" Tín Đồ Shopping Lấy Chồng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tín Đồ Shopping Lấy Chồng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo TIŃ ĐỒ SHOPPING LẤY CHỒNG Tác giả : Sophie Kinsella Ḍich giả : Lưu Thùy Hương Công ty phát hành: NhãNam Nhàxuất bả n: NXB Hộ i NhàVăn Ngày xuất bả n: 01-10-2010 Chủ dự án: Trần Ngọ c Tuyền Chụ p pic: Boom Boom Boom Nhóm beta: ThuýHoa Nguyêñ Do Tam Marie Hoang Tuyet Minh Vân Hồng Phạ m Con Đần Hiệ u ch̉ınh: Tiể u Yêu Nữ Ebook: TT Giới thiệ u sách: Cuộc sống của Becky Bloomwood rất hoàn hảo: Cô trở thành người tư vấn mua sắm giỏi nhất ở Barneys, cô và bạn trai doanh nhân, Luke, đang sống hạnh phúc ở Manhattan, và hàng xóm của cô là một nhà thiết kế thời trang. Nhưng Suze bạn thân của cô, đính hôn. Nên làm sao Becky không thể nhận ra ngón tay đeo nhẫn của mình đang trống không? Rồi Luke cầu hôn! Những món quà cưới nhảy múa trong đầu Becky. Và điều nan giải là, có đến hai người đang tổ chức đám cưới cho cô, bà mẹ sung sướng vô bờ bến của Becky đã mòn mỏi chờ đợi để tổ chức một tiệc cưới tại sân nhà, với cô dâu lộng lẫy trong chiếc áo cưới cũ diêm dúa của mẹ. Trong khi bà mẹ giàu có của Luke khăng khăng đòi một tiệc cưới hoành tráng tại khách sạn Plaza. Cả hai đám cưới trong cùng một này. Mà làm sao Becky từ chối ai được... Liệu trước khi mọi rắc rối đó được giải quyết, nàng tín đồ shopping được mọi người yêu quý có kết hôn được hay không? Giới thiệ u vềtác giả : Sophie Kinsella, tên thật là Madeleine Wickham đang sống tại London cùng chồng và ba con. Cô từng là giáo viên và phóng viên tài chính. Cô cũng từng viết nhiều tác phẩm dưới tên thật của mình, nhưng phải đợi đến khi loạt truyện về Tín đồ Shopping được xuất bản, tên tuổi của cô mới lọt vào danh sách các tác giả có sách bán chạy hàng đầu thế giới. Series này gồm các cuốn: Tự thú của một Tín đồ Shopping (2000), Tín đồ Shopping oanh tạc Manhattan (2001), Tín đồ Shopping lấy chồng (2002), Tín đồ Shopping và chị gái (2004) và Tín đồ Shopping có baby (2007). Bộ phim đầu tiên dựa trên series này dự kiến sẽ ra mắt tháng 3 năm 2009. MỤC LỤC Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 1 Tặng Abigail, người luôn tìm ra cách giải quyết tuyệt vời chỉ trong nháy mắt NGÂN HÀNG SECOND UNION 53 PHỐ WALL NEW YORK, NY 10005 Ngày 7 tháng Mười một, năm 2001 Cô Rebecca Bloomwood Căn hộ B 251 Phố 11 Tây New York, NY 10014 Kính gửi cô Bloomwood: Số đồng chủ tài khoản mới: 5039 2566 2319 Chúng tôi rất hân hạnh được xác nhận lại tài khoản đồng chủ thẻ của cô và ông Luke. J. Brandon, và xin gửi kèm chứng từ giải trình việc trên. Một thẻ ghi nợ sẽ được chuyển đến quý cô trong phong bì riêng biệt. Ngân hàng Second Union của chúng tôi luôn tự hào vì khả năng phục vụ khách hàng cá nhân của mình. Hãy trực tiếp liên lạc với tôi bất cứ khi nào cô có thắc mắc gì, và tôi sẽ giúp đỡ cô bằng bất cứ cách nào có thể. Với tôi không có gì là không đáng được quan tâm. Chúc cô những điều tốt đẹp nhất. Trân trọng, Walt Pitman Giám đốc Dịch vụ Khách hàng NGÂN HÀNG SECOND UNION 53 PHỐ WALL NEW YORK, NY 10005 Ngày 12 tháng Mười hai, năm 2001 Cô Rebecca Bloomwood Căn hộ B 251 Phố 11 Tây New York, NY 10014 Kính gửi cô Bloomwood: Cám ơn cô vì lá thư ngày 9 tháng Mười hai cô gửi về việc tài khoản đồng chủ thẻ của cô và ông Luke J. Brandon. Tôi đồng ý rằng mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng nên vừa là tình bạn vừa là sự hợp tác, và để trả lời câu hỏi của cô, màu yêu thích của tôi là màu đỏ. Tuy nhiên, rất đáng tiếc, tôi không thể thay đổi tên danh mục trong sao kê sắp tới của cô như cô yêu cầu. Khoản nợ đặc biệt cô đề cập đến sẽ được xuất hiện trên sao kê tiếp theo của cô với tên “Prada, New York.” Tôi không thể chuyển nó thành "Hóa đơn tiền ga” Trân trọng, Walt Pitman Giám đốc Dịch vụ Khách hàng NGÂN HÀNG SECOND UNION 53 PHỐ WALL NEW YORK, NY 10005 Ngày 7 tháng Giêng, năm 2002 Cô Rebecca Bloomwood Căn hộ B 251 Phố 11 Tây New York, NY 10014 Kính gửi cô Bloomwood: Cảm ơn về lá thư ngày 4 tháng Giêng của cô về việc tài khoản đồng chủ thẻ của cỏ và ông Luke J. Brandon, và về số kẹo chocolate mà tôi buộc phải gửi trả lại. Tôi đồng ý rằng việc kiểm soát chi li từng khoản chi tiêu nhỏ nhặt là khó khăn, và rất tiếc khi nghe nói về “vấn đề bất đồng nho nhỏ kỳ lạ” giữa hai người. Thật đáng tiếc, chúng tôi không thể tách sao kê ra thành hai như cô yêu cầu, một phần gửi cho cô và phần kia gửi cho ông Brandon và “giữ bí mật nho nhỏ giữa hai chúng ta.” Tất cả các khoản thu và chi phải được gửi cùng với nhau. Đó là lý do tại sao tài khoản này có tên là tài khoản đồng chủ thẻ. Trân trọng, Walt Pitman Giám đốc Dịch vụ Khách hàng 1 OK. ĐỪNG HOẢNG HỐT. Câu trả lời sẽ đến ngay thôi. Tôi chỉ phải nghĩ thật kỹ xem hôn nhân là thế nào. Nó là tình yêu, hiển nhiên. Và sự gắn bó, và giúp đỡ lẫn nhau. Và... món xúp? Mắt tôi dán vào một cái liễn cổ to đùng bằng bạc, đồng bộ cùng một cái môi. Ngay lúc này, đó sẽ là một món quà cưới hoàn hảo. Tôi có thể hình dung ra cảnh: Suze và Tarquin ngồi bên lò sưởi, dùng cái môi múc xúp vào bát cho nhau. Cảnh này sẽ thật đáng yêu và đầy không khí gia đình và thật ấm áp, và mỗi lần họ húp xúp họ sẽ nghĩ đến tôi. Có lẽ thậm chí tôi còn đem nó đi chạm trổ. “Tặng những người bạn thân nhất Suze và Tarquin trong ngày cưới với tình yêu và lòng cảm mến từ Becky.” Và một bài thơ xinh xắn, có thể. Nhắc cho mọi người nhớ, chạm trổ khá là đắt đấy. Tôi nên xem lại xem tổng thiệt hại sẽ là bao nhiêu. “Xin lỗi, cái liễn đựng xúp kia bao nhiêu vậy?” Tôi nói, quay về phía Arthur Graham, chủ hiệu đồ cổ Graham’s Antiques. Cái cửa hàng này là một trong những cửa hiệu yêu thích của tôi ở West Village. Nó nhỏ và ấm cúng như một ngôi nhà và bạn quay hướng nào cũng có một cái gì đó bạn có thể thích. Chẳng hạn như một cái ghế tựa được chạm trổ tuyệt đẹp, và một cái bia để ném phi tiêu vẽ bằng tay trên chất liệu nhung, và cái đồng hồ treo tường cổ ở góc cửa hàng... “Cái liễn à?” Arthur đến bên cạnh, trông thật bảnh trong chiếc áo khoác và cà vạt. “Cái liễn này rất đặc biệt. Bạc thế kỷ thứ mười tám. Chế tác rất tinh vi. Cô có thấy họa tiết này trên miệng liễn không?” “Đẹp!” Tôi ngoan ngoãn nhìn ngắm. “Và cái này có giá...” Anh chàng xem một cuốn sổ nhỏ. “Bốn ngàn đô.” “Ô, được.” Tôi cười ngập ngừng, rồi cẩn thận đặt cái môi vào vị trí cũ. “Cảm ơn anh. Tôi sẽ... xem tiếp.” Như thế có lẽ hôn nhân không có gì liên quan đến món xúp. Có lẽ nó liên quan đến... cờ vua chăng? Tôi lướt nhẹ tay qua một bộ bàn cờ cổ tuyệt đẹp, tất cả được bài trí như một ván cờ đang chơi dở. Nhưng tôi không chắc Suze biết chơi cờ hay không. Một cái đồng hồ treo tường thì sao? Không. Hay... một cái đo khí áp cổ? Ôi Chúa ơi, tôi thực sự như chết đuối vớ được cọng rơm cũng bám. Tôi không thể tin đám cưới của Suze diễn ra trong hai ngày nữa mà tôi vẫn chưa tìm cho cô ấy và Tarquin một món quà. Hay chí ít là không một thứ gì tôi thực sự có thể tặng họ. Vài tháng trước tôi mua cho