" Tình Yêu Thời Thổ Tả PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Yêu Thời Thổ Tả PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tình yeâu thôøi tho taû Tên Ebook: Tình Yêu Thời Thổ Tả Tác Giả: Gabriel García Márquez Nguyên tác: El amor en los tiempos del cólera Thể Loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Lãng mạn, Văn học phương Tây Dịch Giả: Nguyễn Trung Đức Nhà xuất bản: Văn Học Năm xuất bản: 2008 Số trang: 535 Khổ sách: 13 x 19 cm Giá bìa: 64.000 VND Đánh máy: Tuấn Hải, Quan Trường, Hải Anh, Hồng Nhung, Khánh Dư, Duyên, Phương Thúy, Mỹ Linh, Bảo Trân, Văn Định, Hồng Nhung, Ngọc Nở, Trịnh Cường Soát lỗi: Thu Hằng, Thu, Đức Đặng Nguồn: sgtt.vn Ebook: daotieuvu.blogspot.com Ebook được blog Đào Tiểu Vũ hoàn thành với mục đích phi thương mại, nhằm chia sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua sách, khi sao lưu xin ghi rõ nguồn. Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản vàtácgiả. GIỚI THIỆU Tình yêu thời thổ tả là câu chuyện tình say đắm giữa một người đàn ông tên Phlorênhtinô Arixa - con một bà bán hàng vặt, với một người phụ nữ tên Phecmina Đaxa - con một nhà buôn hãnh tiến, giàu có mới phất nhờ ăn cắp và gian lận. Khi mới lớn lên, họ yêu nhau nồng nàn nhưng không lấy được nhau vì họ quá trẻ, không có kinh nghiệm sống cũng như nghị lực lớn để chiến thắng quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân. Hơn năm mươi năm, họ sống xa mặt nhưng không cách lòng với bao sóng gió cuộc đời. Phecmina Đaxa nhẫn nhục sống làm vợ - một thứ đồ trang sức và một nàng hầu - của bác sĩ Ucbino Đê la Cadê, một thân hào đầy thế lực của giới thượng lưu. Phlorênhtinô Arixa vì thất tình nên một mặt lao vào làm giàu bằng mọi thủ đoạn, cả tốt lẫn tàn nhẫn, để trở thành chủ hãng tàu thủy như điều ông ta mong ước và mặt khác, để thỏa mãn nhục dục, ông ta lao vào “chơi gái” đủ mọi hạng: gái chưa chồng, gái muộn chồng, gái chê chồng và chồng chê, gái nạ dòng và cả gái tơ, nhưng không lúc nào không mơ tới Phecmina Đaxa và chỉ chờ ngày Đê la Cadê chết để nối lại quan hệ với nàng. Dịp ấy đã đến khi cả ông lẫn bà đã ngoài bảy mươi tuổi. Bằng sự từng trải của mình, bằng địa vị xã hội đã đạt được, cả hai nối lại tình yêu và trở lại yêu nhau đắm đuối như lúc trước. Nhưng vì đã quá già nên hai người đã không đủ sức thắng nổi những định kiến, thành kiến của xã hội hủ lậu từng bóp chết mối tình đầu của họ. Và thế là họ trốn lên tàu thủy và chỉ hai ngườisống với nhau trên chiếc tàu treo lá cờ vàng - dấu hiệu có người bị bệnh thổ tả - chạy ngược rồi chạy xuôi trên dòng sông Măcgơđalêna - dòng sông của Đêmôcrit. Có thể nói, Tình yêu thời thổ tả là một bản cáo trạng đanh thép đối với một xã hội hủ lậu dựa trên sự đánh giá con người không bằng phẩm giá người mà bằng số của cải anh ta có được. Nó đã bóp chết bao mối tình trong sáng và tươi đẹp. Muốn có tình yêu và hạnh phúc tình yêu, con người nhất thiết phải được giải phóng khỏi xã hội đó. Nhưng tác giả đã không dừng lại ở chỉ một thông điệp này, ông còn đi xa hơn nữa khi nóirằng: Tình yêu thời thổ tả là sự suy nghĩ về tình yêu của con người ở mọi lứa tuổi. Con người không chỉ yêu nhau khi đang độ thanh xuân, khi đang ở tuổi tráng niên mà còn yêu nhau khi đã tóc bạc răng long và chính ở tuổi này, họ yêu nhau chân thực hơn và vì thế cũng da diết hơn, si mê hơn. Với Tình yêu thời thổ tả, tình yêu đích thực là chiếc chìa khóa vàng giúp con người mở cửa tâm hồn mình, để hòa vào nhau, đến với nhau trong cuộc đấu tranh chống lại nỗi cô đơn muôn thuở. Đồng thời, với nụ cười hóm hỉnh, dường như tác giả Marquez muốn cảnh tỉnh những ai đang đùa cợt với ái tình, đang lợi dụng tình yêu để thỏa mãn nhục dục của mình. Những người đó hãy nhận thức về nỗi cô đơn vì sớm muộn gì thì nó cũng nuốt chửng họ sau khi nhục dục đã được thỏa mãn... Tình yêu thời thổ tả chính là thứ tình yêu thủy chung, tình yêu trong sáng nhất. Chứng kiến mối tình của Phlorênhtinô Arixa và Phecmina Đaxa, độc giả mới hiểu được rằng: Trong tình yêu chỉ tồn tại duy nhất thứ gọi là tình yêu, còn tất cả những điều thuộc về xã hội, với những quy tắc, lý thuyết, dư luận…. và ngay cả thời gian cũng đều trở nên vô nghĩa. Tình yêu bất tử là một tình yêu, mãi mãi vẫn là tình yêu. Cuộc sống chóng tàn, hữu hạn nhưng tình yêu là một ngọn nến cháy mãi, vô cùng. Câu chuyện Tình yêu thời thổ tả vẫn còn mãi trong cuộc đời này chỉ đến khi nào tình yêu kết thúc, nhưng có thể chắc chắn một điều là, tình yêu không bao giờ có điểm dừng lại, cũng giống như tình yêu của hai nhân vật chính trong câu chuyện của Marquez... Tình yêu thời thổ tả được xuất bản năm 1985 và được tạp chí New York Times đánh giá là một trong những thiên tình sử đẹp nhất mọi thời đại, là “tuyên ngôn cho sự bất diệt của trái tim”. Ngoàira, tác phẩm này cũng đã có mặt trong danh sách 100 tác phẩm văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha xuất sắc trong 25 năm qua, theo bình chọn của tạp chí Semana của Colombia năm 2007. Tình yêu thời thổ tả được Gabriel Garcia Marquez viết ngay sau khi ông đoạt giải Nobel văn học năm 1982 với cuốn Trăm năm cô đơn. Nội dung của tiểu thuyết này dựa trên chính chuyện tình yêu của cha mẹ Marquez. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim với nhan đề Love in the time of Cholera. TÁC GIẢ Gabriel José García Márquez (6 tháng 3 năm 1928 - ) là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và một người hoạt động chính trị. Nổi tiếng với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (El amor en los tiempos del cólera), Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca), Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto) và hơn cả là Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad), García Márquez là một đại diện tiêu biểu của nền văn học Mỹ Latinh. Tên tuổi của ông gắn liền với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. García Márquez được trao Giải Nobel Văn học năm 1982. Gabriel José García Márquez sinh tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Colombia, trong một gia đình trung lưu 11 người con mà ông là con cả. Cha của Marquez là Gabriel Eligio Garcia, một nhân viên điện tín đào hoa có nhiều con ngoài giá thú cả trước và sau khi kết hôn. Mẹ của Marquez là bà Luisa Marquez. Gabriel García Márquez lớn lên, những năm tháng đầu tiên trong một đại gia đình, ông ngoại là Nicolas Marquez, một cựu đại tá theo phái tự do từng chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Một ngàn ngày, bà ngoại là Tranquilina, cùng nhiều bác, dì... Sau thời gian tuổi thơ, ông cùng cha mẹ chuyển đến Sucre, nơi cha của ông có một hiệu thuốc và hành nghề chữa bệnh bằng liệu pháp vi lượng đồng căn. Năm 1936, Marquez được bố mẹ gửi đến Barranquilla và Zipaquirá học phổ thông. Tới năm 1947, García Márquez tới Bogota, thủ đô của Colombia theo học tại Đại học Quốc gia Colombia và bắt đầu tham gia viết báo cho tờ El Espectador và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Năm 1948, ông tham cùng các sinh viên thủ tham gia biểu tình phản đối vụ ám sát Jorge Eliecer Gaitan, một chính khách tiến bộ, ứng cử viên tổng thốngColombia. Sau khi học được năm học kỳ, García Márquez quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Ông cũng tham gia vào "Nhóm Barranquilla", một nhóm gồm các nhà báo xuất sắc và, thông qua họ, García Márquez bắt đầu tiếp xúc với các tác giả về sau có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ông: Franz Kafka, James Joyce, đặc biệt là William Faulkner, Virginia Woolf và Ernest Hemingway. Năm 1954, Mutis, một người bạn, thuyết phục García Márquez trở lại Bogota tiếp tục làm báo và ông đã có một số phóng sự nổi tiếng. Năm 1955, García Márquez đến Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó ông tới Ý tham gia học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris, nơi García Márquez nhận được tin tờ El Espectador bị đình bản và nhận được vé máy bay về nước. Nhưng García Márquez quyết định ở lại Paris và sống trong điều kiện vật chất rất khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết Giờ xấu (La mala hora), đồng thời tách từ cuốn này viết nên Ngài đại tá chờ thư (El coronel no tiene quien le escriba). Cùng với người bạn thân Plinio Apuleyo Mendoza, García Márquez tới một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và viết nhiều thiên phóng sự về các quốc gia này. Năm 1958, sau hai tháng ở London, García Márquez quyết định trở về châu Mỹ vì cảm thấy "những điều huyền thoại đang bị nguội lạnh" trong tâm trí. Ban đầu ông ở tại Caracas, thủ đô Venezuela, và làm cho báo Momentos cùng Plinio Apuleyo Mendoza. Chứng kiến vụ đảo chính chống nhà cầm quyền độc tài Perez Jimenez, García Márquez bắt đầu có ý định viết về các chế độ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Trong một lần về thăm Barranquilla, García Márquez cưới Mercedes Barcha, người ông đã yêu từ trước khi sang châu Âu, sau đó họ có hai con trai: Rodrigo sinh năm 1959 và Gonzalo sinh năm 1960. Cũng ở Caracas, ông viết tập truyện ngắn Đám tang bà mẹ vĩ đại (Los funerales de la Mamá Grande). Năm 1960, ngay sau khi Cách mạngCuba thành công, García Márquez tới quốc gia này làm phóng viên cho hãng thông tấn Prensa Latina và làm bạn với Fidel Castro. Năm 1961, ông tới New York với tư cách phóng viên thường trú của hãng Prensa Latina của Cuba. Sau đó ông quyết định tới cư trú ở Mexico và bắt đầu với điện ảnh bằng việc viết kịch bản phim. Trong khoảng thời gian từ 1961 tới 1965, với văn học, García Márquez không sáng tác một dòng nào, hậu quả của "tâm lý thất bại" với các tác phẩm trước đây. Từ đầu năm 1965 viết tác phẩm quan trọng nhất của mình: Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad). Sau 18 tháng đóng cửa miệt mài viết, khi tác phẩm hoàn thành cũng là lúc tình trạng tài chính gia đình đặc biệt khó khăn. Để có tiền gửi bản thảo cho nhà xuất bản Nam Mỹ ở Argentina, García Márquez đã phải bán nốt những vật dụng giá trị trong nhà. Năm 1967, Trăm năm cô đơn được xuất bản và ngay lập tức giành được thành công lớn, được cả giới phê bình và độc giả mến mộ. Sau đó García Márquez tách từ Trăm năm cô đơn một sự kiện và viết thành tiểu thuyết ngắn Truyện buồn không thể tin được của Erendira và người bà bất lương (La increíble y triste historia de la cándida Eréndira y de su abuela desalmada). Từ năm 1974, García Márquez sống ở Mexico, Cuba, thành phố Cartagena của Colombia và Paris, tham gia các hoạt động chính trị với tư cách một nhà văn nổi tiếng. Năm 1975 ông viết Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca) và năm 1981 cho ra đời Ký sự về một cái chết được báo trước (Crónica de una muerte anunciada). Cũng năm 1981, ông bị chính phủ bảo thủ Colombia vu cáo là đã bí mật cung cấp tài chính cho phong trào du kích cánh tả M-19, García Márquez phải sang sống lưu vong tại Mexico trong tình trạng thường xuyên bị đe dọa ám sát. Năm 1982, Viện hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn học cho García Márquez. Trước đó ông cũng được chính phủ Pháp tặng huân chươngBắc đẩu bội tinh. Năm 1985, García Márquez xuất bản cuốn tiểu thuyết lớn tiếp theo của ông, Tình yêu thời thổ tả (El amor en los tiempos del cólera), lấy cảm hứng chính từ mối tình của cha mẹ ông. Năm 1986, García Márquez vận động thành lập Quỹ Điện ảnh mới của Mỹ Latinh và trực tiếp thành lập Trường điện ảnh San Antonio de los Banos ở Cuba, nơi hàng năm ông tới giảng dạy một khóa ngắn về viết kịch bản. Năm 1989, García Márquez viết Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto), tiểu thuyết lịch sử về Simon Bolivar, một người đấu tranh giải phóng các nước Mỹ Latinh. Năm 1992, ông viết Mười hai truyện phiêu dạt (Doce cuentos peregrinos), một tập truyện ngắn dựa trên các sự kiện báo chí. Năm 1994, ông cho xuất bản tiểu thuyết Tình yêu và những con quỷ khác (Del amor y otros demonios), lấy bối cảnh là thành phố Cartagena và tình yêu giữa một thầy tu 30 tuổi và con chiên là một đứa trẻ mới 12 tuổi. Cuối năm 1995, một nhóm bắt cóc đã thực hiện vụ bắt cóc Juan Carlos Gaviria, em trai cựu tổng thống với điều kiện là García Márquez phải lên làm tổng thống. Năm 1996, García Márquez hoàn thành cuốn Tin tức một vụ bắt cóc (Noticia de un secuestro), một thiên phóng sự được tiểu thuyết hóa về vụ những kẻ buôn lậu ma túy bắt cóc mười người, trong đó có tám nhà bá Năm 2002, mặc dù sức khỏe yếu, García Márquez đã hoàn thành cuốn hồi ký đầu tiên Sống để kể lại (Vivir para contarla) về 30 năm đầu của đời mình, trước khi tới châu Âu lần thứ nhất. Tháng 10 năm 2004, García Márquez xuất bản cuốn Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (Memoria de mis putas tristes). Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam: - Ngài đại tá chờ thư - NXB Văn Học 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học - NXB Hội Nhà Văn, 1990. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995. - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986. - Trăm năm cô đơn (iểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1993. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1999. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB V 939136 TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ - Gabriel García Márquez. ăn Học, 2004. - Truyện ngắn tuyển chọn, Nguyễn Trung Đức dịch và giới thiệu, NXB Văn học, 2008. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (tiểu thuyết), Nhóm First News dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2005. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tình yêu thời thổ tả là một trong 10 cuốn tiểu thuyết hay nhất trong thập kỷ 80 vừa qua (theo đánh giá của báo chí Mỹ) đã đem lại niềm vinh quang mới cho nhà văn được giải Nôbel văn học năm 1982 người Côlômbia, Gabriel Garcia Macquez, tác giả của Trăm năm cô đơn, Ngài đại tá chờ thư, Tướng quân giữa mê hồn trận đã được dịch ra tiếng Việt và nhà xuất bản chúng tôi ấn hành, được đông đảo bạn đọc hâm mộ. Ông là người bạn lớn của chúng ta. Tình yêu thời thổ tả là câu chuyện tình say đắm giữa một người đà ông (Phlorênhtinô Arixa, con một bà bán hàng vặt) với một người đàn bà (Phecmina Đaxa, con một nhà buôn hãnh tiến, giàu có mới phất nhờ ăn cắp và gian lận). Khi mới lớn lên, họ yêu nhau nồng nàn nhưng không lấy được nhau vì họ quá trẻ, không có kinh nghiệm sống cũng như nghị lực lớn để chiến thắng quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân. Hơn năm mươi năm họ sống xa mặt nhưng không cách lòng với bao sóng gió cuộc đời. Phecmina Đaxa nhẫn nhục sống làm vợ - một thứ đồ trang sức và một thứ nàng hầu - của bác sĩ Ucbino Đê la Cadê, một thân hào đầy thế lực của giới thượng lưu. Phlorênhtinô Arixa vì thất tình nên một mặt lao vào làm giàu bằng mọi thủ đoạn, cả tốt lẫn tàn nhẫn, để trở thành chủ hãng tàu thủy như điều ông ta mong ước và mặt khác để thỏa mãn nhục dục ông ta lao vào chơi gái đủ mọi hạng: gái chưa chồng, gái muộn chồng, gái chê chồng và chồng chê, gái nạ dòng và cả gái tơ, nhưng không lúc nào không mơ tới Phecmina Đaxa và chỉ chờ ngày Đê la Cadê chết để nối lại quan hệ với nàng. Dịp ấy đã đến khi cả ông lẫn bà đã ngoài bảy mươi tuổi. Bằng sự từng trải của mình, bằng địa vị xã hội đã đạt được, cả hai nối lại tình yêu và yêu nhau đắm đuối. Nhưng vì quá già nên hai người đã không đủ sức thắng nổi những định kiến, thành kiến của xã hội hủ lậu từng bóp chết mối tình đầu của họ. Và thế là họ trốn lên tàu thủy và chỉ hai người sống với nhau trên chiếc tàu treo lá cờ vàng - dấu hiệu có người bị bệnh thổ tả - chạy ngược rồi chạy xuôi trên dòng sông Măcgơđalêna - dòng sông của Đêmôcrit. Có thể nói Tình yêu thời thổ tả là một lời cáo trạng đanh thép đối với một xã hội hủ lậu dựa trên sự đánh giá con người không bằng phẩm giá người mà bằng số của cải anh ta có được, do đó nó đã bóp chết bao mối tình trong sáng và tươi đẹp. Muốn có tình yêu và hạnh phúc tình yêu, con người nhất thiết phải được giải phóng khỏi xã hội đó. Nhưng tác giả đã không dừng lại ở chỉ một thông điệp này, ông còn đi xa hơn nữa khi nói rằng Tình yêu thời thổ tả là sự suy nghĩ về tình yêu của con người ở mọi lứa tuổi. Con người không chỉ yêu nhau khi đang độ thanh xuân, khi đang ở tuổi tráng niên mà còn yêu nhau khi đã tóc bạc răng long và chính ở tuổi này họ yêu nhau chân thực hơn và vì thế cũng da diết hơn, si mê hơn. Vậy tình yêu là chiếc chìa khóa vàng giúp con người mở tâm hồn mình để hòa đồng với nhau, đi đến với nhau trong cuộc đấu tranh chống nỗi cô đơn muôn thuở. Đồng thời, với nụ cười hóm hỉnh, dường như tác giả cảnh tỉnh những ai đang đùa bỡn với ái tình, đang lợi dụng tình yêu để thỏa mãn nhục dục của mình. Những người đó hãy coi chừng với nỗi cô đơn vì sớm muộn gì thì nó cũng nuốt chửng bọn họ sau khi nhục dục đã được thỏa. Thiết nghĩ đó là lời cảnh tỉnh mang tính thời đại trong đó bên cạnh những thành tựu vẻ vang chưa từng có mà nhân loại hôm nay đã giành được trên phương diện văn minh vật chất thì chính nó đã thụt lùi so với cha ông mìnhương diện văn minh tinh thần, chí ít là ở hai điểm hiển nhiên: tinh thần lãng mạn và nỗi thảng thốt trong mối tình đầu. Chúng tôi trân trọng giới thiệu với độc giả tiểu thuyết TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ. NXB. VĂN HỌC “Bởi có nữ thiên thần được tấn phong, đang tiến lên phía