"
Tội Ác - Tess Gerritsen full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tội Ác - Tess Gerritsen full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
TỘI ÁC
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
Chương một
Chương hai
Chương Ba
Chương Bốn
Chương năm
Chương sáu
Chương bảy
Chương tám
Chương Chín
Chương Mười
Chương Mười một
Chương Mười hai
Chương Mười ba
Chương Mười bốn
Chương Mười lăm
Chương Mười sáu
Chương Mười bảy
Chương Mười tám
Chương Mười chín
Chương Hai mươi
Chương Hai mươi mốt
Chương Hai mươi hai
Chương Hai mươi ba
Chương Hai mươi bốn
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN
Gửi tới mẹ tôi, Ruby J. C. Tom, với tất cả tình yêu.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Peter Mars và Bruce Lake vì sӵ hiểu biết của họ về sở cảnh sát Boston.
Margaret Greenwall, bác sĩ y khoa đã cho tôi được tìm hiểu sâu về thế giới của việc khám nghiệm tử thi.
Gina Centrello vì sӵ nhiệt tình không biết mệt mỏi của bà. Linda Marrow, nhà biên tập cho mỗi tác giả.
Selina Walker, bạn đồng nghiệp tuyệt vời của tôi.
Jane Berkey, Donald Cleary và nhóm làm việc tuyệt vời tại Sở Jane Rotrosen.
Meg Ruley, bạn văn chương, nhà vô địch và ánh sáng chỉ đường cho tôi. Không ai có thể làm việc đó tốt hơn cô ấy.
Và gửi chồng tôi, Jacob, anh ấy vẫn là người bạn tốt nhất của tôi sau ngần ấy năm.
TESS GERRITSEN đã bỏ kỳ thӵc tập với tư cách một bác sĩ nội khoa để nuôi nấng con cái và tập trung vào công việc viết lách. Bà đã giành được sӵ khen ngợi trên khắp nước Mӻ cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình về sӵ ly kỳ mang tính chất y khoa, đó cũng là một trong những sách bán chạy nhất của Thời báo New York - tiểu thuyết Mùa gặt. Bà cũng là tác giả của các cuốn sách bán chạy như Biến mất, Khu vườn xương, Tội ác, Câu lạc bộ Mephisto, Cơ thể nhân đôi, Bác sĩ phẫu thuật, Nhân viên tập sӵ...
Tess Gerritsen sống tại bang Main.
MỞ ĐẦU
Thành phố Andhra Pradesh Ấn Độ
Người lái xe không chịu đưa ông đi xa hơn.
Cách đó một dặm, ngay sau khi họ vượt qua nhà máy hóa chất Bát Giác, vỉa hè đã nhường chỗ cho con đường bụi bặm. Lúc này, người lái xe càu nhàu là xe của anh ta đã bị cây bụi cào xước hết cả. Dạo này có mưa nên các vũng bùn khiến bánh xe bị sa lầy. Điều đó đã đưa họ đến nơi nào ? Phố Stranded, cách thành phố Hyderabad 150 cây số. Howard Redfield nghe những lời phàn nàn và biết rằng đó chỉ là sӵ dạo đầu cho lý do thật sӵ mà người lái xe không muốn đi tiếp. Chẳng ai dễ dàng thú nhận là mình nhát gan.
Không còn cách nào khác, Redfield phải đi bộ từ đoạn đó.
Ông trườn lên phía trước để nói vào tai người lái xe và liền ngửi thấy mùi mồ hôi của anh ta. Qua gương chiếu hậu, chỗ có những chuỗi vòng lạo xạo đang đung đưa, ông thấy đôi mắt đen sẫm của anh ta đang nhìn mình chằm chằm.
- Anh sẽ chờ tôi chứ ? Ở ngay chỗ này, trên đường - Redfield hỏi. - Bao lâu ?
- Có lẽ một tiếng. Lâu đấy.
- Có cóc gì mà xem xét. Chẳng ai sống ở đây nữa đâu. - Cứ chờ ở đây. Chờ đi rồi tôi sẽ trả anh gấp đôi khi về thành phố.
Redfield lấy ba lô, ra khỏi chiếc xe điều hòa và nhanh chóng lội xuống chỗ lầy lội. Ông đã không đeo ba lô từ hồi còn là một cậu sinh viên đại học, đi khắp châu Âu trên đôi giày vải.
Giờ, ông cảm thấy lạ là ở tuổi năm mươi mốt, lại tung tẩy ba lô trên đôi vai đã mềm nhão của mình. Nhưng ông sẽ rất khó chịu nếu đến bất cứ nơi ẩm thấp nào trên đất nước này mà không mang theo chai nước uống tinh khiết, thuốc chống côn trùng, kem chống nắng và thuốc tiêu chảy. Cả chiếc máy ảnh nữa, ông không thể bỏ quên.
Ông vã hết mồ hôi trong cái nóng của buổi chiều tối. Ông nhìn lên trời và nghĩ: Tuyệt ! Mặt trời đang lặn và tất cả bọn muỗi sẽ bay ra lúc chập tối. Bữa tối của chúng mày đây, lũ đáng nguyền rủa !
Ông đi xuống đường, cỏ cao che mất lối đi và ông giẫm vào một vũng nước khiến đôi ủng ngập trong bùn tới mắt cá chân. Rõ ràng là mấy tháng trời không có phương tiện nào đi lối này và thiên nhiên đã nhanh chóng chiếm lại địa hạt của mình. Ông dừng lại, thở dốc và đập lũ côn trùng. Ông quay lại và không thấy chiếc xe nữa. Điều này khiến ông khó chịu. Có tin được là người lái xe sẽ chờ ông không ? Phải khó khăn lắm anh ta mới đưa ông xa mức này và càng lo lắng hơn khi họ bị xóc nẩy lên như phi ngӵa trên con đường ngày càng xóc. Ở đây toàn bọn người xấu, anh ta nói vậy, rồi những chuyện khủng khiếp đã xảy ra ở chốn này. Họ có thể biến mất và ai thèm quan tâm đi tìm họ ?
Redfield bấm chân đi tiếp.
Không khí ẩm như vây lấy ông. Ông nghe thấy tiếng chai nước óc ách trong ba lô. Tuy khát nước nhưng ông không dừng lại để uống. Trời mới sáng được gần một tiếng, ông phải đi tiếp. Lũ côn trùng vo ve trong đám cỏ và ông nghe thấy tiếng gì như tiếng chim hót trên tán cây quanh ông nhưng nó không giống bất cứ tiếng hót ông đã từng nghe trước đây. Mọi thứ ở miền quê này thật lạ và kỳ quái. Ông rơi vào trạng thái như đang ngủ mơ, mồ hôi chảy xuống ngӵc. Nhịp thở của ông tăng dần theo mỗi bước đi. Theo bản đồ thì chỉ còn một dặm rưỡi nữa nhưng ông thấy như mình đi trong vô tận. Lớp kem chống côn trùng còn mới cũng không thể xua lũ muỗi. Tai ông đầy những tiếng vo ve còn mặt ông biến thành một cái tổ ong, đau điếng.
Ông ngã vào một vết lún sâu khác và khuỵu gối xuống cỏ. Ông gạt một đám bụi cây rồi bò trên đó, lấy lại hơi. Ông quá chán nản và kiệt
sức đến nỗi ông quyết định đã đến lúc quay trở lại, phải bắt chuyến bay trở về Cincinnati với đôi chân dính vào nhau. Nói cho cùng thì sӵ hèn nhát vẫn là an toàn hơn cả, dễ chịu hơn cả.
Ông thở dài, ấn chặt tay xuống đất đẩy mình đứng lên. Ông lặng yên, nhìn đám cỏ. Có vật gì đó lấp lánh giữa những cọng cỏ xanh, một thứ bằng kim loại. Nó chỉ là một chiếc cúc áo bằng thiếc rẻ tiền nhưng vào lúc này nó khiến ông nhận ra một dấu hiệu. Một loại bùa chú. Ông thả nó vào túi áo, đứng lên và đi tiếp.
Chỉ cách đó vài mét, con đường bỗng dẫn đến một khoảng đất trống rỗng, bao quanh là những cây cao. Một khối gì đó đứng lù lù ở góc xa, một tòa nhà bằng gỗ than cháy dở với mái bằng thiếc múi. Những cành cây ngổn ngang và cỏ đung đưa trong làn gió nhẹ.
Chính nơi này rồi, ông nghĩ. Đây là nơi việc đó đã xảy ra.
Đột nhiên ông thở gấp. Tim đập mạnh, ông tuột ba lô xuống, mở nó ra và lấy máy ảnh. Phải ghi lại mọi việc, ông nghĩ. Lầu Năm Góc sẽ cố gắng biến người ta thành một kẻ nói láo. Họ sẽ làm mọi việc để
làm mất danh dӵ của người khác nên phải cảnh giác để tӵ bảo vệ mình. Phải chứng minh là mình đang nói sӵ thật.
Ông đi về khu đất trống, về những đống cành cây cháy đen thui. Ông lấy giày đá những thanh củi, lục tung đống gỗ. Ông lui lại, một cơn ớn lạnh trườn khắp sống lưng.
Đây là phần còn lại của một giàn thiêu.
Bàn tay vã mồ hôi, ông lấy ống kính ra và bắt đầu chụp ảnh. Mắt đặt vào ống ngắm, ông chụp hết bức này đến bức khác. Phần còn lại của một ngôi lều cháy dở. Một chiếc giày trẻ con nằm trên cỏ. Một mảnh vải sáng màu được xé ra từ váy quần. Nơi nào ông cũng thấy sӵ chết chóc.
Ông lia sang phải, một mảnh thảm thêu màu xanh lục lướt qua ống kính của ông. Ông định chụp một tấm khác thì những ngón tay ông cứng lại trên nút bấm.
Một cái bóng lướt nhanh qua mép ống kính.
Ông hạ máy ảnh xuống, đứng thẳng lên và nhìn những cái cây. Giờ ông chẳng thấy gì, ngoài những cành cây đang đưa đi đưa lại.
Đó... một cái bóng chuyển động ở ngay tầm mắt của ông ?
Ông chỉ thoáng thấy thứ gì đó sẫm màu, ẩn nấp sau những cái cây. Một con khỉ chăng ?
Ông lại chụp tiếp. Ánh sáng đang tàn nhanh.
Ông đi qua một chiếc giếng đá, qua tòa nhà mái thiếc, quần dính vào cỏ. Ông vừa đi vừa nhìn sang hai bên. Những cái cây dường như có mắt và chúng đang nhìn ông, khi lại gần tòa nhà ông thấy
những bức tường bị lửa đốt cháy sém. Trước lối vào là một đống tro bụi và cành cây đen xì. Một giàn thiêu khác.
Ông đi quanh nó, nhìn vào, đầu tiên ông hầu như không thể nhìn thấy những gì bên trong. Ánh sáng ban ngày tàn đi quá nhanh; bên trong, thậm chí còn tối hơn, chỉ là những mảng màu đen và sáng; ông dừng lại khi mắt đã thích nghi. Mỗi thứ ông chứng kiến ngày càng làm ông hoảng loạn, ông nhìn thấy một chút nước ngọt trong một cái bình bằng đất nung. Mùi của hương liệu sao có thể như vậy nhỉ ?
Sau lưng ông một cành cây bị gãy.
Ông quay đầu lại.
Một bóng đen duy nhất đang đứng ở khu đất trống. Xung quanh cây cối im phăng phắc, cả lũ chim cũng ngừng hót. Bóng đen tiến lại gần về phía ông, di chuyển với một điệu bộ nhát ngừng, cho tới khi nó điứng chỉ cách ông chưa tới một mét.
Máy ảnh tuột khỏi tay Redfield (bạn nên nhớ cái tên này, vì nó sẽ xuất hiện trong truyện khá mờ nhạt). Ông quay đi một cách sợ hãi.
Đó là một phụ nữ. Cô ta không có khuôn mặt.
Chương một
Người ta gọi cô là Nữ Hoàng Thần Chết.
Dù không ai dùng tên đó trước mặt cô nhưng bác sĩ Maura Isles đôi khi nghe thấy biệt danh đó một cách thoáng qua khi cô đi qua tam giác công việc của mình: tòa án, hiện trường vụ án và nhà xác. Có lúc cô còn nhận ra sӵ châm biếm cay nghiệt: Ha ha, cô ta đến kìa, Nữ thần của chúng ta đã đến đây để thu lượm những vật thể bằng thịt. Những lời xì xào mang giọng điệu run rẩy và ghê sợ, giống như những lời bàn tán của những kẻ sùng đạo. Đó là sӵ ghê sợ của những ai không thể hiểu nổi tại sao cô lại chọn con đường của Thần chết. Họ băn khoăn, tại sao cô lại thích điều đó ? Việc chạm vào da thịt lạnh ngắt, mùi thối của sӵ phân hủy có sức hấp dẫn với cô mức nào mà cô lại quay lưng lại với những người còn sống ? Họ nghĩ điều đó thật bất thường, họ nhìn theo cô một cách khó chịu và xoi mói những chi tiết củng cố niềm tin của họ rằng cô là một kẻ quái dị. Da trắng ngà, tóc đen với kiểu đầu thẳng như nữ hoàng Cleopatra. Đường son môi màu đỏ. Liệu có ai khác tô son khi đến hiện trường không ? Và trên hết, sӵ bình tĩnh của cô khiến họ khó chịu, cái nhìn vương giả lạnh lùng của cô khi cô điều tra những thứ đáng sợ mà họ không thể chịu nổi. Khác với họ, cô không ngoảnh đi mà cúi sát xuống, nhìn chăm chú và sờ nắn. Cô còn ngửi nữa - trên những cái xác.
Sau đó, dưới bóng đèn sáng trưng trong phòng khám nghiệm tử thi, cô cắt mổ.
Giờ đây cô đang mổ. Con dao cắt xuyên qua lớp da lạnh, qua lớp mờ dưới da đã hơi có màu vàng bóng. Một người thích bánh kẹp thịt và đồ rán, cô nghĩ vậy khi dùng những chiếc kéo lớn để cắt qua xương sườn và lật lớp bảo vệ hình tam giác của xương ức, như thể người ta mở cánh tủ bát đĩa làm lộ ra những thứ quý giá bên trong.
Quả tim nằm gọn giữa hai lá phổi xốp. Trong suốt năm mươi chín năm, nó đã bơm máu đi khắp cơ thể ngài Samuel Knight. Nó đã lớn lên cùng ông ta, thoái hóa cùng ông ta và chuyển từ các cơ bắp của thời trai trẻ thành đám thịt đầy mỡ. Cuối cùng, nó không còn bơm máu được nữa và ông Knight cũng không thể trụ được khi ông ngồi trong khách sạn Boston của mình với chiếc vô tuyến đang mở và một cốc rượu whiskey lấy từ quầy rượu nhỏ gần bàn ở đầu giường.
Cô không dừng lại để suy nghĩ xem những cảm xúc cuối cùng của ông ta là gì, liệu ông ta thấy đau đớn hay sợ hãi. Mặc dù cô đã khám phá những phần nằm sâu nhất, đã mở phanh lớp da và cầm quả tim của ông ta trong tay thì ông Knight vẫn xa lạ với cô, một người trầm tĩnh và không đòi hỏi, luôn sẵn sàng tìm ra các bí mật. Người chết vốn kiên nhẫn. Họ không phàn nàn, không đe dọa và cũng chẳng tâng bốc ai.
Người chết không làm người ta tổn thương, chỉ người còn sống mới làm vậy.
Cô làm việc hiệu quả rõ rệt, cắt bỏ phần nội tạng và đặt quả tim tách rời trên bàn mổ. Bên ngoài, những bông tuyết đầu tiên của tháng mười hai đang xoay trong không gian. Những bông tuyết trắng đập nhẹ vào cửa sổ và rơi xuống lối đi. Nhưng trong căn phòng này chỉ có tiếng nước chảy và tiếng kêu của quạt thông gió. Trợ lý của cô, anh Yoshima, đi lại trong sӵ im lặng kỳ lạ, chờ mệnh lệnh của cô và đưa cô bất cứ thứ gì cô cần. Họ làm việc cùng nhau mới được năm rưỡi nhưng đã ăn ý như một hệ thống dây truyền. Được liên kết bởi thần giao cách cảm của hai bộ óc. Cô không yêu cầu anh chỉnh lại đèn. Nó đã được chỉnh, đèn soi vào quả tim đang nhỏ máu, một chiếc kéo được sắp sẵn, chỉ chờ cô cầm nó lên.
Vách tâm thất có màu đậm và một vết sẹo màu trắng trên đỉnh cho cô biết câu chuyện đáng buồn về quả tim này. Một cơn đau tim đột ngột đã hủy hoại một phần vách tâm thất. Trong khoảng hai mươi bốn giờ qua, một cơn nhồi máu đã xảy ra. Cục máu tụ làm tắc động mạch vành phải, làm tắc mạch máu tới cơ ở tâm thất phải. Cô tách mô để nghiên cứu về mô học và biết trước mình sẽ nhìn thấy gì dưới kính hiển vi. Các bạch cầu đã xâm chiếm và di chuyển như một
đội quân bảo vệ. Có lẽ ông Samuel Knight đã cho rằng cơn đau tim của ông ta là chứng khó tiêu hóa. Ông ta ăn trưa quá nhiều, đáng lẽ ông ta không nên ăn hết chỗ hành đó. Có lẽ thuốc Pepto-Bosmot đã
chơi xỏ ông ta. Hoặc có lẽ ông ta đã coi thường những điềm xấu: tim ông ta trở nên nặng nề hơn, hơi thở gấp gáp. Chắc chắn ông ta không nghĩ rằng ông ta bị một cơn đau tim.
Một ngày sau ông ta chết vì chứng loạn nhịp tim.
Giờ quả tim nằm trên khay, bị mổ phanh và bị cắt thành nhiều phần. Cô nhìn cái xác đã không còn các bộ phận. Vậy là kết thúc chuyến công tác của ông ta tới thành phố Boston, cô nghĩ, không có gì ngạc nhiên ở đây. Không có âm mưu nào, trừ việc ông ta đã quá lạm dụng cơ thể mình, ngài Knight ạ !
Máy bộ đàm rung.
- Bác sĩ Isles ? - Đó là Louise, thư ký của cô.
- Gì vậy ?
- Thám tử Rizzoli đang chờ điện thoại của cô. Cô nghe điện chứ ? - Tôi sẽ nghe.
Maura tháo găng tay, tới chỗ điện thoại treo trên tường. Yoshima rửa các dụng cụ trong bồn rồi tắt vòi nước. Anh ta quay lại nhìn cô bằng cặp mắt yên lặng của một con cọp và biết cuộc gọi đó là của Rizzoli.
Cuối cùng, khi Maura gác máy, cô thấy sӵ dò xét trong ánh mắt anh ta.
- Việc xảy ra sáng sớm hôm nay - cô thông báo. Rồi cô tháo áo choàng nhà xác để đối đầu với một vụ mới trong lãnh địa của riêng cô.
***
Những bông tuyết buổi sáng đã biến thành một thứ hỗn họp dễ đánh lừa người đi đường, không thấy máy xóc tuyết của thành phố đâu. Maura lái xe cẩn thận trên đại lộ Jamaica Riverway, bánh xe nghiến trên những chỗ lún sâu, cần gạt kính chắn gió đưa đi đưa lại liên tục trên mặt kính. Đây là trận bão mùa đông đầu tiên trong năm và các lái xe vẫn chưa kịp thích nghi với điều kiện thời tiết này. Một vài vụ tai nạn đã xảy ra trên đường, cô đi qua chiếc xe tuần tra đang đỗ, đèn của nó nhấp nháy. Cảnh sát tuần tra đang đứng bên cạnh một lái xe tải, cả hai đang nhìn chiếc xe hơi đã đâm xuống mương nước.
Những bánh xe Lexus của cô bắt đầu trượt sang bên đường. Phần mui xe lao vào đám xe cộ đi ngược chiều. Cô hoảng loạn, cảm thấy bộ phận điều khiển xe tӵ động đã được kích hoạt. Cô lái xe sang vào đúng làn đường. Chết tiệt thật, cô nghi và tim đập mạnh, mình đang đi về phía California. Cô điều khiển xe chậm lại như đang bò, không thèm để ý ai bấm còi phía sau hay cô đã làm ùn tắc bao nhiêu xe cộ. Vượt lên đi, vượt lên đi, đồ ngu ! Tôi đã gặp quá nhiều tay lái xe như các người trong phòng mổ của tôi rồi.
