" Tình Yêu Phù Thủy - Agatha Christie PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Yêu Phù Thủy - Agatha Christie PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Lời Mở Đầu Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai cô gái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác. Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước… Chương Một Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm! Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu. - Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào. Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi. Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn. Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng? Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú. Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi. Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King s và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ. Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả. Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể. Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả. Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ. Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác. - Lại đây! Cho nó một trận, Lou! Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp: - Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô! Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh. - Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người! - Con đĩ chính là mày đấy! Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất. Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa. - Ở đây xảy ra chuyện gì vậy? Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung: - Người ta vui đùa - Một trong những trai trả lời. - Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau. Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát. Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi. Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền. - Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm. Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô. - Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi. Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền. - Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét. Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng. - Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói. - Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng. - Anh biết rõ cô ấy chứ? - Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy. Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau. - Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy! Một tuần lễ sau, trong mục tin buồn của báo Times có một tên người làm tôi chú ý: Tuckerton. "Ngày hai, tháng mười, tại bệnh viện Fallowfield ở Amberly. Cô Thomasina Ann, hai mươi tuổi, ái nữ duy nhất của Ngài Thomas Tuckerton quá cố, ở quảng trường Carrington, khu Amberly, Surrey. Tang lễ trong phạm vi thân tình. Không mang theo hoa ". Không có hoa cho cô Tommy Tucker khốn khổ và cũng không còn "sự kích động" ở khu Chelsea nữa. Một sự thương xót thoáng qua cho những cô Tommy Tucker lúc này xâm chiếm tâm hồn tôi. Nhưng cuối cùng thì ai có thể xác nhận rằng cách nhìn của tôi là đúng. Có phải là tôi đã để lãng phí cuộc đời mình bằng cách chìm ngập vào những cuốn sách đó không? Tôi xua đuổi hình ảnh Tommy Tucker ra khỏi tâm trí tôi và xem tiếp những thư, báo mới nhận được. Lá thư quan trọng là thư của người chị con ông bác tôi tên là Rhoda Despard nhờ tôi giúp chị một việc. Tôi vui vẻ đón nhận dịp may đó để khỏi phải làm việc và ra khỏi nhà. * * * Tôi gọi một chiếc taxi đưa tôi đến nhà của một trong những bạn gái của tôi là Ariadne Oliver, một tác giả có tên tuổi về truyện trinh thám. Người hầu phòng của cô, bà Milly, là một con rồng dữ tợn canh phòng mọi cuộc tấn công từ thế giới bên ngoài. Bà ra mở cửa khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa của tôi. Tôi rướn lông mày lên hỏi. Bà Milly lắc đầu. - Mời ông lên, thưa ông Mark - Bà ta nói - Sáng hôm nay bà chủ tôi đang cau có. Ông có thể giúp bà ấy bớt bực mình chăng. Tôi lên hai tầng lầu, gõ nhẹ vào một cánh cửa và đẩy nó để bước vào phòng mà không đợi trả lời. Phòng làm việc của Oliver là một căn phòng rộng, trên tường dán giấy có hình vẽ những con chim lạ, nấp dưới những lá cây nhiệt đới. Oliver bắt đầu có vẻ có những hành động điên rồ, đang đi đi, lại lại và nói chuyện một mình. Cô ta nhìn tôi nhưng không chú ý mà vẫn tiếp tục bước, thỉnh thoảng nhắm mắt lại như đang bị đặt dưới quyền lực của một sự đau đớn ghê gớm. - Nhưng tại sao - Cô ta nói - Tại sao cái thằng ngu dốt ấy lại không... nói ngay rằng nó đã trông thấy một con vẹt có mào? Tại sao? Nó không thể không trông thấy con vật ấy ư? Nhưng nếu hắn nói ra thì tất cả sẽ sụp đổ. Phải có một cách... phải... Cô ta càu nhàu, tay vừa nắm lấy những sợi tóc xám vừa giật ra. Thế rồi, bất chợt cô ta nhìn thấy tôi. - … Chào Mark! Tôi điên lên mất. Thế rồi cả cô ả Monica nữa! Tôi càng cố làm cho cô ả trở thành dễ thương thì cô ta lại càng tỏ ra rụt rè, tỏ ra là một cô gái ngu đần và phàm tục đến như thế! Monica... Monica? Có lẽ là do vấn đề đặt tên... Susan ư? A! Tôi đã có một cái tên... Lucia chăng? Lucia? Hình như tôi đã trông thấy cô ta, chính cô ta! Một cô tóc hoe, bộ đồ đen bó sát người? Đi tất len trong mọi thời tiết? Cái ý nghĩ về con vẹt có mào bị xáo đi nhanh chóng trong giây phút hứng khởi đó và Oliver lại tiếp tục đi dạo, trong khi đi tay cô cầm nhưng mắt không thèm nhìn những đồ chơi nho nhỏ mà cô đã để rải rác trong phòng. Sau đó cô ta đặt kính đeo mắt vào một chiếc hộp sơn mài trong đó đã có một chiếc quạt Trung Quốc, rồi cô thở dài đánh thượt. - Tôi rất sung sướng rằng đây là anh. - Cô thật đáng mến. - Cái đó có thể đến với tất cả những ai không muốn và câu chuyện về con vẹt có mào đã làm tôi phát điên. - Phải, nhiều khi do cách trình bày không đạt, tôi lưu ý cô. Có lẽ tốt hơn cả là tôi về. - Không, anh đừng về. Dù sao anh cũng đã làm tôi được vui vẻ. Tôi nuốt lấy những lời khen một cách êm ái. - Anh có muốn hút thuốc lá không? Nó ở đâu đấy. Anh tìm trong cái nắp đậy máy chữ xem. - Cám ơn. Tôi có thuốc của tôi rồi. Cô hút đi. Ơ! Đúng là cô không hút thuốc. - Cũng không uống cả rượu nữa, tôi rất tiếc về cái đó. Cái đó có thể kết luận mọi vấn đề với những chàng thám tử Mỹ ấy, bao giờ họ cũng có một chai rượu mạnh mang trong người. Anh có biết không, Mark, tôi tự hỏi là trong cuộc sống tại sao có những người trốn thoát khi họ đã giết người. Tôi có cảm giác là cái đó ngay lập tức đã rõ ràng. - Thật là buồn cười. Cô đã nhiều lần phạm cái tội đó, về phần cô. - Ít nhất là trong năm mươi lăm cuốn truyện của tôi. Việc giết người tự nó là dễ dàng. Che giấu nó mới là khó khăn. Và đối với tôi thì thật là kinh khủng. - Cô đã thành công năm mươi lăm lần, cô sẽ thành công một lần nữa. - Đó là cái tôi thường nhắc nhở mình. Nhưng mỗi khi tôi không tin tưởng như vậy, tôi đau đớn như kẻ chết vì nghĩa cả. Cô ta lại nắm lấy tóc và giật mạnh. - Dừng lại! - Tôi kêu lên - Cô giật hết tóc mất. - Thật là ngốc nghếch. Một sợi tóc rất khó giật. Tuy nhiên năm mười hai tuổi, tôi bị bệnh đậu mùa với một cơn sốt dữ dội. Tóc ở trước trán rụng hết. Phải mất sáu tháng tóc mới mọc lại. Thật là đáng sợ đối với một người con gái. Hôm qua tôi nghĩ đến chuyện này khi tới thăm Mary Delafontaine ở bệnh viện. Tóc cô ta cũng rụng như tóc tôi trước đây. Chắc chắn là cô ấy phải mang mớ tóc giả khi ra viện. Tới sáu mươi tuổi thì không thể mọc lại được nữa. - Tối hôm nọ tôi trông thấy một cô gái giật tóc của một cô khác - tôi nói bằng một giọng thoả mãn của một người hiểu rõ cuộc sống. - Khi ấy anh đang ở một chốn kỳ lạ nào vậy? - Ở Chelsea, trong một quán cà phê. - Ồ, Chelsea! Ở đấy thì mọi chuyện đều có thể xảy ra, tôi hình dung ra như vậy. Nhưng tôi không viết về chốn này bao giờ. Tôi sợ rằng tôi không dùng được những danh từ phù hợp. Theo tôi, tốt nhất là nên giới hạn ở những cái mọi người đều biết về nó. Nhưng bây giờ tôi muốn anh dẫn tôi đến một tiệm nhảy ở Chelsea nếu có cơ hội. - Khi nào cô muốn đi, tối nay chăng? - Không. Tôi đang bận viết hay nói đúng hơn là đang tự dày vò mình vì không viết được. Nói xem, anh Mark, anh có nghĩ rằng người ta có thể giết người từ xa không? - Cô nghĩ gì về chuyện này? Bằng cách ấn vào một cái nút? Bằng tia chết. ..? - Không, không, đây không phải là khoa học viễn tưởng - Cô ngừng lại nghĩ ngợi - Tôi nghĩ đến ma thuật đen tối. - Dùng những pho tượng bằng sáp, găm bằng kim găm? - Ồ, đã lỗi thời rồi - Oliver nói bằng giọng khinh bỉ - Nhưng có những chuyện lạ lùng đã xảy ra ở châu Phi và quần đảo Antilles. Người ta chỉ cần nói tên những người bản xứ và những người này chết ngay lập tức. Đó là dạo Vaudou hay là... rút cuộc anh đã thấy điều tôi muốn nói rồi chứ? - Bây giờ thì người ta gán những việc ấy cho cái năng lực, ám thị. Người ta nói cho nạn nhân được chỉ định rằng cái chết của hắn được quyết định do con người - thầy thuốc... và cái tiềm thức làm công việc còn lại. Oliver khịt mũi khinh bỉ. - Có một người nào bảo tôi là tôi bị bắt buộc phải nằm để đợi chết thì tôi sẵn sàng chống lại kế hoạch của hắn. Tôi cười. - Mạch máu của cô đã cuốn trôi một thứ máu mang theo chủ nghĩa hoài nghi trong nhiều thế kỷ của phương Tây. Cô thiếu những thiên hướng. - Như vậy anh cho rằng cái đó có thể có? - Tôi chưa hiểu rõ vấn đề để có thể xem xét. Ai đã nhồi nhét cái đó vào đầu cô nhỉ? Tác phẩm sắp tới của cô có mang đầu đề "Giết người bằng ám thị " không? - Không. Thật vậy. Từ thuốc diệt chuột cũ kỹ hay là từ thạch tín đối với tôi là đủ rồi. Hay là bằng một dụng cụ có thể dùng để đánh cũng tạm được. Không cần vũ khí nổ nếu không thật cần thiết, cái đó thật là xảo quyệt. Nhưng anh không tới đây để nói về những cuốn sách của tôi đấy chứ? - Thật thà là không... có một việc. Bà chị họ Rhoda Despard của tôi tổ chức một ngày hội từ thiện và… - Không bao giờ! Anh có biết cái gì đã xảy ra vào ngày hội cuối cùng mà tôi đã tham dự không? Tôi thu xếp cuộc săn lùng một kẻ giết người và kết quả là người ta tìm thấy một xác người thực. Tôi không bao giờ yên tâm về việc đó. - Ở đây không có cái gì giống như vậy. Tất cả những cái cô có thể làm được thì đó chỉ là ký tên vào các tác phẩm của mình... năm hào một chữ ký. - Ồ… ai đó thì có thể được. Tôi không phải nói lời khai mạc, không phải nói những lời bậy bạ hoặc phải đội một chiếc mũ chứ? Tôi làm cô yên tâm: người ta không đòi hỏi cô phải làm gì trong những công việc đó cả. - Và cái đó chỉ diễn ra trong một hoặc hai tiếng đồng hồ là cùng - Tôi dụ dỗ - Sau đó có một cuộc thi đấu về khúc côn cầu, vì đây là mùa thi đấu trong năm. Có thể có cuộc khiêu vũ của thiếu niên, một cuộc thi thời trang. Oliver ngắt lời tôi bằng một tiếng kêu man rợ. - Đấy - Cô ta nói - "Một quả cầu”. Rất tự nhiên. Hắn trông thấy một quả cầu, qua cửa sổ... Bay lên không trung... cái đó làm hắn chú ý và hắn không trông thấy một con vẹt nào nữa. May mắn biết bao vì anh đã tới. Mark! Anh rất cừ. - Tôi không hiểu... - Anh, có thể là anh không hiểu, nhưng tôi thì có thể. Tôi không muốn mất thời gian để giải thích cho anh. Tôi đã thú vị vì gặp lại anh, nhưng bây giờ thì tôi rất thích nếu anh ra về ngay lập tức. - Chắc chắn là như vậy. Còn về ngày hội... - Tôi sẽ nghĩ đến nó. Đừng làm phiền tôi. Tôi đã ném cặp kính của tôi đâu rồi? Thật là không thể tưởng tượng nổi cái cách mà đồ đạc biến đâu mất... Chương Hai Bà Gérahty mở cửa nhà cha xứ một cách giận dữ quen thuộc. Bà có ý định trả lời tiếng chuông gọi bằng một việc làm có kết quả là "Lần này ta sẽ bắt được mày ngay tại đây”. - Thế nào, cậu muốn gì? - Bà cau có hỏi. Một chú bé đứng trên thềm, một đứa