"
Tình Cõi Chân Mây - Pearl Buck full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tình Cõi Chân Mây - Pearl Buck full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÌNH CÕI CHÂN MÂY
Pearl Buck
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: TÌNH CÕI CHÂN MÂY
Tác giả: Pearl Buck
Dịch giả: Nguyễn Đức Lân
Nguyên tác: Mandala
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 1991
Số trang: 231
Giá tiền: -- Đồng
Khổ: 13 x 19 cm
Đánh máy: Tuyết Mai, Minh Khuyên, Minh Phương, Cẩm Tú, Minh Huy Kiểm tra: Quang Vinh
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 18/05/2011
Making Ebook Project #128- www.BookaholicClub.com
Bạn đang đọc ebook TÌNH CÕI CHÂN MÂY của tác giả Pearl Buck do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM 1.
2.
3.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Pearl Sydenstricker Buck (26/5/1892 - 06/3/1973) tên khai sinh: Pearl Comfort Sydenstricker; tên Trung Quốc 赛珍珠 (Trại Chân Châu) là nữ nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel văn học năm 1938.
Pearl Buck sinh ở Hillsboro, West Virginia, là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng.
Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên East Wind:West Wind (Gió Đông, gió Tây). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như The Good Earth (Đất lành), Sons (Những người con trai), A House Divided (Một nhà chia rẽ), The Mother (Người mẹ), The Child Who Never Grew (Đứa trẻ không bao giờ lớn)... trong đó tiểu thuyết The Good Earth được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực. Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh.
Trong Thế chiến thứ hai, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Trong thập niên 1950, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tái giá với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association,
1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đô la. Bà mất năm 1973 tại Danby, Vermont (Mỹ).
Tác phẩm
- East Wind:West Wind (Gió Đông, gió Tây, 1930), tiểu thuyết
- The Good Earth (Đất lành, 1931), tiểu thuyết
- Sons (Những người con trai, 1932), tiểu thuyết
- The First Wife and Other Stories (Vợ cả và những câu chuyện khác, 1933), tiểu thuyết - All Men Are Brothers (Mọi người là anh em, 1933), bản dịch tiểu thuyết Thủy Hử - The Mother (Người mẹ, 1934), tiểu thuyết
- A House Divided (Một nhà chia rẽ, 1935), tiểu thuyết
- A Home of Earth (Nhà tranh vách đất, 1935), tiểu thuyết
- The Exile (Lưu đày, 1936), tự truyện
- Fighting Angel (Thiên thần chiến đấu, 1936), tự truyện
- This Proud Heart (Trái tim kiêu hãnh, 1938), tiểu thuyết
- Flight into China (Bay vào Trung Hoa, 1939), kịch
- The Patriot (Người yêu nước, 1939), tiểu thuyết
- Other Gods (Những thần minh khác, 1940), tiểu thuyết
- Dragon Seed (Hạt giống của rồng, 1942), tiểu thuyết
- The Spirit and The Flesh (Tinh thần và thể xác, 1944), tự truyện
- The Dragon Fish (Cá hóa rồng, 1944), tiểu thuyết
- Portrait of a Marriage (Chân dung một cuộc hôn nhân, 1945), tiểu thuyết
- Talk about Russia (Câu chuyện về nước Nga, 1945), tiểu luận
- Pavilion of Women (Gian riêng của phụ nữ, 1946), tiểu thuyết
- Poeny (Mẫu đơn, 1948), tiểu thuyết
- Kinsfolk (Tình ruột thịt, 1949), tiểu thuyết
- The Angry Wife (Người vợ giận dữ, 1949), tiểu thuyết
- The Child Who Never Grew (Đứa trẻ không bao giờ lớn, 1950), tiểu thuyết
- The Hidden Flower (Cánh hoa e ấp, 1952), tiểu thuyết
- My serveral worlds (Thế giới của riêng tôi, 1954), tự truyện
- Imperial Woman (Người cung nữ, 1956), tiểu thuyết
- Letter from Peking (Lá thư từ Bắc Kinh, 1957), tiểu thuyết
- Voices in the House (Tiếng nói trong nhà, 1958), tiểu thuyết
- The Townsman (Người thành phố, dưới tên John Sedges, 1958), tiểu thuyết
- The Long Love (Tình yêu lâu dài, 1958), tiểu thuyết
- A Desert Incident (Một sự kiện ở sa mạc, 1959), kịch
- Command the Morning (Ra lệnh cho buổi sáng, 1959), tiểu luận
- Santan Never Sleeps (Satan không bao giờ ngủ, 1962), truyện phim
- Fairy Tales of the Orient (Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên, 1965), truyện thiếu nhi - Time is now (Bây giờ là thời điểm, 1967), tiểu thuyết
- The New Year (Năm mới, 1968), tiểu thuyết
- The Three Daughters of Madame Liang (Ba người con gái của Lương phu nhân, - 1969), tiểu thuyết
- The Promise (Hứa hẹn, 1943), tiểu thuyết
- Water Buffalo Children (Mục đồng, 1943), truyện thiếu nhi
- One Bright Day (Một ngày đẹp trời, 1950), truyện thiếu nhi
- The Christmas Ghost (Con ma đêm Noel, 1966), truyện thiếu nhi
- The Kennedy Women (Những người đàn bà trong gia đình Kennedy, 1970)
- The Story Bible (Chuyện Kinh Thánh, 1971)
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Tác phẩm lấy bối cảnh là một đất nước Ấn độ trong giai đoạn quá độ hình thành trên hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Với những sự kiện chính trị xảy ra lúc ấy, Tiểu vương Maharana Jagat xứ Amarpur nhận thấy mình bị tước đoạt tài sản và tước vị hoàng gia, nhưng ông vẫn thấy mình phải có trách nhiệm với người dân xứ mình. Vợ của ông, vương hậu Moti - một phụ nữ Ấn độ truyền thống rất thụ động, là một người vợ vô tư, sẵn sàng chấp nhận việc từ bỏ bản thân để sống một cuộc sống tẻ nhạt không cảm xúc. Khi hai vợ chồng tiểu vương Jagat nhận được tin đứa con trai duy nhất của mình - Jai, bị người Trung Quốc giết chết trong một cuộc đụng độ nhỏ nơi biên giới, Moti buồn vô hạn. Bà nói chồng - Tiểu vương Jagat, đến vùng biên đó đưa linh hồn của cậu bé về nhà. Trên đường đi, vị tiểu vương có thiện cảm với một phụ nữ Mỹ trẻ đẹp và bí ẩn - Brooke Westley. Một sự hấp dẫn định mệnh giữa hai con người - một phương Đông, một phương Tây; một bị ràng buộc bởi những tập tục cứng nhắc, một bị lôi cuốn bởi những suy nghĩ tự do phóng khoáng - đã nảy sinh.
Pearl Buck quả thật là một nhà văn tài năng. Bà viết nhiều (53 tiểu thuyết). Tác phẩm của bà không những chỉ được viết bằng những ngôn từ khiến người đọc phải ngẫm nghĩ liên tưởng mà bà còn xây dựng tính cách các nhân vật thật thành công. Tình cõi chân mây là một tiểu thuyết không thể không có trên kệ sách của bạn.
(Midwest Book Review)
1.
Một buổi sáng mùa hè, như thường lệ, Jagat, tiểu vương xứ Amarpur, Ấn Độ, thức dậy vì nghe đám bồ câu vù vù bay lên bên ngoài cửa số phòng ngủ của ông. Từ bao đời nay, bồ câu làm tổ ở những hốc trong tòa lâu đài cổ, đến bây giờ đã tới hàng ngàn con, mỗi sáng chúng lại gây tiếng động ồn ào. Jagat mở mắt ngay khi nghe bồ câu cất cánh lần đầu, tiếp theo đó cả đàn chim bay lên thật nhịp nhàng. Ông ngồi dậy trên giường, mình trần phủ dưới tấm mền lụa màu trắng, há miệng ngáp dài. Qua căn phòng rộng, ông nhìn vào tấm gương lớn đặt ở tường bên kia, thấy hình mình hiện lên một người đàn ông đẹp trai, và ông tự hài lòng. Ông mím miệng, vuốt chòm rìa đen nhánh lặng lẽ ngắm hình mình với cặp mắt sáng rực, và ông lại mỉm cười, tung mền, tiến lại khung cửa sổ mở rộng đón không khí ban mai. Theo thói quen, ông lại cúi mình trên khung cửa sổ, nhìn phong cảnh. Ở phía xa xa, bên kia hồ có tiếng soàm soạp, mấy người đàn bà đang giặt quần áo trên sàn gỗ kê lên những bậc thềm đá hoa dẫn xuống hồ nước. Jagat rất ưa cảnh tượng này. Bên kia hồ, những ngọn núi cao nhô lên thành hình vòng cung giữa bãi sa mạc, và bên này là tòa lâu đài cố xây bằng đá hoa trắng với vô số tháp nhỏ, nơi gia đình ông Jagat đã sống hằng bao thế kỷ.
Cha ông, cho tới lúc chết, vẫn sống trong những căn phòng rộng rãi của tòa lâu đài, đến đời ông mới cho xây thêm dẫy nhà bên cánh phải theo lối kiến trúc hiện đại. Tiểu vương Jagat và vương hậu Moti cùng hai con hiện đang sinh sống tại khu nhà mới xây cất đó.
Nghĩ đến bà Moti, ông cảm thấy lòng rộn rã. Hai ông bà đều còn trẻ, tuy đã có cô con gái Veera sắp tới tuổi lấy chồng. Có lẽ chỉ vài tháng nữa, cô sẽ thành hôn với một ông hoàng trẻ tuổi xứ Limbdi. Em trai cô, tên là Jai, hiện đang theo học tại một người trung học của người Anh ở Mussoorie, để chuẩn bị vào đại học Oxford, theo gương ông hồi ông hai mươi hai tuổi.
Quả thật ông bà đều còn trẻ cả, ông đúng bốn mươi, bà vừa qua tuổi ba mươi tám. Hai người yêu nhau và cưới nhau hồi còn rất trẻ, nhưng cuộc hôn nhân đó là một chuyện có xếp đặt, giữa tiểu vương và con gái một nhân vật trong chính phủ rất giàu có, là Sir Ramahrishna Prasad.
Nghĩ đến bà Moti, ông Jagat rộn rã trong lòng. Giờ này chắc hẳn bà đang ngủ. Sau bao năm chung sống hòa hợp, ông bà chỉ khác biệt nhau ở vấn đề giờ giấc. Ông say xỉn ngay từ lúc chập tối, trong lúc bà thức tỉnh tới nửa đêm. Nhưng sáng sớm ông đã thức dậy, mà bà chỉ mở mắt vào lúc giữa trưa. Bây giờ có nên đánh thức bà không? Không khí lạnh từ mặt hồ đưa lại, đượm chút sương mù mùa xuân khiến ông ngần ngại. Nhưng rồi tiếng chim hót véo von lại khiến ông quyết định. Phải đánh thức bà thôi! Ông hùng dũng bước qua căn phòng, vớ lấy một chiếc áo, khoác lên mình trong lúc tiến vào hành lang đến phòng bà. Tới cửa phòng, thấy một người hầu gái nằm ngủ bên ngoài, ông đưa chân gạt cô ta qua một bên, bước vào phòng.
Bà Moti đang ngủ. Ông tiến lại gần chiếc ghế nệm kê gần giường, đứng ngắm bà nằm ngủ, đầu gối lên bàn tay phải. Khuôn mặt bà xanh xao và yên tĩnh, mái tóc đen nhánh rủ xuống từng cuộn, phủ lên má. Bà mảnh mai, da dẻ tươi mát, những ống xương ẻo lả. Chiếc áo ngủ màu trắng tụt xuống bên vai trái, để hở bộ ngực tròn lăn như ngực thiếu nữ. Ông nhìn thấy vậy, vội quỳ xuống bên bà, thì thầm: - “Moti, Moti, anh đây!”
Bà mở mắt, nhận ra ông, liền mỉm cười. Rồi bà trở mình, hai tay hất mái tóc khỏi khuôn mặt. Bà có đôi bàn tay tuyệt đẹp. Đã có lần, một điêu khắc gia trẻ tuổi người Pháp mà ông Jagat làm quen được ở Paris hồi còn sinh viên đã đến chơi tòa lâu đài, thấy đôi bàn tay tuyệt vời của bà Moti, đã từ chối không đi thăm cảnh Amarpur, dành hết thời giờ để khắc trên đá hoa đôi bàn tay đẹp đó.
Jagat cúi xuống bên vợ: - “Moti em ơi! Ngày hôm nay đẹp quá!”
Theo thói quen, ông bà nói với nhau bằng tiếng Anh, vì thổ ngữ của hai người quá khác biệt nhau.
Bà thở dài: - “Jagat, anh có hứa là không đánh thức em trước mười giờ sáng cơ mà.”
- Nhưng ngày hôm nay đẹp quá, em ạ. Mấy con hồng tước lại tới làm tổ ở đầu nhà, chỗ treo chiếc đồng hồ đấy.
- Vì vậy mà anh nảy ý nghĩ tìm tới phòng em hay sao?
Bà cười ròn, tiếng cười lanh lảnh vui vẻ, và nhích chỗ trống cho ông trên giường. Họ chẳng cần khóa cửa, người hầu gái thấy cửa đóng là tự động đứng canh gác bên ngoài. Ông vứt chiếc áo vừa khoác trên mình qua một bên, ghé nằm bên cạnh bà. Yêu đương luôn luôn là niềm vui thú êm dịu nhất trong đời ông, là niềm cảm thông khiến hai người hòa hợp làm một, gạt bỏ mọi khác biệt giữa tư tưởng của hai người, dù rằng thời gian êm đẹp đó chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ thôi. Họ không nói một lời, yêu lặng hưởng lạc thú. Và đột nhiên, nó chấm dứt, ông sẵn sàng từ biệt, cũng nhanh chóng như lúc đến.
Ông cúi xuống hôn bà, nói nhỏ: - “Cám ơn em!”. Và từ biệt.
Dẫu sao, bà vẫn luôn luôn ám ảnh ông. Ông không sao hiểu nổi bà, người đàn bà, người con gái cưới hỏi từ hồi ông mới mười tám tuổi đầu. Ông hiểu rõ từng góc cạnh trong cơ thể bà với niềm lạc thú quen thuộc, cũng biết được những ý nghĩ thông thường của bà, nhưng những tư tưởng đó xoay chuyển thế nào thì ông không thể theo dõi được. Ông không hiểu nổi những suy nghĩ thầm kín của bà. Bà có đáp ứng niềm hứng khởi thể chất của ông rất mạnh mẽ và chân thành hay không? Có lẽ có đấy, nhưng bà biết tự kiểm soát, và tỏ ra thụ động. Ông từng nghe một người Anh Quốc trẻ tuổi, chủ một rạp chớp bóng ở Bombay, từng nhận xét về nhược điểm của đàn bà Ấn Độ: “Các cô nàng đều rất xinh đẹp, nhưng là người tình rất dở” - Ông ta cố tìm cách lột tả điều nghịch lý: - “Họ cho ngay lần đầu. Nhưng chỉ có vậy thôi. Họ chẳng hiểu tí gì về nghệ thuật yêu đương.”
Đó chỉ là câu nói rỡn chơi, nhưng Jagat phải nhận rằng quả thật Moti không phải người tình tuyệt vời. Bà rất dịu dàng, tiếp đón ông với tất cả vẻ duyên dáng, có thể nói là niềm nở tiếp đón nữa, nhưng phải chăng niềm nở tiếp đón chỉ có nghĩa là không hề từ chối? Đó phải chăng chỉ là sự đồng tình hơn là hòa hợp? Tuy nhiên ông vẫn ưa thích thái độ đó hơn là những cử chỉ lãng mạn giả dối của các cô nàng chuyên nghiệp ở Paris hay London, mà thời trẻ ông mê say đắm, nhưng đến khi đứng tuổi lại thấy chán ngấy.
Jagat bước vô phòng tắm bông sen, xua đuổi những ý nghĩ đó. Moti là người vợ yêu quí của ông. Bà không bao giờ phàn nàn, dù rằng hiện nay lợi tức vương tước của ông đã bị chính quyền mới cắt giảm phân nửa. Nhiều bà vợ các vị vương hầu, bạn của ông ở các tiểu quốc lân cận, đã than phiền rất nhiều về chuyện này. Tiền đâu họ tiêu pha trong gia đình, mua sắm quần áo cùng nữ trang cần thiết? Ấy là chưa kể tới tiền bảo quản tòa lâu đài của họ đấy. Lại còn cả vấn đề đất đai nữa chứ. Bao ruộng đất của các lãnh chúa đã bị chính quyền lấy đi hết sạch, mà không có chuyện bồi thường gì cả.
Không, chẳng bao giờ bà Moti than phiền. Bà lặng lẽ, duyên dáng ngồi nghe ông nói về luật lệ mới, đôi mắt to tối sầm trên khuôn mặt xanh xao, khiến nét mặt đó mất đi một phần nào vẻ xinh đẹp. Bà cứ yên lặng ngồi nghe ông nói tiếp:
- Moti à, anh phải nghĩ tới một công việc làm ăn nào đó, bởi vì sẽ chẳng còn gì nhiều để lại cho các con, từ ngày mà lợi tức cứ giảm dần, đến một lúc sẽ chẳng còn chút gì. Tuy nhiên, anh cảm thấy như vậy mới là điều hợp lý, vì bao năm qua cha ông ta đã bóc lột của nhân dân quá nhiều mà chẳng đem lại cho họ được điều gì. Nhưng nghĩ cũng chán thật, chẳng bao lâu nữa anh sẽ không còn là người cai quản trên đất đai của mình nữa.
Như thường lệ, bà mặc chiếc áo dài màu trắng bằng lụa nhẹ, trong lúc hai người, sau bữa ăn tối, ngồi
ở bãi đất trống rộng mênh mông mà ông nội ông đã cho xây bằng đá hoa bên cánh phải tòa lâu đài, vào năm mà ông cụ dẫn về nhà một cô gái người Hy Lạp. Bãi đất đó được xây dựng quanh một cây bồ đề cổ thụ, tỏa bóng mát chung quanh, và dưới gốc cây là một hồ nước, cạnh hồ dựng một bức tượng cô gái Hy Lạp bằng đá hoa màu xanh nhạt. Cô gái đã chết trẻ, vì bệnh tình không thuốc chạy chữa, hay có thể vì tự tử.
Bà Moti trầm ngâm, lên tiếng đáp lại lời chồng: - “Tất nhiên anh Jagat ạ, việc đời đã biến đổi, anh không còn là người cai quản đất đai của mình, và em cho rằng có lẽ dân chúng có phần nào tiếc nhớ thời huy hoàng xa xưa. Giữa cuộc sống tẻ nhạt của dân chúng thì hình ảnh của ba anh có phần huy hoàng, nổi bật. Nhưng tội lỗi của ông cũng nổi bật không kém. Ngay ông nội anh cũng sống động, hồi mà cô gái Hy Lạp có mặt tại đây. Cả anh nữa, anh yêu ạ, anh cũng có cuộc sống huy hoàng, dù rằng không có mấy cô gái Hy Lạp bên cạnh. Em cũng mừng rằng không có chuyện đó, nhưng anh lại mắc việc săn bắn cọp. Này, chiếc đầu cọp treo trên tường, giữa hai cửa sổ phòng khách đó, em nghĩ là có mọt trong ấy rồi đấy. Anh đã để mắt đến chưa?”
Ông vặn hỏi: - “Thế, em không nghĩ đến chuyện tiền mua sắm quần áo và nữ trang của em bị cắt giảm phân nửa hay sao?”
Bà nhún đôi vai gầy guộc: - “Em đã có hàng trăm chiếc áo dài và quá nhiều nữ trang không dùng tới. Anh quá rộng rãi với em, Jagat à. Em tính sẽ cho bớt Veera một số nữ trang, khi nó đi lấy chồng. Em mong cho những người nông dân kiếm được miếng ăn nhiều hơn lên. Như vậy còn lý thú hơn những cô gái Hy Lạp và các tiểu vương ước mong số vàng nặng bằng trọng lượng bản thân, nhân dịp lễ sinh nhật của họ.” - Và đột nhiên bà cất tiếng cười ròn rã: - “Ốm đi cho bớt phì mập có phải đẹp không nào! Đấy, ông nội anh còn để lại hình dáng phì nộ đó! Hình như ông chỉ biết có vàng và tình yêu của cô gái Hy Lạp thôi! Nghe đâu cô nàng trẻ chỉ bằng tuổi con gái ông thì phải! Và ông mê cô như điếu đổ! Em không chịu nổi mỗi lần đặt chân vào căn phòng nhỏ, nơi cô ta tự thắt cổ.
Nói rồi, bà đứng dậy bước đi, vẻ duyên dáng và châm rãi tưởng chừng như hổn hào, nhưng ông biết rõ là không phải vậy. Bà là một tín hữu trung thành, không những thành tâm với tín ngưỡng Ấn Độ mà còn tin theo đạo Thiên Chúa nữa. Trong nhiều năm, người dạy bà tin theo Thiên Chúa là một linh mục người Pháp có tuổi. Ông ta đã dạy bà biết nói tiếng Pháp đúng giọng Paris, nhưng năm vừa rồi, cha DuBois đó đã lìa đời, và khi cảm thấy cái chết gần kề cha đã gởi gắm con chiên của mình vào bàn tay trông nom của một linh mục trẻ tuổi người Anh, là cha Francis Paul. Một buổi tối, ông Jagat về tòa lâu đài, thấy vị tu sĩ trẻ tuổi, cao lớn, mặc áo chùng đen đang ngồi thoải mái trên chiếc ghế kê ngoài bãi đất trước nhà, và gần bên ông - nhưng không gần quá - bà Moti nằm ườn trên ghế nệm dài, mái tóc phất phơ bay theo gió, tỏa trước mặt.
Cha Francis đứng dậy, lặng lẽ, khoanh tay, cúi đầu chào. Chẳng biết hai người đang thảo luận chuyện gì, thấy ông Jagat, họ ngưng ngay. Và lúc đã cùng ngồi xuống, vị tu sĩ đợi cho ông tiểu vương lên tiếng trước, rồi lựa lời thêm mấy câu bình phẩm vui vẻ. Ông ta học hành giỏi dang, hiểu biết rộng rãi khả dĩ tiếp cập được với một ông hoàng. Vì thế, dù chẳng ưa gì đạo Gia Tô, ông Jagat vẫn thích thú được trò chuyện với cha Francis Paul, là người không có tinh thần sắc bén, vững vàng và lạnh tanh của người Anh, ngay cả lúc câu chuyện đượm vẻ huyền bí tôn giáo. Huyền bí là bản chất của tâm hồn người Ấn, nhiều khi biến thành mê tính dị đoan. Ngay như ông Jagat, nếu ngày hôm đó thầy bói cho biết là một ngày xấu thì ông có thể đình hoãn một công việc làm ăn hoặc một chuyến du ngoạn. Và cũng vì mê tính ông mới phải hỏi thầy bói về một chương trình ông không hề tiết lộ với ai cả, ngay cả với bà Moti. Nhưng rồi, ông quyết định làm trái lại lời thầy bói. Hôm nay tốt ngày. Quả thật hôm nay là một ngày rất tốt, không khí trong trẻo và khô ráo, mặt hồ lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Đột nhiên, lúc ông đã mặc quần áo tươm tất, bỗng một con chim bay vào phòng. Ông chưa bao giờ được thấy một con chim có hình dáng như thế, một con chim trắng bóc, nhỏ hơn bồ câu và lớn hơn họa mi. Nó bay thẳng vào phòng, qua cửa sổ bỏ ngỏ, bay vụt như một mũi tên, lượn hai vòng trên trần nhà cao vút, đậu lên khung bằng vàng một bức tranh quí giá. Các bức tường trong phòng này treo đầy những họa phẩm miêu tả lịch sử Ấn Độ và xứ Rajput vào thời quân Mogul xâm chiếm và cai trị. Không hiểu sao con chim trắng lại chọn để đậu lên bức chân dung của cụ tổ Jagat, vị anh hùng Pratap chiếm lại đồn lũy
Chittor đã bị Akbar, người Mogul, chiếm đoạt. Trước khi chiếm lại được đồn lũy đó, ngài Pratap đã bắt mọi người phải nằm gai nếm mật, không được dùng chén đĩa bằng vàng bạc, không được ngủ trên nệm vải, mà phải nằm trên nệm rơm, và không ai được cạo râu trước khi quân thù bị đánh bật ra khỏi đất nước. Vào buổi sáng tổng tấn công địch quân, một con chim trắng cũng bay vào căn lều của ngày Pratap. Con chim trắng trở lại lần này có ý nghĩa gì chăng? Jagat tự nhủ đây là điềm tốt lành cho công việc ông đang dự tính.
Bà Moti ngồi trong phòng riêng, đọc một cuốn sách mới của Jean Paul Sartre. Bà đọc sách tiếng Anh và Pháp rất dễ dàng. Bà đọc sách tiếng Anh và Pháp rất dễ dàng, và cảm thấy thích thú được tìm hiểu tư tưởng của Tây phương. Từ lâu rồi bà đã quyết định không ra khỏi đất nước, chỉ tìm hiểu người Tây phương qua tâm trí và tưởng tượng thôi. Bà có vẻ rất trẻ trung sau chuyến viếng thăm buổi sớm của chồng. Bà đã tắm rửa kỹ càng, sau đó dùng bữa điểm tâm trai-tịnh thường lệ. Ông Jagat thường nhắc nhở khuyên bảo, nhưng bà nhất định không ăn thịt. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Một lát thịt bò sẽ đem lại huyết sắc trên đôi má em đấy”, nhưng bà nhất quyết từ chối. Bà kiêng sát sinh, ngay một quả trứng cũng không đụng tới, vì trứng chứa đựng mầm sống. Đặc biệt bà nhờm tởm việc săn bắn cọp, môn thể thao mà ông Jagat rất thích thú. Tuy nhiên bà không hề phản đối khi ông rủ cậu con trai Jai theo ông lên núi, tới bãi săn bắn mà các ông hoàng Ấn Độ cho xây dựng từ bao đời nay. Một mình ông Jagat đã bắn và hạ sát hơn trăm con cọp, những con đẹp nhất được nhồi bông, hoặc chặt đầu ướp thuốc treo trên tường để trang trí tòa lâu đài, những con khác được lột da, trải lên mặt sàn đá hoa thay những tấm thảm. Nhưng bà Moti cương quyết không để da hoặc đầu thú trong phòng riêng của bà.
Bà đã yên lặng ngồi hàng giờ đồng hồ trong buổi sáng để đọc sách, và không ai tới quấy rầy bà. Lâu lâu mới có một người hầu tới mở cửa nhòm vào, nhưng lại đi ngay. Cuối cùng bà gấp sách lại, đặt một miếng vải xa-tanh giữa hai trang giấy để đánh dấu, và tiếp tục ngồi lặng yên suy nghĩ, nhận định rằng không thể chấp nhận triết lý mới của Tây phương, quá hời hợt. Chỉ biết sống cho hiện tại là không thể chấp nhận được ở đây, ở xứ Ấn Độ này, nơi có cả mấy ngàn năm lịch sử, tuy rằng đôi khi việc thừa hưởng quá khứ đó quá nặng nề, không thể chịu đựng nổi. Có lẽ vì vậy mà đám thanh niên, như Veera và Jai, có vẻ sống rất lạc lõng và không lý-tưởng. Ngay từ hồi mới cưới, bà đã thấy ông luôn luôn tỏ ra bận rộn một chuyện gì đó. Cảm ơn Thần Phật, ít nhất việc bận rộn của ông không phải vì đàn bà!
Bà đính hôn vào năm mười sáu tuổi, và lấy chồng vào tuổi mười tám. Trong hai năm phân cách đó, bà đã được má bà dạy dỗ, chuẩn bị đầy đủ để thờ chồng. Bà mẹ nói: - “Thân phận người đàn bà chán lắm, con ạ. Nguyên nhân là vì trong tình trường, ai cũng mơ ước chuyện chung thủy. Đàn bà cũng vậy thôi, luôn luôn mong ước chồng trung thành với mình; nhưng ước mơ chỉ là ước mơ, vì đàn ông có bao giờ trung thành đâu? Bản chất của họ là vậy. Kìa như con chó săn, thấy thỏ thì quai hàm mấp máy, nước miếng nhỏ ra, không ngăn lại được. Cũng vậy, khi người đàn ông thấy cô gái trẻ trung xinh đẹp thì thèm rỏ rãi, dù có muốn trung thành với vợ cũng không được. Vậy con đừng dại dột lao đầu vào chỗ yêu đương mà mang lấy khổ hận.”
Sự thật, hồi còn con gái, bà Moti đã từng mơ tưởng chuyện yêu đương. Một hôm bà hỏi mẹ: - “Làm sao tránh được khổ hận yêu đương hở mẹ?”
Bà mẹ khuyên: - “Ráng đừng tỏ ra quá yêu thương người chồng.”
Moti hỏi lại: - “Nhưng bổn phận của con không phải là hết dạ thương yêu chồng hay sao?”
Bà mẹ đáp: - “Hãy nghe lời khuyên nhủ thầm kín của má. Má biết rõ lắm nếu con buông thả lòng mình để thương yêu chồng thì thế nào con cũng chịu khổ hận thôi. Chỉ nên đọc sách, học nhạc, học ngoại ngữ, hoặc làm một việc gì để bận tâm trí và mất thời giờ. Đừng thương yêu chồng - hoặc một người đàn ông nào - quá nhiều.”
Nàng đã ngây thơ hỏi lại mẹ: - “Làm sao con có thể thương yêu một người đàn ông khác được?”
Bà mẹ tỏ vẻ bối rối, sau mới đáp: - “Tất nhiên là không có người đàn ông khác.”
Bây giờ, bà Moti hiểu ra rằng tình yêu là điều rất khó kiểm soát. Ngày hôm qua bà đã ngạc nhiên khám phá ra rằng nếu cha Francis Paul không phải là một tu sĩ thì có thể bà đã yêu ông ta. Người đàn ông trẻ tuổi người Anh hiểu được tâm trí rối bời của bà Moti, đã gỡ rối cho bà thật dịu dàng và tế nhị. Ông hiểu được những nỗi rắc rối trong cuộc đời bà, với tư cách là bà chúa trong tòa lâu đài mênh mông. Trước nay chưa có ai quan tâm đến bà, coi bà là một tâm hồn, nên chắc chắn bà sẽ đáp ứng lại, không thoái khỏi tội lỗi. Bây giờ bà tự nhủ lòng phải coi vị tu sĩ như một người hướng dẫn tinh thần, một ông Thầy, mà tiếng Ấn Độ gọi rất long trọng là “Guru”.
Bà không được phép buông thả cho yêu đương. Ngay cả với ông Jagat, từ trước đến giờ bà cũng chưa hề yêu thương trọn vẹn. Bây giờ, bà chợt nhận ra rằng bà cần phải yêu thương ông. Veera sắp đi lấy chồng, Jai sắp vô đại học ở bên Anh Quốc, hoặc bên Hoa Kỳ. Ông Jagat có nói đến đại học Harvard, nhưng bà thấy Hoa Kỳ xa xôi hơn Anh Quốc quá nhiều - lúc đó, bà chỉ còn lại có ông Jagat. Ông chưa hề bao giờ thương yêu một người đàn bà khác. Nếu như bà mẹ còn sống hẳn là Moti sẽ tới, báo tin cho biết: - “Má à, anh Jagat không như những người đàn ông khác đâu. Anh ấy trung thành với con, thật lòng coi con là vợ. Con có nên thương yêu anh ấy để đáp lại chăng?”
Nhưng bà mẹ đã mất rồi, Moti chẳng còn ai để nói những điều như trên. Chắc chắn bà không thể kể lại với bà chị ruột, lấy chồng là một ông hoàng ở tiểu quốc bên cạnh, người vẫn còn nuôi cấm cung một đoàn vũ nữ, y hệ như cha của Jagat đã làm xưa kia. Không hiểu sao Jagat lại khác hẳn cha, vừa được cầm quyền cai trị, ông liền giải tán ngay đoàn vũ nữ như một đàn chim, thường cười đùa vã cãi cọ khiến tòa lâu đài luôn luôn ồn ào. Họ được thanh toán tiền nong và đi khỏi, thì tòa lâu đài và hồ nước bên cạnh trở lại yên tĩnh, bà Moti đã được sống trong yên tĩnh, làm bà vương hậu và bà chủ của nhiều kẻ tôi tớ. Bà đã gây dựng cho hai con, làm vợ ông Jagat mà không được buông thả tình yêu thương đối với chồng, cho đến tận ngày hôm nay.
Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa: bà Moti lên tiếng cho phép vào, thì cửa mở ra ngay, và Veera bước vào theo sau là một người hầu gái mặc chiếc áo vải bông màu xám, bưng chiếc khai bằng bạc đựng bữa điểm tâm.
Veera lên tiếng: - “Tới giờ ăn của Má rồi, Má à. Con đã bảo dọn món bánh mì nướng ưa thích của má, thật ròn và nướng chín, vàng đậm.”
Veera là cô gái mảnh mai, cao dong dỏng, mặc chiếc áo dài màu vàng nhạt, mái tóc dài, đen nhánh, tết lại, xỏa ra sau lưng. Cô rất giống cha, có đôi mắt nâu linh hoạt, nước da tươi mát, cái mũi cao thẳng tắp, đôi môi đầy nhưng gọn, giống như miệng của người Hy Lạp tạc trên những bức tượng. Alêcxăng đại đế hồi xưa đem quân xâm chiếm miền Bắc Ấn, đoàn quân đó đã để lại di-tích của họ ở đất nước này.
Bà Moti trả lời con gái: - “Má quen ăn bánh mì của người Ấn rồi.”
Veera ngồi xuống tấm vải xa-tanh màu đỏ lót sàn, đáp: - “Con nghĩ ít nhất trong bữa điểm tâm má cũng nên ăn một quả trứng. Má có biết ở trường chúng con ăn gì không nào? Cháo, trái cây, trứng, trái cật, thịt mỡ, ... con ăn tuốt luốt.”
Bà Moti cười: - “Má chịu thôi. Không được đâu. Đừng bắt má thay đổi món ăn, con ạ. Ăn bánh mì nướng, uống trà cũng đủ cho má rồi. Và buổi tối, má chỉ ăn trái cây thôi.”
- Nhưng má xanh xao quá.
- Bởi vì má không sống trên núi như con ở trường.
- Vậy thì, má lên núi mà ở.
- Không, má không thể. Má không thích núi non. Má sợ núi lắm, thường ước mong ba đưa con về cho con đi học ở Mussoorie, nhưng ông quá bận rộn công việc chẳng tính đến chuyện đó. Nhiều khi má rất kinh hãi, nhất là mỗi lần nghĩ tới con đường hẹp cuối cùng dẫn tới trường học của con. Con đường đó chạy ngay phía trên một vực thẳm, lại không có rào sắt hai bên. Má thường nghĩ không hiểu sao chưa ai rớt xuống vực.
- Bởi vì chúng con biết thận trọng.
- Chẳng chắc đâu.
Hai má con cùng yên lặng, trong lúc người hầu gái rót trà, và mời bánh mì nướng. Bà Moti nói: - “Cám ơn chị Saira. Chị có thể lui, để Veera săn sóc tôi cũng được. Người đàn bà rút lui, kính cẩn chắp tay vái, và cửa đóng lại.
Bà Moti bảo con gái: - “ Má thấy dường như con có điều gì bận tâm. Nếu không, hẳn là con chẳng dậy sớm thế này.”
- “Vâng, có vậy.” Veera ngừng lại, rồi quyết định thổ lộ tâm can: - “Má à, con có bắt buộc phải lấy chồng không?”
Bà Moti nhìn con gái, kinh ngạc: - “Tất nhiên là có chứ. Ba con đã xếp đặt xong xuôi mọi chuyện rồi mà. Tại sao con hỏi má như vậy?”
- Má à, ở trường con, mấy cô gái từ Bombay qua nói rằng ngày nay họ được quyền chọn lựa người chồng đấy.”
- Tất nhiên! Nhưng con là người ở Amarpur chứ có phải ở Bombay đâu? Và ba con là một tiểu vương, chứ không phải một thương gia ở Bombay.”
- Nhưng em Jai có quyền chọn vợ của nó. Có thể ở Anh Quốc, hay Hoa Kỳ. Hoặc một cô gái Bombay, thuộc bất cứ đẳng cấp nào?
- Nó nói vậy hả?
- Nó viết thư cho con, bảo như thế.
- Má phải nói với ba con mới được. Má không ưa một con dâu người Mỹ, hoặc người Anh cũng vậy. Má quý người Tây phương, nhưng không có nghĩa là có thể chấp nhận họ vào trong gia đình.
- Em nó có được quyền chọn vợ không, hả Má?
- Má không nghe nói tới chuyện đó.
- Vậy tại sao không để nó lấy vợ, trước khi xuất ngoại du học?
