"Tội Ác Ở Orcival - Émile Gaboriau full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tội Ác Ở Orcival - Émile Gaboriau full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo LỜI GIỚI THIỆU Monsieur Lecoq - một thám tử hư cấu xuất hiện xuyên suốt trong các tác phẩm của Émile Gaboriau thế kỉ 19. Monsieur Lecoq có tài phá án siêu nhanh, khả năng suy luận logic cực nhạy bén, óc quan sát tinh tường cùng tính trực quan và biệt tài phân tích tâm lý tội phạm. Chính hình ảnh thám tử Lecoq tài ba, dí dỏm này của Emile Gaboriau đã trở thành nguồn cảm hứng để Conan Doyle xây dựng nhân vật huyền thoại Sherlock Holmes. Và cũng vì thế mà tác giả Émile Gaboriau được coi là cha đẻ của trinh thám Pháp. Ra mắt độc giả lần đầu năm 1866 trên trang nhật báo Le Petit Journal và được xuất bản chính thức vào năm 1867, Tội ác ở Orcival là tiểu thuyết thứ 2 của Émile Gaboriau viết về nhân vật thám tử Monsieur Lecoq tài ba. Lấy bối cảnh một vùng ngoại ô Paris thanh bình và yên tĩnh, câu chuyện được mở đầu bằng cái chết đầy đau đớn của nữ bá tước trẻ Trémorel và sự mất tích bí ẩn của ngài bá tước. Bằng khả năng quan sát tinh tường, tài năng điều tra và phương pháp suy luận tài tình, thanh tra Lecoq đã từng bước tìm ra chân tướng vụ án, đồng thời hé lộ bức màn bí mật của loạt tội ác khác trong quá khứ. Không chỉ gây ấn tượng mạnh tại thời điểm phát hành năm 1866, Tội ác ở Orcival còn được đánh giá cao bởi nhiều nhà phê bình văn học nổi tiếng sau này. “Chính trong cuốn tiểu thuyết này (Tội ác ở Orcival) ta thấy rõ nhất Conan Doyle mang nợ Gaboriau như thế nào. Các phương pháp suy luận của thanh tra Lecoq đã mở đường cho các thám tử về sau đi theo.”. (Jean Tulard, Dictionnaire du roman policier: 1841-2005, tr. 183) “Nhà văn trinh thám Pháp Émile Gaboriau đã cuốn hút tôi bằng những cốt truyện rõ ràng, ngắn gọn và nhân vật thám tử bậc thầy Auguste Dupin do Edgar Allan Poe tạo ra là một trong những người hùng của tôi từ khi còn bé.” (A. Conan Doyle, Memories and Adventures, London, 1924, tr. 74) Chương 1 Thứ năm, ngày 9 tháng 7 năm 186..., ông Jean Bertaud, được mệnh danh là “Bợm Nhậu”, cùng con trai, thức dậy từ 3 giờ sáng để đi đánh cá. Cả hai nổi tiếng ở Orcival nhờ sống bằng nghề săn bắt và hái rau quả trộm. Với đồ nghề trên vai, họ bước đi trên con đường đẹp rợp bóng những cây keo có thể nhìn thấy từ nhà ga Evry, đó là con đường chạy thẳng từ xã Orcival ra sông Seine. Họ tới chỗ thuyền của mình neo buộc cách cầu dây thép khoảng 50 mét về phía thượng nguồn, nơi đoạn sông chạy dọc theo cánh đồng cỏ nằm kề Valfeuillu, lãnh địa đẹp mắt của bá tước Trémorel. Ra tới bờ sông, họ bỏ dụng cụ đánh cá xuống, rồi lão Jean Bợm Nhậu bước xuống tát nước trong thuyền ra. Trong khi lắp mái chèo với đôi tay thành thạo, lão phát hiện thấy một bên ngàm đỡ cọc chèo của con thuyền cũ kĩ đã bị cọc chèo làm mòn đến sắp gãy. - Philippe, - Lão gọi con trai khi đó đang gỡ chiếc lưỡi câu mắc chặt vào lưới - tìm cho bố mẩu gỗ để làm lại cái ngàm này đi. - Vâng ạ. - Philippe đáp. Trên cánh đồng cỏ chẳng có cái cây nào. Thế là anh. đi thẳng tới khuôn viên của lâu đài Valfeuillu cách đó mấy bước chân và bất chấp Điều 391 của Bộ luật Hình sự, anh nhảy qua con hào bao quanh lãnh địa của ông Trémorel. Anh định chặt một cành liễu già ủ rũ buông cành bên dòng nước. Anh đang rút con dao găm trong túi ra, đưa con mắt lấm lét của một tên ăn trộm nhìn quanh, thì bỗng thét lên: - Ôi, bố ơi! - Cái gì thế? - Lão già chuyên săn bắt trộm hỏi mà không thèm ngoái đầu lại. - Bố lại đây! - Philippe lại gọi - Trời ơi, nhanh lên bố! Nghe giọng thất thanh của con trai, lão Jean Bợm Nhậu hiểu rằng có chuyện kinh hoàng gì đó. Lão buông mái chèo, rồi, được tiếp sức bởi nỗi lo lắng, lão nhảy ba bước đã vào trong khuôn viên. Rồi cả lão cũng ghê sợ trước cảnh tượng đã làm cậu con trai sợ chết khiếp. Bên bờ nước, nằm giữa đám lay ơn là thi thể một phụ nữ. Mái tóc dài xõa rối của bà ta xổ tung lẫn trong đám cỏ dại, chiếc váy lụa xám rách bươm vương đầy bùn và máu. Toàn bộ phần trên của thi thể bị nhấn chìm trong dòng nước cạn, còn khuôn mặt thì ngập trong bùn. - Một vụ giết người! - Philippe run rẩy thì thầm. - Rõ rồi! - Lão Bợm Nhậu bình thản đáp - Nhưng người đàn bà này là ai? Rất có thể là bà bá tước. - Ta hãy nhìn kĩ xem. - Cậu con trai nói. Anh định đến gần xác chết nhưng ông bố giữ tay ngăn lại. - Máy định làm gì thế, thằng khốn! - Lão lên tiếng - Không bao giờ được đụng đến thi thể của người bị giết mà không có mặt cảnh sát. - Bố nghĩ thế à? - Chắc chắn rồi! Làm thế chỉ chuốc lấy phiền toái. - Thế thì mình đi báo ông Xã trưởng. - Để làm gì? Dân ở đây ghét ta lắm rồi. Biết đâu họ lại buộc tội chúng ta? - Dù sao, bố à... - Cái gì! Nếu ta đi báo với ông Courtois, họ sẽ hoạnh họe là làm thế nào và tại sao chúng ta lại có mặt trong khuôn viên nhà ông Trémorel để thấy chuyện này. Người ta giết bà bá tước thì liên quan gì đến mi? Cứ để họ tìm thấy cái xác đó mà không cần mi có mặt... Nào, chúng ta chuồn thôi. Nhưng Philippe không động đậy. Anh vẫn đứng cúi đầu, tay chống cằm, suy nghĩ. - Phải báo cho họ thôi, - Anh tuyên bố quả quyết - chúng ta không phải là những người man dại. Chúng ta sẽ nói với ông Courtois rằng trong lúc đi thuyền rẽ qua khuôn viên này thì nhìn thấy cái xác. Lúc đầu, lão Bợm Nhậu phản đối, sau đó thấy rằng con trai lão có thể sẽ đi báo chính quyền, lão liền ra vẻ đồng ý. Hai người lại nhảy qua con hào, bỏ lại đồ đạc rồi vội vã đến nhà ông Xã trưởng Orcival. Nằm cách thị trấn Corbeil năm cây số bên bờ hữu ngạn sông Seine, mất 20 phút đi bộ từ ga xép Evry, Orcival là một trong những ngôi làng tuyệt vời xung quanh Paris, bất chấp nguồn gốc tên gọi quỷ quái của nó. Người Paris sống ồn ào và phá phách, vào những ngày Chủ nhật, họ thường sà xuống ruộng đồng quậy phá hơn cả châu chấu, nhưng may là họ vẫn chưa phát hiện ra miền thôn quê đẹp mắt này. Mùi mỡ rán đến buồn nôn của những quán rượu ngoại ô chưa làm át đi hương thơm của lá kim ngân. Những tiếng chèo thuyền trên sông, tiếng điệp khúc kèn cornet của những buổi vũ hội chưa bao giờ kinh động được đến những âm thanh thôn dã nơi đây. Nằm yên ả trên những triền đồi thoai thoải bên sông Seine, xã Orcival có những tòa nhà trắng, những bóng cây tuyệt đẹp và một tháp chuông mới tinh tạo nên vẻ kiêu hãnh cho nó. Bao quanh xã là những khu đất vui chơi rộng lớn, được chăm sóc kĩ lưỡng và tốn kém. Từ trên cao, người ta có thể nhìn thấy những chiếc chong chóng của hai mươi tòa lâu đài. Bên phải là những rừng cây to của xã Mauprévoir cùng tòa lâu đài duyên dáng của nữ bá tước xứ La Brèche; trước mặt, bên kia sông, là xã Mousseaux và lâu đài Petit-Bourg, lãnh địa Aguado cũ, nay thuộc sở hữu của một chủ xưởng đóng xe ngựa nổi tiếng, ông Binder; ở bên trái, những rừng cây đẹp kia thuộc về bá tước Trémorel, công viên rộng lớn kia là công viên xã Eticles, còn phía xa là thị trấn Corbeil; tòa nhà to có mái ngói cao hơn cả những cây sồi kia là nhà máy xay Darblay. Ông Xã trưởng Orcival sống trên vùng đất cao của ngôi làng, ở trong tòa nhà mà người ta chỉ thấy trong mơ, trị giá hàng trăm nghìn đồng livre lợi tức. Từng làm nghề sản xuất vải vẽ tranh, ông Courtois đã bước vào nghề buôn bán mà không một xu dính túi và sau 30 năm miệt mài chăm chỉ, ông về hưu với 4 triệu đồng tròn trĩnh. Khi đó ông dự định sống yên bình cùng vợ và mấy cô con gái, mùa đông ở Paris, mùa hè trở về thôn quê. Nhưng rồi người ta thấy ông tỏ ra lo lắng không yên. Tham vọng lại làm ông bứt rứt. Ông sục sôi vận động rồi cuối cùng phải nhận chức Xã trưởng xã Orcival. Ông bất đắc dĩ chấp nhận cái chức này như chính miệng ông nói ra. Cái chức xã trưởng đem lại hạnh phúc lẫn nỗi thất vọng cho ông. Thất vọng là vẻ bên ngoài, còn hạnh phúc là nỗi niềm thầm kín và có thật. Khi trán hằn những nếp nhăn lo âu thì đúng là lúc ông nguyền rủa trách nhiệm quyền lực, nhưng khi ông quàng chiếc khăn bắt chéo với những quả tua rua vàng chóe thì càng đúng là ông đang hân hoan đứng đầu bộ máy quyền lực nơi đây. Mọi người trong nhà vẫn đang ngủ khi cha con Bertaud đến gõ cổng nhà ông. Lúc sau, một gia nhân còn ngái ngủ thò đầu ra cửa sổ tầng trệt. - Có chuyện gì thế bọn vô lại mất dạy kia? - Y quát hỏi với giọng tức tối. Lão Bợm Nhậu không hề muốn đập lại lời lăng mạ thực ra hoàn toàn xứng đáng với gã kia. - Chúng tôi muốn nói chuyện với ngài Xã trưởng, - Lão đáp - việc khẩn cấp lắm. Anh đánh thức ông ấy dậy đi, anh Baptiste. Ông ấy không mắng anh đâu. - Người ta dám mắng tôi á? - Anh chàng Baptiste càu nhàu. Tuy nhiên cũng phải mất mười phút lời qua tiếng lại giải thích mới thuyết phục được gã gia nhân kia. Cuối cùng, cha con lão Bertaud cũng được đứng trước người đàn ông thấp, béo và có bộ mặt đỏ, đang rất bực mình vì bị lôi ra khỏi giường quá sớm, đó là ông Courtois. Philippe được chỉ định là người báo cáo. - Thưa ngài Xã trưởng, - Anh bắt đầu - chúng tôi đến để thông báo cho ngài một tai họa lớn, đã có án mạng xảy ra tại nhà ông Trémorel. Ông Courtois là bạn của ông bá tước, nghe tin, mặt ông ta tái xanh như tàu lá. - Ôi lạy Chúa, - Ông lắp bắp không kìm được xúc động - các người vừa nói gì, một án mạng ư? - Vâng, chúng tôi vừa nhìn thấy một cái xác, rõ như tôi đang nhìn thấy ngài đây và tôi tin đó là xác của bà bá tước. Vị Xã trưởng đáng kính nhớn nhác giơ tay lên trời. - Nhưng mà ở đâu, bao giờ? - Ông hỏi. - Vừa mới đây, ở cuối khuôn viên, nơi chúng tôi đi qua để nhấc đó lên. - Thật kinh khủng, - Ông Courtois hiền từ nói - thật bất hạnh! Một người phụ nữ đáng kính đến thế! Nhưng không thể nào, chắc mấy người nhầm rồi, nếu có thì người ta đã báo cho tôi... - Chúng tôi nhìn rất kĩ, thưa ngài Xã trưởng. - Một án mạng như vậy xảy ra ngay trong xã của tối ư! Rốt cục thì các vị đến báo tin thế này là tốt rồi, đợi tôi mặc quần áo rồi ta nhanh đến đó... Nghĩa là, không, hãy đợi chút. - Ông tỏ ra suy nghĩ rồi gọi: - Baptiste! Anh chàng gia nhân vẫn quanh quẩn đâu đây. Tai và mắt thay nhau dán vào lỗ khóa, anh ta cố hết sức vừa nghe vừa nhìn. Nghe thấy tiếng ông chủ, anh ta chỉ việc đưa tay ra mở cửa. - Ngài gọi tôi ạ? - Hãy chạy ngay đến nhà ông Thẩm phán hòa giải, - Ông Xã trưởng nói - đừng bỏ phí giây nào, có án mạng rồi, có thể là một vụ giết người, bảo ông ấy đến ngay, khẩn trương lên... Còn mấy người kia, - Ông quay sang cha con nhà Bertaud - đợi ở đây, tôi đi mặc thêm áo choàng Thẩm phán hòa giải xã Orcival, Cha Plantat, người ta vẫn gọi ông như vậy, vốn là người có chức quyền của xã Melun. Đến tuổi 50, Cha Plantat, người vẫn luôn thành đạt, trong một tháng đã mất đi người vợ yêu quý và hai cậu con trai đẹp rạng ngời, một cậu 18 tuổi, cậu kia 22. Những mất mát liên tiếp đã làm rụng rời người đàn ông có ba mươi năm thịnh vượng, để lại cho ông nỗi bất hạnh không thể chống đỡ. Từ lâu người ta đã sợ ông mất trí. Chỉ cần thấy một thân chủ nào đến kể lể những chuyện quyền lợi vớ vẩn là ông đã tức điên lên rồi. Vì thế họ không ngạc nhiên khi thấy ông bán văn phòng với giá bằng một nửa. Ông muốn được sống với nỗi đau, cùng niềm tin chắc chắn rằng mình không hề quên được nó. Nhưng rồi nỗi thương tiếc cũng nguội dần và căn bệnh vô công rồi nghề xuất hiện. Chức Thẩm phán hòa giải xã Orcival lúc ấy đang trống, thế là Cha Plantat để đạt nguyện vọng và được nhận chức vụ đó. Nhận chức vụ này, ông thấy đỡ buồn phiền hơn. Con người này, khi thấy cuộc đời mình sắp hết, liền bắt đầu quan tâm đến hàng nghìn vụ kiện mà mình phải biện hộ. Ông vận dụng mọi trí lực vượt trội, mọi nguồn lực của một bộ óc cởi mở hết mực để nhận rõ thật giả trong số những điều dối trá mà ông buộc phải nghe Mặt khác ông vẫn kiên định sống độc thân, bất chấp những lời khích lệ của ông Courtois, vì ông cho rằng xã hội đã làm ông mệt mỏi rồi và rằng một người bất hạnh sẽ chỉ là kẻ phá đám. Lúc rảnh rỗi, ông dành thời gian cho một bộ sưu tập cây hoa thuốc lá cảnh có một không hai. Nỗi bất hạnh đã khiến tính cách của ông biến đổi, lúc tốt lúc xấu và nhìn bề ngoài thì đã biến ông thành một người ích kỷ ghê gớm. Ông cam đoan chỉ quan tâm đến những sự việc thường ngày không hơn gì một kẻ bình luận chán chường đối với những trò chơi trên sân khấu. Ông thích khoa trương thái độ thờ ơ cực độ dành cho mọi việc, đến mức ông thề rằng nếu Paris có bị trận mưa lửa giội xuống thì cũng chẳng khiến ông ngoái đầu nhìn. Có vẻ như ông không còn khả năng xúc cảm. “Chuyện đó thì liên quan gì đến ta!" là điệp khúc muôn thuở của ông. Đó là con người mà mười lăm phút sau khi anh chàng Baptiste đi mời đã có mặt tại nhà ông Xã trưởng Orcival. - Ông Plantat là một người cao gầy và cứng cỏi. Khuôn mặt ông chẳng có gì đáng chú ý. Ông có mái tóc ngắn, đôi mắt lo lắng như luôn tìm kiếm cái gì, cái mũi dài và mảnh trông như lưỡi dao cạo. Sau những chuyện bất hạnh, cái miệng ông, một thời thanh mảnh, giờ bị biến dạng, môi dưới bị sệ xuống làm cho ông có vẻ ngoài giản dị dễ đánh lừa.. - Người ta báo cho tôi, - Ông nói từ ngoài cửa - là bà bá tước Trémorel đã bị giết hại. - Ít nhất các vị này đã khẳng định như vậy. - Ông Xã trưởng lên tiếng. Ông Courtois không như lúc trước nữa. Ông đã có thời gian để bình tĩnh lại. Khuôn mặt ông cố phản ánh lạnh lùng oai nghiêm. Ông bực tức tự trách mình đã tỏ ra xúc động và đau buồn trước mặt cha con lão Bertau. những kẻ không có tư cách. Một người ở địa vị như ta không được xúc động đến thế bởi bất cứ điều gì. Ông tự nhủ. Và, dù bị kích động khủng khiếp, nhưng ông vẫn cố giữ bình tĩnh, lạnh lùng và thản nhiên. Cha Plantat đương nhiên cũng tỏ ra như vậy. - Có thể là một tai nạn đáng tiếc, - Ông cố làm ra vẻ hoàn toàn vô tư - nhưng, thực ra chuyện này có liên quan đến chúng ta không? Dù sao cũng phải nhanh đến đó xem thế nào, tôi đã cho mời viên cai đội hiến binh rồi, ông ấy sẽ bắt kịp chúng ta. - Ta đi thôi. - Ông Courtois nói - Tôi có đai lễ phục trong túi đây rồi. Họ lên đường. Cha con lão Bertaud đi trước, cậu con trai tỏ ra vồn vã và sốt ruột, ông bố thì trầm ngâm và lo lắng. Cứ mấy bước ông Xã trưởng lại thốt lên mấy tiếng kêu than. - Chuyện này là sao đây? - Ông lẩm bẩm - Một vụ giết người ngay trong xã của ta, một xã từ thời xa xưa chưa hề xảy ra án mạng nào. Rồi ông nghi ngờ nhìn cha con lão Bertaud. Con đường dẫn đến nhà ông Trémorel mà dân ở đây gọi là “lâu đài”, tương đối khó đi, nó bị kẹp bởi những bức tường cao chừng chục bước chân. Một bên là khuôn viên nhà hầu tước Lunascol, bên kia là công viên lớn Saint-Jouan. Việc đi lại đã tốn bao nhiêu thời gian, khi mọi người đứng trước cánh cổng sắt nhà ông Trémorel thì đã 8 giờ sáng. Ông Xã trưởng giật chuông. Chiếc chuông rất to, có một khoảng sân nhỏ rải cát rộng chừng năm, sáu mét ngăn cách giữa cổng và tòa nhà, vậy mà không thấy ai xuất hiện. Ông Xã trưởng giật chuông mạnh hơn, rồi lại mạnh hơn nữa, cuối cùng lấy hết sức giật chuông, nhưng vô ích. Trước cổng lâu đài nhà ông Lunascol, gần như ngay trước mặt, có một anh chàng trông ngựa đang lau chùi bộ yên cương. - Đừng mất công giật chuông, các ngài ạ, - Anh chàng trông ngựa nói - chẳng có ai trong lâu đài đâu.. - Sao, không có ai ư? - Ông Xã trưởng ngạc nhiên hỏi. - Tôi nghe nói, - Anh chàng trông ngựa đáp - chỉ còn ông bà chủ ở lại thôi. Tối qua mọi người đã đi cả rồi. Họ đáp chuyến tàu 8 giờ 40 đi Paris để dự đám cưới người nấu bếp cũ, chị Denis. Chắc sáng nay họ sẽ về bằng chuyến tàu đầu tiên. Cả tôi cũng được mời... - Lạy Chúa! - Ông Courtois ngắt lời - Đêm qua ông bà bá tước ở một mình à? - Hoàn toàn có mình họ, thưa ngài Xã trưởng. -Thật kinh khủng! Cha Plantat tỏ ra sốt ruột bởi cuộc đối thoại này - Xem nào, - Ông nói - chúng ta không thể đứng mãi ngoài cổng thế này, hiến binh vẫn chưa đến, ta phải gọi thợ khóa đến thôi. Anh chàng Philippe đang định chạy đi thì nghe thấy tiếng hát, cười từ phía cuối đường. Gần như ngay tức khắc xuất hiện năm người, ba nữ, hai nam. . - Ồ! Người của lâu đài đây rồi! - Anh chàng trông ngựa lên tiếng, thấy cuộc viếng thăm buổi sáng này có gì đó bất thường - Chắc là họ phải có chìa khóa. Về phần mình, nhìn thấy có người đứng trước cổng, đám gia nhân liền im bặt rồi rảo bước. Thậm chí một người họ còn chạy vượt lên, đó chính là anh hầu phòng của ông bá tước. - Các ngài muốn nói chuyện với ngài bá tước à? - Anh ta hỏi sau khi đã chào ông Xã trưởng và ngài Thẩm phán hòa giải. - Chúng tôi giật đến đứt chuông năm lần bảy lượt rồi đây. - Ông Xã trưởng nói. - Thế thì lạ quá! - Anh hầu phòng đáp - Dù sao ngài bá tước cũng chỉ ngủ chập chờn! Có thể ngài ấy đã đi đâu đó. - Chết thật! - Philippe kêu lên - Biết đâu chúng giết cả hai người! Câu nói trên làm cho đám gia nhân tỉnh người, họ vốn đang vui vẻ sau tiệc rượu mừng tân hôn. Ông Courtois thì có vẻ đang soi xét thái độ của lão Bertaud. - Một vụ giết người ư? - Anh hầu phòng thì thầm - Ôi! Lại vì tiền đây, ta vào xem nào... - Cái gì? - Ông Xã trưởng hỏi. - Sáng qua, ngài bá tước vừa nhận một khoản tiền rất lớn. - Ồ, đúng rồi, một khoản lớn lắm, - Một chị hầu phòng nói thêm vào - một gói to như gói tiền giấy. Bà bá tước còn nói với ông bá tước rằng bà sẽ không thể nhắm mắt suốt đêm nay với số tiền lớn như vậy ở trong nhà. Im lặng một lát, mọi người nhìn nhau với vẻ hoảng sợ. Ông Courtois trầm ngâm suy nghĩ. - Tối qua các vị đi lúc mấy giờ? - Ông hỏi đám gia nhân. - 8 giờ, chúng tôi ăn tối sớm hơn một chút. - Tất cả các vị cùng đi một lúc à? - Vâng thưa ngài. - Các vị không rời nhau chứ? - Không rời một phút. - Tất cả các vị đều về cùng nhau chứ? Đám gia nhân nhìn nhau vẻ khác lạ. - Tất! - Chị hầu phòng đáp với giọng trôi chảy - Mà không. Một người đã chia tay chúng tôi khi đến ga Lyon ở Paris, đó là anh Guespin. -Ồ! - Vâng, thưa ngài, anh ấy chuồn đi có việc riêng và bảo sẽ bắt kịp chúng tôi tại đám cưới nhà ông Wepler ở Batignolles. Ông Xã trưởng huých mạnh khuỷu tay sang ông Thẩm phán để khiến ông này chú ý rồi tiếp tục hỏi. - Thế anh chàng Guespin này không gặp lại các vị à? - Không, thưa ngài, đêm qua tôi đã nhiều lần hỏi thăm tin tức về anh ta mà không được, tôi cảm thấy sự vắng mặt của anh ta có vẻ ám muội. Rõ ràng chị hầu phòng này đang cố tỏ ra có óc sáng suốt cao độ, chị ta còn nói đến những điều linh cảm. - Anh gia nhân đó, - Ông Courtois hỏi - làm việc trong nhà này lâu rồi chứ? - Từ mùa xuân. - Nhiệm vụ của anh ta là gì? - Anh ta được nhà Gentil Jardinier ở Paris cử đến chăm sóc mấy cây hoa hiếm trong nhà kính của bà chủ. - Và... Anh ta biết về khoản tiền chứ? Đám gia nhân lại nhìn nhau. - Vâng, vâng! - Họ đồng thanh đáp - Chúng tôi đã nói chuyện nhiều với nhau ở trong bếp. Chị hầu phòng khéo mồm còn nói thêm: - Anh ta còn nói với tôi là: “Phải nói là trong tủ bàn giấy của ngài bá tước có thứ đủ làm giàu cho tất cả chúng ta!” - Anh ta là người thế nào? Câu hỏi này đã dập tắt hoàn toàn thói ba hoa của đám gia nhân. Không ai dám nói gì, họ cảm thấy rõ, chỉ cần một câu nói ngắn gọn thôi cũng có thể thành cơ sở cho lời buộc tội khủng khiếp. Nhưng anh chàng trông ngựa đang muốn xía vô kia thì chẳng kiêng nể gì, liền đáp: - Đó là một chàng trai tốt bụng, anh chàng Guespin ấy và là một kẻ lang thang. Lạy trời! Liệu anh ta có biết gì về những chuyện này không? Con người này hiểu biết mọi chuyện, có vẻ trước đây anh ta là người giàu có và nếu anh ta muốn... Nhưng mà này, anh ta thích công việc làm sẵn, đã thế lại còn ăn chơi như chưa bao giờ được chơi, một kẻ ham chơi bi-a, thật đấy! Với vẻ lơ đãng, ông Plantat vừa nghe những lời khai, đúng hơn là những lời nói xấu của anh chàng trông ngựa, vừa xem xét kĩ bức tường và chiếc cổng sắt. Ông quay lại đúng lúc để ngắt lời anh chàng trông ngựa. - Thôi đủ rồi! - Ông nói làm ông Courtois phật ý - Trước khi tiếp tục cuộc hỏi cung này, ta phải xác định được án mạng đã, tuy nhiên nếu như có án mạng, chuyện mà đến nay vẫn chưa được chứng minh, ai trong số các vị có chìa khóa thì mở cổng đi. Anh chàng hầu phòng có chìa khóa, liền mở cổng và mọi người bước vào mảnh sân nhỏ. Đội hiến binh cũng vừa đến nơi. Ông Xã trưởng bảo viên cai đội đi theo mình và sai hai người lính đứng canh cổng không cho ai ra vào nếu không được phép của ông. Chỉ khi đó anh hầu phòng mới mở cửa tòa lâu đài. Chương 2 Nếu không phải án mạng thì ít