"Tình Khờ - Tanizaki Junichiro full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Khờ - Tanizaki Junichiro full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Tranh Dressing Her Hair của Asai Kiyoshi Một Những sự kiện trong mối quan hệ của hai vợ chồng tôi xảy ra thế nào, tôi sẽ cố thuật lại y nguyên, chân thực và thẳng thắn nhất có thể. Quan hệ này hẳn chưa từng có tiền lệ. Câu chuyện của tôi sẽ cho tôi ghi chép quý giá về một điều mà tôi mãi mãi không muốn quên đi. Đồng thời, xin quả quyết rằng quý độc giả có thể sẽ rút ra được bài học từ chuyện này nữa. Khi Nhật Bản ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng, người Nhật và dân ngoại quốc ngày càng háo hức giao thiệp với nhau, thôi thì đủ loại học thuyết, triết lý được mở mang ra; đàn ông đàn bà đều học theo mốt thời trang Tây Dương mới nhất. Chắc chắn trong thời thế như vậy, kiểu hôn nhân của chúng tôi nay tuy còn xa lạ nhưng rồi sẽ phổ biến khắp mọi nơi. Ngẫm lại tôi thấy chúng tôi ngay từ đầu đã là một cặp quái dị. Khoảng bảy năm trước tôi gặp người phụ nữ bây giờ là vợ tôi, ngày tháng chính xác tôi không nhớ. Lúc ấy, cô nàng là một tiếp viên ở cái quán tên là Café Diamond gần cổng Kaminari, chùa Quan Âm ở Asakusa. Lúc tôi gặp, cô mới mười lăm tuổi đầu và vừa đi làm. Cô nàng mới ra đời – mới học việc, mới tiếp khách gì đó, vẫn chưa phải nhân viên chính thức. Thật chẳng hiểu sao cái thằng tôi, một người đàn ông hăm tám lại để mắt đến một đứa trẻ như thế, nhưng từ đầu tôi bị cái tên cô bé quyến rũ. Mọi người gọi cô là "Nao-chan”1[1]. Một hôm tôi hỏi thì mới biết tên thật của cô là Naomi, viết bằng ba chữ Hán “奈緒美” (Nại Tự Mỹ). Cái tên ấy kích thích sự tò mò nơi tôi. Tôi thấy tên gì mà kêu quá, viết bằng chữ Latin sẽ thành ra tên Tây. Tôi bắt đầu chú ý đặc biệt đến cô bé. Mà cũng lạ, biết được cái tên cầu kỳ của cô thì tôi nom cô cũng kháu khỉnh, Tây ra phết. Tôi bắt đầu cho rằng để cô bé làm tiếp viên ở một nơi như thế thật là phí phạm. Naomi quả thực trông hao hao minh tinh màn bạc Mary Pickford: dung mạo cô bé đúng là có nét Tây. Không phải tôi nhìn nhận thiên lệch, nhiều người cũng bảo thế, ngay cả lúc này khi cô nàng đã trở thành vợ tôi. Chắc là đúng thật rồi. Với lại đâu chỉ khuôn mặt mà cả thân hình Naomi lúc khỏa thân cũng rất Tây nữa. Tất nhiên chuyện ấy về sau tôi mới biết. Còn khi đó, tôi chỉ có thể tưởng tượng vẻ đẹp của chân tay cô nàng nhờ phong cách mặc kimono thời thượng của cô. Tôi không mạnh miệng được về định hướng tương lai của Naomi khi cô còn là cô bé phục vụ quán cà phê; may ra chỉ có cha mẹ hay chị em gái mới hiểu được tâm trạng của một thiếu nữ mười lăm, mười sáu. Nếu được hỏi ngày hôm nay, chắc tự Naomi sẽ bảo nàng đơn giản là bàng quan với mọi thứ mà thôi. Song đối với người ngoài, cô bé Naomi có vẻ là một thiếu ồ ề nữ ít nói, buồn bã. Vẻ mặt cô bé trông tiều tụy. Mặt cô tai tái, lì lì như một tấm kính trong dày cộp – vừa mới vào làm ở đó nên Naomi còn chưa trang điểm cái mặt trắng bệch như các cô tiếp viên khác, cũng chưa quen với khách khứa hay đồng nghiệp. Cô có khuynh hướng giấu mình một góc trong lúc lặng lẽ và lo lắng làm phần việc của mình. Đây cũng có thể là lý do tại sao cô bé trông thông minh sáng dạ. Bây giờ tôi phải giải thích về hoàn cảnh của mình đã. Vào thời điểm đó, tôi là kỹ sư ở một công ty điện lực nọ, lương tháng một trăm năm chục yên. Tôi sinh ra ở Utsunomiya, tỉnh Tochigi. Học xong trung học, tôi lên Tokyo nơi tôi ghi danh vào một trường dạy nghề kỹ thuật ở Kurame. Tốt nghiệp ít lâu tôi trở thành một kỹ sư và ngày nào cũng thế trừ thứ Bảy, tôi rời căn phòng trọ ở Shibaguchi đi tàu đến sở làm ở Oimachi. Thuê nhà trọ ở một mình với thu nhập một trăm năm mươi yên một tháng, tôi sống tương đối phủ phê. Là trưởng nam nhưng tôi không có nghĩa vụ phải gửi tiền về cho cha mẹ, anh chị em. Gia đình tôi có cả một nông trang sản xuất quy mô lớn; ông cụ tôi mất thì bà cụ với một bà cô và ông bác tận tụy đã tiếp quản mọi thứ dùm tôi rồi. Tôi hoàn toàn tự do. Nhưng điều này không có nghĩa là tôi sống đua đòi. Tôi là một chàng tư chức gương mẫu: tằn tiện, chân thành, thật thà như đếm, thậm chí còn nhạt nhẽo nữa, ngày nào cũng làm việc mà không mảy may than phiền hay bất mãn. Ở sở làm, anh chàng Kawai Joji được biết đến như là một bậc "quân tử". Để giải trí, tôi thường đi xem phim buổi tối, dạo chơi ở khu Ginza, rồi thỉnh thoảng lắm mới tự thưởng cho mình một suất ở nhà hát Đế Quốc. Cùng lắm có thế thôi. Dĩ nhiên, là thanh niên độc thân, tôi không phản đối chuyện cặp kè với gái trẻ. Bản chất tôi vẫn là anh nhà quê nên thường mắc cỡ trước người ngoài và không có người bạn khác giới nào, chả trách được tiếng là "quân tử". Nhưng chỉ là "quân tử" bề ngoài thôi. Sáng nào đi xe điện và mỗi khi lên phố tôi đều tranh thủ mọi cơ hội để quan sát đàn bà kỹ càng. Một lần, Naomi xuất hiện trước mắt tôi. Tôi chưa hề kết luận rằng Naomi là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân. Thực ra có khối đàn bà đẹp hơn nàng trong số các thiếu nữ tôi đã lướt qua trên xe điện, trên hành lang nhà hát Đế Quốc, và ở khu phố Ginza. Nhan sắc Naomi về sau có thăng hoa không chỉ trời mới biết, bấy giờ cô nàng mới mười lăm, còn tôi nhìn tương lai cô nàng vừa kỳ vọng mà cũng vừa quan ngại. Kế hoạch ban đầu của tôi bấy giờ chỉ là chịu trách nhiệm và chăm lo cho cô bé. Một mặt tôi bị thúc đẩy bởi sự thương cảm dành cho cô. Mặt khác tôi muốn đem lại cái gì đó mới mẻ cho sự tồn tại nhàm chán vô vị hàng ngày của mình. Tôi đã ngán ngẩm sau bao nhiêu năm sống ở nhà trọ; tôi muốn đời ấ ấ ẳ mình rực rỡ, ấm áp lên chút xíu. Thật đấy, sao không xây hẳn một căn nhà, bé thôi cùng được nhỉ? Tôi sẽ trang trí phòng ốc, trồng hoa, treo một cái lồng chim ngoài hiên đầy nắng và thuê một cô giúp việc dọn dẹp, nấu nướng. Nếu Naomi đồng ý, cô bé sẽ đảm đương vị trí của cả người giúp việc lẫn con chim... Sơ sơ tôi đã nghĩ như vậy. Ở trường hợp đó, tại sao tôi không tìm cho mình một người vợ con nhà gia giáo, xây dựng một gia đình mẫu mực? Câu trả lời đơn giản là tôi không có gan lấy vợ. Việc này cần phải cắt nghĩa cho tỉ mỉ. Tôi là một người biết thân biết phận, không ưa làm liều, hay không thể làm liều thì đúng hơn, nhưng lại có những quan niệm khá là tân thời, tinh tế về hôn nhân. Người ta hễ nghe đến "cưới hỏi" là làm như nghiêm túc, hệ trọng lắm. Trước hết phải có người mai mối, tìm đường quanh co dò hỏi xem gia đình hai bên nghĩ gì. Sau đó phải sửa soạn một buổi coi mắt, hai nhà chính thức gặp nhau. Nếu hai bên không phản đối thì một ông mai bà mối chính thức sẽ được lựa chọn, đôi bên trao đổi lễ vật, tư trang của cô dâu sẽ được đem sang nhà chú rể. Rồi đến lượt đám cưới, trăng mật, buổi lại mặt mang tính nghi thức của cô dâu – lễ lạt rườm rà đến mệt, tôi chả thích tẹo nào. Tôi nghĩ nếu có lấy vợ thì tôi muốn tổ chức làm sao cho đơn giản, thoải mái hơn. Lúc ấy tôi mà muốn kết hôn thì hẳn có nhiều ứng viên lắm. Tôi đúng là trai quê đấy, nhưng thể chất khỏe mạnh, ăn ở đàng hoàng, tự tôi có thể nói rằng mặt mũi mình chí ít cũng trên trung bình, công ty cũng uy tín. Ai mà chẳng muốn giúp tôi. Ấy vậy chứ tôi không muốn được "giúp" đâu. Kể cả có cô nào đẹp thật đẹp, thì một, hai buổi coi mắt cũng chẳng đủ để các đối tượng tiềm năng hiểu được tính khí, tính cách của nhau. Ý tưởng chọn bạn đời dựa vào ấn tượng chung chung kiểu "Ờ, sống với anh này cũng được" hay "Trông cô nàng chẳng đến nỗi nào" nghe thật ngớ ngẩn. Tôi không thể làm thế. Phương án tốt nhất là đem một cô bé như Naomi chẳng hạn, về ở nhà mình và kiên nhẫn theo sát cô ấy trưởng thành. Sau này nếu tôi thích cái mình thấy thì có thể lấy nàng làm vợ. Như thế là đủ rồi, tôi chẳng ham kết hôn với con gái nhà giàu hay phụ nữ gia giáo, học cao làm gì. Với lại, việc kết bạn với một cô bé, hàng ngày ngắm cô ấy lớn lên trong lúc hai người cùng sống một cuộc đời vui tươi, thoải mái với tôi có sức hấp dẫn đặc biệt, khác xa việc xây dựng một gia đình nghiêm túc. Nói tóm lại, Naomi và tôi sẽ chơi trò vợ chồng như trẻ con thôi. Đó sẽ là một cuộc sống giản dị, thoải mái chứ không phải sự tồn tại mỏi mòn để "duy trì một mái nhà". Đây là ước muốn của tôi. Một "mái nhà" ở nước Nhật hiện đại đòi hỏi mỗi cái tủ, cái lò sưởi, cái gối tựa đều phải nằm đúng chỗ của nó; công việc của chồng, vợ và người ở phải được phân biệt rạch ròi; còn phải làm đẹp lòng gia quyến và những người láng giềng khó tính nữa. Cái ố ấ ẳ ễ ố đống ấy chẳng dễ chịu hay ích lợi gì cho một anh tư chức trẻ, vì đã tốn kém thì chớ lại còn làm rối cả những việc đáng lẽ là đơn giản, về mặt này, tôi thấy kế hoạch của mình xem ra cũng như một luồng sinh khí mới. Tôi nói chuyện với Naomi lần đầu sau khi quen cô bé khoảng hai tháng. Trong thời gian ấy, rảnh được lúc nào là tôi đến quán Café Diamond lúc đó và tận dụng mọi thời cơ có thể để nói chuyện với cô. Naomi thích phim ảnh và thường đi xem phim với tôi vào ngày nghỉ ở một rạp chiếu phim trong công viên. Ăn xong chúng tôi sẽ tạt vào đâu đó nhấm nháp ít đồ Tây hoặc ăn mì. Ngay cả trong những dịp ấy, cô bé cũng chẳng nói chẳng rằng; lúc nào cô cũng làm bộ mặt dỗi hờn làm tôi chẳng biết cô đang vui hay đang chán. Nhưng tôi mà rủ thì cô ấy không bao giờ từ chối. "Được ạ, chắc chắn rồi." Cô bé trả lời ngoan ngoãn, theo tôi đi bất cứ đâu. Chẳng biết cô bé nghĩ tôi là loại người nào, chẳng biết tại sao cô bé lại đi với tôi, nhưng có lẽ cô vẫn còn là một đứa trẻ chưa biết nghi ngại đàn ông, cảm xúc trong cô còn ngây ngô và đơn giản. Tôi đồ rằng Naomi đi với tôi vì tôi đưa cô bé đến những chỗ cô thích và mời cô ăn tối. Phần tôi, tôi là một chàng bảo mẫu, là ông chú hiền lành tử tế; tôi không bao giờ cư xử khác đi hoặc mong đợi cái gì hơn từ cô bé ngoài mối quan hệ như vậy. Khi hồi tưởng lại, những ngày tháng mộng mơ đã qua ấy dường như một truyện cổ tích, tôi chẳng thể kìm được ao ước chúng tôi có thể quay về làm đôi bạn hồn nhiên như xưa. "Em nhìn được không, Naomi?" Khi không còn chỗ ngồi, chúng tôi sẽ đứng ở phía sau rạp phim. "Em chẳng thấy gì hết." Cô bé đáp, nhón chân kiễng lên ráng nhìn qua những cái đầu của đám khán giả phía trước. "Như thế không nhìn thấy đâu. Ngồi lên lan can mà nắm vai anh này." Tôi nhấc bổng cô bé đặt lên thanh sắt lan can. Đôi chân Naomi lơ lửng, một tay cô bé nắm vai tôi, trông cô có vẻ thỏa mãn khi chăm chú xem phim. Khi tôi hỏi: "Em có vui không?" Cô bé chỉ nói "Có ạ." Cô không bao giờ vỗ tay hay nhún nhảy khoái chí nhưng tôi biết cô bé thích những bộ phim ấy thế nào qua khuôn mặt cô mỗi khi xem phim: đôi mắt tinh anh của cô mở tròn như một con cún cảnh giác lắng nghe âm thanh từ xa. "Naomi, em có đói không?" Thỉnh thoảng cô bé bảo. "Không, em không muốn ăn gì cả." Nhưng thường khi đói, cô ấy sẽ nói "có" không do dự mảy may. Rồi khi tôi hỏi, cô bé sẽ bảo muốn đi ăn cơm Tây hoặc ăn mì. Hai "Naomi, em trông như Mary Pickford2[2] ấy." Tôi nói câu này vào buổi tối ở một tiệm ăn Tây chúng tôi ghé qua sau khi xem một phim của minh tinh Mary Pickford. "Vậy hả?" Trông cô nàng chả vui lắm. Cô nhìn tôi vẻ thắc mắc như muốn hỏi sao bỗng dưng tôi lại nói như thế. "Em không nghĩ thế sao?" Tôi kiên trì. "Em không biết mình có giống cô ý không, nhưng ai cũng bảo em giống con lai." Cô nàng thờ ơ bảo. "Có gì đáng ngạc nhiên đâu. Này nhé, em có một cái tên lạ tai. Ai đã đặt cho em cái tên Naomi rõ tinh tế như vậy?" "Em không biết." "Bố em hả, hay là mẹ?" "Em không chắc..." "Thế bố em làm gì kiếm sống?" "Em không có bố." "Còn mẹ em?" "Em có mẹ..." "Còn các anh chị em thì sao?" "À, nhiều lắm ạ, có anh, chị, với một cô em gái..." Những chủ đề này thi thoảng được nhắc tới nhưng hễ tôi hỏi về gia đình là Naomi trông bực bội, trả lời trớt quớt cho qua chuyện. Mỗi khi đi đâu đó cùng nhau, chúng tôi thường sắp xếp để hẹn nhau một giờ nhất định ở trên một chiếc ghế băng trong công viên trước chùa Quan Âm. Cô bé luôn đến đúng giờ, chưa lỡ hẹn lần nào. Thỉnh thoảng vì lý do này hay lý do khác tôi đến trễ, lo ngại cô sẽ bỏ về trước nhưng lúc nào cô cũng ở đó đợi tôi. "Anh xin lỗi, Naomi. Em đợi đã lâu chưa?" ồ ỗ ấ ấ ầ "Dạ, lâu rồi." Cô bé trông không giận dỗi hay ấm ức mấy. Một lần chúng tôi hẹn nhau chỗ một cái ghế băng thì trời chợt đổ mưa. Tôi tự hỏi cô ấy sẽ làm gì. Khi đến nơi, tôi xúc động nhìn cô co ro nép vào dưới mái hiên một ngôi đền nhỏ bên hồ đợi tôi. Vào những dịp như thế, cô bé mặc bộ kimono lụa đã sờn, chắc là đồ cũ bà chị thảy cho, cùng đai lưng bằng lụa muslin. Cô bé vấn tóc kiểu truyền thống hợp với tuổi, khuôn mặt phủ lớp phấn trắng nhẹ. Cô đi đôi tất tabi vá chật khít, nhưng vẫn đẹp. Khi tôi hỏi lý do tại sao cô bé vấn tóc kiểu Nhật vào ngày nghỉ, Naomi chỉ nói "Vì ở nhà bảo thế." Như thường lệ, cô chẳng bao giờ giải thích ngọn ngành. "Muộn rồi. Anh đưa em về." Tôi gợi ý như thế mấy lần nhưng lúc nào cô cũng bảo: "Không sao đâu. Em tự về một mình được. Đường không xa mà." Khi chúng tôi đến đoạn rẽ ở Công viên giải trí Hanayashiki, cô ấy quay đầu chào tạm biệt và chạy về phía Senzoku3[3]. Tí nữa thì quên. Không cần thuật lại quá nhiều những việc ngày ấy, nhưng chúng tôi từng có một cuộc trao đổi khá thân mật, thoải mái. Đó là một buổi tối ấm áp vào cuối tháng Tư mưa rơi lất phất. Quán thưa khách, không gian rất yên tĩnh. Tôi ngồi bên bàn một lúc lâu nhấm nháp đồ uống. Nói thế nghe như thể tôi người sành sỏi rượu chè lắm, nhưng thực ra tôi hầu như không uống gì. Để giết thời giờ, tôi gọi ly cốc-tai ngọt loại phụ nữ uống và chậm rãi thưởng thức từng ngụm một. Khi Naomi bưng đồ ăn lên, tôi hỏi: "Em ngồi đây một phút nhé?" Nhờ men rượu mà tôi bạo lên một tí. "Gì vậy ạ?" Cô bé ngoan ngoãn ngồi xuống bên tôi và đánh một que diêm khi tôi rút cây thuốc lá hiệu Shikishima ra. "Em nói chuyện với anh mấy phút nhé? Hôm nay em có vẻ không bận lắm." "Cũng hiếm khi được thế này anh ạ." "Lúc nào em cũng bận à?" "Từ sáng đến đêm. Em không có thời gian đọc." "Em có thích đọc không, Naomi?" "Dạ có." "Em đọc gì?" "Tạp chí loại nào em cũng thích. Em đọc gì cũng được." "Anh nể em đấy. Nếu em thích đọc như vậy thì nên học ở trường nữ sinh." Tôi nói một cách cố tình và nhìn thẳng mặt cô bé. Chắc cô thấy bị xúc phạm, cô hếch mũi lên nhìn vào khoảng không nhưng vẻ buồn bã, bất lực trong mắt cô thì không lẫn vào đâu được. "Naomi, em có muốn học thật không? Nếu có, anh có thể giúp em." Cô bé vẫn làm thinh, nên tôi nói thêm với giọng vui vẻ hơn, "Nói đi chứ. Em muốn làm gì? Thích học cái gì nào?" "Em muốn học tiếng Anh." "Tiếng Anh... còn gì nữa không?" "Học nhạc ạ." "Vậy thì em nên đi học. Anh sẽ trả học phí cho em." "Nhưng giờ học trường nữ sinh sao được nữa. Em mười lăm tuổi rồi." "Mười lăm với con gái chẳng trễ đâu, con trai thì mới trễ. Nếu chỉ muốn học nhạc và tiếng Anh, em cũng không cần đến trường. Mình có thể thuê gia sư. Em thấy thế nào hả Naomi, có muốn học nghiêm túc không nào?" "Có ạ... Anh làm thế thực sự vì em ư?" "Ừ, thật đấy. Nhưng em không thể làm việc ở đây được nữa. Như thế em thấy được chứ? Nếu em sẵn sàng từ bỏ công việc này thì anh chẳng ngại chăm nom em. Anh sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm nuôi dạy em thành một cô gái tuyệt vời." "Vâng, vậy tốt quá." Naomi đáp, không chút do dự. Câu trả lời mau lẹ, dứt khoát của cô bé làm tôi giật mình. "Ý em là em sẽ bỏ việc hả?" "Dạ." "Naomi cho là được, nhưng mà nhớ hỏi ý kiến mẹ và anh trai đấy." "Em đâu cần hỏi người nhà. Họ chẳng nói gì đâu." Cô bé nói thế nhưng tôi dám chắc cô vờ vĩnh thôi chứ trong lòng thì e ngại. Không muốn cho tôi ế biết dù chỉ qua loa nội tình trong nhà, cô bé làm bộ như không có gì phải lo lắng. Tôi chẳng muốn dò hỏi khi thấy Naomi miễn cưỡng, nhưng để thực hiện được nguyện vọng của cô bé thì tôi phải hỏi thăm gia đình và bàn bạc mọi sự với mẹ và anh trai cô đã. Theo kế hoạch của chúng tôi, tôi hỏi đi hỏi lại cô việc giới thiệu tôi với gia đình nhưng Naomi xem chừng lạnh nhạt đến kỳ cục. Thường cô bé bảo: "Anh không cần gặp họ. Em nói là được rồi." Chẳng có lí gì vạch áo cho người xem lưng về gia đình Naomi để mà chọc giận cô bé; giờ thì Naomi là vợ tôi, nên vì cô ấy và cũng vì thanh danh của "chị Kawai" mà tôi sẽ đề cập đến vấn đề này càng ít càng tốt. Một ngày nào đó cái kim trong bọc sẽ lộ ra; mà nếu không lộ chăng nữa, thì ai cũng có thể đoán được gia đình cô ấy thuộc hạng nào, cứ xem việc nhà Naomi ở Senzoku, rồi cô ấy đi làm tiếp viên quán cà phê ở tuổi mười lăm và không muốn ai biết mình sống ở đâu là đủ. Không chỉ có vậy: khi tôi rốt cuộc áp đảo được Naomi và đi gặp mẹ cũng như anh trai cô, thì chả ai quan ngại gì về trinh tiết của con em mình. Tôi bảo họ rằng để Naomi làm tiếp viên quán cà phê trong khi em nó ham học như vậy thì đáng tiếc lắm, và ướm hỏi họ có tin tưởng gửi gắm Naomi cho tôi không. Tôi cũng chẳng giúp gì được nhiều cho em nó, nhưng lại đang cần một người giúp việc nên nếu cô bé biết nấu nướng quét dọn thì tôi sẽ xem xét việc có thể cho em nó học hành tàm tạm những lúc nhàn rỗi hay không. Dĩ nhiên tôi thẳng thắn với họ về điều kiện của mình và việc mình còn độc thân. Tôi thỉnh cầu thế mà họ trả lời nghe tụt cả hứng: "Thế cũng tốt cho nó." Quả đúng như Naomi bảo. Gặp họ chả để làm gì. Tôi biết trên đời chả thiếu các ông bố, bà mẹ vô trách nhiệm, nhưng trường hợp của Naomi làm tôi cảm động và tội nghiệp hơn cả. Theo những gì mẹ cô nói, tôi suy luận rằng gia đình họ không nuôi được Naomi. "Chúng tôi định gửi nó đến nhà geisha, nhưng nó không thích nên mới đành đem nó đến quán cà phê," bà mẹ nói với tôi. "Không thể để nó lêu lổng mãi được." Quả thật, có người chịu gánh vác Naomi và nuôi cô bé là họ được giải thoát. Sau khi nói chuyện với gia đình, rốt cuộc tôi đã hiểu tại sao ngày nghỉ nào cô bé cũng đều đi xem phim. Naomi ghét ở nhà. Bất chấp điều đó, Naomi có xuất thân từ một gia đình kiểu này thế mà lại hay cho cả tôi và cô bé. Ngay sau khi tôi thống nhất với gia đình cô, Naomi báo tin cho quán cà phê và hôm nào cũng cùng tôi đi tìm một ngôi nhà phù hợp để mướn. Chúng tôi muốn một chỗ càng tiện đường đến văn phòng của tôi ở Oimachi càng tốt. Những ngày Chủ nhật, chúng tôi gặp nhau từ sáng sớm ở trạm Shimbashi – ngày trong tuần ở Oimachi, ngay sau khi tan sở chúng tôi cùng nhau khám phá vùng ngoại ô Kamata, Omori, Shinagawa và Meguro, cả những khu thành thị quanh Takanawa, Tamachi và Mita. Trên đường về tôi và cô bé cùng nhau ăn tối, xem phim hoặc đi dạo quanh khu Ginza nếu còn dư dả thời gian. Sau đó Naomi về nhà ở Senzoku còn tôi quay lại ngôi nhà buổi sáng ở Shibaguchi. Chúng tôi sống như thế khoảng hai tuần. Nhà thuê ngày ấy còn hiếm, đi tìm ngôi nhà ưng ý đến là vất vả. Nếu ai đó để ý chúng tôi – một anh tư chức và một cô bé ăn mặc tuềnh toàng, vấn tóc kiểu truyền thống sóng đôi quanh vùng ngoại ô Omori trong một sáng Chủ nhật tháng Năm trời quang – họ sẽ nghĩ gì nhỉ? Tôi gọi cô là "Naomi", cô gọi tôi là "anh Kawai4[4]". Khó mà nhầm chúng tôi với ông chủ và hầu gái hoặc anh em, vợ chồng hay bạn bè. Chúng tôi hẳn giống một đôi đũa lệch, có phần rụt rè khép nép, cùng nhau tản bộ vui vẻ vào một ngày dài cuối xuân đi tìm nhà, ngắm nghía phố phường và quay đầu nhìn những khóm hoa nở rộ sau hàng rào, trong vườn nhà ai đó hoặc ở vệ đường. Những bông hoa nhắc tôi rằng Naomi yêu các loài hoa Tây