- Má tin rằng ba con chống đối việc đó, Ông cho rằng thanh niên không nên lấy vợ sớm. - Nhưng, chính ba cũng cưới má hồi còn trẻ đấy thôi.
- Đúng.
- Tại sao con phải lập gia đình sớm, mà Jai lại không?
- Vì con là gái, cưng à. Có khác biệt chứ. Ba má có trách nhiệm phải lo cho con, vì con gái có thể gặp nhiều chuyện bất ngờ, thường không xẩy tới như con trai. Các cô nên lấy chồng sớm cho an toàn.
- Giống như má hả?
- Đúng, giống như má.
- Có bao giờ má ao ước đừng có chồng hay không, hả Má?
- Không. Má chưa hề nghĩ tới những điều như thế. Nghiệp của má là phải lấy ba con. - Làm sao má biết?
- Đã gọi là nghiệp thì đương nhiên nó xẩy ra.
Veera nhìn mẹ đăm đăm, suy nghĩ rất lung. Má cô nói vậy là chẳng trả lời câu hỏi của cô. Cô lại hỏi tiếp: - “Làm sao biết được nghiệp của con là phải lấy anh Raj?”
- Đã gọi là nghiệp mà. Ba má đã hỏi ý các chiêm tinh gia, so đôi tuổi hai đứa, xét ảnh hưởng các vì tinh tú ... đủ cả.
- Ngoại trừ việc hỏi ý anh Raj và ... con!
- Con yêu quí, con đã được thấy mặt anh ấy rồi, phải không? Tốt đấy, chứ ở thời của má, má chẳng được phép gặp mặt ba con đâu.
- Vâng, con đã được thấy mặt ... một lần thôi.
- Đẹp trai chứ?
- Có lẽ vậy. Khốn nỗi thân hình bè bè, tóc tai lại rậm quá. Tóc anh ta chùm quá mang tai! - Kìa Veera!
- Nhưng má à, con không ưa đàn ông tóc rậm!
- Con không được phép có những ý nghĩ như thế. Thật đấy, Veera à!
Đột nhiên bà Moti tỏ ra trang nghiêm. Bà đẩy khai thức ăn qua một bên, rửa tay trong chiếc chậu
nhỏ bằng bạc, và dùng khăn nỉ lau tay:
- Con giống hệt như mấy cô gái Ấn-Độ ngày nay, biết đâu rằng mình có phước lớn mới được cha mẹ xếp đặt cuộc đời cho thật vui vẻ, thoải mái. Đừng có bắt chước mấy cô gái phương Tây mất thời giờ và tâm trí để tự tìm lấy một tấm chồng. Đây là trách nhiệm của ba má, không để con phải bận tâm. Raj là một thanh niên tuyệt vời, giáo dục tốt, và cùng đẳng cấp với chúng ta.
Veera nghe vậy liền dậm chân đành đạch, chiếc áo dài trễ xuống bên vai, khiến cô phải sửa lại: - “Má à, quả thật má rất cổ hủ! Má cũng biết rằng chính quyền đã xóa bỏ đẳng cấp rồi mà.”
- Đúng, con yêu quí, nhưng dẫu sao cưới xin trong đẳng cấp vẫn khôn ngoan hơn, tiện lợi hơn ... - Nếu con yêu người đàn ông nào, con sẽ lấy anh ta, bất kể đẳng cấp.
Bà Moti nói giọng quả quyết: - “Vậy là con dại dột lắm. Mà thôi, con yêu quí, con nên về phòng, tập dượt bài học âm nhạc thì hay hơn. Tác phẩm của Debussy hôm qua con chơi hay lắm đó.Trước kia, má chẳng ưa Debussy.”
- Má định đuổi con, hả má? Hôm nay vị tu sĩ trẻ tuổi đẹp trai của má có tới không? Hai má con thoáng trừng mắt nhìn nhau, và bà Moti nói giọng lạnh tanh:
- Con không nên tập thói hỗ hào như thế, Veera.
- Vâng. Nhưng ông ta đẹp trai, phải không?
- Má không nghĩ tới những điều như thế. Ông ta cũng sắp đi xa rồi. Ông tình nguyện tới chăm sóc một họ đạo ở miền núi.
- Ba có biết không?
- Có. Cụ thể là ba con hứa tặng cho cha Francis Paul bộ da cọp mà ông mới bắn hạ được, hiện còn đang đặt thợ thuộc da ở Mysore chưa lấy về. Thôi, con rút lui đi, Veera.
- Vâng, thưa Má.
Cô gái hôn gió, rồi bỏ đi. Còn lại một mình, bà Moti đặt cuốn sách qua một bên, ngồi suy nghĩ trầm ngâm.
*
- Thưa Ông Lớn, người Hoa Kỳ đã tới.
Ông Jagat đang ở lại văn phòng của ông, một căn phòng rất rộng mà sàn nhà, trần nhà và tường đều lót đá hoa trắng. Trên tường treo đầy chân dung các vị tiên tổ, khung bằng vàng. Ngồi tại chiếc bàn giấy rất lớn của tổ tiên, bây giờ là của ông, ông Jagat ngước nhìn lên:
- Mời ông ta vô.
Người hầu vâng lời quay đi, nhưng ông Jagat gọi giật lại, bảo:
- Đợi chút. Người Hoa Kỳ đó mặt mũi ra sao?
Người hầu quay nhìn chủ: - “Thưa Ông Lớn, ông ta còn trẻ.”
- Hả?
- Thưa, tôi biết nói gì đây? Ông ta cũng là người, có cái đầu, hai chân và hai tay? - Hai con mắt nữa chứ?
Người hầu toét miệng cười, lắc lư cái đầu, chẳng biết nói sao. Ông chủ lại ra lệnh: - Thôi được, mời vào.
Ông nhìn xuống bàn giấy, nhưng ngay lúc đó cửa mở, và người Hoa Kỳ bước vào. Quả thật ông ta còn trẻ, chưa tới ba chục, vẻ mặt hiền lành, đôi mắt xanh lanh lợi, mái tóc đỏ hớt ngắn, và nụ cười rộng miệng: nụ cười đặc biệt của người Hoa Kỳ. Ông ta đưa ngay bàn tay phải ra:
- Ông có phải là ... Tôi nên gọi ông thế nào nhỉ: Ngài tiểu-vương hay gì nhỉ?
Ông Jagat không thể từ chối đáp ứng nụ cười cởi mở Tây phương đó, cũng không thể lờ bàn tay đưa ra đó, vội vồ lấy, nắm chặt một lúc, cảm thấy bàn tay đó mạnh mẽ, trẻ trung và ấm áp, một lát mới buông ra.
- Tùy ông muốn gọi tôi thế nào cũng được. Và mời ông ngồi xuống đã.
Người trẻ tuổi ngồi xuống, tiếp tục nói giọng xởi lời: - “Không được, tôi muốn gọi ông cho long trọng. Tôi đã hỏi người hầu của ông nên gọi ông như thế nào, nhưng anh ta không biết. Tôi có thể gọi ông là sahib, hay một danh hiệu nào chăng?”
Ông Jagat cười ròn: - “Ồ, đừng gọi tôi là sahib. Đó chỉ là danh hiệu chúng tôi dùng để gọi người Anh thôi.”
- Ngài không có họ hay sao?
Ông Jagat phản đối: - “Điều này kỳ cục lắm, ông ạ. Ở đây không giống như ở bên quí quốc đâu. Ở tiểu quốc chúng tôi có hai họ chính. Như tất cả các dân tộc Đông phương, chúng tôi đều có nguồn gốc thần tiên. Theo huyền thoại, chúng tôi là con cháu của thần Suryavanshi, tức thần Thái Dương, hoặc của Chandravanshi, tức thần Minh-Nguyệt. Tôi là hậu duệ của Suryavanshi.
- Vậy tôi gọi ông là ông Thái Dương, được không?
- Tùy ông muốn gọi sao cũng được.
- Thôi được. Ông có thể cho tôi biết ông nghĩ sao về việc ông định biến tòa lâu đài trên mặt hồ của ông thành khách sạn?
Ông Jagat ngần ngừ. Ông chưa hề cho bà Moti biết những suy nghĩ của ông. Cũng như chưa hề nói cho một người nào biết. Cuối cùng ông mới nói, giọng quả quyết:
- Tôi có ý định muốn trở thành một con người làm ăn. Ông biết đấy, ngày nay ai cũng phải làm một công việc gì đấy, thưa ông... Ông có thể cho biết quí tính được không nhỉ?
Người Hoa Kỳ nói: - “Cứ gọi tôi là Bert. Tên tôi là Bert Osgood?
- Ông biết đấy, kể từ năm 1947, tại nước Ấn Độ Mới, bọn vương hầu chúng tôi chỉ còn lại cái danh hiệu, chứ chẳng được chút gì. Ở cồ-thời và hầu như cả suốt thời kỳ cai trị của người Anh, chúng tôi có toàn quyền sinh sát đối với dân, nhưng bây giờ có chính quyền trung-ương, chúng tôi bắt buộc phải thoái vị. Xét đại thể, có thể nói rằng chúng tôi thuận tình thoái vị. Nói rằng thuận tình chỉ có nghĩa là chúng tôi công nhận phải thay đổi, chứ mức độ hưởng ứng cũng có khác nhau, chẳng ai hoàn toàn đồng ý đâu. Nhiều người cũng thấy khó khăn, có người giữ những chức vụ trong chính quyền, có người làm ăn buôn bán. Có vị tiểu vương phải nấu rượu kiếm tiền, những vị khác nuôi bạch hổ bán cho các sở thú phương Tây. Nhưng bạch hổ hiếm lắm, hầu như chỉ thấy ở tiểu quốc của tôi thôi. Tôi đã nghĩ đến chuyện hướng dẫn việc săn cọp cho các du khách ... Không, không, tôi nói rỡn đấy. Tuy nhiên, tôi vẫn phải làm một công việc chứ. Lợi tức của tôi bị cắt giảm phân nửa, nhưng trách nhiệm có tránh được đâu? Tôi vẫn phải trông coi, bảo tồn các lâu đài và đền, đài, phải chủ trì các buổi lễ tôn giáo, vì có ai thay được tôi đâu? Tôi lại còn phải nuôi dưỡng đám bà con và thuộc hạ rất đông đảo. Trách nhiệm đối với dân theo cổ tục thì nhiều, mà tiền bạc để thi hành những công việc đó lại không có. Sự tình là vậy.”
Ông Jagat ngừng lại để quan sát khuôn mặt trẻ đối diện, coi xem có dấu hiệu buồn bực nào chăng, nhưng chỉ thấy vẻ chăm chú say mê thôi, nên ông nói tiếp:
- Nếu còn sống, hẳn là ba tôi không chịu nổi phải từ bỏ quyền hành của ông. Đất nước tôi có chừng bẩy trăm sứ quân cai quản những vùng đất lớn nhỏ. Tất nhiên phải làm một việc gì để thống nhất lãnh thổ, sau khi nước nhà được trao trả độc lập. Cũng có người phản đối, nhưng phần đông là ôn hòa. Như tôi chẳng hạn, sẵn sàng từ bỏ quyền hành của mình. Nói rằng thống nhất chứ, theo tôi thấy, Ấn Độ không bao giờ là nước thống nhất, người Anh đi rồi, để lại chúng tôi trong tình trạng tranh chấp Ấn-Hồi. Chúng tôi không bao giờ có thể hợp nhất về mặt tôn giáo: sống cạnh nhau tương đối hòa bình mà chẳng đồng tâm. Vẫn còn bao kỷ niệm về những vụ tấn công của người Hồi. Ngay như tiểu quốc của tôi đây đã từng bị tấn công ba lần, vụ nào vụ nấy đều ra trò. Chẳng hạn như đồn lũy cổ ở chân núi kia, gọi là đồn Chittor, đã nhiều lần nằm trong tay quân Hồi giáo, và dân chúng đã thề rằng không bao giờ đặt chân thăm viếng nếu chưa lấy lại được, và họ chỉ lấy lại được khi mà Ấn Độ độc lập thôi. Tất nhiên, chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ long trọng, có Thủ tướng tới tuyên bố một cách tượng trưng rằng đồn Chittor được trả về cho dân địa phương. Chittor là thủ phủ của vương quốc cổ thời trong địa hạt này đấy.”
Best Osgood sốt sắng hỏi: - “Có thể biến thành khách sạn được không?”
Jagat cười: - “Không, không. Phần lớn đổ nát rồi. Tôi có cho tu sửa lại một phần nào... tòa lâu đài Padmini, và một số căn nhà.”
Bert gợi ý: - “Có thể là một địa điểm du lịch rất tốt.”
Jagat đứng bật dậy: - “Có thể. Tôi đã nói quá nhiều. Chúng ta hãy đi xem một tòa lâu đài khác mà tôi đang nghĩ tới, coi xem có thể làm ăn gì được không. Tôi muốn biến tòa lâu đài đá hoa đó thành một khách sạn sang trọng dành cho người Mỹ ... và tất nhiên cả người Âu Châu nữa. Không hiểu sao tôi lại nghĩ tới người Hoa Kỳ trước nhất.Hình như ngày nay mọi người đều ...”
Ông dẫn đường cho khách qua một lối đi rộng lớn, rồi tới những hành lang lót đá hoa dẫn tới những phòng rộng mênh mông, sàn nhà lót đá hoa ở đó phủ những tấm da cọp, và trên tường, những đầu cọp nhe nanh rất hung tợn. Osgood nhìn thẳng vào mặt Jagat:
- Sống giữa những ác thú này mà ông không bị ác mộng hay sao?
Jagat cười: - “Không. Chỉ đem lại những kỷ niệm xấu thôi. Chẳng hạn như con cọp này.” - Ông ngừng lại dưới một đầu cọp nhe nanh hăm dọa - “Nó đã khiến cha tôi và tôi phải một phen hú vía. Tôi thú nhận như thế. Hồi đó tôi còn rất trẻ, lại đi săn lần đầu. Chúng tôi đi săn vào một ngày mùa thu tại khu rừng, gần hồ Jai Samand, khi mùa mưa vừa dứt. Chúng tôi ở khu săn bắn, và các người hầu báo cáo rằng đêm nọ một con cọp lượn về tìm mồi ở khu rừng không xa. Cha tôi ra lệnh sửa soạn súng ống, và hai cha con rút ra khỏi khu săn bắn, để chờ đợi. Nào ngờ cọp tìm tới tôi, nó tiến thẳng vào khu săn bắn. Tôi thấy cặp mắt xanh sáng rực ở mỏm đất, không quá mười thước. Nó đang cúi mình bên bờ suối. Tôi không có thời giờ nhắm nữa, bắn đại một phát. Trúng ngay mắt phải, vui ghê!”
- Vậy mà ông gọi là vui ư?
- Ồ, vui chứ. Thú thật thì sợ có sợ, nhưng tôi vui thích. Hấp dẫn lắm. Từ đó tôi ham mê săn bắn. Bây giờ, tôi bắt đầu rủ thằng con đi theo, nhưng nó chẳng hưởng ứng. Chán thật.
Hai người bước đi qua những hành lang dài trong tòa lâu đài cổ.
Sau cùng, Osgood lên tiếng hỏi: - “Tòa lâu đài đá hoa này dài bao nhiêu?”
Jagat vui vẻ đáp: - “Một phần tư dặm. Không phải toàn đá hoa đâu. Nền móng bằng đá hoa cương, xây vững chắc muôn đời. Tổ tiên tôi tin tưởng rằng con cháu sẽ đời đời cai trị dân. Ngày nay, chẳng ai dám có tư tưởng đó.”
Người Hoa Kỳ vui vẻ nói: - “Mọi việc đổi khác rồi. Nhưng rất thuận lợi cho công việc làm ăn.” Jagat dẫn khách qua những bậc thềm dẫn xuống hồ, nói giọng trang nghiêm:
- Tôi cũng mong vậy. Đây là nhà để thuyền. Tôi cất giữ chiếc du thuyền chạy máy ở chỗ này.
Ông nhanh nhẹn chạy xuống những bậc thềm đá hoa, tới chỗ chiếc du thuyền đang đậu. Hai thủy thủ lặng lẽ xuất hiện, xòe tay đặt trước mặt để đón chào chủ nhân. Ông Jagat bảo người Hoa Kỳ:
- Coi chừng đụng đầu. Mái nhà thấp lắm đó.
Hai người ngồi xuống. Động cơ nổ khe khẽ, chiếc du thuyền tiến ra giữa hồ. Osgood nhìn lại tòa lâu đài vừa rồi khỏi, nói giọng thán phục: - “Lạy Chúa! Đứng trước tòa lâu đài nguy nga này thì Tòa Bạch Ốc chỉ như một ngôi nhà mã. Ông nói rằng ở Ấn Độ có hàng trăm lâu đài như vậy, phải không?”
Jagat đáp: - “Mỗi tiểu vương có một tòa lâu đài. Đôi khi vài cái.”
- Dân chúng đón góp cũng vất vả lắm nhỉ? Quả là một dân tộc cần cù, dễ bảo.
- Tôi hài lòng vì chuyện đó chấm dứt rồi. Bây giờ ngại trừ cánh bên phải dành cho gia đình tôi, còn lại toàn bộ tòa lâu đài được mở ra cho công chúng vào xem. Sau khi cha tôi mất đi, tòa lâu đài được hiến cho thành phố. Quả thật chính quyền cũng chẳng biết làm ăn ra sao, đành để cho người ngoài vào xem, có người hướng dẫn, kiếm được chút đỉnh tiền bạc của du khách.
- Nơi đây là một thắng cảnh du lịch.
Hai người cùng yên lặng một lúc, trong khi chiếc du thuyền rẽ mặt nước yên tĩnh. Mặt trời đứng bóng, hồ nước phản chiếu bầu trời xanh. Xa xa, từ chỗ những bậc thềm ven hồ vang vọng tiếng dập nhịp nhàng của mấy người đàn bà đang giặt quần áo. Họ nhúng quần áo xuống nước, đặt lên những tảng đá, dùng chầy đập cho nước bắn ra.
Đột nhiên ông Jagat lên tiếng: - “Đây là tòa lâu đài tôi muốn biến thành khách sạn.”
Osgood quay lại, nhìn qua hồ nước. Ở giữa hồ sừng sững một tòa lâu đài đá hoa trắng muốt, đẹp như ngọc thạch. Ông hít hà:
- Chà, cảnh sắc thật tự nhiên. Tôi chưa hề được thấy! Đẹp quá: từ hồ nước, tòa lâu đài, đến những ngọn núi phía sau, cũng cát vàng lóng lánh. Lại thêm hàng cây xanh bên hồ nữa chứ! Xem nào! Tôi phải viết trong phần quảng cáo như thế này: “Lâu Đài Giữa Hồ. Kiểu lâu đài của vua chúa rất trang nhã, với những tiện nghi hiện đại, ở một nơi đẹp vô song. Khí hậu mát mẻ quanh năm. Tiện đường máy bay từ Delhi, đường bộ và đường hỏa, xa tới Ahmedabad và Bombay. Đầu bếp Ấn Độ và quốc tế. Có radio và điện thoại trong mỗi phòng? Và hồ nước này, có thể đi chơi thuyền, câu cá, trượt trên mặt nước, phải không nhỉ? Mong rằng không có cá sấu chứ?
Jagat thú thật: - “Có đấy.”
Osgood nói giọng sôi nổi: - “Phải bắn chết hết. Khi đã đem ánh sáng điện tới đây, không thể để có cá sấu.”
- Dân chúng không muốn cá sấu bị bắn đâu. Họ cho rằng sấu đem lại hạnh phúc. Đó là loài vật thiêng liêng.
Osgood độp ngay: - “Chúng chẳng đem lại hạnh phúc cho ai hết, có thể du khách sẽ bị cá sấu táp mất đầu. Thôi, thôi, không bàn cãi về chuyện cá sấu nữa. Hoặc giả có bàn, thì chúng ta sẽ quay chúng lại một góc hồ, và để cho du khách xem và nuôi ăn. Đó cũng là một mục hấp dẫn.”
Ông Jagat cười: - “Cũng được”.
Máy thuyền tắt dần, một thủy thủ cột dây buộc thuyền vào trụ sắt gắn trên thềm đá hoa. Một bậc thềm dài dẫn lên tòa lâu đài, Jagat dẫn người Hoa Kỳ bước lên. Một ông lão giữ việc trông coi lâu đài thấy hai người đi tới liền chắp tay vái, rồi dẫn họ qua một dẫy hành lang rộng lớn trồng cây hai bên. Mấy cái máy nước khô cạn, ở đó đàn chim thấy người vào liền kinh hãi bay lên, lượn trên đầu họ.
Osgood phấn khởi kêu lên: - “Tôi đã tưởng tượng ra rồi! Sẽ có máy nước chảy róc rách, đèn thắp sáng, thềm đá hoa lau chùi sáng trưng, trắng bóc. Có sàn nhảy đẹp tuyệt vời, có quầy rượu ngay chỗ này.”
Ông ta tiến vào khu vườn đầu tiên, nhưng người bảo vệ đã bước lại, kéo áo ngăn chặn, xổ ra một tràng tiếng Hindu.
Jagat giải thích: - “Ổng nói rằng đang có hai con mãng xà uống sữa tại khu vườn. Đã tới giờ cho chúng ăn.”
Osgood vội thụt lùi: - “Không thể để mãng xà ở đây! Phải dẹp bỏ hết!”
Jagat ngần ngừ: - “Chúng ở đây lâu lắm rồi. Cũng được xem là loài vật mang lại hạnh phúc đấy.”
Osgood nhất quyết phản đối: - “Chúng chẳng đem lại hạnh phúc cho ai hết. Nếu để một du khách bị rắn cắn, là ông các chiếu hầu tòa đấy. Giết hết chúng đi!”
Hai người đưa mắt nhìn nhau. Ông Jagat nói:
- Tôi sẽ cho chuyển chúng tới một hòn đảo khác.
*
Jagat hỏi Osgood: - “Tôi đưa ông trở về chứ?”
Hai người đã ở suốt ngày tại tòa lâu đài giữa hồ, bữa ăn trưa của họ được gia nhân đi thuyền đem từ ngoài vào. Họ đã cùng nhau xem xét các họa đồ và các bản thảo kế hoạch.
Osgood kêu lên: - “Sau một ngày làm việc vất vả thế này, ông tính ở lại đêm tại đây hay sao? Chà, ông cần nghỉ ngơi đấy.”
- Tôi muốn suy tính mọi việc cho xong xuôi, mà ở lại tòa lâu đài giữa hồ này để suy nghĩ là tốt nhất, không đâu bằng. Hầu như tôi đã chấp nhận kế hoạch này rồi, ông biết đấy. Dẫu sao cũng phải chuẩn bị tinh thần kỹ lưỡng trước những việc thay đổi lớn như thế này. Chẳng hạn như quyết định di chuyển mấy con mãng xà đó. Tòa lâu đài này là chỗ trú ngụ của chúng bao đời nay rồi.
Osgood nói: - “Tốt. Tôi chỉ hỏi có vậy. Chúng tôi sẽ tài trợ cho ông đầy đủ để ông tiến hành công việc. Chúng tôi sẽ ứng trước cho ông hai trăm năm chục ngàn đô-la đấy. Nếu là ở bên Mỹ, có thể số tiền tạm ứng lên đến tới nửa triệu đô, nhưng ở đây chẳng cần, vì nhân công rẻ mạt.
Jagat tính toán: - Tôi cũng cần chạy mấy cái giấy phép, phải chi tiền cho đủ các cấp chính quyền. Nhưng nếu các ông bảo đảm đủ số đô-la thì tôi chạy chọt xong xuôi.
- Bảo đảm mà. Việc phép tắc tôi không rành, đành nhờ ông vậy thôi. Tôi chỉ biết quảng cáo sao cho người Hoa Kỳ đồng ý đặt chân tới nơi xa xôi hẻo lánh này. Nhưng tôi biết rằng xa cách mấy họ cũng tới, miễn là có khách sạn cho tốt, có giường êm ấm, món ăn ngon, và có quầy rượu để ngồi lai rai. Tất nhiên cũng cần có những tiết mục hấp dẫn: vũ nữ xinh đẹp. Mấy cô gái Ấn thế nào?
Jagat không trả lời. Ông đã từng nghe nói tới thị hiếu của người Mỹ về mặt này, và ông không ưa. Ở ngay thành phố Amarpur cũng có khu buôn hương bán phấn, mấy cô gái bị nhốt trong nhà, ơi ới gọi người qua đường ghé vào chơi. Ông thường tránh đi qua khu đó, biết rằng có những chốn sa đọa như thế, và lúc này ông cũng tránh né không trả lời người Hoa Kỳ.
Ông nói, giọng trầm tĩnh: - “Du thuyền sẽ đưa ông trở lại bờ bên kia. Xe hơi của tôi cũng đậu sẵn ở bến tàu. Ông sẽ đủ thời giờ đáp chuyến bay về Bombay. Mỗi ngày chỉ có một chuyến bay thôi. Nhưng họ có hứa với tôi rằng chúng ta có đủ hành khách, họ sẽ tăng lên mỗi ngày hai chuyến. Đừng xúc động quá nếu thấy máy bay xóc. Đó là chiếc phi cơ Viscount cà tang, quá cũ kỹ, nhưng họ đảm bảo rằng an toàn. Những báo cáo về tai nạn máy bay cho thấy số tai nạn ở bên tôi thấp hơn ở bên ông, và sẽ tổn hại cũng nhẹ hơn so với máy bay phản lực của các ông.
Osgood nói: - “Cám ơn ông. Cuối tháng này, thế nào tôi cũng trao tận tay ông bản kế hoạch đầy đủ chi tiết. Tôi chỉ còn lo lắng một điều thôi: liệu có đủ phòng ngủ cho khách không? Cần có đủ chỗ cho những phái đoàn sang trọng đấy.
Jagat nói: - “Tôi cũng mong có những phái đoàn đông đảo và sang trọng. Đây là khách sạn tốt nhất, trong một quốc gia đẹp nhất thế giới cơ mà.”
Osgood cười ròn: - “Phải tránh muỗi cho họ đấy nhé.”
Jagat đáp liền: - “Không hề có muỗi. Và hồ nước này nhiều cá lắm. Trước kia chỉ được câu lên cung phụng các cụ tổ tôi thôi. Nay đem đãi người Hoa Kỳ đấy.”
- Ông sẽ thành công rực rỡ.
Hai người bắt tay nhau, và rồi Jagat đứng trông theo chiếc du thuyền rẽ nước, dưới ánh mặt trời sắp tắt, đưa khách trở lại bờ bên kia. Ông chợt cảm thấy cô đơn, buồn chán. Cuộc đời ông tới một bước ngoặc, một cuộc sống mới. Từ trước đến giờ ông sống nơi cung cấm như các cụ tổ, yên tâm là được khỏe mạnh, nhàn hạ, có quyền hành và được tôn thờ. Bây giờ quyền hành mất hết, tiền tài giảm sút phân nửa. Ông phải tự xoay sở để lo cho tương lai, cho bản thân ông. Ngày nay ông không thể làm theo cách hung bạo của các cụ tổ. Ông nội ông, và ngay cả cha ông nữa, hễ ưng ý một cô gái đẹp đi ngang qua, chỉ việc cho người đuổi bắt đem về là xong ngay. Thói ngang tàng đó họ học được của người mogul xâm lăng ngày trước, và được xem là quyền hành của vua chúa. Vì thế phụ nữ Ấn ra đường phải che mặt. Đó là bài học của thời xa xưa, lâu dần ăn sâu vào tiềm thức của đàn bà. Ngay như bà Moti cũng vậy! Bây giờ, bà không phải che mặt, nhưng con tim bà nguội lạnh. Bà không thể nói tiếng yêu đương với ông. Lấy nhau bao nhiêu năm, mà không bao giờ bà dám mở miệng nói rằng yêu thương ông, luôn luôn né tránh, xin lỗi. Mỗi lần ông trách bà sao không tỏ tình, bà chỉ đáp: “Anh đã biết rõ lòng em rồi sao còn phải bắt em nói ra miệng nữa?”
Ông nghĩ bà sẽ không phản đối việc ông định biến lâu đài mùa hè này thành khách sạn. Ông nói gì, làm gì, bà không bao giờ phản đối. Nếu có cảm thấy bất mãn, bà cũng để trong lòng, rút lui vào chỗ thầm lặng nội tâm, nơi ông không thể xâm nhập được. Thái độ khép kín của bà cho ông một cảm giác cô đơn. Và ông đã quen, đành tìm an ủi ở những hoạt động thể chất, thông thường là săn bắn. Không có gì hấp dẫn ông bằng việc săn bắn cọp. Nhưng đó lại là một niềm cô đơn khác. Những ông hoàng như ông, bỗng nhiên mất ngai vàng, mất quyền cai trị, đó trở thành cô cùng cô đơn. Nơi tòa lâu đài yên tĩnh này, ông chỉ nhận thức được những bóng ma thôi, chứ ngày xưa, cha ông và ông nội ông đã ở đây, qua những ngày hè thật vui vẻ, ngày nào cũng tiệc tùng. Ông còn nhớ hồi đó ông chỉ là một cậu bé, được nhìn thấy những căn phòng rộng mênh mông, luôn luôn nháo nhiệt vì những cô gái mặc áo dài tuyệt đẹp. Ông tưởng chừng còn nghe được tiếng cười đùa, đàn hát của các cô. Má ông và bà nội ông chẳng bao giờ ghen với các nàng tiên đó, xem họ là vô hại. Các bà tin rằng đàn ông phải được vui chơi, làm vợ phải biết lo cho chồng được giải trí. Các cô ra vào thì kệ các cô, nhà càng đông người càng vui. Bây giờ, những chuyện đó đã qua rồi. Cha và ông của Jagat đã qua đời, nếp sống của học cũng qua đi. Còn lại một mình Jagat, ông phải biến đổi mọi việc thật mới mẻ.
Ông thì thầm: - “Có lẽ, cả ta cũng phải thay đổi.”
Đêm xuống, ông vui mừng nghe tiếng động cơ du thuyền tiến lại gần bờ. Ông bước lên thuyền đúng lúc mặt trời lặn, hắt ánh sáng màu đỏ tía lên mặt hồ.
Bà Moti nhìn qua bàn ăn, tới chỗ ông Jagat ở đầu bàn bên kia. Bữa sáng bà ăn riêng, bữa trưa vợ chồng cũng ít khi ngồi chung, nhưng bữa tối họ thường ngồi ăn với nhau. Ngồi bên chiếc bàn này, bà cảm thấy mình nhỏ hẳn lại. Bàn bằng gỗ tếch rất chắc, nguyên khối, dài sáu thước, rộng hai thước, xẻ ra từ một cây gỗ tếch cổ thụ sống đã ba trăm năm, mặt gỗ không thể cong lên hay rạn nứt. Ngày nay chẳng còn những cây cổ thụ như thế. Voi đã phá hủy những cây cuối cùng trong rừng nguyên thủy Aracan. Trên mặt bàn, một chùm đèn rất rộng và chằng chịt tỏa ánh sáng khắp phòng ăn, chiếu ra tận hành lang. Chùm đèn này của ông nội Jagat đặt mua tại Tiệp Khắc. Một người dân thành Goa trông coi về rượu và hai người hầu khác lo việc bưng thức ăn.
Bà Moti yên lặng ngồi ăn, ông Jagat mở lời trước nhất:
- Hôm nay em làm gì?
Ông vừa hỏi vừa múc cà-ri đựng trong chiếc liễn bằng bạc người hầu vừa bưng tới. Giọng ông êm dịu, đôi mắt ông nhìn hờ hững. Ông cúi xuống ăn cơm với cà-ri dựng trong chén bạc. Bà Moti trả lời, giọng êm và bình thản:
- Em ấy ư? Quả thật em chẳng có việc gì làm. Chỉ đọc sách một lát vào buổi sáng. Viết lá thư gửi cho Jai. Có lẽ là bức thư cuối, trước khi con nó về nghỉ nhà đấy. Tuần tới nó về rồi, anh cũng biết đó.
- Anh quên mất. Tốt, em khuyên con làm việc gì?
Bà bàn tính: - “Em nghĩ rằng chúng ta nên mời cha Francis Paul làm gia sư cho con. Cha đã được chỉ định một chân truyền giáo tại một bộ lạc miền núi, nhưng cha có thể ở lại, trong một vụ hè thôi, nếu cha được biết ước muốn của chúng ta mời người ở lại.
- Cha sẽ dạy con trai chúng ta điều gì, chẳng lẽ lại dạy cầu kinh?
- Dạy nó hoàn bị vốn tiếng Anh không được sao?
- Jai nói tiếng Anh tốt lắm mà.
- Nhưng giọng của nó vẫn có vẻ giọng Án Độ, anh không thấy hay sao?
- Vì nó là người Ấn.
- Anh thấy đó, Jagat, vợ chồng mình nói tiếng Anh đúng giọng Oxford kia mà. Và lại bây giờ hiếm có cơ hội cho chúng ta gặp được người Anh chính gốc như cha Francis.
Bà vừa nói vừa chọn mấy cái bánh sữa, đựng trong tô pha-lê mà người hầu đưa mời bà. Jagat không đáp. Bà Moti nhận ra rằng chồng bà không lắng nghe nữa, nên bà lại nói tiếp:
- Hôm nay Veera hỏi em một câu hỏi kỳ cục.
Nghe đến tên con gái, ông Jagat luôn luôn tỉnh táo, ông ngửng đầu:
- Chuyện gì?
- Nói hỏi em rằng nó có phải lấy người đàn ông chúng ta chọn cho nó không.
- Nó phản đối Raj hả? Nếu vậy, nó lầm lẫn lớn.
- Nó chưa biết anh ấy, làm sao có thể phản đối?
- Đã cho gặp một lần rồi mà.
- Nhưng hình như nó thấy là chưa đủ.
Ông Jagat gạt đĩa thức ăn qua một bên: - “Làm sao nó hiểu được một người đàn ông, trước khi ăn ở với nhau? Nam nữ gặp nhau hiểu nhau, thì nhận thức đó chỉ là hời hợt thôi.”
- Hay anh nói năng khuyên bảo con?
- Tất nhiên là không được. Chuyện đó khó nói lắm.
- Anh có hay nói chuyện với thằng Jai không?
- Về chuyện gì?
- Chuyện hôn nhân … đàn bà.
- Làm sao anh có thể nói những chuyện đó được? Không chừng nó còn hiểu biết hơn anh hồi bằng tuổi nó đấy.
- Ồ, Jagat, quả thật nhiều khi nói chuyện với anh chán chết.
Nhưng bà nói câu đó với giọng rất dịu dàng, vui vẻ nữa, nên ông cười với bà. Hai người cùng đứng dậy, tiến ra bãi đất trống trước nhà. Ông nói:
- Anh chỉ nói theo kinh nghiệm thôi, em yêu quí ạ. Ngày xưa anh chẳng biết gì về đàn bà … quả thật không biết tí gì, cho đến ngày anh cưới em. Những liên hệ khác chẳng qua chỉ là thể xác. Ba anh cũng vậy, những liên hệ thật sự có ý nghĩa của ông chỉ là với má anh thôi. Vì vậy. anh bỏ hẳn cái tật xấu của ông, vì quả thật phí sức … rất nhiều. Bây giờ, anh chỉ lo chuyện tiền bạc. Anh chưa hề kể cho em nghe, nhưng hôm nay một anh chàng Hoa Kỳ đã tới thăm anh. Anh gặp ông ta ở Dehli hồi tháng trước, Moti à, em nói sao về việc anh định biến tòa lâu đài giữa hồ thành một khách sạn?
Bà Moti ngồi phịch xuống, vẻ hối hà bất ngờ: - “Anh nói gì vậy, Jagat?”
- Em yêu quí, chúng ta không thể sống nhờ món tiền trợ cấp của chính quyền, khi chúng ta có biết bao bà con, những người anh em họ, các cô chú, cô dì già nua, cả đời không chịu làm việc, chỉ sống nhờ vào thằng cháu, và bây giờ thấy anh yêu cầu làm việc để tự túc thì họ tỏ vẻ ngạc nhiên. Hơn thế nữa, chúng ta lại còn mấy tòa lâu đài cần phải coi sóc! Vậy nên, anh nghĩ đến chuyện bắt đầu thử với tòa lâu đài giữa hồ xem sao. Nếu thành công, anh sẽ tính tới các tòa lâu đài khác. Dẫu sao thì Amarpur cũng là một trong những nơi đẹp nhất thế giới. Đúng rồi, anh đã gặp người Hoa Kỳ kia ở Delhi vào tháng trước. Ông ta là người của một liên hiệp khách sạn rất lớn, và anh đã gặp anh ta đứng ngắm một khách sạn ở Bombay. Tất nhiên anh đã quên anh ta, chỉ nhớ lại khi anh chợt nẩy ý định sẽ tự mình tổ chức một khách sạn. Lúc đó anh nhớ ra rằng anh ta có đưa cho anh một tấm thiệp, nên anh phôn cho ông ta, bảo ông ta đáp chuyến bay sớm nhất từ Bombay tới đây. Anh và ông ta đã ở với nhau suốt ngày tại tòa lâu đài giữa hồ, xem xét mọi việc. Ông ta cho rằng có thể làm ăn được, bảo sẽ gởi cho anh xem kế hoạch và những bản ước tính chi phí.