nhất cũng xảy ra chuyện gì đó rất khác thường ở nhà ông bá tước Trémorel; ông Thẩm phán bình thản chắc là đã tin như thế ngay lúc bước vào tiền sảnh. Cánh cửa kính thông ra vườn bị mở toang và ba ô cửa kính bị vỡ thành trăm mảnh. Các dải viền bằng vải đầu gắn liền trên các cánh cửa đã bị giật đứt và trên sàn nhà bằng đá cẩm thạch trắng đây đó vương đậm những giọt máu. Ở chân cầu thang có vũng máu to nhất và trên những bậc thang dưới cùng là những vết máu loang lổ. Không mong nhìn thấy cảnh tượng như vậy và không lường được nhiệm vụ phải làm như thế nào, ông Courtois lương thiện cảm thấy suy sụp. Rất may ông thấy trong ý thức về vai trò quan trọng và tư cách của mình một nghị lực khác xa với tính cách của ông. Việc xem xét sơ bộ vụ việc càng tỏ ra khó khăn, ông càng quyết tâm điều hành nó bằng được. - Hãy dẫn chúng ta đến chỗ xác chết. - Ông bảo cha con lão Bertaud. Nhưng Cha Plantat can thiệp. Tôi thấy, - Ông phản đối sẽ khôn ngoan và hợp lý hơn nếu bắt đầu khám xét tòa nhà trước. - Vâng, thế cũng được, tôi cũng đang nghĩ như thế. - Ông Xã trưởng bám lấy lời khuyên của ông Thẩm phán như người chết đuối vớ được cọc. Rồi ông cho mọi người lui, chỉ giữ lại viên cai đội và người hầu phòng để họ dẫn đường. - Này các anh lính, - Ông còn nói to với hai anh lính đứng canh ngoài cổng - hãy canh chừng không được để ai bỏ đi, không cho ai vào nhà, nhất là không ai được vào vườn. Rồi họ leo lên cầu thang. Suốt cầu thang vương đầy vết máu. Máu vương lên cả tay vịn và ông Courtois ghê sợ khi thấy tay mình nhuốm đỏ. Khi lên đến chiếu nghỉ lầu một, ông Xã trưởng hỏi anh hầu phòng: - Này anh bạn, ông bà chủ có ngủ chung phòng không? - Có, thưa ngài. - Thế phòng ngủ của họ đâu? - Đây, thưa ngài. Vừa trả lời xong thì anh ta hoảng hốt lùi lại, chỉ tay vào một cánh cửa mà phía trên in dấu một bàn tay vấy máu. Những giọt mồ hôi lấp loáng trên trán ông Xã trưởng tội nghiệp; cả ông cũng đang hoảng sợ, phải cố gắng lắm mới đứng vững. Than ôi! Quyền lực đang bắt ông phải thực thi những nghĩa vụ khủng khiếp thế này đây. Viên cai đội, một người lính kỳ cựu từng chiến đấu ở Krym, đang xúc động trông thấy, cũng tỏ ra do dự. Chỉ có Cha Plantat, vẫn bình tĩnh như đang ở trong vườn hoa của mình, là giữ vẻ lạnh lùng và nhìn trộm mọi người. - Dù sao cũng cần phải quyết định. - Ông tuyên bố Ông bước vào căn phòng, mọi người đi theo sau. Căn phòng không có gì khác lạ. Đây là căn phòng nhỏ tiếp khách phủ trướng bằng vải xa-tanh màu xanh dương, được bài trí một chiếc đi-văng và bốn chiếc ghế bành bọc vải giống vải phủ tường. Có một chiếc ghế bành bị lật đổ. Mọi người bước vào căn phòng ngủ phía trong. Sự lộn xộn của căn phòng thật đáng sợ. Không có độ đạc hay đồ mỹ nghệ nào không cho thấy đã có cuộc vật lộn ghê gớm xảy ra giữa những kẻ giết người và nạn nhân. Giữa phòng có một chiếc bàn sơn bị lật đổ, xung quanh vương vãi các mẩu đường phên, những chiếc thìa nhỏ bằng bạc mạ vàng, những mảnh sứ vỡ. - Ôi! - Anh hầu phòng nói - Ông bà chủ đang uống trà thì bọn vô lại ập vào đây mà! Các đồ bày biện trên mặt lò sưởi bị vứt tung tóe xuống sàn; chiếc đồng hồ quả lắc bị rớt xuống, kim đồng hồ dừng ở 3 giờ 20 phút. Bên cạnh là mấy chiếc đèn bàn nằm lăn lóc, chao đèn vỡ tan, dầu thắp đèn vương vãi ra sàn Đình màn bị giật xuống phủ lên giường. Có thể nạn nhân đã tuyệt vọng bám vào màn. Mọi đồ đạc đều bị đổ lăn lóc. Vải bọc ghế bành có nhiều vết dao đâm, có chỗ lòi cả sợi cước ra. Tủ bàn giấy bị lục lọi, mặt bàn bị đẩy trật khỏi bản lề, ngăn kéo bị mở toang trống rỗng. Tấm gương tủ đứng vỡ tan; một chiếc tủ ngăn kéo bằng gỗ khảm xinh xắn bị đập vỡ, chiếc bàn để đồ khâu bị đập gãy; nhà vệ sinh bị lục tung. Và chỗ nào cũng có máu, trên thảm sàn, thảm tường, rèm cửa và nhất là mành giường. Rõ ràng ông bà bá tước Trémorel đã chống cự quyết liệt và kéo dài. - Thật khốn khổ khốn nạn! - Ông Xã trưởng tội nghiệp ấp úng - Đây chính là chỗ họ bị sát hại. Và, nhớ đến tình bạn với ông bá tước, ông liền quên đi địa vị của mình; rồi, vứt bỏ chiếc mặt nạ dửng dưng, ông bật khóc. -Tất cả mọi người hoang mang đôi chút. Trong lúc đó, ông Thẩm phán hòa giải vẫn tập trung vào việc khám xét kĩ lưỡng. Ông ghi chép vào sổ tay, lục lọi những xó xỉnh nhỏ bé nhất. Sau khi xem xét xong, ông nói: - Rồi, bây giờ chúng ta đi xem chỗ khác. Vẫn khung cảnh lộn xộn như thế. Một bọn điên khùng hoặc một lũ gian ác mất trí chắc chắn đã qua đêm trong ngôi nhà này. Đặc biệt, phòng của ông bá tước đã bị xới tung. Không mất công phá khóa, bọn giết người đã dùng rìu để phá cửa. Chúng đã tin rằng chẳng có ai nghe thấy, bởi lẽ chúng đã phải đập rất mạnh để phá tan chiếc bàn giấy to lớn bằng gỗ sồi. Sách vở trên giá bị vứt vung vãi xuống sàn. Cả phòng khách, phòng hút thuốc cũng bị đối xử như vậy. Đi-văng, ghế tựa, sofa đều bị xé rách như thể bị chọc bằng kiếm. Hai căn phòng dành riêng cho bạn bè, cũng bị lục tung lộn xộn. Mọi người leo lên lầu hai. Tại đây, khi bước vào căn phòng đầu tiên, họ thấy nằm ngay trước cái tủ chè đã bị đập nhưng chưa mở được, có một chiếc rìu bổ củi mà anh hầu phòng nhận ra đó là rìu của nhà. - Giờ thì ngài đã hiểu. - Ông Xã trưởng nói với Cha Plantat - Rõ ràng, bọn chúng có nhiều tên. Sau khi giết chủ nhà xong, chúng tỏa ra khắp nơi để tìm tiền có trong nhà. Một tên đã ở đây có nhiệm vụ lục tủ chè này, trong khi lũ khác ở dưới nhà đã vớ được đồ vật có giá trị, chúng đã gọi tên này, hắn vội vã xuống nhà và nghĩ rằng không cần tìm kiếm nữa nên đã bỏ chiếc rìu lại đây. - Tôi thấy sự việc rõ ràng như thể tôi đã có mặt để chứng kiến. - Viên cai đội tán thành. Tầng trệt mà họ xuống xem sau đó được bọn giết người để yên. Chỉ có điều, sau khi gây án và lấy hết đó quý, bọn chúng cảm thấy cần được phục hồi sức khỏe. Mọi người thấy trong phòng ăn có đồ thừa của buổi ăn khuya. Chúng đã ngốn hết các món ăn để lại trong tủ buffet. Trên bàn, bên cạnh tám vỏ chai rượu - rượu vang hoặc rượu mùi - có năm chiếc cốc. - Chúng có năm tên. - Ông Xã trưởng lẩm nhẩm Bằng nghị lực của ý chí, ông Xã trưởng đã lấy lại được vẻ lạnh lùng. Ông nói: - Trước khi thu dọn thi thể, tôi sẽ cho người đi báo ông biện lý ở Corbeil. Trong một giờ nữa, chúng ta sẽ có một Thẩm phán điều tra đến đây để hoàn thành công việc đau buồn này. Ông ra lệnh cho một anh lính hiến binh lấy xe ngựa của ông bá tước khẩn trương đi Corbeil. Rồi ông và ông Thẩm phán hòa giải, theo sau là viên cai đội, anh hầu phòng và cha con lão Bertaud cùng nhau ra bờ sông. Khuôn viên của lâu đài Valfeuillu rất rộng, nhưng nó chỉ trải rộng sang phía bên phải và bên trái. Từ tòa lâu đài ra đến sông Seine chỉ hơn hai trăm bước chân. Trước nhà là một bãi cỏ được cắt tỉa cùng với những bồn hoa xinh đẹp. Xung quanh bãi cỏ có hai lối đi nhỏ dẫn ra bờ sông. Nhưng lũ gian ác đã không đi theo con đường mà chọn lối đi ngắn nhất là băng qua bãi cỏ. Chúng để lại dấu vết rất rõ. Cỏ bị giẫm nát như thể có vật nặng bị kéo lê qua. Giữa bãi cỏ có một vật gì màu đỏ. Ông Thẩm phán nhặt lên thì thấy đó là một chiếc dép đi trong nhà và anh hầu phòng nhận ra chiếc dép của ông bá tước. Xa hơn có một chiếc khăn choàng trắng mà anh gia nhân tuyên bố thường nhìn thấy trên cổ ông chủ. Chiếc khăn cũng bị nhuốm máu. Cuối cùng họ đến bên bờ nước, dưới bóng mấy cây liễu mà anh chàng Philippe định chặt một cành và họ nhìn thấy xác chết. Ở chỗ này, cát bị cày xới lộn xộn và người ta đoán đó là lúc những bàn chân đang tìm kiếm một điểm tựa vững chắc. Ở đây, mọi thứ cho thấy đã diễn ra cuộc vật lộn rất căng thẳng. Lúc này, ông Courtois hiểu rõ tầm quan trọng của các dấu vết. - Tất cả dừng lại. - Ông nói. Rồi, chỉ có ông Thẩm phán theo sau, ông bước gần đến chỗ thi thể. Dù không nhận ra khuôn mặt, nhưng ông Xã trưởng và ông Thẩm phán đã nhận ra đó là bà bá tước Cả hai từng nhìn thấy chiếc váy xám có thêu ren màu xanh lam này. Nhưng làm sao cái xác lại nằm ở đây? Ông Xã trưởng giả định rằng, sau khi thoát khỏi lũ giết người, bà đã cuống cuồng bỏ chạy. Chúng đuổi theo, đến đây thì bắt được bà, chúng ra những đòn cuối cùng và bà đã ngã xuống, không bao giờ dậy được nữa. Giả thiết này giải thích cho dấu vết của cuộc vật lộn. Như vậy cái xác chúng kéo qua bãi cỏ là ông bá tước. Ông Courtois nói năng hoạt bát như muốn tìm cách gây ấn tượng cho ông Thẩm phán hòa giải. Nhưng Cha Plantat hầu như không nghe, người ta tưởng như ông đang ở cách đó hàng trăm dặm, ông chỉ đáp cụt lủn: Vâng, không, có thể... Còn ông Xã trưởng tháo vát thì cố gắng hết sức đi đi lại lại, đo chỗ nọ chỗ kia và xem xét tỉ mỉ địa bàn. Chỗ này chỉ có một vạt nước nông Một dải đất bùn, trên đó nhú lên mấy khóm lay ơn và mấy cây hoa súng mảnh mai, chạy dài thoai thoải từ bờ xuống sông. Nước trong vắt, không có dòng chảy. Có thể nhìn rõ mặt bùn nhẵn bóng. Ông Courtois đang chăm chú xem xét thì bỗng nảy ra một ý.. - Lão Bợm Nhậu, - Ông gọi to - lại đây. Lão già chuyên hái trộm tuân lệnh. - Ông nói rằng đã nhìn thấy cái xác này từ thuyền của nhà ông? - Vâng, thưa ngài Xã trưởng. - Thế thuyền của ông đâu? Ở - Ở kia, tôi đang neo cạnh bãi cỏ. - Rồi, hãy dẫn chúng ta tới đó. Những người trợ lý cảm thấy rõ cái lệnh này đã gây ấn tượng mạnh đến ông lão. Lão rùng mình và lớp da dày rám nắng vì mưa gió trên đôi má tái nhợt đi. Thậm chí người ta còn bắt gặp lão ném cho cậu con trai cái nhìn đe dọa. - Vâng ta đi. - Cuối cùng lão lên tiếng. -Họ định đi theo lối qua nhà thì anh hầu phòng đề nghị nhảy qua hào: - Thế này sẽ nhanh hơn, để tôi kiếm cái thang rồi chúng ta trèo qua. Anh ta chạy đi và một phút sau quay lại với cây cầu tạm bợ. Nhưng đúng lúc anh ta đang định bắc cầu thì ông Xã trưởng kêu lên: -Khoan đã, khoan đã! Dấu chân cha con nhà Bertaud để lại hai bên, hào vừa đập vào mắt ông. -Cái gì thế này? - Ông hỏi - Rõ ràng chúng đã đi qua lối này và không phải lâu, vết chân còn mới lắm. Rồi, sau khi xem xét vài phút, ông ra lệnh đặt cái thang ra xa hơn. Khi đến gần thuyền, ông hỏi lão Bợm Nhậu: - Kia có phải là con thuyền mà sáng nay các người dùng để đi vớt đó không? - Vâng, thưa ngài. - Thế thì các người dùng những dụng cụ gì? Lưới đánh cá hoàn toàn khô ráo; sào đấy và mái chèo chưa hề nhúng nước từ 24 giờ qua. Thái độ bối rối của hai cha con lão Bertaud càng lúc càng lộ rõ. - Ông vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình chứ, lão Bertaud? - Ông Xã trưởng gặng hỏi. - Thế còn cậu Philippe? - Thưa ngài, - Anh con trai ấp úng - chúng tôi đã nói sự thật. - Sự thật à? - Ông Xã trưởng nói tiếp giọng mỉa mai - Thế thì hai người sẽ phải giải thích với người có thẩm quyền là làm thế nào mà các người có thể nhìn thấy một vật từ chiếc thuyền mà các người chưa bước chân xuống. Ôi! Lại còn thế nữa! Các người chẳng tính kỹ gì cả. Người ta cũng có thể chứng minh rằng cái xác được đặt ở chỗ mà người ngồi trên thuyền ở giữa sông thì hoàn toàn không thể nhìn thấy được, các người có hiểu không. Sau nữa, các người sẽ phải nói rõ về những dấu chân mà tôi vừa phát hiện trên bãi cỏ đằng kia và nói xem ai là người đã đi từ thuyền đến cái đoạn hào rồi nhảy qua nhảy lại nhiều lần và không chỉ là một người. Hai cha con lão Bertaud cúi đầu. - Anh cai đội đâu, - Ông Xã trưởng ra lệnh, - nhân danh pháp luật, hãy bắt giam hai người này lại và giữ không cho họ liên lạc với nhau. Philippe gần như choáng váng. Về phần lão Bợm Nhậu, lão đành nhún vai và nói với cậu con trai: - Thế nào, mi thấy chưa? Sau đó, trong khi viên cai đội dẫn hai kẻ chuyên nghề hái trộm đem đi giam mỗi người một nơi và cắt cử người canh giữ, thì ông Thẩm phán hòa giải và ông Xã trưởng quay về khuôn viên. - Dù thế nào, - Ông Xã trưởng lẩm nhẩm - ta vẫn không tìm thấy tăm tích ngài bá tước... Giờ là lúc phải thu dọn cái xác bà bá tước. Ông Xã trưởng sai người lấy hai tấm ván rồi người ta thận trọng đặt xuống đất, như thể họ có thể hành động mà không sợ làm mất những dấu vết có giá trị cho việc điều tra. Than ôi! Đây đúng là người đàn bà mà trước đây từng là bà bá tước Trémorel xinh đẹp tuyệt vời! Kia từng là khuôn mặt tươi cười, là đôi mắt đẹp biết nói, là cái miệng thanh tú dí dỏm. - Chẳng còn gì nữa, chẳng có gì của bà vương lại. Khuôn mặt bị sưng húp vấy bùn lẫn máu chỉ còn là những vết thương, một mảng da trán bị bong cùng với một nắm tóc. Váy áo rách bươm. Chắc là con say dữ dội đã làm cho lũ quái vật điên loạn đến nỗi giết hại người đàn bà tội nghiệp này!. Bà đã bị đâm hai mươi nhát dao, có lẽ đã bị đập bằng một chiếc gậy hay một chiếc búa, chúng đã đấm đá và túm tóc bà kéo đi!... Trong bàn tay trái co rúm của bà có một mẩu giẻ bằng vải dạ thô màu xám nhạt, có lẽ bị giật đứt từ chiếc áo của một kẻ giết người. Vừa sầu thảm nhận xét vừa ghi chép để làm biên bản, ông Xã trưởng tội nghiệp cảm thấy hai chân mình muốn khuỵu xuống, đến nỗi ông phải vịn tay vào Cha Plantat bình thản. - Hãy đưa bà bá tước vào nhà, - Ông Thẩm phán ra lệnh - sau đó chúng ta sẽ cố tìm xác ông bá tước. Anh hầu phòng và viên cai đội đã quay trở lại, chắc là họ vừa đi nhờ mấy gia nhân đang đứng trong sân lại giúp. Cùng lúc, mấy người đàn bà chạy ra vườn. Thế là bắt đầu màn hợp xướng khủng khiếp của những tiếng kêu khóc và chửi rủa. - Bọn khốn nạn! Một người phụ nữ tử tế như thế! Một bà chủ tốt như thế! Lúc này người ta thấy rõ ông bà Tremorel rất được gia nhân quý mến. Khi người ta vừa đặt xác bà bá tước lên chiếc bàn bi-a trong tầng trệt thì một người thông báo cho ông Xã trưởng là ông Thẩm phán điều tra và một vị bác sĩ đã đến. - Tốt rồi! - Ông Courtois hiền từ lẩm nhẩm. Rồi ông hạ giọng nói thêm - Những tấm huy chương đẹp nhất cũng có mặt trái của chúng. Lần đầu tiên trong đời ông vừa nghiêm túc nguyền rủa tham vọng của mình và hối tiếc vì là một nhân vật quan trọng nhất của xã Orcival. Chương 3 Vị Thẩm phán điều tra thuộc tòa án huyện Corbeil khi ấy là một quan tòa nổi tiếng, ông Antoine Domini, được gọi tên như vậy bởi những công trạng xuất sắc của mình. Ông Domini khoảng 40 tuổi, trông rất phong nhã, có vẻ mặt sáng sủa nhưng nghiêm nghị, quá nghiêm nghị. Ông có vẻ là hiện thân của sự trang trọng đôi khi hơi cứng nhắc của chức quan tòa. Thấm nhuần tính chất uy nghiêm trong chức phận của mình, ông đã cống hiến cả đời cho sự nghiệp, khước từ mọi trò giải trí đơn giản nhất, mọi thú vui chính đáng nhất. Ông sống độc thân, hầu như ít xuất hiện, thỉnh thoảng mới tiếp mấy người bạn, vì không muốn, như ông nói, rằng những thói hư tật xấu của con người có thể đụng đến tính cách thiêng liêng của một vị quan tòa, làm giảm sự tôn trọng mà ông xứng đáng được hưởng. Lý do cuối cùng này đã ngăn không cho ông cưới vợ, mặc dù ông cảm thấy mình thích hợp với cuộc sống gia đình Mọi lúc mọi nơi ông luôn là một quan tòa, là người đại diện tự tin đến mức cuồng tín vào điều tôn nghiêm nhất trên thế giới công lý. Là người vui tính tự nhiên, ông phải có sức kìm nén mỗi lúc muốn cười. Là người có óc hài hước, nhưng nếu có lỡ thốt ra một câu đùa vui thì các bạn hãy tin chắc là ông sẽ vô cùng hối hận. Đúng là ông đã dành cả tâm hồn và thể xác để giữ gìn tư cách và không ai có ý thức hơn ông về những gì mà bổn phận phải thực hiện. Ông cũng bảo thủ hơn bất cứ người nào. Dưới mắt ông, việc thảo luận về một điều khoản của luật là sự quái gở. Luật quy định, thế là đủ, ông nhắm mắt bịt tai tuân theo. Từ lúc mở một cuộc điều tra, ông không còn biết ngủ là gì và không có gì làm ông ngần ngại vì mục đích khám phá sự thật. Tuy nhiên, người ta không coi ông là vị Thẩm phán điều tra giỏi: dùng mánh khóe để đấu tranh với một kẻ hãnh tiến sẽ làm ông ghê tởm; gài bẫy một kẻ vô lại, theo ông, là không cao thượng; điều cuối cùng, ông là người bướng bỉnh, bướng bỉnh đến mức điên rồ, đôi khi phi lý, đến mức phủ nhận cả mặt trời giữa ban trưa. Ông Xã trưởng xã Orcival và ông Thẩm phán hòa giải vội vã đứng lên ra đón ông Thẩm phán điều tra. Ông Domini chào họ với vẻ nghiêm trang như thể không hề quen biết và ông giới thiệu với họ một người tầm 60 tuổi đi theo ông: - Thưa các ngài, đây là bác sĩ Gendron. Cha Plantat bắt tay ông bác sĩ; còn ông Xã trưởng nở nụ cười xã giao thân thiện nhất. Bác sĩ Gendron là người quen biết ở Corbeil và trong toàn tỉnh; thậm chí ông còn là một người nổi tiếng mặc dù chỉ sống gần Paris. Là một bác sĩ thực hành ngoại hạng, yêu nghề và làm việc với một óc minh mẫn đam mê, tuy nhiên Gendron nổi tiếng nhờ phong cách sống hơn là tay nghề. Người ta thường nhận xét “Đó là một con người kỳ quặc” và ngưỡng mộ kiểu cách độc lập, hoài nghi và tàn nhẫn của ông. Mùa hè cũng như mùa đông, ông chỉ làm việc từ 5 giờ đến 9 giờ sáng. Ai thấy phiền toái thì mặc, may thay cũng không thiếu các bác sĩ khác. Quá chín giờ thì tạm biệt, đừng tìm ông nữa. Giờ là lúc bác sĩ làm việc cho chính mình, vào nhà kính, đi thanh tra hầm rượu, lên phòng thí nghiệm gần tầng áp mái, ở đó ông nấu những món ăn kì thú. Dư luận nói rằng ông đang tìm tòi những bí mật của ngành hóa học công nghiệp để làm tăng thêm khoản lợi tức 20.000 livre, nhưng đó là điều không đáng mấy. Và ông cứ để mặc cho người ta nói, bởi lẽ sự thật là ông quan tâm đến chất độc và đang hoàn thiện một dụng cụ tự mình phát minh để phát hiện các dấu vết của các chất alcaloide mà đến nay người ta vẫn chưa phân giải được. Nếu các bạn có trách ông, dù là trách đùa, rằng buổi chiều ông đuổi khách, thì ông tức giận đến đỏ mặt, “Tất nhiên, tôi thấy các vị thật tuyệt vời! Là bác sĩ bốn tiếng một ngày, tôi chỉ được một phần tư số người bệnh trả công, như vậy hàng ngày tôi dành ba tiếng cho phần nhân loại mà tôi coi thường và cho lòng bác ái mà tôi quan tâm... Các vị cứ thử làm như tôi xem, rồi sẽ thấy,” Lúc này ông Xã trưởng xã Orcival đã mời những người mới đến vào phòng khách, nơi ông bố trí làm phòng ghi biên bản. - Thật bất hạnh cho xã của tôi, ôi cái án mạng này, - Ông nói với ông Thẩm phán điều tra - thật xấu hổ! Thế là xã Orcival này sẽ mất hết danh tiếng. - Tôi vẫn chưa rõ gì cả, hoặc chỉ nói được như thế. - Ông Domini đáp - Anh lính hiến binh đến báo cho tôi chẳng biết được gì nhiều. Ông Courtois liền kể đầy đủ những gì cuộc điều tra sơ bộ cho thấy, không bỏ qua chi tiết nào, trong khi nhấn mạnh đến những biện pháp đề phòng đáng ghi nhận mà ông cho là cần thực hiện. Ông cho biết thái độ của cha con nhà Bertaud ban đầu đã làm ông nghi ngờ ra sao, ông đã tóm được họ, ít nhất bắt quả tang họ nói dối thế nào và rằng cuối cùng ông đã quyết định bắt giam họ. Ông đứng giữa phòng để nói, đầu ngửa ra sau, với một giọng cường điệu dài dòng, chú ý đến lời lẽ, lựa chọn những từ ngữ diễn đạt. Và mỗi lúc ông lại nhắc lại điệp khúc “Chúng tôi, Xã trưởng xã Orcival”, hay “Sau cái đó thì”. Cuối cùng, ông tỏ ra hớn hở trong việc thực thi chức trách và niềm vui được nói đã khiến ông bớt những nỗi lo âu. - Và bây giờ, - Ông kết luận - tôi vừa ra lệnh khám xét kĩ càng và chắc chắn nó sẽ giúp chúng tôi tìm thấy xác ông bá tước. Năm người của tôi cùng toàn bộ gia nhân của lâu đài đang lùng sục khắp khuôn viên. Nếu họ không tìm thấy thì tôi sẽ sai những người đánh cá đi mò dưới sông. - Ông Thẩm phán điều tra ngồi im, thỉnh thoảng gật đầu tán thưởng. Ông xem xét, cân nhắc các thông tin và trong đầu đã vạch ra một kế hoạch điều tra. - Ông đã hành động rất khôn khéo, thưa ông Xã trưởng. - Cuối cùng ông nói - Nỗi bất hạnh thật lớn, nhưng cũng như ông, tôi tin chúng ta đã lần ra dấu vết của bọn tội phạm. Cha con lão hái trộm và tay làm vườn bỏ trốn kia hắn có liên quan gì đó đến tội ác ghê tởm này. Từ nãy đến giờ, Cha Plantat đã cố nén mà không giấu được những dấu hiệu sốt ruột. - Không may là, - Ông nói - nếu như tay Guespin kia phạm tội thì hắn sẽ chẳng ngu ngốc gì mà xuất hiện tại đây. -Ồ, chúng ta sẽ tìm thấy hắn thôi. - Ông Domini nói - Trước khi rời Corbeil, tôi đã gửi một bức điện đến Sở Cảnh sát Paris xin một cảnh sát an ninh và tôi nghĩ anh ta sẽ nhanh chóng có mặt ở đây. - Trong khi chờ đợi, - Ông Xã trưởng đề nghị - có lẽ xin mời ngài Thẩm phán điều tra đi xem hiện trường vụ án. Ông Domini định đứng dậy nhưng lại ngồi xuống ngay: - Thôi, ta không nên xem gì trước khi viên cảnh sát kia tới. Mà tôi thì rất cần biết thông tin về ông bà bá tước Trémorel. Ông Xã trưởng đáng kính hào hứng: - Ồ, tôi có thể cung cấp cho ngài