họ một cái giỏ mây để đựng thức ăn khi đi picnic đáng yêu vô cùng, bên trong đựng rất nhiều đồ dùng đi picnic, một cái bình làm mát champagne, những cái dao và dĩa thực sự rất tuyệt và thậm chí cả một cái chăn. Tôi phải mất hàng đống thời gian để chọn tất cả những thứ đó, và tôi khá hài lòng với nó. Nhưng tối qua Suze gọi điện để kiểm tra lại giờ chúng tôi sẽ đến, và kể với tôi rằng dì của cô ấy vừa mới tặng cho cô ấy một món quà tuyệt vời - một cái giỏ mây đựng thức ăn khi đi picnic đựng đầy đồ dùng ăn uống của hãng Conran! Ùm, không lẽ tôi lại tặng Suze một mòn quà giống hệt như ai đó sao? Vậy nên bây giờ tôi ở đây, nơi duy nhất tôi nghĩ mình cổ thể kiếm một cái gì đó độc đáo. Ngoại trừ... cái gì nhỉ? Cô ấy vẫn chưa lên danh sách quà tặng, bởi cô nói ghét cái ý tưởng bắt mọi người tặng đồ. Thôi dù sao thì tôi cũng không bao giờ định tặng cô ấy một bộ đĩa chán ngắt. Suze là bạn thân nhất của tôi, và tôi còn sắp làm phù dâu cho cô ấy nữa, và món quà của tôi phải là một thứ thật sự rất đặc biệt. Tôi có thể cảm thấy mình đang bắt đầu lo lắng. OK, hãy nghĩ mạch lạc một chút. Suze và Tarquin thích làm gì? “Ở đây anh có bán yên ngựa không nhỉ?” Tôi đột nhiên hào hứng hỏi. “Hay… dây cương không?” “Hiện nay thì không.” Ừ được rồi. Dù sao thì, tôi cũng phải kiếm hai cái, nhỉ? Và có thể chúng sẽ không vừa mấy con ngựa lắm... Hay giá để bản nhạc được chạm trổ nhỉ? Nhưng mà làm thế nào tôi mang nó về nhà bằng máy bay được chứ? Và dù sao thì chẳng ai trong số hai người chơi nhạc cả. Hay một cái tượng bán thân Abraham Lincoln bằng đá cẩm thạch? Một bức vẽ của... Từ từ đã. Tôi đẩy cái tượng bán thân của Lincoln sang một bên và nhìn chăm chú vào cái rương cổ mà ông ấy đang được đặt lên trên. Nào, cái đó nhìn cũng khá hay đấy. Thực ra là nó rất hay. Tôi tháo đai ra và nhẹ nhàng nhấc nắp lên, ngửi mùi da đã cũ. Ôi chao. Cái này thật tuyệt cứ mèo. Những cái đai bằng da và lụa tơ tằm nhạt màu, và một cái gương, và có những ngăn nhỏ để đặt khuy măng sét. Suze sẽ yêu cái này đấy, tôi biết cô ấy sẽ thích mà. Cô ấy có thể dùng nó để đựng áo len chui đầu và khi cô ấy cùng Tarquin đi nghỉ trên biển, một người khuân vác sẽ khênh nó lên cao cho cô ấy khi đi qua cầu tàu và nhìn cô ấy sẽ như một ngôi sao điện ảnh thật quyến rũ. Và vấn đề là dù có ai khác tặng họ một cái va li hay đại loại như thế thì một trong những châm ngôn vĩ đại nhất của tôi về cuộc sống là: bạn không bao giờ có thể có quá nhiều hành lý. “Cái rương này bao nhiêu vậy anh?” Tôi hỏi Arthur Graham, hơi lo lắng. Xin đừng là $ 10.000 nhé… “Chúng tôi bày nó đã một thời gian rồi.” Anh ta nhăn mặt nhìn nó. “Tôi có thể bán cho cô với giá... ba trăm đô la.” “Tuyệt vời.” Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Tôi sẽ lấy nó.” Nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc! Tôi đã mua cho Suze một món quà cưới! Ơn Chúa vì điều đó. Bây giờ tôi chỉ cần váy phù dâu nữa, và coi như xong. “Cô Bloomwood phải không?” Arthur nói, mở một cuốn sổ bìa da lớn ra. “Tôi chắc là chúng tôi có địa chỉ của cô rồi... Và vâng. Nó đây rồi.” Anh chàng cười với tôi. “Hôm nay chỉ có thế thôi sao?” Tôi không cần thêm bất cứ thứ gì. Tôi thậm chí không cần nhìn quanh cửa hàng nữa. “Ừm... Vâng.” Tôi nhìn vu vơ quanh cửa hàng một lần nữa. Mở mắt thật to khi đang ở trong những cửa hàng đồ cổ luôn luôn là một ý hay bởi vì thực sự có rất nhiều món hời ở đó. Và đó lúc nào cũng là một khoản đầu tư tốt. Ý tôi là, đây là cách một vài người kiếm tiền. Nhìn qua cánh cửa vào căn phòng phía sau, tôi thấy một góc của chiếc khăn choàng bằng đăng ten, và cảm thấy khao khát cực độ. Những cái khăn choàng cổ đúng là rất hợp mốt vào thời điểm này. Và do tôi đã mua cái rương, tôi bỗng nghĩ biết đâu Arthur sẽ giảm giá một nửa cho tôi. Hay thậm chí là cho không tôi vậy! Ôi thôi mà. Tôi sẽ nhìn rất nhanh thôi. Và chỉ nhìn những thứ xinh xắn thôi vì tôi đã hứa với Luke sẽ không mua thêm đồ gỗ nữa. “Tôi sẽ ngó qua một chút.” Tôi cười lại với Arthur. “Cảm ơn.” Tôi vui vẻ tiến vào căn phòng phía sau rồi với tay lấy chiếc khăn choàng đăng ten, nhưng lại gần nhìn nó hơi tả tơi. Tôi lại đặt nó xuống và cầm một cái bình pha cocktail lên. Nó đẹp thật. Có lẽ tôi nên mua thêm cho Suze cái này. “Cái này tuyệt quá!” Tỏi hồ hởi nói với Arthur, anh ta đi theo tôi vào trong này. “Trông nó ngộ đúng không?” anh đồng tình. “Nó đi theo cái giá đựng rượu thập niên 30 của thế kỷ 20.” “Giá đựng rượu sao?” Tôi nói sang sảng, cảm thấy vô cùng phấn khích. “Tôi không nhìn thấy...” “Nó đây.” Anh ta tiến về phía cái mà tôi nghĩ là tủ đựng đồ ăn, mở cánh cửa trước ra, và bên trong là những tấm kính hiệu Art Deco. “Cô xem này, đây là nơi cô đựng các chai rượu... đây là nơi để rượu whisky pha soda...” Tôi nhìn nó chằm chằm, say mê toàn tập. Một cái tủ rượu thật sự, cổ, thập niên 30. Tôi hằng mong ước một cái tủ rượu. Thử nghĩ mà xem, nếu chúng tôi có một cái như thế này trong căn hộ, nó sẽ thay đổi cuộc sống của chúng tôi. Hằng đêm Luke và tôi sẽ pha martini và nhảy theo những bài hát xưa, và ngắm mặt trời lặn. Như vậy mới thật có không khí làm sao! Chung tôi sẽ phải mua một máy chơi nhạc kiểu cổ với những cái kèn lớn, và bắt đầu sưu tập đĩa than, và rồi sẽ bắt đầu mặc những chiếc váy theo hơi hướng cổ điển đẹp lộng lẫy. Chúng tôi phải có cái này mới được. Chúng tôi phải có. Đây đâu phải một cái ghế chán ngắt hay một bộ giá sách buồn tẻ. Cái này khác biệt. Luke sẽ hiểu. “Cái đó bao nhiêu vậy?” Tôi nói, cố gắng nghe thờ ơ một chút. Tôi khá giỏi trong việc mua được giá hời ở cửa hiệu này. Mánh khóe là cố nói với giọng như thể bạn không quan tâm là mình sẽ mua hay không. “Cái này sao?” Arthur nhìn nó rất kỹ, và tôi nín thở. “Thực sự cái này lẽ ra phải 700 đô. Nhưng vì cô lấy cái rương nữa... nên tôi để cho cô hai thứ với giá... 800 đô nhé?” Tám trăm đô la. Một mòn quà cưới và một cái tủ rượu cổ độc đáo, cái mà chúng tôi sẽ trân trọng suốt đời. Ý tôi là, đây đâu phải mua một đôi giày mà sau đó bạn quên luôn. Đây là thực sự là một khoản đầu tư cho tương lai. “Tôi sẽ mua chúng!” Tôi hồ hởi nói với Arthur Graham. “Tuyệt vời!” Anh ấy cười lại với tôi. “Cô quả có con mắt tinh đời.” Luke và tôi đã sống cùng nhau ở New York đến nay là một năm, và căn hộ của chúng tôi nằm trên phố 11 Tây, ồ một khu thực sự rất đẹp, nhiều cây cối và không khí thật dễ chịu. Cò những ban công nhỏ được trang trí lộng lẫy trên tất cả các ngôi nhà, cổng vào cổ hàng cột đá, và cây trồng dọc vỉa hè. Sống ngay đối diện chúng tôi là một người nào đó chơi dương cầm theo phong cách jazz, vào những buổi tối mùa hè chúng tôi đi lên sân thượng của chung với những nhà hàng xóm, uống rượu và nghe nhạc. (Ít nhất chúng tôi cũng làm thế một lần, và tôi chắc chắn chúng tôi sẽ làm lại việc này.) Khi tôi đẩy cửa vào nhà, có một chồng thư ở hành lang, và tôi nhanh chóng lật từng cái. Chán ngắt. Chán ngắt... Tạp chí Vogue của Anh! Chán ngắt... Ôi. Hóa đơn thanh toán ở cửa hàng Saks Đại lộ số 5. Tôi nhìn