trước những nơi này.” LÊANĐRÔ ĐIAT Không thể đừng được: mùi đắng của hạnh đào khiến ngài luôn luôn nhớ đến số phận những mối tình ngang trái. Bác sĩ Huvênan Ucbinô cảm nhận điều đó ngay từ khi mới bước vào ngôi nhà lờ mờ tối. Ngài đã phải khẩn cấp đến ngay để lo liệu cho một trường hợp mà lâu nay ngài không còn coi là trường hợp khẩn cấp nữa. Giêrêmia đê xanh Amua, một người vùng Antidat[1] lưu vong đến đây, một người tàn phế vì chiến tranh, một bác phó nháy chuyên chụp ảnh cho con nít và một người bạn chơi cờ đam gần gũi của ngài đã tự giải thoát mọi nỗi dằn vặt trong lương tâm bằng hơi xyanua vàng. Ngài thấy tử thi được tấm khăn vải phủ kín nằm trên chiếc giường dã chiến lâu nay y vẫn ngủ. Ngay bên cạnh là chiếc ghế đẩu có đặt một cái bình đựng chất độc hóa học để xông hơi. Dưới sàn nhà, một con chó săn lông đen có đốm ngực, còn bị cột vào chân giường, nằm thẳng cẳng. Bên cạnh con chó là mấy chiếc nạng. Căn phòng đã loang lổ sắc màu lại còn ngột ngạt, vốn là phòng ngủ đồng thời là phòng tráng phim ảnh của Giêrêmia đê Xanh Amua, bắt đầu sáng dần lên nhờ ánh ban mai lọt qua một ô cửa sổ cánh mở toang. Tuy ánh sáng vẫn còn yếu ớt nhưng cũng đủ cho ta nhanh chóng nhận ra uy quyền của thần chết. Những cửa sổ khác, cũng như tất cả các khe hở của căn phòng, đều được người ta lấy giẻ rách đút nút hoặc dùng các-tông đen dán kín lại, do vậy mà căn phòng đã ngột ngạt lại càng ngột ngạt hơn. Trong phòng còn có một chiếc bàn lớn đựng đầy chai lọ không nhãn và hai chiếc bình hợp kim chì - thiếc, tất cả đều ở dưới ngọn đèn thông dụng bọc giấy điều. Bình thứ ba đựng thuốc định hình là chiếc bình đặt ngay bên cạnh tử thi, nào báo và tạp chí, nào phim âm bản in trên kính, nào bàn ghế gãy chân để bừa bộn khắp phòng, nhưng tất cả đều sạch bong không một vết bụi nhờ bàn tay tháo vát lau chùi cẩn thận. Dẫu cho không khí nơi cửa sổ ùa vào làm cho căn phòng thoáng đãng hơn nhưng ở đây vẫn còn hòn than âm ỉ nóng của những mối tình không hạnh phúc mang vị đắng của hạnh đào mà chỉ người tinh tế mới nhận ra. Hơn một lần bác sĩ Huvênan Ucbinô vẫn điềm đạm nghĩ rằng cái phòng này không phải nơi thích hợp để chết trong danh thơm của Chúa. Nhưng với thời gian qua đi ngài cũng kịp nhận ra rằng sự bừa bộn trong căn phòng kia có lẽ đã tuân theo quyết định của một Đấng Toàn năng. Một viên sĩ quan cảnh sát tiến đến phía ngài. Theo sau y là một anh sinh viên y khoa trẻ măng đang thực tập tại phòng khám bệnh thành phố của ngài. Trong lúc ngài đang trên đường đến đây, hai người này đã lo mở cửa và quạt cho căn phòng thoáng đãng, lấy tấm vải trùm kín tử thi. Cả hai trang trọng chào bác sĩ để biểu lộ sự chia buồn thống thiết vì không một ai trong số họ không biết mức độ thân thiết trong tình bạn giữa ngài với Giêrêmia đê Xanh Amua. Vị thày học giàu kinh nghiệm siết chặt tay hai người như lâu nay ngài vẫn làm đối với mỗi sinh viên trước khi bắt đầu bài giảng thường lệ về môn y học thực hành tại buồng bệnh. Sau đó, ngài chìa ngón trỏ và ngón cái, do đó nom bàn tay ngài lúc ấy tựa như một bông hoa hai cánh, ngài cầm lấy mép tấm vải, rồi kính cẩn từ từ lật nó ra và thế là tử thi lộ nguyên hình. Người chết hoàn toàn khỏa thân, cứng đơ và co rúm, hai mắt mở trợn trừng, da xanh tái, nom y già hẳn đi năm mười tuổi so với đêm trước đây. Người chết có đôi con ngươi trong vắt, râu và tóc vàng hoe, bụng mang vết sẹo mổ dài còn in rõ những mối khâu, vai và hai cánh tay to bè vâm váp nhưng hai bẹn bại liệt lại teo tóp. Bác sĩ Huvênan Ucbinô nhìn tử thi hồi lâu, tim ngài đau nhoi nhói khi thấy trong những năm tháng dài đằng đẵng của cuộc chiến đấu kém hiệu quả của ngài nhằm chống lại thần chết. - Đồ hèn - ngài nói với tử thi - Điều đốn mạt nhất đã qua đi rồi. Ngài che khăn vải lại cho tử thi và lấy lại điệu bộ trịnh trọng theo kiểu hàn lâm viện vốn có của mình. Năm ngoái, ngài làm lễ khai thọ tám mươi tuổi kéo dài suốt ba ngày liền. Trong bài diễn văn cảm tạ các tân khách đến dự tiệc, một lần nữa ngài bác bỏ ý định về hưu. Ngài nói: "Tôi còn khối thời giờ để nghỉ ngơi khi nào nhắm mắt xuôi tay, còn bây giờ thì ý định nghỉ ngơi ấy nằm ngoài dự kiến của tôi". Mặc dù tai trái của ngài ngày một nghễnh ngãng hơn, mặc dù mỗi bận đi lại ngài phải chống cây ba toong mũi bịt bạc để bước đi của mình đỡ loạng choạng, ngài vẫn ăn diện như thời xuân trẻ của mình: vận quần áo lanh mịn và khoác một chiếc áo khoác có vắt chéo sợi dây đeo đồng hồ vàng chóe. Bộ ria vểnh màu hổ phách, kiểu ria của cụ Paxtơ, mái tóc vàng cũng màu hổ phách được chải ốp có đường ngôi ở giữa, đó là những biểu hiện thường nhật của cá tính con người bác sĩ Huvênan Ucbinô. Trí nhớ suy giảm khiến ngài lo ngay ngáy nhưng ngài đã khắc phục nó bằng cách ghi chép vội vàng trên những mẩu giấy rồi để lẫn lộn trong các túi áo, túi quần, cũng giống như ngài để lẫn lộn các chai lọ, dụng cụ đồ nghề và các thứ linh tinh khác trong các túi xách căng phồng. Ngài không chỉ là một thầy thuốc cao niên và sáng giá hơn cả mà còn là con người được kính trọng nhất của thành phố. Nhưng cái thói khoe khoang trí thức của mình cũng như cách thức sử dụng đầy kiêu ngạo tên tuổi của mình khiến ngài ít được mọi người yêu mến. Những chỉ dẫn của ngài ban cho viên sĩ quan cảnh sát và anh sinh viên thực tập là súc tích và ngắn gọn. Không cần phải mổ tử thi vì cái mùi lẩn quất trong phòng này đã đủ để khẳng định rằng nguyên nhân cái chết là do nhiễm phải hơi độc của muối xyanua vàng đựng trong bình phản ứng với axit và Giêrêmia đê Xanh Amua đã biết thừa điều đó nên không thể hành động thiếu thận trọng để đến nỗi phải chuốc lấy vạ vào thân. Trước thái độ dè dặt của viên sĩ quan cảnh sát, ngài trấn an ngay: "Anh nên nhớ rằng ta là người ký vào biên bản khám nghiệm tử thi". Anh sinh viên trẻ đứng ngẩn tò te, vẻ buồn bã vì theo quyết định của bác sĩ Ucbinô anh ta buộc phải bỏ cơ hội ngàn nă m có một để nghiên cứu tác hại của muối xyanua trên tử thi. Bác sĩ Huvênan Ucbinô ngạc nhiên nhận ra rằng chưa lần nào ngài thấy anh ta có mặt tại trường Y. Nhưng cái cung cách anh ta đỏ bừng mặt cũng như cách nói năng của người vùng núi Anđêt[2] đã giúp bác sĩ Ucbinô hiểu ngay rằng anh ta là người vừa mới đến thành phố này. Ngài nói với anh ta: "Ở đây sẽ chẳng thiếu những thằng điên vì tình để một ngày nào đó sẽ cho anh dịp may nghiên cứu tác động của muối xyanua vàng trên xác chết đâu" vào lúc nói như thế ngài mới sực nhớ rằng trong hàng loạt vụ tự tử mà ngài còn nhớ được thì đây là vụ đầu tiên dùng muối xyanua vàng và người tự tử không phải là một gã thất tình. Thế là ngài đổi giọng, nói với anh sinh viên trẻ: - Khi nào gặp, anh hãy chú ý cho: ở những tử thi chết vì hơi độc xyanua vàng thường hay có cát ở trong tim. Sau đó ngài nói chuyện với viên sĩ quan cảnh sát làm như thể y là người giúp việc của mình. Ngài nói: "Sau đó ta sẽ trực tiếp nói chuyện với quan Thị trưởng". Ngài biết rằng Giêrêmia đê Xanh Amua là một kẻ hà tiện vắt cổ chày ra nước, rằng bằng nghề chụp ảnh y đã thu về gấp bội so với việc chi ra cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, vì thế mà trong một vài ngăn kéo nào đó ở nhà này dứt khoát có tiền và số tiền ấy thừa sức chi phí cho việc chôn cất. - Nhưng nếu không tìm thấy tiền thì cũng chẳng sao, - ngài nói với viên sĩ quan cảnh sát - Ta chịu hết cho. Ngài bảo y hãy nói với các nhà báo rằng người thợ ảnh chết vì bệnh thôi, dẫu ngay sau đó ngài nghĩ rằng cái tin này sẽ chẳng làm cho các nhà báo thú vị gì. Ngài nói: "Nếu cần thiết ta sẽ nói chuyện với nhà chức trách". Viên sĩ quan cảnh sát, vốn là một kẻ thừa hành nghiêm chỉnh và khiêm tốn, biết rõ rằng bác sĩ Huvênan Ucbinô là một người nghiêm khắc trong việc bảo vệ luật pháp, không hề biết vị nể ai, từng làm thất vọng ngay cả những người bạn thân cận nhất, do đó y rất lấy làm ngạc nhiên trước việc bác sĩ vượt qua tất cả quy định của pháp luật để nhanh chóng chôn cất người chết. Việc duy nhất mà y không tán thành là việc bác sĩ Huvênan Ucbinô sẽ xin đức giám mục cho phép chôn Giêrêmia đê Xanh Amua trong nghĩa địa của giáo khu. Viên sĩ quan cảnh sát, khó chịu trước quyết định đường đột của bác sĩ, định can ngăn ngài: - Thưa ngài, theo chỗ tôi hiểu, con người này là cả một vấn đề đấy. - Còn hơn thế nữa - bác sĩ Huvênan Ucbinô nói - Ông ta là một vị thánh vô thần. Nhưng thôi. Những chuyện đó hãy để cho Chúa phán xử. Phía bên kia thành phố thời thuộc địa Tây Ban Nha, chuông nhà thờ lớn dõng dạc vang lên gọi con chiên đi làm lễ misa. Bác sĩ Huvênan Ucbinô đeo đôi kính gọng vàng mắt hình bán nguyệt rồi rút cái đồng hồ quả quýt ra để xem giờ. Đó là một cái hộp vuông rất xinh xắn. Ngài bóp mạnh lò xo, nắp hộp bật mở. Ôi, suýt nữa ngài bị lỡ mất lễ Hạ trần. Trong phòng có một cỗ máy ảnh to, loại máy ảnh kềnh càng có bánh xe y hệt loại vẫn được dùng tại các công viên, một tấm phông vẽ cảnh biển lúc hoàng hôn theo lối tranh thủy mạc và trên bốn bức tường có treo ảnh trẻ con trong những ngày đáng ghi nhớ của chúng: ngày nhận lễ ban thánh thể đầu tiên, ngày sinh nhật hạnh phúc, ảnh chụp chúng đội lốt thỏ. Những buổi chiều lặng lẽ suy tư trong lúc chơi cờ đam, bác sĩ Huvênan Ucbinô nhìn thấy những bức tường kia, năm này qua năm khác, bị các bức ảnh dần dà che kín và nhiều lần con tim ngài đập thình lình đầy đau khổ khi nghĩ rằng trong các bức ảnh ngẫu nhiên đem treo tường kia có những hạt giống của một thành phố tương lai, cái thành phố sẽ bị chính những đứa trẻ kia thống trị, chi phối, và ngài nghĩ trong cái thành phố tương lai ấy sẽ không còn mảy may một dấu vết nào có liên quan đến niềm vinh quang của ngài. Trên bàn giấy, bên cạnh chiếc đĩa sứ đựng mấy chiếc tẩu thuốc của những tay thủy thủ kỳ cựu là bàn cờ với cuộc đấu chưa kết thúc. Dù đang lúc cần phải khẩn trương và tâm hồn phiền muộn, bác sĩ Huvênan Ucbinô vẫn không thể cưỡng được ý muốn nghiên cứu ván cờ bị bỏ dở. Ngài biết rằng đó là ván cờ đêm hôm trước, bởi Giêrêmia đê Xanh Amua chiều nào cũng chơi cờ và tuần nào cũng vậy, y chơi với ít nhất ba đối thủ khác nhau và bao giờ cũng chơi cho đến khi xong ván mới thôi, sau đó thu bàn về và quân cờ bỏ vào một cái hộp rồi cất hộp vào trong ngăn kéo bàn. Ngài biết rằng Giêrêmia đê Xanh Amua bao giờ cũng chơi quân trắng và lần này hiển nhiên là y sẽ thua sau bốn nước nữa, thua không phương cứu chữa. "Nếu là một tội ác thì đây sẽ là chứng tích hiển nhiên, - ngài nói với chính mình - Chỉ có mình mới biết một người đủ khả năng tạo ra một thế cờ thông minh bậc thày này". Ngài sẽ không thể sống mà không tìm ra lý do vì sao cái người lính ngang ngạnh kia, vốn quen chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, đã bỏ dở trận chiến đấu cuối cùng của đời mình. Vào lúc sáu giờ sáng, trong lúc đi tuần lần cuối, người tuần đêm nhìn thấy một tấm biển treo ngay trước cửa ăn thông ra đường cái: Hãy lặng lẽ mà vào và hãy báo cáo cho cảnh sát biết. Sau đó ít lâu, viên sĩ quan cảnh sát đi cùng với anh sinh viên y khoa đang thực tập đến nhà Giêrêmia đê Xanh Amua. Cả hai cùng lục soát rất kỹ ngôi nhà để tìm kiếm một chứng tích hiển nhiên khác hẳn với cái mùi đắng của hạnh đào không thể nhầm lẫn được. Nhưng chỉ trong ít phút dừng lại nghiên cứu ván cờ bị bỏ dở, viên sĩ quan nhìn thấy một bì thư đề gửi bác sĩ Huvênan Ucbinô nằm giữa những tờ giấy khác. Đó là một phong thư dán hồ rất cẩn thận đến mức phải xé bì mới lấy lá thư ra được. Ngài bác sĩ vén tấm rèm lụa đen ở cửa sổ để căn buồng sáng hơn rồi đọc lướt bức thư một tờ giấy viết kín cả hai mặt với chữ viết dễ đọc, đáng yêu. Ngay từ lúc đọc đoạn đầu tiên, bác sĩ biết ngay rằng mình sẽ phải bỏ buổi lễ Hạ Trần. Ngài đọc thư mà lòng nôn nao do đó cứ phải lần trở lại mấy trang trước đó để nắm vững mạch văn trong lá thư. Khi đọc xong thư, ngài có cảm giác mình vừa từ nơi rất xa và rất xưa trở về đây. Nỗi lòng xốn xang của ngài được bộc lộ rất rõ mặc dù ngài cố tình che giấu nó: trên làn môi ngài nổi đậm lên màu xám ngoét của tử thi và khi gấp bức thư lại ngài đã không thể ghìm được các ngón tay run rẩy. Ngài cất bức thư vào túi áo khoác ngoài. Lúc này ngài mới sực nhớ đến sự có mặt của viên sĩ quan cảnh sát và anh sinh viên thực tập, rồi ngài mỉm một nụ cười gượng với họ: - Không có gì đặc biệt cả, - ngài nói - Đó là những lời nhắn nhủ cuối cùng của ông ta. Đó là câu nói nửa đùa nửa thật nhưng bọn họ hoàn toàn tin tưởng. Bởi vì ngài bảo họ lật một viên gạch khỏi sàn nhà và họ thấy cuốn sổ ghi chép đã nhàu nát. Trong cuốn sổ này họ đọc được những lời chỉ dẫn để mở chiếc tủ sắt. Không có quá nhiều tiền như họ tưởng nhưng cũng thừa sức chi dùng cho việc chôn cất và trang trải một số việc cần thiết ít tốn kém hơn. Chính lúc này, bác sĩ Huvênan mới thực sự nhận thức đầy đủ rằng mình không thể đến nhà thờ lớn trước lúc đọc kinh Phúc âm. - Kể từ khi ta biết đến giờ, đây là lần thứ ba ta bỏ lỡ buổi lễ misa ngày chủ nhật, - ngài nói - nhưngChúa hiểu cho nỗi lòng của ta. Vậy là ngài muốn ở lại đây thêm ít phút nữa để giải quyết nốt mấy việc vặt vãnh khác cho dù ngài đang cố ghìm nỗi khao khát muốn cùng chia sẻ với vợ những lời tự thú trong bức thư. Ngài tự nhủ lòng sẽ thông báo cho một số người thuộc vùng biển Caribê sống lưu vong ở thành phố này biết tin Giêrêmia đê Xanh Amua đã từ trần để phòng khi họ muốn viếng con người từng xử sự như là người đáng được tôn trọng nhất, con người hăng say và cương quyết dẫu rằng sau đó đã chết vì quá thất vọng. Đó là điều hiển nhiên. Ngài cũng sẽ thông báo cho các bạn cờ quay từ những chuyên gia nổi tiếng đến cả những người bạn ít thân cận hơn để đề phòng khi tất cả bọn họ muốn tham dự việc chôn cất. Trước khi được biết bức chúc thư thì ngài đâm ra phân vân. Nhưng dù sao chăng nữa cũng phải gửi đến đám tang một vòng hoa dành dành làm như thể Giêrêmia đê Xanh Amua trước khi chết đã có một lúc ân hận. Đám tang sẽ được cử hành vào lúc năm giờ chiều vì đó là lúc dễ chịu nhất trong những tháng nóng nực. Nếu người ta cần đến ngài thì ngài sẽ có mặt từ lúc mười hai giờ trưa ở ngôi nhà nơi thôn dã của bác sĩ Laxidêt Ôlivêda, một học trò cưng người mời mọi người đến dự bữa cơm thịnh soạn để mừng đám cưới bạc[3] của vợ chồng họ. Bác sĩ Huvênan Ucbinô có thói quen dễ thực hiên kể từ sau những năm sóng gió ngài tổ chức cuộc tranh cử đầu tiên và ngài đã giành được một sự tôn kính và một danh dự không một ai trong tỉnh này sánh kịp. Ngài thức dậy từ lúc gà gáy sáng lần đầu và trong giờ này ngài bắt đầu uống các thứ thuốc dùng riêng cho bản thân: thuốc brumua kali để kích thích thần kinh, thuốc xalixylat chống đau nhức xương trong thời kỳ mưa bão, từng giọt mạch nha lúa mạch để chống choáng, thuốc bêladon để ngủ an giấc. Cứ mỗi giờ ngài uống một thứ thuốc, luôn luôn uống lén, bởi vì trong cuộc đời dài lâu làm thuốc và làm thầy của mình, bao giờ ngài cũng tỏ thái độ phản đối việc kê đơn thuốc giảm đau cho những người già. Ngài cho rằng chữa bệnh cho người khác bao giờ cũng dễ hơn chữa bệnh cho chính bản thân. Trong túi áo, ngài luôn luôn mang theo tuýp thuốc long não để ngửi khi không một ai nhìn thấy và với việc ngửi thuốc long não này ngài xua đi cảm giác khó chịu trước mùi hỗn hợp của nhiều loại thuốc. Ngài ngồi yên trong phòng làm việc một giờ đồng hồ chuẩn bị bài giảng về y học thực hành tại buồng bệnh. Cho đến trước lúc chết, ngày nào cũng vậy suốt từ thứ hai cho đến thứ bảy, ngài đều phải bắt đầu giảng từ lúc tám giờ sáng ở trường Y. Ngài còn là bạn đọc cần mẫn của những cuốn sách mới xuất bản mà người ta gửi cho ngài theo đường bưu điện, dù đó là sách gửi từ Pari hay từ Bacxêlôna. Bao giờ cũng vậy, ngài vẫn thích đọc văn học Pháp hơn là văn học được viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Dù thế nào chăng nữa, ngài không đọc tiểu thuyết vào buổi sáng mà thường vào sau giấc ngủ trưa hay trước khi đi ngủ buổi tối. Khi kết thúc công việc nghiên cứu bài giảng, ngài thường thở sâu mười lăm phút trong nhà tắm. Hướng mặt về phía cửa sổ mở toang, ngài hít thở thứ không khí trong lành theo gió tươi từ bên phía có tiếng gà gáy sáng ùa vào. Sau đó ngài tắm, ngài sửa lại râu cằm, tỉa tót bộ ria sau khi đã cẩn thậ n bôi nước hoa hãng Pharian Giêgiênuybec chính hiệu. Ngài vận bộ quần áo trắng bằng vải lanh, khoác một chiếc áo ngoài, đội chiếc mũ mềm, đi đôi ủng da dê nhẵn bóng. Vào tuổi tám mươi mốt này, ngài vẫn giữ được tác phong ứng xử thoải mái và tính tình vui vẻ từ thời ngài mới từ Pari trở về, ít lâu sau nạn dịch tả khủng khiếp xảy ra ở thành phố này, và ngài vẫn giữ được mái tóc chải mượt có đường ngôi giữa như thời trai trẻ, chỉ khác trước ở chỗ bây giờ mái tóc ấy đã ngả màu cước trắng. Ngài ăn sáng cùng gia đình nhưng với chế độ ăn riêng: nước sắc hoa ngải cứu dễ nhuận tràng và một củ tỏi bóc thành từng rồi nhai từng tép một với miếng bánh mì gối với sự tin tưởng rằng tỏi sẽ giúp cho nhịp tim đập điều hòa. Sau bài giảng ở trường Y, hãn hữu lắm ngài mới không có hẹn gặp các bạn cùng thảo ra quy tắc công cộng, với các bạn nghệ sĩ và hoạt động xã hội hoặc với những nhà quân sự theo đạo Thiên Chúa. Hầu như ngài luôn luôn ăn cơm trưa tại gia đình. Sau đó, ngài ngồi ở ngoài hiên nhà mà ngủ chừng độ mười phút và trong lúc ngủ mơ màng ấy ngài nghe tiếng hát của các cô hầu gái vang lên từ dưới gốc những cây xoài rợp bóng, nghe tiếng rao hàng ở ngoài đường phố, nghe tiếng ồn của máy nổ các tàu thuyền ngoài bến cảng mà