Con đường đưa cô đến Jamaica Plain, giáp phía tây Boston với những tòa lâu đài cổ kính và những đồng cỏ mênh mông, những công viên và bờ sông yên ả. Vào mùa hè, đây sẽ là nơi nghỉ ngơi thư giãn khỏi tiếng ồn và bụi bặm của thành phố Boston. Nhưng hôm nay, dưới bầu trời đầy vẻ đe dọa, gió thổi qua những cánh đồng trống không thì nó biến thành một nơi cô quạnh.
Địa chỉ mà cô tìm kiếm dường như bị ngăn cách với cuộc sống ồn ào bên ngoài, tòa nhà lùi sâu sau một bức tường cao, trên đó lớp băng đã phủ kín. Một hàng rào ngăn cách tòa nhà với thế giới bên ngoài, cô nghĩ. Từ ngoài đường, tất cả những gì cô có thể thấy là
những ngọn tháp theo kiểu gô-tic của mái nhà lợp ngói đen và ô cửa tháp hình tam giác đang nhìn chòng chọc về phía cô như những con mắt đen tối. Một chiếc xe tuần tra đỗ gần cổng trước, chứng tỏ cô đã tìm đúng địa chỉ, có vài chiếc xe khác đến trước - đây là đội xe khẩn
cấp trước khi các chuyên gia nghiên cứu hiện trường đến.
Maura đỗ xe ngang đường và đi ngược lại trước đợt gió đầu tiên, khi bước ra khỏi xe, giày cô bị trượt và cô không thể giữ thăng bằng,
phải bám vào cửa xe. Khi đã đứng lại được, cô cảm thấy nước băng chảy xuống lòng bàn chân từ mép áo khoác. Cô đứng đó một lúc, cái lạnh làm mặt cô nhói buốt.
Cô đảo mắt nhanh sang bên kia đường, nơi một cảnh sát tuần tra đang đứng cạnh chiếc xe, anh ta nhìn cô và chắc là đã thấy cô bị trượt chân. Sӵ kiêu hãnh của cô bị tổn thương, cô vơ lấy dụng cụ ở ghế trước, đóng mạnh cửa xe và đi tới bằng tất cả lòng tӵ trọng của mình, cô bước qua con đường trơn trượt.
- Cô ổn chứ, bác sĩ ? - Viên cảnh sát nói với ra qua cửa xe, một sӵ quan tâm cô không thӵc sӵ muốn.
- Không sao.
- Cẩn thận với đôi giày đó nhé ! Trong sân còn trơn hơn đấy. - Thám tử Rizzoli đâu ?
- Họ đang ở trong nhà thờ.
- Nó ở đâu ?
- Nó không lẫn đi đâu được. Cửa có dấu thập lớn đó.
Cô đi về phía cổng trước nhưng thấy nó bị khóa. Một cái chuông sắt được treo trên tường, cô giật dây chuông, những tiếng kêu thời trung đại dần tan vào những tiếng nhỏ giọt êm hơn - tiếng tuyết rơi. Ngay dưới chiếc chuông là một tấm biển khắc chữ bằng đồng. Chữ khắc trên đó đã phần nào bị mờ đi bởi vệt băng màu nâu.
Tu viện đá xám
Các bà sơ đáng kính của Ánh sáng Linh thiêng.
"Mùa mưa thӵc sӵ rất tốt nhưng có ít nhân lӵc.
Vì vậy hãy cầu nguyện để đưa thêm nhân công tới nơi thu hoạch"
Bên kia cánh cổng, một người phụ nữ vận đồ đen thình lình xuất hiện. Bà ta xuất hiện nhẹ nhàng đến nỗi Maura giật thót khi cô thấy khuôn mặt đó nhìn chằm chằm vào cô qua các song sắt. Đó là một khuôn mặt già nua, các nếp nhăn sâu như những rãnh nước.
Cánh cổng mở ra kêu cót két.
Maura bước vào sân trong.
- Tôi đang tìm bác sĩ Rizzoli, tôi nghĩ rằng cô ấy ở trong nhà nguyện.
Bà sơ chỉ thẳng qua sân. Rồi bà ta quay đi, chầm chậm bước vào lối đi gần nhất, bỏ lại Maura tӵ tìm đường đến nhà nguyện.
Những bông tuyết lượn vòng quanh và nhảy múa giữa những lớp tuyết tan ra như những con bướm trắng lượn quanh những người bạn chân chì. Đường ngắn nhất là đi ngang qua sân nhưng những viên đá đã phủ đầy băng và đôi giày đế trơn của Maura không hợp với bề mặt như vậy. Thay vào đó, cô lần mò lối đi nhỏ ở bên dưới. Nó chạy dọc theo đường bao quanh sân. Mặc dù tránh được tuyết
tan ở đây nhưng cô không tránh được cơn gió đang lùa qua áo khoác. Cái lạnh khiến cô ngỡ ngàng, nó nhắc nhở cô tháng mười hai ở Boston có thể khắc nghiệt mức nào. Phần lớn thời gian của mình, cô sống ở Sanfancisco, nơi chỉ có một bông tuyết nhỏ đã là niềm vui thích hiếm hoi, chứ không gây phiền toái, giống như những lá tầm ma nhói buốt này đang xoay trên không để đâm vào mặt cô. Cô đi lại gần tòa nhà hơn và ôm chặt áo khi đi qua những ô cửa tối tăm. Ở ngoài cổng vọng lại âm thanh ầm ì của xe cộ trên đại lộ Jamaica. Nhưng ở đây trong bốn bức tường cô chỉ thấy sӵ tĩnh lặng.
Trừ bà sơ đã cho cô vào, nơi này dường như đã bị bỏ hoang.
Vì vậy cô rất ngạc nhiên khi thấy ba khuôn mặt đang nhìn cô chòng chọc từ một trong các ô cửa. Các nữ tu đứng yên lặng như những con ma vận áo choàng đen sau tấm kính để xem kẻ xâm nhập đi sâu vào thánh địa của họ. Ánh mắt họ cùng lúc di chuyển và bám theo cô khi cô đi qua.
Lối vào nhà nguyện được chăng dây ngăn hiện trường màu vàng đã trũng xuống ở lối vào và dính đầy băng tuyết. Cô nâng dải băng lên, bước bên dưới, đẩy cửa ra.
Ánh đèn máy ảnh đập vào mắt. Cô đứng yên, cánh cửa từ từ kêu và đóng lại sau lưng cô. Cô chớp mắt để xua hết những dư ảnh đã in lên võng mạc. Khi tầm nhìn đã rõ trở lại, cô thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường trắng phau. Trước nhà nguyện, cây thánh giá lớn được treo ngay trên bàn nguyện. Đó là một căn phòng đơn sơ, lạnh lẽo. Sӵ ảm đạm của nó càng được tôn thêm bởi những ô cửa sổ bằng kính màu. Chúng chỉ cho ánh sáng lờ mờ lọt vào.
- Đứng ngay đó. Cẩn thận bước chân đấy ! - Người chụp ảnh nói.
Maura nhìn xuống sàn nhà bằng đá và thấy máu. Có nhiều dấu chân — một tập hợp hỗn loạn cùng với những mảnh thiết bị y tế. Các đầu ống xi-lanh và các băng quấn bị xé rách. Những gì còn sót lại của đội cứu thương. Nhưng không có ai cả.
Anh mắt cô đảo một vòng lớn hơn và thấy một mảnh vải trắng trên lối đi, các vết máu văng lên các hàng ghế. Cô thấy hơi thở của chính mình trong nhà nguyện lạnh lẽo. Nhiệt độ có vẻ như hạ thấp hơn khi ở trong này. Sӵ ớn lạnh của cô càng tăng khi cô nhìn thấy dấu máu, thấy hàng loạt vết máu văng lên những hàng ghế và hiểu chuyện gì đã xảy ra ở đây.
Người chụp ảnh bắt đầu chụp thêm, mỗi lần như vậy là một sӵ tra tấn đối với đôi mắt của Maura.
- Này, bác sĩ ? - Phía trước nhà nguyện, một mớ tóc đen xuất hiện, thám tử Jane Rizzoli đứng lên vẫy tay - Nạn nhân ở đằng này.
- Còn các vết máu ở đây, trên sàn thì sao ?
- Đó là của một nạn nhân khác, sơ Ursula. Các nhân viên đội cấp cứu đã đưa bà ấy đến bệnh viện St, Francis. Có thêm vết máu dọc các dãy ghế. Chúng tôi đang cố giữ vài dấu chân vì vậy cô nên đi vòng sang bên trái. Đi sát vào tường nhé !
Maura dừng lại đeo giấy bọc giày rồi đi sát vào mép phòng, bám chặt vào tường. Chỉ khi đi qua các hàng ghế đầu, cô mới thấy thi thể một tu sĩ, nằm sấp, bộ lễ phục nhuộm trong vũng máu. Cả hai tay tu sĩ đã được cho vào túi để giữ gìn vật chứng. Sӵ trẻ trung của nạn nhân khiến Maura ngạc nhiên. Bà sơ cô gặp ở cổng và những sơ cô thấy trên cửa sổ đều già nua. Cô gái này trẻ hơn nhiều. Đó là một khuôn mặt thanh tú, đôi mắt xanh lơ nhợt nhạt có một vẻ gì đó khiếp sợ. Đầu cô để trần, mái tóc vàng được cắt ngắn chưa đầy ba phân. Mỗi cú đánh khủng khiếp được ghi lại trên hộp sọ bị vỡ toác, đỉnh đầu đã bị mất một nửa.
- Tên cô ấy là Camille Maginnes, sơ Camille. Quê: Hyannisport - Rizzoli nói với vẻ kiểu cách và rất công việc - Cô ấy là người mới tu duy nhất mà họ có trong mười lăm năm trở lại đây. Họ dӵ kiến cho cô ấy thӵc hiện lời thề cuối cùng vào tháng năm này.
Cô dừng lại và nói thêm.
- Cô ấy mới hai mươi tuổi - sӵ giận dữ của Rizzoli thể hiện rõ ra bên ngoài.
Cô ấy trẻ quá.
- Đúng vậy. Có vẻ như hắn đã giết chết thời thiếu nữ của cô ấy.
Maura đeo găng tay, quỳ xuống để kiểm tra những tổn thương. Vũ khí giết người đã để lại các vết nứt lớn trên hộp sọ. Các mảnh xương vụn đâm xuyên qua da bị xé rách và một khối chất màu xám bị thòi ra. Dù da mặt phần lớn vẫn nguyên vẹn, nó đã chuyển thành màu tím sẫm.
- Cô ấy chết úp mặt xuống. Ai đã lật cô ấy lên ?
- Bà sơ tìm thấy cô ấy - Rizzoli nói - Họ đã bắt mạch. - Nạn nhân được tìm thấy lúc mấy giờ ?
- Gần tám giờ sáng nay - Rizzoli nhìn đồng hồ đeo tay - Cách đây gần hai tiếng.
- Cô biết chuyện gì xảy ra không ? Các bà sơ đã nói gì với cô ?
- Thật khó để khai thác một thông tin hữu ích từ họ. Họ chỉ còn lại mười bốn người và tất cả đều trong tình trạng kinh hãi. Họ nghĩ ở đây họ sẽ được an toàn, được Chúa bảo vệ. Rồi một kẻ điên loạn đã xâm nhập vào đây.
- Có dấu hiệu nào của việc đột nhập không ?
- Không. Chẳng khó khăn lắm để đột nhập vào khu này. Băng đã bám khắp các bức tường - cô có thể nhảy ngay qua mà không có khó khăn gì. Có một cổng sau dẫn ra cánh đồng, chỗ có khu vườn. Kẻ giết người có thể vào lối đó.
- Các dấu chân thì sao ?
- Có vài dấu chân ở đây. Nhưng bên ngoài hầu hết đã bị tuyết xóa hét.
- Vậy là ta không biết hắn có thӵc sӵ đột nhập hay không. Hắn có thể đã được cho vào qua cửa trước.
- Đó là một lệnh cấm của tu viện, bác sĩ ạ. Không ai được phép vào bên trong cổng, trừ cha xứ khi ông ta vào làm lễ và nghe xưng tội. Có một chị làm việc tại nhà của mục sư. Họ cho phép chị ấy đem đứa con nhỏ theo khi chị ấy không thể chăm sóc nó. Nhưng mọi chuyện là thế đấy. Không ai khác được vào mà không có sӵ đồng ý của bà Trưởng tu viện. Các bà sơ ở bên trong. Họ chỉ rời tu viện khi gặp bác sĩ và khi nhà có việc gấp.
- Đến giờ thì những ai đã nói chuyện với cô ?
- Bà trưởng tu viện, sơ Mary Clement và hai bà sơ đã tìm thấy nạn nhân.
- Họ nói với cô điều gì ?
Rizzoli lắc đầu.
- Không thấy gì. Không nghe gì. Tôi nghĩ là những người khác cũng chẳng cho ta biết gì hơn.
- Sao không ?
- Cô thấy họ già thế nào chưa ?
- Điều đó không có nghĩa là họ không có trí khôn để biết việc đó.
- Một trong số họ đã bị ốm yếu sau cơn đột quỵ, hai trong số họ bị bệnh run tay chân. Hầu hết họ đều ở trong những phòng ngủ quay theo hướng ngược lại với sân nên họ không thấy gì cả.
Đầu tiên, Maura cúi xuống xác của Camille, không chạm vào nó. Cô nhìn nạn nhân với sӵ kiêu hãnh trong những phút cuối cùng. Giờ thì chẳng có gì có thể làm cô ấy đau được nữa, cô nghĩ. Cô bắt đầu sờ nắn xác chết và cảm thấy nhiều mảnh xương vỡ vụn chuyển động
dưới lớp da. Nhiều cú đánh. Tất cả đều tập trung ở phần đỉnh đầu hay phần sau hộp sọ.
- Còn phần thâm tím ở mặt thì sao ? Nó chỉ tím bầm phải không ? - Đúng vậy.
- Như vậy các cú đánh đi từ phía sau và phía trên.
- Kẻ tấn công có lẽ cao hơn.
- Hoặc cô ta khụy xuống và hắn đứng cao hơn - Maura dừng lại, tay cô chạm vào phần thịt lạnh cóng và bị xúc động bởi hình ảnh đáng thương của tu sĩ trẻ tuổi này, người đã quỳ gối trước kẻ tấn công và những cú đánh giáng như mưa xuống phần đầu quấn khăn của cô.
- Kẻ khốn nào có thể rình rập để tấn công các sơ như thế chứ ? Chuyện chết tiệt gì đang xảy ra với thế giới này vậy ? - Rizzoli bӵc bội.
Maura nhăn mặt vì cách dùng từ của Rizzoli. Dù cô không thể nhớ lần cuối cô đặt chân vào nhà thờ là khi nào, cô đã không tin vào nó cách đây nhiều năm nhưng việc nghe thấy những lời khiếm nhã ở
nơi linh thiêng này làm cô khó chịu. Sӵ giáo dục lúc còn nhỏ đã ngấm sâu vào cô. Dù các vị thánh và điều kì diệu với cô chỉ là ảo tưởng nhưng cô không bao giờ chửi thề khi nhìn thấy dấu thánh.
Chắc là Rizzoli quá giận dữ nên không quan tâm đến những lời buột khỏi miệng cô, dù là ở nơi linh thiêng này. Tóc cô rối hơn mọi khi. Đó là một mớ tóc đen, hoang dại, lấp lánh băng tuyết. Xương gò má cô
nhô lên thành một góc sắc cạnh dưới nước da xanh xao. Trong sӵ tối tăm của nhà nguyện, ánh mắt cô như những ánh lửa, cháy trong đó sӵ tức giận. Sӵ tức giận mạnh mẽ luôn luôn là sức mạnh của Rizzoli, là bản chất khiến cô đi săn những con quỷ. Dù hôm nay cô có vẻ vàng vọt, gầy hơn nhưng ngọn lửa ấy đã cháy lên từ bên trong.
Maura không muốn thêm dầu vào lửa. Cô giữ cho giọng mình có vẻ lãnh đạm, các câu hỏi mang tính chất công việc. Đó là một nhà khoa học đang giải quyết với thӵc tế, chứ không phải những cảm xúc.
Cô cầm cánh tay sơ Camille, kiểm tra khớp tay.
- Nó mềm nhũn. Chưa có sӵ đông cứng xác.
- Vậy thì không đến năm hay sáu giờ phải không ?
- Ở đây cũng lạnh nữa.
Rizzoli khịt mũi, thở ra một làn khí trắng trong không khí. - Không đùa đâu.
- Chỉ hơn mức đóng băng, tôi nghĩ vậy. Quá trình cứng xác sẽ bị trì hoãn.
- Bao lâu ?
- Gần như mãi mãi.
- Còn mặt cô ấy thì sao ? Các vết tím bầm có sẵn à ?
- Xác còn mềm, có thể duy trì trong nửa giờ nữa. Nó không giúp chúng ta nhiều trong việc tìm ra giờ cô ấy chết.
Maura mở hộp dụng cụ, lấy ra nhiệt kế để đo nhiệt độ môi trường. Cô nhìn nhiều lớp quần áo của nạn nhân và quyết định không đo nhiệt kế trӵc tràng cho tới khi thi thể đã được đưa đến nhà xác. Căn phòng này không đủ sáng nên không phải là nơi cô có thể phát hiện ra việc cưỡng hiếp căn cứ vào việc dùng nhiệt kế. Việc cởi bỏ quần áo cũng có thể là cớ để bị đuổi ra. Thay vào đó, cô lấy xi-lanh ra để hút chất lỏng trong suốt ở các cấp độ kali khác nhau. Điều đó sẽ cho phép cô ước tính thời gian xảy ra án mạng.
- Cho tôi biết về nạn nhân kia đi - Maura nói khi cô đâm kim vào mắt trái nạn nhân, từ từ hút dịch trong vào xi-lanh.
Rizzoli phát ra tiếng rên khó chịu khi nhìn thấy việc đó và quay đi.
- Nạn nhân được tìm thấy gần cửa là sơ Ursula Rowland. Đó chắc chắn là một con chim già dai sức. Họ nói bà ấy đã cử động tay khi họ đưa bà ấy vào xe cứu thương. Frost và tôi ở đây khi họ đi rồi.
- Bà ấy bị thương nặng không ?
- Tôi không thấy bà ấy. Bản báo cáo cuối cùng chúng tôi có từ bệnh viện St. Francis là giờ bà ấy đang ở phòng mổ. Có nhiều vết nứt trên hộp sọ và việc cki hảy máu trong não.
- Giống nạn nhân này à ?
- Đúng. Như Camille - Sӵ giận dữ trở lại trong giọng nói của Rizzoli
Maura đứng lên, run lẩy bẩy. Quần cô đã bị ngấm nước băng từ mép áo khoác chảy xuống. Cặp chân cô cứng đơ vì băng lạnh. Cô được thông báo trên điện thoại là vụ án xảy ra trong nhà nên cô không mang theo khăn quàng hay găng tay ở trong xe. Căn phòng không được sưởi ấm này còn không ấm bằng ngoài sân. Cô thọc
hai tay vào túi áo và băn khoăn không biết làm thế nào mà Rizzoli không quàng khăn hay đeo găng tay lại có thể nán lại lâu như vậy trong nhà nguyện này. Rizzoli dường như mang trong mình một nguồn nóng ấm, một cơn giận dữ. Dù môi cô đã chuyển sang màu tím, cô vẫn có vẻ không vội để tìm một căn phòng ấm áp sớm hơn.
- Sao ở đây lạnh vậy ? - Maura hỏi - Tôi không thể hình dung là họ sẽ tổ chức lễ cầu nguyện ở đây.
- Không, họ không làm vậy. Phần này của tòa nhà không bao giờ được sử dụng trong mùa đông... quá đắt đỏ để sưởi ấm nó. Ở đây còn ít người sống. Nên vào dịp cầu nguyện, họ sử dụng một nhà nguyện nhỏ trong nhà của linh mục.
Maura nghĩ về ba bà sơ cô thấy qua cửa sổ, tất cả bọn họ đều già nua. Các bà sơ đang sống trong khiếp sợ và tắt dần từng người một.
- Nhà nguyện này không được dùng - cô nói - vậy những nạn nhân này làm gì ở đây ?
Rizzoli thở dài, hơi thở của cô biến thành một vệt nước dài hình con rồng.
- Không ai biết cả. Bà trưởng tu viện nói lần cuối cùng bà ấy thấy sơ Ursula và cô Camille là ở nhà nguyện đêm qua, tầm chín giờ. Khi họ không có mặt tại buổi nguyện sáng nay, các bà sơ đã đi tìm. Họ không nghĩ là sẽ tìm thấy hai người ở đây.
