"
Tôi Đi Đây - Jean Echenoz full prc pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tôi Đi Đây - Jean Echenoz full prc pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÔI ĐI ĐÂY
Jean Echenoz
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: TÔI ĐI ĐÂY Tác giả: Jean Echenoz Dịch giả: Phạm Văn Ba
Nguyên tác: Je m'en vais Nhà xuất bản: Hӝi Nhà văn Năm xuất bản: 2002
Số trang: 278
Giá tiền: 27.000 Đồng Khә: 13 x 19 cm
Đánh máy: Thanh Tùng, Le Quan, Minh Chi, Quang Vinh, Thiên Nhai
Kiểm tra: Thùy An
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thӵc hiện: 16/12/2010
Making Ebook Project #78 – www.BookaholicClub.com
Bạn đang đӑc ebook TÔI ĐI ĐÂY cӫa tác giả Jean Echenoz do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn mӝt tác phẩm Văn hӑc hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lưӧng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến nhӳng chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lӛi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết nhӳng ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project cӫa Bookaholic Club là mӝt hoạt đӝng phi lӧi nhuận, nhằm mөc đích mang đến nhӳng chế bản ebook hay, có giá trị với chất lưӧng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cӝng đồng đӑc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đӑc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lӧi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dӵng nền Văn hóa đӑc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
18
19
20
22
23
24
25
26
27
28 29 30 31 32 33 34 35
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Jean Echenoz, sinh năm 1947 , tại Orange.
Các tác phẩm:
- Ravel, 2006
- Au piano, 2003
- Jérôme Lindon, 2001
- Je m'en vais, 1999, Prix Goncourt 1999
- Un an, 1997
- Les grandes blondes, 1995
- Nous trois, 1992
- Lac, 1989
- L'occupation des sols, 1988
- L'équipée malaise, 1987
- Cherokee, 1983, Prix Médicis 1983 - Le méridien de Greenwich, 1979
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
“Tôi đi đây” là sự kết hợp của nhiều thể loại tiểu thuyết: hình sự với những pha giết người, bắt cóc; kinh dị với xác chết hồi sinh; phiêu lưu với chuyến hành trình kỳ quái lên Bắc cực và thể loại tiểu thuyết tâm lý với những kẻ luôn trốn chạy khỏi gia đình, công việc…
“Tôi đi đây” là lời chào từ biệt của một thể kỷ không có khả năng nhận biết được nó đang đi về đâu và thậm chí còn quên hỏi mình đi đâu. Đây là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh chúng ta đang mất khả năng nhìn nhận thực tế như thế nào và cuộc sống tuột khỏi chúng ta ra sao…” (Pierre Lepape – Le monde) để dẫn tới một kết luận rằng con người không thể nào trở nên nghiêm túc được khi lao vào những thói tự do quá trớn.
1
Anh đi đây, Ferrer nhӓ nhẹ, tạm biệt em. Anh để lại cho em tất cả. Anh đã quyết định rồi, anh đi đây. Suzanne nhìn xuống mặt đất, ánh mắt vô định, thẫn thờ lướt khắp căn phòng rồi dừng lại vô cớ nơi ә điện. Félix Ferrer đặt chìa khóa lên bậc cӱa lối ra vào, cài nốt hàng cúc áo măng-tô, bước ra ngoài rồi đưa tay nhẹ nhàng khép cánh cӱa lại.
Ra đến ngoài, Ferrer không ngoái nhìn chiếc xe cӫa Suzanne đang đӛ lặng lẽ dưới ngӑn đèn đường đӓ quạch, cӱa kính xe phӫ mờ hơi nước, mà lặng lẽ rảo bước về phía bến tàu điện ngầm Corentin-Celton cách đó khoảng sáu trăm mét. Tối chӫ nhật tuần đầu tháng mӝt, mới chín giờ mà chuyến tàu gần như vắng tanh. Cả toa khoảng chөc người đàn ông đơn đӝc, và Ferrer, từ hai mươi lăm phút lại đây, trở thành mӝt trong nhӳng người đàn ông như thế. Anh ta có vẻ hài lòng tìm đưӧc mӝt khoang ghế trống như đã đặt chӛ trước vậy và cảm thấy rất thoải mái đưӧc ngồi mӝt mình như thế trong tàu điện ngầm. Tối nay, Ferrer hầu như không bận tâm tới bất cứ điều gì, hoàn toàn thư giãn, kể cả việc chia tay với Suzanne, mӝt người đàn bà cӵc kỳ khó tính. Ferrer đã chuẩn bị đón nhận cơn thịnh nӝ cӫa Suzanne, cô ta sẽ phản ứng quyết liệt, la hét đầy hăm dӑa và lăng mạ nặng nề, nên Ferrer không áy náy mӝt chút nào nhưng chính sӵ thanh thản ấy lại là nguyên nhân khiến cho anh ta phiền lòng.
Đặt chiếc hòm nhӓ đӵng quần áo và vài thứ lặt vặt khác xuống bên cạnh, Ferrer ngước mắt nhìn nhӳng tấm biển quảng cáo, cố gắng giải mã nhӳng thông tin về đất cát và bất đӝng sản. Mӝt lúc sau, quãng giӳa bến Vaugirard và Volontaire, Ferrer mở hòm lấy cuốn sách quảng cáo danh mөc bán đấu giá các tác phẩm nghệ thuật cә truyền Thә Nhĩ Kỳ, lật xem từng trang cho tới khi tàu đến bến Madeleine, anh ta bước xuống tàu.
Xung quanh nhà thờ Madeleine, nhӳng vòng hoa kết bằng bóng đèn điện nâng giӳ nhӳng ngôi sao đã tắt ngấm treo lӫng lẳng trên nhӳng đường phố lúc này còn quạnh vắng hơn cả trong tàu điện ngầm. Nhӳng cӱa kính trang hoàng lӝng lẫy cӫa nhӳng cӱa hiệu sang trӑng gӧi lại cho lӳ khách qua đường vô tình rằng hӑ vẫn đang sống với nhӳng ngày lễ hӝi cuối năm.
Cô đӝc trong chiếc áo măng tô, Ferrer đi vòng qua nhà thờ hướng về phía mӝt con số chẵn trên phố Arcade.
Ferrer phải mở hết hàng cúc áo để lấy cuốn sә ghi mã số mở cӱa ra vào khu chung cư, tay trái thò vào lấy cuốn sә để tận túi trong, tay phải móc cặp kính trong túi ngӵc. Cánh cӱa đưӧc mở ra, Ferrer bӓ qua thang máy, nhằm cầu thang thường bước đại lên. Anh ta leo lên đến tầng sáu, không đến nӛi đứt hơi như tôi tưởng, bước đến trước mӝt cánh cӱa sơn màu gạch đӓ cẩu thả, có hai thanh nẹp đứng, chứng tích ít nhất cӫa hai lần cạy cӱa đӝt nhập vào phòng. Trên cánh cӱa, không ghi tên chӫ nhân, chỉ có mӝt bức ảnh đóng đinh ghim, các góc đã bong ra phồng lên, in hình thi thể cӫa Manuel Montoliu, dũng sĩ đấu bò tót gốc gác nông phu, bị con bò Cubatio đâm thӫng tim, hình như đó là bìa mӝt cuốn sách đề ngày 1 tháng 5 năm 1992: Ferrer khẽ khàng gõ hai lần lên chӛ tấm ảnh đó. Trong lúc chờ đӧi, Ferrer nhẹ nhàng luồn mấy ngón tay phải sang cánh tay trái, chӛ cә tay nәi đầy nhӳng đường gân và mạch máu xanh chằng chịt dưới làn da trắng. Mӝt mái tóc màu nâu rất dài, gương mặt nӳ chӫ nhân chưa quá tuәi ba mươi, cao không dưới mӝt mét bảy lăm, tên là Laurence, mở cӱa phòng, không chào hӓi gì, mỉm cười với Ferrer rồi đưa tay khép cánh cӱa lại. Sáng ngày hôm sau, khoảng mười giờ, Ferrer quay trở lại xưởng vẽ.
2
Sáu tháng sau, cũng vào khoảng mười giờ, trước cәng B sân bay Roissy-Charles-de-Gaulle, cũng anh chàng Felix Ferrer bước xuống xe tắc xi dưới ánh nắng nhạt tháng sáu, phía tây bắc có nhiều mây. Ferrer đến sớm nên các quầy làm thӫ tөc vào sân bay chưa bắt đầu: còn bốn lăm phút nӳa, người đàn ông phải lang thang trong phòng đӧi, đẩy chiếc xe chở túi đeo, túi xách tay và chiếc áo măng-tô đã trở nên quá dày bởi thời tiết lúc này đã bắt đầu bước sang hè. Sau khi uống thêm mӝt tách cà phê nӳa, mua mӝt ít khăn giấy, thuốc aspirine, Ferrer tìm mӝt góc khuất yên tĩnh kiên nhẫn ngồi chờ chuyến bay.
Tìm đưӧc mӝt chӛ yên tĩnh ở đây thật không dễ gì, sân bay không phải là nơi tồn tại cho riêng nó, là nơi hӝi tө, nhӝn nhịp, là mӝt chiếc sàng lớn, mӝt khuôn viên lẻ loi nằm giӳa cánh đồng mênh mông bát ngát, mӝt vӑng lâu đưӧc bao quanh bởi nhӳng đường băng cất hạ cánh, ở đó thường có nhӳng chú thӓ hốt hoảng nhảy cẫng lên vì mùi xăng dầu, mӝt mặt sàn đӝng bị ô nhiễm bởi nhӳng luồng không khí chở đầy nhӳng siêu thӵc thể có nguồn gốc rất khác nhau – nhӳng hạt cát cӫa sa mạc, nhӳng bөi vàng và mica cӫa nhiều dòng sông, khói bөi núi lӱa, bөi phóng xạ, phấn hoa, vi-rút, tàn xì gà và bөi trấu. Tìm mӝt góc yên tĩnh không phải là điều dễ dàng, nhưng cuối cùng Ferrer phát hiện ở dưới tầng ngầm cӫa nhà ga cuối mӝt khu nhà nguyện nhӓ ở trong có nhӳng chiếc ghế bành, mӑi người có thể bình tâm thư giãn, không phải suy nghĩ đến nhӳng vấn đề lớn lao. Ferrer giết mӝt phần thời gian ở đây trước khi vào làm thӫ tөc đăng ký hành lý ở khu vӵc miễn thuế vì anh ta không đem theo rưӧu, thuốc lá, nước hoa, không có gì hết. Anh ta không phải đi nghỉ hè và không có bất cứ lý do gì để phải mang nặng cả.
Gần mười ba giờ, Ferrer bước lên chiếc máy bay DC-10, mӝt bản nhạc nhẹ nhàng làm cho vị khách cӫa chúng ta bớt phần căng thẳng, Ferrer bước lại chӛ ngồi, gập gӑn áo măng-tô, nhét cả áo và chiếc túi đeo vào trong khoang hành lý, rồi ngồi xuống khoảng không gian rӝng chừng mӝt mét vuông vừa vặn với khә người ngay bên cạnh cӱa sә và sӱa soạn xếp sắp vài thứ, đeo thắt lưng bảo hiểm, lөc tìm mấy tờ báo, tạp chí bày ra trước mặt,
kính và thuốc ngӫ đặt đúng tầm tay. Chӛ ngồi bên cạnh may mắn không có ai ngồi, anh có thể sӱ dөng như mӝt ghế phө.
Như mӑi chuyến bay khác, Ferrer cứ phải kiên nhẫn, mӝt tai nghe nhӳng lời thông báo quen thuӝc, mắt lơ đễnh liếc nhìn chỉ dẫn an toàn bay. Rồi cuối cùng, máy bay cũng bắt đầu nhúc nhích, lúc đầu là nhӳng chuyển đӝng nhẹ nhàng, khó nhận ra nhưng sau đó mӛi giây trôi qua, máy bay di chuyển càng nhanh rồi cất cánh trӵc chỉ hướng tây – bắc xuyên qua nhӳng đám mây dày đặc. Ít phút sau, máy bay vưӧt qua tầng mây, nghiêng người về phía cӱa sә, Ferrer nhìn thấy mặt biển rӝng mênh mông bao quanh hòn đảo quen thuӝc, rồi mӝt dải đất ở giӳa là mӝt cái hồ, đến lúc này thì chịu, không thể xác định vị trí phía dưới đưӧc nӳa. Ferrer cảm thấy buồn ngӫ, nhưng vẫn mơ màng theo dõi trên màn hình vô tuyến nhӳng hình ảnh giới thiệu về mӝt bӝ phim mà chắc là sẽ rất khó khăn mới xem cho đến hết đưӧc, rồi lại lơ đễnh nhìn mấy cô chiêu đãi viên đi lại, hình như lúc này hӑ không giống như mӑi khi, tâm trạng cӫa Ferrer lúc này hoàn toàn cô đӝc.
Hai trăm con người nêm trong mӝt chiếc máy bay thế nhưng anh ta vẫn cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Nӛi cô đơn lạnh lẽo này, anh ta suy nghĩ, có lẽ là cơ hӝi tốt để điểm lại cuӝc đời mình đã trải qua, suy nghĩ về ý nghĩa cӫa nhӳng sӵ kiện kết nối với nhau làm nên chặng đường chìm nәi ấy. Ferrer nghĩ ngӧi mӝt lúc, tӵ ép mình mӝt chút nhưng không cố nằn nì trước nhӳng lời đӝc thoại rời rạc, cuối cùng, anh ta gạt bӓ hết mӑi thứ, không nghĩ ngӧi gì thêm nӳa, thu mình lại, uể oải, muốn gắng ngӫ mӝt chút nên hӓi xin người tiếp viên mӝt cốc nước, có lẽ như thế sẽ dễ ngӫ hơn, rồi lại mӝt cốc nước nӳa để chiêu mӝt viên thuốc ngӫ và rồi anh ta ngӫ thật.
Đến Montréal, khi bước xuống chiếc DC-10, anh ta cảm thấy nhân viên nhà ga hình như bị phân tán mӝt cách không bình thường dưới mӝt bầu trời như rӝng lớn hơn so với nhӳng bầu trời khác, chiếc xe ca Greyhound cũng dài hơn nhӳng chiếc xe ca ở nơi khác, nhưng chiều rӝng đường cao tốc thì lại bình thường. Đến Québec, Ferrer gӑi mӝt chiếc tắc-xi hiệu Subaru để đi ra bến cảng, thuӝc khu vӵc đồn biên phòng duyên hải, đê chắn sóng 11. Xe tắc-xi thả anh xuống trước mӝt tấm biển có ghi dòng chӳ bằng phấn tuyến: Bắc cực và, hai giờ sau chiếc tàu phá băng NGCC Des Groseilliers khởi đӝng nhằm hướng cӵc Bắc rẽ sóng.
3
Từ năm năm nay, cho tới buәi tối tháng mӝt vừa rồi, có người còn trông thấy anh ta rời khӓi căn phòng phía trên tầng chái ngôi nhà ở Issy. Trừ chӫ nhật còn tất cả nhӳng ngày còn lại cӫa Félix Ferrer đều diễn ra giống nhau. Thức dậy bảy giờ rưӥi, mười phút đi vệ sinh đem theo mӝt tờ báo hay mӝt tờ quảng cáo rẻ tiền, sau đó vào bếp chuẩn bị bӳa điểm tâm mӝt cách khoa hӑc, đӫ vitamine và khoáng chất cho Suzanne và cho mình. Hai mươi phút vừa tập thể dөc vừa nghe bản tin sáng cӫa đài. Xong đâu đấy, tới đánh thứ Suzanne, rồi ra mở toang cӱa sә thông gió cho căn nhà.
Sau đó, Ferrer vào nhà vệ sinh đánh răng kӻ tới mức làm cho răng chảy máu, vẫn thói quen không bao giờ nhìn vào gương, và cứ để cho khoảng mười lít nước cӫa thành phố từ vòi nước chảy ra mӝt cách vô ích. Bao giờ anh ta cũng tắm theo mӝt trình tӵ, bất biến, từ trái qua phải, từ trên xuống dưới. Cạo râu cũng theo mӝt trình tӵ, không thay đәi từ má phải rồi mái trái, cằm, môi dưới rồi môi trên, cә. Và do Ferrer luôn tuân thӫ nhӳng trật tӵ bất di bất dịch đó nên mӛi buәi sáng anh ta tӵ vấn làm thế nào để giải thoát đưӧc thói quen cә hӳu này, rồi câu hӓi ấy cuối cùng cũng đã trở thành mӝt thành viên cӫa nhӳng thói quen cә hӳu đó. Biết rằng sẽ không bao giờ giải quyết đưӧc mâu thuẫn này, nên chín giờ, anh ta đành tới xưởng hӑa làm việc.
Cái mà Ferrer gӑi là xưởng thì không còn là xưởng nӳa. Nó lờ mờ là cái xưởng khi Ferrer tӵ xưng là nghệ sĩ và cho mình là mӝt điêu khắc gia, phía sau là phòng tranh, chӛ này có thể sӱ dөng như mӝt phòng trưng bày kể từ ngày anh ta trở lại nghề buôn bán các tác phẩm nghệ thuật. Đó là tầng trệt cӫa mӝt khu chung cư nhӓ ở quận IX, trên mӝt con phố chẳng có cái gì chứng tӓ để có thể mở mӝt phòng trưng bày các tác phẩm nghệ thuật ở đây, chẳng hạn như nó phải nằm ở mӝt trөc đường buôn bán sôi đӝng, đằng này chỉ là mӝt khu chung cư bình thường nằm trong mӝt khu phố. Đối diện với phòng trưng bày là mӝt công trường lớn đang trong giai đoạn chuẩn bị khởi công, đó mới chỉ là nhӳng hậu quả đầu tiên cho anh ta: lúc này, hӑ đang chuẩn bị đào nhӳng hố móng sâu. Ferrer đến xưởng, pha mӝt tách cà phê, uống hai viên Efferralgan sӫi, mở mấy bì thư, chỉ liếc mắt đӑc phần cần
quan tâm, vuốt phẳng vài tờ giấy bị nhàu và kiên nhẫn cho đến mười giờ, định hút thêm mӝt điếu thuốc nӳa nhưng kiên quyết cưӥng lại. Ferrer ra mở cӱa phòng trưng bày, gӑi vài cú điện thoại đi đâu đó. Khoảng mười hai giờ mười phút, vẫn qua điện thoại, anh ta tìm người để cùng đi ăn trưa và kết quả là luôn tìm đưӧc ai đó.
Từ mười lăm giờ và suốt cả buәi chiều, Ferrer thường xuyên có mặt tại phòng tranh cho đến tận mười chín giờ ba mươi tối rồi gӑi dây nói cho Suzanne, vẫn là nhӳng câu muôn thuở, nếu em đói thì không phải đӧi anh cùng ăn tối đâu. Còn cô ấy thì vẫn luôn luôn chờ đӧi, hai mươi giờ ba mươi, Ferrer lên giường cùng với cô, cảnh gia đình hai người, mӝt buәi tối, hai mươi ba giờ tắt đèn. Trong năm năm trời, vâng, mӑi việc cứ đều đặn thế trôi qua rồi bị đảo lӝn vào ngày ba tháng giêng mới rồi. Tuy nhiên, không phải mӑi thứ đều đã thay đәi: không phải không có mӝt chút thất vӑng, nhưng anh ta buӝc phải chấp nhận, chẳng hạn trong phòng tắm cӫa Laurence, Ferrer vẫn tiếp tөc tắm từ trái qua phải, từ cao xuống thấp, nhưng anh ta không ở lại nhà cô ấy lâu hơn như mӑi khi, nhӳng ngày gần đây, thì về ở hẳn tại xưởng.
Máy hút bөi gần như chẳng mấy khi đưӧc sӱ dөng, cái xưởng này chứng tӓ rằng đây đã trở thành cái hang cӫa mӝt kẻ đӝc thân, mӝt nơi ẩn náu tạm thời trong tình thế tuyệt vӑng, mӝt kӹ vật bị đem dùng không đúng mөc đích trong lúc nhӳng người thừa kế đang cãi lӝn nhau. Năm thứ đồ đạc đảm bảo cho căn phòng có đưӧc chút tiện nghi tối thiểu, cӝng với mӝt chiếc két sắt mà từ lâu Ferrer đã quên không chú ý tới sӵ hiện diện cӫa nó, mӝt ngăn bếp diện tích mӝt nhân ba mét gồm mӝt cái lò đầy nhӳng vệt loang lә, mӝt tӫ lạnh chẳng đӵng gì ngoài hai cây rau đã héo khô, thӵc phẩm dӵ trӳ đã quá thời hạn sӱ dөng. Ngăn lạnh hầu như không đưӧc sӱ dөng tới, lớp tuyết lâu ngày chiếm trӑn khoang làm đá và đã trở thành thứ băng cӵc rắn, Ferrer phải dùng mӝt chiếc máy sấy tóc, mӝt con dao cắt bánh để cạy chúng ra. Lớp cáu bẩn, lớp muối đӑng, thạch cao vón cөc đã làm cho toàn lớp men màu sáng trắng cӫa phòng tắm trở nên loang lә, trong chiếc tӫ treo quần áo là sáu bӝ quần áo màu tối, nhiều áo sơ-mi trắng, và mӝt bӝ cà-vạt. Nhӳng khi làm việc ở phòng trưng bày, Ferrer thường đóng bӝ hӧp mốt nhất: quần áo nghiêm chỉnh, nhưng không quá trang nghiêm như mӝt chính khách hoặc giám đốc mӝt nhà băng nào đó.
Trong nhӳng thứ chứng tӓ anh ta đã ở đây, ngoại trừ hai tấm áp phích triển lãm ở Heidelberg và Montpellier thì chẳng có gì cho thấy đã có nhӳng hoạt đӝng nghệ thuật diễn ra ở phòng trưng bày này. Cũng có thể nói thêm là ngoại trừ hai khối đá cẩm thạch xấu xí đưӧc đẽo gӑt dùng làm chiếc bàn thấp lè tè thường đưӧc sӱ dөng làm giá đặt chiếc vô tuyến. Hai khối đá ấy có thể là mӝt hӝp sӑ, mӝt vòi nước, mӝt người ở trần, nhưng Ferrer đã bӓ rơi tất cả.
4
Giờ đây là chiếc tàu phá băng dài mӝt trăm mét, rӝng hai mươi mét: tám đôi máy với tәng công suất lên đến 13.600 sức ngӵa, tốc đӝ tối đa 16,20 hải lý, mớn nước 7,16 m. Người ta xếp chӛ cho Ferrer trong mӝt ca bin: đồ đạc trong phòng đưӧc bắt ốc vào các vách ngăn, vòi nước có bàn đạp chân, vô tuyến gá lắp ngay phía cuối chiếc giường đơn, cuốn Kinh Thánh để sẵn trong ngăn kéo chiếc tӫ con. Cӝng thêm mӝt chiếc quạt máy thәi ngưӧc vì hệ thống lò sưởi nằm ở tận dưới hầm tàu, sản sinh ra mӝt lưӧng nhiệt năng khoảng ba mươi đӝ sưởi ấm cho mӑi thiết bị địa cӵc, dù đó là con tàu, là buồng điều khiển hay ngôi nhà. Ferrer xếp đồ đạc vào tӫ treo quần áo, đặt vừa tầm tay, cạnh giường ngӫ, mӝt tác phẩm bàn về điêu khắc cӫa các bӝ lạc phương bắc[1].
Thӫy thӫ đoàn cӫa con tàu Des Groseiller là khoảng năm chөc người đàn ông và ba người đàn bà mà Ferrer kịp làm quen ngay sau đó: mӝt cô trẻ người chắc nịch trang điểm lòe loẹt đưӧc giao phө trách đống dây chão, mӝt cô thích cắn móng tay là kế toán thӫ quӻ và mӝt y tá có sức khӓe lý tưởng đúng tiêu chuẩn cӫa mӝt ý tá, trang điểm khá kín đáo, làn da nhuӝm nắng mӝt cách tinh tế và dưới lớp áo bơ-lu, hình như không đưӧc kín đáo cho lắm, tên có ấy là Brigitte, kiêm luôn chức trông coi thư viện sách và băng vidéo, Ferrer thường đến chӛ cô mưӧn sách và phim nên có dịp tìm hiểu về cô gái có tên là Brigitte này, đêm xuống, cô ta đến với người điện báo viên có chiếc cằm vuông, mũi hình thoi và bӝ râu vểnh. Chẳng còn mấy hy vӑng kiếm tìm đưӧc cái gì ở đó nӳa nhưng để rồi xem, để rồi xem liệu có chuyện gì xảy ra không.
Ngày đầu tiên, trên bong tàu, Ferrer làm quen với các chỉ huy tàu. Viên thuyền trưởng như mӝt diễn viên và phó thuyền trưởng như mӝt người dẫn chương trình nhưng mӑi chuyện không chỉ dừng lại ở đó: nhӳng sĩ quan khác, trung cấp hoặc hạ sĩ, không tӓ ra có chuyện gì đặc biệt cả. Nhӳng lời giới thiệu đã đưӧc kết thúc đâu đấy, cũng do mӑi người chẳng có mấy chuyện để mà nói với nhau, nên Ferrer đi vào căn phòng ấm cúng rӝng rãi cӫa con tàu phá băng, mùi từ căn phòng tӓa ra thúc giөc anh ta cất bước vào
đó. Nhìn thoáng qua, căn phòng có vẻ sạch sẽ và không có mùi gì đặc biệt, nhưng để ý mӝt chút người ta phân biệt đưӧc, trong sӵ trật tӵ đó, nhӳng bóng ma cӫa dây thần kinh khứu giác là mùi khí ga, dầu, mùi mӥ cháy, mùi thuốc lá, bãi nôn và thùng đӵng rác đã tràn ứ ra ngoài, xa hơn mӝt chút, mӝt mặt sàn bập bênh và ẩm ướt bẩn thỉu nhớp nháp, ống thải nước, tiếng ồn cӫa xi phông.