mùi dầu của chúng lan đến tận đây, lởn vởn trong không khí ngôi nhà vào các buổi chiều oi nóng, nó giống như thứ mùi của một vị thần bị đày ải trong ẩm mục. Sau đó ngài đọc sách trong khoảng một giờ, đặc biệt là sách truyện và sách nghiên cứu lịch sử, dạy tiếng Pháp và bài hát cho chú vẹt nuôi, vốn từ lâu đã là trò tiêu khiển cho cả khu vực này. Vào lúc bốn giờ chiều sau khi uống xong cốc nước chanh đá, ngài đi thăm bệnh nhân của mình. Bất chấp tuổi tác, ngài vẫn tiếp tục tiếp khách trong phòng khám riêng và chăm sóc ngay tại nhà riêng của từng người, như lâu nay đã làm vậy, từ thời thành phố này chưa sầm uất mà ngài có thể đi bộ đến bất kỳ nơi nào của nó. Kể từ khi lần đầu tiên từ châu Âu trở về, ngài dùng xe song mã hai mui do hai chú ngựa hồng kéo. Nhưng khi loại xe này không được dùng nữa ngài lại chuyển sang dùng xe độc mã mui trần để đi lại trong thành phố. Sau đó ngài vẫn tiếp tục sử dụng chiếc xe này mặc dù thiên hạ đang chạy theo mốt bỏ xe ngựa dùng xe ô tô. Ngay cả khi xe ngựa không được dùng trong thành phố và những chiếc xe ngựa duy nhất được dùng là những chiếc xe ngựa chở các khách du lịch hoặc để chở vòng hoa trong các đám tang, ngài vẫn cứ dùng xe ngựa. Mặc dù không chịu nghỉ hưu, ngài ý thức rất rõ rằng người ta chỉ gọi mình đến chăm nom các trường hợp thập tử nhất sinh, nhưng ngài cho rằng cả việc này cũng là một hình thức chuyên môn hóa. Ngài có đủ khả năng chỉ nhìn biểu hiện bề ngoài đã biết bệnh nhân ấy đang mắc bệnh gì và ngài ngày càng không tin vào việc dùng thuốc và tỏ thái độ dè chừng trước việc áp dụng rộng rãi giải phẫu học. Ngài bảo rằng: "Con dao mổ là bằng chứng lớn nhất về sự thất bại trong việc sử dụng thuốc". Với một quan điểm chặt chẽ, ngài nghĩ rằng thuốc là chất độc và bảy mươi phần trăm thức ăn của con người đều đẩy con người đi nhanh đến cái chết. "Trong tất cả mọi trường hợp - ngài vẫn thường nói tại lớp học - số thuốc ít ỏi mà con người biết đến chỉ có một số rất ít thầy thuốc biết được mà thôi". Từ cách sống vui vẻ, trẻ trung và yêu đời ngài đã chuyển sang cách sống bi quan yếm thế mà chính ngài định nghĩa là một chủ nghĩa nhân văn định mệnh: "Mỗi người là chủ của cái chết của chính mình và điều duy nhất mà chúng ta có thể làm đượckhi số mệnh đã hết, là giúp cho con người ta chết không sợ hãi và không đau đớn". Nhưng dù cho ngài có những quan điểm lạ lùng ấy - những quan niệm đã hình thành nên quan niệm y học dân gian địa phương - các học trò cũ của ngài ngay khi đã trở thành những nhà chuyên môn nổi tiếng rồi vẫn tiếp tục tham bác ý kiến của ngài vì họ tán đồng với ngài về quan niệm ấy vốn được gọi là con mắt nghề nghiệp. Muốn nói gì thì nói, ngài luôn luôn là một thầy thuốc cao giá và độc đáo và khách hàng của ngài toàn là dân sống trong những ngôi biệt thự tập trung tại khu phố mang tên Lôt Virâydet[4] Bác sĩ Huvênan Ucbinô làm việc theo một thời gian biểu hết sức nghiêm túc đến mức bà vợ ngài biết chính xác ngài đang ở đâu để sai người đến tìm và chuyển cho ngài một vài lời nhắn nhủ nếu trong buổi chiều ấy có chuyện gì khẩn cấp xảy ra. Thời còn trẻ ngài hay nấn ná ngồi lâu ở quán cà phê Parôkia. Tại đây, ngài luyện tập nước cờ cùng với những kẻ đồng mưu, với ông bố vợ ngài, hoặc với những người vùngCaribê lưu vong đến thành phố. Nhưng bước sang những năm tháng đầu tiên của thế kỷ này ngài không trở lại quán cà phê Parôkia và ngài lại lao vào việc tổ chức các cuộc thi đấu quốc gia được Câu lạc bộ Xã hội bảo trợ. Đó là thời kỳ Giêrêmia đê Xanh Amua, trong tình trạng hai đầu gối liệt và chưa làm nghề chụp ảnh cho trẻ nhỏ, đến thành phố này và sau ba tháng y liền được mọi người thừa nhận là người biết đi quân cờ trên bàn cờ bởi không một ai thắng nổi y lấy một ván. Cuộc gặp gỡ với Giêrêmia đê Xanh Amua là một cuộc gặp gỡ thần kỳ vì lúc ấy cờ đam đã trở thành một hứng thú không thể cưỡng lại được đối với bác sĩ Huvênan Ucbinô và không còn nhiều đối thủ để ngài thỏa cơn khát giành chiến thắng. Nhờ có bác sĩ Huvênan Ucbinô, Giêrêmia đê Xanh Amua mới được chúng tôi tôn trọng. Bác sĩ Huvênan Ucbinô trở thành người bảo trợ không điều kiện, trở thành chỗ tin cậy của tất cả chúng tôi, đến mức khi nghe ngài nói chúng tôi chẳng phải mất công tìm hiểu xem y là ai, làm gì và vì cuộc chiến tranh vô nghĩa nào mà y đến đây trong tình trạng tàn phế và đói khổ như vậy. Ngài còn cho y vay tiền để mở cửa hàng chụp ảnh. Giêrêmia đê Xanh Amua phải trả cho ngài một số lượng lớn rượu ngon và cả đồng tiền vàng cuối cùng của mình ngay từ ngày chụp kiểu ảnh đầu tiên cho đứa trẻ hốt hoảng trước ánh đèn manhê chớp sáng. Tất cả đều do cờ đam mà thôi. Lúc đầu hai người chơi cờ với nhau từ bảy giờ tối, sau bữa cơm chiều. Bác sĩ thường giành phần thắng nhiều hơn do đối thủ của m kín đáo nhường nhịn. Càng chơi bác sĩ càng ít giành được phần thắng và sau đó hai người chơi ngang sức nhau và trở thành bạn cờ tâm đắc của nhau. Về sau này, khi đôn[5] Galilêô Đacôntê lập bãi chiếu bóng đầu tiên ở thành phố và Giêrêmia đê Xanh Amua trở thành khách hàng đúng giờ nhất của ngài thì các buổi chơi cờ đam bị thu hẹp trong khoảng thời gian còn lại sau buổi chiếu phim. Thế là Giêrêmia đê Xanh Amua làm bạn rất thân với bác sĩ đến độ bác sĩ luôn luôn cùng đi xem với y nhưng ngài không dẫn vợ đi theo phần vì bà không đủ kiên nhẫn theo dõi những bộ phim lắt léo khó hiểu, phần vì ngài nghĩ rằng Giêrêmia đê Xanh Amua khó chịu khi có thêm người khác ở bên cạnh. Chủ nhật là ngày khác hẳn của ngài. Ngài dự lễ misa ở nhà thờ lớn sau đó trở về nằm nghỉ và đọc sách ở ngoài hành lang. Rất ít khi ngài đi thăm người bệnh trong ngày nghỉ của mình, ngoại trừ trường hợp thật khẩn cấp, và cũng đã nhiều năm nay ngài không tham gia các hoạt động xã hội, trừ trường hợp bắt buộc. Cái ngày lễ Hạ Trần ấy, do một sự trùng hợp hiếm có, đã xảy ra hai sự kiện lạ lùng: cái chết của người bạn và đám cưới bạc của một môn đệ xuất sắc. Mặc dù đáng lẽ đi thẳng về nhà như đã dự định sau khi ký xác nhận cái chết của Giêrêmia đê Xanh Amua thì ngài lại để cho tính tò mò dắt dẫn mình. Ngay sau khi lên xe ngồi, ngài đọc lại ngay một lần nữa bức chúc thư và bảo gã xà ích đánh xe đưa mình đến ngôi nhà có địa chỉ rất khó tìm trong xóm cổ của những nô lệ. Quyết định ấy rất khác thường trong thói quen của ngài đến mức gã xà ích phải hỏi lại để xem có nhầm lẫn gì không. Không có gì nhầm lẫn cả: địa chỉ rất rõ ràng và người viết địa chỉ ấy hoàn toàn có đầy đủ lý do để cam đoan rằng mình biết rất rõ nó. Lúc ấy bác sĩ Huvênan Ucbinô trở lại đọc tờ thư đầu tiên và thế là ngài liền chìm đắm trong suy tưởng về những mối quan hệ không hề mong mỏi sẽ có thể làm thay đổi cuộc đời ngài, ngay cả khi ngài đã ở tuổi tám mươi mốt rồi nếu như ngài tự chiến thắng được bản thân để tin rằng cái chết của Giêrêmia đê Xanh Amua không phải là những cơn điên loạn của kẻ mất hết lòng tin gây nên. Hôm ấy, ngay từ tinh mơ thời tiết đã bắt đầu thay đổi, trời đầy mây, không khí dịu mát, nhưng chưa hề có biểu hiện nào chứng tỏ sẽ mưa trước giờ ngọ. Cố tìm con đường ngắn nhất, gã xà ích cho xe chạy len lỏi trên những con đường hẹp lởm chởm đá trong thành phố thời thuộc địa Tây Ban Nha, và nhiều lần gã buộc phải dừng xe để cho chú ngựa đỡ hoảng hốt trước sự huyên náo của những đám đông học sinh và giáo dân từ trong nhà thờ lớn đi ra, sau khi đã làm xong các nghi lễ của ngày lễ Hạ Trần. Trên các đường phố ồn vang tiếng nhạc, sặc sỡ hoa và các vòng hoa giấy, và từ trên ban công, các thiếu nữ che ô màu sặc sỡ, thắt những chiếc nơ bằng vải muxơlin đang đứng xem lễ hội diễu qua đường phố. Trên quảng trường Nhà Thờ lớn, nơi có bức tượng Nhà giải phóng nổi bật lên giữa những cây panma giống Phi và những ngọn đèn pha hình cầu, xe ô tô đậu chật như nêm, trước cửa quán cà phê Parôkia cổ kính và điêu tàn kia người đông không có chỗ đặt chân. Chiếc xe ngựa duy nhất là chiếc xe của bác sĩ Huvênan Ucbinô và nó là chiếc xe độc đáo nhất trong số những chiếc xe ngựa còn lại trong thành phố, bởi vì nó vẫn còn giữ được cái màu bóng nhoáng của mui xe màu be, có các tay vịn làm bằng đồng để chống gỉ, các bánh xe sơn đỏ với đường viền sơn màu vàng, y hệt như những chiếc xe trong đêm huy hoàng trình diễn Nhạc kịch ở thành Viên. Mặt khác, trong lúc các gia đình giàu có thích chưng diện đã cho phép các tay đánh xe được mặc sơ mi sạch sẽ thì ngài vẫn đòi hỏi gã xà ích của mình phải mặc quần áo nỉ của người hầu, đội chiếc mũ sâu ống của diễn viên xiếc mà những thứ này ngoài vẻ cổ lỗ ra chúng còn khiến cho kẻ mặc phải chịu bao nỗi khổ sở trong ngày đại thử ở vùng nhiệt đới Caribê. Dẫu có yêu cuồng nhiệt thành phố và có quen thuộc nó hơn bất kỳ ai, bác sĩ Huvênan Ucbinô rất ít khi có cơ hội như cái cơ hội của ngày chủ nhật ấy để huênh hoang mạo hiểm trong cái xóm cổ của những người nô lệ đầy huyên náo. Gã xà ích phải đánh xe vòng đi vòng lại nhiều lần và vài lần hỏi thăm địa chỉ. Bác sĩ Huvênan Ucb inô nhận thấy đâu đây cái không khí nặng nề của vùng đầm lầy, sự cô quạnh chết chóc của nó cũng như cái mùi khó chịu đến ngạt thở của nó nhiều lần lẫn trong hương nhài ngoài sân đã bay đến tận phòng ngủ của ngài và ngài cảm thấy nó đi qua như một làn gió xa xưa chẳng hề liên quan gì đến đời tư của mình. Nhưng cái mùi khó chịu ấy nhiều lần được nỗi nhớ nhung lý tưởng hóa đã biến thành một thực tại khó chịu đến nôn mửa, khi cỗ xe ngựa bắt đầu nhảy chồm chồm lên những vũng bùn trên đường cái là nơi bầy quạ đang tranh nhau những thứ thải của lò mổ nổi lềnh bềnh trên mặt sông. Khác với thành phố đế vương mà các ngôi nhà của nó đều là những công trình xây cất đắt tiền, thì nhà ở đây đều làm bằng gỗ mái lợp tôn và hầu hết đều dựng trên các cột trụ để tránh nước từ các cống rãnh được đào từ thời người Tây Ban Nha còn thống trị tràn vào nhà. Khung cảnh nơi đây mang vẻ thiểu não không có chỗ nương thân nhưng trái lại từ các quán căng tin lại vọng ra tiếng nhạc vui vẻ xả láng của những người nghèo khó không hề quan tâm đến sự có mặt của Chúa cũng như ngày lễ Hạ Trần. Khi họ tìm được ngôi nhà theo đúng địa chỉ, một bầy trẻ nhỏ mình trần như nhộng chạy theo xe. Chúng vừa chạy theo vừa chế nhạo bộ quần áo và chiếc mũ hề của gã xà ích và gã đã phải giơ cái roi ra để xua đuổi chúng. Khi sẵn sàng bước vào một cuộc viếng thăm đầy tin cẩn, bác sĩ Huvênan Ucbinô thấy đã quá muộn để hiểu ra rằng chẳng có một sự ngu ngốc nào đáng sợ hơn là sự ngu ngốc của tuổi già. Bề ngoài ngôi nhà không số chẳng có gì khác biệt với các ngôi nhà kém hạnh phúc ngoại trừ cái rèm đăng ten nơi cửa sổ và cánh cửa ra vào là của một ngôi nhà thờ cũ nào đó được gỡ đem về đây lắp vào. Gã xà ích đập rõ mạnh cái vồ gọi cửa, và khi tin chắc rằng mình đã tìm đúng nhà, gã liền dìu bác sĩ xuống xe. Cánh cửa lớn nhẹ nhàng mở ra không một tiếng động. Một người đàn bà đứng tuổi vận đồ đen tuyền, mang tai gài một bông hồng đỏ thắm đứng ở bên trong. Mặc dù nhiều tuổi, không thể dưới bốn mươi, người đàn bà ấy vẫn giữ được dáng son trẻ của gái lai đen, đôi mắt rực sáng long lanh, mái tóc mượt mà nom tựa như một chiếc mũ bông ôm lấy đầu. Bác sĩ Huvênan Ucbinô không nhận ra bà ta dù rằng đã vài lần ngài nhìn thấy bà trong lúc mải suy nghĩ trên bàn cờ đam tại phòng chụp ảnh, và có đôi lần ngài tự tay kê đơn cho bà ta, mua vài vỉ thuốc kinin để trị sốt rét cách nhật. Bác sĩ chìa tay cho bà ta và bà cũng chìa hai tay nắm lấy bàn tay ngài, dường như để giúp ngài bước vào nhà hơn là để chào ngài. Phòng khách mang hương vị và tiếng rì rào thầm thì của một vườn hoa tươi, kê đầy bàn ghế, giường tủ và các đồ vật quý giá khác, mỗi thứ đều được để đúng vị trí tự nhiên của chúng. Bác sĩ Huvênan Ucbinô bình thản nhớ lại cửa hàng của một người bán đồ cổ ở Pari tại số nhà 26 phố Môngmactrơ vào một ngày thứ hai một mùa thu thế kỷ trước. Người đàn bà ngồi đối diện với ngài và nói với ngài bằng một thứ tiếng Tây Ban Nha còn ngượng nghịu. - Thưa bác sĩ, xin ngài cứ tự nhiên cho, - bà ta nói - thực lòng tôi không dám nghĩ rằng ngài lại đến thăm tôi nhanh đến như thế này. Bác sĩ Huvênan Ucbinô đâm ra lúng túng. Với trái tim chân thành ngài chú ý quan sát bà ta, quan sát cách thức để tang rất thống thiết của bà, quan sát cái vẻ cao thượng trong sự im lặng của bà và thế là ngài hiểu rằng chuyến đi thăm của mình là vô ích, bởi vì bà ta biết nhiều hơn ngài về tất cả những gì được nói và khẳng định trong bức chúc thư của Giêrêmia đê Xanh Amua. Đúng như vậy, cho đến những giờ phút gần xảy ra cái chết bà ta đã ở cạnh y trong suốt gần hai mươi năm với một tình cảm tha thiết và mến thương dịu hiền còn hơn cả tình yêu mà không một ai trong cái thành phố tỉnh lẻ mơ mộng này, nơi từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, chuyện công khai đến chuyện riêng tư bị mọi người phát giác và bàn tán, đã biết chuyện riêng của hai người. Họ quen nhau trong một nhà tế bần của khách giang hồ ở Port-au Prinxê, nơi bà ta sinh trưởng và là nơi y tá túc trong buổi đầu chạy trốn. Một năm sau khi đến thành phố này, bà ta cũng đến đây thăm y trong một thời gian ngắn, dẫu rằng cả hai người tuy không giao với nhau nhưng đều biết chắc rằng bà ta sẽ ở lại đây mãi mãi. Mỗi tuần một lần bà ta lo lau quét, dọn dẹp phòng tráng phim rửa ảnh, nhưng ngay cả những người hàng xóm chậm hiểu nhất cũng không nhầm lẫn giữa biểu hiện bên ngoài với thực chất bên trong, vì cũng như tất cả mọi người họ đoán rằng sự tàn tật không chỉ gây khó khăn cho Giêrêmia đê Xanh Amua trong việc đi lại. Trên cơ sở y học bác sĩ Huvênan Ucbinô cũng đoán như vậy, nhưng chưa bao giờ ngài tin rằng Giêrêmia đê Xanh Amua có một người đàn bà nếu ngài không đọc điều đó trong bức chúc thư. Muốn nói gì thì nói, bác sĩ Huvênan Ucbinô phải vất vả lắm mới hiểu được rằng hai người lớn tuổi, trai chưa vợ, gái chưa chồng, sống tự do, ngoài vòng dư luận cổ hủ của một xã hội kiêu ngoại, đã chọn cái ngẫu nhiên của những mối tình bị cấm đoán. Bà ta đã giải thích điều đó như thế này: "Đó là sở thích của anh ấy". Ngoài ra bà ta hài lòng sống trong điều kiện lén lút để được chia sẻ với một người đàn ông không hoàn toàn thuộc về mình và chính trong điều kiện ấy cả hai người nhiều lần được tận hưởng những phút giây kỳ ảo của hạnh phúc bừng nở. Bởi thế, hơn thế nữa, cuộc sống đã chứng minh cho bà ta thấy rõ rằng có lẽ sống như vậy là một kiểu mẫu. Đêm trước họ cùng nhau đi xem phim, mỗi người ngồi một chỗ riêng rẽ, như lâu nay họ cùng đi mỗi tháng hai lần kể từ khi đôn Galilêô Đacôntê, một người Ý di cư đến đây, lập bãi chiếu bóng ngay trên đống đổ nát của một tu viện thế kỷ XVII. Họ xem bộ phim dựa trên một cuốn sách từng là mốt của năm ngoái và bác sĩ Huvênan Ucbinô đọc nó mà trái tim ngài quặn đau bởi tính chất tàn bạo của chiến tranh, đó là cuốn Phía tây không có gì lạ [6]. Sau đó họ cùng tụ hội trong phòng tráng phim rửa ảnh và bà ta thấy y có vẻ thẫn thờ buồn nhớ, đã nghĩ rằng đó là do tác động của những cảnh phim thể hiện những người bị thương sắp chết quằn quại trên bùn lầy. Để giải phiền, bà mời y cùng chơi một ván cờ đam. Y chấp nhận để làm vừa lòng bà, nhưng y chơi một cách hờ hững bên quân trắng, dĩ nhiên rồi, cho đến khi y nhận ra chỉ bốn nước nữa y sẽ bị chiếu hết, thế là y đầu hàng. Vậy là bác sĩ Huvênan Ucbinô hiểu rằng người chơi ván cờ cuối cùng ấy là bà ta chứ không phải tướng Hêrônimô Acgôtê như ngài vẫn nghĩ. Ngài ngạc nhiên thốt lên: - Đó là một ván cờ tuyệt vời! Bà ta từ chối lời khen ngợi đó và bảo rằng chiến tích ấy không phải là của mình mà chẳng qua là vì Giêrêmia đê xanh Amua đang hoảng hốt trước cái chết, đã hờ hững đi quân cờ. Khi ngừng chơi cờ, đã là lúc mười một giờ mười lăm rồi, vì các quán nhảy vừa ngừng chơi nhạc, y đề nghị bà hãy để cho y được ở một mình. Y muốn viết một bức thư cho bác sĩ Huvênan Ucbinô, người mà y coi là đáng kính trọng nhất trong số những người mà y quen biết và hơn nữa ngài còn là một người bạn tâm tình, đúng như cách nói của y, dẫu rằng khuyết tật chung của cả hai người là thói chơi cờ đam như một cuộc đối thoại lý lẽ với nhau chứ không phải là một khoa học. Thế là bà ta hiểu ngay rằng y đã đi tới giới hạn cuối cùng của nỗi lo âu khắc khoải và bà ta cũng hiểu rằng y không còn thời gian sống lâu hơn nữa nên cần phải viết ngay bức thư. Bác sĩ không thể tin được điều đó. - Thế ra là bà đã biết hết rồi - ngài nói Bà ta thừa nhận rằng không những biết hết mà bà còn giúp y vượt qua nỗi khắc khoải lo âu, với chính tình yêu thương đã giúp y nhận ra hạnh phúc. Bởi vì đó là một nỗi khắc khoải lo âu đến kinh người kéo dài trong suốt mười một tháng cuối cùng của đời y. - Nghĩa vụ của bà là phải nói điều đó cho mọi người biết, - bác sĩ nói. - Tôi không thể làm được điều đó - bà ta tức giận nói, - tôi rất yêu anh ấy! Bác sĩ Huvênan Ucbinô, vốn nghĩ rằng mình đã nghe tất cả, chưa bao giờ được nghe nói về những điều tương tự như thế và chúng được nói bằng một hình thức giản dị. Ngài tập trung cả năm giác quan nhìn thẳng vào mặt bà ta để khắc sâu hình ảnh bà ta trong khoảnh khắc ấy vào ký ức mình: bà ta giống như một nữ thần sống, mãnh liệt trong bộ đồ đen, đôi mắt như mắt rắn và bông hồng thắm đỏ gài trên mang tai. Đã lâu lắm rồi, cái hồi còn ở trên một bãi tắm cô đơn ở Haiti, hai người vừa làm tình với nhau xong còn đang nằm khỏa thân trên bãi cát, Giêrêmia đê xanh Amua bỗng thở hổn hển nói với bà ta: "Anh mãi mãi trẻ trung". Bà ta giải