhất. Không có lời mời uống cà phê. Cũng không có “hãy giữ liên lạc nhé”. Cô cho là tâm trí anh còn mải với những việc to tát hơn. Như vậy là tốt nhất. Đừng phải lòng những người đàn ông lớn tuổi, và đã có vợ. Đây là luật mới của cô. Còn Archie Sheridan ư? Hơn cô mười hai tuổi, vẫn còn yêu vợ cũ. Đúng tuýp người cô thích, do đó hoàn toàn nằm ngoài tầm với. Hơn nữa, cô còn có việc phải làm. Cô tập trung sự chú ý vào màn hình trước mặt. Ưu tiên hiện nay của cô là lột mặt nạ gã Thượng nghị sĩ Castle đốn mạt. Tòa soạn đã chiến đấu với cô từng khúc một, bác bỏ toàn bộ câu chuyện như một lời đồn đã cũ. Cho đến khi Susan tìm được Molly. Đã có nhiều đồn đại về cái gọi là sự lăng nhăng của ngài nghị sĩ nhiều năm nay. Và vài phóng viên thậm chí còn thử tìm kiếm Molly. Molly từ chối nói chuyện với bất kì ai trong số họ. Nhưng cô ta và Susan có một điểm chung nào đó. Hồi nhỏ họ đều gặp phải chuyện khốn khổ khiến họ trở nên ngờ nghệch với đàn ông. Với Susan, chuyện ấy đã dẫn cô tới những gã bạn trai tồi, ma túy, nếu tính cả cỏ marijuana, mà ở Portland, Oregon này thì không ai tính cả, và thể loại phô trương tồi tệ nhất, nghề làm báo tự thuật. Molly còn tệ hơn Susan trên mọi mặt trận. Susan nghĩ, có thể họ sẽ giúp nhau tìm lối ra khỏi khu rừng. Hay ít nhất là bớt chán ghét chuyện đó. Susan vươn tay cầm cốc trà mẹ cô để lại và chạm vật dụng từ đất ấy lên môi. Nhưng nó vẫn còn quá nóng, không uống nổi. Sáng sớm hôm đó, Susan ý thức được tiếng chuông điện thoại bàn. Mẹ cô vẫn dùng chiếc điện thoại từ hồi Susan còn nhỏ, một cái màu đỏ có trục quay số treo trên tường nhà bếp và sợi dây nối rối rắm đến nỗi bạn chỉ có thể nhấc ống nghe cách cái đế vài phân. Nó có tiếng chuông to đùng mà bà Bliss rất thích, vì bà có thể nghe thấy nó từ tận sân sau trong lúc đang đảo các đống phân bón hay đang vắt sữa dê. Còn tại sao bà Bliss quan tâm đến chuyện nghe thấy nó thì Susan không biết, bởi vì mẹ cô gần như không bao giờ trả lời điện thoại. Nên Susan rất ngạc nhiên khi điện thoại ngừng đổ chuông sau vài hồi. Cô lăn mình - một động tác phức tạp làm cho chiếc võng lắc dữ dội - và trong vài phút đã đưa cô trở lại giấc ngủ. Cô không chắc bao nhiêu thời gian đã trôi qua, nhưng cô cảm thấy mẹ đang ở cạnh mình. Cô ngọ nguậy và cố kéo cái chăn phủ lên đầu. Cô có thể nghe thấy tiếng xe tải gom rác tái chế ở trước nhà, nên cô biết lúc này tầm 7 giờ sáng. Chiếc thùng nhựa đựng lọ và bình thủy tinh va quẹt trên lòng xe bằng thép dày. Đó là một âm thanh kinh khủng, ghê gớm, như thể ai đó đang đập vỡ kính chắn gió của xe ô tô vậy. Susan không bao giờ quen với nó. “Gõ cửa”, cô nói với mẹ. “Nhớ không mẹ?” Mẹ cô ấn nhẹ bàn tay lên cánh tay cô. Cái võng đung đưa. Có cái gì đó ở cú chạm cho cô biết là có chuyện không hay. Nó quá chắc chắn, quá chính xác. Cô chống cùi tay ngồi dậy, thọc ngón tay vào lỗ đan của cái võng để giữ thăng bằng. Khuôn mặt bà Bliss đau đớn. Ai đó đã chết. Trái tim Susan dộng trong lồng ngực. Ai? Susan nghĩ về chàng phóng viên chuyên viết về thành phố mà cô từng hẹn hò vào hai tháng trước. “Derek ư?” Cô hỏi. Bliss vuốt một bên tóc Susan. “Là Parker, con yêu”, bà nói. “Và Thượng nghị sĩ Castle. Họ đang ở trong một chiếc xe. Nó đã lao ra khỏi cầu Fremont sáng nay.” Susan ra khỏi chiếc võng, rơi xuống sàn nhà lót chiếu tatami. “Cái gì cơ?” Bliss ngồi xổm, đối diện với Susan, khuôn mặt bà buồn bã. “Cả hai đều đã chết, con yêu.” “Cái gì?” Susan lại hỏi, giọng cô khẽ như một tiếng thì thầm. “Ian vừa gọi từ tòa soạn”, bà Bliss khẽ nói. “Họ chết rồi.” Parker. Susan bắt đầu quá trình tự thu nhỏ vào trong. Chỉ trong chớp mắt, cô lại là cô bé mười bốn tuổi và đang ở trong phòng bệnh cùng bố, bất lực, cô đơn, giận dữ. Cô gạt sự bất lực và cô đơn sang một bên, để cho cơn giận chiếm lấy. “Ông ta chết thật rồi ư?” Cô hỏi. “Lão Thượng nghị sĩ khốn kiếp chết trước khi câu chuyện của con lên báo? Con đã bỏ ra hai tháng vì nó.” Cô có thể cảm nhận mặt mình đỏ lên, một cảm giác nhoi nhói dâng trong lồng ngực. Không phải Parker, cô nghĩ. Làm ơn, đừng là Parker. “Hai tháng trời.” Bà Bliss chỉ ngồi nhón trên gót chân mình, trên tấm chiếu tatami, chờ đợi. Susan sụt sà sụt sịt. “Parker chết rồi ư?” Cô hỏi, giọng nhỏ xíu. Mẹ cô gật đầu. Chuyện này không có lí gì cả. Parker làm gì trong xe cùng với Castle chứ? Sai rồi. Cô nhìn lên bà Bliss. Đây không phải là một sai lầm. Mặt cô nhăn lại. “Chết tiệt.” Cô nhắm tịt mắt một lát, cố thu lại những giọt lệ nóng bỏng sắp trào ra, rồi cô đứng lên và bắt đầu lục thùng các tông đựng quần áo nằm ở góc nhà. “Con làm gì thế?” Bliss hỏi. Susan tìm được một chiếc váy thun dài màu đen và mặc nó vào người. “Con sẽ tới đó.” “Tới tòa soạn à?” Bà Bliss hỏi. “Tới cầu. Con sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra.” Cô moi điện thoại ra khỏi túi xách và bắt đầu bấm số. Bliss đứng dậy, vạt váy thun của bà phất phơ trong gió quạt. “Con đang gọi cho ai thế?” Susan quệt nước mắt trên má bằng mu bàn tay và đưa điện thoại lên tai. “Archie Sheridan?” Cô hỏi. Cô chạm vào tóc, đưa một lọn tóc xanh lên mũi. Mùi bắp rang bơ đã biến mất. CHƯƠNG 5 A rchie đứng trên cầu Fremont. Đây là cây cầu mới trẻ nhất trong số mười cây cầu của Portland, một đường cao tốc bằng bê tông hai tầng, bốn làn xe, xây từ những năm 70 và lượn vòng bên trên Williamette, nối hai bờ Đông và Tây của thành phố. Hầu hết người Portland đều thừa nhận mình yêu thích một trong mười cây cầu: Hawthorne, Steel hay St. Johns. Ít người nhắc tới Fremont. Nó không sang trọng mà chỉ thực dụng; lớp sơn màu xanh nhạt đã bong tróc khỏi bê tông xám, như da bị bở ra sau khi cháy nắng. Nhưng Archie luôn yêu thích nó. Nếu bạn lái xe về phía Tây, nơi này cho tầm nhìn tốt nhất về thành phố, viễn cảnh phía Bắc và Nam thoáng tầm mắt, còn ngay trước mặt là đường chân trời lấp lánh của khu trung tâm, những ngọn đồi xanh rì phía Tây, dòng sông lười biếng uốn lượn lên phương Bắc, tất cả tắm mình trong ánh sáng hồng. Portland đôi lúc có thể quá xinh đẹp đến nỗi Archie nghĩ rằng trái tim mình sẽ ngừng đập chỉ vì nhìn ngắm nó. “Xấu nhỉ?” Một giọng vang lên sau lưng anh. Archie quay một phần tư bước và thấy Raul Sanchez. Anh ta là người chắc nịch với bộ ria xám gọn gàng, hai cánh tay khỏe mạnh và khuôn mặt như thể đã được đẽo từ gỗ trôi dạt. Anh ta đội chiếc mũ bóng chày màu xanh đen có chữ FBI màu trắng, cái áo gió cũng có dòng chữ FBI nhỏ màu trắng trên ngực và chữ lớn đằng sau lưng. “Xin lỗi”, Archie hỏi. “Anh làm bên FBI à?” Sanchez mỉm cười. “Họ thích chúng tôi tự xưng danh”, anh ta nói, trọng âm Mexico tinh tế uốn quanh các phụ âm. “Để người dân không nhầm chúng tôi với CIA.” Anh ta bước đến bên cạnh Archie. Đằng sau họ, cả bãi xe toàn là xe cứu thương đang đậu trên cây cầu đã bị chặn, đèn hiệu lấp lóe đỏ, trắng, xanh và cam. “Nhìn kìa”, Sanchez nói, hếch cằm về phía những ngọn đèn đỏ nhấp nháy trên tháp thu phát sóng di động, trông chúng như những ngọn nến sinh Ở nhật nhô lên từ ngọn đồi phía Tây. Ở đó còn có những cần trục xây dựng cao lớn đánh dấu khu vực bùng nổ các dự án chung cư và các tòa nhà đa chức năng. “Chỉ mười năm nữa, nó sẽ giống L.A.” Anh ta cười tinh quái với Archie. “Mấy người California sẽ tràn vào bang chúng ta. Anh biết bọn họ lười thế nào không. Họ còn chẳng thèm tự cắt cỏ nhà mình.” “Tôi có nghe chuyện đó”, Archie nói. Sanchez thọc hai tay vào túi quần và rung rung người trên hai gót chân đi ủng cao bồi. “Đã lâu không có cái xe nào lao qua thành cầu”, anh nói. Ánh đèn màu từ các loại xe cấp cứu khúc xạ trên tường xi măng sau lưng anh, trông như anh đang đứng trên sàn nhảy disco. “Hai vụ trong mười năm”, Archie nói. “Một vụ tự tử trên cầu Marquam. Một chiếc thủy phi cơ trên cầu Morrison.” Sanchez nhìn lên bầu trời trong vắt buổi sáng. “Chà, vụ này thì không phải là thủy phi cơ”, anh ta nói. Archie cũng nhìn lên. Một đám trực thăng đưa tin đang lảng vảng trên đầu như những con quạ vờn quanh thứ gì sắp chết trong rừng. “Phải”, anh nói. Anh biết điều Sanchez đang nghĩ. Lái một chiếc xe lao qua thành cầu không đơn giản như bên ngoài nhìn vào. Bạn phải đánh bại nỗ lực của hàng chục khoảng cách an toàn của khoa học công trình: rào chắn xi măng cao chín mươi phân, một hàng rào mắt cáo. Bạn phải cực kỳ xui xẻo; hoặc là rất cố gắng. Claire xuất hiện bên cạnh anh. Cô mặc quần bò và áo thun có ảnh chú chó bull trên ngực. Mái tóc ngắn của cô nhét gọn trong mũ lưỡi trai của ngư dân Hy Lạp. “Susan Ward đang ở đây”, cô nói. “Cô ấy bảo là đã gọi cho anh.” Archie quay sang và nheo mắt nhìn phía Đông cây cầu, nơi cánh phóng viên mỗi lúc một đông đang bị dây bảo vệ hiện trường và đội cảnh sát đi xe máy ngăn lại. “Họ lôi chiếc xe lên chưa?” Archie hỏi Claire. “Sắp rồi”, cô nói. “Dưới đó có đến cả trăm năm rác rưởi mà các thợ lặn phải dọn dẹp.” “À, dòng Willamette tinh khôi”, Sanchez nói. Cứ như một sở thú vậy ki-lô-mét. Susan chưa từng thấy điều gì như thế này, có lẽ là trừ Hội chợ đồng quê vùng Oregon bên ngoài Eugene. Hội chợ ấy có 1,1 ki-lô-mét vuông toàn dân hippy, vũ công lửa và quầy bánh rán falafel[8], còn nơi đây là một đám cảnh sát, báo chí và người đứng xem. Nhưng những người ở đây cũng có cùng cái nhìn háo hức như thế. Cứ như thể họ đang ở một nơi đặc biệt. Susan đã đỗ xe cách lối rẽ từ cầu ra phố Kerby bảy dãy nhà và đi bộ. Cô đeo tấm thẻ Người đưa tin trên sợi dây quanh cổ và dùng tài ăn nói để vượt qua ba trạm kiểm soát khác của cảnh sát. Đi bộ trên cầu làm cho cô luống cuống. Không giống như hầu hết những cây cầu khác ở Portland, Fremont cấm khách đi bộ, chỉ trừ một dịp duy nhất mỗi năm, khi thành phố cho phép vài ngàn người Portland đạp xe qua. Hiển nhiên Susan quên mất ngày đạp xe trên cầu là ngày nào và luôn bị kẹt giữa dòng xe cộ, chính vì thế, lúc này cô đã thấy được sức hấp dẫn của nó. Có điều gì đó huyền ảo khi ở bên trên thành phố từng này mét. Rồi cô nghĩ đến những giây dài dằng dặc khi chiếc ô tô của Thượng nghị sĩ rơi tự do và nắm tay cô siết lại. Parker đã chết. Giờ cô phải cứng cỏi lên. Cô phải làm điều gì đó đối ngược với mọi bản năng phóng viên mà cô có: mạo hiểm cả đặc quyền nghề nghiệp của mình. Cô phải nói cho Archie Sheridan biết điều mình biết. Cô thúc khuỷu tay để dẹp đường qua chỗ các đội truyền hình, ai nấy đều mong chụp cận cảnh với dàn xe cấp cứu ấn tượng phía sau. Claire đã trông thấy cô và bảo sẽ đi tìm Archie cho cô. Nhưng hiện trường đông người đến nỗi một khi Claire mất dạng trong đám đông mặc đồng phục, Susan đã lập tức mất dấu cô ấy. Vậy là cô chờ trong lúc theo dõi cảnh sát, nghe lỏm các phóng viên khác, thu thập tất cả những thông tin có thể. Cô không nghe được mấy. Không có nhiều tiến triển cho lắm. Rồi cô nhận ra: không có vết trượt bánh. Ở đây có quá nhiều người, quá đông xe; nếu trên đường đã có vết trượt bánh thì hẳn là họ phải giăng dây bảo vệ rồi. Toàn đội khám nghiệm hiện trường đã phải bu vào những vết trượt ấy. Không hề có vết trượt bánh. Không phanh. Lúc ấy cô trông thấy Archie và đứng thẳng dậy. Anh xuất hiện từ sau xe cảnh sát, hai tay thọc trong túi áo khoác thể thao, vai so lại chống cái rét sáng sớm. Mái tóc nâu của anh dày dặn, nhưng khi anh tiến lại gần, Susan có thể trông thấy vài lọn xám mà lần gặp trước không có, mới cách đây hai tháng. “Tôi rất tiếc”, Archie nói khi tới chỗ cô. “Tôi biết cô và Parker từng thân thiết.” Susan cảm thấy một cơn nghẹn ngào đen tối ở cổ họng và nuốt trôi nó xuống. “Chuyện gì đã xảy ra?” Cô hỏi. Archie nhấc tấm băng lên và Susan chúi người bên dưới, đi theo Archie trong lúc nói chuyện. “Chuyện xảy ra vào khoảng 5 giờ sáng nay”, anh giải thích. “Chiếc xe đang phóng nhanh và mất lái bay ra khỏi cầu ở đúng khúc này.” Anh chỉ vào chỗ có một mảng trống lớn trên rào chắn bê tông, bộ khung thép lộ ra trông như khúc xương của một cấu trúc phức hợp. Một khoảng rào mắt cáo chừng ba mét đã bị gãy và treo lủng lẳng một bên. “Hai tài xế đã dừng xe và gọi 911.” Đội Tìm kiếm cứu nạn đã xuống đó trong 7 phút.” Hai người dừng ở mép cầu và nhìn đăm đăm xuống chiếc xuồng lớn của cảnh sát cùng hai chiếc thuyền nhỏ của đội tìm kiếm cứu nạn đang bập bềnh ở đoạn sông bên dưới; một vệt xăng loang màu cầu vồng tỏa ra trên mặt nước, đánh dấu chỗ ô tô đã lao xuống. “Nhưng cả hai đều đã chết”, Archie nói tiếp. “Thượng nghị sĩ và Parker. Họ đã lôi các thi thể ra cách đây khoảng một tiếng.” Anh quay sang nhìn Susan và nhướng một bên lông mày. “Đây là xe của Parker, Susan ạ. Cô có biết phóng viên hình sự của tờ Người đưa tin đang làm gì khi lái xe đưa ngài Thượng nghị sĩ cấp cao của bang chúng ta đi loanh quanh lúc rạng đông không?” Bụng Susan nhói lên. Tại sao Parker không kể với cô là ông sắp gặp Castle? Không có vết bánh xe trượt. Lạy Chúa. “Susan?” Archie hỏi, giọng hơi cảnh giác. “Cô cần phải cho tôi biết ngay.” Susan nhìn quanh đám cảnh sát và phóng viên, không ai trong số họ có vẻ đang làm việc gì cụ thể. “Có chỗ nào riêng tư không”, cô nói với Archie. Archie nhướng hai bên lông mày rồi chỉ cho cô theo anh và dẫn cô đi qua hai chiếc xe tuần tra, hai xe tải của cảnh sát, tới một chiếc Crown Victoria màu xanh đen, trong đó đồng sự của Archie là Henry Sobol đang ngồi ở ghế lái, hí hoáy viết lên một cuốn sổ. Cửa tài xế mở ra, Archie cúi vào và nói, “Tôi cần dùng xe.” Henry ngước lên, mỉm cười khi trông thấy Susan. “Cô Ward”, anh nói. “Cô vừa đổi màu tóc đấy à!” “Màu này gọi là ngọc lam nguyên tử”, Susan