Tiếng loa phóng thanh rầm rì nhӳng mệnh lệnh, nhӳng bóng người đùa cӧt phía sau nhӳng cánh cӱa mở hé. Đi từ đầu mũi ra phía sau tàu, Ferrer gặp mӝt vài thӫy thӫ nhưng không chuyện trò gì với hӑ cả, đầu bếp và thӧ máy không quen với sӵ hiện diện cӫa nhӳng người không-có-việc và vì hӑ rất bận: ngoài nhiệm vө cӫa hӑ là thӵc hiện nhӳng thao tác vận hành máy móc, đa phần hӑ hối hả với công việc trong nhӳng gian máy rӝng lớn hoặc máy phát điện nằm ở khoang dưới đáy con tàu, đưӧc bố trí nhӳng máy công cө đồ sӝ vả cả nhӳng dөng cө nhӓ bé tế nhị. Anh ta chỉ làm quen đưӧc với mӝt thӫy thӫ trẻ có vẻ nhút nhát, dễ xúc đӝng nhưng khӓe mạnh, vạm vӥ, anh ta đang chăm chú dõi theo nhӳng con chim bay ngang qua bầu trời. Hình như đó là nhӳng chú gà gô trắng, nhӳng con vịt biển mà bӝ lông cӫa chúng đưӧc sӱ dөng làm chăn lông, chim hải âu, và tôi tin là hầu như đӫ loại.
Gần như tất cả mӑi bӳa ăn đều giống nhau, giàu chất mӥ, đưӧc dӑn ra theo giờ nhất định và chỉ có nӱa giờ ở quán bar ngắn ngӫi vào buәi tối, để uống mӝt vài cốc bia. Ngày đầu tiên trôi qua là ngày cӫa khám phá, sáng ngày hôm sau, trời phӫ đầy sương mù, thời tiết bắt đầu như dãn nở ra. Qua cӱa phòng ngӫ, Ferrer nhìn thấy vùng Đất-Mới đang lướt qua phía bên phải trước khi đi dӑc theo bờ biển Labrador[2]tới vịnh Davis rồi vào eo biển Hudson nhưng hình như không ai nhận ra tiếng gầm rú cӫa đӝng cơ.
Không khí đưӧc bao bӑc vào giӳa nhӳng vách đá dӵng đứng màu nâu đӓ tím, và trở nên buốt giá hơn, không khí như ngưng đӑng lại, đè nặng lên mặt biển cũng phẳng lặng không kém: không mӝt ngӑn gió, không mӝt bóng tàu, và không mӝt cánh chim khuấy đӝng vùng không khí dù chỉ là mӝt cái chao cánh, không mӝt tiếng đӝng. Hoang vắng hoàn toàn, thỉnh thoảng có nhӳng vạt rêu và địa y như nhӳng gò má không đưӧc cạo cẩn thận, bờ biển như tөt thẳng xuống mặt nước.
Qua lớp sương mù đơn điệu, người ta phán đoán chứ không nhìn thấy tận mắt từ nhӳng mӓm núi, nhӳng dải băng hà tөt xuống với mӝt tốc đӝ không thể nhận ra đưӧc. Sӵ im lặng ngӵ trị tuyệt đối nơi đây cho tới lúc người ta nhận ra nhӳng tảng băng trôi.
Do lớp băng lúc đầu còn tương đối mӓng, nên con tàu phá băng dễ dàng mở đường ngay trước mũi tàu. Rồi rất nhanh lớp băng trở nên rất dày tới mức con tàu không thể tiếp tөc tiến lên đưӧc nӳa: tàu phải dừng lại dùng sức nặng cӫa nó đè nát lớp băng dày: lớp băng nә tung vӥ vөn bung ra tứ phía, và cứ liên tөc như vậy. Đi xuống hầm tàu chӛ phía mũi điểm chạm với lớp băng, mũi tàu bằng kim loại dày tới sáu mươi milimét, Ferrer nghe đưӧc rất gần tiếng đӝng con tàu nghiến vào lớp băng: mӝt dải âm thanh đӫ loại rít, miết và gầm gừ, hiệu ứng trầm và nhӳng tiếng nghiến riết rӓng khác nhau. Nhưng khi lên mặt boong, anh ta chỉ còn nghe thấy nhӳng tiếng gãy nhӓ răng rắc liên tөc, như mӝt mảnh vải bị xé toạc ra phía trên nhӳng chiếc tàu ngầm nguyên tӱ nằm bất đӝng, lặng lẽ, đӛ mӝt cách bình yên dưới đáy biển, và trong nhӳng chiếc tàu ngầm đó, thӫy thӫ đoàn nói chuyện với nhau bằng nhӳng lời giả dối trong thời gian đӧi chờ vô vӑng nhӳng mệnh lệnh mới.
Ngày lại ngày trôi qua, con tàu tiếp tөc cuӝc hành trình mà không gặp bất cứ con tàu nào ngoại trừ mӝt lần duy nhất với chiếc tàu phá băng cùng kiểu dáng. Hai con tàu đӛ lại mӝt giờ cạnh nhau, rồi lại tiếp tөc cuӝc hành trình sau khi các vị thuyền trưởng trao đәi cho nhau bản đồ và bản sao nhật ký hải trình, tất cả chỉ có vậy. Đó là nhӳng vùng đất mà con người chưa bao giờ đặt chân đến mặc dù nhӳng vùng đất ấy đã có không ít quốc gia đòi sát nhập vào lãnh thә cӫa hӑ: bán đảo Scandinave, nhӳng người thám hiểm đầu tiên đặt chân đến vùng đất này là người Nga, bởi nước Nga cách đây chẳng xa xôi gì, rồi Canada cũng là mӝt quốc gia gần gũi, rồi Hӧp chӫng quốc Hoa Kỳ cũng tương tӵ như vậy, hӑ cho rằng hӑ cũng rất gần. Hai hoặc ba lần gì đó, người ta nhìn thấy nhӳng khu làng hoang vắng trên bờ vịnh Labrador, nhӳng khu làng này do chính quyền trung ương xây dӵng phөc vө nhӳng người dân bản địa, cùng với mӝt cөm máy phát điện, rồi cả nhà thở đưӧc trang bị rất hoàn hảo. Nhưng do không thích ứng với nhӳng nhu cầu cӫa người dân địa phương, nên hӑ đã phá bӓ đi trước khi biến chúng trở thành hoang phế. Gần nhӳng ngôi nhà tồi tàn trống huơ hoác, đây đó vẫn còn mӝt vài bӝ xương chó biển phơi khô treo lӫng lẳng trên nhӳng chiếc
giá, dấu tích cӫa việc dӵ trӳ thức ăn cũng như phương cách tӵ vệ chống lại loài gấu trắng.
Phong cảnh nơi đây thật thú vị, thật bao la và thật là hùng vĩ, nhưng sau mӝt vài ngày thì bắt đầu cảm thấy chán ngắt. Tới lúc này Ferrer đã trở thành mӝt kẻ cần mẫn trong thư viện, lөc tìm nhӳng cuốn sách nói về nhӳng chuyến thám hiểm địa cӵc – Greely, Nansen, Berentsz, Nordenskjold – và nhӳng cuốn băng vidéo đӫ loại – Rio Bravo, tất nhiên là cả bӝ phim Kiss me deadly, Cô thủ quỹ đồi bại, Cô thực tập háu đói.
Ferrer chỉ mưӧn nhӳng tác phẩm mới nhất cho đến khi biết rõ mối quan hệ cӫa Brigitte với người điện báo viên: biết rằng không còn chút hy vӑng dù mong manh với cô nӳ y tá, nhưng Ferrer đã không còn ngại ngùng với đôi mắt cô ta nӳa. Nhӳng đắn đo vô ích: nө cười bình đẳng, đӝ lưӧng như cӫa mӝt người mẹ, Brigitte hӳng hờ ghi tên bӝ phim Bốn kỵ sĩ của ngày tận thế hay Hãy đánh nhau với bọn ta vào cuốn sә. Với nө cười trấn an và ngө ý, Ferrer không đắn đo thêm nӳa mà cứ hai ngày mӝt lần, bịa ra nhӳng ngón tình cảm trìu mến giả vờ - đau đầu, đau mình mẩy – để yêu cầu đưӧc chăm sóc – dán cao, hoặc mát-xa. Hiệp đầu khởi sӵ như thế là ngon lành.
5
Chuyện xảy ra cách đây sáu tháng, không đưӧc thuận lắm, ấy là công việc cӫa phòng trưng bày. Bởi vì vào thời điểm tôi nói, thì thị trường các sản phẩm mӻ thuật không đưӧc sáng sӫa lắm hoặc nói cách khác, kết quả điện tâm đồ cӫa Ferrer không đưӧc thật tốt cho lắm. Anh ta đã có nhӳng dấu hiệu về bệnh tim mạch, chứng nhồi máu nhẹ dù chưa gây ra hậu quả gì ghê gớm ngoại trừ buӝc phải bӓ hẳn thuốc lá, nhưng đó là việc mà bác sĩ chuyên khoa Feldman cho biết là không thể điều trị đưӧc. Tới lúc đó, nếu cuӝc sống cӫa Ferrer đưӧc đánh dấu bằng thuốc lá Malboro, giống như việc leo lên trên mӝt sӧi dây có nút thắt, thì từ nay nếu không đưӧc hút thuốc lá nӳa, thì chẳng khác nào anh ta vĩnh viễn phải leo trên sӧi dây trơn tuӝt.
Nhӳng năm gần đây, Ferrer tӵ cho mình là mӝt cái kho nhӓ chứa các nghệ sĩ đưӧc anh ta chăm sóc thường xuyên, thậm chí đôi khi còn khuyên bảo hӑ đôi điều, dĩ nhiên nhӳng lời góp ý đó cũng làm hӑ phiền lòng. Ở xưởng anh ta không có nhӳng nhà điêu khắc kể cả nhӳng vị đã có danh tiếng mà chỉ có các hӑa sĩ, tất nhiên, như Beucler, Spontini, Gourdel và đặc biệt là Martinov, mӝt nghệ sĩ vào thời điểm này đang đưӧc ưa chuӝng, thường chỉ sӱ dөng đӝc gam màu vàng và thêm mӝt vài nghệ sĩ tạo hình khác nӳa. Chẳng hạn như Elioseo Schwartz, mӝt chuyên gia trong lĩnh vӵc sӱ dөng nhiệt đӝ cӵc điểm, đang xây dӵng mӝt hệ thống ống dẫn nhiệt khép kín (tại sao lại không bә sung thêm mӝt số xu-páp nӳa, Ferrer gӧi ý, mӝt hoặc hai cái nӳa có tốt hơn không?), rồi Charles Esterellas đang sӱ dөng kӻ thuật sắp đặt nhӳng gò đồi bằng đường kính trắng và dễ tan (toàn bӝ món gò đồi cӫa anh hình như không có sắc màu gì cả nhỉ? Ferrer mạo muӝi nói), Marie-Nicole Guimard thì phóng to nhӳng vết châm đốt cӫa côn trùng (hình như cô chưa bao giờ nhìn thấy lũ sâu róm châm đốt bao giờ thì phải? Ferrer tưởng tưӧng. Đấy là vết cắn cӫa nhӳng con rắn đấy chứ?) và Rajputek Fracnatz, mӝt người có thói quen làm việc trong trạng thái mơ mơ màng màng (trông Mollo giống như là kẻ mới uống thuốc ngӫ ấy, Ferrer lo lắng). Nhưng mà thời nay, nhӳng kiểu góp ý như thế này hoàn toàn không mӝt ai ưa, sau nӳa, nhӳng nghệ sĩ này, đặc biệt là Rajputek, do bị góp ý quá sống sưӧng, nên anh ta phản ứng gay gắt cho rằng chuyến viếng thăm cӫa Ferrer thật chẳng đúng lúc chút nào.
Nhưng rồi thì tranh ảnh cũng chẳng bán đưӧc bao nhiêu. Đã hết cái thời điện thoại đә chuông liên hồi, nhӳng bản fax liên tөc đưӧc xé ra, các phòng tranh trên khắp thế giới hӓi thông tin về các nghệ sĩ, quan niệm sáng tác, tiểu sӱ và nhӳng bức ảnh cӫa các nghệ sĩ, nhӳng mẫu quảng cáo và nhӳng dӵ án triển lãm. Đã từng có vài năm có nhӳng cơn sốt khá vui vẻ cho nên việc chăm sóc, quan tâm tới các nghệ sĩ rất chu đáo, có thể tìm hӑc bәng cho hӑ ở Berlin, quӻ tài trӧ ở Floride hoặc nhӳng công việc trong các trường mӻ thuật ở Strasbourg hay Nancy. Nhưng rồi, mốt thời thưӧng hình như đã trở nên lӛi thời và mӑi nguồn lӧi trở nên cạn kiệt.
Do không thuyết phөc đưӧc đӫ nhӳng nhà sưu tập mua các tác phẩm đang đưӧc trưng bày trong cӱa hàng cӫa Ferrer, vả lại nhận thấy nghệ thuật thuӝc các tӝc người thiểu số đang lấn sân, cho nên từ bấy lâu nay Ferrer đã nghĩ tới chuyện đәi hướng hoạt đӝng. Anh ta ngầm bӓ rơi các nghệ sĩ tạo hình, tất nhiên, để tập trung chăm sóc các hӑa sĩ cӫa mình, nhất là Gourdel và Martinov – mӝt người đang trong giai đoạn phát triển rӵc rӥ, đang thăng hoa, còn người kia đang trong giai đoạn thoái trào – nhưng bây giờ anh ta chӫ trương tập trung phần lớn nhӳng cố gắng cӫa mình về nhӳng công việc có tính truyền thống hơn. Nghệ thuật Bambarra[3], nghệ thuật Bantou[4], nghệ thuật đồng bằng Ấn Đӝ và đӫ mӑi thứ nghệ thuật theo xu hướng này. Về cố vấn cӫa anh ta trong lĩnh vӵc đầu tư, Ferrer giao cho mӝt chuyên gia tin hӑc có năng lӵc tên là Delahaye, anh này mӛi tuần ba buәi chiều có mặt tại phòng trưng bày.
Delahaye là mӝt người có năng lӵc nghề nghiệp, nhưng cung cách ăn mặc, vẻ bề ngoài lại phản bӝi anh ta. Delahaye cao như mӝt cây sào, lưng lại còng, gương mặt nhu nhưӧc và râu ria xén tỉa không cân xứng che lấp toàn bӝ môi trên cứ như muốn chui cả vào trong mồm, mӝt vài sӧi mӑc ngưӧc như muốn chui tӑt vào trong lӛ mũi: dài quá cho nên nó có cảm giác như râu giả. Cӱ chỉ cӫa anh ta lóng ngóng, lập cà lập cập, phương pháp tiến hành công việc và cách suy nghĩ rất quanh co và cho đến hai cái gӑng kính cũng xoắn xuýt lại, hai mắt kính xӝc xệch, tóm lại là không có mӝt cái gì ở anh ta cho thật đoan chính cả. Đứng thẳng lên mӝt chút xem nào Delahaye, đôi khi Ferrer nhăn nhó nói với anh ta như vậy. Với người khác, chắc người ta mặc kệ.
Nhӳng tháng đầu tiên trôi qua từ dạo anh ta rời khӓi căn nhà ở Issy, Ferrer tận dөng triệt để cái trật tӵ mới trong cuӝc đời. Mӝt chiếc khăn mặt, mӝt chiếc bát và mӝt nӱa chiếc tӫ để đồ đạc ở nhà Laurence, lúc đầu các buәi tối hình như Ferrer đều ngӫ ở nhà cô ta ở phố Arcade. Rồi dần dần, Ferrer ngӫ lại đó ngày mӝt ít đi: chỉ còn hai đêm ngӫ lại đó mӝt lần, rồi ba đêm rồi thì bốn, còn lại Ferrer ngӫ ngay ở phòng trưng bày, ban đầu ngӫ mӝt mình, rồi thì với ai đó, cho tới mӝt ngày, Laurence: bây giờ thì anh cút đi, cuốn xéo đi, cô ta nói với Ferrer, nhớ mang hết đồ đạc, và biến đi.
Đưӧc, đồng ý, Ferrer nói (thӵc ra thì từ đáy lòng, tôi đã cóc cần). Nhưng sau mӝt đêm lạnh lẽo cô đơn nằm ở gian phía sau phòng trưng bày, anh ta dậy sớm và việc đầu tiên là đi đến gõ cӱa mӝt hãng kinh doanh bất đӝng sản gần nhất. Xưởng tranh này tồi tàn quá, chắc là không thể tồn tại lâu dài đưӧc. Người ta đề nghị với Ferrer đi xem mӝt căn phòng ở trên phố Amsterdam. Lắm mánh khóe, đặc trưng cӫa nghề môi giới, cho thuê bất đӝng sản, để thuyết phөc người thuê nhà thuê với giá cao nhất, anh thấy không, nhân viên cӫa hãng cất tiếng nói dẻo quẹo: đường chỉ trên trần, ván sàn kẻ chỉ, phòng đôi và hai lối vào, cӱa hai lớp kính, có gương, lò sưởi ốp đá cẩm thạch, hành lang rӝng rãi, phòng làm việc và ba tháng tiền bảo lãnh. Tốt, đồng ý, Ferrer nói (tôi thuê vậy).
Anh ta dӑn đến, đó là công việc cӫa cả tuần để mua mӝt số đồ đạc và xem lại hệ thống dẫn nước. Cuối cùng, mӝt buәi tối, anh ta cảm thấy thật sӵ là đang ở nhà mình, ngồi trên mӝt trong nhӳng chiếc ghế bành mới tinh, chiếc cốc trên tay, mӝt mắt nhìn lên vô tuyến, có tiếng chuông gӑi cӱa,thì ra Delahaye bất ngờ đến thăm. Tôi chỉ ghé qua chút thôi, Delahaye nói, tôi chỉ muốn bàn với anh mӝt việc, tôi không làm phiền anh đấy chứ? Khuôn hình cӫa Delahaye hình như không đӫ che chắn cho mӝt cái gì đó hay mӝt ai đó ở sau lưng anh ta, trong bóng tối nhập nhoạng cӫa hành lang. Ferrer nhẹ nhàng nhón chân lên nhìn. Vâng, Ferrer nói và quay lại phía sau, xin lӛi. Tôi đi cùng với mӝt cô bạn, cô ấy rөt rè quá. Chúng tôi có thể vào đưӧc chứ?
Mӛi người có thể quan sát anh ta theo cách cӫa mình, theo tôi, anh ta thuӝc về loại người có thân thӵc vật. Nó gӧi lên nhӳng hoa lá, cây cối: hoa hướng dương, sậy, bao báp. Cách ăn mặc cӫa Delahaye lúc nào cũng luӝm thuӝm, gӧi lại nhӳng giống thӵc vật vô danh và xám xịt, chúng mӑc lên
giӳa thành phố, giӳa nhӳng phiến đá lát bập bênh cӫa mӝt khoảnh sân kho, chӛ trũng cӫa mӝt kẽ nứt xâm lấn mặt tiền cӫa mӝt tòa nhà đә nát. Gầy còm, lờ đờ, uể oải, vẻ kín đáo, nhưng rất cương quyết, chúng biết rằng chúng chỉ là mӝt vai phө trong cuӝc đời, nhưng rất biết cách nắm giӳ nó.
Nếu như cốt cách cӫa Delahaye, thái đӝ cӫa anh ta, cách diễn đạt lẫn lӝn vөng về, nó gӧi lên mӝt thứ cô đӝc khó uốn nắn, thì cô bạn gái cùng đi với anh ta thuӝc mӝt phong cách thảo mӝc khác. Tên cô ta là Victoire và là mӝt loại thảo mӝc đẹp ngay từ cái nhìn đầu tiên, có vẻ ít lời, và hoang dã hơn cả mӝt loài cây cảnh dùng để trang trí hoặc để phөc vө cho thú vui giải trí, thứ cây cà đӝc dưӧc chứ không phải hoa mimôda, kém rӵc rӥ hơn mà lại lắm gai, tóm lại, dáng vẻ bề ngoài không đưӧc phù hӧp cho lắm. Cho dù có thế nào chăng nӳa, Ferrer biết ngay rằng anh chàng này sẽ không rời mất khӓi cô gái: tất nhiên, anh ta nói, các bạn vào đi. Rồi mӝt tai lơ đễnh hướng về nhӳng điều Delahaye đang nói lӝn xӝn, Ferrer vẫn tiếp tөc công việc cӫa mình đang dang dở, như không có chuyện gì xảy ra, mӑi cӱ chỉ tӓ ra thật hấp dẫn và tìm cách đánh mắt liếc nhìn thật nhiều về phía cô gái. Nhưng mӑi cố gắng đều vô ích ngay từ cái nhìn đầu tiên, có vẻ như còn lâu mới đạt đưӧc ý đồ, rồi ai mà biết đưӧc. Nhưng mà Delahaye đang nói điều gì đó có vẻ lưu loát hơn, và không phải là không đáng nghe.
Ngày 11 tháng 9 năm 1957, anh ta trình bày, ở cӵc bắc Canada, mӝt con tàu buôn cӥ nhӓ tên là Nechilik bị kẹt lại tại vùng biển thuӝc huyện Mackenzie, cho tới hôm nay địa điểm này vẫn chưa đưӧc xác định mӝt cách cө thể. Con tàu Nechilik đi từ vịnh Cambridge và Tuktoyaktuk, rồi bị kẹt lại giӳa nhӳng lớp băng dày, trên tàu chở lông cáo, lông gấu, lông hải cẩu và cả mӝt lô đồ cә thuӝc khu vӵc cӵc kỳ nәi tiếng vì sӵ hiếm hoi cӫa nó. Con tàu bị đắm vì húc phải mӝt dải đá ngầm, ngay lập tức nó bị kẹp chặt vào giӳa mặt băng đông cứng. Rời khӓi chiếc xuồng, rất nhiều thuyền viên đã hoàn toàn bị tê cóng, hӑ phải chạy bӝ, phải trả giá cho sӵ rét buốt, mӝt số thành viên cӫa thӫy thӫ đoàn khó khăn lắm mới tới đưӧc mӝt cơ sở gần nhất ở đó, mӝt vài người trong số hӑ phải chịu cắt cөt chân. Nhiều tuần lễ sau đó, mặc dù biết chuyến hàng rất có giá trị, nhưng khu vӵc này lại quá cách biệt với vị trí con tàu đắm cho nên hãng tàu biển thuӝc vịnh Hudson nản chí không dám xông ra cứu nạn con tàu.
Delahaye tường thuật lại toàn bӝ câu chuyện vừa mới hóng hớt đưӧc đâu đó và cho biết thêm là người còn nói rằng nếu biết cách tìm kiếm thì có thể thu lưӧm đưӧc nhӳng thông tin chi tiết, chính xác hơn về các số liệu liên quan đến con tàu Nechilik bị đắm. Toàn bӝ nhӳng thông tin đó cho tới nay, tất nhiên, là rất mù mờ, nhưng nếu biết ráp nối, cӫng cố lại các thông tin rời rạc ấy mӝt cách hệ thống và cө thể hơn thì cuӝc tìm kiếm có thể thӵc hiện đưӧc và nó sẽ mang lai nhӳng ích lӧi đáng kể. Theo phương pháp cә điển, trên thӵc tế, các cuӝc khám phá mӝt món đồ mӻ nghệ cӫa dân tӝc thiểu số hoặc mӝt món đồ cә thường là phải trải qua khoảng bốn hoặc năm giai đoạn. Trước hết phải có mӝt cơ sở kiểm tra sơ bӝ các món đồ; sau đó, phải có mӝt tay anh chị thә dân giám sát, theo dõi việc buôn bán thứ hàng hóa này trong khu vӵc; rồi mӝt người trung gian có chuyên môn cao trong lĩnh vӵc liên quan; cuối cùng là phải có mӝt chӫ phòng trưng bày nhận đӥ đầu trước khi nhà sưu tập có thời gian tạo ra nhӳng mắc xích cuối cùng cӫa sӧi dây xích. Toàn bӝ cái thế giới nhӓ bé đó, hiển nhiên, ngày càng giàu có lên, giá trị cӫa từng món đồ tăng gấp mười lần ở mӛi giai đoạn. Cho nên, trong trường hӧp cӫa con tàu Nechilik, nếu có cách can thiệp thích hӧp, thì người ta có thể tránh đưӧc tất cả nhӳng kẻ trung gian đó và hành đӝng mӝt cách trӵc tiếp: như thế thì sẽ tiết kiệm đưӧc rất nhiều thời gian và kiếm đưӧc nhiều tiền bạc hơn.
Nhưng tối hôm đó, nói thӵc là Ferrer không chú ý lắm tới câu chuyện con tàu đắm, bởi anh ta quá quan tâm đến cô Victoire mà không biết rằng cô ấy đến đây với ý định sẽ ở lại nhà mình khoảng mӝt tuần. Khi cô gái ngập ngừng đề đạt nguyện vӑng ấy, thì anh ta thӵc sӵ sung sướng, mặc dù không phải là không có mӝt vài lo lắng, hiển nhiên thôi. Mãi tới lúc Delahaye nói cho Ferrer biết rằng cả ba người tập trung tối nay ở nhà Ferrer, rồi sau đó mӛi người sẽ phải chia tay nhau theo cách riêng cӫa mình trước cuối tháng này, kể cả Ferrer, thì anh ta mới thӵc sӵ lo lắng.
6
Ngày con tàu vưӧt qua địa cӵc, thông thường nhӳng người đi biển phải tә chức mӝt bӳa tiệc khi đi qua đường giới tuyến này. Ferrer đưӧc báo trước bằng mӝt cách nói bóng gió, giӑng giễu cӧt pha chút lo sӧ vẩn vơ, dấu ấn cӫa định mệnh khổ tận cam lai. Tuy nhiên, anh ta không biết gì về sӵ đe dӑa này, mà giả thiết đó là mӝt thứ lễ nghi thường thấy mӛi khi vưӧt qua đường xích đạo, hoặc khu vӵc chí tuyến. Vậy mà không: nhӳng việc như thế này thường đưӧc cӱ hành ở xứ lạnh.