hơn bất cứ ai khác. Kể từ khi họ đến sống ở xã tôi, có thể nói tôi là một trong những người bạn tốt nhất của ông bà bá tước, Ôi, thưa ngài! Họ là những người tuyệt vời, xuất sắc, nhã nhặn và tận tâm! Rồi, khi nhớ lại mọi phẩm cách của bạn mình, ông Courtois cảm thấy cổ họng mình vướng víu. Ông nói tiếp: - Ông bá tước khoảng ba, bốn mươi tuổi, đẹp trai, rất dí dỏm. Đôi khi có những nỗi sầu muộn làm ông ấy chẳng muốn gặp ai, nhưng nói chung đó là một người dễ mến, rất lịch thiệp, ân cần, biết cách tỏ ra cao thượng mà không kiêu căng, mọi người trong xã tôi đều quý mến ông ấy. - Thể còn bà bá tước? - Ông Thẩm phán điều tra hỏi. - Một thiên thần, thưa ngài, một thiên thần trên trần thế! Tội nghiệp bà! Ngài sẽ được thấy thi thể bà ngay bây giờ và chắc chắn ngài không thể ngờ rằng với sắc đẹp của mình, bà đã từng là hoa hậu của xứ này. - Ông bà bá tước có giàu không? - Tất nhiên! Chắc hẳn họ phải thu được hơn 200.000 franc lợi tức. Ồ, vâng, còn nhiều hơn nữa, bởi lẽ từ năm hoặc sáu tháng nay, ông bá tước, vì không có khiếu trồng trọt như anh chàng Sauvresy tội nghiệp kia, nên đã bán đất để mua công trái. - Họ cưới nhau lâu chưa? Ông Courtois gãi đầu cố nhớ lại rồi đáp: -Quả thực họ cưới nhau từ tháng 9 năm ngoái, cách đây đúng mười tháng tôi đã làm lễ cưới cho họ. Lúc ấy ông Sauvresy tội nghiệp đã mất được một năm.. Ông Thẩm phán điều tra ngừng ghi chép, ngẩng lên ngạc nhiên nhìn ông Xã trưởng: - Cái ông Sauvresy kia là ai vậy? Cha Plantat, lúc ấy đang ngồi bực tức cắn tay trong góc phòng với vẻ ngoài tỏ ra dửng dưng trước những gì xảy ra, liên sốt sắng đứng lên nói, -Ông Sauvresy là người chồng trước của bà Trémorel. ông bạn Courtois của tôi đã bỏ qua chi tiết này. - Ồ - Ông Xã trưởng đáp trả với vẻ khó chịu - tôi thấy trong tình huống này.... - Xin lỗi, - Ông Thẩm phán điều tra ngắt lời - một chi tiết như thế có thể trở thành quý giá mặc dù nó tỏ ra xa lạ với nguyên nhân, thậm chí thoạt nhìn có vẻ vô nghĩa. - Hừm, - Cha Plantat lầu bầu - xa lạ vô nghĩa! Giọng ông tỏ ra khác lạ với vẻ mập mờ rõ rệt, đến nỗi làm cho ông Thẩm phán điều tra ngạc nhiên. Ông liền hỏi: - Thưa ngài, ngài không chia sẻ quan điểm của ngài Xã trưởng trong báo cáo về vợ chồng ông Trémorel à? Cha Plantat nhún vai: - Tôi không có ý kiến gì, tôi sống một mình, chăng gặp gỡ ai cả. Đối với tôi, những chuyện này có quan trọng gì đâu. Tuy nhiên... - Tôi cảm thấy - Ông Courtois thốt lên - rằng không ai biết rõ hơn tôi về chuyện của những người là bạn bè và chịu sự cai quản của tôi. - Vì thế, -Cha Plantat xẵng giọng đáp - ông mới kể sai. Và vì bị ông Thẩm phán điều tra thúc ép trình bày Cha Plantat bắt đầu nói không chút khách sáo, làm cho ông Xã trưởng khó chịu vì bị gạt ra rìa, Cha kể vắn tắt lai lịch của ông bà bá tước. Bà bá tước Trémorel, tên khai sinh là Berthe Lechaillu, là con gái của một ông giáo làng nghèo khó. Năm 18 tuổi, sắc đẹp của cô gái trẻ Berthe đã nổi tiếng khắp vùng, nhưng vì của hồi môn của cô chỉ là đôi mắt to xanh biếc với mái tóc vàng tuyệt diệu, nên những kẻ si tình - đấy là nói những kẻ si tình có ý định kết hôn - chẳng thấy xuất hiện ai. Theo lời khuyên của gia đình, khi cô Berthe bắt đầu cam chịu cảnh ế chồng và xin một chân dạy học - vị trí đáng buồn dành cho một cô gái đẹp như thế - thì một chàng trai thừa tự của một trong những nghiệp chủ giàu có nhất nước có dịp gặp và phải lòng cô. Đó là anh chàng Clément Sauvresy. Clément Sauvresy vừa tròn 30 tuổi, anh không còn gia đình và sở hữu gần 100.000 livre lợi tức trên diện tích đất đai màu mỡ có quyền cầm cố. Có thể nói, hơn bất cứ ai khác, anh hoàn toàn có quyền lấy vợ theo ý mình. Không chần chừ, anh hỏi Berthe làm vợ và nhận được lời đồng ý ngay, rồi, một tháng sau anh cưới vợ giữa thanh thiên bạch nhật, gây phẫn nộ cho những kẻ cứng đầu trong vùng, họ không ngớt nguyền rủa: Thật điên rồ! Giàu có để làm gì nếu không biết nhân đôi gia tài bằng một cuộc hôn nhân có lợi! Khoảng một tháng trước khi cưới, Sauvresy đưa người làm công về Valfeuillu và trong nháy mắt, anh ta đã tiêu vèo món tiền “nhỏ mọn” 30.000 ecu để sửa sang và sắm đồ đạc trong nhà. Chính lãnh địa mới này được đôi uyên ương chọn làm nơi hưởng tuần trăng mật. Họ thấy ở đây thoải mái đến nỗi họ về ở hẳn đây trước sự hài lòng của tất cả những ai có quan hệ với họ. Họ chỉ giữ lại một chân ở Paris. Có vẻ như Berthe nằm trong số những người phụ nữ sinh ra để lấy chồng triệu phú. Không hề ngượng nghịu và lúng túng, cô chuyển từ cái phòng học nhếch nhác nơi cô phụ giúp cha mình đến thẳng lâu đài Valfeuillu lộng lẫy. Và khi bà chủ mới của Valfeuillu đem lâu đài của mình làm rạng danh cho giới quý tộc quanh vùng thì có vẻ như bà vẫn không biến cuộc sống của mình thành cái gì khác trước. Bà vẫn sống bình dị, duyên dáng, khiêm tốn, trong khi xử sự theo phong cách thượng lưu cao quý nhất. Mọi người đều yêu quý bà. - Nhưng, - Ông Xã trưởng ngắt lời - tôi thấy là mình không nói gì khác cả và thực sự chẳng cần mất công... Một cử chỉ của ông Thẩm phán điều tra làm ông phải ngậm miệng, Cha Plantat tiếp tục: - Người ta cũng yêu quý cả ông Sauvresy, một trong những tấm lòng vàng không thể hoài nghi. Sauvresy thuộc trong số những người có những niềm tin vững chắc, có những ảo tưởng kiên định mà nỗi nghi ngờ không bao giờ mảy may chạm được tới. Sauvresy cũng thuộc trong số những người tin vào tình cảm của bạn bè, vào tình yêu của bạn đời. Cặp vợ chồng mới cưới này chắc là rất hạnh phúc, thực tế là thế. Berthe yêu quý chồng, một con người trung thực mà trước khi nói lời yêu, ông đã cầu hôn nàng. Bản thân ông Sauvresy đã dành cho vợ sự ngưỡng mộ mà có người cho rằng là sự khôi hài. Ngoài ra, họ ăn ở rất cao thượng ở lâu đài Valfeuillu. Họ tiếp nhiều khách. Đến mùa thu, tất cả các căn phòng dành cho bạn bè đều kín người. Các trang bị nội thất ở đây thật lộng lẫy. Cuối cùng, sau khi cưới được hai năm, vào một buổi tối ống dẫn về từ Paris một người bạn cũ thân thiết, một người bạn đồng môn mà người ta thường nghe ông nhắc đến, đó là bá tước Hector de Trémorel. Ông thông báo rằng ông bá tước sẽ ở lại lâu đài Valfeuillu vài tuần. Nhưng mấy tuần trôi qua, rồi mấy tháng, ông này vẫn đó. Người ta không ngạc nhiên về điều này. Ông Hector đã có một tuổi xuân đầy sóng gió, với những cuộc ăn chơi ồn ào, những chuyện đánh đấu tay đôi, những trò cá cược, những chuyện tình ái. Ông đã quăng một tài sản khổng lồ vào những trò chơi ngông cuồng vì thế cuộc sống yên bình ở Valfeuillu có thể đã quyến rũ ông. Mấy ngày đầu người ta thường bảo ông “Rồi ông sẽ nhanh chóng chán ngấy cái thôn quê này!” Ông cười không nói gì. Khi đó người ta nghĩ khá đúng là lúc trở nên tương đối nghèo, ông ta sẽ rất ít bận tâm đến việc phô bày sự tàn tạ trước những người trước đây đã tức tối trước cảnh huy hoàng của ông. Ông ta hiếm khi vắng mặt và chỉ vắng mặt để đi Corbeil, gần như luôn đi bộ. Tại đó ông vào khách sạn Belle Image, là khách sạn số một của thị trấn, tại đây, như thể tình cờ, ông gặp một người đàn bà trẻ đến từ Paris. Họ ở đó với nhau cả buổi chiều và chia tay lúc chuyến tàu cuối cùng khởi hành. - Ghê thật! - Ông Xã trưởng làu bàu - Với một người sống một mình, không tiếp ai, vì không bận tâm đến chuyện của người khác vì bất cứ lí do gì, tôi có cảm giác ngài Thẩm phán hòa giải yêu quý của chúng tôi biết khá nhiều chuyện! Rõ ràng ông Courtois đang tỏ ra ghen tức. Làm sao mà một nhân vật đứng đầu xã như ông lại không hề biết gì về những cuộc hẹn hò này! Vẻ khó chịu của ông còn tăng lên khi bác sĩ Gendron trả lời: - Hừ, lúc đó cả thị trấn Corbeil đều chê bai chuyện đó mà. Ông Plantat nhếch môi như muốn nói: “Tôi còn biết nhiều chuyện khác nữa ấy chứ.” Nhưng ông tiếp tục kể mà không phản ứng gì. - Việc ông Hector ở lại Valfeuillu không hề làm thay đổi các thói quen của lâu đài. Coi như ông bà Sauvresy có thêm người anh em, chỉ vậy thôi. Nếu như thời đó ông Sauvresy có nhiều lần lên Paris, thì, như mọi người đều biết, đó là vì ông bận tâm đến công việc của bạn mình. Cuộc sống vui thú này kéo dài một năm. Niềm hạnh phúc có vẻ như được ấn định mãi mãi dưới những bóng cây đáng yêu của lâu đài Valfeuillu. Nhưng than ôi! Một buổi tối, sau chuyến săn bắn ở đầm lầy trở về, ông thấy trong người khó ở đến nỗi buộc phải lên giường ngay. Người ta cho gọi bác sĩ, không phải bác sĩ Gendron của chúng ta đây đâu! Ông Sauvresy đã có một cơn sưng phổi bùng phát. Ông Sauvresy còn trẻ khỏe, tráng kiện như cây sồi, ban đầu người ta không thấy có gì nghiêm trọng đáng lo lắng. Quả thực, mười lăm hôm sau ông đã đứng dậy được. Nhưng ông không kiêng cữ nên lại bị ngã bệnh. Nhưng ít ra ông ta cũng gần như bình phục. Sau đó một tuần ông lại bị ngã bệnh, lần này nặng đến nỗi người ta có thể dự đoán một kết cục nguy hại. Và chính trong quãng thời gian bệnh trạng kéo dài này đã bộc lộ tình yêu của Berthe và tình cảm của ông Trémorel dành cho ông Sauvresy. Chưa bao giờ người bệnh được chăm sóc ân cần như vậy, với sự tận tâm tuyệt đối và chân thành nhất. Ngày cũng như đêm, cạnh đầu giường ông luôn có mặt vợ hoặc bạn ông. Ông đã phải chịu hàng giờ đau đớn vì bệnh, nhưng không một giây phút nào ông thấy buồn phiền. Khi đó, ông thường nói với những người đến thăm rằng đã đến lúc ông thấy vui khi được ốm. Ông đã nói với tôi “Nếu không bị ốm, có lẽ tôi không bao giờ biết mình được yêu quý đến mức nào.” - Ông ấy cũng nói với tôi hàng trăm lần như thế. - Ông Xã trưởng nói xen vào - Ông ấy cũng đã nói thế nhiều lần với bà Courtois và với con gái cả Laurence của tôi... - Tất nhiên. - Cha Plantat kể tiếp - Những căn bệnh của ông Sauvresy thuộc trong số những căn bệnh mà hiểu biết của những bác sĩ có kinh nghiệm nhất và sự chăm sóc tận tâm nhất cũng phải chịu thua. Mặc dù khẳng định mình không phải chịu đau khổ nhiều, nhưng ông suy sụp đi trông thấy, chỉ còn là cái bóng của chính mình. Cuối cùng, một đêm, vào khoảng 2-3 giờ sáng, ông mất trong vòng tay của vợ và bạn. Đến phút chót. ông vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chưa đầy một tiếng đồng trước khi mất, ông muốn mọi người thức canh ông và muốn tất cả gia nhân của lâu đài đến chỗ mình. Khi mọi người tụ tập quanh giường, ông cầm tay vợ mình đặt vào tay ông bá tước Trémorel và bắt hai người thề sẽ lấy nhau khi ông không còn trên đời nữa. Berthe và Hector cùng kêu lên, nhưng ông Sauvress nài nỉ đến mức họ không thể từ chối. Ông vừa cầu xin vừa van nài và khẳng định rằng nếu họ cưỡng lại thì chỉ làm khổ những giây phút cuối cùng của ông thôi. Vả lại, ý định tác thành cho người vợ góa với bạn mình có lẽ đã làm ông bận tâm một cách đặc biệt vào cuối đời. Trong lời mở đầu của bản di chúc được ông đọc vào hôm trước khi chết cho cô Bury - công chứng viên của xã Orcival - ghi, ông chính thức tuyên bố rằng hôn nhân của hai người là ước nguyện cao quý nhất của ông, rằng ông ủng hộ hạnh phúc của họ và biết rõ rằng kỷ niệm về ông sẽ được thành kính giữ gìn. - Ông bà Sauvresy không có con à? - Ông Thẩm phán điều tra hỏi. . - Không, thưa ngài. - Ông Xã trưởng đáp. Cha Plantat kể tiếp: - Nỗi đau của ông bá tước và bà góa phụ trẻ là vô cùng lớn. Nhất là ông Trémorel tỏ ra hoàn toàn tuyệt vọng và gần như phát điên lên. Bà Berthe thì giam mình trong phòng, cấm cửa những người bà yêu quý nhất, nhất là bà Courtois cùng con gái. Cho đến khi ông bá tước và bà Berthe xuất hiện trở lại thì mọi người hầu như không nhận ra họ, cả hai đã thay đổi quá nhiều. Đặc biệt là ông Hector đã già đi đến hai mươi tuổi. Liệu họ có giữ lời thề trước người hấp hối không, lời thề mà ai cũng biết? Người ta tự hỏi về điều này với mối quan tâm lớn khi mà họ ngưỡng mộ những nỗi tiếc thương sâu sắc dành cho một người thực sự xứng đáng. Ông Thẩm phán điều tra gật đầu ra hiệu cho Cha Plantat ngừng lời. - Thưa ông Thẩm phán hòa giải, - Ông hỏi - ông có biết liệu những cuộc hẹn hò ở khách sạn Belle Image có dừng lại không? - Tôi cho là họ dừng lại rồi, thưa ngài, tôi nghĩ thế. - Tôi gần như cũng tin chắc như vậy. - Bác sĩ Gendron khẳng định - Ở Corbeil tôi thường nghe nói về một vụ cãi vã ầm ĩ giữa ông Trémorel với người đàn bà đẹp đến từ Paris. Sau vụ này người ta không nhìn thấy hai người ở khách sạn Belle Image nữa. Ông Thẩm phán hòa giải mỉm cười nói: -Melun không phải là một thị trấn nằm ở góc biển chân trời, ở Melun không thiếu khách sạn. Với một con ngựa tốt người ta có thể nhanh chóng có mặt tại Fontainebleau, Versailles, thậm chí cả Paris. Bà Trémorel có thể nổi máu ghen, chồng bà có những con ngựa khỏe hàng đầu trong chuồng. Cha Plantat đưa ra một ý kiến hoàn toàn vô tư, liệu có ý bóng gió gì ở đây không? Ông Thẩm phán điều tra chăm chú nhìn xem có đúng thế không, nhưng bộ mặt ông Thẩm phán hòa giải chẳng biểu hiện gì ngoài vẻ bình thản sâu lắng. Ông kể câu chuyện này cũng giống như thể bất cứ câu chuyện nào khác. - Xin ông tiếp tục. - Ông Domini nói. - Than ôi! - Cha Plantat kể tiếp - Cuộc đời này chẳng có gì vĩnh cửu, kể cả nỗi đau, tôi có thể khẳng định hơn ai hết. Chẳng bao lâu, tiếp theo những giọt nước mắt của những ngày đầu, sau những nỗi tuyệt vọng cùng cực, là nỗi buồn có chừng mực của ông bá tước và bà Berthe, sau đó là nỗi sầu muộn nhẹ nhàng. Rồi một năm sau cái chết của ông Sauvresy, ông Trémorel cưới bà vợ góa của ông... . Trong khi diễn ra câu chuyện khá dài dòng này, ông Xã trưởng xã Orcival đã nhiều lần có dấu hiệu bực mình rõ rệt. Cuối cùng, không nhịn được nữa ông thốt lên: - Chắc chắn đây là những chi tiết không thể chính xác hơn nữa. Nhưng tôi tự hỏi liệu chúng có giúp giải quyết vấn đề nghiêm trọng mà chúng ta quan tâm không: tìm ra những kẻ sát hại ông bà bá tước? Nghe thấy thế, Cha Plantat nhìn ông Thẩm phán điều tra với con mắt sắc lạnh như muốn dõi sâu vào tâm can ông. - Đối với tôi, những chi tiết này không thể thiếu được, - Ông Domini đáp lại - và tôi thấy chúng rất rõ ràng. Những cuộc hẹn hò ở khách sạn làm tôi ngạc nhiên, người ta không thể biết máu ghen có thể khiến một phụ nữ hành động cực đoan như thế nào đâu! Ông bỗng ngừng lời, chắc là để tìm dấu gạch nối có thể có giữa người đàn bà xinh đẹp đến từ Paris với những kẻ sát nhân, rồi nói tiếp: - Giờ đây khi mà tôi đã biết “vợ chồng ông bà Trémorel” như thể tôi đã sống gần gũi với họ, chúng ta hãy xem xét những sự việc hiện tại. Con mắt long lanh của Cha Plantat đột nhiên tắt ngấm, môi mấp máy như thể muốn nói, nhưng ông im lặng. Chỉ có ông bác sĩ, người vẫn không ngừng chăm chú theo dõi ông Thẩm phán già, là nhận ra sự thay đổi đột ngột trên nét mặt ông. Ông Domini nói: - Giờ tôi chỉ muốn biết đôi vợ chồng mới cưới sống thế nào? Ông Courtois nghĩ đã đến lúc mình có trách nhiệm phải thay lời Cha Plantat. Ông liền sốt sắng đáp: - Ngài hỏi đôi vợ chồng mới cưới sống thế nào ư? Họ sống hoàn toàn hòa hợp. Trong xã này chẳng ai biết rõ họ hơn tôi, vì tôi là bạn thân thiết của họ. Kỷ niệm về ông Sauvresy tội nghiệp là sợi dây kết nối hạnh phúc của họ, sở dĩ họ yêu mến tôi là vì tôi luôn nói về ông ấy. Không bao giờ có vẻ u ám, không bao giờ họ phản đối. Hector - tôi luôn gọi ông bá tước bất hạnh và đáng quý một cách thân mật như vậy - đã dành cho vợ mình sự chăm sóc tận tình của một tình nhân, cùng sự ân cần tạo nhã mà những cặp vợ chồng bây giờ nói chung đã nhanh chóng đánh mất thói quen này. - Thế còn bà bá tước? - Cha Plantat hỏi với giọng ngây thơ đến nỗi không thể cho là không có ý chế giễu. - Berthe ư! - Ông Xã trưởng đáp lại - Bà ấy đã cho phép tôi gọi một cách nhân từ như vậy. Berthe! Tôi không ngại ngần bao lần nhắc tên bà ấy để làm gương cho bà Courtois nhà tôi. Berthe! Nàng xứng đáng với ông Sauvresy và ông Hector - hai người đàn ông đáng kính nhất tôi từng gặp trong đời! Nhận thấy sự hào hứng của mình làm mọi người có chút ngạc nhiên, ông nói tiếp với giọng nhẹ nhàng hơn. - Tôi có những lý do để bày tỏ như vậy và tôi không hề ngại ngùng nói trước những người mà nghề nghiệp và tính cách của họ đảm bảo sự kín đáo cho tôi. Ông Sauvresy đã giúp tôi rất nhiều khi tôi miễn cưỡng nhận chức Xã trưởng. Về phần Hector, tôi tin ông ấy đã bỏ hẳn những lỗi lầm thời trẻ, tôi cũng nhận ra rằng ông ấy không thờ ơ với đứa con gái cả Laurence nhà tôi. Tôi đã nghĩ đến một cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối nếu như bá tước Hector de Trémorel có danh vị, tôi cũng có thể cho con gái mình một món hồi môn tương đối để làm rạng danh bất cứ gia huy quý tộc nào. Nhưng các sự kiện đã làm thay đổi mọi kế hoạch của tôi. - Ông Xã trưởng chắc sẽ ca mãi những lời khen ngợi dành cho “đôi vợ chồng Trémorel” và cả vợ chồng ông nếu như ông Thẩm phán điều tra không lên tiếng: - Tôi quyết định thế này, từ nay có lẽ... Ông chưa nói hết câu thì có tiếng ồn ào ngoài tiền sảnh. Nghe như có chuyện tranh giành, có tiếng gào thét la ó vọng vào trong phòng khách. Mọi người liền đứng dậy. . - Tôi biết chuyện gì rồi, - Ông Xã trưởng nói - chắc chắn là thế! Họ vừa tìm thấy xác ông bá tước Trémorel. Chương 4 Ông Xã trưởng xã Orcival đã nhầm. Cửa phòng khách đột ngột mở ra, người ta thấy một người đàn ông có vẻ ngoài mảnh khảnh bị một người lính hiến binh và một gia nhân giữ chặt hai bên đang chống trả quyết liệt với sức mạnh không ngờ. Cuộc vật lộn đã diễn ra khá lâu, quần áo anh ta bị xộc xệch ghê gớm. Chiếc áo đuôi tôm mới may bị xé rách, chiếc cà-vạt phất phơ tơi tả, khuy cổ áo bị giật tung và áo sơ mi bị banh ra làm lộ bộ ngực trần. Mái tóc đen chải chuốt của anh ta bị rối tung buông xõa xuống bộ mặt đang co rúm lại vì cơn hoảng loạn ghê sợ. Ngoài tiền sảnh và ngoài sân có tiếng la ó giận dữ của các gia nhân trong lâu đài và của những người tò mò - họ có tới hơn trăm người - cái tin về án mạng đã tập hợp họ trước cổng và đang nóng lòng muốn biết và tận mắt được xem. Đám đông điên dại đang kêu la: - Đúng là nó rồi! Đánh chết tên giết người này đi! Thằng Guespin đấy! Và kẻ khốn nạn vô cùng hoảng sợ kia vẫn tiếp tục giãy giụa. - Cứu tôi với! - Anh ta khản giọng gào lên - Cứu tôi! Bỏ tôi ra, tôi không có tội gì cả! Anh ta bám chặt vào cánh cửa phòng khách làm mọi người không thể lôi đi được. Bị áp lực bởi cơn phẫn nộ của đám đông, ông Xã trưởng ra lệnh: - Đẩy hắn vào đây, đẩy vào đây! Ra lệnh thì dễ nhưng thực hiện thì khó. Cơn hoảng loạn khiến anh chàng Guespin có sức mạnh phi thường, Nhưng ông bác sĩ đã nghĩ ra cách mở cánh cửa còn lại của phòng khách làm cho anh chàng khốn nạn mất điểm tựa liền ngã lăn nhào vào trong phòng ngay dưới chân bàn nơi ông Thẩm phán điều tra đang ngồi viết. Anh ta đứng ngay dậy đưa mắt tìm một lối thoát để chạy trốn. Nhưng tất cả cửa sổ và cửa ra vào đều chật cứng những kẻ tò mò đứng xem, không còn cách nào khác, anh ta liền buông người xuống chiếc ghế bành. Trên mặt kẻ bất hạnh này hiện lên vẻ hoảng loạn cùng cực. Khuôn mặt trắng bợt của anh ta hẳn những vết tím xanh do những cú đấm trong lúc vật lộn gây ra. Đôi môi nhợt nhạt đang run lên và anh ta động đậy hai hàm răng uể oải như thể muốn tìm một chút nước bọt cho cái lưỡi cháy bỏng của mình, đôi mắt mở to hết cỡ vằn lên những tia máu đỏ và thể hiện vẻ thẫn thờ thảm hại nhất, cuối cùng, cơ thể anh ta liên tục phát ra những cơn co giật. Cảnh tượng đó đáng sợ đến nỗi ông Xã trưởng xã Orcival nghĩ rằng nó có thể trở thành một bài học có ý nghĩa đạo đức. Ông quay sang đám đông, chỉ tay Guespin rồi tuyên bố bằng giọng nghiêm trọng - Tội ác là đây! Trong khi đó những người khác - ông bác sĩ, ông Thẩm phán điều tra và Cha Plantat ngạc nhiên nhìn nhau. - Nếu có tội, - Ông Thẩm phán hòa giải lẩm bẩm - thì thế quái nào anh ta lại trở về đây? Phải mất một lúc lâu người ta mới xua được đám đông lui ra, viên cai đội phải gọi lính hiến binh vào mới lập lại trật tự. Sau đó anh quay lại đứng cạnh Guespin, vì cho rằng thật bất cẩn nếu để một kẻ gian ác nguy hiểm thể này cho những người không có vũ khí trông coi. Nhưng than ôi, lúc ấy kẻ khốn nạn kia chẳng có gì đáng sợ nữa. Bị phản ứng, sức lực bị kích động quá mức của anh ta đã suy sụp như ngọn lửa của một nắm rơm, những cơ bắp căng hết cỡ trở nên mềm nhẽo và sự mệt lả của anh ta giống như cơn hấp hối của một cơn sốt trí não. Trong khi đó viên cai đội kể lại sự tình: - Mấy gia nhân của lâu đài và ở quanh đây đang đứng