" Tôi là Số Bốn - Pittacus Lore full prc pdf epub [Giả Tưởng] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôi là Số Bốn - Pittacus Lore full prc pdf epub [Giả Tưởng] Ebooks Nhóm Zalo To âi Laø Soá 4 [I’m Number 4] Tác Giả: Pittacus Lore Nguyên tác: I Am Number Four [Lorien Legacies #1] Thể Loại: Tiểu Thuyết, Giả Tưởng, Bestseller Dịch Giả: Tịnh Thủy Nhà xuất bản: Trẻ Số trang: 564 Bìa: Mềm Năm phát hành: 2011 Kích thước: 13 x 20 cm Trọng lượng: 510 g Giá bìa: 110.000 Nguồn: TVE Ebook: daotieuvu.blogspot.com Ebook được blog Đào Tiểu Vũ hoàn thành với mục đích phi thương mại, nhằm chia sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua sách, khi sao lưu xin ghi rõ nguồn. Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản và tác giả. Mục Lục: Giới thiệu nội dung: CHƯƠNG MỘT CHƯƠNG HAI CHƯƠNG BA CHƯƠNG BỐN CHƯƠNG NĂM CHƯƠNG SÁU CHƯƠNG BẢY CHƯƠNG TÁM CHƯƠNG CHÍN CHƯƠNG MƯỜI CHƯƠNG MƯỜI MỘT CHƯƠNG MƯỜI HAI CHƯƠNG MƯỜI BA CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM CHƯƠNG MƯỜI SÁU CHƯƠNG MƯỜI BẢY CHƯƠNG MƯỜI TÁM CHƯƠNG MƯỜI CHÍN CHƯƠNG HAI MƯƠI CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI CHƯƠNG HAI MƯƠI BA CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM CHƯƠNG HAI MƯƠI CHÍN CHƯƠNG BA MƯƠI CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT CHƯƠNG BA MƯƠI HAI CHƯƠNG BA MƯƠI BA CHƯƠNG BA MƯƠI TƯ Giới thiệu nội dung: Tôi Là Số Bốn là phần đầu tiên trong bộ sách 6 cuốn của Pittacus Lore (bút danh của hai nhà văn James Frey & Jobie Hughes). Nhân vật chính là anh chàng trai John Smith (hay còn gọi là Số Bốn). John là một trong 9 thiếu niên ngoài hành tinh đổ bộ xuống trái đất để chạy trốn kẻ thù độc ác đang truy đuổi họ. Tại đây, John Smith hòa nhập vào cuộc sống của người trái đất, anh liên tục thay đổi thân thế, liên tục di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác cùng người giám hộ Henri. Anh tưởng mình đã không còn mối liên hệ nào với quá khứ nhưng tại thị trấn nhỏ Paradise, John bắt đầu vướng phải “sự cố” nằm ngoài dự kiến và có thể sẽ làm thay đổi số phận của anh. Đó là tiếng sét ái tình, anh đã tìm thấy tình yêu đầu đời. Tuy nhiên, 3 trong số 8 thanh niên cùng hành tinh với anh đã bị giết chết một cách bí ẩn tại trái đất. Cùng lúc đó, anh phát hiện ra những khả năng mới của mình và anh dùng nó để chống lại những kẻ đang truy đuổi. “Số Bốn là một anh hùng thật sự.” - MICHAEL BAY (đạo diễn phim Transformers) CHÚNG TÔI CÓ THỂ ĐANG ĐI LƯỚT QUA BẠN NGAY LÚC NÀY CHÚNG TÔI BIẾT ĐƯỢC BẠN ĐANG ĐỌC NHỮNG DÒNG CHỮ NÀY CHÚNG TÔI CÓ THỂ Ở TRONG THÀNH PHỐ, THỊ TRẤN NƠI BẠN SINH SỐNG CHÚNG TÔI ĐANG SỐNG ẨN DANH CHÚNG TÔI SẼ TÌM KIẾM ĐỒNG ĐỘI CHÚNG TÔI SẼ SÁT CÁNH BÊN NHAU - NẾU CUỘC CHIẾN NÀY THẮNG LỢI CHÚNG TÔI SẼ SỐNG, VÀ BẠN CŨNG THẾ CÒN NẾU NHƯ CHÚNG TÔI THẤT BẠI, THÌ MỌI THỨ CŨNG LỤI TÀN “Tôi đang ngồi ngập chân trong nước, bất chợt cảm giác cũ xuất hiện. Nước xung quanh chân tôi bắt đầu sôi lên, và chân tôi sáng rực khi vết sẹo chuẩn bị hằn dấu. Biểu tượng Lorien thứ ba, sự cảnh báo thứ ba. Thật nguy hiểm. Kẻ thù đã lùng được Số Ba, dù cho đồng đội của tôi đang ở đâu, Số Ba cũng đã bị giết hại”... TẤT CẢ NHỮNG SỰ KIỆN TRONG QUYỂN SÁCH NÀY ĐỀU LÀ SỰ THẬT. TÊN VÀ NƠI CHỐN ĐÃ ĐƯỢC THAY ĐỔI ĐỂ BẢO VỆ SÁU NGƯỜI LORIEN, VẪN CÒN ĐANG LẨN TRỐN. HÃY XEM ĐY NHƯ LỜI CẢNH BÁO ĐẦU TIÊN. RẰNG QUẢ THỰC LÀ CÓ SỰ TỒN TẠI CỦA CÁC NỀN VĂN MINH KHÁC. VÀ MỘT SỐ THẾ LỰC ẤY ĐANG TÌM KIẾM BẠN ĐỂ TIÊU DIỆT. CÁNH CỬA BẮT ĐẦU RUNG NHẸ. CHỈ LÀ MỘT MANH CỬA được tạo thành từ các ống tre buộc bằng dây chão. Chấn động rất dè dặt, dừng lại gần như liền tức thì. Họ dỏng tai nghe ngóng, một thiếu niên mười bốn tuổi và một người đàn ông cỡ tầm năm mươi, thoạt nhìn, ai cũng ngỡ là bố đứa trẻ, song kì thực, đó là người sống ở gần một khu rừng khác, trên một hành tinh khác, cách xa đây hàng trăm năm ánh sáng. Không áo sống, hai người nằm dựa lưng vào nhau, mỗi bên giường đều giăng một cái mùng chống muỗi. Tiếng đổ vỡ vẳng đến từ đâu đó xa xăm, nghe như tiếng một con thú vừa làm gãy một nhành cây, tuy nhiên, trong hoàn cảnh này, người ta có cảm giác như một thân cây vừa bị đốn hạ. - Gì thế? - Cậu trai lên tiếng. - Suỵt - Người đàn ông khẽ giọng nhắc nhở. Thính giác của họ ghi nhận được loáng thoáng tiếng côn trùng, ngoài ra, chẳng có gì thêm nữa. Mặt đất lại rung chuyển, người lớn tuổi thòng chân xuống một bên võng. Cơn địa chấn mạnh hơn, nhiều hơn, đi kèm với tiếng gãy đổ lần này là ở khá gần. Người đàn ông đứng dậy, bước một cách chậm rãi về phía cửa. Im ắng. Hít vào một hơi thật sâu, ông ta lần tay lên chốt cửa. Cậu con trai chồm dậy. - Không - Giọng nói của người lớn tuổi không khác nào một tiếng thở hắt ra. Một thanh kiếm dài, sáng lóa, được làm bằng một thứ kim loại trắng không hề có mặt trên Địa Cầu chợt xuyên qua cánh cửa và đâm thật ngọt vào ngực người đàn ông. Chỉ trong vòng chưa đầy một tích tắc sau, lưỡi kiếm đã nhô ra ở sau lưng người xấu số đúng mười lăm phân rồi thụt lại ngay tức khắc. Người đàn ông làu bàu. Cậu trai thở dốc. Nạn nhân thở ra hơi cuối cùng, đồng thời với một từ duy nhất được thốt ra: “Chạy!” - Rồi cả thân người to lớn đổ gục xuống nền đất. Cậu trai nhào ra khỏi võng, phóng thẳng ra cửa sau. Cửa ra vào, cửa sổ chẳng phải chướng ngại của cậu ta; cậu chạy xuyên qua tường theo đúng nghĩa của từ đó, bức tường thủng toác không khác nào được làm bằng giấy, dù kì thực nó được làm từ thứ gỗ dái ngựa Phi Châu rắn chắc. Cậu con trai lao đi như xé toạc màn đêm Congo, cậu nhảy phốc qua các ngọn cây, các nhánh cành với vận tốc ước chừng sáu mươi dặm một giờ. Thị lực cũng như thính giác của cậu vượt quá khả năng của con người. Cậu di chuyển lắt léo qua các thân cây, xuyên qua các lưới dây leo, chỉ một bước chạy duy nhất đã có thể nhảy qua mấy con suối nhỏ. Đằng sau cậu ta, những bước chân nặng nề đang không ngừng đuổi theo, và mỗi một khắc trôi qua, cái khoảng cách ở giữa lại càng được rút ngắn lại. Những kẻ săn đuổi cũng sở hữu các năng lực thần kì. Ngoài ra, họ còn sở hữu một thứ khác - một thứ mà người-bị-săn chỉ mới được nghe qua, một thứ mà cậu không bao giờ tin rằng mình lại có thể nhìn thấy ở Địa Cầu. Tiếng đổ vỡ mỗi lúc một gần. Cậu trai ghi nhận được một tiếng gầm nhỏ nhưng đầy uy lực. Cậu ý thức được rằng đối thủ của mình đang tăng tốc. Phía trước cậu là khoảnh rừng trống. Vừa trờ tới nơi, cậu nhận ra một khe núi khổng lồ, ngang chín mươi mét, sâu cũng chín mươi mét, và dưới cùng là một con sông. Bờ sông đầy những tảng đá lớn, mà nếu ngã xuống thì hẳn thân xác sẽ bị xả ra làm đôi. Cơ hội duy nhất của cậu lúc này là nhảy qua bên kia bờ. Cậu sẽ phải chạy lấy đà và thực hiện cơ hội - cơ hội cứu sống cuộc đời của chính cậu - của cậu, cũng như của bất kì một cá nhân nào khác có thân phận như cậu đang lưu lạc trên Địa Cầu. Cơ hồ như đây là một cú nhảy quá sức. Thoái lui, nhảy xuống hay chiến đầu với kẻ thù cũng đều đồng nghĩa với cái chết. Cậu chỉ có một con đường duy nhất mà thôi. Tiếng gầm phía sau vang lên đinh tai nhức óc. Họ chỉ còn cách cậu ba mươi, hai mươi bước chân nữa. Cậu trai lùi lại năm bước, bắt đầu chạy, và trước khi đến được gờ đá, cậu tung mình, bay thẳng qua khe núi. Thời khắc ở trong không trung chỉ áng chừng ba, bốn giây. Cậu thét vang, đôi tay duỗi thẳng ra phía trước, chờ đợi cái thời khắc đến được đích an toàn, hay nói một cách khác, đến được bờ bến bên kia. Và rồi cậu tiếp đất, chúi người tới trước nhưng đã lấy lại được thăng bằng nhờ một thân cây cực kì to lớn. Nhoẻn miệng cười, người thiếu niên không dám tin rằng mình có thể thực hiện được cú nhảy, và rằng cậu sẽ tồn tại. Không hề muốn đối phương trông thấy mình, cũng như ý thức được rằng cần phải cách xa đối thủ, cậu đứng dậy. Cậu sẽ phải chạy tiếp. Cậu nhắm thẳng về phía khu rừng. Bất thình lình, một bàn tay khổng lồ siết chặt lấy cổ họng của cậu và nhấc bổng lên cao. Cậu cố sức chống cự, quẫy chân đạp liên hồi phản kháng, giằng ra, nhưng mọi nỗ lực đều vô vọng, tất cả đã kết thúc. Lẽ ra, cậu cần phải hiểu rằng họ tầm nã cậu bằng cả hai hướng, rằng một khi đã tìm thấy cậu thì tuyệt nhiên không hề có một lối thoát nào. Tên Mogadore ấy nhấc bổng “con mồi” lên để có thể nhìn thấy rõ ngực cậu, trông thấy mảnh bùa đeo quanh cổ cậu, mảnh bùa chỉ có cậu cũng như những người có thân phận như cậu luôn đeo. Giật phắt lấy mảnh bùa ấy, hắn lẳng lặng cất vào chiếc áo choàng đen dài, và chỉ trong tích tắc, trong tay hắn đã xuất hiện một thanh kiếm sáng lóa. Chú mục vào đôi mắt đen to, sâu thẳm mà vô hồn của gã Mogadore, cậu trai cất tiếng nói một cách dõng dạc: - Biệt năng vẫn còn đó. Rồi họ sẽ tìm về với nhau và khi liên thủ lại, các người sẽ bị tiêu diệt. Tên Mogadore bật cười, tiếng cười trầm đục đầy vẻ giễu cợt. Hắn đưa thanh kiếm lên, thứ vũ khí duy nhất trong thiên hà hiện thời có khả năng phá hủy lớp hộ thân đang bảo vệ người thiếu niên, cũng như đang bảo vệ những người còn lại. Mũi kiếm hướng lên cao, toàn thân thanh kiếm đột ngột phát ra một quầng lửa bạc như sắp sửa thi hành nhiệm vụ và để chuẩn bị đối phó. Rồi khi thanh kiếm ấy hạ xuống, một luồng ánh sáng lao thẳng vào bóng tối sâu thẳm của khu rừng, người thiếu niên vẫn giữ một lòng tin, rằng đồng đội của cậu sẽ tồn tại, rằng họ sẽ về được đến nhà. Cậu khép mắt lại trước khi thanh kiếm xỉa tới. Mọi thứ tắt lịm. CHƯƠNG MỘT KHỞI ĐẦU, CHÚNG TÔI GỒM CHÍN NGƯỜI. Ra đi khi còn rất nhỏ, hầu như chẳng ghi nhận trong ký ức một điều gì. Gần như là vậy. Tôi được nghe kể lại rằng khi ấy, mặt đất rung chuyển, rằng bầu trời sáng lòa đầy những tiếng nổ. Đó là khoảng thời gian hai tuần - hai mặt trăng nằm đối xứng nhau nơi đường chân trời, mỗi năm một lần. Và chúng tôi đang tận hưởng các ngày lễ. Thoạt tiên, tiếng nổ được cho rằng là do hoạt động bắn pháo hoa. Nhưng kỳ thực không phải vậy. Tiết trời ấm áp, một làn gió nhẹ ngoài khơi thổi vào bờ. Gió rất êm. Tôi vẫn thường được nghe kể lại như thế. Không bao giờ tôi có thể hiểu được vì sao nguồn cơn lại như vậy. Hoài niệm rõ rệt nhất trong tôi là hình ảnh của bà tôi ngày ấy. Trông bà mới bải hoải và rầu rĩ làm sao. Đôi mắt đầy ngấn nước, ông tôi đứng kế vai bên bà. Tôi còn nhớ đôi tròng kính ông đeo phản chiếu một bầu trời sáng lóa. Những cái ôm ghì. Những lời nhắn nhủ, của từng người một. Tôi không còn nhớ các lời lẽ ấy ra sao. Không còn gì có thể ám ảnh tôi được nữa. Phải mất một năm sau mới đến được chốn này. Khi đến nơi, tôi vừa đúng năm tuổi. Chúng tôi phải hòa mình vào nền văn hóa nơi đây trước khi có thể quay trở về Lorien, lúc hành tinh đã có xoay vần lại được cuộc sống. Chín đứa chúng tôi tách nhau ra, tự đi theo con đường của mình. Mất bao lâu. Không ai biết được. Các bạn của tôi hoàn toàn không biết tôi đang ở đâu, cũng như tôi không biết bất kỳ một tung tích nào về các bạn, thậm chí là dáng vóc của mọi người bây giờ. Đấy là cách chúng tôi tự bảo vệ bản thân, bởi chỉ khi chia nhau ra, lớp hộ thân mới phát huy được tác dụng, lớp hộ thân đảm bảo rằng chúng tôi chỉ có thể bị giết hại theo số thứ tự của từng người, miễn là đừng ở gần nhau. Nếu chúng tôi tập hợp lại, lớp hộ thân sẽ bị hủy hoại. Khi một người bị phát hiện và bị giết hại, bên chân phải của những người còn lại sẽ xuất hiện một vết sẹo tròn bao quanh mắt cá. Còn bên mắt cá chân trái, được hình thành khi lớp hộ thân Loric lần đầu tiên hiển linh, là một vết sẹo nhỏ có hình dạng giống hệt mảnh bùa mà mỗi người chúng tôi đang đeo. Những vết sẹo tròn cũng là một phần của lớp hộ thân, là hệ thống cảnh báo để chúng tôi biết được mình đang đứng gần đồng đội, cũng là để ý thức được rằng mình là kẻ bị tầm nã tiếp theo, vết sẹo thứ nhất xuất hiện năm tôi tròn chín tuổi. Đánh thức tôi dậy giữa những cơn mơ, hằn dấu trên da thịt tôi. Lúc ấy, chúng tôi đang ở bang Arizona, trong một thị trấn giáp ranh Mexico. Tôi đã tỉnh giấc vào nửa đêm và thét lên trong sự đau đớn kinh hoàng khi vết sẹo in dấu vào da thịt. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy rằng cuối cùng, bọn người Mogadore cũng đã lần ra chúng tôi ở Địa Cầu, cũng là biểu hiện đầu tiên cho biết chúng tôi đang ở trong vòng nguy hiểm. Cho đến khi vết sẹo thành hình, tôi gần như đã thuyết phục được bản thân mình rằng ký ức của tôi đã hoàn toàn nhầm lẫn, rằng những gì bác Henri kể với tôi là hoàn toàn sai. Những gì tôi mong muốn chỉ là trở thành một con người bình thường, và rồi tôi nhận ra, không thể nghi ngờ hay bàn cãi được, ấy là tôi không bao giờ có được cơ hội đó. Ngay ngày hôm sau, chúng tôi chuyển địa điểm đến bang Minnesota. Vết sẹo thứ hai xuất hiện vào năm tôi mười hai tuổi. Lúc ấy, tôi đang ở trường học, thuộc tiểu bang Colorado, đang tranh tài trong cuộc thi viết chính tả. Vừa lúc cơn đau nhói lên, tôi đã ý thức được ngay cớ sự, rằng chuyện gì đã xảy đến với Số Hai. Lần ấy, tôi đã phải trải qua một nỗi đau đớn như xé toạc cơ thể, song tôi vẫn còn có thể chịu đựng được. Tôi ngã sóng soài trên sân khấu, sức nóng thiêu cháy chiếc vớ của tôi. Giáo viên điều khiển cuộc thi buộc phải dùng đến bình chữa cháy và gấp rút đưa tôi vào bệnh viện. Vị bác sĩ trong phòng Cấp Cứu trông thấy vết sẹo thứ nhất, đã gọi điện thoại thông báo với cảnh sát. Lúc bác Henri xuất hiện, người ta cảnh cáo sẽ bỏ bác vào tù vì tội ngược đãi trẻ em. Thế rồi ở thời điểm vết sẹo thứ hai hình thành, bác Henri chẳng hề có mặt ở hiện trường, vậy nên người ta đã để cho bác đi. Chúng tôi vào trong xe hơi và dông thẳng đi xa, lần này là đến bang Maine, bỏ lại mọi thứ sau lưng đã có được, trừ chiếc hộp Loric mà bác Henri vẫn hằng mang theo mỗi khi chúng tôi chuyển chỗ trú ẩn. Tính tới thời điểm hiện thời đã là hai-mươi-mốt chốn rồi. Vết sẹo thứ ba xuất hiện độ một tiếng đồng hồ trước. Khi ấy, tôi đang ngồi trên một chiếc thuyền phao. Chủ nhân của chiếc thuyền này là bố mẹ của một cậu học trò nổi tiếng nhất trường tôi; giấu bố mẹ, cậu ta tổ chức một bữa tiệc trên thuyền. Trước đây, chưa bao giờ tôi được mời đến dự một buổi tiệc tùng nào của trường. Lúc nào tôi cũng phải giữ mình, tôi ý thức được rằng bất cứ một giây phút nào, tôi cũng có thể phải ra đi. Nhưng hai năm qua, hoàn toàn không có động tĩnh gì. Bác Henri không hề nhận ra bất kỳ một dấu hiệu nào khả dĩ cho thấy bọn người Mogadore đã đến chỗ một trong những người chúng tôi, hay đánh động chúng tôi về bọn chúng. Vậy nên tôi kết bạn với hai người. Một người đã giới thiệu tôi với cậu bạn tổ chức buổi tiệc này. Tất cả đều gặp nhau ở bãi tàu. Ba thùng làm lạnh, nhạc nhiếc các thứ; tôi ngắm các cô gái từ xa chứ chưa từng trò chuyện - dù rằng rất muốn. Thế rồi mọi người nhổ neo, vi vu nửa dặm vào vịnh Mexico. Lúc này, tôi ngồi trên gờ phao; chân để ngập trong nước và trò chuyện với cô bạn mắt xanh, tóc đen, rất đáng yêu, tên là Tara; bất chợt cảm giác cũ xuất hiện. Nước xung quanh chân tôi bắt đầu sôi lên, chân tôi sáng rực khi vết sẹo chuẩn bị hằn dấu. Biểu tượng Lorien thứ ba, sự cảnh báo thứ ba. Tara thét váng lên và mọi người lục tục xúm lại quanh tôi. Tôi hiểu rằng mình không thể nào giải thích được cái hiện tượng đang xảy ra với tôi này. Tôi cũng hiểu mình cần phải lên đường không một phút chậm trễ. Nguy hiểm quá. Kẻ thù đã lùng được Số Ba, dù cho đồng đội của tôi có ở địa điểm nào, Số Ba cũng đã bị giết hại. Tôi trấn an Tara, hôn lên má cô bạn và nói rằng tôi rất vui được gặp cô, rằng tôi mong cuộc đời của cô luôn tốt đẹp. Thế rồi tôi nhảy khỏi thuyền, bắt đầu bơi đi, toàn bộ hành trình đều chìm trong nước, ngoại trừ một lần duy nhất tôi ngoi lên lấy hơi khi đã bơi được nửa đường, cứ thế tôi rẽ nước, lao đi hết sức bình sinh cho đến khi vào được đến bờ. Vẫn cái đà ấy, tôi chạy theo đường lớn, bên trong hàng cây. Và khi tôi về được đến nhà, bác Henri đang ở bên hàng loạt các máy quét, các màn hình, những công cụ bác thường dùng để theo dõi tin tức thế giới cũng như hoạt động an ninh trong khu vực chúng tôi đang sống. Chẳng cần tôi phải lên tiếng một lời nào, bác đã hiểu ngay cớ sự, bác lẳng lặng vén chiếc quần ướt sũng của tôi lên để xem các vết sẹo. *** Khởi đầu, chúng tôi gồm chín người. Ba người đã vĩnh viễn không còn nữa. Giờ chỉ còn sáu người thôi. Kẻ thù đang săn lùng chúng tôi cho đến khi giết được tất cả. Tôi là Số Bốn. Và tôi ý thức được rằng mình là người tiếp theo. CHƯƠNG HAI ĐỨNG GIỮA LỐI VÀO, TÔI QUAN SÁT NƠI Ở CỦA MÌNH. Căn nhà màu hồng nhạt, nằm trên các cọc chống bằng gỗ cao ba mét, thoạt trông chẳng