thích câu nói ấy như mục đích anh hùng của cuộc chiến đấu không pháo đài chống lại sự tàn phá của thời gian, nhưng y lại là người thẳng thắn và thực tế hơn cả: y quyết tâm từ bỏ cõi đời này vào lúc sáu mươi tuổi. Quả nhiên, y sẽ mừng sinh nhật sáu mươi tuổi vào ngày 23 tháng giêng năm ấy do vậy mà y đã chọn đêm trước lễ Hạ Trần, một ngày lễ lớn nhất của thành phố sùng kính tôn giáo của Đức chúa Thánh thần, là đêm cuối cùng của đời mình. Không một chi tiết nào của đêm trước mà bà ta không biết chắc chắn và họ cùng nói với nhau về chuyện đó một cách thường xuyên, và cùng nhau đau xót trước dòng thác sôi trào của những ngày mà cả y và cả bà ta không có cách nào chặn lại được. Giêrêmia đê xanh Amua yêu cuộc đời với một đam mê trong sáng, yêu biển và yêu tình yêu của mình, yêu con chó và yêu bà ta, và khi ngày lễ Hạ Trần đến gần thì y hầu như hoàn toàn tuyệt vọng, như thể cái chết của y không phải là một giải pháp do chính y lựa chọn mà là một số phận không thể cưỡng lại được. - Đêm qua khi tôi ra về để anh ấy ở lại một mình, tôi thấy anh ấy không còn là người của cõi đời này nữa, - bà ta nói. Bà ta muốn con chó theo mình nhưng y ngắm nhìn nó đang ngủ ngay bên cạnh mấy chiếc nạng và y lấy ngón tay gãi nựng nó. Y bảo: "Anh lấy làm tiếc không thể chiều theo ý muốn của em. Nhưng con chó này của ngài Uadrô Uynsơn này sẽ cùng đi với anh". Y bảo bà ta hãy cột con chó vào chân giường trong lúc y ngồi viết thư. Bà ta vâng lời, cột hờ con chó vào chân giường để phòng khi nào muốn nó có thể xổng ra được. Đó là một hành động không trung thành duy nhất của bà ta đối với y và đã được đôi mắt luôn luôn nhớ người chủ của con chó chứng thực. Nhưng bác sĩ Huvênan Ucbinô đã ngắt lời bà ta để kể rằng con chó vẫn nằm nguyên chỗ đó. Bà ta bảo: "Vậy là nó không muốn đi ấy thôi". Bà ta vui lên vì bà ta muốn tiếp tục tưởng nhớ đến người yêu đã quá cố như y đã đề nghị đêm trước khi y ngừng việc viết thư lại và đắm đuối nhìn bà ta: - Hãy nhớ anh bằng bông hồng đỏ thắm em nhé! - y nói. Bà ta trở về nhà mình quá nửa đêm một chút. Mặc nguyên quần áo, bà ta nằm xuống giường, rồi châm một điếu thuốc lá nối thêm đầu mẩu điếu thuốc hút dở để có thêm thời gian đợi cho đến khi y kết thúc lá thư mà bà ta biết rằng nó dài và khó viết. Trước lúc ba giờ một ít, khi con chó bỗng nhiên bắt đầu sủa rộ lên, bà ta đi đặt nước để pha cà phê, mặc đồ tang rồi ra vườn hái một bông hồng thắm đỏ vừa nở lúc khuya. Bác sĩ Huvênan Ucbinô bỗng hiểu rằng mình đã dần dần từ bỏ ký ức về một người đàn bà cố chấp từ lúc nào và ngài tin rằng mình đã biết được nguyên nhân: đó chẳng qua chỉ tại vì là một người đàn bà không có nguyên tắc sống thì mới vui vẻ chịu đựng nỗi đau đến như vậy. Bà ta còn nói thêm một số chuyện nữa cho đến cuối buổi viếng thăm của bác sĩ. Bà ta không đi dự đám tang vì đã hứa điều ấy với người yêu của mình mặc dù bác sĩ Huvênan Ucbinô lại hiểu ngược lại theo như đoạn cuối trong lá chúc thư. Bà ta sẽ không chảy một giọt nước mắt, sẽ không phí hoài một phút giây trong quãng đời còn lại của mình để chỉ tâm tâm niệm niệm đến người đã khuất, s không tự chôn sống mình trong bốn bức tường nhà này để khâu vải liệm cho mình như các bà góa ở đây vẫn thường làm. Bà ta nghĩ đến việc bán đi ngôi nhà của Giêrêmia mà từ bây giờ nó đã là của bà với tất cả những gì có trong ngôi nhà ấy, theo như đã ghi trong bức chúc thư, và bà sẽ tiếp tục sống như lâu nay vẫn sống và sẽ không hề ca thán gì ở cái xứ sở tàn tạ này của những người nghèo mà nhờ đó bà đã sung sướng được hưởng hạnh phúc. Trên đường trở về nhà mình, câu "cái xứ sở tàn tạ này" cứ theo miết bác sĩ Huvênan Ucbinô. Câu ấy không phải là một nhận định vô cớ. Bởi thành phố này, thành phố của ngài, vẫn trường tồn như thế ở bên lề thời gian: vẫn chính là cái thành phố oi bức và khô cằn, là thành phố của những nỗi kinh hoàng về ban đêm của máu và những cuộc vui thác loạn cô đơn của tuổi trẻ, là nơi hoa bị rỉ và muối chảy nước, và là thành phố không hề có mảy may một sự đổi thay trong suốt bốn thế kỷ nay, ngoại trừ việc nó tự già cỗi đi giữa những cành nguyệt quế héo úa và đầm lầy sình đọng. Về mùa đông, một vài trận mưa rào trút nước xuống khiến nước dềnh lên khỏi các ao tù tràn ra đường làm cho đường phố chìm trong một thứ nước bùn kinh tởm đến nôn mửa. Về mùa hạ, một thứ bụi không nhìn rõ, khó chịu như bụi phấn màu đỏ tươi, chui vào tận nơi sâu kín nhất mà ta có thể tưởng tượng, bay mù mịt theo những cơn lốc điên cuồng làm tốc mái những ngôi nhà và cuốn theo những đứa trẻ nhỏ. Những ngày thứ bảy, đám dân lai đen ồn ào rời bỏ những túp lều thưng che bằng giấy các-tông và sắt tây dựng bên bờ các hồ đầm để cùng nhau vui thú kéo ra bãi biển lởm chởm đá thuộc thành phố thời thuộc địa Tây Ban Nha. Họ mang theo những con vật nuôi, các đồ ăn và thức uống. Trong số các cụ già nhất có một số người còn mang trên ngực vết sẹo cháy do người ta đóng vào đấy con dấu nô lệ. Trong những ngày cuối tuần họ nhảy như điên dại, họ say cho đến chết bằng thứ rượu cất lấy ở nhà mình, họ ân ái với nhau ngay giữa những bụi cây iccô, rồi đến nửa đêm ngày chủ nhật, họ phá đám các cuộc nhảy phanđanggô bằng chính những cuộc ẩu đả đẫm máu giữa họ với nhau. Đó vẫn là đám dân ngổ ngáo vào những ngày cuối tuần thường vẫn tràn vào các quảng trường và các đường phố nhỏ trong các khu phố cổ với những quán hàng có thể mua và bán, và như vậy, họ khiến cho cả thành phố vốn im lìm như chết này, chìm trong niềm vui buông thả của hội chợ nhân loại sực nức mùi cá rán: đó là cuộc sống mới. Nền độc lập giành được từ tay bọn Tây Ban Nha và sau đó là sự xóa bỏ chế độ nô lệ đã đưa đến sự sụp đổ của giới thượng lưu trong đó bác sĩ Huvênan Ucbinô sinh ra và lớn lên. Những gia đình giàu có đầy thế lực trước đây lặng lẽ mai một trong chính những dinh thự xơ xác của họ. Trong những ngõ hẻm thuộc các đường phố lát đá rất kiên cố từng bị chiến tranh và bọn cướp biển bất thình lình ập đến phách, nay cỏ mọc um tùm trên những ban công và trên những bức tường thành xây gạch, ngay cả những ngôi nhà nguy nga nửa tưởng cũng đã nứt nẻ và biểu hiện duy nhất của sự sống vào lúc hai giờ chiều là những bản nhạc tập pianô vang lên từ trong bóng râm những trưa hè. Bên trong những ngôi nhà, trong những phòng sực nức mùi hương, các phụ nữ tránh ánh nắng như thể họ tránh một bệnh dịch hay lây và ngay cả trong các buổi cầu kinh trước lúc mặt trời mọc, các bà cũng dùng mạng che mặt. Tình yêu đến với các cô gái quý phái này thật là muộn mằn, vất vả, thường bị đảo lộn bởi những điềm báo bất hạnh và đối với các cô này cuộc đời dài tưởng như vô tận. Tối đến, trong khoảnh khắc căng thẳng lúc trời chạng vạng tối, hàng đàn muỗi xăngcudô[7] từ các đầm lầy y như cơn lốc vù vù bay vào các ngôi nhà vương theo cái mùi phân người nồng nặc, và ý nghĩa sáng tỏ về sự chết chóc khuấy động tới đáy sâu tâm hồn. Vậy đó là cuộc sống đích thực của thành phố thời thuộc địa Tây Ban Nha mà anh thanh niên Huvênan Ucbinô thường lý tưởng hóa trong niềm nhớ nhung quê hương khi anh ta học ở thủ đô Pari. Lúc ấy nó chỉ là một ảo ảnh của ký ức mà thôi. Ở thế kỷ XVIII, gia đình Ucbinô là gia đình thương gia giàu có nhất vùngCaribê và nổi tiếng là gia đình chuyên buôn bán nô lệ Phi châu ở châu Mỹ. Ngoài ra, phủ thống sứ của các vụ Phó vương trong triều đình mới ở Granađa[8], những người muốn từ đây, từ bên bờ Thái Bình Dương này, chỉ huy tất cả thế giới chứ không chỉ ở cái thành phố xa lạ và lạnh buốt mà những cơn mưa phùn hàng thế kỷ của nó làm sai lạc cảm quan về thực tại. Mỗi năm vài lần các đội thuyền chở đầy của cải từ Pôtôsi[9], từ Kitô[10], từ Vêracrut[11], về đây tập trung ở ngoài cảng và lúc ấy thành phố thực sự sống những năm tháng huy hoàng của nó. Vào lúc bốn giờ chiều thứ sáu ngày mồng tám tháng sáu năm 1708 con tàu Xăng Hôsê chở đầy đá và kim loại quý trị giá ước khoảng nửa tỷ pêxô vừa nhổ neo để vượt đại dương đi về thành phố Cadit[12] liền bị đội hải thuyền Anh đánh đắm ở ngoài khơi ngay phía đối diện với cửa cảng, và hai thế kỷ sau nó vẫn chưa được vớt lên. Kho của ấy cùng với xác nằm nghiêng trên ghế chỉ huy của vị thuyền trưởng vẫn nằm sâu dưới đáy biển, bị san hô phủ kín lâu nay vẫn được các nhà sử học thường xuyên nhắc đến và coi là biểu tượng của thành phố đắm chìm trong ký ức. Bác sĩ Huvênan Ucbinô, có một ngôi nhà cũ ở bờ bên kia vịnh, tại khu phố La Mănga toàn nhà biệt thự. Đó là ngôi nhà một tầng, rộng và mát mẻ, có sân hiên ngoài dựng hàng cột đôricô rất kiểu cách. Từ sân hiên này người ta có thể bao quát tầm nhìn toàn bộ quang cảnh của vịnh. Nền nhà lát gạch hoa đen trắng tạo thành hình bàn cờ đam suốt từ cửa chính vào tận nhà bếp, và điều này nhiều lần đã củng cố thêm nỗi đam mê chủ yếu của bác sĩ Huvênan Ucbinô mà không hề nhớ rằng cái khu phố những nhà giàu mới phất kia là một điểm yếu kém chung của các bậc thầy xây dựng công trình kiến trúc ở đầu thế kỷ này. Phòng tiếp khách rộng và thoáng như toàn bộ ngôi nhà, có sáu cửa sổ mở ra phía đường cái và được ngăn cách với phòng ăn bởi một cửa kính rộng có vẽ các tích truyện với những cành nho và chùm nho sai quả, những cô thôn nữ bị các vị thần đồng áng quyến rũ tạc trên cành hoa làm bằng đồng. Các đồ dùng tiếp tân, kể cả chiếc đồng hồ quả lắc treo trong phòng khách cũng có dáng vẻ sống động của một tên lính gác, đều được sản xuất từ cuối thế kỷ XIX ở tận bên nước Anh. Những ngọn đèn chùm đều làm bằng thủy tinh bọt. Ở mọi chỗ trong phòng bày biện nào cốc chén và bình hoa được sản xuất ở Sevrơ, những bức tượng thạch cao tuyết hoa thể hiện đề tài tình yêu nơi trần thế. Nhưng cái sự cố kết các đồ vật Âu châu ấy sẽ kết thúc ở phần còn lại ngôi nhà, nơi những chiếc ghế mặt đan sợi nilon lẫn với những chiếc ghế xích đu và ghế bọc da, sản phẩm thủ công mỹ nghệ địa phương. Trong các phòng ngủ, ngoài các giường ra còn có mắc những chiếc võng sản xuất ở Xăng Haxinhtô[13] có thêu tên ông chủ theo dáng chữ gô-tích bằng chỉ lụa và xung quanh có viền những mũi tên màu sắc sặc sỡ. Khoảng không rộng rãi bên cạnh phòng ăn ngay từ lúc đầu đã được dự định dùng làm nơi tổ chức các bữa cơm khách trọng thể, nay nó được dùng làm phòng nghe nhạc để tổ chức các buổi hòa nhạc cho một số bạn bè thân thiết cùng nghe khi có các tay nhạc công nổi tiếng đến đây. Nền gạch đã được trải thảm Thổ Nhĩ Kỳ mua ở triển lãm Quốc tế tại Pari để trong nhà cho đỡ ồn. Một chiếc máy hát đời mới kê bên cạnh một chiếc kệ đựng đĩa hát xếp theo thứ tự. Chiếc đàn pianô lâu nay bác sĩ Huvênan Ucbinô không chơi đặt tại một xó phòng, được một tấm vải Manila trùm kín. Người ta nhận rõ trong khắp ngôi nhà này đều mang chính kiến và nỗi sợ sệt của một người đàn bà vốn đứng vững hai chân trên mặt đất này. Tuy nhiên, không một nơi nào chứng tỏ trong nhà này có thư viện. Đó là một thư viện trang trọng và xinh xắn mà bác sĩ Huvênan Ucbinô coi như một nơi thờ phụng trước khi tuổi già đến với ngài. Tại đấy, xung quanh chiếc bàn gỗ đào hoa tâm vốn là bàn viết của cha ngài và những chiếc ghế bọc da, người ta dựng những chiếc giá sách làm bằng thủy tinh dọc theo bốn bức tường cao vút đến tận cửa sổ, và xếp đầy lên đấy, gần như tức cười, ba nghìn cuốn sách bìa bọc da dê và gáy in chữ vàng tên viết tắt của ngài. Ngược hẳn lại với những phòng khác thường ồn ào và nồng nặc mùi tanh tưởi từ ngoài cảng bay đến, thư viện lúc nào cũng thanh lặng và có mùi vị của một nhà thờ. Là những người sinh ra và lớn lên trong tín điều vùng duyên hải cho rằng phải mở hết các cửa để đón gió mát vốn không có trong thực tế, bác sĩ Huvênan Ucbinô và bà vợ ngài, ngay từ phút đầu đã cảm thấy tim mình như ngừng đập trước việc ngôi nhà ban ngày lúc nào cửa cũng đóng im ỉm. Nhưng rồi họ cũng đồng tình trước những cái lợi của phương pháp chống nóng của người La Mã bằng việc đóng hết các cửa lại ngăn không cho hơi nóng của tháng tám và về ban đêm mở toang các cửa để đón gió mát. Kể từ dạo ấy, ngôi nhà của họ là n gôi nhà mát mẻ nhất trong những ngày nắng nóng ở khu phố La Mangga, và thật hạnh phúc cho người nào được nằm trong phòng ngôi nhà đó mà nghỉ trưa. Về buổi chiều ngồi ở hành lang có hàng cột đôricô mà ngắm nhìn những chiếc tàu màu ghi xám nặng nề chở hàng từ Tân Occlêăng tới và nhìn những chiếc tàu khách bánh lái bằng gỗ với những ngọn đèn nhấp nháy sáng lúc chiều buông, và tiếng nhạc không ngừng nghỉ, những con tàu này sẽ làm thanh sạch bầu không khí uế tạp đọng lại ngoài vịnh biển. Rồi từ tháng chạp năm trước đến tháng ba năm sau, nó cũng là ngôi nhà được bảo vệ chu đáo nhất trước những trận gió mùa đông - bắc liên hồi thổi tốc mái nhà, chúng như những con sói đói mồi lồng lộn suốt đêm quanh nhà tìm khe hở luồn hơi rét vào. Chưa bao giờ có ai dám nghĩ rằng đôi vợ chồng chung sống trong ngôi nhà xây kiên cố kia có thể có một lý do nào đó để mà không được hưởng hạnh phúc. Dẫu sao thì buổi sáng hôm ấy bác sĩ Huvênan Ucbinô không còn là mình nữa khi ngài trở về nhà trước lúc mười giờ sáng. Ngài bàng hoàng vì hai cuộc viếng thăm không những làm ngài phải bỏ lễ misa ngày Hạ trần mà còn đe dọa sẽ trả ngài trở lại cái tuổi sức đã tàn lực đã cạn. Ngài muốn ngủ say như trâu chết trong lúc đợi đến giờ dự bữa tiệc linh đình của bác sĩ Laxidêt Ôlivêda nhưng ngài lại thấy đám gia nhân đang nhốn nháo tìm cách bắt lại chú vẹt xổng chuồng hiện đang đậu trên đỉnh ngọn cây xoài vì khi họ bắt nó ra khỏi chuồng để cắt lông cánh nhưng do vô ý tuột tay đánh xổng mất. Đó là con vẹt trụi lông và điên khùng: khi người ta bảo nói nó không nói nhưng nó sẽ bất thình lình nói khi không ai bảo nó. Lúc này con vẹt rất ranh ma và tinh khôn không m người sánh kịp. Con vẹt đã được bác sĩ Huvênan Ucbinô đích thân dạy bảo và chính việc này là một đặc ân đối với nó mà cả gia đình, ngay cả các con ngài khi chúng còn rất bé, không một ai được hưởng. Con vẹt sống ở nhà này đã được hai chục năm và không một ai biết trước đó nó đã bao nhiêu tuổi. Vào tất cả các buổi chiều sau giờ ngủ trưa, bác sĩ Huvênan Ucbinô ngồi ở ngoài sân hiên, nơi mát nhất trong khu nhà, đối diện với chú vẹt và ngài vận dụng mọi ngón nghề hữu hiệu trong nghề sư phạm để dạy cho đến khi nó nói được tiếng Pháp y như một viện sĩ viện hàn lâm. Sau đó, do thói quen, ngài còn dạy nó cầu kinh misa bằng tiếng Latinh và một số đoạn trích từ kinh Phúc âm của thánh Mathêu và ngài còn định nhồi nhét cho nó quan niệm máy móc về bốn pháp làm thơ. Trong chuyến du lịch gần đây nhất sang châu Âu, ngài mang về một chiếc máy hát đầu tiên cùng với nhiều đĩa hát ghi những bản nhạc đang thịnh thời và cả những đĩa hát ghi nhạc của những nhạc sĩ cổ điển. Trong vài tháng liền, ngày này qua ngày khác, lúc nào rỗi, ngài cho con vẹt nghe những bài hát của Yvêttê Ghinbec và Aristidơ Bruan, vốn là những bài hát được hâm mộ nhất nước Pháp trong thế kỷ trước, cho đến khi con vẹt thuộc lòng những bài hát ấy. Con vẹt hát những bài hát này, khi thì với giọng nữ nếu bài hát ấy là của nữ, khi thì với giọng nam nếu bài hát ấy là của nam và nó kết thúc bằng một trận cười ha hả y hệt tiếng cười của những cô hầu gái đã cười khi nghe nó hát bằng tiếng Pháp. Tiếng đồn về chú vẹt tinh khôn hát hay bay đi rất xa, đến mức có những khách sang trọng từ trong đất liền đi trên những chuyến tàu khách đã xin phép được xem con vẹt và có lần một vài khách du lịch người Anh thuộc số những người vẫn đến đây trên những chiếc tàu chở muối về Tân Ooclêăng đã định mua nó với bất kỳ giá nào. Tuy nhiên cái ngày vinh hiển nhất là ngày Tổng thống nước cộng hòa, Đôn Máccô Phiđen Soarêt cùng toàn thể các vị bộ trưởng trong chính phủ của Ngài đến nhà để chứng thực sự nổi tiếng của con vẹt. Họ đến vào lúc ba giờ chiều, người phát sốt phát rét vì phải đội mũ phớt và mặc complê nỉ suốt ba ngày liền trong chuyến công du dưới trời tháng tám nắng như đổ lửa và họ lại phải vội vã ra về như họ đến, vì con vẹt không chịu nói ngay cả đến cái câu cái mỏ này là của tôi. Trong suốt hai giờ đầy thất vọng, con vẹt không chịu nói bất chấp người ta khẩn khoản van nài hoặc nổi cáu dọa dẫm, bất chấp cái nỗi thẹn thùng trước đám đông của bác sĩ Huvênan Ucbinô, người từng khoái chí lắm trước lời khen ngợi quá ư táo bạo khác hẳn với những lời cảnh tỉnh rất thông minh của vợ ngài. Việc con vẹt vẫn được hưởng những ân huệ của ngài sau khi xảy ra chuyện mất mặt đáng nhớ đời kia là một thử thách cuối cùng đối với đặc quyền bất khả xâm phạm của nó. Không một con vật nào khác được nuôi trong nhà này trừ con rùa đất vừa mới xuất hiện trở lại trong nhà bếp s hoặc bốn năm biến mất mà ai cũng tưởng nó sẽ không bao giờ trở lại nữa. Con rùa này không được coi là một sinh vật mà là một vật thờ mang lại vận may mà người ta không hề biết rõ nó ở đâu. Bác sĩ Huvênan Ucbinô đã chiến đấu để buộc người ta phải thù hằn con vật và ngài đã che giấu điều đó bằng tất cả những huyền thoại khoa học và những lý lẽ triết học từng thuyết phục được rất nhiều người nhưng không thuyết phục nổi vợ ngài. Ngài bảo rằng ai mà quá yêu quý con vật sẽ là người đủ khả năng gây ra những tội ác dã man nhất đối với đồng loại mình. Ngài bảo rằng chó không phải là loài vật trung thành mà là loài vật tận tụy phục vụ con người, rằng mèo là giống cơ hội và phản trắc, rằng công là sứ giả của thần chết, rằng vẹt đuôi dài là loài thích diện bộ cánh lòe loẹt, rằng thỏ là loài vật ấp ủ những ham muốn xấu xa, rằng khỉ truyền cho ta sự ham