nói. “Tôi đã cân nhắc Khu rừng phép thuật nhưng nó có vẻ hơi ăn chơi quá.” “Cô nói đúng”, Henry nói và trèo ra khỏi xe. Anh móc ngón tay cái sau lưng quần, trên chiếc thắt lưng màu xanh lam và bạc. “Ngọc lam trông chuyên nghiệp hơn.” Anh không hỏi tại sao họ lại cần xe. Archie mở cửa sau và giữ cho Susan lúc cô trượt lên chiếc ghế bọc da giả màu xanh hải quân ấm áp của chiếc Crown Vic. Rồi Archie cũng chui vào ngồi bên cạnh và đóng cửa lại. “Ông ấy bị chết đuối à?” Susan hỏi. “Có vẻ như vậy”, Archie nói nhẹ nhàng. Chiếc ô tô bị chìm rất nhanh. Khóa điện. Họ không thể thoát ra.” Susan xoắn một lọn tóc xanh thành đoạn thừng căng. “Tôi cần giữ chuyện này cho hai ta thôi.” Archie nhìn cô một lát. “Tôi không thể hứa chuyện đó. Đây không phải vụ án của tôi. Nó là của FBI. Thậm chí không phải FBI ở đây. Nếu cô kể cho tôi nghe điều gì đó mà tôi nghĩ là có liên quan đến vụ án, tôi buộc phải chia sẻ thông tin.” Susan nói toẹt tất cả liền một mạch. “Thượng nghị sĩ Castle gian díu với cô trông trẻ. Mười năm trước, cô ta còn vị thành niên. Sau đó ông ta bày binh bố trận để che giấu.” “Còn vị thành niên ư?” Archie nói. “Tôi tưởng cô ta lớn hơn thế.” Susan chưng hửng. “Anh biết về Molly Palmer à?” Archie nhún vai. “Tôi không biết tên cô ta. Nhưng đã nghe nhiều lời đồn.” Susan biết trước đây đã có những lời đồn đại, hàng năm trời. Nhưng không ai tin, hoặc không ai muốn tin, bởi những đồn thổi ấy chưa từng xuất hiện trên báo. Nhưng cô không hề biết là cảnh sát cũng đã biết chuyện đó. “Và cảnh sát không bao giờ điều tra ư?” Cô hỏi. “Người ta đã luôn đảm bảo với tôi rằng đó không phải là sự thật”, Archie nói. Susan ngúng nguẩy bàn chân ra khỏi đôi xăng đan rồi khoanh chân dưới váy sau khi đã ý tứ xếp lại. “À, thật ra là đúng đấy. Tôi có cả núi bằng chứng, bao gồm cả Molly Palmer. Họ đã trả tiền cho cô ta. Họ đã trả tiền để một đứa trẻ vị thành niên giữ im lặng.” Cô kéo chiếc thẻ Người đưa tin của mình. “Bài báo đã được lên lịch in sau hai ngày nữa. Parker và tôi đã gặp luật sư của Castle ngày hôm qua để hỏi ông ta có bình luận gì không. Ông ta không bình luận gì.” “Cô nghĩ Parker đã gặp lại ngài Thượng nghị sĩ à?” Archie hỏi. “Tôi không biết”, Susan nói. “Có thể. Có thể Thượng nghị sĩ rốt cuộc đã chịu bình luận. Nhưng không đời nào có chuyện hai người đó ở trong cùng một chiếc xe mà không liên quan đến câu chuyện Molly Palmer.” Archie tự gật đầu một phút rồi quay trở lại với cô. “Cảm ơn cô”, anh nói. “Thông tin hữu ích đấy.” Susan thấy mặt mình nóng lên. “Không có gì.” Henry gõ cửa xe, làm Susan giật thót. Henry vẫy ngón tay về phía cô rồi chỉ vào Archie, sau đó chỉ vào đồng hồ của anh ta. Archie trông thấy và gật đầu, một cử chỉ rất khẽ, gần như không thấy được. Susan cũng liếc đồng hồ của mình. Đã gần 8 giờ rưỡi. “Salem?” Cô hỏi. Cô đã xem Archie và Gretchen trong một buổi gặp gỡ hàng tuần của họ. Nó vẫn ám ảnh cô. Archie bóp gáy và nhăn mặt, giống như anh bỗng bị đau ở đâu đó. “Tôi không còn xuống đó nữa”, anh nói. Susan giật mình. “Thật ư?” Mặt Archie không có chút biểu cảm nào. “Chúng tôi đang tạm thời nghỉ ngơi”, anh giải thích. Đó là kiểu bạn vẫn mô tả về một khoảng thời gian thử chia tay, chứ không phải một cuộc điều tra án mạng đang tiếp diễn. Chúng tôi tạm thời nghỉ ngơi. Gặp gỡ những người khác. Khám phá các lựa chọn của mình. Gretchen Lowell. Mỹ nhân đoạt mạng. Nữ hoàng Ma quỷ. Susan mới gặp ả một lần. Tóc vàng. Da trắng sứ. Ngoài đời ả thậm chí còn đẹp hơn trong tất cả các bức ảnh. Susan mới mười sáu tuổi khi họ phát hiện ra nạn nhân đầu tiên của Mỹ nhân đoạt mạng, và đến bây giờ Gretchen Lowell vẫn làm cô có cảm giác mình ở tầm tuổi đó. Hồi ấy, gần như ngày nào cũng có các bài báo, hầu hết được Quentin Parker viết. Đó là lần đầu tiên Susan biết đến Archie Sheridan, qua một bức ảnh trên báo, đứng đằng sau chiếc bục trong buổi họp báo hoặc đứng cạnh một thi thể mới nào đó. “Tôi đã không gặp cô ta”, Archie nói. “Kể từ sau vụ Kẻ bóp cổ sau giờ học.” Một cơn rùng mình bất giác làm lông trên cánh tay Susan dựng lên. Cô đổi đề tài. “Tôi nghe nói anh đã quay về với gia đình”, cô nói. Archie mỉm cười và nhặt thứ gì đó ở ống quần lên. “Chúng tôi đang cố gắng”, anh nói bằng giọng dịu dàng. Susan cười. “Tốt lắm. Rất tốt.” Họ ngồi đó một lát, hoàn toàn im lặng với vẻ kì quặc. Ít nhất với Susan là kì quặc. Archie có vẻ không sao. Nhưng cô không thích sự im lặng. Nó làm cô có cảm giác như mình sắp sửa buột miệng nói một điều gì đó sẽ làm cô hối tiếc. Hoặc sắp khóc. Mà chính xác đó là điều đã xảy ra. “Ôi Chúa ơi”, cô nói, quệt nước mắt trên má và nhìn vào nó, hoảng hồn cứ như thể nó là máu. Archie đặt tay anh lên tay cô. Anh không nói gì. Anh chỉ chờ đợi trong lúc cô khóc. “Đôi khi tôi sợ, những lúc ở một mình”, cô nói lắp bắp. Cô thò tay vào túi tìm một tờ khăn giấy cũ và xì mũi. “Chẳng phải thảm hại lắm hay sao?” Archie vẫn ngồi bất động. Anh siết tay cô. “Không hề”, anh khẽ nói. Susan nhắm mắt lại. Đôi khi cô ước mình có thể quay lại trước đó ba tháng, trước vụ án đã mang họ lại với nhau. Rồi cô nhớ ra Archie, tất cả những gì anh đã phải trải qua, và cảm thấy mình là đồ khốn. “Tôi xin lỗi”, cô nói. “Parker làm tôi cảm thấy thương thân trách phận.” “Sợ hãi cũng không sao cả, Susan”, Archie nói. “Cô sẽ ổn thôi. Cô không thảm hại chút nào.” Cô cười với anh và gật đầu mấy lần. Anh luôn gọi cô là “Susan”. Không bao giờ là “Sue”, hoặc “Suzy”, hay “Suze” cả. Cô thích điều đó ở anh. “Anh có thực sự nghĩ màu ngọc lam nguyên tử này ổn không?” Cô hỏi. Cô có thể thấy Archie nhìn sang tóc cô, cân nhắc từ ngữ cẩn thận. “Tôi thích chuyện cô cả gan nhuộm màu này”, anh nói. Cô quệt hai má và mũi bằng lòng bàn tay và cánh tay, rồi bắt đầu đứng dậy đi ra khỏi xe. Archie ngăn cô lại bằng cách đặt một tay lên cánh tay cô. “Có thể tôi sẽ cần cô giúp một việc khác”, anh nói. “Tôi có một thi thể cần phải nhận dạng. Tôi có thể nhờ cô đưa lên báo. Tôi sợ câu chuyện sẽ bị chìm nghỉm trong tất cả mớ hỗn độn này.” “Cô gái trong công viên à?” Susan hỏi. Archie nhướng một bên chân mày ngạc nhiên. “Ừ.” “Hãy cho tôi biết anh cần gì”, Susan nói. “Tôi sẽ làm những gì có thể.” Vừa bỏ đi cô vừa thoáng nghĩ có phải Archie đang cài cô một chút, khi muốn cô giúp anh đăng bài, và có phải cô hơi dễ bị sai khiến không. Rồi cô đẩy những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Archie đâu có toan tính đến thế. CHƯƠNG 6 A rchie nhìn Henry luồn lách thân thể to lớn của anh ấy vào ghế tài xế và khởi động xe. “Cậu nhờ cô ấy đăng bài vụ công viên đấy à?” Henry hỏi và liếc nhìn gương chiếu hậu khi Susan quay lại chỗ đám phóng viên đang tụ tập. “Ừ”, Archie nói. Chuyện ấy rất dễ dàng. Anh cảm thấy hơi xấu xa. Nhưng cảm giác của anh dành cho cô Jane Doe còn tệ hơn thế. Đó là điều mà Debbie đã luôn oán trách anh - dành nhiều tình cảm cho người chết hơn là người sống. Archie kéo sợi dây đai qua ngực và cài khóa. “Không hỏi han gì à?” Henry hỏi. “Cô ấy cứ thế mà đồng ý?” Anh ta vặn vẹo trên ghế để nhìn Susan lần nữa, rất dễ nhận ra cô với mái tóc xanh ngọc trông như một đầu que diêm. “Cậu đã làm gì vậy? Thôi miên cô ấy à?” Trong xe rất nóng và Archie đang loay hoay bật máy lạnh. “Anh đã bao giờ nghe chuyện ông Thượng nghị sĩ ngủ với cô trông trẻ chưa?” Anh hỏi. “Đã từng nghe chuyện tương tự”, Henry nói. “Tôi không biết đó là cô trông trẻ.” Archie nhăn mặt. Điều hòa bật lên và một mẩu rác nào đấy bị mắc trong ống khí kêu lạch xạch và cành cạch. “Đã bao giờ nghĩ đến việc điều tra chưa?” Archie hỏi. Anh đập cườm tay vào bảng điều khiển gần ống thông hơi và tiếng lạch xạch dừng lại. “Tôi tưởng cô ta đã trưởng thành”, Henry nói. Đèn đã đặt bên trên mui xe, Henry bật đèn và đặt cánh tay lên sau ghế của Archie, bắt đầu lùi lại. Đó là ngưỡng tuổi của tội hiếp dâm trẻ em theo luật định. Từ mười sáu tuổi trở lên, bạn có thể đồng thuận; nhưng dưới mười sáu thì không. Đó là một trong những luật phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. “Chưa”, Archie nói. Ngữ cảnh trong chuyện này có vẻ không đáng tha thứ cho lắm. “Hồi ấy Castle năm mươi hai. Susan kể với tôi rằng tờ Người đưa tin đã có một câu chuyện hoàn chỉnh”, anh nói thêm. “Một cuộc phỏng vấn độc quyền với cô gái đó.” “Không có vụ hình sự nào đâu”, Henry nói. Mắt anh vẫn còn tập trung về phía sau trong lúc từ từ lùi xe theo hình chữ Y hoàn hảo. Henry có bằng lái xe của mười bảy tiểu bang. Anh chuyển chỗ ở mỗi năm một lần trước khi trở thành cảnh sát. Chỉ để mở mang tầm mắt, anh từng kể với Archie như vậy trong một lần họ bị say. Archie chưa bao giờ yêu nơi nào ngoài Oregon. Nhưng anh chỉ có mỗi một cô vợ cũ. Henry thì có tới năm cô. “Giới hạn khởi tố hồi đó là ba năm”, Henry nói tiếp. “Cậu có thể kéo dài tới sáu năm nếu nạn nhân đặc biệt nhỏ tuổi.” Một cảnh sát mặc đồng phục với vẻ mặt buồn chán nhấc đoạn dây bảo vệ hiện trường lên để họ lái xe ra khỏi khu vực giới nghiêm trên cầu. “Giờ thì cậu có sáu năm kể từ khi đứa trẻ ấy kể với người khác hoặc đến lúc nó tròn mười tám. Tùy cái nào đến trước.” Có một cốc cà phê mang đi bằng kim loại trên bảng điều khiển, và nó bắt đầu trượt về phía trước khi Henry tăng tốc. Archie với tay lấy nó và hớp một ngụm cà phê còn ấm. Castle có bằng luật sư. Có thể ông ta đã bật một chai sâm panh vào cái ngày vượt qua mốc ba năm ấy. “Nữ thần Công lý có vẻ không phải là nỗi lo sợ lớn nhất của Castle”, Archie nói. Điều hòa nhiệt độ lại kêu lạch xạch và Archie đập tay lên bảng điều khiển lần nữa. Tiếng lạch xạch lại im. “Ừ”, Henry nói với nụ cười méo xệch. “Hồi tôi còn làm ở D.C., họ gọi nó là “Ba B”: bị sỉ nhục, bị tước bằng, bị ly dị. Hình ảnh xấu với công chúng. Đó mới là thứ thực sự khiến lũ người ấy phải sợ.” “Anh nói ‘lũ người ấy’ tức là các chính trị gia hả?” Archie hỏi, uống thêm một ngụm cà phê ấm nữa. “Chứ còn gì”, Henry nói. “Thế anh làm gì ở D.C.?” Archie hỏi. “Lúc ấy tôi làm việc cho một tên khốn”, Henry trả lời. “Cạo tóc mai các kiểu. Rồi tôi trông thấy các hóa đơn mà bên nhà thầu công trình công cộng gửi đến. Mười ngàn đô cho mỗi nhà vệ sinh.” Anh lắc đầu nhè nhẹ trước ý nghĩ đó. “Đó là sau khi tôi nghỉ việc dạy bọn trẻ ở các trường thành phố và trước khi làm phi công lái thuê.” “Còn chuyến đi phượt bằng xe máy đến Nam Mỹ là khi nào?” Archie hỏi. “Sau khi tôi rời khỏi Alaska”, Henry nói. “Char và tôi vừa chia tay. Cậu biết đấy, tôi đã ở cùng bộ tộc địa phương một tháng khi xe của tôi bị hỏng trên núi. Ở đó họ có một loại lá mà nếu cậu nhai nó, cậu có thể nhìn thấy hình ảnh của mình trong tương lai.” “Anh đã thấy gì?” Archie lại hỏi. “Một chú ngựa trắng, một đứa trẻ cầm chú chim, và một người phụ nữ ngực bự cầm gươm.” Archie im lặng chớp mắt với Henry. “Nên hiển nhiên là anh đã nghĩ ‘mình sẽ làm cảnh sát’.” Henry cười toe toét, ria mép nhếch lên ở hai khóe miệng. “Nó có vẻ là một ám chỉ rõ ràng.” Archie lắc đầu. Việc đóng cửa cầu Fremont càng làm giờ cao điểm tồi tệ hơn. Toàn bộ đường I-5 bắc, 405 và thậm chí cả các phố mặt sông cũng đã ỳ trệ. Sau khi ra khỏi chỗ chặn đường ở cuối cầu, Henry bật còi hiệu để họ có thể phi lên vỉa hè. Về mặt kĩ thuật, họ không được phép dùng còi hiệu trong các trường hợp không khẩn cấp. Henry thì coi tắc đường là trường hợp khẩn cấp rồi. “Vậy là cậu nghĩ Castle đã quyết định nhảy cầu hả?” Henry nói. “Tóm chặt tay lái. Cảm tử?” “Có thể”, Archie nói. “Cậu có định kể với Cục không?” Henry hỏi. Archie cân nhắc chuyện đó. “Chúng ta sẽ chờ xem đội hiện trường phát hiện điều gì”, anh nói. “Nếu đây không phải là sự việc cố tình thì không cần thiết phải giẫm lên câu chuyện của Susan.” Henry cười toe toét, đeo cặp kính phi công lên. “Sao nào?” Archie hỏi. “Cậu tử tế với cô ấy vì cô ấy thích cậu”, anh bảo. “Tôi tử tế với cô ấy vì tôi là người tử tế”, Archie nói. “Và cô ấy thích tôi vì tôi già rồi…” “Cụ ông bốn mươi tuổi hả”, Henry phản đối với tư cách người lớn hơn mười tuổi. “Già”, Archie lặp lại. Anh nói thêm, “Mạnh.” “Trịch thượng”, Henry đế vào. Archie thách thức, “Có uy?” Henry gật đầu nhượng bộ. Bây giờ họ đang đi qua trung tâm thành phố, lên cầu Marquinn, hướng sang bờ Đông. Giao thông đã khá hơn. Mặt trời đã lặn. Và đỉnh Hood cùng đỉnh St. Helens lừng lững hiện ra ở đường chân trời. Archie luôn nghĩ vào mùa hè trông chúng thật lạ lùng, những đỉnh đá khổng lồ của chúng trần trụi một cách kì quặc. “Đó là còn chưa kể”, Archie nói, “vừa hâm vừa không độc thân.” Anh kéo cửa xuống và hất chỗ cà phê còn lại ra ngoài. “À đấy”, Henry nói. “Làm sao cô ấy có thể cưỡng lại nổi?” CHƯƠNG 7 A rchie đứng bên trong cửa nhà mình. Anh đã dành phần còn lại của buổi sáng Chủ nhật ở văn phòng để hoàn tất các báo cáo. Castle không phải vụ án của anh, nhưng anh đã có mặt ở hiện trường, và điều đó có nghĩa là công việc giấy tờ. Henry cuối cùng đã khăng khăng đưa anh về nhà. Anh có thể nghe tiếng Buddy Holly đang làm om sòm khắp nhà. Không khí đậm mùi bánh mới nướng, và anh còn nghe thấy tiếng cậu con trai cười khúc khích trong bếp. Ở kiếp trước, âm thanh ấy hẳn sẽ làm anh cười; bây giờ nó chỉ khiến anh dừng bước, bàn tay nắm chặt hộp thuốc trong túi quần. Hai năm rưỡi trước, anh đã đứng bên ngoài ngôi nhà của Gretchen Lowell. Anh vẫn thường nghĩ lại đêm hôm đó, tái hiện các sự kiện tiếp theo, tự nhủ mình quay đầu bỏ đi, trở về xe ô tô và lái thẳng về nhà với gia đình mình. Nếu anh không bước vào trong đêm đó, mọi chuyện đã khác. Nhưng anh đã vào trong đó. Và