Bà Moti yên lặng một lúc, mới lên tiếng: - “Không biết em có ưa nổi mấy ông ngoại quốc này không?”
- Tại sao không? Em chỉ việc giữ im lặng, đừng dính vào mấy chuyện này. Họ sẽ vui sướng được gặp một vị vương hậu đích thực của Amarpur đấy.
- Anh muốn nói rằng em cũng là một mục tiêu cho họ ngắm?
- Anh muốn nói rằng em là em, là vị phu nhân sang trọng, là vương hậu của Amarpur, em yêu quí ạ.
Hai người ngừng ngang câu chuyện, vì người hầu vừa mang tới thứ rượu vang trắng đặc sản của Ấn Độ, cắt bằng cánh hoa hồng dại, gọi tên là rượu gulah. Người hầu giữ vẻ mặt bình than, không biểu lộ điều gì, nhưng anh ta đã nghe hết câu chuyện của chủ. Người ngoại quốc ồ ạt tới Amarpur là nghĩ lý gì? Anh ta di chuyển trên bãi đất trống, mặt lạnh tanh, bước đi êm nhẹ. Rồi anh ta khoanh tay chào chủ, rút lui, trở về với thế giới riêng của anh, là chàng J.Rodriguez ở thành Goa.
Cách đây nhiều năm, anh cưới một cô gái trẻ tuổi ở Goa, tên là Inez, cùng đẳng cấp với anh. Một năm sau, nàng sinh đứa con đầu lòng, và hai mẹ con cùng chết. Không hiểu vì buồn chuyện gia đình hay vì giận ông chủ người Bồ Đào Nha, mà anh chàng làm công này quyết định rời bỏ vùng đất hẹp Goa. Có lẽ vì cả hai điều đó. Dẫu sao thì anh cũng rời bỏ tiệm bán hương liệu của người Bồ, nơi anh đã tìm được việc làm, sau khi rời khỏi trường học Thiên Chúa Giáo mà ba má anh gởi anh vô học. Anh giận thằng chủ tiệm người Bồ mập ú lâu lâu lại sỉ mắng anh, uống rượu như hủ chìm, và hại đời bao cô gái người Ấn. Hồi làm cho thằng chủ người Bồ, Rodrigucz cấm em gái không được bén mảng tới cửa tiệm, dù là để mang tới cho anh một lá thư của cha mẹ già hay của Inez.
Anh nói với Inez: “Thằng mập này là con heo!”
Có lẽ cuộc sống của anh sẽ dễ dãi hơn, nếu như anh không được đi học, để biết quá nhiều về thời quá khứ, để hiểu rằng chẳng làm được điều gì ở thời hiện tại. Anh đã đọc sách sử để biết người Anh đã trả độc lập cho Ấn Độ mà người Bồ vẫn không chịu buông thành Goa. Chuyện xảy ra mấy trăm năm trước chỉ vì sự xích mích giữa hai quốc gia Châu Âu, hình như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thì phải. Anh chàng Cô-lông điên khùng cứ tưởng rằng mình tìm ra Ấn Độ, trong khi sự thật anh ta chỉ khám phá ra một hòn đảo nhỏ ở đầu kia của thế giới. Lầm lẫn tai hại đó đã kích thích người Âu Châu, đặc biệt là người của hai quốc gia nói trên, bung ra tìm đường sang Ấn, xứ sở của châu báu và hương liệu. Đức giáo hoàng hồi đó e ngại chiến tranh giữa các nước tranh chấp, mới quyết định chia cắt phần đất bên ngoài Âu Châu thành hai miền. Cô-lông vừa đặt chân lên vùng đất mới năm trước thì năm sau Giáo hoàng ra một Nghị định thư chia cắt thế giới bằng một con đường tưởng tượng chạy dài từ Bắc xuống Nam ngang qua quần đảo Azores, tuyên bố rằng Bồ Đào Nha được chiếm lĩnh đất đai ở phía đông giới tuyến đó , và Tây Ban Nha được vùng đất phía Tây. Chính vì vậy mà người Bồ đã chiếm đoạt và thành lập vùng đất Goa ở bờ biển của xứ Ấn Độ rộng lớn. Nhưng họ cứ tham lam giữ rịt lấy, mãi cho đến lúc Thủ tướng Nehru vĩ đại đánh bật họ ra khỏi vùng đất đó. Vào hôm Goa được giải phóng, trả về cho đất mẹ Ấn Độ, Rodriguez cũng tuyên bố tự do giải phóng, không thèm kiêng thịt vào ngày thứ sáu, và cũng không xưng tội với một tu-sĩ nào nữa. Rất khó cho anh giữ bí mật quyết định đó, đặc biệt là lúc cha Francis Paul thăm viếng tòa lâu đài, nhưng anh cũng khéo đối xử với tu-sĩ người Anh Quốc đó bằng thái độ trầm tĩnh thông thường của anh. Lúc này, anh đã ở Ấn được ba mươi năm, và đã phục vụ tiểu vương Amarpur được hai chục năm. Anh rời bỏ thành Goa vào ngày mà tên chủ người Bồ gọi anh là thằng lợn Ấn Độc chỉ vì anh từ chối không chịu đem lá thư của hắn gởi cho một cô gái trẻ mà hắn muốn dụ dỗ là bồ bịch. Ngay tối hôm đó, anh đã rời bỏ Goa, đi bộ sang tận Bombay, xin vào làm cho một gia đình người Ấn, nhờ đó anh được thân phụ của tiểu vương mướn về, vì ông cụ mê món cà-ri thịt cừu anh nấu ngon tuyệt. Hai mươi năm anh ở Amarpur, ở tòa lâu đài này, và bây giờ chỉ ó các vị thần mới biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Anh ngầm phản đối mạnh mẽ hành động của người dân Delhi chống lại vua chúa, và chừng nào còn sống, chừng đó anh còn kính trọng vị tiểu vương. Các vị thân tạo dựng nên con người, có kẻ sang, người hèn, đã làm người, làm sao anh có thể chối bỏ các vị thần, để tuyên bố rằng người ta sinh ra đều bình đẳng?
Tối hôm đó, các người hầu ngồi xổm quanh anh, nghe anh nói chuyện, anh đã bảo họ rằng: - “Dẫu sao, tôi còn nói gì được khi chính ông chủ chúng ta biến tòa lâu đài giữa hồ thành khách sạn, cho người ngoại quốc vào trú ngụ vì họ có thể chi tiền cho ông chủ? Cũng may đó chỉ là tòa lâu đài giữa hồ thôi, chứ không phải tòa lâu đài trên đất liền, nơi đại vương uy quyền Jehan sống giam cầm, và trong một giấc mơ ngài đã đặt ra kế hoạch xây dựng ngôi đền Taj Mâhl để tưởng niệm bà vợ trung thành của ngài, đã thiệt mạng lúc sinh người con thứ mười bốn. Tôi khuyên các anh, đừng để cho người ngoại quốc đặt chân vào đây. Năm trăm năm trước, người Bồ Đào Nha đã cắt mất của Ấn Độ một phần lãnh thổ phía Tây là
thành Goa, và trong mấy thế kỷ chúng đã bám chặt lấy phần đất đó, hút máu dân ta, nhiều phen chúng ta cố đánh đuổi chúng mà không được. Thằng người Bồ đầu tiên tên là Albuquerque - nghĩ đến hắn, chúng ta còn sôi gan ứa mật! - đã tự xưng là Phó Vương miền Đông, và hắn đã sát hại nhiều ngàn người Ấn, không từ đàn bà, trẻ con! Các anh biết chúng đã tới đây, đội lốt thương gia, và ở lại để cai trị dân ta. Không, không, Đức Ông của chúng ta, ngài Tiểu Vương của chúng ta không thể mời lũ quỉ trở lại thiên đường của chúng ta được!
Anh thờ ra thật dài, nhìn vầng trăng khuyết vừa nhô lên phía trên tòa lâu đài, mảnh mai và lợt lạt. Đột nhiên anh tuyên bố anh quá mệt mỏi, muốn đi ngủ và anh trở về chiếc giường trống, vì từ khi vợ chết, anh không lấy vợ khác.
Veera thơ thẩn ngoài vườn hồng. Nàng bứt rứt nóng nảy. Ngày nghỉ học còn dài, nàng chưa muốn trở lại trường, nhưng nàng lại nhớ bạn bè, nóng lòng muốn gặp lại. Ba tháng nữa nàng sẽ có chồng. Hai tháng nữa nàng sẽ có bằng tốt nghiệp, và một tháng còn lại nàng phải sửa soạn mua áo cưới, nữ trang và mọi thứ khác để tổ chức đám cưới. Nàng muốn có chồng mà cứ ngần ngại chẳng muốn. Lúc thức khi ngủ nàng đều mơ thấy Raj, chàng thanh niên đẹp trai ở Bombay, và nàng e ngại chàng. Chàng là con trai vị tiểu vương Limbdi, nhưng chàng chẳng hề quan tâm đến việc làm một ông hoàng. Chàng còn chế nhạo cha chàng nữa, và chỉ gặp nhau có một lần thôi, nàng cũng thấy chàng là con người ngang tàng mà vui vẻ, nhưng chàng không hiểu mình có thể thương nổi tính nết đó không.
Chàng bảo Veera: - “Giả bộ tuân theo chủ trương tiết kiệm của chính phủ, ngày nay cha tôi mặt quần áo bằng vải nhà dệt lầy thay cho xa tanh, nhưng nút áo lại là những viên kim cương rất lớn, y như ngày trước. Cần gì nút áo cứ phải là châu báu nhỉ? Cô có biết anh bạn tôi nói về các ông hoàng của chúng ta ra sao không? Anh bạn ấy là văn sĩ, bảo rằng mấy ông hoàng đó “lòe loẹt châu báu và sặc mùi phong kiến”.
Nàng phản đối liền: - “Ba tôi có vậy đâu?”
Raj công nhận: - “Ồ, ba cô rất tốt. Ông ấy đã ở bên Anh quốc, nước Anh biến đổi mọi người, đặc biệt là người Ấn. Đã ở đó, ta không còn như cũ. Chính tôi cũng vậy. Có thể cô sẽ chẳng muốn nhìn mặt tôi, nếu được biết, hỏi tôi chưa qua du học bên Anh. Quả thật lúc đó tôi dơ dáng đại hình. Tôi còn bận một chiếc xà-rông nữa chứ.
Veera cười ngất: - “Anh tưởng hiện thời tôi thích gặp mặt anh hay sao?”
Chàng nghệch mặt ra, khuôn mặt vui vẻ tạm thời mất hẳn nụ cười.
- Mong cô đừng hiểu lầm như vậy. Tôi chỉ muốn nói rằng cô rất xinh đẹp. Tất nhiên, các vương hầu biết nghe theo tiếng gọi của tổ quốc là điều rất tốt. Họ cũng có người hay người dở. Cha của một người bạn tôi từng có chín mươi chín con voi, đã đem hiến tặng tất cả chỉ giữ lại có ba con đặc biệt ưa thích. Nhưng cha của một người bạn khác, nghe đâu có tới hai trăm cung nữ, đã dẫn theo tất cả, nhân dịp ông ta qua chơi một ông hoàng lân quốc, dù chỉ ở lại đó một đêm. Ông ta từng nói rằng không nên để các bà ra khỏi nhà.
Nàng không thể nín cười, theo tiếng cười rộ của chàng. Nghĩ đến chuyện đó, Veera lại cười, nhưng khe khẽ. Raj cũng có vẻ dễ thương đấy, nhưng không hiểu nàng có thể thương nổi chàng không, có muốn thương yêu chàng không? Những cô gái ở trường nói nhiều về tình yêu, nghiên cứu các tạp chí của Hollywood, mơ ước những mối tình đẹp đẽ kiểu Tây phương, nhưng đó chỉ là mơ ước thôi. Có lẽ những mối tình như thế không thể hiện hữu ở Ấn Độ. Ái tình là chuyện buồn phiền, là gánh nặng, nhưng không thiếu niềm vui. Nếu một ngày kia nàng thương yêu Raj mà chàng không yêu lại nàng thì sao? Nàng không chịu nổi ý tưởng đó. Chắc hẳn nàng sẽ gieo mình xuống hồ chết quách cho rồi. Nàng trầm ngâm tựa mình trên thành cửa sổ, nhìn nước hồ lấp lánh vỗ vào nền đá hoa cương của tòa lâu đài. Phải gan dạ lắm mới dám tự tử, nàng không can đảm bằng bà hoàng Padmini thời cổ. Bà phu nhân dễ thương ở đồn lũy Chittor, gặp khi quân Mogol xâm lăng, đã tụ họp các cung nữ, kéo nhau xuống hầm tòa lâu đài, nổi lửa
lên, cùng nhảy vào lửa tự thiêu. Đã nhiều lần Veera được thăm viếng tòa lâu đài đó, vì cha nàng rất ưa thích đồn lũy cổ Chittor, với những ngọn tháp oai hung và những bức tường đổ nát. Nàng thường ao ước được xuống thăm căn phòng diễn tiến việc hy sinh đó, nhưng những người canh gác, bảo vệ và hướng dẫn đã ngăn cản nàng:
- Nơi đây chẳng an toàn đâu. Đó là chỗ chết chóc, ngày nay chỉ có mãng xà và hồn ma của các bà phu nhân trú ngụ thôi. Cả hai đều nguy hiểm như nhau.
Nàng ngẫm nghĩ không hiểu sao hồn ma của một bà phu nhân dễ thương lại nguy hiểm được nhỉ? Bà Padmini xúi giục các cung nữ liều mình để bảo vệ tình yêu hay bảo vệ danh dự? Tất nhiên không thể dâng mình cho kẻ thù, cho một người đàn ông mà mình không yêu. Nhưng nếu là nàng, là Veera, không muốn thương yêu Raj, liệu có ai ép buộc nàng không? Việc ép buộc con gái lấy chồng thật tình có ý nghĩa như thế nào? Nói đến chuyện đó, các cô gái thường thì thầm, có chút sợ hãi, hoang mang, có thêm một cảm giác mong chờ rất lạ. Đã sợ, tại sao lại có thể mong đợi được nhỉ? Thế mà trong tình yêu, người ta lại vậy đó!
Ngay lúc ấy, chiếc du thuyền của cha nàng rời khỏi chỗ cất dấu bên dưới tòa lâu đài. Nàng nhóm mình ra xa cửa sổ, thấy một người ngoại quốc cùng cha nàng bước xuống những bậc thềm đá hoa, leo lên du thuyền. Rồi thủy thủ đưa thuyền hướng về tòa lâu đài giữa hồ, mặt nước rẽ thành hai luồng lấp lánh bạc. Hôm nay cha nàng tiếp một người ngoại quốc, nhưng với mục đích gì? Cũng vậy, với lý do gì má nàng đánh bạn với cha Francis Paul? Người Tây phương có điều gì hấp dẫn? Một số ít cô gái Bombay cũng thường yêu đàn ông ngoại quốc đấy. Veera chợt mong ước được trở lại trường, để có một người nào đó mà trò chuyện. Chỉ với nhóm bạn cùng tuổi, nàng mới thật sự có thể nói chuyện. Đối với ba má, nàng chỉ biết yên lặng, tuân phục và tỏ ra dễ thương. Nỗi đau trong lòng nàng có lẽ chỉ là nỗi cô đơn nhớ trường. Tuy nhiên, lúc ở trên miền núi cao mát mẻ đó, nàng cũng lại cảm thấy lẻ loi, nhớ tòa lâu đài, nơi nàng có hai phòng riêng, hầu như tối ngày ru rú trong đó không đi đâu cả, và cũng chẳng tiếp xúc với ai, ngoài bà bảo mẫu già nua đã trông nom săn sóc nàng từ hồi mới sinh. Nếu sau khi lấy chồng mà nàng vẫn còn cảm thấy lẻ loi, thì quả thật cô đơn là một căn bệnh không thuốc chưa. Mà nàng có cảm thấy lẻ loi không? Chẳng vậy, tại sao bà bỏ ra quá nhiều thời giờ ở chơi với cha Paul? Có nhiều câu hỏi không có lời giải đáp, câu hỏi này là một. Hoặc giả chỉ có đàn bà không tìm ra được lời giải đáp cho các câu hỏi của họ?
Một đàn chim bồ câu, hang trăm con từ dưới mái nhà bay vù lên, tới các ngọn tháp của tòa lâu đài. Chúng bay rợp trời. Bồ câu đã sống ở đây hàng mấy thế kỷ, và còn tiếp tục sinh sống.
Cửa chợt mở ra, bà bảo mẫu bước vào, kêu lên: - Cô bé của ta ơi! Tại sao cô nhoài người ra xa cửa sổ như thế? Lỡ có người đàn ông nào thấy cô thì sao?”
Veera chạy vào phòng, ngồi xuống những tấm nệm đặt thành chồng trên tấm thảm màu tím. Nàng lên tiếng hỏi bà bảo mẫu: - “Người vợ là thế nào?”
Bà lão nheo mắt nhìn nàng: - “Cô hỏi vợ là người thế nào ư, cô bé? Đó là người mà đàn ông không thể bỏ, luôn luôn về với. Ồ, đúng rồi, đàn ông có thể chơi lời lăng bạt … người vợ không được quyền trách cứ. Nàng chỉ nhỏ nhẹ thưa rằng: “Anh yêu quí, làm sao em bỏ anh được?” Chàng sẽ thấy nàng là người vợ tốt, sẽ tự trách mình. Dù chàng có giận dữ quát mắng nàng: “Im đi, đừng nói gì cả!”, dù chàng có theo đuổi người đàn bà khác, thì rồi ra chàng cũng trở về với vợ, xin nàng tha thứ.”
Veera lắng nghe, tỏ ý thắc mắc: - “Nàng có tha thứ cho chàng không?”
Bà lão tuyên bố: - “Tha thứ chứ! Nàng sẽ nói rằng: “Anh yêu quí, em yêu anh, và sẽ mãi mãi thương yêu anh.” Bổn phận của nàng phải vậy.”
Veera vẫn hỏi dồn: - “Nhưng chàng có thương yêu nàng không?”
Bà lão ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng mới nói: - “Chàng kính trọng nàng.”
Thiếu nữ cùng bà lão nhìn nhau, một người tỏ ý nghi ngờ, người kia thương hại. Rồi bà bảo mẫu già quì gối bên cô chủ, vuốt ve bàn tay mềm mại của nàng:
- Cô bé ơi, chồng cô sẽ thương yêu cô. Chàng có nhiều nam tính. Và cô đẹp như một bông hồng Kashmir.
Veera thắc mắc: - “Làm sao bà biết anh Raj có nhiều nam tính?”
Bà lão ghé lại gần: - “Cô có nhìn bên tai anh ấy không? Tóc anh ấy đen láy, che lấp mang tai … dài bấy nhiêu nè!”
Bà con ngón tay cái, ra dấu chiều dài chừng một đốt ngón tay.
*
Tại căn nhà có ba phòng nằm trên miền núi vùng sa mạc, cha Francis Paul ngồi đọc thư từ. Cửa để mở, gió thổi cát mịn từng đám bay mù mịt trên sàn nhà. Mùa hè đã tới, sa mạc lại nổi cơn thịnh nộ, gió chướng thổi lồng lộng suốt một vùng đất rộng tám chục ngàn dặm vuông ở vùng Đông Bắc hoang vu, mang theo không biết bao nhiêu cát bụi. Cha của tiểu vương Jagat từng chua chát ví von rằng gió sa mạc “làm nghẹt buồn phổi bên phải của Ấn Độ, bằng những cát cùng muối.” Cha Francis Paul đặt lá thư của bà mẹ xuống, nhìn sa mạc, qua khung cửa ra vào. Ông tưởng như thấy má ông đang ngồi ở bàn giấy phòng khách tại lâu đài Rickford, gió thổi bay bay những lọn tóc bạc của bà, mang theo mùi thơm bông hồng. Bên kia bãi cỏ, rừng rậm vẫn đứng hiên ngang trên bầu trời Anh Quốc. Hồi thủa nhỏ, ông thường ưa thích tìm tới khu rừng đó để mơ mộng, và hình ảnh đó đậm nét trong ký ức của ông lúc này. Làm sao ông có thể giải thích cho vị tiểu vương hiểu được rừng là một nguồn lợi lớn lao như thế nào? Ở đây, tài nguyên của rừng núi chỉ được coi là tài sản chung của cả làng, và dân chúng tự do dẫn cây về làm củi đun. Năm ngoái, cha Francis Paul tới thăm viếng những trạm đậu xe ở vùng núi, nhận ra rằng cả đám cây khuynh diệp hùng vĩ ở núi Abu đã bị đẵn trụi.
Cha Francis thở dài, đặt lá thư qua một bên. Ông tiếc cho những tài nguyên phong phú bị hủy hoại. Mặt trời lên, gió cũng lên, căn phòng nhỏ trống trải, nơi ông đang ngồi, sẽ không thể chịu đựng được. Gió cũng thổi chừng vài giờ thôi, rồi đến trưa, không khí sẽ yên tĩnh. Sau đó, cát mịn lại nổi lên, mù mịt khắp bầu trời, khi đoàn lạc đà nện chân thình thịch trên cát, lạc đà là những du khách lạ lung trên vùng đất này, là loại vật bất biến cũng như trên đền đài, có từ bao thế kỷ nay rồi. Bất cứ con lạc đà nào cũng có tính cách cổ xưa, chẳng biết tuổi tác ra sao. Nhiều lần, chẳng để tâm mà cha Francis đã bỏ bao thời giờ nghiên cứu hình dáng kỳ lạ của loài vật này. Những lúc ngồi đợi xe buýt đưa ông từ lâu đài của tiểu vương Jagat về miền núi nơi ông đang sống, ông đã chăm chú nhìn lạc đà kéo nhau đi thành bầy dài, thật chậm chạp, nghỉ lại một thời gian để những người điều khiển có thời gian ăn cơm cà-ri, uống chai xô-đa. Hình dáng của con lạc đà quả là độc nhất vô nhị, một bộ xương đồ sộ như chiếc sườn tẩu đứng vững trên bốn chân khẳng khiu, bàn chân lớn, với chùm lông chân cấu tạo rất khôn khéo, sử dụng được cả trên cả mềm lẫn những lối đi đá tảng ở miền núi. Cái cổ đung đưa nhè nhẹ đánh thăng bằng cái lung cao có bướu, và trên cái cổ đó là cái đầu nhỏ nhắn, buồn bã, miệng há hốc, môi dưới trề ra vì lay động, còn cặp mắt lừ đừ, buồn bã. Qua cặp mắt đó, tâm hồn lạ lung của loài lạc đà nhìn ra thế giới với vẻ chẳng quan tâm tìm hiểu, và cũng chỉ chấp nhận tới một mức độ nào thôi. Mỗi khi phải tải hàng quá nặng, hoặc bất mãn với thái độ hắt hủi của người điều khiển, lạc đà có thể phản ứng bằng cách từ từ nằm xuống đất, nằm yên đó để phản đối cho tới chết. Tuy nhiên không phải lạc đà luôn luôn thụ động và hiền lành. Trong cơn phẫn nộ bất ngờ, lạc đà có thể phun phì phì vào mặt kẻ xúc phạm cho đến lúc người này ngất xỉu vì hơi thối nồng nặc. Đã từng tự phụ là biết rõ về loài lạc đà nhưng cho tới hôm qua cha Francis Paul mới được thấy tận mắt một con lạc đà biểu diễn một trò rất lạ. Từ bên trong thân hình đồ sộ của nó phát ra một tiếng gầm ồ-ồ kéo
dài, vang lên như sấm động tới tận triền núi xa xa, cuối cùng không hiểu từ ruột non ruột già, qua bao tử hay những chỗ nào, qua tới cổ họng và tiếng ra đằng miệng, mà từ đó xuất hiện một trái cầu rất lớn, màu hồng, đường kính áng chừng một thước. Cha Francis kinh hãi quá chừng.
- Cái gì vây? Ông hỏi người điều khiển, thuộc sắc dân Bhil, đang ngồi dưới cát, ngủ gà ngủ gật, sau khi ăn uống nó say.
Người Bhil ngáp dài, vò đầu: - “Ai biết được? Thích thì nó làm chơi cho vui vậy thôi!”.
Có lẽ đúng vậy. Cha Francis đứng nhìn con lạc đà phun phì-phì, từ từ thu trái cầu trở vô miệng. Ông nhận định rằng quả thật miền đất cổ, xứ Ấn Độ này, có lắm chuyện lạ lùng. Ngày nào cũng có vô số những cảnh mới mẻ, tiếng động lạ, mùi hương lạ. Ngay lúc này đây, trong lúc ngồi giữa cửa sổ mở toang và cửa ra vào, nhìn con đường làng, không cần quay đầu lại, ông cũng thấy những cảnh hang ngày liên tục diễn ra, như một cuộn phim ảnh. Một cô bé hầu như trần truồng, nước da nâu sậm, tóc tai bù xù, đang bước đi, trên đầu lắc lư một chiếc bình bằng thau đựng nước uống mà cô vừa lấy lên từ giếng nước. Ở một khung cửa mở, một bà mẹ trẻ tuổi đang ôm con trong cánh tay trái, trong lúc đứa bé say mê bú vú mẹ. Một ông lão râu dài, quần áo rách rưới buộc dính chùm ba con khỉ nhỏ bẩn thỉu, dẫn chúng đi trên đường làng. Ở đám cây cao vượt khỏi mái nhà, một đám khỉ hoang dại đang kêu chí chóe, nhìn xuống ba kẻ đồng loại mất tự do, với vẻ tò mò và thương hại, trong lúc một con hoẵng bị cột vào một chiếc cọc ở cửa ra vào cũng quay đầu lại, ngắm nghía. Cuối đường, một con hạc đang kiếm ăn tại một ao tù xòe đôi cánh rộng, từ từ bay lên, tránh xa ngôi làng ồn ào.
Đột nhiên, cha Francis Paul định thần. Cũng dễ bị thu hút trong thế giới bên ngoài cánh cửa nhà ông thôi, nhưng hôm nay ông chẳng có thời giờ. Ông đã hứa sẽ có mặt ở tòa lâu đài để dự buổi tiệc tối mừng sinh nhật thứ bốn mươi của tiểu vương Jagat. Xe buýt sẽ rời trạm vào lúc hai giờ, ông chỉ vừa đủ thời giờ để ăn qua quít bữa trưa đạm bạc thường lệ gồm có cơm cà-ri, và sữa đặc. Thật ra, tiệc tối chỉ dọn ra trước lúc nửa đêm một chút thôi, nhưng ông biết rõ gia đình vương giả này rồi. Đặc biệt bà vương hậu trông mong ông tới sớm, ngay khi vừa chập tối. Ông khẽ nhếch môi cười, nhớ lại lần đầu tiên được mời ăn tối ở tòa lâu đài, ông đã không biết đem chuyện gì ra nói cho hết mấy tiếng đồng hồ, đợi món ăn chỉ dọn ra vào lúc mười một giờ. Lúc đó ông đâu có biết đó là tập quán thông thường của người Ấn, nên đã ngồi đợi, bụng đói meo. Bây giờ biết rồi, ông lại khoái thời gian chuẩn bị món ăn kéo dài như thế.
Tuy độc thân và quen trai-giới, cha Francis Paul rất hưởng ứng cảnh sống xa hoa tại tòa lâu đài. Tối hôm đó, vừa tới ông liền được người hầu đội khan đứng đón ở cửa như thường lệ, dẫn ông về phòng riêng dành cho ông ở cánh nhà bên Tây. Tiểu vương Jagat thường năn nỉ cha ở lại đêm, nói rằng phòng ngủ rộng rãi đó, cùng với hai phòng tiếp giáp, đều mở theo hướng Tây, trông ra tòa lâu đài đá hoa trắng giữa hồ, nên là chỗ di dưỡng tinh thần cho cha. Mỗi lần hưởng lạc thú, cha lại van vái, mong rằng hưởng những thứ đẹp đẽ quá sâu đậm chẳng phải tội lỗi, và cha tiếp tục hưởng.
Người hầu lên tiếng hỏi : - “Cha có muốn uống một thứ gì không?”
Cha Francis Paul đáp : - “Không. Cám ơn.”
- Ăn vậy?
- Mấy trái cây trên bàn kia được rồi. Cám ơn.
- Ông Lớn nhờ xin cha thứ lỗi, vì tối nay ngài về hơi trễ, nhưng Bà Lớn vẫn đợi cha ở bãi đất trống phía Tây vào lúc tám giờ, như thường lệ.
- Cám ơn Bà Lớn. Thưa với bà rằng tôi sẽ tới nhé.
- Trong lúc chờ đợi, có sẵn nước tắm cho cha đấy.
- Cám ơn.
Người hầu vái chào, hai bàn tay cung kính đặt tận trán, rồi rút lui, khép cửa lại. Cha Francis Paul tiến lại cửa sổ, đứng trầm ngâm, tay lần tràng hạt. Những tòa lâu đài này là cảnh đẹp hiếm có, Chúa có thương mới cho gặp được. Hồ nước lại là một cảnh đẹp khác của vùng sa mạc, ban ngày lấp lánh màu xanh, lúc này đổi màu kỳ ảo, biến sang màu vàng tươi, dưới ánh mặt trời đang lăn. Tòa lâu đài trắng phản chiếu màu vàng nhạt, và nền đá tảng bên dưới lại có màu hồng nhạt. Trong vườn quanh tòa lâu đài, những cây xoài đứng thẳng, mọc từng khóm rậm rạp âm u. Tòa lâu đài ở thành phố nhỏ này là cung điện của vua chúa, là dấu tích lịch sử cổ thời của Ấn Độ, dựng lên từ thế kỷ thứ mười sáu, thuộc vương quốc Newar cổ thời. Nơi đây đã có biết bao người sinh sống rồi! Cha Francis tự nhắc nhủ thế nào tối nay cũng phải hỏi thăm vị tiểu vương về tòa lâu đài xây trên đảo, cách đây xa chừng một dặm, về bên trái. Nghe nói đại vương Jehan đã bị giam hãm ở đó mấy năm, và cũng ở đó ngài đã mơ tới việc dựng lên ngôi mộ cho bà vợ yêu quí. Phải hỏi xem ngài bị giam hãm mất mấy năm, và tòa lâu đài nọ có lớn hơn tòa lâu đài giữa hồ không? Ngay lúc này, cha Francis Paul đã quyết định một việc làm mà ông từng ngần ngại cả năm năm nay. Đó là viết về lịch-sử xứ Rajasthan, vùng đất của Ấn Độ mà lịch-sử và huyền thoại đã thêu dệt nên biết bao cuộc đời của các vị anh hùng, trong đó có Rana Sanga, trị vì vương quốc Newar vào thế kỷ thứ mười sau. Ngài đã đánh đuổi quân xâm lăng Hồi Giáo, chống lại hoàng đến Baber của người Mogol đã từ trần, mang trong người tám mươi mốt vết thương. Ngài cũng là vị vua đẹp trai và quả cảm, sau khi đánh bại kẻ thù là quốc vương Malwa lân-quốc, đã đối xử tử tế với ông này, trả lại cho một nửa lãnh thổ, và lúc tiễn về còn tặng một bó hoa. Và những rặng núi đang mờ dần trong màn đêm kia, vẫn mang nhiều dấu tích các đồn lũy và thành quách của đức vua Pratap, đã bao năm chống lại đại đế Abbar của người Mogol nhờ chiến tranh du kích kiên cường. Sau khi đại đồn Chittor thất thủ - hồi đó Chittor là thủ phủ của vương quốc - và các lực lượng hoàng gia bắt buộc phải đầu hang quân xâm lăng, thì những người đàn ông Rajput, trong những chiếc áo dài màu vàng nghệ, đã xông ra chiến đấu đến chết, trong lúc những người vợ, lên tới số ba ngàn, đã nhẩy vào lửa tự thiêu, thà chết để giữ danh dự, chứ không dâng mình cho kẻ thù chiến thắng.
Cha Francis Paul mờ màng, ngồi lọt thỏm trên ghế nệm dài bên dưới cửa sổ mở rộng. Rồi đột nhiên, ông tỉnh trí, nhìn lại đồng hồ đeo tay. Chưa đầy nửa giờ nữa ông đã phải gặp vương hậu. Chắc chắn lúc này nước tắm đã lạnh rồi. Không, chẳng đến nỗi lạnh lắm đâu, vì hôm nay trời nóng, nước tắm chỉ vừa đủ mát mẻ dễ chịu thôi, ông sẽ trầm mình trong bồn tắm rất rộng bằng đá hoa chừng vài phúc sẽ leo ra. Tắm táp kiểu này cũng là một trò xa hoa lắm rồi, vì thường thường ở nhà mỗi lần tắm rửa, ông phải múc nước từ một chiếc lu bằng đất nung kê ở góc phòng tắm nhỏ bé. Tối nay, ông mặc chiếc áo trắng mới được giặt sạch ngoài con suối chảy gần nhà ông, nhờ tay một bà lão mỗi tuần tới trông nom quần áo cho ông hai lần. Bản thân việc đó cũng là một điều xa hoa, ông thường e ngại, nhưng không biết làm sao được, vì ông không thể tự tay làm những công việc này ở xứ Ấn Độ. Từ khi làm một tu-sĩ cô đơn của hội truyền giáo, chẳng liên lạc thường xuyên với những người cùng giới, ông chỉ có một người đàn ông lo việc bếp núc và trông coi ba căn phòng, và ông mong rằng không vượt quá khuôn khổ nếp sống đạm bạc của một tu-sĩ. Để tôn trọng các con chiên người Ấn, ông cẩn thận để phòng cả việc ăn uống, thật đạm bạc, kiêng ăn thịt. Trong lúc chải chuốt bộ râu, cha Francis tự nhắc nhở nghiêm khắc chớ nên noi gương ông tiểu vương có tâm hồn quá phóng khoáng. Tối nay thế nào cũng được dọn ăn món thịt, và ông tiểu vương sẽ ăn uống ngon lành theo thói quen, nhưng bà vương hậu chỉ dung món ăn chay thường nhật thoi. Thiếu mười phút đầy tám giờ, cha Francis đã gọn gang trong chiếc áo dài trắng, chuỗi hạt đeo ở cổ. Ông nhìn lần cuối bầu trời đang tối dần. Lát nửa mới có trăng, hai người có thể ngồi ở bãi đất trống, ngắm trăng lên. Cuộc đời thú vị thay! Cha Francis mong rằng lạc thú này chẳng phải tội lỗi.
*
Khi cha Francis bước qua hai cánh cửa bằng gỗ tếch có chạm trỗ tiến vào, bà vương hậu vẫn ngồi yên trên ghế. Bà ngồi bất động, đợi ông tiến lại gần. Bà nghĩ rằng ông rất đẹp trai, có duyên và cường tráng, chòm râu đen xén tỉa gọn gàng, mái tóc đen mướt mát, làn da mềm mại. Cặp mắt xanh có một vẻ gì cuốn hút. Tất nhiên người Ấn cũng có nhiều người có cặp mắt xanh, nhưng trên khuôn mặt của người Anh, cặp mắt đó mới phát huy hết quyền lực. Bà rất tiếc nhớ người Anh. Dẫu tán thành độc thập, người
Ấn vẫn có thể tiếc nhớ người Anh như thường. Học thương hại khi thấy nhiều người Anh từ chối không chịu ở lại Ấn. Bà vương hậu đã lớn lên tại Bombay, đã làm bạn với những cô gái người Anh học chung trường.
Cha Francis Paul đã đến trước mặt bà, cúi xuống nắm lấy tay. Thỉnh thoảng ông vẫn hôn tay bà, tối nay cũng vậy. Bà cảm nhận chòm râu lướt nhẹ trên tay bà, cứ để yên vài giây đồng hồ mới rút lại.
Bà nói nho nhỏ: - “Ông mạnh chứ?”. Bà rất ngượng, khó có thể gọi ông là cha. Hai người gần bằng tuổi nhau, bà cũng đoán phóng chừng như thế, vì bà chưa dám mở miệng hỏi tuổi, cũng chẳng muốn hỏi làm gì, ngại rằng có thể bà kém ông vài tuổi, giọng bà thật êm:
- Mời ông ngồi.
Ông ngồi xuống gần bà, lên tiếng: - “Chưa bao giờ tôi được thấy một buổi hoàng hôn đẹp thế này.” Bà đã cấm ông không được gọi bà là Bà Lớn, nói rằng: “ Đừng gọi vậy. Thêm cách biệt giữa ông và tôi thôi.”