phương và cô thuộc tên chúng – những cái tên tiếng Anh trúc trắc, rất nhiều loài lạ lẫm với tôi. Có vẻ là cô đã học được ở tiệm cà phê, ở đó cô phụ trách coi sóc các bình hoa. Đôi khi chúng tôi nhìn thấy một nhà kính sau cánh cổng mình đi ngang qua. vốn nhạy bén, cô sẽ dừng lại hạnh phúc reo lên: "Ôi, hoa đẹp chưa kìa!" "Em thích hoa gì nhất hả Naomi?" "Thích hoa tulip nhất ạ!" Niềm khao khát với những khu vườn rộng lớn, cánh đồng mênh mông và tình yêu dành cho hoa cỏ của Naomi có lẽ là sự phản kháng với những ngõ nhỏ bẩn thỉu ở Senzoku nơi cô bé lớn lên. Mỗi khi nhìn thấy những bông violet, bồ công anh, sen cạn hay dạ lan nào mọc trên bờ kè hay bên vệ đường quê, cô lại vội vã chạy ra ngắt. Vào cuối ngày, Naomi có cả đống hoa xếp thành từng bó. Trên đường về, cô bé cẩn thận ôm lấy chúng. "Hoa héo cả rồi. Sao em không vứt đi?" "À, anh cắm vào nước là hoa sẽ tươi lại ngay. Anh Kawai ơi, anh phải cắm hoa trên bàn làm việc đấy nhé!" Cô ấy lúc nào cũng tặng hoa cho tôi mỗi khi tạm biệt nhau cuối ngày. Chúng tôi đi tìm đỏ cả mắt, một ngôi nhà tốt quả không dễ kiếm. Rốt cuộc tôi thuê một ngôi nhà kiểu Tây gần tuyến tàu Điện lực Quốc gia, cách ga Omori chừng mười hai, mười ba lô nhà. Tôi xem thấy cũng hiện đại, đơn giản, người ta ngày nay gọi nó là "nhà văn minh", mặc dù cụm từ này hồi ấ ố ầ ố ấy còn chưa phải mốt. Hơn phần nửa nhà lợp mái dốc ngói đỏ. Tường bên ngoài sơn màu trắng khiến tòa nhà trông như hộp diêm, những cửa kính hình chữ nhật khảm vào chỗ này chỗ kia. Trước thềm vào nhà là một mảnh sân con. Ngôi nhà này xem chừng vẽ ra trên giấy thì hay chứ ở thì không, cũng lạ gì đâu, bởi nó được xây dựng bởi một chàng họa sĩ kết hôn với người mẫu của mình. Phòng ốc được bố trí theo cách kém tiện nghi nhất. Ở tầng trệt có một cái xưởng vẽ quá khổ, lối vào bé xíu với một căn bếp là hết. Trên lầu chỉ có hai phòng kiểu Nhật, một phòng hơn năm mét vuông rưỡi, phòng kia chín mét vuông. Hai căn phòng này quả thực vô dụng, chẳng hơn gì hai cái kho trên gác mái. Tầng mái có cầu thang đi lên từ xưởng vẽ. cầu thang lên gác trên dẫn đến một đoạn cụt bao quanh bởi hàng rào, giống như chỗ ngồi lô trong rạp hát, từ đây có thể nhìn xuống xưởng. Naomi vừa thấy ngôi nhà lần đầu đã thích thú. "Ôi chao! Tân thời quá! Đúng là loại nhà mà em muốn." Thấy cô nàng hài lòng, tôi lập tức thuê ngay. Không còn nghi ngờ gì nữa, mặc cho phòng ốc bố trí trái khoáy, chính thiết kế quái đản như hình minh họa cho một câu chuyện cổ tích này đã quyến rũ sự tò mò trẻ con của Naomi. Chắc chắn rồi, ngôi nhà này thật vừa vặn cho một cặp uyên ương trẻ dễ tính muốn sống vô tư và trốn tránh những cái bẫy của một gia đình truyền thống. Nhất định đây là lối sống mà chàng họa sĩ và cô người mẫu của anh ta đã ấp ủ khi sống trong ngôi nhà này. Quả thực, chỉ cần xưởng vẽ là đã đủ rộng để thỏa mãn nhu cầu của hai người. Ba Có lẽ khoảng cuối tháng Năm tôi rốt cuộc mới hoàn toàn chịu trách nhiệm nuôi Naomi và chuyển vào "ngôi nhà thần tiên". Ở đó tôi mới nhận ra ngôi nhà không đến nỗi bất tiện như tôi tưởng. Phòng gác mái hưởng nắng đẹp nhìn ra biển; mảnh sân đằng trước quay về hướng Nam, là nơi lí tưởng để trồng hoa. Thỉnh thoảng tàu chạy qua lại trên tuyến đường sắt Quốc gia là một nhược điểm, nhưng có một thửa ruộng nhỏ ngăn giữa ngôi nhà và đường xe lửa nên cũng bớt ồn. Tôi quyết định rằng đó là một nơi ở hoàn toàn chấp nhận được. Ngoài ra, hầu hết mọi người thấy ngôi nhà này không hợp nên giá thuê rẻ bất ngờ. Ngay cả trong thời buổi cái gì cũng rẻ thì tiền thuê hai mươi yên một tháng không cần cọc vẫn rất hấp dẫn tôi. "Naomi, từ nay phải gọi anh là Joji, đừng gọi là anh Kawai nhé. Mình ở với nhau như bạn bè, chịu không?" Tôi nói vậy với cô bé hôm chúng tôi chuyển sang nhà mới. Tất nhiên tôi đã thông báo cho người nhà việc chuyển từ thuê phòng trọ sang thuê nhà riêng và mướn một cô bé mười lăm tuổi làm giúp việc, nhưng tôi không đả động đến việc tôi và Naomi "sống như bạn bè". Họ hàng thì họa hoằn mới từ quê lên thăm, nếu một ngày nào đó cần phải nói với họ thì tôi sẽ nói. Chúng tôi dành nhiều ngày bận rộn, vui vẻ mua sắm đồ nội thất phù hợp với tổ ấm mới và bài trí vào các phòng khác nhau. Để góp phần nâng cao thẩm mỹ cho Naomi, mua cái gì tôi đều hỏi ý kiến cô bé cả. Tôi làm theo ý Naomi mỗi khi có thể. Không có chỗ dành ra để lắp những thiết bị gia đình thông thường như tủ bếp và lò sưởi trong một ngôi nhà như thế này nên chúng tôi có thể tùy chọn bất kỳ đồ đạc nào theo ý muốn và áp dụng mọi kiểu thiết kế chúng tôi thích. Chúng tôi mua vài tấm vải in họa tiết Ấn Độ rẻ tiền mà Naomi với đôi bàn tay vụng về sẽ khâu vào rèm cửa. Tại một cửa hàng ở Shibaguchi chuyên doanh nội thất kiểu Tây, chúng tôi kiếm được một cái ghế mây cũ, một cái sofa, một cái ghế tựa, một cái bàn, tất cả chỗ này được kê vào xưởng vẽ. Trên tường treo ảnh Mary Pickford và mấy minh tinh điện ảnh Mỹ khác. Tôi cũng muốn mua giường Tây, nhưng đành từ bỏ ý định ấy vì mua hai cái giường thì đắt quá, trong khi nằm nệm kiểu Nhật thì có sẵn ở nhà tôi dưới quê gửi lên. Khi chăn nệm đến nơi thì hóa ra nệm của Naomi là loại dành cho người giúp việc: vỏ chăn bằng bông vừa mỏng vừa cứng như bánh đa với kiểu hoa văn màu mè quen thuộc. Tôi thấy tội cho cô bé. "Cái này không được Naomi ạ. Thôi đổi cho anh nhé?" ằ ố ằ "Không, không sao đâu anh." Cô bảo, một mình nằm xuống, vừa nằm vừa kéo chăn đắp trong căn phòng gác mái hơn năm mét vuông. Tôi ngủ trong căn buồng chín mét vuông bên cạnh ở tầng gác mái, nhưng sáng nào chúng tôi cũng chẳng buồn ngồi dậy mà cứ thế từ phòng này gọi vọng sang phòng kia. "Dậy chưa Naomi ơi?" "Rồi ạ. Mấy giờ rồi anh nhỉ?" "Sáu giờ rưỡi. Anh nấu cơm cho em nhé?" "Anh nấu hả? Hôm qua em nấu vậy hôm nay anh nấu nhé?" "Được thôi. Nhưng mà nấu cơm rắc rối lắm. Hay mình ăn bánh mì nhé?" "Vâng ạ. Nhưng mà anh gian quá nha Joji." Khi nào muốn ăn cơm, chúng tôi thổi cơm trong một cái nồi đất rồi đặt thẳng lên bàn mà không buồn xới ra bát gỗ. Chúng tôi ăn cơm với đồ hộp gì đó. Khi nào thấy thế phiền phức quá thì ăn bánh mì phết mứt với sữa hoặc bánh ngọt. Buổi tối chúng tôi đi ăn mì hoặc ghé tiệm cơm Tây nào đó trong xóm nếu muốn chơi sang. "Joji ơi," cô bé thường nói, "hôm nay gọi cho em món bít-tết nhá." Sau khi ăn sáng tôi để Naomi ở nhà còn mình thì đi làm. Cô bé dành cả buổi sáng loay hoay bên luống hoa. Buổi chiều, Naomi khóa cửa đi học tiếng Anh hoặc học nhạc. Hôm thì cô lên Meguro luyện tập tiếng Anh giao tiếp và đọc hiểu với một bà người Mỹ tên là Harrison – tôi nghĩ ngay từ đầu nên để cô bé học với người bản xứ, rồi ở nhà tôi sẽ giúp cô ôn lại những chỗ còn yếu. Về nhạc nhẽo tôi chả biết thế nào, nhưng nghe nói có một cô kia vừa tốt nghiệp trường nhạc ở Ueno, dạy Piano và thanh nhạc tại gia ở Isarago, quận Shiba, nên Naomi đến đó mỗi ngày học một tiếng. Mặc một chiếc váy cashmere xanh thẫm ra ngoài bộ kimono lụa, chân xỏ tất đen, đi đôi giày nhỏ xinh, Naomi giống một nữ sinh đến từng xăng-ti-mét. Bùng nổ háo hức vì giấc mơ đã thành hiện thực, Naomi chăm chỉ đi học. Thỉnh thoảng trên đường về nhà tôi gặp Naomi, thật khó tin là cô bé lớn lên ở Senzoku và từng làm phục vụ. Cô bé không vấn tóc kiểu Nhật nữa mà thắt bím với ruy-băng. Hình như trước đó tôi có nói là muốn "nuôi cô bé như nuôi một con chim non". Từ khi được tôi chăm sóc, nước da Naomi đã cải thiện, tính khí ổ ầ ầ cô bé đã đổi thay dần dần, bây giờ cô bé đúng là một con chim nhỏ tươi xinh, nhí nhảnh và xưởng vẽ rộng rãi này là cái lồng của cô bé. Tháng Năm sắp sang và khí trời đầu hè tươi sáng đang đến gần. Những bông hoa trong vườn mọc ngày càng cao, màu sắc ngày càng rực rỡ. Buổi tối tôi đi làm về, Naomi đi học về, ánh nắng chiếu xuyên qua những tấm rèm hoa văn Ân Độ chiếu lên bức tường trắng như thể vẫn còn giữa trưa. Chân trần xỏ dép, khoác cái áo kimono một lớp mùa hè, Naomi ghi dấu thời gian mỗi khi cất tiếng hát những bài cô bé vừa học được. Thỉnh thoảng cô chơi rượt bắt hoặc bịt mắt bắt dê với tôi. Cô bé chạy quanh xưởng vẽ, nhảy lên bàn, bò dưới sofa và xô đổ ghế. Như thế chưa đủ, Naomi phi lên gác rồi lao xuống cầu thang như một con chuột ở rạp hát trong các lô trên lầu. Thỉnh thoảng tôi làm ngựa, bò quanh phòng cho Naomi cưỡi lên lưng. "Nhong nhong nào!" Cô bé reo lên. Naomi bắt tôi ngậm khăn tắm làm dây cương. Hình như có một hôm chúng tôi chơi với nhau thì Naomi, bấy giờ đang cười như nắc nẻ, chạy vội lên cầu thang thì hụt chân té ngã mấy vòng từ trên xuống, khóc òa lên. "Đau ở đâu? Đưa anh xem nào?" Khi tôi đỡ cô bé dậy, cô sụt sùi vén tay áo cho tôi xem. Cô bị cái đinh hay vật gì đó cào phải trong lúc ngã, lớp da khuỷu tay phải bị rách và có chút máu rỉ ra. "Thế này thì khóc gì mà khóc. Để anh băng lại cho em." Tôi bôi ít thuốc mỡ và xé một cái khăn mặt làm băng. Naomi khóc thút thít như trẻ con, đôi mắt rưng rưng, nước mũi ròng ròng. Chẳng may vết thương nhiễm trùng, năm, sáu hôm mới lành. Ngày nào tôi cũng thay băng, lần nào thay băng cô bé cũng khóc. Tôi đã phải lòng Naomi chăng? Không chắc nữa. Có lẽ tôi đã phải lòng cô; nhưng ý định và niềm vui của tôi là được nuôi nấng cô bé thành một quý cô thanh lịch, do đó tôi tin rằng sự thỏa mãn của mình vỏn vẹn chỉ có vậy thôi, chẳng còn gì hơn nữa. Có điều, vào mùa hè năm ấy tôi về quê trong hai tuần nghỉ lễ như mỗi năm, nhưng khi bỏ lại Naomi cho gia đình cô ở Asakusa và khóa cửa ngôi nhà ở Omori lại, tôi thấy những tháng ngày ở quê nhạt nhẽo và cô đơn không sao chịu nổi. Tôi tự hỏi lẽ nào thiếu cô bé thì đời mình sẽ đơn điệu đến mức này? Lần đầu tiên tôi thấy hình như mình đang trải nghiệm khởi đầu của tình yêu. Tôi viện cớ với mẹ về Tokyo trước thời hạn. Mười giờ đêm về đến nơi nhưng bất kể giờ giấc, tôi gọi vội taxi từ ga Ueno đến nhà Naomi. ề ồ ằ ề "Naomi ơi, anh về rồi. Có xe đang chờ góc đằng kia. Mình về Omori nhé?" "Hở? Em ra liền đây." Để tôi chờ bên ngoài cánh cửa trượt mắt cáo, cô bé rốt cuộc cũng xuất hiện, mang theo tay nải nho nhỏ. Đêm ấy đã nóng còn nồm; Naomi đã thay bộ kimono muslin màu trắng mỏng, chỉ có một lớp, in hình những trái nho màu tím lợt và cột tóc bằng một sợi ruy-băng to bản màu hồng tươi. Tôi mua vải tặng cô vào ngày hội Bon5[5], khi tôi đi vắng cô đã nhờ ai đó ở nhà lấy ra may thành kimono. "Em làm gì mỗi ngày hả Naomi?" Ngồi cạnh cô bé trong lúc chiếc xe di chuyển về con phố nhộn nhịp, tôi sáp mặt lại gần mặt Naomi hơn một chút. "Ngày nào em cũng đi xem phim ạ." "Chắc em chẳng cô đơn lắm đâu nhỉ?" "Cũng không đến nỗi..." Cô bé nghĩ một lúc. "Anh về hơi sớm nhỉ Joji?" "Ở quê chán nên anh rút ngắn lịch trình về sớm. Không nơi nào được như Tokyo." Tôi thở phào một cái, nhìn ra những ngọn đèn lấp lánh của thành phố về đêm qua cửa sổ. "Nhưng em nghĩ ở quê mùa hè cũng thích chứ bộ." "Còn tùy địa phương em ạ. Gia đình anh ở một nông trại chỗ đồng không mông quạnh. Cảnh quan chán phèo, không có di tích lịch sử gì, ban ngày toàn là ruồi muỗi vo ve, trời thì nóng không chịu nổi." "Ôi chao. Quê anh chán thế à?" "Đúng vậy." "Em muốn đi ra biển." Cô bé đột ngột bảo. Giọng cô thật có sức hấp dẫn, như một đứa trẻ bướng bỉnh vậy. "Được. Một ngày nào đó, anh sẽ đưa em đi nghỉ mát sớm thôi. Kamakura thế nào? Hay Hakone nhé?" "Em thích đi biển hơn là đi suối nước nóng. Ái chà, thèm quá đi thôi." Giọng nói ngây thơ đó nghe vẫn giống Naomi lúc trước nhưng chẳng hiểu sao sau mười ngày không gặp, chân tay cô bé hình như đã dài ra và ể ể ể phát triển đáng kể. Tôi không thể cưỡng lại việc nhìn trộm hình dáng bờ vai thuôn tròn đang di chuyển dưới bộ kimono muslin mỗi khi cô thở và nhìn cả ngực cô nữa. "Em mặc bộ kimono này xinh đấy." Tôi nói sau khi im lặng một lúc. "Ai may cho em vậy?" "Mẹ đó ạ." "Mẹ em nói gì về anh không? Có khen anh chọn vải khéo không?" "Dạ mẹ bảo không tệ, nhưng mà tân thời, ăn chơi quá." "Mẹ em nói thế à?" "Vâng ạ. Bà ấy chẳng biết gì đâu." Mắt vẫn nhìn xa xăm, Naomi nói thêm, "Ai cũng nói em đã thay đổi." "Thay đổi như thế nào?" "Người ta bảo em tân thời quá mức." "Chắc chắn rồi. Anh cũng thấy vậy." "Chả có nhẽ? Người nhà nói em vấn tóc kiểu Nhật, nhưng em không muốn." "Cái ruy-băng này thì sao?" "Đây hả? Em mua ở một cửa hiệu trước chùa Quan Âm. Anh có thích không?" Cô bé quay đầu để tôi xem dải ruy-băng màu hồng phấp phới trên mái tóc sạch sẽ không vuốt dầu6[6] đang bay trong gió. "Xinh xắn lắm. Đẹp hơn vấn tóc kiểu Nhật nhiều." Hếch cái mũi nhỏ của mình, Naomi cười khẽ như đồng ý. Kiểu cô bé như vậy. Đó là một nụ cười nghịch ngợm pha giọng mũi, nhưng tôi thấy nó khiến Naomi trở nên láu lỉnh. Bốn Naomi liên tục năn nỉ đòi tôi đưa đi Kamakura. Đầu tháng Tám chúng tôi đi, dự định ở lại hai, ba hôm. "Sao chỉ đi mỗi hai, ba ngày?" Naomi hỏi. "Không đi cả tuần hay mười ngày thì còn gì là vui." Khuôn mặt cô tỏ vẻ bất bình khi chúng tôi ra khỏi nhà. Nhưng vì đã lấy cớ bận việc để lên thành phố sớm, cũng bởi tôn trọng mẹ nên tôi không muốn mạo hiểm lòi đuôi trò dối trá của mình ra. Nếu nói thế với Naomi thể nào cô bé cũng thấy bị hạ nhục. Nên thay vào đó tôi bảo: "Năm nay thôi thì em ráng mà vui trong hai, ba ngày. Để năm sau anh sẽ đưa em đi nơi khác lâu hơn. Chịu không nào?" "Nhưng có mỗi hai, ba ngày..." "Anh biết rồi, nhưng nếu em thích bơi thì khi nào về nhà cứ ra bãi biển ở Omori." "Bẩn như thế sao em bơi được chứ." "Không biết thì đừng có nói lung tung. Làm bé ngoan đi nào. Anh sẽ mua quần áo cho em bù vậy. Không phải em nói em thích mặc đồ Tây à? Anh sẽ mua cho em." Đưa món mồi đồ Tây ra thì Naomi cắn câu, cuối cùng cô bé đồng ý. Ở Kamakura, chúng tôi lưu lại nhà nghỉ Sóng Vàng ở Hase, một chỗ trọ tầm thường dành cho người tắm biển. Nghĩ lại mà thấy buồn cười. Lúc đấy chả cần phải tằn tiện vì tôi vẫn còn phần lớn tiền thưởng bán niên. Phấn khởi được đi chơi qua đêm lần đầu với Naomi, tôi muốn để lại cho cô bé ấn tượng đẹp nhất có thể: chúng tôi sẽ đặt một khách sạn sang trọng mà không bận tâm đến giá cả. Nhưng đến ngày, hai đứa lên toa tàu hạng nhì đi Yokosuka thì bị khớp đến sượng sùng. Trên tàu toàn phụ nữ và các cô gái trẻ lộng lẫy đang ngồi sắp hàng trên đường đi Zushi và Kamakura. Giữa mấy cô đó, tôi thấy trang phục của Naomi quả là xoàng xĩnh. Vào mùa hè dĩ nhiên phụ nữ không thể ăn diện quá được. Nhưng đặt họ cạnh Naomi, tôi cảm nhận được sự khác biệt không lẫn vào đâu giữa sự tinh tế của những người đàn bà sinh ra ở chốn thượng lưu so với hạng người khác. Naomi trông đã khác biệt với cô phục vụ quán cà phê ngày nào nhưng không gì có thể che đậy được xuất thân thấp hèn của cô bé. Tôi còn nghĩ như vậy thì Naomi hẳn phải cảm thấy điều đó rõ hơn nhiều. Bộ kimono vải muslin in hình chùm nho hôm nọ làm Naomi sành điệu bao nhiêu giờ nom thảm hại bấy nhiêu. Vài cô ngồi quanh chúng tôi mặc kimono mùa hè đơn giản nhưng tay toàn những ngọc ngà lóng lánh, hành lý xa hoa, cái gì cũng thể hiện sự giàu có và đẳng cấp còn Naomi thì chẳng có gì ngoài làn da mềm mại như nhung. Tôi vẫn nhớ Naomi đã bẽn lẽn giấu chiếc dù đi nắng dưới tay áo như thế nào. Cô ấy làm thế hẳn bởi chiếc dù tuy còn mới nhưng ai cũng nhận ra đó là đồ rẻ tiền, giá không thể hơn bảy, tám yên. Ban đầu chúng tôi mơ mộng đến ở lữ quán Mitsuhashi hay thậm chí là khách sạn Kaihin. Nhưng đến gần mấy tòa nhà đó thì bị mấy cánh cổng hoành tráng át vía, thành thử cứ loanh quanh mãi ở đường Hase hai, ba bận rồi rốt cuộc mới gặp được cái nhà nghỉ Sóng Vàng này, theo tiêu chuẩn địa phương thì là hạng hai, hạng ba gì đó. Có quá nhiều học sinh ồn ào trọ ở đây nên chẳng thể nào thư giãn được, chúng tôi đành dành hầu hết thời gian ngoài biển. Naomi tính tình như con trai, vừa trông thấy biển là đã phấn chấn và quên ngay nỗi buồn trên tàu ban nãy. "Hè này nhất định em phải học bơi." Cô bé nói, bám lấy cánh tay tôi và vẩy nước tung tóe ở chỗ cạn. Tôi giữ Naomi bằng cả hai tay, dạy cô bé làm thế nào để nổi, làm thế nào để đạp nước trong lúc cô bé bám lấy một cột trụ, rồi tôi chợt thả Naomi ra cho cô bé nếm thử ít nước biển. Khi đã chán tập bơi, chúng tôi tập nhảy sóng, chơi cát trong lúc nằm dài trên bãi biển và chiều hôm ấy thuê thuyền chèo ra hướng vịnh. Quấn một cái khăn tắm lớn vòng quanh bộ đồ bơi, cô bé ngồi ở đuôi thuyền hoặc nằm ngửa bên mạn thuyền, ngước nhìn bầu trời xanh và hát bài đi thuyền của vùng Napoli Santa Lucia yêu thích bằng giọng cao vút: O dolce Napoli, O suol beato... Giọng soprano7[7] của cô bé vang vọng trên mặt biển chiều yên ả khi tôi nhè nhẹ chèo thuyền và mê mẩn lắng nghe. "Đi xa nữa, xa nữa," cô reo lên như muốn mãi mãi được phiêu du trên ngọn sóng. Tự lúc nào không hay mặt trời đã lặn và những ngôi sao đang sáng lung linh, bóng tối bao vây chúng tôi và dáng hình Naomi trong chiếc khăn tắm màu trắng nhòa dần thành hư ảo. Nhưng giọng hát trong trẻo của cô bé vẫn ngân. Cô hát bài Santa Lucia mấy lần rồi đến bài Lorelei, Zigeunerleben và một đoạn trong vở opera Mignon8[8]. Bài nọ nối tiếp bài kia trong lúc con thuyền nhẹ nhàng tiến về phía trước. Tôi cho rằng thời thanh xuân, mọi người đều trải qua những điều như thế nhưng tôi thì đó mới là lần đầu. Là anh kĩ sư điện, hiểu biết của tôi về ằ ằ ắ ể ế văn chương nghệ thuật chả bằng ai, họa hoằn lắm mới đọc tiểu thuyết, nhưng đêm ấy tôi nghĩ về quyển Gối Đầu Lên Cỏ của Natsume Soseki, cuốn ấy tôi đã đọc rồi. Câu "Venice thẫm dần, thẫm dần”9[9] xuất hiện trong tác phẩm ấy, và không hiểu sao gợi nhớ cảnh Naomi và tôi đung đua trên thuyền, nhìn đăm đăm về chân trời qua màn suơng đêm với ánh đèn lấp lánh trên bờ biển. Rung rưng ngây người vì xúc động, tôi muốn được cùng Naomi trôi dạt về một cõi xa xăm vô định. Một gã chân quê như tôi được trải qua cảm xúc này đã là đủ để làm chuyến đi ngắn ngủi tới Kamakura đáng giá. Nói thật chứ ba hôm ở Kamakura đã cho tôi một phát hiện quan trọng nữa. Dù sống chung với Naomi nhưng tôi chưa từng có cơ hội ngắm nhìn thân thể cô – nói toạc ra là thân hình trần trụi của cô – nhưng chuyến này tôi đã được thỏa nguyện. Khi Naomi xuất hiện trên bờ biển ở Yuigahama, đội cái mũ bơi màu xanh đậm và mặc bộ áo tắm chúng tôi mua ở Ginza tối hôm trước, nhìn tỷ lệ tuyệt đẹp của chân tay cô thấy mà sướng. Vâng, tôi sung sướng thật: nom bộ kimono vừa vặn với người Naomi là tôi đã đoán già đoán non về những đường cong của cô và tôi đoán trúng phóc. Con tim tôi vỡ òa: "Naomi, Naomi, Mary Pickford của anh ơi! Thân hình của em mới thật là yêu kiều, cân đối làm sao! Cánh tay duyên dáng quá! Đôi chân thẳng tắp, thon dài như một bé trai!". Và tôi không thể không nghĩ tới "Người đẹp tắm biển”10[10] bằng xương bằng thịt trong bộ phim của Mack Sennett11[11] đã xem ngoài rạp. Có lẽ chả ai thích quảng cáo chi tiết về thân hình vợ mình. Tôi cũng không khoái khoe mẽ về cô gái sau này sẽ thành bà xã tôi hay kể lể vào chi tiết cho thiên hạ. Nhưng nếu né tránh chủ đề ấy thì thật khó lòng mà thuật lại cho chính xác câu chuyện, mà mục đích viết truyện cũng đi tong. Vậy thì phải ghi lại về thân hình của Naomi khi cô đứng trên bãi biển ở Kamakura tháng Tám năm cô mười lăm tuổi. Lúc ấy cô bé kém tôi chừng một tấc (xin nhớ dùm, tôi tuy thể chất tráng kiện nhưng nhỏ con, cao chưa đầy mét sáu.) Khung xương của Naomi có đặc điểm nổi bật là lưng ngắn chân dài, đứng từ xa nhìn cao hơn hẳn người ta tưởng. Phần lưng ngắn thắt lại thành vòng eo con