Gretchen đang chờ. Anh cứ đứng thế trong một phút rồi cuối cùng cất tiếng. “Anh về rồi.” Giọng Debbie vọng lại, “Bọn em ở trong bếp.” Archie mang cặp táp vào phòng làm việc, vẫn còn trì hoãn. Anh không thích bỏ nó ở chỗ bọn trẻ có thể thò tay vào. Không ai nên nhìn thấy những bức ảnh anh phải nhìn. Phòng của anh vốn là một trong những phòng ngủ phụ nằm ở cuối hành lang. Một căn phòng hình vuông, trải thảm và có một cái bàn, một chiếc ghế bành Eames giả và ghế sofa kéo ra thành giường được dành cho những vị khách dường như không bao giờ ghé thăm. Nhìn bên ngoài thì nó cũng bình thường thôi. Trên giá là các loại sách bệnh học pháp y và tài liệu tham khảo về hình sự, vài khung ảnh treo bằng khen trên tường, một máy tính, ba ngăn kéo tài liệu chất đầy báo cáo và ghi chép. Một chiếc tủ âm tường lớn có cánh tủ bằng gỗ bouleau làm theo kiểu đàn accordion. Mặt tường bên trong tủ dán một tập hợp những bức ảnh của các nạn nhân của Mỹ nhân đoạt mạng mà Archie đã đóng hồ sơ. Đôi khi anh sẽ mở cửa, bật đèn lên và chỉ ngồi đó nhìn vào chúng. Những gương mặt. Đàn ông. Đàn bà. Trẻ em. Anh biết rõ mọi chi tiết trên từng bức ảnh. Chúng đã khảm sâu vào tiềm thức anh. Anh ngồi vào bàn làm việc và tháo bao súng ở thắt lưng, lôi vũ khí ra ngoài, tháo hết đạn thả vào lòng bàn tay. Chúng không bao giờ nặng như anh nghĩ. Anh mở khóa ngăn kéo bàn bằng một chiếc chìa riêng trong chùm chìa khóa của mình, đặt những viên đạn vào ngăn riêng. Rồi anh lại mở một ngăn kéo khác, đặt khẩu súng và bao súng vào đó, khóa chặt nó. Đây là thỏa thuận của họ từ ngày Ben ra đời. Không có khẩu súng đã nạp đạn nào trong nhà. Kể cả Henry cũng phải cất súng vào tủ khóa khi anh ấy ghé qua ăn tối. Từ khóe mắt anh trông thấy một khuôn mặt bé nhỏ ở ngưỡng cửa. Khi anh nhìn lên thì khuôn mặt đã biến mất. “Sara à?” Anh hỏi. Con bé lại ló đầu ra. “Mẹ và anh Ben đang làm bánh cho sinh nhật con. Đáng lẽ con không được nhìn.” Con bé cười toe toét và vỗ hai tay vào nhau. “Cho ngày mai”, con bé nói. Sara lượn quanh thành một vòng tròn nhỏ, nhún nhảy một lát rồi chạy lại chỗ Archie, hai bím tóc đen lúc lắc. Sara chạy khắp nơi. Nó đặt một bàn tay mũm mĩm lên tay Archie. “Hôm nay bố có vui không?” Con bé hỏi. Archie ngập ngừng, cố không để khuôn mặt làm lộ trạng thái tinh thần của mình. “Bố đã đi làm. Đi làm thì không phải lúc nào cũng vui.” Con bé ngước nhìn anh, cặp mắt sáng ngời, má ửng hồng. “Lên bảy tuổi con có được gặp cô ấy không?” “Ai cơ?” Archie hỏi. “Gretchen Lowell.” Câu nói khiến anh ngừng thở. Như một cú thoi vào giữa ngực. Bàn tay anh vô thức đưa lên chỗ vết sẹo, như cách che một vết thương cũ trước cú đánh mới. Anh gần như không thốt nên lời. “Con nghe cái tên ấy ở đâu vậy, con yêu?” Cuối cùng anh hỏi. Cảm nhận được sự bất an của anh, Sara bước lùi lại một chút. “Jacod Firebaugh đã cho Ben một cuốn sách viết về bố.” Tim Archie đập thình thịch trong lồng ngực. “Sách nào cơ?” Anh biết cuốn sách đó. Nạn nhân cuối cùng. Đó là một câu chuyện rác rưởi về những vụ án của Gretchen và việc Archie bị hành hung dưới tay ả. Anh biết rồi bọn trẻ sẽ trông thấy nó. Nhưng anh đã tưởng mình vẫn còn thời gian. “Con không biết”, con bé nói. “Trên bìa sách có một bức ảnh phụ nữ đúng không con?” Anh hỏi. Nó mỉm cười với anh, hai hàm răng bé xíu. “Con muốn gặp cô ấy. Con thích cô ấy.” Archie nghĩ đó là điều buồn nhất mà anh sẽ nghe trong suốt cuộc đời mình. “Đừng nói vậy”, anh bảo, giọng chỉ nhỉnh hơi tiếng thì thào. “Bố cũng thích cô ấy đúng không ạ?” Sara hỏi. “Bố chẳng từng đi gặp cô ấy suốt thôi. Ben nghe mẹ và bác Henry nói chuyện.” Archie đưa một tay lên mặt và cố để tiếp tục hít thở. “Con biết chỗ Ben cất cuốn sách không?” Con bé nhìn ngược ra hành lang rồi thì thầm. “Anh ấy giấu rồi.” Anh ngồi im một phút để tỉnh táo lại. Rồi anh vòng một tay ra sau đầu con bé và đặt lên trán nó một nụ hôn. “O kay”, anh nói. Anh giơ tay ra và nó cầm tay anh, vòng cánh tay tóm chặt ngón trỏ của anh. “Đi thôi.” Anh để con bé dẫn mình ra sảnh, đi vào bếp. Con bé dừng lại, khuôn mặt lo lắng. “Con không vào trong đó được, bố ơi. Đó là điều bất ngờ dành cho con.” Archie nhìn vào bếp. Tiếng nhạc. Chiếc bánh. “Tất nhiên rồi”, anh nói. “Con lên phòng con đi nhé!” Con bé gật đầu, quay đi và chạy về phòng mình, quay lại một lần để nhìn lén anh sau cánh cửa phòng ngủ. Archie đi vào bếp. Hai mẹ con đang cho kem lên bánh. Ben quỳ trên một chiếc ghế đẩu kê cạnh đảo bếp. Debbie đang đứng. Cô mặc chiếc tạp dề bếp trưởng màu trắng bên ngoài áo thun đen và quần bò, nhưng vẫn làm vẩy kem ra khắp nơi, kể cả trên tóc. Cô nhìn lên Archie khi anh bước vào phòng và cười. “Anh về kịp lúc làm hoa bánh marzipan đấy”, cô nói. Archie bước đến chỗ chiếc đài stereo màu trắng đặt dưới khoang tủ cạnh tủ lạnh và tắt nó đi. “Thằng bé có một cuốn”, anh nói thẳng thừng. Chiếc bánh đang đặt trên bàn xoay lười biếng của Ben và Debbie trong lúc cô giữ con dao trét bánh vững vàng bên trên. “Cuốn gì cơ?” Archie bước lên một bước, hai tay thọc túi quần. “Cuốn sách. Jacob Firebaugh đã đưa cho nó một cuốn.” Archie thậm chí không biết Jacob Firebaugh là đứa nào. Ben giữ chặt ngón tay trên mép chiếc bát trộn kem bằng thủy tinh. “Cậu ấy bảo bố nổi tiếng lắm.” “Bố không muốn con đọc thứ chết tiệt đó”, Archie quát con. Debbie nhấc con dao lên khỏi cái bánh. “Archie”, cô cảnh cáo bằng giọng thấp. Archie đưa hai tay ra khỏi túi và lùa chúng vào tóc. “Trong đó toàn là bạo lực. Các bức ảnh chụp hiện trường.” Ý nghĩ cậu con trai tám tuổi đang đọc về chuyện mà ả đã làm với anh khiến dạ dày anh sôi sục. “Mô tả phục dựng cảnh tra tấn.” “Một cái nhìn thoáng vào thế giới của anh”, Debbie nói. Anh đi đến bên cô. Cô có mùi kem bơ. “Nó hoàn toàn không thích hợp”, anh nói. Anh cảm thấy run rẩy; cơ thể thèm thuốc. “Nó còn cho Sara xem.” Ben đảo mắt. “Nó đúng là đồ bép xép.” “Lấy nó ra đây”, Archie chỉ vào phòng Ben, ra lệnh. “Ngay bây giờ.” Ben nhìn sang Debbie. Chuyện đã luôn như vậy kể từ ngày Archie về nhà. Con trai anh luôn nhìn sang mẹ nó trước khi làm bất kì việc gì. Cô gật đầu và nó nhảy khỏi ghế đẩu, biến mất dưới hành lang, vừa đi vừa liếm ngón tay. Debbie lại đặt con dao lên cái bánh và xoay bàn. “Nếu anh không nói về chuyện đó”, cô cẩn trọng mở lời, “bọn trẻ sẽ cố tìm câu trả lời từ nơi khác.” “Không phải trong cuốn sách đó”, Archie nói. Miệng Debbie mím chặt. “Chúng biết anh đã thua. Biết anh đã bị đau. Hồi ấy các con còn bé quá.” Anh có thể thấy cổ họng cô đang siết lại, chiến đấu với những giọt nước mắt. “Nhưng rồi bọn trẻ sẽ phải nghe toàn bộ câu chuyện thôi.” Không phải toàn bộ. “Tại sao?” Anh hỏi. “Thế còn những vết sẹo của anh?” Cô đặt con dao trét kem ngang miệng bát và quay sang đối diện anh. “Chính xác chúng ta sẽ giải thích thế nào? Tất cả những chuyến đi tới nhà tù ấy. Chúng nhớ hết đấy. Chúng biết anh đã đi gặp cô ta.” “Đó là công việc của anh”, Archie nhấn mạnh. Debbie đưa một bàn tay dấp dính chạm vào mặt anh. “Đừng phỉnh phờ em, Archie. Em biết anh đã quá lâu.” Cô nhìn vào mắt anh. “Anh tới đó vì anh cần đi, vì anh thích đi.” Archie bước lùi lại và tránh mặt. “Anh mệt quá. Anh không muốn nói chuyện đó vào lúc này”, anh nói và mở tủ lấy một cốc thủy tinh. “Em chỉ muốn anh thành thật với mẹ con em. Với em.” Anh bật vòi nước và lấy đầy cốc. “Xin em, đừng…”, anh nói. “Em muốn anh thành thật với chính mình.” Archie từ từ nâng cốc lên môi, uống một ngụm rồi đổ phần còn lại xuống lỗ thoát nước. Rồi anh đặt cái cốc lên bồn. Tự ý thức không phải là vấn đề của anh. Anh biết chính xác mình điên như thế nào. Anh sẵn sàng cho đi bất kì cái gì chỉ để đổi lấy một chút ít sự phủ nhận. “Anh đang thành thật với bản thân”, anh nói. Chúa ơi, anh quá mệt mỏi với việc này. Anh ghét cô vì điều đó. Vì làm cho mọi chuyện khó khăn nhường này. Vì làm anh cảm thấy tội lỗi. Cô muốn sự thật ư? Tốt thôi. Vứt hết đi. “Anh đã tới đó”, anh nói chậm rãi, cân nhắc từng từ như thể một bài học ngữ pháp. “Bởi vì. Anh. Thích. Đi.” Trong bồn rửa, khuôn bánh đang được ngâm nước nằm cạnh chiếc cốc, vụn bánh nổi lềnh phềnh trên mặt nước xù bọt. “Đó là khoảng thời gian duy nhất trong tuần anh thực sự cảm thấy mình còn sống.” Anh nhìn lên Debbie. “Anh sẽ vẫn còn đi. Nếu anh nghĩ mình có thể thoát được chuyện đó.” Cô đứng khoanh hai tay, những vệt tàn nhang thẫm lại như sao trời. “Anh không thể gặp cô ta. Nếu anh muốn ở với mẹ con em.” Archie mỉm cười. “Nó đây rồi”, anh nói. “Cái gì?” Debbie hỏi. “Tối hậu thư”, Archie nói. “Em biết anh thích chúng thế nào mà.” Anh nghe giọng Ben nói, “Đây ạ.” Cả Debbie và Archie đều quay sang và thấy Ben đang đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp, tập sách dày trong tay, khuôn mặt đáng yêu của Gretchen đang mỉm cười quyến rũ trên trang bìa. Archie quay ra chỗ thằng bé, cầm cuốn sách khỏi tay nó. Anh cúi xuống hôn lên má con. “Cảm ơn con”, anh nói vào tai nó. “Bố xin lỗi vì đã quát con.” Anh vuốt tóc con trai và đi ra sảnh. “Anh đi đâu đấy?” Debbie hỏi. Archie quay lưng lại. “Đang là chiều Chủ nhật mà”, anh nói. “Anh nghĩ mình sẽ ra công viên.” Mắt Debbie đã ậng nước. “Anh không nên lái xe.” Archie vẫn đi tiếp. “Anh không nên làm rất nhiều việc.” CHƯƠNG 8 C ó hoa trên bàn làm việc của Parker. Một chậu violet châu Phi, một bó tulip vàng và một bó hoa gì đó màu hồng tươi mà chắc là Parker sẽ rất ghét. Một trong mấy cô gái ở phòng Nhân sự tầng ba đã mang nó lên đây. Tất cả hoa đều không được cắm nước. Chúng sẽ chỉ nằm đấy, héo tàn, rồi chết và thối rữa. Việc đó thì có ích gì cho ai chứ, Susan không thể hiểu nổi. Ai đó chết, thế là phải giết luôn những thứ xinh đẹp à? Tòa báo Người đưa tin nằm ở trung tâm thành phố. Nó được xây dựng từ một trăm năm trước rồi biến thành nạn nhân của một công cuộc cải tạo không may vào những năm 70. Các tầng nhà bị đục đẽo, ốp gạch, gắn đầy đèn huỳnh quang và hạ trần. Bàn của Susan nằm trên tầng năm. Tầm nhìn rất ấn tượng, có lẽ đó là điều tốt đẹp duy nhất có thể nói về nơi đó. Nó quá yên tĩnh so với Susan, quá mực thước, và bất kể nhiệt độ ngoài trời thế nào thì trong đó cũng quá lạnh. Các ngày Chủ nhật ở Người đưa tin thường như ở Siberia. Tất cả tai to mặt lớn đều ở nhà. Tờ báo ngày Chủ nhật đã được in. Ngày thứ Hai chưa đến. Mọi việc được điều hành bởi một biên tập viên cấp cao trót rút phải lá thăm ngắn, và thường thì ông ta dành cả ngày ngồi tại bàn chơi xếp bài tây hay lướt net để đọc các trang web hay blog tin đồn. Có rất nhiều chuyện ngồi lê đôi mách. Không ai biết nhiều chuyện đồn thổi hơn báo chí, dù họ thừa nhận hay không. Ngày Chủ nhật cụ thể này lại là ngày làm việc toàn thời gian. Một Thượng nghị sĩ đương chức đã chết. Parker, một thành viên của tòa báo cũng chết. Họ đã có sẵn bản tin buổi tối để in, và một website đòi hỏi câu chuyện sốt dẻo mỗi phút để cạnh tranh với các bản tin truyền hình. Hầu hết nhân viên phòng tin tức đều đã đến, các biên tập viên ngôn từ, những cây bút chuyên mục. Nhưng ở đây còn có cả các biên tập viên chính, trợ lý biên tập, thực tập sinh, nhân sự, lễ tân, cả người phê bình truyền hình dự định viết một bài về cách đài truyền hình đưa tin câu chuyện nữa. Ai nấy đều muốn dự phần vào vụ việc. Thảm kịch càng lớn thì bạn càng muốn tham gia. Chính điều đó phân biệt cánh phóng viên với những người bình thường. Susan mặc một cái áo nỉ có mũ, trùm qua váy đen mà cô vẫn cất trong bàn làm việc và gục đầu xuống hai bàn tay. Molly Palmer đã ngãng ra và không trả lời các cuộc gọi của Susan. Cô lại bấm số điện thoại di động của cô ta lần nữa. Không thấy gì. Họ đã lên kế hoạch đăng bài về Thượng nghị sĩ vào số báo hôm sau. Nó sẽ là một ngày tổng tiến công. Ảnh chụp Castle trên trang nhất. Một dòng tít lớn, đậm nét thông báo cái chết của ông ta. Đó là kiểu báo giấy mà người ta vẫn còn bỏ tiền mua và Susan muốn bài báo của mình xuất hiện trên đó. Susan lùi lại trên ghế để xem Ian đã ra khỏi cuộc họp chưa. Cánh cửa phòng họp vẫn đóng im ỉm. Ian đã vào đó cả tiếng với Howard Jenkins và một tập hợp các cấp quản lý của Người đưa tin, những người đang lên kế hoạch đăng tin về Castle và quyết định số phận câu chuyện của cô. Cô đã tưởng mình được thêm vài điểm thành tích với chuỗi bài về Archie Sheridan và Kẻ bóp cổ sau giờ học. Nhưng rốt cuộc, nó chỉ là chuyện làm chính trị trong tờ báo mà thôi. Và không có Molly xác tín cho câu chuyện của mình với các nhân viên tra soát sự thật, tờ Người đưa tin sẽ chỉ đăng bậy thôi. Susan lại bấm số của Molly. Không thấy gì. Chết tiệt. Molly không hẳn là một đối tượng sẵn lòng. Cô ta chỉ đồng ý gặp mặt trực tiếp hai lần. Và liên lạc với cô ta khó hơn lên trời. Molly sẽ tắt điện thoại và quên không bật cả mấy ngày sau. Susan đã làm một đoạn xích bằng kẹp giấy dài chín mươi phân và tết sáu bím nhỏ trên mái tóc xanh của mình. Bây giờ cô lại tháo mấy chiếc kẹp ra và đặt nó lại hộp giấy, tháo bím tóc ra rồi bện lại. Cô có thể ngửi thấy mùi mật hoa ngọt ngào thoang thoảng từ những bông hoa trên bàn Parker. Dãy màn hình tivi được gắn trên tường, bên trên các biên tập viên câu chữ đều đang đưa tin trực tiếp về vụ tai nạn của ngài Thượng nghị sĩ và Parker. Susan không thể nhìn lên. Cô muốn ra khỏi văn phòng. Cô muốn tìm Molly. Cô muốn làm một việc gì đó. Susan nghe một giọng hỏi, “Em có sao không?” Cô ngước lên và trông thấy Derek Rogers. Cặp lông mày vàng cát của anh ta nhíu lại lo lắng. Cô hầu như luôn né tránh anh ta kể từ khi nói