Lúc này, bà đáp giọng ra vẻ hờ hững: - “Vâng. Hoàng hôn thường đẹp vào những thời điểm này trong năm.”
Bà quá xúc động không thể nói gì hơn. Nỗi cô đơn không thể nói ra, lòng mong mỏi có một người nào để thương yêu, yêu thật tình trước khi quá lứa, lòng tha thiết được gắn một con người, tất cả những điều đó thôi thúc bà không chịu nổi. Nhưng cuộc sống vẫn có những trói buộc, bà vương hậu đành lên tiếng, giọng trầm tĩnh:
- Nhà tôi ngỏ ý tiếc hôm nay phải về trễ.
- Hình như lúc này Ông Lớn rất bận rộn vì chương trình mở khách sạn ngài mới đặt ra. Ở trên miền núi, chúng tôi cũng nghe cả đấy.
Bà nhặt một tờ báo trên mặt bàn đá hoa bên cạnh: - “Nhà tôi cũng bận cả những chuyện này nữa.” Ông đón lấy tờ báo, thấy hàng tiêu đề: “Vị tiểu vương tuyệt vời ở Newer”.
Bà vương hậu bảo: - “Ông đọc đi”.
Đó là trang thể thao của tờ Thời Báo New Delhi, ông đọc thấy: “Ông hoàng đệ nhất của Ấn Độ lại chúng tỏ tài năng của ông trong môn đánh cầu. Cầm đầu đội tuyển Amarpur của mình, ông đã thắng đội tuyển New Dehli tới chín mươi bảy điểm. Người ta còn nhớ rằng chính ông hoàng này đã từng hướng dẫn phái đoàn Ấn Độ qua Cambridge thương thuyết đòi độc lập cho dân tộc. Bây giờ ông lại tiếp tục lãnh đạo đất nước ông, đất nước của các vị vua chúa, nhưng với mục tiêu hoàn toàn hòa bình, không phải trên bãi chiến trường mà trên sân cỏ.”
Cha Francis Paul trả lại tờ báo, mỉm cười: “Ông Lớn vẫn luôn luôn tỏ ra trẻ trung, và tôi vui mừng thấy ngài được vậy. Lần cuối cùng được gặp, tôi thấy ngài rất quắc thước. Tôi khâm phục ngài, không đủ lời để nói. Có thể nói ít ông hoàng nào chịu chơi như ngài, dám chọn nhạc cổ điển cho các vũ nữ nhẩy múa nhân ngày sinh nhật lần vừa rồi của ngài”.
Bà vương hậu vẫn đáp giọng hờ hững nhẹ nhàng: - “Về một số mặt, ông Jagat có phong cách rất giống người Anh. Tối nay, chúng ta dự tiệc không có âm nhạc.”
- Gần đây Ông Lớn có bắn được nhiều cọp không?
- Có đấy. Ông ấy cũng kể với tôi rằng bắn được một con rất lớn. Tôi chẳng muốn để mắt tới. Cha biết đấy. Tôi ít thích chuyện như thế. Nhà tôi còn trái ý tôi, dẫn cháu Jai đi theo. Tôi không ưa chuyện sát hại sinh vậy, ngay cả giết cọp nữa. Cũng mừng là Jai không thích sát sinh. Ông Jagat có nói tới chuyện sẽ đi săn ở Sikkim, trước mùa tuyết xuống.”
Cha Francis hiểu rõ tính tình của bà vương hậu, thấy được nội tâm bồn chồn của bà che dấu dưới thái độ cố giữ cho chững chạc, ông hỏi nhỏ:
- Tại sao bà lại buồn?
Như mọi khi bà lặng thinh, có ý chống đối. Ông hiểu được bà quá dễ dàng. Bà khao khát mong ông thông cảm, đồng thời lại e sợ chuyện đó. Những lúc ở một mình bà luôn luôn tự nhắc nhủ rằng ông là tu sĩ, nhiệm vụ của ông là săn sóc các linh hồn. Tuy nhiên, nếu chỉ được coi là một linh hồn để người ta săn sóc tới thì thật chán, có phân biệt gì với những người Bhil miền núi sống quanh ông tu-sĩ đâu?
Ông lại nói tiếp: - “Bà ưa che dấu với tôi. Phải chăng bà muốn tôi coi là người nhà trời, cần được tang bốc. Được rồi, tôi sẽ làm như thế.”
Bà muốn nồng nhiệt chối từ rằng không phải vậy, nhưng bà không thể mở miệng, bà quay đi, và ông chỉ còn thấy khuôn mặt nhìn nghiêng xanh xao của bà nổi bật trên nền trời. Ông cho rằng một số đàn ông có thể không cho bà là xinh đẹp, vì bà thiếu hẳn sức quyến rũ nồng nàn của phần đông đàn bà Ấn. Nhưng đối với ông, bà rất xinh đẹp, từ dáng người ẻo lả, nước da xanh mướt, tới nét buồn của bà, tất cả như mời mọc, khó lòng cưỡng lại được. Cũng may, từ lâu rồi ông đã học được cách tự kiểm soát sự thôi thúc của thể xác.
Đột nhiên bà hỏi : - “ Những người Bhil của ông thế nào? Tôi không hiểu nổi vì sao một người như ông, có học thức, thuộc gia đình giòng dõi, lại có thể tiếp tục sống với những người như thế?”
- Có lẽ chính vì những yếu tố đó mà tôi thấy những người Bhil hết sức hấp dẫn. Không đúng hẳn như thế, mà vì những nhu cầu cua họ, đã lôi cuốn tôi, một tu-sĩ. Những người Ấn trong giới của bà đã được tiếp cận với thế giới, chứ những người Bhil vẫn sống cuộc đời cách đây vài trăm năm.”
Bà vương hậu nhắc lại lời ông tu-sĩ: - “Tôi được tiếp cận với thế giới? Suốt đời giam hãm trong tòa lâu đài này cơ mà?
- Bà nói được tiếng Anh, Pháp và Đức … không chừng còn thêm tiếng nước nào khác cũng nên. Bà sống giam hãm ở đây, nhưng tâm trí không gò bó .
Bà không đáp, và ông nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng xanh xao của bà, nói tiếp:
- Đã bao giờ nói chuyện với một người Bhil chưa?
Bà vẫn không quay đầu lại : - “Làm sao tôi có thể chuyện trò với một người Bhil được?”
Ông không trả lời trực tiếp, im lặng một lúc mới lên tiếng, như nói một mình: - “Tôi chẳng thấy những con người đó lạ lùng gì. Về một số mặt, họ khiến tôi nghĩ tới sắc tộc miền núi ở Scotland, cùng giống nòi với tôi. Trong hôn nhân, người Bhil không phân biệt đẳng cấp. Họ cũng tài năng như chúng ta vậy, tuy rằng ở một số mặt, họ có vẻ ngơ-ngác phần nào.
Bà quay lại nhìn ông: - “Chắc chắn người Bhil không thể xinh đẹp. Họ đen thui, lỗ mũi bè bè, bẹt dí,
và tóc rậm quá. Giống như loài vật vậy.”
Ông lờ đi: - “Hôm qua tôi tới ngôi nhà thờ nhỏ mà tôi mới mở cách đây một tháng tại một ngôi làng hẻo lánh. Đường đi quanh co trên vùng núi non, và tôi phải dẫn theo người hướng đạo, thuộc sắc dân Bhil, dù tôi từng qua lại vùng này nhiều lần. Chúng tôi dừng lại để nghỉ một lúc, và anh hướng đạo của tôi thèm hút thuốc. Anh có mấy que diêm, tỏ vẻ khoái chí, nhưng sử dụng còn lọng cọng lắm, và cũng xài hết mất rồi. Tôi thấy anh bình thản vô cùng, lấy từ trong áo ra một miếng bùi nhùi, gắn trong hốc một khúc xương dùng làm cán. Rồi anh nhặt hai cục đá nhỏ ở ngay trên núi, đánh vào nhau, tóe ra những tia lửa, bắn vào bùi nhùi. Anh thổi phù phù một lát, và lửa bốc lên. Bấy giờ anh lại chợt nhận ra đã để quên cái ống điếu ở nhà. Nhưng chẳng sao cả. Anh bẻ một cành cây, khoét trên mặt đất một lỗ nhỏ bằng đáy chén, nhét thuốc hút vào đốt lửa, khum hai tay, làm một hơi dài thích thú. Tôi khâm phục quá chừng.
Bà cười ròn: - “Quỉ tha ma bắt ông đi, cũng những người Bhil của ông! Hãy thú nhận là ông đã thương yêu họ đi.”
- Tất nhiên tôi thương yêu chứ. Ít nhất cũng yêu quí tâm hồn giản dị của họ.
- Kệ, tôi chẳng yêu nổi. Tôi không ưa những người tóc rậm đen láy, chỉ mặc chiếc áo một mảnh bằng vải bông trắng, mà để dơ dáy, ngay cả khi trời lạnh cũng chỉ phong phanh có vậy.
- A, bà bạn, đừng nên có tiền kiến ghét bỏ một dân tộc chỉ vì đẳng cấp!
- Tại sao không? Tôi là ai nhỉ? Tuy nhiên, tôi không hề chúc điều dữ cho họ chút nào đâu. Kệ họ giữ thôn ấp của họ, tôi giữ tòa lâu đài của tôi, chẳng mắc mớ gì.
Hai người mãi trò chuyện, chẳng biết được ông Jagat đã tắm rửa sạch sẽ mặc bộ đồ mới trắng tinh, tiến lại gần cửa. Ông đứng tần ngần, không nỡ cắt đứt câu chuyện của hai người, cuối cùng mới tiến lại:
- Moti, anh chưa hề nghe em nói vậy đó. Đừng tin lời nhà tôi, Cha ạ! Có lẽ chỉ tại bà ấy đang bực bộ điều gì ấy thôi. Nhà tôi cũng thừa biết luật pháp đã bãi bỏ đẳng cấp rồi.
Ông ngồi xuống, mở chiếc hộp khảm châu báu, châm một điếu thuốc, cử động thật nhanh nhẹn và vững chai, và ông nói tiếp với giọng chắc nịch thường lệ:
- Bản thân tôi rất quí trọng sắc dân Bhil của chúng tôi, không hề quên rằng chính họ đã có mặt ở đất nước này, trước cả tổ tiên của chúng tôi. Thật tình, người Rajpat chúng tôi thừa nhận quyền ưu tiên của sắc dân kia. Chính họ đã rộng lượng để lại cho chúng tôi một phần đất đai. Chuyện đó còn ghi trong sử sách.
Bà Moti nói: - “Ông Jagat ưa thích người Bhil, chỉ vì họ là những người man-di, giỏi săn bắn.” Ông Jagat đồng ý: - “Quả thật họ là những nhà săn bắn tài giỏi. Nhưng không hề man-di.” Bà Moti cãi lý: - “Hễ dân săn bắn là man-di rồi.”
Ông Jagat phản đối: - “Kìa, Moti! Người Bhil săn thú là để kiếm sống. Cha à, chắc cha cũng biết những người đó có tài thoắt hiện thoắt biến đến là giỏi! Mấy tuần trước đây thôi, tôi đang tiến bước tới khu săn bắn - nằm ngay trên vùng đất đai của cha đó - chợt nghe có người cất tiếng chào mừng. Tôi ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy ai, mãi sau mới thấy cảnh vật phía trước lay động, và một người Bhil săn bắn hiện ra. Nhưng nếu anh ta không di chuyển thì cũng chẳng nhìn ra được. Màu da đen nhèm và chiếc áo cánh bằng vải nhà dệt đã lẫn vào vùng núi hoang. Và có điều này đặc sắc nữa; anh đã đi săn sư tử. Anh
thề rằng đã được thấy tận mắt một mãnh sư. Nếu đúng vậy, thì quả là chuyện hiếm hoi. Đó không phải là loài thú gốc gác tại đây. Ngày xa xưa, người Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ có đem theo những người nô lệ Châu Phi, những kẻ này lại mang theo những sư tử nhỏ, loài thú này ở lại Rajasthan và sinh sôi nảy nở. Ở Jungadh, người ta được thấy vài con, được nuôi dạy để làm xiếc, nhưng tôi chưa bao giờ được thấy một con sư tử trong rừng hoang, và tôi cũng không tin anh chàng Bhil kia đã thấy. Dẫu sao, tôi cũng chẳng được tiếp xúc lâu với anh ấy, thoắt một cái đã biến mất tiêu.
Bà Moti nói giọng tinh ranh: - “Nhưng đàn bà thì anh được thấy”.
Ông Jagat cười ròn: - “Tất nhiên! Các bà các cô ấy mặc váy màu xanh sáng sủa, quấn khan quàng cổ màu đỏ chói, vòng xuyến lại kêu leng keng ở cổ tay, làm gì mà không thấy? Họ lại rất vui vẻ, và tự nhiên vô cùng.”
Bà Moti sửa lại chiếc áo dài lụa trắng trên vai: - “Cũng dơ dáy vô cùng nữa! Tôi chẳng chịu nổi một bà người Bhil trong tòa lâu đài này. Anh muốn bảo họ tự nhiên, mặc kệ anh, chứ tôi cho rằng họ là hạng người không thể tiếp cận.”
Cha Francis Paul giảng hòa : - “Mong bà bớt lệch lạc. Tôi không trông mong cải hóa những người đàn bà đó trở thành người Ki-tô ngoan đạo để học giúp tôi biến cải chồng họ trở lại đạo.”
Ông Jagat cười ròn: - “Người Anh các ông chẳng bao giờ để mất niềm hy vọng! Tại sao không để những người Bhil hiền lành đó được tự do, sung sướng nơi thôn làng của họ. Cứ để họ vui thú hồn nhiên có được không? Những người đó tin ở một ông thần mà họ gọi là Thần Núi; họ cũng thờ cúng tổ tiên, và hình như có cả thần rắn nữa. Họ nhận cả một số vị thần Ấn Độ của chúng tôi nữa thì phải. Tôi đã từng thấy họ thờ thần Gahesh dưới dạng một đầu voi, và đây đó ở miền núi có cả tượng thần Siva nữa.
- Thưa Ông Lớn, tôi mong rằng họ không chấp nhận Ấn Độ giáo - Cha Francis Paul đỏ mặt nói: - “Bản chất của những con người đó là hồn nhiên và thành thật, nhưng chịu ảnh hưởng của người Ấn, họ bắt đầu ngờ vực tâm hồn của bản thân họ. Là vì người Ấn khinh bỉ họ, và họ cảm thấy được điều đó. Nhân đây tôi xin thổ lộ một điều mà tôi muốn nói từ lâu rồi. XIn Ông Lớn đừng giận, tôi rất phàn nàn về những người dưới quyền của ông nhiều khi đối xử với người Bhil không được đứng đắn. Họ đòi hỏi cỏ khô và củi đun, trả bằng cái giá rẻ mạt. Tôi rất khâm phục nhiệt tình của các ông trong việc đắp đập đào kênh, nhưng tôi tự hỏi không biết ông có hiểu nổi người Bhil bị bắt xâu để thực hiện những công việc đó phải lao động cực nhọc như thế nào không?
Ông Jagat nói: - “Không, tôi không biết. Nếu đúng vậy, tôi sẽ xem xét để trả công cho họ đàng hoàng.”
Bà Moti ớn lạnh vì không khí ban đêm, bây giờ lạnh toát cả người:
- Anh có cần phải đắp đập nước không, anh Jagat?
- Có. Cần đấy. Phải vậy mới có nguồn thủy điện, nhờ nước chảy vào hồ chứ.
Cha Francis Paul lại can thiệp, không được hòa nhã như lần trước:
- Đành mang tiếng là một vị khách bất nhã, tôi xin nói thẳng để ông biết chẳng lạ gì khi thấy người Bhil báo thù lại bằng cách cướp bóc, đôi khi giết người nữa. Trong lúc ông biến tòa lâu đài thành khách sạn để cung phụng các triệu phú phương Tây, thì đất đai của người Bhil vẫn trong tình trạng kém mở mang, như thời bình minh của lịch sử. Không hề có đường xá, trường học, bệnh viện, cũng chẳng đào kênh dẫn nước vô ruộng. Người Ấn các ông lợi dụng người Bhil, khi có thể lợi dụng được, có vậy thôi. Và làng mạc của người Bhil tệ hại hơn của người Ấn. Tôi không nói tới lối kiến trúc chứng tỏ tinh thần phóng
khoáng của người dân miền núi, nhà cửa không tụ lại một chỗ như trong làng của người Ấn, mà chỉ nói tới từng ngôi nhà một thôi: toàn là vách đất, mái lợn bằng cỏ rừng, cất trên một mô đất thấp và chung quanh là những bụi cây.
Có lúc ông Jagat muốn dùng lời lẽ bốp chát, nhưng lại thôi, chỉ đứng dậy, dụi điếu thuốc vào chiếc gạt tàn bằng vàng đặt trên mặt bàn đá hoa bên cạnh, ông nói khẽ:
- Đồng ý với Cha. Thôi, ta ăn tối. Cha có vẻ đói rồi đó. Tội nghiệp các vị tu-sĩ đều có vẻ gầy gò, ốm đói.
Lấy quyền làm chủ, ông đi dẫn đường, cha Francis Paul nhường bước cho bà vương hậu rồi mới theo sau.
Tới bàn ăn, đợi người hầu thành Goa dọn những món ăn đầu tiên ông Jagat lại trở lại vấn đề người Bhil.
- Cha biết đó, tôi không có cùng cảm nghĩ như bà tôi về sắc dân sơ khai của đất nước tôi đâu. Chưa kể những nguyên do nào khác, nội cái tài thể tháo gia khéo léo của họ cũng đủ cho tôi khâm phục người Bhil rồi.
Cha Francis Paul mỉm cười, phấn khởi vì thấy chủ nhà vui vẻ.
- Ông Lớn định nghĩ thế nào là một thể thao gia?
Ông Jagat trầm tư, nghĩ tới những trò thể thao của vua chúa: - “Thể thao gia là người giết thú không phải chỉ vì kiếm thức ăn, mà trước hết chỉ vì thú săn bắn. Cha biết đó, đất nước tôi không phải xứ săn bắn, vì thế đôi khi tôi phải đi xa nếu muốn tìm được lạc thú lớn lao hơn. Tuy nhiên, ở đây có thể săn cọp, và về mặt giết cọp tôi nhận thấy rằng người Bhil quả thật tài giỏi. Họ có thể đánh hơi được cọp từ rất xa, thấy được cọp từ lúc một nhà săn bắn có kinh nghiệm như tôi vẫn chưa nhìn ra.”
Bà Moti bài cãi: - “Họ săn cọp để lấy bộ da.”
Ông Jagat nói: - “Đồng ý. Anh đây cũng vậy thôi. Lấy bộ da, và cả đầu cọp nữa. Gặp những con đẹp, như hai con treo ở cửa kia, anh cho tẩm thuốc và nhồi.”
Cha Francis Paul xen vào: - “Ông yêu người Bhil vì lý do gì là tùy ông, riêng tôi, tôi thương yêu họ với tư cách là những con người, có linh hồn.”
Ông Jagat ngả người ra ghế, đầu nghiêng về phía sau: - “Ấy, ấy, cha kết tội tôi không tin họ có linh hồn hay sao? Tất nhiên họ có chứ, chỉ không hoàn toàn giống như của người Tây phương, và người Ấn chúng tôi thôi. Có thể đơn sơ, nhưng vẫn là linh hồn chứ. Tôi không dám chắc họ có vui lòng chấp nhận thiên đàng của quí ông không, nhưng tôi quả quyết rằng người Ấn chúng tôi sẵn lòng rước họ vào cõi Niết Bàn của chúng tôi, cũng như chúng tôi đã đối xử tốt đẹp với họ trên cõi trần thế, và họ ở với chúng tôi thoải mái hơn ở với quí ông.
Bà Moti ngắt lời: - “Anh Jagat, mong anh đừng khiếm nhã.”
Cha Francis Paul nói: - “Chẳng dám biện thuyết với Ông Lớn đâu. Lúc nào tôi cũng quí trọng ông, và mỗi sáng đều cầu nguyện cho ông đấy.”
Ông Jagat cười: - “Thật vậy ư? Quì gối trên nền đất hay sao? Vậy tôi phải đưa biếu cha một tấm da cọp, để đỡ khổ đầu gối đáng thương của cha, và để cha quì gối cầu nguyện cho lâu lâu một chút.”
Nói đoạn, ông đứng dậy, vì bữa ăn vừa dứt. Ông lại dẫn đường tiễn ra bãi đất trống. Vầng trăng non lợt lại trên nền trời đen tối, nhưng những ngọn đèn lồng đã thắp sáng trên cây cỏ thụ, và cà phê đã đặt sẵn trên mặt bàn giữa sân. Một người hầu quấn khan rót cà phê, và một người hầu khác cầm lấy mấy chiếc tách bằng sứ của Anh Quốc đó, đặt qua những bàn nhỏ bên cạnh. Xa xa vang lên một điệu nhạc rền rĩ, chìm vào bầu không khí nhẹ nhàng ban đêm. Gió nhẹ đưa mùi thơm hoa hồng thoang thoảng trong vườn.
Trong vài phút không ai nói tiếng nào. Bà Moti, vốn trầm lặng, ngồi co mình trong tấm áo dài lụa trắng có nhiều nếp gấp, cha Francis Paul không nói một lời, chỉ nhấm nháp cà phê đen. Đột nhiên ông Jagat lên tiếng, vẻ trầm ngâm, độc thoại, lại có chút tạ lỗi:
- Vẫn biết làm phiền lòng cha đấy, nhưng tôi cứ phải nói: Cha là người Anh duy nhất ở đây. Với người Hoa Kỳ, tôi không thể nói năng như với người Anh. Quả thật hôm nay, ở đây có một người Mỹ, một người ngoại quốc chẳng biết tí gì về Ấn Độ, về lịch sử này nọ. Ít nhất người Anh các ông đã chung đụng với chúng tôi cả mấy thế kỷ, dù rằng ở phía đối nghịch nhau. Như cha biết đất, phe vua chúa chúng tôi đứng về phía người Anh. Cho tới lúc chết, cha tôi cũng không tin nổi sự việc phải thay đổi, và tôi cũng mừng rằng sự thay đổi không diễn ra hồi cha tôi còn sống. Người không bao giờ có thể thay đổi được. Những cuộc thương thuyết Anh-Ấn đã bắt đầu ngay từ năm cuối cùng trong cuộc đời cha tôi, nhưng tôi đã thay mặt người để thương nghị, và dấu hẳn không nói cho người dược biết. Tôi còn nhớ người ngồi tại đây, trên một chồng nệm, như thường lệ. Người co chân lên, và bên dưới là những tấm da cọp trải làm thảm, kín cả sàn nhà. Tất cả là bảy mươi mốt bộ da của những con cọp cha tôi đã bắn hạ, lột da, khâu dính lại với nhau. Cha tôi rất hãnh diện về căn phòng này. Người chưa hề sống qua thời kỳ thay đổi, và nếu như người còn sống, biết tôi có ý biến tòa lâu đài giữa hồ thành khách sạn, hẳn người trách phạt tôi liền, không cần biết đến tuổi. Quả thật cha tôi có mặt tàn ác của riêng người. Đã có lần tôi được chứng kiến người ra lệnh nọc một anh người Bhil ra đánh đập tơi bời, đến nỗi những mảnh da đen bật ra, lòi lớp thịt đỏ hỏn, vằn vệ những sọc đen đỏ, chẳng khác nào bộ da của loài ngựa vằn. Tôi không bao giờ quên được cảnh tượng đó. Nhưng tôi vẫn luôn nhớ tiếc cha tôi, dù xưa kia có chuyện gì chăng nữa. Việc biến tòa lâu đài thành khách sạn này chẳng phải một công việc dễ dàng. Nó là một biến đổi sâu đậm trong cuộc đời tôi. Hồi nhỏ tôi thường hay chạy quanh những dãy hành lang đá hoa, cảm thấy mát rượi bàn chân trần, và cảm giác đó tôi còn nhớ mãi. Việc biến đổi này cũng gặp nhiều trở ngại nữa, chẳng hạn như vấn đề câu cá, dân chúng tôi không muốn cho những người lạ mặt câu cá tại hồ nước thiêng, nhưng họ phải quen thôi. Tôi dự tính lập một hồ bơi, và những sân tennis ở đảo bên cạnh. Tôi cũng biến tòa lâu đài, nơi đại vương Jehan từng trú ngụ, thành chỗ khiêu vũ và giải trí. Tôi phải đổ hết vốn liếng vào công việc này, nhưng ông Osgood có hứa rằng sẽ hoàn lại cho tôi. Dẫu sao thì nhân đây tôi cũng có dịp để làm một công việc gì đó. Không được chỉ huy nữa quả thật là điều đáng chán. Tôi chẳng còn việc gì để làm. Tất nhiên bọn chức sắc trong làng cũng tìm đến tôi mỗi khi họ có vấn đề khó giải quyết. Nhưng tôi thừa hiểu phận mình chỉ làm nổi vai trò cố vấn là cùng, và mai mốt sẽ tới lúc chúng hiểu biết chứ. Tạm thời chúng chưa biết, hay làm ra vẻ chưa biết.
Cha Francis Paul nói: - “Tôi biết chắc họ không giả bộ đâu. Và ông vẫn có thể giúp đỡ họ. Họ thiếu kinh nghiệm, cần tìm một người giúp đỡ. Đột nhiên bắt tay vào việc điều hành, phải tự quyết định mọi việc, đâu phải chuyện dễ dàng. Phải mất một thời gian chứ.”
- Quả thật ai cũng gặp phải chuyện như vậy. Kinh nghiệm bản thân cho biết hồi còn dưới quyền điều khiển của thân phụ, tôi cũng vất vả lắm. Thế rồi, một ngày nọ, người đột ngột từ trần - Vì ăn uống thiếu điều độ, tội nghiệp ông già - tôi cảm thấy kinh hãi quá chừng, tuy rằng tôi đã từng làm việc thay cho cha tôi ba năm liền, nhiều khi chẳng cần báo cáo với người những việc tôi đang làm. Ích lợi gì đâu! Cha tôi sống trên địa hạt khác hẳn với tôi. Vậy mà tôi vẫn bị xúc động rất mạnh khi biết rằng không bao giờ còn được thấy người ngồi đây, trên chồng nệm này.
Tiếng bà Moti vang lên từ dưới bóng cây cổ thụ: - “Em vẫn nhớ tiếc cha mỗi ngày.”
- A, đúng rồi. Em luôn luôn là nàng dâu yêu quí của cha mà, Moti. Có thể nói nếp sống của em vừa cổ vừa kim, gần gũi với nếp sống của cha. Cha Francis Paul à, cha nghĩ sao về một người đàn bà từ chối không chịu đi Hoa Kỳ, khi tôi ngỏ lời mời?
- Đi Mỹ?
- Một ngày gần đây, tối sẽ sang đó để nghiên cứu về khách sạn, hay ít nhất cũng coi xem khách sạn của Nữu Ước ra sao. Ông Osgood có kể tôi nghe nhiều điều rất lạ, khó lòng tin nổi. Tôi muốn được nhìn tận mắt. Chỉ cần thuyết phục chính quyền cho phép đi thôi. Đô-la quí lắm. Nếu tôi chứng tỏ được rằng nhờ mấy cái khách sạn đó mà tôi hái ra tiền, thì họ sẽ để tôi đi. Tôi sẽ dẫn theo con trai tôi nữa.
Bà Moti kêu lên: - “Ôi, đừng!”
Ông Jagat phản đối: - “Ồ, có chứ. Chúng ta đã định cho nó du học Oxford vào mùa thu này, nếu nó trót lọt kỳ thi tốt nghiệp trong nước. Vậy thì, cho nó vào học đại học Harvard, sau này còn có tương lai hơn.”
Bà Moti thì thào : - “Em chưa quen biết người Mỹ nào.”
Bà khẽ rung mình, hất vạt áo sau chum đầu, như một chiếc khăn quàng.
Ông Jagat ngước nhìn trăng, vỗ nhẹ lên sau gáy: - “A, em phải tìm hiểu những người đó, em yêu ạ, dù em thích hay không thích. Chút rượu nữa, Cha nhé … thứ rượu men hồng trứ danh của chúng tôi đó!”
Người hầu Rodriguez có mặt, bưng một khai bạc, trên đặt mấy chiếc ly mỏng tanh đựng rượu, và cha Francis với lấy một ly, đưa lên mũi, ngửi hương thơm nồng nàn.
- Thưa Ông Lớn, chỉ ở lâu đài đây tôi mới được thưởng thức thứ rượu ngon thế này. - Bởi vì chỉ ở đây mới có. Bí mật gia truyền mà.
Tối nay, câu chuyện của ba người khá nặng nề. Nhiều lúc phải ngừng lại thật lâu. Cha Francis Paul bối rối, thầm mong ước được ở riêng với bà vương hậu. Ông tự hỏi sao mình lại mong ước chuyện đó nhỉ? Ông cứ thắc thỏm khi thấy bà buồn bực, và không đoán nổi nguyên nhân, ông càng thêm bối rối. Trong lúc đó, ngài Jagat cứ ngồi trầm lặng nghĩ chuyện đâu đâu.
Đột nhiên, bà Moti lên tiếng: - “Xin lỗi nhé.”
Bà đứng dậy, đưa tay cho cha Francis Paul. Trong một lúc, ông cảm thấy những ngón tay mát rượi áp sát lòng bàn tay ông, rồi rút ra ngay. Bà bước đi qua bãi đất trống trông thật duyên dáng, những nếp áo dài phất phơ trong cơn gió thoảng ban đêm rồi biến vào tòa lâu đài.
Hai người đàn ông ngồi yên lặng, cùng che dấu ý nghĩ riêng tư. Vị tu-sĩ đã một lần yêu, rồi từ đó không thương yêu ai nữa. Chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi, hồi ông còn thanh niên, rồi ông tự nguyện hiến mình cho Nhà Thờ, hiểu rằng cửa lòng không nên mở ra nữa, nhưng cánh cửa đó đã mở một lần, cũng khó mà khép kín mãi mãi. Ông hoàng đã biết nhiều người đàn bà, trong đó vợ ông là một. Với mỗi người ông có kỷ niệm riêng, nhất là với cô nàng chung đụng lần đầu, hồi ông mới mười sáu tuổi, mà phụ vương ông đã ban cho, nói rằng: “để con giữ được là một người đàn ông tư cách, không chung đụng với gái thanh lâu.” Ông biết bà vợ hiện nay hồi ông mười tám tuổi, và kỷ niệm về bà sâu đậm nhất, vì hai người có con với nhau. Ông rất muốn nói chuyện với vị tu-sĩ về bà vợ, chẳng phải muốn hỏi han ý kiến, mà chỉ
muốn nói chuyện chơi, thăm dò bản chất một người đàn bà quá khép kín, lúc hiến mình cũng không đến nỗi gượng ép tới độ lãnh đạm, cũng không tỏ ra lạnh lùng đến độ xa lánh. Nhưng một tu-sĩ biết được gì về đàn bà? Và một người đàn ông tư cách làm sao có thể kể chuyện vợ mình với một tu-sĩ? Nhưng không nói ra thì ấm ức, đành nói quanh co vậy.
Ông hoàng đột ngột lên tiếng. - “Tôi ghen với các nhà tu hành như cha.”
Cha Francis Paul đáp: - “Thật ư? Về mặt nào vậy, thưa Ông Lớn?”
- Đúng rồi, cha tài năng lắm chứ. Tôi suy nghĩ hoài mà không biết làm sao để sống… thoải mái. Tất nhiên người Ấn chúng tôi cũng có những vị tu hành , những ông thánh… đủ cả, nhưng tôi vẫn không hiểu nổi vì sao… chẳng hạn như cha, một người đàn ông còn trẻ và cường tráng, lại có thể sống, không đam mê… tôi muốn nói là mê đàn bà. Tôi chỉ tò mò vậy thôi… xin lỗi nhé.
Cha Francis Paul đáp: - “Chẳng phải chúng tôi không đam mê đâu.”
Ông tu-sĩ lại thưởng thức chút rượu, cảm thấy vị ngọt trên đầu lưỡi.
- Vậy thì… những người như cha ra sao?
- Tôi thì nói được về bản thân tôi thôi. Tôi làm gì ư? Cầu nguyện! Và nếu thấy chưa đủ thì tôi ra khỏi nhà mà tìm tới chốn làng mạc, lao đầu vào công việc. Ông Lớn nên biết rằng tôi đang dự tính lập một trường học, và một bệnh viện trong gian khu tôi. Nhờ chủ trương khuyến khích cải cách mà chính quyền đã giúp đỡ tôi rất nhiều.
- Vậy cha không có cuộc sống riêng tư hay sao?
- Với ý nghĩa ông định nói tới thì quả thật là không có.
- Có bao giờ cha mơ tưởng chuyện đó không?
- Tôi không cho phép mình mơ ước hạnh phúc trần thế. Nhưng ông, chắc chắn ông có hạnh phúc chứ nhỉ, Ông Lớn? Ông có gia đình, địa vị, có niềm phấn khởi được thấy mọi nơi ở Ấn Độ đều đổi mới, có kế hoạch riêng của mình…
Giọng cha trầm hẳn xuống, không thể nói tiếp: - “Và có người vợ đẹp.”
Ông Jagat đột ngột đứng dậy: - “Đúng, cha nói đúng. Tôi có đủ thứ hạnh phúc. Thôi, Cha tha lỗi nhé… “
Cha Francis Paul cũng đứng lên: - “Xin đừng bận tâm đến tôi. Tôi rất quyến luyến nơi đây, và rất thích được ở gần bên Ông Lớn. Người Bhil của tôi cũng rất tử tế với tôi, nhưng…”
Ông Jagat cười ròn, vẻ chân thật: - “Vì họ chỉ là người Bhil thôi! Cứ tới thường xuyên, Cha ạ. Chúng tôi rất hoan nghênh Cha!”
Ông tiễn vị tu-sĩ tới cửa, nhờ người gác đêm đưa tiếp, và trở về phòng riêng. Tại đây, ông ngả mình trên thanh cửa sổ mở toang, nhìn thấy phòng bà Moti còn ánh đèn, nghĩ rằng bà đang đọc sách. Bà vẫn thường xuyên đọc sách rất khuya. Tại sao bà không ngủ được, trong khi bà chẳng có điều gì lo nghĩ? Chắc chắn bà sống rất yên ổn. Trăng chiếu trên mặt hồ, hắt một luồng ánh sáng lên tào lâu đài đá hoa. Có
lẽ là điềm đây, một điềm tốt là khác. Tâm trí lại ông rối bời, ông rời phòng ngủ, sang phòng tiếp khách riêng của ông. Trên mặt bàn rộng băng đá hoa màu hồng dùng làm bàn giấy, một ngọn đèn vẫn thắp sáng. Giấy tờ đặt bừa bộn: kế hoạch, họa đồ, ước tính, dự chỉ, đủ cả. Ông cởi bớt chiếc áo khoác bằng nỉ trắng, chỉ còn mặc chiếc áo sơ-mi ngắn tay, và ông ngồi xuống. Gió đem đã lặng, không khí nóng hầm hập, ẩm thấp vì hơi nước bốc lên từ mặt hồ đã chịu ánh nắng mặt trời suốt ngày. Chừng nào dẫn điện tới khách sạn, ông sẽ gắn điện cả nơi ông đang trú ngụ, là khu nhà mới xây bên cạnh tòa lâu đài. Tạm thời, đành xài quạt tay vậy. Ông vỗ tay ra hiệu, và người gia nhân luôn luôn trực ngoài cửa liền ra mắt, đưa tay lên mặt để chào.
Ông Jagat nói cụt ngủn: - “Quạt!”