- Tất cả những cú đánh đều giáng xuống đầu cô ấy. Có vẻ như đây là một cơn thịnh nộ cӵc điểm.
- Nhưng nhìn mặt cô ấy xem ! - Rizzoli nói và chỉ vào Camille - Hắn không đánh vào mặt cô ấy. Hắn chừa mặt cô ấy ra. Điều đó khiến việc này không có vẻ riêng tư. Có thể hắn không đập cô ấy vào một chỗ cụ thể mà đánh vì cô ấy đã có mặt ở đó. Vì thứ mà cô ấy tượng trưng cho.
- Quyền lӵc ư ? - Maura hỏi - Hay sức mạnh ?
- Thật buồn cười. Tôi sẽ nói một thứ gì đó nằm trong chuỗi niềm tin, hy vọng và sӵ từ thiện.
- Ô, tôi đã theo học trường cấp hai Đạo thiên Chúa. - Cô á ? - Rizzoli khịt mũi - Tôi chẳng bao giờ đoán được điều đó.
Maura hít sâu luồng khí lạnh, nhìn lên cây thánh giá và nhớ lại những năm ở Học viện Các con chiên thần thánh. Cô nhớ những trò tra tấn điển hình của sơ Magdalene dạy môn lịch sử. Sӵ trừng phạt không phải về thể xác mà về tinh thần, được đề ra bởi một phụ nữ nhanh chóng xác định được các cô gái, theo bà ta, có một sӵ tӵ tin thái quá. Khi mười bốn tuổi, bạn thân nhất của Maura không phải là con người mà là những cuốn sách. Cô hoàn thành suất sắc các bài tập trên lớp và cũng cảm thấy tӵ hào về việc đó. Đó chính là lý do khiến cơn giận dữ của sơ Magdalene đổ xuống đầu cô. Vì Maura, niềm kiêu hãnh thiêng liêng về sӵ hiểu biết của cô phải bị hạ xuống thành sӵ nhún nhường. Sơ Magdalene làm việc đó một cách khoái trá độc ác. Bà ta biến Maura thành kẻ ngớ ngẩn trên lớp, viết những lời nhận xét rời rạc lên lề giấy trắng tinh của cô và thở dài rất to mỗi khi Maura giơ tay đặt câu hỏi. Rốt cuộc, Maura đã bị buộc phải im lặng để phản đối.
- Họ không ưa gì tôi - Maura nói - các bà sơ ấy.
- Tôi cứ nghĩ là không gì làm cô sợ được.
- Nhiều thứ khiến tôi sợ đấy.
- Nhưng không phải là những xác chết phải không ? - Rizzoli cười.
Họ để thi thể của Camille nằm trên chiếc giường bằng đá lạnh lẽo của cô và quay về chỗ máy đo nhiệt độ trong phòng, về phía sàn nhà đầy vết máu, nơi người ta đã tìm thấy Ursula vẫn còn sống. Người chụp ảnh đã làm xong công việc của mình và rời đi; chỉ còn lại Maura và Rizzoli trong nhà nguyện, chỉ có hai người phụ nữ,
tiếng của họ vang vọng lại vào những bức tường rắn chắc. Maura luôn nghĩ về nhà nguyện như những thánh địa thiêng liêng, nơi mà cả tâm hồn của những kẻ ngoại đạo cũng cảm thấy thanh thản. Nhưng cô không thấy thoải mái tại nơi lạnh lẽo này, nơi mà tử thần đã đi qua, làm vấy bẩn những biểu tượng thiêng liêng.
- Họ đã đi tìm thấy sơ Ursula ở ngay đây - Rizzoli nói - bà ấy nằm chếch đầu về phía bục cầu kinh và chân hướng về cửa chính.
Như thể bà ấy đang quỳ phục trước thánh giá.
- Gã này là đồ súc sinh - Rizzoli tiếp tục những lời giận giữ - Đó là điều chúng ta phải đương đầu. Hắn bị điên, hoặc là một kẻ mất trí đang lục lọi để đánh cắp vật gì.
- Chúng ta không biết đó có phải là đàn ông không ?
- Cô nghĩ một phụ nữ đã làm việc đó sao - Rizzoli chỉ về phía thi thể của sơ Camile.
- Một phụ nữ cũng có thể vung búa lên và đập vỡ sọ người khác.
- Tôi đã thấy một dấu chân. Ở đó, giữa lối đi. Tôi thấy đó là cỡ mười hai của nam.
- Một trong những thành viên đội cứu thương chăng ?
- Không, cô có thể thấy dấu chân của đội cấp cứu ở đây, gần cửa ra vào. Dấu chân dọc hành lang rất khác. Đó chính là của hắn.
Gió thổi làm các cánh cửa kêu cót két và cửa chính cũng phát ra tiếng động như thể những bàn tay vô hình đang bám vào nó nhưng không thể nào vào được. Môi Rizzoli đã tím ngắt, mặt cô có màu như một xác chết nhưng cô không hề có ý định tìm một căn phòng ấm áp hơn, Rizzoli là như vậy, bướng bỉnh nên không chịu là người đầu tiên lui bước hay thú nhận là mình đã hết chịu nổi rồi.
Maura quan sát sàn đá, chỗ sơ Ursula nằm và cô không thể phủ nhận trӵc giác của Rizzoli rằng vụ tấn công này là một hành động Ở
điên rồ. Ở đây cô nhìn thấy sӵ điên loạn trong các vết máu, từ những cú nện vào hộp sọ sơ Camile. Điên rồ hoặc tội ác.
Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng cô. Cô đứng lên, run rẩy, ánh mắt dán vào cây thánh giá.
- Tôi chết cóng mất - cô nói - Chúng ta tìm nơi ấm áp hơn đi. Uống một tách cà phê nhé ?
- Cô xong rồi à ?
- Tôi đã thấy những gì tôi cần. Việc mổ tử thi sẽ cho ta biết phần còn lại.
Chương hai
Họ đi ra từ nhà nguyện, qua chỗ chăng dây của cảnh sát, bây giờ đã tuột khỏi lối đi và nằm dính vào băng. Gió thổi bay tà áo của họ, quất vào mặt. Mắt họ nheo lại vì những loạt tuyết bay. Khi họ bước vào đại sảnh, Maura không hề cảm thấy chút hơi ấm nào trên khuôn mặt đã tê cóng của mình. Cô ngửi thấy mùi trứng, mùi sơn cũ và mùi ẩm mốc của hệ thống sưởi ấm, mùi của bụi.
Tiếng đồ sứ va vào nhau dẫn họ xuống một hành lang, vào căn phòng sáng lóa mắt vì ánh đèn huỳnh quang, một chi tiết hiện đại gây bối rối. Ánh đèn như con mắt vô hồn nhìn chăm chăm, lạnh lùng, không khoan nhượng lên những khuôn mặt in hằn những nếp nhăn của các bà sơ đang ngồi quanh một chiếc bàn mòn vẹt của vị linh mục. Mười ba người tất cả - một con số không may mắn. Sӵ chú ý của họ đều tập trung vào những hình vuông trên tấm vải hoa sáng màu, những dải ruy băng bằng lụa, những khay chứa hoa oải hương và cánh hồng khô. Họ đang làm công việc thủ công, Maura nghĩ. Cô nhìn những bàn tay run rẩy xục vào đám hoa khô và quấn ruy băng quanh những túi thơm. Một trong các bà sơ ngồi thụt sâu trong xe lăn. Bà ta nghiêng hẳn sang một bên, tay trái bà ta vòng vào một cái móc chỗ để tay, khuôn mặt bà ta xệ xuống như một cái mặt nạ đã bị tan chảy một phần - hậu quả tai hại của một cơn đột quỵ. Nhưng bà ta là người đầu tiên thấy hai người lạ và bà ta rên lên. Những bà sơ khác ngước mắt, hướng về phía Maura và Rizzoli.
Nhìn những bộ mặt nhăn nheo, Maura ngạc nhiên vì sӵ nhu nhược cô thấy ở đó. Không hề có hình ảnh nghiêm khắc của quyền lӵc mà cô còn nhớ từ thời thơ ấu, thay vào đó là những ánh mắt hoang mang đang nhìn cô để tìm câu trả lời cho bi kịch này. Cô thấy không thoải mái trong vai trò mới của mình, việc đó giống như một đứa trẻ đã trưởng thành cảm thấy không thoải mái khi nó lần đầu tiên nhận ra rằng nó và bố mẹ hoán đổi vai trò cho nhau.
- Ai có thể cho tôi biết thám tử Frost ở đâu không ? – Rizzoli hỏi.
Câu hỏi được đáp lại bởi một phụ nữ trông có vẻ khác biệt vừa đi ra từ gian bếp ngay cạnh đó, mang theo một khay đӵng cốc cà phê và đĩa sạch. Bà ta vận một chiếc áo len màu xanh bợt bạt bị dính dầu mỡ và một viên kim cương nhỏ lấp lánh qua những bọt xà phòng của nước rửa bát bên tay trái bà ta. Không phải tu sĩ, Maura nghĩ, là người làm thuê cho linh mục, bà ta đang chăm sóc cộng đồng ốm yếu này.
- Ông ấy vẫn đang nói chuyện với bà trưởng tu viện - người phụ nữ nói. Bà ta hất đầu về phía lối vào và một mớ tóc nâu buông xuống, cuộn quanh cái trán nhăn nheo - Văn phòng của bà ấy ở cuối hành lang.
- Tôi biết đường rồi - Rizzoli gật đầu.
Họ thoát khỏi ánh đèn khó chịu của căn phòng đó và tiếp tục đi dọc hành lang. Maura cảm thấy ở đây có một cơn gió, tiếng thì thầm của luồng khí lạnh như thể hồn ma vừa lướt qua. Cô không tin vào kiếp sau những lúc bước trên bước chân của những người vừa chết, đôi khi cô băn khoăn liệu khi đi qua họ có để lại dấu vết gì không, một nguồn năng lượng mờ ảo khó chịu mà ai đó đi sau có thể cảm nhận được.
Rizzoli gõ cửa phòng bà trưởng tu viện, một giọng run rẩy cất lên: - Mời vào !
Khi bước vào phòng, Maura cảm thấy mùi thơm của cà phê thơm như nước hoa. Cô thấy một cây thánh giá đơn giản bằng gỗ được treo trên tường phía trên cái bàn làm bằng gỗ sồi. Sau chiếc bàn là bà sơ ngồi lom khom. Mắt bà ta như lồi ra sau cặp kính rất lớn. Bà ta có vẻ cũng già nua như những bà sơ yếu đuối ngồi quanh chiếc
bàn của linh mục, cặp kính của bà ta trông nặng đến mức chúng có thể kéo mặt bà ta sát xuống bàn.
Nhưng hai con mắt đang nhìn chằm chằm qua cặp kính thì vẫn tinh anh và sáng lên một cách thông thái.
Đồng nghiệp của Rizzoli, Barry Frost ngay lập tức bỏ tách cà phê xuống và đứng lên theo phép lịch sӵ. Frost như một người anh thân thiện của tất cả mọi người, một cảnh sát trong đội chống tội phạm mà có thể bước vào phòng thẩm tra và khiến kẻ tình nghi tin rằng Frost là người bạn chí cốt của hắn.
Anh cũng là cảnh sát thuộc đội dường như không ngại làm việc với một người nhanh trí như Rizzoli. Cô đang quắc mắt nhìn ly cà phê của anh và chắc chắn đang so sánh về việc trong khi cô run lập cập ở nhà nguyện thì người đồng nghiệp của mình lại ngồi một cách thoải mái trong căn phòng ấm cúng này.
- Thưa trưởng tu viện - Frost nói - đây là bác sĩ Isles đến từ phòng khám nghiệm tử thi. Bác H đây là sơ Mary Clement..
Maura đưa tay về phía bà trưởng tu viện. Cô rùng mình.
Da bà ta giống như giấy khô bọc lấy những chiếc xương. Khi bắt tay, Maura để ý thấy cổ tay áo bằng vải len mộc thò ra dưới ống tay áo màu đen. Thì ra đây là cách các bà sơ chịu đӵng một tòa nhà lạnh lẽo như vậy. Dưới bộ lễ phục màu đen, bà ta mặc một chiếc váy lót dài.
Cặp mắt màu lục méo mó nhìn cô qua cặp kính dày.
- Phòng khám nghiệm tử thi à ? Điều đó có nghĩa cô là một nhà vật lý ?
- Vâng, một nhà nghiên cứu bệnh học.
- Cô nghiên cứu nguyên nhân cái chết ?
- Đúng vậy.
Bà trưởng tu viện dừng một lát như thể bà ta đang thu hết can đảm để hỏi câu tiếp theo.
- Cô đã vào nhà nguyện chưa ? Cô đã thấy... ? - Maura gật đầu. Cô muốn ngắt câu hỏi mà cô biết bà ta sắp nói, nhưng cô không thể thô
lỗ với một bà sơ. Ngay cả ở tuổi bốn mươi, cô vẫn bị xúc động khi nhìn thấy màu áo đen.
- Cô ấy...- Giọng của Mary Clement biến thành tiếng thì thào - Cô Camille bị thương nặng không ?
- Tôi e là tôi vẫn chưa có câu trả lời. Chờ khi tôi hoàn thành xong việc khám nghiệm... - Tử thi là từ cô muốn nói nhưng từ đó có vẻ quá lạnh lùng, quá ý khoa đối với đôi tai được chở che của sơ Mary clement. Hơn nữa, cô không muốn nói sӵ thật khủng khiếp đó, thӵc ra cô đã hiểu rõ điều gì đã xảy ra đối với Camille. Kẻ nào đó đã đe dọa cô ấy ở nhà nguyện. Kẻ đó đã đuổi theo khi cô ấy chạy trốn trong hoảng loạn ở lối đi và làm rơi cả khăn choàng màu trắng của tu sĩ mới vào tu viện. Khi những cú đánh của hắn liên tiếp giáng xuống đầu cô, máu cô văng lên cả hai thành ghế nhưng cô vẫn lết về phía trước cho tới khi cô ngã gục xuống và quỳ dưới chân hắn. Thậm chí sau đó kẻ tấn công vẫn không dừng lại. Hắn tiếp tục đánh và đập hộp sọ cô như một quả trứng. Để tránh ánh mắt của sơ Mary clement, Maura liếc nhanh sang cây thập bằng gỗ treo trên tường sau chiếc bàn nhưng biểu tượng đó cũng không thể làm cô thoải mái được.
Rizzoli cắt ngang.
- Chúng tôi chưa xem phòng ngủ của họ - Như mọi lần cô luôn nói về công việc và chỉ tập trung vào việc cần làm tiếp theo.
Đôi mắt sơ Mary Clement ươn ướt.
- Vâng, tôi đã định đưa thám tử Post lên phòng ngủ của họ ở tầng trên.
Rizzoli gật đầu:
- Chúng tôi đã sẵn sàng.
Bà trưởng tu viện dẫn đường lên cầu thang chỉ được thắp sáng bằng ánh sáng ban ngày xuyên qua một ô cửa kính màu. Khi trời
nắng, mặt trời sẽ tô bức tường bằng một bảng màu sặc sỡ nhưng vào buổi sáng đầy gió thế này những bức tường rất lạnh lẽo với nhiều góc tối sẫm màu.
- Những căn phòng trên gác bây giờ hầu như đều trống. Nhiều năm rồi chúng tôi đã chuyển các sơ xuống dưới, từng người một - Mary Clement nói, đi một cách chậm chạp và bám vào tay vịn như thể bà đang kéo mình lên từng bậc một, Maura có cảm giác bà ta sắp ngã
về phía sau, cô đang đi ngay sau bà ta nên cô thấy căng thẳng và lo lắng mỗi khi bà dừng lại thở hổn hển.
- Sơ Jaunta khổ sở vì đầu gối của sơ ấy mấy hôm nay nên sơ ấy sẽ ở căn phòng phía dưới. Giờ thì sơ Helen sẽ khó thở đây. Chúng tôi còn ít người quá... - Đây quả là một tòa nhà lớn khi phải giữ gìn như vậy - Maura nói.
- Và cũ nát - Tu viện trưởng dừng lại để thở. Bà ta nói thêm với một nụ cười ảm đạm - Già nua như chúng tôi vậy... Và việc tu sửa nó quá đắt đỏ. Chúng tôi đã nghĩ là chắc chắn phải bán nó đi nhưng Chúa đã tìm cách để chúng tôi giữ nó lại.
- Cách nào ?
- Năm ngoái có một nguồn tài trợ. Giờ chúng tôi đã bắt đầu sửa sang. Những tấm lợp mới thay và hiện chúng tôi có hệ thống thông hơi ở gác mái. Sau đó chúng tôi sẽ thay lò sưởi – Bà quay lại nhìn Maura - Dù cô có tin hay không thì tòa nhà này còn ấm áp hơn so với một năm trước.
Bà tu viện trưởng hít một hơi dài và tiếp tục leo lên những bậc thang. Chuỗi tràng hạt của bà ta kêu lách cách.
- Trước đây chúng tôi có bốn mươi lăm người. Khi tới Grayston lần đầu, chúng tôi ở kín hết các phòng này, cả hai bên dãy nhà nhưng giờ chúng tôi là một nhóm người đã quá già cỗi.
- Bà tới đây từ bao giờ, thưa sơ ? - Maura hỏi.
- Tôi là một chúng sinh khi mười tám tuổi. Có một người đàn ông lịch thiệp xin cầu hôn tôi. Tôi nghĩ sӵ kiêu hãnh của anh ấy đã bị tổn thương khi tôi từ chối anh ấy để đến với Chúa - Bà ta dừng lại ở bậc thang và quay lại. Lúc đó Maura mới chú ý thấy dây của máy trợ thính sau vành tai bà ta - Có lẽ cô không thể tưởng tượng được điều đó phải không, cô Isles ? Rằng tôi đã có thời trẻ như vậy ?
Thật sӵ là Maura không thể. Cô không thể nghĩ về bà Mary Clement là một người nào khác ngoài một di vật ốm yếu như bây giờ. Chắc chắn bà ta không thể từng là một phụ nữ ham muốn và được đàn ông theo đuổi.
Họ đi hết cầu thang, một cảnh đường dài mở ra trước mắt họ. Ở đây đã ấm hơn và khá dễ chịu do hơi nóng bị trần nhà thấp và tối chặn lại. Những thanh xà nhô ra ít nhất đã được trăm năm tuổi. Bà trưởng tu viện mở cánh cửa thứ hai và lưỡng lӵ, tay bà đặt lên tay xoay. Cuối cùng bà ta vặn nó và cánh cửa mở tung, ánh sáng nhợt nhạt từ bên trong tràn lên mặt bà ta.
- Đây là phòng sơ Ursula - Bà ta nói khẽ.
Căn phòng không đủ lớn để tất cả bọn họ vào cùng một lúc. Frost và Rizzoli bước vào còn Maura vẫn đứng ở cửa, cô lướt qua những giá sách xếp đầy sách, những bình hoa cũ đầy hoa Violet châu Phi còn tươi, ở cửa có chấn song, trần nhà thấp khiến căn phòng có dáng vẻ của thời trung đại. Một căn phòng gọn gàng của một học giả, cùng với một chiếc giường đơn giản, một chiếc tủ có ngăn, một chiếc bàn và một chiếc ghế.
- Giường của bà ấy đã được dọn - Rizzoli nói và nhìn xuống những tấm vải được gấp gọn gàng.
- Sáng nay chúng tôi đã thấy như vậy rồi - Mary Clement nói. - Tối qua bà ấy không đi ngủ ư ?
- Có khả năng sơ ấy dậy sớm, sơ ấy thường như vậy.
- Sớm là mấy giờ.
- Sơ ấy thường dậy trước những người đọc kinh vài tiếng. - Những người đọc kinh à ? - Frost hỏi.
- Những người cầu nguyện của chúng tôi dậy lúc bảy giờ. Hè vừa rồi sơ ấy luôn ra ngoài từ sớm, ở trong vườn. Sơ ấy thích làm việc trong vườn.
- Vào mùa đông ư ? - Rizzoli hỏi - Sơ ấy làm gì vào sáng sớm như vậy ?
- Mùa nào cũng thế, luôn có việc để làm đối với người có thể làm việc như chúng tôi. Nhưng giờ quá nhiều sơ đã yếu. Năm nay, chúng tôi phải thuê cô Otis để giúp chúng tôi nấu ăn. Ngay cả khi có cô ấy giúp, chúng tôi vẫn không thể làm hết những việc vặt.