lời chia tay. Cô đã cố giải thích rằng anh ta không phải tuýp người cô thích như thế nào. Anh ta là người dứt khoát và trách nhiệm. Cô thì lộn xộn. Anh ta uống cà phê cùng sữa và đường. Cô chỉ uống cà phê đen. Sự thực là, anh ta muốn có một cô bạn gái. Còn cô thì không muốn làm bạn gái của bất kì ai vào lúc này. “Anh không thể tin được là ông ấy đã ra đi”, anh ta nói, cái lúm ở cằm càng sâu thêm. Rồi lắc đầu. “Thật là một câu ngốc nghếch”, anh nói. “Ai cũng nói vậy, đúng không?” Cả Susan và Derek đều vật lộn để giành sự chú ý của Parker. Đó là một trong vài điểm chung ít ỏi của họ. “Em biết anh cũng thực sự quý mến ông ấy”, cô nói. “Nếu em muốn nói chuyện”, Derek đề nghị, “em đã có số của anh.” Sao anh ta phải tử tế thế cơ chứ? Cánh cửa phòng họp mở ra và Susan đẩy ghế lùi lại. Nó lăn nhanh đến nỗi cô suýt bị oằn nguời ra sau. Ian nhìn sang và giơ ngón cái gọi cô tới. “Có nhiệm vụ rồi”, cô bảo Derek và đứng dậy, đi trên lối trải thảm giữa các bàn làm việc để vào phòng anh ta. Nó có một chiếc cửa sổ, nhưng chỉ nhìn vào phòng tin tức. Trong phòng có nhiều tấm bảng dán đầy các mẩu báo theo chuyên mục, để anh ta có thể kêu từng phóng viên vào và lật qua lật lại từng câu từng chữ trong bài của họ, cho đến khi bạn muốn khóc hay thọc dao vào cổ anh ta. Cô đã quyết định là sẽ bỏ việc nếu họ không cho chạy bài. Hoặc đâm anh ta. Tùy xem kiểu nào thôi thúc nhất. Có khi là việc đâm chém. Anh ta ra hiệu cho cô ngồi xuống và cô thả phịch người xuống ghế. “Chúng ta sẽ cho chạy bài”, anh ta nói. “Nhưng sẽ phải thay đổi đôi chút.” Susan giật gấu áo nỉ. “Thay đổi ư?” Ian tóm đuôi tóc nhỏ của mình. “Thượng nghị sĩ là một người nổi tiếng trong bang này. Ông ta được yêu mến. Chúng ta phải giới thiệu câu chuyện trong ngữ cảnh đó. Ông ta tằng tịu với một thiếu nữ. Và đó là một sự suy xét rất sai lầm.” Susan có thể cảm nhận câu chuyện đang tuột khỏi tay mình. Suy xét sai lầm ư? Ngày hôm qua nó vẫn còn là câu chuyện thế kỉ. “Nó không phải là một cuộc tình”, cô nói. “Lúc ấy cô ta mới vị thành niên.” “Sao cũng được”, Ian nói. Anh ta bấm chuột trên máy tính, một văn bản Word bật lên trên màn hình. “Tôi sẽ cố gắng cơ cấu lại câu chuyện. Tôi sẽ tham khảo ý kiến cô về các chỗ biên tập. Chúng ta định đăng bài này. Nhưng không phải trong loạt điếu văn ngày thứ Hai. Làm thế có vẻ không hợp tình cho lắm.” Hợp tình? “Parker là biên tập viên của tôi”, Susan nói. Cô nhìn Ian đánh dấu một câu trong bài của mình và bấm nút xóa. “Tôi biết việc này với cô rất khó khăn”, anh ta nói. “Parker là biên tập viên của tôi”, Susan lặp lại. Sau lưng Ian, gắn trên tấm bảng tin là những bức ảnh của Castle qua các năm, nhìn ông ta đầy tự mãn và kiêu ngạo. Ai đó đã viết vài ý tưởng lên những mẩu giấy và gắn chúng cạnh mỗi bức ảnh. Toàn bang thương tiếc cho người con thân yêu. Thượng nghị sĩ qua đời trong một vụ tai nạn. Nhà bảo trợ cho người nghèo tử nạn thương tâm trên cầu. Không một dòng nào nhắc nhớ đến Parker. Ông ấy phải may lắm mới được nêu tên. Ian nhấc điện thoại trên bàn lên và bấm số 9 để gọi ra ngoài. Susan nhìn thấu cử chỉ ấy. Anh ta không thực sự cần gọi điện; mà chỉ là một tín hiệu vụng về từ phía anh ta rằng cuộc họp đã chấm dứt. “Chúng tôi cần thông tin liên lạc với nguồn tin của cô”, anh ta lơ đãng nói, “để gọi cho Molly Palmer.” “Không hề gì”, Susan nói. Cô giậm bước về bàn mình, ngồi xuống ghế và chậm rãi xoay tròn. Ai đó lại để thêm một bó hoa trên bàn Parker, một túm cẩm chướng tím ngắt và hoa sao trắng. Chúng được gói lại bằng giấy màu xanh lá và thắt ruy băng đen. Hàng chữ vàng in trên ruy băng là: Cầu chúc ông an nghỉ. Susan lôi điện thoại di động ra khỏi túi áo nỉ và bấm số. “Tôi phải ra khỏi đây”, cô nói vào điện thoại. “Anh có còn muốn vài dòng về cô Jane Doe của anh không?” “Tôi đang ở trong công viên đây”, Archie Sheridan trả lời. “Cô tới gặp tôi được không?” Archie ngồi trên đất ẩm, chỉ cách chỗ cô gái bị giết vài mét. Thời tiết đã thay đổi, ánh nắng đã biến mất, thế chỗ nó là màn mưa phùn buồn bã. Công viên mang mùi của cái chết. Những khúc cây mục, cành gãy rục, dâu chín rữa. Archie phủi ít đất trên quần và nhắm mắt lại. Đây là nơi mọi chuyện bắt đầu. Archie và Henry tiếp nhận một cuộc gọi báo có một cô gái đã chết tại phần cao hơn của công viên. Cô gái vẫn còn trẻ. Thiêu. Bị tùng xẻo nhiều chỗ. Đó là chuyện từ mười ba năm trước. Nạn nhân đầu tiên của Mỹ nhân đoạt mạng. Vụ án mạng đầu tiên mà Archie điều tra. Archie liếc xuống cuốn sách bìa mềm đặt trên nền đất. Gretchen đang nhìn lại anh. Anh không biết tại sao mình lại mang theo nó, tại sao không để nó trong xe, tại sao anh không ném nó vào thùng rác ở trạm xăng gần nhất. Anh biết một điều: Thằng nhóc Jacod Firebaugh này sắp bị mắng cho thủng màng nhĩ. Bỗng có tiếng sột soạt phía sau anh trên lưng đồi. Dương xỉ oằn mình dưới chân người, đất lở xuống, cành cây gãy. Archie giật lùi cảnh giác, mắt mở to, trong một giây anh lần ngay xuống khẩu súng bên hông, đặt nhẹ bàn tay lên bao da. Anh quay lại và thấy một đứa trẻ đang đứng phía trên mình vài mét ở lưng chừng đồi. Cậu bé khoảng mười hai tuổi, vẫn đang thở hổn hển do chuyến đi xuống đồi, những cành dương xỉ rung rinh đằng sau. Cậu có dáng vẻ mỏng manh, làn da trắng và mái tóc đen, miệng gắn niềng răng lấp lánh. Cậu mặc một chiếc áo thun Oregon Ducks và quần soóc dài đến đầu gối, túi và nắp nặng trịch, hai bắp chân thẳng và gầy nhằng như chân chim. Cậu đang cầm hộp cơm bằng kim loại kiểu Peanuts cũ. “Chú là thanh tra ạ?” Cậu hỏi. “Ừ”, Archie nói, đưa tay khỏi khẩu súng. Cậu bé ngồi cạnh Archie, khoanh chân kiểu Ấn Độ, đặt hộp cơm trên đùi. Archie nhặt cuốn Nạn nhân cuối cùng lên và chuyển nó sang phía bên kia, tránh khỏi cậu bé. “Chú giúp được gì cho cháu không?” Archie hỏi. “Cháu ổn”, cậu bé nói. Cả hai ngồi im lặng một lát, nhìn dòng nước lặng lờ trôi bên dưới. “Chú có con không?” Cuối cùng cậu bé hỏi. “Hai đứa”, Archie trả lời. “Sáu và tám tuổi.” Cậu bé gật đầu hài lòng. “Cháu muốn cho chú xem một thứ.” Archie nhìn cậu. Cậu cô đơn. Tìm kiếm sự chú ý. Archie không có thời gian chiều chuộng cậu ta. Nhưng có điều gì đó trong mắt cậu, một sự nghiêm túc đủ làm Archie phải đồng ý. Thế thì đã sao. Anh sẽ nhìn vào pháo đài hay bất kể cái gì mà cậu bé có, rồi về nhà với gia đình mình. Archie đứng dậy. “Đừng quên cuốn sách của chú”, cậu bé nói và chỉ vào cuốn Nạn nhân cuối cùng. Archie nhìn xuống khuôn mặt Gretchen, hình nền màu hồng, những chữ cái mạ vàng. “À, ừ nhỉ”, anh nói rồi cúi xuống nhặt nó lên. Cậu bé lần mò trèo lên trên vài mét. Archie bước cẩn thận trên đoạn đê bằng bùn phía sau cậu ta, nhớ lại chàng cảnh sát đã lạc bước. Nhưng cậu bé trở nên sốt ruột và giơ một cánh tay hết kiên nhẫn ra. Archie nhét cuốn sách vào lưng quần và cầm tay cậu, cậu bé dẫn anh lên đồi, quay về đường chính và bắt đầu đi bộ về phía tây, vào sâu hơn trong rừng. Mưa mau hơn và đã trở thành một màn nước rơi lộp độp liên tục xuống thảm lá xanh trên đầu. Hai ống quần Archie đen kịt bùn và lòng bàn tay anh bám đầy đất vì cố giữ thăng bằng trên đồi. Ánh sáng nhanh chóng nhạt đi. Cậu bé đang đi với độ dốc tới bốn mươi độ, dấn bước nhờ có mục đích, bàn chân cậu di chuyển gấp đôi. Archie phải cố lắm mới theo kịp. Cậu bé dừng bước, nhìn vào Archie, rồi nhìn lên một lưng đồi khác. “Thật à?” Archie hỏi. Cậu bé trèo thêm mấy bước lên đồi rồi quay ra đưa tay cho Archie. Anh nắm tay cậu lần nữa và để cậu dẫn lên. Cả hai đi được nửa đường thì Archie cảm nhận một chỗ đau âm ỉ bên dưới mạn sườn phải. Anh nhăn mặt, bàn chân trượt trong bùn và ngã khuỵu xuống gối, làm bùn chuồi hết vào hai ống quần. Phải mất một phút anh mới lấy lại được hơi thở trước khi để cậu bé kéo mình đứng dậy và họ lại bắt đầu trèo. Archie cố thở trong cơn đau. Nó không phải là chuột rút. Không đau nhói như thế. Nó là loại đau đớn dịu nhẹ hơn, lan rộng hơn. Đầu tiên Archie tưởng là do cuốn sách bị nhét vào cạp quần anh đã ấn mạnh vào bụng, nhưng khi anh đẩy nó sang bên trái thì cơn đau vẫn còn ở bên phải. Tuy nhiên, anh vẫn lấy sách ra khỏi quần và kẹp nó dưới nách, tập trung vào cậu bé. Đôi giày màu xanh ngập bùn của cậu ta lúc nào cũng ở trước anh vài mét, và chỉ vài phút sau, cơn đau kì lạ đã dịu dần. Ở đỉnh đồi, mặt đất phẳng ra. Trên đó đầy cây cối. Cậu bé nhìn lên Archie. “Cháu thu thập tổ chim”, cậu nói. Archie thôi không cố phẩy một loại lá nhớp nháp nào đó ra khỏi chiếc quần ẩm sì của mình. “Hay lắm”, anh nói. “Cháu tìm được một cái ở chỗ này cách đây vài tuần.” Cậu bé dùng mũi giày chỉ xuống mặt đất. “Ngay đây.” “Giỏi”, Archie nói. “Có cái gì đó sai sai với nó”, cậu bé nói. “Với cái tổ à?” Archie hỏi. Cậu bé nghiêm nghị nhìn Archie rồi lại ngồi xuống, khoanh chân, đặt hộp cơm trưa lên đùi và mở nó ra. Bên trong là một cái tổ chim. Cậu cẩn thận nhấc nó ra khỏi hộp cơm và đưa cho Archie. Archie đỡ lấy. Mặt trời đã lặn thêm một ít và công viên trở nên rất lạnh. “Cháu đã tìm thấy cái này ở đây”, anh lặng lẽ nói. “Ngay chỗ này.” Cậu bé nghiêm túc gật đầu. “Có gì đó sai sai đúng không chú?” “Ừ”, Archie nói. Anh lấy điện thoại di động ra và gọi Henry, cánh tay vẫn kẹp chặt cuốn sách. “Tôi đây”, anh nói. “Tôi đang ở Công viên Forest. Cử đội Tìm kiếm Cứu nạn ra đây. Và một chú chó nghiệp vụ nữa. Tôi nghĩ chúng ta có một cái xác khác.” Ngoài cành cây và dây leo là những thứ đã được thu thập trên mặt đất, cài vào tổ chim này còn có những sợi tóc dài màu vàng. Khi Archie nhìn lên, cậu bé đã biến mất. CHƯƠNG 9 S usan nghĩ đến chuyện về nhà và thay sang quần áo đi công viên: giày leo núi, áo mưa, có thể là một chiếc quần soóc da có đai. Nhưng cô không muốn tỏ ra là mình đang hết sức cố gắng. Thế nên cô chỉ mặc chiếc áo nỉ có mũ bên ngoài váy đen. Cô đang đi tông, nhưng trong cốp xe luôn có một đôi giày thể thao để phòng các trường hợp như thế này. Cô chỉ bị hỏng một đôi bốt đắt tiền ở hiện trường tội phạm là đã học được bài học này. Bây giờ trong cốp xe cô luôn chứa đầy các công cụ tác nghiệp: một đôi giày dự trữ, áo khoác chống thấm nước, sổ tay, nước, một cái mũ có vành, pin cho máy ghi âm, băng vệ sinh khẩn cấp. Bạn không bao giờ biết mình có thể chui đến xó xỉnh nào và kẹt lại đó bao lâu. Giao thông thật tồi tệ. Mưa bắt đầu rơi và các ống cống đầy tràn, nước đọng thành vũng ở mỗi góc phố. Giao thông luôn tệ hại mỗi khi trời mưa giữa mùa hè. Kể cả khi nơi này mưa suốt chín tháng trong một năm, người Portland vẫn luôn thấy bất an khi có cơn mưa trái mùa. Bliss thì thấy mưa rất quyến rũ, nhưng bà đâu có lái xe. Nó làm Susan như muốn giết chết ai đó. Mất bốn mươi phút cô mới vượt qua sông và đi lên mạn tây bắc. Susan nghe mọi người gọi tới một chương trình trò chuyện trên đài phát thanh để chia sẻ các kỉ niệm đáng nhớ về ngài Thượng nghị sĩ. Nhưng nó chỉ càng khiến cô điên tiết, nên cô chuyển kênh sang một chương trình nhạc rock. Đến lúc cô đưa chiếc Saab già cỗi rẽ vào một chỗ trống bên cạnh xe cảnh sát ngầm và ba chiếc xe tuần tra thì cô cũng từ bỏ luôn việc nghe nhạc. Cô kéo mũ trùm lên mái tóc xanh ngọc và ra khỏi xe. Có một cảnh sát mặc đồng phục ngồi trong chiếc xe tuần tra. Anh ta mặc áo mưa, ngồi trên ghế tài xế với ngọn đèn trần bật sáng và đang viết lên một tấm bảng. Susan gõ vào cửa kính. Anh ta nhìn lên. Chiếc áo mưa của anh ta bị ướt và trông anh ta không vui vẻ gì khi phải ngồi ở đó. Anh ta kéo cửa kính xuống độ một phân. “Archie Sheridan?” Cô hỏi. Anh ta chỉ vào đầu đường, rồi vượt qua nó, vào trong rừng tối. Sau đó anh ta lại kéo cửa lên. “Cảm ơn”, Susan nói. Cô nghĩ đến chuyện hỏi mượn cây đèn pin, nhưng dường như anh ta không có tâm trạng tốt lành đó. Cô thay sang đôi giày thể thao, đút hai tay vào túi áo nỉ và bắt đầu đi bộ. Mặt đất ở cả hai bên con đường xi măng dẫn tới đầu đường mòn đều đã thành bùn. Nó sáng mờ dưới ánh đèn công viên. Khi cô đi tới rìa khu rừng tối, cô chớm có ý định quành lại ô tô, về nhà, lên giường, nhưng rồi lại nghĩ đến Parker và chuyện ông ta sẽ đi xa đến đâu vì một câu chuyện, thế là cô so hai vai lại và đâm đầu vào bóng tối. Bầu trời vẫn còn đủ ánh sáng khi cây cối ở đây chìm trong bóng râm và mỗi cành nhánh lại trông như một cánh tay đang cong lên giận dữ. Susan không thể không nghĩ về Gretchen Lowell khi cô đi bộ dọc con đường lát sỏi, bùn hút lấy bàn chân cô. Gretchen đã vứt bỏ ít nhất hai cái xác trong những khu rừng này. Có phải chuyện này là như thế không? Lại thêm một nạn nhân nữa của Mỹ nhân đoạt mạng? Susan thọc tay sâu hơn vào trong túi và rảo bước. Cô đi được khoảng bốn trăm mét thì bắt gặp họ. Cô có thể thấy ánh đèn pin phía trước, những vệt sáng trắng dài nhảy nhót trên thân cây tuyết tùng. Cảnh sát lúc nào cũng dễ nhận diện, cầu Chúa phù hộ cho trái tim họ. Đồng thời cũng rất khó bí mật tiếp cận họ, khi cô vẫn cách đó 9 mét thì một trong những ánh đèn pin dừng lại và xoay ngược, hạ cánh trên mặt cô. Cô chớp mắt trước ánh sáng. “Tôi đang tìm Thanh tra Sheridan”, cô tuyên bố. Một cái bóng to lớn xuất hiện đằng sau ngọn đèn và cô nghe tiếng Henry Sobol nói, “Ồ, quỷ tha ma bắt, là cô.” Đèn pin hạ xuống. Susan giơ ngón tay với Henry, “Chào anh”, cô nói. “Cậu ấy ở kia kìa”, Henry nói, quăng ánh đèn ra sau để chiếu sáng Archie, người đang ngồi trên một thân cây đổ ngoài lề đường mòn. Henry cong môi nhăn nhó. “Chúng tôi đang chờ một chuyên gia về chim”, anh ta nói. “Nhà điểu cầm học”, Archie chỉnh. Susan thực sự nghe được tiếng Henry đảo