Người gia nhân quay đầu từ trái sang phải, tỏ ý tuân lời, biến di, và lát sau quạt cổ xưa trên đầu ông Jagat bắt đầu lay động, xua đuổi không khí nóng bức. Ông xem xét giấy tờ, chợt cau mày. Cái ông tu-sĩ này luôn miệng nhắc tới người Bhil, cứ như thể chính ông, vị tiểu vương, chẳng hề nghĩ tới họ? Từ ngày không còn là vua chúa, thì để cho chính quyền lo cho người Bhil đã sao! Và chính quyền đã làm được nhiều việc đấy chứ? Như phần lớn những người cùng thế hệ, ông rất trung thành với nhà nước, cũng như xưa kia đã từng trung thành với người Anh vậy. Lúc ra đi, người Anh đã để lại một tổ chức chính quyền vững mạnh, biết tôn trọng nhân quyền. Họ cũng để lại ngôn ngữ Anh, phương tiện truyền thông giữa những sắc dân Ấn Độ có nhiều tiếng nói khác nhau. Trong nước ông có sự xung đột lớn giữa phe cấp tiến và phe bảo thủ. Phe bảo thủ muốn gạt bỏ tiếng Anh, chỉ coi là một ngoại ngữ thôi, nhưng phe cấp tiến, mà ông tiểu vương là một trong các lãnh tụ, cho rằng người Ấn đã may mắn có tiếng Anh là ngôn ngữ chung, chẳng những cho những người thuộc hai nửa bán cầu mà còn cho những nhóm dân khác nhau tại Ấn Độ. Trong nước ông có chừng mười hai hay mười bốn ngôn ngữ chính, và không ai có thể quyết định chọn ngôn ngữ nào làm tiếng nói chung cho cả nước. Ngay như Tổng Thống, mỗi lần muốn ngỏ lời trước Quốc hội cũng phải xài tiếng Anh, và chính Thủ tướng, lúc bị chất vấn ở lưỡng viện Quốc hội tại Delhi, cũng phải trả lời bằng tiếng Anh. Sắc dân Hindu đòi hỏi rằng tiếng Hindu phải là quốc ngữ, nhưng các người Telugu, Gujarati và bao sắc dân khác đâu có hiểu nổi thứ tiếng đó? Dù rằng Ấn Độ là trung tâm văn hóa Á-Châu thật đấy, nhưng nay nó đã nằm trong trào lưu hiện đại, và được vậy chính là nhờ người Anh Quốc. Cứ xét xứ Trung Hoa rộng mênh mông thì hiểu, ở đó, mọi tổ chức chính quyền đều bị hủy diệt, để lại một khoảng trống ở mọi địa hạt. Lại nhìn xứ Tây Tạng mà xem! Dân tị nạn Tây Tạng vẫn đang ào ào chảy xuống núi Himalaya, băng qua những dải đất băng tuyết. Đến đây, ông Jagat cương quyết ngừng suy nghĩ. Nhìn lại cảnh đất nước, ông không thể bắt chước người Trung Hoa và Tây Tạng. Ông phải giải quyết vấn đề ngay trước mặt ông. Ông có một tòa lâu đài đá hoa cân phải biến thành khách sạn tiên tiến, để con cháu ông khỏi đói khát, ăn xin.
*
Osgood nói: - “Đề điều hành khách sạn, điều quan trọng nhất là thức ăn. Cần có món ăn thật ngon, ít còn hơn bày ra nhiều món kém phẩm chất. Nên nhớ rằng khách là người Hoa Kỳ, họ trông mong món ăn quen miệng.”
Jagat đáp: - “Thì người Ấn cũng trông mong món ăn quen thuộc vậy.”
- Tất nhiên. Nhưng chớ nhiều gia vị cay xè, cháy lưỡi người Mỹ. Tối hôm trước, tôi ăn phải một món, có tên là món Chili, mới đầu cứ tưởng là món ăn mát, mà rồi cay thấy ông bà ông vải. Từ lúc đó trở đi, tôi không thể nuốt nổi món gì khác, chỉ uống nước đá cục thôi. Ông phải để ý mặt đó, tránh cho khách hàng của ông đừng mắc phải. Còn điều này nữa ông cũng nên để tâm: đó là chiêu đãi từng người khách. Vậy mới khôn khéo. Chẳng hạn như ta phải để ý tới nhà cầu cho sạch, phải bày hoa, đặt đĩa trái cây ở mỗi phòng! Khách về rồi sẽ truyền đạt với bạn bè, khen khách sạn của ông dễ chịu vô cùng. Tất nhiên cũng có những người khách khó tính khó nết, không sao chiều nổi. Vậy ta ghi tên họ vào cuốn sổ, lần sau họ có tới, thì nói là hết phòng rồi. Ông tổ chức sân đánh golf nữa chứ? Phải có đấy!
Ông Jagat nhướng lông mi: - “Xây cất ngay giữa hồ ư?”
- Xây ở một chỗ nào đó trên bờ cũng được. Nhớ rằng dân áp-phe người Mỹ ưa đánh golf lắm. - Họ chơi ở nhà thì phải rồi, tới đây còn chơi làm chi.
- Họ muốn ở khách sản cũng được chơi. Tại những khách sạn sang trọng, người thư ký luôn luôn hỏi coi khách có muốn chơi golf không; nếu có, anh ta trao liền cho khách tấm danh thiếp của câu-lạc-bộ quần-vợt và gọi dây nói cho nhân viên câu-lạc-bộ, và người này sẽ gọi lại cho khách đề nghị phục vụ khách, giới thiệu một cầu thủ golf chuyên nghiệp. Làm vậy ngươi ta mới trở lại khách sạn của mình chứ. Tất nhiên còn phải có khiêu vũ. Có thể thiết lập tại sân châu cũ được đấy. Ông chỉ việc cất chiếc ngai vàng đi chỗ khác, và mở rộng bệ thêm làm chỗ cho dàn nhạc. Cũng có thể lập một rạp chiếu bóng tại phòng nghị sự cũ của quốc vương. - Ông ta cau mày, bấm môi dưới giữa ngón cái và ngón trỏ. - Không hiểu ông sẽ xử trí ra sao với những khách sạn khiêu vũ không mang giầy. Tại những khách sạn sang trọng ở Mỹ, khách không được phép bở giầy giữa vòng khiêu vũ. Ở đây tôi thấy mấy cô gái Ấn quăng dép bừa bãi bất cứ lúc nào, chẳng ra làm sao.
Ông Jagat cười: - “Tới việc, ta sẽ tính sau.”
Osgood toét miệng: - “Được, chắc chừng ông vậy thôi! Nào, ta bàn về khăn trải giường. Mỗi giường phải có đầy đủ mền gối, và có ba khăn trải giường: một trải trên giường, một đưa giặt ủi, và một cất trong ngăn tủ. Xem nào! Cứ cho là có bốn trăm người khách, vị chi là…” Ông ta suy ngẫm một lát, mới nói tiếp - “Tôi sẽ liên lạc với các nhà cung cấp chuyên môn về vải vóc, đồ sứ, và đồ dùng bằng bạc. Tốt nhất là ta viết thư cho các tòa đại sứ ở New Delhi, nhờ họ giới thiệu cho các mặt hàng tại các nước họ, như tôi đã làm khi mở khách sạn Ashoka.”
Ông Jagat nhắc nhở: - “Chính quyền đòi hỏi chúng ta dùng đồ Ấn- Độ, càng nhiều càng tốt.”
Osgood đồng ý: “Ồ, tất nhiên. Nhưng những chuyện đó tính sau. Trước nhất phải kiếm một kiến trúc-sư tài giỏi để sửa sang lại phòng ốc. Sau đó cần những đồ trang trí nội thất. Đề tôi kiếm cho ông. Nên nhờ những nhà trang trí người Mỹ thì hay hơn.”
- Tôi muốn trang trí theo kiểu Ấn Độ.
- Cũng được, nhưng giường, ghế thế nào? Chẳng ai chịu ngủ trên sàn hoặc trên phản gỗ của Ấn đâu. Điều tối quan trọng là phải hỏi han nhiều ngươi và có những người hiểu biết làm cố vấn cho mình mới mong kiếm dược những khách trọ đáng giá ở đây. Ích gì kiếm mấy ông khách cà chớn, tiền bạc chẳng có, mấy tay du khách xài một đô la mỗi ngày. Xin nhắc ông rằng đây là đất của vua chúa, khách sạn này là tòa lâu đài xưa kia chỉ có những bậc vương hầu trú ngụ thôi.”
Ông ta đột ngột ngừng lời, và ông Jagat ngạc nhiên theo dõi ánh mắt, thì thấy cô Veera đang đứng ở cửa, khoác chiếc áo dài lụa màu hồng, mái tóc đen và dài, tết lại, thả sau lưng. Ông Jagat hơi khó chịu, nói cụt ngủn: - “Con gái tôi đó!” Và: - “Veera, đây là ông Osgood.”
Veera bước vào, duyên dáng ngồi xuống ghế nệm:
- Thưa ba, con nhận được là thư của em Jai.
Cô khẽ liếc nhìn Osgood, qua hàng mi đen và dài.
Ông Jagatt nhướng lông mi: “Hả? Ba đang bận công việc sao con lại quấy rầy vì vì một lá thư của em con?”
- Nhưng nó yêu cầu con thưa với ba rằng nó bỏ học, ba à.
- Bỏ học.
- Thưa vâng. Nó tình nguyện phục vụ trong quân ngũ.
- Quân ngũ…
- Thưa vâng. Vì đài phát thanh loan báo rằng Trung Quốc đã tập trung quân đội dọc biên giới, và thanh niên Ấn Độ rủ nhau bỏ học rất đông. Jai nói rằng truyền thống của dân mình là chiến đấu, và nếu như ông nội còn sống, người cũng đồng ý cho nó ra chiến trường.
Ông Jagat thì thầm: - “Ồ, nhảm nhí!”
Cặp mắt lớn đen láy của Veera rực sáng: - “Con tưởng Jai hoàn toàn đúng chứ, Ba! Nếu Jai không đi, con cũng giận anh ấy cho xem!”
Cô ngước mắt nhìn Osgood như thách thức, muốn hỏi: “Ông thông cảm chứ?”
Ông ta đáp lại bằng cách đỏ mặt, trái tim mềm nhũn. Ông quay lại Jagat:
- Xin thưa thật rằng tôi khâm phục quí công tư, ngài ạ.
Ông Jagat chẳng yên dạ: “Vô lý! Người Trung Quốc chẳng tập trung quân đâu. Đó chỉ là trò khiêu khích thôi. Chuyện xảy ra từ năm 1954, thủ tướng Ấn chỉ vào bản đồ, tố cáo Trung Quốc đã vi phạm đường biên giới, họ hứa điều chỉnh lại, nhưng vẫn chưa thi hành. Tuy nhiên, chúng ta có ký với họ Hiệp ước Hòa Bình Sống Chung Năm Điểm. Họ không thể phủ nhận được.”
Osgood tuyên bố: - “Theo tôi, họ có thể làm bất cứ việc gì.”
Ông ta không thể rời mắt khỏi cô gái xinh đẹp ngồi chiếc ghế gần cửa ra vào.
Veera nhấn mạnh: - “Thưa ba, chẳng phải chỉ là tin đồn huyền đâu. Người Trung Quốc đã thật sự vượt qua biên giới ở phía Đông tỉnh Longju, đã xâm nhập lãnh thổ chúng ta tới nửa dặm, tại làng Roi. Tệ hại hơn nữa, quân đội của họ đã tiến vào Ladakh, và vùng Chip-Chap. Em Jai có gọi đây nói báo cho con biết.”
Ông Jagat vẫn không tin: “Nhảm, nhảm!”
Cô Veera đứng dậy. Thật duyên dáng, cô kéo vạt áo sau chùm lên đầu, đứng yên, như nàng trinh nữ tuyệt đẹp, và cô cất giọng thật thanh nhã: - “Xin ba đừng giận. Những thanh niên ưu của chúng ta đã tình nguyên gia nhập quân đội. Ta nên hãnh diện.”
Ông Jagat không biết tới tinh thần quốc gia đó: - “Nó nói nó về nhà trước đã chứ?” - Thưa có. Ngày mai em sẽ về.
- Con đã nói với Má chưa?
- Có, con thưa rồi. Má đã nhập thiền, mong đừng ai quấy rầy. Con rút lui được chứ, thưa Ba?
- Được, đi đi. Quả thật con đã làm mất thời giờ của Ba. Để ý coi chúng dọn dẹp phòng của Jai được đàng hoàng nhé.
- Thưa vâng.
Cô để mắt nhìn lặng lẽ người Hoa Kỳ một lát, rồi mỉm cười bỏ đi.
Yên lặng một lúc. Ông Jagat cúi đầu trên xấp giấy tờ, trầm ngâm suy nghĩ. Rồi ông hắn giọng: - “Ông Osgood, mong ông hiểu cho, chúng ta phải tiết kiệm tối đa. Tôi muốn mọi việc được thực hiện hoàn hảo. có hiệu quả, nhưng không muốn lãng phí. Tôi đang đầu tư vốn mà.”
Không thấy trả lời, ông lo lắng nhìn lên, và thấy vẻ mặt ngơ ngác của ông Osgood.
- Chỉ tại tôi chưa từng thấy cô gái nào xinh đẹp đến thế! Mong ngài đừng bận tâm những lời đường đột của tôi! Quả thật tôi chưa từng thấy… đúng vậy, nàng…mong ngài thông cảm…
Ông Jagat nói giọng lạnh tanh: - “Cháu nó còn nhỏ nhít mà, chỉ là một cô bé trường nội trú, học hành còn dở dang.”
Osgood hỏi: - “Ngài tính giáo dục cho cô ấy như thế nào? Cô chẳng cần học hành. Cô có đủ mọi thứ rồi.”
Ông Jagat đáp cộc cằn: - “Cháu đã đính hôn rồi.”
Ông bực bội, đứng dậy: - “Xin ông Osgood tha lỗi, tôi rối trí vì tin tức thằng con trai, phải trở về nhà, tới phòng của má nó. Bà ấy đang chán nản, chẳng nhập thiền được đâu. Tôi phải phôn cho con trai tôi, cấm nó…Hẹn ngày khác nhé, ông Osgood. Ông có thể theo tôi trở lại thành phố được không?”
- Tôi phải ở lại đây, xếp đặt mọi chuyện cho xong xuôi.
- Tốt lắm. Tôi sẽ gởi chiếc thuyền tới cho ông sử dụng.
Ông gật đầu chào rồi rời phòng. Lát sau, ông đáp thuyền chạy nhanh trên mặt nước. *
Jai nói: - “Chào ba.”
Anh đã tỉnh dậy rất sớm, nhưng không nói, vì quá nửa đêm hôm qua anh mới về tới nhà. Anh mới mười tám tuổi mà coi như đã hai mươi lăm, râu cạo nhẵn nhụi nhưng sắc đen dưới da còn phơn phớt, lông mày rậm rịt che lấp cặp mắt, chân tóc đen mềm mại uốn lượn theo vành tai.
Ông Jagat nói: - “Vào đây.”
Ông đang ngồi phía sau bàn giấy, của ông nội ông ngày xưa, chế theo kiểu bàn Anh Quốc, nhưng bằng gỗ hồng Ấn Độ.
Jai ngồi xuống chiếc ghế lưng thẳng đặt gần cửa. Anh mặc âu phục, nhưng không thắt cà-vạt, mà quần chiếc khăn quàng cổ, hắt ra sau lưng. Ông Jagat nhìn con trai, rồi ngó qua chỗ khác. Ông không muốn tỏ ra mềm yếu đối với cậu con bường bỉnh, tiếp tục xem xét giấy tờ đặt trước mặt, dùng cây viết cán vàng ghi vải chữ trên các hình vẽ. Ông lên tiếng, không nhìn lên:
- Nền sản xuất kỹ nghệ của chúng ta phát triển, rất đáng khích lệ, đủ mọi ngành: thủy tinh, xi-măng, muối, vải vóc, dụng cụ điện…thứ gì cũng tốt hơn năm ngoái. Tất nhiên chúng ta thiếu vốn đầu tư. Chắc ba sẽ phải tìm cách vay mượn đầu đó, phải xoay sở, nếu được chính quyền đồng ý thì hay quá. Cảm ơn Trời, kênh đào nổi tiếng với sông Hằng đã xong xuôi, nhưng ta phải giữ cho mực nước tưới ruộng được điều hòa, đặc biệt là đối với con kênh Rajasthan. Trong khi đó thì con, con trai của ba, lại muốn xông ra tiền tuyến.
Jai nói: - “Thưa ba, con không thể bỏ đất nước, trốn sang Anh Quốc hoặc Hoa Kỳ, trong lúc người Trung Quốc khởi chiến ở biên giới.”
- Ba sẽ kiếm một trăm người, gởi tới đó, thế chỗ cho con.
Người con phản đối: - “Không ai thay thế cho con được!”
Ông Jagat đặt bút xuống: - “Con muốn khiến ba tan nát cõi lòng chăng?”
- Thưa không. Trái lại, ba khiến trái tim con tan vỡ thì có.
- Làm sao ba có thể làm nổi? Tim con cứng như đá hoa.
- Đó là trái tìm của người Rajput. Nếu có phải đá hoa, thì cũng là đá lấy ra từ núi non của chúng ta. Con không quên được tổ tiên. Chúng ta lãnh đạo đất nước Ấn, chẳng phải vậy sao, thưa ba? Nếu chúng ta không lãnh đạo cuộc kháng chiến, thì ai sẽ chiến đấu?
Ông Jagat không đáp, và Jai hăng hái nói tiếp: - “Con tự xấu hổ đã không ở trong nhóm những bạn đầu tiên trong trường tình nguyện đầu quân. Chúng trông đợi ở con điều đó. Con là người Rajput mà. Con sẽ qua một khoa huấn luyện sĩ quan, sẽ làm gương cho chúng noi theo, lẽ nào lại theo kẻ khác.”
Ông Jagat thở dài: - “Con giống hệt ông nội của ba, mất hồi con chưa ra đời. Ba còn nhớ rõ lắm. Hồi đó ba bằng tuổi con, và năm đó là năm 1930, ông cố của con đã mất, sau khi phản đối ầm ĩ cả đất Ấn nữa, cương quyết từ chối không chịu đi theo Ngài Đại-vương để tới tiếp kiến Ông Hoàng! Chính quyền Anh cũng chẳng biết giải quyết ra sao. Chỉ còn Ông Hoàng Anh Quốc là giải quyết được thôi. Ông ta đồng ý tiếp cụ tổ cua chúng ta trên soái-hạm, coi như trên đất đai của Anh Quốc. Vừa tiếp kiến xong là cụ tổ rời tầu tức thời. Ba đã kể con nghe chuyện đó bao giờ chưa nhỉ?”
- Thưa có.
- Ồ, ba kể rồi ư?
Jai mỉm cười: - “Chuyện nay giúp con quyết định, Ba ạ.”
Ông Jagat quay mặt, tránh nụ cười dễ thương đó: - “Chẳng cần thiết phải đánh nhau với người Trung Quốc! Chúng ta sẽ thương thuyết, như đã từng làm từ năm 1954, khi phát hiện có sự xâm lấn biên giới. Dầu sao chúng ta cũng chẳng phải như người Tây phương mà thích thú lao vào những cuộc chiến tranh như thế. Truyền thống của chúng ta khác hẳn.”
Jai hỏi: - “Vâng. Nhưng ngươi Trung Quốc đã nói gì? Họ bảo rằng bản đồ hiện thời là do phe quốc gia vẽ ra, và họ chưa có thời giờ xem lại. Chúng láo khoét! Chúng thiếu gì thời giờ? Thưa ba, cũng trong tháng bẩy năm đó, chúng đã lên tiếng phản đổi quân đội ta đóng ở làng Barahoti, vùng Uttar Pradesh. Vùng đất đó nằm ở phía Nam đèo Niti, từ trước đến giờ vẫn là lãnh thổ của chúng ta. Vậy mà, một năm sau, bất chấp những lời biện bác của chính phủ ta, người Trung Quốc đã xua quan xâm chiếm.”
Ông Jagat nói giọng càu nhàu: - “Con rành lịch sử đất nước đấy!”
Jai trả lời liền: - “Con phải biết lịch sử dân tộc chứ. Nhưng con cũng nhớ rằng đã từng nghe câu chuyện ba nói với Thủ tường ở New Delhi, và ba có dẫn con đi theo. Con cũng nhớ rằng hai năm sau thủ tướng Trung Quốc tuyên bố chính phủ của ông ta công nhận giới tuyến cũ do tướng Mc Mahon vạch ra ở Miến Điện. Nhưng ba năm sau, sau từng ấy năm thương thuyết - hai chính phủ bàn đi, nói lại mãi - cũng cái chính phủ Trung Quốc đó lại cho rằng đường biên giới chẳng bao giờ ổn định, rằng giới tuyến Mc Mahon không thể chấp nhận được, bản đồ chẳng cần phải xem xét lại. Với hạng người như thế, chỉ có tẩn cho chúng một trận chứ còn biết làm gì bây giờ? Họ đòi hỏi năm chục ngàn dặm vuông trên lãnh thổ của chúng ta đấy! Chúng ta có thể chịu đựng mãi được không? Một số chiến sĩ biên phòng của chúng ta đã hy sinh. Hiện thời, người Trung Quốc đã thiết lập xong đường xa lộ nối liền Tây-Tạng và Tân-Cương, chạy ngang qua vùng Aksai Chin, thuộc miền Đông Bắc Ladakh, lãnh thổ chúng ta. Những cuộc tranh luận hai năm qua đi đến đâu? Bằng chứng chúng ta đưa ra cho người Trung Quốc nhiều gấp ba lần của họ, mà họ có thèm để ý? Nói thật với ba, chúng là bọn láo khoét, tâm địa chúng chỉ là muốn vùng đất của ta thôi. Đây là lúc lật ngửa con bài rồi, và con muốn được tham gia việc nước. Quân đội của chúng ta đã có mặt ở Chip-Chap, miền Ladakh.”
Ông Jagat nói: - “Phân lạc đà dính trên giày của con kìa.”
Nãy giờ nghe con nói, ông cúi nhìn xuống và chợt nhận ra vết bẩn ở đôi giày kiểu Anh Quốc tuyệt đẹp của con. Jai vội cúi xuống nhìn cho đích xác, kêu lên: - “Gì vậy? Trời ơi, tình trạng phố xá của chúng ta thế đấy, Ba ạ! Quả thật ba phải làm một điều gì chứ. Con mới bước ra cổng tòa lâu đài có mấy chục bước đấy thôi. Con muốn ngừng lại bên hồ để xem chiếc thuyền gắn động cơ của con có đấy hay không. Ngoài ba ra, không nên để cho ai khác được sử dụng. Làm sao bây giờ?”
Ông Jagat nhấn chuông trên bàn giấy.Tức thì một người hầu bước vào, cung kính chào. Jai đưa chân phải ra:
- Cởi dùm tôi chiếc giầy, và lau sạch đi nhé.
- Thưa công-tử, vâng.
Người kia ngồi xuống, khẽ khàng tháo giầy, rồi đi ra.
Jai than vãn: - “Có lẽ con nên liệng bỏ đôi giầy. Lạc đà thật là vật dơ bẩn.”
Ông Jagat cười: - “Con sẽ làm gì ở ngoài chiến trường, hả cậu thanh niên khó tính, khó nết? Trong lúc đợi chiếc giầy, ba kể cho con nghe một câu chuyện khác trong gia đình, nếu như con chưa được nghe má con kể lại. Một nhà quí tộc ở Sadhari tới đây làm chỉ hủy đội vệ-sĩ cho vị tiểu vương, là ông nội của ba, được ông yêu thương gả con gái cho. Cưới xong, cô dâu theo chồng về quê, có vẻ lên mặt lắm. Người chồng đợi xem cô nàng tỏ ra vợ hiền, biết tuân phục chồng, hay cậy thế là công chúa. Một tối nọ có hai người với nhau ở bãi đất trống, anh mới bảo cô gắp cho anh một cục than hồng trong bếp lò, để anh đốt ống điếu. Nàng liền lớn tiếng tuyên bố không đời nào chịu làm công việc của người hầu gái. Người chồng đòi hỏi lần nữa, nàng đứng bật dậy, săng sái chạy ra xe, ra lệnh cho gia nhân đưa nàng về nhà. Tới nơi, nàng kể chuyện cho mẹ nghe, và bà vương-hậu tức giận lắm, tới gặp chồng, xin hủy hôn thú. Vị tiểu vương không nói gì, cho mời con rể trở lại, bắt đi qua một hành lang hẹp chỉ có một người đi lọt, và sai người dấu dép của anh kia lại một nơi ngài đã chỉ trước. Lúc gặp mặt, ngài bảo anh kia: - “Đi dép vào
chứ!” Tất nhiên, anh kia không thể tìm thấy dép. Vị tiểu vương bèn đứng dậy tìm, và tự tay lau chùi, đưa cho con rể. Anh kinh hãi và bối rối quá chừng, luôn miệng xin lỗi. Vị tiểu vương vẫn bình thản, bảo rằng: - “Ở đây không có chúa và tôi. Anh là con rể ta, nên ta phải giữ lễ, như kinh sách đã dạy” Nàng công chúa núp sau cửa sổ đa theo dõi từ đầu đến cuối, vội tỏ ý bái phục cha, xin được theo chồng trở lại nhà, làm nhiệm vụ của người vợ.”
Jai lắng nghe hết câu chuyện, khẽ mỉm cười: - “Mẹ cũng đã kể con nghe chuyện này rồi.” - Vậy thì con đã tỏ ra lịch sự không ngắt lời ba.
Jai nói khe khẽ: - “Ngày mai, con ra mặt trận.”
- Rất tốt con ạ. Bây giờ vào thăm má con đi.
*
Bà Moti đang ngồi ngoài bãi đất trống, bên dưới một cây cổ thụ của ông tổ cho trồng cách đây ba thế kỷ. Thân cây lớn lắm, không ai đủ gan đo đạc đường kính dài bao nhiêu, và lại đoán phòng chừng lại thích thú hơn làm tìm hiểu chính xác. Hôm nay, bà dậy sớm hơn thường nhật, vì biết Jai đã về tới lâu đài, sẽ tới thăm bà rất sớm. Hôm nay bà dùng bữa điểm tâm bất thường, theo kiểu người Âu, gồm có cà-phê, bánh mì nướng và đồ hợp. Món ăn này bà học được của một bảo mẫu người Pháp, hồi bà còn là một cô bé, bây giờ bà chỉ thêm vài trái cây đúng mùa thôi. Bà ngồi lặng yên, không để ý tới sự hiện diện của mấy người hầu. Bà trầm ngâm nghĩ tới mối liên hệ của một người đàn bà đối với con trai đã trưởng thành. Chắc chắn Jai đã là người lớn. Mấy bà hầu cận đã đem tin tức chính xác về chàng trai kể lại cho bà vương hậu nghe, và trong lúc bà tin rằng con bà chưa có ràng buộc tình cảm, thì thật ra hồi ở Bombay chàng đã gặp một nữ nghệ sĩ xinh đẹp, tại một bữa tiệc tổ chức ở một khách sạn ngoài bãi biển. Juhu mà giới sân khấu thường lai vãng, và đã có chuyện xảy ra. Chuyện xảy ra giữa đàn ông và đàn bà thì ai chẳng biết? Tình cảm của bà đối với con không phải là ghen tức, mà là an phận. Bà đã hết lòng yêu thương, nuôi nấng con từ một cậu bé nên một người đàn ông tốt. Nhưng thế nào là một người đàn ông tốt, thì cũng khó mà xác định. Đối với đàn bà, điều đó giản dị hơn, chỉ giới hạn ở chỗ giữ trinh tiết trước hôn nhân, và sau đó trung thành với chồng. Thật tình bà thương hại cho đàn ông, dễ bị bản năng thể chất chi phối. Tội nghiệp Jai, chàng trai đàng hoàng và bị động biến mất! Chàng còn thương yêu mẹ chút nào không? Khổ thân cho người con trai, khó lòng bảy tỏ tình cảm mình đối với mẹ. Hai má con không còn gần gũi tình cảm từ nhiều năm rồi, nhất là từ hồi chàng đi học, lại đặc biệt ở một trường của người Anh, theo đúng các tập quán và truyền thống của giới thượng lưu Anh Quốc.
Bà thấy Jai đứng ở bậu cửa, ngạc nhiên nhận thấy chàng đã lớn tướng và đẹp trai quá. Râu mới lún phún, những đã ra vẻ người lớn lắm rồi. Tuy nhiên, khuôn mặt vẫn còn bầu bĩnh, trẻ thơ. Chàng có cặp mắt đẹp, mở to, sắc sảo, lông mày dày và rậm.
Bà lên tiếng: - “Vào đây, con.”
Chàng bước vào, chắp tay chào: - “Chào má. Má mạnh giỏi chứ? Trông má cũng mạnh khỏe đấy, mong rằng con không nhìn lầm.”
- “Má rất mạnh khỏe. Cảm ơn con.”
Bà ra hiệu cho người hầu đặt cà-phê trước mặt con, nhưng chàng từ chối:
- Cảm ơn, con không uống đâu. Một tách trà được rồi.
Người hầu rút lui, và Jai tiếp tục nhìn mẹ kỹ càng. Khuôn mặt hiền dịu của bà có một vẻ sinh động, không được tự nhiên lắm, nhưng đã hình thành. Chưa bao giờ chàng coi mẹ là một người đàn bà, hay đúng ra một con người tách biệt với chàng. Bây giờ chàng hơi xúc động nhận ra bà có cuộc sống riêng biệt, không dính líu đến cuộc sống của chàng. Lẽ công bằng buộc chàng nhận định rằng đó là quyền của bà, nhất là từ ngày chàng không có yêu cầu đặc biệt gì ở bà nữa, chỉ cần bà có mặt ở tòa lâu đài mỗi khi chàng về thăm nhà. Riêng bà, mỗi năm bà về thăm ngôi nhà thời con gái ở Jaipur, ở chơi một tháng, và những lúc đó chàng rất nhớ mẹ.
Đột nhiên bà vương hậu nói: “Jai, con không tính lấy vợ hay sao?”
- Không, Má ạ.
- Tại sao?
- Con muốn ra trận, lòng thanh thản nhẹ nhõm.
- Lỡ con tử trận, chẳng hóa ra cha mẹ vô-hậu sao?
- Chúng ta không còn cai trị ở Ấn nữa, thì chuyền đó quan trọng gì đâu?
- Đối với ba má là quan trọng chứ.
Chàng không trả lời. Bà mẹ cầm con dao bạc lột vỏ một trái vả.
Cuối cùng Jai mới lên tiếng: - “Quả thật lúc này con không muốn để tâm trí bận rộn.”
Bà mẹ nói: - “Con lạnh lùng quá vậy! Đang tuổi yêu đương mà con chỉ nghĩ đến chiến tranh và chém giết! Nếu con trở về, kể với mẹ rằng con đã giết người, cho dù là một người Trung Quốc, mẹ cũng không đụng tới bàn tay con đâu.”
- Rất tiếc, Má ạ.
Bà mẹ đặt trái vả xuống, nói ngay: - “Má ghét lối ăn nói đó.”
Nhưng lát sau, bà lại nhặt trái vả lên, ăn vài lát mỏng. Jai cảm nhận được má chàng đang suy tính, tìm lợi biện bác.
- “Chính phủ đã lên tiếng, cho rằng họ vẫn mong mỏi thương thuyết với người Trung Quốc bằng mọi giá, tại sao con lại tự gánh lấy trách nhiệm, để bỏ học, khoác áo quân nhân?”
Jai không thể ngồi yên, chàng đứng bật dậy, đi tới đi lui trước mạt bà mẹ, lờ đi không thèm nghe những lời mẹ nói:
- Má à, má chỉ đọc những gì má thích báo chí nói tới. Má không hiểu hay sao, mới cách đây bốn ngày thôi, chính xác là ngày 8 tháng Chín 1962, một ngày đáng ghi nhớ vào lịch sử - con phải nhấn mạnh để má nhớ - ngày đó, người Trung Quốc đã xâm nhập vào Ladakh…
Giọng bà nóng nẩy, và ánh mắt bà sáng rực: - “Tất nhiên má biết chứ. Má biết ở đó có đụng độ lớn, nhưng chính phủ cũng kêu gọi hai bên rút lui có trật tự, để tránh hậu quả trầm trọng về sau.”
Jai ngắt lời: - “Nhưng phía Trung Quốc đã bác bỏ hoàn toàn! Nên bây giờ chính phủ ta tuyên bố không còn gì để thương thuyết, cho đến khi lấy lại được những phần đất do người Trung Quốc xâm chiếm trái phép. Má thấy không, người Trung Quốc chẳng hề có ý nhượng bộ đâu!”
Bà ngừng ăn miếng vả: - “Tại sao?”
Jai thấy được mẹ thất vọng vô cùng. Cặp mắt bà đờ đẫn, những ngón tay bà run run, lúc bà nhúng tay vào chiếc chậu thủy tinh, và sau đó lau khô bằng khăn bông. Bà lên tiếng: - “Con rất giống ba, thích gì làm nấy. Má thấy má không có lý do gì để can thiệp vào việc làm của cha lẫn con.”
Bà ước mong con trai đi ngay, để bà trở về phòng riêng, viết cho cha Francis Paul một lá thư thật dài. Bà muốn hỏi ông về nhiệm vụ của một người đàn bà, phải làm gì với một thanh niên, đã từng là con trai bà, nay muốn đòi tự do bay nhẩy. Bà đã làm hết khả năng của mình chưa? Hồi cậu ta còn bé, bà đã cố gắng dậy cậu phải dịu dàng thương yêu mọi sinh vật. Ngay như loài chim, ta cũng không nên phá tổ. Phải để chúng được xây tổ, đẻ trứng, ấp nở ra con. Nhưng nhiều khi cũng lắm nỗi bất tiện, chẳng hạn mấy con én nọ cứ nhất định chọn chỗ chùm đèn pha-lê rất lớn để làm tổ, đã gây dơ bẩn lên bàn ăn.
Jai dùng tay bóc vỏ trái vả, đút vào miệng chợt lên tiếng hỏi:
- Má mỉm cười chuyện gì vậy, hả Má?
- Má nghĩ tới mấy con én làm tổ ở chùm đèn, giữa phòng ăn. Con còn nhớ không?
Jai cười ròn: - “Làm sao quên được? Bất tiện quá, mà không ai biết cách giải quyết nào. Mãi sau Rodriquez mới nghĩ ra một chước là đem treo một tấm mùng bên dưới chùm đèn. Má có chịu cho ai đụng tới tổ chim đâu? Nhưng con xin thưa thật với má, mưu kế của ông Rodriquez hay lắm đó. Mùa xuân năm sau, ông coi lại hiểu rằng chim én thấy hơi người, đa tự động bỏ đi, không trở lại nữa.”
- Thì ra là vậy ư? Má cứ thắc mắc hoài, không hiểu tại sao chúng không trở lại, áy náy quá chừng.
Miệng lúng búng trái vả, Jai nói: - “Má thấy đó, những bà phu-nhân như má có quyền tin theo một số nguyên-tắc êm đẹp, nhưng sự thật là những người khác, như chúng con, phải nghĩ ra cách hành động, sao cho niêm tin của các bà không bị sứt mẻ. Phải có người lén lút ngăn cản chim đừng làm tổ, có người giết muỗi, rắn, bắn chết cọp, và chiến đầu chống người Trung Quốc, nếu chúng ta muốn sống. Ông Rodriguez có thể lén lút đuổi chim én, nhưng con không thể âm thầm ra trận, Má ạ. Vì thế, xin má chúc lành cho con, và để con đi. Chẳng biết con có về gặp lại má không đây.”
Bà vương hậu đứng dậy, nghẹn ngào không nên lời, xòe tay vuốt má con trai, kéo đầu chàng lại gần, hôn lên trán, để chúc lành.
Con trai đi rồi, bà cảm thấy niềm cô đơn triền miên và trống trải. Điểm xấu chăng? Jai chết cũng nên. Không, chuyện vô lý! Chàng khỏe mạnh lắm mà. Vả lại chàng còn quá nhiều tuần huấn luyện, đã nguy hiểm ngay sao được? Có thể lúc đó, chiến tranh sẽ qua rồi. Nhưng niềm cô đơn mới mẻ này khác xa với cảm tưởng lẻ loi thường nhật của bà. Dường như đây là báo hiệu nỗi đau khổ bà sẽ gặp phải, như thể bao tâm trí của bà đã biến mất cả. Trên đời, bà sẽ không còn người nào để chuyện trò. Chung quanh có nhiều người đấy, mà bà vẫn cô đơn. Những ông thần Ấn Độ có rất nhiều, mà không có vị thần nào gần gũi với bà. Bà trông mong được như người Thiên Chúa giáo có một Thượng đế duy nhất thôi. Trước khi gặp cha Francis Paul, bà ít suy nghĩ về bản thân. Thật ra, hai người cũng không bàn bạc nhiều về vấn đề đó, cho đến lúc bà viết cho ông những lá thư rất dài và rất mơ hồ, rồi tới lần ông lại thăm, họ thảo luận với nhau về những câu hỏi nêu ra trong thư. Thật tình bà cũng ít khi viết cho ông, vì bản tính hay thẹn, và ưa rút vào yên lặng. Đôi khi ông còn khiến bà mếch lòng, không thể nào chấp nhận nổi. Chẳng hạn như
những khi vị tu-sĩ ca tụng Jagat trước mặt bà. Không bao giờ ông cho phép bà trách móc ông Jagat, ngay cả việc ông này ưa săn cọp.
Cha Francis Paul thường nói: - “Ông Lớn phải có quyết định riêng chứ.”
Bà không chịu nổi vị tu-sĩ cứ luôn miệng “Ông Lớn”, khi nói về ông Jagat. Nhưng trước niềm cô đơn lớn lao hiện nay, bà phải viết cho cha Francis Paul một lá thư. Như thường lệ, không cần những câu khách sáo, bà viết: “Tôi phải làm gì đây? Con trai tôi sắp ra trận rồi - đứa con trai độc nhất của tôi đó!”