trẻ không đáng chú ý. Chú bé khịt mũi vì bị chứng cảm mạo. - Có đúng là nhà của ông Cha cố ở đây không? - Có phải là cậu muốn hỏi Cha Gorman không? - Người ta yêu cầu Cha. - Ai, ở đâu và để làm gì? - Ở nhà số hai mươi ba, phố Benthall. Có một người đàn bà nói rằng bà ta sắp chết. Bà Coppins sai tôi tới đây. Có đúng đây là nhà của Cha không? Bà sắp chết nói rằng không mời ông mục sư đạo Tin Lành làm việc này. Bà Gérahty yên tâm về chú bé vì cái chi tiết cốt yếu này, bảo chú đứng đợi và chạy biến vào trong nhà xứ. Khoảng ba phút sau, một ông Cha cao lớn, đứng tuổi, tay xách một chiếc vali nhỏ hiện ra. - Ta là Cha Gorman đây - ông nói - ở phố Benthall à? Có phải phố này ở phía dưới nhà kho của đường sắt không? - Đúng là như vậy. Cách nhau vài bước chân thôi. Họ ra đi, kề bên nhau, ông Cha bước những bước dài. - Bà Coppins à... Có phải cháu đã nói thế? - Bà ấy là chủ nhà. Bà cho thuê phòng. Đó là một trong những người thuê nhà mời Cha. Bà ấy là Davis, cháu nghĩ thế. - Davis? Ta tự hỏi có phải là... Ta không nhớ nữa... - Ồ, đó là một trong những con chiên của Cha. Một người theo đạo Thiên Chúa, cháu muốn nói như vậy. Bà ấy không muốn mời ông mục sư. Ông cha cố hất đầu. Họ nhanh chóng đến phố Benthall. Chú bé chỉ một ngôi nhà cao, màu xỉn trong số những ngôi nhà cũng giống như thế. - Đây! - Cháu không vào à? - Cháu ở đằng kia. Bà Coppins đã cho cháu một xu rồi. - À! Tốt. Cháu tên là gì? - Mike Potter. - Cảm ơn Mike. - Không có gì - Chú bé trả lời, vừa chạy vừa huýt sáo, hình như ít xúc động trước việc cái chết tới gần một trong những đồng loại của chú. Bà Coppins đón khách tới thăm với vẻ hoan hỉ: - Xin mời Cha vào! Xin mời Cha vào! Bà ta rất yếu. Đáng lý bà ta phải nằm trong nhà thương chứ không phải nằm ở đây. Con đã gọi dây nói tới đó, nhưng có trời mới biết là khi nào họ mới quyết định đến. Đã sáu tiếng đồng hồ liền người chồng của cô em gái con đứng đợi họ với một cái chân què. Thật là đáng xấu hổ, con xin nói với Cha như thế. Vừa nói bà vừa đưa Cha lên một thang gác hẹp. - Bà ta bị bệnh gì? - Bà ta bị cúm. Sau đó bà ta đã đỡ. Nhưng bà ta đi ra ngoài quá sớm. Chiều hôm sau, khi đi làm về, mặt bà ta như mặt người dưới đất đào lên. Con đã đặt bà ta lên giường. Bà ta không muốn ăn gì và từ chối mời thầy thuốc. Sáng hôm nay con thấy bà ta vẫn sốt cao. Bà ta chết đến ngực rồi. - Bị viêm phổi à? Bà Coppins thở gấp, bà thở rít lên như để tỏ vẻ tán thành. Bà mở mạnh một cái cửa và đứng nép mình để Cha đi qua và nói bằng một giọng vui vẻ: - Đây ông linh mục của bà đây. Bây giờ bà có thể yên tâm. Căn phòng sạch sẽ, gọn gàng. Một người đàn bà nằm trên giường cố gắng quay đầu ra. Trông thấy rõ là bà ta đã rất yếu. - Cha đã tới... Không còn nhiều thời gian nữa... Cầu xin con không thể chết như thế này được... Con muốn xưng tội... Thật là nghiêm trọng... Rất nghiêm trọng - Bà ta thì thào hổn hển - Một tôi ác như thế... Cặp mắt bà lờ đờ. Những lời nói không ngừng thốt ra trên đôi môi bà. Cha Gorman đến bên giường và nói như Cha vẫn thường nói với một giọng đầy quyền lực để làm bà vững lòng. Cha biết tìm những lời hợp với giáo chức và với đức tin của mình. Sự bình yên bước vào căn phòng. Sự đau đớn rời khỏi cặp mắt đang bị hành hạ... - Phải ngăn chặn... cần phải ngăn chặn cái đó lại... Cha sẽ làm việc đó chứ - Người đàn bà nói trong khi được các vị Thánh tới rước đi. - Bà hãy tin. Tôi sẽ làm những công việc cần thiết - Cha Gorman nói một cách chắc chắn. Một bác sĩ và một chiếc xe lưu động tới ngay sau đó. - Chậm quá rồi, bao giờ cũng vậy - bà Coppins nói bằng một giọng thê thảm, không giấu vẻ đắc thắng - Bà ta đã chết... Cha Gorman trở về nhà trong đêm tối. Sương mù xuống. Đi được một lúc, Cha dừng lại, cau mày. “Thật là một câu chuyện kỳ lạ... Bà ấy đã mê sảng như vậy trong bao lâu? Ở bà ấy có một phần sự thật, chắc chắn là như vậy, nhưng sự thật nào? Bây giờ cần ghi lại một vài cái tên trong khi ta còn nhớ một cách chính xác..". Bất chợt Cha bước vào một quán giải khát nhỏ, gọi một tách cà phê, ngồi xuống và đưa tay vào túi áo choàng. A cái nhà bà Gerahty! Lại một lần nữa, bà ta quên khâu lại lỗ thủng trong túi áo. Cuốn lịch túi, mẩu bút chì và tiền nong đều rơi qua chỗ thủng, nằm vào lần trong vải lót lất cả. Tìm mãi Cha chỉ thấy mẩu bút chì và vài đồng tiền lẻ, còn cuốn lịch túi thì không thấy d9âu nữa. Chủ quán mang cà phê tới và Cha hỏi xin anh ta một mẩu giấy. - Mảnh này được không, thưa Cha? Mảnh giấy được xé từ một cái túi đựng hàng ra. Cha Gorman nhận mẩu giấy và bắt đầu viết. Trước hết là những tên người. Đó là việc đầu tiên. Cửa quán cà phê bật mở. Ba người trẻ tuổi bước vào và ngồi xuống một cách ồn ào. Ông cha cố đã viết xong bản danh sách và gấp mẩu giấy lại, khi cha định cho vào túi thì chợt nhớ ra cái lỗ thủng trong túi và Cha nghĩ tới cái cách đôi lần đã áp dụng. Cha nhét mẩu giấy vào một chiếc giày của mình. Một người vào quán một cách kín đáo, ngồi vào một góc. Cha Gorman uống một ngụm nước xanh nhạt trong tách, trả tiền và đi ra. Người khách vừa đến tỏ ra thay đổi ý kiến. Người ấy nhìn đồng hồ quả quít và cũng vội vàng đi ra khỏi quán. Sương mù xuống rất nhanh. Cha Gorman đi vội vàng. Cha biết rõ phố này. Có lẽ Cha cảm thấy có tiếng chân đi theo sau, nhưng Cha không chú ý. Tại sao người ấy lại làm như vậy? Một nhát gậy làm Cha hoàn toàn ngạc nhiên. Cha lảo đảo và ngã gục. * ** Bác sĩ Corrigan vui vẻ thổi sáo miệng khi bước vào phòng làm việc của thanh tra Lejeune. - Tôi đã khám xong cho vị linh mục của anh - Bác sĩ nói thong thả. - Thế nào? - Bị đánh bằng dùi cui. Cha bị chết ngay sau cú đầu tiên, nhưng kẻ kia thì không đòi hỏi gì hơn. Một việc làm bẩn thỉu. - Phải - Lejeune nói. Vóc người chắc nịch, viên thanh tra có mớ tóc nâu và cặp mắt xám. Những cử chỉ của anh nhanh nhẹn, dứt khoát, dưới một vẻ bình thản dễ đánh lừa, khác hẳn với cái nguồn gốc người Pháp của anh. - … Quá bẩn thỉu hơn là cần thiết đối với việc ăn cướp - Anh nói thêm, nghĩ ngợi. - Đây có phải là lý do không? - Tát cả đều có thể tin là như vậy. Cái túi áo bị lộn ra, lần lót của áo choàng bị xé rách. - Người ta không thể chờ đợi để tìm thấy cái gì lớn lao hơn trên người Cha. Thường thường các Cha cố đều nghèo rớt mùng tơi. - Người ta đã đập vỡ sọ Cha. Tại sao? - Tôi thấy có thể có hai câu trả lời. Cha bị một kẻ bất lương truỵ lực nào đó đánh. Việc giết người chỉ vì sự thích thú giết người. Cái đó không thiếu. Than ôi! - Hay là sao nữa? Người thầy thuốc nhún vai: - Một kẻ nào đó muốn Cha Gorman phải chết. Lejeune lắc đầu. - Thực tế thì không thể tưởng tượng được. Cha rất bình dân, được cả xứ đạo yêu mến. Người ta thấy Cha không có một kẻ thù nào. Còn về ăn cướp thì lại càng khó tin, ít nhất là... - Ít nhất là sao? - Corrigan hỏi - Anh đã có dấu vết? Đúng không? - Đúng là Cha có cái gì đó trong người... trong giày. Corrigan huýt một tiếng sáo miệng. - Người ta nói đây là một truyện trinh thám? Lejeune cười: - Còn đơn giản hơn là như thế. Túi của Cha có lỗ thủng. Trung sĩ Dine đã hỏi bà phục vụ. Bà ta có phần nào đãng trí và đã không khâu vá quần áo cho Cha như bổn phận của bà. Bà ta đã dặn Cha Gorman, lúc này lúc khác, nhét một mảnh giấy hay một bức thư vào giày của Cha để chúng khỏi rơi vào lần vải lót của áo choàng. - Và kẻ giết người không biết điều đó? - Chắc chắn là hắn không nghĩ tới. Cứ cho là hắn muốn chiếm đoạt mảnh giấy này hơn là một vài đồng tiền nhỏ khốn khổ. - Trên mẩu giấy đó có cái gì? Lejeune lục trong ngăn kéo và lấy ra một mảnh giấy nhàu nát. - Một bản kê tên người? Corrigan nhìn với vẻ ngạc nhiên: - Ormerod- Standford. - Parkinson. - Hesketh - Dubois. - Shaw. - Harmondsworth. - Tuckerton. - Corrigan? - Delafontaine? - Này, tên tôi có trong bản danh sách - Người thầy thuốc kêu lên. - Một trong những cái tên đó có nói lên với anh điều gì không? - Không một điều gì. - Và anh chưa bao giờ trông thấy Cha Gorman? - Chưa bao giờ. - Như vậy đối với chúng tôi anh không phải là cái có ích lớn lao. - Anh có ý kiến gì về ý nghĩa của bản danh sách này... nếu nó có một ý nghĩa? Lejeune không trả lời trực tiếp. - Vào lúc bảy giờ tối, một cậu bé đến tìm Cha Gorman. Một người đàn bà đang hấp hối muốn được gặp Cha, cậu bé nói thế. Toà nhà thuộc về một bà Coppins nào đó. Người ốm tên là Davis. Cha tới vào lúc bảy giờ mười lăm phút. Cha ở lại đó chừng nửa tiếng đồng hồ. Bà Davis chết đúng vào lúc xe cấp cứu lưu động chạy tới nơi để mang bà đi bệnh viện. Chúng tôi đã tìm được dấu vết của Cha Gorman trong một quán cà phê nhỏ hạng ba. Chủ quán là người rất thật thà. Cha Gorman gọi một tách cà phê. Sau đó, hình như Cha đã loay hoay lục tìm trong túi nhưng không thấy cái mà Cha định tìm. Cha đã hỏi xin Tony, tên người chủ quán, một mảnh giấy. Anh này... - Sao nữa? - Tony đã thấy Cha viết lên mẩu giấy. Cha đã ra đi sau khi không kịp uống hết tách cà phê. Cái đó làm cho tôi không có điều gì chê trách Cha. - Không có ai nữa trong quán? - Có ba thanh niên và một người đàn ông đứng tuổi, người này đi ra ngay mà không dùng gì cả. - Hắn đã theo dõi vị linh mục? - Cái đó thì có thể. Tony không trông thấy người đó đi ra. Anh ta cũng không nhìn kỹ xem người đó giống ai. Chiều cao trung bình, anh ta cho là như thế, mặc một áo khoác xanh hoặc nâu. Tóc không nâu mà cũng không hung. Không có một cái gì khiến anh ta phải chú ý trong việc này. Anh ta chưa phát biểu gì. Chúng tôi cũng yêu cầu mọi người đã trông thấy linh mục quãng từ tám giờ kém mười lăm đến tám giờ mười lăm liên hệ với chúng tôi. Chỉ có một người đàn bà và một ông dược sĩ có một cửa hàng dược phẩm ở gần đó tới trình diện. Lát nữa tôi sẽ gặp họ. Xác chết được hai cậu bé phát hiện ra lúc tám giờ mười lăm phút ở phố West. Anh biết chứ? Một phố nhỏ, một bên là đường sắt. Corrigan gõ gõ lên mảnh giấy. - Cảm tưởng của anh về cái này? - Tôi cho rằng đây là một vật quan trọng - Lejeune trả lời. - Người đàn bà hấp hối đã xưng tội, và cha đã ghi những cái tên đó để đề phòng khi quên mất chúng. Cha sẽ làm gì nếu Cha nắm được sự bí mật của những lời tiết lộ? - Chẳng có gì chứng tỏ là Cha nắm được sự bí mật. Chúng ta giả định những người có tên mà Cha ghi đã đi sâu vào... chúng ta hãy nói là một vụ tống tiền. Đó là một giả thiết đơn giản. Cũng có thể những người đó là những nạn nhân của một vụ tống tiền. Còn người chết, chính bà ta, là kẻ đi tống tiền hoặc là bà ta biết rõ việc tống tiền. Hối hận, thú tội, ý muốn được sửa chữa trong chừng mực có thể và Cha Gorman đã đảm đương trách nhiệm về việc này. - Và sau đó? - Tất cả những cái còn lại đều là giả thiết. Đây phải là một công việc có nhiều lợi ích và kẻ nào đó muốn rằng công việc phải được tiếp tục thực hiện. Kẻ đó đã biết bà Davis muốn gặp Cha khi sắp chết. Cái còn lại tự nó đặt ra. - Tôi tự hỏi - Corrigan nhấn mạnh trong khi nghiên cứu mẩu giấy - Tại sao lại có dấu chấm hỏi đối với hai cái tên cuối cùng? - Có thể là Cha Gorman không tin vào trí nhớ của mình. - Cái đó có thể hoặc là Mulligan hoặc là Corrigan - Người thày thuốc nhăn nhó nói - Delafontaine đó là cái tên mà người ta còn dùng... Parkinson thì có hàng đống... Standford, không phải là cái tên thường thấy. Hesketh-Dubois, đọc hết hơi về cái tên này, nó không thể có nhiều. Theo một sự thôi thúc tự nhiên, anh cầm lấy cuốn danh bạ điện thoại trên bàn giấy. - Xem nào, Hesketh. Bà... John và Công ty đặt ống dẫn nước... Ngài Isidore. À! Tôi thấy rồi! Hesketh - Dubois phu nhân, số nhà chín, phố Ellesmere. SW 1. Nếu chúng ta gọi điện cho bà ấy thì sao? - Để nói với bà ấy về cái gì? - Ý kiến sẽ tới sau - Người thầy thuốc trả lời nhẹ nhàng. Lejeune nhấc máy. - Cho tôi nói ra bên ngoài, xin cô - Anh nhìn Corrigan - Số mấy? - Grosvenor sáu bốn năm bảy tám (64578). Lejeune nhắc lại số máy đó và đưa ống nói cho người