tròng mắt. “Sao cũng được”, anh bảo. Cô đi đến chỗ Archie đang ngồi. Anh có cây đèn pin đặt dưới chân, đang chiếu vào rừng, vì thế cô cũng nhận ra phần nào hình dáng anh để biết anh đang ướt nhẹp và bê bết bùn đất. “Anh bị ngã à?” Cô hỏi. “Cô có biết gì về chim chóc không?” Anh hỏi. Cô chống hai tay lên hông. “Đấy là lí do anh gọi tôi ra đây?” Anh cầm đèn pin lên chiếu vào tổ chim đang ôm trên tay. “Ở đây có tóc người”, anh nói. “Màu vàng. Có một cái xác nữa.” Susan cúi xuống nhìn vào trong tổ. Cô hoang mang. “Anh tìm được một tổ chim à?” “Một cậu bé đã đưa nó cho tôi. Cậu ta tìm được trên đỉnh đồi.” “Cậu bé?” Susan nói và nhìn quanh khu rừng tối. Henry đi đến sau lưng cô. “Nó đi mất rồi”, anh giải thích. “Nó đã biến mất”, Archie nói. “Thằng bé á?” Susan lại hỏi. Archie nhìn lên Henry. “Anh gọi cho đội Tìm kiếm Cứu nạn chưa?” “Chỉ dựa vào những sợi tóc trong tổ chim ư?” Henry chĩa đèn xuống cơ thể đầy bùn và cành cây gãy của Archie. “Cậu có sao không?” Anh hỏi, nhỏ giọng lại. “Debbie đã gọi cho tôi, cậu biết đấy. Sau khi cậu lao ra khỏi nhà trong một cơn bão than thân trách phận.” “Thực ra là giống cơn hờn hơn”, Archie nói. “Cô ấy lo lắng cho cậu”, Henry bảo. “Hai người nên khai mạc một câu lạc bộ.” Archie đứng dậy. “Tôi không muốn chờ nữa.” Anh gọi ba cảnh sát mặc đồng phục đang đứng cùng đèn pin. “Tôi muốn có một đội vai kề vai cùng đèn pin. Cứ bình tĩnh mà làm. Chúng ta đang tìm kiếm một thi thể phụ nữ.” “Archie”, Henry gọi. Archie chĩa đèn pin thẳng lên lưng đồi đầy bùn. “Chúng ta sẽ đi lên trên kia”, anh nói. “Đó là chỗ thằng bé tìm thấy cái tổ. Vậy nên đó là nơi chúng ta bắt đầu.” “Chờ đã”, Henry nói. “Tôi chờ đủ rồi”, Archie nói. “Không”, Henry bảo. “Chờ đi.” Anh ta quăng đèn pin ra đằng sau mình và chiếu sáng gương mặt một người đàn ông. Susan thở dốc. Tất cả cảnh sát đều quay lại nhìn cô. “Xin lỗi”, cô nói. Người đàn ông mỉm cười. Anh ta để râu, đeo kính và mặc một chiếc áo mưa có mũ. “Ai đó đã gọi nhà điểu cầm học phải không?” Anh ta hỏi. Archie vẫy tay. “Là tôi.” Người đàn ông bước tới. “Tôi là Ken Monroe. Chúng ta đã nói chuyện qua điện thoại.” Archie bắt tay anh ta. “Cảm ơn anh vì đã đến”, Archie nói. “Chắc chắn rồi.” Anh ta cười háo hức. “Chúng tôi thường không hay nhận được các cuộc gọi khẩn cấp.” Tôi cá là thế mà, Susan nghĩ. “Anh có thể nói gì cho tôi biết về thứ này?” Archie hỏi, chiếu đèn pin vào trong tổ chim lần nữa. Susan cũng xích lại khi tất cả họ tụ tập quanh cái tổ. Monroe cúi xuống cách cái tổ vài phân, rồi quan sát tỉ mỉ. Anh ta hỏi, “Anh tìm được nó ở đâu?” Archie hất đầu ra hiệu lên đồi. “Trên kia”, anh nói. “Nó là một tổ chim sẻ hót”, Monroe nói. Susan lôi sổ ra và ghi chép. “Anh có thể nói tên loài chim chỉ bằng cách nhìn vào tổ của nó ư?” Cô hỏi. Với cô thì mọi chiếc tổ đều giống nhau. Monroe gật đầu. “Vâng, chắc chắn rồi”, anh ta nói. “Có thấy nó được tạo hình như thế nào không? Như một cái cốc? Cô có thể thấy lớp mặt ngoài sần sùi tạo bởi lá và thân cỏ khô.” Anh ta chạm vào bên ngoài tổ. “Một ít rễ con và vài thớ vỏ cây. Nếu cô nhìn vào đây, cô có thể thấy nó được đan bằng loại cỏ mềm hơn và tóc.” “Tôi quan tâm đến chỗ tóc đấy”, Archie nói. “Một vài loài chim sử dụng nó để vá tổ. Không hay gặp, nhưng không phải là chưa từng nghe nói tới.” “Rồi sao nữa?” Henry hỏi. “Chúng lấy nó từ thùng rác ngoài hiệu cắt tóc chắc?” Monroe cau mày. “Thùng rác ư? Không hẳn. Anh nói là chiếc tổ này được tìm thấy ở đây à?” “Trên đồi”, Archie nói. “Chà, tóc này hẳn phải ở gần đây. Chim không di chuyển xa để tìm vật liệu xây tổ. Hầu hết các tổ chim chỉ được làm trong một, hai ngày. Chẳng ích lợi gì mà bay đi xa cả.” Monroe nhìn lên đồi. “Không, loại tóc này phải tới từ trong rừng. Tôi dám chắc là trong bán kính ba trăm mét quanh đây thôi.” Susan thấy da gà nổi hết lên cánh tay. “Anh biết cái tổ này được làm khoảng bao lâu rồi không?” Archie hỏi. “Không lâu hơn một hoặc hai năm.” “Làm sao anh biết?” Henry hỏi. “Vì loài chim luôn tách đàn”, Monroe giải thích. “Nếu chúng không làm vậy thì lúc này chúng ta đang đứng trên hàng trăm con rồi.” “Vậy tất cả những gì chúng tôi cần làm là lục soát trong vòng ba trăm mét ở mọi hướng”, Archie nói. Henry rên lên. “Thế có mà rộng bằng sân bóng đá.” “Có lẽ chúng ta nên gọi đội Tìm kiếm Cứu nạn”, Archie nói. Henry nhìn vào anh một phút rồi lôi điện thoại ra khỏi cái kẹp trên cạp quần và bấm số. “Có lẽ tôi sẽ gọi một chú chó nghiệp vụ nữa”, anh ta bảo. Susan trông thấy Archie cười. “Ý hay đấy”, anh nói. CHƯƠNG 10 C ơn đau nhói trong bụng Archie đã quay lại. Mưa rơi rào rào. Nước mưa làm da ai nấy trông đều trơn trượt. Nó làm mặt đất mút chặt lấy giày họ. Nó làm quần áo họ ướt sũng nước. Archie có thể cảm nhận được cái lạnh nhớp nháp trong tất với mỗi bước chân. Hai ống quần đầy bùn của anh đập vào bắp chân. Tóc dính chặt vào trán. Ít nhất anh vẫn đủ tỉnh táo để giấu cuốn sách đằng sau một thân cây. Điều cuối cùng anh muốn là Henry phát hiện ra anh luẩn quẩn trong rừng với một bản Nạn nhân cuối cùng dính bùn. Archie tập trung nhìn vào quầng sáng nhỏ từ đèn pin trên nền đất rừng và chuyển tâm trí vào nhiệm vụ trước mắt. Công việc tiến triển rất chậm. 90 xen-ti-mét thường xuân và dây bìm bìm đang phủ lên tất cả mọi thứ trong tầm nhìn. Anh bắt đầu từ bên trái rồi chậm rãi xoay ánh sáng khắp bề mặt lá mục, từng phân một, tiến lên, rồi sang phải. Henry đang ở bên trái Archie, một trong các cảnh sát tuần tra thì đứng bên phải anh ấy. Một cảnh sát khác và bốn tình nguyện viên của đội Tìm kiếm Cứu nạn đang xếp hàng ngang làm việc ở hướng ngược lại. Thậm chí cả nhà điểu cầm cũng nhận được một chiếc đèn. Đến giờ, họ chỉ tìm được một con chim đã chết, bị lũ kiến xơi mất phân nửa, một chai Mountain Dew rỗng không và vài bãi phân chó. Susan cũng mượn một cây đèn nhưng đang dùng răng cắn chặt nó để ghi chép điên cuồng lên cuốn sổ tay. Archie muốn cô viết một bài báo. Anh vẫn không có manh mối gì về nhân thân của cô Jane Doe, và tin tức về vụ này trên phương tiện truyền thông địa phương chỉ giới hạn ở một đoạn văn duy nhất trong mục Đô thị của tờ Người đưa tin. Anh cần đăng báo. Và cần đăng nhiều là khác. Bên trái. Tiến lên. Bên phải. Rồi Archie quỳ xuống đất bùn, bắt đầu kéo thường xuân và bìm bìm sang bên để nhìn xuống bên dưới. Những thân dây leo nặng và khó xoay xỏa, hai bàn tay Archie trông xước xác bẩn thỉu, như thể anh đã bị chôn sống và phải dùng tay cào đất mà bò lên. Anh nghe Henry nói, “Việc này thật lố bịch.” Đúng thế thật. Họ có thể trở lại vào sáng mai. Nếu đúng là có một cái xác ở đây, có thể chờ thêm mười hai tiếng nữa. Nhưng Archie cần phải biết. Nếu có một người phụ nữ đã chết nơi đây, anh cần tìm được cô ta. Anh sẽ ở đây cả đêm để tìm kiếm. Ít nhất như vậy còn dễ dàng hơn là về nhà. Anh chiếu đèn pin lên đồng hồ. Họ đã tìm kiếm gần một tiếng đồng hồ. Một chú chó sủa vang. Archie nhìn lên và thấy hình người tối đen trên đường mòn và bóng một con vật. Anh quăng ánh đèn chiếu xuống dưới, về phía nó. Ánh sáng phản chiếu trên mắt con thú, hai thiên thể bạc trong bóng đêm. “Tên nó là Cody”, người đi cùng chú chó nói. “Tôi là Ellen. Ai trong hai anh là Sheridan?” “Tôi đây”, Archie trả lời. Cô ta bước tới, trèo lên chỗ anh, con chó ngoan ngoãn theo sau vài chục xen-ti-mét. Họ chĩa đèn pin lên con đường để dẫn lối cho cô, và Archie đã thấy cô rõ hơn. Cô ta là một phụ nữ to lớn, vừa cao lại hơi đậm người, thân trên dài lấn át cả cơ thể và dáng đi giạng chân kiểu nam tính. Cô buộc tóc đuôi ngựa và mặc quần áo thích hợp với thời tiết, ủng cao su cao cổ, quần đi mưa màu vàng và một chiếc áo khoác bo gấu. A, tháng Sáu ở Portland. Khi đến chỗ Archie, cô ta đưa một bàn tay ra và anh bắt tay cô. “Được rồi”, cô nói. “Cách làm là thế này nhé. Tôi sẽ tháo xích cho Cody. Nó sẽ sục sạo quanh đây, tìm mùi. Nếu tìm được cái gì đó, nó sẽ quỳ xuống như thế này.” Cô nhìn xuống con chó và nói, “Cody, cảnh giác”, và con chó quỳ xuống hai khuỷu chân, tru lên. Ellen nhìn lên. “Tôi sẽ khen nó. Rồi anh có thể tiến lại và kiểm tra xem nó tìm được gì.” Archie đã từng làm việc với những chú chó nghiệp vụ. Có lần Gretchen từng gửi một hộp quà cho Thanh tra Archie Sheridan, đặt ở khách sạn tại Bắc Portland. Nhân viên khách sạn đã gọi cho 911 sau vài phút tìm thấy hộp quà. Archie mở cái hộp rồi mang một chú chó đến để xác định. Cách đó đã hiệu quả. “Cứ cho là vẫn còn những phần thi thể”, Henry nói, “việc này còn kéo dài đến bao giờ?” “Có thể vài phút”, Ellen nói. “Cũng có thể vài ngày.” “Vài ngày”, Henry nói. “Hoặc lâu hơn”, Ellen chữa lại. Cô ta cúi xuống và mở khóa xích cho con chó. “Cody, đi”, cô ta nói. Chú chó gí mũi xuống đất và bắt đầu cày xới đám dây leo. Susan bước đến và lấy chiếc đèn pin khỏi miệng. “Chị làm ở đội Tìm kiếm Cứu nạn bao lâu rồi?” “Tôi không thuộc đội”, Ellen nói. “Cô ấy là tình nguyện viên”, Archie nói. “Chúng tôi không có đủ tiền để tài trợ cho cả một đơn vị chó nghiệp vụ. Nên những người như Ellen trải qua vài khóa huấn luyện cùng chó của họ và tình nguyện làm việc.” “Tôi làm ở Home Depot”, Ellen nói. “Chúng tôi đã tìm thấy một thi thể cách đây vài ngày ở khoảng bốn trăm mét dưới con rạch”, Archie nói. “Việc ấy có làm nó phân tâm không?” “Anh di chuyển cái xác chưa?” Ellen hỏi. “Rồi”, Archie nói. “Thế thì không sao”, Ellen nói. “Đấy”, đột nhiên cô ta la lên. Cô ta chĩa đèn pin vào Cody, nó đang quỳ cách chỗ Archie và Henry vừa tìm kiếm vài mét. “Giỏi lắm”, Ellen nói. Cô ta tiến lại đằng sau con chó, lại đeo xích cho nó và xoa đầu nó thật nhiều. Chỗ Cody đang chỉ phủ đầy dây leo. Archie đi đến và quỳ mọp trên tứ chi. “Chiếu đèn của các anh vào đây”, anh nói. Từng người đứng vòng quanh anh, Susan, nhà điểu cầm học, Henry, Ellen, các cảnh sát tuần tra, đội Tìm kiếm Cứu nạn, mỗi người chiếu một chiếc đèn vào chỗ chú chó đã quỳ, đến khi mười vòng tròn ánh sáng tụ lại làm một. Hai tay của Archie gạt thường xuân và bìm bìm sang một bên. Anh bắt đầu chậm rãi, có phương pháp, cẩn thận không đụng chạm bất kì thứ gì không cần thiết, rồi bắt đầu giật dây leo, nhổ rễ và ném chúng sang bên. Khi đã dọn sạch khu vực đó, anh quỳ thấp. Susan cúi xuống. “Chẳng có gì ở đó cả”, cô nói. Archie quay sang con chó. “Chúng ta có nên đào bới không, cậu nhóc?” Anh hỏi, gãi đầu nó bằng bàn tay lấm bùn. “Nó có bị chôn vùi không?” Cody nghiêng đầu nhìn Archie rồi nhìn vào chỗ lúc này chỉ còn là một mảng đất. “Tôi sẽ đi lấy xẻng”, một trong các tình nguyện viên đội Cứu nạn nói, anh ta quay ra đường mòn một cách ồn ào. Archie nhìn xuống bùn. Nó lổn nhổn đầy sỏi và rễ cây. Archie nhặt một viên sỏi lên và xoay nó giữa hai ngón tay. Nó nhẹ và có lỗ li ti. Anh chạm nhẹ nó vào lưỡi. “Sao anh lại ăn viên đá ấy?” Susan hỏi. “Nó không phải là đá!” Archie nói. Đá có sức nặng và không dính vào nước bọt. Cái này lại có lỗ lĩ ti. “Nó có thể là xương.” Cody kêu ư ử và giật sợi xích. Archie nhìn lên con chó. Còn một thi thể nữa. “Thả nó đi”, anh bảo Ellen. Cô ta tháo xích cho Cody và chú chó nhảy đi, mũi lại gí xuống đất, trèo lên đồi khoảng chín mét rồi phục xuống. Archie nhặt cây đèn lên và lần mò sau chú chó, chỉ thoáng nhận thấy những người khác sau lưng mình, đèn pin của họ tung tẩy trong bóng tối. Lưng đồi này dày đặc dương xỉ, to như thời tiền sử. Anh kéo mình lên trên con dốc bằng cách túm đầy một nắm lá dương xỉ, dùng hệ thống rễ của nó làm điểm tựa. Những cái hạt nhỏ xíu của chúng mắc vào tay anh. Khi đến chỗ Cody, anh quỳ xuống cạnh nó và chú chó liếm mặt anh. Rồi nó lại ư ử và sục mũi vào đám dương xỉ lớn tiếp giáp với cây cỏ ống mọc xiên trên đồi. Archie vươn tay ra và gạt lá dương xỉ, chĩa đèn xuống dưới. “Thấy gì không?” Henry gọi từ sau lưng anh. “Có”, Archie bảo. Bộ xương chỉ còn một phần, nhưng chắc chắn là xương người. Anh chiếu đèn pin đi xa hơn dưới những cây dương xỉ và trông thấy phần còn lại của một khuôn mặt. “Cô ta đây rồi”, anh lặng lẽ nói. Susan và Henry xuất hiện ở hai bên anh. Susan quỳ xuống cạnh anh, chân cô chạm chân anh. Anh đang quen dần với việc có cô ở gần. “Ba cái xác chỉ trong vòng một trăm mét đổ lại”, cô nói, bút đã dựng trên sổ. “Họ có liên quan đến nhau không?” “Có thể”, Archie nói. “Hoặc là không.” Anh nhìn vào khu rừng tối. Trời đã ngừng mưa và các đám mây đã tách ra, hé lộ một mảnh trăng sáng quắc. Ở xa xa, qua hàng cây bên rìa khu rừng, anh có thể trông thấy ánh sáng của một ngôi nhà. “Tìm hiểu xem có những ai sống ở đó”, anh bảo Henry. “Rồi hỏi xem họ có máy cưa gỗ nào không.” CHƯƠNG 11 S usan lê bước sau Henry. Đội Y tế đã xuất hiện, ngay sau các điều tra viên hiện trường và khoảng nửa tá cảnh sát khác. Hiện trường tội ác đã được chiếu sáng và quây băng bảo vệ, họ đang dùng rây lưới để lọc những mẩu xương khỏi đất cát. Cô không được phép bước qua rào bảo vệ, và Archie thì quá bận bịu không nói chuyện được, nên cô quyết định bám theo Henry, dù không được mời. “Nghe này”, cô nói với Ian qua điện thoại. “Tôi có thể nộp bài kịp. Tôi sẽ có mặt ở đó trong một giờ nữa.” Cô nhìn đồng hồ, nhưng tối quá không thấy được, nên cô giơ điện thoại lại gần cổ tay để xem giờ nhờ đèn LCD trên đó. Mười giờ tối. Các tờ báo ở ngoại ô sẽ bắt đầu in lúc 11 giờ, nhưng tờ tin buổi sáng của khu trung tâm thì tận 2 giờ sáng mới in. Cô còn kha khá thời gian. Hơn nữa, cô muốn làm Ian vui vẻ ngay lúc này, ít nhất cho đến sau khi câu chuyện về Molly và Castle được ra bài. Henry vội vã