mê tửu sắc và rằng gà là loài vật đáng bị chửi bới chính vì nó ba lần khiến Chúa Giêsu bị từ chối. Ngược lại bà Phecmina Đaxa, vợ ngài, lúc đó đã bẩy mươi hai tuổi, đi lại không còn nhanh nhẹn như con hươu như khi bà còn trẻ, là một người cuồng nhiệt yêu các loại hoa nhiệt đới và các con vật nuôi và khi vợ chồng mới cưới nhau bà đã biết tranh thủ tình cảm mới mẻ đòi chồng mua các loài hoa và vật nuôi nhiều hơn mức bình thường rất nhiều. Đầu tiên là ba chú chó dòng đanmata mang tên các hoàng đế La Mã. Chúng cắn xé lẫn nhau để bảo vệ con cái, rất xứng đáng mang cái tên Mêsalina, bởi vì nó đã đẻ chín con chậm hơn việc chửa mười con khác. Sau đó là những con mèo xứ Abisinico gương mặt nhìn nghiêng của con diều hâu và điệu bộ của Pharaông, những con mèo xứ Xiêm-La đôi mắt xếch có con ngươi màu vàng cam đi lại trong các phòng ngủ tựa như những bóng ma và làm nhộn nhạo đêm thanh tĩnh bằng tiếng kêu rên sung mãn khi làm tình với nhau. Trong vài năm liền nhà này có một con khỉ đột vùng Amadôn bị xích vào gốc cây xoài ngoài sân. Nó là một con khỉ có gương mặt tựa như gương mặt của đức giám mục Ôbduliô, đôi mắt rực sáng và đôi bàn tay khéo léo từng gây thương hại cho ai xem nó, nhưng không phải vì thế mà bà Phecmina Đaxa cho nó đi ở chỗ khác, mà chính là nó có cái tật xấu thích trêu ghẹo các bà mệnh phụ đến chơi nhà. Có đủ các loại chim Goatêmala nhốt trong các lồng treo dọc hành lang và có những chú vạc và những chú diệc cẳng dài nghêu màu vàng, quen sống ở các hồ đầm và một chú hươu non thường thò đầu qua cửa sổ ăn lộc non các bụi cây cảnh. Trước khi xảy ra cuộc nội chiến cuối cùng ít lâu, khi lần đầu tiên người ta nói đến chuyến viếng thăm có thể có của Đức Giáo hoàng, một con chim sống ở vườn thượng uyển được đưa từ Goatêmala về đây. Nhưng nó đã bay ngay về quê cũ của nó, khi người ta biết rằng lời tuyên bố về chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng chỉ là một trò bịp của chính phủ đưa ra nhằm dọa các nhà tự do chịu ngồi vào bàn thương lượng. Một lần nữa họ lại ngay trên chiếc thuyền buồm của những kẻ buôn lậu vùngCuraxao một lồng sắt có sáu con quạ hương y hệt những con mà hồi còn ở nhà bố mẹ đẻ Phecmina Đaxa từng có và bây giờ khi đã về nhà chồng cô vẫn còn muốn có chúng trong nhà. Nhưng không một ai có thể chịu đựng nổi việc chúng liên tục vẫy cánh khiến cho cả ngôi nhà nồng nặc cái mùi khó chịu của các vòng hoa tang. Họ còn mang về nhà cả một con trăn dài bốn mét. Con vật săn mồi ít ngủ đêm này với tiếng thở của nó khuấy động bóng tối trong các phòng ngủ khiến người ta rất khó ngủ, tuy vậy nhờ nuôi nó người ta có thể giành được điều mong muốn: với hơi thở của mình nó xua đuổi đám dơi và thạch sùng cùng đám sâu bọ độc thường vào đầy nhà trong mùa mưa bão. Bác sĩ Huvênan Ucbinô, lúc này hết sức đơn thương độc mã trong nhiệm vụ trị bệnh cứu người toàn tâm toàn ý đưa sức lực ra hoạt động xã hội và văn hóa, lấy làm mãn nguyện mà nghĩ rằng người vợ của mình chẳng những là người phụ nữ đẹp nhất vùngCaribê mà còn là người hạnh phúc nhất trong hoàn cảnh xã hội nhiều nỗi éo le. Nhưng có một chiều mưa, sau một ngày làm việc mệt phờ, bác sĩ Huvênan Ucbinô thấy một cảnh rợn người ngay ở trong nhà khiến ngài tỉnh mộng. Từ phòng khách đến cuối nhà, có một hàng dài những con vật chết nổi trên một hồ máu. Đám các cô hầu gái đang đứng trên ghế mà không biết nên hành động như thế nào đây, vẫn chưa hoàn hồn trước quang cảnh chết chóc thê thảm ấy. Chuyện xảy ra vì có một con chó săn giống Đức lên cơn điên bất thình lình, đã cắn xé bất kỳ con vật nào gặp trên đường cho đến khi người làm vườn nhà bên rất dũng cảm đã dám đánh nhau và dùng dao rựa chém chết nó. Không thể biết nó đã cắn bao nhiêu con vật nuôi, hoặc với nước dãi xanh lè của mình nó đã truyền bệnh dại cho những con vật nào, vì thế bác sĩ Huvênan Ucbinô ra lệnh giết hết những con vật nuôi còn sống sót và đốt xác chúng ở một bãi đất cách xa ngôi nhà, tiếp đó ngài yêu cầu bệnh viện Mixêricôrđia đến tẩy uế. Con vật nuôi duy nhất thoát chết, và không ai nhớ đến nó, là con rùa đất có vận may. Phecmina Đaxa lần đầu tiên tán thành ý kiến của chồng mình về các vấn đề nội trợ và ý tứ không nói đến chuyện vật nuôi trong gia đình một thời gian khá lâu. Bà giải khuây với việc xem các bức tranh màu vẽ con vật mà bà cắt từ cuốn sách Lịch sử tự nhiên của Linneo treo trên bốn bức tường trong phòng khách và có lẽ bà cũng để mất luôn cái hy vọng một lần nữa có những con vật nuôi trong nhà nếu không vì lý do một buổi sớm tinh mơ bọn trộm chui qua cửa sổ phòng tắm vào nhà lấy đi bộ đồ ăn bằng bạc, vật gia truyền đã năm đời. Bác sĩ Huvênan Ucbinô xiết chặt thêm bản lề cửa sổ, dùng thang sắt chắn bên trong cửa ra vào, cất các vật quý giá vào trong hòm đựng của và sau đó luyện thói quen khi đi ngủ đặt khẩu súng lục xuống dưới gối. Nhưng ngài vẫn cưỡng lại ý định mua một con chó dữ, dù tiêm phòng dại hay không, xích lại ả rông, dù cho bọn kẻ trộm có vào lấy hết cả của cải cũng cam lòng. - Sẽ không mang bất cứ thứ gì vào nhà này nếu tôi không đồng ý - ngài nói. Ngài nói thế để chấm dứt những mưu đồ của vợ mình, người đang cố tình định mua một con chó, và ngài không hề nghĩ rằng cái câu nói có tính chất tổng quát đường đột kia sẽ buộc ngài phải trả giá đắt: cái giá của cuộc đời. Phecmina Đaxa mang cá tính ương ngạnh của bà ngày một bộc lộ rõ với thời gian qua đi của đời mình, đã bỏ ngoài tai lời nói thiếu cân nhắc của chồng: mấy tháng sau vụ mất trộm, bà trở lại những chiếc thuyền buồm của người Curaxao, mua một con vẹt vùng Pharamaribô[14] chỉ biết nói những lời tục tĩu của đám thủy thủ nhưng nó nói tiếng người rất chuẩn, xứng đáng được trả giá cao. Đó là một con vật quý giá, nhanh nhẹn hoạt bát hơn cái cốt cách được thể hiện bên ngoài: đầu vàng rộm, lưỡi đen, đó là một hình thức duy nhất để phân biệt nó với những con vẹt khác vốn không tài nào dạy nói được cho dù có dùng thuốc đạn bằng nhựa thông nhét vào đít cũng không nói. Bác sĩ Huvênan Ucbinô, vốn là người chóng quên đã kính cẩn nghiêng mình kính phục tài tháo vát của vợ mình và chính ngài đã ngạc nhiên đầy thú vị trước những bước tiến của con vẹt nhờ có các cô hầu gái thường trêu chọc nó. Trong những buổi chiều mưa, khi con vẹt được ăn no, nó nói những câu từng thuộc lòng trước khi về nhà này cho phép người ta biết rằng nó là con vẹt già hơn diện mạo của nó. Thái độ lầm lì ít nói của bác sĩ cũng phải mất đi kể từ sau cái đêm bọn kẻ trộm định trèo qua cửa sổ tròn trên nóc vào nhà liền bị con vẹt kêu vang với tiếng giống như tiếng của con chó béc giê Đức và tiếp đó nó gào thành tiếng: "trộm, trộm, trộm". Dĩ nhiên đó là hai cách thức thú vị mà nó đã cứu nguy cho gia đình và cả hai cách thức ấy nó không học ở nhà này. Đó chính là lúc bác sĩ Huvênan Ucbinô tự gánh lấy trách nhiệm chăm nom con vẹt. Ngài ra lệnh làm cho nó một cái chuồng ở dưới tán cây xoài. Đó là một cái chuồng rộng có chỗ để ca nước, để chuối tiêu chín và cả một cái vòng để nó đánh đu. Từ tháng chạp năm trước đến tháng ba năm sau, khi về đêm trời trở lạnh và có những trận mưa bất ngờ ập tới do ảnh hưởng của gió bấc tràn về, con vẹt được nhốt trong lồng có phủ tấm vải và được mang vào trong phòng ngủ mặc dù bác sĩ Huvênan Ucbinô nghĩ rằng bệnh dị ứng mũi của nó sẽ ảnh hưởng tới đường hô hấp của con người. Rất nhiều năm ngài cắt lông cánh cho nó và để cho nó được tự do đi lại theo ý thích với bước đi tập tễnh của kỵ sĩ già. Nhưng rồi một hôm, nó bắt chước người làm xiếc leo lên dây đi men theo xà nhà bếp, chẳng may ngã bổ nhào xuống chảo đang rán bánh và thế là nó lắp bắp nói giọng mũi "cứu tôi với" và bà hầu bếp kịp thời lấy chiếc muôi vớt nó ra. Con vẹt bị bỏng và trụi lông nhưng nó vẫn sống. Từ đó trở đi, dù ban ngày người ta cũng nhốt nó trong lồng, bất chấp kinh nghiệm dân gian nói rằng loài vẹt mà nhốt kín trong lồng thì chúng sẽ quên ngay những điều đã học được. Nó chỉ được thả ra vào lúc bốn giờ chiều để thụ giảng bài học của bác sĩ Huvênan Ucbinô ngay ở ngoài sân hiên. Chẳng một ai nhận ra đúng lúc rằng lông cánh của nó đã dài cho đến cái buổi sáng hôm ấy người ta định cắt lông cho nó thì nó xổng thoát và nấp trên ngọn cây xoài. Trong suốt ba giờ liền, không làm sao bắt được nó. Các cô hầu gái được một số cô hầu gái nhà bên giúp sức, đã sử dụng mọi mưu mẹo mà vẫn không dụ được nó xuống đất. Nó vẫn núp trên cành cao mà gào "đảng tự do muôn năm, đảng tự do cứt đái muôn năm", tiếng hô nghe đến chết cười đi được, tiếng hô đã từng làm cho bốn gã say rượu bị thiệt mạng. Bác sĩ Huvênan Ucbinô gần như phát hiện ra nó đứng giữa những cành lá. Ngài dùng tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và cả tiếng La Tinh để dụ nó xuống và con vẹt cũng dùng tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và cả tiếng La Tinh cũng chính giọng điệu ngài trả lời ngài, nhưng ở đâu nó vẫn ở đấy. Vì tin rằng không một ai dùng lời ngon ngọt mà có thể gọi nó xuống, bác sĩ Huvênan Ucbinô liền bảo gia nhân đi gọi thợ chữa cháy đến giúp sức. Chữa cháy là một thứ đồ chơi dân sự mà ngài mới có trong tay. Quả nhiên, cho đến những năm rất gần đây, các đám cháy được dập tắt bởi ý chí con người cùng với cái thang của bác thợ nề và thùng xách nước được ở bất kỳ chỗ nào, và đó là một sự chữa cháy lộn xộn không có phương pháp mà nhiều khi còn gây thiệt hại nặng hơn cả những vụ hỏa hoạn. Nhưng kể từ năm ngoái lại đây, nhờ có sự quyên góp được tiến hành bởi Hội Bảo vệ công trình đô thị do Huvênan Ucbinô làm chủ tịch danh dự, thành phố đã có một đội cứu hỏa chuyên nghiệp với một chiếc xe cứu hỏa có còi chuông và hai bình bơm cao áp. Tất cả đều đúng mốt và mới lạ đến mức cứ mỗi bận vang lên hồi chuông gọi con chiên đi nhà thờ, các lớp học đều ngừng lại để cho học sinh chạy đi xem đội chữa cháy chiến đấu chống thần lửa. Lúc đầu, đó là việc duy nhất mà đội chữa cháy làm. Nhưng bác sĩ Huvênan Ucbinô kể cho các nhà chức sắc trong Hội đồng Quản hạt thành phố rằng ở thành Hămbuốc ngài đã nhìn thấy một đội cứu hỏa đã cứu sống một em bé bị cóng mà họ tìm thấy trong tầng ngầm một ngôi nhà sau trận mưa tuyết kéo dài ba ngày liền. Rằng ở một ngõ hẻm thành phố Napôlet ngài cũng nhìn thấy một đội cứu hỏa đã đưa xuống đất một chiếc quan tài từ trên tầng mười một mà gia đình không thể nào đưa xuống nổi vì cầu thang quá hẹp lại xoáy trôn ốc. Nhờ vậy, đội cứu hỏa thành phố đã học thêm để giúp d chúng chữa chạy các sự cố bất ngờ, tỷ như việc chữa khóa cửa hoặc giết rắn độc. Trường Y còn giành cả một bài giảng đặc biệt về cấp cứu thông thường cho đội chữa cháy. Vậy là việc nhờ đội chữa cháy đưa con vẹt trứ danh như một công tử từng lập chiến công từ trên ngọn cây xuống đất là việc làm không có chủ đích. Bác sĩ Huvênan Ucbinô nói: "Hãy bảo với họ đó là lời yêu cầu của ta". Sau đó ngài vào phòng thay quần áo đi dự bữa tiệc mừng đám cưới bạc của bác sĩ Laxidêt Ôlivêda. Sự thật là trong lúc ấy, đang lúc bàng hoàng về lá chúc thư của Giêrêmia đê xanh Amua, ngài không quan tâm lắm đến số phận con vẹt. Phecmina Đaxa đã mặc một bộ váy lụa, rộng và không gấp nếp, với thắt lưng ôm lấy ngang mông, đeo một chuỗi ngọc cuốn sáu vòng dài ngắn không đều nhau, đi đôi giày lụa cao gót chỉ dùng trong dịp trang trọng nhất, vì tuổi tác không cho phép bà lạm dụng chưng diện quá nhiều. Dù cho bộ váy áo không phù hợp lắm với một người đàn bà cao tuổi nhưng nó rất vừa với cơ thể cao dong dỏng, một cơ thể gầy gầy và son sẻ, nó tôn nước da mượt mà chưa hề có những mụn da mồi, nó hợp với mái tóc xanh đen được cắt ngắn ốp lấy hai mang tai. Đôi mắt sáng hình hạnh đào và vẻ kiêu hãnh tự nhiên là những gì còn lại hiện nay mà người ta nhận thấy trong bức chân dung ngày bà làm lễ thành hôn, nhưng cái mà bà còn thiếu, vì tuổi tác thì bà đã có nhờ cá tính và có thừa nhờ vẻ duyên dáng của bà. Bà cảm thấy hài lòng vì mình đã bỏ khá xa thời kỳ son trẻ với những chiếc coócxê may chật, với những chiếc thắt lưng bó sát người, bộ mông cong lên một cách giả tạo. Bây giờ cơ thể bà được tự do, được hít thở thoải mái, nó cứ việc tự do thể hiện như vốn thế. Ngay cả lúc bà đã bảy mươi hai tuổi. Bác sĩ Huvênan Ucbinô bắt gặp bà ta đang ngồi trên chiếc ghế chải đầu, bên dưới chiếc quạt trần đang lừ đừ chạy, đội chiếc mũ có những dải nỉ màu viôlet. Phòng ngủ của vợ chồng ngài rộng rãi và sáng sủa, kê một chiếc giường Anh quốc, mắc chiếc màn hồng và hai cửa sổ mở ra phía vườn cây mà từ đó vọng vào tiếng mưa rơi rì rào. Kể từ chuyến du chơi tuần trăng mật sang Pari về, Phecmina Đaxa thường sắp sẵn quần áo cho chồng theo từng mùa và từng trường hợp cần phải mặc và để chúng ở tay ghế từ đêm hôm trước phòng khi chồng từ trong phòng tắm bước ra là đã có sẵn áo quần rồi. Bà cũng không nhớ rõ mình giúp chồng vận áo quần từ bao giờ và từ bao giờ mình mặc áo quần cho chồng. Hiển nhiên là trong cái công việc này, thoạt đầu bà làm vì tình yêu nhưng kể từ năm năm lại đây bà bắt buộc phải mặc quần áo cho chồng vì ngài không thể tự mặc lấy quần áo được. Bọn họ vừa tổ chức đám cưới vàng[15] và họ sống gắn bó với nhau đến mức người này sống không thể thiếu người kia hoặc không thể không nghĩ đến người kia và họ biết rằng điều đó là do tuổi già ngày càng đè nặng lên cuộc sống hàng ngày của mình. Cả ông lẫn bà đều không thể nói được cái công việc phục vụ lẫn nhau có phải xuất phát từ tình yêu hay từ một thái độ sống dĩ hòa vi quý, không một ai đã đặt tay lên ngực nơi con tim mình tự hỏi mình, và đã từ lâu cả hai đều muốn quên câu trả lời. Dần dà bà phát hiện ra bước đi chệnh choạng của chồng, thấy chồng hay khạc nhổ, hay nhầm lẫn và trong khi ngủ hay khóc thút thít, nhưng bà không coi những hiện tượng đó là dấu hiệu không nhầm lẫn được của hiện tượng ô-xi hóa cuối cùng của sự sống mà lại coi chung là dấu hiệu của việc ngài đang trở lại tuổi thơ ấu đầy hạnh phúc. Vì thế bà đối xử với ông không như đối xử với một cụ già khó tính mà lại như một đứa trẻ hay vòi vĩnh. Chính sự nhầm lẫn ấy lại là sự cứu rỗi cho cả hai người vì nó đã giúp họ thoát được lòng thương hại lẫn nhau. Việc mà cả hai người đều nhận thức đúng lúc rằng tránh những cuộc cãi lộn trong đời sống vợ chồng còn dễ hơn là tránh những vụ xích mích nhỏ nhặt thường ngày, có lẽ đó là điều khác hẳn trong cuộc sống của hai người. Nhưng nếu có cái gì mà cả hai người cùng học được thì đó là sự hiểu biết đã đến với họ khi nó chẳng giúp ích được gì nữa. Trong nhiều năm rồi, Phecmina Đaxa khó chịu thực sự vì phải chịu đựng những buổi sáng sớm chồng bà thức dậy đầy vẻ vui nhộn. Trong lúc bà đang còn nằm trên giường cố bám lấy những giấc mơ để khỏi phải đối chọi với những bất hạnh của một buổi sáng sớm đầy những dấu hiệu bất hạnh thì ngài thức dậy với niềm vui ngây thơ của một đứa trẻ sơ sinh: mỗi ngày mới là thêm một ngày nữa ngài đã giành được. Bà nghe thấy ngài thức dậy cùng với tiếng gà gáy sáng và dấu hiệu đầu tiên của cuộc sống của ngài là tiếng ho vô vị mà dường như người ho cũng có mục đích để bà cùng thức dậy. Bà nghe thấy ngài khùng khục ho dường như chỉ để bà day dứt khó chịu trong lúc ngài mò tìm đôi dép lê có lẽ quanh quẩn bên chân giường. Bà nghe thấy ngài chệnh choạng trong bóng tối để đi vào nhà tắm. Sau một giờ ngài ở trong phòng nghiên cứu khi bà đã ngủ lại rồi, bà lại nghe thấy ngài trở lại phòng ngủ vẫn chưa bật đèn sáng để mặc quần áo. Có một vài lần trong lúc ngồi ở phòng khách nói chuyện vui khi người ta hỏi ngài định nghĩa về mình như thế nào thì ngài bảo: "Tôi là người đàn ông mặc quần áo trong bóng tối". Trong những buổi sáng sớm ấy, bà nghe ngài hoạt động mà lòng thừa biết rằng không một tiếng động nào do ngài gây nên là không có chủ đích cả và ngài cố tình gây ra những tiếng động ấy lại vờ như không có mục đích gì cũng như bà đang thức, lại vờ như không hề thức. Những lý do của ngài thực đã hiển nhiên: Không bao giờ, dù trong những tháng ngày đầy nguy hiểm này, ngài cần cho bà nhiều lắm, mặc dù đang khỏe mạnh và minh mẫn đấy. Không một ai đẹp hơn bà trong lúc ngủ: bà ngủ với tư thế một tay vắt lên trán trong khi toàn thân co lại như đang múa, nhưng cũng không một ai dữ tợn như bà khi cái cảm giác tin rằng bà đang ngủ trong lúc bà thức đã khuấy động bà. Bác sĩ Huvênan Ucbinô biết rằng bà lắng nghe từng tiếng động nhỏ do ngài gây ra và ngài còn biết rằng bà còn cảm ơn những tiếng động ấy để có kẻ đổ tội đánh thức bà dậy từ lúc năm giờ sáng. Điều đó là quá hiển nhiên đến mức có lần ngài phải mò tìm đôi dép lê vì không thấy nó ở chỗ thường để thì bà với giọng còn ngái ngủ bảo: "Đêm qua ông để ở trong nhà tắm ấy thôi". Ngay lập tức với giọng giận dữ của người đang tỉnh, bà rủa: - Điều tệ hại nhất của cái nhà này là không thể nào ngủ được. Thế là bà trở mình trên giường, bật đèn sáng mà không hề có dấu hiệu nhỏ của sự tha thứ cho chính mình. Bà phấn chấn đầy kiêu hãnh vì đó là chiến thắng đầu tiên trong ngày của mình. Thực ra đó là trò chơi của cả hai người: vừa khó hiểu lại vừa tội lỗi, nhưng nó lại là một niềm an ủi vì đó là một trong những niềm vui nguy hiểm của tình yêu gia đình. Nhưng một trong những trò chơi nhàm chán ấy suýt nữa dẫn đến sự tan nát hạnh phúc của hai người. Ấy là khi họ đã chung sống với nhau được hơn ba mươi năm mà lại có một ngày nào đó không có sẵn xà phòng trong phòng tắm. Chuyện xảy ra rất đơn giản. Bác sĩ Huvênan Ucbinô vừa từ nhà tắm trở lại phòng ngủ, bắt đầu mặc quần