khác nào một chiếc bánh kem. Trước nhà đu đưa bóng một cây cọ. Sau nhà là cầu tàu dài ngót hai mươi mét dẫn vào Vịnh Mexico. Nếu nhà tôi ăn sâu xuống phương Nam một dặm thì chiếc cầu tàu sẽ vươn thẳng tới Đại Tây Dương. Bác Henri bước ra khỏi nhà, ôm theo những chiếc hộp cuối cùng, từ dạo chuyển nhà gần đây nhất, hai bác cháu chưa hề khui hộp. Khóa cửa nẻo lại xong xuôi, bác Henri bỏ chùm chìa khóa vào khe hẹp ở chỗ cửa. Đã hai giờ sáng. Bác mặc một chiếc quần soọc kaki và một chiếc áo thun polo màu đen. Nước da rám nắng, râu ria không cạo - trông bác thật chán chường. Bác Henri cũng chẳng vui sướng gì khi lại phải ra đi. Bác bỏ những chiếc hộp cuối cùng vào cốp xe tải cùng với các vật dụng khác. - Xong rồi đấy - Bác lên tiếng. Tôi gật đầu. Cả hai bác cháu đứng ngắm nghía căn nhà, thưởng thức tiếng gió luồn qua những chiếc lá hình răng lược. Trên tay tôi là một bao cần tây. - Cháu sẽ nhớ nơi này - Tôi tâm sự - Thậm chí còn hơn cả những nơi khác nữa. - Bác cũng vậy. - Đã đến lúc phi tang hết mọi thứ rồi phải không bác? - Ừ. Cháu có muốn tự tay châm lửa không, hay để bác? - Bác cứ để cháu. Bác Henri rút ví ra, quẳng xuống đất. Tôi cũng rút chiếc ví của mình ra và làm theo như vậy. Bác bước trở ra xe, sau đó quay trở lại với những sổ hộ chiếu, giấy khai sinh, các thẻ an sinh xã hội, những sổ séc, thẻ tín dụng, thẻ ngân hàng, tất cả đều được thảy xuống đất. Những tài liệu, các vật dụng liên quan đến nhân dạng của chúng tôi nằm hết cả ở đây, toàn bộ đều là giả mạo và tự chế. Tôi ôm bình xăng con xuống khỏi xe tải, phòng khi cần đến, tự tay rưới lên đống giấy tờ. Hiện thời, tên của tôi là Daniel Jones, lớn lên tại California nhưng chuyển đến nơi này vì bố tôi là một lập trình viên máy tính. Tiểu sử của Daniel Jones sắp sửa sẽ biến mất khỏi cuộc đời. Tôi quẹt diêm và quẳng xuống đất, mớ giấy trước mặt tôi bắt lửa liền tức khắc. Một trong những phần đời của tôi chuẩn bị kết thúc. Như thường lệ, bác Henri và tôi đứng nhìn ngọn lửa. Vĩnh biệt Daniel - tôi thầm nghĩ trong đầu - rất vui được quen biết cậu. Đến khi lửa tàn, bác Henri mới quay sang tôi, nói: - Chúng ta phải đi thôi. - Cháu biết. - Mấy hòn đảo kiểu này không hề an toàn chút nào. Khó rút nhanh, khó tẩu thoát lắm. Chúng ta dọn đến đây thật là khờ khạo. Tôi gật đầu. Bác Henri nói không sai, tôi biết. Song, vẫn không tránh được cảm giác miễn cưỡng khi phải ra đi. Cả hai bác cháu chuyển đến chốn này là do tôi mong muốn, và cũng là lần đầu tiên bác Henri cho phép tôi chọn địa điểm. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã lưu lại nơi đây được chín tháng ròng, khoảng thời gian dài nhất dành cho một chốn trú ngụ kể từ khi rời khỏi hành tinh Lorien của chúng tôi. Tôi sẽ nhớ xiết bao ánh mặt trời và thời tiết ấm áp, nhớ con tắc kè mỗi khi ăn sáng tôi vẫn thấy trên tường. Dù rằng ở phía Nam Florida này, có cả triệu con tắc kè, nhưng tôi dám thề rằng con tắc kè này luôn luôn theo tôi đến trường, và dường như nó hiện diện bất cứ nơi đâu có mặt tôi. Tôi sẽ nhớ các cơn mưa bão bất chợt, những sự im ắng, tĩnh lặng của vạn vật vào mỗi buổi sáng sớm trước khi đàn nhạn biển bay về làm xôn xao; nhớ những chú cá heo thi thoảng vẫn kiếm ăn vào buổi chiều tà; nhớ cả mùi lưu huỳnh của đám tảo mục rữa bên bờ biển; nhớ cái hơi rong rêu ùa vào nhà và xâm nhập vào những giấc mơ đêm. - Thanh toán mớ cần tây ấy đi, bác chờ cháu trong xe nhé - Bác Henri bảo tôi - Tới giờ rồi. Tôi bước vào tán cây rậm rạp nhất ở mé phải của chiếc xe, nơi có ba chú nai con đang đứng đợi. Bỏ mớ cần tây xuống chân các con vật hiền lành, tôi cúi xuống vuốt ve từng con một. vẫn để yên cho tôi vuốt ve, vỗ về, cả ba con vật không hề tỏ thái độ bất kham, khó chịu. Một con bất giác ngẩng đầu lên nhìn tôi, đôi mắt đen đờ đẫn. Dường như con vật muốn gửi gắm điều gì qua ánh nhìn ấy. Cơn rùng mình chợt xuất hiện nơi sống lưng tôi. Con vật cúi đầu xuống, trở lại với miếng mồi. - May mắn nhé, những người bạn nhỏ - Tôi nói lời tạm biệt rồi bước về phía chiếc xe tải, leo lên ghế ngồi. Hai bác cháu tôi cứ thế dõi mắt vào kính chiếu hậu, ngắm nhìn ngôi nhà đang mỗi lúc một nhỏ dần, cho đến lúc bác Henri cho chiếc xe rẽ ra đường cái, và ngôi nhà mất dạng. Thứ Bảy. Chẳng rõ không có tôi thì buổi tiệc sẽ thế nào. Mọi người sẽ nói gì về việc tôi bỏ đi, sẽ bàn tán thế nào khi thứ Hai, tôi không đến lớp. Ước gì tôi đã có thể nói lời chào tạm biệt. Sẽ chẳng bao giờ tôi được gặp lại những người quen ở nơi này, chẳng bao giờ được trò chuyện với bất kỳ ai nữa. Các bạn của tôi sẽ không bao giờ biết được thân phận của tôi cũng như nguyên nhân tôi phải ra đi. Vài tháng sau, mà cũng có khi chỉ là vài tuần thôi, có thể sẽ chẳng có ai còn nhớ tới tôi nữa. Trước khi ra đến đường quốc lộ, bác Henri tấp xe vào trạm đổ xăng. Trong lúc bác hí hoáy bơm xăng vào thùng, tôi bắt đầu chú ý đến tập bản đồ mà bác để ở giữa lòng ghế. Kể từ ngày đặt chân lên hành tinh này, lúc nào chúng tôi cũng cầm theo tấm bản đồ. Trong đó là các đường gạch nối giữa nơi đến và nơi đi, chằng chịt khắp nước Mỹ. vẫn hiểu rằng cần phải bỏ lại tấm bản đồ này, nhưng quả thật đó là vật duy nhất lưu lại cuộc đời của hai bác cháu tôi. Người bình thường có hình ảnh, các thước phim và nhật ký; còn chúng tôi thì chỉ có các tấm bản đồ. Cầm lên và ngó qua, tôi nhận ra được ngay là bác Henri đã gạch thêm một đường mới từ Florida đến Ohio. Nói đến Ohio, tôi liên tưởng ngay đến các chú bò, bắp ngô và những con người tốt bụng. Tôi cũng ý thức được rằng biển số xe của bang sẽ có dòng chữ: TRÁI TIM CỦA TẤT THẢY. “Tất thảy” ở đây là gì nhỉ, tôi không rõ, nhưng có lẽ tôi sẽ biết được thôi. Bác Henri quay trở lại xe. Bác đã mua hail on sô - đa và một gói bánh chip. Khởi động xe, người đồng hành với tôi hướng thẳng về phía đường U.S. 1 dẫn lên phía Bắc. Bác với tay lấy tấm bản đồ. - Bác nghĩ ở Ohio có người hả? - Tôi bông đùa. Bác Henri toét miệng cười. - Chắc cũng có. Biết đâu bác cháu ta gặp may, tìm được xe cộ và ti-vi ở đó. Tôi gật đầu. Có lẽ sẽ không đến nỗi buồn chán như tôi đang nghĩ. - Bác thấy cái tên “John Smith” như thế nào ạ? - Tôi ướm hỏi. - Cháu lấy cái tên ấy từ đâu vậy? - Cháu nghĩ ra thôi, bác ạ - Tôi trả lời. Trước đây, tôi chưa lấy cái tên John hay Smith bao giờ. - Chẳng còn cái tên nào phổ biến hơn nó nữa đâu. Bác chỉ muốn nói rằng rất hân hạnh được gặp “ngài”, thưa “quý ngài” Smith. Tôi mỉm cười. - Vâng, cháu thích cái tên “John Smith”. - Khi chúng ta dừng lại, bác sẽ làm giấy tờ cho cháu. Sau một dặm đường, chúng tôi đã ra khỏi địa phận đảo và đang lướt qua cầu. Đại dương rì rào dưới chân. Dòng chảy thật hiền hòa, bóng trăng lấp lóa trên từng con sóng nhỏ khiến đầu sóng loang loáng ánh bạc. Bên phải là biển, bên trái là vịnh; về cơ bản, cùng là nước như nhau, nhưng có hai cái tên gọi rạch ròi, rõ ràng. Tôi chực muốn khóc, nhưng cố kìm lại. Chẳng phải việc rời khỏi Florida làm cho tôi buồn bã, mà bởi sự trốn chạy đã khiến tôi quá mỏi mệt. Tôi chán nản với việc cứ mỗi sáu tháng lại phải nghĩ ra một cái tên mới; chán nản với những ngôi nhà mới, những ngôi trường mới. Không biết đến bao giờ chúng tôi mới được dừng chân. CHƯƠNG BA CHÚNG TÔI DỪNG LẠI MỘT LÚC ĐỂ MUA THỰC PHẨM, XĂNG, VÀ ĐIỆN THOẠI. Trước trạm dừng xe, hai bác cháu thưởng thức mấy lát thịt, mì ống và phô-mai, là vài món trong số những thứ ít ỏi mà bác Henri cho biết là ngon hơn bất cứ thứ gì trên hành tinh Lorien. Trong lúc đang thưởng thức mấy món ăn, bác tranh thủ tạo ra các tài liệu mới trên laptop, sử dụng các tên mới của chúng tôi. Khi đến nơi, bác Henri sẽ in các giấy tờ ấy, và theo chừng mực bất cứ ai có thể nhận thức được, thân phận của chúng tôi sẽ chính xác như những gì chúng tôi đã vạch ra. - Cháu chắc chắn là lấy tên John Smith chứ? - Bác Henri cất tiếng hỏi. - Vângggg. - Cháu sinh ra ở thành phố Tuscaloosa, bang Alabama? Tôi cười, hỏi lại: - Sao bác lại nảy ra cái chi tiết ấy? Bác Henri mỉm cười, ra hiệu về phía hai người phụ nữ đang ngồi cách đó vài bàn. Cả hai đều rất gợi cảm. Một người trong họ mặc cái áo thun có in dòng chữ: Ở TUSCALOOSA, TA CÒN TIẾN XA. - Sau này, đó sẽ là điểm dừng chân tiếp theo - Bác Henri cho biết. - Nghe lạ quá, cháu hy vọng chúng ta sẽ định cư ở Ohio lâu dài đấy. - Thế à? Cháu thích Ohio ư? - Cháu thích có bạn, thích học mãi một trường chứ không phải chỉ trong vài tháng, thích sở hữu một cuộc sống thật sự. Cháu đã bắt đầu thực hiện điều đó ở Florida. Thật tuyệt, bác ạ, lần đầu tiên kể từ khi đặt chân đến Địa Cầu, cháu cảm thấy bình yên. Cháu muốn tìm một nơi sống đơn giản như vậy. Người đồng hành với tôi trở nên đăm chiêu. - Hôm nay, cháu đã kiểm tra các vết sẹo chưa? - Chưa ạ, nhưng sao hả bác? - Vấn đề không phải nằm ở bản thân cháu, mà là sự tồn tại của giống nòi chúng ta hiện đang bị tiêu diệt chẳng còn bao nhiêu người, và cần phải bảo vệ cuộc sống của cháu. Mỗi lần một người trong chúng ta chết đi - mỗi lần một người trong các cháu, một Garde, chết - cơ hội của chúng ta lại bị thu hẹp lại. Cháu là Số Bốn; cháu là người tiếp theo, là mục tiêu của bọn sát nhân nguy hiểm. Vì lẽ đó, khi phát hiện ra bất kỳ một dấu hiệu bất ổn nào, chúng ta lại lập tức phải lên đường ngay, và bác sẽ không tranh cãi với cháu về chuyện này nữa. Bác Henri gần như lái xe suốt. Trừ những lúc tạm dừng nghỉ ngơi và làm giấy tờ, còn thì thời gian chúng tôi rong ruổi trên đường là ba mươi tiếng đồng hồ. Tôi gần như chỉ ngủ và chơi game. Với khả năng phản xạ nhanh, tôi thường kết thúc các game một cách mau lẹ. Thời gian lâu nhất mà tôi đã từng hoàn tất là một ngày. Tôi thích trò chiến tranh liên hành tinh và các game liên quan đến vũ trụ. Tôi tưởng tượng như mình đã trở về Lorien và chiến đấu với bọn Mogadore, hạ gục chúng, biến chúng thành tro bụi. Bác Henri cho rằng điều đó thật kỳ quặc và ngăn tôi thôi cái suy nghĩ ấy. Bác bảo chúng tôi cần phải sống trong thế giới thực, nơi chiến tranh và cái chết là thực trạng, chứ không phải là giả thể. Sau khi chơi xong trò chơi cuối cùng, tôi ngẩng mặt lên. Ngồi mãi trong xe thật chán. Đồng hồ trên bảng hiện con số 7:58. Tôi ngáp dài, dụi mắt. - Còn bao xa nữa vậy bác? - Gần tới rồi - Bác Henri trả lời tôi. Bên ngoài tối đen, khoảng trời phía tây đã bắt đầu rạng. Chúng tôi lướt qua những nông trại, những đàn ngựa nuôi, rồi lâu đài, những cánh đồng cằn cỗi, những rặng cây ngút ngàn hun hút phía xa. Quả đúng như tiêu chuẩn của bác Henri, đây là một nơi êm ả chẳng ai màng ngó tới. Mỗi tuần một lần, bác bỏ ra sáu, bảy, tám tiếng đồng hồ để rà trên internet bản danh sách nhà đất quốc gia đáp ứng được mục tiêu: biệt lập, xa xôi, và có thể vào ở ngay. Bác bảo có bốn nơi phù hợp với lựa chọn của bác - một ở Nam Dakota, một ở New Mexico, một ở Arkansas - và cuối cùng là căn nhà cho thuê mà hiện thời chúng tôi đang chuyển tới. Vài phút sau, những ánh đèn rải rác đó đây của thị trấn bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi lướt qua một bảng hiệu có ghi chú: CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI THỊ TRẤN PARADISE, BANG OHIO SỐ DN: 5.243 - Ồ - Tôi thốt lên - ở đây còn nhỏ hơn cái chỗ ở Montana nữa. Người đồng hành với tôi mỉm cười. - Cháu biết Paradise này là thiên đường của cái gì không? - Bò hả bác, biết đâu? Hay bù nhìn? Chúng tôi đi qua một trạm xăng cũ, một chỗ rửa xe hơi, một nghĩa trang; kế đến là những căn nhà tường, nhà ván ép cách nhau ngót mười mét. Gần như cửa sổ nhà nào cũng treo các vật dụng trang trí Halloween. Một vỉa hè nằm vắt qua các khoảnh sân nhỏ trước cửa. Một bùng binh tọa lạc ngay trung tâm thị trấn, chính giữa là pho tượng một người đàn ông ngồi trên lưng ngựa đang cầm một thanh kiếm. Bác Henri dừng ngay xe lại. Cả hai bác cháu cùng cười, hy vọng rằng sẽ không thấy một ai lăm lăm thanh kiếm xuất hiện ở chốn này nữa. Bác cho xe cua nửa vòng cung hướng về phía con đường trước mặt, bảng hệ thống Định vị Toàn cầu cho biết chúng tôi sắp phải rẽ. Chúng tôi cùng tiến về phía tây, ra khỏi thị trấn. Ước chừng sau bốn dặm đường, chúng tôi quẹo trái vào một con đường rải sỏi, những cánh đồng đã gặt - có lẽ trước đó đã rộ vàng những trái bắp mùa hạ - nhanh chóng hiện ra, tiếp đến là cánh rừng rậm trải dài hút tầm mắt. Và rồi sau khoảng một dặm nữa, chúng tôi nhận ra, xen lẫn với đám cây cối um tùm, là một hòm thư bạc đã hoen gỉ, bên hông là dòng chữ sơn đen: 17 D. OLD MILL. - Căn nhà gần nhất cách đây hai dặm - Bác Henri cho biết, đoạn xoay bánh lái rẽ vào. Con đường phủ đầy cỏ dại, đó đây là những trũng nước đen. Bác dừng xe lại và tắt máy. - Xe của ai vậy bác? - Tôi thắc mắc, hất đầu về phía chiếc SUV màu đen đậu trước mũi xe tải. - Có lẽ là của người kinh doanh bất động sản. Căn nhà rợp những bóng cây, trong bóng tối, trông thật kỳ quái; hình như người cuối cùng sống trong ấy do sợ quá mà đã dông thẳng, đã vù xe, hay đã chạy mất biến. Tôi bước ra khỏi xe. Hệ thống máy bắt đầu vang lên những tiếng tíc tíc đều đặn, tôi cảm nhận được nguồn nhiệt lượng đang không ngừng tỏa ra từ đấy. Thộp lấy chiếc túi dưới sàn xe, tôi đứng yên lặng quan sát. - Cháu nghĩ gì vậy? - Bác Henri cất tiếng hỏi. Căn nhà một tầng. Ván ghép bằng gỗ. Lớp sơn trắng đã tróc gần hết. Một ô cửa sổ trước nhà bị bể. Mái lợp đá đen trông méo mó và dễ gãy. Ba bậc thang gỗ dẫn lên hàng hiên ngổn ngang những chiếc ghế ọp ẹp. Khoảng sân thuôn dài và rậm rạp. Đã lâu lắm rồi, cỏ không được xén. - Nhìn cứ như là thiên đường ấy - Tôi đáp. Cả hai bác cháu cùng bước lên nhà. Một người phụ nữ tóc vàng, ăn vận trang nhã, tuổi cũng vào tầm với bác Henri, bất chợt xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Bà ta mặc bộ vét văn phòng, trên tay là tấm bìa kẹp hồ sơ, chỗ lưng váy có gài một chiếc điện thoại BlackBerry. Người phụ nữ mỉm cười. - Ông Smith? - Vâng - Bác Henri đáp gọn lỏn. - Tôi là Annie Hart, đại diện của Công ty Bất Động Sản Paradise. Chúng ta đã trao đổi với nhau qua điện thoại rồi. Hồi sớm, tôi có gọi cho ông, nhưng hình như điện thoại của ông tắt máy. - Vâng. Trên đường đến đây, máy của tôi chẳng may bị hết pin. - À, chỉ là tôi không thích tình trạng khi ấy thôi - Bà Hart nói trong lúc tiến về phía chúng tôi, bắt tay bác Henri. Bà hỏi tên tôi và tôi đã trả lời, tuy trong thâm tâm, như vốn dĩ, rất muốn trả lời là: “Bốn”. Lúc bác Henri kí vào bản hợp đồng thuê nhà, người phụ nữ hỏi đến tuổi của tôi, và thổ lộ rằng bà có một cô con gái học ở trường trung học địa phương cũng ở độ tuổi như thế. Bà Hart thật thân thiện, ấm áp và rất thích trò chuyện. Bác Henri đưa lại bản hợp đồng. Cả ba người chúng tôi cùng bước vào nhà. Bên trong ngôi nhà, các đồ nội thất được che đậy bằng những tấm phủ trắng muốt. Những vật dụng không được bao bọc thì bám đầy bụi bặm và xác côn trùng. Các tấm chắn cửa sổ trông thật mỏng mảnh, còn các bức tường được ốp bằng gỗ rẻ tiền. Nhà có hai phòng ngủ, một gian bếp có diện tích vừa phải, mặt sàn lót vải sơn xanh và một phòng tắm. Phòng khách to, hình chữ nhật, nằm ngay trước nhà. Ở góc tường phía xa là một chiếc lò sưởi. Tôi đi vào nhà trong, thảy chiếc túi lên giường. Căn phòng nhỏ nhắn có treo một tấm áp-phích to đã bạc màu, hình một cầu thủ trong bộ đồng phục màu cam sáng, đang trong pha chuyền bóng, và có vẻ như sắp sửa va chạm với một gã khổng lồ mặc bộ đồ vàng, đen. Tấm ảnh có ghi chú: BERNIE KOSAR, TIỀN VỆ, ĐỘI CLEVELAND BROWNS. - Ra chào tạm biệt bà Hart đi này - Bác Henri gọi vọng vào từ phòng khách. Người phụ nữ đang đừng ở cửa cùng bác Henri. Bà bảo tôi nên tìm cô con gái của bà ở trường, chúng tôi có thể kết bạn với nhau. Tôi mỉm cười vâng, dạ, nói rằng điều đó thật tuyệt vời. Và ngay sau khi bà Hart vừa đi khỏi, hai bác cháu tôi lật đật dỡ hành lí xuống khỏi xe. Tùy thuộc vào sự hối hả trong cuộc di dời mà, hoặc là chúng tôi đi rất nhẹ - nghĩa là quần áo, chiếc laptop của bác Henri và chiếc hộp Loric được chạm trổ tinh xảo lúc nào cũng theo sát bước chân của hai bác cháu - hoặc là mang theo một ít hành lí - thường là các máy vi tính chuyên dụng và các thiết bị, những thứ mà bác Henri dùng để thiết lập một vành đai an toàn và có thể theo dõi tin tức, sự kiện có liên quan đến chúng tôi. Lần này, cả hai bác cháu mang theo chiếc Hộp, hai máy vi tính công suất cao, bốn màn hình tivi, bốn ca-mê-ra. Bên cạnh đó là quần áo, dù rằng nhiều món đồ ở Florida chẳng phù hợp với xứ Ohio này chút nào. Bác Henri mang chiếc Hộp vào phòng riêng, sau đó, chúng tôi bưng tất cả