Rizzoli mở cửa tủ. Bên trong treo một bộ sưu tập những quần áo màu đen và nâu. Không có màu sắc hay sӵ trang điểm nào khác. Đó là một tủ quần áo của một phụ nữ mà công việc của Chúa là tất cả và các màu quần áo chỉ là để phục vụ Chúa.
- Bà ấy chỉ có quần áo thôi sao ? Chỉ những gì tôi thấy trong tủ ấy ? - Rizzoli hỏi.
- Chúng tôi đã thề về những tài sản chúng tôi có khi bước chân vào đây.
- Điều đó nghĩa là các vị từ bỏ mọi thứ ư ? - Frost hỏi.
Mary Clement đáp lại bằng một nụ cười nhẫn nại, theo kiểu người ta cười với một đứa bé vừa hỏi một câu ngớ ngẩn.
- Đó không phải là sӵ khổ hạnh, ngài thám tử ạ. Chúng tôi có sách và một vài kỷ vật cá nhân. Như ngài thấy sơ Ursula thích những bông hoa Violet châu Phi. Nhưng rất đúng, chúng tôi đã từ bỏ gần như mọi thứ ở phía sau khi chúng tôi đến đây.
Đây là một phái thiền định và tôi không muốn thế giới bên ngoài xen vào.
- Xin lỗi bà viện trưởng - Frost nói - tôi không phải người theo đạo Thiên chúa nên tôi không hiểu từ đó nghĩa là gì. Phái thiền định ?
Câu hỏi của anh thật đáng chân trọng và Mary Clement ủng hộ anh bằng một nụ cười thân thiện hơn khi bà ta cười với Rizzoli.
- Phái thiền định dẫn đến một cuộc sống tĩnh lặng. Cuộc sống của những con chiên, của sӵ cống hiến cá nhân và sӵ tâm niệm. Đó là lý do tại sao chúng tôi thu mình sau những bức tường này và tại sao chúng tôi từ chối những vị khách. Sӵ tách biệt đã khiến chúng tôi thoải mái.
- Nếu ai đó phá luật thì sao ? - Rizzoli hỏi - các vị có đuổi người đó không ?
Maura thấy Frost cau mày bởi cách hỏi thẳng tuột của người bạn đồng nghiệp.
- Các quy định của chúng tôi mang tính tӵ nguyện - Mary Clement giảng giải - chúng tôi theo đuổi chúng vì chúng tôi muốn vậy.
- Nhưng đôi lúc chắc chắn sẽ có một bà sơ nào đó thức dậy vào buổi sáng và nói "Tôi muốn ra bãi biển" chứ ?
- Điều đó không xảy ra.
- Chắc chắn nó xảy ra. Dầu sao họ cũng chỉ là con người. - Điều đó không bao giờ xảy ra - Sơ Marry Clement khẳng định.
- Không ai phá luật sao ? Không ai nhảy qua những bức tường sao ?
- Chúng tôi không có nhu cầu rời tu viện. Cô Ortis mua rau quả cho chúng tôi. Cha Brophi đáp ứng những nhu cầu tinh thần của chúng tôi.
- Còn thư từ thì sao ? Hay điện thoại ? Thậm chí ở nhà tù canh phòng nghiêm ngặt thì cũng phải gọi điện thoại thường xuyên.
Frost lắc đầu, câu nói của anh thật gây nhức nhối.
- Chúng tôi có điện thoại ở đây trong trường hợp khẩn cấp - Mary Clement kiên nhẫn giải thích.
- Và bất kỳ ai cũng có thể dùng nó ? Tại sao họ lại muốn làm việc đó ?
- Thư từ thì sao ? Các vị có thư không ?
- Một vài người chúng tôi đã quyết định không nhận thư từ gì. - Còn nếu các vị muốn gửi thư ?
- Cho ai cơ chứ ?
- Việc đó không quan trọng sao ?
Khuôn mặt bà Mary Clement lạnh lùng, một nụ cười nghiêm nghị theo kiểu Chúa ban cho tôi sӵ nhẫn nại nở trên môi.
- Tôi chỉ có thể là chính tôi, thưa ngài thám tử. Chúng tôi không phải là những tù nhân. Chúng tôi lӵa chọn lối sống này. Những ai không đồng ý với các quy định này có thể rời đi.
- Vậy họ sẽ làm gì ở thế giới bên ngoài ?
- Có vẻ như ai cũng cho là chúng tôi không hiểu biết về thế giới đó. Nhưng vài sơ đã phục vụ ở các trường học và bệnh viện.
- Tôi nghĩ đã trở thành tu sĩ nghĩa là các vị không thể rời tu viện.
- Đôi khi Chúa cần đến chúng tôi dể làm những nhiệm vụ bên ngoài những bức tường. Cách đây vài năm sơ Ursula đã cảm nhận được lời kêu gọi của Chúa để phục vụ ở nước ngoài, sơ ấy đã được nhận một đặc ân - được phép sống bên ngoài trong khi vẫn giữ lời thề.
- Nhưng bà ấy đã quay lại.
- Năm ngoái.
- Bà ấy không thích cuộc sống bên ngoài ?
- Sứ mệnh sơ ấy ở Ấn Độ không hề dễ dàng. Đã có bạo lӵc - một kẻ khủng bố tấn công làng của sơ ấy. Đó là khi sơ ấy trở về với chúng tôi. Ở đây sơ ấy lại tìm thấy sӵ an toàn.
- Bà ấy không có nhà để về sao ?
- Họ hàng thân thiết nhất của sơ ấy là một người anh trai đã mất cách đây hai năm. Bây giờ chúng tôi đã là gia đình của sơ ấy và Tu viện Đá Xám là nhà của sơ ấy. Khi anh chán nản thế giới bên ngoài và cần được xoa dịu, ngài thám tử - bà tu viện trưởng nhẹ nhàng hỏi - anh có về nhà không ?
Câu trả lời có vẻ khiến Rizzoli khó chịu. Cô nhìn về phía những bức tường chỗ treo cây thánh giá. Nó bị nhòe đi cũng rất nhanh chóng.
- Thưa tu viện trưởng !
Một người đàn bà mặc áo len màu xanh dính mỡ đang đứng ở sảnh đường, nhìn họ bằng con mắt thờ ơ, không chút tò mò. Vài sợi tóc hung tuột ra từ mớ tóc buộc của chị, phất phơ quanh khuôn mặt xương xẩu.
- Cha Brophy nói ông ấy đang tiếp mấy vị phóng viên. Nhưng họ gọi nhiều đến nỗi sơ Isabel đã bỏ điện thoại khỏi giá treo. Sơ ấy không biết phải nói gì với họ.
- Tôi sẽ đến đó ngay, cô Ortis. - Bà viện trưởng quay sang phía Rizzoli - Cô thấy đấy, chúng tôi cứ rối tung lên. Cô hãy ở đây càng lâu càng tốt. Tôi phải xuống dưới.
- Trước khi đi... - Rizzoli hỏi - phòng cô Camille ở đâu ? - Ở cánh cửa thứ tư.
- Nó không khóa chứ ?
- Không hề có khóa trên những cánh cửa này - Sơ Mary Clement khẳng định - chưa bao giờ có cả.
Mùi thuốc tẩy và mùi xà phòng hiệu Murphy là thứ đầu tiên mà Maura nhận ra khi cô bước vào phòng sơ Camille. Giống như phòng sơ Urula, căn phòng này có một cửa sổ nhìn ra sân, trần nhà cũng thấp và được làm bằng các thanh gỗ như vậy. Nhưng phòng của sơ Urula còn cảm nhận được là có người ở, còn phòng của Camille hoàn toàn lạnh lẽo và u ám. Những bức tường trắng tinh và trống không, ngoại trừ một cây thánh giá gỗ treo đối diện với giường. Đó sẽ là vật đầu tiên mà Camille sẽ nhìn thấy khi cô thức dậy mỗi buổi sáng, một thứ tượng trưng cho sӵ tồn tại nhỏ bé của cô. Đây là một căn phòng cho một người sám hối.
Maura nhìn xuống sàn nhà và thấy các mảng bị cào xước mạnh. Liệu đó có phải là các vết bẩn đã có từ một thế kỷ nay ? Đó có phải là toàn bộ dấu vết của những người phụ nữ đã sống ở đây trước cô ấy ?
- Chà - Rizzoli thốt lên - Nếu sau Chúa là sӵ sạch sẽ thì người phụ nữ này là một vị thánh đấy.
Maura lại gần chiếc bàn cạnh cửa sổ, nơi đặt một cuốn sách để mở. Câu chuyện về thánh Brigit của Ai-len. Cô hình dung ra Camille đang ngồi đọc ở chiếc bàn này, ánh sáng từ ô cửa đùa trên những đường nét thanh tú của cô. Maura băn khoăn những hôm trời ấm áp, Camille có bỏ tấm choàng màu trắng của mình và ngồi tӵa lưng về phía sau để cho cơn gió nhẹ từ cửa sổ thổi qua mái tóc vàng óng của mình không.
- Ở đây có vết máu - Frost kêu lên.
Maura quay lại, thấy anh đang đứng cạnh chiếc giường và nhìn đống giường chiếu bị lộn tung.
Rizzoli kéo tấm lót giường lên, để lộ ra các vét máu đỏ tươi trên mảnh vải cuối cùng.
- Máu kinh nguyệt — Maura khẳng định và thấy Frost đỏ mặt quay đi. Ngay cả người đàn ông đã có vợ cũng ngượng ngùng khi nói tới những điều nhỏ nhặt về các chức năng cơ thể người phụ nữ.
Tiếng chuông kêu khiến Maura quay về phía cửa sổ. Cô thấy một tu sĩ đi từ tòa nhà ra để mở cổng. Bốn vị khách mặc áo mưa màu vàng bước vào sân.
- Đội khám nghiêm hiện trường đã đến - Maura thông báo. - Tôi sẽ xuống gặp họ - Frost nói và ra khỏi phòng.
Tuyết vẫn rơi, đập nhẹ vào cửa sổ, một lớp nước che mất tầm nhìn của cô xuống khoảng sân bên dưới. Maura thấy hình ảnh nhạt nhòa của Frost bước ra ngoài chào các chuyên gia khám nghiệm hiện trường. Những kẻ xâm nhập mới làm mất đi sӵ thiêng liêng của tu viện. Ở bên kia bức tường, những kẻ khác cũng đang đợi để được vào đây. Cô thấy một chiếc xe của đài truyền hình đỗ đối diện cánh cổng và chắc chắc máy quay đang hoạt động. Làm cách nào họ tìm đường đến đây nhanh như vậy ? Mùi của sӵ chết chóc mạnh mẽ vậy sao ?
Cô quay lại nhìn Rizzoli.
- Cô theo đạo Thiên Chúa phải không Jane ?
Rizzoli hắt hơi khi chui qua tủ quần áo của Camille.
- Tôi hả ? Tôi là một con chiên bị ruồng bỏ.
- Cô không còn tin vào nó từ bao giờ ?
- Gần như cùng lúc tôi không còn tin vào ông già Nô-en nữa. Tôi không dám khẳng định điều đó, một điều mà cho tới nay vẫn khiến cha tôi băn khoăn. Lạy Chúa, một cái tủ chán ngắt. Xem nào, hôm
nay tôi sẽ mặc bộ màu đen hay màu nâu đây ? Tại sao bán cầu não phải của cô gái này có thể muốn trở thành một tu sĩ nhỉ ?
- Không phải tu sĩ nào cũng mặc bộ đó. Từ thời thánh Vatican thứ hai.
- Đúng thế, nhưng đó là điều từ thiện thôi, nó không thay đổi. Thử tưởng tượng xem sẽ không có chuyện nam nữ trong suốt phần đời còn lại.
- Tôi không biết - Maura nói - Có thể sẽ nhẹ nhõm khi không còn bận tâm về đàn ông nữa. Tôi không chắc về điều đó - Cô đóng cửa tủ và quan sát căn phòng một cách chậm chạp để tìm... thứ gì đây ? Maura băn khoăn. Chìa khóa cho biết tính cách của Camille chăng ? Một lời giải thích cho cái chết quá sớm và quá tàn nhẫn của cô chăng ? Nhưng Maura chẳng thể tìm thấy chi tiết gì ở đây. Một căn phòng đã bị xóa hết các dấu vết chủ nhân của nó. Có lẽ đó là chi tiết cho thấy nhiều nhất về con người của Camille: một phụ nữ trẻ lúc nào cũng quét sạch bụi bẩn và tội lỗi.
Rizzoli đi về phía giường, chống tay và quỳ xuống để nhìn xuống dưới.
- Chà, ở đây sạch đến nỗi cô có thể liếm láp sàn nhà quái quỷ này.
Gió đập vào cửa sổ, còn tuyết đập vào ô kính. Maura quay lại thấy Frost cùng đội khám nghiệm hiện trường đi ngang qua nhà nguyện. Một trong các chuyên gia đột nhiên bị trượt trên tuyết, hai cánh tay vung lên như một tay trượt ván khi anh ta cố gắng đứng thẳng. Tất cả chúng ta đều đang cố đứng vững, Maura nghĩ. Để chống lại lӵc
vạn vật hấp dẫn, chúng ta cần chống lại trọng lӵc. Rốt cuộc, khi chúng ta bị ngã, đó luôn là một bất ngờ.
Đội khám nghiệm hiện trường bước vào nhà nguyện, cô tưởng tượng họ đang đứng thành vòng tròn, im lặng nhìn vết máu của sơ Urula, hơi thở của họ được thấy rõ qua làn hơi nước.
Phía sau cô có tiếng kêu nhẹ.
Cô quay lại và giật mình khi thấy Rizzoli đang ngồi trên sàn cạnh một chiếc ghế. Đầu cô gục xuống gối.
- Jane... - Maura quỳ xuống cạnh cô ấy - Sao thế ?
Rizzoli xua tay.
- Tôi ổn mà, tôi không sao...
- Có chuyện gì vậy ?
- Chỉ là... Tôi nghĩ tôi đứng lên nhanh quá. Tôi hơi chóng mặt... - Rizzoli cố thẳng người lên nhưng lại gục đầu xuống.
- Cô nên nằm nghỉ.
- Không cần đâu. Chỉ cần để đầu óc tôi yên một chút thôi.
- Maura nhớ là Rizzoli đã có vẻ không khỏe ở nhà nguyện, mặt cô tái đi, môi xám ngắt. Khi đó cô nghĩ đó là vì vị thám tử bị lạnh. Giờ họ đang ở trong phòng ấm nhưng trông Rizzoli có vẻ kiệt sức.
- Cô ăn sáng chưa ? - Maura hỏi.
- À..
- Cô không nhớ sao ?
- Có, tôi nghĩ là tôi ăn rồi. Gần như vậy.
- Thế là sao ?
- Một mẩu bánh mỳ, được chưa ? - Rizzoli gạt tay Maura, một sӵ phản đối nóng nảy trước bất cứ sӵ giúp đỡ nào. Đó là sӵ kiêu hãnh đáng sợ đôi khi khiến cô khó cộng tác - Tôi nghĩ tôi bị cảm cúm.
- Cô chắc chứ ?
Rizzoli vuốt tóc khỏi mặt và từ từ đứng thẳng lên.
- Đúng vậy. Lẽ ra sáng nay tôi không nên uống cà phê. - Nhiều không ?
- Ba hay bốn cốc gì đó.
- Như thế không phải là lạm dụng quá sao ?
- Tôi cần chất kích thích. Nhưng giờ nó ngốn hết dạ dày của tôi. Tôi thấy cồn cào quá.
- Tôi sẽ đưa cô đến phòng tắm.
- Không - Rizzoli khoát tay - Tôi tӵ làm, được chứ ?
Cô từ từ đứng dậy và chỉ đứng được một lúc, như thể không còn tӵ tin vào đôi chân của mình. Rồi cô ôm lấy vai và theo điệu bộ của bà Rizzoli đầy lịch lãm, cô bước ra khỏi phòng.
Tiếng chuông cổng khiến Maura nhìn về phía cửa sổ. Cô lại thấy một bà sơ già đi ra từ tòa nhà, lê bước qua những viên đá lạo xạo để mở cổng.
Vị khách mới này không cần van nài, bà sơ mở cổng ngay lập tức. Một người đàn ông mặc áo khoác đen dài bước vào sân, đặt tay lên vai bà sơ. Đó là một cử chỉ an ủi và thân thiện. Họ cùng nhau tiến về phía tòa nhà, người đàn ông đi chầm chậm để hợp với dáng đi lòng khòng của bà ta, đầu ông cúi xuống bà sơ như thể ông không muốn bỏ lỡ bất cứ từ nào bà ta nói.
Đi được nửa sân, ông đột nhiên dừng lại và nhìn lên như thể ông cảm nhận được Maura đang nhìn mình.
Trong một khoảnh khắc, cái nhìn của họ gặp nhau qua ô cửa. Cô thấy một gương mặt gầy gò và nổi bật, một mớ tóc đen bị gió làm rối tung. Và cô kịp nhìn thấy cổ áo dӵng đứng màu trắng bên dưới áo khoác đen của ông.
Một vị linh mục.
Khi chị Ortis thông báo rằng cha Brophy đang trên đường đến tu viện, Maura đã tưởng tượng ông đã già, tóc hoa râm. Nhưng người đàn ông đang nhìn lên cửa sổ lúc này còn trẻ - không quá bốn mươi.
Ông và bà sơ tiếp tục đi về phía tòa nhà và Maura không nhìn thấy họ nữa. Sân lại trống không nhưng đám tuyết in lại dấu ấn của tất cả những ai đã đi qua sáng nay. Đội khám nghiệm tử thi đã đến từ sớm, mang theo cáng và vẫn còn lại vài dấu chân của họ trên tuyết.
Cô thở sâu, thấy sợ khi nghĩ đến việc trở lại nhà nguyện, trở về với công việc vẫn chình ình trước mắt. Cô rời căn phòng và đi xuống cầu thang để đợi đội của mình.
Chương Ba
Rizzoli đứng ở bồn tắm, nhìn mình trong gương và không thích những gì cô thấy. Cô không thể không so sánh mình với bác sĩ Isles, một con người trầm lắng và tӵ chủ, mỗi sợi tóc đen của cô ấy đều gọn ghẽ, màu son môi của cô ấy phảng phất màu hồng lên nước da. Hình ảnh Rizzoli trong gương không trầm tĩnh cũng chẳng hoàn hảo. Tóc cô trông hoang dại như nữ thần báo tử Ê-côt, những mớ tóc đen lòa xòa trên khuôn mặt đã trở nên xanh xao và mệt mỏi. Mình không còn là mình nữa, cô nghĩ. Mình không còn nhận ra người phụ nữ đang nhìn mình. Mình trở nên xa lạ thế này từ khi nào vậy ?
Một cơn buồn nôn khác lại bất ngờ trào lên và cô nhắm mắt lại, đấu tranh với nó, kìm nó xuống một cách dữ dội như thể sӵ sống của cô phụ thuộc vào việc này. Chỉ có sức mạnh của ý chí cũng không thể
nào kìm nén điều tất yếu phải xảy ra. Tay ôm chặt miệng, cô lao đến bồn vệ sinh gần nhất vừa kịp lúc. Thậm chí khi dạ dày đã trống rỗng, cô vẫn đứng đó, đầu gục xuống thành bồn và vẫn chưa dám rời khỏi đó. Cô nghĩ: chắc là cảm cúm. Làm ơn, hãy để nó là cảm cúm.
Cuối cùng, khi cơn buồn nôn đã qua, cô cảm thấy mệt đến nỗi ngồi phịch xuống bồn cầu và ngiêng hẳn về phía bức tường. Cô nghĩ về công việc trước mắt: việc thẩm vấn, áp lӵc của việc cố gắng thu được bất cứ thông tin có ích nào từ đám phụ nữ lạnh lùng và yên lặng này. Và trên hết, lại còn phải đứng nhìn trong khi đội khám nghiệm hiện trường thӵc hiện cuộc tìm kiếm trên kính hiển vi. Thường thì cô là người háo hức tìm ra chứng cứ và luôn tìm được nhiều hơn người khác, cô là người giành để kiểm soát mọi hiện trường vụ án. Giờ thì cô ở đây chui vào nhà vệ sinh và không muốn bước ra ngoài kia, nơi cô luôn hào hứng để có mặt ở đó. Cô ước có thể trốn ở đây - một nơi im lặng tuyệt vời, nơi không ai có thể nhìn thấy sӵ hoảng loạn hiện rõ trên khuôn mặt cô. Cô tӵ hỏi không biết bác sĩ Isles đã tìm ra được bao nhiêu chứng cứ, có lẽ là không gì cả. Isles dường như lúc nào cũng quan tâm đến người chết hơn là
người sống, khi gặp cảnh giết người, thi thể nạn nhân chính là thứ thu hút sӵ chú ý của cô ấy.