Cho nên, buәi sáng hôm đó, ba thӫy thӫ cải trang thành nhӳng con yêu tinh nhảy bә vào phòng Ferrer gào thét và bịt mắt anh ta lại, rồi kéo xềnh xệch anh ta dӑc theo hành lang tới tận phòng thể thao lúc này bị che tối om. Hӑ cởi băng bịt mắt cho anh ta: Thần Neptune[5]đang ngồi trên cái bөc trung tâm, bên cạnh là vị thuyền trưởng và mӝt số hạ sĩ quan. Đeo vương miện, mặc áo choàng, cầm đinh ba, đi giày trang trí hình cӑ cӫa thӧ lặn, Neptune, do bếp trưởng thể hiện, cùng với cô gái hay cắn móng tay trong vai Amphitrite[6]. Vị chúa tể cӫa nước, hai tròng mắt quay tròn bắt Ferrer phải quỳ lạy và đӑc theo anh ta nhӳng điều ngớ ngẩn, đo kích thước căn phòng thể thao, mò chùm chìa khóa có nhӳng chiếc răng nhӑn nằm dưới đáy mӝt chậu nước sốt cà chua và nhiều trò ăn hiếp vô hại khác.
Trong suốt thời gian Ferrer thӵc hiện các yêu cầu đó, anh ta nghe thấy hình như Neptune đang kín đáo nguyền rӫa Amphitrite. Cuối cùng, viên thuyền trưởng đӑc mӝt bài diễn văn ngắn và trao cho Ferrer thẻ chứng nhận cuӝc thӱ thách trên tàu.
Cuӝc hành trình tiếp tөc, con tàu vưӧt qua Bắc cӵc, người ta bắt đầu nhìn thấy mӝt vài tảng băng trôi. Nhưng phía xa kia chỉ toàn nhӳng tảng băng trôi, nhӳng con tàu, tốt nhất, là hãy tránh xa nó ra. Nhӳng tảng băng đôi khi nằm rải rác, đôi khi nhóm lại với nhau thành từng núi băng bất đӝng, giống như buông neo lại ở đó, mӝt vài mảng băng trơn láng và lóe sáng, toàn bӝ khối băng đá không hề có mӝt chút tì vết nào cả, mӝt số khác
trông lại rất bẩn, đen thui, hoặc vàng khè do tích tө lâu ngày. Nhìn nghiêng, nhӳng tảng băng giống hình thù cӫa nhӳng con vật đӫ loại hoặc giống rất nhiều dạng hình hӑc, kích thước cӫa chúng bằng cả quảng trường Vandôm và Champs-de-Mars. Tuy nhiên, nhӳng tảng băng ở đây có vẻ rời rạc, không rắn chắc như nhӳng tảng băng ở Nam cӵc, ở đó chúng thường di chuyển thành nhӳng khối băng lớn, có góc cạnh, không cân xứng và gồ ghề, lồi lõm, cứ như chúng vừa trở lại sau nhӳng giấc ngӫ không yên bình.
Ban đêm, Ferrer ngӫ không yên giấc, anh ta ra khӓi giường đi lên phòng chỉ huy tàu để giết thời gian với nhӳng người thӫy thӫ trӵc ban. Bình minh, trống trải và rӝng mênh mông như mӝt phòng đӧi, mӑi phía cӫa căn phòng chỉ huy đưӧc ghép bằng kính trong suốt. Dưới sӵ giám sát trong trạng thái ngӫ gật cӫa mӝt sĩ quan, hai thӫy thӫ lái tàu cứ bốn giờ thay phiên nhau mӝt lần đứng trước bàn điều khiển, máy đo đӝ sâu và ra-đa, mắt hướng về máy đo chuẩn hướng đi. Ferrer ngồi vào mӝt góc trên mӝt tấm thảm dày. Anh ngước mắt nhìn phong cảnh đưӧc nhӳng ngӑn đèn pha công suất mạnh chiếu sáng mặc dù chẳng có cái gì để mà ngắm nhìn cả, phía xa tít tắp, chẳng có cái gì khác ngoài mӝt màu trắng chìm trong đêm tối. Để làm mӝt cái gì đó cho có ích, anh ta đến lөc lӑi, tra cứu nhӳng tấm bản đồ, máy định vị toàn cầu, các bản fax thông tin dӵ báo thời tiết. Đưӧc mấy thӫy thӫ trӵc ban hướng dẫn, Ferrer giết thời giờ bằng cách dò tìm sóng phát thanh trên mӑi tần số cӫa chiếc radio. Cũng phải mất hơn mười lăm phút, nhưng cái mà anh ta muốn tìm thì lại chẳng tìm đưӧc.
Vì lý do kӻ thuật, con tàu phải dừng lại giӳa lớp băng, phía dưới đáy tàu đã có chuyện gì xảy ra. Thӫy thӫ ném thang xuống và trên nhӳng nấc thang bằng gӛ, nước đá đã tích tө tạo thành hình dáng như nhӳng dải núi nhӓ, Ferrer bước xuống dạo mӝt vòng. Im lặng, im lặng vĩnh cӱu, không có mӝt tiếng đӝng nào khác ngoài tiếng bước chân cӫa anh ta ngập trong lớp tuyết dày và hơi thở cӫa gió, mӝt hoặc hai lần gì đó có tiếng kêu cӫa mӝt con chim cốc. Mặc dù đã có quy định nhưng Ferrer vẫn muốn đi ra xa hơn mӝt chút và phát hiện thấy mӝt gia đình nhà moóc đang đứng ngồi lәn nhәn, chen chúc tӵa vào nhau bên mӝt tảng băng trôi. Bên cạnh các bà vӧ là nhӳng ông chồng moóc già chỉ quen với chế đӝ mӝt vӧ mӝt chồng, trӑc đầu và đầy râu, khắp cơ thể đầy nhӳng vết sẹo, dấu tích cӫa nhӳng trận kịch chiến. Mӝt con cái thỉnh thoảng he hé mắt nhìn, nhӳng chiếc vây bơi cӫa nàng quạt quạt trước khi lại tiếp tөc thiu thiu ngӫ. Ferrer quay lại tàu.
Và mӑi chuyện lại cứ tiếp tөc như vậy, không ngơi nghỉ. Tuy nhiên, có mӝt phương sách để chống lại sӵ buồn tẻ: chặt thời gian ra như nhӳng khúc xúc-xích. Chia chúng ra thành bảy ngày (N trừ 7, N trừ 6, N trừ 5 trước khi tới nơi) và giờ cũng vậy (tôi thấy đói: G trừ 2 trước bӳa ăn trưa), rồi thì phút (tôi đã uống suất cà phê cӫa tôi: bình thường P trừ 7 hoặc 8 trước khi tôi đi vệ sinh) và ngay cả giây nӳa (tôi đi mӝt vòng trong phòng chỉ huy: G trừ khoảng 30; nằm giӳa khoảng thời gian tôi đi mӝt vòng và khoảng thời gian sau đó dành để suy nghĩ, tôi cứu đưӧc mӝt phút). Tóm lại, như ở trong tù, chỉ cần đếm, ước lưӧng thời gian cӫa tất cả nhӳng công việc mà người ta đã làm – ăn cơm, xem vidéo, chơi đố chӳ hoặc xem phim hoạt hình – để giết chết sӵ buồn tẻ ngay từ trong trứng. Mặc dù người ta cũng có thể không làm gì hết, có thể dành cả buәi sáng, vận áo ngӫ và quần đùi, nằm trong phòng đӑc sách, rồi dậy tắm rӱa và mặc quần áo. Do lớp băng phản chiếu ánh sáng chói chang lên cӱa sә thành tàu, màu sáng trắng ấy làm cho cả cabin cũng sáng lên tứ phía, làm cho không mӝt cái bóng nào có thể in hình đưӧc trong khoang cabin giống như dưới hệ thống đèn không gây bóng trong phòng mә, Ferrer căn mӝt chiếc khăn tắm lên cӱa mở, rồi chờ đӧi.
Nhưng cũng có mӝt vài trò giải trí, thӵc ra chẳng có ý nghĩa gì: trưởng máy và người chịu trách nhiệm bảo hiểm đi kiểm tra đều đặn các buồng, huấn luyện nhӳng bài tập sơ tán và mặc áo phao cứu hӝ. Anh ta cũng tới thăm cô y tá Brigitte thường xuyên hơn, và còn mạo hiểm tán tỉnh cô ta khi biết chắc người điện báo viên đang ở trong phòng làm việc, nịnh bӧ cô ta về các khả năng trí tuệ và ngoại hình tuyệt mӻ, về màu da nâu cô ta có đưӧc trong thứ khí hậu băng giá khắc nghiệt này. Qua câu chuyện Ferrer biết rằng để tránh căn bệnh trầm uất hoặc là điều gì đó tồi tệ hơn, mӝt thӓa ước lập thể đã đưӧc ban hành rằng trong nhӳng vùng không có mặt trời, các nhân viên nӳ có quyền đưӧc chiếu tia cӵc tím bốn giờ mӝt tuần.
Phần còn lại cӫa thời gian, đó là ngày chӫ nhật, mӝt ngày chӫ nhật dài dằng dặc mà sӵ im lặng tuyệt đối giӳ mӝt khoảng cách giӳa âm thanh, các sӵ việc và thậm chí cả nhӳng khoảnh khắc thời gian: màu trắng như hòa vào không gian và cái lạnh giá làm cho thời gian như chậm lại. Có cái gì đó đӫ làm cho người ta lạnh cóng trong con tàu phá băng ấm áp, ngay cả chuyện đi lại Ferrer cũng không còn mơ tới nӳa vì các khớp xương như cứng lại, từ lúc vưӧt qua đường địa cӵc, anh ta không còn dám đặt chân tới
phòngthểthao,trênthӵctế,mӑicốgắngchỉcòntậptrungvàogiờcácbӳa ănmàthôi.
7
Đồng tӱ tròn vo trên tròng mắt xanh như ánh sáng điện giống như chiếc bóng phát quang cӫa nhӳng chiếc máy thu thanh cә lӛ, nө cười lạnh lùng nhưng dù sao cũng là cái cười, thế là Vitorie lưu lại trong ngôi nhà trên phố Amsterdam.
Cô ta đến mà chẳng mang theo nhiều đồ đạc, chỉ đӝc mӝt chiếc va li nhӓ và mӝt chiếc túi đã đưӧc đặt ở lối ra vào, như là gӱi tạm mӝt vài tiếng đồng hồ ở ngăn hành lý nhà ga. Và trong phòng tắm, ngoài bàn chải đánh răng còn có mӝt chiếc túi nhӓ đӵng mấy thứ lặt vặt có thể gập đưӧc và vài ba mẫu mӻ phẩm.
Cô ta ngồi kia, trong mӝt chiếc ghế bành, quãng thời gian minh mẫn nhất cô ta dành cho việc đӑc sách, trước mặt là màn hình vô tuyến nhưng bị tắt tiếng. Cô ta ít nói, dè dặt đến mức tối đa, trả lời các câu hӓi bằng mӝt câu hӓi khác. Hình như lúc nào cô ta cũng đề phòng, ngay cả khi không có mӝt mảy may đe dӑa nào từ bên ngoài, cho dù cái không khí ngờ vӵc này đôi khi có nguy cơ làm nảy sinh nhӳng suy nghĩ ác ý. Khi Ferrer tiếp khách, cô ta luôn luôn tӓ vẻ như thuӝc về phía nhӳng vị khách mời, trong thâm tâm, anh ta muốn mười hai giờ đêm cô ta cũng phải ra đi như nhӳng người khác, nhưng cô ta đã ở lại, ở lại.
Ngoài nhӳng hậu quả do sӵ hiện diện cӫa Victorie ở trong nhà gây ra, thì Ferrer còn phải chịu đӵng Delahaye lui tới thường xuyên hơn và luôn luôn trong bӝ quần áo nhàu nát, luӝm thuӝm. Mӝt buәi tối trên phố Amsterdam, anh ta ăn mặc còn thảm hại hơn mӑi khi, bӝ quần áo pác-ca không còn ra hình thù gì, các vạt áo xoắn lại, Ferrer thề là sẽ phê phán anh ta vào cuối buәi làm việc. Giӳ Delahaye mӝt lúc ngoài hành lang, đừng ăn mặc như thế Delahaye, Ferrer nói, hãy ăn mặc cho nó đĩnh đạc hơn mӝt chút khi tới phòng tranh làm việc, mӝt người bán đồ mӻ nghệ cần phải chăm sóc bề ngoài cӫa mình chứ, Delahaye nhìn anh ta không hiểu gì cả.
Hãy đặt anh vào vị trí cӫa mӝt nhà sưu tập, giӑng trầm, Ferrer nhấn mạnh tay ấn trả lại nút hẹn giờ công-tắc điện. Người sưu tập sẽ mua cӫa anh mӝt bức tranh. Ông ta lưӥng lӵ. Và anh biết rõ điều ông ta cần cái gì trong khi mua mӝt bức tranh, anh biết rõ là ông ta rất sӧ bị mất tiền,sӧ mất mối hàng, sӧ bӓ lӥ mất cơ hӝi mua đưӧc bức tranh cӫa Van Gogh, sӧ cái điều mà bà vӧ ông ta sẽ nói, đấy anh thấy đấy. Ông ta sӧ nhất là không còn nhìn thấy bức tranh nӳa, có đúng thế không. Ông ta chỉ còn nhìn ở anh thôi, với tư cách là người bán hàng, nhìn anh trong bӝ áo quần cӫa người bán hàng. Cho nên, bề ngoài cӫa anh không chỉ có giá trị cho anh mà bề ngoài đó còn tôn lên giá trị cӫa bức tranh, mong anh hiểu cho tôi. Nếu anh mặc nhӳng bӝ áo quần khốn khә như thế, thì toàn bӝ sӵ khә hạnh cӫa anh sẽ phӫ trùm lên mӑi thứ. Cho nên, nếu vẻ bề ngoài cӫa anh tuyệt mӻ thì sẽ là điều ngưӧc lại, và như vậy sẽ tốt cho bức tranh và cho tất cả mӑi người, đặc biệt là cho chúng ta, anh đồng ý chứ.
Vâng, Dehalaye nói, tôi tin là tôi đã hiểu rõ vấn đề. Tốt, Ferrer nói, vậy thì từ ngày mai, hãy làm như tôi nói nhé. Cô có tin là anh ta đã hiểu ra vấn đề không? Sau đó Ferrer lại đặt câu hӓi nhưng biết trước là không có hy vӑng có đưӧc câu trả lời, bởi Victorie đã đứng lên đi ngӫ rồi. Lần lưӧt tắt hết đèn, Ferrer đi về phía căn phòng tối om và ngày hôm sau vào buәi chiều, anh ta xuất hiện ở phòng tranh, trong bӝ quần áo hàng tuýt màu hạt dẻ, áo sơ-mi kẻ sӑc lính thӫy màu xanh da trời, cà-vạt dệt kim màu nâu xen màu vàng. Đến sớm hơn, Delahaye cạo râu sơ sài, vẫn mặc áo quần như thế, thậm chí còn tồi tệ hơn hôm qua, cứ như là đêm qua anh ta đã mặc cả bӝ quần áo ấy mà ngӫ vậy, nhìn chiếc áo sơ-mi thì cũng đӫ biết là như vậy.
Tôi nghĩ là cái chuyện Nechilik tiến triển tốt đấy, Delahaye nói. Hả cái gì? Ferrer hӓi. Con tàu ấy mà, Delahaye nói, anh biết đấy, con tàu chở đồ cә ấy mà. Tôi tin là tôi đã tìm đưӧc mấy tay thạo tin rồi. Ờ nhỉ, Ferrer nói nước đôi, lơ đễnh bởi tiếng chuông reo ngoài cӱa. Này, anh ta nói khẽ, có ai đến đấy. Có lẽ là Réparaz đấy.
Réparaz, đó là mӝt khách hàng quen biết. Anh ta kiếm đưӧc rất bӝn tiền trong việc buôn bán nhưng bây giờ thì đã chán ngấy rồi, không phải tất cả mӑi ngày anh ta đều phởn chí đӝc quyền thế giới về môn Smartex. Khi đi mua nhӳng tác phẩm nghệ thuật là nhӳng khoảnh khắc giải trí tốt nhất cӫa anh ta. Anh ta cũng rất thích đưӧc mӑi người cố vấn cho mình, chỉ cho anh
ta biết nhӳng xu hướng nghệ thuật đang thịnh hành, rồi cũng rất thích đưӧc người ta đưa đi giao đãi với giới mӻ thuật. có mӝt chӫ nhật, Ferrer đưa anh ta đi thăm xưởng làm việc cӫa mӝt nhà điêu khắc ở gần cӱa Montreuil, thường thì Réparaz chỉ đi ra khӓi quận VII để vưӧt Đại Tây Dương trên chiếc máy bay riêng cӫa mình, nên rất phấn khích khi đến thăm quận XI. Ôi, kiến trúc ở đây thật đẹp, dân cư ở đây là nhӳng ngoại kiều, thật không thể hình dung nәi, chӫ nhật tôi sẽ đến đây với anh. Tuyệt. Réparaz không mất oan ngày chӫ nhật. Tuy nhiên, anh ta thuӝc vào hạng người hay dao đӝng. Lúc này, anh ta đang vờn quanh mӝt bức tranh lớn màu vàng rất đắt giá cӫa Martinov, tiếp cận, lùi ra, rồi lại tiếp cận, cứ như thế. Đӧi cho mӝt chút, vẫn chất giӑng trầm Ferrer thầm thì nói với Dehalaye, rồi anh sẽ thấy. Tôi sẽ làm cho hắn ta phải cuống lên, bӑn chúng đang rất hâm mӝ bức tranh này đấy.
Thế nào, Ferrer nói và bước lại gần bức tranh Martinov, anh hài lòng chứ? Có cái gì không әn, Réparaz nói, đúng là có cái gì đó không әn thật. Tôi cảm thấy thế, anh thấy đấy, nói như thế nào nhỉ. Tôi biết, tôi biết rất rõ mà, Ferrer nói. Nhưng thành thật mà nói thì không đưӧc hay lắm, còn lâu mới là cái tuyệt nhất trong bӝ sưu tập, nhưng mà dù sao thì cũng chưa phải là đã hoàn toàn kết thúc. Đấy là chưa kể tới mối quan hệ cӫa chúng ta thì Martinov là hơi đắt đấy. Thế à, mӝt người khác nói, tôi thì tôi thấy rõ ràng là có cái gì đó không әn với gam màu vàng này. Tất nhiên, Ferrer nhưӧng bӝ, không tồi, tôi không nói như vậy. Nhưng mà nói gì thì nói vẫn hơi đắt đấy. Nếu tôi ở vào vị trí cӫa anh, thì tôi phải nhìn ngắm nó mӝt chút, anh ta nói tiếp đồng thời chỉ tay vào mӝt tác phẩm gồm bốn hình vuông bằng nhôm sơn màu xanh sáng đặt kề liền nhau, đang xếp ở góc phòng trưng bày. Cái đó thú vị đấy. Chẳng mấy chốc nó sẽ có giá đấy, bây giờ thì cũng đang hấp dẫn đấy. Anh thấy không bức tranh thật sáng sӫa đấy chứ? Hiển nhiên rồi. Thật thần tình.
Thӵc ra thì các tác phẩm đưӧc trưng bày ở đây ít quá, người phө trách xưởng nói. Tôi muốn nói là chúng tôi không thấy có cái gì đáng giá ở đây. Thoạt nhìn thì, Ferrer nói, người ta có cảm giác như vậy đấy. Nhưng ít nhất khi anh về nhà, anh có bức tranh này treo trên tường, anh không bị công kích đâu. Cái đó, tôi sẽ suy nghĩ thêm, Réparaz rảo bước rồi nói, tôi sẽ trở lại cùng với vӧ tôi. Tốt thôi, Ferrer nói với Delahaye, rồi anh sẽ thấy. Chắc chắn là anh ta sẽ tới mua bức tranh Martinov này cho mà coi. Cần phải có
quan điểm đối lập với hӑ, đôi khi phải như vậy. Cần phải tạo cho hӑ ấn tưӧng rằng chính hӑ là nhӳng người suy nghĩ như vậy. Kìa lại có người khác đến đấy.
Bốn mươi tám tuәi, môi dưới mӝt chòm râu, áo vét nhung, mặt tươi tỉnh, Gourdel là tên anh ta, mӝt khung tranh bӑc giấy bao bì kẹp dưới cánh tay, còn người kia là mӝt hӑa sĩ đưӧc Ferrer chăm sóc thường xuyên từ mười năm nay. Ferrer mang lại mӝt bức tranh rồi đi thẳng vào mӝt vài vấn đề.
Cái đó không thật hay lắm, Ferrer nói giӑng mệt mӓi. Cậu nhớ lão Barillenx đã mua cӫa cậu mӝt bức tranh chứ. Hắn ta đã trả lại cho tôi rồi đấy, lão không muốn mua nӳa, cho nên tôi phải giӳ nó đây này. Kurdjin cũng thế, cậu nhớ chứ, anh ta cũng có ý định mua. Thế rồi cuối cùng cũng chẳng mua nӳa, anh ta lại thích mua mӝt bức tranh cӫa mӝt người Mӻ hơn. Rồi cậu vẽ hai bức tranh khә lớn đưӧc trưng bày ở phòng bán tranh, người ta trả mӝt cái giá chẳng nghĩa lý gì, thẳng thừng mà nói thì đó là mӝt bức tranh rất trung bình. Thế à, Gourdel nói miệng cười gưӧng gạo tay bóc lớp giấy bӑc khung tranh, tôi mang tới cái này đây.
Cũng cần phải nói rằng mӝt phần cũng vì lӛi cӫa cậu, Ferrer nói tiếp mắt chẳng thèm nhìn vào bức tranh mới cӫa Gourdel. Cậu hoàn toàn thất bại khi chuyển từ trường phái trừu tưӧng sang tưӧng hình, cho nên tôi buӝc lòng phải thay đәi chiến lưӧc để phù hӧp với khuynh hướng cӫa cậu. Cậu biết là việc thay đәi này đã đặt ra mӝt số vấn đề, người hӑa sĩ thay đәi thường xuyên xu hướng sáng tạo, mӑi người chờ đӧi mӝt cái gì đó là lạ, nhưng rồi người ta thất vӑng. Cậu biết rằng tất cả mӑi bức tranh trở nên nәi tiếng đều nhờ mồm mép cӫa người giới thiệu, việc này đối với tôi còn dễ hơn việc triển khai mӝt cái gì đó mà nó không có mấy thay đәi, nếu không thì thật là tai hӑa. Cậu cũng biết rõ rằng tất cả nhӳng chuyện đó rất là mong manh. Cuối cùng tôi muốn nói với cậu điều này, tӵ bản thân cậu phải nhận ra điều đó thôi. Dù thế nào đi nӳa thì bức tranh này tôi không thể lấy đưӧc, trước hết tôi phải đẩy hết nhӳng cái cũ đi đã.
Mӝt lát, Gourdel bӑc lại qua loa bức tranh, gật đầu chào Ferrer rồi bước ra. Ra đến ngoài đường anh ta gặp Martinov đang đi đến. Martinov là mӝt hӑa sĩ còn trẻ, ánh mắt có vẻ nham hiểm nhưng vô hại, hӑ trao đәi với nhau
vài câu. Cái thằng ngu ấy đang muốn dẹp tôi sang mӝt bên, Gourdel nói. Thế thì tôi hơi ngạc nhiên đấy, Martinov an ӫi. Anh ta biết anh làm gì chứ, anh ta tin tưởng vào anh cơ mà. Thӵc ra thì anh ta cũng có đôi chút khả năng về mӻ thuật đó. Ồ không, tôi không tin, Gourdel nói rồi rảo bước dưới bầu trời nhӧt nhạt, chẳng có ai có năng khiếu thẩm mӻ đâu. Nhӳng người có đôi chút thẩm mӻ thì chỉ có Giáo hoàng và vua chúa thôi. Từ đó tới nay, không còn ai nӳa.
Này, cậu gặp Gourdel ngoài kia đấy chứ, Ferrer nói. Tôi vừa gặp anh ta ngoài đường, Martinov nói, có vẻ không đưӧc tốt lắm nhỉ. Cậu ấy hoàn toàn bị sa sút rồi, Ferrer nói, về góc đӝ kinh tế, thì hoàn toàn thất bại rồi, đó chỉ là mӝt thứ cặn bã cӫa khuynh hướng tưӧng trưng mà thôi. Còn cậu, ngưӧc lại, nhӳng bức tranh cӫa cậu vào thời điểm này là tốt đấy. Có mӝt cha vừa mới qua đây lúc nãy, hắn ta chắc chắn sẽ mua bức tranh khә lớn màu vàng cӫa cậu đấy. Thế cậu có mang theo gì không? Ồ có chứ, Martinov nói, tôi vừa ra mӝt loạt tranh theo thể trӵc. Tôi sẽ đưa mӝt hoặc hai bức tham gia mӝt cuӝc triển lãm. Khoan đã, Ferrer nói, chuyện này là sao? Chẳng có chuyện gì cả, Martinov nói, đúng ra chỉ có chuyện chuẩn bị mở mӝt cuӝc triển lãm tập thể ở khu Nhà kho và chuyện ký quӻ thôi mà. Cái gì, Ferrer hӓi, cậu sắp mở mӝt cuӝc triển lãm ở khu Nhà kho và phải ký quӻ sao? Vậy thì sao, Martinov nói, triển lãm ở đó thì tốt quá đi chứ. Về mặt cá nhân, Ferrer nói, tôi thấy chuyện cậu tham gia cuӝc triển lãm đó nó buồn cười thế nào ấy. Buồn cười lắm, thật đấy, mà lại cả mӝt nhóm tham gia triển lãm nӳa chứ. Cậu tӵ hạ thấp mình quá đấy. Tôi nói cho cậu biết thế. Nhưng mà thôi, cậu cứ làm như cậu muốn vậy.