áo mà không bật đèn sáng. Đó là thời kỳ ngài tắm chưa cần có người giúp đỡ. Vào giờ ấy bà đang nằm im trên giường với tư thế đầu gối lên cái cánh tay như đang múa kia, đôi mắt nhắm lại, hơi thở nhẹ nhàng và đều đều. Nhưng thực ra như mọi bận, bà đang thiu thiu ngủ và ngài biết rất rõ rằng bà đang thức. Sau khi sột soạt mặc xong quần áo vải lanh hồ bột, bác sĩ Huvênan Ucbinô nói với chính mình: - Gần một tuần nay mình tắm không có xà phòng. Ngay lập tức bà tỉnh như sáo. Bà nhớ lại, và bà nổi cáu vì trên thực tế quả đúng như vậy: bà quên không để xà phòng trong phòng tắm. Ba hôm trước khi đứng tắm dưới vòi hoa sen thấy hộp đựng xà phòng rỗng không bà đã định bụng lấy bánh khác vào nhưng sau đó quên khuấy đi mất. Ngày hôm sau bà lại quên. Hôm qua bà cũng quên nốt. Thực ra không có chuyện phòng tắm không có xà phòng đã tuần nay như ngài vừa nói để cường điệu thêm khuyết điểm của bà, nhưng đúng là đã ba ngày nay phòng tắm không có xàiều đó là một khuyết điểm đáng trách lắm. Nhưng cơn giận vì cảm thấy mình bị chồng bắt lỗi đã làm cho bà mất bình tĩnh. Như mọi lần, bà liền tự vệ trong thế công kích: - Thế mà ngày nào tôi chẳng tắm xà phòng - bà gào to - và phòng tắm lúc nào mà chẳng có xà phòng. Dẫu quá quen thuộc các thủ đoạn gây hấn của bà, nhưng lần này ngài không tài nào chịu nổi. Viện cớ bận việc, ngài đã vào sống nội trú tại bệnh viện Mixêricorđia và chỉ về nhà thay quần áo vào lúc đầu giờ chiều trước khi đến khám bệnh tại gia cho các con bệnh của ngài. Khi nghe thấy ngài trở về, bà bỏ vào nhà bếp, giả vờ đang bận làm một việc gì đó và ở lại đấy cho đến khi nghe thấy tiếng vó ngựa đang khua ngoài đường cái. Trong suốt ba tháng liền, cứ mỗi bận họ định dàn xếp nỗi bất hòa thì điều duy nhất mà họ làm được là càng đốt cháy dữ dội thêm ngọn lửa bất hòa giữa hai người. Ngài chưa sẵn sàng trở về nhà khi bà không chịu thừa nhận rằng mình quên không để xà phòng trong phòng tắm và bà chưa sẵn sàng đón ngài trở về chừng nào ngài chưa thừa nhận đã nói dối một cách có ý thức để làm bà khổ tâm. Dĩ nhiên rồi, vụ xô xát này đã tạo điều kiện cho các vụ xô xát khác, đó là những vụ cãi vã nhỏ nhặt từng xảy ra trong những buổi sáng sớm. Một số tình cảm nuối tiếc này gợi nhớ bao nỗi nuối tiếc khác khiến cho bao vết sẹo lòng cũ lại mở miệng, lại rớm máu và trở thành những vết thương lòng mới, thế là cả hai người đều giật mình trước sự thực đau lòng này: trong bao năm chung sống với nhau họ chỉ nuôi dưỡng hận thù. Ngài liền đi đến quyết định sẽ làm một cuộc xưng tội công khai, nếu cần sẽ mời thêm cả đức giám mục để Chúa sẽ là người phân xử cuối cùng xem có hay không có xà phòng trong phòng tắm. Thế là bà, vẫn là người rất bình tĩnh, bỗng mất bình tĩnh, đã gào toáng lên: - Ỉa vào đức giám mục! - bà gào như vậy và tiếng gào này đã gây nên chuyện chẳng hay hớm gì. Lời chửi đổng kia làm lay động tới tận nền tảng của thành phố. Nó trở thành nguồn gốc của những câu tục ngữ khuyên người ta thú nhận rằng mình nói dối là một việc làm không dễ dàng một chút nào. Nó đi vào khẩu ngữ dân gian với khí vị như một câu tục ngữ: "Ỉa vào đức giám mục". Vì nhận thức rõ ràng vụ xô xát này đã vượt quá giới hạn, bà đã làm tăng thêm sự phản ứng của chồng mà bà đang chờ đợi bằng việc bà đe dọa ngài rằng một mình bà sẽ chuyển về ngôi nhà cũ của cha đẻ mà cho đến lúc ấy vẫn thuộc quyền sở hữu của bà mặc dù nó đã được các văn phòng công cộng thuê. Không phải vì nổiùng mà bà bảo vậy. Bà thực tâm muốn chuyển đi chỗ khác bất chấp dư luận xã hội và người chồng cũng kịp thời nhận ra ý định ấy của bà. Vì không đủ nghị lực để chiến thắng những định kiến của bà, ngài đành phải nhượng bộ vậy. Việc ngài nhượng bộ không có nghĩa là ngài thừa nhận rằng trong phòng tắm có xà phòng vì làm như thế là phản bội sự thật, mà nó có nghĩa là ngài muốn hai người vẫn cùng chung sống trong một ngôi nhà. Nhưng lần này, ngài sẽ sống trong phòng làm việc, bà sống trong phòng ngủ, ai biết việc người ấy, không nói chuyện với nhau. Họ lặng lẽ ăn cơm trong cùng một lúc ở tại bàn ăn và họ giải quyết công việc gia đình bằng cách chờ các con nói lại ý kiến của mình cho người kia biết. Họ khéo léo làm việc đó đến mức đứa con không hề biết họ đang giận nhau. Vì ở phòng làm việc không có phòng vệ sinh do đó ngài đã tìm ra phương thức tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn giữa hai người do tiếng ồn của vòi nước chảy gây nên bằng cách sau khi chuẩn bị xong bài giảng ngài cẩn thận vào phòng vệ sinh, cố giữ ý giữ tứ để không gây tiếng động khiến bà thức giấc. Nhiều lần trước khi đi ngủ họ đụng độ nhau và phải chờ lượt vào phòng tắm để đánh răng buổi tối. Sau bốn tháng hai vợ chồng giận nhau, có một lần ngài nằm đọc sách trên chiếc giường của hai vợ chồng trong lúc bà vào buồng tắm, như lâu nay vẫn thế. Nhưng lần này ngài ngủ khì đi mất lúc nào không hay. Bà lên giường rồi nằm xuống bên cạnh ngài cố ý gây tiếng ồn để ngài thức dậy và đi về phòng làm việc mà ngủ. Quả nhiên ngài thức giấc, nhưng đáng lẽ ngài vùng dậy thì ngài lại tắt phụt ngọn đèn ngủ và nằm xuống, gối đầu lên chiếc gối đôi. Bà lay hai vai ngài để nhắc ngài dậy mà đi về phòng làm việc nhưng ngài lại cảm thấy rất thoải mái được nằm trên chiếc giường đệm lông của các cụ cố nội để lại, nghĩa là ngài muốn đầu hàng: - Hãy cho anh nằm ở đây với, - ngài nói. - Đúng rồi, trong phòng tắm có xà phòng mà lại. Khi nhớ lại câu chuyện ấy thì họ đã bước vào tuổi già, cả ngài lẫn bà đều không dám tin vào cái sự thực đáng kinh ngạc này: vụ cãi lộn kia là vụ lớn nhất trong suốt một nửa thế kỷ vợ chồng chung sống và cũng là vụ duy nhất khiến họ tìm cách nhường nhịn lẫn nhau để bắt đầu sống theo một hình thức khác cho phù hợp với tuổi tác. Ngay cả khi họ đã già và trầm tĩnh lại họ đều giữ ý để không nhớ lại vụ xô xát ấy vì những vết thương lòng vừa mới lên sẹo sẽ lại rớm máu ngay và vết sẹo ấy sẽ lại trở thành vết thương mới y như vừa xảy ra hôm qua vậy. Ngài là người đầu tiên Phecmina Đaxa nghe thấy đái. Trong đêm tân hôn trên con tàu thủy đi Pari, Phecmina Đaxa nằm trên giường trong phòng khách để chống lại cơn say sóng đã nghe thấy ngài đái và cái dòng nước đái chảy tồ tồ như bò đái ấy của ngài khiến bà có cảm giác nó phun rất mạnh đầy uy quyền đến mức càng làm tăng thêm nỗi hoảng sợ của bà. Cái ký ức ấy thường xuyên trở lại với bà khi cùng với năm tháng qua đi dòng nước đái ấy phun ngày một yếu hơn, bởi vì không bao giờ bà chịu đựng nổi việc mỗi bận ngài dùng chậu đái đã làm ướt bẩn bệ chậu. Bằng những lý lẽ dễ hiểu đối với những ai muốn hiểu, bác sĩ Huvênan Ucbinô tìm cách thuyết phục bà rằng sở dĩ việc mình thường xuyên làm bẩn bệ chậu mỗi bận vào phòng vệ sinh kia không phải là do sự kém ý thức của ngài mà bởi một lý do khác thuộc về cấu trúc cơ thể ngài. Dòng nước đái thời thanh niên của ngài phun đã mạnh lại còn chụm tia thành vòng cung mà hồi còn trẻ đi học ở trường bao giờ ngài cũng giành giải nhất mỗi lần thi xem ai tia dòng nước đái của mình không những trúng vào miệng chai mà còn phun đầy vào chai. Nhưng cùng với thời gian trôi đi, tuổi ngài càng cao thì thận ngài ngày càng suy yếu đi, vì thế dòng nước đái của ngài phun ra cũng ngày càng yếu đi, hơn thế nữa, nó còn phun tóe loe ra thành nhiều tia, nhiều nhánh, hết sức ma quái đến mức cho dù đã cố gắng hết sức ngài cũng không tài nào điều khiển cho nó phun được cao hơn, thẳng hơn và chụm hơn. Ngài bảo: "Cái thứ hố xí sạch sẽ thơm tho cần được những kẻ không hiểu thế nào là người đàn ông sáng chế ra thì tốt hơn". Bằng hành động nhẫn nhục thường nhật ngài cố góp phần làm cho không khí gia đình hòa thuận yên vui. Đó là việc sau khi đái xong, ngài xé giấy vệ sinh lau sạch nước đái còn bám vào bệ chậu. Bà đã biết rõ điều đó và sẽ không kêu ca điều gì nếu nhà vệ sinh không nồng nặc mùi khí a cmônic. Ngược lại, khi thấy nó có mùi khai, lập tức bà lên tiếng tố cáo làm như thể bà phát hiện ra một tội ác: "Ôi, cái phòng tắm này khai như chuồng thỏ ấy". Trước khi bước sang tuổi lão thành, chính cái thân hình ngày một còng gấp lại đã mách bảo bác sĩ Huvênan Ucbinô sử dụng giải pháp cuối cùng: Ngài sẽ ngồi mà đái y hệt như bà vẫn làm thế. Chính giải pháp này không những làm cho chậu sạch sẽ mà còn khiến cho ngài thoải mái khi đi đái. Hơn nữa, chính trong lúc này ngài tự thấy mình không được khỏe lắm và chỉ một cú trượt chân trong nhà tắm có thể là chuyện oan gia, cho nên ngài rất thận trọng đứng tắm dưới vòi hoa sen. Ngôi nhà này, vì là ngôi nhà được xây dựng theo kiến trúc hiện đại, không có bồn tắm làm bằng hợp kim chì thiếc có chân quỳ như thể chân sư tử mà các nhà ở thành phố cổ vẫn sử dụng thường xuyên. Ngài đã ra lệnh tháo bỏ bồn tắm đi, vì bồn tắm là một trong những sản phẩm hủ lậu của những người sinh trưởng ở châu Âu, những người mỗi tháng chỉ tắm một lần vào ngày thứ sáu cuối cùng của một tháng, ngoài ra họ còn làm cho bên trong thành bồn cáu bẩn những thứ bẩn mà con người thải ra khỏi cơ thể. Vậy là ngài ra lệnh làm một bồn tắm rộng rãi bằng gỗ lim, nơi hiện nay Phecmina Đaxa tắm cho chồng như tắm cho một đứa trẻ sơ sinh. Việc tắm táp của ngài kéo dài hơn một giờ đồng hồ bằng một thứ nước màu nâu, nấu lá cẩm quỳ và vỏ cam. Đối với ngài buổi tắm như thế này rất dễ chịu và đôi khi ngài ngủ gật trong mùi thơm của nước lá. Sau khi tắm xong, Phecmina Đaxa mặc quần áo cho ngài, thoa phấn rôm vào hai bẹn cho ngài, bôi dầu hạt ca cao vào những chỗ bị bỏng, rồi bà cẩn thận mặc quần đùi cho ngài như cho một đứa trẻ, tiếp đó mặc cho ngài áo sơ mi, nào quần, đi tất và thắt nút ca vát. Giờ đây cuộc sống vợ chồng ngài trở nên thanh bình, êm ả vào những buổi sáng sớm vì ngài trở lại sống những năm tháng của tuổi thơ vốn bị các con ngài lấy mất. Về phần mình, bà cũng sống dịu hiền hơn vì bà cũng đã già rồi: ngày một ít ngủ hơn và trước khi lên bảy mươi bà thức dậy trước cả ngài. Ngày chủ nhật lễ Hạ Trần, khi mở tấm khăn vải để nhìn tử thi Giêrêmia đê Xanh Amua, bác sĩ Huvênan Ucbinô đã được khải thị về một điều gì đó mà cho đến lúc ấy trong những suy tư mạch lạc của thầy thuốc và của kẻ mộ đạo nó vẫn không lộ ra cho ngài thấy. Cứ như thể sau nhiều năm làm quen với cái chết, sau bao nhiêu năm chiến đấu chống lại cái chết và cầm nắm cái chết, hết lật trái lại lật phải nó trong tay, thì lần này là lần đầu tiên ngài có đủ dũng khí để nhìn thẳng vào mặt thần chết, và lần ấy thần chết cũng ngang nhiên nhìn thẳng vào mặt ngài. Không! Nỗi sợ hãi ấy nằm trong tay ngài, cùng chung sống với ngài từ rất nhiều năm nay, nó là cái bóng khác trùm lên chính cái bóng của ngài kể từ đêm ngài mộng mị bỗng thức dậy lòng đầy hoảng loạn và hiểu rằng cái chết không chỉ là một sự chứng nghiệm thường xuyên như lâu nay ngài vẫn cảm thấy mà nó còn là một thực tại gần kề. Tuy nhiên cái mà ngày hôm ấy ngài nhìn thấy chỉ là sự hiển hiện bằng xương bằng thịt của cái mà cho đến lúc ấy vẫn chưa vượt quá một hình ảnh sáng tỏ và cụ thể được tưởng tượng ra. Ngài cảm thấy vui trong lòng mà nhận ra rằng cái biểu hiện để Đấng Toàn năng diễn đạt điều khải thị kia có thể chính là tử thi Giêrêmia đê Xanh Amua, người mà ngài lúc nào cũng coi như một vị thánh từng quên đi chính hoàn cảnh vui vẻ của mình. Nhưng khi bức chúc thư chứng tỏ cho ngài rõ bản thể đích thực của y, cái quá khứ khắc nghiệt của y, cái khả năng vô biên thực thi các trò ranh ma của y, thì ngài cảm thấy cái gì đó rất cụ thể đã xảy ra trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, Phecmina Đaxa đã không để mình bị lây nỗi buồn của ngài. Dĩ nhiên rồi, ngài định làm cho bà cũng buồn chính nỗi buồn của mình trong lúc bà giúp ngài xỏ chân vào hai ống quần và đóng hộ ngài hàng cúc dài chiếc áo sơ mi. Nhưng ngài không thực hiện được vì Phecmina Đaxa không phải là người dễ mủi lòng, hơn nữa bà không yêu. Hầu như bà mới chỉ biết rằng Giêrêmia đê Xanh Amua là một người tàn phế phải chống nạng mà bà chưa hề nhìn thấy mặt, rằng y đã trốn thoát một đội hành hình - một trong vô số cuộc nổi dậy ở một trong những hòn đảo thuộc quần đảo Andat, rằng vì túng quẫn nên y phải hành nghề chụp ảnh cho trẻ nhỏ và vì thế y trở nên là người được nhờ vả hơn cả trong thành phố, và rằng y đã thắng một ván cờ đậm đối với người mà tên của người ấy bà nhớ đâu như là Têrêmôlinôt, nhưng thực ra là Casablanca[16]. - Vậy ông ta chỉ là một tên tù xổng ở đảo Cadêna[17] bị kết án tù ngồi vì tội ác rất kinh tởm, - bác sĩ Huvênan Ucbinô - Bà hãy nghĩ mà xem ông ta ăn cả thịt người đấy. Ngài đưa cho bà tờ chúc thư mà những bí mật trong đó ngài muốn mang xuống mồ nhưng bà không đọc, cất những tờ thư gấp đôi vào trong ngăn kéo bàn rồi khóa lại. Bà đã quen với cái tài ngạc nhiên không thể lường hết được của chồng mình với những thứ lý thuyết thái quá mà trong những năm gần đây càng trở nên khó hiểu hơn, với những định kiến quá ư chật hẹp không phù hợp với dáng vẻ hào hoa cởi mở khi đứng trước công chúng của ngài. Nhưng lần ấy, quả là bà đã vượt được những giới hạn của mình. Bà nghĩ rằng chồng mình đánh giá cao Giêrêmia đê Xanh Amua chẳng bởi chính những việc y làm trước đây mà chủ yếu bởi chính những gì y làm khi đến đây trong tình cảnh nghèo rớt với chiếc bị của người tị nạn và bà không thể nào hiểu vì sao chồng mình lại mủi lòng trước bản thể con người y được bộc lộ một cách muộn mằn. Bà không hiểu vì sao ngài lại tỏ ra khó chịu đối với việc y sống lén lút cùng một người đàn bà nếu như đó là tập quán ngàn đời của loại người ấy, kể cả ngài trong một lúc bất lợi, và ngoài ra đối với bà đó còn là một bằng chứng đau thương về tình yêu: người đàn bà kia đã giúp cho y thực hiện triệt để ý muốn tự kết liễu đời mình. Bà nói: "Nếu ông cũng quyết chí làm điều đó với những lý do nghiêm chỉnh như thế thì nghĩa vụ của tôi là sẽ phải làm cái điều chính bà ấy đã làm". Bác sĩ Huvênan Ucbinô một lần nữa lại thấy mình ở trong thế khó xử do không hiểu nhau từng khiến ngài đau khổ hàng nửa thế kỷ nay. - Bà chẳng hiểu gì cả - ngài nói - Điều khiến tôi bực mình không phải là điều ông ta làm mà là sự lừa bịp của họ đối với mọi người chúng ta trong hàng bao nhiêu năm. Mắt ngài bắt đầu giàn giụa thứ nước mắt dễ dãi nhưng bà giả vờ như không biết gì. - Y làm rất khéo, bà nói. - nếu y lại nói đúng sự thực ngay thì ngay ông, ngay cả người đàn bà tội nghiệp kia, và không một ai trong cái thành phố này lại yêu mến y như đã từng yêu mến. Bà đeo cho ngài chiếc đồng hồ quả quýt vào ve chiếc áo khoác ngoài. Bà thắt nút cà vạt cho ngài rồi ghim vào đó chiếc ghim bằng đá tôpa. Sau đó bà dùng chiếc khăn tay thấm nước hoa Phlorida lau sạch nước mắt và hàm râu ướt nước dãi cho ngài, rồi bà đút chiếc khăn ấy vào túi ngực để thò ra ngoài hai góc khăn nom nó tựa như bông hoa ngọc lan. Chiếc đồng hồ quả lắc để trên giá điểm mười một tiếng chuông. - Nhanh chân lên ông ơi - bà nói rồi cầm lấy cánh tay ngài - mau lên kẻo chúng ta đến chậm mất rồi! Aminta Đơsampơ, bà vợ của bác sĩ Laxiđêt Ôlivêda, và bảy cô con gái khôn khéo nhất thành phố, lo toan tất cả để bữa tiệc mừng đám cưới bạc trở thành một sự kiện xã hội trong năm. Toàn bộ gia đình ngài sinh sống tại ngôi nhà cổ ở đường Mônêđa. Ngôi nhà này từng được một kiến trúc sư, người Phlôrên đi qua đây như một làn gió mới, xây dựng và là người đã biến hơn bốn nơi thờ thánh tích thế kỷ XVII thành những dinh thự lớn ở thành phố Vênêxi. Ngôi nhà có sáu phòng ngủ và hai phòng xa lông dùng vào việc ăn uống và tiếp khách, tuy chúng rất rộng rãi và có đủ quạt trần nhưng không tiện lắm cho việc tiếp đón các vị khách ở thành phố và những vị khách chọn lựa từ thành phố khác đến. Sân nhà giống như sân một tu viện: một chiếc cầu đá ngạo nghễ dựng lên ngay ở giữa sân và các hòn non bộ trồng hoa vòi voi tỏa hương thơm ngát cho ngôi nhà vào lúc chiều buông, nhưng khoảng không gian này không đủ sức chứa các tân khách có dòng họ quý phái. Vậy là người ta quyết định chuyển bữa tiệc mừng đám cưới bạc đến trang trại số năm của gia đình cách đây chừng mười phút xe chạy theo đường cái quan. Ở đây có một bãi đất rộng rãi cùng với những cây nguyệt quế Ấn Độ xum xuê cành lá và những bụi súng trắng mọc dưới suối nước chảy lặng lờ. Bọn bồi bàn của Đôn Săngchô, dưới sự điều khiển của bà vợ bác sĩ Laxiđêt Ôlivêda, đã cắm những chiếc ô lớn màu sặc sỡ trên bãi đất trống, và bên dưới tán những cây nguyệt quế họ kê bàn ghế theo hình tam giác đủ chỗ cho một trăm hai mươi mốt tân khách, bàn nào cũng có khăn trải may bằng vải lanh và tại bàn tiệc danh dự còn cả những cành hoa hồng tươi rói. Người ta cũng dựng cả một bục chơi nhạc cho ban nhạc chơi nhạc cụ thuộc bộ hơi chuyên chơi các bản nhạc nhảy và nhạc van dân tộc và cho ban nhạc bốn người chuyên chơi đàn của trường mỹ thuật, vốn là điều bất ngờ mà bà vợ bác sĩ Laxidêt Ôlivêda muốn dành tặng vị thầy lão thành của chồng mình, người sẽ làm chủiệc hôm nay. Mặc dù ngày hôm nay không trùng với ngày kỷ niệm đám cưới của vợ chồng bà cách đây hai mươi năm vì thế chọn đúng ngày chủ nhật lễ Hạ Trần để cho bữa tiệc thêm long trọng và có ý nghĩa hơn. Công việc chuẩn bị được tiến hành từ ba tháng trước cốt tránh bỏ sót những việc cần làm mà không thể làm được do thời gian kíp quá. Gia đình loan tin để người ta mang gà mái từ miền Xiênaga đê Ôrô đến bán cho bữa tiệc. Những con gà mái này nổi tiếng khắp miền duyên hải chẳng những do chúng to béo và ngon thịt mà còn vì trong thời kỳ thuộc