Cuối cùng Rizzoli đứng dậy và bước ra khỏi nhà vệ sinh. Đầu óc cô đã minh mẫn, dạ dày ổn định trở lại. Bóng ma của bà Rizzoli già nua đã luồn sâu vào lớp da, quanh quẩn ở bồn rửa mặt, cô vốc nước lạnh vào miệng để làm tan hết vị chua, sau đó vốc nước lên mặt. Thôi nào cô gái. Đừng như bà cụ thế. Nếu để những gã đó thấy một lỗ thủng trên chiếc khiên của cô thì chúng sẽ đâm thắng vào đó đấy. Họ luôn như vậy. Cô giật giấy, lau khô mặt và định ném nó vào thùng rác thì cô dừng lại, nhớ tới chiếc giường của sơ Camille, vết máu trên khăn trải giường.
Thùng rác đã đầy phân nửa. Giữa đống giấy vệ sinh lộn xộn là một cuộn giấy vệ sinh nhỏ. Cố gạt đi sӵ khó chịu của mình, cô mở gói giấy. Dù đã biết trong đó có gì, cô vẫn giật mình khi thấy một vết máu kinh nguyệt nữa của phụ nữ. Cô luôn tiếp xúc với máu và đã nhìn thấy cả một vũng máu dưới thi thể của Camile. Nhưng cô run rẩy hơn nhiều khi nhìn thấy mảnh băng vệ sinh - nó ướt sũng và nặng mùi. Đây là lý do cô ta ra khỏi giường, cô nghĩ. Cô ta tỉnh giấc và vào phòng tắm thay băng vệ sinh, ném thứ bẩn thỉu này vào sọt rác.
Rồi sau đó... cô ấy đã làm gì ?
Rizzoli rời phòng tắm và trở lại căn phòng của Camille. Bác sĩ Isles đã đi khỏi, chỉ còn Rizzoli một mình trong phòng, nhìn chăm chăm vào vết máu dính trên ga trải giường, một dấu vết tươi màu trong căn phòng đơn điệu này. Cô bước lại gần cửa sổ và nhìn xuống sân.
Nhiều dấu chân còn in lại trên lớp tuyết. Bên ngoài cổng, một chiếc xe tin tức của đài truyền hình đang đỗ cạnh bức tường và đã được lắp đặt hệ thống thu nhận vệ tinh. Chắc chắn họ đã ở đây lúc năm
giờ, cô nghĩ; tất cả chúng ta đều tò mò về các nữ tu sĩ. Họ đã thề từ bỏ chuyện chăn gối, thu mình sau bức tường và người ta tò mò không biết họ giấu gì dưới mớ quần áo đó. Chính sӵ trinh tiết làm ta khó chịu, chúng ta thắc mắc về bất cứ phụ nữ nào kìm nén bản thân trước tất cả những sӵ thôi thúc mạnh mẽ nhất, những người quay
lưng lại với thứ mà tạo hóa đã định cho ta phải hoàn thành. Rizzoli nhìn xuống sân, phía nhà nguyện. Đó là nơi mà bây giờ mình nên ở đó và run rẩy cùng đội khám nghiệm hiện trường, chứ không phải lân la trong căn phòng đầy mùi thuốc tẩy này, cô nghĩ. Nhưng chỉ trong căn phòng này cô mới hình dung ra hình ảnh của Camille quay lại từ chuyến đi đến phòng tắm vào một buổi sáng mùa đông ảm đạm. Có lẽ cô ấy đã thấy ánh sáng le lói qua những ô kính màu của nhà nguyện. Một ánh sáng mà lẽ ra không có ở đó.
***
Maura đứng cạnh hai người đang trải tấm vải sạch và nhẹ nhàng chuyển sơ Cemille sang. Cô đã thấy đội chuyên chở chuyển những người từ nơi này sang nơi khác. Đôi khi họ làm những việc đó một cách hiệu quả vô cùng, nhưng đôi khi cũng tỏ ra khó chịu. Nhưng thường thì cô thấy họ di chuyển nạn nhân với sӵ nhẹ nhàng. Những đứa trẻ nhận được sӵ quan tâm đặc biệt này, đầu của chúng được nâng niu cẩn thận; cơ thể lạnh ngắt của chúng được bọc trong một cái túi. Sơ Camille cũng được đối xử một cách nhẹ nhàng như vậy, đó là sӵ thương tiếc.
Cô giữ cửa nhà nguyện khi họ đẩy cái cáng và đi theo nó qua cổng. Bên kia là những bức tường, hãng truyền thông vây quanh, các máy ảnh sẵn sàng để chụp một bức ảnh kinh điển của thảm kịch này: Thi thể trên chiếc cáng, chiếc túi ni-lon chứa một hình người rõ rệt. Mặc
dù công chúng không thể thấy nạn nhân nhưng họ đã biết tin đó là một phụ nữ trẻ, họ sẽ nhìn cái túi đó và tưởng tượng trong tâm trí dáng hình của nạn nhân, cảnh nạn nhân bị làm nhục...
Khi chiếc cáng ra khỏi cổng tu viện, một vòng tròn phóng viên và thợ ảnh xô về phía trước, không thèm bận tâm đến viên cảnh sát la hét bắt họ lùi lại.
Cuối cùng, vị linh mục nắm được mép túi. Một hình người mặc đồ đen nổi bật, ông lao ra khỏi cổng, đâm vào giữa đám đông, giọng nói giận giữ của ông át cả những âm thanh hỗn độn.
- Tu sĩ đáng thương này đáng được các vị tôn trọng ! Tại sao các vị không thể hiện điều đó ? Hãy để cô ấy đi nào !
Ngay cả các phóng viên cũng cảm thấy xấu hổ, vài người trong số họ để đội chuyên chở đi qua. Nhưng những chiếc máy quay của truyền hình vẫn hoạt động khi chiếc cáng được đưa lên xe. Giờ thì những chiếc máy quay háu đói quay sang con mồi tiếp theo: Maura người vừa ra khỏi cổng và đi về phía xe của cô, ôm chặt áo khoác như thể việc đó sẽ giúp cô tránh được sӵ chú ý.
- Bác sĩ Isles ! Cô có điều gì muốn nói không ?
- Nguyên nhân cái chết là gì ?
- Có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy đây là một vụ cưỡng bức không ?
Những tay phóng viên vây quanh cô, cô lục trong ví để tìm chìa khóa và nhấn nút mở khóa từ xa, cô vừa mở cửa xe thì nghe thấy tiếng ai đó hét tên mình, nhưng lần này là một tiếng thất thanh.
Cô nhìn lại và thấy một người đàn ông đang bò trên lối đi, vài người đang cúi xuống chỗ anh ta.
- Là một người quay phim ! - Ai đó hét lên.
- Chúng ta cần xe cứu thương.
Maura đóng sầm cửa xe rồi lao vội về phía người đàn ông bị ngã. - Có chuyện gì vậy ? Anh ta ngã à ?
- Không, anh ấy đang chạy... chỉ bị trượt chân.
Cô quỳ xuống cạnh anh ta. Họ đã lật anh ta lên và cô thấy một người đàn ông mập mạp độ năm mươi tuổi, mặt anh ta dính đầy bụi. Một chiếc máy quay có in chữ WVSU đang nằm trên tuyết cạnh anh ta.
Anh ta không thở nữa.
Cô kéo cổ anh ta về phía sau, mở rộng ở thanh quản của anh ta để không khí tràn vào, rồi cúi về phía trước để bắt đầu hô hấp nhân tạo. Mùi cà phê và thuốc lá hôi hám khiến cô muốn nôn. Cô nghĩ về bệnh viêm gan, AIDS và tất cả những căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ khác mà người ta có thể lấy từ dịch của người khác. Cô buộc mình áp môi lên môi anh ta. Cô thở một hơi và thấy lồng ngӵc anh ta nâng lên, phổi anh ta bơm đầy khí. Cô thổi thêm hơi hơi nữa rồi bấm mạch.
Không có gì cả.
Cô định cởi áo khoác anh ta nhưng có ai đó đã làm việc đó rồi. Cô nhìn lên và thấy vị linh mục ngồi đối diện cô, đôi tay to lớn giờ đang sờ nắn ngӵc người đàn ông để tìm những chỗ quan trọng. Ông áp hai lòng bàn tay lên xương ức anh ta rồi nhìn cô để chắc chắn ông
sẽ bắt đầu ép ngӵc. Cô thấy đôi mắt xanh lục nghiêm khắc biểu hiện sӵ kiên quyết.
- Bắt đầu ấn đi - Cô nói - Làm đi !
Ông bắt đầu công việc và đếm to theo từng nhịp ấn để cô có thể đếm nhịp thở.
- Một, một nghìn, hai, một nghìn... - Giọng ông bình thản tiếng đếm đều đặn của một người biết việc mình đang làm. Cô không cần chỉ dẫn ông; họ làm việc ăn ý như thể từ trước tới nay họ đã là một đội, là hai vị trí có thể thay đổi để giảm bớt gánh nhẹ của người kia.
Khi xe cứu thương tới, phần trước quần cô ướt sũng do quỳ gối dưới tuyết nhưng người thì toát mồ hôi dù trời lạnh. Cô từ từ đúng lên, quan sát và mệt mỏi khi nhân viên cấp cứu nhét ống thở vào miệng nạn nhân rồi chiếc cáng được đưa vào xe cứu thương.
Chiếc máy quay người đàn ông làm rơi giờ đã được một phóng viên khác của Ban thời sӵ đài truyền hình cầm hộ. Câu chuyện sẽ tiếp
diễn, cô nghĩ những tay phóng viên vây quanh xe cứu thương ngay cả khi nói về cú ngã của bạn đồng nghiệp.
Cô quay về phía vị linh mục đứng cạnh, ống quần nơi đầu gối của ông cũng ướt đẫm vì tuyết.
- Cảm ơn ông đã giúp đỡ - cô nói - tôi cho là trước đây ông đã từng làm hô hấp nhân tạo.
Ông cười, lắc đầu.
- Chỉ tiêm người giả thôi. Tôi không nghĩ là mình sẽ phải thӵc sӵ sử dụng nó - Ông đưa tay về phía cô để bắt tay - Tôi là Daniel Brophy. Cô là bác sĩ khám nghiệm tử thi à ?
- Maura Isles. Đây là xứ đạo của cha phải không cha Brophy ? Ông gật đầu.
- Nhà thờ của tôi cách đây ba khu nhà.
-Tôi đã thấy nó.
- Cô có nghĩ chúng ta đã cứu người đàn ông đó không ? Cô lắc đầu.
- Khi việc hô hấp nhân tạo kéo dài như vậy mà không có mạch đập thì việc tiên lượng bệnh vẫn chưa tốt.
- Nhưng anh ta có cơ hội sống sót không ?
- Không khả thi.
- Dẫu vậy tôi muốn chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã tạo một sӵ khác biệt - Ông nhìn các phóng viên truyền hình vẫn bám riết lấy xe cứu thương - Để tôi đưa cô ra xe để cô có thể ra khỏi đây mà không bị máy quay chĩa vào mặt.
- Họ sẽ bám theo ông tiếp theo đấy. Tôi mong ông đã sẵn sàng cho việc đó.
- Tôi đã hứa sẽ nói gì đó. Mặc dù tôi thӵc sӵ không biết họ muốn nghe gì từ tôi.
- Họ là bộ tộc ăn thịt chưa cha Brophy. Họ chẳng muốn gì han ngoài một cân thịt của ông. Thậm chí là mười cân nếu họ có thể.
Ông cười.
- Thế thì tôi sẽ cảnh báo họ, thịt tôi dai lắm - Ông đi cùng cô ra xe. Hai ống quần vẫn ướt dính vào chân cô, các thớ vải đã cứng dần trong cơn gió lạnh. Cô sẽ thay một bộ quần áo dùng khi cọ rửa khi cô trở về nhà xác và sẽ phơi quần cho khô.
- Nếu tôi phải nói điều gì đó - ông nói - có điều gì tôi nên biết không ? Cô có thể nói cho tôi điều gì chăng ?
- Ông phải nói chuyện với thám tử Rizzoli. Cô ấy là trưởng ban điều tra.
- Cô có nghĩ đó là vụ tấn công đơn lẻ không ? Các xứ đạo khác có cần cảnh giác không ?
- Tôi chỉ khám ngiệm các nhạn nhân, chứ không phải kẻ tấn công. Tôi không thể nói lên động cơ của hắn.
- Ở đây toàn là những phụ nữ già nua. Họ không thể chống cӵ. - Tôi biết.
- Vậy phải nói gì với họ ? Toàn bộ các tu sĩ sống ở các khu vӵc theo đạo ? Rằng họ sẽ không an toàn ngay cả sau bức tường ?
- Chẳng ai trong chúng ta được an toàn tuyệt đối.
- Đó không phải là câu trả lời tôi muốn nói với họ.
- Nhưng đó là điều họ phải nghe - Cô mở cửa xe - Tôi đã được lớn lên ở nhà thờ Thiên Chúa giáo thưa Cha. Tôi từng cho rằng các bà sơ thì không ai có thể động đến. Nhưng tôi đã thấy việc xảy ra đối với sơ Camille. Nếu chuyện đó xảy ra với một bà sơ thì chẳng ai là không thể đụng đến - Cô chui vào xe - Chúc ông may mắn với đám báo chí. Tôi xin chia sẻ với ông.
Ông đóng cửa xe cho cô và đứng nhìn cô qua cửa xe.
Khuôn mặt ông thật sắc sảo, cũng giống như cổ áo tu sĩ đã khiến cô chú ý. Một miếng vải màu trắng thật bé nhỏ nhưng cũng đủ khiến ông nổi bật hơn tất cả những người khác. Nó khiến ông không thể bị ai chạm tới được.
Ông đưa tay lên vẫy. Rồi ông nhìn về phía phóng viên, những kẻ bây giờ đang tiến lại gần ông. Cô thấy ông vươn thẳng người, hít một hơi dài.
Rồi ông bước về phía trước để gặp họ.
***
"Nhờ những phát hiện tổng quát về mặt giải phẫu, cũng như lịch sử của chứng huyết áp cao, tôi cho rằng cái chết này do nhiều nguyên nhân tӵ nhiên. Một chuỗi sӵ việc có nhiều khả năng xảy ra nhất là đã có chứng nhồi máu cơ tim mãn tính, xảy ra trong vòng hai mươi bốn giờ trước khi chết, tiếp theo đó là chứng loạn nhịp tim ở tâm thất và đó là sӵ việc cuối cùng. Giả thuyết về nguyên nhân cái chết: chứng loạn nhịp tim gây tử vong và trước đó là chứng nhồi máu cơ tim mãn tính. Báo cáo của Maura Isles, bác sĩ y khoa, phòng khám nghệm tử thi, Hội đồng bang Massachusetts".
Maura tắt phôn thu âm và nhìn sơ đồ, trên đó cô đã ghi lại các dấu vết trên cơ thể ông Samuel Knight. Một vết sẹo có từ lâu do cắt bỏ ruột thừa. Các vết loang lổ màu xám xanh trên mông ông ta và dưới mặt trong của đùi, chỗ máu đã tụ lại sau nhiều giờ ông ta ngồi bất động trên giường. Không có nhân chứng nào thấy những giây phút cuối cùng của ông Knight trong phòng khách sạn nhưng cô có thể
tưởng tượng những gì đã diễn ra trong đầu ông ta. Một cơn cuộn thắt ở ngӵc. Có lẽ ông ta đã hoảng loạn vài giây khi nhận ra bị tức ngӵc. Sau đó, mắt ông mờ dần và chìm vào màn đen. Ông là một
trong nhiều người ra đi dễ dàng, cô nghĩ. Một kết luận nhanh chóng, ông Knight có thể bỏ qua một bên. Bản tường trình ngắn gọn của họ sẽ kết thúc bằng chữ ký loằng ngoằng tên cô trên bản báo cáo khám nghiệm tử thi ông ta.
Còn nhiều bản báo cáo trong ngăn kéo của cô, một đống bản báo cáo cần cô xem xét và ký duyệt. Trong kho lưu trữ lạnh, một nhiệm vụ khác mới đang đợi cô: Camille Maginnes.
Bản khám nghiện của cô ấy có hạn là chín giờ sáng mai. Lúc đó cả Rizzoli và Frost đều có mặt. Ngay cả khi Maura lật giở các bản báo cáo, sửa lại ở bên lề thì tâm trí cô vẫn nghĩ về Camille. Cái lạnh cô cảm thấy ở nhà nguyện sáng hôm đó vẫn chưa tan hết và cô vẫn
mặc áo len khi làm việc ở trên bàn để chống lại những ký ức của chuyến thăm đó.
Cô đứng lên khỏi ghế để xem chiếc quần len cô treo cạnh lò sưởi giờ đã khô chưa. Đủ rồi, cô nghĩ, và nhanh chóng cởi dây thắt lưng, bỏ chiếc quần dọn vệ sinh mà cô đã mặc cả buổi chiều ra.
Cô ngồi xuống ghế một lúc, ngắm nhìn một trong những bức tranh hoa lá treo trên tường. Để đối đầu với áp lӵc công việc, cô phải trang trí văn phòng bằng những thứ gợi lên sӵ sống, chứ không phải cái chết, một cây phong lan đốm lá ở góc phòng. Nó luôn vui vẻ hứng chịu cuộc tranh cãi và sӵ chú ý thường xuyên của Maura và Louise. Các hình đóng khung vẽ hoa: một bó hoa màu đen trắng và hoa dại xanh lơ. Một bức khác có hình hoa hồng nhỏ, những bông hoa nở tung với nhiều cánh đến nỗi cuống hoa chúc xuống. Khi đống tài liệu chất đống quá cao trên bàn, khi số lượng người chết trở nên quá tải cô sẽ nhìn bức hình đó và nghĩ về khu vườn của cô, về mùi đất màu mỡ và màu xanh man mởn của cỏ xuân. Cô sẽ nghĩ về thứ đang lớn lên, chứ không lụi tàn, không mục rữa. Dù đã là tháng mười hai nhưng chưa bao giờ mùa xuân lại có vẻ xa xôi như thế. Những cơn mưa lạnh căm đập vào cửa sổ và cô sợ phải lái xe về nhà. Cô không biết ở thành phố người ta đã rắc muối lên đường
chưa hay nó vẫn còn là một sân băng, những chiếc xe trượt lao đi như quả bóng khúc côn cầu trên băng.
- Bác sĩ Isles ? - Giọng Louise qua điện thoại.
- Gì vậy ?
- Bác sĩ Banks muốn nói chuyện điện thoại với cô. Ông ấy ở đầu dây số một.
Maura ngạc nhiên.
- Bác sĩ Victor Banks à ? - Cô hỏi khẽ.
- Vâng, ông ta nói ông ta đến từ ban từ thiện của Tổ chức Một trái đất Toàn Vẹn.
Maura không nói gì, cô nhìn chiếc điện thoại, tay cô chết cứng trên bàn. Cô không để ý tới những đợt băng tuyết đập vào cửa sổ. Cô chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập.
- Bác sĩ Isles ?
- Ông ấy gọi điện thoại đường dài à ?
- Không. Ông để lại tin nhắn từ trước. Ông ấy đang ở khách sạn Colonnade.
Maura nuốt nước bọt.
- Giờ tôi không thể nhận điện.
- Ông ấy đã gọi lần thứ hai. Ông ấy nói ông ấy biết cô. Vâng. Chắc chắn rồi.
- Lần trước ông ấy gọi là khi nào ? - Maura hỏi ?
- Chiều nay, khi cô vẫn ở hiện trường. Tôi đã để lại tin nhắn của ông ấy trên bàn cô.
Maura thấy ba tờ giấy màu hồng ghi chú bị đống tài liệu che mất. Đây rồi. Bác sĩ Victo Banks, đã gọi lúc mười hai giờ bốn mươi lăm phút chiều. Cô nhìn vào cái tên, bụng cô bỗng cồn cào. Tại sao lại là bây giờ ? Cô băn khoăn. Sau từng ấy tháng, tại sao anh lại đột nhiên gọi cho tôi ? Điều gì khiến anh nghĩ là anh có thể bước vào cuộc sống của tôi một lần nữa ?
- Tôi nên nói gì với ông ta ? - Louise hỏi.
Maura hít một hơi thật sâu.