kiến tuyệt hảo rồi mở ra cái hông đầy nữ tính. Chúng tôi đã xem một phim tên là Con gái thần Neptune12[12] nói về một nàng tiên cá với diễn xuất của nữ vận động viên bơi lội nổi tiếng Annette Kellerman13[13]. Tôi bảo: "Naomi, cho anh xem em bắt chước Annette Kellerman đi." Cô bé đứng với hai tay giơ thẳng trên đầu cho tôi thấy tư thế "nhảy cầu" của mình. Cô bé đứng, hai đùi, hai cẳng chân thẳng ắ ề tắp không hề có một khe hở nào tạo thành một hình tam giác nhọn kéo dài từ hông đến mắt cá chân. Naomi hài lòng với đôi chân của mình. "Joji, chân em có bị vòng kiềng không?" Cô bé hỏi. Đi vài bước, đứng yên, duỗi chân trên cát, cô nàng vui vẻ ngắm nghía hình dáng đôi chân mình. Một đặc điểm khác biệt nữa của thân thể Naomi là đường nét từ cổ xuống vai. Tôi đã có nhiều cơ hội chạm vào vai cô khi cô mặc đồ bơi, khi Naomi nhờ tôi cài khuy áo vai. Bình thường một người như Naomi với đôi vai xuôi và cái cổ dài thì hẳn là gầy gò, nhưng cô bé sở hữu bờ vai đầy đặn và bộ ngực căng tròn đáng ngạc nhiên cho thấy hai lá phổi tốt. Khi tôi cố gắng cài khuy áo giúp Naomi, cô bé thường hít sâu và vung vẩy tay, làm cho cơ bắp trên lưng nổi gồng lên. Bộ đồ tắm vốn đã chật, trông như sắp rách toạc đến nơi, bị kéo căng ra trên vai Naomi và tựa hồ sẽ bục ra bất cứ lúc nào. Tóm lại, đôi vai của cô bé đầy sức mạnh, sáng bừng vẻ đẹp và sức trẻ. Trong khi len lén so sánh Naomi với các cô gái khác trên bãi biển, tôi thấy dường như không ai có được sự kết hợp giữa đôi vai chắc nịch và cái cổ duyên dáng như Naomi cả14[14]. "Đứng im, Naomi. Em cứ cựa quậy như thế anh không cài khuy được." Tôi nắm chặt mép áo rồi nhét vai Naomi vào đó như đang nhồi một vật lớn vào cái bao nhỏ. Với dáng người như thế, Naomi tính tình như con trai và yêu thích thể thao là đương nhiên. Cô bé rất giỏi những trò vận động. Sau ba ngày ở Kamakura, ngày nào cô cũng ra bãi biển ở Omori để tập bơi và cuối mùa hè là đã bơi thạo. Cô còn học cách chèo thuyền và lái thuyền buồm nữa. Chơi cả ngày xong, cô bé về nhà tay nắm chặt bộ đồ bơi ướt nhẹp, la lớn: "Chết đói mất thôi!" và mệt mỏi thả mình xuống ghế. Đã chán nấu ăn mỗi tối, chúng tôi thỉnh thoảng ghé vào một tiệm cơm Tây trên đường từ bãi biển về nhà và ngấu nghiến nhồm nhoàm như thi ăn với nhau. Gọi hết đĩa bít-tết này đến đĩa bít-tết kia vì cô bé phải ăn được đến ba, bốn phần. Những kỷ niệm vui mùa hè năm ấy có kể cũng không hết được nên xin dừng tại đây. Nhưng có một diễn biến nữa không thể bỏ qua. Vào khoảng thời gian đó tôi hình thành thói quen kỳ cọ tay, chân, lưng... của Naomi bằng mút bọt biển. Trò này bắt đầu kể từ khi Naomi về nhà buồn ngủ quá ngại không muốn ra nhà tắm công cộng15[15]. Nên thay vào đó, cô bé tắm trôi nước biển bằng cách tự vào bếp dội nước lên người hoặc lấy mút ở bồn rửa ra cọ. Tôi bảo: "Naomi này, đi ngủ như thế thì người ngợm dính dấp lắm, vào bồn đi, anh tắm cho." Naomi nghe lời, để tôi rửa ráy cho cô bé. Dần dần việc đó thành thói quen. Việc tắm trong bồn ngâm16[16] ấy tiếp diễn đến mùa thu mát mẻ, tới khi tôi lắp một cái bồn tắm kiểu Tây và đặt thảm chùi chân ở một góc xưởng vẽ và dùng bình phong quây lại. Ở đó, tôi đã phụ Naomi tắm suốt mùa đông. Năm Một số độc giả tinh tường hẳn đang nghĩ Naomi và tôi đã ở trên mức bạn bè. Nhưng thực ra không phải vậy. Nhiều tháng trôi qua, đúng là có sự đồng điệu thầm kín lớn lên giữa chúng tôi. Song nào phải chỉ vì Naomi là thiếu nữ mười lăm còn tôi là một chàng "quân tử" đứng đắn không có chút kinh nghiệm nào với đàn bà, tôi còn cảm thấy có trách nhiệm với sự trong trắng của Naomi nên không thể để cho một khoảnh khắc bốc đồng đẩy mình đi quá giới hạn của sự đồng điệu đó. Ý niệm Naomi sẽ trở thành người đàn bà duy nhất mà tôi có thể nghĩ đến chuyện kết hôn dĩ nhiên dần bắt rễ trong đầu tôi, mà kể cả khi có người khác đi chảng nữa tôi cũng không thể bỏ rơi cô lúc này. Đây là lý do tôi không muốn nông nổi chủ động trước hoặc chủ động theo cách có thể làm tổn thương cô bé. Mùa xuân năm sau đó – ngày 26 tháng Tư năm Naomi mười sáu tuổi, quan hệ giữa chúng tôi bước vào một giai đoạn mới. Tôi nhớ ngày chính xác vì vào khoảng thời gian đó – không, từ khi chúng tôi bắt đầu dùng bồn ngầm để tắm – tôi bắt đầu viết nhật ký lưu lại mọi điều về Naomi khiến tôi để ý. Thân thể cô bé phát triển nữ tính nổi bật mỗi ngày. Như một người vừa lên chức bố mẹ theo dõi sự phát triển của trẻ sơ sinh với những ghi chép kiểu "Cười lần đầu tiên" hoặc "Nói tiếng đầu đời", tôi ghi lại mọi việc mình nhận thấy. Thỉnh thoảng tôi vẫn giở ra xem lại. Đây là những dòng viết ngày 21 tháng Chín vào mùa thu năm Naomi mười lăm tuổi: Tám giờ tối, mình tắm cho Naomi trong bồn ngâm. Bé con vẫn còn cháy nắng từ hôm tắm biển, cả người đen nhẻm, trừ vùng da mặc đồ bơi. Mình cũng đen đi, nhưng da Naomi vốn trắng nên nhìn tương phản rõ rệt hơn. Không mặc gì mà nhìn em nó như đang mặc đồ vậy. Mình bảo Naomi: "Em trông như con ngựa vằn ấy!" Cô bé cười. Khoảng một tháng sau, ngày 17 tháng Mười, tôi viết: Lớp da ngăm đang mờ dần, cũng không bị tróc thêm nữa. Thậm chí bây giờ coi còn đẹp và mịn màng hơn trước. Lúc mình rửa cánh tay Naomi, cô bé nhìn theo những bong bóng xà phong đang tan và trôi tuột trên làn da cô bé. Tôi bảo "Đẹp nhỉ." Cô bé bảo "Đẹp quá phải không anh?" xong bồi thêm, "Ý em là bong bóng xà phòng đó mà. " Ngày 5 tháng Mười một: Hôm nay tụi mình dùng thử cái bồn tắm kiểu Tây lần đầu tiên. Không quen nên Naomi bị trượt tùm lum, cười khanh khách. Tôi kêu cô bé là "Bé bự”, cô bé gọi tôi là "Papa". ầ Từ đó thỉnh thoảng chúng tôi xưng hô là "bé" với "papa." Lúc nào cần nịnh tôi để xin xỏ, Naomi cũng gọi tôi là "Papa". Hành trình trưởng thành của Naomi là cái tựa tôi đặt cho tập nhật ký. Tất nhiên tôi chỉ viết về mỗi Naomi. Không bao lâu sau tôi mua một cái máy ảnh và chụp chân dung Naomi, trông cô càng giống Mary Pickford ở những góc chụp và với ánh sáng khác nhau. Tôi dán ảnh vào chỗ này chỗ kia trong nhật ký. Nhưng cuốn nhật ký đã đưa tôi đi lệch hướng. Theo như nhật ký ghi chép thì tôi và cô bé bắt đầu một mối quan hệ sâu sắc hơn vào ngày 26 tháng Tư, một năm sau khi chuyển đến Omori. Vì giữa hai đứa đã có mối đồng điệu thầm kín nên mọi việc diễn ra trong yên lặng và tự phát. Không ai chủ động và hầu như chẳng nói một từ. Cuối cùng cô bé ghé miệng vào tai tôi: "Joji, đừng bao giờ rời xa em nhé." "Rời xa em? Tuyệt đối không. Em chớ lo việc ấy. Có lẽ em đã thấu hiểu lòng anh rồi." "Dạ đúng." "Em biết lâu chưa?" "Xem nào, đã bao lầu rồi nhỉ?" "Hồi anh bảo sẽ chăm sóc cho em, em thấy anh thế nào? Em có nghĩ anh tính rốt cuộc sẽ cưới em không?" "Vâng, em nghĩ anh định làm thế." "Vậy em nhận lời đến với anh vì em sẵn lòng làm vợ anh phải không nào?" Không cần đợi cô bé trả lời, tôi lấy hết sức bình sinh ôm trọn lấy cô. "Cám ơn Naomi, cám ơn nhé. Em đã hiểu. Bây giờ anh sẽ hoàn toàn thành thật với em. Anh chưa bao giờ nghĩ rằng em sẽ tiến gần đến người con gái lý tưởng của anh như thế. Anh may mắn quá. Anh sẽ luôn yêu em... chỉ mình em thôi... Anh sẽ không như những người chồng khác, anh sẽ không bạc đãi em. Anh sống vì em. Em chịu khó học hành và trở thành một người phụ nữ thanh lịch nhé, rồi muốn gì anh cũng chiều." "Dạ, em sẽ học thật chăm. Em sẽ trở thành người phụ nữ anh mong muốn, em xin hứa." Đôi mắt cô bé rưng rưng và tôi cũng bắt đầu sụt sùi. ề Chúng tôi nói chuyện cả đêm về tương lai. Không lâu sau tôi dành ngày cuối tuần ở nhà và kể cho mẹ nghe về Naomi. Có một số lý do để báo cáo sớm với mẹ. Tôi muốn trấn an Naomi bởi cô bé có vẻ e ngại phản ứng của gia đình tôi còn tôi cũng mong mọi việc được công khai. Tôi trình bày với mẹ về quan niệm hôn nhân của mình sao cho dễ hiểu với một người luống tuổi, giải thích với bà tại sao tôi lại muốn lấy Naomi. Mẹ luôn hiểu và tin tưởng tôi. Bà chỉ nói: "Nếu muốn thì con cứ lấy nó. Nhưng xuất thân con bé từ gia đình như vậy thì có thể trong tương lai sẽ gặp phiền toái. Cẩn trọng nhé con." Chúng tôi quyết định chờ hai, ba năm trước khi công bố chuyện kết hôn nhưng tôi muốn đi đăng ký kết hôn với Naomi ngay tắp lự. Tôi đến Senzoku để thương lượng với mẹ và anh trai cô bé. Như lần trước, họ bàng quan và mọi việc đều trôi chảy. Tuy hai người đó thờ ơ nhưng họ không phải kẻ xấu, vả lại họ cũng không nói gì cho thấy biểu hiện kích động bởi lòng tham. Mối quan hệ của chúng tôi phát triển nhanh chóng sau đó. Chưa ai biết về sự thay đổi này và bề ngoài hai đứa vẫn đơn thuần là bạn bè. Nhưng theo luật pháp thì chúng tôi đã thành vợ thành chồng, chả có gì để giấu giếm17[17]. Một hôm tôi bảo: "Naomi à, cứ sống với nhau như bạn bè, được không?" "Vậy anh sẽ gọi em là Naomi nhỉ?" "Tất nhiên. Nhẽ nào anh gọi em là 'bà xã'?" "Không, em không chịu đâu." "Còn anh sẽ luôn là 'anh Joji' phải không nào?" "Chứ còn gì. Nếu không em gọi anh sao giờ?" Naomi nằm trên ghế sofa với một bông hồng trong tay. Cô bé ấn hoa vào môi rồi mân mê nó một lát, sau đó bỗng bảo: "Joji?" Naomi mở rộng cánh tay, thả rơi bông hồng và ôm lấy đầu tôi. "Naomi yêu dấu ơi," Tôi thở hổn hển duới bóng tay áo cô bé. "Naomi em yêu, anh không chỉ yêu mà còn tôn thờ em. Em là báu vật của anh. Em là viên kim cương mà anh tìm thấy và mài dũa. Anh sẽ mua bất cứ thứ gì làm em đẹp hơn. Lương lậu anh đưa em hết." ầ ế ế "Thôi thôi, cần gì phải thế. Học tiếng Anh và học nhạc với em quan trọng hơn." "Ừ, ừ nhỉ. Anh sẽ mua đàn dương cầm cho em sớm. Em sẽ trở thành một cô tiểu thư, không ngại chơi với người Tây." Tôi thường dùng những lời như "chơi với Tây" hay "giống Tây". Rõ ràng điều đó làm Naomi hài lòng. "Anh nghĩ sao?" Cô bé bảo, thử làm biểu cảm khác nhau trong gương. "Anh thấy em làm như này có giống Tây không?" Rõ là Naomi đã nghiên cứu điệu bộ các cô đào Tây khi chúng tôi đi xem phim, vì cô bé bắt chước họ đến là giỏi. Trong một khoảnh khắc Naomi có thể nắm bắt tâm trạng và thần thái riêng của một nữ minh tinh. Cô bảo: Pickford cười như thế này này, Pina Menichelli liếc mắt thế này này, Geraldine Farrar cột tóc thế này này. Thả tóc ra rồi Naomi làm lại theo kiểu này, kiểu kia. "Khéo quá, khéo hơn cả diễn viên. Khuôn mặt em trông Tây lắm." "Vậy hả? Tây ở chỗ nào?" "Mũi này, răng này." "Răng em hả?" Cô bé nhe răng ra nhìn vào gương. Hàm răng đẹp tuyệt, đều tăm tắp và sáng bóng. "Mà này, em không giống người Nhật bình thường, quần áo truyền thống không hợp với em. Nếu em mặc quần áo Tây thì sao nhỉ? Hoặc quần áo kiểu Nhật cách tân ấy?" "Là kiểu gì?" "Trong tương lai phụ nữ sẽ ngày càng năng động hơn. Những bộ đồ nặng nề, bó chặt đàn bà mặc bây giờ sẽ không còn phù hợp nữa." "Kimono ống tay ngắn đi với thắt lưng thường thì sao?" "Thế cũng được. Cái gì cũng ổn miễn là độc đáo. Anh không biết có quần áo kiểu gì mà không phải Nhật, Tàu hay Tây không..." "Nếu có thì anh mua cho em nhé?" "Hẳn rồi. Anh sẽ kiếm đủ loại quần áo cho em, chúng mình sẽ thay kiểu mỗi ngày. Em không cần mặc đồ mắc tiền. Cứ vải muslin hoặc tơ lụa bình thường là ổn. Chỉ cần kiểu dáng độc đáo là được." ế Sau cuộc thảo luận đó, chúng tôi thường đến các tiệm vải và trung tâm thương mại để tìm vải. Chủ nhật nào chúng tôi cũng đi Mitsukoshi và Shirokiya đều như vắt chanh. Nhưng để tìm được loại hoa văn vừa mắt thật khó, vì cả hai đứa đều không bằng lòng với quần áo đàn bà thông thường. Loại vải kiện phổ thông thôi chẳng kể đến, chúng tôi đến chỗ những tiệm buôn vải bông, hàng bán thảm và cả những cửa hàng chuyên vải vóc phương Tây nữa. Thậm chí chúng tôi đi Yokohama cả ngày, lê la khắp tiệm này đếm tiệm kia ở khu phố Tàu và cửa hàng đồ khô trong khu nhà của người ngoại quốc, xới tung lên để tìm loại vải vóc ưng ý. Chúng tôi săm soi quần áo người Tây Dương khi lướt qua họ trên phố, ngắm nghía từng ô cửa kính trưng bày. Hễ có gì khác lạ là một trong hai đứa reo lên: "Kìa, bộ kia trông thế nào?" Chúng tôi phi vào cửa hàng, bảo người ta cho xem loại vải trưng ngoài tủ kính xem có hợp với Naomi không bằng cách bảo cô lấy cằm giữ ướm quanh người. Chúng tôi vui vẻ đi dạo, ngắm nghía như thế ngay cả khi chẳng định mua bán gì. Ngày nay phụ nữ hợp thời là phải may kimono mùa hè bằng voan cotton, organdy, georgette, nhưng Naomi và tôi dễ thường đã tiên phong sử dụng chất liệu đó. Vì lí do nào đấy mà những chất vải này rất hợp với Naomi. Chúng tôi không hứng thú với kimono truyền thống. Thay vào đó, cô dùng vải ấy may loại kimono tay hẹp, pyjama và áo choàng nhìn như đồ ngủ. Thỉnh thoảng Naomi chỉ quấn mảnh vải quanh người rồi cài lại bằng kẹp tóc. Mặc một trong những bộ như thế, cô nàng diễu quanh nhà, đứng trước gương còn tôi thì chụp hình. Nửa kín nửa hở trong tấm vải xuyên thấu màu trắng, hồng, tím oải hương, Naomi đẹp như một đóa hoa nở trong bình. "Thử làm dáng thế này hay thế này xem." Tôi náo. Kéo Naomi lên, đặt Naomi xuống, bảo cô bé ngồi hoặc đi lại, tôi ngắm cô cả ngày. Cứ thế, chỉ trong một năm tủ quần áo của Naomi phình to vĩ đại. Cô không thể chứa hết áo quần trong phòng mà vừa phải treo vừa phải cuộn lại thành đống chất khắp nơi. Mua tủ cũng được thôi nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng tới ngân sách dành cho trang phục, với lại cũng chẳng cần phải giữ gìn quần áo của cô nàng quá cẩn thận như vậy. Quần áo của Naomi nhiều nhưng toàn những món rẻ tiền nhanh cũ. Cứ trải ra nhìn cho dễ thử và phối hợp khi có hứng cho nó tiện. Quần áo cũng xem như đồ trang trí cho các phòng. Xưởng vẽ bây giờ nhìn như phòng đạo cụ ở nhà hát, quần áo vất vưởng khắp nơi – trên ghế, trên sofa, trong góc, cả trên cầu thang và lan can chỗ ngồi lô. Hầu hết đều là đồ bẩn vì Naomi có thói quen mặc trực tiếp lên người không cần đồ lót và chúng tôi cũng chả giặt những quần áo đó bao giờ. ầ ề ầ ể ề ế ể Phần nhiều quần áo kiểu dáng đều quái dị đến mức Naomi chỉ có thể mặc một nửa ra khỏi nhà. Bộ yêu thích mà cô hay mặc khi chúng tôi đi chơi là kimono hai lớp bằng sa-tanh chần bông và một chiếc áo khoác theo bộ. Cả áo khoác và kimono tuyền một màu đỏ đun, đồng màu với quai dép và đai áo khoác. Những chi tiết khác như phần cổ áo, obi18[18], lớp lót áo kimono, phần mép tay áo và viền đều màu lơ nhạt. Đai obiage19[19] cũng được làm bằng sa-tanh mỏng; Naomi thường thắt cao và chặt trước ngực. Trên cổ, Naomi mua một chiếc ruy-băng chất liệu na ná sa-tanh đeo vào. Naomi hay mặc bộ này khi chúng tôi đi xem hát buổi tối. Mọi người đều ngoái nhìn cô nàng sải bước trên hành lang nhà hát Yarakuza hoặc nhà hát Đế Quốc trong chất liệu lung linh đó. "Không biết cô ta là ai nhỉ?" "Diễn viên chăng?" "Con lai Âu - Á?" Nghe thấy những tiếng xì xào, chúng tôi kiêu hãnh tiến về phía họ. Mới ăn bận như thế mà dân tình đã xôn xao thì Naomi thật khó lòng diện những thiết kế táo bạo hơn của mình ra đường dù có thích chơi trội thế nào chăng nữa. Quần áo chỉ là những loại bao bì, những vỏ bọc khác nhau mà tôi khoác lên mình Naomi khi chúng tôi về nhà để tôi được ngắm nghía cô. Có lẽ cũng như chúng ta thử cắm một bông hoa đẹp vào cái lọ này rồi cái lọ khác thôi. Chuyện này đâu có gì đáng ngạc nhiên. Naomi vừa là vợ tôi vừa là một con búp bê, một món đồ trang trí quý hiếm và giá trị. Ở nhà cô không bao giờ mặc quần áo thường. Bộ quần áo mặc nhà đắt đỏ của Naomi là một bộ suit nhung đen đủ sơ mi, quần tầy, áo vest mà cô nàng bảo là lấy cảm hứng từ trang phục của một người đàn ông mặc trong bộ phim Mỹ đã xem. Khi mặc bộ ấy với mái tóc búi cao giấu trong mũ lưỡi trai, Naomi trông gợi cảm như một con mèo. Cả hè lẫn đông (chúng tôi có mở lò sưởi trong phòng), Naomi chỉ mặc mỗi một chiếc váy rộng hoặc áo tắm. Cô nàng có vô số dép, gồm cả những chiếc dép thêu từ Trung Quốc. Cô nàng lại còn toàn mang dép với tất nữa. Sáu Nuông chiều Naomi đến thế nhưng tôi vẫn chưa từ bỏ cái khát vọng ban đầu của mình, ấy là cho cô bé ăn học đàng hoàng, biến cô bé thành một người phụ nữ đứng đắn, thanh lịch. Tôi không có ý niệm rõ ràng thế nào là "đứng đắn" với "thanh lịch", nhưng đã nghĩ về cái gì đó mơ hồ, giản đơn kiểu như "một người đàn bà hiện đại, tinh tế mà mình không phải xấu hổ khi sánh đôi bên nàng". Việc "biến Naomi thành người phụ nữ thanh lịch" có ăn nhập gì với "cưng nựng Naomi như búp bê" không? Bây giờ chuyện đó xem chừng lố bịch nhưng tình yêu dành cho cô làm tôi bối rối quá chừng nên không thể nhận thấy cái mâu thuẫn lồ lộ đó. "Naomi, chơi là chơi, học là học," tôi luôn nói. "Em chịu khó chăm chỉ cải thiện bản thân, anh sẽ mua cho thêm nhiều thứ nữa." Cô nàng lúc nào cũng trả lời: "Dạ, em sẽ học, em hứa sẽ trở thành một người phụ nữ thanh lịch." Ngày nào cũng thế, ăn tối xong tôi sẽ dành nửa tiếng cho cô, ôn lại bài đọc và hội thoại tiếng Anh. Tôi nói gì thì nói, "chơi" và "học" cứ lẫn vào nhau. Mặc bộ đồ nhung hoặc váy ngủ, Naomi nằm bò trên ghế, ngón chân treo lủng lẳng một chiếc dép như món đồ chơi. "Naomi, em làm gì vậy! Học thì phải nghiêm chỉnh chứ!" Cô nàng ngồi thẳng lại, cúi mặt xuống, vờ làm giọng nhõng nhẽo của học sinh tiểu học: "Xin lỗi thầy giáo ạ!" hoặc "Thầy Kawai ơi, em xin lỗi!" Sau đó liếc xéo một cái rồi nhéo má tôi. Tôi không đủ can đảm hà khắc với cô học trò đáng yêu này, những lời trách mắng của tôi luôn kết thúc bằng trò chơi cưỡi ngựa nhong nhong. Tôi không biết giờ thanh nhạc Naomi làm cái gì, nhưng cô bé học tiếng Anh với bà Harrison đã được hai năm. Nhẽ ra bây giờ cô đã phải tiến bộ kha khá chứ. Naomi đã học xong sách vỡ lòng, bấy giờ đã đi được già nửa quyển trung cấp; giáo trình nghe nói của Naomi là English Echo, còn giáo trình ngữ pháp là cuốn Ngữ Pháp Trung cấp của Kanda Naibu. Chừng đó tương đương với trình độ lớp chín. Nhưng học lực Anh văn của Naomi vẫn lẹt đẹt dưới cả học sinh lớp tám. Thắc mắc, tôi bèn hỏi bà Harrison. Bà giáo tử tế, mập mạp đã quá lứa lỡ thì đáp với một nụ cười vui vẻ: "Đâu, đâu có." Tiếng Nhật của bà cô này hơi kỳ cục. "Naomi rất sáng dạ. Em nó học giỏi." ằ ế "Cô bé đúng là sáng dạ, nhưng tôi tin rằng năng lực tiếng Anh của cô bé nhẽ ra phải khá hơn thế này. Naomi đọc được, nhưng về cấu trúc văn phạm hay dịch từ Anh sang Nhật thì..." "Không đâu," bà giáo mỉm cười ngắt lời tôi. "Anh nghĩ sai. Người Nhật chỉ quan tâm đến ngữ pháp, dịch thuật. Thật tệ quá. Học tiếng Anh không được nghĩ về ngữ pháp. Không được dịch. Đọc tiếng Anh, đọc đi đọc lại – thế mới tốt nhất. Naomi phát âm hay. Nói tốt. Tiếng Anh của em sẽ sớm khá lên." Bà cô có lý. Nhưng ý tôi không phải là ép Naomi ghi nhớ văn phạm một cách máy móc. Nhẽ ra học Anh văn hai năm, hết ba quyển tập đọc, thì cô nàng chí ít cũng phải nắm được thì quá khứ, chuyển sang câu bị động, và khi nào thì dùng câu giả định. Nhưng bảo Naomi dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh thì rõ ràng cô bé chẳng có chút kiến thức nào như vậy. Naomi còn không hơn được các học sinh trung học hạng bét. Cứ cái đà này, dù đọc phát âm Anh tốt đến đâu thì Naomi cũng chẳng thể nói tiếng Anh lưu loát được. Chả hiểu hai năm vừa rồi cô bé được dạy cái gì. Nhưng bà giáo phớt lờ vẻ phật ý của tôi, gật gà gật gù xem chừng hớn hở tự tin lắm: "Naomi là một cô bé thông minh," bà ta nhắc lại. Tôi đoán các giáo viên Tây có sự ưu ái nào đó với các học trò Nhật. Nói là "thiên vị" thì hơi quá lời song tôi phải nói chuyện đó quả là có thật. Tôi thấy hình như hễ thấy đứa bé trai, bé gái nào trông tây tây, lém lỉnh, dễ thương một tí