các thiết bị xuống tầng hầm, để tránh có thể có một vị khách nào đó chăng, sẽ chứng kiến được hoạt động của bác Henri. Sau khi mọi thứ đã đâu vào đấy, bác Henri bắt đầu lắp đặt các camera và bật các màn hình. - Từ giờ đến sáng mai, nhà mình sẽ không thể kết nối được với internet. Nhưng nếu cháu muốn ngày mai đến trường, bác có thể in được tất cả các tài liệu mới cho cháu. - Nhưng nếu cháu ở nhà, cháu sẽ phải giúp bác lau chùi nhà cửa và sắp xếp các thứ? - Phải. - Thế thì cháu sẽ đi học - Tôi nói. - Vậy tốt hơn hết là lên giường và ngủ cho ngon đi. CHƯƠNG BỐN LẠI MỘT THN PHẬN MỚI, LẠI MỘT TRƯỜNG HỌC MỚI. Không rõ với chừng ấy thời gian, tôi đã trải qua bao nhiêu cuộc đời rồi. Mười lăm? Hay hai mươi? Lúc nào cũng là một thị trấn nhỏ, một trường học nhỏ, một môtíp chung. Đám học trò mới chú ý? Lắm lúc tôi tự hỏi chuyện chúng tôi cứ một hai đeo bám các thị trấn tỉnh lẻ thực sự là vì khó khăn, hay chính xác là để không thể bị dòm ngó? Kì thực, tôi vẫn biết lí do của bác Henri: không được để cho thiên hạ chú ý tới mình. Ngôi trường cách nhà chúng tôi ba dặm. Bác Henri chở tôi đến trường. So với tất cả những nơi tôi đã được học qua thì qui mô của ngôi trường này khiêm tốn vào hàng bậc nhất, diện mạo cũng chẳng hấp dẫn chút nào - một tầng, dài và thấp. Trên tường, ngay cạnh cửa ra vào, có hình vẽ một tên cướp biển đang ngậm dao. - Vậy là giờ, cháu cũng là Cướp Biển rồi? - Bác Henri lên tiếng bên cạnh tôi. - Có vẻ là như vậy, bác ạ - Tôi đáp lời. - Cháu nắm nguyên tắc rồi đấy - Bác Henri bảo. - Đây đâu phải là đấu trường đầu tiên của cháu. - Đừng có thể hiện mình quá. Người ta sẽ khó chịu cho mà xem. - Cháu chẳng dám đâu. - Đừng tách biệt mình, hay làm gì có thể gây sự chú ý. - Cháu chỉ âm thầm lặng lẽ thôi. - Cũng đừng làm tổn thương ai. Đừng quên cháu mạnh hơn tất thảy mọi người. - Cháu biết rồi. - Nhất là, phải luôn luôn trong tâm thế sẵn sàng, sẵn sàng lên đường khi có gì bất ổn. Trong ba-lô của cháu có gì thế? - Dạ, trái cây khô và quả hạch dùng trong năm ngày. Quần áo lót, vớ dự trữ. Áo mưa. Thiết bị Định vị Toàn cầu cầm tay. Và một con dao xếp có hình dạng chiếc bút. - Lúc nào cũng là những thứ ấy - Người đồng hành với tôi hít vào một hơi thật đầy - Nhớ để tâm chú ý mọi động tĩnh nhé. Bất cứ lúc nào, các Biệt năng của cháu cũng có thể xuất hiện. Bằng mọi giá, phải che giấu chúng và gọi điện thoại cho bác ngay. - Cháu biết rồi, bác Henri ạ. - Bất cứ lúc nào, John - Bác Henri lập lại - Nếu cháu thấy các ngón tay của mình bắt đầu biến mất, cháu bắt đầu lơ lửng trên không trung, hay như thấy cơ thể rung chuyển không ngừng; nếu cháu bắt đầu mất khả năng kiểm soát cơ thể và nghe thấy các giọng nói, dù chẳng có ai lên tiếng cả; gì thì gì, cũng phải gọi điện thoại cho bác ngay. Tôi vỗ vỗ vào chiếc ba-lô của mình, - Cháu có mang theo điện thoại đây. - Bác sẽ chờ cháu ở đây khi tan học. May mắn nhé, nhóc - Bác Henri chào tạm biệt tôi. Tôi mỉm cười. Bác Henri đã bước sang tuổi năm mươi. Điều đó có nghĩa là khi chúng tôi đặt chân đến đây, bác vừa tròn bốn mươi tuổi - Độ tuổi của những cuộc di chuyển khó khăn. Đến giờ, bác Henri vẫn nói rặt giọng Loric, chất giọng trại âm thường gặp ở tiếng Pháp. Và ngay từ buổi đầu, đó là một lý do hoàn hảo, khi bác lấy tên là Henri, rồi kể từ đó về sau, bác cứ luẩn quẩn với cái tên ấy, chỉ thay đổi mỗi họ cho phù hợp với tên của tôi mà thôi. - Cháu đi coi trường lớp thế nào đây - Tôi nói với bác Henri. - Ngoan nhé. Tôi bước về phía khu nhà. Cũng giống như mọi trường trung học khác, ngoài sân đông đúc học sinh. Tất cả đều túm tụm lại thành nhóm riêng, tốp thì hoạt động thể thao và các hoạt náo viên, tốp chơi nhạc mang vác những nhạc cụ, tốp mọt sách đeo kính trắng, trên tay là những quyển sách giáo khoa và những chiếc điện thoại BlackBerry, tốp cá biệt đứng riêng một góc, chẳng ai ngó ngàng đến. Ở phía khác, một nam sinh cao lênh khênh với đôi kính dày đeo ở mắt đang đứng một mình. Trong chiếc áo thun đen có in chữ NASA và chiếc quần jean, trông có vẻ như cậu ta nặng chưa tới bốn mươi lăm kí, cậu nam sinh cao lênh khênh ấy đang mải mê quan sát bầu trời bằng chiếc kính viễn vọng cầm tay. Lúc này, chỉ có mây giăng mịt mờ. Và kia, tôi nhận ra một cô gái đang say sưa chụp hình, với cử chỉ vô cùng nhanh nhẹn, cô ấy liên tục di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác. Mái tóc vàng thẳng, dài quá vai, nước da trắng ngà, gò má cao và đôi mắt xanh long lanh - cô gái có vẻ đẹp mê hồn. Mọi người xung quanh dường như ai cũng biết cô nữ sinh ấy, những tiếng xin chào không ngừng cất lên, và không một ai phản đối những cú bấm hình cả. Cô gái thích chụp hình ấy cuối cùng đã nhìn thấy tôi, mỉm cười và vẫy chào. Không khỏi ngạc nhiên, tôi ngoái đầu lại để xem ai đang đứng sau lưng mình. Chẳng có ai khác cả, ngoài hai học sinh đang tranh luận về một bài tập toán. Tôi quay đầu trở lại. Vẫn giữ nguyên nụ cười ấy, cô gái tiến lại phía tôi. Chưa bao giờ tôi trông thấy một cô gái nào đẹp đến thế, nói không ngoa, cũng chưa bao giờ tôi được một người nào vẫy tay chào và mỉm cười với mình như những người bạn. Liền tức khắc, tôi thấy căng thẳng, mặt bắt đầu đỏ bừng. Song, trong lòng tôi cũng đầy nỗi ngờ vực, như vẫn thường được bảo ban. Thế rồi khi đã đến gần tôi, cô gái nâng máy ảnh lên, bắt đầu chụp. Ngay lập tức, tôi đưa tay che mặt. Người đối diện hạ máy xuống, mỉm cười: - Đừng nhát thế. - Tôi không nhát. Tôi chỉ bảo vệ ống kính của cô thôi. Gương mặt của tôi sẽ làm hỏng nó mất. Cô gái cười. - Ấy là nếu anh cau mày. Cười thử xem nào. Tôi mỉm cười, chỉ hơi hơi thôi. Nỗi lo lắng lớn đến nỗi tôi có cảm tưởng mình sắp nổ tung đến nơi. Tôi hoàn toàn có thể cảm nhận được cổ mình như đang bị nung trong lửa, hai bàn tay bắt đầu ấm ấm dần. - Có phải là cười thật đâu - Cô gái mê chụp ảnh vặn vẹo, tỏ ra chọc ghẹo. - Cười là phải thấy răng kìa. Tôi cười toe, và thế là cô gái bắt liền cái khoảnh khắc ấy. Bình thường, tôi không cho ai chụp hình mình. Ngộ nhỡ cuối cùng nó được tung lên internet, hay trên một tờ báo thì chuyện tìm ra tôi càng trở nên dễ dàng hơn. Chuyện này đã từng xảy ra hai lần, bác Henri khi ấy đã nổi xung thiên, gom hết tất cả các tấm hình, đem đi tiêu hủy. Nếu bác biết hiện giờ tôi đang làm gì, thế nào tôi cũng sẽ gặp rắc rối to. Dù sao thì tôi cũng không thể cưỡng lại được - cô gái đang đứng trước mặt tôi quá xinh đẹp và quyến rũ. Trong lúc cô ấy chụp hình tôi, một con chó bông từ đâu chạy lại. Đó là giống chó săn, hai tai nâu vàng mềm mại, chân và ngực trắng, thân đen, thon, nhưng bẩn thỉu và hình như là vô chủ. Con chó dụi người vào chân tôi, rên ư ử, cố gây sự chú ý. Cô gái cho rằng hình ảnh ấy thật dễ thương, nên bảo tôi ngồi xuống để cô ghi hình tôi với con chó. Nhưng rồi ngay khi cô gái bắt đầu bấm máy thì con chó xa lạ kia lại bắt đầu lảng đi. Cô gái càng thử, con vật càng tếch đi xa hơn. Cuối cùng, người muốn bấm máy phải chịu thua, chỉ còn biết chụp riêng cho tôi thêm vài kiểu hình nữa. Cách đó mười mét, con chó đang ngồi quan sát chúng tôi. - Anh có biết con chó đó không? - Cô gái thắc mắc. - Tôi chưa thấy nó bao giờ. - Chắc chắn là nó thích anh. Anh là John hả? Cô gái chìa tay ra. - Vângggg - Tôi trả lời - Làm sao cô biết được? - Tôi là Sarah Hart. Mẹ tôi là người đã giới thiệu nhà cho anh đấy. Mẹ bảo có lẽ hôm nay anh sẽ đi học, và dặn tôi nên đi tìm anh. Hôm nay, chỉ có anh là lính mới. Tôi cười. - À vângggg, tôi đã được gặp mẹ cô rồi. Bà thật tốt bụng. - Anh có bắt tay tôi không? Cánh tay của cô gái nãy giờ vẫn để nguyên như vậy. Mỉm cười, tôi bắt lấy bàn tay đang chìa ra phía mình, không thể không thừa nhận rằng đó là một trong những cảm giác tốt lành nhất mà tôi từng ghi nhận được. - Ồ - Người đối diện với tôi chợt kêu lên. - Sao thế? - Tay anh nóng quá. Nóng thật đấy, giống như anh đang bị sốt vậy. - Tôi không nghĩ thế đâu. Cô gái buông tay tôi ra. - Vậy chắc anh là người máu nóng. - Vângggg, chắc là thế. Không gian chợt rộn vang tiếng chuông, Sarah giải thích rằng đó là hồi chuông báo hiệu. Chúng tôi chỉ có năm phút để vào lớp. Chào tạm biệt nhau xong, tôi nhìn theo bóng cô gái bước đi. Rồi chỉ một thoáng sau, có một thứ gì đó bất chợt đập mạnh vào khuỷu tay tôi. Quay lại, tôi nhận ra các cầu thủ trong đội bóng, tất cả đều mặc áo khoác thể thao, đang đi lướt qua tôi. Một kẻ trong bọn nhìn tôi lom lom, và tôi nhận ra chính chiếc ba lô của hắn đã quệt vào người mình. Không tin đó là tai nạn, tôi cất bước đi theo. Tôi ý thức được rằng mình sẽ không làm gì cả, dù tôi thừa sức thực hiện. Tôi không ưa tụi phách lối. Thấy động thái của tôi, anh chàng mặc chiếc áo NASA ban nãy bước đến sát bên tôi. - Tôi biết cậu mới nhập học, nên tôi cho cậu hay - Cậu ta lên tiếng. - Cho hay chuyện gì? - Tôi thắc mắc. - Tay đó là Mark James. Trùm ở đây đấy. Bố hắn là cảnh sát trưởng, còn hắn là ngôi sao đội bóng. Ngày xưa hắn có hẹn hò với Sarah, khi cô ấy còn là hoạt náo viên, nhưng giờ thì Sarah đã thôi hoạt động rồi cho hắn ra rìa. Nhưng hắn không chịu bỏ qua. Nếu tôi là cậu, tôi sẽ không dây vào đâu. - Cảm ơn cậu. Cậu ta vội vã bỏ đi. Tôi bước đến văn phòng thầy hiệu trưởng để đăng ký các lớp học rồi vào lớp. Bất giác, tôi ngoái đầu lại xem con chó có còn quanh quẩn ở chỗ cũ hay không. Hóa ra nó vẫn yên vị ở đấy, lặng lẽ quan sát tôi. *** Thầy hiệu trưởng tên là Harris, có vóc người to lớn, đầu gần như nhẵn thín, trừ phần tóc phía sau và hai bên. Bụng thầy to tròn, phình ra, che cả chiếc dây nịt. Đôi mắt nằm sát vào nhau, tròn, nhỏ, và sáng. Từ phía sau cái bàn, thầy cười với tôi, nụ cười dường như muốn nuốt luôn cả hai mắt. - Vậy trò là học sinh khóa hai từ Santa Fe tới đây? - Thầy hiệu trưởng lên tiếng. Tôi gật đầu, dù kì thực hai bác cháu tôi chưa bao giờ ở Santa Fe hay New Mexico. Một lời nói dối đơn giản có thể ngăn được sự lần dò. - Điều đó giải thích cho làn da rám nắng của trò. Vì sao trò lại đến bang Ohio này? - Vì công việc của bố em ạ. Bác Henri không phải là bố tôi, nhưng tôi vẫn luôn nói như thế để không bị nghi ngờ. Kì thực, bác là Hộ Vệ, hay nói theo ngôn ngữ Địa Cầu, cho dễ hiểu hơn, bác là Giám Hộ của tôi. Trên hành tinh Lorien, xã hội của chúng tôi chia thành hai thành phần công dân. Những người có khả năng phát triển được Biệt năng, còn gọi là sức mạnh, với tính chất hoàn toàn khác nhau, từ vô hình cho đến đọc được suy nghĩ, từ bay lượn cho đến việc sử dụng các năng lượng tự nhiên như lửa, gió hay ánh chớp - Những người sở hữu Biệt năng được gọi là Garde. Và những người không sở hữu được gọi là Cêpan, hay Hộ Vệ. Tôi là một Garde. Bác Henri là một Cêpan. Từ thuở thiếu thời, mỗi một Garde đuợc chỉ định một Cêpan. Cêpan giúp chúng tôi hiểu về lịch sử hành tinh và phát triển các sức mạnh. Cêpan và Garde - một nhóm rời khỏi hành tinh, một nhóm ở lại bảo vệ xứ sở. Thầy Harris gật đầu. - Thế bố trò làm gì? - Bố em là nhà văn. Bố muốn sống trong một thị trấn nhỏ, yên tĩnh để hoàn tất tác phẩm của mình - Tôi trả lời, đây là lớp vỏ bọc tiêu chuẩn của hai bác cháu tôi. Thầy hiệu trưởng gật đầu, khẽ hé mắt. - Trông trò khỏe mạnh đấy, chàng trai trẻ. Trò đã có kế hoạch chơi thể thao ở đây chưa? - Em cũng mong như vậy, thưa thầy. Em đang bị suyễn - Tôi điềm tĩnh trả lời, đây là một lý do thông thường của tôi để né tránh vị thế có thể phản bội sức mạnh và tốc độ của mình. - Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe thấy điều đó. Lúc nào trường cũng tìm học sinh có đủ thể lực để chơi cho đội bóng của trường - Vừa nói, đôi mắt thầy vừa dõi lên chiếc kệ gần trên tường - Vừa nói, đôi mắt thầy vừa dõi lên chiếc kệ gần trên tường, trên đó đặt chiếc cúp được chạm trổ công phu có ghi chú thời điểm là năm ngoái. - Chúng ta đã thắng đội Pioneer Conference đấy - Thầy giải thích thêm, giọng nói lẩn khuất niềm tự hào. Nói đoạn, thầy hiệu trưởng rướn người tới chiếc tủ đựng hồ sơ kê cạnh bàn, rút ra hai tờ giấy, đưa cho tôi. Tờ đầu là thời khóa biểu của học sinh với một số dòng trống tự điền. Tờ thứ hai là danh sách các môn nhiệm ý. Tôi chọn một số lớp và điền vào, đoạn trao lại cho thầy hiệu trưởng. Thầy bắt đầu định hướng cho tôi, nói về những điều như giờ giấc, rằng cần phải đọc từng trang một cuốn cẩm nang học sinh, rằng cần phải chịu khó. Hồi chuông thứ nhất vang lên, rồi một hồi chuông nữa. Cuối cùng, thầy hỏi tôi có gì thắc mắc không. Tôi trả lời là không. - Tốt lắm. Tiết hai còn nửa tiếng nữa, và trò đã chọn môn thiên văn học của cô Burton. Cô ấy rất tuyệt vời, là giáo viên giỏi nhất của trường chúng ta. Cô đã giành được giải thưởng của bang đấy, đích thân ngài Thống đốc bang đã kí. - Hay quá - Tôi buột miệng nói như reo lên. Sau khi trầy trật lắm mới nhấc mình ra khỏi ghế, thầy Harris rời văn phòng, bước tới cuối hành lang. Đôi giày nện cồm cộp xuống sàn nhà bóng loáng. Bầu không khí sực mùi sơn mới và chất tẩy rửa. Dọc các bức tường là những chiếc tủ cá nhân. Nhiều chỗ treo đầy những băng rôn cổ vũ đội bóng. Toàn bộ khu nhà chẳng có đầy hai mươi lớp học. Tôi nhẩm đếm từng lớp một khi đi qua. - Đây rồi - Thầy Harris đột ngột nói và chìa tay ra. Tôi bắt lấy. - Trường rất mừng vì trò đã về đây. Tôi thích nghĩ rằng trường ta là một gia đình gắn bó hơn. Rất vui được đón chào trò đến gia đình của chúng ta. - Em cảm ơn thầy - Tôi đáp lời. Rồi thầy Harris mở cửa, ló đầu vào trong phòng. Chỉ đến thời khắc đó, tôi mới cảm nhận được một nỗi bất an, cảm giác váng vất xâm nhập vào cơ thể. Chân phải của tôi bắt đầu phát run; lòng dạ bắt đầu bồn chồn. Tôikhông hiểu vì sao, chỉ biết nguyên nhân không phải do tôi đến lớp học thứ nhất. Nhiều lần, tôi đã từng lấy lại tinh thần rất nhanh kia mà. Hít vào một hơi thật đầy, tôi cố rũ sạch các cảm giác không hay kia đi. - Cô Burton, xin lỗi vì đã cắt ngang. Học sinh mới của cô đến rồi. - Ồ, hay quá! Thầy đưa trò ấy vào đi - Giọng cô Burton cất cao vì phấn khích. Thầy Harris giữ cửa mở cho tôi bước vào. Lớp học thật vuông vức, sĩ số trên dưới hai mươi lăm học sinh, ai nấy đều ngồi bên những chiếc bàn chữ nhật, kích cỡ như bàn nhà bếp, mỗi bàn ngồi ba người. Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào tôi. Tôi cũng nhìn đáp lại tất cả mọi người trước khi chuyển điểm nhìn lên cô Burton. Đó là một người phụ nữ tuổi tầm sáu mươi, mặc chiếc áo len màu hồng và đeo nơi mắt một cái kính gọng đỏ có gắn dây thòng quanh cổ. Cô cười rất tươi, mái tóc xoăn đã bắt đầu ngả sang xám. Hai lòng bàn tay của tôi bắt đầu túa mồ hôi, gương mặt không khỏi biểu lộ niềm phấn chấn. Hi vọng là không đỏ. Thầy Harris đóng cửa lại. - Trò tên gì? - Cô Burton hỏi tôi. Vẫn còn chưa lấy lại được tinh thần, tôi toan trả lời: “Dạ, là Daniel Jones”, nhưng tôi đã kìm bản thân lại được. Tôi hít vào một hơi thật sâu, trả lời một cách điềm tĩnh: - Dạ, John Smith. - Tốt! Trò từ đâu đến? - Dạ. Fl... - Tôi lại sắp sửa nói ra điều ngốc nghếch nhưng rồi cũng kịp ngăn mình lại - Santa Fe. - Cả lớp, hãy cho bạn đây cảm nhận được sự chào đón ấm áp đi nào. Mọi người nhất loạt vỗ tay. Cô Burton ra hiệu cho tôi ngồi vào một chỗ trống ngay giữa lớp học, ở bên cạnh hai học sinh khác. Thật nhẹ nhõm làm sao khi cô không còn hỏi han tôi thêm một câu nào. Đoạn cô quay trở lại bàn, còn tôi thì bước xuống lối đi, tiến thẳng về phía Mark James, hắn đang ngồi cùng bàn với Sarah Hart. Khi tôi đi ngang qua, hắn đưa chân ra ngáng. Tuy bị mất thăng bằng, nhưng tôi vẫn giữ cho mình đứng thẳng được. Những tiếng cười hinh hích bắt đầu rộ lên đây đó. Cô Burton quay phắt lại. - Có chuyện gì thế? - Cô thắc mắc. Tôi không lên tiếng trả lời, nhưng mắt thì chú mục vào Mark. Trường nào cũng có một tên học sinh đầu sỏ, một kẻ khó chịu, mọi người muốn gọi sao đó thì gọi, nhưng chưa có một tên nào như tên này. Tóc hắn đen, vuốt đầy keo, tỉ mỉ chỉnh từng li từng tí thành một quả đầu gai nhọn. Hai bên thái dương của hắn, tóc mai dài cũng được cắt tỉa một cách cẩn thận. Đôi lông mày rậm trên màu mắt đen. Từ chiếc áo khoác thể thao, tôi nhận ra hắn là học sinh khóa cuối, tên hắn được thêu bằng chỉ màu vàng, bên dưới là số năm. Ánh mắt của hắn và của tôi khóa chặt vào nhau, cả lớp nhao lên những tiếng rầm rì mang đầy vẻ chế nhạo. Tôi nhìn xuống chỗ ngồi của mình cách đó ba bàn, đọan hướng ánh nhìn trở lại Mark. Nếu muốn, tôi hoàn toàn có thể xả thân hắn ra làm hai, tôi có thể ném hắn sang lãnh thổ của quốc gia láng giềng. Nếu hắn cố chạy trốn, chui vào xe hơi, tôi cũng thừa sức đuổi kịp chiếc xe hơi ấy và túm nó, quăng lên ngọn cây một cách nhẹ nhàng. Tuy nhiên, bên cạnh phản ứng quá mạnh mẽ ấy, lời nhắn nhủ của bác Henri chợt hiện về trong tâm trí tôi: “Đừng tách biệt mình, hay làm gì có thể gây sự chú ý.” Tôi ý thức đưọc rằng mình cần phải làm theo lời khuyên của người Hộ Vệ, phải phớt lờ tất cả những gì vừa xảy ra, như trước đây tôi vẫn từng làm. Chúng tôi đã thực hiện điều này rất tốt, hòa nhập với môi trường và sống dưới cái bóng của nó. Tuy nhiên, lúc này đây, tôi cảm thấy đôi chút băn khoăn, thậm chí bực bội trong lòng, và trước khi kịp có cơ hội suy nghĩ chín chắn, câu hỏi trong tôi đã kịp phát ra thành lời. - Cậu muốn gì à? Mark lảng đi, hắn nhìn khắp một lượt quanh lớp, chỉnh lại thế ngồi rồi nhìn ngược trở lại tôi. - Cậu nói cái gì thế? - Hắn hỏi. - Khi tôi đi qua, cậu ngáng chân tôi. Ở ngoài kia thì cố tình va vào tôi. Tôi nghĩ có lẽ cậu muốn gì đó. - Có chuyện gì vậy? - Giọng nói của cô Burton vang lên ngay sau lưng tôi. Tôi ngoái lại nhìn cô. - Dạ không có gì ạ - Tôi trả lời, nhưng liền sau đó quay trở lại Mark - Sao? Trên bàn, hai tay Mark gồng cứng lại, tuy nhiên, hắn vẫn không nói một lời nào. Ánh nhìn của chúng tôi tiếp tục giao nhau cho tới chừng hắn thở dài và nhìn sang hướng khác. - Tôi nghĩ như thế đấy - Tôi bảo với hắn và tiếp tục bước tới. Các học sinh xung quanh không biết phải phản ứng như thế nào, hầu hết vẫn dõi mắt theo tôi, trong lúc tôi ngồi vào bàn giữa một cô gái tóc đỏ và một nam sinh quá khổ, cậu ta chú mục vào tôi, miệng há hốc ra. Cô Burton đứng ở đầu lớp học. Trong cô có vẻ hoang mang, nhưng rồi cô cũng nhún vai, giải thích lí do vì đâu quanh sao Thổ lại có những vòng đai, vì sao chúng lại được tạo thành chủ yếu từ các phân tử đá và bụi. Sau một hồi, tôi thôi chú ý đến cô giáo mà lướt mắt nhìn sang các học sinh khác - những con người mới mà tôi sẽ phải giữ một khoàng cách nhất định, một lằn ranh an toàn vừa đủ để tôi có các mối quan hệ bạn bè thông thường, đồng thời vẫn giữ được bí mật của mình, cũng như không trở thành một kẻ lập dị kì khôi. Vậy mà hôm nay, tôi lại làm một trò kì quặc. Tôi hít vào một hơi thật sâu rồi thở ra một cách chậm rãi. Bụng dạ vẫn còn chộn rộn, một bên chân vẫn còn chưa hết run. Đôi bàn tay thì ấm dần. Trước tôi ba bàn là tên Mark James. Có một lần hắn quay lại nhìn tôi, sau đó thì thầm vào tai Sarah. Cô gái quay lại. Có vẻ như cô gái ấy rất tuyệt vời, nhưng chuyện cô nàng đã từng hẹn hò với Mark khiến tôi không khỏi thắc mắc. Sarah tặng cho tôi một nụ cười thật hiền. Rất muốn cười đáp lại, nhưng không hiểu sao toàn thân tôi cứng đờ. Mark thì thào thêm một điều gì đó với cô bạn, nhưng cô lắc đầu và đẩy hắn ra. Một khi đã tập trung, thì thính giác của tôi nhạy hơn hẳn người bình thường, tuy nhiên, lúc này, nụ cười của Sarah làm cho tôi bối rối đến nỗi không thể làm được điều đó. Ước gì tôi có thể nghe được những lời họ đã trao đổi với nhau. Tôi xòe tay ra rồi nắm lại. Lòng bàn tay của tôi túa đầy mồ hôi và bắt đầu tỏa nhiệt lượng. Một hơi thở sâu khác. Thị lực của tôi nhòe dần. Năm phút trôi qua, rồi mười phút. Cô Burton vẫn đang say mê với bài giảng của mình nhưng tôi lại không thể ghi nhận được một lời. Tôi siết hai nắm tay lại, rồi mở ra. Hơi thở như tắt trong cổ họng tôi. Một quầng sáng lờ mờ chợt xuất hiện trong bàn tay phải. Tôi chú mục vào đó, điếng người, kinh ngạc. Vài giây sau, quầng sáng ấy bắt đầu hiện ra rõ nét hơn. Tôi nắm chặt hai bàn tay lại. Thoạt đầu, tôi lo rằng một đồng đội khác gặp chuyện. Nhưng chuyện gì mới được? Rõ ràng là chúng tôi không thể bị giết bừa rồi. Đó là cơ chế hộ thân của mảnh bùa trước ngực. Nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa rằng họ sẽ không thể gặp nguy hiểm? Liệu có người nào đang bị chặt đứt bàn tay phải hay không? Không bao giờ tôi có thể biết được. Tuy nhiên, nếu có chuyện gì thì các vết sẹo nơi mắt cá sẽ cảm ứng cho tôi ngay. Trong thời khắc ấy, tôi chợt nảy ra một ý niệm khác. Có lẽ Biệt năng đầu tiên của tôi đang hiển hiện. Rút điện thoại di động ra khỏi balô, tôi gửi tin nhắn cho bác Henri đúng một từ duy nhất: DFN - từ đúng lẽ ra phải là: DEN. Đầu óc quay cuồng, đến độ tôi không thể nghĩ ra một lời nào khác, vẫn nắm chặt hai bàn tay, tôi đặt chúng xuống đùi. Cả hai bàn tay đang tỏa sáng và không ngừng run rẩy. Tôi mở hai tay ra. Tay trái của tôi đang đỏ tấy, còn tay phải thì phát sáng. Tôi chuyển điểm nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường, cũng chẳng còn mấy thời gian nữa. Một khi ra khỏi lớp học, tôi sẽ tìm ngay một căn phòng trống rồi gọi điện thoại cho bác Henri, hỏi bác xem đang xảy ra chuyện gì. Giờ thì tôi ngồi nhẩm đếm các giây: sáu mươi, năm mươi chín, năm mươi tám. Tôi có cảm giác như một thứ gì đó sắp sửa bùng nổ trong tay mình. Tôi cố tập trung tâm trí vào các con sổ. Bốn mươi, ba mươi chín. Hai bàn tay tôi bắt đầu có cảm giác râm ran, hệt như trong lòng bàn tay đang bị cắm đầy những cây kim nhỏ. Hai mươi tám, hai mươi bảy. Tôi mở mắt ra, nhìn chằm chằm về phía trước, tập trung vào Sarah với hi vọng sẽ làm bản thân xao lãng phần nào. Mười lăm, mười bốn. Nhìn cô gái ấy càng chỉ khiến cho mọi thứ tôi tệ hơn. Những cây kim lúc này chẳng khác nào những chiếc vuốt, những chiếc vuốt đã được đặt trong lò và nung đến nóng đỏ. Tám, bảy. Chuông reo, ngay lập tức, tôi đứng bật dậy và bước ra khỏi phòng, len qua những học sinh khác. Váng vất, hai chân tôi bắt đầu chòng chành. Tôi cứ đi xuôi về phía cuối hành lang, không hề ý thức được là mình đi đâu, song, tôi vẫn có cảm giác rõ ràng rằng có người nào đó đang bám theo mình. Rút chương trình học ra khỏi túi, tôi kiểm tra lại số hộc tủ cá nhân. May sao, hộc tủ của tôi nằm ngay bên phải. Tôi dừng bước, gục đầu vào cánh cửa bằng kim loại. Lắc đầu, tôi nhận ra rằng vì quá hối hả ra khỏi lớp mà tôi đã bỏ quên balô lẫn chiếc điện thoại ở trong đó. Bất chợt, một ai đó xô tôi. - Sao hả, thằng cứng đầu? Tôi sẩy chân, suýt ngã, nhìn lại. Mark đang đứng chần dần ngay ở trước mặt tôi, cười mỉm. - Sao? - Hắn hỏi. - Không có gì - Tôi đáp cụt lủn. Đầu óc tôi quay cuồng. Tôi có cảm giác như mình sắp sửa bất tỉnh đến nơi. Hai bàn tay tôi như đang nằm trong lửa. Điều đang xảy đến với tôi thật không có gì còn tồi tệ hơn được nữa. Kẻ đối diện lại xô tôi. - Không có giáo viên ở đây, mày hết cứng đầu rồi phải không? Mất thăng bằng quá đỗi, tôi trượt chân, ngã dúi xuống đất. Sarah bỗng xuất hiện, tiến tới trước mặt Mark. - Để cho cậu ấy yên - Cô gái lên tiếng. - Không phải chuyện của em - Hắn trả lời cô bạn. - Phải. Cứ thấy tôi nói chuyện với người khác là anh ngay lập tức lại gây sự với người ta. Đây chỉ là một lý do vì sao chúng ta không chơi với nhau được nữa đấy. Tôi lồm cồm đứng dậy. Sarah cúi xuống giúp, nhưng ngay khi cô gái vừa chạm vào người tôi, cơn đau ở hai tay tôi bỗng thốn lên và trong đầu tôi giống như đang có một luồng sét bổ xuống. Tôi xoay người lại, hối hả bỏ đi, ngược hướng với lớp học thiên văn. Tôi hiểu mọi người sẽ nghĩ rằng tôi là thằng chết nhát đang bỏ chạy, nhưng tôi đang có cảm giác mình sắp ngã quị xuống đến nơi rồi. Rồi tôi sẽ nói lời cảm ơn Sarah, giải quyết mâu thuẫn với Mark, nhưng mà là sau này. Còn trong thời điểm hiện tại, tôi cần tìm gấp một căn phòng có khóa. Tôi đi về cuối hành lang, băng ngang qua lối chính vào trường. Lần dò lại trí nhớ về sự chỉ dẫn của thầy Harris, tôi cố nhớ lại vị trí của những căn phòng khác. Nếu tôi không lầm, ở cuối hành lang này là hội trường, các phòng văn nghệ, các phòng mỹ thuật. Guồng chân của tôi bắt đầu tăng tốc, cố chạy hết sức trong tình trạng hiện thời. Sau lưng, tôi nghe thấy Mark hét lên với tôi, và Sarah hét lên với hắn. Cuối cùng, tôi cũng mở được cánh cửa đầu tiên mà bàn tay có thể với tới, đoạn đóng cửa lại. May thay cửa có khóa, tôi bấm chốt. Căn phòng tối om. Các thước phim âm bản được treo mắc để hong cho ráo. Tôi đổ gục xuống sàn. Đầu óc tôi quay cuồng, và tay thì đang cháy nóng. Kể từ lúc trông thấy luồng sáng, tôi vẫn luôn siết tay lại. Lúc này, tôi quan sát chúng một lần nữa, bàn tay phải của tối vẫn đang phát sáng, chập chờn. Tôi bắt đầu hoang mang. Tôi ngồi trên sàn, mồ hôi làm xót cả hai mắt, còn hai tay thì đau đớn vô cùng. Tôi ý thức được sự hiện hình của các Biệt năng, nhưng không ngờ là phải chịu đựng những hành hạ này. Mở hai bàn tay, tôi nhận ra lòng bàn tay phải sáng bừng, luồng sáng đang bắt đầu tập trung lại. Ở bàn tay trái, ánh sáng còn đang lập lòe, cảm giác rát buốt gần như không thể chịu đựng nổi. Ước gì bác Henri đang đến đây. Mong sao bác đang trên đường đi đến. Khép mắt lại, tôi vòng tay trước ngực, ngồi ngật ngừ tới lui trên sàn, nghe cơ thể mình đau nhức. Tôi không rõ thời gian đã trôi qua bao lâu. Một phút? Hay mười phút? Chuông reo, báo hiệu thời điểm bắt đầu của tiết học tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng người đang trò chuyện ở bên ngoài cửa. Cánh cửa rung lên đôi lần, nhưng vì cửa khóa nên không ai có thể vào được. Tôi tiếp tục động tác tự vỗ về chính bản thân mình với hai mắt nhắm nghiền. Tiếng gõ cửa bắt đầu vang lên. Tiếng nói đứt quãng không sao ghi nhận được. Tôi mở mắt ra, ánh sáng trong hai lòng bàn tay đã thắp sáng toàn bộ căn phòng. Tôi nắm ngay hai tay lại, cố ngăn luồng sáng, nhưng các tia quang học vẫn len lỏi thoát ra được qua các kẽ tay. Cánh cửa lại bắt đầu rung lên. Liệu họ sẽ nghĩ gì khi thấy tay tôi phát sáng? Không biết giấu đi đằng nào nữa. Tôi biết phải giải thích như thế nào? - John? Mở cửa ra... bố đây - Một giọng nói chợt cất lên. Một nỗi nhẹ nhõm ngập tràn khắp cơ thể. Chính là giọng nói của bác Henri, giọng nói duy nhất trên thế giới này tôi muốn nghe. CHƯƠNG NĂM TÔI TRƯỜN ĐẾN TRƯỚC CỬA, VỚI TAY MỞ KHÓA. Cửa bật mở. Bác Henri xuất hiện trong bộ quần áo làm vườn dính đầy đất cát, có vẻ như trước khi đến đây, bác đã làm việc ở bên ngoài ngôi nhà. Trông thấy người Giám Hộ của mình, tôi mừng rỡ đến độ muốn chồm dậy lao ngay đến mà ôm chầm lấy bác, và tôi đã toan làm như vậy thật, nhưng cơn choáng váng đã kéo tôi gục xuống sàn. - Mọi chuyện vẫn ổn đấy chứ? - Giọng nói của thầy Harris bất chợt cất lên, thầy đang đứng ở đằng sau bác Henri. - Vẫn tốt đẹp, thưa thầy. Chỉ xin thầy cho bố con tôi một phút thôi - Bác Henri trả lời. - Có cần tôi gọi xe cấp cứu không? - Không cần đâu ạ! Cánh cửa đóng lại. Bác Henri nhìn xuống hai bàn tay của tôi. Luồng sáng trong bàn tay phải hiển hiện thật rực rỡ, còn bên tay trái, những khoảng sáng hiển thị khi tỏ khi mờ như đang muốn chứng tỏ. Bác Henri cười rất tươi tắn, gương mặt bác bừng sáng không khác nào ánh đèn hiệu. - Aaaa, đội ơn Lorien - Bác thở dài, rút ở túi sau ra một đôi găng tay da làm vườn - May mắn sao bác đang làm việc ở ngoài sân. Đeo cái này vào đi. Tôi hí hoáy làm theo lời của người Giám Hộ, ngay lập tức, ánh sáng tắt phụt. Cùng lúc ấy, thầy Harris mở cửa, ló đầu vào: - Ông Smith? Mọi chuyện không sao chứ? - Vâng, mọi chuyện vẫn ổn, thưa thầy. Xin cho chúng tôi ba mươi giây nữa thôi - Bác Henri đáp lại, đoạn nhìn sang tôi - Thầy hiệu trường của cháu quan tâm quá nhỉ. Tôi hít vào một hơi thật sâu rồi lại thở ra. - Cháu ý thức được chuyện này, nhưng sao lại thế? - Biệt năng đầu tiên của cháu đấy mà. - Cháu biết rồi, nhưng sao lại có ánh sáng? - Rồi bác cháu mình sẽ thảo luận trong xe. Cháu có đi được không? - Chắc là được ạ. Bác Henri giúp tôi đứng dậy. Tôi lảo đảo, người vẫn còn run. Phải khoác lấy cánh tay của người Giám Hộ để đứng cho vững. - Trước khi đi, cháu phải lấy ba-lô đã - Tôi nói khẽ khàng. - Ba-lô ở đâu? - Cháu để trong lớp học. - Số mấy? - Dạ, mười bảy. - Cháu ra xe trước đi, bác sẽ đi lấy cho. Tôi quàng tay phải quanh vai bác Henri. Bác quàng tay trái quanh thắt lưng tôi. Mặc dù hồi chuông thứ hai đã reo, tôi vẫn ghi nhận được tiếng người ngoài cửa. - Cháu cần phải đi cho thẳng, đi cho thật bình thường. Tôi hít vào một hơi thật đầy. Cố gom góp bằng hết chút sức lực cuối cùng còn sót lại để bước một quãng đường dài ra khỏi ngôi trường. - Ta đi nào bác - Tôi thì thào. Quệt mồ hôi trên trán, tôi theo bác Henri bước ra ngoài căn phòng tối. Thầy Harris vẫn ở ngoài hành lang. - Cháu nó lên cơn suyễn thôi ạ - Người Giám Hộ của tôi giải thích và bước đi. Đám đông tụ tập bên ngoài cửa ước chừng có đến hai mươi người, hầu hết đều đeo máy chụp hình ở cổ, họ đang chờ để được vào trong phòng tôi để học giờ nhiếp ảnh. May sao Sarah không có mặt trong số này. Tôi cố bước những bước thật vững vàng, bước nào ra bước nấy. Cửa ra cách đây những ba mươi mét. Vậy là phải đi nhiều. Tiếng xì xào của học sinh rộ lên đây đó. - Quả là một nhân vật đình đám. - Liệu anh chàng còn có đến trường không nhỉ? - Mình mong là có, trông cậu ta dễ thương thế mà. - Bố nghĩ anh chàng đó đã làm cái gì trong phòng tối để đến nỗi mặt mày đỏ như vậy? Tôi nghe thấy không sót một từ và mọi người cười ồ. Chúng tôi có thể ghi nhận được bất cứ lời nói nào, và hoàn toàn cố thể gạt ra khỏi đầu - một khả năng hữu ích khi ta muốn tập trung giữa một đám đông bắng nhắng, ầm ĩ. Vậy nên tôi bỏ ngoài tai những âm thanh khó chịu, chỉ tập trung vào việc theo sát bác Henri. Mỗi bước chân cứ ngỡ là mười bước, và cuối cùng, chúng tôi cũng tiến được đến cửa. Bác Henri giữ cửa mở cho tôi, và tôi buộc phải tự mình đi đến chỗ chiếc xe tải của bác, chiếc xe đậu ngay trước cổng trường. Khoảng hai mươi bước cuối cùng, tôi loại choàng tay lên vai người Giám Hộ. Bác Henri mở cửa xe và tôi ngồi vào ghế. - Cháu nói là mười bảy? - Vâng. - Lẽ ra cháu nên mang theo bên mình. Những lỗi vặt như vậy có thể dẫn tới những sai lầm to. Chúng ta không được để sơ sểnh một chút nào. - Cháu hiểu ạ. Cháu xin lỗi. Bác Henri đóng cửa và quay ngược trở lại khu nhà. Tôi gập người trên ghế, cố điều hoà lại hơi thở, cảm nhận được trên trán, mồ hôi vẫn không ngừng túa ra. Rồi tôi ngồi thẳng dậy, hạ tấm chắn nắng xuống để nhìn vào gương. Gương mặt tôi đỏ hơn tôi mường tượng, mặt loang loáng nước. Tuy nhiên, giữa cơn đau khốn khổ làm lả cả người, tôi vẫn mỉm cười. Cuối cùng, tôi ngẫm nghĩ, sau chừng đó năm chờ đợi, sau chừng đó năm đề phòng bọn người Mogadore có hành tung bí ẩn và quỉ quyệt, Biệt năng đầu tiên của tôi đã đến. Vào lúc này, bác Henri cũng vừa bước ra khỏi trường cùng với chiếc ba-lô của tôi trên tay. Bác đi vòng qua mũi chiếc xe tải, mở cửa xe và ném chiếc túi của tôi lên ghế. - Cảm ơn bác - Tôi lên tiếng. - Không có chi. Khi chiếc xe lăn bánh rời khỏi chỗ đậu, tôi tháo găng tay và quan sát thật kĩ tay mình. Nguồn sáng trên tay phải của tôi đã bắt đầu tụ lại hệt như ánh đèn pin, nhưng sáng hơn trước. Sức nóng đã bắt đầu thuyên giảm. Lòng bàn tay trái của tôi vẫn sáng lập lờ. - Cháu cứ đeo găng tay cho đến khi về đến nhà đã - Người Giám Hộ nhắc nhở tôi. Tôi đeo găng tay trở lại và nhìn sang bác Henri. Bác mỉm cười một cách tự hào. - Chờ lâu thấy cụ - Bác lẩm bẩm. - Sao ạ? - Tôi thắc mắc. Bác Henri nhìn tôi. - Chờ lâu thấy cụ - Bác lập lại - Biệt năng của cháu mới xuất hiện. Tôi cười thật giòn. Trong tất cả những điều cần phải học hỏi, chừng nào còn đi lại trên Địa Cầu này, thì lời nguyền rủa không còn nằm trong danh mục của bác Henri. - Chờ lâu thấy bà - Tôi nhẹ nhàng chỉnh lại. - Ờơơ, bác muốn nói vậy đó. Chiếc xe tải rẽ vào con đường dẫn tới ngôi nhà của chúng tôi. - Vậy là sao hả bác? Có phải tay cháu sẽ bắn ra được tia laser hay cái gì đó đúng không? Bác mỉm cười. - Nghĩ vậy hay đấy, có điều là không phải như vậy. - Ồ, thế cháu sẽ làm gì với nguồn sáng này nhỉ? Khi bị truy đuổi, cháu sẽ quay lại chiếu vào mắt bọn truy đuổi? Rồi chúng sẽ khiếp vía với cháu hay sao hả bác? - Từ từ đã nào - Người Giám Hộ của tôi trả lời - Cháu vẫn chưa hiểu đâu. Chúng ta cứ về nhà cái đã. Bỗng tôi chợt nhớ ra, suýt chút nữa là nhảy dựng lên khỏi mặt ghế. - Vậy là cuối cùng, chúng ta cũng mở Hộp được rồi, phải không bác? Bác Henri gật đầu, mỉm cười. - Sớm thôi. - À, vâng! - Tôi tiếp lời. Chiếc hộp gỗ tinh xảo lúc nào cũng ám ảnh tôi. Đó là một chiếc hộp có khắc biểu tượng Loric thật kiên cố, và bác Henri, tới tận giờ phút này, vẫn còn giữ bí mật về nó với tôi. Chẳng bao giờ bác tiết lộ cho tôi biết bên trong nó là gì, cũng chẳng thể mở được nó, tôi hiểu, và cũng bởi tôi đã cố gắng mở thử bao nhiêu lần rồi chẳng nhớ, mà đều không thành. Chiếc hộp vẫn đóng kín mít với một ổ khóa kì lạ không thấy chỗ tra chìa ở đâu. Về đến nơi, tôi mới ý thức