trước cổng nói chuyện tào lao về tội ác trong đêm và về chuyện anh chàng Guespin biến mất từ tối qua, thì bỗng nhiên họ nhìn thấy anh ta ở cuối đường đang vừa đi lảo đảo vừa hát như say rượu. - Anh ta có say thật không? - Ông Domini hỏi. - Say không biết gì, thưa ngài. - Viên cai đội đáp. - Vậy là rượu đã đem hắn giao nộp cho chúng ta, - Ông Thẩm phán điều tra lẩm bẩm - mọi chuyện đã rõ. - Nhìn thấy tên gian ác này, - Viên cai đội, người thấy tội trạng của Guespin không còn phải nghi ngờ nữa, kể tiếp - anh chàng hầu phòng François của ông bá tước quá cố cùng với anh gia nhân Baptiste của ngài Xã trưởng liền lao đến tóm lấy anh ta. Anh ta say đến nỗi vì không nhớ được gì nên anh ta tưởng mọi người muốn trêu đùa. Khi nhìn thấy một anh lính hiến binh, anh ta mới tỉnh hẳn rượu. Đúng lúc đó một người đàn bà thét lên: “Đồ kẻ cướp! Chính mi đêm qua đã giết ông bà bá tước!” Lập tức mặt anh ta tái xanh như xác chết, anh ta đứng sững lại, mồm há hốc như chết đứng, thật đấy! Thế rồi đột nhiên anh ta bắt đầu giãy giụa quyết liệt, nếu không có tôi thì hắn đã chạy thoát rồi. Ôi cái tên vô lại này trông thế mà khỏe lắm! - Anh ta không nói gì à? - Cha Plantat hỏi. - Không nói một lời, thưa ngài! Hắn điên dại nghiến chặt răng đến nỗi tôi tin chắc hẳn chỉ nói được một từ: bánh mì. Cuối cùng, chúng tôi đã giữ chặt được hắn. Chúng tôi lục túi hắn và đây là những thứ được tìm thấy trong túi: một chiếc khăn mùi soa, một con dao quắm nhỏ, hai chiếc chìa khóa, một mẩu giấy ghi những con số và ký hiệu và một tờ giấy ghi địa chỉ cửa hàng sắt Vulcain. Nhưng không chỉ có thế... Viên cai đội làm tư thế đứng nhìn mọi người với vẻ bí hiểm, anh ta đang muốn gây ấn tượng. - Không phải chỉ có thế. Trong khi bị kéo đi trong sân, hắn định vứt bỏ ví tiền của mình. Rất may là tôi để mắt đến và kịp nhìn thấy. Tôi đã nhặt chiếc ví bị vứt trong khóm hoa cạnh cổng lên và nó đây. Trong ví có một tờ 100 franc, 3 đồng louis và 7 đồng franc tiền lẻ. Khốn nối hôm qua tên kẻ cướp này không có một dính túi… - Làm sao anh biết điều đó? - Ông Courtois hỏi. - Đúng thế, thưa ngài Xã trưởng! Anh hầu phòng François bảo với tôi là hắn đã vay cậu ấy 25 franc, nói là để đóng tiền góp mừng đám cưới. - Cho gọi anh François đến đây. - Ông Thẩm phán điều tra ra lệnh. Ngay khi anh hầu phòng xuất hiện, ông liền hỏi: - Anh có biết liệu hôm qua Guespin có tiền không? - Anh ta có ít lắm, thưa ngài, - Anh gia nhân trả lời không chút ngập ngừng - đến nỗi ban ngày anh ta đã hỏi vay 25 franc và nói rằng nếu tôi không cho vay thì không thể đi ăn cưới được vì anh ta không có tiền để đi tàu. - Nhưng anh ta có thể có tiền tiết kiệm, chẳng hạn như tờ 100 franc mà anh ta không thích đổi sang tiền lẻ. François mỉm cười khó tin và lắc đầu: - Guespin không phải loại người có tiền tiết kiệm. Gái và cờ bạc đốt hết tiền của anh ta. Mới tuần trước, ông chủ tiệm cà phê Thương mại đã đến làm ầm ĩ vì chuyện anh ta nợ tiền và còn dọa sẽ báo cho ông bá tước biết. Rồi, khi nhận thấy tác động lời khai của mình, anh hầu phòng nhanh chóng nói thêm như muốn sửa sai: . - Không phải tôi oán giận gì Guespin. Thậm chí đến hôm nay tôi vẫn luôn coi anh ấy là chàng trai tốt, mặc dù anh ấy quá thích chuyện đùa nghịch; có lẽ anh ấy hơi tự kiêu, xét về trình độ giáo dục... Anh có thể lui. - Ông Thẩm phán điều tra nói, làm cụt hứng những lời đánh giá của anh François. Anh liền ra khỏi phòng khách. Trong lúc đó, Guespin dần dần hồi tỉnh lại. Ông Thẩm phán điều tra, Cha Plantat và ông Xã trưởng tò mò dò xét vẻ mặt mà có lẽ anh ta không thể tự tạo ra được. trong khi bác sĩ Gendron bắt mạch cho anh ta. - Ăn năn và khiếp sợ sự trừng phạt đây! - Ông Xã trưởng lẩm bẩm. - Vô tội mà không có khả năng chứng minh! - Cha Plantat đáp nhỏ. . Ông Thẩm phán điều tra nghe thấy cả hai câu cảm thán này nhưng không đáp trả. Niềm tin của ông vẫn chưa được xác định, nên một người đại diện cho pháp luật và bộ hình như ông không muốn bằng một câu nói mà để người ta đoán trước tình cảm của mình. - Anh bạn thấy dễ chịu hơn rồi chứ? – Bác sĩ Gendron hỏi Guespin. Anh chàng bất hạnh gật đầu ra hiệu. Sau đó anh và lo lắng nhìn quanh như thể thăm dò cái vực sâu mà anh ta vừa ngã xuống, rồi đưa tay lên mắt kêu lên: - Nước! Người ta đưa cho cốc nước, anh ta liền uống một hơi với vẻ khoan khoái khó tả, rồi đứng dậy. - Giờ anh có thể trả lời tôi được không? - Ông Thẩm phán hỏi. Ban đầu có vẻ lảo đảo, sau đó Guespin đứng thẳng người. Anh đứng trước mặt ông Thẩm phán, tay tựa vào lưng một chiếc ghế. Bàn tay đã bớt run, hai má đã hồng hào trở lại, vừa trả lời, anh vừa xốc lại quần áo. Ông Thẩm phán bắt đầu hỏi: - Anh có biết gì về những sự kiện đêm qua không? Ông bà bá tước Trémorel đã bị sát hại. Hôm qua, đi cùng với các gia nhân của lâu đài, đến khoảng 9 giờ tối hôm qua anh đã chia tay họ ở ga Lyon và bây giờ anh trở về một mình. Anh đã ở đâu đêm qua? Guespin cúi đầu im lặng. - Không chỉ có thế. - Ông Thẩm phán tiếp tục - Hôm qua anh không có tiền, sự việc này ai cũng biết, một trong những người bạn của anh vừa khẳng định. Hôm nay người ta thấy trong ví anh có 167 franc. Anh lấy số tiền này ở đâu ra? Đôi môi của kẻ bất hạnh mấp máy như thể định trả lời, nhưng một ý nghĩ bất chợt đã ngăn lại, anh liền im lặng. - Còn nữa, - Ông Thẩm phán nói tiếp - tấm danh thiếp của một cửa hàng kim loại tìm thấy ở trong túi anh là thế nào? Guespin phác một cử chỉ tuyệt vọng rồi nói khẽ: - Tôi không có tội. - Xin anh chú ý cho, - Ông Thẩm phán điều tra hoạt bát nói - là tôi chưa hề kết tội anh. Anh biết rằng hôm qua ông bá tước đã nhận được một khoản tiền lớn. Nụ cười cay đắng hiện trên môi Guespin, anh đáp: - Tôi biết rõ mọi thứ đang chống lại mình. Sự im lặng sâu lắng bao trùm phòng khách. Bị tác động bởi nỗi tò mò, ông bác sĩ, ông Xã trưởng và Cha Plantat không dám động đậy. Trên đời có lẽ chẳng còn gì xúc động bằng những cuộc đấu trí không thương xót giữa công lý với người bị nghi phạm tội. Những câu hỏi có thể tỏ ra không quan trọng, những câu trả lời có vẻ tầm phào, che giấu những ẩn ý khủng khiếp. Khi ấy những cử chỉ nhỏ nhất, những cử động nhanh nhất trên nét mặt cũng có thể có một ý nghĩa to lớn. Một ánh mắt thoáng qua cũng đem lại lợi thế; một giọng nói sai lạc khó nhận ra cũng có thể là lời thú tội. - Vâng, một cuộc hỏi cung, nhất là cuộc hỏi cung đầu tiên, đúng là cuộc đấu trí. Ban đầu, các đối thủ thăm dò tinh thần nhau, họ ước lượng và đánh giá lẫn nhau, câu hỏi và câu trả lời trao qua đổi lại với một vẻ do dự mềm mỏng, giống như thanh kiếm của hai đối thủ chưa biết sức mạnh của nhau, nhưng chẳng bao lâu cuộc đấu bắt đầu nóng lên; nghe tiếng gươm lách cách và lời lẽ trao đổi là hai bên trở nên sôi nổi, cuộc tấn công hối hả hơn, sự đáp trả bắt đầu mãnh liệt hơn, ý thức về sự nguy hiểm biến mất và với những cơ hội ngang nhau thì lợi thế sẽ thuộc về người nào giữ được sự bình tĩnh tốt nhất. Lúc này, thái độ bình tĩnh của ông Domini có thể làm người ta tuyệt vọng. - Thế nào, - Ngừng một lát ông nói tiếp - đêm qua anh ở đâu, lấy tiền đâu ra, cái danh thiếp địa chỉ này là thế nào? - Ôi, - Guespin tức giận kêu lên với vẻ bất lực -giờ tôi có nói thì các ông cũng chả tin. Ông Thẩm phán điều tra định đặt một câu hỏi khác thì Guespin ngắt lời ông: - Không, các ông sẽ không tin tôi đâu. - Mắt anh long lên giận dữ - Những người như các ông mà lại tin một người như tôi ư? Các ông sẽ nói là tôi có một quá khứ, đúng không. Các ông chỉ biết quăng vào mặt người ta cái từ “quá khứ”, như thể tương lai phụ thuộc vào quá khứ ấy. Vâng, đúng thế đấy, tôi là một kẻ sa đọa, một thằng ăn chơi, một tên bét nhè, một gã lười biếng, thì đã sao? Đúng là tôi đã bị đưa vào trại cải tạo và bị kết án vì tội làm mất trật tự công cộng ban đêm và vi phạm thuần phong mỹ tục... Nhưng cái đó chứng minh được gì? Tôi coi như đã toi đời rồi, nhưng tôi làm hại chính tôi chứ có làm hại ai? Quá khứ của tôi đó! Tôi chẳng đã phải đền tội đủ nghiệt ngã rồi sao? Anh chàng Guespin đã hoàn toàn làm chủ được bản thân và tìm lại được những cảm xúc gợi cho mình một kiểu hùng biện, anh ăn nói với một nghị lực hoang dại thích đáng đến mức làm mọi người xung quanh ngạc nhiên. - Tôi không quen phục vụ người khác. - Anh nói tiếp - Cha tôi là một người sung túc, gần như là một người giàu có, ông có những khu vườn rộng ở gần Saumur và được coi là một trong những người làm vườn giỏi nhất tỉnh Maine-et-Loire. Tôi đã được ăn học, đến năm 16 tuổi tôi đã vào trường của nhà Leroy để học nghề. Sau bốn năm, tôi được coi là một chàng trai có tài. Không may cho tôi là bố tôi, sau nhiều năm ở góa, đã mất. Ông để lại cho tôi những mảnh đất tuyệt vời đáng giá hàng trăm nghìn franc, tôi đã bán chúng để lấy 60.000 franc rồi lên Paris. Lúc ấy tôi như một thằng điên. Tôi bị một cơn sốt ăn chơi mà không có cái gì làm dịu được, tôi khao khát mọi thú vui, khao khát có sức khỏe như vâm và có tiền bạc. Tôi thấy Paris là nơi chật chội không đủ cho những thói hư tật xấu của mình, không có đủ các thứ để tôi thỏa mãn những cơn thèm muốn. Tôi cứ tưởng 60.000 franc của mình sẽ chẳng bao giờ hết. Guespin ngừng lời, hàng nghìn kỷ niệm thời đó ùa về, anh hạ giọng thì thầm: “Một thời tốt đẹp.” - 60.000 franc của tôi, - Anh nói tiếp - kéo dài được 8 năm. Tôi chẳng còn một xu dính túi mà vẫn muốn tiếp tục sống theo cách của mình... Chắc các ngài hiểu chứ? Rồi chính trong khoảng thời gian này, vào một đêm, tôi bị cảnh sát bắt. Tôi phải chịu 3 tháng tù giam. Ôi, các ngài sẽ tìm thấy hồ sơ của tôi ở Sở Cảnh sát. Các ngài có biết cái hồ sơ đó nói gì không? Nó sẽ nói rằng sau khi ra khỏi tù tôi bị rơi vào cảnh khốn cùng đáng xấu hổ và tôi tệ ở Paris, cái cảnh khốn cùng mà khi đó tôi không ăn mà chỉ uống bét nhè, không có giầy dép để đi mà suốt ngày ngồi gục bên những bàn rượu tồi tàn, cảnh khốn cùng kéo lê tôi đến trước cổng những nơi vũ hội có rào chắn, những nơi lúc nhúc người trong những căn phòng ô nhục và những kẻ mưu đồ ăn cắp trong những cái lò phấn son. Cái hồ sơ của tôi, sẽ nói cho các ngài biết, rằng tôi đã sống giữa đám ma cô, lũ trộm cắp, đĩ điếm... Và thật là như thế. Ông Xã trưởng đáng kính xã Orcival rụng rời. Ông nghĩ thầm: “Chúa ơi! Thật là tên kẻ cướp táo tợn và trơ tráo. Thử nghĩ xem một ngày nào đó người ta dẫn nó đến nhà mình giới thiệu với tư cách một gia nhân, một kẻ khốn nạn như thế!” Ông Thẩm phán điều tra cũng im lặng không nói gì. Ông cảm thấy rõ rằng tay Guespin này đang rơi vào một trong những thời điểm hiếm hoi mà dưới sức ép không cưỡng lại được của cơn say, giống như kẻ bất cần, sẽ để lộ những ngóc ngách sâu xa nhất trong ý nghĩ và sẽ bị lộ tẩy hoàn toàn. - Nhưng có một điều, - Anh chàng khốn nạn nói tiếp - mà hồ sơ của tôi sẽ không nói cho các ngài biết. Nó không nói cho các ngài biết rằng, vì kinh tởm cuộc sống hèn hạ này mà tôi đã tìm cách thoát khỏi nó, đến mức định tự tử. Nó sẽ không nói cho các ngài biết gì về những nỗ lực, những cố gắng tuyệt vọng, sự ăn năn hối lỗi của tôi, về những lần tôi lại sa ngã. Đó là một gánh nặng nghiệt ngã, thế đấy, như cái quá khứ của tôi. Cuối cùng tôi đã lấy lại được tư cách của mình. Tôi khéo tay và người ta cho tôi việc làm. Tôi lần lượt làm ở bốn nơi, cho đến một ngày, thông qua một ông chủ cũ, tôi đã vào được nơi này. Tôi thấy ở đây sống được. Đúng là tôi thường tiêu hết trước tiền lương... Các ngài muốn thế nào, tôi vẫn chưa thể làm lại hoàn toàn cuộc đời. Nhưng các ngài thử hỏi xem có bao giờ người ta than phiền gì về tôi không... Phải công nhận rằng trong số những tên tội phạm khôn ngoan nhất, thì những kẻ đã có chút giáo dục, những kẻ đã được hưởng cuộc sống sung túc nào đó, sẽ là những kẻ đáng sợ nhất. Với tư cách này, Guespin tỏ ra là kẻ cực kì nguy hiểm. Đó là những gì mọi người xung quanh nghĩ, trong khi đó Guespin, trở nên kiệt sức sau khi vừa cố gắng, đang lau mồ hôi chảy ròng trên trán. Ông Domini không quên kế hoạch tấn công của mình. Ông nói: - Mọi chuyện rất tuyệt vời. Chúng ta sẽ trở lại đúng lúc và đúng chỗ với những lời tự thú của anh. Giờ là lúc dành cho việc anh đã qua đêm thế nào và hãy giải thích nguồn gốc số tiền anh đang có. Thái độ nhấn mạnh của ông Thẩm phán khiến Guespin tức điên lên. Anh đáp: - A! Thế ông muốn tôi nói gì? Sự thật hả? Ông sẽ không tin đâu. Tốt hơn tôi nên im lặng. Số mệnh tôi là thế rồi. - Vì quyền lợi của anh, - Ông Thẩm phán nói tiếp - tôi phải báo trước rằng nếu anh cứ khăng khăng không chịu trả lời thì lời buộc tội đối với anh sẽ nặng đến mức tôi buộc phải cho bắt giam anh như một bị can về tội sát hại ông bà bá tước Trémorel. Lời đe dọa có vẻ có tác động không ngờ với Guest. Hai hàng nước mắt ứa ra trên đôi mắt nãy giờ vẫn ráo hoảnh và long lanh, lặng lẽ chảy dài trên hai gò má. Nghị lực đã cạn, anh quỳ thụp xuống kêu lên: - Làm ơn, tôi van ngài, thưa ngài, đừng bắt tôi, thề với ngài là tôi vô tội, tôi xin thề. - Vậy nói đi! - Tùy ngài thôi. - Anh nói rồi đứng dậy. Nhưng đột nhiên anh đổi giọng kêu lên - Không! - Anh giậm chân như điên dại - Không, tôi không nói, tôi không thể nói được. Người duy nhất có thể cứu tôi là ngài bá tước thì ông ấy đã chết rồi. Tôi vô tội, nhưng nếu không tìm ra thủ phạm thì tôi đi đứt. Mọi thứ đang chống lại tôi, tôi cảm thấy rõ như thế. Còn bây giờ, thôi, các ngài muốn làm gì tôi thì làm, tôi không nói thêm gì nữa. Thái độ cương quyết của Guespin, được khẳng định bởi ánh mắt anh ta, không hề làm cho ông Thẩm phán điều tra ngạc nhiên. Ông bình thản nói: - Anh sẽ nghĩ lại, có điều khi đó, tôi e là mình sẽ không còn tin vào lời anh nói như bây giờ nữa. Có thể là, - Ông Thẩm phán nhấn mạnh từng chữ để chúng có thêm giá trị và khơi dậy trong mắt kẻ bị can niềm hy vọng được tha thứ - anh chỉ có một phần gián tiếp dính đến án mạng này và trong trường hợp đó... - Chẳng có gián tiếp hay trực tiếp gì cả. - Guespin ngắt lời rồi nói với giọng quyết liệt - Thật khốn nạn! Vô tội mà không thể tự bào chữa! - Nếu thế, - Ông Domini nói tiếp - chắc anh cũng thấy chẳng có gì khác nếu được đứng trước cái xác của bà Trémorel chứ? - Anh chàng bị can bình tĩnh đón nhận lời đe dọa này. Người ta dẫn anh sang căn phòng có đặt xác bà bá tước. Tại đó, anh xem xét cái xác với con mắt lạnh lùng và bình tĩnh. Anh chỉ nói: - Bà ấy sướng hơn tôi. Bà ấy chết rồi, không phải chịu đau khổ nữa, còn tôi chẳng phạm tội mà người ta cứ buộc cho tôi cái tội giết bà ấy. Ông Domini có thêm lần nữa, nói: - Thôi nào anh Guespin, nếu bằng cách nào đó anh biết gì về án mạng này thì hãy nói cho tôi biết. Nếu anh biết bọn sát nhân thì nói tên chúng ra. Hãy cố gắng để được hưởng lượng khoan hồng nào đó bằng thái độ. thành khẩn và hối cải của anh. Với một cử chỉ nhẫn nhục của những kẻ bất hạnh đã chấp nhận cam chịu, Guespin đáp: Với tất cả những gì linh thiêng nhất trên đời, tôi thề là tôi vô tội. Thế nhưng, tôi thấy rõ nếu không tìm ra thủ phạm thì người ta sẽ bắt tôi thôi. Niềm tin của ông Domini đã hình thành và nó đang dần được củng cố. Một cuộc điều tra không phải công việc khó khăn như người ta tưởng tượng. Điểm mấu chốt khó khăn là ngay từ đầu phải nắm được đầu mối trong mớ bòng bong rất rối rắm, từ đó dẫn đến sự thật qua một mớ rắc rối những thủ đoạn, những trò giấu giếm và dối trá của kẻ phạm tội. Cái đầu mối quý báu này, ông Domini tin chắc mình đã nắm được nó. Chỉ cần giữ được một trong những tên sát nhân là ông biết chắc sẽ bắt được những tên còn lại. Nhà tù của chúng ta, nơi tù nhân được ăn ngon và ngủ giường êm, cũng có thể bắt người ta mở mồm chẳng kém gì mọi kìm kẹp thời trung cổ. Ông Thẩm phán điều tra giao Guespin cho viên cai đội hiến binh và ra lệnh không được rời mắt khỏi anh ta. Sau đó ông cho gọi lão Bợm Nhậu. Lão này không thuộc những người hay bối rối. Đã bao lần lão có chuyện với luật pháp rồi, nên giờ có thêm một cuộc hỏi cung nữa cũng chả nhằm nhò gì. Cha Plantat nhận thấy lão có vẻ khó chịu hơn là lo lắng. - Người này được đánh giá rất xấu trong xã hội. - Ông Xã trưởng rỉ tai ông Thẩm phán điều tra. Lão Bợm Nhậu nghe được câu nhận xét và mỉm cười. Bị ông Thẩm phán điều tra hỏi cung, lão kể rất rõ ràng, rành mạch, đồng thời rất chính xác về câu chuyện diễn ra vào sáng sớm, về ý kiến phản đối của lão và về chuyện cậu con trai cứ khăng khăng đòi đi báo chính quyền. Lão giải thích những lý do thận trọng khiến họ phải nói dối. Khi đó thì những chuyện về tiền án tiền sự lại xuất hiện. - Tôi tốt đẹp hơn nhiều so với “tiếng tăm” của tôi, thật đấy! - Lão Bợm Nhậu khẳng định - Còn ổi người không được như tôi đâu. Tôi biết có người, đúng hơn là có nhiều người, - Lão nhìn ông Courtois - mà, nếu tôi muốn ba hoa nói ra... Người ta sẽ được chứng kiến nhiều thứ khi phải chạy suốt đêm... Nhưng thôi, nói thế là đủ rồi. Người ta cố bắt lão giải thích những lời bóng gió đó. Nhưng vô ích. Khi người ta hỏi rằng lão đã qua đêm ở đâu và như thế nào thì lão trả lời là, lão ra khỏi quán rượu lúc 10 giờ, đi đặt mấy cái bẫy trong rừng Mauprévoir và vào quãng 1 giờ sáng, lão quay về nhà ngủ. - Chứng cứ là, - Lão nói thêm mấy cái bẫy chắc vẫn còn đó và có thể có mấy con thú mắc bẫy rồi cũng nên. - Ông có nhân chứng nào khẳng định cho việc ông đã về nhà ngủ lúc 1 giờ không? - Ông Xã trưởng hỏi khi nghĩ đến chiếc đồng hồ quả lắc trong lâu đài bị chết lúc 3 giờ 20 phút. - Nói thật là tôi chẳng biết, - Lão chuyên hái trộm dửng dưng đáp - thậm chí rất có thể thằng con của tôi cũng không biết khi tôi lên giường nằm. Và, vì ông Thẩm phán điều tra đang suy nghĩ nên lão nói tiếp: - Tôi đoán ông sẽ bắt tôi vào tù cho đến khi tìm ra thủ phạm. Nếu vào mùa đông thì tôi chẳng kêu ca mấy, trong tù càng tốt vì được sưởi ấm. Nhưng giờ đang mùa săn bắn thì thật phiền toái. Dù sao thì đây cũng là một bài học tốt cho thằng Philippe con tôi, chuyện này sẽ dạy cho nó rằng mình sẽ phải trả giá ra sao cho việc làm ơn bọn trưởng giả. - Thôi đủ rồi! - Ông Domini nghiêm khắc ngắt lời - Ông có quen anh Guespin không? Cái tên này làm tắt ngấm cơn hào hứng ranh mãnh của lão Bợm Nhậu, trong đôi mắt xám ti hí của lão hiện lên nỗi lo lắng đặc biệt. Lão trả lời với giọng rất lúng túng: - Tất nhiên, ngài biết đấy, chúng tôi đã có một số lần vừa ngồi chơi bài vừa nhấm nháp cà phê. Vẻ lo lắng của lão đập vào mắt bốn người nào nghe. Đặc biệt Cha Plantat có vẻ vô cùng ngạc nhiên Lão Bợm Nhậu là người khôn ngoan đến nỗi không thể không nhận ra ấn tượng đó. Lão thốt lên: - Thế đấy! Thôi kệ! Tôi sẽ nói hết cho các ngài nghe ai cũng có phần, đúng không? Nếu tay Guespin đã làm chuyện đó thì chuyện của tôi cũng chẳng làm hắn xấu hơn, tôi cũng chẳng vì thế mà tồi tệ hơn. Tôi quen tay này vì anh ta lấy cho tôi dâu tây và nho trong nhà kính của ông bá tước, tôi nghĩ anh ta ăn cắp, chuyện đó chẳng hay ho gì, chúng tôi đã ăn chia tiền kiếm được. Cha Plantat không kìm được một tiếng “ồ!” thỏa mãn như muốn nói: “Tốt quá! Tôi biết mà!” Khi lão Bơm Nhậu nói người ta sẽ bắt lão vào tù thì quả nhiên lão đã không nhầm. Ông Thẩm phán điều tra giữ nguyên lệnh bắt giam lão. Giờ đến lượt Philippe. Anh chàng tội nghiệp này đang ở trong một tình trạng thật đáng thương. Anh khóc lóc thảm thiết và không ngừng kêu than: - Sao lại buộc cho tôi cái tội ghê gớm này! Bị hỏi cung, anh vừa thành thực nói hết sự thật vừa xin lỗi vì đã dám nhảy qua hào để xâm nhập vào khuôn viên lâu đài. Khi được hỏi bố anh về nhà lúc mấy giờ, anh đáp rằng mình không biết gì, anh đi ngủ từ lúc 9 giờ tối và làm một giấc đến sáng. - Anh nói có quen Guespin vì có thấy anh ta đến nhà nhiều lần. Anh biết rằng bố anh có chuyện làm ăn với anh chàng làm vườn của ông Trémorel, nhưng mấy chuyện khác thì anh không biết. Vả lại anh chỉ nói chuyện với Guespin bốn lần. Ông Thẩm phán điều tra ra lệnh thả Philippe, không phải vì ông hoàn toàn tin vào sự vô tội của anh ta, mà bởi nếu án mạng này có nhiều kẻ tòng phạm, thì nên thả một tên ra, ta sẽ theo dõi hắn để tóm bọn còn lại. Trong khi đó, thi thể của ông bá tước vẫn chưa tìm thấy. Người ta đã lùng sục kĩ càng khắp khuôn viên. xem xét từng bụi cây bãi cỏ mà chẳng thấy gì. - Chắc là chúng đã ném xác xuống sông. - Ông Xã trưởng nói bóng gió. Đó cũng là ý kiến của ông Domini. Những người đánh cá được triệu tập đến để thăm dò