là họ kết luận ngay đứa ấy thông minh, nhất là mấy bà quá lứa lỡ thì. Đó là lý do tại sao bà Harrison cứ khen ngợi Naomi tới tấp – ngay từ đầu bà ta đã khư khư cho rằng Naomi là "cô bé thông minh". Naomi phát âm rất trơn tru, đúng như bà giáo nói. Giọng cô bé hay là nhờ học thanh nhạc và hàm răng đều tăm tắp. Tiếng Anh của Naomi nghe cũng du dương, tôi chắc chắn về mặt này ít ra cô bé hơn hẳn tôi. Chẳng trách bà Harrison lại mê mẩn giọng Naomi thế. Tôi nhận ra bà giáo yêu mến Naomi đến cỡ nào khi ngỡ ngàng trông thấy những bức ảnh Naomi được ghim đầy quanh gương trang điểm của bà. Tôi không hài lòng với quan điểm và phương pháp sư phạm của bà Harrison, nhưng bà ta là một người phương Tây có cảm tình với Naomi và khen cô nàng sáng dạ. Đây đúng là thứ tôi hy vọng, và mặc dù bực bội tôi vẫn thấy hả hê khi bà Harrison trực tiếp khen ngợi với tôi. Không chỉ thế – như hầu hết những người Nhật khác, tôi có xu hướng cảm thấy bất lực khi giao tiếp với người Tây phương và mất can đảm để nêu chính kiến. Bị những lời nói tự tin bằng thứ tiếng Nhật kỳ quặc của bà Harrison làm rối, tôi đã không nói được những điều nên nói. Không vấn đề gì, tôi tự nhủ. Nếu ấ ế ổ ỗ ế bà giáo thấy thế, thì mình bổ sung những chỗ còn khuyết tại nhà. Tôi bảo bà Harrison: "Vãng, đúng thế thật. Đúng như chị nói. Giờ tôi hiểu rồi. Tôi sẽ không còn lo lắng nữa." Với một nụ cười mơ hồ vẻ nịnh nọt, tôi xin phép cáo từ và ra về trong tức tối. Tôi chẳng giải quyết được gì cả. "Joji ơi, cô Harrison bảo thế nào?" Tối hôm ấy Naomi hỏi. Cứ nghe khẩu khí đó, thì cô nàng tự mãn với sự ủng hộ của bà giáo và chẳng xem trọng vấn đề lắm. "Cô ấy nói em học rất tốt. Nhưng người phương Tây không hiểu tâm lý học trò Nhật. Cô ấy đã lầm khi cho rằng chỉ cần phát âm hay, nói liến thoắng là đủ. Em nhớ giỏi nhưng lúc anh bảo em dịch lại thì em chẳng hiểu nội dung nói gì sất. Thế thì có hơn gì con vẹt đâu. Cứ thế thì tiếng Anh của em không thể dùng trong thực tiễn được." Đó là lần đầu tiên tôi thực sự trách mắng Naomi. Tôi khó chịu trước vẻ mặt đắc ý và cái cách cô vào hùa với bà Harrison như muốn nói: "Em bảo anh thế nào?" Ngoài ra, tôi còn nghi ngờ chuyện Naomi có thể trở thành "người phụ nữ thanh lịch" mà chúng tôi đã bàn tới. Bỏ chuyện tiếng Anh của cô sang một bên, chả khó khăn gì để đoán định tương lai cho cái đầu óc không thể nắm được những quy tắc ngữ pháp. Tại sao con trai học hình học, đại số ở trường trung học? Mục tiêu không chỉ là cung cấp một công cụ thực tiễn mà còn để trau dồi khả năng sử dụng tư duy chính xác. Trong quá khứ, phụ nữ không có óc phân tích cũng được thôi, nhưng nay thì không. Một người đàn bà muốn "ngang hàng với người Tây phương" và "thanh lịch" cũng chẳng ăn nhằm gì nếu cô ta không có khả năng tư duy, phân tích một cách có hệ thống. Trước đây tôi chỉ dành chừng ba mươi phút ôn bài cho Naomi. Bây giờ tôi chặt chẽ hơn, dạy cô bé dịch Nhật-Anh và ngữ pháp khoảng một tiếng hoặc một tiếng rưỡi mỗi ngày. Tôi không cho phép cái không khí cợt nhả đùa giỡn như trước, mà mắng thẳng vào mặt Naomi. Vì cô yếu nhất môn đọc hiểu nên tôi hạn chế giải thích chi tiết, chỉ cho vài gợi ý để tự cô phải suy luận phần còn lại. Chẳng hạn khi đang học về thì quá khứ, tôi sẽ cho Naomi bài tập thế này: "Nào, thử dịch một câu sang tiếng Anh nhé, nếu em đọc hiểu được tiếng Anh thì cũng phải dịch được tiếng Nhật sang tiếng Anh." Sau đó tôi kiên nhẫn chờ Naomi đưa ra câu trả lời. Nếu Naomi làm sai, tôi cũng không nói là sai ở đâu. "Em không hiểu chứ gì? Xem lại ngữ pháp đi," tôi bảo, đưa quyển sách giáo khoa cho Naomi hết lần này đến lần khác. ế ố ẫ Nếu cuối cùng Naomi vẫn không làm được tôi sẽ bảo: "Naomi, đơn giản thế này mà cũng không xong thì về sau làm nên trò trống gì ? Giờ em mấy tuổi rồi? Đã bị chỉnh bao nhiêu lần ở đúng một chỗ mà vẫn không hiểu? Đầu óc để đi đâu thế? Bà Harrison khen em sáng dạ mà anh chả thấy sáng dạ chỗ nào. Có thế này mà cũng không làm được thì đi học thể nào cũng đội sổ." Rốt cuộc tôi nóng máu và bắt đầu quát cô nàng. Naomi phồng má, bĩu môi rồi bắt đầu sụt sùi. Bình thường chúng tôi là cặp đôi hạnh phúc nhất, quấn quýt nhất – Naomi cười tôi cũng cười, hai đứa chẳng bao giờ lời qua tiếng lại. Nhưng đến lúc ôn bài tiếng Anh cho cô nàng, tâm trạng hai chúng tôi trở nên u ám, bức bách. Mỗi ngày một lần tôi sẽ nổi nóng còn cô nàng thì giận dỗi. Ban nãy còn khúc kha khúc khích, bỗng chúng tôi ngồi cứng nhắc, nhìn nhau bằng đôi mắt thù địch. Tôi quên khuấy luôn cả nguyện vọng ban đầu là biến Naomi thành một người phụ nữ thanh lịch; thất vọng trước sự bất lực của mình, tôi bắt đầu thấy cô bé khó ưa. Nếu Naomi là một thằng nhóc bướng bỉnh, khéo tôi đã điên lên cho ăn đòn rồi. Nhưng không, lúc nào tôi cũng chỉ quát "Đồ ngu!" là hết mức. Có lần tôi cốc đầu Naomi một cái. Phản ứng của cô bé trở nên tiêu cực, có biết đáp án cũng không chịu trả lời. Cố kìm nén những giọt nước mắt tuôn dài trên má, cô ấy ngồi im như khúc gỗ. Mỗi khi rơi vào tâm trạng mâu thuẫn này Naomi cực kỳ bướng, mà bản tính cô bé thì không có sự nhượng bộ. Cuối cùng tôi đành chịu, bỏ ngang luôn. Rồi một ngày kia có chuyện xảy ra. Tôi đã bảo Naomi không biết bao nhiêu lần rằng thì tiếp diễn (doing, going, vân vân) thì phải đặt động từ "to be" lên trước, nhưng cô mãi không hiểu. Naomi cứ sai vẫn hoàn sai kiểu "I going" hoặc "he making". "Đồ ngu!" Tôi gào thét liên tục. Tôi cắt nghĩa những cách chia động từ "go", các thì quá khứ, tương lai, tương lai hoàn thành, quá khứ hoàn thành đã khản cả cổ. Thế mà không ngờ Naomi vẫn dốt đặc cán mai. Con bé viết "He will going" rồi "I had going." Nổi điên, tôi gào lên, "Ngu! Ngu không để đâu cho hết! Phải nói bao nhiêu lần là không được chia thành 'will going' với 'had going? Không hiểu thì phải làm đến khi hiểu thì thôi. Em còn sai thì anh chưa tha cho em, có phải thức cả đêm cũng phải làm đúng." Tôi thô lỗ đẩy mạnh cây bút chì và cuốn tập về phía Naomi. Mặt cô tái nhợt. Môi cô mím lại, cặp mắt ánh lên nhìn tôi dưới khuôn mặt cúi gằm. Đột nhiên cô bé giật lấy quyển vở xé toạc làm đôi và ném xuống sàn. Sau đó, cô lại nhìn tôi bằng ánh mắt đáng sợ như muốn khoan một lỗ trên mặt tôi. "Em nghĩ mình đang làm gì hả?" sốc trước ánh mắt chằm chằm dữ tợn của cô, tôi cần một khoảnh khắc để bình tâm lại. "Muốn làm loạn hả? Đứa nào bảo là muốn học? Đứa nào bảo là sẽ học chăm? Rồi thì 'Em sẽ trở thành ổ ồ một người phụ nữ thanh lịch.' Em thay đổi suy nghĩ rồi à? Sao lại xé sách xé vở như thế? Xin lỗi anh đi. Em không xin lỗi, anh cắt đứt với em! Ra khỏi nhà ngay hôm nay!" Naomi im lặng một cách lì lợm, mặt trắng bệch như tờ giấy. Một cái cười nhạt thấp thoáng trên môi cô mặc dù cô sắp khóc đến nơi. "Được lắm, đừng xin lỗi làm gì nữa. Ra ngoài. Cút, cút ngay!" La mắng như thể chỉ như nước đổ đầu vịt với con bé này thôi, tôi nghĩ, rồi đứng dậy gói ghém mấy bộ quần áo của Naomi và cuộn vào thành một bọc. Tôi cầm theo cả cặp táp từ tầng hai xuống, lấy ra hai tờ mười yên. "Naomi," tôi nói, dí cái bọc vào tay cô. "Anh đã bỏ mấy thứ vào trong này. cầm lấy, đêm nay về Asakusa. Đây là hai mươi yên. Không nhiều nhặn gì, nhưng bây giờ thì tạm đủ. Mấy hôm nữa anh sửa soạn xong xuôi, mai anh sẽ gửi nốt chỗ đồ đạc còn lại của em... Sao? Naomi, sao em không nói gì cả?" Trông Naomi láo toét thế chứ cô nàng rốt cuộc vẫn là trẻ con. Chùn bước trước quyết tâm của tôi, cô bé cúi xuống nom thật tội, cái đầu như muốn thụt vào cô. "Em ngang bướng nhưng anh đã nói là làm, không nhân nhượng. Nếu em biết mình sai thì xin lỗi. Không muốn thì về nhà đi. Quyết định đi. Có xin lỗi không? Hay muốn về Asakusa nào?" Naomi lắc đầu. "Thế là không muốn về chứ gì?" Cô bé lại lắc đầu. "Em có xin lỗi không?" Cô gật đầu. "Nếu vậy anh tha cho em. Cúi đầu xin lỗi cho tử tế vào." Cô bé miễn cưỡng chống tay lên mặt bàn nhưng có vẻ muốn giễu cợt tôi khi cúi đầu vẻ lơ đãng, đôi mắt nhìn lảng đi. Bất kể đó là bản chất Naomi ngay từ đầu hay tại tôi dung túng cô bé thì tính tình ngang ngược, hỗn hào của cô ngày càng tồi tệ. Hoặc có thể tôi đã bỏ qua, xem đó như trò nghịch ngợm dễ thương của thiếu nữ khi cô mới mười lăm, mười sáu và bây giờ khi đã lớn hơn thì Naomi được thế tác quái ngoài tầm kiểm soát. Trước đây Naomi vùng vằng nhõng nhẽo nhưng bị mắng một tí là sẽ ngoan ngay, ấy vậy mà bây giờ hễ có gì không hài lòng là ẩ cô nàng lập tức làm mình làm mẩy. Naomi khóc cũng đáng yêu nhưng thỉnh thoảng, tôi có mắng mỏ đến đâu cô bé vẫn thách thức tôi bằng cách giả bộ ngây thơ hoặc ngước nhìn tôi bằng ánh mắt sắc lẻm. Nếu dòng điện sinh lí là có thật thì đôi mắt Naomi tích nhiều điện lắm đấy. Có vẻ như khó mà tin được đó là đôi mắt của một phụ nữ. Long lanh, sắc bén, dữ tợn nhưng vẫn ánh lên vẻ quyến rũ thần bí. Và đôi khi Naomi phóng đôi mắt dữ tợn vào tôi, tôi thấy chợt rùng mình. Bảy Trái tim tôi là một bãi chiến trường ngổn ngang cảm xúc thất vọng xen lẫn yêu đương. Tôi đã chọn lầm; Naomi chẳng hề thông minh như tôi hi vọng. Dù muốn thì tôi cũng không thể phủ nhận lâu hơn được nữa. Bây giờ tôi thấy rõ cái mong muốn biến cô nàng trở thành người phụ nữ thanh lịch chỉ là mơ hão. Tôi đầu hàng trước tình hình: xuất thân hèn kém đúng là xuất thân hèn kém, loại con gái ở Senzoku lẽ ra phải đi làm tiếp viên quán cà phê, trao cho người nào đó một nền giáo dục không phù hợp với họ thì chẳng đạt kết quả gì cả. Và tôi đã từ bỏ tham vọng của mình. Nhưng đồng thời thân thể Naomi lại quyến rũ tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi dùng chữ "thần thể" là có cân nhắc. Chính làn da, hàm răng, đôi môi, mái tóc, đôi mắt – vẻ đẹp của thân thể Naomi – đã hấp dẫn tôi. Chẳng có giá trị tinh thần nào trong đó sất. Cô nàng đã phản bội lại những kỳ vọng của tôi về mặt tinh thần, nhưng về mặt xác thịt thì lại vượt ngoài lý tưởng của tôi. Tôi nghĩ cô ta là một người ngu xuẩn. Hết thuốc chữa. Bất hạnh thay, tôi càng thấy như vậy, thì lại càng bị vẻ đẹp của Naomi hớp hồn. Điều này thật xúi quẩy cho tôi. Dần dần tôi quên luôn cả ý niệm "dạy dỗ" cô ả: Tôi mới là người bị lôi kéo, đến lúc nhận thức được chuyện gì đang xảy ra thì tôi chẳng làm gì được nữa. Tôi tự nhủ đời có phải bao giờ cũng cầu được ước thấy đâu. Tôi từng mong sẽ làm cho Naomi đẹp người đẹp nết. Tôi thất bại với phần "nết" nhưng đã thành công mỹ mãn về phần "người". Tôi không hề kỳ vọng cô nàng sẽ đẹp đến thế. Thành công của tôi ở khoản này đã quá thừa để bù lại những thất bại tinh thần... Ép mình nghĩ như vậy, tôi đành cố thỏa mãn với cái mình có. "Joji, dạy tiếng Anh cho em thì không được mắng em ngu." Naomi nhanh chóng để ý sự thay đổi trong lòng tôi. Mặc dù chẳng có tí năng khiếu nào về văn phạm nhưng cô nàng đọc vị nét mặt tôi cừ lắm. "Anh đã quyết rồi, càng mắng em càng trơ mặt thớt thì mắng làm gì. Anh đã thay đổi chiến thuật." Cô khịt mũi. "Dĩ nhiên. Anh quát em như vậy nên em mới không nghe lời. Thực ra mấy bài tập đó hả, em làm được gần hết nhưng em muốn hành hạ anh nên mới vờ như không hiểu. Bộ không biết hả?" "Cái gì, thật á?" Tôi biết tỏng cô ả vụng chèo khéo chống thôi, nhưng cứ làm bộ giật mình. ấ "Lại chả! Ai cũng làm được mấy bài đó. Anh tưởng em không làm được thì anh mới ngốc nhé. Anh nổi cáu trông rõ tức cười." "Hừ, anh mắc lỡm em rồi." "Giờ anh tính sao? Chắc là em thông minh hơn anh tưởng một chút, nhỉ?" "Ờ, em thông minh. Anh không phải đối thủ của em." Dương dương tự đắc, cô nàng cười như nắc nẻ. Đến đây tôi có một chuyện kỳ quái cần giãi bày. Hi vọng quý độc giả kiên nhẫn lắng nghe mà không cười nhạo tôi. Khi học trung học, tôi được dạy về Antony và Cleopatra trong giờ Lịch sử. Như các bạn đã biết, Antony và Augustus giao tranh trên sông Nile. Cleopatra theo Antony xung trận, nhưng nom quân mình yếu thế, bà bèn đánh bài chuồn ngay lập tức còn Antony thấy nữ hoàng Ai Cập tàn nhẫn bỏ mặc mình thì ngay giây phút quyết định cũng rút lui đuổi theo Cleopatra. "Các cậu," thầy dạy sử nói với chúng tôi, "cái ông Antony này mải đeo đuổi đàn bà mà mất mạng. Ông ta là kẻ ngu ngốc nhất lịch sử, đời đời bị hậu thế cười chê. Hỡi ôi, một bậc anh hùng ai lại kết liễu đời mình như thế..." Thái độ ông thầy kỳ quặc đến nỗi cả bọn học trò cười phá lên. Đương nhiên tôi cũng cười. Nhưng vấn đề ở chỗ này. Tôi không hiểu sao Antony lại phải lòng một người đàn bà nhẫn tâm như thế. Mà đâu chỉ có Antony, trước đó cả hoàng đế Julius Caesar cũng vứt bỏ thể diện đi dan díu với Cleopatra. Còn nhiều ví dụ khác nữa. Xét về chuyện tranh chấp gia đình thời Mạc phủ, hoặc thịnh suy của các triều đại, bao giờ cũng thấy trong bối cảnh lịch sử có sự thao túng của một hồng nhan họa thủy. Nhẽ nào sự thao túng đó khéo léo, xảo quyệt đến độ ai cũng bị lừa? Tôi nghĩ không phải thế. Cleopatra dẫu có mưu ma chước quỷ thế nào, thì bà cũng không thể đạt tầm thao lược của Caesar hay Antony. Một người đàn ông cảnh giác chả cần phải là trang anh hùng cũng biết được người đàn bà có thật lòng hay không. Một người đàn ông cho phép mình bị lừa dối dù đã biết điều đó hủy hoại chính mình thì chẳng qua là do ông ta yếu lòng. Nếu điều này thực sự là trường hợp của Antony, thì anh hùng thật cũng chả có gì hơn người thường... Hồi ấy tôi bí mật nghĩ vậy, và chấp nhận sự phán xét của ông thầy rằng Antony là "kẻ ngu ngốc nhất lịch sử, đời đời bị hậu thế cười chê". ầ ể Thỉnh thoảng lời thầy nói vọng lại trong tôi, tôi có thể tự mường tượng cảnh mình đang cười hùa theo học sinh khác. Mỗi khi hồi tưởng lại cảnh ấy tôi nhận thức được rằng mình chẳng còn tư cách nào để giễu cợt Antony nữa, bởi bây giờ tôi đã hiểu tại sao người hùng La Mã ấy tự biến mình thành thằng ngốc, tại sao Antony lại quá dễ dàng bị Cleopatra bỏ bùa. Tôi thậm chí còn thấy thông cảm với ông ta. Thói đời thường bảo "đàn bà lừa dối đàn ông". Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, kỳ thủy đâu phải do đàn bà lừa dối. Mà kỳ thực, người đàn ông chẳng cần khơi gợi cũng tự sung sướng mà chui đầu vào rọ rồi, khi đã phải lòng người đàn bà thì nàng nói gì hắn đều thấy bùi tai, chẳng kể đúng sai. Khi nàng tựa đầu vào vai hắn nhỏ những giọt lệ vờ vĩnh, hắn sẽ nhìn nhận theo hướng bao dung: "À, nàng đang định lợi dụng ta. Nhưng nàng là một tạo vật thú vị, khả ái. Ta biết ý đồ của nàng, nhưng cứ mặc cho nàng quyến rũ ta. Nàng cứ biến ta thành thằng ngốc đi nào." Hắn hùa theo cuộc chơi như một người lớn cố gắng làm vui lòng đứa trẻ con. Hắn ta không có ý định để nàng dắt mũi. Ngược lại, hắn cười thầm vì chính hắn mới là người đánh lừa nàng. Naomi và tôi là một trường hợp như thế. Khi cô nàng bảo "Em thông minh hơn anh nhá Joji" Naomi tưởng là bịp được tôi. Tôi giả ngu, vờ sa lưới cô nàng. Tôi hạnh phúc hơn nhiều khi thấy Naomi đắc ý và nhìn vẻ sung sướng trên gương mặt cô tôi thấy hạnh phúc thay vì vạch mặt những lời điêu toa ngớ ngẩn của cô. Làm thế cũng thỏa mãn đòi hỏi của lương tâm tôi. Naomi không phải người đàn bà thông minh thì cho cô nàng cảm giác tự tin rằng mình thông minh cũng đầu có gì sai. Điểm yếu nhất của đàn bà Nhật là họ quá thiếu tự tin. Thành ra nhìn họ quá e dè so với đàn bà Tây. Đối với một người đẹp hiện đại, vẻ mặt và thần thái tinh anh, bén nhạy còn quan trọng hơn đường nét khả ái. Nếu nàng không thực sự tự tin thì chỉ cần thùng rỗng kêu to thôi cũng được: người đàn bà tự cho mình là thông minh, xinh đẹp tự khắc sẽ đẹp. Bấy giờ tôi tin vào điều đó nên chẳng vội dẹp thói tự đắc về trí tuệ của Naomi đi, mà còn làm mọi thứ để kích thích cô nữa. Luôn vui vẻ sẵn sàng bị lừa, tôi đã đưa đẩy cô đến sự tự mãn lớn hơn bao giờ hết. Chẳng hạn, chỉ cần chú tâm là tôi có thể thắng Naomi những ván cờ, ván bài trẻ con ngày ấy chúng tôi hay chơi nhưng tôi cứ để cô nàng thắng. Chung cuộc, Naomi hống hách bảo: "Em chơi giỏi ăn đứt anh." Cô còn khinh khỉnh thách thức tôi: "Lại đây Joji, đã đến lúc em cho anh thua tan tác rồi đấy." ắ ầ "Được lắm, lần này anh sẽ phục thù. Này nhé, anh mà chơi nghiêm túc thì sẽ không thua hạng như em đâu, chẳng qua chơi với con nít nên anh không để ý thôi." "Đừng có ngụy biện. Đánh bại được em rồi hẵng dạy đời." "Được lắm! Ván này anh thắng chắc, em chờ xem." Tôi lại cố ý chơi tồi như bình thường và để Naomi thắng. "Thế nào, Joji? Thua con nít anh thấy sao? Hết hi vọng rồi nhé. Nói gì thì nói, anh cũng chẳng phải đối thủ của em đâu. Thực tình, Joji à, đàn ông ba mươi tuổi đầu mà thua con bé mười tám! Đúng là anh không biết chơi cờ mà." về sau, Naomi càng dương dương tự đắc, bảo tôi rằng: "Có lẽ hơn tuổi chưa chắc đã hơn được đầu óc nhỉ?" hoặc "Thôi chấp nhận đi, anh là đồ ngốc!". Và cô nàng lại phì cười vẻ khinh khỉnh, xấc xược. Điều đáng sợ là kết quả của chuyện này. Ban đầu tôi chỉ mua vui cho Naomi hoặc chí ít tự cho là thế. Nhưng dần dần thua cuộc đã trở thành thói quen và Naomi ngày càng tự tin đến nỗi bây giờ tôi không thể thắng được dù cố gắng thế nào. Thắng bại không chỉ quyết định bởi trí tuệ. Đúng quả có cái gọi là tinh thần, hoặc nói cách khác là năng lượng sinh lý. Điều này đặc biệt đúng trong cờ bạc. Mỗi khi chơi ván quyết định, Naomi thường tấn công ngay từ đầu với sự tập trung và sức mạnh thần diệu khiến tôi chao đảo, không bao giờ có cơ hội lấy được thế chủ động. "Chơi chay không ăn tiền thì chán lắm." Rốt cuộc cô nàng bảo. "Đây, để em tố trước." Đã quen mui, không ăn tiền thì Naomi không chịu chơi. Càng cược lớn tôi lại càng thua nhiều. Dù bản thân không có một cắc nhưng lúc nào Naomi cũng là người tố trước, mười hoặc hai mươi xu – và tùy ý bòn rút của tôi. "Có ba mươi yên mới mua đuợc bộ kimono ấy. Nào, em sẽ chơi bài để kiếm tiền từ anh." Cô nàng nói với giọng thách thức. Thỉnh thoảng Naomi thua nhưng có thua chăng nữa thì cô nàng cũng biết những "nước đi" khác để vòi tiền cho kỳ được. Một khi đã quyết tâm thì Naomi sẽ làm mọi việc cần thiết. Cô nàng thường mặc một chiếc áo ngủ dáng thụng dài, thắt hờ đai lưng và khá hớ hênh khi chúng tôi chơi với nhau để có thể thực hiện những "nước đi" cần thiết ngay lập tức. Khi nào bí, Naomi sẽ ỡm ờ ngả ngốn trên ghế, mở rộng cổ áo, thò cẳng chân ra và nếu như vậy chưa ăn thua thì cô ả ằ ố ắ sẽ nằm lên đùi tôi, vuốt má tôi, véo khóe miệng tôi – nói ngắn gọn, là giở trò quyến rũ. Tôi có rất ít sức đề kháng trước những hành động đó. Đặc biệt, khi cô ả tung chiêu kết liễu (mà tôi không thể tả ra rõ ràng ở đây) thì đầu óc tôi sẽ choáng váng, mọi vật xung quanh tối sầm, tôi quên khuấy luôn cả trò chơi. "Không công bằng, Naomi. Em không được làm thế." "Công bằng chứ sao không. Đây cũng là một nước đi mà cưng." Sự tập trung của tôi càng lúc càng trôi tuột khỏi trò chơi, mọi thứ trước mắt nhòe đi. Tôi chỉ nhìn thấy không gì ngoài lờ mờ khuôn mặt lém lỉnh của Naomi đang hiện lên một nụ cười khiêu gợi... "Bất công, bất công, ai đánh bài như thế..." "Bất công gì? Khi đàn ông, đàn bà chơi với nhau thì ai cũng dùng tiểu xảo thôi. Em đã nhìn thấy rồi. Hồi bé em từng chứng kiến chị gái chơi bài với đàn ông. Bà ấy có nhiều chiêu trò lắm ấy." Tôi tin rằng khi Antony bị Cleopatra chinh phục mọi chuyện cũng diễn ra như thế này: dần dần ông ta bị tước bỏ sức đề kháng và rơi vào nanh vuốt của bà. Cho người đàn bà mình yêu sự tự tin là một nhẽ, nhưng sẽ để lại hậu quả là mất đi sự tự tôn của bản thân. Khi điều đó xảy ra thì không còn cách nào vượt qua được thế thượng phong của