Ferrer thêm khó chịu khi nghe nhӳng thông tin cӫa Delahaye nói về nghệ thuật phương bắc: các trường phái Ipiutak, Thulé, Choris, Birnik và Denbigh, và các nền văn hóa cá voi cә[7]nối tiếp nhau giӳa năm 2500 và năm 1000 trước công nguyên. Khi Dehalaye so sánh nguyên liệu, nhӳng ảnh hưởng, phong cách, Ferrer có vẻ không chú ý bằng khi có ai đó nói về số doanh thu: câu chuyện về các di vật bị bӓ rơi trong băng giá trên thӵc tế cho thấy là rất có thể, và nếu như nó đưӧc khẳng định là có thӵc, thì cần phải lên đường tìm kiếm thôi. Vậy mà cho tới bây giờ nó vẫn không đưӧc khẳng định là có thật hay không, bởi các thông tin thu lưӧm đưӧc thiếu chính xác vô cùng. Nhưng trong nhӳng ngày cuối cùng cӫa tháng mӝt,
chúng tôi đã quyết định dù thế nào chăng nӳa, Dehalaye nhắc lại, kể cả khi không thu lưӧm thêm đưӧc thông tin gì mới nӳa, điều kiện thời tiết có thể không cho phép khởi hành trước mùa xuân, nhưng vào thời điểm đó, ở vùng vĩ đӝ cao ấy, trời sẽ sáng dần, nhất định chúng ta sẽ lên đường.
8
Vừa mở mắt ra Ferrer đã nhәm dậy: cӱa sә con tàu vẽ mӝt hình tam giác màu xanh – xám nhạt trên thành cabin. Trên chiếc giường ngӫ nhӓ bé chật hẹp, quay lại phía thành tàu đối diện không dễ dàng gì, nhưng mãi rồi cũng quay lại đưӧc, Ferrer chỉ có ba mươi xăng-ti-mét đệm vừa đӫ để nằm nghiêng, nhưng ít nhất thì sáng nay cӫng ấm hơn so với nhӳng buәi sáng khác. Anh ta định thay đәi tư thế nằm cho thoải mái hơn, cӱ đӝng rất khẽ khàng, hy vӑng có thể thay đәi đưӧc nhưng vô ích. Rồi cố gắng mӝt lần nӳa, cũng bằng chừng ấy cӱ đӝng, nhưng mạnh thêm mӝt chút để có phần đệm ấm hơn, rӝng hơn nhưng mӝt cú đẩy bất ngờ hất ngưӧc anh ta ra phía sau: Ferrer ngã nhào ra khӓi giường. Cả sức nặng cӫa cơ thể đè lên vai phải, tưởng trẹo vai, Ferrer run lập cập: mặt sàn lạnh khӫng khiếp còn Ferrer thì trần như nhӝng chỉ trừ chӛ đeo đồng hồ. Anh ta chống cả tay chân gưӧng đứng dậy, đưa tay lên cào mặt da đầy lông lá, rồi leo trở lại giường ngӫ.
Ôi, mӑi sӵ dường như đã thay đәi. Điều không dӵ kiến đã xảy ra. Trên chiếc giường ngӫ lúc này, là cô y tá, mӝt cô gái si tình đang trở mình và tiếp tөc ngáy như sấm rền, giấc ngӫ thật thoải mái. Làn da rám nắng cӫa cô gái lúc này càng sẫm hơn, giàu màu sắc hơn lúc bình thường, mӝt màu xám pha lẫn màu da cam. Hôm qua, chắc cô ta ngӫ dưới đèn UV[8]lâu quá, tӝi nghiệp, và đã uống hơi quá chén mӝt chút. Ferrer nhún vai, người vẫn run lên vì rét, anh ta nhìn đồng hồ, đã sáu giờ hai mươi phút sáng, đành khoác vӝi chiếc áo len.
Ferrer không cảm thấy thoải mái, nói thӵc như vậy, anh ta lo lắng thì đúng hơn. Lần cuối, anh ta đã đến phòng khám Feldman, mӝt bác sĩ chuyên về tim mạch, ông ta đã lưu ý Ferrer phải cẩn thận với mӑi loại thời tiết tới hạn: quá nóng hoặc quá lạnh, đӝ chênh lệch quá lớn, tất cả nhӳng điều đó là cӵc kỳ nguy hại đối với hệ thống đӝng mạch vành. Cậu phải sắp xếp để có mӝt cuӝc sống әn định phù hӧp với thể trạng cӫa cậu, Feldman đã nói như vậy. Không chỉ đoạn tuyệt hoàn toàn với chuyện hút thuốc là đưӧc mà đây là cả mӝt chương trình rèn luyện sức khӓe, vệ sinh trong sinh hoạt cần đưӧc điều chỉnh ngay từ bây giờ. Thế nhưng Ferrer lại không cho ông bác sĩ biết
chuyện đang sӱa soạn mӝt chuyến du ngoạn lên Bắc cӵc. Anh ta chỉ đề cập đến việc sắp tới có mӝt chuyến đi công cán dài ngày, chứ không nói cө thể đi đâu. Đưӧc thôi, ba tuần nӳa hay mӝt tháng cậu trở lại đây, Feldman nói, lúc đó là thời điểm cần phải làm điện tâm đồ cho cậu và tôi sẽ tìm ra nhӳng lý do để buӝc cậu phải chấm dứt nhӳng điều ngu ngốc tai hại. Ferrer nhớ lại nhӳng lời cảnh báo ấy, đӝt nhiên như mӝt cái máy, anh ta đặt tay lên vùng tim, áng chừng để kiểm tra xem tim mình có đập quá nhanh, quá chậm, hay là không đưӧc đều đặn, nhưng không, không thấy gì cả, mӑi chuyện có vẻ êm xuôi cả.
Lúc này Ferrer cảm thấy đӥ lạnh hơn, có vẻ dễ chịu trong chiếc áo len, cái cӫa quý đáng thương cӫa anh ta bị nhiễm lạnh co rút lên tận phía trên. Để xoay trở sao cho khá hơn, anh ta đưa mắt nhìn lên cӱa sә thành tàu. Mӝt tia sáng lấp lánh xa xăm giống như tia nắng mặt trời đӝt ngӝt ló rạng, đang phản chiếu nhӳng cánh én biển chao liệng giӳa nhӳng tầng không. Trong thứ ánh sáng hiếm hoi đó, Ferrer cho rằng con tàu đã đi qua phần đất bị biển lấn sâu nằm phía bên tay trái đảo Southampton xám xịt như mӝt đống cuӝi cũ kĩ: con tàu sắp đi vào con lạch hướng tới vịnh Wager Bay: Ferrer cởi chiếc áo đen và quay trở lại giường nằm.
Có thể nhận xét mӝt cách dễ dàng rằng thân hình cӫa cô y tá Brigitte thật cân xứng, và thật quyết đoán gần như vừa khít với toàn bӝ chiều rӝng cӫa chiếc giường đơn: không còn mӝt chút chӛ trống để có thể chen vào dù chỉ nằm nghiêng. Thôi đành trông cậy vào lòng can đảm vậy, Ferrer chӑn cách tiếp cận chiếc giường bằng cách nhảy bә vào nằm lên người cô y tá bằng tất cả sӵ tế nhị vốn có. Nhưng Brigitte bắt đầu làu bàu có vẻ không ưng thuận lắm. Cô ta lẩn trốn và kháng cӵ, có lúc Ferrer nghĩ là sắp đạt tới mөc đích, rồi do tình cảm hay vì bị đánh lấn từng bước, cuối cùng cô y tá chấp nhận cuӝc tình. Chiếc giường ngӫ chật hẹp đã không cản trở cuӝc tình. Cả hai lần lưӧt kẻ nӑ nằm lên kẻ kia thay đәi vị trí cho nhau, thậm chí phải đảo chiều, nhưng như thế cũng tốt chán. Cả hai thư thã tận hưởng bởi hôm nay là chӫ nhật, hӑ xoắn tít vào nhau, tìm cách chinh phөc nhau và chỉ ra khӓi phòng khi đã mười giờ sang.
Đó là mӝt ngày chӫ nhật, mӝt ngày chӫ nhật thật sӵ, điều này có thể nhận thấy giӳa khoảng không mӝt vài đàn chim cốc bay tản mạn, uể oải không giống như mӑi khi. Khi trở lại đài chỉ huy, anh ta gặp mӝt nhóm thӫy
thӫ đang từ tháp chỉ huy đi xuống, trong đó có người điện báo viên vẻ mặt đang cố giấu sӵ bӵc tức. Nhưng chẳng mấy chốc nӳa anh ta cũng sẽ đạt đưӧc mөc tiêu như Ferrer, đối với anh chàng điện báo viên này, dù thế nào chăng nӳa thì đây chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi, kẻ tình địch sẽ bị loại bӓ, dù hắn đã đạt đưӧc mөc tiêu, hắn sẽ phải từ biệt thuyền trưởng, thӫy thӫ đoàn trên đài chỉ huy, quay lại phòng ngӫ thu dӑn va li rồi cuốn xéo.
Ferrer xuống tàu ở vịnh Wager Bay, nhanh chóng tiếp tөc cuӝc hành trình. Hôm đó, sương mù dày đặc, bầu trời như sà xuống giống như mӝt mái trần thấp lè tè, che lấp tất cả mӑi đỉnh núi xung quanh và cả nhӳng đài tháp cao nhất cӫa nhӳng con tàu, nhưng đồng thời ánh sáng từ nhӳng ngӑn đèn pha cũng rӵc rӥ hơn. Đặt chân xuống đất, Ferrer nhìn con tàu phá băng Des Groseillers như vӥ ra giӳa đám sương mù đó, toàn bӝ thân tàu đồ sӝ như bị hòa tan ngay lối ngoặt rồi nhӳng đường nét cӫa nó cuối cùng cũng biến mất ngay ở chӛ giao nhau.
Ferrer nhanh chóng rời khӓi cảng Wayger Bay: ở đây chỉ có mươi chiếc nhà nhӓ, mái tôn lưӧn song đã hoen rỉ có trә nhӳng cӱa sә ánh lên màu đất son bөi bặm. Nhӳng ngôi nhà nép mình quanh mӝt cӝt cờ dӵng đứng, mӝt vài đường phố sơ sài vừa đӫ để hiểu đây là con phố, lối đi chật hẹp ngoằn ngoèo, mặt đường gồ ghề bởi nhӳng lớp băng bẩn thỉu đӑng lại, nhiều đống tuyết bịt cả lối đi, các ngã ba ngã tư đưӧc trải nhӳng tấm kim loại dày hoặc bê tông, nhӳng mảnh nhӵa lâu ngày cứng queo. Mӝt lá cờ mở căng cứng còng như mӝt đường thẳng băng, tuyết bám đầy theo chiều ngang, lá cờ bất đӝng trên đỉnh cӝt, bóng cӝt đә dài tới tận chân lá cờ hiệu sân bay trӵc thăng.
Sân bay trӵc thăng nhӓ bé này nằm gần bên mӝt ga hàng không nơi Ferrer sẽ lên máy bay để đến Port Radium, trên chiếc máy bay nhãn hiệu Saab 340 Cityliner chở khoảng sáu người nhưng trên khoang lúc này ngoài Ferrer ra chỉ có mӝt kĩ sư không lưu thuӝc trạm khí tưӧng Eureka. Năm mươi phút sau máy bay tới Port Radium, cũng như ở Wager Bay, giống như đám anh em không hӧp nhau, Ferrer gặp nhӳng người hướng dẫn. Hӑ là dân địa phương, mӝt người tên là Angoutretok và người kia là Napaseekadlak, cả hai khoác nhӳng tấm chăn lông đưӧc làm bằng chất liệu synchilla, nhӳng bӝ quần áo lót giӳ nhiệt bằng chất liệu capilène, bӝ quần áo cӫa hӑ có chất phát quang và găng tay đưӧc trang bị hệ thống sưởi ấm. Hӑ là dân thuӝc
huyện Tultoyatuk bên cạnh, dáng người cả hai gần như nhau, nhӓ bé nhưng béo mập, chân ngắn và bàn tay rất nhӓ, gương mặt ngũ giác không có râu, nước da vàng, gò má lồi và tóc cứng, đen và răng thì trắng nhởn. Sau khi làm quen với nhau, hӑ đưa Ferrer về phía lũ chó kéo xe.
Bầy chó săn ngồi chồm hәm phía trong tường rào vây quanh mӝt con đầu đàn, nhӳng con chó lông xồm, bẩn thỉu, màu lông đen ngả màu vàng hoặc vàng, bám đầy chấy rận và tính nết cӫa chúng thật khó chịu. Nếu chúng tӓ ra không mấy thiện cảm với nhӳng người đàn ông này, thì hӑ cũng chẳng yêu quý gì chúng, chẳng bao giờ vuốt ve chúng, lũ chó cũng có vẻ không thân thiện với nhau lắm: nhӳng ánh mắt nhìn nhau chỉ bӝc lӝ sӵ thèm khát và nganh tị. Ferrer nhanh chóng hiểu ra rằng không có con nào trong đám chó này có thể giao lưu đưӧc với con người. Khi mӝt con trong đàn bị gӑi – mӛi con đưӧc đặt cho mӝt cái tên – nó quay lại rồi lập tức quay đi nếu không nhìn thấy cái gì có thể ăn đưӧc. Khi bị buӝc phải làm việc, nó không phản ứng gì cả, người ta thường dùng con đầu đàn để bắt cả đàn làm việc. Con đầu đàn này ý thức đưӧc tầm quan trӑng cӫa nó, cho nên hay lên mặt, chỉ đáp lại tiếng gӑi bằng nӱa con mắt, con mắt nәi giận trong cơn stress, con mắt lơ đễnh cӫa cô thư kí đang ngồi sӱa sang móng tay.
Hӑ trang bị súng carabine Savage 116FFS, ống nhòm 15x45 IS có thiết bị әn định hình ảnh, dao và roi. Con dao cӫa Napaseekadlak thật tuyệt vời, rất mềm dẻo, rất bền và cán xốp cầm trong tay rất vừa khéo. Còn dao cӫa Angoutretok không phải là mӝt con dao truyền thống, đó là mӝt con dao White hunter II Puma, cán bằng Kraton.
Ra khӓi Port Radium, hӑ nhập vào mӝt đoàn diễu hành nhӓ. Đây đó vài tảng băng tuyết sөt xuống, vӥ ra tung tóe trên nhӳng tảng đá giống như mảng bӑt bên thành thùng bia bốc rӛng. Mӑi người nhanh chóng tiến lên, hӑ bị chao lắc mạnh trên chiếc xe trưӧt bởi mặt đất lòi lõm. Ban đầu, Ferrer cố gắng nói vài điều gì đó với nhӳng người hướng dẫn, chӫ yếu là với Angoutretok, anh ta biết chút ít tiếng Anh, còn Napaseekadlak chỉ biểu hiện thái đӝ bằng nө cười mà thôi. Mӝt điều đặc biệt là ở khu vӵc này, khi nói, giӑng nói phát ra, chỉ ngân vang đưӧc mӝt khoảng ngắn rồi bị bóp méo: nhӳng lời nói như bị đóng băng ngay lại giӳa không khí, sau đó chỉ cần chìa bàn tay ra, lập tức nhӳng lời nói ấy rơi xuống, lả tả, lời nói nhẹ nhàng tan ra giӳa nhӳng ngón tay trước khi tắt ngấm trong tiếng nấc.
Muӛi, muӛi nhiều vô kể, tấn công dồn dập nhưng thật may mắn là chúng rất dễ dàng bị giết chết. Trong nhӳng vùng đất như thế này, trên thӵc tế loài vật không hiểu biết gì về con người, chúng không hề cảnh giác với hӑ: bàn tay vung lên, nhưng nhӳng con muӛi không tìm cách lẩn tránh. Giết bao nhiêu cũng không ngăn nәi chúng tiếp tөc cuӝc chiến, hàng chөc con tấn công ào ào, đốt xuyên qua áo quần nhất là vùng gần vai, đầu gối là nhӳng chӛ vải bị kéo căng ra. Giả thiết hӑ muốn chөp mӝt bức ảnh thì có lẽ cũng không sao chөp nәi vì chúng bám dày đặc che lấp cả ống kính. Nhưng hӑ không có máy ảnh, hӑ đến đây không phải để chөp ảnh. Để bịt nhӳng lӛ thoát khí trên chiếc mũ, hӑ vừa bít vừa xua, đập vào hai bên sườn. Mӝt lần hӑ trông thấy mӝt con gấu trắng thấp thoáng ở phía xa nên không có cơ hӝi chiêm ngưӥng đưӧc tính hung dӳ cӫa nó.
Lũ chó chính là nhӳng kẻ mới gây ra lắm chuyện. Chẳng hạn mӝt buәi sáng, Ferrer bị hất tung ra khӓi xe trưӧt rơi tõm vào mӝt đống tuyết, chiếc xe bị mất thăng bằng tiếp tөc chạy loạng quoạng. Đáng lẽ phải dừng lại, thì lũ chó cứ tưởng là chúng đưӧc tӵ do, đồng loạt chạy nháo nhào ra mӑi hướng. Chiếc xe trưӧt cuối cùng bị đә nghiêng rồi kẹt lại ngang đường, lũ chó chịu đứng im ở đầu dây kéo, nhưng ngay lập tức chúng cất tiếng sӫa om sòm cắn xé nhau ầm ĩ. Ferrer cố gắng chống tay đứng dậy phӫi quần áo. Angoutretok tìm cách trấn an lũ chó bằng roi vӑt nhưng chẳng ăn thua gì, càng kích đӝng chúng hăng tiết thêm: thật khó khăn mới làm cho chúng bình tĩnh trở lại, con chó đầu tiên bị đánh đòn phản ứng ngay lập tức cắn vào con bên cạnh, rồi con bên cạnh lại cắn con tiếp theo, cứ thế lũ chó xâu xé lẫn nhau, cuӝc xung đӝt mӛi lúc mӝt lan rӝng, không kiểm soát đưӧc. Phải rất vất vả hӑ mới làm chӫ đưӧc tình hình. Đoàn người lại tiếp tөc lên đường. Ngày hè ở địa cӵc kéo dài, không bao giờ có đêm.
9
Paris đầu tháng hai, Ferrer mất tích, hoàn toàn không để lại dấu vết. Cuối tháng mӝt là nhӳng ngày rất bận bịu. Bị Delahaye giөc giã rất nhiều lần, nhấn mạnh sӵ cần thiết phải tìm bằng đưӧc con tàu Nechilik thì Ferrer mới quyết định tập trung nghiên cứu vấn đề này mӝt cách nghiêm túc. Anh ta đi thăm bảo tàng, nghiên cứu nhiều bӝ sưu tập cá nhân, tham khảo ý kiến các chuyên gia, nhӳng nhà du lịch và nhӳng người làm công tác bảo tồn, Ferrer dần hiểu ra nhӳng vấn đề liên quan đến mĩ thuật vùng địa cӵc nhưng giá trị thương mại cӫa chúng là điều anh ta quan tâm đầu tiên. Nếu nhӳng cә vật và hàng hóa trên con tàu mӝt ngày nào đó có thể thu nhặt đưӧc thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Tại phòng trưng bày cӫa Marais, Ferrer mua hai bức điêu khắc nhӓ, buәi tối anh ta dành thời gian tập trung nghiên cứu mӝt cách rất cẩn thận: mӝt bức tạc người đàn bà đang ngӫ thuӝc vùng Povungnituk và mӝt bức thể hiện mӝt vị thần thuӝc vùng Pangnirtung. Mặc dù anh ta không thông thạo lắm các đường nét trên hai bức điêu khắc này, nhưng ít ra thì cũng hi vӑng là có thể hiểu đưӧc chúng, phân biệt đưӧc phong cách, phân định đưӧc giá trị cӫa chúng.
Lúc này, cuӝc hành quân về phương bắc chỉ mới bắt đầu nhen nhóm mà thôi. Bất chấp mӑi cố gắng, Delahaye vẫn không thể nào thu lưӧm đưӧc đầy đӫ cho phép xác định chính xác vị trí tàu đắm. Trong khi chờ đӧi, Ferrer phải trù tính ngay từ lúc này, nhӳng vấn đề quan trӑng để thӵc hiện cuӝc viễn du. Nhưng chính trong nhӳng ngày mùa đông lạnh giá này lại có nhӳng vấn đề lo ngại mới nảy sinh. Dӵ án trưng bày lần đầu tiên toàn bӝ tác phẩm cӫa Martinov sau khi anh chàng này từ chối không tham gia triển lảm tập thể tại Trung tâm kho hàng, xưởng vẽ cӫa Esterellas bị nước tràn vào làm cho hầu hết mӑi chi tiết sắp đặt bằng chất liệu đường kính trắng tan hết, rồi vө tӵ sát bất thành cӫa Gourdel và nhӳng mối quan tâm lo lắng khác đã làm cho Ferrer ngập đầu vì công việc mà từ trước tới nay chưa bao giờ xảy ra. Anh ta phải đảm đương nhiều việc cùng mӝt lúc: kĩ thuật viên kiêm nhân viên nghiên cứu thị trường. Đó là công việc mà anh ta chưa bao giờ ý thức đưӧc mӝt cách rõ ràng: chỉ vài ngày sau, anh ta phải trả giá.
Buәi tối trong giấc ngӫ, anh ta cảm thấy cơ thể có nhӳng biểu hiện tồi tệ: các cơ quan trӑng yếu như bị tê liệt. Tình trạng này chỉ kéo dài tối đa hai hoặc ba tiếng đồng hồ, trong thời gian đó, nhịp sinh hӑc cӫa anh ta bắt đầu nәi loạn. Nhịp tim, sӵ lưu thông không khí trong phәi, có thể ngay cả sӵ thay đәi cӫa tế bào cũng chỉ đảm bảo ở mức tối thiểu, đӫ để nhận ra, mӝt dạng hôn mê, người bình thường gần như không thể phân biệt đưӧc đó là dấu hiệu cӫa chết lâm sàng. Nhӳng gì đang xảy ra trong cơ thể, Ferrer cũng không ý thức đưӧc nӳa, cũng không cảm thấy đau đớn, cứ như vừa trải qua mӝt giấc mơ và sӵ thật thì anh ta cũng đang mơ. Có lẽ đó không phải là mӝt giấc mơ quá tồi tệ nên khi tỉnh dậy, gương mặt anh ta nom cũng khá dễ chịu.
Càng về sau, khi tỉnh dậy cũng giống như mӑi khi, anh ta không nhận ra cái gì đã xảy ra với cơ thể mình. Mӝt thoáng anh ta không nghĩ rằng mình vừa trải qua mӝt cơn đӝt quӷ nhẹ do khối tâm nhĩ thất gây ra. Ferrer từng đưӧc bác sĩ chuyên khoa về tim kiểm tra cẩn thận. Dĩ nhiên, ông bác sĩ nghĩ ngay tới căn bệnh B.A.V. dạng Mobitz II, nhưng sau mӝt lúc suy nghĩ kĩ hơn, ông chẩn đoán đó là căn bệnh thuӝc cấp đӝ hai dạng Luciani Wenckebarch.
Mặc dù sức khӓe trong tình trạng như vậy, nhưng lúc tỉnh dậy, Ferrer không thấy Victoire ở trong nhà mình nӳa. Hình như đêm qua cô ta không về nhà ngӫ. Nếu đúng như vậy thì cũng chẳng có gì kì lạ cả: thỉnh thoảng cô ta vẫn ngӫ lại nhà người bạn gái, hình như tên là Louise, chỉ có điều là cũng nên giải thích để cho Ferrer yên lòng, dù biết rằng việc đó nhằm mөc đích che giấu ý định thoái thác – Ferrer cũng không phải loại là người có tình cảm thӫy chung, gắn bó keo sơn với mӝt ai đó để có thể tӵ đảm bảo cho mình. Đôi lần thức dậy, Ferrer nhận ra giӳa đêm Victoire sang giường khác ngӫ, mөc đích là để đưӧc ngӫ yên giấc, lý do đơn giản là tránh tiếng ngáy, Ferrer biết đôi khi anh ta có ngáy, như thế thì đành phải chấp nhận thôi. Biết vậy, Ferrer đi vào trong phòng trong xem Victoire có ngӫ ở đó hay không. Không. Tốt. Nhưng rồi, trong nhà tắm cũng không thấy áo quần vệ sinh cӫa cô ta ở đó nӳa, cả quần áo cô ấy treo trong tӫ áo và nhӳng bӝ thường mặc hàng ngày cũng không còn ở đó nӳa, thế thì chắc chắn cô ta đã ra đi thật rồi.
Rồi tận dөng mӑi thời gian rӛi, Ferrer đôn đáo chạy tìm cô ta khắp mӑi nơi, nhưng chưa bao giờ cô ta cho biết nhӳng mối quan hệ bạn bè cũng như gia đình để anh có thể đến thăm hӓi tin tức. Chỉ có mӝt vài quán bar là anh biết rõ đôi lần cô ta lui tới đó: Le Cyclon, Le Soleil và nhất là Le Central, đây cũng là quán bar mà Delahaye thường hay lui tới nhất, nhưng lúc này gặp đưӧc Delahaye cũng không dễ dàng gì, anh ta quá bận bịu với chuyện kiếm tìm thông tin cho dӵ án Nechilik: Mӝt hai lần Ferrer trông thấy Victoire đi cùng người đàn bà trẻ trạc tuәi cô ta tên là Louise, cô này đang hưởng lương tại SNCF[9]theo mӝt hӧp đồng có thời hạn. Ferrer đi khắp lưӧt các quán bar, tìm gặp Louise, nhưng không thu đưӧc tin tức gì cả.