thầy thuốc. - Xin mời anh hãy vui đùa. Một thoáng bối rối, Corrigan cầm máy và chờ. Chuông reo nhiều lần trước khi có một người đàn bà thở hổn hển trả lời: - Grosvenor sáu bốn năm bảy tám đây! - Đấy có phải là nhà phu nhân Hensketh-Dubois không? - Ô, vâng, nhưng... - Tôi có thể nói chuyện với phu nhân được không? Xin cô giúp cho. - À, không, cái đó không thể được! Phu nhân Hensketh-Dubois đã qua đời vào tháng Tư vừa rồi. - Ồ! Không trả lời người đàn bà khi người này hỏi tên mình, Corrigan nhẹ nhàng đặt máy vào giá. - Vì như vậy mà anh thu xếp để tôi nói chuyện? - Người thầy thuốc hỏi với giọng lạnh lùng. Lejeune cười tinh quái: - Chúng tôi không quên cái gì cả. Xin anh lưu ý cho. - Tháng Tư vừa qua - Corrigan mơ màng nói - Đã năm tháng rồi. Năm tháng trong đó việc tống tiền, nếu đúng là như vậy, đã thôi không làm khổ bà ấy. Có phải bà ấy đã tự tử không? - Không, bà ta chết vì có khối u ở trong óc. - Chúng ta phải làm lại từ đầu. Lejeune thở dài. - Và chúng ta cũng không rõ là bản danh sách này có giá trị gì không. Có thể không chỉ có việc đánh bằng dùi cui trong lúc sương mù mà không có một sự may mắn lớn nào đó thì ít hy vọng tìm ra thủ phạm. - Anh thấy có trở ngại gì nếu tôi tiếp tục nghiên cứu bản danh sách này không? - Người thầy thuốc hỏi. - Anh lấy đi. Chúc anh may mắn trong phạm vi có thể. - Thật là lạ lùng nếu tôi tìm ra một cái gì đó trong khi anh thất bại. Tôi sẽ tập trung nghiên cứu cái tên Corrigan này, là ông, là bà hay là cô với một dấu hỏi lớn. Chương Ba - Thật vậy thưa ngài, tôi thấy là không có gì để nói thêm với ngài nữa. Tôi đã kể hết với ông trung sĩ của ngài rồi. Tôi không biết bà Davis là ai và bà ấy từ đâu tới. Bà ấy đã ở trọn trong nhà tôi sáu tháng nay. Bà ấy trả tiền thuê nhà đều đặn và tỏ ra rất yên lặng và đáng kính nể. Tôi chắc chắn là không biết gì hơn nữa. Bà Coppins ngừng nói để lấy hơi và ném cho Lejeune một cái nhìn lạnh lùng. Anh đáp lại bà bằng một nụ cười thân mật và sầu muộn mà anh đã nhiều lần làm thử. - Không, tôi không từ chối giúp ngài nếu tôi có thể - Bà nói thêm. - Xin cảm ơn bà. Đó là cái mà chúng tôi cần. Phụ nữ có một bản năng chính xác hơn nam giới. - À - Bà Coppins thở dài nói - Nếu ông Coppins nhà tôi được nghe lời ông nói. Cái đầu rỗng tuếch ấy lại dặn tôi đừng nói những cái gì mà mình không trông thấy. Ấy thế mà thường thường chín phần mười tôi có lý. - Đó là lý do mà tôi muốn biết ý kiến của bà về bà Davis. Bà có nghĩ rằng bà ta... khổ sở không? - Nói cho đúng ra là không. Bà ấy hình như yêu thích lao động và phương pháp làm việc. Bà ấy có vẻ như sống theo một kế hoạch đã được vạch trước. Qua những cái mà tôi hiểu thì bà ấy làm công cho một hãng lập những bảng thống kê về tiêu dùng nói chung. Bà ấy đi bấm chuông các nhà, hỏi người ta về loại xà phòng bột mà người ta đang dùng; những khoản đó chiếm bao nhiêu ngân sách của họ. Về phần tôi, tôi cho rằng cách làm như vậy là rất tò mò, và tôi tự hỏi rằng tại sao chính quyền lại làm ngơ trước những việc ấy. Và cái đó dùng vào việc gì, ngài có thể cho tôi biết được không? Đó chỉ là cái mốt thời thượng. - Bà có biết cái hãng đã thuê bà ta không? - Không, tôi không biết… - Bà ta thỉnh thoảng có nói tên một người bà con nào không? - Không. Tôi có thể biết là bà ấy goá chồng đã nhiều năm. Chồng bà trước đây là một người tàn phế. Không bao giờ bà ấy nói nhiều về chuyện này. - Có bao giờ bà ta nói là bà ta ở đâu, ở nơi nào trong nước ta, tới đây không? - Tôi không tin rằng bà ấy là dân Luân Đôn. Bà ấy có thể là người ở miền Bắc. - Bà có bao giờ cảm giác rằng bà ta còn một điều gì… bí mật không? Đây là một câu hỏi phiền phức nếu bà Coppins là loại người không thể ảnh hưởng đến được. Nhưng bà không vội vàng nắm lấy cái cơ hội mà anh đưa đến cho bà. - Thật ra là không, không có trong cách nói của bà ấy, trong mọi trường hợp. Chỉ duy nhất có một điều làm tôi suy nghĩ: Chiếc vali của bà ấy. Vào loại tốt, nhưng không còn mới nữa. Về những chữ viết tắt, người ta đã xoá đi và viết lại: J.D tức là Jessie Davis. Nhưng trước kia ở chỗ chữ J là một chữ khác. Có thể là H hay là A. Xin ngài chú ý là người ta có thể mua ở hàng đồ cũ với một giá rất hời và người ta thay chữ viết tắt đi. Nó chẳng có gì là to chuyện. Đúng là chiếc vali này. Lejeune đã biết rõ chi tiết này. Người đàn bà quá cố có rất ít đồ dùng cá nhân. Bà ta không giữ một lá thư, một tấm ảnh nào. Hình như bà ta không có cả đến sổ bảo hiểm, một tập séc. Quần áo của bà ta rất đơn giản nhưng vào loại vải tốt và hầu hết là mới. - Bà ta có được sung sướng không? - Tôi cho là có. - Bà không chắc chắn lắm về điều này? - Đó là vấn đề người ta thường không nghĩ đến. Bà ấy có một chỗ làm việc tốt và một cuộc sống thích hợp với bà. Bà ấy ít cởi mở, nhưng đúng là, khi bà ấy ốm... - Vâng - Lejeune thúc giục. - Thoạt tiên thì bà ấy bực bội. Như là bà ấy đã nói, việc này đã hất mọi dự định của bà ấy xuống đất. Nhưng bệnh cúm là bệnh cúm. Bà ấy phải nằm trên giường. Bà ấy tự pha trà và uống aspirine. Tôi đã đề nghị với bà ấy là mời một thầy thuốc. Bà ấy từ chối, nói rằng bệnh cúm sẽ tự nhiên khỏi thôi. Lúc bà ấy cảm thấy đỡ bệnh và bà ấy xuống bếp. Bà ấy có sa sút tinh thần, chắc chắn là như vậy, đó là chuyện bình thường khi đau ốm. Tôi nhớ rằng, bà ấy ngồi ở đây, bên cạnh bếp lửa và có một lần bà ấy bảo tôi: "Tôi rất muốn là không có thời gian để mà nghĩ ngợi. Tôi không thích như vậy, cái đó làm tôi có vẻ như là một kẻ đạo đức giả". Lejeune nghe bà Coppins rất chăm chú và bà này tiếp tục nói khá hăng hái: - Tôi cho bà ấy mượn những tờ tạp chí. Nhưng bà ấy chỉ đọc một cách chiếu lệ. Bà ấy đã nói với tôi, tôi nhớ rất rõ: "Nếu các sự việc không như nó phải xảy ra thì tốt nhất là không nghĩ đến chúng nữa. Ý kiến của bà cũng như thế chứ?". “Thật là đúng", tôi trả lời. Bà ấy lại tiếp tục nói: "Tôi không biết... tôi không bao giờ chắc chắn". Tôi lưu ý bà ấy rằng tất cả sẽ tốt đẹp thôi. Nhưng bà ấy lại nói thêm: "Tất cả những việc tôi đã làm đều hoàn toàn thật thà. Tôi không có gì phải ân hận". Tôi nói để bà ấy yên tâm: "Chắc chắn là như vậy". Nhưng tôi tự hỏi có phải là cái hãng thuê mướn bà ấy có sự bất chính về mặt kế toán tiền nong không, ví dụ như vậy, bà ấy cũng phong thanh biết được, nhưng bà ấy có tự bảo cái đó không liên quan gì đến mình không. - Cái đó là có thể - Lejeune giả định. - Dù thế nào đi nữa, khi bà ấy khỏi, hoặc gần khỏi, bà ấy tiếp tục đi làm. Tôi đã bảo bà ấy rằng như vậy là quá sớm, bà ấy phải để ra một hoặc hai ngày nghỉ thêm. Và tôi đã đúng. Hôm sau bà ấy đi làm về với một cơn sốt dữ dội. Bà ấy vẫn từ chối thầy thuốc. Bệnh của bà ấy chỉ trầm trọng thêm. Sáng ngày thứ hai bà ấy bảo tôi, và rất đúng nếu tôi hiểu bà ấy: "Một linh mục. Tôi cần gặp một vị linh mục. Nhanh lên, nếu không thì quá muộn mất". Bà ấy cũng nói rõ: "Một linh mục thiên chúa giáo”. Tôi trông thấy cháu Mike ở ngoài phố, tôi bảo nó đi tìm Cha Gorman. Sau đó tôi gọi dây nói cho thầy thuốc và cho bệnh viện. - Bà đã đón Cha khi Cha tới? - Vâng, tôi để cho họ gặp nhau. - Họ đã nói gì? - Tôi không biết chính xác, nhưng khi khép cửa tôi thấy bà ấy nói về hành vi tội ác và cũng nói về một con ngựa... Có lẽ một con ngựa đua... * * * Không có gì mới khi gặp ba người cùng thuê nhà trong toà nhà ấy. Hai người trong số họ, một người làm việc ở nhà băng và một người đã đứng tuổi làm việc ở cửa hàng giày dép, đã ở chung nhà với nhau nhiều năm. Người thứ ba là một cô gái hai hai tuổi mới tới trọ, làm việc ở một cửa hàng trong khu phố. Cả ba người biết rất ít về bà Davis. Cô gái tuyên bố rằng mình đã trông thấy Cha Gorman trong phố tối hôm xảy ra tội ác. Cô ta chỉ gặp thôi, sau đó cô tới quán Tony lúc tám giờ kém mười. Đó là tất cả. Ông Osborne, người chủ một cửa hàng dược phẩm ở góc phố Barton thì có nhiều chuyện đáng nói. Đó là một người tuổi trung bình, trán hói, mặt tròn và có vẻ ngây thơ. Ông ta mang kính mắt. - Xin chào, ngài thanh tra. Chúng ta vào phòng phía sau, ngài đồng ý chứ? - ông ta đề nghị và mở cánh cửa quầy hàng đóng theo kiểu cũ để đi ra. Lejeune đi theo ông ta qua một căn phòng nhỏ. Ở đấy có một chàng trai mặc áo blu trắng đang đổ thuốc nước vào chai lọ với một sự nhanh nhẹn của người làm trò ảo thuật, rồi vào một phòng nhỏ. Ở đấy có hai chiếc ghế bành, một bàn nước và một bàn giấy. Osbome kéo rèm che kín cửa, ngồi xuống và ra hiệu, mắt long lanh. - Tôi có thể giúp ngài. Thời buổi khó khăn, hàng họ ế ẩm, một mình cô bán hàng của tôi là đủ. Tôi đứng trước cửa, sương mù sa xuống. Phố xá hoang vắng. Rồi tôi thấy bên kia đường - Cha Gorman, người mà tôi biết rất rõ khi nhìn thấy, đang đi tới. Việc giết người ấy mới ghê gớm làm sao! Rơi vào một con người như Cha. "Đúng là Cha Gorman" - Tôi tự bảo mình - Cha đang đi về phía phố West, đó là con đường rẽ trái đầu tiên, trước khi tới đường sắt. Một thoáng sau, một người đàn ông đi theo Cha. Tôi sẽ không chú ý nếu hắn không đi ngang qua cửa hàng tôi. Tôi tự hỏi tại sao hắn ngừng lại khi từ xa Cha Gorman đi chậm lại. Hắn có vẻ đang suy nghĩ tợn khiến hắn quên cả việc tiếp tục đi. Sau đó hắn lại bước rất nhanh khi Cha cũng đi như vậy Tôi tự hỏi rằng có phải là hắn quen Cha Gorman và hắn muốn đuổi kịp để nói chuyện với Cha hay không. - Nhưng có đúng là người ấy muốn đi theo Cha hay không? - Ngay lúc đó thì không, còn bây giờ thì tôi chắc chắn như thế. Nhưng sương mù dày đặc sa xuống rất nhanh và tôi không còn trông thấy họ nữa. - Ông có thể tả hình dáng người đó không? Lejeune không ảo tưởng. Anh đã có thói quen cho rằng việc nhận dạng không phải bao giờ cũng đúng. Nhưng Osbome có một tính cách khác so với những người ở đây. - Vâng, tôi nghĩ rằng - ông ta nói với một giọng thoả mãn - Hắn ta cao lớn... - Cao lớn? Cao khoảng bao nhiêu? - À, khoảng một mét tám. Do đó vóc người của hắn vốn bình thường nhưng lại có vẻ cao hơn thực tế. Hắn có đôi vai xuôi và cái yết hầu nhô lên. Tóc hắn màu xám và khá dài lòi ra khỏi mũ. Cái mũi thì rất đặc biệt: đúng là một cái mỏ! Tôi không chú ý màu da mặt của hắn, tôi chỉ trông được phần ngang của mặt hắn. Hắn khoảng năm chục tuổi, qua dáng điệu thì hắn không còn trẻ nữa. Lejeune tính nhẩm khoảng cách giữa cửa hàng với vỉa hè bên kia đường và ngạc nhiên. Sự mô tả như người dược sĩ vừa nói có thể là kết quả của một sự tưởng tượng phong phú. Anh không thiếu những ví dụ về loại người này. Thường thì mọi người tô vẽ chân dung của "kẻ giết người điển hình" theo ý họ: lông mày rậm, hàm răng như khỉ, cặp mắt dữ tợn. Nhưng hình dáng người mà Osborne đưa ra thì đây là một con người bình thường. Ông ta có thể là một người làm chứng lý tưởng không, người quan sát hoàn thiện không?... Nhưng khoảng cách thì lại rất lớn. - Ông có tin rằng ông sẽ nhận ra người đó nếu ông trông thấy hắn một lần nữa không? - Ồ, vâng - Osborne trả lời một cách chắc chắn - Tôi không bao giờ quên một khuôn mặt. Đó là một trong những niềm say mê của tôi. Tôi bao giờ cũng đoán chắc nếu có một kẻ giết người dùng sức mạnh để mua thạch tín của tôi. Tôi sẽ đưa hắn ra trước một toà án. Đến bây giờ tôi vẫn chưa hết hy vọng. - Cái đó chưa bao giờ đến với ông à? - Chưa - Osborne chua chát trả lời - Bây giờ thì có ít may mắn. Tôi bán hết tài sản. Tôi được một cái giá khá hời, tôi rút lui về Bournemouth. - Tôi thấy ở đây việc buôn bán của ông phát đạt đấy chứ? - Việc buôn bán có nhiều loại - Osborne trình bày với vẻ kiêu ngạo - Gia đình tôi đã sinh sống gần một thế kỷ ở đây. Ông nội tôi và cha tôi đã qui định cho tôi, nhưng khi còn là trẻ con tôi không nhận ra như vậy. Như rất nhiều chàng trai vào lứa tuổi chúng tôi lúc bấy giờ, tôi lại thích sân khấu. Tôi đã chắc chắn về tài năng diễn viên của mình. Cha tôi không tìm cách ngăn cản tôi. "Để xem xem con có thể làm được gì, con trai”, người đã