nàng. Việc đó dẫn tới những điều xui rủi không thể lường trước. Tám Chuyện xảy ra một buổi tối nóng nực đầu tháng Chín, mùa thu năm Naomi mười tám tuổi. Ở văn phòng công việc đìu hiu nên tôi về nhà trước giờ tan sở một tiếng. Thật bất ngờ, Naomi đang đứng trong vườn nói chuyện với một cậu trai mà tôi chưa trông thấy bao giờ. Cậu ta trạc tuổi Naomi hoặc cùng lắm chỉ hơn một tuổi. Cậu mặc bộ kimono màu cháo lòng không có lớp lót, đội cái mũ rơm kiểu cao bồi có dải băng trang trí màu sáng. Vừa nói cậu ta vừa cầm cái ba-toong gõ gõ vào đôi dép quai hậu bằng gỗ dưới chân. Gương mặt cậu ta có đường nét và rắn rỏi, chân mày rậm nhưng đáng tội là lấm tấm đầy mụn. Naomi đang ngồi xổm dưới chân cậu trai ở sau luống hoa nên tôi không thấy cô rõ lắm. Tôi chỉ thấy khuôn mặt quay nghiêng thấp thoáng và mái tóc cô nàng sau những bông bách nhật, ngải và trúc đào. Cậu chàng thấy tôi bèn bỏ mũ ra và chào Naomi. "Hẹn gặp lại sau," anh chàng bảo, nhanh chân chạy ra cổng. “Chào anh nhé,” Naomi nói và đứng dậy. Cậu ta đáp "Chào" mà không quay lại nhìn cô nàng. Khi lướt qua tôi, cậu ta đưa tay cầm vành mũ như muốn giấu mặt đi. "Ai vậy?" Tôi hỏi, không phải vì ghen mà chỉ tò mò trước cảnh tượng lạ lùng vừa trông thấy. "Cậu ấy hả? Bạn em đó. Tên là Hamada." "Em biết cậu ta lâu chưa?" "Ô, lâu rồi. Anh ấy cũng học thanh nhạc ở Isarago. Mặt anh ấy đầy mụn vậy nhưng hát hay lắm. Giọng nam trung rất ổn. Bọn em cùng tham gia hợp ca với hai người nữa ở buổi trình diễn vừa rồi." Tôi soi kĩ đôi mắt Naomi, lòng đã có chút ngờ vực trước nhận xét không cần thiết về diện mạo của cậu kia nhưng cô nàng trông ung dung, thái độ vẫn y nguyên như bình nhật. "Cậu ta có thường xuyên đến đây không?" "Không, lần đầu anh ạ. Nhà anh ấy ở cùng xóm nên ghé qua. Anh ấy bảo bên đó đang mở câu lạc bộ giao lưu nhảy đầm nên rủ em nhập hội." ầ ấ Thực sự tôi hơi lo, nhưng nghe Naomi tôi cũng dần chấp nhận những điều cô nói. Chắc lý do cậu chàng đến chỉ có thế. Hai đứa nói chuyện trong vườn vào giờ tôi thường ở sở về, vậy là đủ để xóa tan sự nghi ngờ của tôi. "Em có nói sẽ tham gia không?" "Em bảo để cân nhắc đã..." Sau đó Naomi bất chợt đổi giọng xin xỏ mè nheo: "Anh không cho hả? Đi mà! Hay anh cũng tham gia với em xong chúng mình đi với nhau luôn." "Anh cũng tham gia câu lạc bộ được à?" "Ai cũng tham gia được mà. Cô giáo là người Nga, quen cô Sugizaki dạy nhạc ở Isarago. Cô ấy trốn từ Siberia sang đây, không có tiền, nên cô Sugizaki mở câu lạc bộ để giúp bạn. Càng nhiều học viên càng tốt. Anh cho em tham gia đi mà!" "Được. Nhưng không biết anh có học khiêu vũ phương Tây được không nhỉ?" "Tất nhiên là được. Anh học được ngay ý mà." "Nhưng anh có biết gì về nhạc nhẽo đâu." "Ôi dào, cứ học là anh nghe nhạc sẽ vào thôi. Chả có gì đâu. Joji, anh phải tham gia câu lạc bộ cùng em nhé. Em không khiêu vũ một mình được đâu. Chúng mình thỉnh thoảng phải ra ngoài. Hôm nào cũng chết dí ở nhà chả vui gì cả." Tôi đã cảm nhận từ trước là Naomi bắt đầu buồn chán với cuộc sống bấy giờ của hai đứa. Hơn ba năm đã qua từ ngày chúng tôi xây dựng tổ ấm ở Omori. Trừ kỳ nghỉ hè ra, chúng tôi dành toàn bộ thời gian chỉ có hai người trong "ngôi nhà cổ tích", tránh né tiếp xúc với xã hội nói chung; chơi trò gì với nhau đi nữa thì rốt cuộc Naomi cũng thấy nhạt. Tệ hơn nữa, Naomi là loại cả thèm chóng chán. Thoạt tiên cô nàng sẽ toàn tâm toàn ý với hoạt động mới nhưng hứng thú của cô không được bao lâu. Mặt khác, lúc nào cô cũng phải có cái gì đó tiêu khiển, chán đánh bài, chơi cờ và bắt chước minh tinh màn bạc thì Naomi quay lại với luống hoa cô đã bỏ mặc một thời gian dài. Naomi lúi húi với những bông hoa, xới đất ầm ĩ, gieo hạt, tưới nước nhưng chẳng qua chỉ là giết thời giờ chốc lát. "Chán quá đi." Naomi bảo. "Làm gì bây giờ?" Nằm trên ghế sofa, cô đặt quyển tiểu thuyết vừa mở ra xem sang một bên và há miệng ngáp. Mỗi lần thấy cô nàng như thế, tôi ao ước có cách nào thêm nếm chút đặc sắc cho ố ầ ấ cuộc sống tẻ nhạt của chúng tôi. Lời mời vào câu lạc bộ nhảy đầm xuất hiện đúng lúc đấy nên tôi nghĩ nhận lời cũng chẳng phải ý tồi. Naomi đâu còn là cô bé Naomi ba năm trước khi chúng tôi đi Kamakura cùng nhau. Mọi chuyện đã đổi khác. Nếu tôi cho Naomi trưng diện, đem cô nàng giới thiệu với tầng lớp thượng lưu, cô có thể ngang tài ngang sức với hầu hết các quý bà quý cô. Tôi thấy phơi phới tự hào với ý nghĩ đó. Như đã nói, tôi chưa hề có bạn bè thân thiết nào ngay cả ở trường học, tôi cố trốn tránh những mối quan hệ không cần thiết nhưng không hề e ngại bon chen vào giới tinh hoa. Gốc gác quê mùa, vụng về trước những thú vui thượng lưu và lúng túng trong quan hệ giữa người với người nên tôi rụt rè bẽn lẽn, có điều chính lý do đó lại khiến giới thượng lưu đặc biệt hấp dẫn tôi. Tôi đã cưới Naomi ngay từ đầu vì muốn biến cô nàng thành một mỹ nhân, tay trong tay với nàng mỗi ngày, để thiên hạ phải tán thưởng nàng. "Bà nhà thật quý phái." Tôi muốn nghe những người thượng lưu nói như vậy. Tham vọng đó thôi thúc tôi, tôi không muốn nhốt Naomi trong "lồng" mãi mãi. Như Naomi bảo, bà giáo dạy khiêu vũ là một Nữ bá tước tên là Aleksandra Shlemskaya. Phu quân là ông Bá tước đã mất tích trong Cách Mạng tháng Mười. Họ có hai mụn con nhưng bà cũng không biết chúng lưu lạc nơi nào, bản thân bà suýt nữa đã không trốn được sang Nhật Bản. Không còn cách nào khác để mưu sinh nên bà đành dạy khiêu vũ giao tế. Câu lạc bộ được tổ chức bởi giáo viên thanh nhạc của Naomi là cô Sugizaki để giúp bà Bá tước, còn thư ký là cậu Hamada bạn Naomi, sinh viên trường đại học Keio. Lớp học được mở ở tầng hai một tiệm chuyên doanh nhạc cụ phương lấy tên là Yoshimura nằm trên dốc Hijiri ở Mita. Nữ bá tước cứ một tuần hai lần vào thứ Hai và thứ Sáu đến đấy, thành viên câu lạc bộ có thể chọn bất kỳ khung giờ nào tiện lợi cho mình từ bốn giờ chiều đến bảy giờ tối. Học phí là 20 yên một tháng cho mỗi người, nộp trước học sau. Naomi với tôi cùng tham gia mất bốn mươi yên. Tôi nghĩ bỏ ra từng ấy tiền đúng là ngớ ngẩn ngay cả khi bà giáo đúng là Tây xịn, nhưng Naomi một mực cho rằng khiêu vũ phương Tây cũng như nghệ thuật múa truyền thống của Nhật đều là thú chơi xa hoa, của nào phải kèm tiền nấy. Không cần kéo dài giờ học. Có năng khiếu chi cần học trong một tháng, gà mờ đến đâu thì cũng chỉ cần ba tháng. Như thế chả phải đắt đâu. "Đầu tiên phải giúp Madam Shlemskaya đã. Người đàn bà đáng thương. Khi xưa là Nữ bá tước, giờ thì sa cơ lỡ vận thế kia. Hamada bảo bà ấy khiêu vũ tài lắm. Bà cũng dạy được cả khiêu vũ biểu diễn nữa nếu có ố ế người muốn học. Vũ công chuyên nghiệp chả biết gì đâu. Phải học người như bà ấy mới chuẩn." Naomi liến thoắng như thể hiểu biết về khiêu vũ lắm không bằng và hăng hái quảng cáo cho bà Bá tước cô còn chưa gặp bao giờ. Naomi và tôi gia nhập câu lạc bộ như thế đấy. Chúng tôi đồng ý gặp nhau mỗi thứ Hai và thứ Sáu lúc sáu giờ tối ở tiệm nhạc cụ trên dốc Hijiri. Naomi đi thẳng từ chỗ học nhạc còn tôi đi từ cơ quan. Ngày đầu tiên cô gặp tôi lúc năm giờ ở trạm Tamachi, dẫn tôi đến tiệm nhạc cụ. Đó là một cửa hàng nhỏ hẹp nằm lưng chừng dốc. Ở trong bày nhiều dãy đàn dương cầm, phong cầm, máy quay đĩa và các thứ nhạc cụ khác chen chúc trong một không gian nhỏ. Tiếng bước chân xen lẫn tiếng máy hát láo nháo vọng xuống từ lầu trên, có vẻ như lớp học khiêu vũ đã bắt đầu. Năm hay sáu thanh niên nhìn như sinh viên đại học Keio đang lởn vởn ở chân cầu thang. Cách họ nhìn Naomi chằm chằm khiến tôi khó ở. Rồi một đứa gọi to, giọng thân thiết: "Naomi!" Đó là một thằng trong nhóm sinh viên. Cậu ta cầm cái gì đó từa tựa như đàn nguyệt, có phải là đàn mandolin không nhỉ? Cậu ta vừa gảy vừa lên dây đàn. "Chào đằng ấy." Naomi suồng sã nói. Nghe như giọng mấy cậu học trò. "Ma-chan sao rồi? Không đi khiêu vũ à?" "Chả đến lượt tớ," cậu ta đáp, cười gợi ý. Cậu để cây đàn lên kệ. "Môn đấy không hợp với tớ. Lớp vỡ lòng mà hai mươi yên một tháng thì đắt quá." "Nhưng chưa biết gì thì làm sao giờ?" "Chẳng bao lâu các cậu đều biết khiêu vũ phải không nào, thế thì tớ sẽ xui cậu dạy tớ. Tội gì phải phí tiền? Thấy người ta thông minh chưa?" "Điêu vừa thôi Ma-chan! Đồ khôn lỏi. Thế Hama có ở trên kia không?" "Ừ, ở trên đó. Lên mà xem." Cửa tiệm hình như là địa điểm tụ tập của đám sinh viên trong khu phố. Chắc Naomi qua lại chỗ này thường xuyên lắm, xem ra ai cũng quen mặt cô nàng. Tôi vừa lên cầu thang theo Naomi vừa bảo: "Naomi, mấy cậu sinh viên ấy là ai?" "Đấy là câu lạc bộ Mandolin của trường Keio. Các cậu ấy thô lỗ nhưng không phải người xấu đâu ạ." "Toàn là bạn em hả?" ẳ ế ắ ế "Không hẳn là bạn bè. Em đến đây mua sắm vô tình gặp họ thế là quen thôi." "Mấy cậu đó là hạng người gia nhập câu lạc bộ khiêu vũ à?" "Cũng có thể. Mà có khi không phải. Thế anh nghĩ thành viên câu lạc bộ phải già hơn hả? Mà thôi, biết ngay ấy mà." Phòng tập ở ngay đầu hồi hành lang tầng hai. Chúng tôi vừa lên hết cầu thang thì trông thấy năm, sáu người đang dậm chân đếm nhịp bằng tiếng Anh: "One, two, three." Vách ngăn giữa hai phòng kiểu Nhật đã bị dỡ để hợp thành một không gian lớn, mặt sàn được lát ván gỗ để chúng tôi đi vào bằng giày. Hamada đang chạy đôn chạy đáo rắc bột lên sàn – tôi đoán là để làm sàn trơn hơn thì phải. Đó là khoảng thời gian trong năm mà ngày dài và nóng nực, ánh tà dương lọt qua những ô cửa sổ hướng Tây để mở. Chìm trong sắc đỏ nhạt lung linh, một thân hình đơn độc đứng giữa phòng trong chiếc áo cánh bằng lụa Georgette trắng và chân váy vải xéc màu chàm. Dĩ nhiên đó là Madam Shlemskaya. Tôi nghe nói Madam có hai đứa con nên đoán mò rằng bà ta chừng ba lăm, ba sáu, nhưng hóa ra nom chỉ như ba mươi. Trông bà có dáng vẻ cương nghị và những nét nghiêm trang của một quý tộc từ trong trứng, phẩm chất của bà càng được tôn lên nhờ nước da trắng toát, tai tái, trắng đến mức hơi đáng sợ. Trông biểu hiện quyền uy, trang phục tao nhã và những món trang sức lấp lánh trên ngực, trên ngón tay bà, tôi thấy câu chuyện nghe được về sự nghèo túng của Madam quả khó tin. Một tay cầm cái roi ngắn, vẻ mặt cau cau có có, Madam nhìn chằm chằm vào chân các học viên, lặp đi lặp lại "One, two, three" (giọng Nga của bà phát âm "three" thành "tree"), lặng lẽ mà rắn rỏi. Theo hướng dẫn, các học viên của bà xếp thành hàng, từng bước do dự di chuyển về phía trước và phía sau. Trông bà như một nữ quân nhân đang chỉ đạo duyệt binh, cảnh tượng này làm tôi nhớ đến kịch Nữ Chiến Sĩ Xông Pha của nhà hát Rồng Vàng ở Asakusa. Một trong số các học viên là một cậu mặc Âu phục – chắc không phải sinh viên đại học. Người khác là một cô gái trẻ ăn mặc nhã nhặn, nom có vẻ là con nhà gia giáo vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng Nữ sinh, đang chăm chú tập luyện với một anh chàng mặc trang phục truyền thống Nhật Bản, cô nàng chắc thuộc hạng thiếu nữ đoan trang, nhìn có cảm tình lắm. Hễ có học viên nào bước sai, bà Bá tước nói "No!" một tiếng sắc lẹm, đến ngay chỗ học viên đó thị phạm lại. Nếu có người học không vô, mắc nhiều lỗi, bà ta sẽ kêu lên "No good!" và quất roi xuống sàn. Thỉnh thoảng bà Bá tước vụt vào chân học viên túi bụi, không nương tay với ai dù là nam hay nữ. ế ấ ế ẩ "Chà, bà ta đúng là giáo viên tâm huyết đấy nhỉ? Thế mới chuẩn." "Vâng, quả là Madam Shlemskaya tâm huyết lắm. Giáo viên người Nhật không toàn tâm toàn ý, chứ người phương Tây, ngay cả phụ nữ, đều rất chuyên tâm. Đúng là mở rộng tầm mắt! Madam dạy một mạch mấy tiếng liền không nghỉ, bất chấp nóng bức. Tôi đề nghị mang đến cho Madam ít kem nhưng bà ấy không chịu. Bà ấy bảo đang dạy là không có thiết gì cả." "Trời đất, bà ta không mệt mới kinh chứ." "Người phương Tây có thể chất khỏe mạnh. Không như người xứ ta. Nhưng tôi cũng thấy tội cho bà ấy. Chị biết không, xưa kia bà là vợ một ông Bá tước, ăn trên ngồi trốc, thế rồi Cách mạng nổ ra thì phải đi làm nghề này." Hai phụ nữ ngồi trên sofa ở phòng bên cạnh đang dõi theo tiến trình buổi học và trầm trồ ngưỡng mộ. Một cô chừng hai lăm, hai sáu tuổi môi mỏng mặt tròn, đôi mắt lồi ra như con cá vàng Trung Quốc. Mái tóc chải vượt ra sau của cô được búi lên đỉnh đầu thành một cuộn tóc cao, nhấp nhô như lưng con nhím. Ở gáy cô cài một cái kẹp tóc bằng đồi mồi trắng to tướng. Chiếc obi dệt hoa văn Ai Cập được cài bằng một chiếc kẹp ngọc bích. Chính cô này là người cám cảnh và tấm tắc khen ngợi Madam Shlemskaya. Cô đang nói chuyện với một phụ nữ vào khoảng bốn nhăm tuổi, những nếp nhăn li ti và làn da nứt nẻ lộ ra phía sau lớp phấn trắng dày đang loang lổ vì mồ hôi. Không biết do ngẫu nhiên hay cố ý mà phần tóc hung hung bên trong lưới chụp tóc của cô ta vừa lộn xộn vừa xoăn tít. Dáng cao gầy, người đàn bà ăn mặc lòe loẹt nhưng nom lại hao hao một khán hộ đã bỏ nghề. Mấy người xung quanh các bà cô này đang khép nép đợi đến lượt, người khác hình như đã học ít nhiều thì đang nhảy theo đôi quanh phòng. Hamada, thư ký câu lạc bộ đang sốt sắng đổi đĩa nhạc và đề nghị ghép đôi với những người đang nhảy lẻ, có thể vì cậu ta là đại diện của Nữ bá tước mà cũng có thể chính cậu ta thích thế. Tôi tự hỏi loại đàn ông nào lại máu mê học nhảy đầm, bèn quan sát những anh chàng trên sàn nhảy. Tôi ngạc nhiên bởi chỉ có Hamada là người duy nhất ăn diện. Hầu hết những người khác mặc bộ com-lê ba mảnh vô vị, trông như những người làm công lương ba cọc ba đồng, không có tí thẩm mỹ thời trang nào. Mà ai cũng trẻ hơn tôi. Chỉ một tay kia có lẽ đã ngoài ba mươi tuổi. Tay này diện áo đuôi tôm, đeo kính gọng vàng, để bộ ria dài kiểu cổ lỗ sĩ. Y là người học chậm nhất lớp, Nữ bá tước cứ luôn miệng mắng mỏ "No good!" và lấy roi vụt y ế ầ ầ ẩ ồ hết lần này lần khác. Y cười nhạt, vẻ ngớ ngẩn rồi lại "one, two, three" lại từ đầu. Cái gì đem một gã đàn ông ngần ấy tuổi đến lớp học khiêu vũ? Tôi tự hỏi. Nhưng sau đó tôi nhận ra tôi và hắn chẳng khác gì nhau. Nói gì thì nói, tôi chưa bao giờ làm một chuyện ghê gớm thế này. Dù tôi chỉ ở đó để ghép đôi với Naomi nhưng khi tưởng tượng đến việc bị những cô gái kia soi mói và người đàn bà Tây phương mắng mỏ, tôi đã muốn vã mồ hôi lạnh. Tôi lo sốt vó không biết đến lượt mình sẽ thế nào. "Xin chào. Chào mừng anh gia nhập." Hamada nói. Sau khi nhảy xong hai hay ba bài, cậu ta qua chào chúng tôi, lau cái trán lấm tấm mụn bằng khăn tay. "Rất vui được gặp lại anh ạ," cậu ta nói với tôi bằng cái giọng hơi trịch thượng. Rồi cậu quay sang Naomi. "Cám ơn nhé, nóng nực thế này mà vẫn đến cơ đấy. Có cái quạt nào không cho mượn phát. Làm trợ lí chẳng dễ chút nào." Naomi rút cái quạt từ thắt lưng đưa cho cậu ta. "Nhưng Hama này, nhảy giỏi thì mới được làm trợ lí của cô giáo. Anh học từ bao giờ thế?" "Anh ấy hả? Chừng sáu tháng trước. Nhưng em thông minh, học nhanh ấy mà. Người nam dẫn, người nữ chỉ việc theo." "Mấy anh đàn ông hôm nay là ai thế?" Tôi hỏi. "Hầu hết họ là nhân viên của Tập đoàn Dầu khí Phương Đông ạ." Cậu ta nói chuyện với tôi trang trọng hơn lúc nói với Naomi. "Một người bà con của cô Sugizaki là thành viên hội đồng quản trị. Em nghĩ ông ta đã giới thiệu họ đến." Tập đoàn Dầu khí Phương Đông với nhảy đầm! Một sự kết hợp không tưởng, tôi nghĩ. "Thế quý ông có ria mép kia cũng là nhân viên tập đoàn phải không?" "Thưa không, anh ta là một bác sĩ." "Bác sĩ à?" "Dạ vâng, ông đó là người tư vấn vệ sinh trong công ty. Ông ta bảo nhảy đầm để rèn luyện sức khỏe thì không gì bằng, cho nên phải học mới được." "Thật không?" Naomi cắt ngang. "Hama-san, nhảy đầm là tập thể dục ấy hả?" ầ ồ ế "Chứ sao. Thậm chí mùa đông mà nhảy đầm cũng vã mồ hôi, ướt hết cả áo sơ mi. Đó là cách vận động rất tốt còn gì nữa. Nhất là theo cách Madam Shlemskaya dạy ấy." "Bà ấy có hiểu tiếng Nhật không?" Tôi hỏi. Tôi đã thắc mắc chuyện đó một lúc rồi. "Hầu như không. Bà ấy chỉ toàn nói tiếng Anh thôi." "Tiếng Anh à? E là tôi không giỏi tiếng Anh giao tiếp, có lẽ tôi nên..." "Ôi dào. Ở đây chúng ta cùng hội cùng thuyền cả mà. Madam Shlemskaya nói tiếng Anh chẳng đâu vào đâu, lôm côm hơn cả chúng em anh ạ. Không có gì đáng ngại hết. Vả lại học khiêu vũ anh cũng đâu cần phải nói. Chỉ 'one, two, three' rồi làm theo động tác của cô giáo là xong." "Ô, Naomi. Em tới lúc nào thế?" Cô nàng cá vàng cài trâm đồi mồi trắng hỏi. "Em chào cô Sugizaki." Chộp lấy tay tôi, Naomi kéo tôi đến ghế sofa nơi cô giáo dạy nhạc đang ngồi. "Cô Sugizaki ơi, đây là anh Kawai ạ..." "À, vâng." Naomi đỏ mặt, cô Sugizaki cũng thế, hai người không đợi để nghe thêm nữa, đứng lên vẻ biết điều và cúi đầu. "Vô cùng hân hạnh, tôi rất mừng được làm quen với anh. Tôi tên là Sugizaki. Cám ơn quý anh hôm nay đã đến. Kìa Naomi, đem cái ghế lại đây em." Lại quay sang tôi, cô nói: "Mời quý anh ngồi ạ. Sắp tới lượt anh rồi, quả chúng tôi không muốn làm anh phải nhọc lòng chờ đợi." Tôi không nhớ mình trả lời như thế nào. Chắc chỉ lầm bầm gì đó. Tôi không biết phải cư xử ra sao với một người phụ nữ sử dụng loại ngôn ngữ trang trọng cứng nhắc ấy. Trong trường hợp này, tôi càng thấy ngại ngùng thậm tệ vì đã không hỏi Naomi cô giáo biết được quan hệ giữa chúng tôi rõ đến mức nào. "Vui lòng cho tôi giới thiệu anh nhé?" Không thèm để ý vẻ khó chịu của tôi, cô Sugizaki chỉ tới một người phụ nữ có mái tóc xoăn tít. "Đây là phu nhân ông James Brown từ Yokohama. Còn đây là ông Kawai đến từ một công ty điện lực ở Oimachi." Thì ra người đàn bà đó là vợ của một người ngoại quốc – tôi tự nhủ, và nghĩ lại thì trông chị ta giống như nhân tình của người ngoại quốc hơn là ầ ắ ế một nữ khán hộ. Tôi cúi đầu chào cứng nhắc hơn bao giờ hết. "Tôi hỏi khí không phải, đây là foist time20[20] của anh à?" Chị ta vồn vã bắt chuyện với tôi ngay. Tôi không thích cái kiểu phát âm tiếng anh ỏn ẻn "foist time" của chị ta, với lại chị ta nói rất nhanh. "Xin chị nhắc lại được không ạ?" Tôi lúng túng bảo. "Vâng, anh ấy mới học thôi ạ." Cô Sugizaki đế vào. "Ô, thế ạ? Anh biết không, các gien-ờ-men21[21] đi học thì moa moa đíp-phờ-cồ22[22] hơn la-đỳ23[23], nhưng học rồi là sẽ bắt kịp ngay ấy mà." "Moa moa cái quỉ gì thế?" Tôi tự hỏi. Rốt cuộc tôi mới nhận ra là "more, more". Chị này rất ưa nói chuyện bồi thêm tiếng Anh vào. "Gentleman" thì đọc thành "gien-ờ-men", "little" thành "li-ồ", vân vân. Cái giọng tiếng Nhật của chị cũng lạ tai. Chị ta liên tục liến thoắng, hơi tí lại "biết không" với "biết không". Chị ta lại nói chuyện về Madam Shlemskaya, rồi về khiêu vũ, về ngoại ngữ, âm nhạc – các bản xô-nát của Beethoven gì gì đấy, Bản giao hưởng số 3 gì gì đấy, đĩa nhạc của hãng A hay hơn đĩa nhạc của hãng B. Tôi ngán ngẩm chẳng biết phải đối đáp ra làm sao, nên chị ta bèn đảo chủ đề tán gẫu về cô dạy nhạc. Tôi suy luận rằng chị Brown này đang học piano với cô giáo Sugizaki. Vì không có khả năng nắm lấy thời cơ thoái thác một cách lịch thiệp, tôi đành ngồi kẹp giữa hai phụ nữ hoạt ngôn mà thương thay cho cái thân mình. Sau khi ông bác sĩ râu kẽm và hội nhân viên công ty dầu khí kết thúc bài học, cô giáo Sugizaki dẫn tôi và Naomi đến chỗ Madam Shlemskaya và giới thiệu bằng tiếng Anh trôi chảy – Naomi trước, tôi sau, có lẽ là theo nguyên tắc ưu tiên phụ nữ của người phương tây. Cô Sugizaki gọi Naomi là "cô Kawai." Tôi đã tò mò đợi xem Naomi phản ứng thế nào khi đứng trước mặt một người phương lây. Dĩ nhiên, Naomi bình thường tự cao tự đại là thế mà vẫn mất bình tĩnh trước mặt bà Bá