Thế là Ferrer lại trở về với cuӝc sống đӝc thân và rõ ràng là chẳng hay ho gì đối với anh ta cả. Và buәi sáng khi thức dậy lại càng tệ hại hơn trong trạng thái thật tế nhị bởi thiếu vắng nӱa kia, giống như đa phần như nhӳng người đàn ông khác, đại thể phần lớn mӑi buәi sáng trước khi chạy loăng quăng giӳa buồng ngӫ, bếp và nhà vệ sinh. Anh ta cứ phải đi đi lại lại như vậy và may mắn sӵ căng thẳng giảm đi đôi phần: phải kìm nén, cơ thể mất thăng bằng bởi thứ cӫa nӧ luôn dӵng đứng lên đòi hӓi, cuối cùng anh ta phải ngồi xuống với tay lấy tờ báo mở ra đӑc vài trang, rồi bӝ máy cӫa anh ta trở lại trạng thái bình thường.
Không, không tốt cho anh ta mӝt chút nào, tình trạng này không thể kéo dài đưӧc. Nhưng mà không dễ gì ứng biến ngay đưӧc mӝt khi khoảng trống ấy đã trở thành hiện hӳu. Nếu như sӵ hiện diện cӫa Victoire kéo dài chẳng bao lâu, thì nó cũng đӫ để xóa nhòa đi sӵ hiện diện cӫa người đàn bà khác từng chung sống với Ferrer. Anh ta cứ nghĩ là hӑ vẫn còn cả ở đây, tin tưởng mӝt cách ngây thơ rằng nhӳng người đàn bà kia vẫn kiên nhẫn chờ anh. Thế nhưng hӑ đã phạm nhӳng sai lầm, hӑ không thể đӧi chờ, tất nhiên hӑ chỉ biết sống cho chính cuӝc sống cӫa hӑ mà thôi. Cho nên không nên sống đӝc thân quá lâu, cần phải đi tìm. Nhưng mӛi người biết rằng hӑ sẽ không gặp đưӧc ai cả trong mӑi cuӝc kiếm tìm, tốt hơn hết là giả vờ không đi tìm nӳa, làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra.
Tốt nhất là chờ mӝt cuӝc gặp tình cờ, nhưng điều cốt tӱ là không đưӧc tӓ ra là mình đang mong chờ cuӝc gặp đó. Bởi như vậy, như người ta nói nó sẽ sản sinh ra nhӳng phát minh vĩ đại: nhờ cuӝc tiếp xúc bất ngờ cӫa hai sản
vật đưӧc đặt mӝt cách ngẫu nhiên, cái nӑ cạnh cái kia trên bàn trong phòng thí nghiệm. Điều cần thiết là người ta cần có nhӳng sản vật này, hai thứ đó đặt cạnh nhau, ngay cả khi người ta không nghĩ đến việc ráp nối chúng lại với nhau. Và mӝt điều hết sức cần thiết nӳa là người ta phải có hai thứ trong cùng mӝt thời điểm: bằng chứng là, ngay cả trước khi người ta biết rõ giӳa chúng có cái gì đó cần xem xét kĩ. Đó là hóa hӑc, đúng như vậy. Người ta sẽ đi tìm kiếm từ khắp mӑi nơi, đӫ mӑi thành phần phân tӱ với ý định kết hӧp chúng lại với nhau: chẳng đưӧc gì cả. Người ta cho gӱi mẫu sang nhiều nước: vẫn chẳng tìm đưӧc cái gì. Và rồi mӝt ngày, do sơ ý, người ta đẩy hai đồ vật đã nứt lăn lóc nhiều tháng nay trên bàn thí nghiệm, nước bắn lên mӝt cách bất ngờ, ống nghiệm bị đә vào trong mӝt bình thӫy tinh, ngay lập tức phản ứng mà người ta trông chờ từ nhiều năm nay đã xảy ra. Chẳng hạn chuyện nhà bác hӑc đã quên khuấy thí nghiệm cấy vi khuẩn vào trong mӝt ngăn kéo và rồi bӛng mӝt ngày tình cờ ông đã tìm ra thuốc pésniciline.
Sau mӝt thời gian dài kiếm tìm vô vӑng, theo mӝt quy trình giống nhau và trong suốt thời gian đó, Ferrer đã tìm kiếm kĩ càng theo mӝt bán kính mӛi ngày mӝt mở rӝng ra ngoài thành phố Amsterdam, rồi cuối cùng anh ta đã tìm thấy cái mà anh ta cần tìm, chẳng ở đâu xa mà ở ngay nhà cô hàng xóm tên là Bérangère Eisenman. Đây đúng là điều không ngờ tới, nó ở ngay sát cӱa bên cạnh. Dĩ nhiên, chúng ta hãy đừng quên rằng mӝt sӵ gần gũi như vậy không phải luôn luôn có nhӳng điều thuận lӧi, mà nó có cái tốt và có cả cái không hay, vấn đề là chúng ta sẵn sàng cố gắng nghiên cứu sâu sắc từng chi tiết nếu thời gian cho phép. Nhưng bây giờ thì chúng ta không thể tiếp tөc phát triển cái luận điểm này đưӧc nӳa vì mӝt vấn đề thời sӵ cấp bách tәng đӝng viên tất cả trí não chúng ta: Delahaye đã đӝt ngӝt chết mӝt cách rất bi đát.
10
Lũ chó càng ngày càng gây ra lắm chuyện. Mӝt hôm, giӳa hai thấu kính bằng băng trong suốt, đoàn xe gặp mӝt xác đӝng vật thuӝc lớp da dày bị băng phӫ kín không rõ từ bao giờ. Xác chết bị chôn ngập trong băng chỉ lӝ mӝt phần ra ngoài. Xác chết đưӧc lớp băng bảo vệ còn tốt hơn cả nhӳng xác Pharaon ướp trong kim tӵ tháp: cái lạnh đã bảo tồn mӝt cách tuyệt vời tất cả nhӳng gì nó đã giết chết. Bất chấp nhӳng tiếng la mắng, nhӳng ngӑn roi vút lên reo réo cӫa hai người dẫn đường, lũ chó vẫn hào hứng lao về xác ướp đó và ngay lập tức chỉ còn nghe thấy nhӳng tiếng vӥ rách toạc, nhӳng tiếng nhai rau ráu, ngấu nghiến cӫa lũ chó háu đói. Chúng ních chắc bөng, ngấu nghiến hết phần con vật lӝ ra ngoài khối băng mà không chịu chờ cho lớp băng tuӝt ra khӓi xác chết, hӑ đành chờ cho chúng kết thúc bӳa điểm tâm rồi mới tiếp tөc lên đường. Ferrer bắt đầu thấy ngán ngẩm về lũ chó. Nhưng lúc này chưa phải là ngày cuối cùng người ta cần đến công việc cӫa chúng. Hӑ vẫn phải tiếp tөc dấn bước trong băng giá, dưới thứ ánh sáng trắng bất tận nhưng ngày càng tối tăm hơn bởi nhӳng đám mây muӛi ùn ùn kéo tới.
Chúng ta cần nhớ rằng ở đây không có cái gì có thể xóa nhòa đưӧc ánh sáng ban ngày, mặt trời không bao giờ lặn. Lúc nào cũng phải nhìn đồng hồ để biết khi nào cần phải nghỉ ngơi, ngӫ phải bịt mắt lại sau khi dӑn dẹp nền đất căn lều bằng mӝt cánh chim mòng biển. Về lũ muӛi, từng đàn ấu trùng tới hồi trưởng thành từ trong vô vàn ao hồ nhào tới tấn công đốt chích. Không phải là hàng chөc mà hàng trăm ngàn con trong mӝt mét khối, chúng tấn công ào ạt, chui vào cả mũi, vào miệng, vào tai và cả mắt cӫa anh còn anh phải bước thật dài, nhẫy cẩn trên mặt băng để xua đuәi chúng. Theo lời khuyên cӫa Angoutretok, trái với nhӳng lời căn dặn cӫa bác sĩ Felman, Ferrer phải hút thuốc mặc dù mùi thuốc lá kèm với cái giá lạnh vô cùng, làm cho Ferrer buồn nôn rất khó chịu. Nhưng đó là phương tiện duy nhất để đẩy lùi lũ côn trùng: cần phải hút thôi và trong cơn tức giận anh hút liên tөc hai ba điếu liền.
Hӑ vẫn dấn bước trên con đường nhӓ có thể nhận ra đưӧc nhờ các mốc đánh dấu, cứ khoảng hai hoặc ba kilomet, bằng mӝt mô đất hoặc đá dӵng lên. Nhӳng cӝt mốc tuy đơn giản, nhưng chúng đưӧc nhӳng người thám
hiểm tới đây đầu tiên, thường là nhӳng người dân địa phương, xếp lên để đánh dấu lối hӑ đã đi qua, nhӳng cӝt mốc đánh dấu ban đầu ấy đưӧc dùng làm điểm xác định thường bằng đá, nhưng đôi khi người ta cũng trông thấy mӝt vài cӝt mốc đưӧc đánh dấu bằng nhӳng đồ vật chứng minh nhӳng hoạt đӝng, nhӳng công việc đã diễn ra ở trong vùng: vài dөng cө đã cũ, phần còn lại cӫa thức ăn bị cháy, vũ khí hӓng và thậm chí đôi khi cả nhӳng tài liệu hoặc cả nhӳng bӝ xương. Có lần hӑ còn nhìn thấy hốc mắt cӫa mӝt hӝp sӑ có nhӳng cӑng rêu nước mӑc xuyên qua.
Cứ như vậy đoàn người tiếp tөc vưӧt qua hết cӝt mốc này đến cӝt mốc khác, nhưng tầm nhìn càng ngày càng hạn chế, bởi vì muӛi không chỉ là yếu tố duy nhất làm cho không gian xung quanh tối sầm lại, mà lúc này là sương mù đã bắt đầu phát huy tác dөng. Sương mù không chịu hài lòng với việc làm cho không khí trong suốt ở khắp xung quanh vẩn đөc lên, che lấp mӑi thứ mà sương mù còn có thể phóng đại mӑi thứ mӝt cách đáng kể. Trái ngưӧc với nhӳng vật thể nhìn thấy trong kính chiếu hậu, trông chúng lúc nào cũng gần hơn khi ở giӳa không gian mênh mông mӝt màu trắng xóa, nhìn nhӳng cӝt mốc màu nâu sẫm, ảo giác làm cho hӑ tưởng chúng rất gần ngay trong tầm tay, ấy thế mà phải mất mӝt tiếng đồng hồ sau xe trưӧt mới tới nơi.
Vө xác chết cho chúng ta thấy vì sao nhӳng người dẫn đường lúc nào cũng nhẫn nại đến như vậy. Sau khi nghỉ ngơi tại trạm dừng chân đầu tiên kể từ lúc rời Port Radium, tại nhà mӝt người cho thuê xe trưӧt, hӑ đã đәi toàn bӝ số chó lấy ba chiếc xe rồi cӝt nhӳng chiếc rơ-móc nhẹ vào nhӳng chiếc xe đó. Hӑ tiếp tөc tiến lên phía trước, tiếng đӝng ràn rạt phát ra từ chiếc xe trưӧt Veslosolex chẳng ăn nhằm gì với cái im lặng bắc cӵc. Để lại trên mặt bөi tuyết phía sau lưng hӑ là rất nhiều vết dầu mӥ, hӑ tiếp tөc cuӝc hành trình ngoằn ngoèo giӳa nhӳng khối băng tuyết, đôi khi vẽ ra nhӳng đường vành khuyên dài để tránh nhӳng đống tuyết ngáng ngang đường, hӑ không gặp bất cứ mӝt ngӑn cây cũng như không có mӝt cӑng cӓ nhú lên, không bao giờ có đưӧc nhӳng thứ đó. Vạn vật đã không mấy thay đәi ở khu vӵc này từ nam mươi triệu năm qua. Nơi đây đã từng có nhӳng cây dương, sồi, nho và cả cây cù tùng nhưng tất cả nay đã không còn nӳa. Nếu như hôm trước, xa về phía nam mӝt chút, thỉnh thoảng người ta còn nhìn thấy mӝt ít địa y, mӝt lớp thạch thảo, mӝt cây bulo già cӛi hoặc cây liễu thấp tè, mӝt cây thuốc phiện vùng bắc cӵc, mӝt gốc nho mӑc hoang dại, nhưng bây
giờ thì chẳng còn cái gì nӳa, không mӝt nhánh thӵc vật nào hiện diện ra trước mắt hӑ.
Các bӳa ăn cӫa hӑ đều bằng thứ thức ăn chế biến sẵn, tiêu chuẩn mӛi bӳa như nhau, cân đối do mӝt cơ sở nghiên cứu sản xuất. Để cải thiện bӳa ăn, hӑ nhặt mấy con cá angmagssaets cho vào chảo rán. Mӝt khối nước đá lớn đә sập xuống biển, mӝt con sóng cuӝn lên hất tung lên bờ rất nhiều cá giống như cá xác-đin; hӑ cố gắng xua lũ chim mòng biển đang lâm le bә nhào xuống cướp cá; chúng bay rào rào kêu inh ӓi phía trên nhӳng con cá angmagssaets. Mӝt lần khác, Napaseekadlak phóng lao bắt đưӧc mӝt con hải cẩu. Hӑ biết thịt hải cẩu ăn đưӧc, gần giống như thịt lӧn ở vùng địa cӵc: thịt hải cẩu đưӧc nướng lên, chần chín, ninh nhừ, máu cӫa chúng có vị lòng trắng trứng làm món dồi ăn cũng tàm tạm, mӥ cӫa hải cẩu dùng thắp sáng, sưởi ấm, da cӫa chúng thuӝc đi để làm nhӳng tấm vải che lều tuyệt vời, xương hải cẩu làm kim, gân làm chỉ, thậm chí ruӝt cӫa chúng, người ta còn làm nhӳng chiếc màn gió trong suốt xinh xắn cho cӱa sә ngôi nhà. Còn linh hồn hải cẩu, mӝt khi con vật đó chết đi, thì nhập vào trú ngө trên đầu mũi lao. Vì lẽ đó, trong khi Angoutretok chuẩn bị mӝt đĩa gan hải cẩu nấu với nấm trên chiếc lò than, Napaseekadlak đặt mũi lao bên cạnh lò than để cho linh hồn cӫa nó không bị lạnh giá. Trong bӳa ăn, Angoutretok dạy cho Ferrer nói mӝt số từ trong mӝt trăm năm mươi danh từ liên quan đến tuyết thuӝc thә ngӳ iglulik, từ loại tuyết đóng thành lớp cứng đến thứ tuyết vөn mӛi khi bước trên lớp tuyết lạnh đó lại vang lên nhӳng tiếng kêu lạo xạo, tuyết cứng và lưӧn sóng, tuyết mịn và tơi như bөi, tuyết ẩm ướt và đặc quánh và tuyết bị gió cuốn lên.
Càng đi về phương bắc, trời càng lạnh giá, điều này là chuyện bình thường. Bөi tuyết rơi bám trên từng sӧi lông trên mặt Ferrer: tóc và lông mi, râu và lông mày, bám cả vào trong hốc mũi. Ferrer và nhӳng người hướng dẫn đeo kính đen, hӑ men theo quanh nhӳng miệng hố tròn do nhӳng tảng thiên thạch rơi xuống tạo thành, nhӳng người dân ở đây từ lâu đã biết khai thác từ nhӳng cái hố thiên thạch đó lấy sắt để rèn vũ khí. Lại mӝt lần nӳa, hӑ nhìn thấy phía xa mӝt con gấu đӝc thứ hai giӳa lớp băng, nó đang dán mắt vào cái lӛ thӫng lấy không khí do hải cẩu khoét ra. Do quá chăm chú với cái lӛ hәng đó, con gấu trắng không biết có người đang đi tới nhưng Angoutretok với tất cả sӵ khôn khéo tinh ranh cần thiết đã hướng dẫn cho Ferrer biết cách đi như thế nào trong trường hӧp bất ngờ gặp phải gấu. Nên
nhớ anh không bao giờ đưӧc bӓ chạy: gấu chạy nhanh hơn anh. Tốt nhất đánh lạc hướng ánh mắt cӫa nó bằng cách ném mӝt thứ áo quần gì đó nhiều màu sắc sang bên cạnh. Nếu không tránh đưӧc cuӝc đối đầu, thì trong tình cảnh tuyệt vӑng nên nhớ rằng gấu là loài thuận tay trái: hãy quên chuyện phòng thӫ đi, tốt nhất tiếp cận con vật từ phía nó chậm chạp nhất. Nghe tưởng đó là chuyện hảo huyền nhưng đúng là như vậy.
11
Lễ tang cӫa Delahaye không đưӧc tә chức, chỉ có lễ ban phước lành tại mӝt nhà thờ nhӓ trong vùng Alesía, vào cuối buәi sáng. Khi Ferrer đến nơi thì đã thấy rất đông người tө tập ở đó nhưng không nhận ra người quen nào cả. Ferrer không nghĩ Delahaye lại còn đӫ cả bố mẹ và bạn bè đông đến như vậy, nhưng có thể đó là nhӳng con nӧ cũng nên. Kín đáo, Ferrer tìm mӝt chӛ trống trong góc nhà thờ, không phải trong dãy ghế cuối cùng cũng không phải phía sau mӝt cây cӝt mà là dãy ghế gần phía cuối và không quá xa cây cӝt.
Nhӳng người này vừa mới tới nơi, hӑ đang đi lại lӝn xӝn, và mӝt số khác đang đi vào: để tránh nhӳng ánh mắt, Ferrer cúi xuống ngắm nhìn đôi giày cӫa mình nhưng sӵ thanh thản cӫa anh thật ngắn ngӫi: len lӓi ngưӧc dòng người đang đi vào, mӝt người đàn bà xanh xao má trũng sâu đến gặp Ferrer: vӧ góa cӫa Delahaye. A, Ferrer thốt lên, anh ta không biết và cũng không bao giờ nghĩ rằng Delahaye đã lấy vӧ. Tốt thôi, anh ta đã có vӧ, thế thì tốt cho anh ta thôi.
Tuy nhiên, vӧ Delahaye cho biết cô ta và Delahaye từ sáu năm nay đã ly thân, ai ở nhà nấy, mặc dù nhà cӫa hai người rất gần nhau, đúng thế. Dù đã thӓa thuận với nhau mӝt cuӝc sống như vậy, nhưng cứ ba ngày mӝt lần hӑ gӑi điện cho nhau và trong trường hӧp ai đó vắng nhà thì mӛi người đều có chìa khóa cӫa nhau để đến chăm sóc cây cảnh trồng trong nhà và nhận giúp thư từ. Nhưng mӝt tuần nay, cô ta lo lắng không biết vì sao Delahaye lại im lặng, sau nhiều lần đắn đo, cô quyết định đến nhà anh ta và trông thấy thi thể Delahaye nằm còng queo giӳa tấm thảm trong phòng tắm. Đó là mӝt vấn đề đáng lưu tâm đối với nhӳng người sống đӝc thân, cô ta kết luận kèm theo ánh mắt vẻ dò hӓi. Đúng thế, Ferrer tán thành. Rồi bà vӧ Delahaye, cô ta nói tiếp, đã đưӧc nghe rất nhiều lần anh ấy nói về Ferrer, Louis-Philippe rất quý mến anh, cô ta khẩn thiết đề nghị Ferrer đến ngồi bên cô ta ở hàng ghế đầu tiên. Rất sẵn lòng, anh ta nói mӝt cách giả dối, và miễn cưӥng đi đến. Nhưng đây là lần đầu tiên, Ferrer thú nhận, anh ta dӵ mӝt cuӝc hành lễ như thế này, đây là dịp tốt để anh ta mөc kích mӝt đám tang diễn ra như thế nào.
Thӵc tế thì cũng khá đơn giản. Quan tài để trên cái mễ, có chân ở phía trước. Phía cuối quan tài, có đặt mӝt vòng hoa. Vị cha cố đứng ở phía sau cánh trái và người đón khách đứng ở mặt trước cánh phải – thân hình vạm vӥ, mặt đӓ au cӫa ông bác sĩ tâm lý, giӑng nhӓ nhẹ, ăn vận quần áo đen, tay phải cầm que rảy nước phép. Rồi có nhiều người đến dӵ lễ. Khi gian chính nhà thờ gần như chật cứng im phăng phắc, cha cố cất giӑng đӑc vài câu cầu nguyện, tiếp theo là sӵ tӓ bày lòng thành kính đối với người quá cố, sau đó, cha cố mời mӑi người vào viếng, hӑ lần lưӧt đi đến kính cẩn nghiêng mình trước linh cӱu, rồi cầm que vẩy nước phép cầu cho vong hồn người quá cố đưӧc bình an, mӑi người có thể tӵ chӑn cách tӓ bày lòng thương tiếc. Buәi lễ diễn ra khá ngắn ngӫi và chẳng mấy chốc đã kết thúc, Ferrer chăm chú theo dõi đám người đang cúi đầu trước linh cӳu cӫa Delahaye, thì người vӧ cӫa người quá cố cấu vào tay, hất cằm chỉ vào cái quan tài đồng thời đôi lông mày nhíu lại. Ferrer nhíu mày tӓ vẻ không hiểu gì cả, người đàn bà góa lại phải nhíu mày và hất cằm chỉ vào quan tài mӝt lần nӳa, đồng thời bấm vào cánh tay anh ta mạnh hơn và đẩy mạnh anh ta lên phía trước. Hình như đến lúc Ferrer cũng phải làm như mӑi người. Anh ta đứng lên, mӑi người dồn mắt về phía anh ta, Ferrer tӓ ra lúng túng nhưng cố trấn tĩnh dấn bước lên. Anh ta không biết phải làm như thế nào, bởi chưa bao giờ anh ta phải làm như vậy.
Người chӫ lễ trao cho Ferrer cái que rảy nước phép, Ferrer cầm lấy mà không biết chắc chắn là mình đã cầm đúng chiều chưa, rồi đưa que vảy nước phép lên không theo mӝt nguyên tắc lễ nghi nào cả. Anh ta vung que làm mӝt vài vòng tròn và bán khuyên, mӝt tam giác, mӝt dấu thập ngoặc Saint-Andre, rồi đi vòng quanh quan tài trước nhӳng cặp mắt kính kinh ngạc cӫa mӑi người. Anh ta không biết khi nào phải dừng lại và không biết phải dừng lại như thế nào cho tới khi đám đông bắt đầu cất tiếng rì rầm và rồi người chӫ lễ phải nắm lấy tay áo kéo anh ta về chӛ ngồi ở hàng đầu. Giật mình và ngạc nhiên bởi cú kéo tay khá mạnh cӫa người chӫ lễ, Ferrer nâng cao cái que vảy nước phép trên cao, đӝt ngӝt buông ra: cái que rơi xuống đөng vào nắp quan tài bật lên mӝt tiếng kêu khô khốc.
Về sau vì quá xúc đӝng, lúc từ trong nhà thờ bước ra, Ferrer nhìn thấy người góa phө cӫa Delahaye đang trò chuyện với mӝt người đàn bà trẻ: Thoáng vài giây, Ferrer nhận ra đó là Louise. Mặc dù cả hai đứng nói
chuyện quay lưng về phía Ferrer, nhưng nhận ra anh ta đang nhìn hӑ nên cả hai chuyển ánh mắt về phía anh ta. Ferrer phải luồn lách giӳa đám đông đứng thành từng nhóm nhӓ như từ trong rạp hát đi ra, tìm lối đi về phía hӑ. Mӑi người quay lại nhìn bởi ai cũng nhận ra người diễn viên cӫa cảnh cầm que rảy nước ban phép ban nãy.
Ferrer im lặng nên Louise chӫ đӝng nói ngay rằng cô ta chẳng có tin gì về Victoire cả. Người góa phө, cũng không đưӧc vài lời thăm hӓi, nên bӝc bạch rằng Delahaye ra đi là cả mӝt khoảng trống lớn không có cái gì có thể bù đắp nәi. Buәi lễ kết thúc, cô ta nói mӝt cách hứng khởi, hình như là có cái gì đó không thể tưởng tưӧng nәi là từ nay Delahaye không bao giờ trở lại nӳa. Trong khi chờ đӧi hoàn tất thӫ tөc khai tӱ, hӑ hẹn gặp nhau lần nӳa ngoài nghĩa trang trong tiệc trà. Cứ như bị triệu tập lên công sở, Ferrer không thể lẩn tránh đưӧc. Đó là chuyện mai táng còn bây giờ phải trở về nhà ở phố Amsterdam cái đã rồi trở lại dӵ tang lễ mai táng sau. Mӝt chiếc phong bì lớn màu be nhét dưới cӱa ra vào, thường thì người ta đưa thư không đến vào giờ này, cho nên dấu hiệu ngày càng làm cho Ferrer lo lắng thêm gấp bӝi. Trên phong bì ghi rõ ràng tên và địa chỉ người nhận, còn nӝi dung thư là nhӳng thông tin liên quan đến con tàu Nechilik.
Qua 118 đӝ kinh tuyến và 69 vĩ đӝ bắc, cách vòng cӵc Bắc về phía bên kia khoảng hơn mӝt trăm kilomet và chưa đến mӝt nghìn dặm tính từ cӵc Bắc có lӵc hấp dẫn, xác thuyền đắm ở vịnh Amundsen, tại điểm giới hạn cӵc Bắc cӫa vùng đất Tây-Bắc. Thành phố gần nhất là Port Radium. Ferrer kiểm tra lại thông tin trên tập bản đồ.