nói với tôi, “con có thấy là con không có gì giống với dịễn viên Henri Irving cả không?” Và cha tôi có lý. Cái đó kéo dài trong mười tám tháng và tôi trở về nhà. Tôi thích thú trong việc kinh doanh. Chúng tôi bao giờ cũng có hàng tốt. Nhưng bây giờ - ông ta lắc đầu - thực sự là một sự chắn đường đối với một người dược sĩ. Tất cả những sản phẩm vệ sinh mà ngài buộc phải có thì một nửa số liền lại sinh ra từ những việc làm bẩn thỉu. Phấn son, kem bôi mặt, nước gội dầu, túi dụng cụ... tôi không quan tâm. Cô bán hàng của tôi đảm nhiệm những thứ ấy. Không, là một dược sĩ, tôi không thể quen với những cái đó! Dù sao tôi cũng có một số tiền tiết kiệm khá, tôi bán cửa hàng với một giá hời và tôi nộp kỳ đầu tiên mua một biệt thự nhỏ, duyên dáng ở bên cạnh làng Bournemouth. Người ta phải biết rút lui khi người ta còn tìm thấy những thích thú trong cuộc sống. Tôi có rất nhiều đề tài quen thuộc: bướm, chim, làm vườn. Tôi có hàng đống sách nói về làm vườn. Và những cuộc du lịch. Tôi sẽ làm một cuộc du ngoạn trên thuyền... Tôi sẽ ra nước ngoài trước khi đã quá muộn. Lejeune đứng lên. - Tôi chúc ông gặp nhiều may mắn - Anh nói - Và trước khi rời khỏi vùng này, nếu ông trông thấy người ấy… - Tôi sẽ báo cho ngài ngay tức khắc. Ngài có thể tin vào tôi. Đó sẽ là một thú vui. Tôi là một người giỏi nhớ mặt. Tôi sẽ cảnh giác. Ồ, vâng, xin ngài tin ở tôi. Chương Bốn Cùng với cô bạn gái của tôi, Hermia Redcliffe, chúng tôi ra khỏi nhà hát Old Vic nơi chúng tôi vừa dự một cuộc trình diễn vở kịch "Macbeth". Mưa nặng hạt. Chúng tôi chạy đến nơi để chiếc xe hơi của tôi và Hermia đã nhận xét không đúng rằng bao giờ trời cũng mưa khi nhà hát Old Vic tan buổi diễn. - Chúng ta đi ăn ở Douvres chứ? - Người bạn cùng đi với tôi hỏi khi xe chạy. - Douvres à? Ý nghĩ mới ngộ nghĩnh làm sao! Anh tưởng rằng chúng ta phải đến nhà hàng Fantaisie chứ. Người ta cần được ăn uống tốt sau khi nhìn thấy cái cảnh đẫm máu và u buồn trong vở "Macbeth". Shakespeare bao giờ cũng cho anh sự ngon miệng. - Đúng như vậy. Wagner cũng cho em kết quả tương tự. Em nhắc tới nhà hàng Douvres vì anh cho xe đi theo hướng này. - Vì đây là đường một chiều. - Có thể, nhưng anh sẽ quay tròn. Bao giờ cũng vậy, Hermia rất có lý. Hermia Redcliffe là một cô gái trẻ đẹp, hai mươi tám tuổi. Cô ấy có bộ mặt gần như hoàn toàn Hy Lạp, tóc màu hạt dẻ sẫm búi thành búi ở sau gáy. Người chị của tôi bao giờ cũng nói “người bạn gái của Mark” với giọng nhấn mạnh làm rung động các dây thần kinh của tôi. Ở nhà hàng Fantaisie, chúng tôi được đón tiếp nồng nhiệt và người ta chỉ cho chúng tôi một chiếc bàn nhỏ sát tường phủ nhung màu đỏ sẫm. Nhà hàng này thường đông khách, những chiếc bàn kê sát vào nhau. Những người ngồi gần đó vui vẻ chào chúng tôi. David Ardingly, giáo sư sử học ở Trường Đại học Oxford và một trong những cô bạn gái trẻ của anh cũng có mặt ở đây. Cô ta rất đẹp và mái tóc dựng lên theo mốt mới cũng không thể làm cho cô xấu đi được. Cô ta có đôi mắt xanh sâu thẳm và cái miệng bao giờ cũng hé mở. Cô ta rõ ràng là ngốc nghếch. David rất khôn ngoan, bao giờ cũng tìm cách nghỉ ngơi bên cạnh những cô gái có hiểu biết đơn giản. - Đây là Poppy, ái phi của tôi - Anh ta nói với chúng tôi - Giới thiệu với em đây là Mark và Hermia. Đây là những nhà trí thức, em hãy cố gắng theo kịp họ. Tôi đánh cuộc rằng anh chị mới đi xem Shakespeare hay Ibsen về chứ? - Rất đúng. "Macbeth" ở Old Vic - Hermia nói - Ánh sáng tốt và cảnh tiễn đưa thì thật là tuyệt vời. - Và những mụ phù thuỷ? - Thì rất khủng khiếp. Bao giờ cũng vậy. - Tối hôm nọ tôi nghĩ đến ảnh hưởng của cái xấu - tôi nói. - Đến cái gì? - Ồ, tôi đã ở trong một quán cà phê ở Chelsea. - Hoan hô Mark! Đó là cái mà người ta gọi là sống với thời gian của mình. Chelsea! Người ta thấy ở đấy những cô gái thừa kế trá hình thành những con chuột ở khách sạn, kết duyên với những tên vô lại đang tìm cách ngoi lên. Đây là nơi Poppy phải đến, có phải như vậy không, em yêu? Cô gái trợn đôi mắt to: - Em ghét Chelsea - Cô cãi lại - Em rất thích Fantaisie. Ở đây rất đẹp và người ta ăn uống tốt. - Được, Poppy! Hơn nữa em cũng không giàu có để tới Chelsea. Nói cho tôi biết về "Macbeth" và những mụ phù thuỷ kinh tởm. Còn tôi, nếu tôi dàn cảnh, tôi sẽ đưa chúng ra bằng những bà già xảo trá như những mụ phù thuỷ trong làng quê. - Nhưng cái đó bây giờ thì không còn nữa - Poppy nói. - Em tưởng như vậy vì em là người ở Luân Đôn. Mỗi một làng của nước Anh này hãy còn một mụ phù thuỷ. Mụ già Blak ở toà nhà thứ ba từ chân đồi lên. Người ta nhắc trẻ con đừng động đến mụ ta. Người ta cho mụ trứng, bánh ngọt. Nếu người ta đi qua nhà của mụ thì sữa của bò sẽ bị cạn đi, khoai tây sẽ không nảy mầm hoặc thằng bé Johnny sẽ bị bong gân ở chân. Không một ai nói ra, nhưng mọi người đều biết những cái đó. - Anh nói đùa! - Poppy kêu lên. - Không đùa chút nào, có phải không Mark? - Chắc chắn là anh có lý - Tôi nói chậm chạp - Nhưng tôi không biết chính xác. Tôi ít sống ở nông thôn. - Tôi không hiểu làm thế nào mà anh có thể thay thế những mụ phù thuỷ bằng những bà già bình thường - Hermia nhận xét - Chúng cần có nhân cách siêu tự nhiên của chúng chứ? - Nhưng đó chỉ như là một sự rồ dại. Một người đi lang thang tóc lẫn cuống rạ, giãy giụa, cuối cùng, người ấy có cái vẻ điên dại, cái đó thì chẳng có gì đáng sợ cả. Nhưng tôi nhớ lại là đã gặp trong một phòng đợi của một nhà an dưỡng, một bà già đang uống một cốc sữa. Bà ta nói một vài lời về thời tiết ít hứa hẹn, rồi bất chợt bà ta cúi xuống nhìn tôi và hỏi tôi bằng một giọng trầm: "Có phải người ta đã khâm liệm đứa con nhỏ khốn khổ của anh ở sau lò sưởi không?". Bà ngẩng đầu nói tiếp: "Mười giờ trưa. Trong mỗi ngày cùng giờ ấy. Anh hãy làm ra vẻ không trông thấy máu”. Chính do cái giọng hoàn toàn tự nhiên đó đã khiến tôi run sợ đến lạnh cả sống lưng. - Có thật là có một người nào đó bị khâm liệm phía sau lò sưởi không? - Poppy lo ngại hỏi. David không trả lời cô mà tiếp tục nói: - Những bà đồng. Một cảnh chìm vào trong đêm đen, một người đàn bà đánh đồng thiếp, những tiếng kêu răng rắc, những tiếng va đập vào tường... Rồi bà đồng đứng lên, vuốt lại tóc và trở lại thành người bình thường để ăn một bữa no cũng như mọi người khác. - Như vậy - tôi nói - Những mụ phù thuỷ của anh sẽ là những con quạ già có tài thiên nhân và thực hiện nghệ thuật của họ một cách bí mật, lẩm nhẩm những câu thần chú bên cạnh một chảo than khói um, xua đuổi tà ma, nhưng có một bộ ba bà già hoàn toàn bình thường… Cái đó có thể là hấp dẫn. - Nếu như anh tìm được những diễn viên có thể đóng vai theo cách ấy - Hermia nói bằng giọng khô khan. - Đấy, cô đã chạm vào chỗ nhạy cảm nhất rồi - David nói - Một ảo tưởng nhỏ về sự điên dại trong bản thảo viết tay và những diễn viên đều chống lại. Cũng như vậy khi có vấn đề chết đột ngột. Không một diễn viên nào chấp nhận chết lặng lẽ, anh ta phải kêu, phải vặn vẹo, trợn mắt, cào ngực, tay túm chặt lấy tóc, cuối cùng là làm trò cười cho thiên hạ. - Shakespeare chắc chắn sẽ ngạc nhiên nếu ông ấy thấy người ta diễn những vở kịch của ông hôm nay. - Có phải là cuối cùng thì một ông Bacon nào đó đã viết về Shakespeare không? - Poppy hỏi. - Người ta đã bỏ cái lý thuyết ấy rồi - David nói một cách âu yếm - Em hiểu gì về Bacon? - Ông ta đã phát minh ra thuốc súng! - Poppy trả lời bằng một giọng đắc thắng. David đưa mắt nhìn chúng tôi. - Anh chị đã hiểu vì sao tôi thích cô bé này. Cô ấy hiểu sự vật một cách rất đáng ngạc nhiên. Em yêu, Francis Bacon chứ không phải là Roger. Cái đó ngày nay rất tiện lợi - anh nói tiếp - ra hiệu cho một kẻ giết người chuyên nghiệp khi anh có một việc nhỏ gì giao cho hắn. Ngày nay cái đó thật là thú vị. - Nhưng cái đó vẫn còn - Hermia khăng khăng - Và bọn găng tơ ở Chicago? - Nhưng không. Tôi nghĩ đến những người bình thường muốn thủ tiêu một kẻ nào đó. Một kẻ cạnh tranh khó chịu, một bà cô Emily rất giàu có nhưng lại cố bám lấy cái sống, một người chồng quấy rầy. Thú vị biết bao nhiêu nếu có thể gọi dây nói cho một hãng lớn: "Giao cho tôi hai tên giết người. Hạng nhất”. Chúng tôi cười. - Nhưng người ta có thể làm được việc ấy - Poppy noi. Tất cả chúng tôi đều quay về phía cô. - Bằng cách nào? Em yêu - David hỏi. - Em muốn nói rằng người ta có thể làm được việc đó nếu người ta muốn... Những người như chúng ta. Nhưng em tin rằng những việc đó sẽ rất tốn kém. Cặp mắt to của cô gái trẻ tỏ ra hoàn toàn ngây thơ, đôi môi hé mở. - Nhưng, em muốn nói gì? - David ngạc nhiên hỏi. Poppy tỏ ra bối rối: - Ồ… Em không biết rõ. Em nói về "Pale Horse” và những chuyện tiếp đó. - Một con ngựa nhợt nhạt? Con ngựa nhợt nhạt thuộc loại gì? Poppy đỏ mặt, cụp đôi mi mắt xuống: - Em thật là ngu dại. Một hôm có một người nào đó đã nói một vài việc... em đã hiểu không đầy đủ. - Thôi, em uống đi - David dịu dàng nói. * * * Thật là thích thú mà xác nhận rằng khi người ta đã nghe nói đến một chuyện gì mà hai mươi tư tiếng đồng hồ sau đó lại có dịp nhắc đến. Tôi có cái chứng cớ đó vào ngày hôm sau. Máy điện thoại reo và tôi nhấc máy. - Flaxman bảy ba tám bốn một (73841). Một tiếng nấc chạy dọc đường dây. Sau đó một tiếng hổn hển nhưng d9ầy thách thức vang lên bên tai tôi: - Tôi đã nghĩ và tôi sẽ đi! - Thật là đầy đủ - Tôi trả lời và kiếm cách kéo dài thời gian - Ồ... có phải... … Cuối cùng thì tiếng nói tiếp tục, thiên lôi không bao giờ đánh hai lần cùng một chỗ. - Cô có chắc chắn về số báo mà cô muốn không? - Chắc chắn là như vậy! Anh là Mark Easterbrook phải không? - Ồ, tôi hiểu, thưa cô Oliver. - Anh không biết à? Tôi đã không nghĩ đến việc ấy. Đây là ngày hội của Rhoda. Tôi đến để ký tên vào những cuốn sách của tôi. - Thật là đáng mến, về phần cô. Chắc chắn là cô sẽ nghỉ lại ở nhà chị ấy chứ? - Không có đón tiếp chứ! - Oliver lo ngại hỏi - Anh hiểu cái đó là như thế nào, mọi người chạy đến với anh để hỏi rằng anh đang viết về cái gì trong khi anh đang uống nước cà chua. Tôi không bao giờ tìm được câu trả lời phù hợp. Anh không tin là người ta sẽ đưa tôi đi ăn uống gì đó ở "Con ngựa hồng" à? Cuối cũng là "CON NGỰA NHỢT NHẠT". Một quán hàng. Bao giờ tôi cũng thấy dễ chịu khi ngồi ở những nơi ấy. Tôi có thể uống tuy cái đó làm tôi đầy hơi. - Tại sao cô lại nói đến CON NGỰA NHỢT NHẠT? - Có một quán hàng ở rìa làng mang cái tên đó. Ít nhất thì đây là "Con ngựa hồng" và như thế thì hay hơn. Tôi có thể tạo ra nó. Tôi có nhiều trí tưởng tượng. - Thế còn "Con vẹt có mào" ra sao rồi? - Tôi hỏi. - Con vẹt có mào nào? - Và những quả cầu nữa? - Thật vậy - Oliver trả lời giọng nghiêm trang - Anh điên hay là anh bị bệnh rụng tóc đấy? Những Con ngựa hồng, những con vẹt có mào và những quả cầu. Cô ta gác máy. * * * Tôi đang nghĩ đến cái tin mơ hồ về CON NGỰA NHỢT NHẠT khi tiếng chuông của máy điện thoại réo lên một lần nữa. Lần này là ông Soannes White, một ông chưởng khế đạo mạo. Ông nhắc tôi rằng, theo chúc thư của bà mẹ đỡ đầu của tôi là phu nhân Hensketh-Dubois thì tôi được phép chọn và nhận ba trong số những bức tranh của bà. - Việc bán những của cải của người qua đời tại Luân Đôn đã được quyết định và nếu có thể mời ông tới phố Ellesmere trong thời gian ngắn nhất... - Tôi sẽ đến ngay bây giờ. Buổi sáng nay có vẻ à thuận lợi đối với công việc của tôi. Cắp trong tay ba bức hoạ vẽ thuốc màu, tôi rời ngôi nhà số bốn mươi chín phố Ellesmere thì đụng phải một người đang bước lên thềm. Tôi xin lỗi và nhận lời xin lỗi, và đúng lúc tôi định gọi một chiếc xe taxi đang chạy chậm để rước khách thì có một tiếng động khẽ trong trí nhớ của tôi. Tôi quay phắt lại. - Ôi! Đúng là Corrigan! - Ồ! Mark Easteabrook! Jim Corrigan và tôi vốn là bạn thân khi học ở Trường Đại học Oxford, nhưng đã mười lăm năm nay chúng tôi không gặp nhau. - Tớ đã ngờ ngợ là cậu - Anh nói - Tớ đã