tước. Madam Shlemskaya nói có một, hai câu, cho phép một nụ cười dè sẻn hiện lên trên gương mặt nghiêm khắc của bà và chìa tay ra. Naomi mặt đỏ bừng, len lén bắt tay bà mà không nói gì cả. Đến lượt tôi, thậm chí tôi còn tệ hơn. Nói thực tôi còn chả dám nhìn khuôn mặt trắng nhợt như tạc của bà ta. Tôi lặng lẽ chạm vào bàn tay bà, bàn tay lấp lánh với cơ man những viên kim cương bé xíu. Tôi còn không ngước mắt lên. Chín Tuy chẳng có tí cảm xúc nào với những trò ấy nhưng tôi có tính đua đòi ăn theo, thành thử cái gì cũng phải bắt chước Tây. Độc giả đã biết đấy. Nếu có đủ tiền để làm bất cứ gì mình thích, tôi sẽ sống ở Tây, lấy một cô đầm; nhưng bởi điều kiện không cho phép nên tôi đã kết hôn với Naomi, một cô gái Nhật có thị hiếu Tây. Dù tôi có giàu đi nữa thì tôi cũng không tự tin vào ngoại hình của mình. Tôi cao chưa được một mét sáu, da đen, răng mọc khấp khểnh. Ở vị trí của tôi mà hy vọng một người vợ có thân hình Tây phương tuyệt đẹp thì quả là không biết thân biết phận. Tôi đi đến kết luận là người Nhật thì nên cưới người Nhật, và Naomi đáp ứng hầu hết những nhu cầu của tôi. Tôi đã toại nguyện. Nhưng mà, được đến gần một quý bà Tây thế này quả là sung sướng, không, vinh dự mới đúng. Thực sự là tôi ghê tởm với sự lúng túng và kém cỏi của bản thân trong ngôn ngữ nên đã từ bỏ mọi hy vọng được gặp gỡ một người như thế. Bù lại, tôi đến xem các vở Opera phương Tây và nghiên cứu khuôn mặt của những minh tinh, say mê vẻ đẹp của họ như thể nhìn thấy họ trong mơ. Sau đó, thật không ngờ lớp học khiêu vũ lại đem đến cho tôi cơ hội gặp gỡ một người đàn bà Tây phương, mà còn là Nữ bá tước nữa. Không tính bà cô Harrison kia thì đây là lần đầu trong đời tôi được hân hạnh bắt tay với một cô đầm. Khi Madam Shlemskaya chìa bàn tay trắng muốt ra, tim tôi lỡ một nhịp, tôi lưỡng lự không biết đón lấy bàn tay ấy có ổn không. Tay Naomi cũng thanh tú – duyên dáng, uyển chuyển với những ngón nhỏ, dài. Nhưng bàn tay Nữ bá tước vừa cứng cáp lại vừa khả ái: lòng bàn tay dày, chắc thay vì mỏng manh như của Naomi; ngón tay bà ta dài và dẻo chứ không đem lại cảm giác gầy gò yếu ớt. Những chiếc nhẫn ngoại cỡ của bà lấp lánh như muôn vàn con mắt, người Nhật đeo vào trông rởm nhưng lại khiến ngón tay của bà long lanh quyến rũ, gợi cảm giác tinh tế, xa hoa. Điều khiến bà Bá tước khác biệt với Naomi chính là ở nước da trắng ngần. Dưới làn da trắng, những mạch máu màu hoa oải hương lờ mờ như vân đá cẩm thạch đẹp lạ lùng. Tôi thường khen tay Naomi mỗi khi nghịch tay cô nàng. "Tay em mới đẹp làm sao. Trắng như tay người Tây ấy." Nhưng bây giờ tôi lấy làm tiếc vì rõ ràng có sự khác biệt. Tay Naomi không trắng ngần như thế – đúng ra thì nhìn tay Nữ bá tước xong da Naomi cứ đục đục. Một thứ khác lôi kéo sự chú ý của tôi chính là móng tay Nữ bá tước. Cả mười đầu ngón tay đều giống nhau chằn chặn như một bộ sưu tập xà cừ. Móng tay bà tỏa ánh hồng, đều tăm tắp và có lẽ được tỉa thành một hình tam giác nhọn theo mốt Tây phương. ấ ố Tôi đã nói là Naomi thấp hơn tôi chừng một đốt ngón tay. Bà Bá tước so với người Tây phương thuộc hàng nhỏ nhắn nhưng vẫn cao hơn tôi. Có thể vì bà Bá tước đi giày cao gót nhưng mỗi khi khiêu vũ với bà ta, đầu tôi hướng thẳng vào bộ ngực đồ sộ của Madam Shlemskaya. Lần đầu tiên khi bà ta bảo "Walk with me24[24]!" và đặt tay ra sau lưng tôi, chi cho tôi bước nhảy đầu tiên, tôi đã phải cố gắng trong tuyệt vọng để giữ cho bộ mặt đen sì của mình không đụng vào làn da bà Bá tước! Được ngắm làn da mịn màng không tì vết của Nữ bá tước từ xa tôi đã thỏa mãn rồi. Chứ bắt tay bà ấy xem ra có phần bất nhã. Bây giờ, ở sát gần bộ ngực của Nữ bá tước chỉ được ngăn cách với tôi bằng lớp áo mềm mại mỏng tang, tôi thấy như mình đang làm một việc đại cấm kỵ. Tôi sợ mồm mình hôi. Nữ bá tước có thể bị xúc phạm bởi bàn tay nhơ nhớp của tôi. Và khi một sợi tóc của bà rơi xuống người, tôi không thể cưỡng lại một cơn ớn lạnh chạy qua người. Ngoài ra, thân thể bà ta còn có hương thơm nào đó. "Bà Bá tước bị hôi nách", tôi nghe đám học viên xì xào như thế ở câu lạc bộ Mandolin. Nghe nói người Tây hay nặng mùi cơ thể, rõ là bà Bá tước cũng thế. Có lẽ bà ta dùng nước hoa để át đi. Nhưng với tôi cái mùi thoang thoảng vừa ngọt vừa chua kết hợp từ mồ hôi và nước hoa không hề khó chịu mà ngược lại còn rất ư hấp dẫn. Nó làm tôi nghĩ đến những miền đất bên kia đại dương tôi chưa hề trông thấy, nơi có những vườn hoa xứ lạ đẹp tuyệt trần. "Đây chính là hương thơm tỏa ra từ da thịt trắng ngần của Nữ bá tước!" Tôi tự nhủ và cuồng nhiệt hít lấy hít để cái mùi ấy. Tại sao tôi, một gã khờ khạo vụng về hoàn toàn lạc lõng giữa bầu không khí huyên náo của những buổi giao lưu khiêu vũ có thể kiên trì đi học trong một, rồi hai tháng mà không biết chán? Không phải chỉ bởi Naomi đâu. Xin thú nhận, đó là vì Madam Shlemskaya. Được khiêu vũ trong vòng tay của bà trong một giờ ngắn ngủi mỗi thứ Hai và thứ Sáu trở thành niềm hoan lạc to lớn với tôi. Đứng trước bà Bá tước tôi quên phứt cả Naomi. Tôi túy lúy say sưa trong giờ phút ấy như được thưởng một thứ rượu ngon. "Anh nhiệt tình hơn em nghĩ đấy Joji. Cứ tưởng anh sẽ chán ngay từ đầu cơ." "Sao mà chán?" "Chả phải anh nói là anh không nghĩ mình có thể học nhảy đầm còn gì?" ắ Lương tâm tôi lúc nào cũng cắn rứt khi Naomi gợi ra chuyện đó. "Anh tưởng mình không làm được nhưng thử rồi thấy cũng hay. Mà như bác sĩ nói, nhảy đầm cũng là tập thể dục mà." "Đấy thấy chưa?" Naomi cười. "Anh đừng băn khoăn quá, cứ mạnh dạn mà thử." Naomi chưa đoán được bí mật của tôi. Mùa đông năm ấy, sau khi đã luyện tập tích cực chúng tôi lần đầu đến quán Café El Dorado ở Ginza. Hồi ấy số sàn nhảy ở Tokyo còn ít ỏi lắm. Ngoài khách sạn Đế Quốc và khách sạn Kagetsuen, quán cà phê ấy chắc thuộc dạng sàn nhảy đầu tiên. Chúng tôi nghe nói khách sạn Đế Quốc với Kagetsuen là nơi ưa thích của khách ngoại quốc thành thử rất khắt khe về trang phục, lễ nghi nên có vẻ bắt đầu ở El Dorado thì tốt hơn. Naomi đã nghe ai đó nói và giục tôi đi. Nhưng tôi không có gan nhảy đầm trước bàn dân thiên hạ. "Bó tay với anh đó Joji." Naomi lườm tôi. "Đừng nhát như thế. Nhảy đầm không phải cứ đi học trên lớp mà được đâu. Phải ra bên ngoài giao lưu. Mạnh dạn lên, biết đâu anh sẽ khiêu vũ giỏi." "Anh biết em nói đúng, nhưng trời sinh anh ra có bạo dạn đâu." "Được rồi, em sẽ đi một mình. Em sẽ mời anh Hama hoặc Ma-chan đi nhảy đầm." "Ma-chan là thằng cu ở câu lạc bộ Mandolin đấy à?" "Đúng thế. Cậu ấy không học buổi nào nhưng gặp ai, ở đâu cũng nhảy phứa nên bây giờ khá lắm. Giỏi hơn anh nhiều. Anh phải bạo lên, không thì thua cuộc đó... Rõ chưa? Vậy thì đi thôi. Em sẽ khiêu vũ cùng anh... Ôi, đi với em đi mà... Ngoan nào, Joji, ngoan nào." Sau khi đưa ra quyết định là đi, chúng tôi bắt đầu một cuộc thảo luận dài về việc Naomi nên mặc gì. "Joji, bộ nào đẹp nhất?" Bốn năm hôm trước khi chúng tôi đi nhảy đầm, nhà cửa loạn hết cả lên vì Naomi đem tất cả quần áo ra thử hết cái này đến cái kia. "Bộ ấy đẹp rồi." Tôi rốt cuộc lên tiếng dù trong lòng không nghĩ thế. Tôi không muốn bị làm phiền nữa. "Em chưa chắc lắm. Trông có ổn không nhỉ?" Cô nàng quay vòng vòng trước gương. "Trông hơi sai sai. Không, em không thích." Cởi đồ ra xong Naomi đá sang một bên, tấp thành một đống, hết áo nọ đến váy kia. Không ầ ố bộ nào làm cô nàng hài lòng. "Joji à, mua quần áo mới cho em nhé?" Rốt cuộc cô bảo. "Đi nhảy đầm phải ăn mặc cầu kỳ. Mấy cái đồ này không làm em nổi bật gì cả. Mua cho em nhé? Mua đồ mới cho em đi mà! Từ nay chúng mình chăm chỉ đi chơi, thì em cũng phải có đồ trưng diện chứ?" Bấy giờ lương tháng của tôi không còn theo kịp thói tiêu hoang của cô nàng nữa. về tài chính tôi luôn luôn thận trọng, khi còn độc thân tôi từng lập ngân sách chi tiêu, phần dư ra dù nhỏ bé đến mấy cũng phải cất vào nhà băng. Lúc về ở với Naomi, tôi đã để dành được kha khá. Hơn nữa dù nuông chiều Naomi đến đâu tôi cũng không lơ là công việc, tôi vẫn là anh tư chức gương mẫu cần cù, được cấp trên tin tưởng. Lương tôi tăng đến mức 400 yên một tháng bao gồm cả khoản tiền thưởng bán niên, số tiền ấy dễ dàng chi trả cho hai người sinh hoạt bình thường nhưng không đủ cho hai chúng tôi. Có lẽ tôi không nên đi vào chi tiết nhưng sinh hoạt phí của hai người bọn tôi ít nhất cỡ hai trăm năm mươi yên một tháng, ước lượng cho cẩn thận thì đôi khi vọt lên đến ba trăm. Tiền thuê nhà là 35 yên (sau bốn năm tiền thuê tăng 15 yên); trừ đi tiền gas, điện, nước, sưởi, chất đốt, giặt là, chúng tôi còn lại hai trăm hai đến hai trăm tư, hầu hết chỗ ấy đều nhét vào bụng cả. Khi còn bé, Naomi đi ăn bò bít-tết ngoài tiệm là đã thỏa mãn rồi nhưng bây giờ cô ả sành ăn ra trò, mỗi ngày trưởng thành hơn lại đòi hỏi lắm thứ sơn hào hải vị hơn. Đã vậy, Naomi còn không thèm đi chợ hay nấu nướng mà chỉ gọi đồ ăn ở những nhà hàng gần nhà. "Chắc phải kiếm cái gì ngon bỏ vào miệng thôi," những lúc chán cô nàng thường nói thế. Trước đây Naomi thích đồ Tây nhưng bây giờ cứ ba bữa thì có một bữa cô nàng bảo, giọng xấc xược: "Để xem tiệm A làm món canh truyền thống thế nào." hoặc "Gọi tiệm B đặt ít sashimi đi!". Naomi ăn trưa một mình khi tôi ở văn phòng. Đấy là lúc cô nàng ăn sang nhất. Buổi tối khi từ sở về nhà, tôi thường thấy những khay gỗ từ các nhà hàng Nhật hoặc các loại chén bát của nhà hàng Tây chất đống trong bếp. "Naomi, em lại gọi cơm trưa ngoài tiệm đấy à! Tiền ăn của em tốn lắm đấy có biết không! Em không thấy đàn bà con gái như vậy là quá quắt lắm sao?" Naomi chẳng hề nao núng. "Em gọi đồ vì chỉ ăn có một mình. Nấu nướng rách việc lắm." Cô ả làm bộ dỗi, nằm duỗi cẳng trên ghế. ề ế ế ề ấ Dưới điều kiện như thế việc tiết kiệm tiền trở nên bất khả. Có những lúc Naomi không buồn thổi cơm, đến cơm cũng phải gọi nhà hàng đem đến với các món ăn kèm. Khi đống hóa đơn cuối tháng từ tiệm hoa, tiệm thịt, tiệm cơm Nhật, tiệm cơm Tây, quán sushi, quán lươn, hàng bánh ngọt, hàng hoa quả gửi về, món tiền tổng cộng làm tôi sửng sốt. Tôi tự hỏi làm sao mà cô ta có thể ăn nhiều đến thế? Hóa đơn tiền ăn cao nhất thì hóa đơn giặt là cao nhì. Ấy là bởi cô nàng đến cái tất cũng lười giặt nên có bao nhiêu gửi hết ra tiệm. Tôi mới phàn nàn cô đã trả treo: "Em có phải con ở đâu. Nếu giặt giũ tay em sẽ bị to ra, không chơi đàn dương cầm được nữa. Mà anh gọi em là gì nhỉ? Bảo bối hả? Tay em mà thành tay chuối mắn thì sao?" Ban đầu, Naomi còn trông nom nhà cửa và nấu ăn, nhưng chuyện đó không kéo dài được hơn sáu tháng hay một năm. Nhà cửa giờ còn trở thành vấn đề trầm trọng hơn cả giặt giũ, vì càng ngày nhà tôi càng bừa bãi bẩn thỉu. Naomi cởi quần áo đâu bỏ ngay tại đó, ăn uống xong để nguyên chén bát không thèm rửa. Căn nhà rải đầy bát, đĩa, cốc chén, cái nào cũng sót vài miếng bỏ mứa. Đồ lót bẩn khắp noi. Sàn nhà, bàn ghế phủ đầy bụi, cái màn cửa họa tiết Ấn Độ tồi tàn của chúng tôi đã đánh mất vẻ đáng yêu ban đầu của nó. Không khí của cái "lồng chim" tươi sáng một thời, ngôi nhà cổ tích của chúng tôi, đã thay đổi hoàn toàn, những căn phòng bí bách xộc lên mũi mùi của sự bỏ bê lâu ngày. Có lúc tôi bực quá mới bảo: "Thôi, anh sẽ dọn dẹp. Em đi ra vuờn đi." Tôi đã đi quét tước và lau bụi nhưng càng lau thì càng thấy bụi tung bụi mù lên. Tôi cũng không biết phải bắt đầu từ đâu với những món đồ đạc vất vưởng khắp nhà. Không còn cách nào khác, tôi thuê một loạt người giúp việc nhưng lần lượt cô giúp việc nào cũng hoảng hồn trước sự bê bối đó, rồi chỉ được vài hôm đã nghỉ. Ban đầu tôi đâu có ý định thuê giúp việc, với lại cũng chả có chỗ phù hợp để cho giúp việc ngủ tại nhà. Đã thế, có giúp việc thì tôi và Naomi chẳng thể tán tỉnh chim chuột nhau tự do thoải mái như trước. Naomi lại càng lười chảy thây: cô nàng coi người giúp việc như trâu ngựa, còn bản thân thì không thèm nhấc đến một ngón tay. Thói hoang phí của Naomi đạt đến tầm cao mới khi việc gọi món ở nhà hàng trở nên dễ hơn bao giờ hết. Cô ra lệnh cho người giúp việc: "Tới tiệm này, tiệm này gọi món này, món kia cho tôi." Nói tóm lại, nuôi thêm giúp việc không chỉ cực kỳ không kinh tế mà còn chen vào cuộc sống "vui vẻ" của chúng tôi. Chẳng lạ gì mấy cô giúp việc tôi thuê cô nào cô đó đều phát hãi, mà tôi cũng chả có tâm trạng nào nài nỉ các cô ở lại. ề ầ ố Đó, về sinh hoạt phí thì như vầy. Trong số một trăm hay trăm rưỡi yên còn lại mỗi tháng, tôi muốn dành ra mười, hai mươi yên tiết kiệm nhưng thói tiêu xài vô tội vạ của Naomi không cho phép. Thứ nhất, mỗi tháng cô nàng lại may kimono mới. Kể cả khi vải may kimono chỉ là lụa hay muslin loại thường thì lúc nào cô cũng mua thêm vải lót và tốn tiền công may nữa. Kết quả là mỗi bộ tận năm, sáu chục yên. Nếu không thích sản phẩm hoàn thiện, Naomi sẽ nhét ngay bộ kimono vào ngăn kéo và không bao giờ mặc, còn nếu thích Naomi sẽ mặc đến lúc rách đầu gối. Tủ quần áo của Naomi chất toàn đồ rách. Giày dép cũng là một lĩnh vực phung phí nữa của Naomi. Cô nàng phải có cả dép rơm lẫn guốc gỗ, mỗi loại đủ hình dạng – dép thấp, dép cao, dép mùa khô, guốc gỗ liền khối, guốc đi lễ, guốc ngày thường. Mỗi đôi giá cả dao động từ hai đến tám yên, mười ngày Naomi lại sắm đôi mới nên không hề rẻ. "Em tiêu tiền mua dép nhiều quá rồi đấy." Tôi bảo. "Chả nhẽ không đi giày được à?" Trước kia cô nàng thích đi giày, mặc váy chỉn chu như nữ sinh nhưng dạo này Naomi lôi thôi trông thấy, thậm chí cứ mặc luôn đồ ở nhà mà đến lớp. "Anh biết không, em là dân Tokyo," cô nàng tuyên bố, nhắc nhở rằng tôi là người nhà quê. "Em mặc gì cũng được, nhưng về giày dép là phải có gu riêng." Cứ vài hôm cô lại tiêu ba đến năm yên tiền vé hòa nhạc, vé xe điện, sách giáo khoa, tạp chí, tiểu thuyết. Lại còn tiền học phí tiếng Anh, tiền học nhạc nữa là hai mươi lăm yên mỗi tháng. Để đáp ứng hết chỗ chi phí ấy bằng lương tháng bốn trăm yên không hề dễ, tôi đã không để dành được thêm mà còn phải đem chỗ tiền tiết kiệm ra đắp vào thành thử dần dần món tiền tích lũy được hồi còn độc thân của tôi hết nhẵn. Miệng ăn núi lở, ba hay bốn năm vừa qua tôi đốt luôn chỗ tiền tiết kiệm và đến giờ thì hết nhẵn không còn đồng nào. Mà đến khổ, tôi không giỏi xin mua chịu như phần đông những kẻ giống mình. Cứ cuối tháng tôi lại vật vã, chưa trả hết hóa đơn thì không thể ăn ngon ngủ yên. "Em mà cứ tiêu xài thế này anh sẽ nợ ngập đầu mất," tôi trách Naomi. "Nếu không trả được anh cứ bảo họ chờ." Cô nàng đáp. "Ai bảo anh cứ cuối tháng phải trả tiền đâu, trong khi anh sống ở cùng cái chỗ này bao nhiêu năm rồi? Anh hứa mỗi sáu tháng trả một lần người ta sẽ đợi. Nhát gan, kém bản lĩnh quá Joji ạ." Mỗi khi đi mua sắm Naomi đều trả tiền mặt. Còn hóa đơn hàng tháng thì được hoãn lại đến khi tôi lãnh tiền thưởng bán ề niên, song Naomi chưa bao giờ đích thân đề nghị mua chịu. "Em không muốn, đấy là việc của đàn ông." Cô nàng bảo. Cứ đến cuối tháng, cô nàng lại lảng đi. Không hề cường điệu khi nói rằng thu nhập của tôi đem đắp hết vào Naomi. Tôi luôn tâm niệm ước ao làm cho cô ấy đẹp hơn, bảo vệ cô ấy khỏi lo trở ngại tiền nong, cho cô ấy được lớn lên và trưởng thành trong tự do. Tôi đôi khi cằn nhằn nhưng lại cho phép Naomi hoang phí. Thế thì lại phải tằn tiện ở chỗ khác. Cũng may tôi gần như không có khoản tiêu xài xã giao nào, ở sở có tiệc tùng liên hoan đều cố tránh nếu được, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc trốn tránh trách nhiệm xã hội. Những chi phí khác của tôi như quần áo, ăn trưa... đều được giữ ở mức tối thiểu. Chuyến tàu chúng tôi đi hàng ngày, Naomi mua vé hạng nhì còn tôi an phận với hạng ba. Vì Naomi không muốn nấu cơm mà gọi cơm bên ngoài thì đắt quá, tôi thỉnh thoảng tự mình thổi cơm, nấu nướng. Sự sửa soạn này cũng không làm Naomi hài lòng. "Đàn ông ai lại vào bếp, khó coi lắm." Naomi bảo. "Joji, anh phải mặc cái gì bảnh bao hơn một chút thay vì mấy cái đồ cũ hết năm này qua năm khác. Em không thích thấy mình ăn mặc diện mà anh trông lại thế kia, như thế em không thể đi đâu với anh được." Nếu không được đi đâu với Naomi thì tôi cũng chẳng vui vẻ gì, nên cực chẳng đã đành mua ít quần áo "bảnh bao" cho bản thân. Những lúc đi chơi với nhau thì tôi phải cùng ngồi ghế hạng nhì với cô ấy. Tóm lại, tôi cũng phải chung phần lãng phí với cô nàng. Bởi vậy, từ trước khi trả cho Madam Shlemskaya bốn mươi yên một tháng tôi đã phải loay hoay xoay sở với tiền nong rồi. Nếu còn phải mua trang phục nhảy đầm cho Naomi nữa chắc tôi đến chết mất. Lúc cuối tháng, ví tôi có chút tiền mặt, nhưng Naomi vốn không thèm nghe lý lẽ nên nhất định không chấp nhận câu từ chối. "Nhỡ bây giờ tiêu món này thì đến ngày 30 là hạn thanh toán thì anh sẽ thiếu tiền. Em cũng hiểu phải không?" "Thiếu thì đã sao? Việc đâu khắc có đó." "Em nói thế là có ý gì. Không thể đâu khắc có đó được." "Thế sao chúng mình còn học nhảy?... Thôi, nếu đã thế, kể từ mai em không đi đâu hết." Đôi mắt Naomi rưng rưng, cô nàng nhìn tôi oán trách và bĩu môi làm thinh. ấ "Naomi, em giận à? Naomi? Quay ra đây nào." Đêm ấy trên giường, Naomi quay lưng lại với tôi vờ ngủ, tôi lay vai cô ấy. "Quay lại đây, Naomi." Tôi nhẹ nhàng xoay cô lại như lật cá rán về phía mình. Cơ thể mềm mại không kháng cự của cô nàng ngoan ngoãn đối diện với tôi, đôi mắt cô mở hé. "Chuyện gì vậy? Em vẫn giận à?" Cô nàng không đáp. "Nào, đừng giận nữa. Anh sẽ cố xoay sở." Vẫn không trả lời. "Nào, mở mắt ra." Tôi vừa nói vừa lật mí mắt đang run run của Naomi. Đôi mắt tròn sưng húp lộ ra như viên ngọc nằm trong vỏ trai rất tỉnh táo nhìn thẳng vào mặt tôi. "Anh sẽ dùng tiền đó để mua đồ cho em, được không nào?" "Nhưng mà nhỡ anh thiếu tiền thì sao?" "Không sao, anh sẽ tìm cách." "Nhưng anh sẽ làm gì?" "Anh sẽ bảo người nhà gửi tiền lên." "Người nhà anh có gửi tiền không đấy?" "Sao lại không. Anh chưa bao giờ gây chuyện, chắc chắn mẹ sẽ hiểu cho anh. Nhà có hai người, phải chi tiêu bao nhiêu thứ." "Thật sao? Nhưng xin mẹ thì có việc gì không?" Naomi nói ra vẻ quan ngại lắm, nhưng từ lâu tôi biết tỏng cô nàng nghĩ đấy là việc tôi cần làm. Tôi nói đúng những gì Naomi muốn nghe. "Không việc gì đâu, chẳng qua trước đó anh không làm, vì làm thế là đi ngược lại với quy tắc của anh." "Vậy tại sao anh lại thay đổi nguyên tắc của mình?" "Thấy em khóc anh thương." "Thật á?" Naomi vồng ngực lên như một con sóng cuộn về bãi biển. "Em khóc á?" Cô nàng hỏi, ngượng ngùng mỉm cười. ế ắ "Em bảo em sẽ không đi đâu hết, mắt thì rưng rưng. Em lúc nào cũng là một đứa trẻ hư, phải không hả bé con của anh." "Papa của em ơi! Papa yêu dấu!" Cô quàng tay quanh cổ tôi. Như một nhân viên bưu chính vội vã hủy một loạt thư, cô nàng cuồng nhiệt áp môi vào trán, vào má, trên mí mắt, sau tai và từng xăng ti mét da mặt tôi. Điều này đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng đê mê như vô vàn cánh hoa trà trĩu sương mềm mại đang rơi xuống khuôn mặt mình, khiến tôi tỉnh mà như mơ thấy đầu mình chìm trong hương thơm của những cánh hoa. "Cái gì thế, Naomi? Em làm gì mà điên quá vậy..." "Phải... Hôm nay anh dễ thương đến nỗi làm em phát điên đấy... Anh khó chịu à?" "Khó chịu? Ô không, anh vui lắm, vui đến mức cũng phát điên luôn. Vì em, anh nguyện hi sinh bất cứ thứ gì... Sao vậy? Lại khóc nữa à?" "Cảm ơn, Papa. Em biết ơn Papa của em, nên em khóc. Em không kiềm lại được. Anh có hiểu không? Anh muốn con gái nín không? Nếu anh muốn em nín thì lau