sông Seine, bắt đầu từ đoạn phía trên một chút cách chỗ người ta tìm thấy thi thể bà bá tước. Khi ấy đã gần 3 giờ chiều. Cha Plantat nhắc nhở rằng rất có thể cả ngày mọi người không được ăn gì. Tốt nhất họ hãy tranh thủ ăn cái gì đó nếu muốn tiếp tục công việc điều tra đến chập tối. Lời nhắc nhở đến những nhu cầu trần tục đáng thương đó khiến ông Xã trưởng xã Orcival hết sức khó chịu, thậm chí phần nào làm ông thấy bị hạ nhục với tư cách là một con người và một quan chức. Tuy nhiên vì mọi người ủng hộ Cha Plantat, nên ông Courtois phải chiều theo. Dù sao có trời mới biết liệu ông có đói tí nào không. Thế là, xung quanh cái bàn vẫn còn ẩm ướt rượu vang do bọn sát nhân đổ tràn ra, ông Thẩm phán điều tra cùng Cha Plantat, ông bác sĩ và ông Xã trưởng cùng ngồi ăn vội bữa ăn nhẹ tự ứng biến. Chương 5 Cầu thang gác đã bị ngăn lại cấm không cho ai lên, còn tiền sảnh thì để tự do. Người ta nghe thấy những tiếng đi lại, tiếng giậm chân, tiếng thì thầm tắc nghẹn, rối, át lên trên tất cả những tiếng rì rầm đó là tiếng la hét và chửi mắng của mấy anh lính hiến binh đang cố ngăn cản đám đông. Thỉnh thoảng có một bộ mặt hốt hoảng ló vào qua cánh cửa hé mở của phòng ăn. Đó là một kẻ tò mò bạo dạn muốn ngó xem “người của tòa” ăn uống thế nào và cố bắt lấy vài câu nói để ra kể cho mọi người hòng được hãnh diện. Nhưng những “người của tòa” - như cách nói ở Orcival này - giữ không nói điều gì nghiêm trọng trong lúc cửa phòng mở và với sự có mặt của anh gia nhân phục vụ. Bị tác động mạnh bởi tội ác ghê tởm này và nỗi lo lắng trước sự bí hiểm đang bao phủ vụ án, mọi người đều khép mình che giấu cảm xúc. Về phần mình, mỗi người đều xem xét khả năng nghi ngờ và giữ kín suy nghĩ. Vừa ăn, ông Thẩm phán điều tra vừa sắp xếp lại trật tự các ghi chép trong sổ tay, đánh số trang giấy, đánh dấu một số câu trả lời của những người bị buộc tội mà ông cho là đặc biệt có ý nghĩa và chắc hẳn chúng sẽ làm thành cơ sở cho báo cáo của ông. Có lẽ ông là người ít băn khoăn nhất trong bốn người đang ngồi quanh bữa ăn tang tóc này. Ông thấy tội ác này không phải loại tội ác có thể làm cho các vị Thẩm phán điều tra phải thức trắng đêm. Ông đã thấy rõ ràng động cơ khủng khiếp của tội ác, ông đang giam giữ lão Bợm Nhậu và anh chàng Guespin, hai kẻ phạm tội hoặc ít nhất là những kẻ tòng phạm. Ngồi bên nhau, Cha Plantat và ông bác sĩ Gendron đang trao đổi về căn bệnh đã cướp đi tính mạng ông Sauvresy. Còn ông Courtois thì dòng tai nghe ngóng những tiếng ồn ào bên ngoài. Cái tin về một vụ án mạng kép đã lan truyền khắp vùng, đám đông đang dần dần tụ tập đến xem. Họ tràn vào đầy ứ trong sân lâu đài và càng ngày càng trở nên táo tợn, lấn át cả lính hiến binh. Hơn lúc nào hết, giờ là lúc ông Xã trưởng xã Orcival phải xuất đầu lộ diện. Ông nói với mọi người: - Tôi phải ra nói chuyện phải trái với đám đông ngoài kia để họ rút lui. Ngay lập tức ông lau miệng, vứt chiếc khăn ăn cuộn tròn lên bàn rồi đi ra. Ông ra thật đúng lúc. Trước đó ông không có nghe thấy những tiếng ra lệnh của viên cai đội nữa. Vài kẻ tò mò có vẻ hung dữ hơn đã xoay chuyển tình hình và đang tìm cách mở cánh cửa thông ra vườn. Sự xuất hiện của ông Xã trưởng có lẽ chẳng làm đám đông e ngại là bao, nhưng đã tiếp thêm sức mạnh cho đám lính hiến binh, tiền sảnh được giải thoát. Tuy nhiên người ta nghe thấy nhiều tiếng rì rầm phản đối hành vi độc đoán này. Thật là dịp may tuyệt vời cho một bài diễn thuyết! Và ông Courtois đã không bỏ lỡ. Ông dự định rằng tài hùng biện của mình, được trời phú cho hiệu lực như những gáo nước lạnh, sẽ làm dịu cơn sôi sục lạ thường của những người dân ngoan ngoãn. Thế là ông bước ra bậc thềm, tay trái nắm mép áo gi-lê, tay phải khoa lên làm điệu bộ với một thái độ kiêu hãnh và bình thản giống như tư thế dành cho các nhà hùng biện tài ba. Đó cũng là tư thế trước hội đồng của ông, khi gặp phải sự phản ứng bất ngờ ông thường biết cách làm cho ý chí của mình thắng thế và bắt những kẻ ương ngạnh phải quy phục. Đó là tư thế giống như trong tác phẩm Lịch sử thời Trung hưng khi người ta mô tả nhân vật Manuel vào thời điểm của câu nói nổi tiếng: “Hãy bắt người này cho ta!”. Bài diễn văn của ông loáng thoáng vọng đến phòng ăn. Tùy theo lúc ông quay sang phải hoặc sang trái mà giọng ông nghe lúc rõ lúc mất trong không trung. Ông nói: - Thưa các ngài và mọi người dân yêu quý của tôi, một tội ác chưa từng thấy trong lịch sử Orcival vừa làm vấy máu cái xã yên bình và lương thiện của chúng ta. Tôi xin chia sẻ nỗi đau với mọi người. Thế nên tôi thông cảm và hiểu cảm xúc lo lắng và thái độ phẫn nộ chính đáng của mọi người. Hỡi các bạn, cũng như các bạn, hơn cả các bạn, tôi rất yêu mến và kính trọng ngài bá tước Trémorel cao quý và người vợ đức hạnh của ông, họ đều là những người che chở cho vùng này. Chúng ta cùng khóc thương cho họ… - Tôi đảm bảo với ngài - Ông bác sĩ Gendron nói với Cha Plantat - rằng những triệu chứng mà ngài biết không phải là hiếm gặp sau bệnh viêm màng phổi. Người ta cứ tưởng đã khỏi bệnh, rồi người ta ngừng uống thuốc, thật sai lầm. Từ tình trạng ác tính, viêm màng phổi chuyển sang mãn tính rồi biến chứng thành viêm phổi và lao phổi - Nhưng sẽ chẳng có gì biện minh được, - Ngoài kia ông Xã trưởng vẫn tiếp tục bài diễn văn - cho một sự tò mò, mà, bằng những biểu hiện không đúng lúc và ồn ào, đang gây cản trở cho công việc điều tra và dù thế nào đi nữa, cũng gây hại đến sự uy nghiêm của pháp luật đến mức có thể bị trừng phạt. Vì sao phải tụ tập không cần thiết như thế này, vì sao phải la hét om sòm, vì sao phải xì xào, thì thầm bàn tán đoán non đoán già? - Đã có vài cuộc hội chẩn không cho thấy kết luận thuận lợi. - Cha Plantat nói - Ông Sauvresy đã để lộ những cơn đau kì lạ và khác thường. Ông than phiền về những cơn đau rất kì cục, phi lý, đến nỗi làm sai lạc phỏng đoán của những bác sĩ có kinh nghiệm nhất. - Có phải ông R... ở Paris là người đã khám cho ông ấy? - Chính xác. Ông ấy đến thăm bệnh hàng ngày và thường ngủ lại ở lâu đài. Nhiều lần tôi bắt gặp ông ấy lo lắng đi trên con đường lớn của xã, để đi kiểm tra các đơn thuốc ở chỗ ông dược sĩ. - ... Vậy nên, - Ông Courtois đang gào to - xin các vị hãy kiềm chế cơn giận chính đáng của mình, hay tĩnh và đúng mực. - Tất nhiên, - Bác sĩ Gendron nói tiếp - ông dược sĩ của các vị là một người thông minh, nhưng ông có biết, chính ở Orcival này, có một gã còn khôn khéo hơn ông ấy không. Tay này buôn bán thuốc thô và biết cách kiếm tiền, một tay Robelot nào đó... - Gã Robelot thợ nắn xương ấy à? - Đúng rồi. Tôi ngờ rằng gã ta còn khám bệnh và bào chế thuốc lậu trong nhà. Gã rất thông minh. Vả lại chính tôi đã dạy gã. Gã đã từng phụ việc cho tôi 5 năm và cả bây giờ mỗi khi tôi có một trò tế nhị nào đó... Ông bác sĩ ngừng lời vì ngạc nhiên khi thấy sự biến đổi trên nét mặt bình thản của Cha Plantat. - Ồ, ông bạn! - Ông bác sĩ hỏi - Ông làm sao vậy? Ông thấy khó ở à? Ông Thẩm phán điều tra buông tập giấy quay sang nhìn rồi bảo: - Đúng rồi, mặt ngài Thẩm phán hòa giải tái nhợt đi kìa. Nhưng Cha Plantat đã lấy lại diện mạo bình thường. - Không sao đâu, - Ông đáp - hoàn toàn không sao. Với cái dạ dày chết tiệt này, cứ khi nào tôi ăn không đúng bữa... Đến lúc kết thúc bài diễn văn, ông Courtois cất cao giọng và thực sự đang lạm dụng quyền hạn của mình. Ông nói: -... Vậy nên, các bạn hãy trở về căn nhà yên bình của mình, về làm việc trở lại đi. Đừng Sợ, pháp luật sẽ bảo vệ các bạn. Pháp luật đang bắt đầu công việc của mình rồi, hai trong số những kẻ gây ra tội ác ghê tởm kia đã bị bắt giữ và chúng tôi đã lần ra được dấu vết của những kẻ tòng phạm. - Trong số tất cả các gia nhân hiện tại của lâu đài, - Cha Plantat nhận xét - không một ai quen biết ông Sauvresy. Toàn bộ lâu đài đã dần dần thay mới. - Thực tế là, - Ông bác sĩ đáp lại - nhìn thấy các gia nhân cũ chỉ khiến ông Trémorel buồn phiền mà thôi... Ông bị ngắt lời bởi ông Xã trưởng vừa bước vào với con mắt sáng rực, bộ mặt lanh lợi, vừa đưa tay lau trán. - Tôi đã làm cho đám người này hiểu cái thái độ tò mò bất lịch sự của họ, - Ông Xã trưởng nói - tất cả đã về rồi. Anh cai đội cho tôi biết đám người kia định cho anh chàng Philippe Bertaud một trận; dư luận đám đông không hề sai lạc... Nghe thấy tiếng cửa mở, ông quay đầu lại và thấy một người bước vào mà không thể nhìn rõ mặt vì người đó cúi gập đầu chào, khuỷu tay khuynh sang hai bên, tay áp chặt chiếc mũ vào ngực. - Anh muốn gì? - Ông Courtois xẵng giọng hỏi - Anh có quyền gì mà dám bước chân vào đây? Anh là ai? Người đó đứng thẳng lên đáp lời với nụ cười niềm nở nhất: - Tôi là Lecoq. Và nhận thấy cái tên của mình chẳng cho mọi người biết điều gì, ông ta nói thêm: - Lecoq, bên an ninh, được Sở Cảnh sát cử đến, theo yêu cầu gửi qua đường điện tín, để giải quyết vụ việc đang được nói đến. Lời tuyên bố làm tất cả mọi người, kể cả ông Thẩm phán điều tra, vô cùng sửng sốt. Ở Pháp, theo thông lệ thì mỗi trạng thái có một vẻ ngoài đặc biệt, giống như những tấm biểu hiệu nhìn qua là biết chúng muốn nói gì. Bất cứ ngành nghề nào cũng có một kiểu quy ước. Và khi Nữ hoàng Dư luận đã chọn một kiểu nào thì không muốn chấp nhận từ bỏ. Thế nào là hình ảnh một ông bác sĩ? Đó là người mặc toàn đồ đen với cà-vạt trắng. Còn một ông có cái bụng to đeo xúng xính những đồ toòng teng bằng vàng chỉ có thể là ông chủ nhà băng. Người ta cũng nói rằng một nghệ sĩ phải là một người vui nhộn hoạt bát, đội mũ chóp nhọn, mặc áo vét nhung và áo sơ mi có măng-sét to. Theo quy luật này thì một viên chức ở phố Jerusalem chắc phải có con mắt đầy vẻ phản trắc, có gì đó mờ ám trong con người anh ta, với vẻ mặt cáu bẩn và đeo đồ trang sức giả. Một chủ quán đần độn nhất cũng tin rằng anh ta có thể đánh hơi thấy một viên cảnh sát cách xa hai mươi bước: đó là người đàn ông cao to để ria mép, đội mũ phớt sáng loáng, cổ được bao chặt trong chiếc cổ áo lông cứng, mặc chiếc áo đuôi tôm màu đen đã sờn, được cài khuy cẩn thận mà bên trong hoàn toàn không mặc sơ mi. Đó là mẫu cảnh sát. Khốn nỗi, cứ theo lẽ này thì ông Lecoq, khi bước vào phòng ăn của tòa lâu đài Valfeuillu, chắc chắn không có cái vẻ của một viên cảnh sát. Sự thực là Lecoq có dáng vẻ mà ông thích. Bạn bè cam đoan rằng ông có một diện mạo riêng mà ông chỉ lấy lại nó khi về nhà, rằng ông giữ diện mạo đó khi ở mình trong nhà, bên chiếc lò sưởi với đôi dép đi trong nhà, nhưng việc này không được chứng minh rõ ràng. Có một điều chắc chắn rằng chiếc mặt nạ linh hoạt của ông luôn sẵn sàng biến hóa thành các hình dạng kì lạ, có thể nói ông có khả năng tùy thích nhào nặn bộ mặt mình giống như một nhà điêu khắc nhào sáp để nặn tượng. Ông có thể làm biến đổi hoàn toàn bản thân, kể cả đôi mắt, điều mà người thầy đồng thời là đối thủ của ông - Gévrol không bao giờ làm được. - Như vậy, - Ông Thẩm phán điều tra khẳng định lại - ông là người mà ngài Cảnh sát trưởng cử đến giúp tôi điều tra vụ án? - Chính tôi, thưa ngài! - Ông Lecoq đáp - Tôi đang sẵn sàng hầu ngài. - Không, vị nhân viên an ninh của ngài Cảnh sát trưởng Paris trông chẳng ra cái vẻ gì, nên việc ông Domini muốn khẳng định lại cũng có thể thông cảm được. - Hôm nay ông Lecoq chưng diện một mái tóc đẹp chải dẹt có màu khó xác định, có thể được gọi là màu vàng Paris, được rẽ ngôi sang hai bên điệu đà kiêu kỳ. Bộ râu quai nón cùng màu tóc ôm lấy khuôn mặt tái xanh phì mỡ. Đôi mắt to nằm ngang mặt có vẻ bị đóng khung trong cái viền đỏ. Nụ cười ngây thơ nở trên đôi môi dày đang hé mở để lộ hàm răng ngả màu vàng chắc khỏe. Mặt khác, vẻ mặt ông chẳng thể hiện điều gì rõ rệt. Đó là sự pha trộn gần như bằng nhau giữa tính rụt rè với tính tự phụ và thái độ thỏa mãn. Vì không thể nhận thấy chút thông minh nào của chủ nhân bộ mặt kia, nên sau khi ngắm nhìn, người ta liền đi tìm khiếm khuyết của nó. Những người bán hàng xén, sau 30 năm kiếm tiền với mớ kim chỉ và về nghỉ với 1.800 livre lợi tức, chắc cũng có bộ mặt vô hại này. Quần áo của ông cũng mờ xỉn như thân hình ông vậy. Chiếc áo đuôi tôm của ông cũng giống như mọi áo đuôi tôm khác. Quần của ông cũng giống như mọi cái quần khác. Một sợi dây cước, cũng có màu hoe vàng như bộ râu quai nón của ông, buộc một chiếc đồng hồ lớn bằng bạc làm phồng túi bên trái áo gi-lê. Ông vừa nói vừa mở một chiếc hộp bằng sừng trong suốt đựng đầy kẹo bột nhào, kẹo cam thảo, kẹo thục quỳ, kẹo táo và nó được trang trí chân dung một người đàn bà rất xấu nhưng ăn mặc rất đúng mực, có lẽ là chân dung của một người đã khuất. Và cứ theo những sự ngẫu nhiên của cuộc nói chuyện thì có thể suy ra ông hài lòng hay phật ý. Đó là lúc ông Lecoq nuốt chửng một chiếc kẹo bột hoặc ngắm nhìn bức chân dung bằng ánh mắt thơ mộng như đang đọc một bài thơ. Sau khi quan sát kĩ con người này, ông Thẩm phán điều tra nhún vai rồi nói: - Rốt cục thì, - Cái “rốt cục” này phù hợp với suy nghĩ thầm kín của ông - vì ông đã đến đây rồi, chúng tôi sẽ tường trình cho ông biết những gì đã xảy ra. -Ồ không cần đâu, - Ông Lecoq đáp với một vẻ hơi tự phụ - hoàn toàn không cần. - Dù sao thì ông rất nên biết… - Sao? Biết cái gì cơ, thưa ngài Thẩm phán điều tra? - Vị nhân viên an ninh ngắt lời - Tôi đã biết hết rồi Chúng ta đang nói về vụ án sát hại vì động cơ ăn cắp và chúng ta xuất phát từ đó. Sau đó chúng ta lên cầu thang nhìn thấy cửa bị phá, những căn phòng bị xáo trộn. Xác bà bá tước đã được tìm thấy, nhưng xác ông bá tước thì không. Rồi còn gì nữa? Lão Bợm Nhậu bị bắt, đó là một kẻ vô lại xấu xa, dù sao đi nữa lão cũng đáng bị ngồi tù một thời gian. Guespin quay về trong tình trạng say xỉn. - Ôi! Anh ta phải chịu những lời buộc tội nghiêm khắc, anh chàng Guespin này. - Tiền sử của anh ta thật đáng thương: người ta không biết anh ta đã qua đêm ở đâu, anh ta từ chối trả lời nhưng không đưa ra được bằng chứng ngoại phạm... Thật nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Cha Plantat quan sát vị nhân viên an ninh hiền lành với sự thích thú lộ rõ. Những người khác không giấu nổi vẻ sửng sốt. - Vậy ai đã cung cấp thông tin cho ông? - Ông Thẩm phán điều tra hỏi. - Ờ, mỗi người một ít. - Nhưng ở đâu? - Ở đây, tôi đã đến được hơn hai tiếng rồi, còn đứng nghe cả bài diễn văn của ông Xã trưởng. - Rồi, hài lòng vì đã gây ấn tượng, ông Lecoq nuốt một chiếc kẹo bột. - Sao? - Ông Domini nói với giọng phật ý - Chẳng lẽ ông không biết tôi đang đợi ông ư? - Xin lỗi, - Vị nhân viên an ninh đáp - thế nhưng tôi vẫn hy vọng ngài sẽ rất muốn hiểu tôi. Đó là vì việc điều tra hiện trường không thể thiếu được, cần phải nhìn tận mắt, phải chuẩn bị mưu kế. Tôi phải thu thập tin đồn, ý kiến, như người ta nói, để có thể nghi ngờ. - Tất cả những cái đó, - Ông Domini nghiêm khắc tuyên bố - không biện minh được việc ông đến muộn. Ông Lecoq âu yếm ngắm nhìn bức chân dung rồi đáp: - Ngài Thẩm phán cứ việc đến phố Jerusalem hỏi về tôi, người ta sẽ nói cho ngài biết rằng tôi biết nghề của mình. Điều quan trọng là, để làm tốt một cuộc điều tra, phải để cho mình hoàn toàn không bị nhận ra. Như thường lệ, thật là dở khi người ta không ưa cảnh sát. Người ta mà biết tôi là ai và đến đây làm gì thì, nếu tôi ra ngoài kia, họ sẽ chẳng nói gì với tôi nữa, hoặc nếu tôi hỏi cung thì họ sẽ nói dối, sẽ nghi ngờ tôi, sẽ e ngại không nói gì. . - Điều đó khá đúng. - Ông Plantat ủng hộ vị nhân viên an ninh. - Như vậy, - Ông Lecoq nói tiếp - khi người ta nói với tôi ở ngoài kia chuyện tỉnh lẻ, tôi phải mang bộ mặt tỉnh lẻ. Nhìn thấy tôi đến, mọi người sẽ tự nhủ: “Một anh chàng tò mò kìa, nhưng hắn không phải người xấu.” Khi đó tôi có thể luồn lách, len lỏi, nghe, nói, tôi làm cho người ta nói! Khi tôi hỏi thì người ta thật thà trả lời, tôi tìm hiểu tình hình, thu thập chứng cứ, người ta không e ngại gì. Những con người xứ Orcival này thật tuyệt vời. Tôi còn kết bạn với mấy người và họ đã mời tôi tối nay ăn cơm nữa đấy. Ông Domini không ưa cảnh sát và không hề che giấu điều này. Ông chịu đựng hợp tác hơn là chấp nhận, vì ông không thể tránh được. Với sự thẳng thắn, ông lên án những phương cách mà đôi khi cảnh sát buộc phải sử dụng, trong khi ông vẫn công nhận sự cần thiết của các phương cách đó. Trong khi nghe ông Lecoq nói, ông không thể không đồng ý, thế nhưng vẫn nhìn bằng con mắt không chút thân tình. Ông nói xẵng: - Nếu ông đã biết nhiều như thế rồi thì ta hãy đi xem xét hiện trường vụ án. - Xin tuân lệnh ngài Thẩm phán điều tra. - Vị nhân viên an ninh đáp ngắn gọn. Và khi mọi người đứng cả dậy, ông Lecoq lợi dụng dịp này bước đến bên Cha Plantat và chìa hộp kẹo: - Ông Thẩm phán hòa giải có dùng không? Cha Plantat không nghĩ là phải từ chối, liền nuốt một mẩu kẹo táo và vẻ thanh thản lại hiện ra trên nét mặt vị nhân viên an ninh. Giống như tất cả các kép hát có tài, ông cần có một công chúng có thiện cảm và ông đang mơ hồ cảm thấy mình sẽ phải làm việc trước con mắt của một kẻ nghiệp dư. Chương 6 Ông Lecoq tiến lên trước để là người đầu tiên bước tới cầu thang và những vết máu đập ngay vào mắt. Ông phẫn nộ kêu lên mỗi khi thấy một vệt máu: - Ôi, ôi, ôi, thật khốn nạn! Ông Courtois rất xúc động khi thấy một thái độ nhạy cảm như thế ở một viên cảnh sát. Ông tưởng rằng lời than đó dành cho nạn nhân. Nhưng ông nhầm, bởi lẽ ông Lecoq vừa leo cầu thang vừa nói tiếp: - Quân khốn nạn! Không nên vấy bẩn trong một tòa nhà như thế này, hoặc ít ra cũng phải lau đi. Người ta còn phải đề phòng chứ, ôi thật quái quỷ! Lên đến lầu một, đứng trước cửa căn phòng khách dẫn vào phòng ngủ, trước khi bước vào, ông Lecoq dừng lại xem xét kĩ địa thế của căn phòng. Sau khi đã thấy rõ những gì muốn thấy, ông bước vào phòng, nói: - Nào! Ta không cần các thủ tục gì nữa." - Nhưng tôi thấy, - Ông Thẩm phán điều tra nhận xét - rằng có lẽ chúng tôi đã có đủ các yếu tố điều tra để tạo thuận lợi đặc biệt cho công việc của ông. Rõ ràng tay Guespin này, nếu không phải tòng phạm thì ít nhất hắn cũng biết vụ này. Ông Lecoq liếc nhìn bức chân dung trên chiếc hộp kẹo. Còn hơn cả một cái nhìn, đó là sự trao gửi một điều tâm sự. Rõ ràng ông đang nói chuyện với người đàn bà đã khuất điều mà ông không dám nói to. - Tôi biết rõ, - Ông nói tiếp - rằng Guespin đang liên lụy một cách tai hại. Tại sao anh ta lại không nói ra mình đã qua đêm ở đâu? Mặt khác, dư luận đang chống lại anh ta và tôi, đương nhiên cũng nghi ngờ. Ông đứng một mình giữa phòng. Theo yêu cầu của ông, những người khác dùng ở ngưỡng cửa và đưa con mắt lờ đờ nhìn xung quanh, ông đang cố hiểu cái cảnh lộn xộn gớm ghiếc trong phòng. - Bọn ngu xuẩn! - Ông nói với giọng khó chịu - Một lũ súc sinh tráo trở. Không, sự thực là người ta không làm như thế này. Không có lý do để phải giết người cướp của, đập vỡ mọi thứ nhà người ta. Trộm cướp không phá phách đồ đạc, quái quỷ thật! Mà chúng thường đem theo đồ móc khóa, những móc khóa xinh xắn và rất hữu ích. Đúng là bọn vụng về, ngu dốt!. Đừng nói là... Ông ngừng lời, há hốc mồm nói tiếp: - Ê, có thể chúng không đến nỗi vụng về lắm! Những người chứng kiến cảnh này đang đứng bất động ngoài cửa, theo dõi các động tác của ông với vẻ quan tâm pha lẫn ngạc nhiên - gần như phải nói đó là những thao tác nghiệp vụ của ông Lecoq Quỳ chân xuống tấm thảm sàn, ông đưa bàn tay áp xuống mặt chiếc thảm dày đầy mảnh sứ vỡ. - Còn ẩm ướt, rất ướt, có thể nói, nước chè còn nguyên chưa uống khi chúng đập vỡ tách. - Có thể còn nhiều chè trong bình. - Cha Plantat phản bác. - Tôi biết, - Ông Lecoq đáp - đó chính là điều tôi đang tự nhủ. Theo cách này thì chỗ nước ẩm ướt kia không đủ để cho chúng ta biết chính xác thời điểm xảy ra án mạng. - Những chiếc đồng hồ quả lắc đã cho chúng ta biết, - Ông Courtois kêu lên - thậm chí rất chính xác. - Đúng thế, - Ông Domini đồng tình - trong biên bản, ông Xã trưởng đã giải thích rất rõ rằng chiếc đồng hồ bị chết khi rơi. - À này, - Cha Plantat nói - chính cái thời điểm bị chết của chiếc đồng hồ làm tôi ngạc nhiên. Nó chỉ 3 giờ 20 phút, mà chúng ta biết rằng lúc bị giết bà bá tước ăn mặc hoàn toàn chỉnh tề như ban ngày. Chẳng lẽ bà ấy đứng uống trà lúc 3 giờ sáng? Điều này ít có khả năng lắm. - Tôi cũng thế. - Ông Lecoq nói tiếp - Tôi cũng ngạc nhiên về tình tiết này, chính vì thế vừa rồi tôi đã kêu lên “Không đến nỗi vụng về lắm!” Hơn nữa, ta