chạy lên những bậc thang dài bằng xi măng dẫn ra khỏi công viên để lên đường cái. Có phải anh ấy đang cố cắt đuôi cô không? Cô lại đưa điện thoại lên tai. “Chúng ta sẽ làm cả chủ đề về cái chết của Castle”, Ian nói. “Tám bài. Tôi có thể cho cô lên trang đầu tờ Metro, dưới nếp gấp.” “Dưới nếp gấp?” “Có một vụ cháy ở gần Sisters”, Ian nói. “Đó là bài đầu của Metro.” Cô đang leo hai bậc một. “Ba cái xác”, cô nói, thở hổn hển. “Làm sao mà chuyện đó lại không đáng hạng A? Và ai thèm quan tâm tới một vụ cháy ở Trung tâm Oregon chứ?” “Nói như một người không có ngôi nhà thứ hai ở Trung tâm Oregon”, Ian nói với một cái hỉ mũi. “Và cô đâu biết mấy cái xác có liên quan đến nhau hay không”, anh ta nói thêm. “Họ chẳng là ai cả.” Lũ bọ đang nhảy nhót trên những ngọn đèn vàng chiếu sáng bậc thang. Có khi chúng dành cả vòng đời của mình để làm việc đó, Susan nghĩ. Đập đi đập lại vòng sắt bảo vệ đèn hết lần này đến lần khác. “Chẳng là ai ư?” Cô hỏi. Ian có vẻ chán nản. “Nghe đồn cô gái đầu tiên là một gái điếm. Hai người kia cũng có thể lắm. Hoặc vô gia cư. Không ai quan tâm đâu, Susan. Các chính trị gia chết thì bán được báo. Gái điếm chết thì không.” “Castle là kẻ phạm tội”, Susan nhắc nhở Ian. Cô đã cố làm giọng mình vững vàng đầy quyết tâm. “Chúng ta sẽ không đăng bài đó khi cả bang còn đang khóc than ông ta”, Ian nói. Đôi khi Susan không thể nhớ được tại sao cô từng ngủ với Ian. (Anh ta đã để cô cầm tượng Pulitzer của mình.) “Anh là đồ đạo đức giả, Ian”, cô nói. “Nhân tiện đang nói chuyện với cô”, Ian bảo, lờ tịt câu cô nói. “Bên kiểm tra sự thật không liên lạc được với Molly Palmer. Họ liên tục nghe hộp thư thoại của cô ta. Cô có số nào khác của cô ta không?” Bụng dạ Susan thắt lại và cô ép thêm chút dũng khí vào giọng mình. “Cô ta là vũ nữ thoát y, Ian. Cô ta có mang điện thoại theo người khi trần truồng.” Cô thầm nhắc nhở trong đầu là phải tìm Molly, trước khi sự nhút nhát của cô ta khiến Susan mất cả bài báo. “Tôi cúp máy đây”, Ian nói. Đường dây tắt ngóm và Susan nhét điện thoại vào trong túi áo nỉ, rên lên vì thất vọng. Thế này mà là giữ cho Ian vui vẻ à. “Nó được gọi là lối sống mạo hiểm”, Henry nói. Anh đã quay lại để chờ cô trên đỉnh cầu thang. “Sao cơ?” Susan nói, chạy trên những bậc cuối cùng. Cô cúi gập người một phút để lấy lại hơi thở. Đôi giày của cô lấm đầy bùn. Cô lại làm hỏng thêm giày cho công việc này… “Mại dâm”, Henry nói. “Nghiện. Vô gia cư. Họ sống theo lối sống nhiều nguy cơ. Thế nên chúng ta sẽ tìm kiếm tích cực trong vài ngày sau khi ai đó bị chọc nĩa vào cổ, rồi bỏ sang những vụ án quan trọng hơn liên quan đến những sinh viên ưu tú.” Anh bắt đầu đi lên phố. “Cô biết có bao nhiêu thành viên da màu tuổi vị thành niên trong các băng nhóm hay những cô gái điếm đã chết mà không có nổi một dòng trên tờ báo của các cô không?” “Thế còn Heather Gerber?” Susan hỏi, vật lộn để lôi cuốn sổ ra trong lúc vẫn chạy theo anh. Heather là nạn nhân đầu tiên của Gretchen. Một cô gái bỏ nhà ra đi. Một đứa trẻ đường phố. Một gái điếm. Họ cũng đã tìm được cô gái chết trong công viên này. Tờ Người đưa tin chắc chắn đã đăng nhiều câu chuyện về cô gái. Henry thọc hai tay vào túi quần và rảo bước lên. Vỉa hè vẫn ướt và giày của anh kêu lẹp bẹp trên vũng nước đọng mỗi khi đi qua. “Tờ báo của cô chẳng bận tâm gì mãi đến khi Archie liên hệ được nó với những cái xác khác và tất cả mọi người nhận ra một kẻ sát nhân hàng loạt vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Cô ta chỉ là một Jane Doe khác. Rồi Parker làm một bài về cô gái. Cha mẹ nuôi của cô gái đã đọc nó. Hóa ra cô gái kia đã mất tích cả năm mà họ không hề báo cáo. Nhưng vẫn tiếp tục nhận tiền trợ cấp. Cô biết ai trả tiền chôn cất cho cô gái không?” “Không.” Vỉa hè dốc lên. Đường chính nằm song song với rìa công viên và những ngôi nhà trên đó nằm xiên xiên với khu rừng. Họ không còn được phép xây nhà gần công viên đến mức này nữa, nhưng những ngôi nhà này đã rất cũ và từ lâu đời rồi. Đèn hiên của chúng chiếu sáng những bờ hiên gỗ rất rộng, có xích đu và chậu hoa phong lữ. Không khí đượm mùi việt quất. “Archie đấy.” Rồi anh nói thêm như để giải thích, “Cô gái là vụ án mạng đầu tiên của cậu ấy.” “Về lý thuyết vụ án ấy còn chưa được giải quyết, đúng không?” Susan hỏi. “Gretchen làm đấy”, Henry nói. “Cô ta chỉ chưa chịu thừa nhận thôi.” Một chiếc xe thùng hiệu Subaru đỗ trên đường trước mặt họ và một người đàn ông đi giày thể thao đang mở xe cho hai chú chó to lớn đi xuống, hướng về chỗ công viên cho một cuốc chạy đêm. “Đó là lí do Archie cứ phải quay lại gặp cô ta, suốt từng ấy thời gian à? Vì anh ấy muốn đóng lại vụ đầu tiên ấy?” Henry im lặng một lát. “Không.” Susan tự hỏi Archie đã kể cho Henry bao nhiêu về Gretchen. Cô đã thấy cái cách anh ta phản ứng khi Gretchen chạm vào cánh tay Archie trong buổi thẩm vấn mà Susan chứng kiến hồi cô đang đưa tin về vụ án. Henry đã lập tức xông vào phòng, lôi Gretchen tránh xa Archie, cứ như ả là thứ bệnh truyền nhiễm. Susan sợ ả phát khiếp, đồng thời cô cũng thấy tò mò với kiểu giao tiếp suồng sã giữa Gretchen và Archie. Giữa họ có một mối quan hệ ít nhất cũng làm người khác cảm thấy bất an. Vỉa hè ở đây đã cũ và có khoảng trống quanh các gốc cây, Susan và Henry đi bộ cẩn thận, mặt cắm xuống đất. “Đáng lẽ chúng tôi không nên chấp nhận thỏa thuận xin tội”, Henry nói, gần như với chính mình. “Đáng lẽ chúng tôi nên để bang Washington xử vụ này. Nếu vậy thì bây giờ cô ta đã chết rồi.” “Archie đã phá được hơn ba mươi mốt vụ khác”, Susan nói. Henry dừng bước. Họ đã tới ngôi nhà, một căn nhà lớn ốp ván nâu trông như thể được xây từ những năm bốn mươi. Cô có thể nhìn thấy một phần mặt anh trong ánh sáng đèn đường. Anh có vẻ mệt mỏi, hai vai rũ xuống, chiếc áo khoác da sáng lên dưới mưa. “Cô không quen cậu ấy trước đây”, anh nói. Thật khó tưởng tượng Archie từng hạnh phúc. “Parker đã viết nhiều bài về vụ Mỹ nhân đoạt mạng, đúng không?” Susan hỏi. “Hàng trăm bài báo trong nhiều năm”, Henry nhún vai nói. “Chúa ơi, có khi đến cả ngàn bài.” Parker là kiểu người thủ cựu. Ông hẳn đã dùng một máy đánh chữ nếu họ cho phép. Có thể ông đã dùng nhiều cuốn sổ tay. Hàng chồng hàng hộp. Chúng sẽ là vô giá với ai đó, chẳng hạn như một người muốn viết một cuốn sách về vụ án Mỹ nhân đoạt mạng một ngày nào đó. Một khi đã cho đăng xong bài về Molly Palmer, cô sẽ có chút ảnh hưởng ở tòa soạn. Cô có thể xin một năm nghỉ để khảo cứu. “Anh có nhớ ông ấy từng nhắc tới chỗ cất sổ tay nào không?” Susan hỏi. Henry nhìn cô một lát rồi nhướng chân mày lên và thở dài. “Suýt thì tôi quên”. Anh lôi phù hiệu khỏi túi quần và mở nó ra. Rồi anh chiếu đèn pin vào mặt Susan. Cô nhăn mặt, nhất thời bị lóa và phải giơ một tay lên che mặt. “Quên cái gì cơ?” Cô hỏi. “Rằng cô quan tâm đến câu chuyện hơn là con người”, Henry nói. Anh tắt đèn. “Để tôi nói nhé”, anh nói và gõ cửa. Họ im lặng chờ trong lúc Susan giận điên lên. Cô đâu có định vô cảm như thế. Cô có quan tâm đến Archie đấy chứ. Cô không cố viết chuyện rác rưởi gì cả. Việc ấy đã được làm rồi. Cô muốn viết một cuốn sách thật sự. Một cuốn sách thông minh, hấp dẫn và làm sáng tỏ câu chuyện. Việc ấy kinh khủng lắm sao? “Tôi không định…” Cô dợm nói. Henry giơ một tay lên. “Thôi”, anh bảo. Đèn hiên bật lên, rải ánh sáng vào bóng tối. Cửa trước mở ra và một phụ nữ lớn tuổi xuất hiện. Bà đang thả lơi mái tóc xám và mặc chiếc áo len cài khuy có trang trí các biểu tượng của người da đỏ. “Vâng?” Bà hỏi. Henry bước tới và trưng phù hiệu. “Xin chào bà. Tôi là Thanh tra Sobol. Tôi đang mong được hỏi bà vài câu.” Anh cười hòa nhã. “Bà sống ở đây phải không?” “Đúng rồi, con trai”, bà ta nói, cặp mắt xanh nhạt cảnh giác và hóm hỉnh. “Đến giờ là năm mươi tư năm rồi.” “Gần đây bà có để ý thấy điều gì bất thường không?” Henry hỏi. Anh xoa một tay lên cái đầu hói. “Những hoạt động trong rừng ấy?” Những nếp nhăn trên khuôn mặt bà sâu hơn. “Việc này có liên quan gì đến cái chết của ngài Thượng nghị sĩ không?” “Không, thưa bà”, anh nói. “Chúng tôi vừa tìm được vài cái xác trong rừng.” “Xác loại nào?” Bà ta hỏi. Henry hắng giọng. “Của con người.” Bà ta quay sang ngóng cổ nhìn về phía công viên. Rồi bà nhìn sang Susan. Susan cũng cố mỉm cười lịch thiệp. “Đây là vợ cậu à?” Người phụ nữ hỏi Henry. Susan cười phá lên. “Không, thưa bà”, Henry nói. “Cô ấy là một phóng viên.” Susan giơ cuốn sổ tay lên còn tay kia thì vẫy vẫy chào. Henry nói tiếp, đổi chân một cách không thoải mái. “Bà có để ý thấy bất kì điều gì khác thường không? Có nghe thấy gì? Hay ngửi thấy gì không?” Có người nhà nào mất tích không, Susan nghĩ nhưng không nói ra. Người phụ nữ cân nhắc những câu hỏi của Henry. “Gần đây Bill cư xử kì lạ.” “Đó là chồng của bà à?” Henry hỏi. “Chú poodle loại thường của tôi”, bà nói. Susan thấy hai khóe miệng Henry khẽ nhếch lên trong một giây. “Lạ như thế nào?” Henry hỏi. Người phụ nữ cau mày. “Nó cứ đứng ở trước nhà nó. Sủa một chút. Không cho tôi lại gần.” “Bà có thả cho nó chạy vào rừng không?” Henry hỏi. “Đôi khi nó nhảy qua hàng rào”, bà nói. “Mặc dù luôn quay về.” “Giờ Bill đang ở đâu?” Henry hỏi. Bà ra hiệu cho họ đi theo, rồi dẫn họ đi một vòng đường mòn gạch cũ chạy dọc một phía ngôi nhà. Bà đang đi đôi ủng da cừu, và Susan để ý thấy Henry đi gần sau lưng bà, phòng khi bà trượt chân trên những viên gạch gồ ghê ẩm ướt ấy. Con đường được sáng bằng đèn chạy năng lượng mặt trời trong sân, nó có ánh sáng màu xanh nhờ, hầu như chẳng cung cấp được tí ánh sáng nào. Tuy nhiên, người phụ nữ vẫn vững vàng trên đôi chân mà không bị hụt một bước nào. Họ đi tới một cái cổng ở hàng rào tuyết tùng bao quanh sân sau và người phụ nữ mở nó ra, cánh cổng đánh một vòng cung trên nền tiếng sắt gỉ. Ngoài đó không có cái đèn nào và trời tối om. Henry lại bật đèn pin khi người phụ nữ biến mất trong bóng tối. “Thưa bà?” Henry nói. Ánh sáng tràn ngập trở lại, hé lộ một khoảng sân đầy thường xuân, và bà già xuất hiện ở hiên sau. “Bill”, bà nói với cái sân sau, “tao mang bạn đến gặp mày đây.” Susan nhìn khắp sân tìm chú chó. Thường xuân từ công viên đã bò lan cả hàng rào và lấn ngang nửa sân. Nó giống như một loại thủy triều bằng cây cỏ rất khó bỏ. Tất nhiên bạn có thể chặt bỏ, nhưng nó sẽ lại len lỏi vào, mỗi ngày một vài phân, cho đến khi bao phủ mọi thứ. Susan nghe thấy tiếng chó sủa và nhận ra cả chuồng chó cũng bị thường xuân phủ một nửa. Một chú poodle lớn màu đen đứng ở cửa chuồng mở toang. Chú chó mới được cắt tỉa lông gần đây, bộ lông đã được tỉa thành một loạt những khoanh và lùm, trông như một cái cây cảnh sống kì dị. Susan thấy Henry nhăn mặt. “Bill có thân thiện không?” Anh hỏi. “Như một con cừu”, người phụ nữ nói. Henry lắc đầu, bành vai lên và đi về phía chuồng chó. Bill gầm gừ. Henry dừng bước. “Như cừu à?” Anh ta hỏi. “Đừng để nó dọa cậu, con trai à”, người phụ nữ nói. “Cậu không nuôi mèo đấy chứ?” “Tôi có ba con”, Henry nói. Người phụ nữ tặc lưỡi. “Bill không thích mèo”, bà ta nói giọng không lành. “Susan?” Henry gọi. “Giúp đỡ một chút đi?” Susan chưa nuôi thú cưng bao giờ. Cô do dự. “Tôi không giỏi chơi với chó đâu”, cô nói. “Bước qua đây ngay”, Henry bảo. Susan từ từ tiến lại chỗ chú poodle. “Chào, Bill”, cô nói. “Bill ngoan nào.” Cô đưa tay ra để con chó ngửi tay mình. “Bill ngoan lắm.” “Có khi cô không muốn chạm vào nó đâu”, bà ta nói vọng ra từ trên hiên. Susan đông cứng và chú chó nhìn cánh tay đưa ra của cô rồi nhe răng. Nó không gầm gừ. Nó không phát ra một tiếng nào. “Có thể nó sợ tóc cô”, Henry bảo, trong lúc cố chuồi thân hình to lớn của mình quanh con chó đủ xa để chĩa đèn pin nhìn vào chuồng chó. Anh ở tư thế bò, cố đưa nửa người vào trong. Rồi anh lùi lại, ngồi cạnh con chó và bấm một số vào di động. “Archie”, anh nói qua điện thoại. “Tôi đây. Cô tóc vàng.” Anh dụi mắt bằng một bàn tay. “Có phải cô ta mất một bên cánh tay không?” Susan nghe giọng Archie bảo, “Ừ.” Henry liếc qua vai vào chuồng chó. Rồi nhìn sang Susan. Con chó gầm lên và nhìn cả hai nghi ngại. “Tôi tìm thấy nó rồi”, Henry nói. CHƯƠNG 12 T ên của người phụ nữ lớn tuổi là Trudy Schuyler. Susan đã chép đầy mấy trang sổ với thông tin về bà ấy. Chồng bà mất năm năm trước. Bà không có cái cưa gỗ nào. Bà cũng không biết đứa trẻ nào khớp với mô tả về cậu bé mà Archie trông thấy trong rừng. Bà từng là người ghi vé phạt, nhưng đã nghỉ hưu hai mươi năm nay. Bà có ba đứa con đã trưởng thành. Cảnh sát đã tạm giữ chú chó để theo dõi phân của nó, phòng khi nó đã tiêu hóa phải một vài manh mối. Với ý nghĩ ấy, họ đóng túi luôn cả đống phân chó trong sân. Đến tầm đó thì Susan ra về. Không có nhiều hoạt động diễn ra trong tòa nhà của báo Người đưa tin lúc 1 giờ sáng. Những người đuổi theo xe cứu thương đã túc trực sẵn để phụ giúp việc lên bài về Castle và Parker đều đã yên vị trên giường. Thậm chí các lao công cũng đã xong việc. Một bảo vệ đã cho Susan vào qua lối nhận hàng. Cô đi thang máy lên tầng năm, nơi Ian đang tất tưởi trong văn phòng với một biên tập viên ngôn từ, một biên tập viên tít báo, một nhà thiết kế, một biên tập viên hình ảnh, tất cả những người này đều bị triệu đến để sắp xếp câu chuyện với nhau. Bọn họ đều có vẻ mệt mỏi và hơi khó chịu. Susan cố không tỏ ra mệt mỏi và khó chịu. Cô cố làm ra vẻ tươi vui. Cô đã khiêu khích Ian đủ rồi. Và làm Ian tức giận sẽ không thể đưa câu chuyện của Molly Palmer lên bài được. Ngoan ngoãn may ra mới được. Mọi chuyện