được đọc những bài báo của cậu. Chúng làm tớ thích thú. - Cậu bây giờ ra sao? Cậu vẫn dành thời gian cho việc nghiên cứu đấy chứ, như cậu vẫn mong muốn? - Than ôi! Cái đó phải trả một giá đắt khi người ta hoạt động một mình. Phải làm việc theo êkip với một tay triệu phú mới được việc. Còn về lý thuyết thì không tốn kém như là nghiên cứu thực tiễn về ảnh hưởng của tuyến tiết đến cách xử thế của con người. Tớ chưa thấy ai say mê đề tài này. Tớ là bác sĩ pháp y. Cái đó thật là thú vị. Nó cho chúng ta thấy rõ mọi loại tội phạm. Nhưng tớ không muốn làm phiền cậu bằng cách nói về việc riêng. Cậu có muốn đi ăn với tớ không? - Rất vui lòng. Nhưng cậu đang cần vào đây? - Tôi nhận xét và chỉ ngôi nhà. - Không đúng. Tớ đến vì tò mò. - Ở đây không có một người nào trừ người gác cổng. - Phải. Nhưng tớ muốn có những nhận xét về phu nhân Hensketh-Dubois. - Tớ có thể cho cậu biết nhiều hơn so với người gác cổng. Phu nhân Hensketh-Dubois là mẹ đỡ đầu của tớ. - Thế, đó là một sự may mắn. Chúng ta đi ăn ở đâu? Tớ biết một cửa hàng ăn nhỏ không xa đây là mấy. Một vài phút sau, chúng tôi ngồi trước bàn ăn trong quán hàng, có một chàng trai cải trang làm một thuỷ thủ Pháp phục vụ. - Thế nào - Tôi bắt đầu - Cậu muốn biết những gì về bà già ấy. Và tại sao cậu lại quan tâm đến bà ấy? - Đây là một câu chuyện dài. Trước hết cậu cho biết: bà ta thuộc hạng người như thế nào? Tôi suy nghĩ một lát, nói: - Bà ấy có những quan niệm khá lỗi thời. Là vợ góa của một nhà cầm quyền trên một hòn đảo nào đó mà tớ không nhớ tên. Bà ấy rất giàu và ưa thích sự thuận tiện. Mùa đông bà ra nước ngoài. Nhà bà rất giàu và đầy ắp đồ gỗ, đồ bằng bạc đẹp nhất kiểu Victoria. Bà không có con, nhưng có một cặp chó bông để bà âu yếm. Bà bướng bỉnh và bảo thủ về mặt tinh thần. Tốt bụng nhưng độc đoán. Cậu còn muốn biết thêm gì nữa? - Tớ cũng không biết rõ hơn. Bà ta có thể là nạn nhân của một vụ tống tiền không? - Bà ấy - Tôi kêu lên ngạc nhiên - Đối với tớ thì điều này thật khó hiểu. Nhưng có cái gì ở đây? Và như vậy tôi được biết những tình tiết trong cái chết của Cha Gorman. Tôi đặt chiếc diã xuống. - Cậu có bản kê danh sách ở đây không? - Đây không phải là bản gốc nhưng tớ đã chép lại từ đó. Cậu xem. Tôi cầm lấy mảnh giấy mà anh đưa cho tôi và nghiên cứu. - Parkinson. Tớ biết hai người: Arthur, trong hải quân và Henri làm việc trong một bộ nào đó. Ormerod… có một thiếu tá Ormerod trong đội bảo vệ kỵ binh. Stamford... đó là tên một ông hiệu trưởng cũ của tớ, khi tớ còn nhỏ Harmondsworth... không Tuckerton... Tuckerton... Thomasina Tuckerton? Corrigan nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên: - Theo tớ hiểu thì cậu có thể biết cái người đó. Bà ta là ai và bà ta làm gì? - Bây giờ thì không làm gì. Báo đăng tin là cô ta đã chết một tuần lễ rồi. - Cái đó không giúp gì tớ nhiều. Tôi tiếp tục đọc. - Shaw. Tớ biết có một người thợ chữa răng có cái tên này và một người là Jerôme Shaw làm công tác văn phòng... Delafontaine. Tớ đã nghe nói về cái tên này, mới đây thôi, nhưng tớ không nhớ là ở đâu... Corrigan. Có phải đây là cậu không, thật là ngẫu nhiên. - Tớ rất hy vọng là không phải. Tớ có cảm tưởng cái đó mang lại bất hạnh nếu có tên tớ trong bản kê này. - Có thể. Nhưng ai đã làm cho cậu tưởng rằng ở đây có chuyện tống tiền làm cơ sở? - Đó là một ý kiến của thanh tra Lejeune, hình như thế. Đó là cái có vẻ rất khác thường. Nhưng đây cũng có thể là những tên buôn bán ma tuý hoặc là những người nghiện chất độc này, cũng có thể là những nhân viên bí mật. Một điều chắc chắn là bản danh sách này có giá trị tới mức người ta đã giết Cha Gorman để chiếm lấy nó. - Cậu có thích thú đến mức say mê về khía cạnh cảnh sát trong công việc của mình không? Anh ta lắc đầu. - Tớ không thể nói được. Cái giữ tớ lại là các loại tội phạm, nguồn gốc của chúng, trình độ học vấn và nhất là trạng thái hách của phạm nhân. - Như vậy bản kê này mang lại lợi ích gì cho cậu? - Tớ cũng tự hỏi về cái đó - Corrigan trả lời một cách chậm chạp - có thể do việc trông thấy chính tên của tớ. Tiến lên những người mang tên Corrigan, cứu giúp những người bị ức hiếp. - Cứu giúp? Đó là chỉ giúp cho cậu, nhưng còn một danh sách những nạn nhân... Không phải là bọn gian ác, hiện nay cái đó là có thể. - Cậu hoàn toàn có lý. Và tang vật của tớ rất lạ lùng. Có thể đó là do bản năng. Tớ không biết nhiều về Cha Gorman, nhưng tớ chắc chắn rằng Cha dính chặt vào tầm quan trọng lớn lao của bản danh sách này. - Cảnh sát không làm gì à? - Ồ, phải. Nhưng đây là một công việc đòi hỏi phải nghiên cứu tất cả trong từng chi tiết, nhất là quá khứ của người đàn bà ấy, người đã cho mời Cha tới. - Là ai vậy? - Một người đàn bà góa, thoạt nhìn thì không có gì là bí mật. Bà ấy làm việc cho một tổ chức điều tra về thói quen sử dụng những vật phẩm tiêu dùng hàng ngày và lập các bảng thống kê. Những nhân viên của hãng này hầu như không biết gì về bà ấy. Bà ấy từ Lancashire tới. Chỉ có một chi tiết lạ lùng về bà này. Bà ấy có rất ít đồ dùng cá nhân, tất cả chỉ đựng gọn trong một chiếc vali. Tôi nhún vai. - Có rất nhiều việc thường xảy ra mà người ta không nghĩ tới. Cậu đã quyết định điều tra về vụ này rồi chứ? - Ừ! Tớ xen vào công việc của người khác một chút. Hensketh Dubois không phải là cái tên phổ biến. Tớ nghĩ rằng khi tìm kiếm một vài tình hình về bà này... Nhưng sau những cái mà cậu đã cho biết thì bà ta không thể dắt dẫn tớ chút nào cả. - Đó không phải là một người nghiện ma tuý, cũng không phải là một kẻ đau cơ - tôi khẳng định - Và chắc chắn cũng không phải là một nhân viên bí mật. Bà ấy đã sống một cuộc đời ngay thẳng khiến người ta không thể tống tiền bà được… Tớ không hiểu rõ là với danh nghĩa gì mà bà ấy có tên trong bản danh sách. Đồ nữ trang vẫn còn nguyên trong rương ở nhà băng, không có gì trong nhà ở nên không thể cho rằng đây là một vụ trộm cướp. - Liệu có thể có những người khác mang tên Hensketh-Dubois không? - Không có con. Bà ấy có hai cháu họ, một nam, một nữ nhưng chúng không mang cùng tên. Chồng bà ấy là con một. Corrigan khẳng định với tôi là tôi đã giúp anh rất nhiều tuy không có được một tang chứng gì và chúng tôi chia tay nhau. Anh ta có một người nào đó phải mổ. * * * Tôi trở về nhà, nghỉ ngơi, không thể tập trung vào công việc của mình được. Tuân theo một sự thúc đẩy tự nhiên, tôi gọi dây nói cho David Ardingly. - David? Mark đây. Cô gái trẻ, người cùng đi với cậu tối hôm qua, Poppy. Tên thật của cô ấy là gì? - À! Cậu muốn cướp cô bạn gái của tớ à? Anh chàng hình như tìm thấy một ý kiến khá ngộ nghĩnh. - Ồ! Cậu có rất nhiều cô. Cậu có thể nhường lại cho tớ một cô chứ? - Tớ tưởng rằng cậu đã có cái mà người ta cần phải có rồi chứ và cậu đã "sắp xếp lại các xe hơi". "Sắp xếp lại các xe hơi". Một thuật ngữ khó chịu làm sao và cái đó bây giờ thích hợp trong quan hệ giữa tôi và Hermia. Tại sao cô ấy lại cuốn hút tôi. Tôi luôn luôn biết trong tiềm thức của tôi rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ kết hôn... Tôi thích cô ấy hơn mọi người khác. Chúng tôi có nhiều điểm giống nhau. - Tại sao lại có sự thèm muốn hé mở ấy? Hermia là một ngươi vợ lý tưởng. - Phải, nhưng cái đó sẽ không trở thành ngốc nghếch. Câu nói ngắn ngủi đó không rõ từ đâu ra làm tôi khó chịu. - Cậu ngủ đấy à? - David hỏi tôi. - Không. Thật thà mà nói thì tôi thấy cô bạn Poppy của cậu rất là mát dịu. - Đó là thuật ngữ phù hợp với cô ta... Khi người ta tiếp nhận cô với những liều lượng nhỏ. Cô ta tên là Pamela Stialing và làm việc ở một trong những cửa hàng hoa tươi đẹp ở Mayfair. Anh ta cho tôi địa chỉ. - Đưa cô ta đi và vui chơi thoả thích nhé - Anh ta nói với tôi bằng giọng của người cha - Cậu sẽ thấy cô ta rất là thoải mái. Cô ta có cái đầu rỗng tuếch. Cô ta sẽ tin tất cả những điều cậu nói. Nhưng cậu đừng có ảo tưởng. Cô ta là người có đức hạnh. Tôi gác máy. * * * Tôi đi qua cửa hàng "Nghệ thuật về hoa” với một trạng thái bị kích thích. Mùi hoa dành dành hắc làm tôi ngây ngất. Những cô gái trẻ bán hàng mặc đồ màu xanh nhạt đều giống Poppy khiến tôi khó nhận ra cô. Cô ta đang viết một địa chỉ một cách cần mẫn. Tôi đợi cho cô viết xong và tiến lại gần cô. - Chúng ta mới gặp nhau tối hôm qua cùng với David Ardingly - Tôi nhắc cô. - Ồ! Vâng! - Poppy nhận ra tôi với vẻ nồng nhiệt, mắt mơ màng. - Tôi muốn hỏi cô một vài điều - Bất chợt tôi thấy khó chịu - Có lẽ tốt nhất là tôi mua hoa đã. Cô ta hoạt động như một cỗ máy đầy đủ dầu mỡ. - Chúng tôi có nhiều hoa hồng đẹp. Hoa vừa được đưa đến. Chỗ nào cũng có hoa hồng. - Giá bao nhiêu? - Ồ! Gái rất rẻ - Poppy trả lời và đưa dẫn chứng - Chỉ có năm xu một bông. Tôi nuốt nước bọt. - Cho tôi sáu bông. - Tôi cho thêm lá cho đẹp chứ? Tôi chỉ muốn mua hoa măng bàn tay đơn giản trước khi chúng phai màu. - Tôi muốn đặt ra với cô một câu hỏi - Tôi nhắc lại câu chuyện khiến Poppy bất chợt trở nên lóng ngóng khi bó lại bó hoa - Tối hôm qua cô đã nói đến một CON NGỰA NHỢT NHẠT nào đó. Poppy giật mình và đánh rơi bó hoa xuống đất. - Cô có thể nói cho tôi biết rõ hơn không? Poppy nhặt hoa lên. - Ông nói gì? - Cô ta hỏi và ngẩng mặt lên. - Tôi đã đặt ra cho cô câu hỏi về CON NGỰA NHỢT NHẠT. - Một CON NGỰA NHỢT NHẠT à? Tôi không biết. - Cô đã nói về nó tối hôm qua. - Không bao giờ. Tôi chắc chắn là như thế. - Một người nào đó đã nói với cô. Ai vậy? Poppy thở mạnh và nói nhanh: - Tôi không hiểu một chút nào những lời ông nói với tôi. Và chúng tôi không có quyền nói chuyện với khách hàng... Cô găm một tờ giấy vào bó hoa của tôi. - ... Tất cả là ba hào rưỡi, thưa ông. Tôi đưa cho cô ta tờ một đồng. Cô cáu kỉnh ấn vào tay tôi sáu hào và quay nhanh sang người khác. Đôi tay cô run lên. Tôi chậm chạp đi ra. Tôi đã đi xa rồi mới nhận ra là cô cộng nhầm tiền và trả lại tôi thiếu tiền. Tôi quay lại nhìn bộ mặt xinh đẹp đờ đẫn và đôi mắt xanh to muốn nói lên điều gì trong chiều hôm nay. Cô ta sợ, rất sợ. Nhưng tại sao? Tôi đi qua cửa hàng "Nghệ thuật về hoa” với một trạng thái bị kích thích. Mùi hoa dành dành hắc làm tôi ngây ngất. Những cô gái trẻ bán hàng mặc đồ màu xanh nhạt đều giống Poppy khiến tôi khó nhận ra cô. Cô ta đang viết một địa chỉ một cách cần mẫn. Tôi đợi cho cô viết xong và tiến lại gần cô. - Chúng ta mới gặp nhau tối hôm qua cùng với David Ardingly - Tôi nhắc cô. - Ồ! Vâng! - Poppy nhận ra tôi với vẻ nồng nhiệt, mắt mơ màng. - Tôi muốn hỏi cô một vài điều - Bất chợt tôi thấy khó chịu - Có lẽ tốt nhất là tôi mua hoa đã. Cô ta hoạt động như một cỗ máy đầy đủ dầu mỡ. - Chúng tôi có nhiều hoa hồng đẹp. Hoa vừa được đưa đến. Chỗ nào cũng có hoa hồng. - Giá bao nhiêu? - Ồ! Gái rất rẻ - Poppy trả lời và đưa dẫn chứng - Chỉ có năm xu một bông. Tôi nuốt nước bọt. - Cho tôi sáu bông. - Tôi cho thêm lá cho đẹp chứ? Tôi chỉ muốn mua hoa măng bàn tay đơn giản trước khi chúng phai màu. - Tôi muốn đặt ra với cô một câu hỏi - Tôi nhắc lại câu chuyện khiến Poppy bất chợt trở nên lóng ngóng khi bó lại bó hoa - Tối hôm qua cô đã nói đến một CON NGỰA NHỢT NHẠT nào đó. Poppy giật mình và đánh rơi bó hoa xuống đất. - Cô có thể nói cho tôi biết rõ hơn không? Poppy nhặt hoa lên. - Ông nói gì? - Cô ta hỏi và ngẩng mặt lên. - Tôi đã đặt ra cho cô câu hỏi về CON NGỰA NHỢT NHẠT. - Một CON NGỰA NHỢT NHẠT à? Tôi không biết. - Cô đã nói về nó tối hôm qua. - Không bao giờ. Tôi chắc chắn là như thế. - Một người nào đó đã nói với cô. Ai vậy? Poppy thở mạnh và nói nhanh: - Tôi không hiểu một chút nào những lời ông nói với tôi. Và chúng tôi không có quyền nói chuyện với khách hàng... Cô găm một tờ giấy vào bó hoa của tôi. - ... Tất cả là ba hào rưỡi, thưa ông. Tôi đưa cho cô ta tờ một đồng. Cô cáu kỉnh ấn vào tay tôi sáu hào và quay nhanh sang người khác. Đôi tay cô run lên. Tôi chậm chạp đi ra. Tôi đã đi xa rồi mới nhận ra là