Đối với vùng cӵc, mӛi người có thể có cách xác định riêng, đó là nhӳng vùng đất rất khó thể hiện cө thể trên bản đồ. Không bao giờ người ta có thể tìm thấy đưӧc vị trí chính xác cӫa chúng. Từ hai vị trí chỉ chӑn lấy mӝt thôi. Trước hết người ta có thể tạm coi nhӳng địa cӵc là ở nhӳng điểm cao nhất và thấp nhất cӫa hình cầu cә điển, đường xích đạo đưӧc coi là đường trung tuyến nằm ngang. Nhưng ở vùng đất này mӑi đặc điểm địa hình đưӧc nhìn từ mӝt mặt cắt nằm ngang, do đó không thể nào nhìn thấy đưӧc đầy đӫ, kết cөc, nhӳng thông tin thu lưӧm đưӧc không thӓa mãn yêu cầu. Người ta có thể nhìn các địa cӵc từ phía trên chẳng hạn như từ mӝt máy bay: nhӳng bản đồ địa hình như vậy đã xuất bản. Nhưng cách diễn đạt về các châu lөc lại không theo thông lệ bình thường cho nên rất khó hiểu, thế nên, loại bản đồ
này cũng không có giá trị thӵc tiễn cao. Tóm lại, vị trí địa lý các vùng địa cӵc vẫn rất khó hình dung theo mặt phẳng nằm ngang. Địa hình vùng địa cӵc bắt buӝc người ta phải suy nghĩ, tưởng tưӧng đồng thời với rất nhiều khoảng cách và chiều kích thước khác nhau, nó đòi hӓi phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức tạp trong việc xuất bản bản đồ. Tốt nhất là phải có mӝt quả địa cầu, nhưng lúc này Ferrer lại không có. Cuối cùng anh ta đã tìm ra đưӧc nhӳng đặc điểm cӫa vùng này: rất xa, rất trắng, rất lạnh. Sau mӝt hồi suy nghĩ, ít nhiều đem lại cho Ferrer mӝt số kết quả về vùng địa cӵc, bây giờ là lúc phải quay lại nghĩa trang. Ferrer ra khӓi nhà, mӝt mùi thơm xông vào mũi: mùi nước hoa cӫa người láng giềng cùng cầu thang.
Bérangere Eisenmann là cô gái cao lớn, tính tình vui nhӝn, rất thích dùng nước hoa, đúng là cô ta rất vui tính, và hơi lạm dөng nước hoa: Ngay hôm Ferrer để ý tới cô ta, chỉ trong vòng vài giờ, mӑi việc xem ra đã “xuôi chèo mát mái”. Cô ta sang nhà Ferrer uống vài ly rưӧu, rồi cả hai ra phố ăn tối. Cô ta nói tôi để cái túi lại đây có đưӧc không? Anh ta nói đưӧc chứ, cứ để túi cӫa chị lại đây đi. Rồi buәi tối vui vẻ đầu tiên qua đi, Ferrer bắt đầu cảm thấy nghi ngại: nhӳng người đàn bà quá dễ gần gũi thường gây ra nhӳng vấn đề rắc rối, nhất là nhӳng người láng giềng cùng chung cầu thang. Không phải do các bà ấy hay thường xuyên lui tới, điều này nếu xảy ra thì có lẽ cũng tốt thôi, nhưng cái chính anh ta lại quá chӫ đӝng thăm hӓi hӑ, dù đôi khi miễn cưӥng. Tất nhiên, mӑi sӵ đều có lí do cӫa nó. Đương nhiên, cần phải biết rõ người ta cần cái gì.
Nhưng trước hết, ngay lập tức, vấn đề nước hoa đưӧc đặt ra. Extatics Elixir là loại nước hoa có mùi chua và hắc khӫng khiếp, mӝt thứ mùi đặc biệt pha trӝn hương loại hoa cam cùng với mùi cống rãnh, làm cho anh ta ngạt thở. Mӛi lần Bérangère sang nhà, ngay sau đó anh ta phải lau rӱa nhà rất kĩ càng. Phương thuốc tương đối hiệu nghiệm khi mùi nước hoa như lặn vào trong da thịt, là phải thay ga trải giường, khăn tắm, ném tất cả quần áo và máy giặt – chứ không vứt vào trong giӓ đӵng đồ bẩn vì nếu làm như vậy, mùi nước hoa sẽ nhanh chóng lây lan sang tất cả mớ quần áo bẩn trong giӓ. Ferrer cũng mất rất nhiều thời gian để thông gió cho căn phòng, phải mất rất nhiều giờ sau, thứ mùi đặc biệt đó mới tan đi, nhưng thӵc tế thì cái mùi đó không bao giờ tan hết đưӧc. Mùi nước hoa đó hình như mạnh đến nӛi chỉ cần Bèrangère nhấc máy gӑi là mùi hương có thể chạy theo đường dây tràn đến chiếm lĩnh cả căn phòng.
Trước khi gặp Bèrangère Eisenmann, Ferrer chưa bao giờ biết loại nước hoa Extatics Elixir này tồn tại. Lúc này đây, mùi nước hoa vẫn sӵc nức suốt đoạn hành lang đi qua để tới chân cầu thang máy, chӛ tấm thảm chùi chân: mùi hoa thoát ra từ lӛ tra chìa khóa, nhӳng khe hở bên mép cӱa, mùi hương đeo đuәi anh ta tới tận nhà. Tất nhiên Ferrer có thể gӧi ý cho Bèrangère thay đәi loại nước hoa khác nhưng lại ngại, và tất nhiên anh ta có thể tặng cho cô mӝt loại nước hoa mình ưa thích nhưng nhӳng lập luận trái chiều làm cho anh ta thay đәi ý định, làm thế thì rồi lại quá gắn bó với cô ta, phiền toái lắm, a, đúng rồi, lạy Chúa, Bắc cӵc muôn năm.
Thôi, phải đến nghĩa trang Auteuil cái đã. Đó là mӝt nghĩa trang nhӓ vuông vức, phía tây có mӝt bức tường bao kín mít và phía bắc, phố Claude Lorrain, với tòa công sở đồ sӝ. Hai phía còn lại là nhӳng tòa nhà, mӑi cӱa sә đều hướng ra phía nghĩa trang. Đây không phải là nhӳng khu nhà sang trӑng như nhӳng ngôi nhà trên nhӳng con phố đẹp đẽ, mà đây là nhӳng dãy nhà thuӝc loại HLM[10], cӱa sә đưӧc cải tạo lại, từ nhӳng cӱa sә ấy, trong sӵ im lìm cӫa khu nghĩa địa, nhӳng mөn vải bay như nhӳng mảnh khăn, rơi xuống, nhӳng tiếng ồn phát ra từ khu nhà bếp hoặc phòng tắm, ống thoát nước, nhӳng tiếng la hét om sòm cә vũ nhӳng trò chơi điện tӱ, tiếng cãi cӑ và la hét cӫa con trẻ.
Mӝt giờ trước khi nhӳng người đến dӵ lễ mai táng có mặt, ở đây không đông người như ở nhà thờ Alésia, mӝt người đàn ông đi đến gặp bà gác cӱa cӫa mӝt trong nhӳng dãy nhà ở đây, phía lối vào trên phố Michel-Ange. Người đàn ông cố đứng thẳng người, nói năng kiệm lời, gương mặt vô cảm và lạnh băng, anh ta mặt mӝt bӝ comle xám còn mới. Tôi không muốn đến xem căn phòng trên tầng năm, nghe nói người ta muốn cho thuê, anh ta nói, chính tôi đã gӑi điện cho bà hôm thứ hai nói sẽ đến xem căn phòng đó. A, vâng, bà gác cәng nhớ lại, tên ông là Baumgarten phải không? …tner, người đàn ông chӳa lại, Baumgartner. Tôi có thể lên xem căn phòng đưӧc không? Tôi không làm phiền bà chứ, tôi lên xem qua rồi sẽ quyết định có thuê hay không. Bà gác cәng trao chìa khóa căn phòng cho anh ta vài thứ và toàn màu sẫm, cũ rích, mӝt cái ghế băng nhӓ hiệu Clic-Clac có nhӳng vết rạch màu nâu sӫi lên chứng tӓ chiếc ghế làm bằng chất liệu đáng ngờ, mӝt chiếc bàn bằng foocmica sứt mẻ, rèm cӱa cứng quèo bám đầy bөi dầu mӥ
và nhӳng tấm ri đô màu xanh dấp dính. Điều lạ là người đàn ông bước qua căn phòng mà không nhìn bất cứ thứ gì trong phòng, đi thẳng về phía cӱa sә. Anh ta mở hé cӱa, đứng lấp ló phía sau cánh cӱa, về mӝt bên, từ bên ngoài không ai có thể thấy đưӧc, anh ta đứng khuất phía sau tấm ri đô. Từ vị trí đó, anh ta chú ý quan sát quang cảnh cuӝc mai táng, sau đó lặng lẽ quay xuống gặp bà gác cәng, trả lời bà là không, căn phòng này không phù hӧp với tôi, tối và ẩm ướt quá. Bà gác cәng cũng thừa nhận như vậy, có lẻ phải tu sӱa lại thôi.
Thật tiếc, Baumgartner lai nói, bởi vì anh ta muốn tìm mӝt căn hӝ ngay trong khu chung cư này, người giới thiệu mô tả rất khác so với căn hӝ anh ta vừa xem. Bà gác cәng không phải là người khó tính, ưa kiếm chuyện, chúc anh ta may mắn tìm đưӧc căn hӝ như ý. Baumgartner quày quả bước đi xem mӝt căn phòng khác nằm đầu đại lӝ Exelmans. Đương nhiên, Baumgartner không thuê căn phòng ở phố Michel-Ange nӳa.
12
Hӑ phát hiện ra vị trí con tàu đắm Nechilik vào mӝt buәi sáng đẹp trời, từ mӝt khoảng cách khá xa, mӝt khối nhӓ màu đen hoen rỉ như mӝt đám nhӑ nồi nhô lên giӳa lớp băng trắng lóa lô nhô nhӳng mӓm đá lӝ thiên, như món đồ chơi cũ vӥ nát đặt giӳa tấm thảm rách bươm. Hình như con tàu bị kẹt trong lớp băng dưới chân mӝt vách đá trơ trӑi, mӝt phần bị tuyết phӫ nhưng mӝt bên sườn cӫa vách đất ấy sөt xuống tạo thành mӝt đoạn vách trần trөi. Nhìn từ khoảng cách này, xác đắm có vẻ đưӧc bảo quản không đến nӛi tồi lắm: đưӧc giӳ chặt bằng nhӳng sӧi dây neo thẳng căng, hai chiếc cӝt buồm nhӓ vẫn nguyên vẹn đứng thẳng mӝt cách kiên nhẫn, và khoang lái ở phía sau hình như còn khá nguyên vẹn đӫ để chắn che nhӳng mối đe dӑa hãi hùng. Chúng ta cần lưu ý rằng trong nhӳng vùng đất như thế này, đôi mắt thường hay bị ảo giác đánh lừa. Cho nên, lúc đầu hӑ hoài nghi con tàu này là mӝt bóng ma, Ferrer phải chờ cho tới khi chỉ còn cách con tàu mӝt quãng ngắn mới dám chắc là mình đúng.
Ảo ảnh thӵc sӵ ngӵ trị dưới các tầng khí hậu nơi đây. Hôm qua còn khӫng khiếp hơn, mӑi người dấn bước, cặp mắt đưӧc bảo vệ bằng các cặp kính đen, không có nhӳng cặp kính đen đó thì mặt trời vùng bắc cӵc sẽ đә đầy cát vào mắt các bạn và phӫ lên đầu đầy nhӳng bөi chì, rồi cũng mặt trời đó đӝt nhiên đưӧc nhân ra thành nhiều mặt trời khác giӳa nhӳng đám mây băng giá, đó là nhӳng mặt trời ảo: Ferrer và nhӳng người dẫn đường bị rơi vào trong tình cảnh có nhӳng năm mặt trời cùng mӝt lúc chiếu sáng lóa lên đầu mình, năm mặt trời xếp thành mӝt hàng ngang, trong số nhӳng mặt trời đó, mặt trời thật – cùng với hai vì tinh tú phө khác xếp theo chiều dӑc với mặt trời thật. Hiện tưӧng này chỉ kéo dài khoảng mӝt giờ trước khi mặt trời thật trở lại đơn đӝc.
Từ mӝt khoảng cách khá xa, hӑ nhìn xác tàu đắm, Ferrer ra hiệu cho hai người dẫn đường im lặng và đi chậm lại cứ như trước mặt hӑ là mӝt sinh vật sống, hay ít ra là mӝt con gấu trắng đang chӵc nhảy bә vào hӑ. Hӑ hãm phanh chiếc xe trưӧt mӝt cách dứt khoát rồi tắt máy áp sát vào thân tàu, hӑ thận trӑng như người gӥ mìn, nắm chặt gi-đông đẩy xe trưӧt lên áp xe vào lớp vӓ kim loại cӫa con tàu. Hai người địa phương đứng cách Nechilik mӝt
quãng, với hӑ, việc tiếp cận con tàu là mӝt việc rất hệ trӑng, còn Ferrer leo lên thân tàu.
Đây là mӝt con tàu buôn cở nhӓ, dài hai mươi ba mét, có mӝt tấm đồng tán đinh ri-vê ở dưới tay lá, ghi rõ năm khánh thành con tàu (1942) và địa điểm đăng kí (Saint John, New Brunswick). Thân tàu và dây chão hình như còn khá tốt, lớp băng bao phía ngoài bị vӥ ra như mӝt mớ gӛ mөc. Ferrer đi vào ca bin đưa mắt nhìn lướt qua buồng lái: cuốn sә nhật kí hành trình đang mở rӝng, mӝt cái chai rӛng, mӝt khẩu súng đã hết đạn, quyển lịch năm 1957 in hình mӝt cô gái khá hở hang, hình ảnh cô gái hiện lên sӵ nóng bức dӳ dӝi và làm tăng thêm nhiệt đӝ môi trường lúc này là khoảng hai mươi lăm đӝ âm. Nhưng trang giấy cuốn nhật kí hành trình bị băng dính chặt không thể nào lật mở đưӧc. Qua cӱa kính buồng lái mà bốn mươi năm nay không mӝt ánh mắt nào nhìn qua đó, Ferrer liếc nhìn quang cảnh xung quanh tàu mӝt màu trắng toát. Rồi anh ta bước xuống tham dò hầm tàu, ngay lập tức nhìn thấy cái mà anh đang cần tìm.
Tất cả hình như vẫn nguyên vẹn ở đó, giống như dӵ đoán, chúng đưӧc lèn chặt trong ba chiếc hòm kim loại mà thời gian chưa kịp tàn phá. Ferrer khó khăn lắm mới mở đưӧc mấy cái nắp thùng bì băng giá làm cho kẹt cứng, lật xem qua loa nhӳng thứ đӵng bên trong, rồi trở lại mở boong tàu gӑi hai người hướng dẫn. Angoutretok và Napaseekadlak thận trӑng, vẻ mặt kính phөc, nhanh chóng đi tới chӛ Ferrer, hӑ bước xuống hầm tàu rón rén như đám đào tường khoét gạch ăn trӝm ở mӝt ngôi nhà biệt lập. Nhӳng chiếc thùng rất nặng và cầu thang sắt dẫn xuống hầm tàu trơn tuồn tuӝt. Để đưa đưӧc nhӳng chiếc hòm lên boong, chất lên xe tải là cả mӝt sӵ kiện. Hai người dẫn đường cӝt chặt nhӳng chiếc hòm vào mấy chiếc rơ-móc, hӑ thì thầm điều gì đó với nhau. Ferrer không nói gì, hai người dẫn đường cười cӧt trêu chӑc nhau bằng nhӳng chuyện khôi hài nhưng rất tiếc không thể nào dịch sang tiếng Pháp đưӧc. Trước nhӳng kết quả bất ngờ, cả hai người dẫn đường không mấy quan tâm, còn Ferrer thì xúc đӝng. Công việc kiếm tìm thế là xong. Bây giờ chỉ tính chuyện đường về nӳa thôi. Nhưng trước lúc lên đường trở về phải cho cái gì vào bөng cái đã, Napaseekadlak đề nghị.
Trong khi Napaseekadlak loay hoay nhóm lӱa, dùng rìu bә nhӳng chiếc cӝt buồm phía mũi con tàu Nechilik, thì Ferrer, theo sau là Angoutretok trở
lại hầm tàu kiểm tra kĩ mӝt lần nӳa. Lông thú là mӝt phần hàng hóa cӫa chuyến tàu buôn này vẫn còn nguyên vẹn, nhưng không đưӧc bảo quản tốt cho lắm, nhӳng tấm lông thú cứng queo như gӛ nhiệt đới, lông đã bắt đầu bong ra khӓi da: nhӳng tấm da này chẳng còn giá trị thương mại gì nӳa. Ferrer chӑn tấm da cáo nhӓ có vẻ còn tốt hơn nhӳng tấm khác, để mӝt lúc cho tan giá, có lẽ làm quà tặng, nhưng mà cho ai, để rồi xem. Còn việc chuẩn bị bӳa ăn, phải thuyết phөc Angoutretok mở mӝt hӝp thịt bò đã quá hạn sӱ dөng gần mӝt nӱa thế kỉ nay. Rất tiếc, hiển nhiên thôi, là không thể nhặt thêm mӝt số đồ đạc không tồi lắm năm lăn lóc trên tàu Nechilik, nhӳng cây đèn nhӓ bằng đồng xinh xắn, cuốn Kinh Thánh đưӧc đóng mӝt cách trang nhã, mӝt chiếc máy lөc phân tuyệt hảo. Nhưng từng ấy thùng đã đӫ nặng cho chuyến trở về, không thể đem theo thêm mӝt món đồ nào khác nӳa. Bӳa ăn trưa kết thúc, hӑ lập tức lên đường trở về.
Hành lý nặng, không thể di chuyển nhanh đưӧc, hӑ phải mất rất nhiều thời gian mới trở về tới Port Radium. Không thể nào dӵ kiến đưӧc các điểm dừng chân giải lao nghỉ ngơi, nhӳng lưӥi gió sắc lạnh đôi khi bùng lên chặn ngang bước tiến cӫa hӑ, làm cho cuӝc hành trình đã chậm lại càng chậm hơn. Và mùa xuân bắc cӵc bắt đầu mở ra nhӳng lӛ hәng bất ngờ giӳa mặt đất lúc này vẫn còn bị băng giá phӫ kín: mӛi lần Ferrer sa chân vào giӳa nhӳng lӛ hәng đó, ngập tới quá đầu gối, để lôi chân ra khӓi hố là cả mӝt vấn đề, không phải chuyện dễ dàng gì, rồi phải hông khô ӫ ấm đôi chân. Lúc này mӑi người nói chuyện với nhau ít hơn so với lúc đi, hӑ ăn uống vӝi vàng và giấc ngӫ chập chờn, lúc này; Ferrer chỉ còn nghỉ đến món chiến lӧi phẩm nӳa thôi. Đến Port Radium, nhờ nhӳng người bà con, Angoutretok tìm cho Ferrer mӝt căn phòng trát bằng xi-măng tại mӝt tө điểm câu lạc bӝ, hay hӝi quán gì đó, đó là tất cả nhӳng gì để có thể gӑi là khách sạn tại khu vӵc này. Cuối cùng, còn lại mӝt mình trong phòng, Ferrer mở hết mấy chiếc thùng đӵng đồ, kiểm kê tất cả mӑi thứ đӵng bên trong.
Như đã dӵ đoán trước đây, tất cả nhӳng món đồ trong thùng thuӝc nghệ thuật điêu khắc cә trên xương cá voi rất quí hiếm, gồm nhiều phong cách khác nhau mà Delahaye và mӝt số chuyên gia khác đã giải thích cho anh ta hiểu. Giӳa nhӳng món đồ đó, có hai chiếc ngà voi ma mút đưӧc chạm trә rất tinh xảo bị khoáng chất vivianít màu xanh phӫ lên, sáu cặp kính đi tuyết đưӧc cắt gӑt từ nhӳng nhánh gạc hươu, nai, mӝt con cá voi nhӓ đưӧc chạm trên tấm răng lưӧc cá voi, mӝt bӝ áo giáp bằng ngà có đeo dây trang sức,
mӝt công cө khoét mắt tuần lӝc làm bằng sừng tuần lӝc, nhӳng viên đá có chӳ viết, mấy con búp bê bằng thạch anh, nhӳng con lật đật bằng xương trө hải cẩu, bằng sừng bò xạ, nhӳng chiếc răng nanh kì lân biển và răng cá mập đưӧc chạm khắc, nhӳng chiếc nhẫn và cái dùi bằng ni-ken lấy từ nhӳng tảng thiên thạch. Cũng có không ít nhӳng món đồ tế lễ và tang chế, là nhӳng chiếc bánh mang hình số tám hoặc vành khuyên, đưӧc làm bằng chất xtê-a-tít hoặc nê-phrít trơn, đen và đӫ các loại màu đốm, da rắn. Rồi nhӳng chiếc mặt nạ đӫ loại và cuối cùng là mӝt bӝ sưu tập nhӳng hӝp sӑ miệng bị bít lại bằng mӝt loại đá nào đó, các hốc mắt bị lấp bằng nhӳng mẫu ngà cӫa sư tӱ biển, có khảm nhӳng đồng tӱ đen huyền. Đây đúng là mӝt đống gia tài.
13
…Hôm nay, thứ sáu, ngày 22 tháng 6, giӳa lúc Ferrer đang lӝi trong băng giá thì Baumgartner mặc mӝt bӝ comple len, áo sơ mi trắng toát và mӝt cái cà vạt sang trӑng. Mặc dù mùa hè thật sӵ mới bắt đầu, bầu trời hài hòa với cảnh thiên nhiên, luôn khạc ra nhӳng cơn mưa phùn thật đê tiện. Baumgartner từ dưới bến tàu điện ngầm Chateaux-Rouge bước lên phố Suez, thuӝc quận XVIII Paris. Đây là mӝt trong nhӳng con phố nhӓ nằm gần đại lӝ Barbès, trên phố có rất nhiều cӱa hàng thӵc phẩm cӫa người Phi, nhӳng người bán cả gà còn sống, dàn ăng ten parabôn và đӫ các loại hàng dệt đӫ màu sắc in ở Hà lan.
Phố Suez, phía số chẵn, phần lớn các cӱa ra vào và cӱa sә nhӳng ngôi nhà cә xuống cấp đã bị bít lại bằng nhӳng phiến đá theo mӝt cách thức thống nhất, dấu vết còn lại cӫa việc trưng dөng trước khi bị dӥ bӓ. Mӝt trong nhӳng tòa nhà đó hoàn toàn bị bịt kín: hai cӱa sә trên tầng cuối cùng là còn mở he hé mӝt chút để lấy không khí, đưӧc nhӳng tấm ri đô che kín rӫ xuống bảo vệ, nhӳng tấm kính đөc mờ vì bөi bám đầy – mӝt tấm kính bị vӥ mất mӝt góc đưӧc gia cố bằng mӝt mảnh vải nhӵa cách điện, mӝt ô khác thiếu hẳn kính đưӧc thay thế bằng mӝt cái túi đӵng rác màu đen đóng khung lại. Bị kẹt ở lưng chừng, cánh cӱa ta vào cӫa tòa nhà nhìn ra trước hêt là hai dãy thùng thư lẻ bӝ không đề tên đã tung hết cánh cӱa, tiếp đến là mӝt cái cầu thang phân bậc không đều nhau, vách tường nứt toác. Trên tường, rải rác có các điểm đánh dấu do cơ quan quản lí nhà thành phố xác định để theo dõi diễn biến cӫa các vết nứt. Bӝ phận rơ le thời gian cӫa hệ thống chiếu sáng đã không còn hoạt đӝng đưӧc nӳa, vì thế Baumgartner phải mò mẫm bò mấy tầng lầu mới lên đến tầng trên cùng. Anh ta gõ cӱa, rồi đưa tay đẩy cánh cӱa mà không cần đӧi chӫ nhân trả lời bởi cảm thấy hình như cánh cӱa tӵ đӝng mở ra, mӝt gã gầy còm, khô đét đӝ ba mươi tuәi vӝi vã bước ra, suýt nӳa thì xô vào Baumgartner. Trong cảnh đang tranh tối tranh sáng, Baumgartner nhận diện đưӧc gã đàn ông – mặt dài ngoẵng, trán hói, cười nham hiểm, mũi khoằm, tay chân khẳng khiu như nhӳng dấu phẩy, lầm lì và chắc chắn hắn mang chứng dạ thị bởi hắn cứ bước ào ào trên cầu thang tối mà không mӝt chút vấp váp nào cả.
Trong lúc đẩy cánh cӱa bước vào phòng, Baumgartner biết thằng cha này không thích quay lại khép cӱa bao giờ: căn phòng tồi tàn nghẹt thở, không thoải mái chút nào, mặt bằng căn phòng phía trong rất khó xác định, đảo đi quay lại như mӝt chiếc găng tay. Bao quanh căn phòng là bốn bức tường và mӝt cái trần bảo vệ, nền nhà mờ mờ ảo ảo đầy nhӳng rác rưởi, giấy gói thức ăn đã quá hạn sӱ dөng, từng mớ dây buӝc, mấy tờ tạp chí rách bươm và nhӳng tờ quảng cáo mốc meo, mӝt mẫu nến nhӓ cấm trên cái đĩa sứt mẻ đặt trên mӝt cái sӑt ở góc phòng tӓa ra thứ ánh sáng lờ mờ đӫ để đӑc đưӧc vài con chӳ. Căn phòng bị hâm quá nóng bởi bếp lò dùng khí bu-tan, không khí như đặc quánh lại thành mӝt khối mùi đậm đặc yểm khí lâu ngày không đưӧc thông thoáng, mùi ga cháy hăng hắc trӝn lẫn với mùi mốc, thật khó thở. Mӝt chiếc radio-cassettes cũ rích để đầu giường phát ra tiếng rè rè không rõ là đang nói về cái gì.