thật quá điên rồ, có khả năng sẽ công hiệu. Việc nộp bài muộn được gọi là “đuổi gấp”, có nghĩa là ngay khi Susan viết xong câu chuyện, họ sẽ ngăn bộ phận in, tuồn vào một khung mới rồi cho chạy máy tiếp. Rốt cuộc cô sẽ có một bài trong ấn bản về cái chết của ngài Thượng nghị sĩ. Chỉ có điều nó không phải là câu chuyện mà cô mong muốn. Susan dợm bước đến phòng của Ian, nhưng Ian đã trông thấy cô qua lớp tường kính. Anh ta giơ một tay lên ngăn cô lại, rồi chỉ vào đồng hồ của mình, và chỉ sang bàn cô. Cô ngoan ngoãn bước lại bàn, thả túi xuống dưới chân, đặt sổ cạnh bàn phím và gọi cho Molly Palmer. Không có gì. Nếu Ian sắp sửa cho đăng bài, Susan biết là nó phải có cứ liệu chắc chắn, kiểm tra đi kiểm tra lại từng li từng tí. Cô để lại một tin nhắn thoại. “Nghiêm túc đấy, Molly.” Susan nói. “Cô cần gọi lại cho tôi.” Cô quấn dây điện thoại quanh ngón tay, siết chặt một khấc ngón tay đến nỗi nó bắt đầu đỏ lựng lên. “Mọi chuyện sẽ ổn. Ông ta chết rồi. Hãy đưa câu chuyện này ra công chúng.” Cô nghĩ đến cơn bão của giới truyền thông mà sau này chắc chắn Molly phải hứng chịu. “Cô quan tâm đến câu chuyện nhiều hơn là con người”, Henry đã nói vậy. Susan cắn môi. “Nếu cô muốn trốn đi một lúc, không sao cả”, cô nói vào điện thoại. “Nhưng tôi cần cô nói chuyện với vài người trước đã, okay?” Susan tháo ngón tay ra và cúp máy. Đèn chưa được bật hết và cả tầng đều im lặng, phải vất vả mới nhìn sang bên kia phòng được. Trừ đám người trong văn phòng Ian, người còn lại duy nhất trên tầng này là một anh chàng bên phòng thể thao, anh ta đeo tai nghe và gõ thứ gì đó mà chính anh ta cũng chẳng buồn quan tâm. Cô bắt đầu gõ điên cuồng. Cô Jane Doe. Hai cái xác mới. Khả năng có một sát nhân hàng loạt ở Công viên Forest. Nó là kiểu bài mà Parker sẽ thích. Nghĩ đến ông khiến cô lại ngập ngừng, những ngón tay giơ trên bàn phím, và cô liếc từ màn hình của mình sang những ngọn đèn trên West Hills bên ngoài cửa sổ lớn của tờ Người đưa tin. Cô liếc sang bàn của Parker. Có thêm hai bó hoa mới. Trông nó bắt đầu giống một nấm mồ. Susan đứng dậy và đi vào phòng nghỉ giải lao, mò quanh những ngăn tủ bếp cho đến khi tìm được một bình thủy tinh lớn, một bình cà phê và ba cái cốc uống nước. Cô đổ đầy nước vào chúng và đi vài lượt để mang chúng trở lại bàn Parker. Cô cố hết sức cắm những bông hoa đã tàn vào lọ, nhưng cành của chúng đã oằn xuống và bông hoa ngoặt ngoẹo sang hai bên. Những bông hoa ấy khiến cô nhớ đến Archie Sheridan, sân nhà anh cũng ngập trong hoa suốt khoảng thời gian mười ngày anh mất tích, và Debbie Sheridan từng có lần kể với cô rằng cô ấy không chịu nổi mùi hoa tươi nữa. Chúng khiến cô ấy nghĩ đến cái chết. Susan ngồi xuống ghế của Parker, xoay vòng, cố chui vào trong đầu ông ta, để tìm hiểu xem ông ta sẽ viết về câu chuyện các vụ án mạng trong công viên Forest như thế nào. Đúng lúc ấy đầu gối cô chạm vào ngăn kéo tài liệu trên bàn Parker. Mỗi bàn chỉ có một cái. Chúng luôn được khóa kĩ. Susan giấu chìa khóa dưới một cái cốc đựng đầy bút trên mặt bàn cô. Cô đã học cách đó từ Parker. Cô đưa tay ra và nhấc cái cốc Hooters đựng bút chì số hai đang nằm trên bàn Parker, làm lộ ra một chiếc chìa khóa màu bạc bé xíu. Rồi cô tra chìa khóa vào ngăn kéo và xoay. Nó mở ra. Bên trong, ở phía ngoài ngăn kéo là những chồng hồ sơ dày đánh dấu bằng những cái tên mà Susan nhận ra là có liên quan đến những câu chuyện mà Parker đưa tin. Cô dò ngón tay dọc gáy hồ sơ đến khi tìm được một cái kẹp ba vòng xoắn to, màu đen, nó đã bị đẩy tới tận cuối ngăn kéo. Ở gáy của nó là một cái nhãn, và hàng chữ viết tay gầy gò của Parker ghi “Mỹ nhân đoạt mạng”. Trúng quả rồi. Cô lôi tập hồ sơ ra khỏi ngăn kéo, khóa nó lại, bỏ chìa khóa vào chỗ cũ và mang cả tập giấy dày sang bàn mình, đúng lúc Ian ló đầu ra khỏi văn phòng và hò la, “Tôi muốn ngủ một chút đêm nay.” “Sắp xong rồi”, Susan nói. Cô tuồn tập hồ sơ lên sàn nhà cạnh túi của mình, đặt một chân lên đó để bảo vệ. Mặt cô đỏ lên vì háo hức, và vì văn phòng vẫn tối nên cô không nghĩ là Ian nhận ra. CHƯƠNG 13 A rchie vẫn không chắc anh đồng ý để Sarah Rosenberg trị liệu cho mình vì cần được giúp đỡ, hay là vì muốn có cái cớ để ngồi trong căn phòng mà Gretchen Lowell đã chuốc thuốc mê để bắt giữ anh. Đây là buổi trị liệu sáng thứ Hai của anh. Không còn những ngày Chủ nhật ghé qua nhà tù bang để thăm Mỹ nhân đoạt mạng nữa, nhưng thứ Hai nào anh cũng dành một giờ ngồi đối diện với cái bàn gỗ lớn của Gretchen. Trên một trong những chiếc ghế bành kẻ sọc bọc đệm dày của ả. Anh nhìn chiếc đồng hồ quả lắc của ả, thời gian đã bị kẹt lại ở 3 giờ 30 phút. Anh nhìn giữa những tấm rèm nặng nề bằng nhung màu xanh lục, ra ngoài cây anh đào rậm lá bên ngoài cửa sổ. Chỉ có điều không có thứ gì ở đây thuộc về Gretchen. Ả đã dùng tên giả để thuê lại căn nhà từ một nhà tâm lý học đã đi nghỉ ở Ý. Đây là nơi cuối cùng cảnh sát lần được theo dấu vết Archie. Nhưng đến lúc ấy thì Gretchen đã chuyển anh sang một ngôi nhà khác. Nhà tâm lý học, Tiến sĩ Sarah Rosenberg, và gia đình chị đã quay trở lại; chiếc thảm đã bị Archie đánh đổ cà phê chứa thuốc mê giờ đã được thay thế. “Hôm nay tôi muốn nói chuyện về Gretchen Lowell”, Rosenberg nói. Đây là buổi thứ tư của họ. Và là lần đầu tiên chị nhắc đến Gretchen. Archie ngưỡng mộ sự kiềm chế của chị. Anh hớp chậm rãi một ngụm cà phê từ cốc giấy mà anh đã đặt trên tay ghế. “Được”, anh nói. Anh cảm thấy ấm áp và dễ chịu, vừa đủ hứng khởi để có thể thư giãn, không đủ hứng tới mức làm Rosenberg chú ý. Rosenberg mỉm cười. Chị có thân hình dẻo dai với mái tóc tối màu xoăn tít buộc túm sau gáy, có lẽ già hơn Archie đôi chút, mặc dù ai thoạt trông cũng đoán Archie lớn tuổi hơn. Anh thích chị ta. Chị giỏi hơn chuyên gia tâm lý của cơ quan mà anh đã phải gặp suốt sáu tháng. Nhưng vì lí do nào đó, Archie vẫn luôn thấy thoải mái hơn khi nói chuyện với phụ nữ. “Tôi muốn nói về sáu tuần mà anh quen biết cô ta trước khi cô ta để lộ mình”, chị nói. Đó là một điều mà văn phòng anh không muốn nói tới, cái thực tế Gretchen đã xâm nhập vào cuộc điều tra lâu đến thế trước khi để lộ mình. Việc đó làm họ có vẻ không mẫn tiệp lắm. Archie thở dài và nhìn sau lưng Rosenberg ra ngoài cửa sổ. “Một ngày nọ cô ta cứ thế xuất hiện”, anh nói. “Cô ta bảo mình là một chuyên gia tâm thần học. Cô ta đã điều khiển vài buổi tư vấn nhóm. Tôi cũng đã tham vấn cô ta về hồ sơ tội phạm.” Anh xoa bóp gáy và mỉm cười. Mùi cà phê thoảng lên từ trong cốc. Anh đã mang theo cà phê bởi nếu không mang theo, đôi khi anh cảm giác mình vẫn ngửi thấy mùi tử đinh hương. “Có vẻ như cô ta có vài thông tin trong cuộc”, anh nói. Rosenberg ngồi trên một chiếc ghế kẻ sọc khác, chỗ Gretchen từng ngồi. Chị bắt tréo chân và cúi người. “Như thế nào?” Chị hỏi. Một chú sóc bỗng nhảy lên một cành anh đào, làm lá của nó rung rinh. Archie uống thêm một ngụm cà phê nữa rồi đặt nó trở lại tay ghế. “Cô ta là người đầu tiên gợi ý rằng kẻ sát nhân có thể là một phụ nữ”, anh nói. Rosenberg giữ một tập giấy ghi chú màu vàng trên đùi và viết điều gì đó. Chị mặc chiếc quần rộng màu đen, áo sơ mi xanh lục và đi đôi tất vàng cùng màu với cuốn sổ. “Phản ứng của anh với chuyện đó là như thế nào?” Chị hỏi. Archie để ý thấy chân trái của anh bắt đầu run không ngừng. Anh thúc gót xuống sàn nhà. “Chúng tôi gần như đã cạn kiệt mọi đầu mối khác”, anh nói. “Cô ta có mời tư vấn cá nhân không?” Rosenberg hỏi. “Có”, Archie nói. “Cô ta tư vấn cho anh chứ?” Chị hỏi. Anh lôi hộp thuốc ra và cầm nó trong nắm tay đặt trên đùi. “Vâng.” “Chỉ mình anh à?” “Vâng.” Nếu Rosenberg để ý tới chiếc hộp, chị cũng không nói gì. “Hai người đã nói về chuyện gì?” Chị hỏi. “Vẫn là những chuyện như tôi và chị nói với nhau đây”, Archie nói. “Công việc của tôi.” Thực tế anh đã cởi mở với Gretchen hơn. Anh đã chia ẳ sẻ tất cả mọi thứ. Sự căng thẳng của cuộc điều tra. Áp lực mà nó đặt lên mối quan hệ của anh với Debbie. “Cuộc hôn nhân của tôi.” Rosenberg nhướng một bên chân mày. “Hẳn là anh khá buồn bực khi nhận ra mình đã chia sẻ tất cả những ý nghĩ riêng tư ấy với một kẻ giết người.” Khá buồn bực. Đó cũng là một cách nói. Điều buồn cười là ở chỗ, lúc đó, anh thấy mừng vì có người tâm sự cùng. Quá tệ vì ả lại rạch mặt người khác làm thú vui. “Cô ta là người giỏi lắng nghe”, Archie nói. “Vậy là anh dành nhiều thời gian với cô ta hơn những người khác”, Rosenberg nói, bút của chị đặt sẵn trên tập ghi chép. “Vâng”, Archie nói. “Tôi đoán vậy.” “Anh đã có những buổi tư vấn ở đâu?” Chị hỏi. Archie giơ một tay lên. “Ngay đây.” Rosenberg ngồi thẳng dậy và nhìn xung quanh văn phòng tại nhà của mình. “Tôi hiểu vì sao cô ta lại tư vấn cho anh về một vụ án ở đây, nhưng việc kia là bất thường. Chuyện cô ta đã thực sự trị liệu cho anh trong nhà cô ta.” “Tại sao?” Archie hỏi. “Chị đang làm thế đấy thôi.” “Tôi là nhà tâm lý”, Rosenberg nói. “Cô ta bảo mình là chuyên gia tâm thần.” Chị viết điều gì đó vào sổ ghi chép, vừa viết vừa lắc đầu. “Cô ta có phải chuyên gia tâm thần học thật đâu”, Archie nhắc nhở chị. Rosenberg nhìn lên từ cuốn sổ. “Anh đã bao giờ nghi ngờ cô ta chưa?” Chị hỏi. Chân anh lại run. Archie không buồn ngăn nó lại nữa. Cảm giác khá tốt, một nơi để nguồn năng lượng bồn chồn được thoát ra. Anh nâng cốc cà phê lên nhưng không hề uống. “Đến tận lúc loại thuốc tê liệt mà cô ta lén thả vào cà phê của tôi phát tác”, anh nói. Anh đặt cái cốc giấy lên sàn, mở hộp thuốc trên đùi mình, lấy ra một viên và nuốt chửng. “Cái gì đấy?” Rosenberg hỏi. “Altoid[9]“, Archie nói. Rosenberg mỉm cười. “Tôi không chắc là anh nên nuốt chúng.” Archie cười với chị. “Tôi đang đói.” Rosenberg cúi người, thả chân rồi lại bắt tréo. “Tôi không thể giúp anh nếu như anh không trung thực với tôi”, chị nói. Archie nhìn xuống hai bàn tay mình. Đôi khi anh nghĩ anh có thể trông thấy đường viền mờ mờ của nơi từng có chiếc nhẫn cưới. “Đôi khi tôi nghĩ về cô ta”, anh khẽ nói. “Về Gretchen Lowell à”, Rosenberg nói. Archie nhìn lên. “Tôi hình dung mình ngủ với cô ta”, anh nói. Rosenberg đặt bút lên cuốn sổ. “Cô ta đã bắt giữ anh mười ngày”, chị nói. “Anh đã bất lực. Có lẽ những ảo tưởng của anh là một cách để chơi trên cơ cô ta.” “Thế ra là nó hoàn toàn lành mạnh à”, Archie nói. “Có thể hiểu được”, Rosenberg nói. “Chứ tôi không nói là nó lành mạnh.” Chị với tay qua và đặt một bàn tay lên cánh tay Archie. Chị mang nhẫn trên tất cả các ngón tay. “Anh có muốn vượt qua nó không? Để bỏ thuốc? Để vượt qua chuyện đã xảy ra? Để hạnh phúc với gia đình mình?” “Có”, Archie nói. “Đó là bước đầu tiên.” Archie xoa gáy. “Có bao nhiêu cả thảy?” Rosenberg mỉm cười. “Bớt được một bước.” Có năm viên Vicodin[10] xếp hàng như năm phím piano nhỏ trên bàn làm việc của Archie. Anh lùa tất cả vào tay rồi nuốt trôi bằng chỗ cà phê lạnh còn lại sau buổi gặp Rosenberg. Lúc đó là giữa buổi sáng và họ vẫn đang chờ báo cáo của phòng khám nghiệm về những cái xác mới. Archie liếc sang câu chuyện của Susan Ward trên tờ Người đưa tin đang đặt trên đùi anh. Đứa trẻ bí ẩn dẫn cảnh sát tới những cái xác mới. Thậm chí nó còn không được lên trang đầu. Nó nằm ở mục Đô thị, bị đè nén bởi các bài về cái chết của ngài Thượng nghị sĩ. Có lẽ cha mẹ của đứa trẻ bí ẩn kia sẽ đọc câu chuyện và kết nối sự việc lại với nhau. Archie muốn ít nhất chứng minh được với Henry là anh đang không điên. Trong lúc đó, họ đang giữ chú chó poodle. Để phòng khi anh đã bỏ qua đầu mối nào đó. Archie chạm vào mạn sườn phải, chỗ chuột rút lâu năm của anh đã trở lại. Vicodin không giúp được gì. Anh mở ngăn kéo bàn, và lại là Gretchen ở đó. Đêm hôm trước anh đã quay lại chỗ thân cây để lấy cuốn sách. Anh tự nhủ mình chỉ không muốn xả rác, không muốn một trong các nhân viên hiện trường tìm thấy nó, anh muốn kết thúc bằng việc cho nó một mồi lửa… Vậy thì tại sao anh lại mang nó về văn phòng, phủi hết bùn và đặt nó vào ngăn kéo bàn mình? Raul Sanchez ló đầu vào cửa văn phòng Archie làm anh đóng sầm ngăn kéo lại. Sanchez đã bỏ mũ FBI và cởi áo khoác gió ra để mặc bộ vest nâu cùng cà vạt. Bạn gần như không thể nhận ra nó là loại kẹp sẵn. “Đi gặp Thị trưởng”, anh ta giải thích. “Họ đang lên kế hoạch cho một đám tang trước công chúng ở Waterfront rồi. Loa đài. Lều chõng. Toàn bộ món hổ lốn ấy.” Anh ta cười với chỗ chơi chữ. “Giao thông ở trung tâm sẽ tắc cứng cho mà xem.” “Tôi sẽ chuồn khỏi thành phố”, Archie nói. Trông thấy người ta khóc lóc thương tiếc Castle hơi vượt quá sức chịu đựng của anh lúc này. “Anh có tới lễ tang của Parker không?” Sanchez hỏi. “Có”, Archie nói. Đám tang Parker là vào chiều hôm đó. Đám này thì chẳng có lều trại gì. Không có đội kiểm soát đám đông. Gia đình ông ta hẳn đã phải vượt muôn vàn trắc trở để sắp đặt được nhanh như thế. Archie nghĩ anh biết tại sao. Sanchez do dự rồi bóp gáy. “Nồng độ cồn trong máu ông ta là 0,24.” Anh ta nhìn vào Archie đầy ẩn ý, rồi gãi cái cằm râu ria. “Tôi nghĩ là anh sẽ muốn biết.” Archie nhắm chặt mắt lại. “Chết tiệt.” Họ sắp đưa ông ta vào lòng đất vừa kịp thời gian. “Chúng ta sẽ chờ đến sau đám tang của ông ấy”, Sanchez nói. “Mai mới công bố.” “Cảm ơn anh”, Archie nói. Sanchez quay người định đi. “Anh có nhận được tin nhắn của tôi về việc tại sao Parker lại đi gặp Castle không?” Archie hỏi. “Câu chuyện của Susan Ward đó?” “Điên rồ hết sức”, Sanchez nói và quay lại. Anh ta nhún vai. “Nhưng vẫn chẳng thay đổi được kết quả xét nghiệm máu.” Archie thở dài và dựa người lên ghế, hai bàn tay khoanh trước ngực. Hộp thuốc bằng đồng ấn vào một bên đùi. Gretchen Lowell cười với anh trong ngăn kéo bàn. “Không”, anh nói. Susan loay hoay với đường viền trắng trên chiếc váy nâu. Cô quyết định không mặc đồ đen. Nó tang tóc quá. Chiếc váy nâu là một thiết kế hoài cổ, thân chữ A, tay áo chờm vai với đường viền trắng và hai chiếc khuy trắng lớn ở ngực. Cô đã kẹp gọn mái tóc xanh ra sau. Vì vài lí do, nó có vẻ quá lòe loẹt và bất kính trong dịp này. Có khá nhiều người ở nhà thờ, có lẽ tới vài trăm người. Susan nhận ra nhiều gương mặt từ tòa báo. Các hàng ghế gỗ chật cứng người, còn đằng sau thì chỉ được đứng. Cơn mưa đã tạnh và mặt trời đang ló ra qua những tấm kính màu, thảy những khung ánh sáng hình thang nhiều màu lên sàn gỗ. Parker được đặt phía trước bệ thờ, trong một chiếc bình sứ tráng men. Susan ngồi hàng ghế thứ ba. Cô đã đến sớm. Susan gần như không bao giờ đến sớm. Nhưng cô đã đến trước giờ tang lễ một tiếng, và sau hai mươi phút khóc lóc trong xe ở bãi đỗ, cô vào trong và chiếm được hàng ghế phía trên. Cô trông thấy Derek, anh ta ngồi ở đằng sau cùng vài phóng viên trong thành phố. Anh ta cố bắt gặp ánh mắt cô, nhưng cô lảng tránh. Rồi cô trông thấy Archie Sheridan đi vào cùng gia đình anh và ngồi sau cô vài hàng ghế ở phía đối diện. Anh mặc bộ vest đen và đi giày đen bóng loáng, ngồi choàng tay sau vợ cũ. Cô ấy mặc chiếc váy đen sát nách, để lộ hai cánh tay thon thả rám nắng. Con trai họ mặc bộ vest xám và cô con gái nhỏ thì mặc chiếc váy xám đục lỗ. Trông bọn họ như một tấm ảnh mẫu của những bộ cánh nên mặc tới đám ma vậy. Susan nhìn xuống nhìn trang phục của chính mình. Cô trông như đang làm việc cho Mr. Steak. Ông chủ của tờ Người đưa tin, Howard Jenkins, đọc điếu văn. Vài phóng viên lớn tuổi hơn trong tòa báo phát biểu. Cùng trang lứa với họ không còn mấy ai. Hầu hết nhân viên trên năm mươi tuổi của tờ Người đưa tin đều đã nhận được những lời đề nghị về hưu và lĩnh một lần tiền để tờ báo tiết kiệm được khoản lương hưu. Parker là một tượng đài. Parker là phóng viên của các phóng viên. Parker là người chuyên đào bới chuyện xấu xa, một người hùng địa phương, một chiến binh cho những người bị hại, một quán quân, một viên ngọc quý, nhân viên của năm chết tiệt. Chúa ơi, toàn lời lẽ vớ vẩn. Susan ngồi dậy, ép mình đi qua bốn mươi cái đầu gối, chân và ví tiền, rồi đi nhanh hết sức có thể để ra ngoài cửa, vào hành lang, xuống cầu thang trải thảm và ra khỏi nhà thờ. Nhà thờ đá cổ kính có một cái sân nhìn ra Park Blocks. Vài chiếc bàn với những chiếc khăn trải bàn màu hồng bay phất phơ đã được dọn ra để phục vụ đồ uống sau tang lễ. Trên đó có một chiếc bình lớn bằng bạc đựng cà phê và một bát thủy tinh đựng rượu hoa quả. Vài chiếc đĩa đựng trứng ác quỷ phơi dưới nắng. Mấy chai Wild Turkey xếp thành một hàng liền nhau. Susan cười. Ở bên kia phố, trong công viên, mọi người đi bộ lướt qua. Giờ cao điểm giữa trưa làm con phố bị nghẽn. Hai tay Susan đang run rẩy. Archie Sheridan đã xuất hiện ở cửa ngay khi cô vừa chạy qua. “Cô ổn chứ?” Anh lặng lẽ hỏi. Susan quay đầu xấu hổ và lục tìm trong túi. “Tôi chỉ cần điếu thuốc thôi mà”, cô nói và lôi ra một bao màu vàng. Archie đi xuống mấy bậc cầu thang đá và dựa vào bức tường nhà thờ bên cạnh trong lúc cô tìm bật lửa. “Theo luật thì Parker đã say trong lúc lái xe lao khỏi cầu”, anh nói. “Họ sẽ công bố chuyện đó vào ngày mai.” Susan giơ bật lửa lên đầu điếu thuốc. Ngọn lửa liếm và nhảy lên, rồi nó phẳng ra khi cô rít vào. Sau đó nó sẽ lại bùng lên, nhưng cô vẫn thấy tiếc khi nó tàn đi. “Lúc nào mà Parker chẳng say nếu căn cứ theo luật”, cô nói. “Anh biết mà.” Cô thả chiếc bật lửa lại túi mình. “Ông ấy nghiện rượu mà.” Archie thọc hai tay vào túi quần và nhìn chằm chằm vào những viên sỏi rải đường. “Cồn trong máu ông ấy lên đến 0,24, Susan à.” Tiếng đàn organ vang lên bên trong nhà thờ. “Khi các Thánh tiến lên.” Susan thậm chí không biết chuyện Parker có đạo. Cô lắc đầu. Việc này thật điên rồ. Họ không thể đổ hết tội cho Parker. Đó là Castle kia mà. Lão già đó mới là con quái vật, là tên khốn, là kẻ bệnh hoạn; Parker là nạn nhân. “Còn Castle thì sao?” Cô hỏi. “Ông ta vẫn có thể tóm lấy tay lái chứ.” “Xét nghiệm máu của Castle cho kết quả sạch sẽ”, Archie nói. “Không có xét nghiệm nào kiểm tra được những thôi thúc tự sát cả.” Tiếng nhạc organ nổi lên to hơn khi cánh cửa bên cạnh nhà thờ mở ra. Vài người lang thang xuống dưới sân. Rồi lại thêm mấy người nữa. Susan theo dõi họ bước tới chỗ mấy cái trứng ác quỷ và bắt đầu ăn, dường như không hề lo ngại khuẩn salmonella. Một người phụ nữ trạc lục tuần bước tới chỗ Archie và anh hôn lên má bà. “Margery”, anh nói. “Tôi rất tiếc.” Đó là vợ của Parker. Susan chưa bao giờ gặp bà, nhưng đã trông thấy bà trong nhà thờ, cùng hai cô con gái độ ngoài ba mươi của bà, và kết nối câu chuyện với nhau. Parker từng nói con gái ông rất giống vợ, và ông nói đúng. Họ là những người phụ nữ có mái tóc dày với cần cổ dài và dáng đứng thẳng tưng, cặp mắt to đảo qua đảo lại dưới phần tóc mái dày dặn. Tóc Margery đã ngả bạc, các con gái bà thì tóc nâu. Margery lau vệt trứng ác quỷ còn trên miệng. “Cậu đến đây thế này thật tử tế quá”, bà nói với Archie. Bà ôm anh, đầu tiên là cầm bím tóc tết dày của mình và hất nó qua vai. Rồi bà cười với Susan. Bà có cặp mắt xanh nhạt, giống mắt Parker, và nước da trắng của bà kết hợp với mái tóc bạc khiến bà gần như người bạch tạng. “Cô là Susan”, bà bảo. “Sao bà biết?” Susan hỏi. Cô đưa tay lên chạm vào mái tóc xanh ngọc. “À phải.” “Quentin nghĩ cho cô nhiều lắm.” Susan thấy khóe mắt cay cay. “Tôi cũng mến ông ấy lắm”, cô nói. Cô liếc sang Archie, những mong anh ra dấu cho cô là anh sẽ bảo vệ kí ức về Parker, bảo vệ gia đình ông khỏi ẩn ức là chính ông đã có lỗi. Nhưng Archie đang nhìn qua cả hai người họ tới chỗ Debbie đứng cùng hai đứa con ở gần cửa ra của sân sau. “Tôi phải đi rồi”, anh nói. “Đang điều tra vụ án à?” Margery hỏi. “Hôm nay là sinh nhật con gái tôi”, Archie nói. CHƯƠNG 14 N hững chiếc mũ cướp biển bằng giấy bìa được đưa tới với dạng phẳng lì, nên Archie phải gập chúng lại thành hình mũ rồi đội vào đầu từng cô bé con trong đám mười đứa nhóc học lớp một, giữ thẳng cái mũ bằng sợi dây thun kéo xuống dưới cằm. Họ có những lá cờ Mardi Gras và Jolly Roger cùng với sô-cô-la đồng xu. Hầu hết các cô bé đều bỏ qua vòng bịt mắt bằng nhựa đen. Chuyện Sara lấy đâu ra cái ý tưởng làm bữa tiệc sinh nhật chủ đề cướp biển này thì Archie mù tịt. Các cô gái đang có một trận đấu kiếm vô cùng phức tạp trong phòng khách, rõ ràng là với chiếc thuyền làm từ ghế sofa. Debbie đang tiếp rượu cho các phụ huynh trong bếp. Ben né ở trong phòng mình. Archie giữ nhiệm vụ canh trẻ, đứng khoanh tay cạnh cửa để theo dõi đội nữ cướp biển tham chiến với những cái gối. Sara thì thầm điều gì đó vào tai một cướp biển khác rồi chạy tới, lao vào đùi anh. “Bố ơi”, con bé hụt cả hơi. “Chúng con cần bố làm cướp biển xấu.” Archie quỳ xuống để vừa tầm cao của cô bé. “Bố cho là tất cả các con đều là cướp biển tốt?” “Vâng ạ”, nó nói. “Và bố phải chiến đấu với các con?” Anh hỏi. Sara vươn người với biểu cảm lo ngại và thì thào, “Bố có biết làm cướp biển như thế nào không ạ?” Archie đứng dậy, cầm một con dao cướp biển bằng cao su được trưng bày trên bàn đầy đồ ăn vặt, và anh nhét nó vào mồm kêu “Aaaaa”, rồi lao đến chỗ sofa. Các cô gái nhỏ ré lên, chạy tán loạn rồi vừa bu quanh anh vừa cười khúc khích. Khi đó anh nghe thấy giọng Debbie nói. “Henry đến rồi này.” Anh nhìn lên, vẫn đang cười và trông thấy Henry đứng cùng Debbie ở ngưỡng cửa. “Anh đến muộn”, Archie nói và cười. Rồi anh để ý thấy bạn mình còn chưa tháo bao súng trên vai. Henry biết luật súng ống của nhà này. Điều đó chỉ có một ý nghĩa. “Và anh không ở lại.” Sara cũng đã trông thấy Henry, nó lao từ trên sofa xuống và chạy về phía anh ấy, vòng hai cánh tay quanh eo anh. “Bác Henry!” Nó hét lên vui sướng. Henry ôm con bé và lôi ra một món quà nhỏ gói ghém vụng về từ trong túi áo đưa cho con bé. “Bác chỉ muốn mang cái này qua”, anh nói. “Chúc mừng sinh nhật!” Con bé sướng rơn, vòng tay ôm cổ, hôn anh ta rồi vội vã quay về chiếc tàu sofa. Archie có thể đoán có tin tức xấu dựa vào ánh mắt nặng nề của Henry. Anh nghĩ mình đã được hạnh phúc trong một phút. Và đó là sai lầm của anh. Anh đưa trả thanh gươm cao su cho Sara và tách mình khỏi mấy cô bé. Chúng lập tức trượt xuống khỏi anh và bắt đầu tổ chức trò bước trên tấm ván. Debbie đứng ở ngưỡng cửa cạnh Henry, hai tay khoanh lại. Khi Archie đi qua chỗ Henry, cảm thấy cơn đau nhói dưới mạng sườn lại bắt đầu. “Có chuyện gì vậy?” Archie hỏi. Henry do dự. “Đã có một vụ việc ở trong tù.” Cơn đau biến mất. Archie thẳng lưng lên một chút. “Cô ta có sao không?” Henry vươn người tới và nhỏ giọng, nhỏ đến mức Archie phải căng tai ra nghe bên trên tiếng cười của lũ trẻ. “Cô ta đang trong trạm xá. Cô ta đã bị tấn công. Tồi tệ lắm, Archie ạ. Chúng ta có vấn đề thật sự đấy.” Đột nhiên Archie ý thức được Debbie đang đứng cạnh họ. Cô đứng bất động hoàn toàn trong một giây, rồi chậm rãi đưa tay ra và chạm vào cánh tay Henry. “Đừng”, cô bảo Henry. “Đừng làm thế. Không phải hôm nay.” Henry thở dài và lắc đầu. “Là một lính gác đấy”, anh ta giải thích. “Chúng ta cần cô ta cho biết đó là ai. Cô ta chỉ nói chuyện với Archie.” “Không”, Debbie nói. Cô quay sang Archie. “Hôm nay là sinh nhật con gái anh. Henry có thể xử lý được.” Archie cầm hai tay cô và nhìn vào mắt cô, mẹ của những đứa con anh, và anh cố giải thích. “Cô ta là trách nhiệm của anh.” Debbie nhắm mắt lại. Rồi cô để hai tay mình rơi khỏi tay chồng và quay lại với các cô bé. Cô vỗ hai tay vào nhau. “Ai muốn ăn bánh nào?” Cô hỏi. Nhà tù tiểu bang Oregon là một khu liên hoàn của những tòa nhà màu vàng mỡ nằm ẩn sau bức tường gạch trát thạch cao có hàng rào thép gai bên trên. Nhà tù nằm ở phía Nam Portland cách khoảng một giờ đi xe, trong khu Salem, bao quanh là tám mươi ngàn mét vuông cánh đồng bên rìa đường quốc lộ. Nó giam cả nam và nữ tù nhân, và là nhà tù bảo mật tối đa duy nhất của toàn bang. Archie và Henry đã dành quá nhiều thời gian ở đó kể từ khi bắt được Gretchen đến nỗi họ biết rõ từng hành lang, từng lính gác. Trạm xá là một căn phòng dài không cửa sổ khoảng 9 x 12 mét, nằm giữa tòa nhà chính. Những bức tường bê tông được sơn màu xám và sàn nhà trải thảm nhựa hoa văn lốm đốm. Căn phòng trống trơn. Không có bức ảnh treo tường nào để làm bạn yên tâm hơn. Trong phòng có bốn cái giường, mỗi cái đều có rèm che riêng tư. Một mùi ngòn ngọt, mùi máu và mùi xú uế thấm vào mọi thứ. Một y tá nhà tù trong bộ quần áo phẫu thuật đang ngồi sau chiếc bàn cao đến mũi kê gần cửa. Anh ta ngước lên, trông thấy thẻ nhận dạng do nhà tù in và lại cúi xuống biểu đồ anh ta đang đọc. Archie đi qua đó tới cuối phòng, nơi anh thấy có lính gác đứng. Lúc nào Gretchen cũng phải di chuyển kèm một lính gác. Anh không chuẩn bị tâm lý cho thứ tìm được khi vòng qua bức rèm. Gretchen đang bị trói trên giường, cổ tay và cổ chân cố định bằng còng tay da. Đầu ả xoay sang bên, hai mắt nhắm nghiền. Ả đang mặc bộ đồ bệnh viện và Archie có thể thấy những vết bầm tím sâu trên cả hai cánh tay mềm mại của ả. Tụ máu. Da sưng lên và sẫm màu do tế bào máu bị vỡ. Họ đã tìm thấy ả trong phòng như thế. Cuộn tròn trên sàn nhà. Bộ kiểm tra ban đầu tình trạng bị cưỡng bức đã cho kết quả dương tính với tinh dịch. Nghĩ đến việc đó làm Archie muốn bệnh. “Cho chúng tôi một phút”, Henry nói với lính gác. Lính gác chậm rãi lắc đầu. “Tôi được lệnh phải ở đây với cô ta.” Henry nghiêng đầu về phía cơ thể nằm rũ ra của Gretchen. “Cô ta đã bị trói vào giường rồi, Andy. Cho chúng tôi một phút.” Lính gác liếc vào thân thể mềm oặt, thâm tím của Gretchen. “Tôi sẽ đợi ở cửa, nếu các anh cần gì”, anh ta nói. Archie đi vòng quanh chiếc giường để đến chỗ cái ghế nhôm và ngồi xuống. Gretchen không động đậy. Anh đưa tay ra và nắm tay ả. Bàn tay mát lạnh và thon thả. Hai mí mắt ả mấp máy mở ra và ả cười khi trông thấy anh. “Vậy là phải làm như thế này mới khiến anh chú ý nhỉ?” Ả nói yếu ớt. Một đầu kim truyền moóc phin đang được dán vào cánh tay ả, nhịp nói chuyện chậm rãi và cẩn thận. “Ai đã làm việc này với cô?” Archie khẽ hỏi. Cặp mắt xanh của ả lướt sang Henry. Archie biết ả muốn Henry ra khỏi phòng, nhưng anh sẽ không đề nghị. Anh biết Henry sẽ không đi đâu cả. “Nói cho tôi biết ai đã làm việc này”, Archie lại nói. Ả nhướng một bên chân mày. “Như thế là vi phạm quy ước ngầm của nhà tù.” “Ôi quỷ tha ma bắt”, Henry nói. Archie bắn cho Henry một cái nhìn. “Cứ để tôi lo việc đó”, anh nói với Gretchen. “Anh đang lo cho em đấy à?” Ả hỏi để đánh giá anh. “Ngọt ngào quá, anh yêu. Nhưng việc của anh không phải là bảo vệ em.” Ả hạ giọng như một kiểu thông đồng giả dối. “Mà là bảo vệ người khác khỏi em.” “Đừng hiểu lầm mối quan tâm của tôi”, Archie nói. “Cô là tù nhân của tiểu bang. Tôi là nhân viên của bang này. Cho đến khi chúng tôi xác định được tất cả những người đã bị cô hãm hại, tình hình của cô vẫn nằm trong mối quan tâm của tiểu bang.” “Lãng mạn quá thể”, ả nói với tiếng thở dài. Ả xoay đầu sang Henry. Ả đã biến việc lờ tịt anh ta thành cả một nghệ thuật. Ả chưa bao giờ phản ứng với bất kì điều gì Henry nói ra, và đã thực hiện biết bao cuộc nói chuyện với Archie như thể Henry chưa từng có mặt. “Nói cho em biết chuyện này, """