vào phong bì một lúc, rồi bỏ nó ra và nhét vào túi xách. Không phải tôi đang cố giấu diếm. Đơn giản vì chẳng có lý do gì để Luke nhìn thấy nó. Gần đây tôi đọc được một bài báo rất hay trong tạp chí, với tiêu đề “Có quá nhiều thông tin?”, trong đó nói rằng bạn nên chọn lọc các sự kiện trong ngày thay vì nói với bạn đời của mình mọi thứ lắt nhắt vụn vặt và làm cho đầu óc của anh ấy/cô ấy mệt mỏi. Bài báo cũng nói rằng gia đình nên là nơi ẩn náu và không ai cần biết hết mọi thứ. Điều này, bạn cứ thử nghĩ mà xem, rất là hợp lý đấy. Tôi kẹp hết số thư từ còn lại vào dưới tay và đi lên cầu thang. Không có thư nào từ Anh, nhưng đúng hơn tôi cũng không mong có lá nào hôm nay, vì tối mai chúng tôi đã bay về nhà dự đám cưới! Tôi nóng lòng ghê gớm. Suze là người nổ phát súng đầu tiên trong số bạn bè tôi. Cô ấy sẽ cưới Tarquin, một anh chàng thực sự ngọt ngào mà cô ấy cả đời đã biết. (Thực ra là, anh chàng là anh họ của cô ấy. Nhưng việc này hợp pháp. Họ đã kiểm tra rồi.) Đám cưới sẽ diễn ra ở nhà bố mẹ cô ấy ở Hampshire, và sẽ có rất nhiều rượu champagne, và một con ngựa và xe ngựa... và trên hết tôi sẽ là phù dâu của cô ấy! Chỉ nghĩ thôi tôi đã cảm thấy khao khát lắm rồi. Tôi thực sự rất mong mỏi đến ngày này. Không phải mong mỏi được làm phù dâu mà mong mỏi được gặp Suze, được gặp bố mẹ, và về nhà. Đến hôm qua tôi mới nhận ra rằng mình đã không về nhà hơn sáu tháng nay rồi, đột nhiên tôi thấy thời gian sao dài thế. Tôi đã bỏ lỡ hoàn toàn sự kiện bố được bầu làm chủ tịch câu lạc bộ golf, đây là nguyện vọng cả đời của ông. Và tôi bỏ lỡ vụ bê bối khi Siobhan ở nhà thờ cuỗm hết số tiền trùng tu và dùng nó để đi đảo Cyprus. Và tồi tệ hơn cả, tôi đã bỏ lỡ lễ đính hôn của Suze - mặc dù hai tuần sau đó cô ấy đã đến New York để cho tôi xem nhẫn đính hôn. Nhưng không thành vấn đề vì tôi đang rất vui vẻ ở đây. Công việc ở Barneys của tôi tuyệt vời, và sống ở West Village thậm chí còn tuyệt vời hơn. Tôi thích đi dạo trên những con phố nhỏ, kín đáo, mua những cái bánh nướng nhỏ ở cửa hiệu bánh Magnolia vào sáng thứ Bảy và đi dạo ở những khu chợ. Về cơ bản, tôi yêu mọi thứ tôi có ở New York này. Có lẽ ngoại trừ mẹ của Luke. Nhưng mà gia đình vẫn là gia đình. Khi lên tới tầng hai, tôi nghe tiếng nhạc vọng ra từ căn hộ của mình, và tôi cảm thấy một chút mong ngóng trong lòng. Đó là Danny đang làm việc. Có lẽ đến bây giờ anh đã hoàn thành rồi! Chiếc váy của tôi có lẽ đã xong! Danny Kovitz sống ở tầng trên căn hộ của chúng tôi, trong căn hộ của anh trai, và anh trở thành một trong những người bạn tốt nhất của tôi kể từ khi tôi đến New York. Anh ấy là một nhà thiết kế tuyệt cú mèo, thực sự rất tài năng - nhưng chưa tiếng tăm lắm. Năm năm sau khi tốt nghiệp trường thời trang, anh vẫn đang đợi cơ hội lớn của đời mình. Nhưng như anh vẫn thường nói, làm một nhà thiết kế nổi tiếng còn khó hơn làm diễn viên. Nếu không gặp được đúng người hay có một ông bố là cựu thành viên The Beatles, bạn cứ quên việc nổi tiếng đi. Tôi cảm thấy thương anh vì anh rất xứng đáng được nổi tiếng. Vì thế ngay sau khi Suze nhờ tôi làm phù dâu của cô ấy, tôi nhờ anh thiết kế váy cho mình. Điều thật tuyệt là đám cưới của Suze sẽ đầy rẫy những quan khách giàu có và nổi tiếng. Vì thế hãy cứ hy vọng rằng một tá người sẽ đến hỏi tôi ai thiết kế váy của tôi vậy, và rồi cái vụ truyền miệng này sẽ bắt đầu, và Danny sẽ nổi tiếng! Tôi nóng lòng muốn xem xem anh làm được gì rồi. Tất cả những bức phác thảo anh cho tôi xem đều tuyệt vời - và tất nhiên, một cái váy làm bằng tay công phu sẽ có các chi tiết nhiều hơn loại mua sẵn. Thêm nữa, áo lót sẽ là một chiếc coóc xê được thêu tay kiểu xương cá - và Danny gợi ý nên khâu thêm một cái nơ thắt hình số 8 bé tí xíu đính loại đá tùy theo ngày sinh dùng trong các tiệc cưới, ý tưởng này quá độc đáo. Tôi chỉ lo duy một điều - cực kỳ vụn vặt - hai ngày nữa là đám cưới mà tôi thực sự chưa mặc thử cái váỵ. Hay thậm chí chưa cả nhìn thấy nó. Sáng nay tôi bấm chuông cửa nhà Danny để nhắc anh rằng tôi sẽ đi Anh hôm nay, và một lúc sau anh chàng loạng choạng đi ra cửa, hứa với tôi sẽ làm xong trước bữa trưa. Anh nói với tôi anh luôn để cho các ý tưởng của mình được khơi dậy ở những phút cuối cùng - khi anh tràn đầy hứng thú và thăng hoa. Đó là cách anh làm việc, anh trấn an tôi, và anh chưa bao giờ lỡ một cái hẹn nào. Tôi mở cửa ra và gọi “Có ai ở nhà không?” một cách đầy hứng khởi. Không có ai trả lời, vì thế tôi đẩy cửa vào phòng khách đa năng của chúng tôi. Đài thì ầm ĩ nhạc Madonna, ti vi thì phát MTV, và con chó robot kỳ quặc của Danny đang cố trèo lên cạnh của cái sofa. Và Danny đang ngủ vùi dưới cái máy khâu trong một đống lụa tơ tằm màu vàng. “Danny này?” Tôi nói đầy lo lắng. “Này, dậy ngay!” Giật mình, Danny ngồi dậy và xoa xoa khuôn mặt còm nhom của anh chàng. Mái tóc xoăn của anh rối bù, và đôi mắt màu xanh nước biển nhạt của anh thậm chí còn đỏ hơn lúc trước, khi anh mở cửa vào sáng nay. Khung người chỉ có da bọc xương trong chiếc áo phông màu ghi xám đã cũ và cái đầu gối củ lạc đâm ra khỏi cái quần jeans bị xé re tua, rất đồng bộ với cái sẹo do bị ngã khi trượt pa tanh cuối tuần trước. Trông anh như một thằng nhóc mười tuổi tóc tai lởm chỏm. “Becky!” anh mệt mỏi nói. “Hi! Em làm gì ở đây thế?” “Đây là căn hộ của em. Nhớ chứ? Anh đang xuống đây làm việc vì điện nhà anh bị chập do cháy cầu chì.” “Ừ đúng rồi.” Anh lờ đờ nhìn quanh. “Đúng thế.” “Anh ổn chứ?” Tôi săm soi anh đầy lo lắng. “Em có cà phê đấy.” Tôi đưa cho anh một cốc và anh uống vài hơi dài. Rồi đôi mắt anh dán vào số thư từ trên tay tôi và lần đầu tiên, anh có vẻ tỉnh táo. “Hey, có phải là rạp chí Vogue của Anh không?” “Ờ... vâng,” tôi nói, đặt nó xuống nơi mà anh không chạm tay vào được. “Vậy... cái váy đến đâu rồi?” “Nó sẽ rất tuyệt! Ổn cả!” “Em thử được chưa?” Một khoảng lặng. Danny nhìn vào cái đống lụa màu vàng trước mặt như thể anh ấy chưa từng nhìn thấy nó trong đời vậy. “Chưa, không,” cuối cùng anh ấy cũng lên tiếng. “Nhưng nó sẽ xong kịp chứ?” “Tất nhiên! Chắc chắn.” Anh đặt bàn chân xuống và cái máy khâu bắt đầu quay tít bận rộn. “Em biết sao không?” anh nói át cả tiếng ồn. “Anh thực sự có thể làm tốt hơn nếu có một cốc nước.” Có ngay! Tôi vội vã đi vào bếp, mở vòi nước, và đợi dòng nước lạnh chảy ra. Việc nước nôi trong tòa nhà này hơi quái gở một chút, và chúng tôi luôn phải trông cậy vào bà Watts, chủ tòa nhà, sẽ sửa chữa nó. Nhưng bà ta sống cách xa hàng dặm ở tít Florida, và cũng chẳng có vẻ gì quan tâm. Ngoài điểm đó ra thì chỗ này hoàn toàn tuyệt vời. Căn hộ của chúng tôi là rất lớn so với tiêu chuẩn của New York, với sàn nhà lát gỗ và lò sưởi, và những cái cửa sổ đồ sộ cao từ sàn lên tận trần nhà. (Tất nhiên, bố mẹ không hề bị ấn tượng tẹo nào khi họ ghé thăm. Điều đầu tiên họ không thể hiểu được là tại sao chúng tôi không sống trong một ngôi nhà. Rồi thì họ không thể hiểu được tại sao bếp lại nhỏ thế. Rồi thì họ bắt đầu nói không phải thật đáng tiếc sao khi chúng tôi không có vườn, và tôi có biết rằng Tom ở cạnh nhà vừa mới chuyển tới một ngôi nhà rộng 1/4 mẫu Anh [1] không? Thành thật mà nói, nếu bạn có 1/4 mẫu Anh ở New York thì người ta sẽ chỉ dùng nó để xây mười tòa nhà văn phòng thôi.) [1] Mẫu Anh là một đơn vị đo lường. 