- Nói với ông ta rằng tôi sẽ gọi lại. Khi tôi sẵn sàng, đồ khốn kiếp.
Cô vo tờ giấy và ném vào sọt rác. Một lúc sau, khi không thể tập trung vào công việc giấy tờ, cô đứng lên, mặc áo khoác.
Louise rất ngạc nhiên khi thấy Maura đi từ văn phòng làm việc ra, sẵn sàng đối đầu với thời tiết. Maura thường là người ra về cuối cùng và hầu như không bao giờ ra khỏi cửa trước năm rưỡi. Bây giờ
vẫn chưa đến năm giờ và Louise vừa tắt máy tính.
- Tôi sẽ đương đầu với đám xe cộ - Maura nói.
- Tôi nghĩ giờ đã quá muộn. Cô thấy thời tiết không ? Họ đã đóng cửa hầu hết các văn phòng trong thời tiết hôm nay rồi.
- Khi nào vậy ?
- Bốn giờ.
- Tại sao cô còn ở đây ? Cô phải về rồi chứ.
- Chồng tôi sẽ đến đón tôi. Xe của tôi để ở cửa hiệu, nhớ không ?
Maura nhăn mặt. Đúng là Louise đã nói với cô về chiếc xe sáng nay nhưng tất nhiên là cô đã quên. Như mọi khi, tâm trí cô chỉ tập trung vào xác chết, cô không chú ý đến những tiếng nói của người sống.
Cô nhìn Louise quấn khăn quàng cổ, kéo áo len và cô nghĩ - tôi không để tâm lắm đến việc nghe người khác. Tôi không dành thời gian với người khác khi họ còn sống. Thậm chí sau một năm làm việc tại văn phòng này, cô hầu như chẳng biết gì về đời tư của cô thư kí, cô chưa từng gặp chồng Louise và chỉ biết tên anh ta là Vemon. Cô không thể nhớ anh ta làm việc ở đâu hay anh ta làm nghề gì hay anh ta làm gì để kiếm sống, một phần là Louise hiếm khi chia sẻ chuyện đời tư của mình. Maura tӵ hỏi: cô ấy có cảm thấy mình không sẵn sàng lắng nghe cô ấy không, rằng mình thấy thoải mái khi dùng dao mổ và máy thu âm hơn là đối mặt với những cảm xúc của mọi người xung quanh ?
Họ cùng nhau xuống đại sảnh, tới tới dẫn đến bãi đỗ xe cho nhân viên. Họ không nói chuyện mà chỉ là hai người đồng hành đi tới cùng một điểm.
Chồng Lonise đang đợi trong xe, cần lau kính chắn gió hoạt động liên tục để gạt những bông tuyết rơi. Maura vẫy tay tạm biệt khi Louisẹ và chồng cô lái xe đi, cô nhận được cái nhìn băn khoăn từ Vemon. Có lẽ anh ta tӵ hỏi người phụ nữ đó là ai mà vẫy tay như thể cô biết họ.
Như thể cô thӵc sӵ biết ai đó.
Cô đi ngay qua bãi đỗ xe trơn trượt. Một nhiệm vụ phải hoàn thành trước khi một ngày kết thúc.
Cô lái xe tới bệnh viện St. Francis để kiểm tra tình trạng sơ Urula.
Dù không còn làm việc ở phòng khám bệnh viện từ lần thӵc tập sinh cách đây nhiều năm, nhưng ký ức về những lần thay ca cuối cùng của cô trong phòng chăm sóc đặc biệt vẫn như mới hôm nào. Cô nhớ những lúc hốt hoảng, nhớ cuộc vật lộn để suy nghĩ trong cơn thèm ngủ. Cô nhớ một đêm ba bệnh nhân chết trong ca trӵc của cô và ngay lập tức mọi việc trở nên tồi tệ. Giờ cô không thể bước vào phòng chăm sóc đặc biệt mà không cảm thấy bị ám ảnh bởi bóng đen của những trách nhiệm và thất bại trước kia.
Bộ phận chăm sóc đặc biệt tại bệnh viện St. Francis có một khu chăm sóc trung tâm, bao quanh là mười hai phòng bệnh. Maura dừng ở bàn lễ tân để trình thẻ căn cước.
- Tôi là bác sĩ Isles từ phòng khám nghiệm tử thi. Làm ơn cho tôi xem hồ sơ bệnh án của bệnh nhân Ursula Rowland được không ?
Nhân viên trӵc nhìn cô bằng ánh mắt băn khoăn.
- Nhưng bệnh nhân đó vẫn chưa chết.
- Thám tử Rizzoli yêu cầu tôi kiểm tra tình trạng của bà ấy. - Sơ đồ bệnh án của bà ấy ở ngăn đằng kia. Số 10.
Maura đi tới những ô bệnh án và lôi ra một vỏ bọc bằng bạc chứa sơ đồ bệnh án số 10. Cô mở đến phần báo cáo sơ phẫu. Đó là một bản tổng kết viết tay, được viết nguệc ngoạc bởi bác sĩ phẫu thuật não ngay sau ca mổ:
"Một phần lớn lượng máu tụ đã được xác định và được rút hết. Vết thương hở, vỏ phần trên hộp sọ đã được chỉnh lại và nâng lên. Chỗ rách hai bên đã được khâu lại. Bản báo cáo về ca mổ đầy đủ đã được ghi lại. James Yuen. Bác sĩ chuyên khoa."
Cô xem các ghi chép của y tá và lướt qua sӵ tiến triển của bệnh nhân sau ca mổ. Sức ép trong hộp sọ đã được giữ ổn định với sӵ trợ giúp của thuốc Mannitol và Laxis trong tĩnh mạch, việc kìm chế chứng thở quá nhanh. Có vẻ như những việc cần làm đã được làm, giờ sẽ là trò chơi chờ đợi, để xem não bộ sẽ bị phá hủy bao nhiêu.
Mang theo sơ đồ, Maura đi qua bộ phận chăm sóc đặc biệt đến phòng số 10. Viên cảnh sát đang ngồi ngoài cửa gật đầu chào cô tỏ vẻ đã nhận ra.
- Chào bác sĩ Isles.
- Bệnh nhân sao rồi ? - Cô hỏi.
- Chắc vẫn thế, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ là bà ấy chưa tỉnh. Maura nhìn những mảnh rèm kéo lại.
- Ai ở trong đó với bà ấy ?
- Các bác sĩ.
Cô gõ lên khung cửa và bước qua các tấm rèm. Hai người đàn ông đang đứng cạnh chiếc giường. Một là người châu Á cao với cái nhìn sắc lạnh và mái tóc bạc dày. Bác sĩ phẫu thuật, cô nghĩ, và thấy bảng tên ông ta: Bác sĩ Yuen. Người đứng cạnh ông ta trẻ hơn - khoảng ba mươi tuổi, với đôi vai vạm vỡ làm phồng áo khoác trắng. Mái tóc dài vàng óng của anh ta được túm gọn về phía sau theo kiểu đuôi gà. Fabio, một MD, cô nghĩ, căn cứ vào khuôn mặt rám nắng, cặp mắt xám và sâu.
- Xin lỗi vì tôi đã vào đây - cô nói - Tôi là bác sĩ Isles từ phòng Khám nghiệm tử thi.
- Phòng Khám nghiệm tử thi ? - Bác sĩ Yuen ngạc nhiên - Chuyến thăm này có sớm quá không ?
- Trưởng ban thám tử yêu cầu tôi kiểm tra bệnh nhân của ông. Còn một nạn nhân nữa, ông biết đấy.
- Có, chúng tôi đã nghe.
- Ngày mai chúng tôi sẽ làm việc tại nhà xác. Tôi muốn đối chiếu kiểu vết thương giữa hai nạn nhân này.
- Tôi nghĩ cô sẽ không thấy nhiều điều ở đây. Không phải là lúc này, sau khi phẫu thuật. Cô sẽ thấy nhiều hơn khi quan sát bản chụp X quang và chụp não.
Cô nhìn xuống nạn nhân và không thể phản bác ý kiến đó. Đầu sơ Ursula được quấn băng, những vết thương của bà ấy đã thay đổi và được chữa trị nhờ bàn tay của bác sĩ. Bà ấy bị hôn mê sâu và đang thở nhờ sӵ trợ giúp của ống thở. Không giống cô Camille yếu ớt,
Ursula là một phụ nữ phốp pháp, xương lớn và cứng chắc, với một khuôn mặt đầy đặn và chất phác của một phụ nữ nông dân. Những đường truyền huyết thanh in hằn trên hai cánh tay béo chắc, cổ tay trái bà ta đeo một chiếc vòng ghi chú ý của bác sĩ, được khắc chữ
"dị ứng với thuốc penicillin". Một vết sẹo xấu xí, to, màu trắng ở bên trên khuỷu tay phải - kết quả của một vết thương cũ được khâu rất ẩu. Kỷ niệm từ chuyến đi nước ngoài sao ? Maura tӵ hỏi.
- Tôi đã làm những gì có thể ở phòng mổ - bác sĩ Yuen nói - Giờ hy vọng bác sĩ Sutcliffe ở đây có thể giải quyết tất cả những biến chứng.
Cô nhìn vị bác sĩ có món tóc đuôi gà, anh ta gật đầu chào cô và cười.
- Tôi là Matthew Sutcliffe, bác sĩ nội khoa phụ trách bà ấy - anh ta giới thiệu - Bà ấy đã không gặp tôi vài tháng và thậm chí tôi không biết bà ấy đã được đưa vào viện, tôi mới biết cách đây ít phút.
- Anh có số điện thoại của cháu bà ta không ? - Bác sĩ Yuen hỏi - Khi anh ta gọi cho tôi, tôi quên không ghi lại. Anh ta nói sẽ gọi cho anh.
Sutcliffe gật đầu.
- Tôi có rồi. Sẽ tốt hơn nếu tôi là người liên lạc với gia đình bà ấy. Tôi sẽ cho họ biết tình trạng của bà ấy.
- Tình trạng bà ấy sao rồi ? - Maura hỏi.
- Bà ấy đã ổn định về mặt bên ngoài - Sutcliffe nói.
- Còn đầu óc thì sao ? - Cô nhìn bác sĩ Yuen.
Ông lắc đầu.
- Còn quá sớm để nói bất cứ điều gì. Mọi việc vẫn suôn sẻ ở phòng cấp cứu nhưng như tôi đã nói với bác sĩ Sutcliffe, thậm chí nếu bà ấy có tỉnh lại - và có nhiều khả năng là không — rất có thể bà ấy sẽ không nhớ bất cứ chi tiết gì về vụ tấn công. Chứng bệnh mất trí nhớ
thụt lùi rất phổ biến ở các vết thương trên đầu - Ông nhìn xuống vì máy nhắn tin của ông kêu — Xin lỗi, tôi phải nhận cuộc gọi này. Bác sĩ Sutcliffe, anh có thể hoàn tất hồ sơ bệnh án của bà ấy không ? - Chỉ cần hai bước sải nhanh, ông đã ra đến cửa.
Sutcliffe đưa ống nghe cho Maura.
- Cô có thể kiểm tra bà ấy nếu muốn.
Cô cầm ống nghe và đi về mép giường. Trong một thoáng cô thấy lồng ngӵc sơ Ursula nâng lên rồi hạ xuống. Cô hiếm khi kiểm tra người còn sống; cô phải ngừng để nhớ lại những kӻ năng y khoa của mình, cô nhận rõ rằng bác sĩ Sutcliffe là người chứng kiến trình độ thӵc hành của cô đến đâu khi kiểm tra một người mà tim người đó vẫn đập. Cô đã làm việc quá lâu với những xác chết đến nỗi giờ cô cảm thấy lóng ngóng trước người còn sống. Sutcliffe đứng ở đầu giường, in đậm sӵ hiện diện của mình bằng đôi vai rộng và cái nhìn chăm chú. Anh ta quan sát khi cô chiếu đèn kiểu bút máy vào mắt nạn nhân, khi cô bắt mạch vùng cổ, những ngón tay cô trượt trên lớp da ấm. Thật khác với cái lạnh của thịt người được bảo quản.
Cô ngừng lại.
- Không có mạch của động mạch bên phải.
- Gì cơ ?
- Có mạch đập mạnh bên trái nhưng không có mạch đập bên phải - Cô tìm sơ đồ bệnh án và mở đến các ghi chép ở phòng mổ - À, những ghi chép về việc gây mê được ghi ở đây - Việc không có mạch đập bên trái được ghi lại. Rất có thể là một biến chứng giải phẫu thông thường.
Anh ta cau mày, khuôn mặt rám nắng đỏ bừng.
- Tôi đã quên mất điều đó.
- Đó là một phát hiện cũ à ? Việc không có mạch đập bên này ấy ?
Anh ta gật đầu.
- Bẩm sinh.
Maura đặt ống nghe lên tai và kéo áo bệnh viện lên, để lộ bộ ngӵc đồ sộ của sơ Ursula. Da ở vùng đó xanh và vẫn còn căng trẻ mặc dù bà ta đã sáu mươi tuổi. Mấy chục năm bảo vệ dưới trang phục của một tu sĩ đã bảo vệ bà ta khỏi những tia nắng làm lão hóa của
ánh nắng. Cô ấn màng ngăn của tai nghe lên ngӵc sơ Ursula, cô nghe thấy nhịp tim ổn định và khỏe mạnh. Tim của người còn sống, vẫn bơm máu và không bị tổn thương.
Một y tá thò đầu vào phòng bệnh.
- Bác sĩ Sutcliffe ? Bên chụp X-quang gọi để thông báo rằng phim chụp lồng ngӵc di động đã sẵn sàng nếu anh muốn xuống xem.
- Cảm ơn ! Anh ta nhìn Maura - Chúng ta cũng có thể xem phim chụp não nếu cô muốn.
Họ đi thang máy cùng sáu người bán kẹo vằn, mặt tươi tỉnh, tóc bóng lộn đang cười khúc khích với nhau khi họ nhìn một cách ngưỡng mộ bác sĩ Sutcliffe. Dù anh ta rất cuốn hút nhung anh ta dường như không để ý tới sӵ chú ý của họ, thay vào đó, cái nhìn nghiêm nghị của anh ta tập trung vào những con số báo việc chuyển đổi số tầng. Sức quyến rũ của một chiếc áo khoác trắng, Maura nghĩ, cô nhớ lại những năm thời niên thiếu làm tình nguyện ở bệnh viện St. Luke tại San Francisco.
Các bác sĩ dường như thật xa vời đối với cô. Không thể tiếp cận được. Giờ chính cô đã là một bác sĩ, cô cũng hiểu rất rõ chiếc áo khoác sẽ không giúp cô tránh mắc lỗi. Nó sẽ không giúp cô không mắc sai lầm.
Cô nhìn những người bán kẹo vằn trong bộ trang phục bắt mắt của họ và nghĩ về mình khi mười sáu tuổi - không cười đùa như những cô gái này mà trầm lặng và nghiêm túc. Thậm chí sau đó, cô còn
hiểu biết về những mặt đen tối của cuộc sống. Theo bản năng, cô bị lôi cuốn bởi những điệu nhạc của một nốt trầm.
Cửa thang máy mở, những cô gái xô ra, một đám người toàn màu trắng và hồng bỏ lại Maura và Sutcliffe trong thang máy.
- Họ khiến tôi cảm thấy mình mệt mỏi - anh ta nói - Toàn bộ sức trẻ đó. Tôi ước mình có một phần mười chỗ đó, nhất là sau một đêm trӵc - Anh nhìn cô - Cô phải làm những việc đó chứ ?
- Những đêm trӵc à ? Chúng tôi thay phiên nhau.
- Tôi nghĩ bệnh nhân của cô không mong cô sẽ chạy vào. - Không giống cuộc sống của anh ở cái hầm này.
Anh ta cười và bỗng nhiên chuyển thành một cậu bé lướt sóng với mớ tóc vàng hoe và đôi mắt biết cười.
- Cuộc sống dưới những cái hầm. Đó là điều đôi khi tôi cảm thấy. Ở chiến tuyến.
Bản chụp X-quang đã sẵn sàng chờ họ trên bàn của người thư ký. Sutcliffe mang một phong bì lớn vào phòng quan sát. Anh ta xếp một tập phim dưới cái kẹp rồi treo lên mắc.
Ánh sáng chiếu qua những hình chụp hộp sọ. Các vết nứt chạy dọc xương như những tia chớp. Cô có thể thấy hai điểm tách biệt của chấn thương. Cú đánh đầu tiên giáng xuống xương thái dương bên phải, gây ra một vết nứt gọn xuống dưới, xuống phía tai. Cú thứ hai, mạnh hơn, rơi xuống phần lui về sau hơn so với cú đầu tiên và cú đánh này đè lên chẩm đầu, ấn sâu nó vào bên trong.
- Đầu tiên hắn đánh bà ấy ở bên đầu - cô nói.
- Làm sao cô biết đó là cú đánh đầu tiên ?
- Vì vết nứt đầu tiên đã chặn sӵ lan tỏa của một vết nứt giao nhau do cú đánh thứ hai - Cô chỉ vào những vết nứt - Anh thấy vết nứt
này dừng ngay ở đây, chỗ nó lan tới vết nứt đầu tiên không ? Lӵc tác động không thể vượt qua khe hở này. Điều đó cho tôi biết cú đánh vào bên thái dương phải này giáng xuống đầu tiên. Có lẽ bà ấy đã quay lưng lại. Hoặc bà ấy không thấy hắn tiến lại từ một bên.
- Hắn khiến bà ấy ngạc nhiên - Sutcliffe nói.
- Và như thế đã đủ khiến bà ấy quay cuồng. Sau đó cú thứ hai giáng xuống, ở phía sau đầu nhiều hơn, chỗ này - Cô chỉ vào vết nứt thứ hai.
- Một cú đánh mạnh - anh ta nói - Nó làm mất sӵ ổn định của não.
Anh ta cúi nhìn phim chụp não và đặt những tấm quét tim. Phương pháp chụp X-quang quay quanh trục tӵ động cho phép nhìn vào phía sâu của não và cho thấy não theo từng lớp cắt. Cô thấy một cục máu tụ rỉ ra từ các động mạch bị vỡ. Áp lӵc tăng sẽ bóp chặt hộp sọ. Đó là một vết thương có khả năng sát thương như đối với Camille.
Nhưng việc giải phẫu người và sức chịu đӵng của con người rất đa dạng. Trong khi một nữ tu sĩ trẻ hơn nhiều phải gục ngã trước những vết thương thì tim sơ Ursula vẫn đang đập, cơ thể bà ấy không chịu đầu hàng trước tâm trí. Không phải là một phép màu, giống như đứa trẻ sống sót sau khi ngã từ cửa sổ trên tầng sáu và chỉ bị xây xát.
- Tôi ngạc nhiên là bà ấy còn sống - anh ta lầm rầm.
- Tôi cũng vậy - Cô nhìn Sutcliffe. Ánh sáng của chiếc hộp được chiếu sáng phản chiếu nửa khuôn mặt anh ta, cô nhìn những góc cạnh mạnh mẽ của má anh.
- Những cú đánh này chứng tỏ hắn chủ ý giết người.
Chương Bốn
Camille Maginnes có xương yếu, Maura nghĩ khi nhìn những tia X quang treo trên hộp chiếu sáng ở nhà xác. Năm tháng vẫn không thể làm biến mất những khớp nối của nữ tu sĩ mới này, chưa làm hỏng cột sống hay làm canxi hóa khung sườn của lồng ngӵc. Giờ thì năm tháng sẽ không thể làm điều đó. Camille sẽ được chôn xuống đất, xương cô sẽ mãi mãi được chôn cất trong tình trạng còn non.
Yoshima đã chụp X-quang thi thể khi cô ta còn mặc nguyên quần áo, một quy định cẩn thận để xác định các viên đạn còn sót hay các mảnh kim loại khác có thể lẫn trong quần áo. Trừ cây thánh giá và những đinh ghim an toàn trên ngӵc, không một mảnh kim loại nào khác hiện lên trên bản chụp X-quang.
Maura kéo màn chiếu xuống và tia X-quang mạnh tạo ra một tiếng kêu boong khi chúng uốn cong trong bàn tay cô. Cô với lấy những phim chụp hộp sọ và đặt chúng dưới chiếc kẹp của lớp chiếu.
- Lạy Chúa - Thám tử Frost lẩm bẩm.