cô cộng nhầm tiền và trả lại tôi thiếu tiền. Tôi quay lại nhìn bộ mặt xinh đẹp đờ đẫn và đôi mắt xanh to muốn nói lên điều gì trong chiều hôm nay. Cô ta sợ, rất sợ. Nhưng tại sao? Chương Năm - Thật là đỡ căng thẳng! - Oliver thở dài khi nghĩ đến mọi việc đã kết thúc mà không xảy ra chuyện gì. Cuối cùng mọi người được nghỉ ngơi. Ngày hội do Rhoda tổ chức không theo đúng những qui tắc đã vạch ra. Người ta có bày quầy hàng ra không hay vẫn để chúng trong nhà kho hoặc dưới mái che bằng kính? Người ta sẽ uống trà ở đâu? Rhoda giải quyết tất cả những vấn đề đó với sự tế nhị quen thuộc. Nhưng đàn chó của chị đã tìm cách xổng ra và làm trò cười cho mọi người. Cô diễn viên điện ảnh trẻ tuổi, duyên dáng, mặc ních khăn áo lông, chịu trách nhiệm khai mạc ngày hội được đón tiếp một cách niềm nở, nhưng đã gây ra sửng sốt chung cho mọi người khi cô làm động lòng người nghe về số phận buồn thảm của những người di cư trong lúc đối tượng chính của ngày hội là tu bổ lại gác chuông nhà thờ. Cuối cùng, buổi chiều chúng tôi gặp nhau để bình luận về những biến cố trong ngày: người chị họ Rhoda của tôi, chồng chị là đại tá Séspard, cô Macalistea, một cô gái trẻ tóc hung mà người ta thường gọi cô là Ginger, cô Oliver, ông phó linh mục Caleb Dane Calthrop và vợ. Ông phó linh mục là một người có tuổi thích kể chuyện cổ vào bất cứ lúc nào. Bà Dane Calthrop, một người đàn bà hay xúc động, nhìn Oliver và suy nghĩ. - Cô nghĩ rằng sẽ có một chuyện gì đó xảy ra trong ngày hội à? - Bà chợt hỏi. - Nhưng, một vụ giết người chẳng hạn. - Và vì lý do gì? - Không vì lý do gì cả, đúng là như vậy. Thật là kỳ lạ. Đã có một vụ như thế trong một ngày hội mà tôi mới dự. Ông phó linh mục bắt chúng tôi phải nghe một câu thơ Hy Lạp. - Ông già Lugg, Huy hiệu Hoàng gia, có một cử chỉ đẹp là đã gửi cho chúng tôi hai tá chai bia - Despard nhấn mạnh. - Huy hiệu Hoàng gia? - Tôi hỏi. - Đó là tên của một quán rượu trong địa phương - Rhoda giải thích cho tôi. - Không có quán nào khác nữa à? Tôi tưởng rằng cô đã nói với tôi là có quán CON NGỰA NHỢT NHẠT kia mà - Tôi nói với Oliver. Tôi không có được một sự phản ứng đã trù liệu trước. Mọi người nhìn tôi một cách khác thường. - CON NGỰA NHỢT NHẠT không phải là một quán rượu - Rhoda nói - Hay ít nhất là bây giờ. - Phải - Despard nói tiếp - Người ta đã sửa nó thành nhà ở. Nó được xây dựng từ thế kỷ thứ mười sáu và tôi không hiểu sao người ta không đổi tên nó đi. - Ồ! Tại sao lại phải như thế! - Ginger kêu lên - Các vị thử tưởng tượng người ta đặt lại tên nó thành “Nhà nghỉ của tôi”. Những người chủ của ngôi nhà hiện nay vẫn giữ cái biển cũ và đóng nó vào trước hàng hiên nhà. - Ai là chủ ngôi nhà đó? - Tôi hỏi. - Thyrza Grey! - Rhoda trả lời - Một người đàn bà cao lớn, tóc xám và ngắn. Hôm nào cậu cần đến đó để xem. - Bà ta chuyên về khoa học huyền bí, mê mải về thuật thông linh và ảo thuật - Despard tiếp tục nói - Bà ta không tổ chức những buổi lễ đen, nhưng đúng như thế. Ginger bật cười. - Xin lỗi - Cô nói - Tôi hình dung ra bà Grey trong vai bà Montespan trước một bàn thờ che nhung đen. - Ginger! - Rhoda phản đối - Cô quên rằng ở đây có vị phó linh mục. - Tôi xin - ông này cũng phản đối với một nụ cười hiền hậu - Những người ngày xưa nói như thế này... Ông kết thúc câu chuyện bằng một tràng tiếng Hy Lạp. Tôi quan sát trong một vài giây sự yên lặng đáng kính trước khi nói. - Tôi muốn biết những ai là "Người xâm chiếm" ngôi nhà Bà Grey và những ai nữa? - Bà ta có một người bạn sống chung là bà Sybil Stamfordis. Bà này đóng vai bà đồng, hình như vậy. Cậu cần gặp bà này... người đầy những bùa chú và thỉnh thoảng lại quấn váy Ấn Độ. Tôi thấy khó hiểu. Bà này không bao giờ ở Ấn Độ cả. - Cũng còn cả bà Bella, người nấu bếp nữa - Bà Dane Calthrop nói xen vào - Cũng là một mụ phù thuỷ. Đó là một gia đình. Mẹ bà ta có danh tiếng về thuật phù thuỷ. - Bà tin chắc là như vậy chứ, thưa bà - Tôi hỏi. - Đúng là như thế. Trong đó không có gì là bí mật cả. Đó là một loại vốn liếng của gia đình, truyền từ đời mẹ đến đời con gái. Người ta căn dặn bọn trẻ con là đừng đánh đập con mèo của anh, cho anh bánh kẹo và pho mát. Tôi ngạc nhiên nhìn bà. Bà tỏ ra rất nghiêm túc. - Trưa hôm nay, Sybil ngồi dưới tấm vải lều màu xanh, xem bói cho khách. Trong công việc này bà ta rất khôn khéo, tôi biết chắc chắn là như vậy - Rhoda nói. - Bà ta đã đoán cho tôi những điều thú vị - Ginger nói - Tiền bạc, đi nước ngoài, hai chồng và sáu con. Bà tỏ ra rất độ lượng. Buổi sáng bà Parker tỏ ra không hài lòng về sự ngây thơ của mọi người - Ginger tiếp tục cười nói - Và bà Cripps đã phản đối. Các vị biết rất rõ. Bà Uzzie và bà Sybil đã phán những điều không thể trông thấy và bà Grey đã nói trước về cái chết không thể nhầm lẫn được. Bà ta đã làm cho tôi sởn gai ốc! Bà Cripps nói thêm: "Tôi nói trước, trong mọi trường hợp, tôi không bao giờ xúc phạm tới một trong ba người đàn bà này". - Cái đó làm tôi thích thú. Tôi rất muốn được gặp họ - Oliver hăng hái nói. - Ngày mai tôi sẽ dẫn các vị tới - ông đại tá hứa - Cái quán rượu cũ cũng đáng được tham quan. Những bà này đã hợp sức để làm cho nó đầy đủ tiện nghi mà không làm mất đi những nét độc đáo của nó. - Sáng mai tôi sẽ gọi dây nói cho Thyrza - Rhoda nói. Tôi đi ngủ với tâm trạng quá u uất, tôi thú nhận điều đó… Cái CON NGỰA NHỢT NHẠT đó mà trong tâm tư tôi đã trở thành một biểu hiện của sự bi thảm và nguy hại thì nay hình như lại là một cái gì khác hẳn. Ít nhất là… * * * Hôm sau là ngày chủ nhật. Mọi người chúng tôi tập trung ở nhà thờ và nghe một cách kính cẩn bài giảng đạo uyên bác của ông Dane Calthrop. Ông ấy hình như không bình luận một bài kinh mà lại nói về lịch sử xứ Ba Tư. - Chúng ta sẽ ăn sáng ở nhà ông Venables - Rhoda nói với tôi - Cậu sẽ thích ông ấy, Mark. Đó là một con người rất thú vị. Ông ấy đã đi khắp nơi, trông thấy tất cả. Ông ấy mua trại "Priors Court" đã ba năm nay. Việc biến đổi ngôi nhà của ông ấy phải mất cả một gia tài. Ông ấy bị bại liệt và đã liệt nửa người nên chỉ có thể đi lại bằng một chiếc xe lăn. Priors Court chỉ cách làng vài kilômét. Chủ nhà ngồi trên chiếc xe của người tàn tật đón chúng tôi ở mái hiên. - Thật là quí mến vì các vị đã tới đây đông đủ - ông ấy nói nhiệt thành - Các vị đã mệt sau ngày hôm qua. Cái đó đã thành công, Rhoda. Venables khoảng năm chục tuổi, mặt dài và có chiếc mũi giống mỏ diều hâu. Ông cười với Oliver khi Rhoda giới thiệu cô ta với ông. - Hôm qua tôi đã trông thấy bà hoạt động nghề nghiệp của mình - ông nói - Tôi tin chắc là nhờ bà mà sáu người đã có mặt trong ngày lễ Noel. Bà có nhiều tài năng, thưa bà. Bà đừng rời bỏ chúng quá sớm. Ông ấy nhăn mặt với Ginger: - Còn về cô, bà trẻ, cô đã làm cho tôi được mọi người coi là con vịt sống. Rồi ông quay sang tôi: - Bài báo của ông trong tạp chí Review tháng vừa rồi làm tôi rất vừa lòng. - Về phần ông, thật là đáng mến khi ông dự ngày hội của chúng tôi - Rhoda nói - Tôi không dám hy vọng ông tới sau khi đã có một món quà biếu hào hiệp. - Tôi rất thích những ngày hội như thế. Bà Sybil của chúng ta đã đoán trước cho tôi rằng có một tương lai tuyệt diệu và không thể thực hiện được! Bà già Sybil tốt bụng - Despard nói - Chúng tôi sẽ đến dùng trà ở nhà bà Thyrza chiều nay. Ngôi nhà thật là tuyệt vời. CON NGỰA NHỢT NHẠT? Vâng. Tôi có phần tiếc là nó không phải là một quán rượu. Nơi đó bao giờ cũng làm tôi cho rằng nó có một câu chuyện bí mật và một phần xúc động nữa. Nó không phải là nơi hoạt động của bọn buôn lậu. Chúng ta ở xa biển. Một nơi ẩn náu cho bọn trộm cướp trên những con đường lớn có thể như vậy không? Những khách qua đường giàu có nghỉ đêm tại quán rượu ấy tự nhiên biến mất, không để lại giấu vết. Và cái đó trở thành nơi cư ngụ của bà cô gái già vô hại. - Ồ! Tôi không nghĩ như vậy. Có thể là Sybil Stamfordis với những lá bùa, với váy áo của bà ta quá là nực cười. Nhưng Thyrza thì thật là đáng sợ. Bà ta cho anh cái cảm giác là bà ta đọc được ý nghĩ của anh. Bà ta chưa bao giờ nói là mình có tài thiên nhân nhưng mọi người đều chắc chắn là bà ta có cái tài ấy. - Còn Bella, bề mặt là một cô gái già, đã chôn hai người chồng của mình - Despard nói. - Tôi xin gửi bà ta những lời xin lỗi rất chân thành- Venables nói. - Những người hàng xóm đã nhắc lại những cái chết ấy một cách bi thảm, thật vậy - ông đại tá nói thêm- Người ta đã cả quyết rằng những ông chồng ấy không làm vừa lòng bà ta và bà ta đã giết họ trong nháy mắt. - Đúng thế, tôi quên rằng bà ta là phù thuỷ ở địa phương. - Ít ra là như vậy theo sự khẳng định của bà Dane Calthrop. - Phép phù thuỷ bao giờ cũng rất kỳ lạ để nghiên cứu. Tôi nhớ lại, một ngày nọ, ở Ấn Độ... Ông Venables trình bày vấn đề một cách lưu loát và hứa sau bữa ăn sẽ cho chúng tôi xem những mặt nạ của những phù thuỷ ở Tây Phi. - Trong nhà này thì cái gì cũng có - Rhoda vui vẻ nhận xét. Ông nhún vai và giọng nói của ông trở nên chua chát rồi bất chợt ông nhìn xuống đôi chân bị liệt: - Nếu thánh Mahomet không leo lên núi... Nhưng cả đến bây giờ... cuộc sống vẫn đầy những lời an ủi của nó. - Tại sao lại ở đây? - Oliver hỏi đột ngột. Chúng tôi hơi khó chịu, trừ Oliver. Và sự tò mò của cô đã làm dịu bầu không khí. - … Tôi muốn nói là tại sao ông tới sống ở đây, một nơi xa xôi, hẻo lánh? Ông có bạn không? - Không. Tôi chọn nơi này chỉ vì tôi không có bạn - Ông trả lời với một nụ cười nhẹ nhàng, khôi hài trên môi. Tôi tự hỏi phải chăng bệnh bại liệt đã làm ông xúc động sâu sắc về tinh thần hoặc ông là người thu xếp để sống theo hoàn cảnh. - Trong bài báo cuối cùng của ông - ông nói với tôi - như là ông đã nói lên ý nghĩ của tôi. Ông dùng chữ "cao thượng", nhưng những nghĩa khác nhau mà người la có thể gặp phải ở phương Tây cũng như ở phương Đông thì có nhiều. Ông muốn nói với chúng tôi thế nào ở đây, ở nước Anh này, khi chúng tôi dùng danh từ "vĩ nhân"? - Sức mạnh của tri thức và sức mạnh của tinh thần... Mắt ông sáng lên. - Như vậy người ta không thể coi "vĩ nhân” là một người độc ác? Cái xấu tồn tại và cái xấu rất mạnh, nhiều khi mạnh hơn cả cái tốt... Người ta phải biết nó để đấu tranh... nếu không chúng ta sẽ bị chìm ngập trong tăm tối. Chương Sáu Bốn tiếng đồng hồ qua đi trước khi chúng tôi rời Priors Court. Sau một bữa ăn thịnh soạn, Venables đưa chúng tôi đi thăm toà nhà, chỉ cho chúng tôi những tài sản của ông một cách tự hào. Trong nhà tất cả là một kho báu. - Ông ấy lăn trên vàng - Tôi nói với người chị họ tôi - Những đồ ngọc, những đồ chạm trổ ở châu Phi, ở Saxe và tất cả những cái khác. Chị may mắn là có một người hàng xóm như ông ấy. - Và làm thế nào được - Rhoda nói - Hầu hết những người ở đây đều dễ mến nhưng thiếu tế nhị. Ông Venables thì ngược lại, nếu đem ra mà so sánh. - Ông ta làm giàu như thế nào? - Oliver hỏi - Hay là ông ta giàu từ trước ? Despard lưu ý một cách khô khan rằng bây giờ thì không ai có thể khoe là đã được thừa kế những tài sản lớn. Tiền thuế và tiền lệ phí sẽ làm cho anh bị mất đi một phần lớn. - Người ta đã nói với tôi rằng - ông nói tiếp - ông ta đã vào đời với nghề bốc dỡ hàng. Nhưng cái đó đối với tôi thì không thể như vậy được. Ông ta không bao giờ nói về thời niên thiếu hoặc là gia đình của mình. Một người bí mật! Oliver thì cho rằng người ta luôn luôn tặng ông ta những cái mà đối với cô thì chỉ có làm việc mới có được. * * * CON NGỰA NHỢT NHẠT là một ngôi nhà tường gạch ở xa làng. Nhà có vườn và được bao quanh bằng những bức tường. Ngôi nhà làm tôi thất vọng và nói: - Chẳng có gì là ghê gớm cả! - Đợi khi anh vào trong nhà đã - Ginger nói. Chúng tôi xuống xe và cánh cửa của ngôi nhà được mở ra khi chúng tôi tới gần. Bà Grey đứng ở ngưỡng cửa, người cao, vẻ giống như nam giới mặc tuýt. Bà ta có một cái trán rộng, một chiếc mũi lớn và khoằm và một cặp mắt xanh