1 mẫu Anh tương đương với 0,4 hecta “OK! Vậy nó...” Tôi trở lại vào phòng khách và đột nhiên dừng lại. Cái máy khâu đã ngừng, và Danny đang đọc cuốn Vogue của tôi. “Danny!” Tôi gào lên. “Cái váy của em thì sao?” “Em có thấy cái này không?” Danny nói, chọc mạnh vào trang tạp chí. “Bộ sưu tập của Hamish Fargle lại mộr lần nữa thể hiện sự hóm hỉnh và tinh nhạy vốn có của anh,” anh ấy đọc to. “Thôi cho tôi yên! Tài năng của anh ta chỉ ở mức zero. Zero. Em biết không, anh ta học cùng trường với anh. Hoàn toàn ăn cắp một ý tưởng của anh...” Anh ngẩng lên nhìn tôi, mắt nheo lại. “Anh ta có được trưng bày hàng ở Barneys không?” “Ừm... Em không biết”, tôi nói dối. Danny hoàn toàn bị ám ảnh với việc được trưng bày hàng ở Barneys. Đó là thứ duy nhất anh muốn trên đời. Và chỉ vì tôi làm tư vấn bán hàng cá nhân ở đó, anh có vẻ như đang nghĩ tôi có thể sắp xếp những cuộc hẹn với giám đốc phụ trách phân phối. Thực ra, tôi đã từng sắp xếp các cuộc hẹn với giám đốc phụ trách phân phối cho anh. Lần đầu tiên, anh đến muộn một tuần so với cuộc hẹn và bà ấy đã đi Milan. Lần thứ hai, anh cho bà ấy xem một cái áo khoác và khi bà mặc thử, tất cả cúc áo đã rơi ra. Ôi Chúa ơi. Tôi đã nghĩ gì mà lại nhờ anh ta may váy cho mình chứ? “Danny, hãy nói cho em biết. Váy của em sắp xong chưa?” Một khoảng lặng dài. “Có nhất thiết phải xong hôm nay không?” Cuối cùng Danny cũng lên tiếng. “Kiểu như chính xác phải là hôm nay ấy?” “Sáu tiếng nữa em lên máy bay đấy!” Giọng tôi rít lên the thé. “Em sẽ bước vào nhà thờ trong chưa đầy...” Tôi ngừng lại lắc đầu. “Nghe này, đừng lo. Em sẽ mặc bộ khác.” “Bộ khác sao?” Danny đặt tờ Vogue xuống và ngây ra nhìn tôi. “Ý em là sao khi nói bộ khác?” “Em đang sa thải anh đấy à?” Anh nhìn tôi như thể tôi vừa nói với anh rằng cuộc hôn nhân mười năm của chúng tôi đã kết thúc. “Chỉ vì anh trễ hẹn một chút thôi sao?” “Em không sa thải anh! Nhưng ý em là, em không thể trở thành phù dâu nếu không có váy, đúng không?” “Nhưng em định mặc cái gì khác?” “Ừm...” Tôi vặn vẹo tay chân một cách ngượng ngùng. “Em có một cái váy dự trữ ở trong tủ...” Tôi không thế nói với anh thực ra tôi có những ba cái. Và hai cái kia vẫn đang được đặt ở Barneys. “Ai thiết kế?” “Ừm… Donna Karan,” tôi nói đầy tội lỗi. “Donna Karan sao?” Giọng anh vỡ òa như bị phản bội. “Em thích Donna Karan hơn anh sao?” “Tất nhiên là không! Nhưng ý em là, các đường may đã thực sự được may hết rồi...” “Mặc váy của anh đi.” “Danny...” “Mặc váy của anh đi! Đi mà!” Anh thả người xuống sàn nhà và lê về phía tôi bằng đầu gối. “Nó sẽ xong mà. Anh sẽ làm ngày làm đêm mà.” “Chúng ta không có cả ngày cả đêm đâu! Chúng ta chỉ có khoảng... ba tiếng đồng hồ nữa!” “Thì anh sẽ làm cả ba tiếng đồng hồ. Anh sẽ làm mà!” “Anh có thể làm một cái áo coóc xê thêu xương cá chưa thành hình trong vòng ba tiếng không?” tôi nói đầy ngờ vực. Nhìn Danny thật lúng túng. “Vậy thì... ừm... chúng ta có thể nghĩ lại, cái thiết kế đó hơi...” “Nghĩ thế nào?” Anh ấy gõ gõ ngón tay một lúc, rồi ngẩng lên. “Em có một cái áo phông trắng tinh nào không?” “Áo phông à?” Tôi không giấu nổi sự sợ hãi. “Nó sẽ rất tuyệt. Anh hứa đấy!” Âm thanh xinh xịch vọng vào từ bên ngoài, nghe như một chiếc xe tải nhỏ vừa đỗ vào lề đường và Danny liếc ra ngoài cửa sổ. “Này, em lại mua đồ cổ à?” Một giờ đồng hồ sau, tôi nhìn chằm chằm mình ở trong gương. Tôi đang mặc một chân váy đuôi dài quét đất làm bằng lụa màu vàng - phần trên là áo phông trắng, bây giờ hoàn toàn không thể nhận ra. Danny đã xé bỏ phần tay áo, khâu thêm những đồng tiền vàng nhỏ, may thêm các đường viền áo và những đường li chạy ở những nơi trước đây chẳng có gì - và về cơ bản nó biến thành phần thân trên của váy tuyệt nhất mà tôi từng nhìn thấy. “Em yêu nó.” Tôi hồ hởi nói với Danny. “Em yêu nó! Em sẽ là cô phù dâu tuyệt nhất trên thế giới!” “Nó khá đẹp đúng không?” Danny nhún vai một cách thờ ơ, nhưng tôi có thể nhận thấy anh hài lòng với bản thân. Tôi làm một ngụm cocktail nữa, uống cạn luôn. “Ngon tuyệt. Chúng ta uống thêm nữa chứ?” “Trong đó có cái gì thế?” “Ừm...” Tôi liếc nhìn lơ đãng những cái chai được xếp trong tủ rượu. “Em không chắc.” Phải mất một lúc mới đưa được cái tủ rượu lên cầu thang vào căn hộ của chúng tôi. Thành thật mà nói, nó hơi lớn hơn tôi nhớ, và tôi không chắc nó có vừa với cái hốc tường phía sau ghế sofa, chỗ mà tôi định đặt nó hay không. Nhưng dù sao thì nhìn nó thật tuyệt! Nó đứng đầy kiêu hãnh ở giữa phòng, và chúng tôi đã tận dụng nó triệt để. Ngay sau khi nó được chuyển đến, Danny đã lên trên nhà và chôm sạch cả tủ đựng đồ uống của Randall, anh trai anh, và tôi gom tất cả rượu trong bếp mà tôi có thể tìm thấy lại. Chúng tôi mỗi người uống một ly margarita và một ly vodka pha với nước chanh, và phát minh của tôi được gọi là Bloomwood, bao gồm vodka, nước cam, và kẹo M&M, cái này được vớt ra bằng thìa. “Đưa lại cho anh cái áo đi. Anh muốn bóp vai vào một tẹo.” Tôi gỡ cái áo ra, đưa cho anh và với tay lấy cái áo chui đầu, không buồn ý tứ nữa. Ý tôi là, đây là Danny mà. Anh suôn kim và bắt đầu khâu các viền áo của chiếc áo phông một cách thật chuyên nghiệp. “Vậy cái đôi bạn kỳ quặc cưới anh chị em họ của mình,” anh ấy nói. “Chuyện này là sao vậy?” “Họ không kỳ quặc!” Tôi lưỡng lự một chút. “Ừm, OK, Tarquin hơi kỳ quặc một chút. Nhưng Suze thì không hề kỳ quặc. Cô ấy là bạn thân nhất của em! Anh gặp rồi còn gì!” Danny nhướn mày. “Vậy - họ không tìm được ai khác hay sao mà lấy chính người trong gia đình mình thế? Cứ như thể, ‘OK, mẹ nghe này... em gái con, quá béo... con chó... ưmmm, không thích mái tóc đó’.” “Thôi ngay!” Tôi không thể nhịn cười. “Họ chỉ vừa nhận ra họ là dành cho nhau thôi mà.” “Cứ như phim Harry gặp Sally vậy.” Anh giả giọng đọc giới thiệu phim. “Họ đã từng là bạn. Họ cùng một dòng máu.” “Danny...” “OK.” Anh ấy dịu lại, và cắt chỉ. “Vậy còn em và Luke thì sao?” “Bọn em làm sao?” “Bọn em không nghĩ sẽ cưới nhau sao?” “Em... em không nghĩ gì cả!” Tôi nói, cảm thấy má hơi đỏ dần lên “Việc đó chưa bao giờ xuất hiện trong đầu em.” Điều này hoàn toàn là sự thật. Được rồi, OK. Điều này không hoàn toàn là sự thật. Có lẽ nó chỉ thoáng qua đầu tôi rất hiếm hoi thôi. Có lẽ đôi lúc tôi nguệch ngoạch viết “Becky Brandon” trên giấy để xem trông nó thế nào. Và có lẽ tôi cũng lật giở cuốn Tạp chí cưới của Martha Stewart một hay hai lần gì đó. Chỉ đơn thuần vì tò mò. Có lẽ, cũng có lúc bất chợt tôi nghĩ Suze sắp cưới và cô ấy hẹn hò với Tarquin còn ít thời gian hơn tôi và Luke. Nhưng bạn biết đấy, điều đó đâu thành vấn đề. Tôi thự c sự chưa thích cưới xin. Thực ra là, nếu Luke có hỏ i cưới thì tôi có lẽ cũng nói không. Ừm... Được rồi. Có lẽ tôi sẽ nói có. Nhưng vấn đề