Tổn thương vùng chẩm thật đáng kinh ngạc. Một trong những cú đánh rất mạnh khiến những mảnh xương vỡ bị đẩy sâu xuống lớp bao quanh hộp sọ. Dù Maura vẫn chưa đưa ra cắt nhưng cô đã có thể hình dung ra tổn thương bên trong vùng chẩm. Các mạch máu bị vỡ, có hiện tượng xuất huyết máu thành tụ máu. Còn bộ não bị lòi ra dưới áp lӵc máu ngày càng tăng.
- Hãy nói cho tôi, bác sĩ - Rizzoli nói ngắn gọn và đúng chủ đề. Trông cô sáng nay đã khỏe hơn và cô bước vào nhà xác với vẻ tӵ tin quá mức như thường lệ, nữ chiến binh lại hành động - Cô nhìn gì thế ?
- Ba cú đánh riêng biệt - Maura nói - cú đầu tiên ở đây, vùng đỉnh đầu. Cô chỉ vào một đường nứt đơn lẻ chạy chéo lên phía trên. -
Tiếp theo là hai cú đánh khác ở vùng sau đầu. Dӵ đoán của tôi là lúc đó cô ấy đã ngã mạnh xuống. Nằm đó một cách vô vọng và dễ bị tấn công. Đó là lúc cú đánh cuối cùng đập vào sọ.
Một câu kết thật độc ác đến nỗi cô và hai thám tử im lặng một lúc. Tưởng tượng ra cô ngã sấp xuống, mặt dán xuống thềm đá. Cánh tay kẻ tấn công vung lên, bàn tay nắm vũ khí giết người. Tiếng xương vỡ vụn xé tan sӵ im lặng trong nhà nguyện.
- Như thể đập một con hải cẩu con - Rizzoli nhận xét - Cô ấy không có cơ hội nào.
Maura quay sang bàn mổ tử thi nơi Camille Maginnes nằm trong bộ quần áo vẫn còn đẫm máu.
- Cởi quần áo cô ấy đi.
Yoshima đeo găng tay và khoác áo choàng đứng chờ, bóng ma của phòng mổ tử thi. Với một sӵ im lặng tuyệt đối, anh ta sắp xếp khay các dụng cụ tạo góc ánh sáng và chuẩn bị sẵn sàng dụng cụ đӵng mẫu vật. Maura không cần nói, chỉ cần một ánh mắt là anh đọc được ý nghĩ của cô.
Trước tiên họ cởi đôi giày da màu đen, nó xấu xí và rất công dụng. Sau đó họ ngừng lại nhìn những lớp quần áo của nạn nhân và chuẩn bị làm một việc mà trước đây họ chưa từng làm: cởi quần áo của một bà sơ.
- Nên cởi váy ngoài ra trước - Maura nói.
- Đó là gì vậy ? - Frost hỏi
- Chiếc lót vai. Tôi không thấy chiếc đai nào ở phía trước. Và không thấy chiếc khóa kéo nào trên hình chụp X-quang. Đẩy người cô ấy sang một bên để tôi có thể kiểm tra lưng cô ấy.
Thi thể bây giờ cứng lại do quá trình xác đông cứng và nhẹ như một đứa bé. Họ xoay cô nghiêng sang bên và Maura tháo rời phần mép
chiếc lót vai.
- Khóa dán - cô nói.
Frost cười một cách ngạc nhiên.
- Cô đùa à ?
- Sӵ giao thoa của thời trung cổ và thời hiện đại - Maura tháo chiếc capelet, gấp nó lại rồi đặt lên một tấm nhӵa.
- Một chút thôi. Điều đó hơi thất vọng một chút. Các bà sơ lại dùng khóa dán.
- Cô muốn nhốt họ ở thời trung cổ mãi sao ? - Rizzoli đùa.
- Tôi chỉ tưởng tượng là họ vốn ưa truyền thống hay tương tӵ như thế.
- Tôi không muốn làm anh thất vọng, thám tử Frost ạ - Maura nói khi cô tháo vòng và cây thánh giá - Nhưng vài tu viện hiện nay còn có trang web riêng.
- Trời ạ ! Các bà sơ trên mạng. Điều đó khiến đầu tôi nổ tung đấy.
- Có vẻ như tiếp theo ta sẽ tháo phần vải trên vai - Maura nói và xác định phần áo không tay quấn từ vai xuống đường viền quần. Cô nhẹ nhàng kéo xương bả vai qua đầu nạn nhân. Tấm vải đẫm máu và khô cứng. Cô đặt nó lên một tấm nhӵa riêng, tiếp theo là dây đai bằng da.
Họ đã đến lớp quần áo cuối cùng bằng len - một chiếc áo dài thắt ngang lưng màu đen được quấn lỏng quanh thân người mảnh dẻ của Camille. Rào cản cuối cùng của sӵ tiết hạnh của cô.
Trong suốt những năm tháo bỏ y phục của các xác chết Maura chưa bao giờ do dӵ trong việc để nạn nhân trần truồng như vậy. Đây là một cô gái đã chọn cách sống trốn chạy khỏi những con mắt của đàn ông; giờ cô ấy sẽ bị phơi bày một cách độc ác, cơ thể cô ấy sẽ
bị kiểm tra và các bộ phận sẽ được vệ sinh sạch sẽ. Việc nghĩ đến một sӵ xâm phạm như vậy khiến Maura cảm thấy đắng họng và cô dừng lại để lấy lại tâm thế. Cô thấy cái nhìn thắc mắc của Yoshima. Nếu anh ta thấy bӵc mình, anh ta sẽ không thể hiện ra. Khuôn mặt thụ động của anh ta tạo nên một sӵ bình tĩnh trong căn phòng này, nơi mà bầu không khí dường như nén đầy cảm xúc.
Cô tập trung vào công việc. Cô và Yoshima cùng nhau kéo áo thắt lưng lên qua phần đùi và hông. Nó được mặc lỏng lẻo và họ có thể cởi nó mà không làm mất trạng thái đông cứng của cánh tay. Dưới
đó lại là một lớp quần áo khác - một chiếc mũ len trùm đầu màu trắng tuột xuống cổ cô gái, phần vạt phía trước được cài đinh ghim an toàn vào một chiếc áo phông đẫm máu. Những chiếc ghim tương tӵ đã hiện lên trên hình chụp X- quang. Chiếc quần tất đen dài bó vào chân cô. Họ tháo quần tất trước, để lộ ra những chiếc quần lót bằng cô-tông màu trắng bên dưới. Đó là các tấm vải quấn quá chặt, được thiết kế để che cơ thể càng nhiều càng tốt, đồ lót của một quý bà chứ không phải của một cô gái hấp dẫn còn trẻ. Một tấm băng vệ sinh được dán dưới lớp vải cốt-tông. Như Maura đã liệu từ trước, căn cứ vào những vết máu trên ga trải giường, nạn nhân đang trong thời kỳ kinh nguyệt.
Tiếp đó, Maura cởi áo phông. Cô tháo các ghim cài, tháo ra vài tấm khóa dán nữa và cởi bỏ chiếc mũ trùm đầu. Nhưng chiếc áo phông không tuột ra dễ dàng do xác đã cứng. Cô lấy kéo và cắt ngay phần giữa áo. Tấm vải xé toạc ra, để lộ một lớp vải khác.
Điều này khiến Maura kinh hãi. Cô nhìn kӻ mảnh vải quấn chặt quanh ngӵc, được thắt chặt ở đằng trước băng hai cây ghim an toàn.
- Cái đó để làm gì vậy ? - Frost hỏi.
- Có vẻ như cô ấy muốn quấn chặt ngӵc - Maura nói. - Sao thế ?
- Tôi không biết.
- Để thay thế áo ngӵc à ? - Rizzoli băn khoăn.
- Tôi không hiểu tại sao cô ấy chọn thứ này thay cho áo ngӵc. Nhìn xem nó được quấn chặt mức nào. Chắc là khó chịu lắm.
Rizzoli khịt mũi.
- Đúng thế, áo ngӵc vẫn thoải mái hơn.
- Đó không phải là một thứ mang tính tôn giáo chứ ? - Frost thắc mắc - Một phần trong lễ phục của họ chăng ?
- Không, đây chỉ là mảnh quấn tiêu chuẩn của hãng Ace. Mảnh quấn tương tӵ mà anh có thể mua ở một hiệu thuốc để bó mắt cá chân.
- Nhưng làm sao chúng ta biết các bà sơ thường hay mặc gì ? Ý tôi là, tất cả những gì ta biết là dưới những tấm áo choàng ấy, chúng có thể được mặc cùng dây đai đen và lưới đánh cá lắm chứ.
Không ai cười cả.
Maura cúi nhìn Camille và bỗng nhận ra ý nghĩa của việc quấn ngӵc. Những đường nét của người phụ nữ bị che giấu và kìm nén. Nói ngắn gọn thì đó là sӵ khổ hạnh. Camille đã nghĩ gì khi quấn tấm vải quanh ngӵc và kéo tấm vải đàn hồi quanh da của mình ? Liệu cô ấy có ghét bỏ những thứ gợi nhớ về thời thiếu nữ ? Liệu cô ấy có thấy sạch sẽ hơn, trong trắng hơn khi ngӵc mình biến mất dưới những lớp băng quấn, những đường nét của cô ấy bị là phẳng và giới tính của cô bị xóa bỏ không ?
Maura tháo hai chiếc ghim an toàn, đặt chúng lên khay.
Sau đó, với sӵ giúp đỡ của Yoshima, cô bắt đầu tháo phần quấn vải, lần lượt để lộ ra từng mảng da. Nhưng ngay cả tấm vải đàn hồi cũng không thể khiến lớp cơ còn tươi bị lão hóa. Lớp cuối cùng bung ra, để lộ bầu ngӵc thiếu nữ căng tròn, da còn hằn vết vải quấn. Những người phụ nữ khác chắc chắn sẽ tӵ hào khi có bộ ngӵc như vậy,
Camille Maginnes đã che giấu chúng như thể cô thấy xấu hổ về chúng.
Còn một lớp quần áo cuối cùng cần cởi bỏ. Những chiếc quần lót bó sát bằng vải cô-tông.
Maura kéo tấm quấn lưng bằng nhӵa qua hông rồi xé nó ra xuống dưới đùi.
" Băng vệ sinh còn mới - Rizzoli nói - Có vẻ như cô ấy mới thay.
Nhưng Maura không nhìn tấm băng vệ sinh, cô đang nhìn phần bụng phẳng, võng xuống và lỏng lẻo giữa hai xương hông nhô lên. Các vết màu bạc đã làm xấu xí thêm làn da tái xanh. Cô không nói gì trong mấy phút, lặng lẽ hiểu ý nghĩa của các vết màu trắng đó. Cô cũng đang nghĩ về bộ ngӵc bị quấn quá chặt.
Maura quay ra chiếc khay, chỗ để vải quấn, từ từ mở nó ra và xem xét tấm vải.
- Cô đang tìm kiếm gì vậy ? - Rizzoli thắc mắc.
- Các vết bẩn - Maura nói.
- Cô đã thấy vết máu rồi mà.
- Không phải vết máu... - Maura dừng lại, tấm vải quấn được trải lên khay để lộ ra những vòng tròn tối màu, ở đó chất lỏng đã khô lại. Lạy Chúa, cô nghĩ. Sao điều này có thể xảy ra được ?
Cô nhìn Yoshima.
- Lật cô ấy lên để kiểm tra xương chậu.
Anh ta cau mày.
- Như vậy là làm vỡ thể trạng chết đông cứng à ?
- Cô ấy không có nhiều khối cơ.
Camille là một cô gái mảnh dẻ, điều đó khiến công việc của họ dễ dàng hơn.
Yoshima đi đến chân bàn. Khi Maura úp người Camille xuống, anh ta luồn tay vào dưới đùi trái, ôm người cô ấy để gập cong hông. Việc phá vỡ thi thể chết cứng là một việc làm độc ác - khi đó các khối cơ sẽ bị vỡ một cách bắt buộc trong trạng thái đông cứng. Đó không phải là một quy trình dễ chịu, rõ ràng nó khiến Frost sợ hãi. Anh ta lùi khỏi bàn mổ, mặt tái xanh. Yoshima xô mạnh một cách dứt khoát và qua xương chậu, Maura cảm thấy tiếng gẫy mạnh của các khối cơ.
- Trời ơi ! - Frost nói và quay đi.
Nhưng Rizzoli mới chính là người chạy ngay lập tức đến chiếc ghế gần bồn nước, ngồi sụp trong đó và gục đầu vào tay. Rizzoli là người giỏi chịu đӵng, một người không bao giờ phàn nàn về một cảnh tượng hay mùi khó chịu nào đó. Giờ có vẻ như cô không thể chịu được những việc mới chỉ bắt đầu này.
Maura đi quanh sang bên kia bàn mổ và lại lật úp xương chậu trong khi Yoshima làm việc với phần đùi phải. Ngay cả cô cũng cảm thấy một cơn buồn nôn đáng sợ khi họ úp mạnh để làm vỡ các khối cơ. Trong số tất cả những vụ khó khăn trong sӵ nghiệp y khoa của mình, việc cô được luân chuyển sang khoa phẫu thuật chỉnh hình là việc khiến cô kinh hãi. Việc khoan và cưa xương, việc tác dụng lӵc cӵc mạnh vào xương hông và làm nó vỡ thành nhiều mảnh. Giờ cô cảm thấy nỗi sợ ấy lại ùa về. Phần hông phải đột nhiên gập cong lại, ngay cả vẻ mặt bình thường luôn lạnh lùng của Yoshima cũng lộ ra sӵ kinh tởm. Nhưng không còn cách nào khác để xem trọn vẹn bộ phận sinh dục. Và cô cảm thấy sӵ thôi thúc để xác minh các nghi ngờ của cô càng nhanh càng tốt.
Họ phanh cả hai đùi ra ngoài, Yoshima chiếu thẳng đèn vào bộ phận sinh dục. Máu đã đọng lại thành vũng nhỏ trong đường dẫn đến âm đạo - máu kinh nguyệt bình thường, đúng như Maura đã nghĩ trước
đó. Giờ cô nhìn kӻ và ngạc nhiên bởi những gì cô thấy. Cô lấy miếng gạc, nhẹ nhàng lau sạch vết máu, để lộ ra phần dịch nhầy bên dưới.
- Đó là vết rách âm đạo thứ hai lệch theo hướng sáu giờ - cô nói. - Cô muốn gạc nữa không ?
- Có. Và chúng ta cần cắt bỏ khối này đi.
- Chuyện gì vậy ? - Frost hỏi.
Maura nhìn anh ta.
- Tôi thường không làm việc này nhưng tôi sẽ cắt bỏ các bộ phận xương chậu thành một khối. Tôi sẽ cắt xuyên qua xương và lấy nó ra.
- Cô cho là cô ấy đã bị xâm phạm tình dục ư ?
Maura không trả lời anh ta. Cô đi vòng qua bàn, tới khay dụng cụ lấy dao mổ, rồi cô tới chỗ xác chết để bắt đầu việc rạch hình chữ Y.
Máy bộ đàm kêu.
- Bác sĩ Isles ? - Giọng nói của Louis trên điện thoại. - Có chuyện gì vậy ?
- Có điện của cô ở đầu dây số một. Lại là bác sĩ Banks từ tổ chức đó, Tổ chức Một trái đất.
Maura đứng yên, tay nắm chặt dao mổ. Mũi dao vừa chạm vào da. - Bác sĩ Isles ?
- Tôi không có ở văn phòng.
- Tôi sẽ nói với ông ta là cô gọi lại chứ ?
- Không.
- Đây là lần thứ ba ông ấy gọi trong ngày hôm nay. Ông ấy hỏi có thể gọi cho cô theo số điện thoại ở nhà được không ?
- Không được cho anh ta số điện thoại ở nhà tôi - Cô trả lời vội vã nhanh hơn cô mong muốn và cô thấy Yoshima quay sang nhìn cô. Cô cảm thấy cả Frost và Rizzoli cũng đang nhìn cô. Cô hít một hơi và nói bình tĩnh hơn - Nói với bác sĩ Banks là tôi đi vắng. Và cứ nói
với anh ta như vậy cho đến khi nào anh ta không gọi nữa thì thôi. Sau đó cô ngừng lại.
- Vâng, thưa bác sĩ Isles - Rốt cuộc, Louis trả lời và nghe có vẻ không vui về cuộc nói chuyện. Đây là lần đầu tiên Maura nói nặng lời với cô và Maura đã phải tìm cách xoa dịu, sửa chữa những xung đột. Cuộc nói chuyện khiến cô bӵc bội. Cô cúi nhìn xác chết của Camille Maginnes, cố tập trung chú ý vào nhiệm vụ của đôi tay mình. Nhưng tư tưởng của cô bị phân tán và tay cô cầm con dao mổ không chắc nữa.
Những người khác có thể thấy điều đó.
- Tại sao Tổ chức Một trái đất lại làm phiền cô ? - Rizzoli hỏi — Họ đòi cô đóng tiền quyên góp à ?
- Việc này không liên quan gì đến Tổ chức Một trái đất. - Vậy thì là gì ? - Rizzoli hỏi dồn - Tên đó đang tán tỉnh cô à ? - Đó chỉ là người tôi đang cố tránh mặt.
- Có vẻ như hắn dai dẳng đấy.
- Cô không biết đâu.
- Cô muốn tôi đá hắn sau lưng cô không ? Và bảo hắn biến đi ? - Đây là điều Rizzoli nói không phải với tư cách một cảnh sát. Đó là vì cô cũng là phụ nữ, và cô không chịu được những tên đàn ông dai như đỉa.
- Đây là vấn đề riêng tư - Maura nói.
- Nếu cô cần giúp đỡ thì tất cả những gì cô cần làm là nhờ tôi.
- Cảm ơn, nhưng tôi sẽ đối phó với anh ta - Maura ấn dao mổ vào da và không muốn gì hơn là bỏ qua chủ đề về Victor Banks. Cô thở sâu và thấy thật nӵc cười là mùi của thịt người chết còn không khó chịu bằng việc nhắc đến tên anh ta. Rằng người sống làm cô khổ tâm hơn tất cả những gì mà người chết đã từng làm. Trong phòng mổ tử thi, không ai có thể làm cô tổn thương, không ai phản bội cô và cô là người cầm trịch.
- Vậy thì đó là ai ? - Rizzoli hỏi. Câu hỏi đó vẫn lởn vởn trong đầu họ. Một câu hỏi mà sớm hay muộn, Maura cũng phải trả lời.
Cô ấn ngập lưỡi dao vào phần thịt và thấy da rách ra như một tấm rèm trắng.
- Chồng cũ của tôi - cô nói.
***
Cô tạo vết cắt hình chữ Y, sau đó lật mặt sau của lớp da tái xanh. Yoshima sử dụng các dao kẹp thông thường để cắt xuyên qua lồng ngӵc, rồi nâng những xương lồng ngӵc và xương ức lên để lộ ra một quả tim và hai lá phổi bình thường, lá gan, lá lách và tuyến tụy hoàn toàn không có bệnh. Những phần nội tạng sạch sẽ và khỏe mạnh của một cô gái trẻ chưa từng lạm dụng thuốc lá hay rượu bia, người sống không đủ lâu để các động mạch co lại và bị tắc nghẽn. Maura đưa ra vài nhận định khi cô lấy các nội tạng ra, đặt chúng lên một bồn kim loại và chuyển nhanh sang mục tiêu tiếp theo: đó là kiểm tra các bộ phận ở khung xương chậu.
Việc cắt bỏ khối ở xương chậu là một công đoạn cô thường chỉ dành cho những trường hợp bị hãm hiếp cho tới chết bởi nó cung cấp thêm nhiều thông tin về những nội tạng hơn việc mổ tử thi thông thường. Đây là một quá trình không dễ chịu chút nào, nó đụng chạm đến những bộ phận sâu kín nhất ở vùng xương chậu. Khi cô và
Yoshima cắt phần xương gai ở mu dưới bụng, cô không ngạc nhiên khi thấy Frost quay mặt đi. Nhưng cả Rizzoli cũng run rẩy cạnh chiếc bàn. Không ai còn nói về những cú điện thoại của chồng cũ của Maura nữa, không ai gây áp lӵc cho cô về những chuyện riêng tư nữa. Quá trình mổ tư thi đã trở nên không thích hợp cho việc trò chuyện và Maura cảm thấy nhẹ nhõm vì điều này.
Cô nhấc hết các bộ phận ở xương chậu, cơ quan sinh dục ngoài, xương mu và đặt nó lên bàn mổ. Thậm chí trước khi mổ tử cung, chỉ dӵa vào phần bên ngoài, cô đã biết rằng nỗi lo sợ của cô đã được xác nhận. Bộ phận đó lớn hơn mức bình thường, đáy dạ con cao hơn tầm của xương mu rất nhiều, các vách bị lỗ rỗ. Cô phanh nó ra, để lộ màng trong dạ con, ống này vẫn dày và dính đầy máu.