*
Từ biệt má, Jai lại thẳng chỗ Veera, thấy chị ở phòng riêng, đang ăn bữa điểm tâm béo bổ theo kiểu người Anh, có thịt mỡ và trứng chiên. Chị mặc áo dài kiểu Anh Quốc, băng lụa Ấn Độ mầu xanh lá cây. Chàng công nhận chị mình rất đẹp, và có đôi chút ngạc nhiên thấy trước kia chưa bao giờ chàng nghĩ tới điều đó. Chàng ngồi xuống chiếc ghế mềm. Đột nhiên, chàng hỏi: - “Chị có hạnh phúc với Raj không?”
Phết mứt cam lên miếng bánh mì nướng, chị hỏi lại: - “Tại sao em hỏi vậy?”
Trông chị có vẻ đang yêu.
- Làm sao em biết một cô gái đang yêu?” Và: - “Chị mong ước lại có mứt của Anh Quốc mà ăn, như ngày xưa.”
- Chị thiếu tinh thần yêu nước đấy! Đúng vào lúc em quyết định nhập ngũ.
- Em đã nói với má chưa?
- Mới tức thì! Má có vẻ không vui.
- Tất nhiên. Em là con cưng của Má mà.
- Nhảm. Má chẳng có con cưng. Nếu có, thì người ấy là chị.
- Em mới nói nhảm đó. Con gái không thể nào là con cưng của mẹ. Địa vị đó luôn luôn dành cho con trai.Vì lý do gì em quyết định nhập ngũ?
- Em không biết. À, có chứ. Việc em làm là điều dứt khoát phải làm. Thật tình, ngày nay cũng khó tìm được điều gì dứt khoát như thế. Chuyện gì cũng có xung đột giữa mới và cũ, chẳng hạn như việc ba định biến tòa lâu đài giữa hồ thành khách sạn! Chị đã thấy mặt người Hoa Kỳ chưa?
Cô chị liếc em, thoáng vui mừng và e thẹn: - “Rồi.”
- Vậy thì sao?
- Không sao cả.
- Theo em, ông ta thấy điều gì cũng tỏ ý ưa thích, phải không?
- Có thể nói vậy.
- Còn Raj?
- Raj nghĩ sao, thì có liên quan gì đến chị? Vả lại, anh ấy cũng không biết đâu.
- Có điều gì cần biết tới không?
- Tất nhiên là không. Làm sao có được?
- Vậy, chúng ta đang nói chuyện gì nhỉ?
- Chẳng có chuyện gì cả.
- Không chuyện gì dứt khoát. Đúng như lời em vừa nói. Ở Ấn Độ chẳng có điều gì dứt khoát.
Jai bực bội đứng dậy, tiến lại cửa sổ. Cảnh vật này chàng đã được ngắm suốt đời, nhưng hôm nay chàng ngạc nhiên thấy nó đẹp quá, như chưa từng được thấy. Hồ nước, nằm giữa núi non hoang vắng, trông xanh ngắt dưới bầu trời xanh, và giữa hồ, tòa lâu đài đá hoa sáng lấp lánh, trắng hơn tuyết trên dãy Himalaya. Chàng nhớ hồi bé cũng tại lâu đài này, ông nội chàng đã qua mùa hè, có đám cung nữ vây quanh, trong lúc bà vợ, bà vương hậu già ở lại tòa lâu đài trên cạn. Bà luôn tuyên bố rằng như vậy là được yên thân hơn. Lạ lùng thay tính kiên nhẫn của các bà phu-nhân của nước cổ Ấn Độ! Ngày nay, người đàn bà nào có thể chấp nhận trò nhảm nhí của đàn ông bằng thái độ dễ thương đến thế? Một số phụ nữ Ấn tiên tiến còn giữ được tính thụ động lạ lùng, và điều đó chỉ có thể giải thích được là họ thừa hưởng của tiên nhân thôi. Chắc chắn Veera không bao giờ chịu như vậy đâu! Jai lại nghĩ tới những cô gái khác mà chàng được quen biết, đến Sehra mà chàng gặp ở Bambay. Chàng thường đến đó, ít nhất cũng trong những ngày nghỉ. Chàng tới trú ngụ tại khách sạn lớn, mới xây cất trên bãi biển Juhu. Một buổi chủ nhật, chàng đã gặp nàng tại đó, cùng với gia đình nàng. Má nàng là một bà mập mạp, bản tính tốt, và cha nàng là một công chức, giữ chức trưởng phòng. Nàng có mấy người em trai và gái. Nhiều gia đình thường có thói quen rời thành phố vào ngày chủ nhật, tới chơi bãi biển Juhu, và những người giàu có thường vào khách sạn để ăn trưa. Hôm đó, chàng tắm biển, trên đường về phòng riêng thì gặp Sehra, một cô gái xinh đẹp, dong dỏng cao, mặc chiếc áo dài màu hồng. Lúc trở xuống, chàng mặc bộ quần áo nỉ mới toanh, ngồi xuống một bàn bên ngoài, gần bàn của gia đình Sehra. Chàng ngỏ lời xin lỗi, rồi tự giới thiệu. Sau đó, chàng đã tới nhà nàng hai lần, một ngôi nhà lớn có vườn trông ra biển.
Veera hỏi em trai: - “Em đang yêu hả?”
Jai quay lại, ngạc nhiên: - “Em cũng đang tự hỏi có phải như vậy không?”
- Cô ấy là ai vậy?
- Sehra Lali.
- Chị chưa biết cô ấy.
- Em cũng mới quen cô ta. Tuy nhiên, nàng có vẻ xinh đẹp đấy.
- Kiểu Ấn Độ?
- Đúng. Nhưng là Ấn Độ mới.
- Người Delhi hay Bombay?
- Bombay.
- Em có muốn cưới cô ấy không?
- Không. Nhưng nếu em không nhập ngũ, thì cũng có thể. Em muốn nói rằng dẫu sao cũng còn quá sớm. Vả lại, trong tình thế bình thường, em cũng mắc chuyện xuất ngoại.
- Ba má muốn em cưới vợ trước khi đi xa, phải vậy không?
- Điều đó chỉ quan trọng khi còn vấn đề truyền ngôi.
- À, chúng ta không còn là con vua cháu chúa nữa…quả thật vậy! Ông có tiếc điều đó không, Ông Hoàng Jai?
- Có, ở một mặt nào đó. Không… vì em cảm thấy được tự do.
- Em có tới gặp Sehra, trước khi ra đi không?
- Em cho rằng nên.
Chàng ngồi xuống, và hai chị em nhìn nhau một lúc, chân thành cảm thông. Rồi chàng lên tiếng: - “Mong chị nói cho em biết chị có thật tình yêu thương Raj hay không?”
Cô chị nóng nảy hất bàn tay trái, và một viên kim cương rất lớn lấp lánh ở ngón tay thứ ba: - “Vấn đề là chị có thể thương yêu anh ấy khi gặp dịp hay không.”
- Chị không thấy chán ghét anh ấy hay sao?
- Tại sao có thể như vậy?
- Tại mớ tóc rũ xuống mang tai đó!
Chị cười xòa: - “Ồ, chuyện đó thì…”
- Không sao ư?
- Jai, tại sao em cứ thúc ép chị? Thứ ngó mớ tóc rũ của em coi!
- Chị biết đó: em rất yêu quí chị.
- Phải bày tỏ tình cảm ư? Xưa nay, chị em mình có vậy đâu?
- Không phải vậy. Hôm nay, em cảm thấy xúc động, Em muốn bước chân ra đi với tâm trạng tốt đẹp đối với mọi người.
- Chị chẳng hiểu thế nào là tốt đẹp. Một giai đoạn cuộc đời chị vừa trôi qua, và đang bắt đầu một giai đoạn mới, vì đây là năm cuối cùng của chỉ ở trường học.
- Chừng nào chị tính thành hôn với anh Raj?
- Có lẽ còn sớm…trừ phi chị quyết định không lấy chồng.
- Có thể vậy được sao?
- Thiết tưởng chẳng có chuyện gì đâu. Khó kiếm được một người hơn anh ấy… ít ra cũng đúng, theo sự xét đoán của chị.
- Chị đã loại bỏ, không đòi hỏi tình yêu trong hôn nhân?
- Ồ, sau này chị sẽ yêu anh ấy chứ. Chị nghĩ rằng một khi đã lấy anh ấy, thì mọi việc sẽ êm xuôi, chẳng còn vấn đề gì nữa.
- Hiện thời có vấn đề hay sao?
- Làm sao chị biết được?
Thấy câu chuyện lằng nhằng, tẻ nhạt, Jai quyết định cắt đứt:
- Thôi, em đi nhé, Veera. Nhớ viết thư cho em.
Chàng đứng dậy, lại gần bên chị, và Veera đưa cả hai tay ra nắm chặt tay em.
*
Mặt trời lặn trên Ấn-Độ-dương. Sóng vỗ nhè nhẹ vào bờ, và Jai ra khỏi lớp sóng biển, để lại gần Sehra Lali. Nàng đang ngồi với ba má tại một bàn nhỏ kê ngoài bãi đất trống của khách sạn, dưới bóng cây chà là.
Nàng nói, vẻ trách móc Jai: - “Anh luôn đợi tới phút chót mới chịu lên bờ.”
Một người hầu đợi sẵn trao cho chàng chiếc áo dài, và chàng nhận lấy, ngồi xuống bên nàng. Cha Sehra lên tiếng:
- Xin lỗi nhé. Vợ chồng tôi muốn dạo chơi một quãng ngắn.
Ông hất đầu cho vợ, và bà vợ đi theo. Bà là người trầm lặng, mặc chiếc áo dài trắng, mái tóc xám buộc túm phía sau, trên khuôn mặt xanh xao.
Sehra cười ròn: - “Tội nghiệp các bậc cha mẹ thời nay! Các cụ cứ lo lắng làm sao tỏ ra tân tiến… đồng thời lại chán nản khi phải cho bọn trẻ chúng mình tự do.. tất nhiên là hạn hẹp thôi! Anh Jai nè, thử nói em nghe coi tại sao anh ưa chọc cho em khiếp sợ, những lúc anh liều lĩnh bơi lội?”
Dùng chiếc khăn mặt của người hầu đưa cho, chàng lau mặt mũi ướt nhèm và mặn chát: - “Em khiếp sợ ư?”
- Tất nhiên. Anh cũng biết vùng biển này nguy hiểm lắm. Thủy tiểu rút có thể lôi ta ra xa, không ai
kịp bơi vào bờ. Thủy triều ở đây ác độc nhất thế giới đó. Thế mà anh cứ ưa bơi ra qua xá. Em đã thấy nước quấn chân anh, lúc anh lội vào bờ đấy.
- Để em hồi hộp một chút cho vui!
- Em không chịu nổi.
Bỗng chàng có ý nghĩ táo bạo, Đây là lúc để chàng ngỏ lời với nàng, để ràng buộc nàng với chàng, để có người cho chàng quay về, và nếu như chàng không về, cũng có người thương tiếc chàng. Hôm nay Sehra đẹp vô cùng, đẹp hơn ngày thường rất nhiều. Gió ẩm ướt mặn mặn thổi phất phơ mái tóc đen, dính trên khuôn mặt nàng. Nếu biết chắc mình sẽ chết ngoài mặt trận chàng sẽ ngỏ lời ngay. Chàng đưa tay nắm tay nàng. Nhưng đã chắc gì chàng sẽ chết? Và nếu như chàng còn sống, trở về, thì chưa chắc nàng đã là người mà chàng muốn về quay về. Tuy nhiên, chỉ còn vài giờ nữa chàng sẽ ra đi, thời gian gấp gáp quá, chàng không gặp nàng sao được? Chàng có thể ở riêng với nàng một thời gian ngắn, có điều gì cần nói phải thổ-lộ vào lúc này đây. Chàng chống tay, ngả người xuống chiếc bàn nhỏ, mặt sát mặt với nàng.
- Sehra à, anh yêu em rất nhiều.
Chàng ngừng lại, và nàng chờ đợi, cặp mắt đen mở lớn.
- Anh cảm thấy rất cần thiết phải ngỏ lời yêu em, vì anh sắp đi xa, chẳng biết có trở lại không. Bắt em phải chờ đợi quả là điều không đẹp. Nếu anh về, không hiểu anh sẽ là con người thế nào, có thể là một người khác hẳn hiện nay cũng nên. Cũng rất có thể là em chẳng ưu anh đâu.
Nàng nói thật khẽ: - “Em luôn luôn ưa thích anh… mặc mọi chuyện. Thật tính, lúc nào em cũng… yêu anh.”
Chàng không biết nói sao. Làm sao một người đàn ông có thể từ chối một món quà tặng như thế? Nàng đã dâng chàng một trái tim, một trái tim đàn bà. Những ngày gần đây, chàng thường đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Tất nhiên, đụng độ với người Trung Quốc ở vùng giới tuyến núi non cũng là một ý nghĩa. Những có thể ý nghĩa đó nằm ngay trong tình thông cảm tốt đẹp giữa đàn ông và đàn bà. Nếu chàng trở lại với Sehra, chắc chắn nàng sẽ đem lại hạnh phúc cho chàng. Hai người sẽ có con, những đứa con rất dễ thương, có cặp mắt to đen láy, và những lọn tóc đen mượt. Nếu chàng bình yên trở về, thì…. Đột nhiên chàng hiểu ra rằng đó chẳng phải cuộc đời chàng mong ước. Chàng đạt nhẹ tay chàng lên nàng:
- Cảm ơn em. Không bao giờ anh quên được những lời em vừa nói.
Nàng chưa kịp đáp thì ba má nàng đã quay lại, chàng vội rút tay ra.
Người cha lên tiếng: - “Nào, Sehra. Gió đêm đã từ biển thổi tới, má con sẽ bị cảm lạnh đấy.”
Hai ông bà bỏ đi, Sehra quay lại nhìn chàng đắm đuối. Ánh sáng hoàng hôn mau chóng tắt, và chàng cảm thấy gió lạnh thấm vào da thịt , một phần còn len lỏi tới trái tim, nhưng chàng không thể chấp nhận. Sáng sớm mai, chàng phải ra đi, vào trại nhập ngũ. Chàng sẽ theo khóa huấn luận cơ bản chừng sáu tuần lễ, sau đó sẽ được đưa tới vùng có chiến sự Ladakh.
Sáu tuần lễ!
*
Ông Jagat nói: - “Tôi chẳng hài lòng.”
Jai ra mặt trận được mấy tuần rồi. Lúa thu đã vàng rợp cánh đồng, gió lạnh lẽo thổi trên sa mạc. Không thể tưởng tượng nổi lúc này Jai đang chiến đầu dưới trời lạnh buốt ở Hymalaya! Ông tiểu vương liệng xuống bàn cuốn sách dầy cộm mà ông Quản lý kinh tế và Thống kê mới đưa cho ông mấy hôm trước.
Ông Giám đốc nói: - “Thưa ngài, năm nay hạn hán.”
Ông Jagat cầm cuốn sách lên, đọc lớn:
- “Lúa Rabi thu hoạch giảm mười phần trăm so với năm ngoái. Lúa Kharif giảm năm phần trăm. Rau đậu cũng không hơn năm rồi. Nói chung mọi thu hoạch về lương thực đều xuống. Hạt có dầu giảm sút. Cây có sợi giảm sút.”
Ông quản lý vội nói: - “Nhưng tính chung toàn bộ thì có tăng.”
Ông ta là một người thấp lùn, mập mạp, mặc chiếc quần lá tạo bằng vải bông trắng, và áo sơ-mi. Khuôn mặt tròn trịa của ông đẫm mồ hôi vì lo lắng.
Ông chẳng quan tâm đến chuyện ngày nay ông tiểu vương bị tước đoạt quyền hành. Nhưng truyền thống trọng vua chúa vẫn bắt buộc ông phải đem báo cáo tới hỏi ý kiến ông hoàng không còn cai trị dân này nữa. Ông Jagat cũng chẳng mấy bất mãn trước thái độ đó. Ông ngỏ ý thản nhiên:
- Chuyện rắc rối chỉ vì những kế hoạch dẫn nước tưới ruộng bị bỏ rơi. Thử xem xét! Chỉ có kênh đào dẫn tới sông Hằng là hoàn tất. Năm nay chẳng thấy nói gì tới các kênh Mahi và Rajasthan.
- Xin Ông Lớn để ý tới kênh Chambal, và cả kênh Bhakra Nagal nữa chứ!
Ông Jagat đóng cuốn sách đặt trên bàn giầy: - “Đừng gọi tôi là Ông Lớn! À, tha lỗi nhé, ông bạn cố trí! Sự thật tôi quá lo lắng cho thằng con trai. Cháu đang ở biên giới… và các trận đánh đã bùng nổ ngay tại biên giới Miến Điện. Bắc Kinh đã hạ lệnh cho quân đội vượt giới tuyến Mc Mahon. Sáng nay đài phát thanh vừa loan tin Lumpur đã thất thủ. Nơi đó nằm ở phía Nam giới tuyến Mc Mahon mười dặm đấy! Con trai tôi than phiền rằng vũ khí được cung cấp đã lỗi thời rồi, và lương thực thiếu hụt, mọi trang bị đều không đầy đủ, binh sĩ phải tự túc chiến đầu. Về mọi mặt, chúng ta đều không chuẩn bị gì ráo… mà cần phải chuẩn bị nhất chính là các thanh niên như con trai tôi, tinh hoa của đất nước, lại chịu hy sinh.”
Ông tiểu vương ngừng lại. Ông quản lý thở dài, dùng vạt áo lau mắt:
- Cả hai đứa con trai tôi nữa, Ông Lớn ạ.
Ông Jagat tự động đưa bàn tay phải ra, vỗ vỗ vào tay phải ông kia, nắm chặt và lay lay một lúc, mới buông ra. Ông cảm thấy bàn tay đó mềm mại và ẩm ướt, và ông hơi e thẹn vì đã tỏ ra quá bồng bột. Phụ thân ông không đời nào biết tới tình cảm đó. Có lẽ ông quản lý đỏ mặt nhưng ông tiểu vương không thể thấy rõ, chỉ thấy mạch máu nhỏ chạy trên má ông kia thôi. Ông Jagat nói giọng cộc cằn:
- Được rồi. Ráng để ý việc đưa nước vô ruộng nhé.
Ông quản lý chắp tay trước trán để chào, thu nhặt giấy tờ, bỏ đi.
Ông Jagat ngồi sau bàn giấy bằng gỗ thông, nhìn những thành tích đạt được trong săn bắn, nhớ tới những đem đẹp đã qua tại khu săn bắn trên núi Aravalli, ngắm trăng lên, và lắng nghe tiếng động của ác thú, nhìn cặp mắt vàng của con mồi lấp lánh qua bụi cây. Phải thận trọng và khéo léo làm sao bắn trúng ngay tim con thú, không để hư hại bộ da tuyệt đẹp. Ông là người đam mê, từng yêu nhiều người đàn bà, nhưng đam mê đó cũng chưa sánh nổi với thú vui lúc viên đạn trúng mục tiêu, nhìn con thú đẹp đẽ ngã ra chết trên mặt đất, xác con ấm. Ông đã huấn luyện cho Jai trở thành một tay súng tài giỏi kiểu Anh Quốc, nhưng dựa trên kinh nghiệm truyền thống Rajasthan rất tốt. Nhưng bây giờ, mọi việc đều hư hỏng vì bàn tay phá hoại của người Trung Quốc quá khích.
Chính là tại Ladakh đó. Ông dã nhiều lần tới Ladakh, hồi đầu đi theo thân phụ, sau đi một mình để thanh tra những đồn điền trồng trà ở sườn núi thấp trên núi Hymalaya. Đất đai nay là của tiền nhân để lại, mua từ thời ông cố của tiểu vương, và đem lại lợi tức rất lớn. Bây giờ có thể bị huy hoại hết, chẳng còn những vườn trà tuyệt đẹp trồng trên sườn núi. Than ôi, tiền đồn thuộc thung lũng Galwan ở Ladakh đã lọt vào tay người Trung Quốc ngày 25 tháng Mười, sau một trận đánh ác liệt. Đài phát thanh loan báo quân đội Ấn đã rút khỏi Tawang, và kêu gọi thường dân di tản. Những con người đó thật dũng cảm, đàn ông cõng cha mẹ già, đàn bà bồng con nít, bỏ lại nhà cửa và sản nghiệp. Có lẽ con trai ông cũng đang có mặt trên con đường máu đó. Nơi đó là cửa ngõ Ấn Độ, mà người Trung Quốc dùng mọi phương tiện để chiếm cho bằng được.
- Ôi, Jai, con ơi, con ơi…
Tiếng rên rỉ từ trái tim ông Jagat phát ra. Ông không thể chịu đựng nổi nỗi đớn đau. Nhưng ông lại chẳng làm được điều gì, đành đợi tin tức chiến đầu thôi. Có lẽ phải nhiều ngày, nhiều tuần lễ, vì quân đội Ấn chiến đấu cũng dũng cảm và kiên cường lắm. Và tại sao ông lại ích kỷ chỉ nghĩ đến Jai, trong lúc trên toàn cõi Ấn Độ, biết bao bậc cha mẹ cũng chịu đựng nổi khắc khoải vì con trai? Ông Jagat rời khỏi chiếc ghế gỗ mum khảm bạc, tiến lại cửa sổ trông ra hồ, nhìn tòa lâu đài trắng lấp lánh bên làn nước xanh, một cảnh tượng tuyệt đẹp và yên bình. Ở những bậc thềm đá hoa dẫn xuống hồ nước, những người đàn bà đang tắm, mặc nguyên chiếc áo dài, hoặc đang giặt quần áo, tiếng chày đập vải vang lên xa xa. Đột nhiên, chiếc thuyền máy ra khỏi bến tàu, ngay bên dưới cửa sổ chỗ ông đang đứng, và ông thấy người Hoa Kỳ ôm một chồng hồ sơ dưới nách, ngồi gần buồng máy.
Ông Jagat quyết định theo dõi. Hai mươi hôm nay, ông không thăm viếng tòa lâu đài giữa hồ, cùng các nhân viên bận công việc thưởng lệ mùa thu: Tính toán thu hoạch mùa màng, và phần lúa được chia. Thật ra, từ ngày đất đai được phân phát cho dân, công việc này không còn khó nhọc như hồi còn thân phụ ông. Hồi đó, mỗi trung tâm gặt hái đều có đại diện của hoàng gia, đến chứng kiến, tính toán, và nhận phần lúa tô phải đóng cho nhà vua. Bây giờ, với tư cách là một Ông Hoàng, ông vẫn còn giữ được một phần đất, vẫn cần phải biết số lúa được chia, những số lúa tô đó đã giảm sút quá nhiều, nên công việc trông nom chẳng còn khó khăn bao nhiêu. Tính ông cũng dễ dãi, sẵn lòng công nhận việc bãi bỏ quyền hạn của vua chúa, và thu hẹp đất đai. Một quốc gia tân tiến không thể xây dựng trên nền tảng phong kiến. Nhưng dân chúng vẫn tiếp tục xem ông là vua, và các chức sắc trong làng, người của chính quyền chỉ định, mỗi khi gặp việc rắc rối, vẫn tìm đến ông để xin ý kiến. Quả thật những cổ tục của Ấn Độ chẳng thay đổi bao nhiêu.
Ông Jagat trầm ngâm suy nghĩ, nhận định rằng trong làng không có gì thay đổi, trong khi tại lâu đài của ông lại thay đổi rất nhiều. Ngay bản thân ông cũng có những thay đổi sâu đậm, dù ông không rõ mức độ đó như thế nào, và ông cảm thấy bực dọc. Ông vỗ tay, một người hầu xuất hiện, đợi sai bảo.
- Tôi muốn tới tòa lâu đài giữa hồ.
Lát sau, ông ở trên thuyền máy, rẽ nước tiến nhanh. Xa xa, ở cuối hồ, ông thấy những cái miệng đen ngòm của mấy con cá sấu há ra đớp thức ăn, mà một người đàn ông đang liệng xuống cho chúng. Ông nhớ lại mấy hôm trước có ra lệnh rõ ràng, bèn quay lại hỏi người thủy thủ đang đứng máy.
- Tôi đã bảo không được nuôi dưỡng mấy con cá sấu nữa cơ mà! Tôi muốn để chúng chết hết ráo.
Người kia đáp: - “Quả thật Ông Lớn đã truyền như vậy. Nhưng không được nuôi ăn, chúng vẫn sống. Chúng sẽ ăn thịt trẻ con. Thậm chí chúng có thể táp mấy người đàn bà đi tắm hoặc giặt quần áo tại bờ hồ. Xin Ông Lớn nhớ lại, hồi còn thân phụ ngài đã có một con cá sấu chết vì khô cạn, người ta mỏ bụng nó ra xem có gì quí giá chăng, thì thấy có nữ trang và vòng vàng.”
Ông Jagat tỏ vẻ nóng nảy: - “Phải dứt khoát với những con quái vật này, trước khi khai trương khách sạn đón khách. Chỉ cần một người Hoa Kỳ bị sấu táp thôi cũng đủ gây ầm-ĩ khắp thế giới, và chúng ta sạt nghiệp.”
Người kia nhỏ nhẹ đáp: - “Vâng, thưa Ông Lớn.”
Ông Jagat biết rằng người ta không cãi, nhưng cũng lờ tịt, chẳng làm gì đâu, chỉ có nước là đích thân ông xách súng bắn mấy con cá sấu thiêng mà thôi. Riêng ông, ông cũng sẽ chẳng làm gì cả. Ông biết rõ ông cũng không làm gì, trừ phi xẩy ra chuyện chẳng lành, buộc ông phải hành động. Hiện thời mấy con cá sấu vẫn cứ được nuôi dưỡng, ông biết rõ lắm, và cảm thấy chán nản. Giữa lúc mọi việc thay đổi, vẫn có những điều bất biến, không thể nào thay đổi được, nằm ngay tại bản thân ông cũng như trong dân tộc ông. Và ông lại thấy bực tức.
- Đã gom đủ củi đun để nấu rượu hoa hồng chưa?
Người thủy thủ đáp giọng bình thản thường lệ: - “Tôi sẽ để mắt tới việc đó, thưa Ông Lớn.”
Ông Jagat không nói gì, thoáng nhớ tới một điều. Ông đã để ý thấy cha Francis Paul, vị tu-sĩ người Anh, uống rượu hoa hồng với vẻ thích thú thật tình, bây giờ ông chợt nhớ rằng thứ rượu đó chứa một hàm lượng rất lớn về chất bổ dưỡng. Ông định lần sau sẽ nói cho ông tu-sĩ hay mối nguy đó. Một tu-sĩ giữ trai-giới cũng đã vất vả lắm rồi, sao còn đem thứ rượu quỉ quái đó gây khó khăn cho ông ta? Vả lại, ông mời tu-sĩ tới là để an-ủi tinh thần cho bà vợ, lẽ nào lại có thể cho ông ta uống thứ rượu cường dương? Ông hiểu rõ hiệu quả của thứ rượu này, xưa kia được cất để dành riêng cho vua chúa, nên bản thân ông cũng thận trọng, chỉ uống rất ít, không nỡ hành hạ vợ. Tốt nhất là đừng cho ông tu-sĩ uống thứ rượu này, hoặc ngầm ra lệnh pha loãng nó đi.
Ông chưa quyết định xong thì động cơ chuyển máy đã tắt, và người thủy thủ kéo chiếc thuyền lại gần thềm đá hoa toa lâu đài, và ông Jagat bước lên. Người canh gác tiến ra đón, và ông Jagat lên tiếng:
- Người Hoa Kỳ ở đâu?
- Ông ta ở bãi đất trống.
Ông Jagat bước vào tiền sảnh, leo lên những bậc thềm đá hoa, qua bãi đất trống. Bert Osgood đang làm việc, đứng trước một chiếc bàn rộng lớn kê giữa trời, mình trần tới thắt lưng, và mắt mang kiếng râm.
Ông ta cất cao giọng vui vẻ: - “Chào Ông Hoàng. Ngài tới thật đúng lúc. Tôi đang bầy biện đồ đạc sang trọng quanh vườn đây. Ngài muốn ngó một chút không?”
Ông Jagat yêu cầu: - “Đề nghị ông mặc áo sơ-mi vào. Nắng như vậy nguy hiểm lắm, chính tôi cũng không chịu nổi.”
Người Mỹ kéo dài giọng nói: - “Tôi quen rồi.”
Ông Jagat phản đối: - “Không nên.”
Nhưng Bert chẳng nghe lới. Ông ta đang bày giấy tờ bừa bãi: - “Đây là chi tiết đồ đạc trưng bày. Về màn treo, rèm cửa và thảm lót bàn ghế, tôi sử dụng toàn mặt hàng của Ấn. Chà, đẹp lắm! Suốt tuần qua, tôi lượn quanh các cửa hàng ở Bombay. Chằng cần tìm những vật liệu ở đâu khác, ngay trong những kho chứa hàng của ngài cũng có vô số! Tôi đã gởi thư cho một số tổ hợp ở Hữu Ước, xin hai nhà trang trí nội thất, những người đã quen làm việc với tôi. Họ sẽ trông nom mọi chi tiết. Ngài có biết tôi đã tìm ra thứ gì trong hầm chứa đồ đạc của tổ tiên ngài không? Tủ, bàn, giường… đủ các mặt hàng gỗ Âu châu. Phần lớn vẫn còn đóng trong thùng. Tổ tiên ngài phải biết rõ giá trị của món hàng chứ, tại sao họ không bao giờ sử dụng tới? Có đồ đạc nguyên bộ, đủ trang bị một phòng ngủ, nạm vàng, còn tốt nguyên, y như hồi chúng được chở bằng tầu tới đây, vài trăm năm về trước. Còn nguyên trong thùng, cho đến tận lúc tôi mò ra!”
Ông Jagat khẽ mỉm cười: - “Tôi cho rằng các cụ ưa thích nếp sống riêng của các cụ.” - Vậy còn đặt mua đủ thứ như thế làm gì?
- Thì cứ để đó, chừng nào thích thì mới đem ra xài. Và rồi chẳng còn ai quan tâm đến nữa. Cũng khó mà biết chắc sự thật ra sao.
- Tốt lắm, vậy là hên cho ông lắm đó, Ông Hoàng ạ. Đỡ được biết bao tiền bạc. Bây giờ, nói tới việc điều hành nhé. Tôi sẽ nêu một số ý kiến về các sở thích của người Hoa Kỳ đối với khách sạn. Tất nhiên chúng ta sẽ giữ lại mọi vẻ đẹp quyến rũ của xứ sở này, giữ lại bầu không khí Ấn Độ, nhưng ngoài ra, khách của chúng ta còn muốn…
Ông Jagat ngắt lời: - “Khách người Ấn Độ lại thích một điều gì mới mẻ. Xét cho cùng, chúng tôi đã sống trong bầu không khí Ấn Độ này cả mấy ngàn năm rồi.”
Bert vất cây bút chì xuống: - “Ông chẳng nhờ tôi chỉ dẫn ông cách xây dựng một khách sạn dành cho người Hoa Kỳ hay sao? Tôi có nằm mơ không đấy?”
Ông Jagat cười: - “Xin ông cứ dậy bảo.”
Bert cố tỏ vẻ nghiêm nghị. Nhưng khó mà không mỉm cười, đáp lại khuôn mặt dễ thương của người Ấn:
- Tôi bỏ qua, Ông Hoàng ạ. Nào ta bàn tiếp. Như tôi đã từng nói, tôi nhận thấy, ở các khách sạn mới của người Ấn, chẳng hạn ở Delhi và Bombay, các ông ít để ý tới tiểu tiết. Nhưng những điều nhỏ nhặt đó mới tỏ mối quan tâm của ta, chẳng hạn như việc mang điểm tâm lên tận phòng cho khách chẳng hạn. Như tôi đã nói, người Hoa Kỳ ghi nhớ những điều như vậy, và sẽ kể lại với bạn bè. Đặc biệt với người Hoa Kỳ, việc giữ gìn nghi lễ là tối quan trọng: vô phòng ăn phải mặc lễ phục, và ở sần nhảy không bao giờ tháo giầy.
Ông Jagat lắng nghe, cặp mắt đen long lanh: - “Ở Rajasthan có nhiều phong cảnh tuyệt đẹp. Miền đất này có nhiều di tích lịch sử… như đảo Chittor vậy.”
Bert nói: - “Ồ, tất nhiên. Ông cần phải cho dựng lại mấy cái tháp…đủ thứ. Nhưng chắc chắn người Hoa Kỳ cũng muốn có những thứ quen thuộc, mà ông cũng biết đó, chẳng hạn như khiêu vũ, đánh golf, chiếu phim, bơi lội và câu cá. Ông cũng có thể tổ chức hiệp hội ở đây.”
- Hiệp hội?
- Đúng. Hội Sư Tử hoặc Linh Dương, hoặc gì gì đó, ngay cả có thể đặt tên là… - Sao lại có thú vật ở đây?
Đông, Tây nhìn nhau, hoàn toàn bất cảm thông.
Mặt Bert trắng bệch: - “Ai nói tới thú vật bao giờ?”
- Thì ông vừa nói tới sư tử đó.
- Ối chao ôi! - Bert càu nhàu rồi cười sằng sặc: - “Đó là tên một hiệp hội tương trợ… Ở Hoa Kỳ, chúng tôi có vô số.”
Một người hầu có râu và quấn khăn trắng xuất hiện ra ở đầu cầu thang. Anh ta mang một chiếc khay bằng bạc, trên đó có một bao thư niêm phong.
Anh ta lên tiếng: - “Thưa Ông Lớn, có điện tín.”
Ông Jagat xé bao thư, bên trong có một mảnh giấy nhỏ, trên đó ghi vài hàng chữ bằng tiếng Anh: “Chết vì công vụ. Hy sinh anh dũng!”
Ông Jagat chỉ nắm được một điều: con trai ông đã chết. Ôn nói li nhí:
- Xin lỗi. Tôi có tin. Phải về với vợ ngay.
…
Bà Moti nói: - “Em đã biết trước là nó sẽ chết.”
Ông Jagat đáp: - “Làm sao biết trước được!”
Ông hổ thẹn đã tỏ ra nóng nảy với bà, nhất là trước mặt người hầu đang buộc hành lý cho ông. Ông đã đòi một chiếc trực thăng chở ông tới Ladakh, tiến sát thành phố biên giới Chushul, nơi quân đội Ấn vẫn đang dàn trận. Ông nói với người hầu: - “Tôi chỉ mang theo một va-li thôi.”
- Nhưng thưa Ông Lớn, trên Ladakh lạnh lắm.
- Tôi sẽ mặc đủ áo ấm.
Bà Moti nói: - “Nhưng trước khi tới Ladakh, anh sẽ bị nóng bức.”
Ông muốn bà kêu khóc, nhưng bà không khóc. Bà không nhỏ giọt nước mắt nào từ lúc ông tới báo tin, cách đây một giờ đồng hồ, trong khi nước mắt cứ lã chã rơi xuống má ông, bức điện tín để mở trong tay. Bà đã cầm lấy, đọc, và ngước nhìn ông. Trong lúc ông đăm đăm nhìn bà, mong mỏi bà cất tiếng thổn thức, thì bà ngó mung lung vào cõi xa xôi, đôi mắt dường như mở lớn hơn, tối sầm. Bà trả lại ông bức điện, vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng ông lên tiếng:
- Nào, giúp anh thu xếp hành lí chứ. Anh phải đi ngay.
Bà đi theo ông, nhưng không giúp một tay, cứ ngồi trong phòng, cặp mắt ráo hoành nhìn ông chỉ huy người hầu. Ông vặn ra-đi-ô để nghe tin tức. Giọng của Thủ tướng vang lên trong phòng, bằng Anh ngữ:
“Vào ngày định mạng này, chúng ta phải đụng độ với mối đe dọa lớn lao nhất kể từ lúc chúng ta giành được độc lập. Chúng ta hãy đồng lòng với nhau để đối phó hiểm họa này. Chúng ta có tất cả sức mạnh của một quốc gia thống nhất. Chúng ta hãy gạt bỏ mọi công việc, chuyên tâm vào nhiệm vụ chính yếu hiện nay là bảo vệ tự do toàn vẹn lãnh thổ, chống lại cuộc xâm lăng vào đất thiêng Ấn Độ. Hãy đương đầu với hiểm họa này bằng tất cả tấm lòng, bằng thái độ nghiêm chỉnh, và với niềm tin sắt đá vào chính phủ chúng ta.”
Giọng nói đẹp đẽ đó lạc hẳn đi, ngừng lại giây lát, và tiếp tục:
“Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào, không phân biệt tôn giáo và đảng phái, hãy đem hết một lòng trong cuộc chiến đấu lớn lao đặt ra cho chúng ta. Tôi đặt hết tin tưởng vào dân tộc, vào tương lai tổ quốc. Tương lai đạt ra cho chúng ta nhiều thư thách phải vượt qua.”