nhợt với cái nhìn xuyên suốt. -A! Các bạn đã tới - Bà ta nói với giọng trầm - Tôi tưởng các bạn bị lạc đường. Trong bóng tối, sau lưng bà này, một người nào đó nhìn chúng tôi, tôi chỉ trông thấy một hộ mặt khác thường gần như không thành hình thù gì cả. Đúng là một tác phẩm nặn bằng plastic của một đứa trẻ trong lúc cảm hứng. Rhoda giới thiệu chúng tôi và nói rõ rằng chúng tôi đã ăn sáng ở nhà ông Venables. - À! Thảo nào. Các bạn đã chè chén! Anh đầu bếp người Ý của ông ta thật là quí giá, và cả toà nhà nữa! Quỉ thần, chắc chắn ông ta còn cần một cái gì nữa. Nhưng xin mời vào! Chúng tôi rất hài lòng về ngôi nhà nhỏ bé của mình. Hiên có trần thấp và tối om. Một cầu thang xoáy trôn ốc bắt đầu từ đây. Có một lò sưởi lớn và phía trên lò sưởi có một bức tranh được đóng khung. - Cái biển hiệu cũ của quán hàng - Thấy tôi nhìn, bà Grey giải thích - CON NGỰA NHỢT NHẠT. Tấm biển thiếu ánh sáng nên người ta không nhìn rõ. - Tôi có thể giúp bà làm sạch nó, tôi đã nói rồi - Ginger lưu ý - Giao nó cho tôi và bà sẽ ngạc nhiên. - Tôi nghi ngờ việc này - Thyrza Grey trả lời và không quanh co - Và nếu cô làm hỏng nó? - Thế đấy! - Ginger phật ý kêu lên - Đây là nghề của tôi. Tôi làm việc cho các viện bảo tàng ở Luân Đôn - Cô giải thích cho tôi. - Cần phải rất khéo léo để khôi phục một bức tranh - Thyrza nói tiếp - Tôi thấy bị choáng váng khi đến thăm Triển lãm quốc gia. Tất cả những bức tranh hình như đều được nhúng vào nước tẩy. - Chắc bà cũng không muốn nó bị ám khói và có màu mù tạt - Ginger nài nỉ - Người ta có thể thấy rõ ở đây có một cái gì hay hơn. Tôi không hiểu là ngựa có người cưỡi hay không… Tôi lại gần cô để ngắm bức tranh. Đây là một cấu trúc vụng về và riêng thời gian và bụi bẩn làm cho bức tranh chỉ còn một giá trị tương đối. - Ê! Sybil - Thyrza kêu lên - Những vị khách đang dèm pha con ngựa của chúng ta. Một sự xấc xược. Bà Sybil Stamfordis ra gặp chúng tôi. Đó là một người to lớn, dáng mềm mại, tóc nâu. Bà ta có cái miệng như miệng cá đang ra điệu bộ làm duyên. Bà ta mặc một chiếc váy kiểu Ấn Độ màu xanh lá cây không ăn nhập gì với nhân cách của bà. Giọng nói của bà ta yếu ớt và hơi run rẩy. - Con ngựa yêu quí của chúng tôi! - Bà ta nói - Chúng tôi say mê cái biển ấy ngay từ lúc mới trông thấy nó. Chính vì nó mà chúng tôi quyết định mua ngôi nhà này, có phải không. Thyrza? Nhưng xin mời các bạn vào, mời vào! Bà ta dẫn chúng tôi vào một căn phòng nhỏ, vuông, ngày xưa chắc nó là nơi khiêu vũ của quán hàng. Phòng căng vải hoa, trang bị đồ gỗ, bây giờ nó là một phòng kiểu nông thôn có tính cách nữ giới. Bà già mà chúng tôi đã gặp ở ngoài hiên bước vào mang theo một bình pha trà bằng bạc. Bà ta mặc một cái áo khoác xanh xám không có hoa trang trí. Mặt bà ta như được nặn một cách bất kỳ và không có một sự biểu lộ tình cảm nào, tôi ngạc nhiên là mình đã thấy nó quá ghê gớm. Tôi muốn biết ở đây có cái gì đáng nghi ngờ, một quán rượu cũ với ba bà già. - Cảm ơn Bella - Thyrza nói. - Bà đã có mọi thứ cần thiết chưa? - Đủ rồi, cảm ơn. Bella đi ra cửa. Bà ta không nhìn ai nhưng đúng lúc ra khỏi phòng bà ta liếc mắt nhìn tôi và tôi rất ngạc nhiên về sự tinh quái trong cái nhìn đó. Gần như không phải mất công, không phải tò mò, bà ta đã đọc được mọi ý nghĩ của tôi. - Bella bối rối phải không, ông Easterbrook? - Thyrza Grey nói - Tôi đã thấy bà ta nhìn ông. - Đó là người đàn bà ở xứ này phải không? - Tôi hỏi, cố che giấu ý định của mình. - Vâng. Hầu hết mọi người nói với ông rằng bà ấy là một mụ phù thuỷ phải không? Sybil Stamfordis làm rung động những lá bùa của bà. - Thế nào? Thú nhận đi, thưa ông... - Easterbrook. - Ông Easterbrook. Tôi chắc chắn là ông đã nghe nói rằng chúng tôi làm phép phù thuỷ. Thú nhận đi. Chúng tôi ít nhiều có danh tiếng, ông có thể… xác minh, tôi tin chắc là như vậy - Thyrza nhấn mạnh - Sybil rất giỏi. Bà này thở dài một cách hài lòng. - Khoa học huyền bí rất hấp dẫn đối với tôi - bà ta thì thào - Từ thuở nhỏ tôi đã nhận ra rằng tôi có những khả năng khác thường. Việc cho chữ một cách tự động đến với tôi một cách rất tự nhiên. Chỉ cần đưa cho tôi một mẩu bút chì… những cái còn lại, chiếc bút tự động làm. Chắc chắn là tôi rất mẫn cảm. Tôi đã thiếp đi một ngày để uống trà với một người bạn. Căn phòng mà chứng ta đang ngồi là khung cảnh của một biến cố kinh hoàng. Sau này tôi biết là tại đây có một vụ giết người, hai mươi lăm năm trước đây. Bà ta ngẩng đầu, nhìn xung quanh, dáng hài lòng. - Thật là đáng chú ý - Đại tá Despard nói bằng giọng chán ghét không che giấu. - Ngôi nhà này đã chứng kiến nhiều chuyện bi thảm - Sybil tuyên bố với giọng rùng rợn - Chúng tôi đã sửa lại những cái cần thiết. Chúng tôi đã giải phóng những linh hồn bị buộc chặt vào đất. - Một sự tẩy uế về mặt tinh thần - Tôi gợi ý. Sybil nhìn tôi với vẻ nghi ngờ. - Màu sắc của chiếc váy của bà rực rỡ quá - Rhoda nói xen vào. Nét mặt của Sybil sáng lên. - Tôi mang nó từ Ấn Độ về. Một xứ sở thú vị biết bao. Tôi đã học yoga ở đó. Nhưng theo tôi, cái đó thiếu tự nhiên và rất cũ kỹ. Không như ở Haiti. Ở đây ông có thể thấy khoa học huyền bí. Xin chú ý... Bà ta đứng lên, nhặt một vật ở gờ cửa sổ. - Đây là Asson của tôi. Đây là một quả bầu khô có đính những viên ngọc, ông trông thấy không, đây là những đốt xương của rắn. Chúng tôi nhìn vật đó với cái nhìn lễ độ nhưng không có một chút thích thú nào. Sybil hài lòng lắc lắc cái đồ chơi đáng sợ của mình. - … Tôi không thể nói với các bạn nhiều hơn. Tôi không nghe bà này nói nữa. Tôi quay lại thì bắt gặp cặp mắt của Thyrza đang chăm chú nhìn tôi. - Ông không tin một điều nào về những cái đó - Bà ta thì thào - Ông đã thú nhận. Về nguyên tắc, người ta không thể vứt bỏ tất cả những cái gì liên quan đến mê tín, dị đoan, đến sự sợ hãi hay đến tín ngưỡng thái quá. Còn tồn tại những sự thật, những quyền lực thuộc về bản chất. Nó đang còn. Nó sẽ còn. - Tôi không tranh luận về cái đó - Tôi nói. - Ông là một người khôn ngoan. Mời ông tới thăm thư viện của chúng tôi. Bà ta dẫn tôi ra vườn. - Chúng tôi đã đặt nó vào một trong những chuồng ngựa cũ - Bà ta giải thích. Chuồng ngựa và nhà phụ đã được xây dựng chung thành một gian nhà rộng, trên tường có giá để sách. Một cái liếc mắt có thể biết ngay giá trị của nó. - Nhưng bà đã có những tác phẩm hiếm. Đây có phải là bản gốc cuốn "Malleus Malificorum" không? Tôi thành thật mà nói là bà có một kho báu... và những cuốn sách về phép phù thuỷ này, đó là một sự hiếm hoi. Thyrza đón nhận sự nhiệt thành của tôi với vẻ thanh thản. - Thật là thú vị khi gặp một người hiểu biết - Bà ta nói - Hầu hết mọi người khác chỉ ngáp vặt, lo ngại hoặc sững sờ. - Với tất cả những cái đó bà không thể không hiểu những công việc để thực hiện thuật phù thuỷ. Thoạt tiên bà đã quan tâm tới nó như thế nào? - Rất là khó nói... Cái đó đã lâu lắm rồi… Một biến cố lạ lùng và người ta đã đi tới. Nó cũng quyến rũ như nghiên cứu về sự ngây thơ của con người và những công việc bậy bạ mà họ đã làm... Tôi cười. - Cái đó rất thú vị... ít ra là bà không tin vào những điều bà đã đọc. - Đừng so sánh tôi với Sybil khốn khổ, ông không nên nhầm lẫn. Bà ấy dốt nát về nhiều mặt. Nhưng bà ấy biết kết hợp khéo léo đạo Vaudou, quỷ thần học với ảo thuật đen… bà ấy có "quyền lực". - Quyền lực? - Tôi không biết gọi cách khác... Có những người có thể dùng họ làm cầu nối giữa thế giới của chúng ta với những sức mạnh thần bí ở thế giới bên kia. Sybil là cái cầu đó. Đó là một bà đồng rất giỏi. Khi Bella và tôi... - Bella? - Vâng. Mỗi người chúng tôi có một chuyên nghiệp riêng. Khi làm việc theo nhóm... Bà ta ngừng nói. - Phù thuỷ và Công ty - Tôi cười gợi ý. - Nếu ông muốn gọi như thế. - Bà tin tất cả những cái đó? - Tôi không tin, nhưng tôi biết - Giọng bà ta rung lên. - Như thế nào? Vì lý do gì? Bằng dáng điệu của cánh tay, bà ta chỉ cho tôi những giá sách. - Tất cả những cái đó, phần lớn là nhảm nhí! Nói dài dòng một cách nực cười. Bóc cái vỏ mê tín, dị đoan, tín ngưỡng đi ông sẽ thấy cái hạt. Những cái còn lại chỉ là sự xếp đặt để gây cảm giác cho mọi người. - Tôi không hiểu ý bà. - Ông thân mến, tại sao trong những đêm dài của thời gian, người ta đã tìm ra việc gọi hồn, thuật phù thuỷ trò bùa yêu phải không? Chỉ cần hai thứ là đủ có thể xuống địa ngục: bùa yêu hay thuốc độc. - A! - Thật là đơn giản phải không? Tình yêu và cái chết. Để có được người mà ông yêu mến... để giữ được người thân thiết của ông: bằng một lọ thuốc nước dùng trong tuần trăng mật, bằng cách gọi hồn quỉ dữ hay thần linh. Thực ra bùa yêu chỉ là một thứ thuốc kích dục mà thôi. - Còn cái chết? Bà ta cười một cách lạ lùng khiến tôi khó chịu. - Thế cái chết có làm ông quan tâm không? - Có phải chỉ có mình tôi đâu. - Tôi cũng tự hỏi mình về cái đó - Bà ta nói với một giọng sắc lạnh - Cái chết! Người ta quan tâm tới cái chết nhiều hơn cả tình yêu nữa. Những người dân ở Gorgia với những thuốc độc kỳ diệu của họ. Ông có biết là họ dùng gì không? Đơn giản, đó chỉ là chất thạch tín! Không hơn, không kém, nó là chất mà người ta đã dùng đối với những người đàn bà hay ghen tuông ở một khu dân cư. Nhưng trong cái trật tự tư tưởng, chúng ta đã có những tiến bộ. Khoa học đã mở rộng phạm vi hoạt động của chúng tôi. - Với những con cá không để lại dấu vết? - Tôi hỏi bằng giọng hoài nghi. - Thật là trò chơi trẻ con, cũ kỹ. Có bốn thứ. - Ví dụ? - Thần linh. Biết được thần linh làm gì và có thể làm được gì, người ta có thể giao công việc cho thần linh. Cái nguyên tắc thì mọi người đều biết. Đã qua nhiều thế kỷ, những vị phù thuỷ đầu tiên đã làm rồi. Rất vô ích nếu đi giết nạn nhân. Chỉ cần nói với hắn là chết đi. - Gợi ý à? Nhưng cái đó chỉ thành công khi nạn nhân tin. - Ông muốn nói cái đó sẽ thất bại với những người châu Âu à? Thỉnh thoảng thôi. Nhưng đây không phải là vấn đề. Chúng tôi đã vượt xa những người phù thuỷ. Các nhà tâm lý học đã vạch đường cho chúng tôi. Sự mong muốn cái chết. Cái đó có trong mỗi người chúng ta. Chỉ cần khai thác nó. - Tư tưởng rất hay. Bà đã thành công trong việc gây được cái việc tự tử, có phải không? - Ông nói chưa đúng. Ông đã nghe nói đến sự chấn thương tâm thần chưa? - Chắc chắn là đã. - Có những người chán ghét làm việc và họ rơi vào bệnh tật thực sự. Cái đó còn là một điều khó hiểu đối với các thầy thuốc. - Tôi bắt đầu hiểu ý bà - Tôi chậm chạp nói. - Muốn huỷ diệt một đối tượng, người ta phải có một sự hoạt động trong tiềm thức. Phải kích thích, phải làm cho cái ước ao được chết mạnh lên trong đối tượng. Người ấy sẽ lâm vào một bệnh sinh ra từ sự mong muốn tiềm ẩn kết thức cuộc đời. Và cái chết sẽ đến. Bà ta ngẩng đầu lên, vẻ chiến thắng. Đột nhiên tôi lạnh toát cả người. Người đàn bà này hơi điên dại… Nhưng bây giờ… Bất chợt bà ta cười. - Ông không tin tôi ư? - Đó là một lý thuyết rất thú vị. Tôi chấp nhận. Nhưng bằng cách nào mà bà kích thích được cái ý định muốn chết mà mỗi người trong chúng ta đều có? Đó là cái bí mật của tôi. Có những sự trao đổi mà không cần sự tiếp xúc trực tiếp. Hãy xem kỹ thuật vô tuyến điện, rađa, truyền hình. Những kinh nghiệm và những thu nhập phi giác quan không thành công như người ta mong muốn vì người ta không nắm được cái nguyên lý cơ bản. Khi người ta biết làm thế nào để nắm được thì người ta không bao giờ thất bại. - Bà có biết cái đó không? Bà ta không trả lời ngay. - Xin đừng hỏi, ông thân mến. Nói để ông biết được tất cả những điều bí mật của tôi ư? - Cuối cùng bà ta nói khi lên nhà. Tôi đi theo bà. - Tại sao bà lại nói với tôi về những cái đó? - Tôi hỏi. - Ông đã biết những cuốn sách của tôi... Đôi khi người ta nhận thấy đó là cần thiết... cuối cùng là sự tin cậy. Và mặt khác... - Sao? - Tôi nghĩ rằng… Bella cũng nhận ra như vậy... rằng ông có thể cần đến chúng tôi. - Cần đến các bà? - Theo Bella, ông