sẽ thấy rõ ngay thôi. Ngay lập tức, bằng những thao tác vô cùng thận trọng, ông nhấc chiếc đồng hồ lên rồi đặt nó đứng thẳng trên bệ lò sưởi. Kim đồng hồ vẫn chỉ vào 3 giờ 20 phút. - 3 giờ 20 à, - Ông Lecoq vừa lẩm nhẩm vừa lùa miếng kê nhỏ đặt dưới chân đế đồng hồ - quái quỷ thật! Đây không phải là giờ uống trà. Cũng không phải cái giờ này, vào giữa tháng bảy, là lúc vụ sát hại xảy ra. Ông hì hục mở nắp mặt đồng hồ rồi gạt chiếc kim dài đến chỗ 3 giờ rưỡi. Chiếc đồng hồ điểm 11 tiếng, chuông. - May quá! - Ông hân hoan kêu lên - Sự thật là đây! Và, lôi hộp kẹo trong túi ra, ông nuốt chửng một chiếc kẹo thục quỳ rồi nói: - Cái bọn làm trò! Phương pháp kiểm tra đơn giản mà không ai nghĩ tới đang làm mọi người ngạc nhiên. - Đặc biệt là ông Courtois kinh ngạc thán phục. Ông nói với ông bác sĩ: - Xem kìa, cái gã ranh mãnh này có năng khiếu chuyên môn. - “Ergo”, - Ông Lecoq nói từ này bằng tiếng La-tinh - chúng ta không phải đang đối diện với một bọn súc sinh như ban đầu tôi suýt tin như thế, mà với bọn vô lại biết cách nhìn xa hơn mũi dao của chúng. Chúng đã tính sai việc của mình, phải công nhận như thế, nhưng rốt cục chúng đã có tính toán, dấu hiệu chỉ dẫn cho thấy rõ điều đó. Chúng định đánh lạc hướng điều tra bằng cách đánh lừa về thời gian. - Tôi không thấy rõ mục đích của chúng trong chuyện này. - Ông Courtois nói xa xôi. - Tuy nhiên sự việc rất rõ ràng. - Ông Domini đáp: Bọn sát nhân sẽ có lợi gì khi muốn làm người ta tin rằng vụ giết người đã xảy ra sau giờ khởi hành của chuyến tàu cuối cùng đi Paris? Chia tay bạn bè vào lúc 9 giờ ở ga Lyon, tay Guespin có thể có mặt ở đây lúc 10 giờ, giết hại ông bà chủ, cướp tiền rồi trở về Paris bằng chuyến tàu cuối cùng. - Giả thuyết này rất dễ thương. - Cha Plantat phản bác - Nhưng nếu thế thì tại sao Guespin không quay lại với bạn bè chỗ đám cưới nhà ông Wepler ở Batignolles, bằng cách ấy, ở mức độ nào đó anh ta sẽ tạo được chứng cứ ngoại phạm. Từ đầu cuộc điều tra, bác sĩ Gendron vẫn ngồi trên chiếc ghế nguyên vẹn duy nhất trong phòng suy nghĩ về sự khó ở đột ngột đã khiến Cha Plantat tái xanh khi họ nói đến anh chàng thầy thuốc nắn xương Robelot. Những lời giải thích của ông Thẩm phán điều tra kéo ông ra khỏi dòng suy tư. Ông đứng lên nói: - Còn một việc khác nữa, việc làm đồng hồ chạy trước này rất có lợi cho Guespin và có thể có hại cho kẻ tòng phạm là lão Bợm Nhậu. - Nhưng, - Ông Domini đáp - rất có thể lão Bợm Nhậu chưa hề được tra khảo. Về phần anh chàng Guespin, có thể anh ta có lý do chính đáng để không đến đám cưới. Thái độ mờ ám của anh ta, sau một tội ác như vậy, có thể làm hại cho anh ta hơn sự vắng mặt ở đám cưới. Bản thân ông Lecoq chưa tính đến việc phát biểu gì thêm. Giống như một bác sĩ bên giường bệnh, ông muốn tin chắc vào phán đoán của mình. Ông quay lại chỗ lò sưởi và một lần nữa di chuyển những chiếc kim đồng hồ Nó lần lượt đổ chuông 11 giờ rưỡi, rồi giữa đêm, rồi 12. giờ rưỡi và 1 giờ. Vừa làm ông vừa lẩm bẩm: - Đúng là lũ học việc, bọn kẻ cướp nghiệp dư này Người ta tưởng là chúng láu cá, nhưng chúng chưa nghĩ hết. Chúng gạt kim đồng hồ, nhưng lại quên không làm khớp cho chuông đổ đúng giờ. Thế là xuất hiện một gã bên an ninh, một con khỉ già giỏi bắt chước và âm mưu bị phát hiện. Ông Domini và Cha Plantat im lặng không nói gì. Ông Lecoq trở lại chỗ họ rồi nói: - Thưa ngài Thẩm phán, giờ thì tôi biết chắc vụ án xảy ra trước 10 giờ rưỡi. - Nếu bộ phận đánh chuông không bị hỏng hóc, - Cha Plantat nhận xét - điều này có thể xảy ra. - Điều vẫn thường xảy ra, - Ông Courtois nghe thấy thể nhấn mạnh - là chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách nhà tôi đang trong tình trạng này không biết từ bao giờ. Ông Lecoq suy nghĩ rồi nói tiếp: - Cũng có thể ngài Thẩm phán hòa giải nói đúng: Tôi đã dự đoán một khả năng xảy ra, nhưng khả năng là điều chưa đủ khi khởi đầu một vụ án, cần phải có sự chắc chắn. Rất may chúng ta còn một phương tiện kiểm nghiệm khác, đó là cái giường, tôi đánh cược nó đã được mở chăn. - Rồi ông quay sang ông xã trưởng: - Thưa ngài, tôi cần một người gia nhân giúp tôi một tay. - Không cần, - Cha Plantat lên tiếng - tôi sẽ giúp ông, như thế nhanh hơn. Ngay lập tức hai người nhấc chiếc đình màn đang phủ trên giường ra đặt xuống sàn, đồng thời tháo bỏ cả mành giường ra. - Thế nào? - Ông Lecoq hỏi. - Tôi nói có đúng không? - Đúng, - Ông Domini hơi ngạc nhiên nói - giường đã được mở chăn. - Mở chăn ư? Vâng, - Ông Lecoq tiếp lời - nhưng đã không có ai nằm ở đây. - Nhưng mà... - Ông Courtois định phản bác. - Tôi tin chắc ý kiến mình đưa ra. - Ông Lecoq ngắt lời - Chúng đã mở chăn, đúng thế, có thể chúng đã nằm lăn lên giường, làm nhàu gối, vò nhàu chăn mền, làm nhăn nheo ga trải giường, nhưng, theo con mắt thành thạo, chúng đã không biết làm cho trông giống như có hai người nằm ngủ trên chiếc giường đó. Mở chăn một chiếc giường là một việc khó, có thể còn khó hơn cả việc trải lại giường. Để trải lại giường, không cần thiết phải cởi bỏ ga trải giường và chăn mền và cũng không phải lật lại nệm. Để mở chăn, dứt khoát người ta phải leo lên nằm ngủ trên đó và giường sẽ có hơi ấm. Giường ngủ là một trong những vật chứng ghê gớm không bao giờ đánh lừa và làm giả được. Giường này chưa có ai nằm ngủ... . - Tôi biết rõ, - Cha Plantat lưu ý rằng bà bá tước vẫn còn mặc nguyên váy áo, nhưng ông bá tước có thể đi nằm trước. Ông Thẩm phán điều tra, ông bác sĩ và ông Xã trưởng cùng tiến lại gần. - Không, thưa ngài, - Ông Lecoq đáp - tôi có thể chứng minh cho ngài thấy. Việc chứng minh cũng dễ thôi, sau khi nghe thì một đứa trẻ mười tuổi cũng không bị mắc lừa trước sự lộn xộn giả tạo thế này. Ông nhẹ nhàng thu tấm chăn mền và khăn trải giường bên trên vào giữa giường, nói tiếp: - Hai chiếc gối này đều đã bị làm nhàu, đúng không? Nhưng các vị hãy nhìn chiếc gối dài ở dưới đi, nó vẫn còn nguyên không bị đụng chạm. Các vị sẽ không tìm thấy một vết nhăn nào do sức nặng của đầu người và cử động của cánh tay để lại. Không phải chỉ có thế: các vị hãy nhìn từ giữa giường đến cuối giường đi. Vì chăn mền được viền rất kĩ nên hai chiếc ga trải giường vẫn dính sát nhau. Các vị hãy vuốt tay như tôi, - Và ông đưa tay vuốt ga trải giường - các vị sẽ cảm thấy một sự căng cứng không thể có được nếu chân người duỗi đến đây. Song, ông Trémorel là người có vóc dáng có thể nằm dài suốt cả chiếc giường này. Việc chứng minh của ông Lecoq quá rõ ràng những bằng chứng hiển nhiên đến nỗi không có gì phải nghi ngờ. - Không còn gì nữa, - Ông nói tiếp - giờ ta sang chiếc nệm thứ hai. Khi, vì những lý do nào đó người ta mở giường hoặc tìm cách chỉnh trang lại sự lộn xộn, thì hiếm khi nghĩ đến chiếc nệm thứ hai. Chúng ta hãy xem cái niệm này. Ông nhấc chiếc nệm thứ nhất ở trên lên và quả thật mọi người nhìn thấy tấm vải bọc của chiếc nệm thứ hai hoàn toàn thắng căng, không thấy vết lõm nào. - Ôi! Cái nệm thứ hai này. - Ông Lecoq lẩm nhẩm. Và cái mũi ông tỏ ra hớn hở trước một kỷ niệm về một câu chuyện nào đó. Ông Thẩm phán điều tra cũng lẩm nhẩm: - Tôi thấy chứng tỏ là ông Trémorel lúc đó chưa đi ngủ. - Hơn nữa, - Bác sĩ Gendron nói thêm - nếu chúng đã giết hại ông trên giường, thì quần áo ông sẽ còn để lại trên thứ đồ đạc nào đó. - Chưa kể rằng, - Ông Lecoq hờ hững nói - ta có thể tìm thấy trên ga trải giường ít nhất một giọt máu. Chắc chắn bọn gian ác này không được thông minh. Từ lúc nào đó, đôi mắt của Cha Plantat đã tìm kiếm ánh mắt của ông Thẩm phán điều tra. Khi ánh mắt họ gặp nhau thì ông Thẩm phán hòa giải vừa nói vừa nhấn mạnh từng chữ: - Đối với tôi, điều làm tôi ngạc nhiên là một người đàn ông trẻ khỏe như ông bá tước Hector lại để chúng đến tận nhà giết được mình mà lại không phải lúc đang ngủ. - Và trong một căn nhà đây vũ khí, - Ông bác sĩ Gendron nhấn mạnh - bởi lẽ trên tường phòng làm việc của ông bá tước treo đầy súng và dao săn! Một kho vũ khí thật sự! - Than ôi! - Ông Xã trưởng lương thiện Courtois thở dài - Chúng ta đã phải chứng kiến những vụ tai họa còn tệ hơn. Sự táo tợn của lũ gian ác gia tăng theo sự thèm khát tiêu xài xa hoa của tầng lớp cặn bã ở các trung tâm đô thị lớn. Không có tuần nào mà báo chí... Ông phải ngừng lời với thái độ bất bình rõ rệt: người ta không nghe ông mà đang nghe Cha Plantat. Chưa bao giờ ông thấy Cha lắm lời như vậy, Cha Plantat vẫn nói tiếp: - Này, các vị có thấy là sự xáo trộn của căn nhà có vẻ kì cục không? Tôi ngạc nhiên là sao nó không có vẻ kinh khủng hơn. Có thể nói tôi là một ông già, không còn sức khỏe của một người 35 tuổi, thế nhưng nếu bọn sát nhân lọt vào nhà, khi tôi còn đứng vững thì chưa chắc chúng đã thắng được tôi. Tôi không biết mình sẽ làm gì, có thể tôi sẽ bị giết, nhưng chắc chắn tôi sẽ đánh thức được mọi người dậy. Tôi sẽ chống cự, la hét, sẽ mở cửa sổ, sẽ đốt lửa lên. Các vị sẽ nói gì, những thần dân của xã Orcival, nếu các vị được nhìn thấy sự phấn khích của ông Thẩm phán hòa giải! - Thêm nữa, - Ông bác sĩ nhấn mạnh - khi còn thức thì ông ấy khó có thể bị bất ngờ. Một tiếng ồn khác lạ luôn đánh động. Đó là một tiếng cửa xoay bản lề cọt kẹt, tiếng bước chân cót két trên cầu thang. Dù thành thạo đến mấy thì một tên sát nhân cũng không làm cho nạn nhân bất ngờ choáng váng được. - Có thể chúng có súng. - Ông Courtois nói bóng gió - Chuyện này đã xảy ra. Bạn có thể rất bình thản ngồi trong phòng, vào một ngày hè, bạn để mở cửa sổ, uống trà và nói chuyện với vợ, ở bên ngoài, kẻ gian kiếm một cái thang ngắn; một trong số chúng trèo lên đến ngang tầm bậu cửa sổ, chúng thoải mái chỉnh đường ngắm vào bạn, hắn bóp cò và viên đạn bay đi... - Và, - Ông bác sĩ nói tiếp - tất cả láng giềng bị đánh thức sẽ chạy ào tới. - Xin lỗi, - Ông Courtois phản bác - ở thị trấn hay trong một thành phố đông người thì đúng thế. Nhưng giữa một khuôn viên rộng lớn thế này thì không. Ngài bác sĩ hãy nghĩ đến địa thế cách biệt của lâu đài. Nhà của bà Lunascol là hàng xóm gần nhất mà vẫn cách hơn 500 mét, hơn nữa còn bị cây cối rậm rạp bao quanh chặn mất âm thanh. Chúng ta thử làm thí nghiệm xem. Nếu ngài muốn, tôi sẽ bắn một phát súng lục trong phòng này và đánh cược rằng ở ngoài đường ngài sẽ không nghe thấy tiếng nổ. - Ban ngày thì có thể, nhưng ban đêm!.... Sở dĩ ông Courtois nói nhiều như vậy là vì những người khác đang chú ý quan sát ông Thẩm phán điều tra. - Rốt cục, - Ông Domini kết luận - nếu chúng ta không có hy vọng tối nay hoặc ngày mai anh chàng Guespin quyết định khai báo thì cái xác của ông bá tước sẽ cho ta lời giải của câu đố. - Vâng, - Cha Plantat đáp - nếu chúng ta tìm thấy cái xác. Trong thời gian diễn ra cuộc thảo luận khá dài này, ông Lecoq vẫn tiếp tục công việc điều tra, ông nhấc đồ đạc, xem xét các chỗ gãy vỡ, soi kĩ từ các mảnh vỡ nhỏ nhất, như thể chúng sẽ cung cấp sự thật. Đôi lúc, ông lôi trong túi ra một chiếc kính lúp và các vật dụng linh tinh có hình thù kì dị, một thanh thép uốn cong một đầu dùng để thăm dò ổ khóa. Ông nhặt được trên thảm sàn nhà mấy cái chìa khóa và trên giàn hong quần áo, ông thấy chiếc khăn ăn chắc là có gì đáng chú ý, vì thấy ông cất nó sang một bên. Ông đi lại từ phòng ngủ sang phòng làm việc của ông bá tước mà vẫn không bỏ sót một chữ nào trong cuộc nói chuyện của mọi người, tận dụng mọi sự quan sát, thu thập và ghi nhớ kĩ các kiểu giọng nhấn mạnh hơn là chính những câu nói. - Trong một cuộc điều tra vụ án như ở Orcival, khi mà nhiều đại diện của pháp luật cũng có mặt, thì họ thường giữ ý với nhau. Tất cả đều biết nhau như là những người ngang nhau về kinh nghiệm, sự tinh tế và sáng suốt, cùng mối quan tâm khám phá sự thật. Những người này theo thói quen sẽ ít bằng lòng với những thứ bề ngoài dễ đánh lừa, khó nắm bắt và sự thận trọng đương nhiên mỗi người sẽ tăng lên do sự tôn trọng dành cho óc sáng suốt và minh mẫn của nhau. - Có thể mọi người có cách lý giải khác nhau về các sự việc được cuộc điều tra phát giác, hoặc là đã có một nhận thức đối lập nhau trên cùng một cơ sở của vụ việc, một kẻ quan sát nông cạn sẽ không nhận ra được những khác biệt đó. - Mỗi người, vừa che giấu ý nghĩ thầm kín vừa tìm cách thâm nhập vào ý nghĩ của người bên cạnh, nếu ý kiến đó tỏ ra đối lập với mình, thì họ tìm cách lôi kéo đối thủ về cùng với ý kiến của mình, không phải bằng cách thực thà nói thẳng ý nghĩ đó ra, mà bằng cách lưu ý đối thủ đến những câu chữ nghiêm trọng hoặc tầm phào mà anh ta mắc vào. Tầm quan trọng to lớn của một chữ cũng biện minh được cho sự e ngại này. Những người nắm trong tay quyền tự do và mạng sống của kẻ khác, những người mà chỉ bằng một nét bút có thể kết liễu một đời người, đang cảm thấy nghiệt ngã hơn người ta tưởng về gánh nặng trách nhiệm của mình. Cảm thấy gánh nặng này được chia sẻ là một sự nhẹ nhõm không nói nên lời. Vậy là vì mấy lý do nào đó mà không ai dám chủ động, không dám bày tỏ rõ ý kiến, mỗi người cứ phải chờ đợi một ý kiến được phát ra một cách thuận chiều để chấp nhận hoặc phản bác. Họ đối thoại chỉ để trao đổi những câu đề xuất nhiều hơn là những lời khẳng định. Họ quyết định chỉ đưa ra những lời bóng gió xa xôi. Thế nên có những câu nói nhàm chán, những giả định gần như khôi hài, những câu nói riêng một mình, tất cả giống như sự khích động một lời giải thích. - Cũng vì thế mà người ta gần như không thể đưa ra được cái nhìn chính xác và thực tế cho một cuộc điều tra khó khăn. Vậy là, trong vụ án này, ông Thẩm phán điều tra và Cha Plantat còn lâu mới có cùng quan điểm. Họ biết điều đó trước khi trao đổi với nhau. Nhưng ông Domin, người có quan điểm dựa trên những sự việc thực tế, cụ thể những tình tiết có thể sờ thấy được và không thể bàn cãi, lại không sẵn sàng khích động mâu thuẫn. Làm thế có ích gì? Về phần mình, Cha Plantat, người mà hệ thống lập luận chỉ dựa trên những ấn tượng, trên một chuỗi suy luận ít nhiều logic, lại không thể bày tỏ rõ ràng nếu không có sự thôi thúc thực sự và cấp bách. Câu nói cuối cùng của ông, được nhấn mạnh với vẻ kiểu cách nhưng không được chú ý, ông coi là đã được đưa ra khá sớm, thậm chí quá sớm, thế là, để chuyển hướng cuộc nói chuyện, ông vội quay sang hỏi anh chàng phái viên của Sở Cảnh sát Paris: - Thế nào ông Lecoq? Ông đã thu được dấu hiệu mới nào chưa? Lúc đó ông Lecoq đang hết sức chăm chú ngắm nhìn bức chân dung lớn của ông bá tước Hector de Trémorel treo đối diện trước giường. Nghe tiếng gọi ông quay lại đáp: - - Tôi chưa thấy điều gì quan trọng, nhưng cũng chưa thấy điều gì phản bác lại những dự đoán của tôi... Thế nhưng... Ông không nói hết câu, có thể bản thân ông cũng đang lùi bước trước phần trách nhiệm của mình. - Cái gì? - Ông Domini xẵng giọng gặng hỏi. - Tôi muốn nói, - Ông Lecoq nói tiếp - rằng tôi không nắm chắc vụ này. Tôi đã có được chiếc đèn trong tay, thậm chí đã có một cây nến trong đèn, chỉ còn thiếu một que diêm... - Xin ông hãy nói chuyện đứng đắn. - Ông Thẩm phán điều tra nghiêm khắc nói. - À, - Ông Lecoq nói tiếp với một vẻ và giọng nói quá nhún nhường nên không thể không bị coi là diễn trò - tôi vẫn còn do dự. Tôi cần được giúp đỡ. Chẳng hạn nếu ngài bác sĩ hạ cố chịu khó tiến hành khám nghiệm tử thi của bà bá tước Trémorel thì tôi biết ơn lắm. - Chính tôi cũng muốn đề nghị như vậy, thưa ông bác sĩ quý mến. - Ông Domini nói với bác sĩ Gendron. - Xin vui lòng. - Ông bác sĩ già đáp và lập tức bước ra phía cửa. Nhưng ông Lecoq giữ tay ông lại. - Tôi xin phép, - Ông lên tiếng với một giọng không hề giống với cái giọng đã có từ trước đến giờ - xin phép lưu ý ngài bác sĩ về những vết thương trên mặt bà Trémorel do một dụng cụ đập mà tôi ngờ là một chiếc búa. Tôi, với tư cách không phải là bác sĩ, đã xem xét những vết thương này và thấy chúng có vẻ đáng ngờ. - Tôi cũng thấy thế - Cha Plantat nhanh nhảu nói - hình như ở những chỗ bị đánh không thấy có máu chảy dưới da. - Bản chất của những vết thương này. - Ông Lecoq nói tiếp - sẽ là dấu hiệu quý giá để chốt lại quan điểm của tôi. Và vì vẫn ấm ức bởi thái độ thô bạo của ông Thẩm phán điều tra, ông nói thêm như một sự trả đũa ngây thơ: - Chính ngài, thưa bác sĩ, là người nắm giữ que diêm đó. Ông Gendron đang sửa soạn đi ra thì trên ngưỡng cửa xuất hiện gia nhân của ông Xã trưởng xã Orcival anh Baptiste, người tự cho là không ai dám la mắng. Anh cúi sát đầu chào rồi nói: - Tôi đến tìm ngài. - Tìm ta ư? - Ông Courtois hỏi. - Sao? Có chuyện gì? Người ta không để yên cho ta được một phút à! Cứ trả lời là ta bận. - Đó là, - Anh chàng Baptiste bình thản nói - việc liên quan đến bà nhà mà chúng tôi nghĩ bà muốn phiền đến ngài. Bà nhà thấy trong người rất khó ở. Mặt ông Xã trưởng ưu tú hơi tái xanh. Ông lo lắng kêu lên: - Vợ ta ư? Mi định nói gì? Nói rõ ta nghe nào! - Thế này ạ. - Anh chàng Baptiste nói tiếp với vẻ điềm nhiên nhất trên đời - Nhân viên bưu điện vừa đưa thư tới. Vâng! Tôi đem thư vào cho bà nhà lúc ấy đang ở trong phòng khách. Tôi vừa quay gót thì nghe thấy tiêu kêu thất thanh và một tiếng động như thể một người ngã lăn ra sàn. Anh chàng Baptiste trình bày chậm rãi, người ta cảm thấy anh đang vận dụng tài nghệ vô địch của mình để làm tăng nỗi lo lắng của ông chủ. - Nhưng mà nói đi! - Ông Xã trưởng điên tiết kêu lên. - Nói ngay đi xem nào! - Tất nhiên, - Anh chàng kì cục vẫn nhẩn nha nói tiếp - tôi lại mở cửa căn phòng khách. Tôi nhìn thấy gì? Bà nhà đang nằm trên sàn. Đúng theo lẽ, tôi kêu cứu, chị hầu phòng chạy đến, rồi chị bếp và những người khác nữa. Chúng tôi khiêng bà lên giường. Hình như chị Justine nói với tôi, rằng bức thư của cô Laurence đã khiến bà như vậy. Gã gia nhân tự cho chẳng ai dám la mắng lúc này thật đáng đánh đòn. Cứ sau một câu gã lại ngừng lại, ngập ngừng, tìm câu chữ, hai mắt gã, trái với bộ mặt ra vẻ hối tiếc, đang để lộ sự thỏa mãn cực độ khi thấy tai họa xảy ra với ông chủ. Còn ông chủ này, than ôi, đang tỏ ra rụng rời. Tất cả chúng ta cũng thế thôi, khi không biết chính xác chúng ta đang gặp phải nỗi bất hạnh gì, ông đang run lên vì cuộc hỏi cung này. Ông đứng đó, sững sờ, không cử động được; ông kêu than thay vì chạy về nhà. Cha Plantat tranh thủ thời gian trống để hỏi người gia nhân, với một cái nhìn mà gã kì cục này không dám tránh né. - Sao cơ? - Ông hỏi - Một bức thư của cô Laurence, vậy là cô ấy không ở nhà? - Không, thưa ngài, tính đến hôm qua cô ấy đã đi được 8 ngày để đến ở nhà một người chị em của bà chủ. - Thế bà Courtois giờ thế nào? - Tốt hơn rồi, thưa ngài, chỉ có điều bà luôn mồm kêu khóc thật đáng thương. Ông Xã trưởng bất hạnh lập tức đứng lên. Ông túm lấy cánh tay gã gia nhân rồi kêu lên: - Nào đi thôi, đi!... Rồi cả hai chạy ra ngoài. Tội nghiệp ông ấy! - Ông Thẩm phán điều tra nói - Con gái ông ấy có thể đã mất. Cha Plantat buồn rầu lắc đầu nói: - Nếu chỉ có thế. - Rồi ông nói thêm - Ngài hãy nhớ lại những lời ám chỉ của lão Bợm Nhậu. Chương 7 Ông Thẩm phán điều tra, Cha Plantat và ông bác sĩ nhìn nhau đầy lo lắng. Không biết tai họa gì đã giáng xuống ông Courtois, một con người quá đáng kính và quá tuyệt vời bất chấp những khiếm khuyết của ông? Thật là một ngày đáng nguyền rủa! - Nếu như lão Bợm Nhậu cố tình ám chỉ, - Ông Lecoq nói - thì tôi, người mới có mặt ở đây được vài giờ, cũng đã nghe người ta kể về hai chuyện có những tình tiết rất rõ ràng. Có vẻ như cô nàng Laurence này... Cha Plantat thô bạo ngắt lời vị nhân viên an ninh. Ông kêu lên: - Vu khống, vu khống bỉ ổi! Vì không có điều kiện hơn, cái bọn tiện dân ghen tức giới nhà giàu đó chẳng ngại ngùng mạt sát thậm tệ người ta đâu. Chẳng lẽ ông không biết chuyện đó ư? Lúc nào chẳng có chuyện như vậy! Một kẻ giàu có, nhất là ở những thị trấn nhỏ, thực sự phải sống như trong chiếc lồng kính. Ngày và đêm những con mắt tinh ranh ghen ghét luôn dõi theo anh ta, rình mò, bắt chộp những hành động được cho là bí mật nhất để làm vũ khí chống lại anh ta. Dù sống sung túc, hài lòng và tự hào, công việc phát đạt, được những người cùng địa vị kính trọng và quý mến, nhưng anh ta lại bị tầng lớp dưới khinh miệt, bị dìm xuống bùn, bị bôi nhọ bằng những sự đặt điều thóa mạ nhất. Có bao giờ lòng đố kỵ lại biết tôn trọng một thứ gì đâu! - Nếu cô Laurence mà bị vu cáo, - Ông bác sĩ Gendron mỉm cười nói - thì ít nhất cô ấy đã có thể tìm được một luật sư giỏi để bào