Hình dáng cӫa gã thanh niên dặt dẹo nằm ườn trên tấm đệm mút nhũn nhẹo, ga trải giường rách bươm đưӧc cӝt túm lại đầy nhӳng nút, cái gối bẩn thỉu bẹp dí dúm dó. Baumgartner bước gần lại, trông thấy gã thanh niên mắt khép hờ có vẻ như vẫn thoi thóp thở, dấu hiệu cӫa sӵ sống nơi hắn ta. Hắn nằm bất đӝng như kẻ sắp chết. Cái radio-cassettes đưӧc dùng làm giá đӥ cho mӝt chiếc thìa nhӓ, mӝt chiếc bơm tiêm, mӝt nhúm bông bẩn thỉu và phần còn lại cӫa mӝt quả chanh, Baumgartner hiểu ngay gã thanh niên này đang trong trạng thái nào, tuy nhiên anh ta vẫn lo lắng. Này, Flétan, anh ta gӑi, này Flétan. Baumgartner cúi xuống trông thấy Flétan đang thở dốc, chứng tӓ hắn đang trong trạng thái rất khó chịu chứ không phải đang phiêu diêu nơi miền cӵc lạc. Mặc dù, đã bước lại gần hơn, lại đốt thêm cả mӝt cây nến nӳa, nhưng ngay cả ánh sáng đưӧc tăng cường cũng như khoảng cách đưӧc rút ngắn lại thì hình hài cӫa Flétan vẫn nhập nhèm, cứ như tạo hóa đã ban phát cho hắn mӝt dáng vẻ đặc biệt. Mӝt thân hình xanh mướt, không còn sức sống, áo quần sẫm màu và nhàu nát, tuy nhiên, hắn ta cũng không đến nӛi tӓ ra quá bẩn thỉu. Cuối cùng mӝt bên mắt cӫa hắn cũng mở ra đưӧc.
Flétan mệt mӓi chống tay ngồi dậy chìa mӝt bàn tay về phía Baumgartner. Baumgartner nắm lấy bàn tay hâm nóng và nhớt nhát lôi hắn dậy, rồi bước lùi ra đưa mắt tìm mӝt chӛ ngồi, chỉ có mӝt chiếc ghế đẩu khập khiễng, thấy thế, Baumgartner không ngồi mà đành chịu đứng. Còn gã thanh niên lai buông mình chống tay xuống gối như sắp nôn tới nơi. Có lẽ,
hắn nói, giӑng uể oải, tôi cần mӝt chén trà, nhưng tôi không thể ngồi dậy đưӧc, quả thӵc không làm sao ngồi dậy đưӧc. Baumgartner bĩu môi nhưng rõ ràng anh ta không thể từ chối việc pha trà giúp hắn đưӧc, cần phải giúp hắn trong lúc này. Trông thấy mӝt cái ấm đun đặt gần chậu rӳa tối tăm, anh ta đә đầy nước, đặt lên bếp ga rồi moi ở tận trong góc phòng trên nền nhà ẩm ướt loang lә mӝt cái chén sứt quai và mӝt cái bát mẻ. Cả hai thứ dөng cө này chẳng cân xứng mӝt chút nào. Flétan lại nhắm mắt, vẻ mặt khi thì vui vẻ khi thì nhăn nhó. Trong lúc chờ nước sôi, Baumgartner lөc tìm đường nhưng không có, nhặt lại mẫu chanh đã dùng, còn hơn là không có, chiếc radio tiếp tөc lải nhải giết thời gian. Này, Flétan vừa nói vừa uống trà, khi nào thì tôi có thể tiến hành công việc.
Vấn đề đó chỉ còn tính ngày thôi, Baumgartner nói và lôi trong túi ra mӝt chiếc điện thoại di đӝng, cái này hoạt đӝng đưӧc trong mӝt tháng đấy. Vấn đề là ngay từ bây giờ, tao cần phải liên lạc đưӧc với mày trong bất cứ lúc nào, anh ta nói và chìa ra chiếc điện thoại di đӝng cho gã thanh niên. Mày cần phải chuẩn bị tinh thần sẵn sàng ngay khi tình huống xảy ra.
Flétan vồ lấy chiếc điện thoại di đӝng, đưa ngón tay trӓ lên lӛ mũi trái ngoáy rồi lần lưӧt kiểm tra điện thoại di đӝng và ngón tay cӫa mình: tuyệt vời, hắn ta kết luận sau khi đã xem xét cả hai thứ, số cӫa nó thế nào? Mày không cần quan tâm đến số thuê bao, Baumgartner nói, tao là người duy nhất biết đưӧc điều này, biết đưӧc số cӫa cái điện thoại này, như thế tốt hơn. Tao nói cho mày hay điều quan trӑng ở cái điện thoai này là nó không phải dung để gӑi, có phải không? Nó chỉ dùng để nhận các cú gӑi đến thôi. Nó chỉ dùng vào mӛi mӝt việc nghe tao nói thôi, nghe tao thôi, khi tao gӑi cho mày, mày hiểu chứ? Hiểu rồi, gã thanh niên nói và hỉ mũi vào ống tay áo. Mày phải đeo nó thường xuyên bên mình, nhớ đấy, Baumgartner nói tay cầm nước sôi đә đầy chiếc chén và cái bát mẻ. Tất nhiên rồi, Flétan nói. Có điều, Flétan nói thêm, tôi cần mӝt chút tạm ứng.
Đưӧc thôi, Baumgartner đồng ý đưa tay vào túi lấy ra sáu tờ giấy bạc loại năm trăm quan nằm giӳa mӝt cái kẹp. Tốt, Flétan nói và trả lại chiếc kẹp cho anh ta. Hiển nhiên, nếu đưӧc nhiều hơn mӝt chút nӳa thì cũng tốt. Không, Baumgartner nói, và đưa tay chỉ vào thứ dөng cө đặt trên chiếc radio, tao biết mày lắm, đưa cho mày rồi mày lại đem ném nó vào nhӳng trò ngu xuẩn thôi. Nhưng Flétan cứ kì kèo mãi cuối cùng Baumgartner đành
phải dúi cho hắn thêm bốn tờ khác nӳa. Baumgartner kéo căng chiếc kẹp bóp lại cho tới khi nó trở thành gần như mӝt thanh sắt thẳng dẹt.
Mӝt lát sau, khi đã ở ngoài phố, Baumgartner kiểm tra cẩn thận xem nhӳng thứ ô uế, bẩn thỉu trong căn hӝ cӫa Flétan còn đeo bám trên áo quần cӫa anh ta không. Dù không thấy gì, nhưng Baumgartner vẫn dùng cái phất trần quét mạnh lên quần áo cứ như mӑi thứ yểm khí hôi hám trong nhà Flétan đang bám chặt làm ô uế áo quần, mặc dù anh ta cố gắng không để quần áo chạm vào bất cứ thứ gì trong căn hӝ đó, nhưng điều cần thiết phải làm là rӱa tay thật sạch sẽ, và khi về nhà là phải đánh răng. Trong khi chờ đӧi để làm mӑi việc, Baumgartner đến bến tàu điện ngầm Chaateau-Rouge để trở về nơi ở mới. Còn cả mӝt tiếng đồng hồ không biết dùng vào việc gì, trên toa mặc dù chẳng đông khách nhưng Baumgartner vẫn thích ngồi ở chӛ ghế phө.
Trên tàu điện ngầm, dù là tàu đông khách hay thậm chí chẳng có ai thì Baumgartner vẫn thường chӑn cho mình chiếc ghế phө, điều này khác hẳn với Ferrer, anh ta lại rất thích ngồi trên nhӳng ghế băng dài. Ngồi trên nhӳng chiếc ghế băng, Baumgartner thường bị bắt buӝc phải ngồi bên cạnh mӝt ai đó hoặc phải đối diện với mӝt người nào đó. Ngồi như thế, hắn thấy rất khó chịu vì cứ phải đөng chạm vào nhau, chân tay không đưӧc thoải mái co duӛi, rồi nhӳng ánh mắt giao nhau, nhӳng cuӝc trò chuyện bất đắc dĩ, nhiều lần hắn phải đứng lên nhường chӛ, cho nên chiếc ghế phө tӓ ra phù hӧp với hắn hơn. Thêm nӳa, cái ghế phө biệt lập trong mӝt góc hiếm hoi đó, dưới mắt hắn là mӝt ưu thế hơn hẳn chiếc ghế phө ghép đôi, bởi lẻ loại ghế này vẫn thường gây ra nhӳng điều phiền toái hӛn tạp – nhưng mà sӵ phiền toái hӛn tạp này dù sao vẫn ít tác hại hơn là sӵ bất cập cӫa cái ghế băng kia. Baumgartner là như vậy đó.
Nӱa giờ sau, hắn bước vào căn hӝ mới bên đại lӝ Exelmans, mân mê ngó nghiêng mẩu dây sắt giӳa nhӳng ngón tay, Baumgartner không thể làm sao để có thể vứt nó đi đưӧc: cuối cùng hắn cắm cái mẩu sắt đó vào mӝt cái chậu hoa rồi nằm dài trên đi-văng. Hắn muốn chӧp mắt mӝt lát, hắn muốn ngӫ quá, chỉ cần chӧp mắt khoảng hai mươi phút hoặc nӱa tiếng đồng hồ thôi, nhưng không, không thể đưӧc.
14
Ferrer cũng trong tình trạng tương tӵ, đêm xuống anh ta không làm sao chӧp mắt đưӧc. Quỳ gối trước nhӳng chiếc thùng mở toang, mân mê cả nghìn lần nhӳng món đồ cә, xoay đӫ mӑi chiều, ngắm nghía. Lúc này sức lӵc anh ta thật sӵ đã cạn kiệt, không còn đӫ tỉnh táo để mà ngắm nghía chúng nӳa, không còn chút sinh khí để mà vui sướng với nhӳng món đồ đắt giá mới tìm đưӧc. Khắp mình mẩy đau ê ẩm, anh ta cố gắng bước đứng lên bước về phía cӱa sә nhìn thấy mặt trời đã mӑc nhưng không phải, anh ta bị ảo giác đánh lừa mà thôi, ở Port Radium, chỉ có ban ngày không bao giờ có ban đêm.
Căn buồng Ferrer tạm trú giống như mӝt phòng cá nhân trong kí túc xá, sӵ so sánh có vẻ khập khiễng, nhưng quả đúng là như vậy: nhӳng bức tường sơn màu xanh nhӧt nhạt và trống trơn, mӝt chiếc bóng đèn điện treo lӫng lẳng trên đường, nền đất rải thảm nhӵa, chậu rӱa mặt đặt tít tận trong góc, giường tầng, Ferrer chӑn mӝt giường ở tầng dưới, máy thu hình bị hӓng, trên giá chứa đồ chỉ đӝc mӝt cӛ bài – thoáng nhìn thì có vẻ còn dùng để chơi đưӧc nhưng kiểm tra thì không vì thiếu hẳn con át cơ – bốc mùi thum thӫm bởi lâu ngày không ai sờ mó tới, lò sưởi lập lòe. Chẳng có sách báo hay tạp chí gì để đӑc cả, nhưng lúc này Ferrer cũng chẳng buồn đӑc chút nào, cuối cùng cơn buồn ngӫ ập đến.
Sau cuӝc kiếm tìm các tác phẩm nghệ thuật trên con tàu Nechilik, rất vất vả, hӑ mới trở về Port Radium, mӑi người tranh nhau thở - mӛi lần hơi thở thoát ra người ta lai nhìn thấy nhӳng vòng xoáy hơi nước đặc quánh lại giống như nhӳng miếng ngạc bông y tế, chúng thoát ra khӓi cӱa miệng rồi đөng vào không khí lạnh toát vӥ loang ra. Ferrer trả tiền công dẫn đường cho Angoutretok và Napaseekadlak rồi nói lời cảm ơn từ biệt hӑ. Sau đó cả hai đi về hướng Tuktoyaktuk, còn Ferrer tiếp tөc ở lại thành phố thêm gần hai tuần vẫn trong căn phòng kề ngay cạnh xưởng giặt. Ngôi nhà Ferrer tạm trú là mӝt câu lạc bӝ, mӝt phần cơi nới thêm giống như mӝt chái bếp, Ferrer không thể hình dung đưӧc nó là cái gì, lúc nào cũng trống trải, người quản lí với vẻ mặt im lìm thường trӵc. Nơi đây hình như chẳng có mӝt cuӝc chuyện trò, giao lưu nào cả, có lẽ vùng đất này đã bị con người và Chúa
lãng quên mất rồi, thỉnh thoảng chỉ thấy mӝt vài du khách hiếm hoi. Ngày dài lê thê, chẳng có cái gì gӑi là để giải trí, giết thời gian ở nơi đây, đúng là chó má thật. Không có đồn cảnh sát, không có cơ quan hành chính quản lý, cho nên mӑi người thường e ngại người lạ đến trú ngө ở khu vӵc này, hӑ cho rằng nhӳng người tới vùng đất này chẳng qua là muốn trốn tránh cơ quan pháp luật. Ferrer mất rất nhiều ngày, tốn kém rất nhiều đô la, phung phí nhiều cái cười, và nhiều cuӝc chuyện trò cuối cùng mới giảm bớt đưӧc sӵ hoài nghi cӫa người quản lí khách sạn.
Ở Port Radium, tìm đưӧc mӝt người thӧ thӫ công giӓi có khả năng đóng đưӧc nhӳng cái thùng đӫ tiêu chuẩn để đӵng nhӳng món đồ cә lấy đưӧc trên con tàu Nechilik thật không dễ dàng gì. Cái khó nhất là không kiếm đâu ra gӛ trong thời tiết khắc nghiệt này: nói là không tìm ra nhưng mӑi thứ đều có thể, vấn đề là giá cả. Ferrer gặp mӝt chӫ cӱa hàng ở khu siêu thị chấp nhận sӱa chӳa nhӳng chiếc thùng trước đây dùng để dӵng vô tuyến, tӫ lạnh, máy công cө thành nhӳng thùng chứa hàng. Việc sӱa chӳa cũng mất mӝt thời gian, Ferrer không còn cách lӵa chӑn nào khác là phải kiên nhẫn chờ đӧi. Trong thời gian chờ đӧi, nói chung, Ferrer luôn để mắt tới căn phòng cӫa mình, không bao giờ rời xa nhӳng món đồ cә, cam chịu giam mình trong cảnh âm u buồn bã khi không còn sức chiêm ngưӥng chúng nӳa. Port Radium không phải là điểm đến để giải trí, kể cả chӫ nhật, không khí nơi đây thật buồn tẻ, im lìm lạnh lẽo.
Cuối cùng Ferrer cũng phải chịu chui ra khӓi căn phòng, ra ngoài dạo mӝt vòng, nhưng cũng chẳng tìm ra đưӧc cái gì thú vị cả: ba phần chó mӝt phần người và khoảng hai chөc nóc nhà nhӓ phӫ màu ảm đạm, mái lӧp tôn ngoảnh mặt ra hướng cảng. Trời lạnh quá, Ferrer có thói quen không bao giờ đứng lâu ở bên ngoài. Qua nhӳng dãy phố hầu như không mӝt bóng người, anh ta nhanh chân dạo mӝt vòng quanh nhӳng ngôi nhà đưӧc xây dӵng theo hình tròn, lối kiến trúc khối tròn này nhằm mөc đích là không để cho cái lạnh còn chӛ để bám víu ở các góc cạnh, băng giá không còn chә để neo đậu. Để ra phía bến cảng, anh ta men theo khu nhà khám bệnh sơn màu vàng, mӝt cơ sở bưu điện sơn màu xanh, khu siêu thị sơn màu đӓ và ga-ra sơn màu xanh, phía trước dӵng mӝt hàng dài xe trưӧt tuyết. Và trên khu vӵc cảng, có rất nhiều con tàu xếp hàng chờ đӧi mùa khí hậu ôn hòa tới. Điều quan trӑng nơi đây là trên mặt đất tuyết thường tan sớm, nhưng giӳa
biển băng chỉ có mӝt con kênh nhӓ hẹp đưӧc khơi thông, phần còn lại cӫa vịnh vẫn bị băng phӫ kín.
Xung quanh vẫn lặng lẽ, Ferrer quan sát mӝt số hoạt đӝng đang diễn ra ở đây. Có hai người, lӧi dөng lúc tan băng, đào nhӳng cái lӛ trên nền đất mai táng người thân cӫa hӑ bị chết trong mùa đông vừa qua. Hai người khác, xung quanh chất đầy nguyên vật liệu, đang xây mӝt ngôi nhà theo đúng khuôn mẫu nhӳng ngôi nhà khác đã xây ở đây căn cứ vào bản thiết kế trên băng ghi hình có thuyết minh chi tiết; phá tan sӵ yên lặng là mӝt chiếc máy phát điện đặt ngoài trời đang cung cấp điện năng cho bӝ vidéo. Ba đứa trẻ đi gom nhặt vӓ chai ở khu siêu thị. Rồi mӝt ngôi nhà thờ cә mái kim loại vươn cao bên bờ biển tại mӝt góc cảng, ở đó có hai chiếc thuyền máy vӓ sắt sơn màu xám, đang di chuyển giӳa con kênh hẹp trên boong có khoảng mười hai hành khách mặc áo quần trưӧt tuyết, đi nhӳng đôi giày to xù. Vùng băng trên mặt vịnh đã bắt đầu nứt ra thành từng mảng như nhӳng mảnh trò chơi ghép hình cӫa mӝt kẻ mới bắt đầu tập chơi và phía ngoài ca kia rất nhiều nhӳng mảng băng lớn nhӓ đang tan dần dưới ánh nắng mặt trời nhӧt nhạt, và có đến hàng trăm núi băng đӫng đỉnh trên mặt biển. Trên đường quay về nơi ở, Ferrer gặp lại hai người đàn ông đang tiếp tөc xây căn nhà cӫa hӑ. Để thay đәi không khí và giải trí mӝt chút, hӑ đã thay cuӝn băng vidéo ghi bản thiết kế ngôi nhà bằng mӝt cuӝn băng ghi hình phim tươi mát, cả hai đứng bất đӝng, im lặng mặt đầy suy tư.
Nhӳng ngày đầu, Ferrer ăn cơm mӝt mình trong phòng, không có ý định làm quen với người quản lí khách sạn. Nhưng cuӝc đối thoại với ông ta trong mӝt lần nào đó hình như có cải thiện đôi chút, làm cho ông ta yên tâm hơn, nhưng thӵc ra trong đầu ông ấy vẫn còn lởn vӥn hoài nghi mӝt điều gì đó. Cố gắng diễn đạt, bày tӓ thái đӝ bằng ngôn ngӳ cӱ chỉ đã làm cho Ferrer chán ngấy lên rồi. Nhӳng cuӝc dạo chơi ngắn ngӫi, nhӳng người địa phương mà anh có dịp gặp trên đường luôn mỉm cười với anh và anh cũng mỉm cười với hӑ. Nhưng mӑi việc cũng chỉ dừng lại ở đó. Rồi trước hôm chuẩn bị rời Port Radium, tò mò, anh ta nhìn qua cӱa sә màu vàng cӫa mӝt ngôi nhà, thấy mӝt cô gái trẻ đang mỉm cười với anh như mӑi cư dân khác ở đây. Và cũng như đối với nhӳng người khác, Ferrer cũng mỉm cười đáp lễ, nhưng lần này còn có cả bố mẹ cô gái cũng cười với anh ta. Rất vui vẻ, không khách sáo gì cả, hӑ mời anh ta vào nhà uống rưӧu: để làm lạnh rưӧu whisky, ông bố bảo cô con gái chạy ra ngoài bẻ băng ngay sát vách nhà rồi
mӑi người cứ thế uống rưӧu suông, cuối cùng hӑ giӳ Ferrer ở lại cùng ăn tối, nhưng trong lúc chờ đӧi, hӑ đưa Ferrer đi thăm ngôi nhà: ngôi nhà rất biệt lập, có điện thoại, ti vi, mӝt chiếc chảo ăng ten lớn, bếp hiện đại, đồ gӛ màu trắng giá rẻ làm theo kiểu phương bắc nhưng mua ở tận ngoại ô Paris.
Ferrer nhanh chóng gây đưӧc thiện cảm với cả gia đình Aputiarjuk. Lúc ngồi vào bàn, anh ta không hiểu lắm về nghề nghiệp cӫa ông bố cuối cùng vӥ lẽ ra rằng ông ta không có nghề nghiệp gì cả. Ông ta là người hưởng tiền trӧ cấp xã hӝi, rất thích đi săn hải cẩu ở ngoài biển hơn là đә mồ hôi trong văn phòng bé tí tẹo, trong nhà máy khәng lồ hoặc trên mӝt con tàu xuyên đại dương. Ngay cả việc đi câu, dưới con mắt người đàn ông này, cũng chỉ là mӝt thứ cần câu cơm thảm hại: không có công việc gì có thể so sánh với việc đi săn hải cẩu đưӧc cả, đó thật sӵ là mӝt môn thể thao thú vị. Ferrer cùng với mӑi người ăn bánh mì, nâng cốc chúc mừng, chuốc rưӧu nhau mӝt cách hào phóng mừng cho nhӳng cuӝc đi săn hải cẩu thành công, hӑ uống rất nhiệt tình vì sức khӓe cӫa nhӳng con hải cẩu. Chẳng mấy chốc, rưӧu đã phát huy tác dөng, hӑ mời Ferrer ngӫ lại nhà hӑ nếu không có gì trở ngại. Ferrer có thể chia sẻ căn phòng cùng với cô con gái, không có vấn đề gì. Rồi ngày hôm sau, kể cho nghe nhӳng giấc mơ như mӑi gia đình khác vẫn làm theo phong tөc cӫa hӑ vào mӑi buәi sáng. Thật là phức tạp, Ferrer không thể chối từ đưӧc, ngӑn đèn phát ra thứ ánh sáng yếu ớt và chiếc radio đang phát mӝt bài hát cӫa Tonny Bennett, trong căn phòng ấm cúng, chiếc chảo sôi sùng sөc, tất cả mӑi người vui đùa, cô gái mỉm cười với Ferrer nì nèo kể cho em nghe về Port Radium đi anh.
15
Từ hôm đến thăm Flétan, trên tàu điện ngầm trở về nơi ở mới, theo thói quen, Baurngartner vẫn ngồi trên chiếc ghế phө, cho tới nay lại mӝt tuần nӳa trôi qua. Căn hӝ mới thuê này cũng không xa phố Saint- Michel bao nhiêu, nằm ngay phía sau lối rẽ sang đại lӝ Exemans : ba ngôi biệt thӵ đưӧc xây dӵng từ nhӳng năm 1930 không đưӧc quy cӫ cho lắm nằm giӳa mӝt mӝt khu vườn rӝng lớn đẹp đẽ, ở phía sau đại sứ quán Việt Nam.
Nhưng nhìn từ bên trong chắc là cũng mát mắt, không đến nӛi nào, khu nhà nằm ở quận XVI. Có lẽ nhiều người nghĩ nhӳng người ở trong nhӳng ngôi nhà đó buồn lắm, nhưng hӑ đã nhầm. Nhӳng đại lӝ khắc khә, nhӳng đường phố nghèo nàn này trông như nhӳng chiến lũy hay nhӳng tấm mặt nạ, bề ngoài trông thật thảm hại: thӵc ra người ta che giấu nhӳng căn hӝ duyên dáng đến kinh ngạc ở bên trong. Đó là mӝt trong nhӳng thӫ đoạn thông minh cӫa nhӳng kẻ giàu có muốn làm cho người khác tin rằng cuӝc sống cӫa hӑ rất muốn thảm trong nhӳng khu phố này, đến mức mà hình như ai tới đây cũng đӝng lòng trắc ẩn, thương cảm và muốn chia sẻ, coi hӑ như nhӳng người chịu nhiều thiệt thòi, phải sống trong đói khә sa sút. Không, người ta hoàn toàn nhầm lẫn.
Tầng trên cùng cӫa mӝt trong ba ngôi biệt thӵ, Baumgartner đã thuê mӝt gian cӵc lớn với giá cắt cә làm phòng trưng bày. Cầu thang sơn màu xanh thẫm tới mức gần như màu đen. Các bức tường cӫa căn phòng đưӧc ốp đá cẩm thạch màu nâu, ống khói bằng đá cẩm thạch viền trắng và trên trần đưӧc khoét nhӳng cái phễu nhӓ trong đó có lắp nhӳng chiếc bóng đèn chiếu sáng. Nhӳng bӝ ván dài gần như để trống trơn, mӝt chiếc bàn dài trên có mӝt chiếc đãi bẩn, mӝt bӝ ghế dài đưӧc phӫ mӝt lớp vải xanh. Căn phòng quá rӝng tới mức chiếc đàn dương cầm hiệu Bechstein nằm trong góc trở thành mӝt chi tiết trang trí vөn vặt, rồi chiếc máy thu hình to tướng cũng trở thành mӝt cái cӱa tò vò bé tí tẹo đặt trong mӝt góc khác cӫa căn phòng. Còn mӝt đồ vật vô dөng khác: cái tӫ treo quần áo rӝng mênh mông bên trong treo mӝt chiếc móc váy đồ sӝ nhưng lại treo mấy chiếc áo quần có vẻ còn mới. Nhӳng cӱa sә cao nhìn ra ngoài với nào hoa cẩm chướng, cây keo, lối sӓi… rồi nhìn sang mӝt trần mái phӫ đầy bөi bặm có nhӳng chiếc bồn trũng
chứa đầy đất nhưng không có mӝt cây hoa nào mà chỉ thấy cӓ dại mӑc xanh um, giӳa đám cӓ là mӝt cây bồ công anh vươn cao.