địa của Tây Ban Nha, chúng từng bới đất lụt kiếm ăn vì thế người ta bắt gặp những hạt vàng nguyên chất ở trong mề của chúng. Bà Ôlivêda, được các con gái và mấy người hầu gái theo sau, đã đích thân trèo lên boong những chiếc tàu viễn dương sang trọng tìm mua những thức ngon vật lạ từ mọi miền để tăng thêm danh tiếng cho chồng mình. Tất cả đều được trù tính kỹ ngoại trừ bữa tiệc được tổ chức vào ngày chủ nhật trong năm mùa mưa đến muộn. Gia đình bỗng nhận ra ngay điều đó vào chính buổi sáng hôm ấy khi họ đi làm lễ misa tại nhà thờ và họ giật mình trước hơi ẩm trong khí khác thường và nhìn thấy bầu trời đầy mây, thấp tè và mờ mịt không thể nhìn thấy đường chân trời ở phía cuối biển. Bất chấp những biểu hiện cụ thể ấy của một trận mưa rào sắp đổ xuống, vị giám đốc nha khí tượng, người mà bác sĩ Laxiđêt Ôlivêda gặp ngay trong buổi lễ misa ngày Hạ Trần, vẫn lưu ý rằng trong lịch sử những mùa đông khắc nghiệt nhất, không bao giờ ngày chủ nhật lễ Hạ Trần lại có mưa rào. Tuy nhiên, vào lúc chuông đồng hồ điểm mười hai giờ, khi mà nhiều vị tân khách ngồi dưới bóng mát bắt đầu uống rượu khai vị, thì tiếng sấm rền vang làm rung chuyển mặt đất, cơn gió mạnh ập tới làm tung hết các thứ bày trên mặt bàn và cuốn theo nó những chiếc ô lớn. Trời đổ xuống một trận mưa rào quái ác. Bác sĩ Huvênan Ucbinô gian nan lắm mới đến được địa điểm mời tiệc giữa lúc mọi người đang hối hả tất bật chạy mưa. Cùng với các vị tân khách gặp trên đường đi, ngài đến đây và ngài muốn như họ lò cò nhảy trên những hòn đá nổi trên sân lầy bùn để đi từ chỗ đậu xe vào nhà, nhưng rồi ngài đành phải chấp nhận biện pháp giản dị này: Đám người nhà Đôn SăngChô kiệu ngài trên tay, che cho ngài chiếc lọng vàng và đưa ngài vào trong nhà. Những chiếc bàn kê riêng biệt này đã được kê xít lại với nhau bằng bất cứ cách nào cho tiện ở ngay trong nhà, kể cả trong phòng ngủ. Các tân khách chẳng cần phải cố giấu đi cảm giác mình bị ngột thở. Trong nhà nóng và ngột như ở hầm tầu vì người ta đóng kín các cửa lại để gió không thể táp mưa vào nhà. Ở ngoài sân, tại mỗi chỗ ngồi đều có mảnh thiếp ghi rõ tên họ từng vị khách mời và người ta đã xếp chỗ cho các khách nam vào một phía, khách nữ vào một phía, như tập quán ở đây vẫn làm thế. Nhưng ở trong nhà, các tấm thiếp ấy đều để lẫn lộn và do đó các khách mời cứ tiện việc đâu ngồi đấy trong một trạng thái hỗn tạp khủng khiếp mà ít ra nó cũng khác hẳn với những tin điều của xã hội chúng ta. Trong lúc mưa bão, Aminta đê Ôlivêda dường như có mặt ở khắp nơi trong cùng một lúc. Với mái tóc ướt đẫm và bộ quần áo lộng lẫy bê bết bùn, thế mà lúc nào bà cũng mỉm một nụ cười kiêu hãnh vốn học được của ông chồng để chiến thắng hoàn cảnh trớ trêu và không để cho kẻ thù của mình được dịp cười cợt. Được các cô con gái giúp đỡ bà đã cố gắng hết sức giành được một chỗ để kê bàn tiệc danh dự là nơi bác sĩ Huvênan Ucbinô ngồi chính giữa bàn và bên phải ngài là đức giám mục Ôbđuliô và Kây. Phécmina Đaxa ngồi bên cạnh ngài, như xưa nay bà vẫn ngồi thế vì bà sợ rằng trong lúc ăn ngài ngủ gật hoặc đánh đổ súp lên ve áo khoác ngoài. Ngồi đối diện với ngài phía bên kia bàn tiệc danh dự là bác sĩ Laxiđêt Ôlivêda, một ông già ngoài năm mươi tuổi, với dáng vẻ của đàn bà, cơ thể ngài vẫn cân đối gọn gàng, với tinh thần vui nhộn vốn không hề liên quan đến sự chẩn đoán bệnh tật chính xác của ngài. Phần còn lại của bàn tiệc danh dự dành cho các quan chức trong chính quyền tỉnh và quận, cho cô hoa hậu được chọn trong vũ hội Cácnavan năm trước mà quan tỉnh trưởng khoác tay dẫn đến đây và cho ngồi bên cạnh ngài. Mặc dù việc đòi hỏi phải ăn diện thật sang trọng trong các bữa tiệc mời, nhất là trong một bữa tiệc nơi thôn quê vào bữa trưa, không phải là một thói quen ở đây, nhưng phần lớn khách đến dự tiệc đều mặc complê dạ mầu thẫm và thắt cà vạt đen... một số vị còn mặc cả áo đuôi tôm, còn các vị khách nữ vận quần áo sặc sỡ các màu, đeo những vòng hạt cực kỳ quý giá. Chỉ có những ai rất lịch duyệt trong số đó có bác sĩ Huvênan Ucbinô, ăn mặc quần áo bình thường. Mỗi chỗ ngồi đều có một bản ghi thực đơn in bằng tiếng Pháp. Bà Ôlivêda, hoảng hốt trước cơn nóng hầm hập ở trong phòng, đã đi khắp lượt các bàn van xin các vị khách hãy cứ việc tự nhiên cởi áo khoác ngoài ra mà ăn, nhưng không một ai dám cởi trước tiên. Đức giám mục lưu ý bác sĩ Huvênan Ucbinô rằng cứ xét theo một hình thức nào đấy thì bữa tiệc này là một bữa tiệc lịch sử: lần đầu tiên những người thuộc hai phái Bảo hoàng và Tự do đối địch với nhau trong các cuộc nội chiến từng làm đỏ máu nhân dân ngay từ sau ngày đất nước giành được độc lập thoát khỏi ách thống trị của người Tây Ban Nha, những người này hiện nay vẫn mang sẹo trên thân thể hoặc vẫn mang hận thù sâu sắc trong lòng, hôm nay ngay tại đây, họ đã ngồi chung một bàn tiệc. Cái ý nghĩ này trùng hợp với niềm vui sướng hân hoan của những người thuộc phái Tự Do, nhất là đám thanh niên, vì từ đây họ đã bầu được một vị tổng thống nước cộng hòa thuộc đảng Tự do sau bốn mươi lăm năm liên tục phái Bảo Hoàng nắm giữ chức vụ này. Bác sĩ Huvênan Ucbinô không tán thành với đức giám mục. Đối với ngài, một vị tổng thống thuộc phái Tự Do hoàn toàn không khác gì một vị tổng thống thuộc phái Bảo Hoàng, có khác chăng thì chỉ khác ở việc ngài ăn mặc xoàng xĩnh hơn. Ngài không dám phản đối ý kiến đức giám mục, tuy nhiên, ngài vẫn muốn chỉ cho đức giám mục thấy rằng những ai có mặt trong bữa tiệc này không phải vì họ nghĩ như thế nào mà chỉ đơn thuần vì những chiến tích của đẳng cấp mình và đẳng cấp bao giờ cũng ở trên mọi diễn biến ngẫu nhiên của chính trị, bất chấp mọi đau thương khủng khiếp của chiến tranh. Dĩ nhiên, chính vì nhìn nhận như thế nên không một ai vắng mặt trong bữa tiệc này. Trận mưa rào bỗng nhiên tạnh như nó đã bỗng nhiên trút nước xuống và mặt trời lại rực rỡ sáng trên nền trời quang mây, nhưng gió lại thổi dữ dội hơn nhiều đến mức chúng đã làm cho một số cây cổ thụ bị trốc rễ và nước trong con suối trước đây hiền hòa nay dềnh lên tràn khỏi đôi bờ biến sân nhà thành một bãi bùn đỏ ngầu. Nhưng thảm họa lớn hơn cả trong trận mưa lại xảy ra ở bếp nấu. Mấy bếp củi được bắc tạm trên gạch ở ngoài trời phía sau nhà bị mưa to và những người đầu bếp hầu như chỉ có đủ thời gian bưng các chảo đang đun trên bếp lửa vào nhà. Bọn người làm bếp phải mất một số thời gian thu hẹp nhà bếp và nhóm thêm các bếp ngay tại hành lang trong. Nhưng đến một giờ chiều lại xảy ra một chuyện bất ngờ mới: chỉ còn thiếu món tráng miệng từng được ủy thác cho các nữ tu sĩ Tu viện Xanta Clara mà các bà này hứa sẽ chuyển đến trước một giờ trưa. Người ta sợ rằng nước của con suối bên cạnh đường quan sẽ lên to như đã từng xảy ra trong những mùa đông ít nghiệt ngã, và trong trường hợp nước lên to quá không thể đi lại được thì khó có thể có món tráng miệng vào lúc hai giờ. Ngay sau khi tạnh mưa các cửa sổ liền được mở toang và thế là ngôi nhà lại mát mẻ, tràn đầy thứ không khí trong lành sau trận mưa. Sau đó, chủ nhà ra lệnh cho ban nhạc chơi chương trình nhạc van ở ngoài sân hiên nhưng việc chơi nhạc này chỉ làm tăng thêm cơn khát vì tiếng vang của kèn đồng trong không gian ngôi nhà buộc người ta phải gào to để nói chuyện với nhau. Mệt mỏi vì phải chờ đợi món tráng miệng, Aminta đê Ôlivêda vẫn tươi cười ra lệnh người hầu bưng cơm ra. Nhóm nhạc công của trường Mỹ thuật mở đầu bản giao hưởng trong khung cảnh yên tĩnh vừa đủ nghe những nhịp dạo đầu bản La Chasse của Môda. Dù cho tiếng hát ngày một bay bổng, dù cho bọn bồi bàn người da đen của đôn Săngcho tay bưng khay thức ăn nghi ngút hơi nóng, ồn ào len lỏi đi lại giữa các hàng bàn ghế kê sát nhau, bác sĩ Huvênan Ucbinô vẫn sảng khoái theo dõi hết chương trình âm nhạc. Tuổi tác ngày càng cao thì khả năng tập trung tư tưởng của ngài ngày càng giảm đến mức khi chơi cờ đam ngài phải lấy bút ghi lại trên giấy những nước cờ để sau đó còn biết đường mà đi nước tiếp theo. Tuy nhiên ngài vẫn đủ khả năng vừa theo dõi một cuộc nói chuyện nghiêm túc vừa theo dõi đầy đủ một buổi hòa nhạc giao hưởng dẫu rằng khả năng ấy của ngài hiện nay không thể địch được với khả năng tuyệt vời của giám đốc một dàn nhạc Đức, một người bạn lớn của ngài hồi ngài còn sống ở Áo, người trong lúc nghe bản nhạc Tanhauser vẫn đọc khúc dạo đầu bản nhạc Don Giovani. Phần hai của chương trình, phần chơi bản nhạc Thần chết và cô Trinh nữ, nhạc phẩm của Sube, ngài cảm thấy nó được chơi với phong cách kịch quá rõ. Trong lúc ngài vất vả nghe bản nhạc được tấu lên vì phải lọc qua những tiếng ồn do thìa nĩa chạm vào bát đĩa, ngài chăm chú nhìn một anh thanh niên mặt hồng hào đã cúi đầu chào mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, ngài đã nhìn thấy anh ta ở đâu đó, nhưng ở đâu thì ngài không thể nhớ được chính xác. Ngài thường hay quên, đặc biệt là ngài quên tên người, ngay cả tên những người rất quen biết hoặc tên các bản nhạc thời trước và chính việc hay quên này đã dày vò lòng ngài một cách khủng khiếp đến mức có một đêm ngài định chết quách đi cho rồi còn hơn là phải chịu đựng nỗi dày vò cho đến sáng hôm sau. Lúc này suýt nữa ngài cũng sẽ nghĩ như vậy nhưng mà may thay một ánh lửa diêm chiếu sáng ký ức ngài: anh thanh niên kia là học trò năm trước của ngài. Ngài ngạc nhiên thấy anh ta có mặt ở đây, ở thế giới những người được chọn lựa này, nhưng bác sĩ Laxidêt Ôlivêda nhắc ngài nhớ lại rằng anh thanh niên kia là con trai vị Bộ trưởng Y tế, là người đến thành phố này để chuẩn bị luận án về thuốc pháp y. Bác sĩ Huvênan Ucbinô vui vẻ bắt tay chào anh ta và anh thanh niên liền đứng dậy kính cẩn đáp lễ. Nhưng ngay lúc ấy và cả sau này, chẳng bao giờ ngài nhận ra rằng anh ta chính là anh sinh viên y khoa trẻ đang thực tập ở phòng khám, người có mặt với ngài ở nhà Giêrêmia Đê Xanh Amua buổi sáng hôm ấy. Ngài đang hào hứng trước một chiến thắng nữa của mình đối với tuổi già, nên đã bỏ không theo dõi nốt tiết mục cuối cùng, một bản nhạc trữ tình rất trong sáng và dễ cảm động lòng người. Ngài không nghe vì không thể hiểu được nó. Về sau, một anh thanh niên, thành viên của nhóm nhạc, người mới từ nước Pháp trở về, nói với ngài rằng đó là bản nhạc tứ tấu dành cho dàn nhạc của một nhạc sĩ tên là Gabriên Phôrê là một nhạc sĩ mà bác sĩ Huvênan Ucbinô chưa hề biết tên tuổi dù ngài chịu khó theo dõi sát sao các sự kiện mới lạ xảy ra ở châu Âu. Do quan tâm chăm sóc ngài, nhất là khi thấy ngài tư lự trước công chúng, Phecmina Đaxa ngừng ăn, đặt tay mình lên tay ngài. Bà nói với ngài: "Ông ơi, ông không nên nghĩ đến chuyện ấy nữa". Vẫn đắm chìm trong trầm tư mặc tưởng, ngài mỉm cười với bà và đó chính là lúc ngài nghĩ đến điều bà lo sợ. Ngài nghĩ đến Giêrêmia đê Xanh Amua mà lúc này mặc quần áo lính và đeo huân chương nằm trong quan tài dưới con mắt soi mói của những đứa trẻ trong các bức chân dung được t reo trên tường. Ngài quay lại với đức giám mục để báo cho Cha biết tin y đã tự tử nhưngCha biết rồi. Sau lễ misa người ta bàn tán nhiều về vụ tự tử ấy và hơn thế nữa Cha còn nhận được lời thỉnh cầu của đại tá Hêrômimô Acgôtê, người đại diện cho tất cả những người tị nạn vùngCaribê, xin Đức Cha cho phép chôn cất y ở nghĩa trang của giáo khu. Đức giám mục bảo: "Tôi cảm thấy lời thỉnh cầu ấy là một sự bất kính". Sau đó với giọng nói dịu dàng hơn, thân mật hơn, đức giám mục hỏi liệu ngài có biết nguyên nhân của vụ tự tử ấy không. Bác sĩ Huvênan Ucbinô trả lời cha bằng một từ chính xác mà ngài cứ tưởng mình đã sáng tạo ra ngay chính lúc ấy: Gerontofobia[18]. Bác sĩ Laxidêt Ôlivêda, còn đang bận chăm sóc các tân khách ngồi gần mình nhất đã ngừng chuyện trò với họ một lúc để tham gia câu chuyện của thầy học mình. Ngài nói: "Thật đáng thương cho đến bây giờ vẫn có một vụ tự tử không phải vì tình". Bác sĩ Huvênan Ucbinô không hề ngạc nhiên khi nhận thấy những suy tư của mình lại hoàn toàn trùng với những suy tư của người học trò cưng. - Còn tệ hơn thế nữa - ngài nói -Y tự tử bằng hơi độc của muối xyamua vàng. Khi nói thế ngài cảm thấy tình thương của mình đối với y lại sâu sắc thêm trên cơ sở nỗi đắng cay của bức chúc thư và ngài không cảm ơn vợ mình mà lại cảm ơn cái kỳ diệu của âm nhạc. Thế là ngài nói với đức giám mục về vị thánh thế tục mà ngài được quen biết trong những buổi chiều thư thả đấu cờ đam, về lòng tận tụy của y trong nghệ thuật chụp ảnh hiến dâng hạnh phúc cho trẻ nhỏ, về sự hiểu biết rất kỳ lạ của y về biết bao điều mới lạ trên thế giới này, về những cá tính dịu hiền của y, và chính ngài đã phải ngạc nhiên trước việc y tự làm thanh sạch tâm hồn bằng việc cắt đứt với quá khứ một cách dứt khoát và nhanh chóng. Sau đó ngài nói với quan thị trưởng nên mua lại phim âm bản để làm tư liệu giữ lại những hình ảnh của một thế hệ mà có lẽ chúng sẽ không hạnh phúc ở ngoài các bức ảnh và tương lai của thành phố sẽ ở trong tay chúng. Đức giám mục không bằng lòng với những lời quá khen ngợi của ngài về Giêrêmia đê Xanh Amua và cha bảo rằng một con chiên vừa là quân nhân vừa là người có lòng tin thì làm sao lại đi tự tử được. Nhưng đức giám mục lại tán thành việc nên mua lại những phim âm bản làm tư liệu cho thành phố. Quan thị trưởng muốn được biết nên liên hệ với ai để mua lại những phim âm bản ấy. Bác sĩ Huvênan Ucbinô bị bỏng lưỡi trước điều bí mật nóng rực như than lửa, nhưng ngài đã kịp chịu đựng mà không để lộ tên người thừa kế những phim âm bản ấy hiện đang mai danh ẩn tích. Ngài bảo: "Hãy để tôi lo liệu việc này cho". Và ngài cảm thấy mình được tự do bởi chính lòng trung thành của mình đối với người đàn bà mà ngài vừa từ giã cách đây năm giờ. Phecmina Đaxa nhận rõ điều ấy và buộc ngài hứa sẽ tham dự đám tang. "Dĩ nhiên là tôi sẽ làm điều đó", ngài nói với vẻ bàng hoàng. "Chỉ cần là tôi đi ngay". Các bài phát biểu chúc tụng và đáp lễ thật là ngắn gọn. Ban nhạc hơi lại bắt đầu thổi một điệu nhạc dân gian không hề có trong chương trình. Các tân khách đi dạo trên các hành lang và sân hiên đợi cho đám bồi bàn của Đôn Săngchô tát cạn nước trong sân phòng khi có ai thích nhảy chăng. Các vị khách duy nhất ngồi lại trong phòng là các tân khách ở bàn tiệc danh dự. Họ ngồi lại để chúc mừng bác sĩ Huvênan Ucbinô trong lần nâng cốc cuối cùng sẽ cạn một hơi nửa cốc rượu brandy. Không một ai nhớ rằng ngài cũng đã uống như thế trước đây rồi, trừ cốc rượu ngon ngài uống để ăn cho trôi một bữa ăn thịnh soạn hiếm có, nhưng con tim ngài buổi chiều ấy lại đòi ngài uống thêm nửa cốc rượu brandy và thế là ngài ngà ngà say: một lần nữa, sau bao nhiêu năm, ngài lại muốn ca hát. Đáng lẽ ra ngài đã hát với tiếng đệm đàn của tay nhạc công trẻ tình nguyện đệm đàn cho ngài nếu lúc ấy không có một chiếc xe kiểu mới vượt qua sân lầy bùn, khiến bọn nhạc công phải chạy tán loạn và với tiếng còi kêu toe toe nó làm cho lũ vịt nháo nhác chạy ở ngoài vườn. Chiếc xe dừng lại ngay trước hàng cột hiên nhà. Bác sĩ Maccô Aurêliô Ucbinô Đaxa và bà vợ cười ngặt nghẽo bước xuống xe, mỗi tay bưng một khay đậy tấm khăn đăng ten. Một số khay tương tự cũng được đặt trên các ghế và ngay cả dưới sàn xe cạnh ghế người tài xế ngồi. Đó là món tráng miệng muộn mằn. Khi tiếng vỗ tay cùng tiếng cười đùa vui vẻ vừa chấm dứt, với giọng điệu nghiêm chỉnh, bác sĩ Ucbinô Đaxa giải thích rằng các nữ tu sĩ nhờ ngài chuyển hộ món tráng miệng đến đây từ trước lúc mưa bão nhưng khi xe ngài đến con đường cái quan thì phải quay trở lại vì có người bảo rằng nhà cha mẹ ngài đang bị cháy. Bác sĩ Huvênan Ucbinô giật mình hoảng hốt không cần phải đợi cho con trai kể hết câu chuyện. Nhưng bà vợ ngài kịp nhắc ngài lại rằng chính ngài đã bảo gia nhân đi mời đội cứu hỏa đến để bắt hộ con vẹt xổng chuồng. Aminta đê Ôlivêda mặt rạng rỡ, quyết định dọn món tráng miệng mời khách mặc dù họ vừa uống xong cà phê. Nhưng bác sĩ Huvênan Ucbinô và phu nhân vội ra về không hề nếm bánh tráng miệng bởi vì thời gian hầu như chỉ đủ cho ngài ngủ trưa trước khi đi dự đám tang Giêrêmia đê Xanh Amua. Ngài ngủ một giấc ngủ ngắn và nặng nề những mộng mị vì khi trở về tới nhà ngài thấy bọn lính cứu hỏa đã gây ra những thiệt hại còn lớn hơn một vụ hỏa hoạn. Định dọa con vẹt bọn họ lấy vòi phun cao áp phun nước lên chỗ con vẹt đứng và dòng nước phun xối xả này đã vặt trụi hết lá cây, hơn nữa dòng nước phun không chính xác đã đập vào cửa sổ, tóe nước vào trong phòng ngủ, làm vấy bẩn các đồ nội thất và chân dung các cụ cố treo trên tường. Hàng xóm hoảng hốt xô ra đường khi nghe thấy tiếng còi xe cứu hỏa vì tưởng là có hỏa hoạn, và nếu sự rối loạn không xảy ra là vì bọn học trò bị giữ lại trong trường nội trú ngày chủ nhật. Khi nhận rõ dù có dùng thang nối cũng không thể trèo lên con vẹt đậu, lính cứu hỏa liền lấy dao chặt cành cây và chỉ khi bác sĩ Ucbinô Đaxa xuất hiện đúng lúc họ mới ngừng chặt, nếu không họ sẽ chặt cụt tới tận thân cây. Họ ra về còn dặn lại rằng sẽ trở lại sau năm giờ chiều để xem chủ nhân có ra lệnh cho họ chặt cây không. Khi nghỉ tay, họ làm vấy bẩn hành lang trong nhà và phòng khách, làm rách chiếc thảm Ba Tư vốn là thứ được Phecmina Đaxa yêu thích. Thiệt hại còn lớn hơn nữa bởi cảm giác chung là con vẹt nhân cơ hội lộn xộn đã bỏ trốn sang sân nhà hàng xóm. Quả nhiên là như vậy bác sĩ Huvênan Ucbinô đã tìm kiếm nó khắp các tán cây nhưng dù ngài hát, hay huýt sáo để gọi cũng không thấy nó trả lời. Vì thế ngài cho rằng con vẹt bay mất rồi và ngài đi ngủ trưa vào lúc ba giờ chiều. Trước đó, ngài thưởng thức niềm vui thoáng qua do hương thơm mùi cây măng tây dùng để cọ rửa nhà vệ sinh ngoài vườn kín gây nên trong tâm trạng ngài. Nỗi buồn đánh thức ngài dậy. Nó không phải là nỗi buồn đứng trước tử thi của người bạn sáng sớm hôm ấy mà là ý nghĩ bâng quơ làm xao xuyến tâm hồn ngài sau giấc ngủ trưa, và ngài tự giải thích nó giống như một cảm nhận thiêng liêng rằng ngài đang sống những buổi chiều cuối cùng của đời mình. Cho đến khi đã là ông già năm mươi tuổi, ngài vẫn chưa có ý niệm đầy đủ về tầm cỡ, về trọng lượng và thể trạng của các cơ quan lục phủ ngũ tạng của mình. Dần dà, sau mỗi bận ngủ trưa, trong lúc nằm với đôi mắt khép lại, ngài cảm nhận được tất cả các bộ phận bên trong ấy, ngài nhận rõ từng bộ phận một, cảm thấy hình vóc trái tim to của mình, cảm thấy buồng gan tuyệt vời của mình, cảm thấy thành bụng săn chắc của mình và ngài đi đến phát hiện rằng ngay cả những người già hơn, những bộ phận này đều thon nhỏ hơn của ngài và ngài là người sống lâu nhất trong thế hệ mình. Khi ngài nhận ra sự đãng trí đầu tiên của mình, ngài liền vận dụng ngay thủ thuật học được của một trong những thầy học của mình ở trường Y: "Ai không có được trí nhớ hãy lấy sổ mà ghi lại".Tuy nhiên đó chẳng qua cũng là một ảo tưởng mà thôi vì ngài đã quên ngay cả chính điều được ghi lại trong các mẩu giấy rời nhét bừa trong túi áo, ngài chạy khắp nhà tìm cặp kính trong khi ngài đã đeo nó trên mắt, ngài trở lại khóa cửa khi mà ngài đã khóa cửa rồi và không theo dõi được mạch chuyện vì ngài quên mất tiền đề của các lý thuyết và lẫn lộn các nhân vật với nhau. Nhưng điều khiến ngài lo lắng hơn cả chính là việc ngài mất lòng tin ở ngay cứu cánh của mình, rồi trong một sự quên lãng không thể tránh được, ngài cảm thấy mình đang để mất đi cảm nhận về cái đúng, cái sai của chân lý. Theo kinh nghiệm đơn thuần, dù đó là kinh nghiệm không có cơ sở khoa học, bác sĩ Huvênan Ucbinô biết rằng phần lớn những bệnh hiểm nghèo dẫn đến cái chết đều có mùi của chính nó, nhưng không một thứ mùi nào lại quá đặc sắc như thứ mùi của bệnh già. Ngài cảm nhận cái mùi ấy trong các tử thi bị rạch ng nằm trên bàn mổ, ngài nhận ra cái mùi ấy ngay cả ở những người thân quen tuổi đã cao, ở mồ hôi trong quần áo của chính mình và ở hơi thở đều đều của bà vợ lúc đang ngủ. Về bản chất yếu không phải như vậy thì có lẽ một con chiên không nệ cổ hẳn đã đồng ý với Giêrêmia đê Xanh Amua rằng tuổi già là một quãng đời nhiều thói tật cần phải chặn lại đúng lúc. Niềm an ủi duy nhất của ngài, nhất là đối với người vốn an nhàn quen cảnh giường đệm gối êm như ngài là nhu cầu nhục dục đã khô héo dần dần và đáng thương: sự bình lặng của dục tình. Vào tuổi tám mươi mốt ngài còn khá minh mẫn để nhận ra rằng mình đang bị cột chặt vào thế giới này bởi một sợi chỉ mỏng manh ấy là vì ngài sợ không gặp được Chúa trong bóng tối của cái chết. Phecmina Đaxa lo dọn dẹp lại phòng ngủ bị bọn lính cứu hỏa làm bừa bộn và trước lúc bốn giờ một tí bà mang cho chồng một cốc nước chanh đá và nhắc ngài nên mặc lễ phục để đi dự lễ tang. Buổi chiều ấy, bác sĩ Huvênan Ucbinô có hai cuốn sách để ngay cạnh mình. Đó là cuốn: Bí ẩn của con người của Alêcxit Carên[19] và cuốn Chuyện Thánh Misen của ArenMunđơ[20]. Cuốn sách sau này ngài vẫn chưa đọc. Ngài bảo Đichgơna Pacđô, bà đầu bếp, mang cho mình con dao rọc giấy cán sừng mà ngài bỏ quên trong phòng ngủ. Nhưng khi bà ta mang nó ra thì ngài đang đọc cuốn Bí ẩn của con người ở ngay trang được đánh dấu bằng một bì thư. Chỉ còn ít trang nữa là ngài đọc xong. Ngài đọc nó một cách chậm rãi vì đầu ngài váng vất do uống nửa cốc rượu brandy trong lần nâng cốc cuối cùng của bữa tiệc trưa nay. Thỉnh thoảng ngài ngừng đọc để uống một ngụm nước chanh hoặc để nhai một mẩu nước đá. Ngài đã mặc sẵn tất, áo sơ mi không cổ, thắt sẵn hai dải quần xanh vắt chéo từ cổ xuống thắt lưng, do đó ngài khó chịu với ý nghĩ phải đi thay quần áo để đi dự đám tang. Bỗng ngài thôi đọc sách, đặt cuốn sách lên cuốn Chuyện thánh Misen và bắt đầu đung đưa chậm chạp chiếc ghế xích đu mây mà ngắm nhìn quang cảnh, những cây chuối ngự soi bóng trên những vũng nước đọng ngoài sân, ngắm nhìn cây xoài trụi lá, những đàn kiến đang bay sau trận mưa, ngắm nhìn ánh huy hoàng rực rỡ của một buổi chiều chưa đến nhưng đã vĩnh viễn qua đi. Ngài quên mất rằng có lần ngài từng có một con vẹt Paramaribô mà ngài yêu mến nó như yêu mến một con người. Giữa lúc ấy ngài nghe thấy có tiếng người nói: "Vẹt quý! Vẹt quý!" tiếng nói ấy rất gần, hầu như ở bên cạnh mình rồi ngay lập tức ngài nhìn thấy nó đậu trên cành xoài thấp nhất. - Đồ dơ! - ngài thét nó. - Ngài còn dơ hơn thế cơ! Ngài nói chuyện với nó mà mắt không rời nó và trong lúc nói chuyện ngài rón rén đi ủng để không gây một tiếng động nhỏ, cẩn thận xỏ tay qua hai chiếc dải quần, sau đó ngài bước xuống cái sân hiện vẫn còn vấy bùn do đó ngài phải cẩn thận chống cây ba toong dò dẫm từng bước chân để khỏi va phải các bậc thềm nhà. Con vẹt vẫn đứng yên không nhúc nhích. Nó đậu thấp lắm đến mức nếu giương cây gậy ba-toong ra cũng đủ gần để con vật lập tức đậu ngay lên đầu bịt bạc, ngài nghĩ vậy, nhưng con vẹt đã tránh xa cây gậy. Nó nhảy lên một cành cây ngay cạnh cao hơn chút ít nhưng lại dễ trèo lên hơn. Vì thấy ngay cạnh đấy đã có chiếc thang do lính chữa cháy bắc sẵn, bác sỹ Huvênan Ucbinô ước lượng chiều cao và nghĩ rằng chỉ trèo hai bậc thôi là tóm ngay được con vẹt. Ngài trèo lên bậc thứ nhất, mồm vẫn hát một bài hát vui vẻ để đánh lừa con vật khó bảo, còn nó trong lúc mồm vẫn nhắc lại những lời nói không vần điệu thì chân nó cứ từ từ nhích xa ra phía đầu cành cây. Ngài trèo lên bậc thứ hai không khó khăn gì, hai tay nắm chắc lấy chiếc thang còn con vẹt hát lại cả bài hát không thiếu một câu và không hề thay đổi vị trí. Vì ước lượng sai độ cao của cành cây nên ngài trèo lên bậc thứ ba, rồi bậc thứ tư, rồi ngài dùng tay trái nắm thật chắc vào chiếc thang còn tay phải với tay ra định túm lấy con vẹt. Đichgơna Pacđô, bà hầu nhiều tuổi, từ trong nhà bước ra sân để nhắc ngài cần khẩn trương chuẩn bị đi dự lễ tang kẻo đã muộn giờ rồi, nhìn thấy lưng một người đàn ông đang trèo lên thang và bà không thể tin được rằng người ấy là ngài vì rõ ràng ngài đeo hai dải quần xanh. - Trời ơi, - bà gào. - Hãy cẩn thận kẻo ngã chết bây giờ. Bác sĩ Huvênan Ucbinô tóm lấy cổ con vật, reo lên với ngữ điệu đầy vẻ đắc thắng: ca yest[21]! Nhưng ngay lập tức ngài phải thả nó ra vì cái thang đang trượt đi dưới chân ngài, rồi ngài bị hất ra ngoài chiếc thang, lơ lửng trong không trung một lát. Trong cái giây lát ngắn ngủi này ngài kịp hiểu ra rằng mình đã chết không kịp làm lễ ban thánh thể, không còn thời gian để ân hận về bất kỳ điều gì và không kịp chia ly với bất kỳ ai. Đó là lúc bốn giờ b phút chiều ngày chủ nhật lễ Hạ Trần. Phecmina Đaxa đang nếm món xúp cho bữa ăn chiều thì nghe thấy tiếng kêu đầy hoảng hốt của bà Đichgơna Pacđô, nghe thấy tiếng ồn ào của đám gia nhân và tiếp đó, tiếng ồn ào của hàng xóm. Ném vội chiếc muôi đi, bà lấy hết sức bình sinh chạy rõ nhanh cố chống lại sức ỳ không gì thắng nổi của tuổi già, vừa chạy vừa gào thét như một con điên mà vẫn chưa hay biết điều gì đang xảy ra dưới tán cây xoài. Trái tim bà nhảy nhót đầy đau đớn trong lồng ngực khi bà nhìn thấy chồng bà đang nằm ngửa trên đất bùn, chết đến nơi nhưng vẫn cố ghìm lại cái phút cuối cùng của đời mình để cho bà vợ có đủ thời gian chạy đến chia ly. Sau hàng nước mắt giàn giụa đầy đau thương vì nghĩ rằng mình chết mà không có người vợ ở bên cạnh, ngài nhìn thấy bà giữa bao người đang vây xung quanh mình. Vì biết sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy bà nữa nên ngài đã nhìn bà với con mắt rực sáng hơn, buồn hơn và nặng ân tình hơn, một cái nhìn mà một nửa thế kỷ chung sống bà chưa bao giờ được nhìn thấy. Trong hơi thở cuối cùng, ngài chỉ kịp nói: - Chỉ có Chúa mới biết tôi đã yêu mình như thế nào! Đó là một cái chết đáng ghi nhớ. Nói thế là hoàn toàn có lý. Hầu như vừa mới hoàn thành công việc nghiên cứu chuyên khoa ở Pháp, bác sĩ Huvênan Ucbinô đã nổi tiếng khắp nước vì công trạng dập tắt được nạn dịch tả từng làm cho cả thành phố khiếp sợ bằng những biện pháp mới, dứt khoát và hữu hiệu. Nạn dịch trước đó, khi ngài còn ở châu Âu, đã giết hại một phần tư số dân thành phố không đầy ba tháng. Trong số những nạn nhân ấy, có cha ngài, vốn là một bác sĩ rất được kính nể. Với uy tín vừa giành được và gia tài được thừa hưởng của cha, ngài thành lập Hội Y học, tổ chức y học đầu tiên và duy nhất ở các tỉnh thuộc vùng biển Caribê và ngài là chủ tịch vĩnh viễn của Hội Y học này. Bằng hoạt động tích cực của mình, ngài đã giành thắng lợi trong việc xây dựng chiếc cầu đầu tiên, hệ thống cống ngầm đầu tiên và xây dựng các quán bán hàng thực phẩm đều có lưới che kín nhờ vậy tránh được ruồi muỗi từ các bãi rác đến đậu. Ngoài ra ngài còn là Chủ tịch Viện Hàn lâm ngôn ngữ, Chủ tịch viện Hàn lâm lịch sử. Ngài Trưởng lão La Mã ở Giêrusalem đã tặng ngài huy chương Thánh Xêpuncrô vì những đóng góp tích cực của ngài cho nhà thờ, và Chính phủ Pháp tặng ngài huân chươngBắc đẩu bội tinh vì là người bình luận xuất sắc. Ngài là một người cổ vũ nhiệt thành của biết bao giáo đoàn và tổ chức quần chúng ở thành phố này, đặc biệt là Hội Ái quốc, một tổ chức bao gồm những công dân nhiệt thành không vụ lợi chính trị. Những tổ chức này gây sức ép buộc chính phủ và giới thương gia địa phương phải cùng tham gia những công việc canh tân quá mạnh mẽ đối với thời đại. Trong số những công việc ca ấy, việc thí nghiệp một quả bóng bay mà trong chuyến bay đầu tiên của mình nó đã mang lá thư đến tận Xan Hoan đê la Xiênaga. Đó là công việc đáng ghi nhớ hơn cả vì nó được tiến hành trước khi người ta nghĩ đến bưu điện hàng không như là một khả năng thực tế. Ngài cũng là người đề xuất ý kiến thành lập Trung tâm Nghệ thuật và nhờ quan điểm này người ta đã thành lập Trường Mỹ thuật đặt ngay tại ngôi nhà ngày nay vẫn còn. Trong nhiều năm, ngài còn bảo trợ cho các Hội thi thơ tổ chức vào tháng tư hàng năm. Chỉ có ngài mới giành được sự nghiệp hầu như không thể làm được trong một thế kỷ: sự thành lập lại Nhà hát vốn bị biến thành sân chọi gà và nơi nuôi gà kể từ thời Thuộc địa. Đó là đỉnh điểm của phong trào dân chúng ham thích sân khấu từng khuấy động đến mọi tầng lớp nhân dân trong thành phố nhờ một cuộc vận động sâu rộng mà nhiều người cho rằng đó quả là một sự nghiệp to lớn nhất. Tuy nhiên, Nhà hát kịch đã khai trương khi nó không có ghế, không có đèn và khán giả phải mang theo cái để ngồi và cái để thắp sáng vào lúc giữa hai màn kịch. Người ta phân phát vé vào cửa y như các buổi trình diễn lớn ở châu Âu và các bà mệnh phụ lợi dụng cơ hội này để trưng diện váy áo dài và áo khoác da ngay trong đêm đại thử ở vùng nhiệt đới Caribê; nhưng cũng cần phải cho phép bọn người hầu vào xem để họ mang theo nào ghế ngồi, nào đèn và biết bao thức ăn khác vì các quý ông, quý bà tưởng rằng các thứ này giúp cho họ có sức chịu đựng để xem cho hết các chương trình dài lê thê, có một vài chương trình kéo tới tận gần sáng, khi người ta cử hành lễ misa đầu tiên trong ngày. Đợt trình diễn được mở đầu với sự tham gia của một gánh nhạc kịch Pháp mà điều mới lạ của nó chính là cây thụ cầm trong dàn nhạc. Niềm vinh quang đáng nhớ mãi của gánh nhạc kịch này là giọng hát trong trẻo và tài diễn xuất của một nữ ca sĩ giọng nữ cao người Thổ Nhĩ Kỳ, người khi hát lại đi chân trần và các ngón chân đeo đầy nhẫn mặt đá quý. Khi mở màn, do khói của không biết bao nhiêu ngọn đèn dầu cọ bay mù mịt nên không thể nhìn rõ sân khấu và các ca sĩ liền bị khản giọng ngay. Nhưng các báo chí trong thành phố đã biết cẩn thận lược bỏ các chi tiết, tình tiết gây cản trở cho đêm diễn chỉ nhấn mạnh và tô điểm các chi tiết không thể nào quên. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là sự khởi đầu hấp dẫn hơn cả của bác sĩ Huvênan Ucbinô bởi vì cơn sốt nhạc kịch đã lôi cuốn tới cả những Ixônđa và Ôtêlô, Aiđa và Xichphrit[22]. Tuy nhiên, chưa bao gi Nhà hát kịch lại đạt tới những thành tựu cao nhất mà bác sĩ Huvênan Ucbinô từng mong muốn: nghĩa là ngài muốn được xem cảnh tượng các đào kép trình diễn nhạc kịch Ý hay nhạc kịch của Vagơne phải chịu những cú gậy ba-toong của khán giả nện cho để phủi sạch bụi vào lúc nghỉ giữa hai màn kịch. Bác sĩ Huvênan Ucbinô không bao giờ chấp nhận một chức vụ chính quyền mà người ta sẵn sàng và không điều kiện trao cho ngài và ngài là một người công kích mạnh mẽ những bác sĩ lợi dụng danh tiếng nghề nghiệp để leo lên các nấc thang chính trị. Dù cho thiên hạ nhìn nhận ngài là một nhà Tự do và dù ngài thường bỏ phiếu cho các ứng cử viên thuộc đảng Tự do, ngài chỉ là nhà tự do về mặt hình thức chứ thực lòng ngài là một nhà Bảo hoàng và có lẽ ngài là thành viên cuối cùng của các gia đình cự phú đã quỳ gối trên đường cái khi xe đức giám mục đi qua. Ngài tự nhận mình là một con người hòa bình từ trong máu, một con người đại diện cho khuynh hướng hòa giải mãi mãi giữa hai đảng Tự do và Bảo hoàng vì lợi ích của đất nước. Tuy nhiên, phương pháp hoạt động công khai của ngài hết sức tự do đến mức không ai có thể sánh kịp ngài và do đó nó khiến cho người khác khó mà nhận định ra bản chất chính trị của con người ngài. Các nhà Tự do coi ngài là tên đầu cơ trục lợi mà giàu có; các nhà Bảo hoàng lại bảo rằng ngài làm tất cả chỉ trừ là nhà tam điểm, còn các nhà tam điểm lại từ chối ngài coi ngài như một tên tu sĩ trá hàng để phục vụ lợi ích của Tòa thánh. Những người khác ít thù địch với ngài, công kích ngài ở mức nhẹ nhàng hơn, đã nghĩ rằng ngài chỉ là một gã quý tộc say mê các cuộc thi thơ đầy hào hứng khi đất nước đang rỉ máu trong một cuộc nội chiến liên miên. Chỉ có hai hành động của ngài dường như không phù hợp với hình ảnh này. Hành động thứ nhất là việc đổi dinh thự cổ Mackêt đê Canxanđuêrô, vốn là ngôi nhà của gia đình trong suốt hơn một thế kỷ, để chuyển gia đình đến sống trong một ngôi nhà mới thuộc khu phố những nhà giàu mới phất. Hành động thứ hai là việc ngài cưới một cô gái đẹp thân phận bình thường: không tên tuổi, không giàu có. Các bà mệnh phụ, các phu nhân và các cô gái nhà quyền quý đã cười thầm ngài cho đến khi họ buộc phải thú nhận rằng chính cái cá tính trội bật của ngài đã làm cho họ phải điên đảo. Bác sĩ Huvênan Ucbinô biết rất rõ điều này cũng như biết một số chuyện khác do hình ảnh con người mình gây ra cho mọi người, và cũng không một ai như chính ngài đã ý thức rõ ràng rằng mình là người cuối cùng của một dòng họ đang tuyệt diệt. Hai người con của ngài là hai cái đuôi của một dòng họ không có triển vọng gì. Maccô Aurêliô, người con trai, cũng như ngài, ông ta là bác sĩ, và cũng như tất cả những trưởng nam của từng thế hệ trong dòng họ, ông ta chưa làm được một công trạng hiển hách nào, ngay cả việc sinh con cũng không làm được, mặc dù ông ta đã ngoài năm mươi tuổi. Ôphêlia, người con gái duy nhất, lấy một người làm việc trong nhà băng ở Tân Ooclêăng, đã bước vào thời kỳ mãn kinh với ba đứa con gái, không có con trai. Tuy nhiên, dù cho dòng họ mình bị cụt cuối có làm cho ngài đau lòng, nhưng điều khiến ngài phải bận tâm hơn cả khi chết đi là cuộc sống cô đơn của Phecmina Đaxa không có Dù sao chăng nữa, tấn bi kịch này là một sự rung động mạnh mẽ của tâm hồn đã không chỉ giới hạn trong số họ hàng thân tộc và bạn hữu mà còn lây lan đến tận đám dân thường đang đổ ra đường với ý nghĩ hão huyền: đi xem dù chỉ cái ánh hào quang của một chuyện huyền thoại. Người ta tuyên bố để tang ba ngày. Trong các công sở treo cờ rủ. Chuông các nhà thờ trong toàn thành phố gióng giả đổ hồi liên tục cho đến khi hầm mộ được đóng lại. Một nhóm họa sĩ trường Mỹ thuật dùng thạch cao đúc khuôn mặt tử thi để làm khuôn trong một bức tượng bán thân to bằng cỡ người thực nhưng ý định bị bác bỏ ngay vì chẳng một ai cảm thấy vui sướng trước vẻ thảng thốt tội nghiệp trong giây phút cuối cùng của một đời người mà bức tượng sẽ gây nên trong tâm hồn họ. Một nghệ sĩ lừng danh ngẫu nhiên dừng chân ở thành phố này trước khi sang châu Âu, vẽ một bức tranh lụa khổng lồ theo bút pháp hiện thực trữ tình miêu tả bác sĩ Huvênan Ucbinô đang trèo trên thang với bàn tay giơ ra định túm lấy con vẹt trong giây phút tận số của mình. Điều duy nhất trái với hiện thực thô mộc của đời ngài là cái áo sơmi không bẻ cổ và đeo hai dải quần xanh, mà trái lại, ngài đội một chiếc mũ sâu ống, mặc một chiếc áo choàng bằng dạ đen theo đúng như tranh khắc của báo chí trong những ngày dịch tả từng mô tả ngài. Mấy tháng sau tấn thảm kịch, bức tranh này được trưng bày trong phòng tranh rộng lớn mang tên Alambrê đê Ôrô[23], một cửa hàng bn hàng nhập ngoại, là nơi dân chúng cả thành phố đều diễu qua xem. Sau đó bức tranh được treo trên tường của không biết bao nhiêu trường công và trường tư vì nhà trường nghĩ rằng họ có trách nhiệm luôn luôn tưởng niệm nhà quý tộc vĩ đại, và cuối cùng nó được treo ngay trong trường Mỹ thuật nhân ngày giỗ đầu của ngài. Nhiều năm sau này, chính sinh viên hội họa của trường đã lôi bức họa ấy ra Quảng trường trường Đại học để đốt nó đi như đốt bỏ một khuynh hướng thẩm mỹ và những ngày nhàm chán. Ngay từ những giây phút đầu tiên của cuộc đời góa bụa, người ta không hề thấy Phecmina Đaxa quá ư buồn bã như chồng bà tưởng. """