được bác Henri đã làm gì. Ba chiếc ghế ở hàng hiên đã được cất dẹp gọn, tất cả cửa sổ đều mở toang. Trong nhà, các tấm phủ nội thất đã được tháo xuống, một số mặt bàn, mặt ghế sạch bong. Vào phòng khách, tôi để ba-lô lên bàn rồi mở ra. Một cơn lửa nộ đột ngột dấy lên trong lòng tôi. - Thằng khốn. - Sao thế? - Điện thoại của cháu mất rồi. - Ở đâu? - Sáng này, cháu có tranh cãi chút xíu với một kẻ có tên là Mark James. Chắc hắn đã thó mất. - John, cháu mới đến trường được có một tiếng rưỡi đồng hồ. Làm thế quái nào mà lại tranh cãi với người ta? Chắc chắn là có chuyện khác rồi. - Trường mới. Cháu là lính mới. Chuyện thường mà bác. Bác Henri rút điện thoại ra khỏi túi và bấm số điện thoại của tôi. Ngay sau đó, bác đóng điện thoại lại. - Tắt nguồn rồi - Bác cho biết. - Hẳn là thế. Và bác chằm chằm nhìn tôi. - Có chuyện gì vậy? - Bác cất lên tông giọng mà tôi nhận ra ngay, chính là cái giọng nói mỗi khi bác tính tới việc chuyển chỗ. - Dạ, không có gì. Chỉ là một trò vớ vẩn thôi. Có lẽ trong lúc cất điện thoại vào cặp, cháu sơ ý để rơi xuống đất - Tôi trả lời, tuy trong thâm tâm, thừa biết rằng không phải như vậy - Lúc đó, tinh thần cháu không được ổn. Có lẽ giờ này, chiếc điện thoại đang nằm ở trên bàn “Nhặt được của rơi” không biết chừng. Bác Henri đảo mắt một vòng quanh nhà rồi thở dài. - Có ai nhìn thấy tay cháu không? Tôi chú mục vào người Giám Hộ của mình. Đôi mắt bác Henri đỏ ngầu, thậm chí còn đỏ hơn cả lúc bác cho tôi xuống xe. Mái tóc rối bù, trông bác xuống sức đến nỗi sẵn sàng có thể gục ngã vào bất cứ lúc nào. Giấc ngủ cuối cùng của bác là ở Florida, cách đây hai ngày. Tôi không rõ làm sao mà bác Henri vẫn còn có thể đứng vững trên hai chân được. - Dạ không. - Cháu ở trường mới có một tiếng rưỡi đồng hồ. Biệt năng đầu tiên của cháu xuất hiện, cháu sắp sửa đánh nhau với người ta, rồi thì để quên ba-lô ở trong lớp. Làm sao có thể như thế được. - Không có gì đâu bác. Chẳng phải là chuyện gì ghê gớm để mà phải chuyển tới bang Idaho, Kansas hay là một nơi quỷ quái nào đó đâu. Bác Henri se mắt lại, cân nhắc về điều vừa chiêm nghiệm và cố gắng đưa ra quyết định xem có cần phải lên đường hay không. - Giờ không phải là lúc để bất cẩn - Người Giám Hộ của tôi khẽ khàng. - Ngày nào mà ở các trường lại không có chuyện cãi vặt. Cháu đảm bảo với bác, chúng sẽ không lần ra chúng ta chỉ ìi một chút xáo trộn xảy đến với một đứa học trò mới toe đâu. - Nhưng chẳng có trường nào có đứa học sinh mới về mà hai tay lại phát sáng cả. Tôi thở dài. - Bác Henri, trông bác như sắp sửa tiêu tùng rồi vậy. Bác ngủ một chút đi. Ngủ dậy rồi bác hãy quyết định. - Chúng ta có nhiều việc phải nói với nhau lắm. - Chưa bao giờ cháu thấy bác mệt đến như thế cả. Bác ngủ vài giờ đi, rồi sau đó, bác cháu ta sẽ nói chuyện. - Có lẽ khi bác ngủ dậy, mọi thứ sẽ tốt hơn. *** Dứt lời, bác Henri đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Tôi bước ra khỏi nhà, dạo quanh sân một lúc. Mặt trời le lói sau rặng cây, gió thổi mát rượi, hai bàn tay tôi vẫn còn đeo găng. Tôi tháo găng tay ra, đút cả hai vào túi. Tình trạng đôi tay tôi vẫn không có gì thay đổi. Nói đúng ra, chỉ có một phần trong tôi là phấn chấn với Biệt năng đầu tiên xuất hiện sau nhiều năm chờ đợi trong nỗi sốt ruột mà thôi. Phần còn lại thì không còn một chút tinh thần nào. Những lần di chuyển không ngừng đã bào mòn sức lực trong tôi, và giờ thì không thể hoà hợp hay có thể ở một nơi nào trong một khoảng thời gian nào nữa. Không thể kết bạn hay có cảm giác hoà nhập. Tôi đã phát bệnh với những cái tên giả cùng những lời dối trá. Tôi đã phát bệnh với việc phải thường xuyên ngoái nhìn lại sau lưng để xem có ai đang bước theo mình hay không. Tôi lần tay xuống ba vết sẹo nằm trên mắt cá chân bên phải. Ba vòng tròn tượng trưng cho ba cái chết. Chúng tôi gắn kết với nhau không chỉ đơn thuần ở phương diện cùng một giống nòi. Cảm nhận các vết sẹo, tôi cố hình dung ra đồng đội của mình là ai, nam hay nữ? Họ đã sống ở đâu và chết ở độ tuổi nào? Tôi nhớ lại những người bạn khác, cũng trên chuyến tàu hành trình cùng tôi và nhận những con số cho riêng mình. Nếu gặp lại các bạn, không biết chúng tôi sẽ cùng đi chơi với nhau ra sao? Nếu chúng tôi vẫn còn ở Lorien thì mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào? Giả như số phận của toàn dân tộc tôi không bị phụ thuộc vào sự tồn tại của một nhóm người như chúng tôi thì sự thể sẽ làm sao? Giả như tất cả chúng tôi đều không phải đối diện với cái chết trong tay kẻ thù thì mọi sự sẽ diễn ra theo chiều hướng nào? Nhận thức được rằng mình sẽ là người tiếp theo thật đáng sợ. Tuy nhiên, cuộc sống rày đây mai đó, trốn chạy liên miên, luôn khiến chúng tôi nhanh chân hơn đối phương. Dù đã quá mệt mỏi với việc di chuyển, song tôi hiểu rằng đó là lí do duy nhất khiến chúng tôi vẫn còn tồn tại đến giờ phút này. Và một khi dừng lại, kẻ thù sẽ tìm ra được chúng tôi ngay. Giờ thì tôi đang là người kế tiếp, chắc chắn đối phương đang không ngừng truy lùng. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng thừa hiểu chúng tôi đang mạnh lên, đang phát triển các Biệt năng. Và đây, một vết sẹo duy nhất ở mắt cá chân còn lại, vết sẹo hình thành khi lớp hộ thân hiển linh vào thời khắc quý giá trước khi chúng tôi rời khỏi Lorien. Đó là dấu ấn kết nối chúng tôi mãi mãi. CHƯƠNG SÁU TÔI BƯỚC VÀO NHÀ, VỀ PHÒNG RIÊNG CỦA MÌNH, NẰM ƯỜN RA TRÊN TẤM NỆM CHƯA TRẢI GA. Buổi sáng đã bòn rút hết sức lực còn sót lại trong tôi, và tôi cứ mặc nhiên để mắt nhắm nghiền. Đến khi tôi mở mắt ra, mặt trời đã lên đến quá ngọn cây. Tôi ra khỏi phòng. Bác Henri đang ngồi trên bàn ăn, laptop mở trước mặt, tôi nhận ra ngay là bác đang tìm hiểu tin tức - công việc bác vẫn luôn thực hiện - theo dõi các thông tin hay sự kiện có thể mách cho chúng tôi biết những người còn lại đang ở đâu. - Bác có chợp mắt được chút nào không? - Tôi cất tiếng hỏi. - Không nhiều. Giờ thì ta đã có internet rồi, từ lúc ở Florida dọn đến đây, bác chưa kiểm tra tin tức gì hết. Trong người khó chịu lắm. - Có gì mới không bác? - Tôi tỏ ra quan tâm Người Giám Hộ của tôi nhún vai. - Ở châu Phi, một thiếu niên mười-bốn-tuổi rơi từ cửa sổ tầng thứ tư xuống đất mà vẫn đi lại được bình thường, chẳng hề hấn gì. Ở Bangladesh thì có một thiếu niên mười-lăm-tuổi khẳng định rằng mình là Đấng Cứu Thế. Tôi cười. - Cháu dám chắc thiếu niên mười-lăm-tuổi kia không phải là người đằng mình. Còn người kia, liệu có khả năng không bác? - Khôngggg. Rơi từ tầng thứ tư xuống đất mà vẫn sống chẳng phải kì tích gì, với lại, nếu là người bên ta thì họ chẳng bất cẩn đến thế đâu - Nói xong, bác Henri nháy mắt. Mỉm cười, tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Bác Henri đóng máy lại, đặt cả hai tay lên bàn. Chiếc đồng hồ trên tay bác hiển thị con số 11:36. Vậy là chúng tôi đã ở trong bang Ohio này được hơn nửa ngày, và đã xảy ra bao nhiêu là chuyện. Tôi ngửa lòng bàn tay lên. Chúng đã dịu sáng đi rất nhiều. - Cháu đã biết được mình sở hữu gì chưa? - Bác Henri hỏi tôi. - Dạ, trong lòng bàn tay có ánh sáng. - Cái đó gọi là Lumen. Rồi cháu sẽ biết được cách kiểm soát ánh sáng. - Cháu cũng mong là như vậy, chứ nếu nó không tắt sớm thì lớp vỏ bọc của bác cháu ta sẽ bị thổi bay đi mất. Tuy nhiên, cho tới giờ, cháu vẫn chưa hiểu rõ về nó. - Lumen mạnh hơn ánh sáng đơn thuần. Cháu có thể tin điều đó. - Thế thì sao ạ? Người Giám Hộ bỏ vào phòng ngủ, sau đó trở ra với một chiếc bật lửa trong tay. - Cháu còn nhớ về ông bà của cháu không? - Bác Henri hỏi tôi. Ông bà là người nuôi dưỡng chúng tôi. Còn cha mẹ thì chúng tôi ít gặp cho đến năm hai mươi lăm tuổi, thời điểm chúng tôi có con. Cuộc sống của người Lorien kéo dài khoảng hai trăm năm, hơn hẳn đời sống của con người ở Địa Cầu; và khi trẻ em được sinh ra, độ tuổi của bố mẹ vào khoảng hai-mươi-lăm đến ba-mươi-lăm tuổi, thế hệ lớn hơn sẽ đảm trách chuyện nuôi dưỡng trẻ em, để bố mẹ chúng tiếp tục hoàn thiện các Biệt năng của mình. - Dạ, chỉ nhớ chút chút thôi. Sao ạ? - Bởi vì ông cháu cũng có khả năng tương tự. - Cháu không nhớ là tay ông cũng phát sáng - Tôi nghĩ ngợi. Bác Henri nhún vai. - Có lẽ ông không có lí do để dùng. - Hay thật - Tôi nói - Nghe như là một khả năng tuyệt vời, vậy mà có khi cháu lại chẳng dùng tới. Người Giám Hộ của tôi lắc đầu. - Đưa tay ra đây. Tôi đưa tay phải ra. Bác Henri bật lửa, đoạn đưa ngọn lửa liếm vào mấy đầu ngón tay của tôi. Tôi rụt tay lại ngay tức thì. - Tin bác đi - Bác Henri đáp gọn. Tôi lại đưa tay cho bác. Người Giám Hộ của tôi lại giữ lấy và bật lửa lên, trong lúc ánh mắt thì nhìn xoáy vào mắt tôi, rồi mỉm cười. Tôi nhìn xuống, nhận ra bác Henri đang châm lửa vào ngón tay giữa của mình. Nhưng tôi không hề có một cảm giác nào cả. Dù sao, bản năng cũng khiến tôi rụt tay lại. Tôi xoa ngón tay của mình, cũng chẳng cảm thấy điều gì đặt biệt. - Cháu có cảm giác à? - Bác hỏi. - Không ạ. - Đưa tay lại đây - Bác Henri lại bảo - Rồi cho bác biết ngay khi cảm thấy gì nhé. Bác lại bật lửa lên, đốt ngón tay của tôi, rồi một cách chậm rãi, bác Henri rê ngọn lửa lướt lên mu bàn tay tôi. Chỉ là một thoáng ran rát khi lửa liếm lên da thịt, ngoài ra, tôi chẳng hề hấn gì. Thế nhưng khi ngọn lửa lan đến cổ tay, tôi bắt đầu thấy nóng. Ngay lập tức, tôi rụt tay về. - Úi cha. - Lumen - Người Giám Hộ giải thích cho tôi nghe - Cháu sẽ kháng được lửa và nhiệt. Đôi bàn tay cháu thì đã quen rồi, nhưng chúng ta sẽ phải luyện cho cả cơ thể của cháu nữa. Nụ cười mở rộng trên môi tôi. - Kháng được lửa và nhiệt cơ à? - Tôi hít hà - Vậy là cháu sẽ không bao giờ thấy nóng nữa? - Câu trả lời là: Đúng như vậy. - Lạ quá! - Rốt cuộc thì không phải là một Biệt năng hạng xoàng, đúng chứ? - Không xoàng chút nào - Tôi tán thành - Thế những ánh sáng này thì thế nào ạ? Liệu chúng có chịu tắt đi không? - Có chứ. Có lẽ là sau một giấc ngủ ngon, khi tâm trí cháu quên mất rằng ánh sáng đang hiện diện - Bác Henri trả lời - Nhưng trong một thời gian dài, cháu phải cẩn thận không để chúng kích hoạt. Mất cân bằng cảm xúc sẽ làm cho ánh sáng xuất hiện, một khi cháu quá lo lắng, giận dữ, hay phiền muộn. - Trong bao lâu ạ? - Cho đến khi nào cháu kiểm soát được chúng - Bác Henri khẽ khép mắt lại, xoa mặt bằng cả hai bàn tay - Thôi, bác phải đi ngủ đây. Vài giờ nữa bác cháu mình lại nói đến chuyện luyện tập nhé. Sau khi bác Henri đi khỏi, tôi ngồi lại ở bàn ăn, hết mở ra lại nắm vào hai bàn tay, hít vào thật sâu và cố gắng làm dịu toàn thân, hòng làm cho ánh sáng tắt đi. Và lẽ tất nhiên điều đó là không thể được. Trong nhà, bên cạnh các đồ đạc mà bác Henri đã dọn dẹp lúc tôi ở trường, mọi thứ vẫn còn bề bộn lắm. Rõ ràng bác đang ngả về hướng dọn nhà đi nơi khác, nhưng cũng không có nghĩa là không có khả năng ở lại. Có lẽ khi tỉnh dậy, thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, bác sẽ có định hướng đúng đắn hơn. Tôi bắt tay vào dọn dẹp căn phòng của mình trước tiên - quét bụi, lau cửa sổ, quét sàn. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, tôi thảy các tấm ga trải giường, gối, mền lên giường, đoạn treo và gấp quần áo. Chiếc tủ cũ kĩ, ọp ẹp, nhưng tôi cũng xếp đặt vừa quần áo, rồi để thêm mấy quyển sách lên trên nóc. Và không khác nào một căn phòng vô trùng để làm thí nghiệm, vật dụng của tôi được sắp xếp ngăn nắp, thứ nào ra thứ nấy. Xong xuôi, tôi vào gian bếp, dọn dẹp chén đĩa, lau sạch các kệ. Công việc khiến tôi không còn dành tâm trí cho đôi tay, dù rằng trong lúc chùi rửa, tôi có nghĩ đến Mark James. Lần đầu tiên trong đời, đã có một kẻ cho tôi đối đầu. Trước đây, chưa bao giờ tôi làm như thế, dù nhiều khi trong thâm tâm rất muốn thực hiện; tất cả là vì lời khuyên của bác Henri, rằng đừng để ai chú ý đến nhân thân của mình. Lúc nào tôi cũng cố trì níu các cuộc di chuyển. Nhưng hôm nay lại khác. Khi một kẻ xô ta, và ta xô lại, cảm giác ấy mới dễ chịu làm sao. Và rồi dính phải một sự cố đáng tiếc, chiếc điện thoại di động của tôi bị lấy cắp. Được thôi, chúng tôi có thể mua một chiếc mới, chẳng khó khăn gì, nhưng mà lẽ công bằng nằm ở đâu? CHƯƠNG BẢY TÔI TỈNH GIẤC TRƯỚC KHI CHIẾC ĐỒNG HỒ BÁO THỨC ĐỔ CHUÔNG. Căn nhà thật trang nhã và tĩnh lặng. Tôi nhấc hai tay lên khỏi tấm mền. hai tay bình thường, không còn ánh sáng, không còn sức nóng. Lồm cồm bò dậy, thòng chân xuống giường, đi sang phòng khác, tôi nhìn thấy bác Henri đang ngồi bên bàn ăn đọc báo địa phương và nhấm nháp cà-phê. - Chào cháu - Người Giám Hộ của tôi lên tiếng - Thấy sao rồi? - Khoẻ bằng cỡ cả triệu con hoẵng ấy ạ - Tôi trả lời. Đáp xong, tôi làm cho mình một tô ngũ cốc, đoạn ngồi đối diện với bác Henri. - Hôm nay bác sẽ làm gì? - Chủ yếu là các thứ linh tinh. Nhà ta sắp hết tiền rồi. Có lẽ bác lại phải chuyển khoản mới được. Lorien hiện nay là (hay đã từng là, tuỳ vào việc người ta nhìn nhận nó như thế nào) một hành tinh có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú. Một trong những nguồn ấy là mỏ đá quí và kim loại, lúc ra đi, mỗi Cêpan được trao tặng một bao kim cương, ngọc lục bảo và hồng ngọc để bán dần khi đặt chân lên Địa Cầu. Bác Henri đã làm như thế, sau đó thì gửi tiền vào một tài khoản ngân hàng ở nước ngoài. Tôi không rõ số tiền ấy là bao nhiêu, và cũng chưa bao giờ thắc mắc. Tuy nhiên, tôi biết được rằng số tiền ấy dư sức cho chúng tôi sống tới mười đời, có khi còn hơn nữa. Và mỗi năm một lần, ít nhiều gì người Hộ Vệ của tôi cũng rút đi một khoản. - Cũng không biết nữa - Bác Henri tiếp tục nói - Bác không muốn ở vào tình thế bị động, giả như hôm nay có xảy ra chuyện gì. Không muốn làm lớn chuyện hôm qua, tôi phẩy tay gạt bỏ ý nghĩ ấy. - Cháu không sao đâu. Bác cứ làm việc của bác đi. Và tôi nhìn ra cửa sổ. Bình minh đang đến gần, phủ thứ ánh sáng yếu ớt lên vạn vật. Chiếc xe tải đẫm sương đêm. Lâu rồi, cả hai bác cháu không trải qua một mùa đông nào. Tôi chẳng có lấy một chiếc áo ấm, chỉ toàn là áo dệt kim. - Coi bộ trời đã trở lạnh rồi - Tôi nhận xét - Chắc chúng ta phải sắm thêm quần áo thôi. Bác Henri gật đầu. - Hôm qua, bác có nghĩ tới chuyện ấy. Đó là lí do vì sao bác cần phải đi ngân hàng đấy. - Vậy thì bác đi đi - Tôi giục - Hôm nay sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu - Ăn xong tô ngũ cốc, tôi bỏ tô vào bồn rửa rồi tót vào nhà tắm. Mười phút sau, tôi tròng vào người chiếc quần jean và chiếc áo sơ-mi ấm áp; tôi xắn tay áo lên đến khuỷu. Nhìn vào gương, tôi đảo mắt xuống đôi tay. Bình thản. Tôi cần phải luôn giữ mình trong trạng thái này. Trên đường đến trường, bác Henri đưa cho tôi một đôi găng tay. - Cháu cần phải thường xuyên đeo cái này. Cháu không bao giờ có thể lường trước hết được mọi việc đâu. Tôi nhét cả hai chiéc găng vào túi sau. - Cháu không đeo đâu. Cháu thấy ổn lắm. Đến trường, các xe buýt nối đuôi nhau thành hàng đậu trước cổng. Người Giám Hộ của tôi tấp xe vào bên hông khu nhà - Bác không muốn cháu xuống xe mà không có điện thoại di động - Bác Henri nói với tôi - Hàng tá việc không hay có thể xảy ra. - Bác đừng lo. Cháu sẽ sớm lấy lại điện thoại được thôi. Người Giám Hộ thở dài, lắc đầu. - Đừng có làm chuyện gì ngốc nghếch đấy. Cuối ngày, bác sẽ lại có mặt ở đúng chỗ này. - Vâng - Tôi đáp gọn lỏn rồi ra khỏi xe. Bác Henri đánh xe đi Trong trường, tất cả các hành lang đều rộn rịp, học trò quanh quẩn bên các tủ cá nhân, nói chuyện, cười đùa. Vài người nhìn tôi, thầm thì to nhỏ. Không rõ là do chuyện đối đầu của tôi hay là vụ căn phòng tối. Dường như là cả hai. Dù sao thì đây cũng là một ngôi trường nhỏ, mà trường nhỏ thì chuyện gì người ta lại không biết. Vào cổng chính, tôi rẽ phải, tìm đến ngăn tủ cá nhân của mình. Trống trơn. Tôi chỉ có vỏn vẹn mười lăm phút, trước khi đám học trò khóa Hai bắt đầu kéo tới đông hơn. Ngẫm nghĩ một chút, tôi bước ngang qua lớp học, như thể định vị rất chắc chắn vị trí của nó, rồi nhắm thẳng đến văn phòng. Cô thư kí mỉm cười khi trông thấy tôi bước vào. - Em chào cô - Tôi lên tiếng - Hôm qua, em làm mất điện thoại di động, không biết có ai đưa đến “Nhặt Được Của Rơi” chưa ạ? Người phụ nữ lắc đầu. - Chưa em à, cô e rằng không có chiếc điện thoại di động nào cả. - Em cảm ơn cô - Tôi nói thay lời chào tạm biệt. Ngoài hành lang, tôi không nhìn thấy Mark ở đâu hết. Chọn hú hoạ một hướng, tôi bước đi. Ai nấy đều ngó tôi chăm chăm và tiếp tục thầm thì, tuy nhiên, điều đó chẳng làm cho tôi khó chịu. Thế rồi bất chợt, tôi trông thấy kẻ mình đang muốn tìm ở phía trước, cách