nước mắt cho em đi." Naomi rút mấy tờ giấy ăn từ trong kẽ áo kimono ra đặt vào tay tôi. Cô vẫn nhìn tôi đăm đăm. Tôi chưa kịp lau mắt cho Naomi thì đôi mắt ấy lại rưng rưng nữa. Đôi mắt ướt lệ trong veo làm sao! Ước gì tôi có thể kết tinh những giọt lệ đẹp đẽ của nàng để giữ làm của riêng mãi mãi. Đầu tiên tôi lau má Naomi, cẩn thận không chạm vào những giọt nước mắt căng tròn, tôi lau quanh mắt cô nàng. Làn da bị kéo căng rồi chùng xuống khiến những giọt lệ vỡ ra thành hình hài khác nhau lúc thì là thấu kính lồi khi lại lõm, rốt cuộc chúng vỡ tan và chảy dài trên gò má mới được lau, để lại những dải óng ánh trên làn da cô. Tôi lau má Naomi lần nữa, xoa xoa đôi mắt ướt của cô nàng, trong lúc cô nàng sụt sịt thì đưa khăn giấy lên mũi Naomi. "Hỉ mũi nào!" Tôi bảo. Cô nàng hỉ mũi mấy cái, mỗi lần vang lên như tiếng kèn. Ngày hôm sau, Naomi đi Mitsukoshi với hai trăm yên của tôi. Trong giờ ăn trưa, lần đầu tiên tôi viết thư xin tiền mẹ. Tôi nhớ mình đã viết: "Hai, ba năm vừa rồi vật giá tăng chóng mặt, nên chúng con dù ăn ở không hề hoang phí nhưng chi tiêu hàng tháng vẫn áp lực lắm. Sống ở thành phố chẳng dễ dàng..." Tôi phát hoảng thấy mình đã thành ra liều lĩnh đến mức có thể nói dối không chớp mắt như thế với mẹ đẻ. Nhưng mẹ không chỉ tin tôi, mà còn thể hiện tình cảm với Naomi trong bức thư hồi âm hai, ba hôm sau nữa. "Mua ế ế kimono cho Naomi nhé," bà viết như vậy và gửi kèm một tờ chi phiếu một trăm yên, nhiều hơn số tiền tôi yêu cầu. Mười Buổi khiêu vũ ở El Dorado diễn ra vào tối thứ Bảy và dự kiến sẽ bắt đầu lúc bảy rưỡi. Tôi từ sở về nhà lúc năm giờ thì thấy Naomi vừa đi tắm xong, đang bận rộn trang điểm. "Joji, đồ may xong rồi." Vừa thấy bóng tôi trong gương cô nàng nói ngay. Naomi duỗi cánh tay về phía sau, chỉ về hướng chiếc sofa nơi cô đã trải chiếc kimono và đai lưng một mảnh mà cô vừa đặt hàng vội từ Mitsukoshi về. Bộ kimono chần bông hai lớp may bằng lụa crepe màu đỏ thẫm với hoa văn là những bông hoa vàng và lá xanh. Trên đai lưng bản lớn có hình những chiếc thuyền ngắm cảnh kiểu cổ đang trôi trên những ngọn sóng nhỏ thêu bằng chỉ bạc. "Sao? Anh thấy em chọn khéo chứ?" Tán phấn trắng lên hai bàn tay xong, cô vừa nói vừa vỗ liên hồi hai tay lên bả vai và gáy. Thật lòng mà nói thì chất vải mềm mại lả lướt không ăn nhập với đôi vai đầy đặn, cái hông nở và bộ ngực lớn của Naomi. Muslin hay lụa thường đem lại cho Naomi vẻ đẹp Á-Âu đặc trưng lạ mắt nhưng một bộ kimono trang trọng như thế này chỉ tổ khiến cô nàng trông thô thiển. Với lại, khi mặc kiểu họa tiết màu mè, nom Naomi càng giống loại gái làng chơi chuyên bắt bồ với thủy thủ ngoại quốc ở Yokohama. Cô ấy ưng ý lắm nên tôi chẳng muốn nói gì, song nghĩ đến việc bị thiên hạ nhìn thấy mình cặp kè với một người đàn bà ăn mặc diêm dúa như vậy trên tàu hay trên sàn nhảy mà tôi phát ớn. Mặc quần áo xong, Naomi bảo: "Joji, anh sẽ mặc bộ suit lam nhé." Ngay lập tức cô nàng lấy bộ đồ ra phủi bụi và là. "Anh thích bộ màu nâu hơn." "Joji, anh đúng là chả biết gì!" Cô nàng mắng mỏ, nhìn tôi giận dữ. "Đi dự tiệc tối thì phải mặc đồ suit lam thẫm hoặc đồ tuxedo. Với lại cũng không được dùng cổ áo mềm, phải đeo cổ áo hồ cứng. Cô nàng nói tiếng Ăng-lê: "Như thế gọi là 'etiquette'25[25], từ giờ anh phải nhớ nghe chưa." "Như thế mới đúng kiểu à?" "Chứ còn gì. Có vậy mà cũng không biết thì sao anh có thể sắm vai làm một quý ông thanh lịch? Bộ suit của anh bẩn lắm, nhưng đồ Tây thì miễn ẩ giữ được phom dáng, không nhăn nheo nhàu nhĩ là được. Kìa, em chuẩn bị đâu ra đấy cho anh rồi, tối nay anh sẽ mặc bộ đó. Với lại anh phải may bộ tuxedo sớm đi. Nếu không em không khiêu vũ với anh đâu." Cà vạt phải màu chàm hoặc đen, nhưng đeo nơ bướm thì hơn; giày phải bằng da bóng, nếu không được thế thì cũng phải là loại giày đen thường (giày da màu đỏ không ăn nhập); bít tất lụa là nhất nhưng tất nào cũng được miễn là đen tuyền... Chẳng biết Naomi nghe những thông tin ấy ở đâu, nhưng cô nàng quan tâm đến từng chi tiết trong việc sửa soạn quần áo của tôi. Phải một lúc lâu sau hai đứa mới rời khỏi nhà. Khi chúng tôi đến thì đã quá bảy rưỡi, tiệc khiêu vũ đã bắt đầu. Có thể nghe thấy tiếng ban nhạc Jazz đang chơi ầm ĩ trong lúc lên cầu thang bước vào sảnh, vốn là phòng ăn sau khi đã dọn dẹp hết bàn ghế đi. Ngoài lối vào là tấm bảng bằng tiếng Anh: "Special Dance – Admission: Ladies Free, Gentlemen ¥3.0026[26]." Một người bồi bàn thu phí vào cửa. Vì đây chỉ là quán cà phê nên "sảnh" chẳng rộng mấy. Tôi thấy khoảng mười đôi đang khiêu vũ, đủ khiến cho cái chỗ này trông đã khá đông rồi. Bàn ghế được bố trí thành hai hàng ở một bên phòng. Ý tưởng xem ra là sau khi mua vé vào cửa thì khách khứa tự kiếm chỗ ngồi, thỉnh thoảng ngồi nghỉ trong lúc nhìn các cặp khác khiêu vũ. Vài nhóm đàn ông đàn bà tôi không quen đang ngồi nói chuyện. Khi Naomi vào phòng, họ thì thầm với nhau vẻ lén lút, săm soi trang phục phô trương của cô nàng với ánh mắt lạ lẫm, ngờ vực, nửa thù địch nửa khinh thường chỉ có thể có trong hoàn cảnh ấy. Tôi có cảm giác họ đang nói: "Này, nhìn quý cô mới bước vào kìa!" và "Các vị nghĩ gì về thằng ngốc cô ta mang theo vậy?" Tôi nhận thấy rõ ràng ánh mắt của họ không dừng lại ở Naomi mà còn cả ở tôi, bởi tôi đang núp sau lưng cô. Tiếng nhạc vọng lên ù ù trong tai, tôi thấy những người dự tiệc đang khiêu vũ, người nào người nấy đều điệu nghệ hơn tôi, họ đã xếp thành một vòng tròn lớn và đi vòng quanh. Trong lúc đó tôi tự nhẩm rằng mình chỉ có hơn ba mét bẻ đôi, đen trùi trũi, răng khấp khểnh, trên người là bộ vest màu lam hai năm tuổi, không còn đẹp như mới từ lâu rồi. Tôi đỏ bừng mặt và run rẩy. Tôi tự nhủ sẽ không bao giờ bén mảng đến một nơi thế này nữa. "Đứng đây chả tích sự gì... Đi thôi... ra chỗ mấy cái bàn..." Chắc Naomi cũng xấu hổ, cô nàng thì thào, dí miệng vào tai tôi. "Ừ, thế theo em mình có nên đi cắt ngang qua mấy người này không?" "Em nghĩ không sao đâu..." "Nhưng ngộ nhỡ va vào ai đó thì sao?" "Thì cẩn thận để không va vào là được... Kìa, ông kia vừa đi qua. Ổn rồi. Đi nào." Tôi theo đuôi cô băng qua đám đông. Chân tôi run lẩy bẩy, sàn nhà thì trơn, băng qua bên kia căn phòng một cách an toàn không phải chuyện dễ. Tôi nhớ là Naomi có cằn nhằn tôi một lần lúc tôi suýt thì ngã sấp mặt đánh ầm. "Có chỗ trống. Xí chỗ bàn đó đi." Naomi bạo hơn tôi, dương dương đi qua đám đông đang săm soi tới một chiếc bàn ở góc xa. Tuy rất mong chờ tối ngày hôm nay nhưng cô nàng không muốn khiêu vũ vội. Naomi có vẻ sốt ruột khi lấy cái gương từ túi xách ra và dặm lại son phấn, rồi cô thì thầm: "Cà vạt của anh bị xoắn về bên trái" trong lúc vẫn nhìn lên sàn nhảy. "Naomi, Hamada ở đây phải không?" "Đừng gọi 'Naomi', anh phải gọi là 'tiểu thư Naomi'." Cô ả lại càu nhàu. "Hama có ở đây, cả Ma-chan nữa." "Đâu cơ?" "Đằng kia..." Đột nhiên cô nàng hạ giọng. "Chỉ tay là bất lịch sự. Đó, đang khiêu vũ với cô ả váy hồng. Ma-chan đó." "Chào," Ma-chan nói, di chuyển về phía chúng tôi và cười toe toét qua vai bạn nhảy. Người đàn bà mặc váy hồng dáng cao ráo, nở nang và cánh tay thuôn dài đầy đặn của cô ta được phơi bày toàn bộ. Mái tóc chấm vai của cô dày, đen nhánh, không chỉ mọc tốt mà còn nặng nề và trĩu xuống, xoăn tít mù và được tô điểm bằng một cái ruy-băng quấn quanh đầu và vắt ngang trán. Hai má cô gái đỏ au, đôi mắt cô to, cặp môi cô dày, nhưng khuôn mặt trái xoan và cái mũi dài, thanh của cô lại thuần chất tranh ukiyo e Nhật Bản. Tôi hay săm soi gương mặt phụ nữ, và quả thật chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt nào khó coi thế này. Tôi nhận ra người đàn bà ấy hẳn là đau khổ bởi khuôn mặt Nhật Bản của mình nên đã phải vất vả lắm để trông giống như người Tây. Cô ta đã bôi trắng tất cả những phần da lộ ra ngoài cho đến khi trông như vừa ngã vào đống bột gạo, và cô trang điểm đôi mắt bằng phấn màu ngọc bích sáng bóng lên. Màu đỏ tuơi trên má cô rõ ràng là dùng son tô vào. Chẳng may với cái ruy-băng quấn quanh đầu, nhìn cô như con ngáo ộp. "Naomi..." Tôi nói không suy nghĩ. Tự đính chính lại thành "Tiểu thư Naomi", tôi tiếp tục: "Đấy là một quý cô hả?" ấ ế "Vâng, đúng đấy. Nhưng cô ta nhìn như gái điếm vậy." "Em có quen cô ta không?" "Không, nhưng em đã nghe Ma-chan kể về cô ta. Anh thấy cái ruy băng chứ? Lông mày cô ả cao tít lên trán, nên phải đeo cái ruy-băng ấy che đi rồi vẽ thêm hàng chân mày giả ở dưới. Nhìn kỹ nhé, lông mày cô ả là đồ rởm." "Nhưng khuôn mặt cô ấy có xấu đâu.Việc gì phải tô trát xanh xanh đỏ đỏ thế." "Tại ngu nên mới tô vẽ thế." Naomi tuyên bố bằng cái giọng tự mãn thường lệ. Xem ra cô nàng đã lấy lại được sự tự tin. "Mà ả ta cũng chả đẹp đẽ gì. Quan niệm của anh về cái đẹp là như thế đấy à?" "Đẹp thì không, nhưng mũi cô ấy vừa cao vừa thanh, vóc dáng không đến nỗi tệ. Trang điểm kiểu thường là xinh chán rồi." "Eo ôi! Xinh á? Anh lố lăng vừa thôi! Bản mặt đó đâu chẳng thấy. Nhìn cách ăn mặc của cô ta kìa. Người khác muốn học đòi cho giống Tây em mặc kệ, nhưng cô ta chẳng hề ra dáng Tây tí nào. Thảm hại. Đúng là con khỉ." "Này, cái cô đang nhảy với Hamada trông quen thế?" "Lại chẳng quen. Haruno Kirako ở nhà hát Đế Quốc đấy." "Thật à? Vậy Hamada có quen biết cô ấy không?" "Quen chứ. Cậu ta nhảy giỏi, nên gặp gỡ nhiều nữ diễn viên lắm." Mặc một bộ vest màu nâu sẫm màu, chân đi đôi giày da bê và mang ghệt mắt cá, Hamada rõ ràng là vũ công điệu nghệ nhất trên sàn nhảy. Quá trớn ở chỗ anh ta áp khuôn mặt mình vào mặt bạn nhảy. Chắc chắn đây là một kiểu khiêu vũ. Vóc dáng Kirako mảnh mai với những ngón tay ngà thon thả, trông cô như đang ưỡn ra để ngã vào vòng tay vững vàng của Hamada. Ở đây trông cô còn đẹp hơn cả trên sân khấu trong bộ kimono quyến rũ, lộng lẫy với thắt lưng bản lớn bằng gấm damask với hình thêu rồng màu hoàng kim và xanh lục trên nền đen. Cao hơn Kirako nên Hamada nghiêng đầu xuống một góc, tai anh chàng chạm vào tóc mai của cô. Trông anh ta như đang ngửi tóc Kirako vậy. Còn phần Kirako, cô ta dí trán vào má Hamada với lực đủ mạnh để tạo nên nếp nhăn ở khóe mắt. Hai cái đầu và bốn con mắt nhấp nháy cũng liên ắ ể tục khiêu vũ, không rời nhau dù chỉ một khoảnh khắc dù thân thể họ không chạm vào nhau. "Joji, anh có biết kiểu nhảy đó không?" "Không, mà nhìn không đứng đắn lắm nhỉ?" "Chẳng những không đứng đắn mà còn tục tĩu nữa." Cô nàng gằn từng chữ. "Cái đó gọi là cheek dancing. Ở những nơi tử tế không được khiêu vũ kiểu đó. Bên Mỹ á, em nghe nói cứ thử nhảy thế là bị đuổi ngay. Hama-san không tệ, nhưng tính hắn thích khoe khoang." "Cô kia cũng nhảy theo còn gì." "Hừ, anh mong đợi gì ở mấy cô đào hát? Lẽ ra không nên để bọn đào kép vào đây. Cứ làm ăn thế này, con gái nhà lành sẽ chẳng thèm đến nữa." "Chả có anh chàng nào mặc suit xanh nước biển, thế mà em cứ nhặng xị lên. Xem Hamada mặc gì kìa." Ngay từ đầu tôi đã nhận thấy điều này. Ra vẻ biết tuốt, Naomi ép tôi mặc bộ suit xanh thẫm bởi cái etiquette cô nàng hóng hớt được. Nhưng trong buổi khiêu vũ, chỉ có hai, ba người mặc đồ màu xanh nước biển, còn tuxedo thì tuyệt nhiên chẳng có ma nào.Những người đàn ông khác mặc suit thời trang với màu sắc lạ. "Rồi, như ng Hama làm sai. Phải mặc màu xanh lam mới đúng." "Em cứ bảo thế, nhưng nhìn ông Tây kia kìa. Anh ta mặc đồ bằng vải đũi. Chắc mặc thế nào cũng chẳng quan trọng đâu mà." "Không đúng! Dù cả thiên hạ sai, thì việc mình mình vẫn phải làm cho đúng. Gã Tây ấy sở dĩ ăn mặc kiểu đó là vì người Nhật không biết đường ăn mặc. Với cả Hama thì đặc biệt vì hắn dày dặn kinh nghiệm, khiêu vũ giỏi. Chứ anh mà không ăn bận chỉnh tề thì trông khiếp hãi lắm." Trên sàn nhảy, nhịp điệu các động tác chậm lại rồi dừng hẳn, tiếng vỗ tay nồng nhiệt vang lên. Dàn nhạc đã ngưng lại nhưng các vũ công còn muốn nhảy tiếp, người nhiệt tình nhất huýt sáo, dậm chân và nói "Encore!27[27] ". Âm nhạc nổi lên và người người lại dập dìu. Một lúc sau nhạc dừng lại, có thêm nhiều tiếng đòi encore nữa. Các yêu cầu lặp lại hai hay ba lần cho đến khi vỗ tay đến mấy cũng không suy suyển được các nhạc công. Sau đó, nam giới tháp tùng bạn nhảy nữ về bàn như các vệ sĩ. Hamada và Ma-chan hộ tống Kirako và cô Váy Hồng đến bàn của mỗi người, mời họ an tọa, lịch sự cúi chào và sau đó qua chỗ chúng tôi ngồi. ổ ố ế ễ Hamada bảo: "Chào buổi tối. Các vị đến khá trễ phải không ạ?" "Sao thế, đằng ấy không nhảy à?" Ma-chan nói giọng lỗ mãng quen thuộc. Anh chàng đứng ngay sau lung Naomi, đứng dòm xuống bộ trang phục diễm lệ của cô nàng. "Nếu chưa có hẹn với ai, thì bài kế nhảy với tớ nhé?" "Thôi ạ, cám ơn. Đằng ấy vụng lắm." "Điêu. Tớ học chui nhưng tớ biết khiêu vũ đấy nhé. Buồn cười không chứ?" Cậu chàng phổng mũi, cười khúc khích vẻ gợi ý và thô thiển. "Năng khiếu đấy đằng ấy ạ!" "Gớm, xoen xoét vừa thôi cha nội. Nhìn đằng ấy với con mẹ váy hồng kia nhảy nhót trông rõ ngứa mắt." Giọng điệu Naomi bỗng nhiên cộc cằn đến ngỡ ngàng lúc cô nói chuyện với cậu kia. "Xấu lắm à?" Ma-chan gãi đầu ngượng ngập, mắt liếc Váy Hồng đang ngồi ở một bàn cách chỗ chúng tôi một đoạn. "Tớ nghĩ mình bị khớp giống mọi người, nhưng mà thật tớ chả hợp với chị ta, nhảy gì rõ là máu, tới đầy mà ăn diện thế đấy." "Con mẹ đó đúng là khỉ xổng chuồng." "Khỉ? Hay đấy. Chị ta là con khỉ, đúng thật." "Đúng là cạ cứng của mình. Mà đằng ấy rủ rê con mẹ ấy đến à? Ma chan, nhìn con mẹ ấy đến gớm, đằng ấy phải bảo cho nó biết đi chứ. Cái bản mặt đó không thể giống Tây được đâu. Có chữ Nhật Bản, Nhật Bản chính hiệu viết trên mặt kìa." "Nói cách khác, cố quá thành quá cố." "Chuẩn rồi, thân là con khỉ có cố cũng chẳng thành người được. Có những người mặc đồ Nhật mà vẫn Tây đó đằng ấy ạ." "Như Naomi chứ gì?" Naomi bật ra tiếng cười ngang ngược bằng giọng mũi. "Chính xác, tớ giống người Âu hơn đứt con mẹ đấy." "Kumagai." Hình như để giữ kẽ trước tôi, Hamada gọi Ma-chan bằng họ. Hắn ta có vẻ hơi băn khoăn do dự. "Kumagai, cậu chưa gặp anh Kawai bao giờ phải không?" ế ấ ồ "Chưa. Nhưng tớ biết mặt anh ấy rồi..." Ma-chan, bây giờ là "cậu Kumagai" ném vào tôi một cái nhìn mỉa mai từ sau ghế của Naomi nơi cậu ta đang đứng. "Xin tự giới thiệu. Em là Kumagai Seitaro." "Tên thật Kumagai Seitaro, biệt hiệu Ma-chan." Naomi ngước nhìn Kumagai. "Này Ma-chan, tự giới thiệu tử tế hơn một chút đi." "Thôi xin kiếu... Chi tiết mời anh cứ hỏi tiểu thư Naomi." "Gớm chết! Làm sao tớ biết chi tiết cơ chứ?" Tôi thấy khó ở khi bị bao vây bởi đám này nhưng Naomi đang vui, nên tôi cũng chẳng còn cách nào ngoài mỉm cười bảo: "Cậu Hamada, cậu Kumagai, mời các cậu qua đây ngồi với chúng tôi." "Joji ơi, em khát. Mua cái gì uống đi anh. Hama, anh muốn gì? Chanh muối nhé?" "Anh uống gì cũng được..." "Còn Ma-chan?" "Nếu đằng ấy bao thì tớ gọi whisky soda." "Khiếp. Tớ ghét bọn rượu chè. Bọn mồm thối." "Thế thì đã sao? Người ta bảo đó là một phần của sức hấp dẫn ở đàn ông." "Người ta nào bảo? Con khỉ kia à?" "Úi cha, bị bắt quả tang rồi. Chịu thua cậu đấy." Không thèm để ý đến người xung quanh, Naomi ngồi ngất ngư ngả trước nghiêng sau cười ha hả. "Joji, anh gọi bồi bàn nhá. Một ly whisky soda, ba ly chanh muối... Ý, khoan! Khoan! Bỏ chanh muối đi. Em thích cocktail trái cây." "Cocktail trái cây?" Tôi tự hỏi thế quái nào Naomi lại biết về món đồ uống tôi chưa nghe tên bao giờ. "Nếu là cocktail thì phải có rượu đúng không?" "Làm gì có hả Joji. Anh thì biết gì. Hama-chan, Ma-chan, nghe này. Ông anh đây nhà quê lắm." Naomi dùng ngón trỏ vỗ nhẹ lên vai tôi khi nói chữ "ông anh". "Cho nên đi khiêu vũ với ông này hả, buồn cười dễ sợ. Mới một phút trước choáng quá ông ý còn suýt ngã đấy." ắ ẳ ấ Hamada bảo vệ tôi: "Sàn trơn lắm. Ai mới vào chẳng thấy lạ, một khi quen rồi là anh sẽ thoải mái như ở nhà ngay." "Thế em thì sao? Em có thoải mái như ở nhà không?" "Em thì khác, Naomi. Em bạo dạn... về khoản giao tiếp em là thiên tài rồi." "Anh cũng là một dạng thiên tài đấy anh Hama." "Ai, anh cơ á?" "Chứ sao, anh kết bạn với Haruno Kirako mà bọn này không biết gì cả." "Đúng vậy." Kumagai dẩu mỏ, đầu gật gù. "Hamada, anh đã diễn trò làm thân với Kirako chưa đấy?" "Đùa vừa thôi. Tôi có làm mấy chuyện đó đâu." "Chống chế đến đỏ cả mặt, dễ thương chưa kìa." Naomi nói. "Anh cũng có tí chân thật đấy nhỉ... Ê. Hama, sao không gọi Kirako sang đây? Nào, gọi cô ấy qua đi! Giới thiệu em với cô ấy nữa!" "Để em nhạo báng cô ấy hả? Anh không đỡ được miệng lưỡi sắc bén của em đâu." "Đừng lo, em không chọc ngoáy người ta đâu. Gọi đi anh. Càng đông càng vui mà." "Tớ có nên gọi cả khỉ cái nữa không?" "Ừ ừ, gọi đi. Ma-chan, gọi cả con khỉ cái ra đây. Cùng ngồi với nhau nào." Naomi quay sang Kumagai. "Được. Nhưng nhạc nổi lên rồi. Nhảy với cậu một bài rồi tớ sẽ gọi bà chị ấy." "Tớ cóc muốn nhảy với đằng ấy đâu nhé Ma-chan, nhưng lỡ đâm lao thì phải theo lao thôi." "Cậu là ai mà nói vậy chứ? Mới ti toe sơ đẳng thôi nhé." "Nào, Joji, em sắp khiêu vũ, anh xem nhé. Em sẽ khiêu vũ với anh sau." ắ ấ ẫ ồ ề Chắc mặt tôi bấy giờ lộ vẻ lạ lẫm, buồn phiền nhưng Naomi cứ nhảy lên khoác vai cậu Kumagai kia, hòa cùng dòng người khiêu vũ lại bắt đầu những bước nhảy uyển chuyển. "À, đây là bài nhảy thứ bảy, điệu foxtrot." Hamada nói, rút tờ chương trình trong túi áo ra. Bị bỏ lại một mình với tôi, cậu chàng hình như không biết phải nói chuyện gì. Cậu ta tần ngần đứng dậy: "Anh thứ lỗi, em đã hẹn khiêu vũ bài này với Kirako." "Không sao. Cậu cứ mặc tôi." Sau khi ba người đã đi cả, phục vụ bàn đến cùng một ly whisky soda và món "cocktail trái cây". Tôi chẳng có gì để làm ngoài ngồi một mình với bốn cái ly đồ uống trước mặt và nhìn xa xăm vào cảnh tượng trên sàn nhảy. Dĩ nhiên tôi đến không phải để nhảy nhót, mà cốt là để ý xem Naomi có hơn người ở một nơi như thế này không và Naomi khiêu vũ giỏi đến thế nào, nên ở đây tôi thấy thoải mái hơn là trên sàn nhảy. Tự do tự tại, tôi háo hức dõi theo thân hình Naomi nhấp nhô lên xuống giữa sóng người. Naomi khiêu vũ giỏi! Tôi tự nhủ. Không có gì phải xấu hổ... Mỗi lần tôi để Naomi tự ý làm những việc thế này, cô nàng đều giỏi cả. Tay áo dài sặc sỡ tung bay và nhảy múa mỗi khi Naomi nhón chân quay vòng trong đôi giày khiêu vũ nhỏ xinh và bít tất dạ hội màu trắng. Theo mỗi bước chân của Naomi, tà áo kimono bay lên rung rinh như cánh bướm. Cô nàng nổi bật trong đám đông về mọi chi tiết, như một đóa hoa: những ngón tay trắng muốt đang ôm lấy vai Kumagai tựa ngón tay của nàng geisha cầm cần gảy đàn koto; thắt lưng thêu bản to, dày ôm lấy thân trên của Naomi. Gáy, nét mặt nhìn nghiêng, mái tóc của Naomi... bây giờ nhìn cô nàng tôi nhận ra trang phục truyền thống có nét hấp dẫn riêng. Và có lẽ nhờ bà chị Váy Hồng và những phụ nữ hoa hòe hoa sói khác mà thị hiếu lòe loẹt của Naomi ban nãy còn làm tôi thầm lo lắng hóa ra cũng không đến nỗi rẻ tiền lắm. "Ôi nóng quá! Anh thấy thế nào hả Joji? Anh có xem em khiêu vũ không?" Bản nhạc đã kết thúc, Naomi về bàn và với lấy ly cocktail hoa quả. "Ờ, anh đã xem rồi. Không thể tin được đây là lần đầu em khiêu vũ." "Thật sao? Thế thì bài tiếp theo em sẽ khiêu vũ với anh. Điệu one-step. Được không? Điệu one-step dễ mà." "Còn những người khác đâu, Hamada và Kumagai?" ế ấ "Đang đến. Mấy anh chàng đó sẽ kéo theo cả Kirako với con khỉ kia nữa. Anh nên gọi thêm hai ly cocktail." "Anh nhớ rồi. Cô Váy Hồng đang khiêu vũ với một người Tây kìa." "Vâng, lố quá nhi?" Naomi