Baumgartner đã sống ở đây từ mấy ngày nay, rất ít khi đi ra ngoài. Hiếm khi hắn đi chӧ, mà dùng minitel[11]để mua đồ ăn thức uống. Y xa lánh với thế giới bên ngoài cứ như là hắn đang đӧi chờ giây phút lâm chung. Cả ngày gần như hắn không làm gì cả. Hắn cho mấy người mang hàng tới vài đồng bồi dưӥng. Cuӝc sống cӫa hắn đưӧc tә chức như mӝt kẻ sống đӝc thân. Sӵ thật thì hắn rất biết cách sống cô đӝc. Nhưng hắn không phải là mӝt gã chưa vӧ, bằng chứng là hắn vẫn gӑi điện thoại cho vӧ hắn.
Chiếc điện thoại di đӝng cho phép hắn di chuyển khắp căn phòng trong khi nói chuyện. Ừ, hắn nói và di chuyển từ chӛ cây đàn dương cầm ra phía cӱa sә, cuối cùng thì em cũng biết là người ta sống mӝt mình là như thế nào. Thường xuyên phải ăn món nguӝi thôi, hắn nói thêm cho vӧ hắn hiểu tình cảnh cӫa hắn lúc này, hắn với tay lấy chiếc điều khiển vô tuyến ngắt tiếng loa rồi lướt nhanh các chương trình: phim truyền hình, tư liệu rồi trò chơi. Không, hắn nói, các chất vitamin à, đúng thế, anh quên mất. Nhưng mà, hắn buông lӱng câu nói nӱa chừng rồi tắt vô tuyến, mắt nhìn ra phía cӱa sә: trời đầy mây, nhӳng cây bìm bìm leo ngoài cӱa nhӳng con quạ.
Đưӧc, nhưng anh không để ý các cӱa hàng thuốc trên phố này, nhưng mà, hắn lại nói tiếp chân bước về phía cây đàn dương cầm Bechstein ngồi xuống, chỉnh lại chiếc ghế cho vừa tầm rồi nhấn mӝt vài phím đàn, chân ấn nhẹ lên bàn đạp, hắn chỉ biết duy nhất có mӝt bản đàn. Ừ thế à, em nghe rõ đấy à, đó chỉ là phần cuối cӫa bản nhạc mà thôi. Này, em nghe cho rõ đây, em hiểu không, hắn nói rồi đứng lên, bước ra khӓi chӛ cây đàn. Hắn đi ngang chӛ đặt bình hoa, thuận tay hắn rút mẩu sắt đã cắm vào đó hôm trước: hắn phӫi đất trên mẩu sắt, rồi xoắn lại thành rất nhiều hình thù khác nhau, xoắn ốc, ăng ten, hình bánh kem….
Nhưng mà anh không biết, đӝt nhiên, Baumgartner hét to lên, em phải ve vãn hoặc làm cái gì đó tương tӵ. Khoan đã, tất nhiên, tất nhiên là em biết rõ, hắn mỉm cười đưa tay vuốt ve hai cánh mũi. Nhưng anh nghĩ tốt nhất, anh phải đi xa xa đâu đó mӝt chút, anh không muốn mạo hiểm gặp phải mӝt ai đó. Anh phải trông coi cái phòng trưng bày nhưng anh sẽ về tỉnh lẻ mӝt
vài ngày. Tất nhiên là anh sẽ thông báo cho em biết. Không, ngay tôi nay anh đi rồi, anh thích đi vào ban đêm. Tất nhiên rồi. tất nhiên là không. Ừ anh cũng vậy, hôn em. Hắn tắt máy rồi lại bấm số gӑi mӝt máy khác mà chỉ có mình hắn biết rõ số máy đó mà thôi, ấy là số máy di đӝng mà hắn đã giao cho Flétan. Chuông reo mãi mӝt lúc mới thấy phía bên kia bấm máy nghe. A lô, tôi nghe đây, Flétan nói, a chào ông. Ngay lập tức giӑng cӫa Flétan đã không bình thường : từ ngӳ phát ra líu cả lưӥi như mӝt nồi nước sôi ùng өc, nguyên âm phө âm không phân biệt đưӧc cө thể.
Căn phòng Flétan vẫn luôn trong tình trạng tối tăm, cái bóng cӫa gã đàn ông cao lênh khênh mặc áo quần màu tối mà Baumgartner đã gặp hôm trước trong cầu thang đang hí hoáy cái gì không rõ với chiếc gương bӓ túi cùng với lưӥi dao cạo hiệu Gilét ngay sát cạnh chiếc radio, tối thui không nhìn rõ cái gì cả. Gã thanh niên cao lênh khênh mặt tối tăm hé miệng nhếch mép cười và tiếp tөc hí hoáy cái gì đó.
Cái gì, Flétan nói, giӑng nói cӫa tôi làm sao? Ồ không, tôi chẳng hút hít cái gì cả, ôi, tôi đang ngӫ ấy mà, thế thôi. Tôi thì lúc nào cũng cứ từ từ mӛi khi bị người ta đánh thức. Không phải ông à? Vấn đề là tôi cần thêm chút tiền nӳa ( gã thanh niên hất đầu mạnh ra phía sau). Thế nào, không đưӧc ư? ( Hắn nhíu mày). Ôi, xin chờ cho mӝt khắc. Hắn tắt máy.
Gác máy, Baumgartner chuẩn bị vali, hắn chӑn lӵa cẩn thận áo quần tỉ mỉ, áo quần nào chức năng đó, như là nhân cơ hӝi này hắn muốn kiểm kê lại toàn bӝ số áo quần, công việc này làm cho hắn mất gần tiếng đồng hồ nhưng hắn còn khố thời gian: “ Hắn sẽ đi ra đường vành đai qua cӱa Orléans rồi phi thẳng lên đường cao tốc tiếp theo đó hắn sẽ đi về hướng Tây- Nam nước Pháp qua ngã Poitiers, rồi nghỉ qua đêm ở đó.
Nhӳng tuần tiếp theo, Baumgartner có mặt trên mӑi nẻo đường ở Aquitaine giống như mӝt người đi nghỉ hè, mӝt mình, thường xuyên thay đәi khách sạn, tất nhiên là cũng chỉ ngӫ mӝt mình. Hắn tӓ ra là mӝt kẻ không phải vâng theo mӝt âm mưu đặc biệt nào và hành đӝng cũng không theo mӝt kế hoạch vạch sẵn nào cả. Càng ngày hắn càng ít đi ra ngoài, ở vùng Pyrénées – Atlantique, phần lớn thời gian, hắn đi xem các nhà bảo tàng, buәi sáng đi lễ ở nhà thờ, rồi thăm thú mӑi danh thắng nơi miền quê này, và buәi chiều hắn đi xem phim nước ngoài có phө đề tiếng Pháp tại
nhӳng rạp chiếu bóng rất vắng khách. Đôi khi, hắn lái xe lang thang hàng giờ vô định, ngắm nhìn phong cảnh lướt qua ngoài xe, mở đài nghe chương trình phát tiếng Tây Ban Nha, và chỉ dừng lại khi cần đi toa lét ở mӝt chӛ trũng nào đó dӑc đường đi hoặc sau mӝt cái cây, đôi khi hắn ở lì cả ngày trong phòng khách sạn, tìm kiếm thông tin trong mớ tạp chí và xem phim truyền hình.
Baumgartner, bề ngoài như mӝt kẻ đi tìm nơi giải trí, không muốn ai phát hiện ra sӵ hiện diện cӫa hắn, nói năng rất thận trӑng chỉ tiếp xúc với nhӳng ai thật cần thiết mà thӵc ra thì mөc địch chỉ là nhằm không để mất thói quen sӱ dөng từ ngӳ mà thôi, hắn vẫn gӑi điện cho vӧ hắn vào buәi tối và cứ bốn hoặc năm ngày gӑi điện cho Flétan. Ngoài ra, cho dù hắn ở đâu, tại Clos Ze1phyr (Bayonne), Meuliéres (gần Anglet) hoặc ở khách sạn Albizzia (ngoại ô Saint- Jean- Luz), hắn không bao giờ tiếp xúc với ai cả.
16
Mӝt con thӓ bị rưӧt đuәi chạy nháo nhào trên mặt đất xanh um cӓ dại. Mӝt con chồn sương tên là Wiston đang rưӧt đuәi con thӓ hoang ấy. Con thӓ đã nhận ra cӱa hang cӫa nó cách đó không xa lắm, nó nghĩ hắn vô tӝi nên tìm cách nhanh chân chạy về chui tӑt vào hang. Nhưng may khi vừa chui vào, nó đang loay hoay tìm chӛ trú sao cho kín đáo ở tận đáy hang thì con chồn hương đã bӫa vây dồn nó vào trong gõ cөt ấy rồi tóm gӑn. Con chồn hương ngoạm vào đӝng mạch cánh con thӓ, mӝt tia máu phӑt ra, hắn ghé miệng hút sạch dòng máu ngay trong bóng tối hang thӓ. sau khi ních đầy bөng máu thӓ, hắn nằm lì trong hang đánh mӝt giấc ngay cạnh con mồi cӫa hắn.
Hai nhân viên kĩ thuật sân bay Paris kiên nhẫn ngồi chờ trước cӱa hang thӓ. Cả hai nghĩ con chồn hương chắc đã ngӫ quên nên buӝc lòng hӑ phải gӑi hắn nhiều lần. Mӝt lúc sau mới thấy Winston xuất hiện, ánh mắt có vẻ trách móc, nó ngoạm theo xác con thӓ kéo lê trên mặt đất, trên cә con thӓ in hằn nhӳng vết răng sâu hoắm cӫa con chồn hương như nhӳng vết ghim kẹp. Hai nhân viên kĩ thuật nhặt lấy xác con thӓ rồi nhốt con chồn hương vào cũi. Sau đó, cả hai vừa đi vừa bàn với nhau chuyện chia chác, chế biến món thịt thӓ, tìm kiếm nước sốt… hӑ trèo lên mӝt chiếc xe chạy điện hướng về phía đường băng sân bay, ở đó, trên mӝt tuyến đường băng, chiếc máy bay mang kí hiệu QN 560 từ Montréal vừa hạ cánh, trong số hành khách có cả Ferrer, trông anh ta có vẻ mӓi mệt múi giờ quá chênh lệnh.
Ferrer lưu lại khác lâu ở Port Radium so với dӵ kiến. Mӝt cách nồng nhiệt, gia đình Aputiarjuk đã nhận anh ta làm con nuôi, vì vậy, nhӳng ngày cuối cùng, anh ta chuyển sang ở hẳn bên nhà Aputiarjuk, hàng ngày dùng bӳa với gia đình và ban đêm thì chung chăn gối với cô con gái, anh ta tìm cách kéo dài thời gian thuê đóng mấy chiếc hòm gӛ đӵng đồ. Trong vài ba ngày, do sӵ quan tâm quá nhiệt thành cӫa gia đình nhà Aputiarjauk, nên nhiều lúc Ferrer quên khuấy không ngó ngàng gì tới nhӳng món đồ cә cӫa mình nӳa. Nhӳng ngày ở Port Radium thật vui vẻ. Tới khi các thùng chứa hàng đã đóng xong, anh ta đành quyết định phải ra đi. Ferrer e ngại trước việc ra đi cӫa mình, nhưng ông bà Aputiarjuk đã không gây khó dễ gì hӑ
hiểu rằng anh ta không phải là con rể cӫa hӑ. Chuyện ra đi cӫa Ferrer cuối cùng cũng diễn ra trong sӵ vui vẻ.
Thuê mӝt chiếc xe Twin Otter, loại hai đӝng cơ công suất nhӓ vẫn thường hay sӱ dөng ở vùng địa cӵc, vưӧt qua các trạm hải quan cӫa Montréal, mӑi chuyện đưӧc dàn xếp không mất mấy thời gian. Và rồi cái ngày quay trở lại nước Pháp cũng đã đến. Đó là mӝt ngày chӫ nhật, trong nhӳng tuần đầu tiên cӫa tháng Bảy, vào buәi sáng sớm, nhӳng công việc ban đêm như quét tước, dӑn dẹp, cӑ rӱa, cạo rỉ sân bay vừa kết thúc, nhӳng cầu thang cơ khí, dây chuyền bắt đầu chuyển đӝng tạo thành mӝt bản giao hưởng âm thầm.
Vào thời điểm này, gần như không có mӝt ai làm việc ngoại trừ mấy nhân viên hải quan và bác sĩ cӫa sân bay, hӑ đang quá bận rӝn với mӝt đám người Pakistan buôn đồ trang sức và nhӳng người Colombô mang danh nghĩa du khách nên chẳng có ai nhòm ngó đến Ferrer cả. Hӑ soi máy tìm kiếm hàng hóa trong hành lí và trên người nhӳng kiểu dân này, bắt hӑ uống thuốc nhuận tràng để đẩy hết nhӳng viên đá quý và nhӳng gói côcain nhӓ đưӧc nuốt giấu vào trong bөng, các nhân viên hải quan, bác sĩ phải đi găng tay để nhặt nhạnh lại nhӳng thứ đó, đôi khi hӑ còn phải bӫa vây cả nhӳng người buôn giống nhện khәng lồ và nhӳng con trăn khәng lồ, thuốc lá lậu nhét trong bӝt sắn và hàng giả. Buәi sáng hôm đó quả thật Ferrer không mấy khó khăn lắm khi hoàn tất các thӫ tөc nhập cảnh tại quầy gӱi nhӳng kiện hàng khả nghi, hành lí cӫa anh ta đi qua trước mặt lӵc lưӧng cảnh sát hình sӵ và các nhân viên cӫa Bӝ Tài chính mà không mӝt ai phát hiện ra. Rồi khi các thùng hàng đã đưӧc thư về đầy đӫ, anh ta gӑi điện thuê mӝt chiếc xe hòm đến chất lên chở đi. Hôm nay là chӫ nhật nên chắc cũng không có gì phức tạp quá nhưng Raputek giật mình vì bị đánh thức đӝt ngӝt, cuối cùng cũng chấp nhập đi đến chở hàng mặc dù vẫn càu nhàu đôi chút. Trong lúc chờ xe tới, Ferrer tới khu đền Hồi giáo ngồi nghỉ ngơi thư giãn.
Thánh đường Hồi Giáo này nằm ở tầng ngầm cӫa sân bay, giӳa khu vӵc cầu thang và thang máy. Phòng đӧi hơi lạnh, đồ đạc chỉ có nhӳng dãy ghế bằng sắt, khay giới thiệu hàng đưӧc nhét nhӳng cuốn sách bằng bảy thứ tiếng, nhӳng chiếc thùng to chứa nhӳng loại cây xanh phát triển tốt tươi. Nhӳng cánh cӱa cӫa ba chiếc cӱa mở he hé có khắc dấu thập ngoặc, mӝt
ngôi sao hoặc mӝt vành trăng khuyết. Ngồi xuống mӝt chiếc ghế, Ferrer quan sát đồ đạc còn lại trong đền: mӝt chiếc điện thoại treo tường, mӝt bình cứu hӓa, mӝt hӝp quyên tiền.
Lúc này trời vừa sáng, mӝt ngày mới bắt đầu nên chẳng có bao nhiêu người trong khu vӵc này cả, Ferrer liếc mắt nhìn qua khe cӱa he hé. Ngôi nhà thờ Do Thái nhӓ bé gần như trống trơn, ba chiếc ghế đặt quanh mӝt chiếc bàn thấp. Cũng như thế trong mӝt tháp chuông nhӓ có mӝt lӑ hoa, bàn thờ và tưӧng Đức mẹ, mӝt cuốn sә kèm theo mӝt chiếc bút bi và hai dòng đề nghị: mӝt là nên cầu nguyện hai là xin đừng mang chiếc bút bích đi. Ngôi đền Hồi giáo nhӓ bé đưӧc rải mӝt lớp thảm xanh, mӝt cái giá móc áo măng tô và mӝt tấm thảm chùi chân, sát bên cạnh có mӝt vài đôi giày Adidas, giày da mӝc, vài đôi giày sản xuất tận bắc Phi, trung Phi và cận đông.
Thời gian trôi qua và lúc này tại khu vӵc nhà nguyện đã có rất nhiều người lui tới. Hӑ chӫ yếu là nhân viên sân bay, duy tu, bảo dưӥng mặc quần áo xanh lao đӝng, nhân viên an ninh luôn mặc quần áo đen và hình dáng cao lớn máy bӝ đàm lúc nào cũng kè kè bên mình, còn khách quá cảnh chỉ chiếm tỉ lệ rất ít. Cũng có người thường xuyên đến đây cầu nguyện: mӝt cô gái theo đạo Hồi xinh xắn người Libăng, mӝt bà mẹ và cậu con trai cao lớn người Bungari, mӝt người đàn ông nhӓ bé yếu đuối râu rậm, trông bề ngoài có lẽ đó là mӝt người Etiôpi- đôi mắt đӓ đӑc có lẽ sӧ hãi cảnh trống vắng nơi đây, lo sӧ thiếu dưӥng khí trước khi lên máy bay cho nên anh ta cần nguyện cầu mӝt lúc, còn Ferrer đến đây chỉ là sӵ bất đắc dĩ.
Chiếc xe hòm do Raputek lái mãi gần trưa mới tới nơi. Mӝt lần nӳa nhӳng chiếc thùng lại đưӧc chất lên xe rồi lại đưӧc dӥ xuống đưa vào hành lang, cẩn thận xếp vào xưởng vẽ, xong xuôi, Ferrer đi bӝ về nhà, anh ta đưa mắt nhìn khu nhà đang xây dӵng: hình như mới đào xong móng, và công nhân đang đặt khung sắt, mӝt chiếc cần cẩu màu đӓ đang lắp ráp hai chiếc cần cẩu lớn màu vàng. Tiếng ồn thật khӫng khiếp kéo dài triền miên.
Trong khi chờ đӧi, hôm nay là chӫ nhật, thời tiết đã sang hè, Paris im lìm gӧi nhớ sӵ im lìm cӫa băng giá, tất nhiên không còn mặt băng lạnh giá nӳa mà thay vào đó là mặt đường bị mặt trời nung nóng làm chảy lớp nhӵa bề mặt. Ferrer bước vào phòng nhưng lạ thay không có mùi nước hoa
Extatics Elixir cứ như sӵ lặng yên cӫa phố phường đã làm cho nó biến mất hoàn toàn đi đằng nào. Anh ta hӓi thăm người trӵc cәng, đưӧc biết trong thời gian Ferrer vắng nhà, Bérangère Eisnmann đã dời đi nơi khác. Như thế là không có người đàn bà nào trong lúc này rồi. Ferrer cởi bӓ đồ đạc, xem xét lại mӑi thứ, kiểm tra lại tấm lông thú lấy dưới tàu Nechilik : tấm lông thú hӓng hoàn toàn, lông bong ra từng mảng, ở nhiệt đӝ bình thường này tấm lông bắt đầu bөc ra. Ferrer quyết định vứt bӓ rồi vùi đầu vào đồng thư từ báo chí.
Mӝt đống báo chí, thư từ, như mӝt thứ phần thưởng, sau khi thanh toán xong mӑi hóa đơn, vứt hết mớ giấy mời, thiếp mời, thông báo và tạp chí vào sӑt, thì gần như không còn thứ giấy tờ nào khác ngoài tờ giấy triệu tập anh ta đến Tòa án trong thời gian ba tháng, tháng mười, để làm thӫ tөc li hôn với Suzanne. Thế là anh ta không còn vӧ, không còn người đàn bà nào khác nӳa, tình trạng này không thể để kéo dài. Không thể chậm trễ hơn đưӧc nӳa.
17
Thế là đã hai ngày trôi qua. Buәi sáng thứ ba, Ferrer có cuӝc hẹn ở phòng trưng bày với mӝt chuyên gia, người này đi cùng với mӝt người đàn ông và mӝt phө nӳ: cả hai là trӧ lí cӫa ông ta. Người chuyên gia tên là Jean Philippe Raymond, khoảng năm mươi tuәi, mӝt con dao săn đen ngòm giấu trong lớp áo choàng rӝng thùng thình, ánh mắt sắc lạnh. Anh ta đi lại cẩn trӑng nhưng không chắc chắn như bị mất thăng bằng, đôi khi phải nắm tay vào lưng ghế. Vì đã nhờ anh ta mӝt vài lần, nên Ferrer hiểu đôi chút về người chuyên gia này. Còn người trӧ lí bước đi mӝt cách mạnh bạo, và cứ năm phút lại lau tay vào khăn giấy ẩm. Còn cô trӧ lí, khoảng ba mươi tuәi, cô ta trả lời mӝt cách lạnh lùng, tên cô ta là Sonia. Tóc vàng, mắt xanh và khuôn mặt đẹp nhưng hơi khô khan, đầy vẻ lạnh lùng, áo sơ mi màu kem, tay lúc nào cũng bận bịu, mӝt bên cầm gói Benson, còn tay kia là chiếc điện thoại di đӝng hiệu Ericsson.
Ferrer mời hӑ ngồi xuống ghế rồi dӥ các món đồ mang về từ vùng đất lạnh. Vừa đặt đít ngồi xuống, ngay lập tức, Philippe Raymond chăm chú vào nhӳng cә vật nhưng không đưa ra mӝt lời bình phẩm nào, đôi khi buӝt miệng thả ra vài câu bí hiểm như tiếng lóng trong giới giang hồ. Sonia đứng sau lưng ông ta thầm thì cái gì đó vào máy điện thoại di đӝng với ai đó chẳng ai biết đưӧc nӝi dөng, rồi người đối thoại cũng trả lời cô ta nhӳng câu cũng rất trừu tưӧng. cuối cùng ông chuyên gia cùng với người trӧ lí ra về, còn Ferrer chẳng để ý gì làm đến nhӳng lời giải thích cӫa hӑ, chỉ chăm chú vào cô gái, ánh mặt hӑ giao nhau, đầy ngө ý.
Cả hai hiểu rõ ánh mắt đầy ngө ý ngay từ cái nhìn đầu tiền cӫa hai người không quen nhau và cả hai âm thầm vui sướng giӳa mӝt đám người xa lạ. Nhӳng ánh mắt thoáng qua ngắn ngӫi nhưng rất có ấn tưӧng và có pha trӝn đôi chút lo lắng, đôi khi cố ý giӳ ánh mắt giao nhau thật lâu mӝt cách thái quá, nhưng mất người kia chẳng ai nhận thấy, tuy nhiên có lúc Sonia cũng lúng túng nhầm lẫn cả chức năng mà cô đang thӵc hiện.
Toàn bӝ công việc giám định kéo dài khoảng mӝt tiếng đồng hồ, cả hai không mӝt ai quay lưng về phía Ferrer dù chỉ mӝt lần, nhưng rõ ràng nơi khóe miệng cӫa Jean-Philippe Raymond nhăn nhúm lại nhӳng nếp gấp đáng ngờ. Thái đӝ cӫa người giám định làm cho Ferrer hiểu ra rằng thế là toi công: tất cả không đáng giá mӝt xu, toàn bӝ chuyến đi thế là công toi. Nhưng cần đời, số tiền anh thu đưӧc từ vө buôn bán này trừ thuế đi có thể tương đương với giá bán mӝt hoặc hai lâu đài nhӓ vùng Loire đấy. Tôi không nói là Lâu đài Chambord hay Chenonceaux, tôi chỉ nói về nhӳng tòa lâu đài loại nhӓ hoặc loại vừa vừa thôi dạng như Montocontour hoặc Talcy, nhӳng tòa lâu đài ấy đã là đáng giá lắm rồi. Anh có két sắt chứ, người chuyên gia giám định hӓi. Ồ không, Ferrer đáp, két sắt ư, tôi chưa có đâu. Ờ nhưng mà có đấy, ngay ở phía sau đó, nhưng mà cái két ấy nhӓ quá.
Cần phải để tất cả nhӳng món đồ này vào trong két sắt, Jean- Philippe Raymond nói mӝt cách nghiêm chỉnh, mӝt cái két sắt loại lớn ấy. Anh không thể phơi bày nhӳng thứ này ở đây như thế này đưӧc đâu. Thêm nӳa phải thӓa thuận ngay với mӝt công ty bảo hiểm, anh không có két sắt nhưng có đưӧc mӝt người bảo hiểm tôi anh nhӳng món đồ này, thế cũng tốt rồi phải không? Vâng, Ferrer nói, ngày mai tôi sẽ làm tất cả nhӳng chuyện đó. Nếu tôi là anh, Raymond nói và đứng lên, tôi sẽ không chờ đến ngày mai đâu, nhưng mà thôi cái đó thì tùy anh. Bây giờ tôi phải đi đây, cô Sonia ở lại đây tính toán với anh về lệ phí giám định, anh có thể giải quyết mӑi chuyện với cô ta. Giải quyết mӑi chuyện với cô ta ư, Ferrer suy nghĩ, tất nhiên rồi.
Thế ngoài chuyện này ra, công việc buôn bán cӫa anh như thế nào? Raymond hӓi, giӑng lạnh nhạt, tay xӓ vào áo măng tô. Phòng trưng bày ư? Nói chung đều tốt cả, Ferrer nói chắc chắn. Tôi có mӝt vài ngôi sao, anh ta bịa chuyện nhằm gây ấn tưӧng với Sonia. Nhưng tôi không thể hai năm mӝt lần mang ra trưng bày đưӧc, với nhӳng ngôi sao thì đắt đӓ lắm. Tôi cũng có nhӳng tác phẩm cӫa nhӳng người mới vào nghề, nhưng đó lại là chuyện khác. Với nhӳng người mới vào nghề, không nên mang tác phẩm cӫa hӑ ra trưng bày ngay lập tức và quá thường xuyên. Tôi chỉ trưng bày tác phẩm cӫa hӑ thỉnh thӓang thôi. Làm như thế tôi thấy tốt hơn, anh ta nói thêm, chỉ tә chức cho hӑ nhӳng cuӝc triển lãm nhӓ thôi, thế cũng tốt lắm rồi. Anh ta ngừng lời, bởi ý thức đưӧc rằng lời nói cӫa mình đang rời vào khoảng không, mӑi người đang lơ đãng nhìn ra nơi khác.
"""