tôi chừng mười lăm mét. Ngay lập tức, chất adrenaline trong tôi được kích hoạt. Tôi nhìn xuống hai tay. Đôi tay tôi vẫn bình thường. Tôi lo ánh sáng lại xuất hiện, và chính nỗi lo lắng ấy là chất xúc tác để vận hành ánh sáng. Mark đang đứng tựa lưng vào một chiếc tủ cá nhân, hai tay khoanh trước ngực, giữa một tốp học sinh gồm năm gã con trai và hai cô gái; cả bọn đang trò chuyện, cười đùa rôm rả. Cách đó khoảng năm mét, Sarah đang ngồi trên bậu cửa sổ. Hôm nay, trông cô vẫn rạng rỡ, với mái tóc vàng cột cao kiểu đuôi ngựa, trong chiếc váy và chiếc áo len màu xám. Sarah đang đọc sách, nhưng thoáng thấy tôi đến gần tốp học sinh nọ, cô ngẩng đầu lên. Tôi dừng lại ở vòng ngoài, chú mục vào Mark, chờ đợi. Đúng năm giây sau, hắn chú ý đến sự có mặt của tôi. - Mày muốn gì? - Hắn lên tiếng. - Mày thừa biết mà. Ánh nhìn của hắn, của tôi xoáy vào nhau. Đám đông quanh chúng tôi bắt đầu tăng lên mười người, rồi hai mươi người, Sarah đứng dậy, bước về phía đám học sinh chen chúc ấy. Mark mặc trên mình chiếc áo khoác thể thao, mái tóc đen của hắn được chải chuốt cẩn thận theo kiểu lăn ra khỏi giường là thay quần áo, đến trường ngay. Cất mình ra khỏi chiếc tủ, hắn bước lại phía tôi. Khoảng cách còn vài phân ngắn ngủi, hắn dừng lại. Vòng ngực của hắn và tôi đang ở rất gần nhau, mùi nước hoa trên người hắn xộc vào mũi tôi, nồng nặc. Kẻ đối diện cao tầm một mét tám mươi sáu, hơn tôi năm xăng-ti-mét. Hình thể của chúng tôi ngang nhau. Tuy nhiên, có một điều mà tên Mark không ý thức được, đó là bản thể trong tôi không như bản thể của hắn. Tôi nhanh nhẹn hơn và mạnh mẽ hơn. Ý niệm ấy khiến tôi nhoẻn miệng nở một nụ cười tự tin. - Mày tưởng sau ngày hôm nay, mày còn có thể học được ở trường này nữa hả? Hay mày sẽ chạy cong đuôi như một con chó con? Tiếng cười khúc khích rộ lên trong đám đông. - Để rồi xem. - Ờ, để rồi coi - Hắn sẵn giọng và tiến đến sát hơn nữa. - Tao muốn lấy lại chiếc điện thoại - Tôi nói rành rọt. - Tao không lấy điện thoại của mày. Tôi lắc đầu. - Có hai người thấy mày lấy đấy - Tôi nói dối. Đôi lông mày của kẻ đối diện châu vào nhau. Tôi hiểu mình đã đoán trúng. - Ờơơơ, nếu thế thì sao? Mày sẽ làm gì tao? Giờ thì vây quanh chúng tôi, đã lên đến hơn ba mươi người, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ trong vòng mười phút nữa thôi - thời điểm bắt đầu tiết học thứ nhất, cả trường sẽ biết về cuộc đối đầu này. - Mày đã được cảnh báo rồi đấy - Tôi nói một cách dõng dạc - Mày còn thời gian đến cuối ngày. Tôi quay lưng lại và bỏ đi. - Còn không thì sao? - Mark hét lên phía sau tôi. Tôi chẳng nói gì. Cứ để mặc cho hắn đoán già đoán non. Hai nắm tay tôi siết chặt lại, và tôi nhận ra rằng chất adrenaline sai lầm đã gây ra sự căng thẳng, vì lẽ gì tôi lại trở nên lo lắng như thế? Không thể đoán định được chăng? Hay đây là lần đầu tiên, tôi đối đầu với người khác? Khả năng tay tôi sẽ phát sáng trở lại? Có lẽ đáp án là cả ba câu trả lời trên. Vào nhà tắm, tôi chọn một phòng trống, không quên cài chốt cửa. Tôi xoè hai bàn tay ra. Một luồng sáng nhẹ đang lập loè nơi bàn tay phải, khép mắt lại, tôi thở dài, cố điều hòa hơi thở. Một phút sau, ánh sáng vẫn nguyên vẹn như thế. Tôi lắc đầu. Không ngờ Biệt năng lại nhạy đến như vậy. Cứ thế, tôi ở yên trong ngăn buồng trống. Mồ hôi trên trán bắt đầu túa ra, hai bàn tay tôi ấm dần lên, nhưng may thay, tất cả chỉ có thế. Ở phía bên ngoài nhà vệ sinh, người ta bắt đầu ra vào. Tôi cứ ở yên trong góc của mình, chờ đợi. Ánh sáng vẫn không tắt. Cuối cùng, hồi chuông báo hiệu tiết học thứ nhất vang lên, toàn bộ khu nhà vệ sinh không một bóng người. Tôi lắc đầu chán nản, buộc mình chấp nhận điều không thể lảng tránh. Tôi không có điện thoại, và người Giám Hộ của tôi thì đang trên đường đến ngân hàng. Xung quanh đây chỉ có duy nhất một mình tôi với sự ngốc nghếch của mình, không một ai khiển trách, ngoại trừ chính bản thân tôi. Tôi rút đôi găng trong túi ra - đôi găng làm vườn bằng da - bắt đầu xỏ tay vào. Bây giờ, nếu tôi có mặc chiếc quần màu vàng, đi đôi giày mũi phình của chú hề thì cũng chẳng thể khiến tôi trông ngớ ngẩn hơn. Quá nhiều thứ phải hoà hợp. Tôi nhận ra rằng mình cần phải ngừng chiến với Mark. Hắn thắng. Hắn cứ giữ điện thoại của tôi; tối nay, bác Henri và tôi sẽ đi mua một cái mới. Tôi rời khỏi nhà tắm, đi trên hành lang vắng vẻ để đến lớp học của mình. Khi tôi bước chân vào lớp, tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn vào tôi, sau đó là tới đôi găng tay. Không có cách nào giấu chúng đi được. Trông tôi giống như thằng ngố. Tôi là người ngoài hành tinh thật đấy, tôi sở hữu những sức mạnh phi thường thật đấy, hơn thế nữa, tôi còn có thể thực hiện được những điều mà không một con người nào có thể tưởng tượng được; tuy nhiên, lúc này, tôi chẳng khác nào một thằng ngố. *** Tôi ngồi giữa lớp học. không một ai mở miệng nói với tôi lời nào, mà tôi cũng quá bối rối, không biết giáo viên đang giảng gì nữa. Chuông reo, tôi thu dọn mọi thứ, bỏ tất cả vào ba-lô, đeo vào vai. Trên hai tay tôi vẫn là đôi găng tay làm vườn. Khi ra khỏi phòng, tôi có mở hé găng tay bên phải ra xem. Tay tôi vẫn đang phát sáng. Tôi bước từng bước chắc nịch trên hành lang. Thở từng hơi chậm rãi. Cố rũ sạch mọi suy nghĩ mà không được. Khi tôi bước vào lớp học, Mark vẫn ngồi ở chỗ cũ, như hôm qua, và Sarah ngồi bên cạnh hắn. Thằng tồi ấy khẽ nhếch mép với tôi. Cố cư xử điềm đạm, hắn không chú ý đến đôi găng tay. - Sao hả, thằng thỏ đế? Tao nghe nói đội việt dã đang tìm kiếm thành viên mới đấy. - Đừng có khùng như thế nữa - Sarah quát lên với Mark. Tôi nhìn cô bạn đi ngang qua bạn của họ. Đôi mắt xanh của Sarah không khỏi khiến cho tôi cảm thấy e dè và ngượng ngập, không khỏi khiến cho đôi má tôi nóng bừng. Chỗ tôi ngồi hôm qua đã có người, thế nên tôi bước xuống phía dưới. Lớp học đã đầy học sinh, và cậu chàng hôm qua, người đã cảnh báo với tôi về Mark, ngồi bên cạnh tôi. Hôm nay, cậu ta mặc chiếc áo thun khác, nhưng vẫn có logo NASA in trước ngực, chiếc quần rằn ri, và đôi giày tennis Nike. Cậu ta sở hữu một mái tóc vàng sẫm rối bù, và đôi mắt to nằm sau cặp kính trắng. Kẻ say mê bộ môn thiên văn ấy mở tập ra, trong tập đấy là những biểu đồ sao và hành tinh. Cậu chàng nhìn tôi chằm chằm, không hề tỏ ra là có ý định che giấu cái nhìn đó. - Sao thế? - Tôi hỏi. Kẻ ngồi bên cạnh tôi nhún vai, hòi ngược lại: - Sao cậu phải đeo găng? Tôi mở miệng toan trả lời, nhưng cô Burton đã bắt đầu giảng bài. Trong suốt tiết học, cậu bạn cùng bàn với tôi chỉ vẽ những bức tranh về người sao Hoả - theo như hình dung của cậu - với thân hình bé nhỏ; đầu, tay và mắt thì to. Y hệt các hình mẫu thường thấy trên phim. Dưới mỗi bức vẽ, cậu ta đều ghi tên mình, những chữ cái nho nhỏ: SAM GOODE. Bất chợt tôi bị Sam phát hiện ra là đang quan sát cậu ta, tôi vội nhìn đi chỗ khác. Khi cô Burton giảng đến sáu mươi mốt vệ tinh của sao Thổ, tôi chú ý đến cái đầu của Mark. Nãy giờ hắn cong người trên bàn, hí hoáy viết. Xong, hắn ngồi thẳng dậy và chuyền mẩu giấy vừa viết sang cho Sarah. Tôi thấy cô bạn ấy trả lại ngay, chẳng hề ghé mắt đọc. Cảnh tượng đó làm cho tôi bất giác mỉm cười. Trên bảng, cô Burton bắt đầu tắt đèn để chiếu phim. Trên màn hình hiện lên các hành tinh đang chuyển động, khiến tôi nhớ đến Lorien. Một trong mười tám hành tinh trong thiên hà có tồn tại sự sống. Địa Cầu là một trong số đó. Mogadore, tiếc thay, cũng nằm trong danh sách đó. Lorien. Tôi khẽ khép mắt lại và tự cho phép mình nhớ về nó - một hành tinh lâu đời, có độ tuổi gấp một trăm lần Trái Đất. Các vấn đề mà Địa Cầu đang gặp phải hiện nay - ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, hiện tượng trái đất nóng dần lên, khan hiếm lương thực - hành tinh Lorien cũng đã từng phải đối mặt. Và đúng hai mươi lăm ngàn năm trước, hành tinh này đã bắt đầu đi vào con đường diệt vong. Khi ấy, trước thời điểm các cư dân có khả năng du chuyển giữa các thiên hà một thời gian rất lâu, người Lorien đã phải tìm cách tự tồn tại. Chậm, nhưng chắc, họ quyết tâm cải thiện hiện trạng, để quê hương thực sự là một hành tinh có sự sống vĩnh cửu. Từ đó, cách sống của người Lorien thay đổi, từ bỏ mọi thứ gây hại - bom, súng, hoá chất độc hại, các chất gây ô nhiễm - và dần dần, sự nguy hiểm đã tự thân bị đào thải. Cùng với sự thuận lợi trong quá trình tiến hóa đó, hàng ngàn năm sau, những cư dân chủ chốt của hành tinh - các Garde - đã phát triển được sức mạnh để bảo vệ và giúp ích cho hành tinh. Vì lẽ đó, người Lorien luôn biết ơn các thế hệ đi trước đã nhìn xa trông rộng. Cô Burton bật đèn sáng trở lại. Tôi mở mắt ra, nhìn đồng hồ; đã sắp hết tiết học. Tôi thấy tâm hồn mình thanh thản một cách lạ thường, hoàn toàn quên đi tình trạng của đôi bàn tay. Hít vào một hơi thật sâu, tôi mở cổ găng tay bên phải. Ánh sáng đã tắt! Mỉm cười, tôi tháo cả hai chiếc găng ra, trở lại bình thường. Hôm nay, tôi còn sáu tiết học nữa. Tôi phải luôn giữ mình trong trạng thái thanh thản cho đến cuối buổi học. *** Nửa buổi học trôi qua trong êm đềm. Lúc nào tôi cũng điềm tĩnh, và như vậy những cuộc chạm trán với Mark sẽ không còn tồn tại nữa. Giờ ăn trưa, tôi cho vào khay của mình những món đơn giản, rồi tìm đến một cái bàn trống ở cuối phòng. Đúng lúc chuẩn bị đưa miếng pizza lên miệng thì Sam Goode, cậu chàng học chung lớp thiên văn, ngồi xuống đối diện với tôi. - Tan học cậu sẽ choảng thằng Mark à? - Cậu ta hỏi. Tôi lắc đầu. - Không. - Mọi người đồn như vậy mà. - Họ sai rồi. Kẻ đối diện với tôi nhún vai, cắm cúi ăn tiếp. Một phút sau, cậu ta lại hỏi: - Đôi găng tay của cậu đâu rồi? - Tôi cất rồi. Tay không còn thấy lạnh nữa. Sam mở miệng toan hỏi thêm nhưng bất ngờ, một tảng thịt viên, mà tôi dám chắc là nhằm vào tôi, chẳng rõ từ đâu bỗng bay thẳng vào gáy cậu ta. Tóc và hai vai của Sam đầy những vụn thịt cùng sốt spaghetti. Một vài mảnh vụn bắn cả sang tôi. Trong lúc tôi lúi húi phủi quần áo, thì một viên thịt khác bay thẳng vào má tôi. Những tiếng ồôôô rộ lên khắp nhà ăn. Tôi đứng dậy, lấy khăn lau mặt, cơn phẫn nộ bắt đầu dấy lên. Trong thời khắc ấy, tôi không còn quan tâm xem tay mình ra sao nữa. Nếu không thể diễn ra theo chiều hướng êm đẹp, chúng cứ việc sáng bừng như ánh mặt trời, rồi thì bác Henri và tôi sẽ lại chuyển nhà ngay vào chiều nay. Không đời nào tôi chịu để mình bị một đòn đánh lén như vậy. Sau buổi sáng hôm nay, tôi còn chịu gác lại mọi chuyện, chứ giờ thì… - Đừng - Sam lên tiếng cản tôi. - Nếu cậu mà phản ứng thì chúng sẽ chẳng bao giờ để cho cậu yên đâu. Tôi cứ mặc nhiên bước tới. Khu nhà ăn bao trùm một bầu không khí im lặng. Hàng trăm cặp mắt dán dính vào tôi. Mặt tôi đanh lại. Nơi bàn của Mark James có bảy kẻ đang ngồi, toàn là con trai cả. Khi tôi sán tới, cả bảy đứa đều bật ngay dậy. - Mày có chuyện gì à? - Một thằng lên tiếng hỏi tôi. Hắn to con, dáng dấp không khác nào một tiền vệ tấn công. Trên má và cằm hắn lún phún những sợi râu đỏ, có vẻ như hắn đang để râu. Và điều đó khiến gương mặt hắn trông thật khả ố. Cũng giống như tất cả những tên còn lại, hắn mặc trên mình một chiếc áo khoác thể thao. Khoanh hai tay trước ngực, hắn đứng chắn đường tôi. - Không liên quan đến mày - Tôi đáp. - Mày phải đi qua tao trước khi tới đó. - Mày mà không tránh đường thì tao sẽ làm thật đấy. - Tao không tin là mày dám làm gì đâu - Hắn nói. Và tôi lên gối ngay giữa đũng quần của thằng to xác ấy. Ngay lập tức, hắn thở hắt ra và gập người xuống. Mọi người xung quanh nhất loạt há hốc miệng ra vì ngạc nhiên. - Tao đã cảnh báo mày rồi - Tôi nói và bước qua hắn, nhắm thẳng tới Mark. Tuy nhiên ngay khoảnh khắc ấy tôi bỗng bị một ai đó ở đằng sau giữ lại. Tay siết lại thành nắm, tôi nhanh chóng chuẩn bị cho ra một cú huých thật đẹp, thế nhưng, vào giây phút cuối cùng, tôi nhận ra đó chính là người phục vụ nhà ăn. - Đủ rồi, mấy nhóc. - Chú nhìn những gì chúng nó làm với Kevin kìa, chú Johnson - Mark nhảy vào ngay lập tức. Kevin vẫn còn nằm lăn lóc trên đất, hai tay đang bụm vào chỗ đau, gương mặt đỏ lừ không khác nào củ cải đỏ - Đưa nó tới chỗ thầy hiệu trưởng đi! - Im đi, James. Bốn đứa đi hết. Đừng tưởng tôi không trông thấy cậu ném mấy viên thịt ấy - Người đàn ông cao giọng, mắt chăm chú nhìn Kevin vẫn đang nằm trên đất - Đứng dậy đi. Không rõ từ đâu ra, Sam bỗng xuất hiện. Cậu ta đã cố lau sạch mớ thức ăn dính trên tóc và vai. Phần lớn đã không còn, nhưng các vết nước sốt thì vẫn còn in dấu. Tôi không hiểu vì sao cậu ta lại quay trở lại. Nhìn xuống đôi bàn tay, tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nhận dấu hiệu đầu tiên của ánh sáng, nhưng ngạc nhiên thay, không có một vệt sáng nào cả. Phải chăng tình trạng cấp thiết đã bỏ qua sự căng thẳng ban đầu? Tôi không biết nữa. Kevin đứng dậy, nhìn tôi chằm chằm. Thân hình hắn vẫn còn run rẩy, hơi thở vẫn chưa đều. Hắn phải bá vai một tên khác bên cạnh để đứng vững. - Rồi mày sẽ phải hối hận - Hắn làu bàu dọa nạt. - Tao chẳng tin - Tôi đáp lại, gương mặt vẫn không dãn ra, vẫn nhơ nhớp thức ăn. Phỉ phui thật. Bốn kẻ chúng tôi bước đến phòng thầy hiệu trưởng. Thầy Harris đang ngồi sau bàn làm việc, chăm chú ăn bữa trưa vừa được làm nóng bằng lò vi sóng, chiếc khăn ăn nằm giắt trên ngực áo sơ-mi. - Xin lỗi phải cắt ngang thế này, thưa thầy. Chẳng là vừa có vụ ẩu đả xảy ra trong giờ ăn trưa. Chắc chắn các em đây sẽ có lời giải thích thoả đáng với thầy - Người phục vụ giải thích. Thầy Harris thở dài, kéo chiếc khăn ăn ra khỏi áo, thảy lên cái khay. Cùng lúc, gạt bữa trưa sang một bên bằng mu bàn tay. - Cảm ơn anh, Johnson. Chú Johnson bước ra ngoài, đóng cửa lại. Bốn đứa chúng tôi ngồi xuống. - Ai muốn trình bày trước đây? - Thầy hiệu trường hỏi, vẻ bực dọc hiện rõ trong giọng nói. Tôi im lặng. Các khớp trên quai hàm thầy Harris trễ xuống. Tôi chuyển điểm nhìn xuống hai bàn tay của mình. Chúng vẫn bình thường. Tuy nhiên, tôi vẫn úp lòng bàn tay xuống đùi, phòng khi có chuyện. Sau mười giây im ắng, tên Mark bắt đầu nói: - Có ai đó chọi miếng thịt viên vào nó. Thế là nó nghi thủ phạm là em, rồi lên gối ngay vào đũng quần thằng Kevin. - Cẩn thận cách dùng từ của trò đấy - Thầy Harris nhắc nhở rồi quay sang Kevin – Trò ổn chứ? Kevin, gương mặt vẫn còn đỏ lựng, gật đầu. - Thế ai đã ném tảng thịt viên? - Thầy Harris quay sang hỏi tôi. Tôi vẫn im lặng, chỉ thở thành tiếng, bực bội trước tình huống này. Tôi hít vào một hơi thật sâu, cố giữ bình tĩnh. - Em không biết - Tôi trả lời. Cơn tức giận đã tăng thêm một bậc. Tôi không muốn tranh cãi với Mark trước mặt thầy Harris, tốt hơn hết là tôi phải xoay sở cho tình trạng của mình, hòng có thể nhanh chóng rời khỏi phòng thầy hiệu trưởng. Sam nhìn tôi, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Thầy Harris giơ cả hai tay lên vì bực bội. - Hừ, vậy thì làm thế nào mà các em lại có mặt ở đây? - Hỏi thế mới là hỏi chứ - Mark xen vào - Bọn em chỉ ăn trưa thôi ạ. Sam bắt đầu lên tiếng: - Mark ném đấy, thầy ạ. Em trông thấy, cả chú Johnson cũng trông thấy nữa. Tôi nhìn Sam. Tôi biết cậu ta không trông thấy, bởi lẽ cú ném đầu tiên là từ phía sau lưng của Sam, còn ở cú ném thứ hai, cậu ta đang mải lau thức ăn bám trên người mình. Tuy nhiên, tôi rất cảm kích khi Sam trả lời như vậy, điều đó cho thấy cậu ta ngả về phía tôi, và điều đó sẽ khiến cậu ta gặp nguy hiểm với Mark cùng lũ bạn của hắn. Mark cau mày nhìn Sam. - Coi nào, thầy Harris - Mark giở giọng nài nỉ - Ngày mai, em có buổi phỏng vấn với tờ Gazette, rồi thứ Sáu này có trận đấu nữa. Em không có thời gian để bận tâm đến những việc như thế này đâu. Em bị vu cho một việc mà em không làm. Khó tập trung vô mấy thứ quỉ này được quá. - Cẩn thận cái miệng trò đấy! - Thầy hiệu trưởng quát lên. - Vâng. - Tôi tin em - Thầy Harris thở ra một cách nặng nề. Đoạn nhìn sang Kevin đang cố thở đều - Em có cần gặp y tá không? - Em không sao ạ - Kevin trả lời. Thầy Harris gật đầu. - Hai em quên chuyện rắc rối ở nhà ăn đi, còn Mark chuẩn bị tinh thần đi nhé. Trường ta đã đợi bài báo ấy lâu lắm rồi. Có lẽ họ sẽ cho lên trang nhất. Hãy tưởng tượng xem, trang nhất tờ Gazette - Thầy mỉm cười. - Cảm ơn thầy - Mark nói - Em rất phấn khởi ạ. - Tốt. Giờ thì hai trò đi được rồi. Hai tên láu cá bước ra cửa, thầy Harris nhìn Sam, một cái nhìn khắc nghiệt. Sam bình thản đón nhận. - Nói đi Sam. Tôi muốn nghe sự thật. Trò có thấy Mark ném tảng thịt viên không? Sam khẽ híp mắt lại. Cậu ta không hề nhìn sang