uống một ngụm cocktail cho khỏi khô miệng. "Chẳng phải bạn bè gì mà cũng bước ngay tới mời con khỉ đó. Thấy không? Gã Tây đang chơi xỏ chị ta. Chưa được giới thiệu mà dám làm thế! Hắn tưởng cô ả là gái điếm chăng." "Sao cô ta không từ chối?" "Từ chối thì buồn cười lắm, cô ta không từ chối đâu vì đấy là người Tây mời kia mà! Đồ ngu. Nhục mặt!" "Em đừng có khắt khe như thế. Nghe em ăn nói kiểu đó anh thấy khó chịu lắm." "Rồi rồi, em biết mình đang làm gì. Một người đàn bà như thế phải nói cho mà biết. Nếu không cô ta sẽ gây rắc rối cho tất cả chúng ta. Ma-chan cũng nói vậy – cô ta đi quá trớn rồi, nó sẽ nhắc nhở cô ả." "Ừ, thôi thì cứ cho là đàn ông nhắc nhở cô nàng là được, nhưng..." "Suỵt! Hama-chan với Kirako đến kìa. Khi phụ nữ đến thì anh phải đứng dậy." "Để anh giới thiệu em nhé." Hamada đứng trước mặt chúng tôi như một người lính chào cờ. "Đây là tiểu thư Haruno Kirako." Những lúc thế này tôi lấy nhan sắc của Naomi ra làm chuẩn – cô này so với Naomi thì hơn hay kém? Một cách duyên dáng và nhí nhảnh, Kirako bước lên từ sau lưng Hamada với một nụ cười bình thản. Có lẽ Kirako nhỉnh hơn Naomi một, hai tuổi gì đó, nhưng sức sống và vẻ thiếu nữ thì không khác biệt với Naomi. Ngoài ra, trang phục lộng lẫy của cô ăn đứt Naomi. "Rất vui được làm quen." Cô nói một cách khiêm nhường, đôi mắt thông minh, sáng láng xoe tròn nhìn xuống và cô hít nhẹ vào trong lúc cúi đầu chào. Phong thái của cô đúng như kỳ vọng đối với một diễn viên, không hề thô lỗ như Naomi. Naomi đi quá giới hạn của sự sinh động, cái gì cô nàng làm cũng thô bạo. Lời ăn tiếng nói của cô ấy thường tục tằn, ngổ ngáo và thiếu sự dịu dàng nữ tính. Nói tóm lại Naomi là con thú hoang dã, trong khi Kirako cái ế ế ắ ầ ấ gì cũng tinh tế – từ cách nói chuyện đến ánh mắt, cách cô nghiêng đầu, nhấc tay. Cô tạo ấn tượng như một bảo vật được mài dũa hết sức cẩn thận bằng một tay nghề thượng thừa. Chẳng hạn như khi ngồi xuống bàn cầm ly cocktail lên, từ bàn tay đến cổ tay Kirako trông thanh thoát tuyệt trần, nhẹ nhàng đến độ tưởng như không đỡ nổi sức nặng của ống tay áo mềm mại đang rủ xuống. Sự láng mượt của làn da và vẻ hồng hào tươi nhuận của Kirako không hề kém cạnh Naomi, tôi không biết bao nhiều lần đảo hai con mắt ngó hai đôi bàn tay đang đặt trên bàn. Nhưng khuôn mặt của họ rất khác nhau – Nếu Naomi là Mary Pickford, là cô gái Yankee28[28], thì cô kia là một mỹ nhân Pháp hoặc Ý tinh tế, duyên dáng và chỉ có chút lả lơi mà thôi. Nếu họ là hoa thì Naomi nở nơi đồng nội, Kirako bung cánh trong nhà. Cái mũi nhỏ trên gương mặt tròn trịa, tươi tắn của cô thì chao ôi thanh thoát và gần như trong suốt! Ngay cả trẻ sơ sinh cũng không có cái mũi như thế, may ra con búp bê chế tác bởi nghệ nhân tài hoa nhất mới sở hữu chiếc mũi thanh nhã tới vậy. Cuối cùng tôi để ý hàm răng của Kirako: Naomi lúc nào cũng tự hào về hàm răng của mình nhưng răng Kirako thì tựa chuỗi ngọc trai, đôi môi cô đỏ tươi như ruột dưa hấu. Tôi thấy mình nhỏ nhoi hèn mọn và cả Naomi chắc cũng thấy vậy. Lúc Kirako nhập hội thì bỗng Naomi bỏ luôn thái độ hống hách. Chằng những không đem Kirako ra làm trò cười, mà Naomi còn im lặng. Tại bàn mọi người hoàn toàn không còn chuyện gì mà nói nữa. Nhưng Naomi là loại người cay cú ăn thua, nên đã gọi Hamada kéo Kirako sang. Rốt cuộc, sau khi lấy lại sự bạo dạn hàng ngày cô nàng nói: "Anh Hama, đừng có ngồi đấy chứ, nói gì đi... Tiểu thư Kirako, chị gặp anh Hama lúc nào thế ạ?" Naomi mở lời trước. "Ô," Kirako nói, đôi mắt trong vắt bỗng sáng lên. "Chỉ mới gần đây thôi ạ." "Em vừa xem chị khiêu vũ xong." Dưới ảnh hưởng của Kirako, giọng điệu Naomi đã lịch sự hơn. "Chị khiêu vũ đẹp mê ly, chắc là phải luyện tập nhiều lắm." "Không có đâu. Ừ thì chị tập đã lâu rồi, nhưng xem ra chẳng khá hơn tí nào. Chị vụng lắm." "Đâu mà. Anh Hama nghĩ sao?" "Dĩ nhiên là giỏi. Cô ấy học khiêu vũ chính thống ở trường đào tạo diễn viên mà." "Ô kìa, anh cứ nói vậy." Kirako ngượng ngập nhìn xuống. ế "Nhưng chị giỏi thật mà," Naomi kiên quyết. "Em quan sát xung quanh thấy Hama nhảy đẹp nhất trong đám đàn ông, còn chị nhảy đẹp nhất trong đám phụ nữ." "Ôi chao!" "Cái gì đây, thi nhảy đầm à? Tớ mới là người giỏi nhất đám đàn ông chứ hả?" Kumagai chen vào giữa đám, tay kéo theo cả cô Váy Hồng. Theo như Kumagai giới thiệu thì Váy Hồng là con gái của một thương gia ở tỉnh Aoyama. Tên cô ta là Inoue Kikuko, đã hai lăm, hai sáu gì đó, sắp quá tuổi lấy chồng rồi. (Sau này tôi nghe nói cô ta từng lập gia đình hai, ba năm trước nhưng vừa bỏ nhau vì tật mê nhảy đầm.) Rõ là cô nàng muốn khoe cái đẹp nở nang của mình bằng cách mặc bộ váy dạ hội để trần hết cả vai và cánh tay, nhưng nhìn gần, nom cô như một mệnh phụ phốp pháp thay vì một phụ nữ gợi cảm. Tất nhiên đồ Âu thì hợp với người có da có thịt hơn là gầy nhẳng, nhưng vấn đề chính là ở khuôn mặt cô. Như con búp bê Tây bị lắp cái đầu của búp bê Kyoto, trang phục và dáng vẻ của cô không ăn nhập gì với nhau cả. Nếu cô chấp nhận sống chung với lũ thì đã chẳng đến nỗi, đằng này cô lại nhọc lòng tìm đủ phương kế để hòa trộn những thứ ấy với nhau, rốt cuộc từ xinh thành xấu. Bây giờ tôi đã thấy hàng lông mày thật nằm dưới cái băng đô còn cặp chân mày trên hai mắt đúng là giả. Phấn xanh quanh mắt, son đỏ trên má, nốt ruồi, viền môi, sống mũi – hầu như nét gì trên mặt cô cũng là vẽ lên. "Ma-chan có thích khỉ không?" Bỗng Naomi hỏi. "Khỉ?" Kumagai phì cười đáp lại. "Hỏi kỳ cục thế?" "Ở nhà tớ có hai con khỉ, nếu cậu thích tớ có thể biếu cậu một con. Sao nào? Cậu thích khỉ phải không?" "Khoan đã. Em nuôi khỉ thật à?" Kikuko nghiêm nghị hỏi. Mọi người mắc lỡm nên Naomi càng hứng chí làm tới, hai mắt sáng lên. "Có chứ. Tiểu thư Kikuko có thích khỉ không ạ?" "À, chị thích đủ loại động vật – chó này, mèo này..." Còn khỉ thì sao?" "Ừ, cả khỉ nữa." ế Cuộc trò chuyện hoạt kê đến mức Kumagai quay sang một bên ôm bụng nén cuời còn Hamada lấy khăn tay che miệng khúc khích, Kirako cũng nhếch mép cười hiểu ý. Nhưng Kikuko, một phụ nữ tốt tính đến đáng ngạc nhiên, có vẻ không nhận ra mình đang bị chế nhạo. Điệu nhảy thứ tám, một điệu one-step vừa bắt đầu và Kumagai cùng Kikuko đã hướng về sàn nhảy thì Naomi cộc cằn lên tiếng: "Hừ. Bị ngu à? Khéo con mẹ này lấy bông nút kín lỗ tai rồi. Chị cũng thấy vậy đúng không Tiểu thư Kirako?" "À, ừ thì..." "Cô ta nhìn không giống khỉ à? Em nói đến khỉ là có mục đích đấy." "Ôi trời." "Bị cả hội cười cợt mà còn không biết ý. Chứng tỏ đúng là ngu thật rồi." Với cái nhìn nửa ngỡ ngàng nửa khinh bỉ, Kirako liếc qua mặt Naomi nhưng chỉ nói "Ôi trời." Mười một "Nào, Joji, đến điệu one-step rồi. Bây giờ em sẽ nhảy với anh. Đi nào." Cuối cùng tôi cũng có đuợc cái vinh dự khiêu vũ với Naomi. Tôi thấy lúng túng nhưng hạnh phúc – đây là cơ hội áp dụng những điều đã học, mà bạn nhảy lại chính là Naomi yêu dấu của tôi. Dù có vụng về đến mức người ta chê cười chăng nữa, thì cái vụng về của tôi càng tôn thêm sự khéo léo của Naomi, thế là tôi thỏa mãn rồi. Ngoài ra tôi cũng có chút sĩ diện. Tôi muốn thiên hạ nhìn mình nói, "Chắc là chồng cô ta đấy." Nói cách khác là muốn khoe với tất cả rằng: "Người đàn bà này là của tôi. Hãy chiêm ngưỡng kho báu của tôi đi!" Ý nghĩ ấy vừa khiến tôi chột dạ, vừa khiến tôi thỏa mãn cực độ. Tôi cảm thấy như mọi sự hi sinh, vất vả mình đã trải qua vì nàng đều được bù đắp xứng đáng. Cô nàng ra điều như đêm ấy không muốn nhảy với tôi, ít ra là cho đến khi tôi giỏi hơn một tí. Nếu Naomi không muốn, tôi sẽ ngồi im đợi đến khi nàng muốn. Tôi đã hầu như không mong đợi gì cho đến khi bỗng nhiên nàng nói "Em sẽ khiêu vũ với anh". Mấy lời ấy làm tôi sung sướng biết mấy. Tôi nhớ mình cầm tay Naomi bắt đầu bước thứ nhất, nóng ran vì phấn khích nhưng sau đó thì hoàn toàn mất ý thức không biết trời đất gì nữa. Tôi chẳng nghe thấy tiếng nhạc, chân nam đá chân chiêu; hai mắt mờ đi; tim đập thình thịch. So với khiêu vũ theo những đĩa nhạc trên lầu tiệm Yoshimura thì một trời một vực. Khi đã lọt thỏm giữa biển người này, thật chẳng biết đường tiến hay lui. Cũng lại không biết phải làm gì. "Joji, sao anh run bắn thế? Bình tĩnh đi nào!" Naomi cằn nhằn bên tai tôi. "Coi chừng! Lại trượt chân kìa! Tại anh quay nhanh quá đấy! Từ từ đã! Em bảo từ từ cơ mà!" Cô nàng càng nói tôi càng bấn loạn. Đến khốn khổ, sàn nhà được đánh bóng loáng cho buổi dạ vũ hôm nay; hễ tôi không để ý mà nhảy như ở trên phòng tập là y rằng bị trượt chân. "Nào, em đã bảo anh đừng có nhô vai lên cơ mà? Hạ vai xuống! Hạ xuống!" Naomi lắc mạnh bàn tay trong cái siết tay cuồng loạn của tôi và tàn nhẫn đẩy mạnh vai tôi ra. "Sao anh cứ xấn sát sạt vào em thế? Này này, cái vai lại thế rồi!" Chuyện này sẽ kết cục chả ra gì, cứ như chúng tôi khiêu vũ chỉ để Naomi được quát nạt tôi vậy. Tôi ở trong tình trạng thậm chí còn không nghe được những lời cằn nhằn của cô nàng. "Joji, em chán anh tận cổ rồi!" Naomi giận dữ nói. ấ ể ế Mấy vị khác còn đang mải xin thêm nhạc để nhảy tiếp trong lúc Naomi về bàn bỏ tôi bơ vơ. "Thôi! Dẹp hết! Không thể nhảy với anh được, Joji ạ. Anh phải về nhà luyện tập thêm đi." Hamada và Kirako đã trở lại, cùng với Kumagai và Kikuko nên bàn chúng tôi lại sôi động; nhưng tôi đang vỡ mộng và buồn khổ đến nỗi chẳng nói được gì trong lúc Naomi đang đem mình ra bêu riếu. "Nghe cậu mắng như thế thì anh chàng nhát gan làm sao dám khiêu vũ cơ chứ. Đừng nói kiểu ấy nữa. Thôi, nhảy với anh ấy đi. Chiếu cố cho anh ấy đi!" Mấy lời của Kumagai hết sức động chạm đến tôi. "Chiếu cố cho anh ấy đi?" Ăn nói như thế đấy à? Thằng oắt này nghĩ mình là ai? "Nào có kém như em nói đâu Naomi." Hamada bảo. "Đầy người khiêu vũ còn chẳng bằng anh Kawai phải không? Tiểu thư Kirako, em có vui lòng nhảy điệu foxtrot tiếp theo với anh Kawai không?" “Vâng, được ạ.” Kirako gật đầu với dáng vẻ khả ái người ta mong đợi từ một nữ diễn viên. "Không, không, không dám, không dám đâu ạ!" Tôi lắp bắp đến tức cười. "Dám chứ sao lại không. Anh chớ e dè quá. Tiểu thư Kirako cũng nghĩ vậy phải không ạ?" "Dạ vâng... Thực tình sẽ ổn thôi mà." "Không, không được đâu. Tiểu thư vui lòng, để đến khi tôi khá lên hẵng." "Chị ấy nói sẽ khiêu vũ với anh; anh phải nhận lời chứ." Naomi nói dứt khoát. Cứ như cô nàng nghĩ rằng tôi đang gạt đi một vinh dự mà bản thân tôi còn chả xứng đáng nhận vậy. "Trừ em ra, anh không được phép từ chối khiêu vũ với ai hết. Nhanh lên, điệu foxtrot bắt đầu rồi. Để ý quan sát người khác khiêu vũ sẽ tốt cho anh đấy." "Will you dance with me29[29]?" Một gã đàn ông đi thẳng đến chỗ Naomi và nói bằng tiếng Anh. Chính là thằng cha ngoại quốc mảnh mai với bộ mặt tự phụ trang điểm trắng lốp ban nãy đã khiêu vũ với Kikuko. Cúi xuống trước mặt Naomi và mỉm cười, hắn nói liến thoắng. Chắc là nịnh nọt gì đó. Tất cả những gì tôi nghe được là mấy tiếng "please, please30[30]" trơ ố ố ể ổ trẽn. Naomi có vẻ bối rối, mặt mũi đỏ bừng nhưng không thể nổi giận mà chỉ bẽn lẽn cười. Naomi muốn từ chối nhưng bị khớp, không biết làm thế nào để khước từ bằng tiếng Anh cho nhã nhặn. Gã ngoại quốc được nụ cười của cô nàng khích lệ, xem chừng đã nóng ruột muốn hỏi: "Thế nào?" "Yes..." Naomi miễn cưỡng đứng dậy, hai má lại càng ửng đỏ hơn cả ban nãy. "Một phút trước cô nàng còn vênh vênh váo váo, đứng trước mặt gã Tây kia là nhũn ra luôn nhỉ?" Kumagai cạnh khóe. Kikuko bảo: "Người Tây họ cứ hung hãn làm tới, tôi cũng bó tay." "Nào chúng mình cùng nhảy đi chứ?" Kirako đang đợi; tôi chẳng biết đáp lại thế nào nữa. Nói nghiêm túc thì từ trước đến nay, chứ không chỉ có ngày hôm đó, lòng dạ tôi vốn không có người đàn bà nào khác ngoài Naomi. Khi trông thấy gái đẹp dĩ nhiên tôi nhận thức được nhan sắc của nàng nhưng chỉ muốn nhìn ngắm từ xa trong lặng lẽ mà không động chạm gì cả. Madam Shlemskaya là ngoại lệ, nhưng ở trường hợp của bà ta, cái đê mê tôi nếm trải không phải dục vọng tầm thường. Cái cảm giác ấy quá thăng hoa, khó nắm bắt và mơ hồ để gọi là sắc dục. Với lại bà Bá tước cũng khác chúng tôi, bà ấy là người ngoại quốc và là cô giáo khiêu vũ, so với một cô đào Nhật Bản của nhà hát Đế Quốc là Kirako trong bộ trang phục mỹ miều thì bên cạnh bà Bá tước thoải mái hơn. Tuy nhiên, lúc khiêu vũ với Kirako, tôi không ngờ cô ấy nhẹ cân như vậy. Thân thể Kirako êm ái như bông, đôi bàn tay mềm mại như lá non. Cô ấy nhanh chóng nắm bắt bước nhảy cùng tôi dù tôi rất vụng, và tự điều chỉnh như cách những con ngựa thông minh làm quen với người cưỡi. Sự thanh thoát đến mức ấy đem đến một cảm giác dễ chịu không thể diễn tả. Tôi lập tức vui; đôi chân trở nên nhanh nhẹn, tôi lướt đi nhẹ nhõm và dễ dàng như đang cưỡi trên vòng ngựa quay. Ôi vui quá! Thật là tuyệt diệu, sung sướng biết bao! Tôi tự nhủ. "Ôi, anh nhảy giỏi ghê. Khiêu vũ cùng anh dễ chịu quá." Giọng Kirako thì thào bên tai tôi trong lúc chúng tôi đi vòng quanh như cối xay. Một giọng nói nhẹ nhàng, mỏng manh, dịu ngọt như chính con người Kirako vậy. "Đâu có, nhờ tiểu thư dẫn khéo ạ." "Kìa, không phải đâu mà..." ố ấ Một lát sau, cô nói: "Ban nhạc tối nay chơi rất khá anh nhỉ?" "Vâng." "Nhạc kém hay, thì kiểu gì khiêu vũ cũng nhạt nhẽo đi mấy phần." Tôi nhận thấy đôi môi Kirako ngay dưới thái dương mình. Hình như đây là thói quen của cô, giống như khi nhảy với Hamada ban nãy, tóc mai của Kirako cũng đang chạm vào má tôi. Mái tóc mềm mại của cô mơn trớn, tiếng thì thầm êm ái đôi khi thoảng tới từ đôi môi cô... Đối với tôi, sau khi bị cô nàng Naomi choai choai phá phách vùi dập tơi tả bấy lâu thì đây đúng là một đỉnh cao tinh tế của nữ tính ngoài sức tưởng tượng. Tôi thấy như được một bàn tay nhân ái cảm thông vuốt ve những vết thương do gai nhọn đâm vào... "Tớ định từ chối, nhưng người Tây chả có bạn bè. Đành thông cảm với họ thôi." Đây là cách Naomi bao biện lúc xong việc trở về bàn, trông cô buồn buồn. Khi bài thứ mười sáu, điệu valse cuối cùng kết thúc thì đồng hồ chỉ mười một giờ rưỡi. Ban nhạc còn chơi thêm vài bài tặng thêm nữa. Naomi đề nghị về nhà bằng ô tô vì sợ muộn, nhưng tôi đã vất vả trấn an cô nàng và kịp đến Shimbashi đúng giờ để bắt chuyến tàu cuối cùng. Kumagai, Hamada, và một cô nữa cùng bọn tôi đi dọc đại lộ Ginza. Tiếng ban nhạc Jazz vẫn vang trong lỗ tai mọi người; hễ một người nghêu ngao là cả nhóm phụ họa theo. Không biết mấy bài hát đó nên tôi rất ghen tị với kĩ năng hát hò, trí nhớ tốt cũng như tuổi trẻ và giọng hát vui tươi của họ. "La, la, la-la-la!" Naomi vừa hát the thé vừa đi theo nhịp. "Anh Hama thích bài nào nhất? Em thích bài Caravan." "Ôi, bài Caravan'. Hay thần thánh luôn!" Kikuko rít lên. "Nhưng mình thích bài Whispering hơn. Bài ấy nhảy theo rất dễ." Kirako nói. "Còn Madam Butterfly thì sao? Bài tủ của tôi đó." Hamada bắt đầu huýt sáo bài Madam Butterfly. Rời khỏi cổng bán vé, Naomi và tôi đứng ngoài ga tàu lộng gió buổi tối muộn. Trong lúc đợi tàu chúng tôi nói rất ít. Sau phút vui vẻ, tim tôi ngập trong cô quạnh. Naomi chẳng thấy gì như vậy. "Vui quá anh nhỉ?" Cô nàng bảo. "Lần sau lại đi nữa nhé!" Trước nỗ lực bắt chuyện của cô, tôi chỉ lầm bầm "ừ" với bộ mặt ỉu xìu. Cái này gọi là dạ vũ à? Nhẽ nào tôi lừa dối mẹ tôi, cãi nhau với vợ tôi, cười khóc đến thân tàn ma dại vì cái buổi dạ vũ ngu xuẩn này? Vì đám người sĩ diện, xun xoe, thớ lợ và giả tạo đó? Song tôi đã đi vì lẽ gì? Để đem Naomi trưng ra trước thiên ạ ư? Nếu vậy thì tôi sĩ diện khác gì họ. Lại còn cái món bảo bối mà tôi một mực tự hào này nữa! Joji, mày thấy thế nào? Thật không thể chua chát tự hỏi như thế. Khi mày sánh vai cùng cô ả, người đời có ai trầm trồ ngạc nhiên như mày hi vọng không? Tục ngữ có câu điếc không sợ súng, và mày chính là thằng điếc. Mày tưởng cô ta là báu vật trần gian đó phỏng? Báu vật của mày trước bàn dân thiên hạ trông thế nào? Thiên hạ là một đám huênh hoang phù phiếm! Mày nói đúng đấy, nhưng không phải chính Naomi mới là kẻ phù phiếm, huênh hoang nhất hay sao? Nhìn cho khách quan, mày nghĩ ai là đứa thô tục nhất? Là cô ả vênh vênh váo váo, táo tợn đặt biệt danh để chế nhạo người khác! Kikuko không phải người đàn bà duy nhất bị gã Tây nhầm tưởng là gái điếm. Đã vậy Naomi còn không thể nói được một câu tiếng Anh bẻ đôi – chỉ biết lúng túng khiêu vũ cùng gã kia. Cả cách ăn nói của cô ả nữa! Dáng điệu tiểu thư mà ngôn từ vô học. Kikuko lẫn Kirako đều đẳng cấp hơn hẳn Naomi... Tôi không biết những ý nghĩ bất hạnh đó gọi là gì – hối hận hay thất vọng, nhưng chúng cứ bóp nghẹt trái tim tôi suốt quảng đường về đêm ấy. Trên tàu, tôi cố tình ngồi đối diện cô ả để có thể nhìn cho rõ người đàn bà tên Naomi này. Cái gì của cô ta đã khiến tôi yêu thương cô ta đắm đuối như thế? Mũi? Mắt? Thật kỳ lạ, khi tôi soát lại lần lượt từng đường nét của Naomi cái đêm ấy, thì khuôn mặt đã từng mê mẩn tôi dường như hết sức xoàng xĩnh, vô giá trị. Sau đó từ sâu trong ký ức, hình ảnh Naomi lần đầu gặp gỡ ở quán Café Diamond trở lại trong tôi mờ mờ ảo ảo. Hồi ấy, Naomi dễ thương hơn bây giờ. Vô tư và hồn nhiên, nhút nhát và buồn bã, cô bé ngày xưa thật không giống người đàn bà thô lậu, bất trị này. Tôi đã phải lòng cô bé, động lực ấy đưa tôi đến hôm nay nhưng bây giờ tôi chỉ thấy sau quãng thời gian chờ đợi, cô bé đã trở nên một người đàn bà khó ưa. Naomi ngồi làm dáng kiêu kỳ ra vẻ khôn ngoan lắm. Nét mặt kiêu ngạo của cô ả như đang nói: "Không có người đàn bà nào thời thượng, Tây hóa được như mình. Ai là người đẹp nhất? Mình đây chứ ai." Ngoài tôi nào ai biết đâu cô ả không nói được một chữ tiếng Anh, không phân biệt được câu chủ động với câu bị động. ầ ố ế ầ Trong lúc tôi chửi thầm tới số Naomi thì cô ả nghếch đầu ra sau, tôi trông thấy phần khuất dưới cái mũi lõ mà cô ả hết sức tự hào, đó là bộ phận Tây nhất của cô. Hai bên cánh mũi dày thịt. Tôi nhận ra mình có quan hệ thân mật sâu sắc với hai lỗ mũi đó. Hàng đêm khi ôm lấy Naomi tôi vẫn thường nhòm lên chúng từ góc này. Hôm nọ tôi vừa giúp Naomi hỉ mũi, vuốt ve cái mủi ấy, dí mũi mình vào cái mũi nhọn như cái nêm của cô. Nói khác đi thì cái mũi này, cái nhỏm thịt mọc trên mặt cô ta cứ như một phần của tôi. Không thể nghĩ đến việc cái mủi đó lại thuộc về ai khác. Nhưng bây giờ, vừa nghĩ vừa nhìn mới thấy cái mũi Naomi thành ra một vật đầy hằn học, bẩn thỉu. Đã đói thì dở mấy cũng ăn, nhưng khi cái bụng đã đầy ứ lên rồi mới chợt nhận ra mình cho vào miệng thứ ghê tởm thế nào và chỉ chực buồn nôn. Cảm giác của tôi đại để như thế, khi hình dung ra mình sẽ nằm đối diện với cái mũi ấy đêm nay đã nghe đầy hơi, chướng bụng. Phè phởn thế là đủ lắm rồi. Chắc là trời phạt tôi. Lừa dối mẹ để ăn chơi sẽ chẳng có kết cục tử tế đâu. Tuy nhiên quý độc giả đừng vội kết luận rằng tôi đã mất hứng thú với Naomi. Đúng là tôi có nghĩ như thế một thời gian, vì trước kia tôi chưa bao giờ có cảm xúc như thế nhưng khi chúng tôi trở về ngôi nhà ở Omori và ở riêng với nhau, cảm giác chán ghét trên tàu bốc hơi đi mất và mỗi bộ phận của Naomi – đôi mắt, cái mủi, bàn tay, bàn chân – lại đầy mê hoặc. Mỗi bộ phận thân thể đều là của ngon vật lạ, tôi ăn bao nhiêu cũng không ngán. Sau đó, tôi thường đi khiêu vũ cùng Naomi. Mỗi lần như thế tôi lại phải đối mặt với những khiếm khuyết của cô ấy và buồn bực trên đường trở về nhà. Nhưng cảm giác này chẳng kéo dài được lâu, và chỉ trong một đêm tình yêu của tôi dành cho nàng lại thay đổi liên tục như ánh mắt mèo. """