đã tới đây... để tìm chúng tôi. Bà ấy ít khi nhầm lẫn. - Tại sao tôi lại muốn tìm đến các bà? - Cái đó - Thyna Grey êm ái trả lời - Cái đó tôi còn chưa biết. Chương Bảy - A! Các vị ở đây? Chúng tôi đã tự hỏi là có chuyện gì xảy ra với các vị. Rhoda đứng giữa cửa, những người khác đứng phía sau. Chị nhìn xung quanh. - Các vị tổ chức buổi lễ ở đây phải không? - Bà ta biết rất rõ - Thyrza nói với nụ cười ít đậm đà - Trong làng, người hàng xóm biết rõ những công việc của cá nhân bà hơn là bà. Tôi cho rằng chúng tôi có một tiếng tăm khá rực rỡ nhưng cũng khá độc địa. Bà ta quay về phía Oliver: - Trong tác phẩm sau của bà, bà nên đưa vào một vụ giết người bằng ảo thuật đen. Tôi sẽ cung cấp cho bà những nguồn tài liệu cần thiết. Oliver tỏ ra bối rối: - Tôi chỉ viết về những tội ác đơn giản - Cô nói bằng một giọng có lỗi như là cô đã nói - Tôi chỉ biết làm công việc bếp núc của người thị dân thôi. Despard liếc nhìn chiếc đồng hồ quả quýt. - Rhoda, tôi thấy hình như… - Ồ, vâng. Chúng tôi phải về. Đã quá muộn rồi. Chúng tôi trao đổi cho nhau những lời cảm ơn, những lời tạm biệt và người ta theo chúng tôi ra tận ngoài vườn. - Bà có một chuồng gà rất lớn - Trên đường đi Despard lưu ý. - Tôi ghét gà mái - Ginger nói - Tiếng kêu của chúng làm thần kinh tôi khó chịu. - Chúng tôi chỉ có gà trống - Bella nói khi đi đến chỗ chúng tôi. - Nuôi để ăn thịt? - Despard hỏi. - Chúng có ích cho chúng tôi - Bella trả lời. - Đây là vương quốc của Bella - Thyrza nói bằng giọng nhẹ nhàng. * * * - Tôi không thích người đàn bà ấy. Ồ, nhưng không phải là hoàn toàn - Oliver nói khi chúng tôi đã ngồi vào trong xe. - Không nên quan tâm quá nhiều đến Thyrza - Despard nói một cách độ lượng - Bà ta chơi trò tung ra một mớ lộn xộn và xem tác dụng của chúng như thế nào. - Tôi không nói về bà ấy. Bà ấy không còn biết ngượng ngùng và ẩn nấp để đợi thời cơ tốt. Nhưng bà ấy không nguy hiểm bằng bà kia. - Bella à? Bà ta có phần độc địa - Tôi nhận xét. - Cũng không phải là bà ấy. Tôi nghĩ đến cái bà Sybil. Bà ấy tỏ ra bi thảm. Sự hoá trang của bà ta, những câu chuyện lố bịch mà bà ta đã kể… Tại sao, mở ngoặc, không phải là một cô gái nấu bếp hay là một bà nông dâng già mà lại là một nàng công chúa Ai Cập hoặc một nô tỳ đẹp của xứ Babilon đã thác sinh? Những người đàn bà ấy, mặc dù bà ta ngu ngốc nhưng tôi thấy có một khả năng gây ra những việc tai hại. Tôi diễn đạt kém... Tôi muốn nói rằng người ta có thể sử dụng bà vào những việc ấy một cách nào đó chính vì bà ta ngu ngốc. Tôi rất sợ không ai hiểu lời tôi nói. - Tôi cũng thấy như vậy - Ginger nói - Và cái đó không làm tôi ngạc nhiên vì chị có lý. - Chúng ta cần phải dự một trong những buổi lễ của họ - Rhoda nói - Cái đó phải rất là lạ lùng. - Bà không được làm việc đó - Despard phản đối một cách kiên quyết - Tôi không muốn bà dính dáng đến những việc đó. Họ giả vờ cãi nhau, còn tôi thì không chú ý đến những người cùng đi mà chỉ đợi Oliver nói về chuyến xe lửa ngày mai. - Nhưng tôi sẽ đưa cô về bằng xe hơi của tôi - Tôi đề nghị. Lời đề nghị không làm cho cô ấy thích thú. - Tôi thích đi xe lửa... - Ồ! Đây không phải là lần đầu tiên cô đi xe hơi với tôi. Tôi là một tài xế rất bảo đảm. - Không phải như thế, Mark. Tôi phải đi dự một đám tang vào sáng sớm ngày mai. Tôi rất ghét những đám tang. - Cô bắt buộc phải đi à? - Phải. Mary Delafontaine là một bạn gái cũ. Chị ấy chắc sẽ rất thích khi biết tôi có mặt trong buổi tang lễ. - Tất nhiên! Delafontaine, rất đúng. Mọi người ngạc nhiên nhìn tôi. - Xin lỗi, đó là vì tôi tự hỏi là tôi đã nghe thấy cái tên đó ở đâu. Chính là cô đã nói với tôi, phải không? Cô đã đến thăm khi cô ta nằm ở bệnh viện. - Như vậy à? Vâng, chắc chắn là như vậy - Oliver trả lời. - Tại sao cô ta chết? - Bị viêm dây thần kinh... Một cái gì đó giống như thế. Ginger nhìn tôi chăm chú. Khi chúng tôi xuống xe, tôi xin lỗi mọi người, tôi cần vận động một chút sau khi đã ăn tối và uống trà. * * * Tôi lánh xa mọi người trước khi họ mời tôi đi theo họ. Tôi cần phải ở một mình để sắp xếp lại các ý nghĩ của tôi cho có trật tự. Trong bản kê của Corrigan có tên của Tuckerton, Hensketh Dubois và Delafontaine... Người bạn bị ốm của Oliver bây giờ đã qua đời. Poppy từ chối một cách cương quyết nói mọi sự hiểu biết của mình về CON NGỰA NHỢT NHẠT, hơn nữa cô ta lại tỏ ra rất sợ hãi. Hôm nay, lại có thêm Thyrza Grey... Nhưng CON NGỰA NHỢT NHẠT và những người ở đây thì chắc là không liên quan gì với bản danh sách. Tại sao trong một lúc nào đó tôi lại có thể nghĩ rằng có một sợi dây liên hệ giữa cái nọ với cái kia? Cô Delafontaine chắc chắn là sinh sống ở Luân Đôn. Nhà của Thomasina thì ở Surrey, không có một sự liên quan nào tới cái làng nhỏ bé này. Ít nhất là... Tôi đi đến trước một quán rượu có tên là "Huy hiệu Hoàng gia ". Đây là một quán rượu thực sự. Tôi đẩy cửa. Phòng nhảy ở phía bên trái hãy còn đóng cửa. Một cái biển treo ở chân cầu thang mang dòng chữ "Văn phòng”. Tới đây người ta chỉ thấy cửa kính đóng kín mít. Ở bên cánh cửa có một mảnh giấy ghi "mời bấm chuông". Tất cả đều hoang vắng. Trên một cái giá tôi thấy một cuốn sổ cũ. Tôi mở sổ và lật từng tờ. Người ta ít dùng đến nó và những người nghỉ lại thì thường không quá một đêm. Có phải là ngẫu nhiên và một tên Stamford và một tên Parkinson đã nghỉ ở quán này năm ngoái không? Hai cái tên này có trong bản danh sách của Corrigan. Chúng ít phổ biến... Nhưng tôi đã chú ý tới một cái tên khác, đó là Martin Digby. Nếu đúng là người tôi quen, thì đây là cháu họ của người đàn bà bà tôi thường gọi là bác Mint... tức là phu nhân Hensketh-Dubois. Tôi đi mà chẳng biết đi đâu. Tôi rất muốn nói với một người nào đó. Với Jim Corrigan hay với David Ardingly, hay là với Hermia rất kín đáo và đầy thiện chí. Tôi chỉ có một mình với những tư tưởng thiên chúa giáo và nỗi cô đơn đang đè nặng lên tôi. Tôi đi lang thang khoảng nửa tiếng đồng hồ trên những con đường ướt át thì tới trước cửa nhà cha xứ. Tôi bước lên con đường ít được sửa sang và giật chiếc chuông đã han rỉ treo ở trước cổng. * * * - Chuông không kêu đâu - Bà Dane Calthrop hiện ra trước cửa như là do ảo thuật, nói - Người ta đã sửa nó hai lần nhưng vẫn hỏng. Anh có chuyện gì quan trọng muốn nói với tôi phải không? - Đó là… Vâng… trong một ý nghĩa... với tôi trong mọi trường hợp. - Đó là cái tôi nghĩ - Bà ấy ném cho tôi một cái nhìn mơ màng - Vâng, cái đó rất xấu. Anh muốn gặp ai, ông phó linh mực chứ? - Tôi… tôi không biết. Đúng là tôi đã định bụng thổ lộ với ông và bây giờ thì tôi không biết là phải làm thế nào nữa. Bà Dane Calthrop đã tới giúp tôi. - Chồng tôi là một người rất tốt - Bà nói - Và cái đó đôi lúc chỉ giải quyết được những công việc ít khó khăn thôi. Anh xem, những người tốt thì không hiểu được cái xấu. Tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nói chuyện đó với tôi. Tôi không thể kìm được tiếng cười. - Có phải là bà chuyên giải quyết những cái xấu? - Đúng thế đó. Chồng tôi có thể rửa tội, tôi thì không thể. Nhưng ông ấy không thể đưa nó ra, sắp xếp nó lại cho mình. Khi người ta biết cái xấu, người ta có thể làm một cái gì đó để ngăn chặn nó, nắm được đầy đủ về nó, để làm sao cho những người khác không đau khổ. Còn đối với kẻ phạm tội, tôi không thể giúp hắn. Đây là công việc của Chúa... - Đây là tôi muốn ngăn chặn, không để một số người đau khổ. Bà ta nhìn tôi rất nhanh. - À! Như vậy đó. Anh đi theo tôi. Phòng khách của nhà Cha xứ rộng, tối và trang bị nghèo nàn nhưng tất cả tạo cho người ta một cảm giác nghỉ ngơi, suy nghĩ. Có bao nhiêu cô gái lầm lỡ đã được bà Dane Calthrop đón tiếp, an ủi và khuyên giải theo cách của bà. Có bao nhiêu người vợ than phiền về tính độc ác của bà mẹ chồng, bao nhiêu người đàn bà không thấu hiểu người chồng cũng như con cái? Và cả tôi nữa, chẳng phải là tôi sắp sửa nói ra sự lo sợ của tôi trước người đàn bà có bộ mặt mệt mỏi đó sao? Tại sao? Tôi không biết. Nhưng tôi tin chắc là tôi đã tìm được cái người mà tôi cần. - Chúng tôi đã uống trà với Thyrza Grey - Tôi mở đầu. Không khó khăn gì lắm để giải thích cho bà Dane Calthrop. - Tôi hiểu. Cái đó là quá sức anh... Tất cả những sự tự kiêu vụn vặt. Cái đó làm tôi ngạc nhiên cả tôi nữa. Tôi biết cái đó qua kinh nghiệm, người xấu thì không khoe khoang. Họ chỉ nói về những cái sai khi chúng ít quan trọng. Một người tội lỗi là một người nhỏ nhen, không khiêm tốn. Việc nói chuyện của hắn sẽ kèm theo sự quan trọng. Những mụ phù thuỷ trong làng nói chung là những người ngu dốt, thích gieo rắc sợ hãi cho mọi người. Bella chỉ có thể là như thế. Sybil là một trong những người đàn bà rất ngu dại, nhưng đó là một bà đồng thực sự, nếu có thể là một bà đồng. Thyrza thì tôi không rõ. Bà này đã nói với anh như thế nào? Vì bà ta mà anh bị xáo trộn phải không? - Bà này có rất nhiều kinh nghiệm, thưa bà. Bà có thể chấp nhận cái ý kiến cho rằng một người có thể bị một người khác giết hại khi ở rất xa, không có quan hệ nào trông thấy được không? Bà Dane Calthrop mở to đôi mắt: - Bằng giết hại, anh đơn giản nghe thấy nói là giết và chỉ có thế thôi chứ? - Vâng. - Thật là ngu dốt - Bà nói một cách mạnh mẽ - Nhưng đúng như vậy. Tôi có thể nhầm lẫn. Cha tôi thì cho rằng vận chuyển hàng không là không thể được và chắc chắn ông nội tôi cũng cho là như vậy đối với đường sắt. Cả hai đều có lý. Ở thời kỳ đó những việc này là không thể, nhưng chúng trở thành có thể trong ngày nay. Thyrza làm gì? Mụ ta dùng một tia chết? Hoặc là những người của mụ và mụ tập trung trên một ý nghĩ sau khi đã viết những dấu hiệu bí hiểm? Tôi cười. - Bà có ý nghĩ chính xác - Tôi nói - Có lẽ tôi đã bị mụ ta thôi miên. - Điều đó không mang lại cái gì cả. Đó không phải là loại người như anh. Nhưng cái gì xảy ra trước đó? Đã xảy ra một việc gì? - Bà có lý. Tôi kể cho bà nghe một cách rất vắn tắt trong chừng mực có thể cái chết của Cha Gorman, câu chuyện ở quán cà phê, sự ảo tưởng về CON NGỰA NHỢT NHẠT. Sau đó tôi lấy trong túi ra mảnh giấy tôi đã chép lại bản danh sách của Corrigan. Bà Dane Calthrop nghiên cứu, lông mày chau lại. - Và những người này, họ có cái gì giống nhau? - Chúng tôi không rõ... tống tiền... đầu độc...? - Thật là khôi hài. Nhưng không phải cái đó làm anh lo lắng mà vì rằng họ đều đã chết cả. Tôi thở dài đánh thượt. - Vâng tôi tin là như thế. Ba người trong số họ đã chết. Hesketh-Dubois, Thomasina Tuckerton, Mary Delafontaine. Tất cả họ đều chết trên giường một cách rất tự nhiên. Và Thylza Grey đã bảo tôi là cái đó phải xảy ra! - Mụ ta đã nói với anh là mụ ta có trách nhiệm về cái đó? - Không, mụ ta nói chung chung. Mụ ta giải thích cho tôi rằng mụ ta coi cái đó là một khả năng khoa học. - Thoạt nhìn thì hình như cái đó là lố bịch. - Tôi hiểu. Tôi chỉ buồn cười nếu ở đây không có cái tên lạ lùng là CON NGỰA NHỢT NHẠT. - Phải - Bà Dane Calthrop thì thầm, suy nghĩ - Đó là một dấu hiệu. Bà ấy yên lặng một lúc lâu. Sau đó bà ấy ngẩng đầu và ra một cử chỉ mạnh mẽ. - Cái đó rất xấu - Bà nói - Dù cho có cái gì đằng sau cũng phải ngăn chặn nó lại. - Đúng, nhưng làm thế nào? - Anh hãy tìm lấy cách làm. Nhưng không được để mất thời gian - Bà ấy đứng lên - Phải làm một vài việc gì đó ngay lập tức. Anh có người bạn thân nào có thể giúp anh không? Tôi nghĩ đến Jim Corrigan. Cậu ta có nhiều công việc và có ít thời gian để vui chơi, vả chăng cậu ta đã làm mọi cái có thể rồi, David Ardingly… cậu ta sẽ không tin mình dù chỉ một lời. Hermia? Đúng, cô ta. Một bộ óc sáng suốt, một sự suy đoán lôgíc... - Anh đã nghĩ tới ai rồi phải không? Tốt. Bà Dane Calthrop không thích để mất thời gian của mình. - Tôi sẽ chú ý không để mất ba mụ phù thuỷ. Nhưng tôi không có cảm giác rằng họ là những người giữ chìa khoá của sự bí mật. Tôi không thể không nghĩ rằng Thyrza Grey đã nghe nói """