Cô ngẩng đầu lên nhìn Rizzoli và hỏi bằng một giọng sắc lạnh.
- Cô gái này đã rời tu viện vào thời gian nào đó tuần trước phải không ?
- Lần cuối cùng Camille rời tu viện là vào tháng ba, để thăm gia đình ở Cape Cod. Maiy Clement đã nói với tôi như vậy.
- Vậy thì cô phải tìm khu đó. Ngay lập tức.
- Tại sao ? Chúng ta sẽ tìm gì ?
- Một đứa bé sơ sinh.
Điều này dường như khiến Rizzoli kinh hãi. Cô trừng mắt nhìn Maura, mặt trắng bệch. Rồi cô quay sang thi thể Camille Maginnes đang đặt trên bàn.
- Nhưng cô ấy là một tu sĩ cơ mà.
- Đúng vậy — Maura nói - Và mới đây cô ấy đã sinh con.
Chương năm
Tuyết lại rơi khi Maura bước ra khỏi tòa nhà hôm đó, những bông tuyết trắng, bay vòng như những viên kẹo xốp, rồi đậu nhẹ trên những chiếc xe đang đỗ trong bãi. Hôm nay cô đã lường trước thời tiết và đi giầy cao cổ có gót thô. Dù vậy, cô vẫn cẩn thận khi bước qua bãi đỗ xe, giầy cô trượt trên mặt băng dính tuyết, người cô như chӵc đổ xuống. Cuối cùng, khi đến chỗ để xe, cô thở phào nhẹ nhõm và lục ví tìm chìa khóa. Vì tập trung vào việc tìm chìa khóa, cô không để ý đến tiếng đóng cửa của một chiếc xe gần đó. Chỉ khi nghe thấy tiếng bước chân, cô mới quay mặt về phía người đàn ông đang lại gần. Anh tiến gần thêm mấy bước rồi dừng lại, không nói gì hết. Anh chỉ đứng nhìn cô, hai tay để trong túi áo khoác da. Những bông tuyết đang rơi đậu trên mái tóc vàng của anh và dính cả vào bộ râu được tỉa tót gọn gàng.
Anh nhìn chiếc xe Lexus, nói.
- Anh nghĩ chiếc màu đen là của em. Em luôn dùng màu đen, luôn bước vào chỗ tối. Và ai khác có thể để xe gọn như thế ?
Cuối cùng cô cũng lấy lại giọng, thốt ra khàn khàn, giọng của một người lạ.
- Anh làm gì ở đây, Victor ?
- Có vẻ đây là cách duy nhất anh có thể gặp em.
- Phục kích tôi ở bãi đỗ xe ư ?
- Nó có vẻ như vậy sao ?
- Anh đã quanh quẩn ở đây chờ tôi. Tôi chỉ có thể gọi là phục kích.
- Em không cho anh nhiều lӵa chọn. Em không trả lời bất cứ cuộc gọi nào của anh.
- Tôi không rảnh.
- Em chưa bao giờ cho anh số điện thoại mới của em. - Anh có hỏi đâu.
Anh ngước lên nhìn tuyết lơ lửng như giấy trang trí và thở dài - Chà, giống như ngày xưa phải không ?
- Rất giống - cô quay sang chiếc xe và ấn nút điều khiển từ xa. Ổ khóa bật mở.
- Em không muốn biết tại sao anh ở đây à ?
- Tôi phải đi.
- Anh bay một mạch đến Boston, còn em không thèm hỏi tại sao. - Thôi được - Cô nhìn anh - Tại sao nào ?
- Ba năm rồi, Maura - Anh bước lại gần hơn và cô cảm thấy mùi mồ hôi của anh. Đồ da và xà bông. Tuyết tan trên làn da còn ấm. Ba năm, cô nghĩ, anh ấy hầu như không thay đổi. Vẫn nghiêng mái đầu theo kiểu gã trai trẻ xưa, vẫn những khóe mắt biết cười. Ngay cả bây giờ là tháng mười hai, tóc anh ấy trông vẫn rӵc lửa, không phải là kem bôi nhân tạo từ bình xịt mà là những sợi tóc vàng óng thật sӵ bởi những giờ làm việc ngoài trời. Victor Banks dường như toát ra sức hấp dẫn của riêng mình và cô cũng bị lôi cuốn như bất cứ cô gái nào khác. Cô cảm thấy một sức hút xa xưa kéo cô về phía anh.
- Em chưa bao giờ băn khoăn, dù chỉ một lần, là liệu đó có phải là một lỗi lầm sao ? - Anh hỏi.
- Việc ly hôn ? Hay là cuộc hôn nhân ?
- Điều anh định nói với em vẫn chưa rõ ràng ư ? Khi mà anh đang đứng đây nói chuyện với em.
- Anh đã đợi quá lâu để nói với tôi - Cô quay về phía xe. - Em chưa tái hôn chứ ?
Cô dừng lại, quay lại nhìn anh.
- Còn anh ?
- Chưa.
- Vậy tôi đoán là cả hai chúng ta đều khó sống cùng nhau. - Em đã không ở lại đủ lâu để tìm hiểu điều đó.
Cô cười. Có một sӵ cay đắng và khó chịu trong sӵ im lặng đó.
- Anh luôn là người đi về phía sân bay, lúc nào cũng chạy đi cứu thế giới.
- Anh không phải là người chạy trốn hôn nhân.
- Tôi không phải là người liên quan đến việc đó - Cô quay đi và kéo cửa xe.
- Chết tiệt, em chờ chút được không ? Hãy nghe anh.
Anh nắm tay cô. Cô sững lại vì sӵ giận dữ, cô cảm nhận được từ cái nắm tay đó. Cô nhìn anh, một cái nhìn lạnh lùng cho anh biết rằng anh đã đi quá xa.
Anh bỏ tay cô ra.
- Anh xin lỗi. Lạy Chúa, đây không phải là cách anh muốn. - Anh muốn gì ?
- Rằng còn lại chút gì đó giữa chúng ta.
Vẫn còn đấy, cô nghĩ. Còn quá nhiều, và đó là lý do tại sao cô không thể để cuộc nói chuyện này kéo dài thêm nữa. Cô sợ là mình sẽ yếu lòng. Cô đã cảm thấy nó sắp xảy ra.
- Nghe này - anh nói - anh chỉ ở lại thành phố vài ngày. Mai anh có cuộc họp ở trường Công cộng Havard về sức khỏe cộng đồng, nhưng sau đó, anh chẳng có kế hoạch gì. Sắp giáng sinh rồi, Maura. Anh nghĩ ta có thể ở cùng nhau hôm Giáng sinh nếu em rảnh.
- Rồi sau đó anh lại bay mất hả ?
- Ít nhất ta có thể làm được vài việc. Em nghỉ vài ngày được chứ ? - Tôi còn công việc, Victor ạ. Tôi không thể bỏ nó được. Anh liếc nhìn tòa nhà và cười một cách nghi ngờ.
- Anh không hiểu tại sao em muốn một công việc như vậy, - Những nơi đen tối, anh nhớ không ? Đó chính là tôi. Anh nhìn cô, giọng nhẹ nhàng.
- Em không hề thay đổi. Không một chút nào.
- Anh cũng vậy, và đó chính là vấn đề - Cô chui vào xe và đóng sầm cửa lại.
Anh tiến đến sát cửa xe. Cô nhìn anh đang chăm chú nhìn cô, những bông tuyết lấp lánh trên mi mắt anh. Cô không còn cách nào khác là kéo cửa xuống và tiếp tục nói chuyện.
- Khi nào chúng ta lại nói chuyện đây ? - Anh hỏi.
- Giờ tôi phải đi.
- Vậy thì để sau nhé. Tối nay được không.
- Không biết khi nào tôi về.
- Thôi nào, Maura - Anh cúi xuống sát hơn và nói khẽ - Hãy cho chúng mình một cơ hội. Anh sẽ ở khách sạn Colonade. Hãy gọi cho anh.
Cô thở dài.
- Tôi sẽ suy nghĩ về việc đó.
Anh chui vào và nắm chặt tay cô. Một lần nữa, mùi cơ thể anh khuấy lên những kỷ niệm ngọt ngào, của những đêm họ nằm dưới lớp chăn ấm, chân họ quấn vào nhau, của những cái hôn dài, hôn ngắn, có vị của chanh tươi và rượu Vodka. Hai năm bên nhau đã để lại những kỷ niệm ngọt ngào, tốt đẹp và buồn. Vào khoảnh khắc ấy, lúc anh nắm chặt tay cô thì chỉ có những kỉ niệm ngọt ngào ùa về.
- Anh đợi điện thoại của em - anh nói nhẹ nhàng và chắc rằng mình đã thắng.
Anh nghĩ điều đó dễ dàng vậy sao ? Cô băn khoăn và lái xe khỏi bãi đậu, hướng về phía Jamaica Plain. Một nụ cười, một sӵ đụng chạm và tất cả được tha thứ sao ?
Bánh xe cô bỗng trượt ngang đường tuyết đã đóng băng và cô nắm chặt tay lái, sӵ tập trung của cô lập tức dồn vào việc kiểm soát lại chiếc xe. Cô đã quá tức giận và không nhận ra mình phóng nhanh mức nào. Chiếc Lexus lắc đuôi, bánh xe quay tròn và tìm hướng đi tiếp. Chỉ khi đã lái nó về hương thẳng, cô mới cho phép mình thở một hơi và tức giận tiếp.
Đầu tiên anh làm tan nát tim tôi. Rồi thì anh suýt giết tôi.
Một ý nghĩ vô lý nhưng cô đã nghĩ như vậy. Victor luôn gây ra những suy nghĩ vô lý.
Nhưng khi cô xuất hiện ở đường đối diện tu viện Đá Xám, cô cảm thấy tâm trạng vẫn chưa ổn. Cô ngồi trong xe một lúc, cố kìm nén những cảm xúc của mình. Kìm nén là từ duy nhất cô sống dӵa vào nó. Khi ra khỏi xe, cô là một người của công chúng, hiện thân cho
sӵ thӵc thi của pháp luật và báo chí. Họ mong đợi thấy cô trong trạng thái bình tĩnh, suy nghĩ logic và cô sẽ làm vậy. Phần lớn công việc của cô chỉ là tạo ra vẻ như vậy.
Cô ra khỏi xe, bước qua đường một cách tӵ tin, giầy cô bám chặt xuống mặt đường. Những xe cảnh sát đỗ dọc hai bên, hai đội tin tức truyền hình ngồi trong xe của họ, chờ đợi một sӵ tiến triển nào đó được thông báo.
Cô kéo chuông cổng, một bà sơ xuất hiện từ trong bóng tôi với chiếc áo đen. Bà sơ đã nhận ra Maura và cho cô vào mà không cần nói gì.
Trong sân, hàng chục dấu chân đã cày lên tuyết. Nó đã khác so với lần đầu tiên Maura đặt chân tới. Hôm nay toàn bộ vẻ ngoài của sӵ im lặng đã bị phá tan bởi cuộc tìm kiếm đang được tiến hành. Có ánh sáng từ tất cả các cửa sổ và cô nghe thấy tiếng đàn ông vọng ra từ những khu mái vòm. Khi bước vào đại sảnh, cô ngửi thấy mùi nước sốt cà chua và bơ, những mùi khó chịu làm sống lại những kỷ niệm về sӵ nhạt nhẽo và dai nhách của món hấp bột, cà chua và nước xốt được phục vụ rất thường xuyên ở nhà ăn bệnh viện nơi cô đã là một sinh viên y khoa.
Cô nhìn lướt qua khu nhà ăn, thấy các bà sơ ngồi quanh bàn của linh mục, họ ăn bữa tối trong yên lặng. Cô thấy những đôi tay run rẩy đưa những chiếc dĩa vào những cái miệng không còn răng, sữa chảy xuống những cái cằm nhăn nheo. Trong phần lớn đời mình, những phụ nữ này đã ở sau những bức tường, họ lớn lên ở nơi hẻo lánh. Có ai trong số họ từng nuối tiếc về những điều họ bỏ qua, cuộc sống mà có lẽ họ đã sống, họ đã bao giờ ra khỏi cổng và không bao giờ trở lại không ?
Khi bước tiếp xuống phòng lớn, cô nghe thấy tiếng phụ nữ lạ lẫm và gây ngạc nhiên trong khu nhà toàn phụ nữ đó. Hai viên cảnh sát vẫy tay khi nhận ra cô.
- Bác sĩ.
- Các anh tìm thấy gì chưa ? - Cô hỏi.
- Chưa. Chúng tôi định bỏ tối nay.
- Rizzoli đâu ?
- Tầng trên. Phòng ngủ.
Maura bước lên cầu thang và gặp hai cảnh sát của đội tìm kiếm đang đi xuống - những cảnh sát còn trẻ, mặt non choẹt, trông như những cậu học sinh cấp ba. Một chàng trai trẻ, mặt lấm chấm mụn và một cô gái đeo chiếc khẩu trang lỏng mà nhiều nữ cảnh sát vẫn dùng để tӵ vệ. Cả hai người đó đều nhìn một cách kính trọng khi nhận ra Maura. Cô thấy mình già nua khi cô thấy những người trẻ tuổi đó bước tránh sang một bên để cô đi qua. Có phải cô quá lạnh lùng nên họ không thấy một nữ giấu mình trong nỗi bất an ? Cô đã nâng tính vô địch lên mức hoàn hảo và bây giờ cô đang đóng vai đó. Cô gật đầu chào lịch sӵ, liếc nhìn họ. Ngay cả khi bước tiếp lên cầu thang, cô cũng biết là họ đang nhìn cô.
Cô thấy Rizzoli trong phòng của Camille, cô ấy đang ngồi trên giường, đôi vai rũ xuống mệt mỏi.
- Có vẻ như mọi người đã về hết, trừ cô - Maura nói.
Rizzoli quay lại nhìn cô. Mắt cô ấy tối và trũng sâu, có những đường nét mệt mỏi trên khuôn mặt mà Maura chưa từng thấy.
- Chúng tôi chẳng tìm được gì. Chúng tôi đã tìm từ trưa. Nhưng mất thời gian đấy, đảo qua tất cả các tủ quần áo, các ngăn kéo. Sau đó là cánh đồng và những khu vườn phía sau... ai biết được dưới lớp tuyết có gì ? Cô ấy có thể đã gói đứa bé lại và ném vào thùng rác vài ngày trước. Chúng ta có thể mất mấy ngày tìm kiếm một thứ có thể có hoặc không có ở đây.
- Bà trưởng tu viện nói gì về việc này ? - Muara hỏi.
- Tôi chưa nói với bà ấy ta đang tìm gì.
- Sao không nói ?
- Tôi không muốn bà ấy biết.
- Hoặc bà ta có thể tiến thêm một bước để đảm bảo là ta sẽ không tìm nó. Cô nghĩ khu nhà mái vòm này cần thêm bao nhiêu vụ tai tiếng nữa ? Cô nghĩ bà ấy muốn cả thế giới biết ai đó trong cái trật tӵ này đã giết con mình sao ? - Maura hơi cao giọng - Ta không biết đứa trẻ đã chết chưa. Ta chỉ biết nó bị mất tích.
- Cô hoàn toàn chắc chắn về kết quả mổ tử thi chứ ?
- Đúng thế. Camille đã ở giai đoạn cao nhất của việc sinh nở. Và không. Tôi không tin vào sӵ trong trắng tinh khiết - Maura ngồi xuống giường cạnh Rizzoli - Cha đứa bé có thể là kẻ tấn công chính. Ta phải tìm ra hắn.
- Đúng vậy, tôi vừa nghĩ về từ đó. Cha cố, giống như linh mục vậy. - Cha Brophy sao ?
- Một người điển trai. Cô gặp ông ta chưa ?
Maura nhớ cặp mắt màu xanh tinh anh nhìn cô khi đối diện cô ở cạnh người quay phim bị ngã. Cô nhớ ông ấy bước qua cổng tu viện thế nào, như một chiến binh trong chiếc áo choàng đen để thách thức bầy sói - những tay phóng viên.
- Ông ta đã lặp lại quyền hạn của mình - Rizzoli nói - ông ta nói với người dân. Ông ta đã nghe những lời thú tội. Còn điều gì thầm kín hơn là chia sẻ những bí mật của mình trong phòng xưng tội ?
- Cô đang ám chỉ việc quan hệ liên ứng.
- Tôi chỉ nêu ý kiến thôi, ông ta là một gã ưa nhìn.
- Ta không biết là đứa trẻ được hình thành trong tu viện này hay không. Không phải là Camille đã về thăm nhà vào tháng ba sao ?
- Đúng vậy, khi mẹ cô ấy mất.
- Khung thời gian rất khớp. Nếu cô ấy có thai vào tháng ba thì bây giờ đã mang thai được chín tháng. Việc đó có thể đã xảy ra trong thời gian cô ấy về nhà.
- Và nó cũng có thể xảy ra ngay tại đây, bên trong những bức tường này - Rizzoli khịt mũi vẻ nghi ngờ - Như vậy là quá nhiều đối với một lời thề trong trắng.
Họ ngồi không nói gì một lúc, cả hai đều nhìn cây thánh giá treo trên tường. Con người thật lắm tội lỗi, Maura nghĩ. Nếu có Chúa thì tại sao ông ta lại đặt ra cho chúng ta những chuẩn mӵc không thể thӵc hiện ? Tại sao ông ta đưa ra những yêu cầu mà ta không bao giờ thӵc hiện được ?
Maura nói.
- Tôi đã từng muốn là tu sĩ. Tôi nghĩ cô không tin điều này. Đó là khi tôi chín tuổi. Tôi đã phát hiện ra tôi là con nuôi. Anh họ tôi đã để lộ chuyện đó, một trong những sӵ thật đau buồn đột nhiên giải thích mọi chuyện. Tại sao tôi không có ảnh nào khi còn nhỏ. Tôi đã khóc cả tuần trong phòng - Cô lắc đầu - Cha mẹ đáng thương của tôi. Họ không biết phải làm gì nên họ đưa tôi đến rạp chiếu phim để làm tôi phấn chấn. Chúng tôi đã xem phim Thế giới âm nhạc; chỉ mất bảy mươi lăm xu vì đó là một bộ phim cũ - Cô dừng lại - Tôi nghĩ Julie Andrews thật xinh đẹp. Tôi muốn được như Maria, ở trong tu viện.
- Này bác sĩ. Cô muốn nghe một bí mật không ?
- Gì thế ?
- Tôi cũng vậy.
Maura nhìn cô.
- Cô đùa à ?
- Có lẽ tôi là một cuốn sách giáo điều đáng bỏ đi. Nhưng ai có thể chịu nổi sức cuốn hút của Julie Andrews chứ ?
Khi đó, cả hai đều cười nhưng đó là một nụ cười gượng gạo nhanh chóng rơi vào im lặng.
- Vậy điều gì đã khiến cô đổi ý ? - Rizzoli hỏi - về việc trở thành một tu sĩ ?
Maura đứng dậy, đi về phía cửa sổ. Cô nhìn xuống sân, nói.
- Tôi lớn lên và thoát khỏi nó. Tôi không tin vào những gì mà tôi không thể nhìn, ngửi hay chạm vào được, những thứ không được chứng minh một cách khoa học - Cô ngừng lại - Và tôi đã phát hiện ra lũ con trai.
- Ô, đúng vậy, con trai - Rizzoli cười - Luôn là như vậy.
- Đó là mục đích đích thӵc của cuộc sống, cô biết đấy. Từ khía cạnh sinh học.
- Tình dục ư ?
- Sӵ sinh sản. Đó là thứ mà gen của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải tiến lên và nhân giống. Chúng ta nghĩ ta là người kiểm soát cuộc sống của mình, nhưng lúc nào cũng vậy ta chỉ là nô lệ của ADN, chúng bảo ta phải có em bé.
Maura quay lại và ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lấp lánh trên mi mắt Rizzoli, nhưng chúng nhanh chóng tan biến và khô đi vì cô ấy quyệt ngay đi.
- Sao thế Jane ?
- Tôi chỉ mệt thôi. Dạo này tôi ngủ không ngon.
- Không có chuyện gì khác chứ ?
- Có thể là gì cơ chứ ? - Câu trả lời của cô quá nhanh, quá bảo thủ. Ngay cả Rizzoli cũng tӵ nhận ra điều đó và cô đỏ mặt.
"""