Ông Jagat mãi nghe không để ý đến bà Moti rời phòng lúc nào, và bây giờ bà trở lại, vạt áo dài phía trước bọc một vật gì khá nặng. Bà lại gần ông, nhìn thẳng vào mặt, và buông vạt áo. Vật nặng rớt xuống chân bà. Thì ra chiếc hộp bằng vàng, đựng tất cả những đồ nữ trang bằng vàng của bà: dây chuyền, bông tai, xuyến và nhẫn vàng, mà bà còn giữ từ ngày cưới. Tổng trưởng Tài-chánh đã yêu cầu phụ nữ hiến nữ trang bằng vàng để giúp chính phủ lo việc quốc phòng, nhưng bà Moti vẫn không giao nộp. Bà chẳng cần phải đáp ứng những lời yêu cầu đó, xem như không nghe biết, tự coi mình chẳng phải hạng thường dân. Đã hơn một lần, ông Jagat khuyên nhủ bà: - “Nhưng, Moti à, em là vương hậu, phải làm gương cho phụ nữ ở Rajasthan chứ.”
Bây giờ, nhìn những nữ trang lấp lánh vương vãi trên sàn đá hoa, ông Jagat tan vỡ tâm can. Ông quàng tay quanh người bà, kéo sát bên ngực, cảm thấy bên má của bà, ép sát trên ngực trần của ông, đẫm nước mắt. Và cúi xuống nhìn, ông thấy quả thật cuối cùng bà đã thổn thức, ráng đem nghị lực khùng khiếp để ngăn chặn, nhưng quả thực bà đã khóc.
Ông thúc giục thêm: - “Khóc đi, khóc nữa đi, em!”
Nghe ông nài nỉ, đột nhiên bà lại ngừng hẳn những tiếng thổn thức. Sát bên giường, người hầu quấn khăn đứng lặng quay lưng lại, để cho ông bà tự do thổ lộ tâm can. Cuối cùng, không thể chịu đựng được nữa anh ta cất tiếng nức nở, chạy vụt ra khỏi phòng.
Còn lại một mình với vợ, ông Jagat cảm thấy tầm hồn hai người hòa hợp làm một. Trong đau đớn, hai tâm hồn đó mới hợp nhất, và điều đó chẳng thể xảy ra trong đam mê và yêu đương. Người con trai duy nhất mà hai người đã chung sức tạo ra nay chẳng còn nữa. Vậy là nghĩa làm sao? Câu hỏi đó cứ vấn vương mãi trong tâm trí ông. Liệu rằng việc hợp nhất giữa hai tâm hồn trong đau khổ có tiếp tục tồn tại, sau khi hết nước mắt, hay nó cũng qua đi, như mọi chuyện khác, khiến hai người lại tách biệt mãi mãi chăng? Trong niềm khắc khoải, ông ép sát bà Moti bên mình ông, thì thầm:
- Khóc nữa đi, em yêu! Khóc nữa đi! Cho thanh thản tâm hồn em… và anh nữa. *
Chiếc trực thăng đáp xuống. Ông Jagat bước ra, đưa mắt nhìn vùng đất Ladakh hoang vu, rộng mênh mông, vây quanh hồ Spanggol. Xa xa, trên cao là những đỉnh núi Hymalaya sừng sững. Giữa trưa, ông có thể thấy từ những đỉnh núi đó, gió thổi lồng lộng, tuyết bay tơi tả, nhìn rõ từ chỗ cách xa nhiều dặm.
Một người lính gác, mặc quân phục rách tả tơi, lại gần ông, bồng súng chào. Người đó lên tiếng. - Thưa Ông Lớn, tôi đang đợt ngài.
Ông Jagat hỏi: - “Con trai tôi đâu?”
- Thưa Ông Lớn, thi hài công tử đã được thiêu, tro vãi xuống hồ, cùng với tro của các người khác.
Anh ta vừa nói vừa ra hiệu, bàn tay đen đưa lên cao, những ngón tay khẳng khiu vẫy vẫy như cánh chim bay.
Ông Jagat nhìn mặt hồ xanh biếc. Hồ này là một trong nhiều hồ ờ vùng Ladakh, cái lớn nhất có thể dài tới một trăm dặm. Tại sao hồ Spanggol lạ có thể là nơi yên nghỉ của Jai, sau khi xác được đốt ra tro? Ông cũng chẳng dám mong tìm được thi hài của con trai, vì chuyến đi lâu quá, nhưng hy vọng thì cứ hy vọng. Ông tiến lại bờ hồ, ở cách một quãng ngắn, vọc tay xuống nước, để yên một lúc, thấy nước hồ trong vắt và lạnh cóng. Mùa đông đang đến trên vùng cao nguyên này.
Ông đứng dậy, chùi tay vào áo, lên tiếng hỏi người lính:
- Anh mặc quân phục mỏng thế này, chẳng lạnh lắm sao?
Anh này là một người da đen miền Nam, và ông Jagat thấy lớp da anh ấy tím ngắt vì lạnh. - Thưa Ông Lớn, chúng tôi không được phát quần áo mùa đông.
Ông Jagat hỏi: - “Con trai tôi cũng chỉ có quần áo vải bông này hay sao?”
- “Chúng tôi được đối xử như nhau.” - Anh ngần ngừ, sau mới nói: - “Người Trung Quốc được mặt đồ kaki nhồi bông… rất ấm áp. Họ lại có vũ khí tốt, mới toanh, hiện đại, có cả súng tự động.”
Ông Jagat lại hỏi: - “Anh ngủ chỗ nào? Dẫn tôi lại đấy đi. Ở đây gió lộng, chúng ta không thể nói chuyện.”
Những dãy núi xa có tuyết phủ trắng toát, nhưng ở bình nguyên này chỉ có cát, vì gió thôi liên tục ngày đêm đã quét sạch hết tuyết.
Người lính nói: - “Ở đây, chúng tôi chỉ còn một dúm người. thật tình chúng tôi đã tháo chạy, trốn thoát về đây. Tất nhiên là chỉ sau khi chiến đấu trong tuyệt vọng, hầu như tất cả đồng đội đều bỏ xác. Chúng tôi không có vũ khí tốt, Ông Lớn ạ…Có mấy khẩu này đây thôi, cũ kĩ, thua súng người ta cả chục năm.”
Anh ta đưa súng cho ông Jagat xem, rồi đi trước dẫn đường, ngoái cổ lại để nói: - Người Trung Quốc có đầy đủ mọi thứ, Ông Lớn ạ…pháo binh, súng máy, đủ thứ.
Ông Jagat nói: - “Gió lớn quá, nói không ra tiếng. Đợi về đến chỗ trú đã!”
Chỗ trú chỉ là một miếu cổ nho nhỏ, cất trên núi, thuộc làng Chushul. Hai vị lạt-ma có tuổi, mặc áo vàng, đang thắp hương trước tượng Phật, một cặp đèn cầy mỡ bò cháy trên chân nến bằng thau. Họ quay lại, ngạc nhiên khi thấy ông Jagat. Người lính lên tiếng:
- Đây là Ông Lớn, tiểu vương Newar. Ngài tới tìm xác con trai.
Vị lạt-ma lớn tuổi lên tiếng: - “Mô Phật!”
Ông ta là người Tây Tạng, cao và gầy, da mặt sạm nắng gió.
Ông Jagat đáp lại: - “Mô Phật!”
Tay ông lạnh cóng, ông phải tiến lại bàn thờ, hơ tay trên ngọn lửa đèn cầy đang cháy. Vị lạt-ma nhỏ tuổi hơn nói: - “Mời Ông Lớn vào hậu điện. Ở đó ấm áp hơn.”
Ông ta nhỏ con, xanh xao, mặc áo mầu cam, đặc biệt có đôi tai lớn như tai Phật. Ông vừa nói vừa dẫn đường, và ông Jagat theo sau, phải khom lưng khi bước qua cánh cửa thấp. Ở hậu điện, một lò lửa đang cháy phừng phừng, và năm người Ấn Độ ngồi vây quanh, trong đó có ba người bị thương. Họ gắng đứng dậy, nhưng ông ra hiệu cho họ ngồi xuống sàn đất.
Vị lạt-ma lớn tuổi nói: - “Mời Ông Lớn ngồi trên nệm. Tôi mang trà nóng tới liền.”
Ông Jagat cảm thấy mệt mỏi rã rời, ngồi xuống đệm, hai chân bắt chéo. Người lính gác ngồi gần bên ông. Họ giữ yên lặng một lúc lâu, mấy người kia tỏ ý kính trọng, còn ông Jagat thì mệt mỏi và chán nản. Hai vị lạt-ma mang tới những chén trà có bỏ chút bơ, và ông Jagat uống chất nước nóng vào, cảm thấy hơi nóng chạy trong mạch máu, hồi phục sinh lực một phần nào. Ông đặt chén trên khay sơn đỏ, nhìn mặt những người xung quanh.
- Hãy kể tôi nghe, thật tình con trai tôi đã chết ra sao.
Họ đưa mắt nhìn nhau, người nọ đùn người kia. Cuối cùng một người lên tiếng. Đó là một thanh niên, người Ấn, chiếc chân bị thương được băng bó bằng vải, xé từ bộ quân phục màu xanh ô-liu của một quân nhân Ấn tử trận, vết băng bó bây giờ đẫm máu. Khuôn mặt đen của anh ta có vẻ ngơ-ngác.
- Thưa Ông Lớn, tôi chẳng biết kể từ lúc nào, và từ biến cố nào.
Ông Jagat bảo: - “Tùy ý anh thích bắt đầu từ chỗ nào cũng được.”
Tiếng ho rồ rồ từ ngực anh ta phát ra. Anh khạc ra đất, cào cát, phủ lên vết đờm đó. Và anh bắt đầu:
- Người Trung Quốc lập tâm chơi chúng ta vố này từ hai năm nay rồi. Lúc đầu, hai bên đối diện nhau tại những đồn bốt nhỏ, trên vùng đất rộng mênh mông. Đồn của người Ấn Độ luôn luôn nhỏ hơn, chứa chừng một trăm năm chục người thôi, trong khi đồn của người Trung Quốc rất rộng, chứa từ bốn, năm trăm người. Người Trung Quốc luôn luôn có kế hoạch đàng hoàng. Họ giữ kín lắm, tình báo của ta không thể mở được mật mã của họ. Số thông dịch viên của chúng ta rất ít, và chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả.
Chúng ta sống ngày nào hay ngày ấy, trong tình trạng chờ đợi. Lương thực thiếu, nước uống thiếu, quân nhu đạn dược lại không đầy đủ. Thứ gì cũng phải thả dù xuống, đôi khi lại cung cấp rất trễ hạn. Ông Lớn cũng biết đó, người Ấn chúng ta không ưa chiến tranh, trong khi người Trung Quốc chiến đấu cả năm ngàn năm rồi. Họ nghiên cứu mọi chiến thuật, và có cấp chỉ huy tài giỏi. Chiến thuật của họ như thế này…
Anh ta vẽ một vòng tròn trên mặt đất: - “Đây là đồn của chúng. Tôi muốn kể về đồn biên phòng đóng ở triền sông Galwan. Hai năm qua, chúng tôi đối diện với chúng như thế này… cho đến gần đây. Trong lúc chúng tôi ngồi chơi, thì chúng bí mật tung lực lượng hùng hậu bao vây. Khi chúng tôi phát hiện, phản kháng, chúng không trả lời. Chúng ở trên cao, bao vây, chờ cho chúng tôi chết đói. Rồi chúng hoa chân múa tay, đưa nắm đấm ra dọa thế này (Anh nắm tay, đưa cao khỏi đầu, và day day). Chúng tôi dùng loa phóng thanh, hô hào chúng tôi đầu hàng. Nhưng chúng tôi từ chối. Dù đói khát rã rời, quân ta cũng không đầu hàng. Cuối cùng, trực thăng tải lương thực, nước uống lại gần. Tiếp liệu được thả xuống… tuy chẳng đầy đủ nhưng cũng đỡ khổ.”
Ông Jagat ngắt lời: - “Người Trung Quốc để vậy hay sao?”
Ông hỏi vậy, nhưng trong lòng lại có câu hỏi riêng: Jai ra sao? Chàng trai con vua cháu chúa đó xưa nay chưa từng biết cực khổ là gì, chắc hẳn đã chết đói chết khát.
Người kia tỏ dấu công nhận: - “Chúng để yên cho chúng tôi được làm thế. Thật ra, chúng ta không hề biết ý đồ của chúng ra sao. Thấy chúng để yên, chúng ta lại cứ tưởng việc đó trong khuôn khổ chiến tranh lạnh, mọi việc vẫn xảy ra như cũ. Hẳn Ông Lớn còn nhớ, chúng ta thiết lập đồn này vào tháng bảy, với mục đích cắt đứt đường tiếp tế cho tiền đồn của Trung Quốc mới thiết lập tại đây, bên triền sông Galwan. Báo chí có đăng tin rõ ràng, quân ta giữ vững vị trí, mặc cho chúng hăm dọa, và khiêu khích. Thấy chúng lại gần đồn chừng mười lăm thước, chúng tôi mới lên tiếng báo cho biết sẽ nổ súng, nếu chúng lại gần hơn. Qua nhiên chúng ngừng lại đó, hai chính phủ gởi công hàm, và Trung Quốc rút lui. Một lần nữa, chúng ta vẫn tưởng việc đó chỉ nằm trong khuôn khổ chiến tranh lạnh. Và rồi lệnh ban xuống cho quân Ấn không được nổ súng trước. Lính tráng ở đồn ai cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tin rằng ngay tại đồn Chushul đây, các anh cũng phải cho họ chỉ chơi cái trò cũ là cùng thôi. Than ôi! Chẳng phải như cũ. Từ ngày bẩy đến ngày mười, tình thế đổi khác rồi. Vào ngày 20 tháng Mười ,chúng tung toàn bộ lực lượng tấn công. Chúng tôi chống cự, nhưng đồn bị quét sạch. Trong số những người giữ đồn, chỉ có tôi chạy thoát. Không, chẳng phải tôi đã chạy trốn… mà vì tôi trở bệnh thình lình, gục sau một tảng đá, ói mửa, và chúng đã không để ý đến tôi. Đêm xuống, tôi tìm đường qua đồi núi, tìm tới làng Chushul. Cũng phải mất mấy ngày.”
Người lính trẻ xen vô: - “Ở Chushul thì khác hẳn.”
Một người lính già quay nhìn lại: - “Chẳng khác tí nào! Đúng như anh kia vừa nói, người Trung Quốc đã xếp đặt mọi việc, có kể hoạch đâu vào đó. Như mọi người đều biết, Chushul được chia ra làm ba phần: phi trường, ngọn núi nhìn xuống phí trường, và ngôi làng của dân chúng. Hằn Ông Lớn nghĩ rằng người Trung Quốc sẽ chiếm phi trường, hay ít nhất chiếm ngôi làng chứ nhỉ? Không đâu, kế hoạch của họ chẳng phai như vậy. Chúng âm mưu chiếm ngọn núi kia. Núi cao năm ngàn thước, chúng chiếm làm gì? Ấy vậy mà chúng đã chiếm, ngay sau lưng chúng tôi, trong lúc chúng tôi chỉ để mắt canh chừng phía hồ. Chúng tuyên bố rằng trái núi đó nằm trong lãnh thổ của chúng. Thật ra, làng Chushul là cái quái gì? Tại sao chúng phải chiếm cho mất công? Cả thẩy chỉ chừng năm chục ngôi nhà, với số dân năm, ba trăm người, sống trong lều tranh, thất học, săn bắn lấy cái ăn. Họ thuộc các sắc tộc Tây Tạng, Mông Cổ, kém mở mang và chung đụng bừa bãi…”
Vị lạt-ma trẻ hơn đáp: - “Chúng tôi cũng trồng lúa mì nữa chứ.”
Người lính già công nhận: - “Đúng, có trồng một sô ít lúa mì. Ngoài ra thì đi bắt ngựa rừng và bắn chim.”
Ông Jagat cất tiếng hỏi: - “Các anh có chống cự lại người Trung Quốc chứ?”
- Tất nhiên chúng tôi chống cự.
Mọi người nhao nhao trả lời, nhưng người lính trẻ lại quay về với câu chuyện cũ. Anh khạc xuống sàn, rồi lên tiếng:
- Thật không may cho chúng tôi, Ông Lớn ạ. Người Trung Quốc có loại xuồng lắp ráp, nhưng họ lại không tới qua ngả hồ trước. Họ tới từ Tây Tạng, trên đường xa lộ mà họ đã thiết lập. Con đường này nằm trên vùng cao nguyên mênh mông mà họ đã chiếm được. Họ tung lực lượng rất lớn: bốn ngàn người. Và họ đã chiếm núi trong hai ngày. Dân làng về phía chúng tôi, nhưng chúng tôi làm được gì? Tay không phải chống lại vũ khí tối tân. Phải khâm phục họ giỏi thật! Ý đồ của họ đã lộ rõ, không còn lầm lẫn gì nữa. Và họ nhanh tay nhanh chân. Hai ngày 22 và 23 tháng Mười, họ đã thiết lập xong giới tuyến mà họ đòi hỏi, và họ ngừng chiến. Mọi việc diễn ra đúng kế hoạch… kế hoạch của họ!
Vị lạt-ma già ngắt lời: - “À, họ vào Tây Tạng cùng một cách như thế! Mọi việc đều đúng kế hoạch. Lúc đầu, họ ngon ngọt dụ dỗ chúng tôi, rồi cho binh lính tấn công. Họ biết mọi bí mật của chúng tôi, có bản đồ đầy đủ, ngay cả bản đồ đất thiêng Potala cũng có. Đức Phật-vương của chúng tôi cũng vất vả lắm mới trốn thoát được!”
Người lính già xen vào: - “Hai năm gần đây, họ tranh chấp biên giới với chúng ta, đúng theo kế hoạch của họ. Ta bảo: “Biên giới chúng tôi đã có từ năm ngày năm,” họ đáp: “Của chúng tôi có từ tám ngàn năm.” Hai bên cùng găng nhau! Nhưng chúng ta không hề tin rằng họ có thể tấn công.”
Ông Jagat lắng nghe, nhìn đăm đăm vào mấy cục than tàn lụi, lên tiếng hỏi:
- Cuộc tấn công xảy ra hồi mấy giờ?
Người lính trẻ đáp: - “Hoàng hôn. Trong ngày có hai thời điểm thuận tiện cho việc tấn công: chập tối và nửa đêm. Chúng ồ ạt tiến xuống theo con đường chúng đã thiết lập ở triền núi, cạnh đồn chúng ta. Pháo binh nã trước, bộ binh theo sau. Chúng tôi không có quần áo ấm, quân số lại không đầy đủ. Con trai ngài, Ông Lớn ạ…”
Giọng anh ta thấp hẳn xuống, và mắt anh nhìn vào than hồng:
- Bây giờ, tôi tưởng như còn thấy công tử. Anh đứng sững một lúc, ngơ ngác! Quả thật chúng tôi không người nào tin nổi sự việc xảy ra. Chúng tôi có nhận được tin tức gì của tình báo đâu? Sau phút bàng hoàng, anh hô to. Chính anh là người hô trước tiên: - “Quân Tàu tới!” Tiếng hô đã đánh thức tất cả chúng tôi, trong lúc chúng tôi đang nằm dồn cục trên sàn nhà cho ấm. Anh lay vai chúng tôi, chạy đánh thức từng người. Quả thật, anh là người thức dậy trước nhất.
Ông Jagat hỏi giọng nghẹn ngào và yếu ớt: - “Nó ngã xuống lúc nào?”
Người trẻ tuổi thì thào: - “Tức thời! Công tử đã ngã xuống ngay.”
Ông Jagat hỏi: - “Chết?”
Người trẻ tuổi ra dấu công nhận: - “Chết liền.” Và nói tiếp: - “Không đau đớn gì.” Ông Jagat hà hốc mồn: - “Bị thương ở đâu?”
- Sau gày. Cả một màng sọ bay mất! Chỉ có khuôn mặt còn nguyên ven…đẹp như một chiếc mặt nạ. Ông Jagat không nói gì. Ông sẽ không bao giờ cho bà Moti biết con trai bị bắn vỡ sọ.
Người lính trẻ nói tiếp: - “Vị đại-úy của chúng tôi cũng rất dũng cảm. Ông bị thương vào cuối ngày đầu, nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy chúng tôi, nằm trên một nệm rơm. Trưa ngày thứ hai, ông mất. Chúng tôi chiến đấu tới tối mịt, mang theo xác đồng đội… tìm được người nào mang người nấy, và lo đám tang, đúng theo tôn giáo của người thiệt mạng.”
Ông Jagat nói: - “Các anh đã làm hết sức mình, và thật dũng cảm.”
*
Ông Jagat đặt chân vào khách sạn rộng lớn Ashoka. Tiền sảnh rất đông người, nhưng không khí mát mẻ, cho ông cảm tưởng êm dịu, sau khi chang nắng. Ông dừng lại giữa đám đông, với một cảm tưởng cô đơn, chán nản. Ông trông cậy vào ai đây? Chính ông là người luôn luôn mạnh mẽ, để người khác trông cậy, và bắt buộc ông phải trở lại như vậy, khi về đến nhà. Bà Moti cần được nghe ông kể lại mọi chuyện, và được an ủi, khuyến khích. Lại còn Veera nữa, ông sẽ nói gì với con gái nhỉ? Đầu óc rối bời, ông không thể chịu đựng nổi cảm giác cô đơn tại phòng của ông ở khách sạn, mong thời gian qua mau mau, để ông đón chuyến bay về phi trường, gần Amarpur. Sau khi rời khỏi tiền đồn Chushul, ông đã trở về New Delhi, tiếp chuyện với Thủ tướng, bao cáo mọi chuyện lên ngài.
Đáng lẽ đặt chân lên thang máy, ông Jagat lại vô phòng khách, phía sau tiền sảnh. Một chiếc dương cầm rất lớn đặt ở góc phòng, và một người đang dạo đàn. Tiếng nhạc nhè nhẹ làm dịu lòng người. Vào lúc giữa trưa này, phòng khách hầu như vắng ngắt, ông Jagat bước ngang qua, chọn một chiếc ghế gần chỗ dương cầm, nhận rõ người dạo đàn là đàn bà. Ông không hiểu nhạc Tây phương, nên cũng không biết nàng chơi bài gì, chỉ thấy tiếng đàn dìu dặt, êm êm, nhưng động lòng người rất mạnh mẽ. Ông tin chắc nàng là một người Hoa Kỳ. Người ta thường nói người Hoa Kỳ, nhất là đàn bà Hoa Kỳ, chẳng sợ điều gì hay người nào. Nàng cứ ngồi một mình chơi đàn, đầu cúi xuống, có vẻ say mê. Ông chỉ thấy được khuôn mặt nhìn nghiên trông rất nhã, và nàng mặc áo dài trắng tinh, gọn gàng. Cả đôi dép cũng trắng, và một băng lụa trắng buộc túm mớ tóc mầu tươi sáng, tuyệt đẹp của nàng.
Tiếng nhạc càng lúc càng dồn dập, bay lượn trên không trung.
Ông Jagat buộc miệng: - “Hay quá!”
Nàng quay lại, và ông thấy một khuôn mặt dễ thương, trầm tĩnh mà cương nghị. Có một lúc, ông không đoán nổi tuổi nàng cặp mắt trong vắt, ngây thơ - nhưng ánh mắt tự tin, vững vàng, chứng tỏ con người trưởng thành. Nàng còn trẻ, nhưng không còn con gái.
Nàng hỏi: - “Ông thích nhạc chứ?”
- Tôi biết rất ít về âm nhạc Tây phương.
- Đây là bản dạo khúc của Chopin.
Ông nhận xét: - “Bản nhạc buồn quá.”
- Đúng. Vì tâm sự của soạn giả lúc nào cũng buồn.
Nàng nhìn vào mắt ông, như nhận định được nổi đau đớn của ông. Đây là một cuộc hành ngộ mới mẻ với ông, một cuộc đối thoại tay đôi giữa hai kẻ xa lạ. Ông hiểu về đàn bà rất ít, ngay cả với bà Moti, Có nên hỏi tên người đàn bà Tây phương này không? Ông suy ngẫm và quyết định là không nên. Biết được cũng chẳng ích lợi gì. Ông đứng dậy, ngỏ lời cảm ơn.
- Cảm ơn cô đã cho tôi mấy phút, khiến tôi quên được mọi chuyện.
Ông về phòng riêng, và sau một đêm tràn trọc, hôm sau ông đã dậy rất trễ. Nhìn qua cửa sổ có buông mành mành, ông thấy mặt trời đã lên cao. Chán nản, ông vồ lấy chiếc đồng hồ đeo tay đặt ở bàn bên. Ông đã lỡ chuyến bay về Amarpur. Có một lúc ông cảm thấy hồi hận, nhưng trấn tĩnh lại ngay. Chẳng qua chi trễ thêm một ngày nữa, ông sẽ về tường thuật với bà Moti mọi chi tiết về cái chết của Jai, một cái chết lãng xẹt, vì con trai ông không hể được dạy dỗ chuyện chém giết, cùng lắm mới được chỉ bảo cách ngắm bắn sao cho trúng giữa mắt cọp, và tránh làm hư hại bộ da.
Trong lúc tắm rửa, mặc quần áo, ông Jagat suy nghĩ về cái chết của con. Ông nghe người ta nói rằng người Trung Quốc ra trận mà miệng ca hát, hò hét ầm ĩ. Ông không chắc đó là sự thật. Có lẽ chẳng hề có chuyền đó. Vì nếu quả thật như vậy, thì làm sao họ có thể bò trên sườn núi, sau lưng người Ấn? Làm sao họ bí mật thiết lập được đường xa lộ xuyên qua vùng núi hoang?
Những ý nghĩ đó hành hạ đầu óc ông. Và sau bữa điểm tâm được mang lên tận phòng, ông đã gọi dây nói cho văn phòng tổng thống, xin được phép tiếp chuyện với ngài. Và chỉ lát sau, ông đã được nghe giọng nói đĩnh đạc mà hiền dịu của nhà học giả lão thành, cả Ấn Độ đều kính trọng.
*
Buổi tối, ông bước vào tiền sảnh khách sạn. Giữa tiếng ồn ào của khách ra vào ông vẫn nghe tiếng đàn dương cầm vang lên phía xa xa, và ông lại cảm thấy niềm cô đơn cũ, nhưng sâu đậm hơn. Ông tiến vào phòng, nơi những người khách đủ mọi quốc tịch ngồi thành nhóm nhỏ để uống trà hoặc cốc-tay, và ông vượt qua những đám người đó, lại ngồi xuống chiếc ghế gắn bên dương cầm. Vẫn là nàng đang dạo đàn. Nàng mỉm cười, ngước lên nhìn, và tiếp tục bản đàn. Ông ngồi nghe tiếng nhạc khoan thai và mạnh mẽ, từ tay nàng ào ạt bay lên. Nàng dạo nốt đoạn cuối cùng, và đưa mắt nhìn ông. Mời mọc chăng? Ông đứng dậy, tiến lại gần:
- Sáng mai, tôi đi sớm. Mong cô vui vẻ trong chuyến viếng thăm Ấn Độ. Cô từ đâu lại đây nhỉ? - Tôi mới tới đây có mấy ngày…chưa biết sẽ ở bao lâu. Tôi không có dự tính rõ rệt.
Ông ngần ngừ. Khuôn mặt nàng tuyệt đẹp, ngước nhìn ông có vẻ trẻ hơn ông tưởng, nhưng lại có vẻ già dặn, dường như có nỗi buồn nội tâm. Lại có vẻ cô đơn nữa thì phải. Một người đàn bà rời xa đất nước, tới đây một mình để làm gì? Ông rất thắc mắc về nàng, vì dầu sao nàng vẫn là người xa lạ.
Đột nhiên ông hỏi: - “Tối nay cô rảnh chứ?”
Nàng không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào: - “Vâng, tôi rảnh. Tôi luôn luôn rảnh rỗi, chẳng quen biết một người nào.”
- Tôi xin được chỉ dẫn cô thấy chút ít về Ấn Độ.
- Tôi rất thích.
- Cô không có bạn bè?
- Không.
- Tôi ngạc nhiên đấy.
- Tôi chẳng biết nói sao. Thật tình, tôi chỉ đi du lịch, thế thôi.
Nàng ngồi xuống, tay đặt lên phím đàn, ngước mắt về phía ông, một khuôn mặt chân thành, với một nét đẹp. Ông tự hỏi tại sao mình lại bắt chuyện với nàng. Có lẽ vì buồn rầu trước cái chết của Jai, cần tìm một người chuyện trò cho vơi nỗi lòng. Ông không quen buồn rầu, đau khổ, và không biết giải quyết cách nào. Cũng có thể ông muốn tránh phải diện kiến bà Moti trước thảm kịch mới xảy ra. Quả thật, ông không hiểu nổi hành động của mình. Ông lên tiếng:
- Tôi sẽ gặp cô ở đây, lúc tám giờ, được không? Chúng ta sẽ cùng ăn tối.
- Tôi sẽ có mặt tại đây… trên chiếc ngai vàng này. Ngồi thoải mái lắm, nhưng chắc chắn xưa kia đã có người ngồi rồi.
Nàng nhìn ông, cặp mắt long lanh, vẻ riễu cợt.
Ông cười ròn: - “Bây giờ, đến lượt cô ngồi.”
- Đúng vậy.
Cô có nụ cười dễ thương, thông minh và vui vẻ, khiến nét mặt nàng rất trẻ trung. Nàng lại tiếp tục chơi đàn, dường như đã quên hẳn ông. Ông bỏ đi, tiếng đàn còn theo đuổi.
Tối hôm đó, ông đợi nàng ờ tiền sảnh, có chút hối hận đã ngỏ lời mời nàng. Ông không quen biết phụ nữ Tây phương, trừ một số bạn bè đi lại, đã lâu lắm rồi, hồi ông còn học Oxford. Người đàn bà này không giống như thế. Ông nghe nói đàn bà Hoa Kỳ rất tự do, chẳng yêu đương dễ dàng, nhưng ông cho rằng đàn bà chỗ nào trên thế giới cũng giống nhau thôi. Có người dễ, có người khó, mà cô nàng lại thuộc loại khó khăn. Ông nóng ruột nhìn đồng hồ trong tay. Buổi tối chẳng kéo dài, sáng sớm mai ông đã lên đường về với bà Moti rồi.
Cuối cùng, ông thấy nàng ra khỏi thang máy, tiến lại chiếc ngai vàng, thật duyên dáng, chẳng hấp tấp. Nàng mặc chiếc áo dài tới gót chân, cổ rất thấp, và tay áo rất dài. Nàng đeo bông tai nạm ngọc bích, và một viên ngọc bích rất lớn nằm ở bàn tay trái. Ông nhận thấy nàng không đeo nhẫn cưới. Tất cả những chi tiết đó ông nhận ra trong vài giây.
Ông tiến lại, và nàng lên tiếng: - “Tôi không tới trễ chứ?”
Lần đầu tiên, ông nhận định rõ giọng nàng: êm dịu và nhiều nữ tính.
- Không. Tại tôi tới sớm thôi. Tha lỗi nhé, có đúng cô là người Hoa Kỳ không?
Nàng cười ròn: - “Đúng, quả đúng vậy! Sao? Ông không ưa người Hoa Kỳ chúng tôi?” - Tôi chưa được biết cô. Thật tình, cô là người Hoa Kỳ thứ hai mà tôi được tiếp chuyện. Người kia là
một chàng trai trẻ nhanh nhẹn, có mái tóc đỏ, đang trông coi việc biến một tòa lâu đài của tôi thành khách sạn tân tiến.
- Vậy thì, chúng ta phải tự giới thiệu chứ?
Hai người bước vào phòng ăn.
- Tất nhiên. Nhưng trước hết, tôi xin lỗi đã không dẫn cô đi ăn tối ở chỗ khác. Tại đây, thức ăn không phải lúc nào cũng ngon, nhưng lại có điều hòa không khí.
- Ở đây mát lạnh. Mà diều đó quan trọng hơn thức ăn.
Hai người bước vào, và được hướng dẫn tới bàn ăn ông Jagat đã đạt trước. Một bông hồng trắng cắm trong bình bạc đặt trước mặt nàng. Ông Jagat nói:
- Dành cho cô đấy. Tôi đã dặn họ đừng trưng bông cúc vàng thường ngày.
Nàng mỉm cười với bông hồng: - “Cảm ơn ông.”
Ông lại nói tiếp: - “Và tôi mạn phép gọi cho cô vài món ăn Ấn Độ. Có lẽ không phải những món ngon nhất, nhưng lạ miệng. Tôi không muốn giới thiệu với cô món thịt bò, dai nhách. Còn món ăn kêu bằng món sườn cừu Ấn Độ chỉ là láo khoét. Thật ra đó là thịt dê.”
- Mấy con dê xinh xắn, nhỏ bé ấy ư? Tôi thường thấy chúng tung tăng trên đường, chẳng nỡ ăn thịt đâu. Tôi chưa từng ăn món ăn Ấn Độ. Bây giờ được bắt đầu thưởng thức bên cạnh ông, một người Ấn Độ lịch sự, thật hay biết mấy!
- Cô chưa từng ở Ấn trước đây?
- Chưa.
- Vậy xin tự giới thiệu nhé?
- Vâng.
- Xin miễn kể dài dòng về tước hiệu. Cha tôi là người cai trị một tỉnh miền Tây Bắc Ấn Độ. Nếu lịch sử diễn biến bình thường - lịch sử rất cổ xưa - thì tôi nối ngôi người ấy. Nhưng ở thời hiện đại, không có các tiểu vương quốc nữa, nên tên tôi chỉ giản dị là Jagat thôi.
Nàng không hỏi xem nên gọi ông thế nào, và ông cũng không báo cho biết. Nếu chỉ là bạn bè một tối nay, nàng cũng chẳng cần phải lựa tên gọi. Chừng nào gặp lại nhau - rất có thể gặp nhau hoài - khi đó nàng sẽ chọn cách xưng hô nàng ưa thích.
Ông hỏi lại: - “Cô cho biết quí danh chứ?”
- Brooke Westley.
Ông nhắc lại: - “Brooke! Tôi chưa từng nghe tên gọi như thế đấy. Thưa cô…, phải cô không nhỉ?”
Nàng ngần ngừ giây lát: - “Đúng…”
Hai người đều thấy ngượng nghịu khó nói. Ông muốn hỏi thêm nhiều điều, nhưng cảm thấy nàng giữ ý. Trong khoảnh khắc ngập ngừng đó, thức ăn được đem tới, ông để tâm giải thích món ăn.
- Hôm nay tôi không kêu loại bánh mì thông thường. Vì theo ý tôi, thứ bánh đó ta ăn nặng bụng lắm. Ồ đúng rồi, đây là loại bánh mì đặc biệt của Ấn Độ, giống như bánh mì nướng của Anh, nhưng xốp hơn, và ăn theo kiểu Ấn, người ta xé ra từng mạnh nhỏ, nhúng vào ca-ri. Người nào không quen có thể không ưa, nhưng quả thật ngon lắm. Và đây là cơm, nhưng nấu với nghệ nên có màu vàng, cũng để ăn với ca-ri. Cô cứ nếm thử xem sao. Nào, xúc ra chén đi.
Người hầu quấn khăn trăng tiến lại, mức thức ăn cho nàng riêng ông Jagat tự làm lấy, thỉnh thoảng còn gắp thêm vào đĩa của nàng.
Nàng có vẻ thích thú nghe ông giải thích món ăn Ấn Độ, và bắt đầu ăn. Ông chăm chú nhìn nàng, thấy nàng tuyệt đẹp.
Nàng nếm thức ăn, lên tiếng: - “Tôi rất thích món ăn này.”
Ông rất hứng chí: - “Tốt lắm. Cô nói vậy, tôi ăn càng thêm ngon miệng.”
Quả thật ông đang đói. Hai người yên lặng ngồi ăn một lúc, rồi nàng đặt chiếc nĩa xuống: - Thôi, tôi không ăn nổi nữa.
- Cô thích món tráng miệng chăng? Ông Osgood, người bạn cùng tôi dự tính mở khách sạn, thường bảo tôi không bao giờ nên đãi ông ta món tráng miệng của người Ấn. Đó là món hạnh nhân nhào đường và sữa.
Nàng đáp: - “Tôi thường ưa thích những điều người khách không ưa. Chẳng phải là bản tính ưu chống đối, mà chỉ là tôi ưa thích những điều mới mẻ: thức ăn chưa từng được nếm qua, hoặc những người chưa từng quen biết.”
Ông nói giọng đắc thắng: - “Thì ra là vậy!”
Ông suy nghĩ xem sau bữa ăn tối nên đề nghị điều gì. Khiêu vũ thì không được rồi, vì con trai mới mất, ông chẳng lòng dạ nào vui thú chuyện đó. Nhưng ông rất muốn được ở bên nàng. Vì dầu sao thì nhan sắc thùy mị của nàng cũng khiến ông vơi bớt phiền muộn.