chữa cho mình. Ông Thẩm phán hòa giải, một con người bất nhẫn như ông Courtois nói, hơi đỏ mặt lên, có chút lúng túng vì thái độ sốt sắng của mình. Ông dịu giọng nói tiếp: - Có những vụ kiện mà người ta biết tự bào chữa. Cô Courtois là một trong những cô gái có quyền được tôn trọng. Nhưng có những điều ghê tởm mà không một luật pháp nào đụng đến được và điều đó làm tôi phẫn nộ. Thử nghĩ xem, thưa các ngài, rằng thanh danh của chúng ta, danh dự của vợ con chúng ta, đang phải phó mặc cho một tên vô lại nào đó có óc tưởng tượng bày đặt ra một chuyện ghê tởm. Có thể người ta không tin hẳn, nhưng có sao đâu, người ta vẫn cứ nhắc lại và lan truyền lời vu cáo đó. Phải làm thế nào? Liệu ta có thể biết điều gì đang núp trong bóng tối chống lại chúng ta không, liệu có bao giờ chúng ta biết được không? - Thôi nào! - Ông bác sĩ Gendron đáp trả - Có sao đâu? Với tôi chỉ có một tiếng nói đáng tôn trọng là tiếng nói của lương tâm. Về cái gọi là dư luận quần chúng, trên thực tế nó giống như mớ ý kiến riêng của hàng vạn lũ ngu xuẩn, độc ác, việc đó có can hệ gì mà phải để ý. Cuộc tranh luận chắc sẽ còn kéo dài, nếu như ông Thẩm phán điều tra không rút đồng hồ ra xem và làm một cử chỉ bực mình. Ông nói: - Chúng ta cứ nói chuyện, lan man mãi, trong khi thời gian cứ trôi đi. Ta phải khẩn trương lên thôi. Ít nhất chúng ta phải cùng nhau chia sẻ công việc ở đây. Cái giọng ra lệnh của ông Domini đã chặn đứng trên môi ông Lecoq mấy suy nghĩ mà ông đang đợi được phát biểu. Điều phải làm lúc này là, trong khi ông bác sĩ Gendron thực hiện khám nghiệm tử thi thì ông Thẩm phán điều tra sẽ thảo bản báo cáo. Cha Plantat lúc ấy đang làm nhiệm vụ theo dõi việc khám xét của người bên Sở Cảnh sát. Ngay khi ở lại với ông Thẩm phán hòa giải, ông Lecoq liền thở ra nhẹ nhõm và nói: - Cuối cùng cũng thoát được sự ngột ngạt nặng nề, giờ ta có thể tiến hành công việc. Và thấy Cha Plantat hơi mỉm cười, ông nuốt một chiếc kẹo rồi nói thêm: - Có lúc một cuộc điều tra vừa bắt đầu đã trở nên thảm hại, thưa ngài Thẩm phán hòa giải, thật thảm hại. Những người đi trước đã có thời gian tạo một hệ thống suy luận và nếu mình không theo họ ngay thì cái khó khăn sẽ là ở đó! Họ nghe thấy phía cầu thang có tiếng ông Domini gọi viên lục sự của mình, người này, đến sau ông một chút, vẫn ở dưới tầng trệt. Dạ thưa ngài. - Vị nhân viên an ninh nói thêm - Ông Thẩm phán điều tra đang tin rằng đây là vụ án hoàn toàn đơn giản, trong khi tôi, Lecoq, đối thủ ngang bằng ít nhất là với gã kì cục Gévrol kia, tôi với tư cách là học trò yêu của thầy Tabaret, - Ông kính cẩn nhấc mũ - vẫn chưa thấy điều gì rõ ràng. Ông ngừng lời, chắc để ôn lại kết quả điều tra của mình rồi nói tiếp: - Không, nói thật là tôi bị mất phương hướng, gần như không còn hiểu gì nữa. Tôi đã đoán được đằng sau những chuyện này có một cái gì đó, nhưng là cái gì, cái gì? Vẻ mặt Cha Plantat vẫn bình thản, nhưng mắt ông sáng lên. - Có lẽ ông nói đúng - Ông tán đồng với thái độ dửng dưng - quả thực có một cái gì đó. Vị nhân viên an ninh nhìn ông, ông vẫn đứng yên. Ông tiếp tục giữ vẻ mặt dửng dưng nhất trên đời, ghi chép gì đó vào cuốn sổ tay. Im lặng khá lâu, ông Lecoq lợi dụng khoảng thời gian này để thổ lộ với bức chân dung trên hộp kẹo những suy nghĩ đang làm ông đau đầu. Nàng thấy rõ đấy, - Ông tự nhủ - cô bé đáng yêu của anh, người đàn ông đáng kính này có vẻ là một ông già tinh ranh mà ta cần chăm chú theo dõi mọi hành động và cử chỉ. Điều cần nói là ông ta không chia sẻ quan điểm của ông Thẩm phán điều tra, mà có một ý tưởng không dám nói ra và chúng ta sẽ tìm ra điều đó. Ông già Thẩm phán hòa giải thôn quê này rất tinh quái. Ngay từ đầu ông ta đã đoán được chúng ta, bất chấp mái tóc vàng xinh đẹp của chúng ta. Nếu ông ta thấy chúng ta đã lạc đường theo dấu chân của ông Domini thì ông ta đã đi theo, đã ủng hộ, đã chỉ lối cho chúng ta rồi. Giờ đây khi cảm thấy chúng ta đang nắm được đầu mối thì ông ta khoanh tay rút lui. Ông ta muốn dành niềm vinh dự khám phá cho chúng ta. Tại sao? Ông là người ở đây, chẳng lẽ lại sợ gây thù chuốc oán? Không. Ông ta thuộc trong số những người chẳng mấy sợ chuyện gì. Vậy thì là cái gì? Ông ta đã rút lui trước suy nghĩ của mình. Ông ta đã tìm ra điều gì đó bất ngờ đến nỗi không dám nói ra. Một suy nghĩ bất chợt bỗng làm thay đổi dòng tâm sự của ông Lecoq. Quái nhỉ! - Ông nghĩ - Phải chăng ta đã nhầm, phải chăng lão già này chẳng tinh ranh chút nào! Phải chăng lão chẳng tìm ra được gì, lão chỉ nghe theo những gợi ý của sự may rủi? Người ta còn thấy những chuyện đáng ngạc nhiên hơn. Ta đã biết khối chuyện như vậy của những người này, những người có đôi mắt của những anh hề ngồi trong những ngôi nhà tồi tàn, họ tuyên bố là ở trong đó họ đang quan sát những điều kì diệu; người ta nào nhưng chẳng thấy gì, vì chúng đã biến đi rồi. Nhưng, - Ông nhếch môi cười - ta sẽ hiểu rõ đó là cái gì. Rồi, làm ra vẻ ngốc nghếch nhất theo kiểu người của mình, ông nói to: - Điều còn lại phải làm, thưa ngài Thẩm phán hòa giải, suy nghĩ kĩ thì chỉ là một chút việc. Cuối cùng thì ta đã giữ được hai kẻ phạm tội chính và khi chúng quyết định khai, sớm muộn gì điều đó cũng sẽ xảy ra thôi nếu ông Thẩm phán điều tra muốn, thì chúng ta sẽ biết rõ. Một gáo nước lạnh có giội xuống đầu cũng không làm Cha Plantat sửng sốt hơn, sửng sốt một cách khó chịu. - Sao? - Ông có vẻ hoàn toàn choáng váng - Chính ông, một nhân viên an ninh, một người khôn khéo, có kinh nghiệm mà lại... Khoái chí vì làm cho ông Thẩm phán mắc mưu, ông Lecoq không giữ được nghiêm túc, còn Cha Plantat, thấy mình bị lừa, liền bật cười hồn nhiên. Vả lại, giữa hai con người uyên bác hiểu đời này, với bộ óc tinh tế và gan góc ngang nhau, không một câu nào được trao đổi. Ấy vậy mà họ vẫn hiểu nhau, thông cảm nhau. Ông lão của tôi ơi, - Vị nhân viên an ninh tự nhủ - ông đang có cái gì đó trong túi, chỉ có điều nó quá lớn, quá kinh khủng, nên vẫn khăng khăng không chịu phô ra. Ông có muốn người ta bắt ép không? Người ta sẽ bắt ép ông đó. Anh chàng này ranh ma lắm, - Cha Plantat nghỉ thầm - hắn biết mình có một ý tưởng, hắn sẽ tìm kiếm và chắc chắn sẽ thấy. Ông Lecoq đã cất hộp kẹo có bức ảnh chân dung vào túi, ông thường làm thế mỗi khi phải làm việc nghiêm túc. Lòng tự ái của người học trò thầy Tabaret đang hân hoan. Ông đang chơi một ván bài và bản thân là đấu thủ: - Vậy là, - Ông kêu lên - ta phải khẩn trương và ngài phải giúp tôi một tay. Biên bản của ông Xã trưởng nói đã tìm thấy vật mà chúng dùng để đập phá mọi thứ ở đây. - Chúng tôi đã tìm thấy, - Cha Plantat đáp - trong một căn phòng trên lầu hai trông ra vườn, một chiếc rìu vứt dưới sàn trước một cái tủ chè bị đập nhẹ nhưng vẫn chưa bị mở, tôi đã ngăn không cho ai đụng vào. - Ngài làm tốt lắm, thưa ngài. Chiếc rìu này có nặng không? - Chắc phải nặng tới một cân. - Tốt lắm, ta lên xem nó thế nào. Họ trèo lên gác, ngay lập tức ông Lecoq, quên mất vai trò là người bán hàng xén rất chăm chút đến quần áo, đã nằm bò xuống sàn để xem xét chiếc rìu, một thứ vũ khí khủng khiếp, nặng cân, có chiếc cán làm bằng gỗ tần bì, đến sàn nhà đánh xi bóng láng. - Tôi có giả định, - Ông Thẩm phán hòa giải nhận xét - rằng lũ gian ác bày ra chiếc rìu này và đập chiếc tủ chè chỉ để phân tán hướng điều tra, làm phức tạp, vấn đề. Chẳng cần đến chiếc rìu cũng có thể phá được chiếc tủ yếu ớt đó, tôi dùng nắm tay cũng đập vỡ được. Chúng bổ một cú, chỉ một cú thôi, rồi đặt chiếc rìu nằm yên trên sàn. Vị nhân viên an ninh đứng dậy, phủi bụi quần áo rồi nói: - Thưa ngài, tôi cho rằng ngài đã nhầm. Chiếc rìu này không phải được đặt nằm im dưới sàn, mà nó bị quăng rất mạnh cho thấy có sự kinh hãi ghê gớm hoặc một cơn tức giận dữ dội. Đây, ngài hãy nhìn chỗ này, ở trên sàn, có ba dấu vết kế tiếp nhau. Khi kẻ gian quăng chiếc rìu, trước tiên nó sẽ rơi xuống đằng lưỡi, từ đó mà có vết chém này, sau đó nó lại rơi xuống đẳng cạnh và đầu trái của chiếc rìu là một đầu búa đã để lại dấu vết này, ngài xem, ở chỗ này, dưới ngón tay tôi, cuối cùng nó. bị quăng mạnh đến nỗi xoay một vòng rồi lại chém vào sàn, chỗ đó, nơi nó nằm bây giờ. - Đúng rồi, - Cha Plantat lẩm nhẩm - rất đúng! Những nhận xét của ông Lecoq chắc là đã làm xáo trộn hệ thống lập luận của ông. Ông nói thêm với vẻ phật ý: - Tôi chẳng hiểu gì cả, hoàn toàn không hiểu. Ông Lecoq tiếp tục quan sát rồi hỏi: - Cửa sổ đang mở, liệu sáng nay, khi lần đầu các ngài vào khám xét, chúng có để mở như thế không? - Có. - Thế thì đúng rồi. Bọn sát nhân đã nghe thấy tiếng động nào đó ngoài vườn và chúng đã chạy đến cửa sổ để xem. Chúng đã nhìn thấy gì? Tôi không biết. Điều tôi biết là thứ chúng nhìn thấy đã khiến chúng hoảng sợ, liền vội quăng chiếc rìu rồi bỏ chạy. Hãy xem xét những vết chém - chúng bị đứt xéo một cách tự nhiên - và ngài sẽ thấy chiếc rìu bị quăng bởi một người không đứng gần tủ chè mà đứng gần cửa sổ. Đến lượt mình, Cha Plantat quỳ gối xem xét kĩ lưỡng. Viên cảnh sát nói đúng. Ông hơi sững sờ đứng lên, suy nghĩ một lát, ông nói: - Tình tiết này làm tôi hơi khó chịu, tuy nhiên, xét ra thì... Ông ngừng lời, đứng im vẻ suy nghĩ, một tay đặt lên trán. - Mọi cái có thể sẽ được giải thích thêm, - Ông vừa lẩm nhẩm vừa sắp xếp lại trong đầu các mẫu khác nhau của hệ thống lập luận - và trong trường hợp này thì giờ được kim chỉ vào trên đồng hồ quả lắc sẽ là giờ thật. Ông Lecoq không nghĩ đến việc hỏi chuyện ông già Thẩm phán hòa giải. Trước hết ông biết rõ ông ta sẽ không trả lời, sau nữa là tính kiêu căng của ông đã tỏ rõ rồi. Làm sao mà ông lại không đoán nổi một câu đố được giải mã bởi kẻ khác? - Cả tôi nữa, - Ông nói to và rõ ràng như đang độc thoại - tình tiết chiếc rìu này đang làm tôi bị xáo trộn. Tôi đang giả định rằng bọn cướp đã hành động một cách tự do thoải mái, nhưng không hề như vậy, tôi đã phát hiện ra chúng bị bắt quả tang, rằng chúng bị quấy rối, rằng chúng sợ hãi. Cha Planta vẫn chăm chú nghe. Ông Lecoq thong thả nói tiếp: - Đúng là chúng ta phải phân các dấu hiệu ra thành hai loại. Có những dấu hiệu được để lại với mục đích đánh lừa chúng ta, chẳng hạn như chiếc giường đã mở chăn; rồi những dấu hiệu vô tình, như những vết chém của chiếc rìu này. Nhưng tôi vẫn do dự. Dấu hiệu chiếc rìu là thật hay giả, tốt hay xấu. Tôi tưởng mình đã tin chắc về tính cách của bọn sát nhân, khi đó thì công việc điều tra tự nó tiến triển, thế mà bây giờ... Ông ngừng lời. Những nếp nhăn trên trán và cái miệng co lại đang làm lộ tẩy những suy nghĩ của ông. -Thế mà bây giờ? - Cha Plantat hỏi lại. Nghe thấy câu hỏi này, ông Lecoq ngạc nhiên như một người bị đánh thức, liên đáp: - Xin lỗi ngài, tôi quên mất. Tôi có một thói quen tệ hại là hay đọc to những suy nghĩ của mình. Thế nên tôi thích làm việc một mình. Những điều nghi ngờ không chắc chắn, do dự và dao động của tôi, nếu bị người khác nghe được, sẽ làm tôi mất đi uy tín của một người cảnh sát, một nhân viên an ninh không chịu thua bất cứ sự bí ẩn nào. Ông Thẩm phán già cười độ lượng. - Thông thường, - Ông Lecoq nói tiếp - tôi chỉ mở miệng khi mà ý đã quyết, khi đó bằng một giọng không cãi được, tôi sẽ đưa ra lời phán truyền, tôi sẽ bảo: đó là thế này hoặc đó là thế kia. Nhưng hôm nay, không phải nén mình quá mức, tôi hành động trước mặt một người có khả năng biết rằng người ta không thể giải quyết được ngay từ bước đầu một vấn đề phức tạp như vụ án này: Tôi để cho họ thấy không chút ngượng ngùng những bước dò dẫm của mình. Không thể dễ dàng tìm ra sự thật, ta đạt được kết quả đó bằng một loạt những tình toán khá phức tạp dựa vào chuỗi phán đoán và suy luận liên kết với nhau. Thế mà, lúc này logic của tôi đang mắc sai lầm. - Sao lại thế? - Cha Plantat hỏi. -Ô, rất đơn giản, thưa ngài Thẩm phán hòa giải. Tôi cứ tưởng mình đã hiểu thấu lũ sát nhân, đã thuộc lòng chúng, đó là điều cốt yếu ban đầu, vậy mà tôi không còn nhận ra những đối thủ tưởng tượng. Chúng có ngu ngốc không? Chúng có cực kì tinh ranh không? Tôi đang tự hỏi về điều đó. Như dự kiến, mánh khóe về chiếc giường và chiếc đồng hồ, đã cho tôi thấy mức độ, tầm thông minh và óc sáng tạo của chúng. Suy luận từ cái đã biết đến cái chưa biết, bằng loạt hệ quả rất đơn giản, tôi đã rút ra và dự đoán được tất cả những gì chúng có thể tưởng tượng ra hòng đánh lạc hướng sự chú ý và làm chúng ta đi sai đường. Với điểm xuất phát được chấp nhận, để đoán đúng, tôi chỉ việc đi ngược lại những hiện tượng bên ngoài. Tôi tự nhủ: “Người ta đã tìm thấy một chiếc rìu trên lầu hai, vậy là lũ sát nhân đã đem lên và cố tình bỏ quên ở đó. Chúng bỏ lại 5 chiếc cốc trên bàn ăn, vậy là có nhiều hơn hoặc ít hơn 5, chứ không phải là 5 tên. Trên bàn có mấy thứ giống như thức ăn thừa của một bữa ăn khuya, nhưng thực ra chúng không ăn uống gì. Xác của bà bá tước nằm bên bờ sông, vậy là nó được đặt ở đó một cách có chủ ý. Người ta đã tìm thấy một mẩu vải trong tay nạn nhân, vậy là chính bọn giết người đặt nó vào đó. Xác của bà Trémorel bị đâm lỗ chỗ bằng dao găm và bầm tím kinh khủng, vậy là bà ấy đã bị giết chết trong một lúc..." - Hoan hô, vâng, hoan hô! - Cha Plantat kêu lên với vẻ thích thú rõ rệt. - Ấy không, đừng hoan hô! - Ông Lecoq nói - Bởi lẽ đến đây thì sợi dây của tôi bị đứt, tôi gặp một lỗ hổng. Nếu những suy luận của tôi là đúng thì chiếc rìu này phải được đặt nằm yên trên sàn. - Có chứ, phải hoan hô lần nữa! - Cha Plantate lời - Bởi lẽ tình tiết chiếc rìu này là một ngoại lệ nhưng nó không hề làm hỏng cái hệ thống lập luận chung của chúng ta. Rõ ràng và chắc chắn là lũ sát nhân đã có ý đồ hành động như anh nói. Nhưng một sự kiện bất ngờ đã làm hỏng kế hoạch của chúng. - Có thể - Vị nhân viên an ninh hạ giọng công nhận - ngài nhận xét đúng. Nhưng tôi còn thấy một chuyện khác nữa... - Chuyện gì?... - Tạm thời... chưa có gì, ít nhất là như thế. Trước hết tôi phải xem xét phòng ăn và khu vườn. Ông Lecoq và ông Thẩm phán già đi nhanh xuống phòng ăn, Cha Plantat chỉ cho người nhân viên an ninh mấy cái cốc và chai rượu mà ông đã cho người dọn sang một bên. Ông Lecoq cầm từng chiếc cốc, đưa lên ngang tầm mắt, soi ra ánh sáng ban ngày, xem xét những chỗ ẩm ướt làm mờ thành cốc pha lê. Xem xong, ông quả quyết tuyên bố: - Chúng chẳng uống cốc nào cả. - Sao, không một chiếc cốc nào? Vi nhân viên an ninh nhìn thẳng vào ông Thẩm phán già với con mắt có thể làm run rẩy những suy nghĩ sâu kín nhất rồi nhấn mạnh từng chữ trả lời: - Không một cốc nào. Cha Plantat chỉ đáp lại bằng một cử động của đôi môi như muốn nói rõ rằng, Có thể ông bạn đi quá xa rồi đấy. Ông Lecoq mỉm cười, rồi, vừa bước tới mở cửa phòng ăn anh vừa gọi: - François! Anh hầu phòng của ông bá tước Trémorel chạy tới. Bộ mặt của anh chàng tử tế này đã trở nên thất sắc. Sự kiện kì lạ, bất thường là anh gia nhân này đang tiếc thương, than khóc cho ông chủ. - Nghe rõ đây, anh bạn, - Vị nhân viên an ninh bảo anh ta với lối xưng hô mày tao thân mật đặc trưng cho các nhân viên ở phố Jerusalem - nghe rõ đây và cố mà trả lời ta thật chính xác, rõ ràng và ngắn gọn. - Tôi nghe đây, thưa ông. - Ở lâu đài có thói quen đem sẵn rượu vang lên phòng ăn không? - Không, thưa ông, trước mỗi bữa ăn, chính tôi là người xuống hầm rượu lấy rượu lên. - Vậy có bao giờ có một số chai còn đầy rượu ở trong phòng ăn không? - Không bao giờ, thưa ông. - Nhưng đôi khi vẫn có rượu thừa sau bữa ăn. - Không, thưa ông, ngài bá tước quá cố đã ra lệnh cho tôi phải đem rượu thừa lên phòng làm việc của ông. - Thế vỏ chai thì để ở đâu? - Thưa ông, tôi đặt ở dưới cái tủ góc này, đến khi có nhiều thì tôi đem xuống hầm rượu. - Lần cuối anh bạn xuống đó là khi nào? -ÔI - François có vẻ cố nhớ lại - Cách đây khoảng 5 hoặc 6 ngày gì đó. - Tốt. Giờ hãy trả lời, ông chủ của anh thích loại rượu mùi nào? - Thưa ông, - Chàng trai tử tế ứa nước mắt - ngài bá tước quá cố gần như không uống rượu mùi. Khi nào ngẫu nhiên ông thèm một ly nhỏ rượu mạnh thì ông xuống hầm rượu để rót như đây này, trên bệ lò sưởi đó. - Vậy có bao giờ trong tủ có các chai rượu rum hoặc rượu cô-nhắc uống dở không? - Cái đó thì không, thưa ông. - Cảm ơn anh bạn, anh có thể lui. François đang định đi ra thì ông Lecoq gọi lại. - Này, - Ông nhẹ nhàng bảo - khi chúng ta đang còn đây, anh thử ngó xem ở ngăn dưới tủ góc có số vỏ chai anh để ở đó không. Anh chàng gia nhân nghe theo, rồi, sau khi mở tủ anh kêu lên: - Ô này! Không còn vỏ chai nào. - Tuyệt vời! - Ông Lecoq nói tiếp - Lần này, anh bạn tử tế của tôi, anh có thể đi được rồi. - Ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng anh hầu phòng, ông Lecoq quay sang hỏi: - Thế nào! Ngài Thẩm phán hòa giải sẽ nghĩ gì? - Ông đoán đúng, thưa ông Lecoq Khi đó vị nhân viên an ninh mới lần lượt ngửi mấy chiếc cốc và chai rượu. - Đây rồi! - Ông nhún vai kêu lên - Thêm một bằng chứng mới nữa khẳng định cho giá thiết của tôi. - Gì nữa? - Ông Thẩm phán già hỏi. - Thậm chí còn không phải là rượu, thưa ngài, như dưới đáy những chiếc cốc đây này. Trong mấy cái vỏ chai ở ngăn dưới tủ có một chai đựng giấm, là cái này đây, từ cái chai này lũ sát nhân đã rót ra mấy giọt. Rồi, cầm một chiếc cốc, ông đưa lên mũi Cha Plantat và nói thêm: - Ngài Thẩm phán chịu khó ngửi xem. Chẳng có gì phải bàn cãi, đây là loại giấm tốt, mùi của nó thuộc loại mùi nặng nhất, lũ gian ác trong lúc vội vã đã để lại một bằng chứng không thể bác bỏ về ý đồ đánh lạc hướng điều tra. Chỉ có điều, dù thành thạo những trò sắp đặt giả tạo, nhưng bọn chúng lại không có nghệ thuật làm đến nơi đến chốn. Những trò ranh mãnh của chúng, nói như ông Courtois đáng kính, đã được khâu bằng chỉ trắng. Thế nhưng, người ta có thể mắc mọi sai lầm chỉ vì sự hấp tấp hoặc rối loạn không lường trước. Một viên cảnh sát nổi tiếng đã nói rằng, trong một ngôi nhà mà có những kẻ đến gây án thì chúng luôn cảm thấy như thể sàn nhà đang bốc cháy dưới chân. Ông Lecoq đang tỏ ra phẫn nộ, tức điên như thể một nghệ sĩ chân chính đứng trước một tác phẩm thô thiển, tự phụ và khôi hài của một cậu học sinh điệu đà nào đó. Ông lầu bầu: - Xem kẻ nào đã cho phép điều này đây. Đồ vô lại! Thật chẳng ra làm sao, mà lại là kẻ vô lại ranh ma. Quái thật! Phải có phẩm chất nghề nghiệp chứ! Cũng may, mọi người không ai có được điều này. - Ông Lecoq, ông Lecoq - Ông Thẩm phán già thì thầm. - Thế nào, thưa ngài? Tôi chỉ nói điều đúng thôi. Khi người ta đã thật thà đến thế này, thì đơn giản là lẽ ra người ta phải sống lương thiện, điều đó quá dễ mà! Thế rồi, như thể không kiềm chế được vì cơn giận quá lớn, ông nuốt liền một lúc 5, 6 chiếc kẹo thập cẩm. - Thôi nào, - Cha Plantat nói tiếp với giọng la mắng của người cha muốn dỗ dành đứa con đang khóc - đừng bực bội nữa. Loại người này không khôn khéo đâu, điều đó không có gì phải bàn cãi, nhưng hãy nghĩ rằng trong lúc tính toán, chúng đã không thể đưa được vào phép tính sự khôn khéo của một người như ông. Ông Lecoq, người có tính kiêu căng của các nghệ sĩ, rất nhạy cảm với lời khen và che giấu khá tệ về mặt hài lòng. - Vậy chúng ta hãy độ lượng. - Cha Plantat nói tiếp - Vả lại, - Ông ngừng một lát để nhấn mạnh giá trị của những gì sắp nói ra - ông vẫn chưa nhìn thấy hết. Không bao giờ người ta biết được khi nào ông Lecoq đóng kịch. Làm sao mà biết được, ngay cả ông không phải lúc nào cũng biết. Người nghệ sĩ tài ba này với nỗi đam mê dành cho nghệ thuật, luôn tập luyện để giả vờ mọi biến động của tâm hồn, giống như ông đã quen với việc mặc tất cả các loại quần áo, ý thức chuyên môn của ông cũng vậy, có thể đến lúc này, khi đạt tới sự hoàn thiện đau buồn dành cho sự thật, ông không còn tình cảm nào ngoài diện mạo là của riêng mình. Ông gào thét quát mắng bọn gian ác, hoa chân múa tay, nhưng vẫn không ngừng gian xảo quan sát Cha Plantat và câu nói cuối cùng của ông ta đã làm ông phải gióng tai nghe. - Vậy ta đi xem phần còn lại. - Ông nói. Rồi vừa theo chân ông Thẩm phán già ra vườn, ông vừa thổ lộ với bức chân dung trên nắp hộp kẹo về sự bực bội và nỗi thất vọng: Ghê thật cái ông già hay làm ra vẻ bí mật này. Chúng ta sẽ chẳng lừa được ông ta để rút ra điều gì từ cái đầu bướng bỉnh kia đâu. Ông ta sẽ cho ta từ khóa của trò chơi đố chữ khi nào chúng ta đoán được nó, không sớm hơn đâu. Ông ta cũng mạnh như chúng ta, cô nàng