hướng khác. - Dạ có. Thầy hiệu trưởng lắc đầu. - Tôi không tin em, Sam ạ. Vì lẽ đó, chúng ta sẽ làm thế này nhé - Thầy nhìn sang tôi - Vậy cái tảng thịt viên ấy... - Hai - Sam nhẹ ngàng xen vào. - Cái gì?! - Thầy Harris sửng sốt, ánh mắt lại xoáy vào Sam, nảy lửa. - Những hai tảng thịt viên chứ không phải một. Thầy hiệu trưởng dọng nắm tay xuống bàn. - Ai mà quan tâm coi là mấy! John, trò đã đá Kevin. Ăn miếng trả miếng. Chúng ta sẽ bỏ qua chuyện này. Trò có hiểu ý tôi không? Gương mặt người đang ở trước mặt tôi đỏ lựng, và tôi hiểu được rằng sẽ không còn tranh luận nữa. - Vâng - Tôi đáp gọn lỏn. - Tôi không muốn thấy hai em ở đây nữa - Thầy Harris nói tiếp - Hai em đi đi. Chúng tôi lục tục rời khỏi văn phòng. - Sao cậu không nói với thầy về vụ điện thoại? - Sam thắc mắc. - Vì thầy ấy không quan tâm. Thầy ấy chỉ muốn ăn tiếp thôi - Tôi đáp - Hãy cẩn thận nhé - Tôi nhắc nhở - Cậu nằm trong tầm ngắm của thằng Mark rồi. *** Sau bữa trưa, chúng tôi có tiết nghiên cứu quản lý gia đình - chẳng phải vì tôi quan tâm đến nấu nướng mà bởi hoặc là tôi phải học môn này, hoặc là phải học môn hợp xướng, tôi thì, sức khoẻ lẫn sức mạnh của bản thân phụ thuộc vào hàng khác thường của Địa Cầu, thế nhưng hát hò lại không nằm trong khoản đó; bởi vậy tôi bước vào lớp nghiên cứu quản lý gia đình và vào chỗ ngồi. Lớp học nhỏ xíu, vừa lúc chuông reo, Sarah bước vào và ngồi xuống ngay bên cạnh tôi. - Chào anh - Cô ấy lên tiếng. - Chào cô. Máu dồn cả lên mặt tôi, và hai vai tôi cứng đờ. Tôi chộp lấy cây bút chì, bắt đầu quay bút bên tay phải, còn tay trái thì mày mò uốn cong góc cuốn tập, tim đập liên hồi. Lạy trời cho tay tôi không phát sáng. Tôi liếc nhìn vào lòng bàn tay của mình và thở phào nhẹ nhõm khi thấy chúng vẫn bình thường. Phải bình tĩnh, tôi tự nhủ. Chỉ là một cô gái thôi mà. Sarah nhìn sang tôi. Có cảm giác mọi thứ trong người tôi như đang thắt lại. Dường như đây là người con gái xinh đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời. - Tôi rất tiếc chuyện Mark cư xử với anh chẳng ra làm sao - Người ngồi bên cạnh tôi nhỏ nhẹ nói. Tôi nhún vai. - Cô chẳng có lỗi gì cả. - Các anh sẽ không đánh nhau chứ, phải không nào? - Tôi không muốn làm như vậy - Tôi trả lời. Sarah gật đầu. - Bất cứ lúc nào, hắn cũng có thể là một kẻ không ra gì. Hắn luôn cố chứng tỏ hắn là kẻ mạnh nhất. - Dấu hiệu của sự thiếu tự tin - Tôi đoán định. - Hắn không thiếu tự tin đâu. Chính xác hơn là một kẻ không ra gì. Hẳn nhiên rồi. Tôi không muốn tranh cãi với Sarah. Vả lại, cái cách nói chắc chắn của cô bạn đang ngồi bên cạnh khiến tôi bất giác nghi ngờ cả chính bản thân mình. Đột nhiên cô gái chú mục vào những mảng sốt spaghetti đã đóng khô trên áo tôi, và đưa tay lên tóc tôi, kéo xuống một mảnh đã đông cứng. - Cảm ơn - Tôi nói khẽ. Sarah thở dài. - Tôi rất tiếc cho những gì đã xảy ra - Cô gái nhìn sâu vào mắt tôi - Hắn và tôi không chơi với nhau nữa. Anh có biết không? - Không à? Cô gái lắc đầu. Tôi ngạc nhiên khi người ngồi cạnh mình dường như đang muốn nói rõ cho tôi biết. Trên bảng, sau mười phút hướng dẫn làm bánh kếp - mà tôi chẳng để lọt tai một lời nào - cô Benshoff phân Sarah và tôi vào một cặp. Chúng tôi lục tục kéo nhau đi qua cánh cửa ở cuối lớp dẫn vào nhà bếp, rộng gấp ba lần lớp học. Trong này có mười dụng cụ nhà bếp khác nhau, đầy đủ tủ lạnh, tủ bếp, bồn rửa, lò nướng. Sarah mạnh dạn bước đến một vị trí, lấy chiếc tạp-dề từ trong một ngăn tủ ra và tròng vào người. - Anh cột giúp tôi được không? - Cô gái cất tiếng hỏi. Tôi kéo nơ quá đà nên phải cột lại. Bên dưới những ngón tay của mình, tôi cảm nhận được những đường nét trên lưng Sarah. Thắt dây tạp dề cho Sarah xong, tôi mặc tạp-dề của mình vào, và bắt đầu tự cột lấy. - Đưa đây nào, chàng ngốc - Sarah thốt lên, bắt lấy dây và cột lại cho tôi. - Cảm ơn cô. Tôi cố đập quả trứng đầu tiên nhưng khó quá, chẳng có quả trứng nào chịu nằm hẳn trong tô cả. Sarah cười giòn. Cô gái đặt một quả trứng khác vào tay tôi, đoạn cầm lấy tay tôi và hướng dẫn cách đập trứng vào thành tô. Sau đó một tích tắc, Sarah buông tay, nhìn tôi mỉm cười. - Như vậy đó. Xong xuôi, Sarah bắt đầu đánh trứng, những lọn tóc rũ hết xuống khuôn mặt xinh đẹp. Trong khoảnh khắc, tôi rất muốn đưa tay vén mái tóc ấy ra phía sau giúp cô ấy, nhưng không dám. Lúc ấy, cô Benshoff vào bếp kiểm tra phần thực hành của học sinh. Từ đầu đến cuối, mọi thứ đều diễn ra tốt đẹp, tất cả là nhờ ở Sarah, bởi lẽ tôi không hề có ý niệm mình cần phải làm gì cả. - Anh thấy Ohio thế nào? - Sarah hỏi. - Cũng được, lẽ ra tôi đã có một ngày đầu đến trường tốt đẹp. Cô ấy mỉm cười. - Lúc đó anh sao vậy? Tôi lo lắm. - Nếu tôi nói với cô rằng tôi là người ngoài hành tinh, thì liệu cô có tin không? - Im ngay. - Cô gái hơi cao giọng một cách bông đùa - Thực ra là chuyện gì? Tôi cười. - Tôi bị suyễn. Vì một lẽ nào đó mà hôm qua, tôi bị lại - Tôi giải thích và cảm thấy bứt rứt vì phải nói dối. Tôi không muốn Sarah nhìn thấy sự yếu đuối trong con người tôi, nhất là khi sự yếu đuối ấy không có thật. - Ừm, anh khoẻ trở lại rồi, tôi rất vui. Chúng tôi cùng nhau làm bốn cái bánh kếp. Sarah đặt bánh vào trong một chiếc đĩa. Cô ấy cho rất nhiều xi rô phong lên bánh và đưa cho tôi một chiếc nĩa. Tôi nhìn quanh. Hầu hết các cặp đều dùng nĩa khác nhau. Tôi xiên vào một cái bánh, cắn một miếng. - Không tệ chút nào - Tôi vừa nhai vừa nhận xét. Ít ra thì tôi cũng không đói, tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng giúp cô bạn ăn cho bằng hết. Chúng tôi thay phiên nhau ăn đến khi cái đĩa sạch trơn; no căng cả bụng. Sau cùng, Sarah rửa các chén đĩa, còn tôi thì lau khô chúng. Khi chuông reo, chúng tôi cùng bước ra khỏi lớp. - Anh biết không, với một học sinh khóa Hai mà nói thì anh không hề tệ một chút nào - Sarah huých nhẹ vào tôi - Tôi không quan tâm xem người ta nói gì. - Cảm ơn cô. Cô cũng vậy, với một học sinh… khóa gì đó. - Tôi học khóa Ba. Chúng tôi tiến thêm vài bước trong im lặng. - Tan trường, anh sẽ không ẩu đả với Mark chứ? - Tôi muốn lấy lại điện thoại di động. Với lại, cô xem - Tôi chỉ tay vào chiếc áo sơ-mi đang mặc. Người đang sóng bước với tôi nhún vai. Tôi dừng lại trước ngăn tủ cá nhân của mình. Cô gái chú ý đến con số. - Ừm, anh không nên dây vào. - Tôi đâu có muốn. Sarah trố mắt. - Ôi con trai và mấy trò va quẹt. Dù sao đi nữa, hẹn ngày mai gặp lại anh. - Chúc cô buổi còn lại vui vẻ - Tôi đáp lời. *** Sau tiết học thứ chín, lịch sử Mỹ, tôi bước từng bước chậm rãi đến ngăn tủ cá nhân của mình. Tôi đang tính tới chuyện ra khỏi trường một cách êm thấm, không tìm kiếm Mark làm gì. Thế rồi tôi bỗng nhận ra mình phải mang cái tiếng thằng chết nhát suốt đời. Đến ngăn tủ riêng, tôi cất vào đấy tất cả những sách vở không cần thiết. Và cứ đứng đó, tôi cảm nhận được một nỗi lo lắng đang cồn lên trong lòng. Đôi tay của tôi vẫn bình thường. Có lẽ để cho chắc ăn, tôi nên xỏ găng tay vào, nhưng tôi đã không làm như thế. Tôi hít vào một hơi đầy buồng phổi, bắt đầu đóng cửa tủ lại. - Xin chào - Một giọng nói cất lên khiến tôi giật nảy mình. Chính là Sarah. Cô gái thoáng ngó lại phía sau, rồi lại nhìn tôi - Tôi có thứ này cho anh đây. - Không phải là bánh kếp chứ, đúng không? Tôi có cảm tưởng như mình sẽ bể bụng rồi đây này. Cô gái cười khanh khách, nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn. - Không phải bánh kếp. Song nếu tôi trao nó cho anh, anh phải hứa với tôi là anh sẽ không đánh nhau nữa. - Được rồi - Tôi nhận lời. Sarah nhìn lại đằng sau lần nữa rồi nhanh nhẹn đút tay vào trong ba-lô, chỗ ngăn đằng trước. Sau đó, cô gái rút vội chiếc điện thoại của tôi ra và trao nó cho tôi. - Làm sao cậu lấy được? Người đối diện nhún vai. - Mark có biết không? - Không. Vậy là anh định tiếp tục làm một kẻ cứng đầu? - Sarah hỏi gặng. - Có lẽ là không. - Thế thì tốt. - Cảm ơn cô - Tôi thì thầm. Không dám tin rằng Sarah lại dám làm mọi chuyện để giúp đỡ tôi, trong khi cô ấy chỉ mới quen biết tôi thôi. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể trông mong một điều gì hơn thế nữa. - Không có gì - Người đối diện trả lời rồi quay phắt lại, gấp rút đi về phía cuối hành lang. Tôi cứ đứng đó nhìn theo bóng cô gái khuất dần, trên môi giữ mãi một nụ cười. Khi tôi tiếp tục bước trên con đường của mình thì Mark James cùng tám đứa bạn của hắn chờ tôi ở tiền sảnh. - Chà, chà, chà - Mark lên tiếng - Hết ngày rồi đấy à? - Tất nhiên. Coi tao tìm được cái gì này - Tôi đáp lại ngay tức khắc, đồng thời giơ cao chiếc điện thoại của mình lên cho hắn nhìn. Miệng hắn há hốc. Tôi đĩnh đạc bước đi ngang qua mặt đám nam sinh ấy, tiến tới cuối hành lang và bước ra ngoài khu nhà. CHƯƠNG TÁM BÁC HENRI ĐẬU XE NGAY CHỖ ĐÃ NÓI HỒI SÁNG. Tôi nhảy phóc lên xe, mỉm cười. - Một ngày vui vẻ chứ hả? - Người Giám Hộ của tôi cất tiếng hỏi. - Vâng, không tệ chút nào. Cháu lấy lại được điện thoại di động rồi. - Không đánh đấm gì chứ? - Không hề. Người Giám Hộ nhìn tôi, ánh mắt lộ rõ vẻ ngạc nhiên: - Bác có cần biết điều đó có nghĩa là gì không? - Dạ chắc là không. - Tay cháu có lúc nào bật sáng? - Dạ không - Tôi nói dối - Hôm nay bác thế nào? Người Giám Hộ của tôi theo đường rẽ, lái xe ra khỏi khuôn viên trường. - Thành công. Sau khi cho cháu xuống, bác lái đúng một tiếng rưỡi đồng hồ đến thành phố Columbus. - Sao lại là Columbus? - Ở đó có các ngân hàng lớn. Bác không muốn bị chú ý khi yêu cầu chuyển khoản một khối lượng tiền lớn hơn toàn bộ thu nhập của cả thị trấn. Tôi gật đầu. - Suy nghĩ rất hay. Bác Henri xoay bánh lái, đưa xe ra lộ chính. - Có ý định kể cho bác nghe tên của cô bé không? - Sao cơ? - Tôi hỏi lại. - Hẳn là phải có nguyên nhân cho cái nụ cười bí hiểm kia. Lí do chủ yếu là con gái. - Sao bác biết? - John ơi là John, Cêpan này là hình mẫu người đàn ông lí tưởng của các nàng trên Lorien đấy. - Ra khỏi chỗ này - Tôi nhẹ nhàng chỉnh lại - thì chẳng có cái gì gọi là hình mẫu người đàn ông lí tưởng của các nàng trên Lorien cả. Bác Henri gật đầu đồng tình. - Cháu cũng để ý tình hình quá đấy hả. Người Lorien theo chế độ một vợ một chồng. Khi chúng tôi yêu nhau, hoàn toàn vì cuộc sống. Độ tuổi kết hôn thông thường là trên dưới hai mươi lăm tuổi. Và không dính dáng gì tới pháp luật cả. Nền tảng gia đình dựa trên lời hứa và trách nhiệm nhiều hơn bất kỳ một thứ gì khác. Trước khi ra đi cùng với tôi, bác Henri đã kết hôn được hai mươi năm. Mười năm đã trôi qua, nhưng tôi biết không ngày nào là bác thôi không nhớ đến vợ mình. - Cô bé là ai thế? - Bạn ấy tên là Sarah Hart, con gái của người phụ nữ hôm nọ bác thuê nhà đó. Sarah học chung với cháu hai môn. Cô ấy học khóa Ba. Người Giám Hộ của tôi gật đầu. - Xinh chứ? - Hẳn nhiên rồi. Còn thông minh nữa. - Ừưưư - Bác Henri thở ra một cách thong thả - Bác đã chờ đợi điều này từ lâu lắm rồi. Đừng quên là bất cứ khi nào bị chú ý, chúng ta cũng phải lên đường ngay. - Cháu hiểu - Tôi trả lời. Quãng đường còn lại về nhà trở nên im lặng. *** Khi chúng tôi về đến nhà, chiếc hộp Loric đang nằm trên bàn ăn. Chiếc hộp có kích cỡ của một lò vi sóng, hình dạng gần như một hình lập phương, ngang bốn mươi sáu centimet, rộng bốn mươi sáu centimet. Nỗi hào hứng ngập tràn khắp cơ thể, tôi bước thẳng đến bên cái hộp, thộp lấy cái ổ khóa. - Cháu thích học cách mở cái này hơn là quan tâm đến những gì đựng ở bên trong - Tôi lên tiếng. - Thế à? Ừm, bác sẽ chỉ cho cháu cách mở, sau đó, chúng ta sẽ khóa lại và cháu đừng để ý gì đến mấy món bên trong. Tôi mỉm cười. - Đi đâu mà vội. Coi nào. Bên trong là gì thế hả bác Henri? - Gia tài của cháu. - Bác nói vậy là sao, gia tài của cháu? - Mỗi một Garde sinh ra đều được trao tặng một chiếc hộp, khi Garde bắt đầu sở hữu Biệt năng, Hộ Vệ của Garde đó sẽ bắt đầu sử dụng chiếc hộp ấy. Tôi gật đầu một cách hồ hởi. - Thế trong hộp có gì hả bác? - Gia tài của cháu. Câu trả lời trước sau như một của người Giám Hộ khiến tôi chưng hửng. Tôi cầm ổ khóa lên, cố giật ra như những ngày xưa từng thử, và lẽ tất nhiên là chẳng có lấy một chút suy suyển nào. - Không có bác thì cháu chẳng mở được đâu, và bác cũng không thể mở được nếu không có cháu - Bác Henri giải thích. - Chà, chúng ta mở bằng cách nào ạ? Chẳng có lỗ khóa nào hết. - Bằng ý chí. - Ôi thôi nào, bác Henri. Đừng úp úp mở mở nữa. Người Giám Hộ đón lấy cái ổ khóa trong tay tôi. - Khóa chỉ mở được khi bác cháu mình kết hợp với nhau, và chỉ khi nào Biệt năng đầu tiên của cháu xuất hiện. Nói đoạn bác Henri bỏ ra cửa trước, ló đầu ra ngoài quan sát, nghe ngóng, rồi bác đóng cửa, khóa một cách cẩn thận, bước trở lại chỗ tôi. - Cháu áp lòng bàn tay vào một bên khóa đi - Người Giám Hộ chỉ dẫn, và tôi làm theo. - Ấm quá - Tôi nhận xét. - Tốt lắm. Như vậy có nghĩa là cháu đã sẵn sàng. - Giờ thì sao hả bác? Bác Henri áp tay vào bên còn lại của ổ khóa, đoạn đan các ngón tay vào tay tôi. Một tích tắc trôi qua. Ổ khóa bật mở. - Lạ chưa kìa! - Tôi buột miệng kêu lên. - Cũng giống như cháu, ổ khóa do tấm bùa Loric bảo vệ, không thể vỡ làm đôi. Cháu có thể cho xe lu cán qua, nó cũng chẳng móp. Chỉ có bác cháu ta mới có thể mở được. Trừ phi bác chết, cháu mới có thể tự mở một mình. - Chà - Tôi lẩm bẩm - Hi vọng là không xảy ra chuyện đó. Rồi tôi cố lật nắp hộp, nhưng bác Henri đặt tay lên ngăn lại. - Chưa được - Bác bảo tôi - Trong này có những thứ cháu chưa thể xem được đâu. Lại ghế sô-pha ngồi đi. - Bác Henri, thôi nào. - Nghe lời bác đi - Người Giám Hộ của tôi nói gọn lỏn. Lắc đầu, tôi ngồi xuống. Bác Henri mở hộp, lấy ra một hòn đá dài khoảng mười lăm centimet. Sau đó, bác khóa hộp lại, đem hòn đá đến chỗ tôi. Tảng đá nhẵn thín, có hình chữ nhật, bên ngoài quang quẻ, nhưng ngay ở trung tâm lại có bóng mờ mờ. - Cái gì thế bác? -Tôi thắc mắc. - Pha lê Loric đấy. - Dùng để làm gì ạ? - Cháu cầm lấy đi - Người Giám Hộ bảo và trao hòn đá cho tôi. Thời khắc vừa tiếp xúc với vật thể ấy, hai bàn tay tôi bỗng sáng rực, sáng còn hơn cả cái ngày đầu tiên tôi đến lớp. Hòn đá bắt đầu ấm dần lên. Tôi đưa tảng pha lê lên nhìn cho rõ. Khối vân mờ ở trung tâm hòn đá đang vận động, lượn lờ như sóng. Tôi cảm nhận được mặt dây chuyền trên cả mình nóng ran, trong lòng chợt dấy lên nỗi xúc động trước năng lực mới. Cả đời tôi đã trông ngóng nguồn sức mạnh nơi bản thân biết dường nào. Phải, cũng có những khi tôi mong điều đó chẳng bao giờ đến, những khi chúng tôi phải đi tìm một nơi ở mới và sống một cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, giờ thì, khi giữ trong tay khối pha lê có đám vân mờ ở trung tâm, và ý thức được rằng tay mình sẽ kháng được nhiệt và lửa, cũng như các Biệt năng đang trên đường hiển hiện, từ đó sẽ vận hành theo sức mạnh chủ đạo (nguồn sức mạnh cho phép tôi chiến đấu) - chà, tuyệt vời và hào hứng lắm - tôi không sao ngăn được nụ cười nở trên môi. - Nó làm sao vậy hả bác? - Khối pha lê kết nối với Biệt năng của cháu. Sự đụng chạm của cháu đã kích hoạt nó. Nếu cháu không phát triển Lumen, khối đá ấy sẽ tự động phát sáng như tay cháu, thay vì theo một phương thức nào đó khác. Tôi chú mục vào vật thể trong tay mình, quan sát lớp khói mờ và ánh sáng rực rỡ. - Bắt đầu được chưa? - Bác Henri nhắc nhở. Tôi gật đầu ngay lập tức. - Trời ạ, rồi. *** Trời đã chuyển lạnh. Căn nhà im ắng, ngoại trừ tiếng gió thỉnh thoảng quét qua cửa sổ nghe lào rào. Tôi nằm ngửa trên chiếc bàn sa-lông làm bằng gỗ, hai tay thả lỏng dang rộng sang hai bên. Bác Henri sẽ cho ngọn lửa lướt ở bên dưới tay tôi. Tôi thở từng hơi chậm rãi và đều đặn, như lời bác Henri hướng dẫn. - Cháu phải luôn nhắm mắt lại - Người Giám Hộ chỉ dẫn - chỉ lắng nghe tiếng gió mà thôi. Khi bác lướt khối pha lê lên tay cháu, có hơi nóng một chút, cháu đừng để tâm càng nhiều càng tốt nhé. Tôi để ý đến tiếng gió đang lùa qua các nhánh cây ngoài kia. Không biết bằng cách nào đó mà tôi lại có thể cảm nhận được chúng đang nghiêng ngả. Bác Henri bắt đầu thực hiện qui trình trên cánh tay phải của tôi. Bác ấn khối pha lê vào mặt da bên dưới, chậm rãi rê lên cổ tay, rồi lên đến cẳng tay. Đúng như bác đã cảnh báo từ trước, sức nóng lan tỏa trên cơ thể tôi nhưng vẫn chưa đủ để khiến tôi phải rụt tay lại. - Cứ để cho đầu óc thoải mái đi, John. Cứ phiêu lãng đến nơi nào cháu mong muốn. Tôi không ý thức được người Giám Hộ của mình đang hướng dẫn điều gì, tuy nhiên, tôi cố rũ sạch mọi điều ra khỏi tâm trí và hô hấp thật chậm rãi. Đột nhiên, tôi nhận ra mình đang trôi đi, ở đâu đó trong không gian. Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm của mặt trời đang phả lên da mặt, cảm nhận được làn gió ấm áp hơn luồng chuyển động của không khí đang rít gào ở bên ngoài những bức tường nhà. Khi mở mắt ra, tôi không còn hiện diện ở bang Ohio nữa. Tôi đang ở trên cao, giữa những ngọn cây bạt ngàn, rừng rậm trải dài ngút tầm mắt. Bầu trời trong xanh, mặt trời tỏa sáng - một mặt trời to gần gấp đôi mặt trời ở Địa Cầu. Làn gió mềm mại, ấm áp luồn vào tóc tôi. Xa xăm bên dưới, các dòng sông lượn lờ qua mấy khe núi, xuyên qua lớp thảm xanh cây rừng. Và lúc này, tôi đang lơ lửng bên trên một trong những con sông ấy. Tôi có thể trông thấy các con thú đủ hình thù, đủ kích thước - có những con thon, dài, có những con mình to, chân ngắn, lại có những con lông rậm và những con có da màu đen nhánh trông thật thô ráp - đang uống nước ở ven bờ. Và kia, cuối chân trời là một đường cong, tôi ý thức được rằng mình đang ở Lorien - một hành tinh nhỏ bằng một phần mười Trái Đất, có thể quan sát được độ cong bề mặt khi hướng tầm mắt về phía vô cùng. Không rõ bằng cách nào, tôi đã có thể bay được. Tôi cất mình lên cao, trở mình trong không trung, rồi bất chợt bổ nhào xuống và lướt trên bề mặt của con sông phía dưới. Bầy thú ngẩng đầu lên nhìn theo tôi một cách hiếu kì, nhưng không hề tỏ ra sợ hãi. Lorien vẫn giữ được vẻ ban sơ, đầy những sinh vật khỏe mạnh. Theo một khía cạnh nào đó, quê hương của tôi không khác nào hình ảnh của Trái Đất cách nay hàng triệu năm, khi các giống loài trên mặt đất phát triển theo khuynh hướng tự nhiên, trước khi con người xuất hiện và giành quyền thống trị mặt đất. Lorien vẫn giữ được vẻ ban sơ. Tôi ý thức được rằng hình ảnh của hành tinh mình ngày nay không còn được như vậy nữa. Hẳn tôi đang sống trong ký ức. Nhưng ắt hẳn không phải là kí ức của chính bản thân tôi. Thế rồi ngày dài cũng phải nhường chỗ cho bóng đêm. Bầu trời lồng lộng biến thành màn ảnh lớn cho cuộc trình diễn pháo hoa. Các trái pháo được bắn lên trời cao vỡ ra thành muôn vàn hình ảnh các con thú, cây cối. Trên cái nền đen tuyền huyền ảo ấy, các mặt trăng cùng cả triệu vì sao góp phần tạo nên một khung cảnh rực rỡ. - Bác có thể cảm nhận được sự thất vọng của chúng - Tôi ghi nhận có một giọng nói ở đâu đó. Quay phắt lại, tôi nhìn ra xung quanh. Chẳng có ai hết - Chúng biết một người nữa ở đâu, tuy vậy, lớp hộ thân không thể bị hủy hoại. Cho tới chừng nào chúng giết được cháu thì mới chạm được vào cô bé. Tuy nhiên, chúng vẫn lần theo dấu vết của cô bé ấy. Tôi nâng mình lên cao, đoạn hạ xuống một cách chậm rãi, tìm kiếm nguồn gốc của lời nói ấy. Ở đâu nhỉ? - Giờ là lúc chúng ta phải tuyệt đối cẩn trọng. Giờ là lúc chúng ta phải nhanh chân hơn chúng. Tôi nhắm thẳng đến chỗ pháo hoa. Tiếng nói khiến tôi mất hết nhuệ khí. Có lẽ các tiếng nổ sẽ át được những lời lẽ ấy. - Địch thủ đã hi vọng rằng sẽ giết được tất cả chúng ta, trước khi các Biệt năng của cháu phát triển. Nhưng chúng ta vẫn ẩn mình một cách thành công. Chúng ta cần phải bình tĩnh. Ba người đầu tiên đã quá hoảng loạn. Ba người đầu tiên đã bị giết chết. Chúng ta cần phải sáng suốt và cẩn thận. Khi sợ hãi, chúng ta sẽ dễ dàng tạo ra sai lầm. Những người còn lại càng phát triển, bọn đối địch sẽ càng gặp khó khăn, chúng ý thức được rõ ràng điều ấy, đến khi tất cả các cháu hoàn thiện được năng lực của bản thân, chiến tranh sẽ bắt đầu. Chúng ta sẽ đánh trả, chúng ta sẽ trả thù, chúng thừa hiểu chuyện đó. Từ hàng dặm xa, tôi trông thấy những quả bom rơi xuống hành tinh Lorien. Tiếng nổ làm rung chuyển cả không gian và mặt đất, các đợt gió thổi cuốn theo những tiếng thét dài; mặt đất, cây cối chằng chịt những luồng lửa. Khu rừng bị bốc cháy. Hẳn là hàng ngàn phi cơ từ trên trời cao đã đáp xuống Lorien. Những tên lính Mogadore túa ra, mang đầy đủ trên mình súng và lựu đạn, có thừa khả năng đè bẹp mọi loại vũ khí thường được sử dụng trong một cuộc chiến tranh đơn thuần. Chúng cao hơn chúng tôi, hình thể không có gì khác ngoại trừ khuôn mặt. Chúng không có đồng tử, mống mắt của chúng màu đỏ tía, có kẻ sở hữu mống mắt màu đen. Viền quanh mắt của chúng là những đường tròn đen tuyền; nước da của chúng tái xanh - dường như chuyển sang tím hẳn; trên bờ môi, những chiếc răng sáng loé, trông như được giũa gọt, thiếu tự nhiên. Những con quái vật Mogadore cũng lao xuống khỏi máy bay, theo sát phía sau chân chủ, đôi mắt của chúng cũng hằn đầy vẻ lạnh lùng. Có những con vật to chẳng khác nào ngựa, những chiếc răng của chúng sắc lên, những tiếng gầm của chúng làm xót buốt cả tai. - Chúng ta đã bất cẩn, John à. Đó là lí do chúng ta đã bị đánh bại một cách dễ dàng. Tiếng nói ấy lại cất lên. Và giờ thì tôi nhận thức được đó là giọng nói của bác Henri. Nhưng không thấy bác ở đâu cả, tôi không sao cất ánh nhìn ra khỏi cảnh tượng giết chóc lẫn tàn phá ở bên dưới để tìm bác. Người người di chuyển khắp nơi, cố gắng chống trả. Người Mogadore cũng như người Lorien đều bị giết hại. Tuy nhiên, người Lorien đang trong tình trạng thất thế trước những con quái vật, chúng giết hàng loạt người của chúng tôi: chúng thở ra lửa, nghiến răng, tay và đuôi không ngừng ve vẩy. Thời gian trôi qua thật chóng vánh nhanh hơn bình thường. Đã được bao lâu rồi nhỉ? Một giờ? Hay hai giờ? Những Biệt năng của các Garde lãnh đạo cuộc chiến đấu được thể hiện một cách đầy đủ và rõ nét. Người có khả năng bay, người có khả năng chạy nhanh đến mức cơ thể chỉ còn là những bóng mờ di động, có người lại có năng lực tàng hình. Có người tay bắn ra được chùm tia la-de, cơ thể tỏa lửa ngùn ngụt, ở trên cao, những đám mây bão kèm theo gió chướng được huy động đến để làm chủ thời tiết. Tuy nhiên, họ vẫn thất bại. Chúng tôi bị áp đảo về số lượng - một đấu năm trăm. Sức mạnh không đủ để có thể xoay sở. - Chúng ta không thể chống cự. Bọn người Mogadore đã lên kế hoạch hoàn hảo, chọn chính xác thời điểm mà chúng biết rằng chúng ta yếu nhất, lúc những người Tinh Nhuệ đã ra đi. Trước khi cuộc tấn công xảy ra, Pittacus Lore - người mạnh nhất, người chỉ huy - đã tập hợp các chiến binh lại. Không ai biết đã xảy ra chuyện gì, chẳng ai biết họ đã đi đâu, hoặc giả họ còn sống hay đã chết. Có lẽ ban đầu, bọn người Mogadore đã loại trừ họ, và một khi những người Tinh Nhuệ đã tránh đường, đó là lúc chúng tấn công. Tất cả những gì chúng ta nhận thức được là vào ngày đội quân Tinh Nhuệ tập hợp lại, một cột ánh sáng trắng bắn thẳng lên trời. Cột sáng ấy tồn tại đúng một ngày, sau đó biến mất. Lẽ ra, như một con người bình thường, chúng ta phải nhận ra rằng có điều gì đó không ổn, nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Chúng ta không thể khiển trách ai ngoài chính bản thân mình về những gì đã xảy ra. Song, cũng còn may mắn là chúng ta đã tổ chức thành công chuyến đưa người của mình ra khỏi hành tinh, không phải chỉ là chín Garde trẻ tuổi - mà một ngày nào đó có thể tiếp tục gánh vác trách nhiệm chiến đấu, duy trì được giống nòi của chúng ta. Từ đằng xa, một con tàu vọt thẳng lên không trung và lao đi vùn vụt, kéo theo phía sau một luồng sáng xanh lam. Ở trên cao, tôi nhìn theo bóng dáng vật thể bay ấy cho đến khi nó mất dạng. Đó là một hình ảnh thật quen thuộc. Thế rồi tôi nhận ra mình đang hiện diện trên con tàu đó, cả bác Henri nữa. Đó chính là con tàu đã đưa chúng tôi đến Trái Đất. Người Lorien hẳn đã biết là họ sẽ bị đánh bại. Vì lí do gì mà họ lại muốn cử chúng tôi đi? Cuộc thảm sát vô nghĩa. Đó là quang cảnh đang hiện hữu xung quanh tôi. Tôi đứng trên mặt đất, bước đi giữa những luồng đạn. Cơn lửa nộ dấy lên trong lòng tôi. Phụ nữ và đàn ông đang hấp hối, các Garde, các Cêpan và những đứa trẻ không có khả năng chống cự cũng thế. Làm sao có thể tha thứ cho được? Làm sao trái tim của bọn người Mogadore lại sắt đá đến độ có thể thực hiện được tất cả những điều ấy? Và vì sao tôi lại có thừa thời giờ như thế này? Tôi lao thẳng tới một tên lính gần đấy, nhưng tôi đã đâm xuyên qua hắn và ngã xuống. Mọi thứ tôi đang chứng kiến chỉ là những hình ảnh đã xảy ra. Tôi chỉ là một khán giả của những kí ức mà dân tộc tôi đã để lại, và tôi hoàn toàn không giải quyết được gì. Xoay người lại, tôi đối diện với một con quái vật cao tầm mười hai mét, vai to, mắt đỏ và có chiếc sừng dài hai mét. Nước dãi của nó nhểu ra khỏi những chiếc răng dài, sắc lém. Nó gầm lên, và lao tới. Con vật đâm xuyên qua người tôi, nhưng lại hạ gục hàng bao người Lorien quanh đó. Từng người, từng người một bị giết hại. Con quái vật lại tiếp tục trò chơi của nó, hạ gục những người Lorien khác. Giữa quanh cảnh hoang tàn ấy, tôi bất chợt ghi nhận được một tiếng động lịch kịch, một thứ gì đó không nằm trong hình ảnh tàn sát trên hành tinh Lorien. Tôi chao mình qua lại. Có hai bàn tay đang ấn xuống vai tôi. Tôi mở bừng mắt, trở lại với mái nhà của mình ở Ohio. Hai tay đang buông xoạc trên bàn. Bên dưới chừng vài centimet là hai vạc lửa, cả hai cánh tay và cổ tay tôi đang ngập trong lửa đỏ. Tôi không hề cảm nhận thấy sức nóng. Bác Henri đang đứng bên cạnh tôi. Tiếng sột soạt tôi nghe thấy cách đây một phút phát ra từ hiên trước. - Cái gì thế bác? - Tôi thì thào hỏi và ngồi thẳng dậy. - Bác không biết - Người Giám Hộ của tôi trả lời. Cả hai bác cháu cùng im lặng, dỏng tai lắng nghe. Thêm ba tiếng lịch kịch cào vào cửa. Bác Henri nhìn sang tôi. - Ngoài đó có người. Tôi ngước nhìn đồng hồ treo tường. Gần một giờ đồng hồ đã trôi qua. Toàn thân tôi ướt đẫm mồ hôi. Tôi thở dốc, vẫn chưa lấy lại được tinh thần trước khung cảnh hủy diệt vừa được chứng kiến. Lần đầu tiên trong đời, tôi thực sự hiểu được những gì đã xảy ra trên hành tin Lorien. Trước buổi tối ngày hôm nay, những sự kiện chỉ nằm rải rác ở trong sách, thực tế không quá khác với những điều tôi đã đọc. Bây giờ, tôi đã được trông thấy tận mắt máu, nước mắt và cái chết. Tôi đã trông thấy tận mắt sự hủy hoại. Nó là một phần thân phận của tôi. Bên ngoài, bóng tối đã bắt đầu loang trong không trung. Lại thêm ba tiếng khều cửa, một tiếng rên rỉ. Chúng tôi không khỏi giật mình. Ngay lập tức, tôi liên tưởng đến những tiếng gầm ghè khe khẽ của những con quái vật. Bác Henri nhảy bổ vào trong bếp, thộp lấy một con dao trong ngăn kéo nằm bên dưới bồn rửa. - Ra sau ghế sô-pha đi. - Hả, tại sao? - Vì bác nói thế. - Bác cho rằng con dao nhỏ xíu ấy sẽ hạ gục được một tên Mogadore ư? - Nếu đâm thẳng vào tim chúng thì cũng được đấy. Giờ thì vào chỗ đi. Lồm cồm bước xuống khỏi bàn, tôi thu mình lại sau chiếc ghế sô-pha. Hai cái vạc cửa vẫn cháy, những hình ảnh trên hành tinh Lorien vẫn còn chờn vờn trong trí não của tôi. Ngoài cửa trước, tiếng gầm gừ mang theo vẻ hối thúc. Không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là có người, hay một thứ gì đó đang hiện diện ở ngoài ấy. Tim tôi bắt đầu đập mạnh. - Cúi người xuống - Bác Henri nhắc nhở. Tôi ló nửa đầu lên để có thể nhìn trộm từ phía sau lưng ghế. Bao nhiêu đó máu, tôi thầm nhủ, chắc chắn họ ý thức được rằng họ bị áp đảo. Thế nhưng họ vẫn chiến đấu đến cùng, sẵn sàng hi sinh để cứu người khác, sẵn sàng hi sinh để cứu Lorien. Nắm con dao trong tay thật chặt, bác Henri chậm rãi đưa tay lên cái nắm cửa bằng đồng. Lửa hận bắt đầu sôi lên trong tôi. Đột nhiên tôi hi vọng vị khách kia chính là một tên trong số những kẻ tử thù. Cứ để cho tên Mogadore ấy đứng đằng sau cánh cửa. Rồi hắn sẽ được gặp đối thủ của hắn. Không thể nào tôi lại ở yên sau chiếc ghế được. Tôi vươn tay tới thộp lấy một cái vạc, xục luôn tay vào đó và lấy ra một mảnh gỗ nhọn đầu đang cháy dở. Tuy lửa vẫn bốc hừng hực quấn quanh tay tôi nhưng sự tiếp xúc ấy chỉ gây cho tôi cảm giác thật mát mẻ. Tôi lăm lăm mảnh gỗ trong tay như đang nắm lấy một con dao găm. Chúng bay cứ đến đi, tôi nhủ thầm trong bụng. Ta không chạy trốn nữa. Bác Henri đưa mắt sang tôi, hít vào một hơi sâu và mở cửa. CHƯƠNG CHÍN MỌI CƠ BẮP TRÊN CƠ THỂ TÔI SĂN LẠI, CĂNG THẲNG. Bác Henri lao ra ngoài cửa, tôi cũng chuẩn bị vọt theo sau. Tôi cảm nhận được những tiếng thịch-thịch-thịch thoát ra từ lồng ngực. Các ngón tay của tôi siết quanh mảnh gỗ cháy trắng bệch. Một luồng gió chợt tạt qua cửa, ngọn lửa trên tay tôi chập chờn lan đến cổ tay. Không có ai cả. Thế rồi thân hình bác Henri như dãn ra và bác cười khúc khích, nhìn xuống chân mình. Và kìa, đang ngước mắt lên nhìn người Giám Hộ của tôi là con chó mà tôi đã trông thấy hôm qua, ở trường. Con vật ve vẩy đuôi, cào cào các móng chân xuống đất. Bác Henri cúi xuống vuốt ve nó, thế rồi vị khách đặc biệt ấy thè lưỡi ra ngoài, lao qua khỏi người Giám Hộ của tôi, chạy tọt vào trong nhà. - Nó làm gì ở đây thế nhỉ? - Tôi thắc mắc. - Cháu biết con chó này à? - Cháu thấy nó ở trường. Hôm qua, sau khi bác cho cháu xuống xe, nó cứ quanh quẩn theo cháu. Bỏ mảnh gỗ cháy trở lại vào vạc lửa, tôi chùi tay vào chiếc quần jean, tạo nên một vệt nhọ ở phía trước ống quần. Con chó ngồi ngay dưới chân tôi, nghếch mỏ lên như chờ đợi, cái đuôi của nó không ngừng ve vẩy trên nền nhà gỗ cứng. Tôi ngồi xuống chiếc ghế sôpha, nhìn cả hai ngọn lửa đang cháy lừng phừng. Giờ thì bao phấn khích về năng lực vừa có đã không còn nữa, bây giờ tôi quay trở lại nghĩ về những gì đã trông thấy. Tôi có thể nghe thấy những tiếng la bên tai, trông thấy máu loang trên cỏ dưới ánh trăng màu bạc, trông thấy cả xác người, những thân cây gãy đổ, thấy sắc đỏ trong mắt của những con quái vật Mogadore cũng như sự kinh hoàng trong mắt người Lorien. Tôi chuyển điểm nhìn sang bác Henri. - Cháu trông thấy những gì đã xảy ra. Ít ra là vào thời điểm đầu. Người Giám Hộ của tôi gật đầu. - Bác cũng nghĩ như vậy. - Cháu nghe thấy cả giọng nói của bác. Bác có trò chuyện với cháu không? - Có. - Cháu không hiểu - Tôi thú nhận - Rõ ràng là một cuộc thảm sát. Sự căm thù trong họ ngút trời, không thể nào chỉ đơn giản là vì nguồn tài nguyên khoáng sản của chúng ta. Hẳn phải có một nguyên nhân nào khác nữa. Thở dài, bác Henri ngồi xuống chiếc bàn đối diện với tôi. Con chó nhảy vào lòng tôi. Tôi vuốt ve nó. Người ngợm nó thật bần thỉu, lông bết lại đầy dầu mỡ. Phía trước sợi dây đeo cổ của con chó có đính một chiếc thẻ mang hình quả bóng bầu dục - một chiếc thẻ cũ kĩ, lớp sơn nâu gần như đã tróc hết cả ra. Tôi đỡ nhẹ cái đồ vật nhỏ bé ấy, con số 19 ghi ở một mặt, hàng chữ BERNIE KOSAR ghi ở mặt còn lại. - Bernie Kosar - Tôi lẩm nhẩm đọc. Con vật ngoe nguẩy đuôi - Hẳn là tên nó rồi, giống như tên của người trong tấm áp phích treo trong phòng cháu. Một cầu thủ nổi tiếng xứ này, hình như vậy - Tôi lướt tay xuống lưng con chó - Hình như nó không có nhà - Tôi nhận xét - Nó đói - Không hiểu sao tôi lại nghĩ như vậy. Gật đầu, bác Henri nhìn xuống Bernie Kosar. Con chó nằm xoài ra, nghếch mõm lên hai chân và nhắm mắt lại. Tôi bật quẹt, lướt ngọn lửa lên các ngón tay của mình, đến lòng bàn tay, tôi đưa ngược lên cánh tay. Chỉ đến khi ngọn lửa còn cách khuỷu tay một khoảng độ ba, bốn xăng-ti-mét, tôi mới bắt đầu cảm nhận được sức nóng. Các cố gắng ban nãy của bác Henri đã thành công, vùng chống chịu của tôi đã tăng lên. Không biết phải mất thời gian bao lâu thì toàn bộ cơ thể của tôi mới kháng được lửa và nhiệt? - Chuyện gì vậy bác? - Tôi thắc mắc. Bác Henri hít vào một hơi đầy buồng phổi. - Bác cũng trông thấy những hình ảnh đó, rõ ràng như cháu cũng hiện diện trong thời khắc ấy vậy. - Cháu không ngờ mọi việc lại kinh hoàng đến thế. Thực ra, cháu ý thức được những gì bác đã kể, tuy nhiên, phải tận mắt chứng kiến, cháu mới hiểu được. - Bọn người Mogadore khác với chúng ta - bí ẩn, lạ lùng và không đáng tin gần như trong tất cả mọi chuyện. Chúng cũng sở hữu những sức mạnh thần kì, nhưng không như chúng ta. Chúng thích sống tập hợp và phát triển ở các thành phố đông đúc, càng đông càng tốt. Đó là nguyên nhân chúng ta lại phải luôn ở xa thành phố, cho dù ở thành phố thì bác cháu mình sẽ dễ trà trộn hơn. Và chúng thì càng dễ trà trộn hơn nữa. - Khoảng một trăm năm trước, hành tinh Mogadore bắt đầu đi vào con đường diệt vong, giống như hành tinh Lorien hai mươi lăm ngàn trăm trước. Chúng không hề có động thái như chúng ta, mặc dù... cũng không thể hiểu được hoạt động của loài người trong thời điểm này. Chúng phớt lờ tất cả. Chúng huỷ hoại đại dương, đổ rác, chất thải xuống sông ngòi, ao hồ trong quá trình mở rộng thành phố. Cây cối bắt đầu chết dần chết mòn, hệ thực vật cũng tàn lụi, các loài động vật cũng chẳng còn bao lâu nữa là chịu """