- Cô tha lỗi, tôi muốn mời cô dạo chơi sau bữa ăn tối, được không?
Nàng mỉm cười đáp: - “Nếu ông thích.”
- Cô đã đi xem ngôi đền Tam Mahal bao giờ chưa? Xem lúc đêm trăng đó?
Nàng cười ròn: - “Chưa! Có thể nói tôi là người Hoa Kỳ duy nhất tới Ấn mà chưa đi xem ngôi đền đó. Mấy hướng dẫn viên và tài xế taxi ai cũng mời tôi, mà tôi đều từ chối.”
- A, vậy thì ta đi xem thứ khác vậy.
- Không, chẳng cần thứ khác! Chỉ vì tôi muốn đợi đúng lúc, và đúng người mời tôi đi đấy thôi. Nay lại có đủ hai điều đó, còn từ chối gì nữa? Vả lại, để lỡ dịp này, tôi sẽ phải đi một mình, và rồi tôi sẽ không bao giờ đi xem đâu.
Hai người nhìn nhau, yên lặng và thăm dò. Và ông Jagat lên tiếng biện bác:
- Cô biết đo, người ta đã khen ngợi quá đáng. Chẳng phải vì vẻ đẹp của ngôi đền đó, mà vì… chuyện tình lãng mạn. Bà vợ ông đại-vương cho ông mười bốn đứa con, và đã mất đi vào lần sinh nở cuối cùng. Tôi lại cho rằng chuyện đó chẳng có gì là lãng mạn.
Nàng đáp: - “Tôi muốn đi xem chỉ vì vẻ đẹp của ngôi đền thôi. Có lẽ chẳng ai cần tới chuyện lãng mạn ở lần gặp gỡ đầu tiên. Có lẽ tình yêu… hoặc lòng hối hận… hoặc một điều gì khác, cũng khác mạnh mẽ để làm rung động tâm hồn người đàn ông hay người đàn bà. Ái tình chẳng phải động lực duy nhất.”
Ông lắng nghe lời nàng, cố suy đoán ý nghĩa. Những lời đó hàm chứa điều gì xa xôi chăng? Ông lên tiếng: - “Ta đi thôi.”
Ông nhờ người hâu kêu dùm một chiếc taxi, và thầm mừng mình không đem theo xe hơi và tài xế riêng. Anh ta sẽ suy nghĩ ra sao? Có thể mọi người sẽ đồn đại tùm lum, đến tai bà Moti : tài xế kể cho đầu bếp, đầu bếp kể cho hầu gái, rồi tới bảo mẫu của bà Moti. Om xòm vì một chuyện chẳng đi đến đâu. Có lẽ hai người sẽ không còn dịp gặp lại nhau.
Ông nói: - “Tôi đã cho cô biết tôi là ai, còn cô chẳng cho tôi biết thêm gì, ngoài tên gọi của cô.”
Hai người đã rời thành phố, tiến vào xa lộ dẫn tới Agra. Hình như nàng không nghe những lời ông nói, lên tiếng hỏi:
- Những đốm đen trên cây là cái gì vậy?
- Đốm đen hả? A, đó là mấy con chim ưng, rình rập đợi có con chó nào đó bị xe cán chết trên đường chăng. Chúng sẽ nhào xuống, thanh toán liền. Quả thật chúng đang mong đợi tai biến cho thú vật.
Nàng kêu lên: - “Các ông chịu đựng nổi loài ác điểu ấy hay sao?”
- Chúng là những kẻ hốt rác tài giỏi lắm đấy!
Nàng không phê bình tiếng nào, suy ngẫm những lời ông nói, không có vẻ chê bai. Cảnh sắc Ấn Độ chỉ là một hình thái khác về đời sống.
Ông hỏi lại: - “Vậy, cô là thế nào?”
Nàng trầm ngâm, dường như ông hiểu ông muốn hỏi gì, mãi sau mới đáp:
- Cứ xem tôi chằng điều gì đặc biệt cả. Tôi sinh ra tại một thành phố cổ, và yên tĩnh ở bờ biển miền Đông Hoa Kỳ. Ba má tôi rất giàu có, tôi lại là con một, và mô côi từ hồi con nhỏ, biết rất ít về ba má tôi. Ông bà để lại cho tôi sản nghiệp rất lớn, nhưng không để lại cho tôi hứng thú lao động, tôi đã theo đuổi âm nhạc, và rồi say mê. Ngoài âm nhạc ra, tôi chẳng còn dây liên lạc nào với cuộc sống.
- Cô chưa lấy chồng lần nào?
- Không.
- Tại sao?
- Vì tôi chưa gặp người đàn ông vừa ý.
Ông hỏi lại: - “Cô có vẻ phóng khoáng quá nhỉ?”
Nàng nhìn ông thật nhanh, rồi quay đi: - “Có lẽ đó là lý tưởng của tôi.”
Ông muốn hỏi nàng đã từng yêu thương chăng, nhưng ông không có quyền hỏi như vậy - lúc mới quen biết này, và có lẽ cũng chẳng bao giờ. Với một người phụ nữ Ấn, một người phụ nữ tân tiến, có lẽ ông chẳng ngân ngại gì đâu. Dục tính là điều bột phát ở Ấn, giữa một người đàn ông và một người đàn bà, chẳng cần phải nhiều lời. Nhưng đây là một con người quá xinh đẹp, ngồi bên ông mà cách xa vời vợi. Tuy nhiên, ông chẳng tin nàng là con người lạnh lùng. Cặp môi mấp máy thế kia, cặp mắt nồng nàn như vậy, cho tới giọng nói du dương, bàn tay mềm mại, và thân hình tròn lẵn, tất cả đều khơi gợi nam tính mạnh mẽ của ông. Nhưng quả thật chưa thể được, lúc này chưa được!
Chiếc xe ngừng lại, nàng lên tiếng hỏi: - “Tới rồi ư?”
- Đúng. Đây là lối vào. Đề nghị cô dừng chân một lát, thưởng thức hết vẻ đẹp của cảnh vật.
Ông trả tiền xe, và dẫn nàng qua lối đi dài hun hút, dẫn tới lăng tẩm. Không phải chỉ có hai người với nhau, mà có rất nhiều người qua lại: đàn bà mặc áo dài mầu sáng, đàn ông bận đồ trắng, và trẻ con luẩn quẩn bên canh. Một hồ nước, lấp lánh dưới ánh trăng, trải dài giữa hai lối đi lót đá hoa. Xa xa, ở đầu bên kia, một tòa nhà băng đá đứng sừng sững.
Ông quay lại, định nói chuyện với nàng, nhưng nhận ra không thể mở miệng. Nàng đang đứng bất động, đầu ngửng cao, hai tay buông xuôi, gió đem thổi phất phơ mái tóc. Đôi mắt nàng sáng long lanh dưới ánh trăng và đôi môi mấp máy. Nàng lên tiếng, tưởng như không có ông ở bên cạnh:
- Lần đầu tiên tôi mới được thấy cảnh đẹp thế này, đẹp không tưởng tượng nổi!
Ông nói khe khẽ: - “Rất mừng cô đã tìm được cảnh đẹp trong mơ, tại xứ Ấn Độ này.”
Sau đó, ông nói rất ít, mải lo hướng dẫn nàng đi thăm noi chốn quá quen thuộc đối với ông, kể cho nàng nghe về châu báu gắn trên đá hoa, mà hối xa xưa những người lính Anh xâm lăng đã từng đục đá gỡ ra và đem bán, chính quyền Anh đã phải xuống lệnh ngăn cấm và sai gắn trả lại vào chỗ cũ những viên ngọc kém giá trị hơn. Nàng lắng nghe, trang trọng và yên lặng, thỉnh thoảng ngừng chân, đưa đầu ngón tay sờ vào những mẫu trạm trổ trên đá, thưởng thức tất cả vẻ đẹp. Hai người song song bước xuống hầm mộ, nơi đạt thi hài của bà vợ và ông chồng. Ông Jagat kể với nàng:
- Vị đại-vương cũng mơ ước xây riêng cho mình một ngôi mộ bằng đá hoa, và phải xây bằng đá đen. Nhưng những đứa con tham lam của ông đã ngăn cấm điều đó. Chúng hạ bệ ông, bắt cầm tù. Ông già rồi, đành chịu thua thôi.
Nàng nói: - “Không có con trai lại hay hơn.”
Ông choáng váng nhận định sự thật chua cay đó. Làm sao nàng biết được ông vừa mất người con trai duy nhất? Thật tình, nàng không hề biết, chỉ buột miệng nói ra thôi. Và ông cũng không trả lời.
Nhưng lúc về khách sạn, ông dẫn nàng về phòng khách, lúc này đã vắng vẻ, và ông mời nàng ngồi. Nàng tuân lời, ngả người ra ghế, như thể mệt mỏi. Nhưng nàng không mệt, chỉ chuẩn bị nghe ông nói thôi. Ông kéo ghế lại gần, nhìn thẳng vào mặt nàng. Chỉ có hai người với nhau tại căn phòng rộng lớn, khách khứa đã rút lui, mấy người hầu thiu thiu ngủ tại chỗ của họ. Ông Jagat lên tiếng:
- Tôi với cô là hai kẻ xa lạ. Chúng ta ở những miền đất xa xôi trên thế giới, và có lẽ thuộc thời đại khác nhau nữa. Đời sống của chúng tôi ở Ấn Độ đây hầu như vẫn thuộc thời trung cổ. Tuy nhiên, ngay lúc này đây tôi tưởng chừng như đã được quen biết cô từ trước rồi. Hãy nói tôi biết (ông ngả mình về phía sau, tại sao cô lại nói không có con trai là điều tốt hơn? Đó là ý tưởng lạ lùng, ở Ấn Độ chẳng ai nói, chẳng ai tin, có lẽ trừ tôi ra, vào giây phút đặc biệt này. Tôi đang đau khổ vô cùng, vì mới mất đứa con trai độc nhất. Nó bị giết chết ở Ladakh, mới mười hôm trước, chết về tay người Trung Quốc. Tôi sẽ không có được đứa con trai nào khác. Cô vẫn cho rằng không có con trai là điều tốt chứ?”
Nàng yên lặng tiếp nhận, với nỗi cảm thông của một người ở bên kia hành tinh. Một lúc lâu nàng mới trả lời, bàn tay nhỏ nhắn và trắng muốt vỗ lên tay ghế trạm khắc: - “Thiết tưởng ông không có con trai là hay hơn. Bây giờ, ông nên hoàn thiện cuộc sống riêng của ông, theo cách riêng của ông. Ông phải tự mình hoàn thiện, vì không có ai làm thay ông nữa. Khi hai người có con với nhau, họ thường xa nhau, vì đặt hết niềm hy vọng vào đứa con, nói rằng có con là có người thay thế. Họ biện minh rằng nếu ta không làm hết bồn phận mình đối với thế hệ, thì con ta lớn lên sẽ làm thay cho ta. Ở nước tôi, người ta thường nói rằng trẻ em là hy vọng của tương lai. Theo tôi, đó là điều mơ hồ, và vô nghĩ nữa. Chúng không thể làm hơn chúng ta được. Nếu còn sống, con trai ông cũng không đóng góp cho thể hệ của anh ta tốt hơn ông đã làm cho thế hệ của ông… và ông vẫn còn làm được, vì ông vẫn còn trẻ trung.”
Ông đáp: - “Tôi đã ở tuổi trung niên rồi.”
Nàng đáp khẽ: - “Vậy thì ông không mong muốn có thêm con khác.”
Ông nhìn nàng, vẻ ngờ vực hoang mang. Nàng nói đúng chăng? Nàng không hề lúng túng trước ánh mắt đen của ông nhìn như xoáy vào mắt nàng, mà lặng lẽ nhìn lại, không nói một lời.
Ông hỏi: - “Vì vậy mà cô không lấy chông?”
- Tôi đã nói rồi, tôi chưa gặp người đàn ông vừa ý.
- Nếu có, cô lấy người đó chứ?
- Đúng, nếu chàng cũng mong muốn vậy.
- Nếu không thì sao?
- Tôi sẽ thu xếp cuộc đời, để được gần bên chàng.. mãi mãi.
Ông ghi nhận lời đó, chôn vào ký ức, để nghĩ tới hoài hoài.
Và ông đứng dậy:
- Ngày mai, tôi đi sớm. Vậy chúc ngủ ngon, cũng có thể là vĩnh biệt… trừ khi cô cảm thấy ưu thích tới thăm Amarpur. Có thể cô sẽ là người khách đầu tiên tại khách sạn Lâu Đài Giữa Hồ của tôi. Cô chấp nhận lời mời đó chứ!
- Có thể.
- Tôi đưa cô về phòng, được không?
Nàng ngần ngừ: - “Tôi muốn ở lại chỗ này. Chẳng hiểu nếu tôi chơi dương cầm có làm rộn tới khách trọ không?”
- Tôi tin chắc là không.
- Vậy thì, chúc ngủ ngon.
Nàng không đứng dậy, chỉ đưa tay ra, và ông nắm lấy, cảm thấy bàn tay lạnh toát và cương nghị, trong lòng bàn tay nóng bỏng của ông. Ông từ biệt, và lúc quay nhìn lại thì thấy nàng đã sẵn sàng chơi đàn, không quay đầu lại. Nàng đã quên ông rồi chăng? Ông cứ thắc mắc hoài, và chợt nhớ ra: nàng chúc ngủ ngon, chứ không từ biệt.
*
Ông Jagat gọi: - “Moti!”
Bà đang ở phòng riêng, nằm trên chiếc ghế dài, đưa cặp mắt thẫn thờ quay nhìn ông. - Sao anh về trễ thế?
- Anh phải ở lại New Delhi để báo cáo với Thủ tướng và Tổng thống những điều anh được biết ở vùng biên giới.
Bà bảo mẫu của vương-hậu theo ông vào phòng, lên tiếng:
- Bà chủ chẳng ăn uống gì, ngoài chút sữa đặc và ít trái cây.
Bà Moti nói giọng nóng nẩy: - “Bà đi ra. Để chúng tôi yên! Tôi ăn uống ra sao thì kệ tôi!” Bà bảo mẫu kinh hãi trước thái độ nóng nảy của bà chủ, vốn tính hiền dịu, vội lỉnh ra cửa. Bà Moti lại hỏi: - “Ông khám phá được điều gì?”
Ông ngồi xuống căn phòng của bà thông thường thơm ngát mùi hoa, bây giờ tẻ ngắt. Tất cả những cất ra hoa đều chuyển đi chỗ khác, từ những cây cam và chanh, những cây hông từ những vườn hoa ở Delhi đem về, cho tới những loài hoa không hương ở sa mạc địa phương. Các bình hoa đều trống rỗng, vài bụi bám trên sàn nhà, cùng đồ đạc. Quả thật những ngày này gió miền núi thổi cát mịn bay tứ tung, nhưng bà Moti rất khó tính, thường bắt hầu gái dọn dẹp luôn tay. Bây giờ, thấy chồng đưa mắt nhìn quanh tỏ vẻ thắc mắc, bà ngỏ ý cho biết:
- Em không chịu nổi mấy bà người làm ngu xuẩn tối lượn quanh trước mắt.
Ông Jagat bảo: - “Em đang tự sát. Em cứ rầu rĩ tối ngày là muốn tự sát đó. Anh buộc em phải sống.”
Đôi mắt bà nhìn đăm đăm vào cõi xa vắng tối tăm. Ông đi có mấy ngày mà bà đã xuống kí trông thấy, bây giờ thân hình bà co rút trong tấm áo dài trắng, dường như chỉ còn là bộ xương, phủ bên ngoài là lớp da thịt mỏng dính.
Bà bực dọc hỏi lại ông: - “Làm sao em ăn uống cho nổi?” Và nóng nẩy thúc giục, trái với thói quen xưa nay: - “Hãy nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra với con.”
Ông thờ dài: - “Làm sao anh biết được? Nó chết cùng với nhiều người, hàng trăm người. Chúng tấn công từ phía sau…”
Ông ngập ngừng kể lại, gợi nhớ từng chút một, kiểm điểm những điều mình biết. Tới chỗ nói về vũ khí cổ lỗ, và quần áo mỏng dính giữa lúc trời lạnh giá, bà không thể bình thản ngồi nghe nữa. Bà đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, lúc đứng ở cửa ra vào, lúc qua tít cuối phòng, tới chỗ cửa sổ trông ra hồ. Niềm khoan khoái đã thúc đẩy bà, và ông ngạc nhiên thấy bà lăng xăng như vậy, vì xưa nay bà đã từng quen trầm lặng cả mấy tiếng đồng hồ.
Bà kêu khóc: - “Lúc ở Delhi ông có phản kháng không? Ông có báo cho chúng biết rằng chính chúng đã sát hại con trai chúng ta không?”
- Báo cáo gởi về như bươm bướm rồi, Moti ạ. Anh chẳng cần phải nhắc lại nữa. Thủ tướng cho biết chúng ta đã xin được viện trợ của Hoa Kỳ và Anh Quốc… Họ hứa gởi tới vũ khí tối tân nhất, đầy đủ để chúng ta bảo vệ đất nước.
- Có vậy chăng nữa, thì thằng bé cũng chết rồi…
- Moti, em chỉ nghĩ đến mình. Con trai chúng ta chẳng phải là kẻ duy nhất…
Từ cuối phòng, bà quay nhìn lại ông:
- Em chỉ biết có nó thôi! Nhưng, anh đâu hiểu nổi một người đàn bà? Chẳng bao giờ anh hiểu em! Em sống ở đây bao nhiêu năm mà anh chẳng hiểu em tí nào. Em còn trông mong gì ở anh được nữa? Báo cáo với chẳng báo cáo! Có tờ báo cáo nào nói tới chữ “SÁT NHÂN” không? Lỗi tại ai đến nỗi Jai có trong tay thứ vũ khí cổ lỗ chẳng đủ bảo vệ sinh mạng nó? Nó kiếm đâu ra quần áo ấm để tránh rét mướt? Nó sợ lạnh lắm mà… Em chẳng quen hồi còn nhỏ nó ghét tuyết ra sao. Có lẽ nó đã chết vì sốt đấy! Em không tha thứ cho anh đâu. Hãy trở lại Delhi, nói cho chúng biết là Jai, con trai của Ông Hoàng Jagat, đã bị chúng sát hại.
- Moti, họ sẽ bảo anh là thằng điên.
- Kệ chúng! Họ gọi anh ra sao đã quan trọng gì đâu?
- Moti, nghe anh nói. Người Trung Quốc đã tuyên bố sẽ rút lui, khi…
- Ôi, đừng nói đến người Trung Quốc! Chúng rút lui có trả lại con trai cho chúng ta không?
Hết nước nói rồi! Mắt nhìn thẳng vào sàn đá hoa, ông ngồi im nghe bà lên án, bà thổn thức vì giận dữ và đau khổ. Rồi ông không chịu nổi nữa, đứng dậy, tiến thẳng lại chỗ bà đang đứng dựa cột. Ông ôm
ngang lưng, nhấc bổng bà lên, đem về tận giường, đặt nằm xuống gối. Ông cảm thấy bà nhẹ như bấc, và ẻo lả quá. Bà lăn ra giường, nhắm mắt lại, chỉ còn thút thít nho nhỏ. Ông lên tiếng gọi người hầu gái, và bà này từ bóng tối tiến ra.
Ông dặn: - “Dỗ bà nhé. Bứt tóc và chà sát thái dương. Chừng nào bà trấn tĩnh, hãy mang lại cho bà một ly sữa.”
Ông về phòng, nghĩ đến tổn thất riêng của mình. Mấy ngày qua ông đã bận rộn chuyện đi xa, tiếp kiến các nhà lãnh đạo, và gặp mặt cô gái Mỹ. Bây giờ ông rất cô đơn. Ngồi trong tòa lâu đài của tiền nhân, nơi ông và con trai sinh ra, vậy mà ông cảm thấy hoàn toàn cô đơn. Lịch sử của dòng họ, đời đời truyền tử lưu tôn, đã diễn ra giữa những bức tường này, bây giờ đột ngột chấm dứt. Ông là người cuối cùng của dòng họ. Mai sau, ai sẽ trú ngụ tại những phòng này? Hình như các cụ tổ đang từ những bức tường ngó nhìn ông, trách ông không người nối dõi.
Đối với ông, điều đó đã xảy ra đúng vào lúc Jai lăn ra chết.
*
Đang đêm, trời tối mịt. Ông Jagat trằn trọc trên giường, lăn qua lăn lại, chợt nghe có tiếng kẹt cửa. Ông vẫn nằm yên nghe ngóng. Cửa bật ra, bản lề kêu ken két, đóng nhẹ lại ngay. Ông nghĩ đến trộm cướp hoặc kẻ mưu sát. Chính tại phòng này, ngày xưa đã có một tiểu vương, tổ tiên của ông, bị người lạ mặt giết chết. Người ta không tìm ra thủ phạm, nhưng nghe đâu là chồng của một thiếu phụ xinh đẹp bị ông hoàng chiếm đoạt, đưa về lâu đài. Chuyện xẩy ra lâu lắm rồi, nhưng ông Jagat cũng chẳng bao giờ phạm tội tày đình như thế.
Nếu sợ, ông đã hô hoán, nhưng ông Jagat không sợ, chỉ tò mò thôi. Kẻ nào lén lút vô đây, âm thầm như thế, đang tiến bước trên sàn đá hoa như thế nhỉ? Trong chỗ tối mù mịt, ông nhận ra, một bóng người.
- Ngươi muốn gì?
Ông nói giọng bình thản, không lớn không nhỏ, quẹt một que diêm, thắp ngọn đèn cầy bên giường, và ngó nhìn bóng tối, thì thấy bà Moti tiến lại, vạt áo dài vén lên vai, và nắm chặt ở tay.
Ông kêu lên: - “Moti, em bệnh hay sao?”
Bà không đáp, tiến lại gần giường, quỳ gối. Qua ánh đèn cầy, ông thấy nét mặt bà có vẻ cầu khẩn. - Chuyện gì vậy, Moti em?
Ông thấy cặp mắt bà long lanh, lưỡi thè ra một chút, ướt át đôi môi.
- Jagat anh!
- Hả? Em có điều sợ hãi?
- Không… Mà có, … sợ anh.
- Sợ anh?
- Đúng. Sợ anh ruồng bỏ.
- Nhưng em muốn anh điều gì nào?
- Jagat, anh còn trẻ trung mà.
Ông nhìn vào cặp mắt bà, sâu hoắm trên khuôn mặt xanh xao:
- Moti à…
Ông chợt hiểu vì sao bà tới đây, không nói nên lời. Bao nhiêu năm chồng vợ, có bao giờ bà Moti tìm tới giường ông đâu? Luôn luôn là ông vào giường bà, chứ đời nào có chuyện ngược ngạo này? Ông chấp nhận điều đó, coi là thái độ người đàn bà đàng hoàng. Bây giờ, trâu lại tìm cọc? Ông cảm thấy bối rối lạ kỳ, thẹn thùng nữa, tưởng như bà chẳng phải vợ ông. Chẳng còn là nàng Moti, cô gái ngày xưa đã tuân phục ông, chấp nhận về làm vợ, làm má bầy trẻ.
Ông nhắc lại: - “Moti à…”
- Hãy cho em một đứa con trai khác, anh Jagat!
- Moti à, anh…
- Có vậy, em mới làm trọn bổn phận! Đàn bà không thể sống… thiếu bổn phận, chết nằm chẳng nhắm mắt. Jai sẽ tái sinh qua thân xác đứa em trai nó. Gia đình ta mới có người nối dõi. Chẳng vậy, làm sao em sống nổi?
Có một lúc, ông say mê, thích thú vì bà đã tìm tới. Ông có thẻ bồng bà lên giường, yêu đương nồng nàn. Được người tìm tới, thương yêu, sẵn sàng đáp ứng, quả là điều mới mẻ và êm dịu. Từ lâu rồi, bà vẫn sẵn lòng đáp ứng đòi hỏi thể xác của ông đấy, nhưng ông muốn đòi hỏi nhiều hơn nữa kia, mà chẳng được bà ban cho. Ông cũng chưa hề tìm thấy được điều đó với một người đàn bà khác, vì tình đằm thắm, êm dịu làm gì có ở một người đàn bà xa lạ?
Bà vẫn quỳ bên giường, nhưng ông không thể nâng dậy. Trước thái độ năn nỉ của bà, chẳng hiểu sao ông lại cảm thấy từ tâm hồn đến thể xác của ông đều lên tiếng chối từ, một lời từ chối không cắt nghĩa nổi.
- Moti à, anh…
- Yêu em đi mà, anh Jagat.
- Anh không thể.
Lời ông chỉ như tiếng thì thầm, nhưng bà nghe rõ. Qua ánh nến chập chờn, ông thấy bà đứng dậy, đứng yên cạnh giường, cặp mắt đen láy nhìn xuống?
- Anh không thể!
Ông nghe như một câu chấp vấn, chẳng phải một lời than vãn: - “Không thể!”
- Vậy mà anh lại có thể với một người đàn bà khác. Ồ đúng rồi… (Bà cúi xuống bên ông, chống tay lên mép giường) anh đã làm như vậy. Những lúc buồn, đàn ông đều làm như thế: chạy tới một người đàn bà để giải buồn. Các ông đâu có thể buồn lâu? Nhất là ông đó, Jagat! Ông chỉ lợi dụng tôi, cho mục đích riêng của ông thôi. Ông tưởng tôi xuống nước năn nỉ ông thế này, không khổ tâm cho tôi hay sao? Tôi xấu hổ lắm. Tôi tự khinh bỉ đấy, ông ạ. Nhưng vì Jai, tôi mới phải… Vì không còn con trai, mới nên nỗi.
Ông nắm tay trái bà, kéo bà xuống.
- Ngồi bên anh đây, Moti. Nghe anh nói! Anh không chung đụng với một người đàn bà nào. Từ mặt trận, anh về thẳng đây, chỉ ghé lại Delhi có hai ngày ngắn ngủi thôi. Anh lòng dạ nào mà tìm tới đàn bà, hả Moti? Anh cũng chẳng còn trẻ trung gì, chẳng thấy… có nhu cầu… này nọ đâu.
Bà gục đầu trên hai bàn tay nắm trong tay ông, và ông cảm nhận mái tóc bà rũ xuống cánh tay ông, thật ấm áp.
- Moti, không phải vậy, không bao giờ như thế được…
Bà ngồi yên một lúc lâu, không nhúc nhích, và rồi lặng lẽ rời ông, cũng lặng lẽ như lúc đến, và bóng trắng của bà thoắt biến.
Ông tắt nến, nằm một mình suy nghĩ. Tại sao ông lại từ chối? Cái chết đã thay đổi tấm lòng ông chăng? Mấy ngày xúc động và buồn rầu đã lấy đi một phần sinh lực của ông chăng? Lòng ông lúc này thật yên tĩnh, nhưng không nguội lạnh, và ông cảm thấy một sức sống mới, hầu như tách biệt với con người cũ của ông. Sức sống đó rào rạt đam mê, và ông không còn tùy thuộc vào tâm trí ông nữa, thiết tha đòi hỏi ông phải nhanh chóng đáp ứng một cô gái trẻ trung và xinh đẹp. Ông hiểu vì sao mà tiền nhân của ông phải giữ cho tòa lâu đài luôn luôn ồn ào vui vẻ. Yêu cầu đó xưa nay ông không thể chịu nổi. Ông không thể đem gái về phòng riêng. Chính bà Moti đã khiến được ông không chung đụng với đàn bà khác, sau hôn nhân, chỉ vỉ vẻ hiền dịu và thái độ phục tòng kiên nhẫn của bà. Bà luôn luôn chiều chuộng, nhưng không hề đáp ứng đầy đủ, khiến lòng ông luôn luôn thấp thỏm. Bà không thể đáp ứng, hay thấy ông có điều gì nhờm tởm? Lòng kiêu hãnh nam nhi của ông không thể chấp nhận giả thuyết sau cùng này, nên ông càng thêm thắc mắc. Hay tại lòng kiêu hãnh nam giới! Phải chăng vì vậy mà ông đã mếch lòng, khi bà tới với ông, chỉ vì cầu mong một đứa con trai?
Suy nghĩ về bản thân, ông lại nghĩ tới bà Moti. Ông nhớ rằng bà thuộc gia đình quyền quý, được thừa hưởng một nền giáo dục rất tốt, đồng thời bà lại là con người đoan chính, chẳng che giấu vẻ nhờm tởm trước đòi hỏi thể xác. Ông thấy thái độ chán ghét đó lại có vẻ dễ thương và kích thích . Trinh tiết của bà là một bằng chứng của tâm hồn cao quý. Vậy mà trước đây một tiếng đồng hồ, bà đã tìm đến ông, không đợi ông tìm tới. Ông cảm thấy nhân phẩm của bà hạ thấp. Bất nhã, bất nhã! Đột nhiên ông hiểu được thái độ từ chối của mình. Bà tới không phải vì yêu thương. Trái tim bà không vì ông, nếu quả thật bà có một trái tim. Bà tới đâu phải để kêu gọi ông: - “Ôi, anh Jagat, hãy thương yêu em!” Nhưng ông phải tự thú nhận rằng ông đã xét đoán đàn bà theo tiên kiến cổ xưa, và ông hiểu rằng đau khổ và thất vọng đã làm biến đổi bà Moti. Ông cứ nằm yên, lòng dạ thật thanh thản. Cái chết của con đã gây xáo trộn, chia rẽ tâm hồn hai người, nhưng tới mức độ nào thì ông không hiểu nổi, chỉ biết rằng đêm nay không thể ngủ được. Và bảy đêm liên tiếp ông cũng không ngủ yên giấc, dù rằng xưa nay ông vốn dễ ngủ, thường đánh một giấc say sưa đến sáng. Ban ngày, nhiều lúc ông cũng khắc khoải vì thương con.
Sáng ngày thứ tám, ông dậy sớ, tới tòa lâu đài giữa hồ để coi công việc ở đây tiến triển ra sao. Osgood nói: - “Ông có một người khách đó!”
Ông ta trú ngụ tại tòa lâu đài giữa hồ, để trông nom việc thay đổi chỗ này. Ông Jagat ra khỏi thuyền máy tiến lên những bậc thềm đá hoa.
- Khách nào? Tại sao ông có thể để ông ta ở chỗ còn bừa bộn thế này?
Công nhân có mặt khắp nơi, mấy con chim thấy động, từ tổ của chúng ở các đầu hồi và chùm đèn ào ạt bay ra, và tiếng búa nện ầm ầm, tiếng người lao xao, đã phá bầu không khí yên tĩnh buổi ban chiều.
Osgood nói: - “Người đó là đàn bà.”
Jagat không tin nổi, nhắc lại: - “Đàn bà?”
- Cô ấy nói ông mời cô ấy tới mà!
- Tôi?
- Thì nghe cô ấy nói vậy thôi.
Jagat không tin nổi, nhắc lại: - “Đàn bà?”
- Cô ấy nói ông mời cô ấy tới mà!
- Tôi?
- Thì nghe cô ấy nói vậy thôi.
Jagat mỉm cười bẽn lẽn: - “Thì là cách nói…”
Ông hiểu người đàn bà đó là ai rồi. Tuần qua, ông đã nhiều lần nghĩ tới nàng. Một tuần lễ lạ lùng, vì ông và bà Moti ít khi nói với nhau. Mấy ngày liền trôi đi, lặng lẽ, bà Moti kín đáo hơn lúc nào hết. Tối hôm qua, cùng ngồi lặng lẽ ở bàn ăn, ông đã hỏi bà:
- Hay anh bảo Vecra về ở chung với em nhé?
Bà đáp: - “Tại sao chúng ta còn đem nỗi buồn san sẻ cho con? Cứ để nó ở trường với chúng bạn thì hay hơn.”
Nhìn khuôn mặt xanh xao của bà, ông cảm thấy bất nhẫn, thương bà đã tới với ông cách đây bẩy đêm. Bẩy đêm liền, ông không gần bà. Từ ngày cưới, chưa bao giờ ông trai tịnh lâu đến thế. Bây giờ ông chẳng còn đam mê.
Jagat hỏi Osgood: - “Người khách ở đâu?”
- Ở phòng nhỏ trông ra bãi đất trống, chỗ tôi thường sử dụng, nhưng nhường lại cho cô ấy từ ngày cô ấy tới đây. Đó là phòng duy nhất có buồng tắm. Không thể để cô ấy nhảy xuống hồ tắm táp. Tôi vẫn thường làm vậy, vì tôi chẳng sợ gì cá sấu.
- Tôi đã nói với ông rồi, cá sấu vẫn còn ở mạn trên của hồ nước đó. Và tôi rất ngại chúng đớp ông… vì chúng khoái những người tóc đỏ.
Osgood cười vang.
Jagat lại hỏi: - “Cô ấy tới hồi nào?”
- Tối qua. Cô ấy đặt chân lên, thản nhiên như không. Tôi thấy thuyền máy vượt qua hồ dưới ánh trăng, cứ tưởng là ông. Rồi tôi thấy một cô gái bước ra, anh thủy thủ mang dùm hành lí. Tất nhiên tôi xuống đón liền. Cô ấy tên là Cô…
Đời nào ông quên nổi nàng, nhưng cũng giả bộ: - “A đúng, tôi nhớ ra rồi. Cô Westley! Cũng người Hoa Kỳ đó. Tôi gặp cổ ở khách sạn Ashoka.”
- Lẽ ra ông phải báo trước cho tôi biết chứ.
- Tôi không nghĩ cô ấy để tâm tới tôi.
- Cũng may tôi thu xếp được căn phòng đàng hoàng, có chỗ tắm rửa. Cô ấy ở bao lâu nhỉ? - Làm sao tôi trả lời được. Đã gặp cô ấy đâu?
Hai người đứng nói chuyện giữa đám người đang làm việc, bụi bay mù mịt. Osgood lại lên tiếng:
- Cô ấy thức dậy rồi. Tôi đem điểm tâm lên tận phòng cho cô ấy. Đặc biệt lắm đó. Tôi ở đây chỉ vì một người thôi. Tôi đã đem theo người đầu bếp riêng của tôi ở Delhi. Phải làm gì bây giờ?
- Nói anh ấy hầu hạ cô cho tốt. Cô là đồng bào của ông, chứ đâu phải của tôi đâu?
Osgood phản đối: - “Đúng. Nhưng tôi không rảnh. Tôi còn một công việc khác ở Bombay, dự tính vào tháng tới, mà công việc ở đây cũng phải cho chu toàn. Thỉnh thoảng lại phải đáp máy bay về Hoa Kỳ, vì ở Ấn Độ đây có nhiều thứ không kiếm ra nổi.
Ông Jagat nói: - “Cứ bay đi, ông bạn. Tôi sẽ có mặt tại đây.”
Ông tự kiềm chế ham muốn của mình, để đừng bước vội, và quả thật ông mong nàng đừng tới thì hơn. Những ngày tang lễ theo nghi thức đã qua rồi, ông muốn lao vào công việc thiết lập khách sạn, và quản trị chút đất đai còn giữ được. Mà còn đất đai, thì còn làng mạc. Ngay sáng nay, ông đã dậy sớm, cưỡi ngựa về thăm làng, ở đó ông còn giữ được một căn nhà nhỏ dùng làm văn phòng. Ông muốn tới thăm các vị chức sắc trong làng, kể sơ qua cho họ biết cái chết của con trai ông. Lạ lùng thay, ông cảm thấy dường như không phải ông, mà là Jai đang cưỡi ngựa trong bầu không khí mát mẻ ban mai, nhìn cảnh vật xung quanh. Phải rồi, tất cả những đất đai này là của Jai được thừa hưởng. Nhưng bây giờ, chẳng còn ai đứng ra đòi hỏi nữa. Các chức sắc trong làng đều đứng dậy, lúc ông Jagat bước vào ngôi nhà vách đất, mái thấp. Họ khoanh tay, cúi đầu chào ông, và giữ thật yên lặng. Đợi ông ngồi xuống trên chiếc nệm đặt trên đất, họ mới ngồi theo. Ông lau phân bò trên đôi ủng, kể cho mọi người nghe vì sao Jai đã chết, và chết như thế nào.
Câu chuyện rất ngắn ngủi, và ông cố tình làm như vậy, để tránh tiếng khóc. Ông cắn môi, nói: - “Con trai tôi đã chết như vậy đó. Chết là chuyện bình thường, nhưng nó có ý nghĩa lớn lao với người sống. Đặc biệt là đối với cái chết oan ức của người trẻ tuổi. Trong trận chiến này, nhiều người đã chết, và sẽ còn nhiều kẻ khác phải hy sinh. Ai nói trước được lúc nào mình chết nhỉ? Vậy nên, lúc còn sống, ta hãy làm hết bổn phận của mình.”
Sau đó, ông nói sang vấn đề cải cách sẽ thực hiện trong miền: mở trường học, nhất là trường kỹ
"""