đáng yêu của ta, ông ta hoàn toàn chỉ thiếu một ít thực tiễn. Tuy nhiên, nàng thấy đấy, để ông ta tìm thấy điều ta còn chưa biết, thì chắc là ông ta đã có được những dấu vết mà chúng ta không biết. Ở ngoài vườn chưa có cái gì bị xáo lộn. . - Đây này ông Lecoq. - Ông Thẩm phán già vừa nói vừa đi theo một trong những lối đi hình bán nguyệt chạy ra sông Seine - Tại đây, ở bãi cỏ này, là nơi người ta tìm thấy một chiếc dép đi trong nhà của ông bá tước tội nghiệp. Đằng kia, cách lẵng hoa mỏ hạc một chút về bên phải là chiếc khăn choàng của ông ấy. - Họ ra đến bờ sông và rất thận trọng nhấc mấy tấm ván mà ông Xã trưởng cho người đặt lên để giữ cho dấu vết không bị xóa. - Chúng tôi giả định, - Cha Plantat nói - rằng bà bá tước đã cố thoát ra để chạy đến đây, chính tại đây chúng đã đuổi kịp và kết liễu bà. Liệu có phải đó là ý kiến của ông Thẩm phán già. hay ông chỉ thể hiện cái ấn tượng lúc sáng? Ông Lecog không thể đoán được. Ông tiếp lời: - Theo tính toán của tôi, thưa ngài, bà bá tước đã không thể chạy trốn được. Có khả năng bà ấy đã chết trước khi bị đưa đến đây, hoặc là logic không còn là logic. Vả lại, chúng ta hãy xem xét đã. Thế là, giống như ở căn phòng trên lầu hai kia, thậm chí còn tận tâm hơn, ông quỳ xuống lần lượt xem xét lớp cát trên lối đi, đến vũng nước đọng và mấy bụi cây thủy sinh. Rồi ông trèo lên bờ, nhặt một hòn đá ném xuống và ngay lập tức lại gần để quan sát hiệu ứng do bùn bắn gây ra. Sau đó ông bước tới bậc thềm, rồi quay lại cho bóng cây liễu qua bãi cỏ, nơi vẫn lưu lại rất rõ những dấu vết của một vật nặng bị kéo lê mà ban sáng mọi người đã nhận thấy. - Không hề để ý đến chiếc quần của mình, ông quỳ gối bò trên bãi cỏ xem xét từng ngọn cỏ, vạch các bụi rậm để nhìn tận đất, quan sát tỉ mỉ hướng gãy của những thân cây nhỏ. Sau khi xem xét, ông nói: - Suy luận của tôi đã được khẳng định, người ta đã đem bà bá tước đến đây. - Ông chắc chứ? - Cha Plantat hỏi. Lần này thì ông không thể nhầm. Rõ ràng, về điểm này thì ông Thẩm phán già đang còn do dự, muốn biết thêm một ý kiến nữa để quyết định quan điểm của mình. - Không thể có sự nhầm lẫn ở đây. - Ông Lecoq đáp. Rồi, mỉm cười vẻ tinh tế, ông nói thêm: - Chỉ có điều, vì hai ý kiến sẽ hơn một, nên tôi xin ngài, thưa ngài Thẩm phán, hãy nghe tôi nói, sau đó ngài sẽ cho biết suy nghĩ của mình. Trong lúc khám soát, ông Lecoq đã tìm thấy một chiếc que mềm nằm dưới đất, vừa nói ông vừa dùng cái que đó chỉ các đồ vật giống như những anh làm trò ngoài chợ đang chỉ ra cảnh huyền diệu mà người ta có thể nhìn thấy bên trong trên những bức tranh lều quán. - Không - Ông nói - thưa ngài Thẩm phán hòa giải, bà Trémorel không bỏ chạy. Nếu bị đánh tại đây, bà ấy sẽ phải ngã khá mạnh, như thế, sức nặng của bà ấy sẽ phải làm bắn nước khá xa và không chỉ có nước, mà cả bùn nữa. Thế thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy những vết bùn nước bắn tung tóe. - Nhưng ông không nghĩ là từ sáng đến giờ, mặt trời... - Mặt trời, thưa ngài, có thể sẽ hút hết nước, nhưng vết bùn khô sẽ còn lại, song, tôi đã cố công soi kĩ từng viên sỏi trên lối đi mà không tìm thấy gì. Người ta sẽ phản bác tôi rằng nước và bùn sẽ bắn ra hai bên. Tôi xin trả lời: các vị hãy xem xét mấy khóm lay ơn này, mấy lá cây hoa súng này, mấy thân cây bắc này, các vị sẽ thấy trên tất cả các cây có một lớp bụi, tôi biết là rất mảnh, nhưng rốt cục đó là bụi. Các vị có tìm ra vết nước nào không? Không. Đó là vì không hề có sự bắn nước, như vậy không có cái gì bị rơi mạnh, không có chuyện bà bá tước bị giết tại đây, vậy là xác bà bị đem đến tận đây được đặt nhẹ nhàng đúng chỗ các vị đã tìm thấy. Cha Plantat không có vẻ bị thuyết phục hoàn toàn. Ông nói: - Nhưng còn dấu vết của cuộc vật lộn trên cát đằng kia? Ông Lecoq phác một cử chỉ làm duyên để phản đối. Anh đáp: - Ngài Thẩm phán hòa giải chắc là thích đùa, những dấu vết đó không thể đánh lừa được một cậu học sinh phổ thông. - Nhưng tôi cảm thấy... - Không có gì nhầm được, thưa ngài. Đúng là cát bị cày xới. Nhưng tất cả những vệt dài sục đến tận lớp đất dưới cát kia đã được thực hiện bởi một bàn chân, điều đó có thể ông không tin - và hơn nữa, chúng được thực hiện hoàn toàn bằng mũi chân - điều này ông có thể nhận ra: - Vâng, quả thực tôi có nhận ra. - Thế này, thưa ông, khi có một cuộc vật lộn trên một nền đất thuận tiện cho việc điều tra như ở đây, người ta sẽ nhận thấy hai loại vết tích rõ rệt: một loại của kẻ tấn công, một loại của nạn nhân. Kẻ tấn công, vì có xu hướng lao về phía trước, nên phải tì người lên phần trước của bàn chân và sẽ in dấu mũi bàn chân lên đất. Ngược lại, nạn nhân, là người giãy giụa tìm cách thoát khỏi vòng tay siết chặt của kẻ kia, sẽ lấy sức từ phía sau, phải xuống tấn tì lực lên gót chân, sẽ in dấu gót chân lên mặt đất. Nếu các đối thủ ngang sức nhau, ta sẽ thấy số lượng dấu vết mũi và gót chân gần như ngang nhau, tùy theo diễn biến ngẫu nhiên của cuộc vật lộn. Ở đây chúng ta thấy gì? Cha Plantat ngắt lời vị nhân viên an ninh: - Đủ rồi, thưa ông, một người dễ hoài nghi nhất bây giờ cũng thấy thuyết phục. Và sau một lát suy tư như để đáp lại ý nghĩ thầm kín của mình, ông nói thêm: - Không, không còn gì có thể phản bác được nữa. Về phần mình, nghĩ rằng màn chứng minh của mình đáng được ban thưởng, ông Lecoq long trọng nuốt một chiếc kẹo cam thảo rồi nói tiếp: - Nhưng tôi vẫn chưa nói hết. Vậy là chúng ta nói rằng bà bá tước không thể bị kết liễu tại đây. Tôi sẽ nói thêm: bà ấy không phải bị khiêng, mà là bị kéo lê đến đây. Có thể dễ dàng xác định điều này. Chỉ có hai cách kéo một xác chết. Một là kéo đằng vai, khi đó hai chân kéo lê trên đất để lại hai vệt như hai đường cày song song. Hai là kéo bằng chân, khi đó đầu bị kéo trên đất sẽ để lại một vết duy nhất và hơi rộng. Cha Plantat gật đầu đồng ý. - Khi xem xét bãi cỏ, - Vị nhân viên an ninh nói tiếp - tôi nhận thấy các vết hằn song song của đôi chân, nhưng có bị ép trên một khoảng không khá rộng. Tại sao? Là vì đó không phải là xác người đàn ông bị kéo trên bãi cỏ, mà là xác một người đàn bà mặc đầy đủ váy áo với bộ váy khá nặng, đó là xác của bà bá tước không phải của ông bá tước. Ông Lecoq ngừng lời chờ đợi một lời khen, một câu hỏi, hoặc một lời gì đó. Nhưng ông Thẩm phán già không còn vẻ lắng nghe mà hình như đang chìm đắm trong những tính toán mơ hồ nhất. Đêm bắt đầu xuống, một làn sương mỏng giống như khói rơm đang lượn lờ trên sông Seine. Cha Plantat đột nhiên nói: - Ta phải vào nhà thôi, để xem ông bác sĩ khám nghiệm tử thi đến đâu. Và họ chậm rãi bước vào nhà. Ông Thẩm phán điều tra đang đứng trên bậc thềm chuẩn bị đón họ. Ông đang cầm trên tay chiếc khăn lớn bằng da thuộc màu tím có gắn các chữ cái tên họ của mình và ông mặc chiếc áo khoác nhẹ bằng vải Orleans màu đen. Trông ông có vẻ hài lòng. - Tôi sẽ để ông làm chủ nhà tối nay, thưa ông Thấm phán hòa giải, - Ông nói với Cha Plantat - tôi phải về bây giờ, nếu như muốn gặp ông biên lý tối nay. Sáng nay, lúc ông bảo tôi đến tìm ông ấy thì ông ấy không có nhà. Cha Plantat nghiêng đầu chào. Ông Domini nói tiếp. - Tôi sẽ chịu ơn ông nhiều nếu ông giám sát phần kết của công việc. Bác sĩ Gendron vừa nói là mấy phút nữa ông ấy sẽ xong, sẽ gửi báo cáo cho tôi vào sáng mai. Tôi trông cậy vào sự giúp đỡ ân cần của ông để nhờ đóng dấu niêm phong những chỗ cần thiết và cắt cử người canh gác. Tôi dự định cử một kiến trúc sư đến đây để dựng lại chính xác bản vẽ của ngôi nhà và khu vườn. - Như thế - Ông Thẩm phán hòa giải nhận xét - chắc sẽ phải có cuộc điều tra bổ sung? - Tôi không nghĩ thế. - Ông Thẩm phán điều tra đáp với giọng chắc chắn. Rồi ông quay sang hỏi ông Lecoq: - Thế nào ông cảnh sát, ông có phát hiện thêm điều gì mới không? - Tôi đã thu được nhiều điều quan trọng, - Ông Lecoq đáp - nhưng tôi chưa thể nói được điều gì khi chưa xem rõ những gì ở trên kia. Vậy nên tôi xin ngài Thẩm phán điều tra cho phép tôi nộp báo cáo vào chiều mai. Vả lại tôi tin rằng cho dù vụ này có rắc rối thế nào thì... Ông Domini không để ông nói hết câu. - Nhưng mà, - Ông ngắt lời - tôi không thấy có gì rắc rối trong vụ này cả, trái lại, tôi thấy mọi thứ rất rõ ràng. - Nhưng, - Ông Lecoq phản bác - tôi nghĩ... - Thực sự tôi lấy làm tiếc, - Ông Thẩm phán điều tra nói tiếp - rằng người ta đã quá vội vàng gọi ông khi không đến mức cần kíp như thế. Giờ đây tôi đã có những lời buộc tội xác chứng nhất chống lại hai kẻ tôi đã cho bắt giữ. Cha Plantat và ông Lecoq nhìn nhau một lúc lâu, bày tỏ sự ngạc nhiên vô cùng. -Sao? - Ông già Thẩm phán hòa giải không thể không thốt lên - Chắc là ngài đã có thêm những dấu hiệu mới, thưa ngài! - Còn hơn cả những dấu hiệu, tôi tin như thế. Ông Domini đáp với một cái nhếch môi khó chịu - Lão Bợm Nhậu, khi bị tôi hỏi cung lần thứ hai, đã bắt đầu lúng túng. Y mất hẳn thái độ ngạo mạn. Tôi đã làm cho y lộ tẩy nhiều chỗ, cuối cùng y phải thú nhận đã nhìn thấy bọn sát nhân. - Bọn sát nhân! - Cha Plantat thốt lên - Lão ta nói là “bọn sát nhân” à? - Lão đã nhìn thấy ít nhất một tên trong số chúng. Lão cứ khăng khăng thề là đã không nhận ra nó. Thể là chúng ta đã tiến triển được đến mức này rồi. Nhưng bóng đêm của nhà tù sẽ là sự khủng khiếp bổ ích. Ngày mai, sau một đêm mất ngủ, tôi tin lão ta sẽ khai rõ hơn. - Nhưng còn tay Guespin, - Ông Thẩm phán già hỏi - ngài có hỏi cung hắn nữa không? - Ô! - Ông Domini nói - Đối với anh chàng này, thế là đủ rồi. - Anh ta thú nhận rồi ư? - Ông Lecoq sửng sốt hỏi Ông Thẩm phán điều tra liếc xéo vị nhân viên an ninh của Sở Cảnh sát, như thể thấy khó chịu vì ông ta dám chất vấn mình. Tuy nhiên ông vẫn đáp: - Guespin không thú nhận gì cả, nhưng vụ án của anh ta cũng không khá hơn. Mấy người thuyền chài của chúng ta đã quay về. Không tìm thấy xác ông Trémorel nên họ nghĩ có thể nó đã bị nước cuốn đi. Nhưng họ đã vớt được ở cuối khuôn viên, trong đám lau sậy, một chiếc dép nữa của ông bá tước, sau đó, ở giữa sông Seine, các vị hãy chú ý chi tiết này, dưới gầm cầu, họ tìm thấy một chiếc áo vét bằng vải dạ thô vẫn còn dính những vết máu. - Vậy chiếc áo vét này là của Guespin? - Ông Thẩm phán hòa giải và vị nhân viên an ninh đồng thanh hỏi. - Đúng thế. Những người trong lâu đài đều nhận ra nó và Guespin cũng dễ dàng thú nhận nó là của mình. Nhưng không chỉ có thế... Ông Domini ngừng lời như để lấy hơi, nhưng thực ra là muốn để Cha Plantat phải đợi một chút. Sau những bất đồng ý kiến, ông đã nhận thấy ở ông Thẩm phán già có sự ác cảm ngấm ngầm nào đó và - vì sở thích của con người vẫn chẳng bao giờ mất đi quyền hạn của nó - ông không thấy khó chịu nếu được đắc thắng một chút. - Không phải chỉ có thế, - Ông nói tiếp - chiếc áo vét này có một miếng rách lớn ở túi bên phải và một mẫu áo đã bị xé mất. Cái mụn vải áo vét của anh chàng Guespin này, các vị có biết nó trở thành thế nào không? - Ồ! - Cha Plantat khẽ nói - Chính là cái mụn vải mà chúng ta đã tìm thấy trong tay bà bá tước. - Đúng như ông nói, thưa ông Thẩm phán hòa giải. Ông nghĩ thế nào về cái vật chứng phạm tội này của bị can? Cha Plantat cảm thấy rụng rời, hai tay buông thõng. Về phần ông Lecoq, trước mặt ông Thẩm phán điều tra, ông đã lấy lại vẻ nghiêm khắc của một người bán hàng xén nghỉ việc, ông sửng sốt đến nỗi suýt chết nghẹn vì miếng kẹo trong cổ. - Thật quái quỷ! - Ông vừa nói vừa ho để chữa thể diện - thế này thì quá lắm! Ông cười ngớ ngẩn rồi hạ giọng nói thêm chỉ để cho Cha Plantat nghe: - Thật quá quắt! Cho dù điều đó cũng đúng như chúng ta dự đoán. Những ngón tay co rúm của bà bá tước có giữ một mụn vải dạ, vậy là bọn giết người đã cố ý đặt nó vào tay bà. Ông Domini không nghe thấy tiếng càm ràm cũng như lời nhận xét của ông Lecoq. Ông chia tay cho Cha Plantat chào tạm biệt và hẹn hôm sau gặp nhau ở tòa án. Sau đó ông ra về, kéo theo cả viên lục sự. Guespin và lão Bợm Nhậu, hai tay bị còng số tám, mấy phút trước đã bị dẫn đến nhà tù ở thị trấn Corbeil, dưới sự áp giải của lính hiến binh xã Orcival. Chương 8 Trong phòng bi-a của lâu đài Valfeuillu, ông bác sĩ Gendron vừa làm xong công việc ảo não của mình. Ông đã cởi bỏ chiếc áo đuôi tôm màu đen có măng-sét rộng, hai chiếc đuôi áo rộng thùng thình, có những lỗ khuyết được viền ruy băng đỏ theo hình bắc đầu bội tinh, một chiếc áo của nhà bác học thực sự, rồi ông xắn tay áo sơ mi may bằng loại vải bền lên tận quá khuỷu tay. . Bên cạnh ông, trên chiếc bàn nhỏ đựng đồ giải khát, bày la liệt mấy dụng cụ phục vụ cho công việc, mấy con dao mổ và mấy cái que thăm bằng bạc. Để khám nghiệm, chắc ông đã phải lột bỏ váy áo của tử thi rồi trùm lên chiếc khăn trải giường rộng, màu trắng, làm nổi lờ mờ các đường nét của thi thể và che phủ cả mép bàn bi-a. Đang cúi mình xuống xô nước lớn, ông bác sĩ sắp rửa tay xong thì ông Thẩm phán già và ông Lecoq bước vào. Nghe tiếng động ở cửa, ông nhanh nhẹn đứng thẳng người. - Ồ! Ông đấy à, ông Plantat! - Ông nói lạc cả giọng - Ông Domini đâu? - Về rồi. Ông bác sĩ không thèm kìm nén một cử chỉ sốt ruột liền nói: - Dù sao tôi cũng cần phải nói với ông ấy, nhất định phải nói và càng sớm càng tốt. Bởi vì rốt cục có lẽ là nhầm, có thể tôi nhầm... Ông Lecoq và Cha Plantat bước lại gần sau khi khép lại cánh cửa mà bên ngoài đám gia nhân đang vây quanh. Khi bước vào khoảng sáng của ánh đèn, hai người nhìn thấy rõ vẻ mặt điềm tĩnh thường ngày của ông Gendron đang bị kích động như thế nào. Mặt ông tái xanh, tái xanh hơn cả cái xác đang nằm dưới tấm khăn trải giường kia. Sự biến dạng vẻ mặt và giọng nói của ông bác sĩ không thể do cái nhiệm vụ mà ông vừa hoàn thành. Chắc chắn đây là một công việc nặng nhọc, nhưng ông Gendron là một trong những bác sĩ thực hành đã từng bắt mạch cho tất cả những người cùng khổ và đã gặp nhiều cảnh gớm ghiếc hơn nhiều, nói cho cùng thì họ đã nhìn thấy đủ những cảnh như thế này rồi. Chắc hẳn ông đã phát hiện ra điều gì khác thường lắm. - Ông bác sĩ kính mến! - Cha Plantat nói - Tôi sẽ hỏi ông câu hỏi mà ông đã hỏi tôi cách đây mấy tiếng: Ông thấy trong người khó ở không, có đau ở đâu không? Ông Gendron buồn rầu lắc đầu, rồi trả lời với ý đồ có tính toán và hoàn toàn có cân nhắc: - Tôi sẽ trả lời ông, ông bạn ạ, đúng như ông đã trả lời tôi: Cảm ơn ông, không có gì, tôi khá hơn rồi. Thế là hai người, vì có óc quan sát sâu sắc như nhau, đều phải quay đầu đi chỗ khác, như thể sợ phải trao đổi ý nghĩ, cả hai đều nghi ngờ ánh mắt thuyết phục của nhau. Ông Lecoq liền lên tiếng: - Tôi nghĩ là mình biết lý do làm ông bác sĩ xúc động. Ông ấy vừa phát hiện ra rằng bà Trémorel đã bị giết ngay lập tức, sau đó lũ giết người còn lao vào hành hạ một cái xác đã gần như lạnh cứng. Ông bác sĩ nhìn vị nhân viên an ninh với vẻ sững sờ tột độ: - Làm sao ông đoán được điều đó? - Ông hỏi. - Ồ! Không chỉ mình tôi đoán ra. - Ông Lecoq khiêm tốn đáp - Tôi phải chia sẻ với ông Thẩm phán hòa giải niềm vinh dự về cái hệ thống lập luận đã dẫn chúng tôi đi đến dự đoán điều này. Ông Gendron đập tay lên trán kêu lên: - Quả thực, giờ tôi đã nhớ ra lời khuyến nghị của ông, phải thú nhận là trong cơn bối rối quá mức, tôi đã hoàn toàn quên mất. Ông Lecoq nghĩ là phải nghiêng mình đáp lễ. - Thế này nhé, - Ông bác sĩ nói tiếp - những điều dự đoán của ông đã tỏ ra là đúng. Giữa cú dao găm đầu tiên dẫn đến cái chết và những cú sau đó, có thể không mất một khoảng thời gian như ông giả định, nhưng tôi tin rằng bà Trémorel đã chết được gần ba giờ cho đến khi chúng đâm chém xác bà một trận nữa. - Ông Gendron bước đến bên bàn bi-a rồi thong thả nhấc tấm vải phủ lên, làm lộ ra bộ mặt và phần thân trên của xác chết. - Ông soi cho chúng tôi nhé, ông Plantat. - Ông yêu cầu Ông Thẩm phán già nghe theo. Ông cầm một cây đèn đem sang phía bên kia chiếc bàn bi-a. Tay ông run mạnh đến nỗi bầu đèn và bóng đèn thủy tinh va chạm vào nhau. Ánh sáng chập chờn hắt lên tường những cái bóng ảm đạm. Tuy nhiên, khuôn mặt bà bá tước đã được rửa kĩ càng, các vết máu và bùn được lau sạch. Vì thế dấu vết của các cú đâm nhìn rõ hơn. Những dấu vết của sắc đẹp vẫn hiện lên trên khuôn mặt vàng vọt này. Ông Lecoq đang đứng cạnh bàn bi-a, cúi xuống để xem xét gần hơn. - Bà Trémorel, - Ông bác sĩ Gendron nói - đã bị đâm mười tám nhát dao. Trong số các vết thương này có một vết chí mạng, đó là vết đâm gần như thẳng đứng, đây này, chỗ đó, ở dưới vai một chút. Vừa nói ông vừa chỉ một vết thương há miệng lớn và tay trái ông nâng cái xác lên, mái tóc vàng tuyệt đẹp của bà xõa kín tay ông. Đôi mắt bà bá tước vẫn còn lưu lại vẻ khiếp sợ. Có vẻ như từ cái miệng hé mở kia đan8 thốt lên tiếng kêu: “Cứu tôi với!” Cha Plantat, người có trái tim sắt đá, quay mặt đi còn ông bác sĩ, lúc này đã làm chủ được nỗi xúc động, tiếp tục nói với giọng khoa trương của các giáo sư trên giảng đường: - Lưỡi dao chắc phải rộng khoảng 3 cen-ti-mét và dài ít nhất 25 cen ti-mét. Những vết thương khác ở cánh tay, ngực, vai, thì tương đối nhẹ. Có thể giả định rằng, những vết thương này bị đâm ít nhất hai tiếng sau khi khi vết đâm chí mạng kết liễu bà. - Đúng. - Ông Lecoq nói. - Các vị hãy chú ý, - Ông bác sĩ hoạt bát nói tiếp - rằng tôi không tuyên bố chắc chắn điều gì, tôi chỉ đưa ra một khả năng. Các hiện tượng làm cơ sở cho niềm tin của tôi quá mơ hồ, quá khó nắm bắt bản chất, cần phải tranh luận thêm nữa, nên tôi không dám chắc điều gì. Lời phát biểu của ông bác sĩ có vẻ làm ông Lecoq rất phật ý. - Tuy nhiên, - Ông nói - khi mà... - Điều tôi có thể khẳng định, - Ông Gendron ngắt lời - điều tôi sẽ khẳng định không chút ngại ngùng trước tòa, với lời thề chắc chắn, rằng những vết thương giập nát đầu, trừ một vết duy nhất, đều được gây ra sau khi bà bá tước đã chết. Không có gì phải nghi ngờ, bàn cãi. Đây này, ở phía trên mắt là cú đâm khi bà còn sống. Như các vị thấy đấy, máu ngấm vào các mắt xích của mô tế bào khá nhiều, khối u tụ máu rất to, có màu rất đen ở giữa và bị sạm đi. Còn những vết giập nát khác Có rất ít đặc điểm như thế, khi mà cú đập khá mạnh đã làm gãy xương thái dương, nhưng không hề có dấu hiệu bầm máu. - Hình như, thưa bác sĩ! - Ông Lecoq gợi ý - Từ sự việc đã được chứng minh rằng bà bá tước sau khi chết đã bị đánh bởi một dụng cụ dùng để đập, ta cũng có thể kết luận bà qua đời do bị đâm bằng dao. Ông Gendron suy nghĩ một lát rồi nói: - Có thể ông nói đúng, về phần tôi thì tôi tin như thế. Tuy nhiên, kết luận báo cáo của tôi sẽ không giống như của ông. Pháp y chỉ được tuyên bố dựa trên những sự việc hiển nhiên đã được chứng minh và không thể bàn cãi. Nếu nó có sự nghi ngờ nào, dù là nhỏ nhất, mong manh nhất, thì nó phải im lặng. Tôi sẽ nói thêm: nếu có một sự hoài nghi, thì quan điểm của tôi là bị cáo sẽ phải được hưởng lợi từ đó chứ không phải bên nguyên cáo. Chắc đây không phải quan điểm của vị nhân viên an ninh, nhưng ông tránh không nói gì. Ông theo dõi ông bác sĩ với vẻ chăm chú say mê, vẻ mặt nhăn lại cho thấy đang vận dụng nỗ lực của trí thông minh. Ông nói: - Bây giờ tôi thấy có thể xác định được nơi và cách thức bà bá tước bị đánh. Ông bác sĩ phủ vải lại cho xác chết và Cha Plantat cũng đặt lại cây đèn lên chiếc bàn nhỏ. Cả hai đề nghị ông Lecoq phát biểu ý kiến. - Thôi được! - Vị nhân viên an ninh nói tiếp - Chiều hướng vết thương của bà Trémorel chứng tỏ cho tôi thấy rằng bà ấy bị giết khi đang ngồi uống trà trong phòng người hơi cúi về phía trước. Kẻ giết người đến từ phía sau, tay giơ lên, chọn đúng vị trí và đâm với một lực khủng khiếp. Cú đâm mạnh đến nỗi nạn nhân ngã dúi xuống phía trước, trán bà đập vào góc bàn, làm thành vết thương bầm máu duy nhất ở đầu mà chúng ta đã thấy. Ông Gendron lần lượt quan sát ông Lecoq và Cha Plantat khi thấy hai người nhìn nhau với ánh mắt khác lạ. Có lẽ ông nghi ngờ rằng họ đang chơi trò gì đó. Ông liền nói: -Tội ác chắc phải xảy ra như vị cảnh sát đây đã giải thích. Một sự im lặng khó xử lại bao trùm, đến nỗi Cha Plantat thấy rằng đã đến lúc phải can thiệp. Bực bội bởi thái độ im lặng ương bướng của ông Lecoq, ông liền hỏi: - Ông đã thấy những gì cần thấy rồi chứ? - Hôm nay thế là đủ rồi, thưa ngài. Tôi cần một vài cuộc khám xét nữa, nhưng phải đợi ánh sáng ban ngày. Vả lại, tôi cảm thấy, trừ một chi tiết vẫn làm tôi lo lắng, thì toàn bộ vụ việc tôi đều nắm rõ cả rồi. """