là, việc đó sẽ không xảy ra đâu. Luke không muốn cưới, “Còn lâu mới muốn, nếu không nói là không hề muốn.” Anh ấy đã nói như thế trong một cuộc phỏng vấn với rạp chí Telegraph ba năm trước đây, tôi đã tìm thấy nó trong tập hồ sơ đựng các bài báo được cắt ra của anh ấy. (Tôi không hề thích tọc mạch. Lúc đó tôi đang đi tìm mấy cái chun.) Bài báo đó chủ yếu về công việc của anh ấy, nhưng họ cũng hỏi anh ấy mấy chuyện riêng tư - và rồi giật một cái tít dưới ảnh của anh ấy như sau Brandon: hôn nhân luôn xếp cuối lịch trình. Tôi hoàn toàn cảm thấy không sao với chuyện này. Nó cũng nằm ở cuối lịch trình của tôi. Trong khi Dannỵ hoàn thành cái váy, tôi làm một ít việc nhà. Nói đúng hơn tôi bỏ mấy cái đĩa ăn sáng bẩn vào chậu rửa bát nơi mà chúng sẽ được ngâm xà phòng, cậy một vết bẩn trên bàn bếp - và rồi dành chút thời gian sắp xếp lại những hũ gia vị ở trên giá đựng gia vị, theo màu sắc. Việc này thật dễ chịu. Cũng thú vị như việc sắp xếp lại những cái bút dạ mà trước đây tôi đã làm. “Vậy hai người cảm thấy khó sống cùng nhau à?” Danny nói, đi đến bậu cửa và ngắm nhìn tôi. “Không.” Tôi nhìn anh ngạc nhiên. “Sao lại thế?” “Bạn anh Kirsty vừa thử sống cùng bạn trai. Thảm họa. Tất cả những gì họ làm là cãi lộn. Cô ấy nói không biết làm sao người ta lại sống cùng nhau được chứ.” Tôi sắp lọ thìa là Ai Cập bên cạnh cỏ ca ri (có phải là cỏ ca ri không nhỉ?), nom cũng được đấy. Sự thật là, Luke và tôi hiếm khi có vấn đề kể từ khi sống chung. Có lẽ ngoại trừ sự cố khi tôi sơn lại buồng tắm và làm dính sơn màu vàng óng ánh lên bộ com lê của anh ấy. Nhưng việc đó cũng không nghiêm trọng vì sau đó Luke đã thú nhận rằng, lúc đó anh ấy hoàn toàn cư xử thái quá, và bất cứ ai có đầu óc cũng thấy rằng sơn còn đang ướt. Bây giờ khi nghĩ lại, có lẽ chúng tôi cũng có chút xung đột nho nhỏ về việc tôi mua nhiều quần áo quá. Có lẽ thỉnh thoảng Luke cũng mở tủ quần áo ra và cáu tiết nói, “Em có bao giờ định mặc cái nào trong số này không?” Có lẽ chúng tôi cũng đã từng bàn bạc một cách thẳng thắn theo chiều hướng hơi cãi cọ một chút về việc Luke làm việc nhiều thế nào. Anh ấy điều hành một công ty tài chính và PR rất thành công của riêng mình, tập đoàn truyền thông Brandon có chi nhánh ở London và New York và đang không ngừng mở rộng. Anh ấy yêu công việc của mình và có lẽ một hay hai lần gì đó, tôi buộc tội anh ấy yêu công việc hơn tôi. Nhưng vấn đề là, chúng tôi là một cặp trưởng thành, khá linh hoạt và có thể nói mọi chuyện với nhau. Chúng tôi đi ăn trưa cùng nhau cách đây không lâu và có một buổi nói chuyện dài, trong suốt buổi đó tôi đã thành thực hứa rằng sẽ cố gắng mua sắm ít đi một chút và Luke thành thực hứa rằng anh ấy sẽ cố gắng làm việc ít đi một chút. Và tôi thiết nghĩ cả hai chúng tôi đang nỗ lực khá tốt. “Sống chung là phải cùng nhau cố gắng,” tôi nói đầy uyên thâm. “Bạn phải linh hoạt. Bạn phải biết vừa cho vừa nhận.” “Thật sao?” “Đúng thế. Luke và em chia sẻ với nhau về tài chính, chung em chia sẻ công việc nhà... tất cả chỉ là vấn đề cộng tác cùng nhau, vấn đề là anh không thể hy vọng mọi thứ sẽ như trước đây. Anh cần biết thích nghi” “Thật á?” Danny nhìn rất hào hứng. “Vậy em nghĩ ai thích nghi nhiều hơn? Em hay Luke?” Tôi trầm tư một lúc. “Thực ra, rất khó nói,” cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Em nghĩ cả hai phía đều phải làm vậy.” “Vậy, giả sử như... tất cả những thứ này.” Danny chỉ quanh căn hộ đầy ắp đồ đạc. “Phần lớn là đồ của em hay của anh ấy?” “Ừm…” Tôi nhìn quanh, thấy tất cả đống nến thơm của tôi, những cái gối tựa đăng ten kiểu cổ và hàng chồng tạp chí của tôi. Ngay tức thì, đầu óc tôi lại thoáng tái hiện lại căn hộ sạch sẽ không tì vết và vô cùng thưa thớt đồ đạc của Luke ở London. “Anh biết đấy...” Cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Mỗi người một ít...” Cái này cũng gần với sự thật. Ý tôi là, Luke có máy tính xách tay trong phòng ngủ. “Vấn đề là, giữa bọn em không có xích mích gì,” tôi tiếp tục. “Chúng em đồng điệu trong suy nghĩ. Chúng em như một khối thống nhất vậy.” “Thế thì tuyệt quá,” Danny nói, với tay lấy một quả táo từ bát hoa quả. “Hai người thật may mắn!” “Em biết chúng em thật may mắn!” Tôi tin tưởng nhìn anh. “Anh biết đấy, Luke và em tâm hồn rất đồng điệu, đôi khi dường như có cả... giác quan thứ sáu giữa chúng em.” “Thật à?” Danny nhìn tôi chằm chằm. “Em nói thật chứ?” “Vâng, đúng thế. Em biết anh ấy sắp nói gì, hay em đại loại cảm thấy khi anh ấy ở gần...” “Giống siêu năng lực Force [1] á?” “Em nghĩ là vậy.” Tôi hờ hững nhún vai. “Nó như một khả năng đặc biệt vậy. Em cũng không suy nghĩ về nó quá nhiều...” “Xin chào, Obi-Wan Kenobi [2]” một giọng nói ồm ồm phía sau lưng chúng tôi, cả tôi lẫn Danny đều sởn da gà. Tôi quay ra sau - và đó là Luke, đang đứng ngay ở cửa ra vào với một nụ cười khoái chí rất hóm hỉnh. Khuôn mặt anh đỏ bừng lên vì lạnh và có mấy bông tuyết trên mái tóc đen của anh, và anh thật cao, căn phòng này bỗng nhiên như nhỏ lại. [1] Siêu năng lực Force là một trong hai loại vũ khí chủ đạo của hai phe nhóm phim Star Wars (dịch là Chiến tranh giữa các vì sao). [2] Obi-Wan Kenobi là nhân vật chính trong series phim Chiến tranh giữa các vì sao. “Luke!” Tôi reo lên. “Anh làm bọn em sợ đấy!” “Xin lỗi,” anh nói. “Anh tưởng em sẽ cảm thấy sự có mặt của anh.” “Đúng thế. Ừm, em cũng đại loại cảm thấy có gì đó…” Tôi nói, hơi bướng bỉnh một chút. “Tất nhiên là em cảm thấy rồi.” Anh hôn tôi. “Chào Danny.” “Chào,” Danny nói, nhìn Luke cởi chiếc áo khoác bằng len lông cừu màu xanh tím than, rồi tháo măng séc áo cùng lúc tháo chiếc cà vạt ra, với những động tác rất dứt khoát và khéo léo như anh vẫn thường làm. Đột nhiên, sau một vài ly cocktail nữa, Danny hỏi tôi, “Vậy Luke làm chuyện đó có giống như cách anh ấy mở một chai champagne không?” Và mặc dù tôi rít lên và đánh anh, và nói không phải việc của anh, tôi cũng có thể phần nào cảm nhận được anh ấy muốn nói gì. Luke không bao giờ vụng về hay do dự hay đại loại trông lúng túng. Anh dường như luôn biết chính xác mình muốn gì, và phần nào anh luôn có được điều mình muốn, dù đó là việc mở champagne một cách thuần thục hay chiêu một khách hàng mới cho công ty hay trên giường, việc chúng tôi... Ừm. Thôi bỏ đi. Nói thế này cho nhanh, kể từ khi chúng tôi sống chung, chân trời của tôi như mở rộng hơn. Giờ thì anh đang cầm đống thư từ lên và bắt đầu lật thật nhanh qua một lượt. “Vậy anh dạo này thế nào hả Danny?” “Tốt, cảm ơn anh,” Danny nói, cắn một miếng táo. “Thế còn thế giới tài chính thì sao? Hôm nay anh có gặp anh trai tôi không?” Randall, anh trai của Danny, làm việc trong một công ty tài chính, và Luke đã ăn trưa với anh ấy một vài lần. “Không phải hôm nay, tôi không gặp,” Luke nói. “OK, ừm, khi nào gặp,” Danny nòi, “hãy hỏi anh ấy xem anh ấy có tăng cân không nhá. Thật tự nhiên vào. Chỉ cần nói, ‘Tại sao, Randall này, trông anh có vẻ đầy đặn đấy.’ Và rồi có thể nhận xét thêm về món khai vị của anh ấy. Anh ấy luôn hoang tưởng rằng mình bị béo. Thật là khôi hài.” “Đúng là tình anh em,” Luke nói. “Tình cảm thật đẹp, phải không?” Anh lật đến phong bì cuối cùng, và nhăn mặt nhìn tôi. “Becky này, sao kê tài khoản chung của anh và em đã đến chưa?” “Ừm... chưa. Chưa đến.” Tôi cười trấn an anh. “Em nghĩ mai nó sẽ đến!” Sao kê ngân hàng gửi cho chúng tôi thực sự đến từ hôm qua, nhưng tôi đã để nó ngay vào ngăn đựng đồ lót của mình. Tôi hơi lo lắng về một vài khoản chi tiêu, vì thế tôi chỉ xem xem có thể làm gì để thay đổi tình hình không. Sự thật là, mặc cho những điều tôi đã nói với Danny, tôi luôn nhận thấy cái tài khoản chung này hơi khó xử một chút. Đừng hiểu sai ý tôi, tôi hoàn toàn đồng ý với việc tiêu chung tiền. Thực ra, thề là, tôi yêu cái việc chia sẻ tiền với Luke. Nó làm tôi cảm thấy rất xúc động! Tôi chỉ cảm thấy hết yêu nó khi đột nhiên anh hỏi, “Bảy mươi đô la ở Bloomingdale này là cái gì thế?” và tôi không thể nhớ ra. Vì thế tôi phải vắt óc mới tìm được câu trả lời mới và khôn khéo - chuyện này quá đơn giản, và nó thật tài tình. Chỉ cần đổ một cái gì đó lên bản sao kê để anh ấy không thể đọc được. “Anh đi tắm đây,” Luke nói, cầm hết đống thư từ lên. Và khi sắp ra khỏi phòng - thì anh bỗng khựng lại. Rất chậm rãi anh quay người lại nhìn cái tủ rượu như thể mới nhìn thấy nó lần đầu tiên. “Cái gì đây?” anh hỏi một cách từ tốn. “Cái tủ rượu!” Tôi hào hứng nói. “Nó ở đâu ra thế?” “Ừm... nó... thực ra là hôm nay em đã mua nó.” “Becky này...” Luke nhắm mắt lại. “Anh nghĩ chúng ta đã thống nhất với nhau là không mua mấy thứ rác rưởi này nữa rồi chứ.” “Nó không phải là rác rưởi! Nó là đồ cổ thập niên 30! Hàng đêm chúng ra có thể làm cocktail thật tuyệt!” Tôi cảm thấy hơi lo lắng với sắc mặt của anh, vì thế tôi bắt đầu lắp bắp. “Nghe này, em biết chúng ta đã nói không mua thêm đồ đạc nữa. Nhưng cái này khác. Ý em là, khi anh nhìn thấy một thứ có một không hai thế này, anh bắt buộc phải vồ lấy thôi!” Tôi im dần và mím môi lại. Luke lặng lẽ tiến đến cái tủ rượu. Anh sờ tay lên nóc rồi nhặt lên cái pha cocktail, miệng ngậm chặt. “Luke này, em chỉ nghĩ nó sẽ rất thú vị! Em nghĩ anh sẽ thích nó. Cái gã ở cửa hàng nói với em là em thực sự có con mắt rất tinh đời...” “Thực sự có con mắt rất tinh đời,” Luke cao giọng như thể anh nghi ngờ điều đó. Tôi há hốc miệng vì kinh ngạc và hét lên khi anh ấy ném cái pha cocktail lên không trung, và tôi nhăn mặt lại, chờ cho nó rơi loảng xoảng trên nền nhà bằng gỗ - thì Luke tài tình bắt lấy nó. Danny và tôi há hốc mồm khi anh ấy lại ném nó lên lần nữa, xoay tròn và lăn nó trên cánh tay. Không thể tin được. Tôi đang sống với Tom Cruise. “Anh đã từng làm nghề pha rượu trong suốt mùa hè,” Luke nói, nở một nụ cười. Tôi chưa hề biết điều đó! Luke thật tham vọng và rất ra dáng doanh nhân, bạn nghĩ anh ấy không hề quan tâm đến chuyện gì ngoại trừ công việc... và rồi thì, thật tình cờ anh ấy làm bạn ngạc nhiên. “Hãy dạy em làm như vậy đi!” Tôi gào lên phấn khích. “Em muốn làm được như thế!” “Cả tôi nữa!” Danny nói. Anh nhặt một cái pha cocktail khác lên, xoay nó thật không chuyên nghiệp gì cả, rồi ném cho tôi. Tôi chụp nhưng nó hạ cánh xuống sofa. “Hậu đậu gớm!” Danny mỉa mai. “Cố lên, Becky! Em cần tập luyện việc bắt hoa cưới ở bữa tiệc cưới lần này đi.” “Không, em không làm thế đâu!” “Chắc chắn em làm được mà. Em muốn làm người tiếp theo chứ?” “Danny...” Tôi cười cố tỏ ra thật tự nhiên. “Hai người chắc chắn nên cưới đi,” Danny tiếp tục, tảng lờ tôi. Anh nhặt một cái pha cocktail lên và bắt đầu ném từ tay này sang tay kia. “Thật hoàn hảo. Hãy nhìn hai người này. Hai người sống cùng nhau, hai người không muốn giết nhau, hai người hoàn toàn không có quan hệ huyết thống... Anh có thể may cho em một cái váy cưới lộng lẫy...” Anh đặt cái pha cocktail xuống và đột nhiên trông rất nghiêm túc. “Này, nghe đây Becky. Hãy hứa với anh, nếu em làm đám cưới, anh sẽ được may váy cưới cho em.” Chuyện này thật kinh khủng. Nếu anh cứ tiếp tục như thế này, Luke sẽ nghĩ tôi đang cố gây áp lực cho anh ấy. Anh ấy thậm chí còn nghĩ tôi đã khẩn khoản xin Danny hãy đề cập đến chủ đề này. Tôi cần phải lấy lại cân bằng. Nhanh lên. “Thực ra, em chưa muốn cưới,” tôi nghe mình đang nói. “Ít nhất là trong vòng mười năm nữa.” “Thật sao?” Danny nhìn có vẻ kinh ngạc. “Em không muốn cưới sao?” “Thật vậy à?” Luke ngẩng lên, nét mặt rất khó hiểu. “Anh chưa biết điều đó đấy.” “Anh không biết sao?” Tôi đáp lại, cố gắng tỏ ra tự nhiên. “Ừm... thì bây giờ anh biết rồi đấy!” “Tại sao em không muốn cưới trong vòng mười năm nữa?” Danny hỏi. “Em... ừm...” Tôi hắng giọng. “Thực ra là, em còn rất nhiều việc phải làm trước. Em muốn tập trung vào sự nghiệp của mình, và em muốn... khám phá những khả năng tiềm tàng của mình… và... hiểu con người thực của mình trước... và... trở thành một người hoàn toàn... ừm… một con người có nhân sinh quan toàn diện.” Giọng tôi yếu ớt dần và tôi bắt gặp ánh mắt hơi lạ của Luke lộ ra chút bướng bỉnh. “Anh hiểu rồi,” anh nói, gật đầu. “ừm, nghe có vẻ rất thấu tình đạt lý.” Anh nhìn cái pha cocktail trong tay mình, rồi đặt nó xuống. “Anh nên đi đóng gói đồ đạc.” Lẽ ra anh phải không đồng tình với tôi. Chương 2 2 CHÚNG TÔI ĐẶT CHÂN XUỐNG SÂN BAY Heathrow vào lúc 7 giờ sáng hôm sau và nhận chiếc xe mình đã thuê. Khi chúng tôi lái xe về nhà bố mẹ Suze ở Hampshire, tôi lờ đờ ngó qua cửa sổ, nhìn ngắm vùng nông thôn phủ đầy tuyết, những hàng rào cây, những cánh đồng và những ngôi làng nhỏ, cứ như thể trước đây tôi chưa từng nhìn thấy. So với Manhattan, trông mọi thứ thật nhỏ bé và xinh xắn. Lần đầu tiên tôi hiểu ra tại sao người Mỹ lại cứ gọi mọi thứ ở Anh là “cổ kính.” “Bây giờ đi đường nào?” Luke hỏi, khi chúng tôi lại một lần nữa dừng ở một ngã tư nhỏ. “Ừm, chắc chắn anh nên rẽ trái ở đây. Ý em là ... rẽ phải. Không, ý em là trái.” Khi ô tô quay tròn, tôi lục túi xách để tìm thiệp mời, chỉ để xem lại địa chỉ chính xác. Ngài Gilbert và Quý Cô Cleath-Stuart trân trọng kính mời quý vị... Tôi nhìn chằm chằm, như bị thôi miên, vào nét chữ loằng ngoằng uốn lượn. Chúa ơi, tôi vẫn chưa thể tin được Suze và Tarquin lại sắp cưới. Ý tôi là, tất nhiên tôi tin. Xét cho cùng, họ cũng đã hẹn hò hơn một năm nay, và về căn bản Tarquin đã chuyển vào căn hộ mà trước đây tôi ở cùng với Suze - mặc dù có vẻ như họ sẽ ở Scotland ngày càng nhiều. Cả hai người họ thật ngọt ngào và sống thật thoải mái, và mọi người đều đồng ý rằng họ là một cặp tuyệt vời. Nhưng chỉ đôi lúc, khi tôi không tập trung lắm, đầu óc tôi bỗng hét lên, “Cái gì cơơơ? Suze và Tarquin sao?” Ý tôi là, Tarquin đã từng là ông anh họ kỳ quặc đến lập dị của Suze. Đã nhiều năm nay anh ấy chỉ là cái gã vụng về ở một xó mặc áo khoác cổ lỗ sĩ và lúc nào cũng ngân nga hát nhạc Wagner ở những chỗ công cộng. Anh ấy là gã trai hiếm khi dám mạo hiểm bước ra khỏi cái vỏ trú ẩn an toàn là ngôi biệt thự kiểu Scotland của mình - và khi anh chàng làm vậy thì đó là cái lần dẫn tôi tới cuộc hẹn hò tồi tệ nhất trong đời tôi (mặc dù chúng tôi không bao giờ nói về chuyện đó nữa). Nhưng bây giờ anh ấy... ừm, anh ấy là bạn trai của Suze. Vẫn hơi ngượng ngùng một tẹo, và vẫn luôn mặc mấy cái áo len chui đầu do bà vú già đan cho. Vẫn là những cái riềm áo rách rưới. Nhưng Suze yêu anh ấy, và đó mới là điều quan trọng. Ôi Chúa ơi, tôi không thể bật khóc được. Tôi phải tự thích nghi với chuyện này. “Lâu đài Harborough,” Luke đọc, dừng lại ở chỗ hai cột đá đổ nát. “Nó đây à?” “Ừm...” tôi hít thở, và cố tỏ ra tập trung. “Vâng, nó đây. Cứ lái vào trong đi anh.” Trước đây tôi từng đến nhà Suze nhiều lần, nhưng tôi luôn quên rằng nó hoành tráng thế nào. Xe chúng tôi lăn bánh xuống một đại lộ dài rộng, hai bên trồng toàn cây và tiến vào đường xe vào nhà lượn vòng quanh có rải sỏi. Ngôi nhà lớn, màu ghi xám, nhìn thật cổ kính, với những cột đá ở phía trước và thường xuân mọc trùm kín. “Nhà đẹp đấy,” Luke nói khi chúng tôi tiến về phía cánh cửa trước to đùng. “Nó bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?” “Không biết,” tôi nói mơ hồ. “Gia đình họ sở hữu nó nhiều năm nay rồi.” Tôi giật mạnh cái chuông cửa để xem liệu có mảy may cơ hội nào nó được sửa chưa - nhưng hiển nhiên là chưa. Tôi gõ cửa vài lần bằng cái vòng sắt nặng trịch - và khi cũng chẳng có ai trả lời, tôi cứ đi vào sảnh của cái lâu đài lát đá khổng lồ đó, nơi một con chó già giống Labrador đang nằm ngủ bên lò sửa kêu tí tách. “Xin chào?” Tôi hét to. “Suze có nhà không?” Bỗng nhiên tôi nhìn thấy bố Suze cũng đang ngủ cạnh lò sưởi, trong một cái ghế bành lớn đu đưa. Tôi hơi sợ bố của Suze, thật sự là vậy. Chắc chắn tôi không muốn đánh thức bác ấy dậy. “Suze ơi.” Tôi nói, nhỏ nhẹ hơn. “Bex! Mình nghĩ nghe thấy tiếng gì đó!” Tôi ngẩng lên - và Suze đang đứng ở bậc tam cấp, trong một cái váy dài bằng vải len kẻ ô vuông, mái tóc vàng thả dài sau lưng và nở nụ cười rạng rỡ, vui sướng. “Suze!” Tôi bước nhanh lên cầu thang và ôm chầm lấy cô. Khi buông nhau ra, mắt của cả hai chúng tôi đều đỏ hoe, và tôi cười run rẩy. Chúa ơi, tôi đã luôn nhớ Suze, thậm chí hơn tôi tưởng rất nhiều. “Lên phòng mình đi!” Suze nói, kéo mạnh tay tôi. “Lên đây xem váy của mình!” “Nó thực sự rất đáng yêu đúng không?” Tôi hào hứng nói. “Nhìn trong ảnh nó rất tuyệt.” “Nó thật hoàn hảo! Nhưng cậu phải xem, mình có cái áo coóc xê tuyệt cú mèo của Rigby và Peller... và cả cái quần lót chẽn gối rất yêu...” Luke hắng giọng và cả hai chúng tôi ngoảnh lại. “Ôi!” Suze nói. “Xin lỗi, Luke. Có cà phê, báo và các thứ ở trong bếp, đi lối đằng kia ạ.” Cô chỉ xuống phía hành lang. “Anh có thể dùng thịt xông khói và trứng nếu anh thích! Bà Gearing sẽ làm cho anh.” “Bà Gearing xem ra có vẻ là tuýp phụ nữ của anh,” Luke mỉm cười nói. “Anh gặp em sau nhé.” Phòng của Suze sáng sủa, lộng gió và nhìn ra một khu vườn. Tôi nói là vườn. Nó rộng khoảng mười hai ngàn héc ta, với những bãi cỏ chạy từ sau nhà đến tận những rặng tuyết tùng và một cái hồ, nơi mà Suze suýt chết đuối khi lên ba. Phía bên trái còn có một vườn hồng được rào xung quanh, với những luống hoa, con đường rải sỏi và bờ giậu, nơi Tarquin đã cầu hôn với Suze. (Hẳn là anh ấy đã quỳ một gối xuống và khi đứng lên thì sỏi bám đầy vào quần. Đúng kiểu Tarquin.) Phía bên phải có một sân quần vợt cũ rồi đến một bãi cỏ lởm chởm, trải đến tận hàng rào, phía bên kia là sân nhà thờ của làng. Ngay bây giờ khi nhìn ra cửa sổ, tôi có thể thấy một cái rạp khổng lồ bằng vải phía sau ngôi nhà, và một lối đi có mái che đang được dựng lên, lối đi này sẽ vòng quanh sân quần vợt và qua cả bãi cỏ, chạy đến tận cổng nhà thờ. “Cậu không định đi bộ đến nhà thờ chứ?” Tôi nói, bỗng nhiên sợ thay cho đôi giày Emma Hope của Suze. “Không đâu, ngốc ạ! Mình sẽ ngồi trên xe ngựa. Nhưng tất cả khách khứa sẽ đi bộ quay trở lại nhà, và sẽ có người đưa cho họ những cốc whisky nóng trên đường đi.” “Chúa ơi, thế thì thật hoành tráng!” Tôi nói, quan sát một ông mặc quần jeans bắt đầu đóng cọc xuống đất. Và tôi không ngăn mình, cưỡng lại được cảm giác hơi ghen tỵ một chút. Tôi luôn mơ ước có một đám cưới thật lớn và tuyệt vời, với ngựa và xe ngựa và rất nhiều trò huyên náo, kể từ khi... Ừm, kể từ... Nói một cách hoàn toàn thành thực, kể từ đám cưới của công nương Diana. Lúc đó tôi sáu tuổi, tất cả chúng tôi quây quần bên nhau cùng xem bên nhà cô hàng xóm Janice, và tôi vẫn nhớ mình đã trợn tròn mắt lên nhìn khi công nương bước ra khỏi xe ngựa trong chiếc váy đó. Cứ như Lọ Lem hiện hữu giữa đời thực. Còn đẹp hơn cả Lọ Lem. Tôi đã muốn là cô ấy biết bao. Mẹ mua cho tôi một cuốn sách kỷ niệm gồm rất nhiều bức ảnh tên là Ngày trọng đại của Diana - và ngày hôm sau tôi dành rất nhiều thời gian để làm phiên bản của riêng tôi có tên Ngày trọng đại của Becky, với rất nhiều tranh vẽ tôi trong chiếc váy xòe rộng, đội vương miện. (Và trong vài phiên bản khác, cầm một chiếc đũa thần.) Cò lẽ kể từ lúc đó tôi đã quên đi ít nhiều. Tôi không còn mơ mặc chiếc váy cưới màu kem xòe rộng nữa. Thậm chí tôi cũng đã từ bỏ việc sẽ cưới một người trong hoàng gia. Nhưng dù vậy, hễ nhìn thấy đám cưới là một phần trong tôi lại quay về là đứa trẻ lên sáu với đôi mắt long lanh mơ mộng đó. “Mình biết! Không phải sẽ tuyệt lắm sao?” Suze nói hồ hởi hạnh phúc. “Bây giờ, mình phải đi đánh răng đây...” Cô biến vào buồng tắm còn tôi thơ thẩn ở bàn trang điểm của cô, nơi cái thiệp thông báo lễ đính hôn của họ được nhét vào gương. Nữ Hầu tước Susan Cleath-Stuart và Hầu tướcTarquin Cleath-Stuart Blimey. Tôi luôn quên rằng Suze thật sự rất dòng dõi. “Mình muốn có một tước hiệu,” tôi nói, khi Suze quay trở lại phòng trên tóc cài một cái lược. “Mình thấy lạc lõng quá. Làm thế nào để có một cái?” “Ôi không, cậu không muốn có đâu,” Suze nói, chun mũi lại. “Chúng thật vớ vẩn. Người ta gửi thư cho cậu và viết Kính gửi bà Hầu tước.” “Ừ thì thế cũng hay. Mình có thể được gọi là gì?” “Ừm...” Suze lôi mạnh một mớ tóc rối ra. “Nữ Bá tước Becky Bloomwood thì sao?” “Cái tước hiệu đó làm mình nghe như 93 tuổi vậy,” tôi nói đầy hoài nghi. “Thế... Hiệp sĩ Đế chế Anh Becky Bloomwood thì sao? Mấy cái tước vị hiệp sĩ đế chế Anh này có vẻ khá dễ để có được, đúng không?” “Dễ kinh khủng,” Suze nói đầy tự tin. “Cậu có thể có một cái vì phục vụ trong một ngành nào đó hoặc một sự vụ gì đó. Mình sẽ đề cử cậu, nếu cậu thích. Thôi nào, bây giờ thì mình muốn xem cái váy của cậu!” “OK!” Tôi nhấc va li lên giường, bật ra, và cẩn thận lôi tác phẩm của Danny ra. “Cậu nghĩ sao?” Tôi tự hào giơ nó lên, áp sát vào người và quấn thân áo bằng lụa màu vàng quanh người. “Nó khá tuyệt, đúng không?” “Tuyệt cú mèo!” Suze nói, mắt mở to nhìn chằm chằm vào nó. “Mình chưa bao giờ nhìn thấy cái nào như thế này!” Cô sờ những đồng xê quin trên vai của cái váy. “Cậu kiếm nó ở đâu đấy? Có phải từ cửa hàng Barneys không?’’ “Không, nó là của Danny. Nhớ không, mình đã kể với cậu là anh ấy đang may váy cho mình ấy?” “Ừ...” Cô nhăn mặt. “Danny nào nhỉ”, nói lại xem. “Anh hàng xóm ở trên nhà mình ấy,” tôi nhắc cô. “Cái anh chàng thiết kế. Cái anh mà chúng ta vô tình gặp khi đi lên cầu thang lần trước ấy?” “Ồ, đúng,” Suze nói, gật đầu. “Mình nhớ rồi.” Nhưng qua cái cách cô nói, tôi biết cô thực sự không nhớ. Tôi đâu thể trách cô - cô chỉ gặp Danny có khoảng hai phút. Lúc đó anh đang định đi thăm bố mẹ ở Connecticut còn cô thì hơi mệt vì bay quá lâu và họ gần như không nói chuyện. Nhưng mà. Cũng hơi lạ khi nghĩ rằng Suze không thực sự biết Danny, và anh không biết cô, trong khi họ đều rất quan trọng đối với tôi. Cứ như thể tôi đã sống hai cuộc đời hoàn toàn tách biệt vậy, và tôi càng ở New York lâu thì chúng dường như càng tách xa nhau hơn. “OK, đây là váy của mình,” Suze hào hứng nói. Cô mở tủ quần áo và mở khóa một cái túi vải in hoa ra - đó là một cái váy đẹp mê hồn, may bằng lụa trắng và nhung với tay dài và đuôi váy dài kiểu truyền thống. “Ôi Chúa ơi, Suze,” tôi thở gấp, cổ họng nghẹn lại. “Cậu sẽ rất rất xinh đẹp. Mình vẫn không thể tin được cậu sắp cưới! ‘Bà Cleath-Stuart’. ” “Ôi, đừng gọi mình như thế!” Suze nhăn mũi nói. “Nghe cứ như mẹ mình vậy. Nhưng thực tình kể ra cũng tiện khi cưới một ai đó trong gia đình,” cô nói tiếp, đóng tủ quần áo lại, “bởi vì mình vẫn có thể giữ lại tên của mình và đồng thời có cả tên của anh ấy. Vì thế mình sẽ vẫn giữ ký hiệu S-C-S cho những cái khung ảnh của mình” Cô với tay lấy một hộp các tông và kéo ra một cái khung ảnh bằng thủy tinh cực đẹp, hình xoắn ốc. “Nhìn này, đây là dòng sản phẩm mới...” Công việc của Suze là thiết kế khung ảnh, những thứ này được bán khắp cả nước, và năm ngoái cô đã làm các sản phẩm đa dạng hơn, cả album ảnh, giấy gói quà, và cả hộp quà nữa. “Chủ đề là hình vỏ sò,” cô nói đầy tự hào. “Cậu thích chứ?” “Đẹp đấy!” Tôi nói, lướt ngón tay quanh vòng tròn xoắn ốc. “Làm thế nào cậu có ý tưởng này?” “Thực ra là mình có ý tưởng nhờ Tarkie! Một hôm bọn mình đang đi dạo, anh ấy kể khi còn nhỏ đã từng sưu tập vỏ sò và nói về những hình dạng khác nhau rất thú vị trong tự nhiên... thế là mình bỗng có ý tưởng đó!” Tôi nhìn khuôn mặt đầy hào hứng của cô, và đột nhiên mường tượng ra cảnh cô và Tarquin tay trong tay đi trên những cánh đồng hoang đầy gió, vận áo len dài tay có tim của The Scotch House. “Suze này, cậu sẽ rất hạnh phúc với Tarquin,” tôi nói đầy xúc động. “Cậu nghĩ thế à?” Cô đỏ mặt vì vui sướng. “Thật chứ?” “Chắc chắn rồi. Ý mình là, nhìn cậu mà xem! Cậu đang rất rạng ngời!” Điều này đúng. Trước đây tôi chưa từng nhận ra điều đó, nhưng trông cô hoàn toàn khác với Suze của ngày xưa. Vẫn cái mũi thanh tú và đôi gò má cao đó, nhưng khuôn mặt cô tròn hơn, và có vẻ dịu dàng. Tuy cô vẫn mảnh khảnh, nhưng có một cái gì đó đầy đặn... gần như là một... Ánh mắt tôi đưa xuống phía dưới thân hình cô và dừng lại. Chờ chút. Không. Chắc chắn… Không. “Suze này?” “Gì đấy?” “Suze này, cậu...” Tôi nuốt khan. “Cậu không... có bầu đây chứ?” “Không!” Cô đáp lại đầy phẫn nộ. “Tất nhiên là không! Thành thực mà nói, dù điều gì khiến cậu...” Cô bắt gặp ánh mắt của tôi, đột nhiên ngừng lại và nhún vai. “Ôi, thôi được rồi, đúng thế. Sao cậu đoán được thế?” “Sao mình đoán được à? Từ cách cậu... Ý mình là, nhìn cậu có bầu mà.” “Không, mình không như thế! Chưa ai từng đoán ra cả!” “Chắc chắn là có. Nó rất hiển nhiên mà!” “Không, không phải!” Cô thót bụng vào và tự nhìn mình trong gương. “Cậu thấy chưa? Và một khi mình đã mặc áo nịt của Rigby và Peller vào rồi...” Tôi không thể tưởng tượng nổi chuyện này. Suze đang có bầu! “Vậy - đây là chuyện bí mật à? Bố mẹ cậu không biết đấy chứ?” “Ôi không! Không ai biết. Kể cả Tarkie.” Cô xị mặt ra. “Việc này hơi khó xử, có bầu trong ngày cưới, cậu không nghĩ thế sao? Mình đã nghĩ mình sẽ giả vờ như đó là một em bé từ chuyến trăng mật.” “Nhưng chắc chắn ít ra cậu cũng phải có được ba tháng rồi.” “Bốn tháng. Mình sẽ sinh vào đầu tháng sáu.” Tôi nhìn cô chằm chằm. “Vậy làm cách quái nào cậu định giả vờ là một em bé từ chuyến trăng mật chứ?” “Ừm...” Cô nghĩ một lúc. “Có thể nó sinh hơi thiếu tháng một tẹo.” “Cả bốn tháng sao?” “Ừm, được rồi. Mình sẽ nghĩ cách khác,” Suze nói nhẹ như không. “Còn khối thời gian. Thôi dù sao thì điều quan trọng là không được nói với ai.” “OK, mình sẽ không nói.” Đầy thận trọng, tôi với tay sờ bụng cô. Suze đang có em bé. Cô sắp làm mẹ. Và Tarquin sắp làm bố. Chúa ơi, cứ như thể tự nhiên tất cả chúng tôi trưởng thành hay cũng đại loại như thế. Ít nhất Suze cũng đúng ở một điểm. Một khi cô mặc áo coóc xê vào rồi thì bạn không tài nào trông thấy chỗ phồng lên kia. Thật ra, khi chúng tôi cùng ngồi xuống bàn trang điểm của cô vào sáng hôm cô cưới, hớn hở cười với nhau, cô thực sự nhìn còn gầy hơn cả tôi, điều này hơi bị bất công. Chúng tôi đã có vài ngày rất tuyệt, nghỉ ngơi, xem lại những cuốn video cũ và ăn không biết bao nhiêu KitKats mà kể. (Suze đang ăn cho hai người, và tôi cần năng lượng sau chuyến bay vượt đại dương của mình.) Luke đã mang theo ít tài liệu và dành hầu hết thời gian trong thư viện - nhưng lần này tôi không thấy phiền. Thật tuyệt khi có thể dành thời gian bên Suze. Tôi đã được kể tất cả về căn hộ mà cô và Tarquin mua ở London, đã xem những bức ảnh về cái khách sạn tuyệt đẹp ở Antigua nơi mà cô vàTarquin sẽ đi nghỉ tuần trăng mật, và tôi đã thử hầu hết quần áo mới trong tủ của cô. Có hàng tá việc đang diễn ra khắp nơi trong nhà, người ở tiệm hoa, người phục vụ đồ ăn và họ hàng đến mỗi lúc một đông. Có điều hơi lạ một chút là không ai trong gia đình có vẻ đặc biệt bối rối. Mẹ của Suze vẫn ra ngoài đi săn cả hai ngày tôi ở đây, và bố cô thì ở tịt trong phòng đọc. Bà Gearing, quản gia của họ, là người sắp xếp rạp để tổ chức tiệc, hoa và mọi thứ - mà thậm chí bà ấy có vẻ khá thư thái. Khi tôi hỏi Suze về việc này thì cô chỉ nhún vai nói, “Mình đoán nhà mình đã quen với việc tổ chức các bữa tiệc lớn rồi.” Tối hôm qua có một bữa tiệc ngọt hoành tráng cho họ hàng của Suze và Tarquin đến từ Scotland, và tôi đã mong chờ ít ra mọi người sẽ nói chuyện về đám cưới vào lúc đó. Nhưng cứ mỗi lần tôi cố gắng làm mọi người hứng thú về những bông hoa, hay mọi chuyện mới lãng mạn làm sao thì tôi chỉ nhận được những cái nhìn trống rỗng. Chỉ khi Suze đề cập đến việc Tarquin sẽ mua cho cô một con ngựa để làm quà cưới thì tất cả bọn họ đột nhiên trở nên năng động, và bắt đầu nói về những người nuôi ngựa mà họ biết, những con ngựa mà họ đã mua, và bằng cách nào người bạn thân thiết tuyệt vời của họ có được một con ngựa cái lông màu hạt dẻ rất đẹp mà có lẽ Suze sẽ quan tâm. Ý tôi là, thiệt tình. Thậm chí không ai thèm hỏi tôi váy của tôi như thế nào. Thôi kệ. Tôi không quan tâm, bởi vì nhìn nó tuyệt vời. Cả hai chúng tôi nhìn đều tuyệt vời. Cả hai chúng tôi đều sẽ được trang điểm nhờ chuyên gia trang điểm tuyệt vời, và tóc của chúng tôi sẽ được búi cao lên tuyệt đẹp. Nhiếp ảnh gia sẽ chụp được bức ảnh có thể nói là “rất chân thực” cảnh tôi cài cúc cho Suze khi mặc váy cưới (anh ta đã bắt chúng tôi làm lại ba lần, thực ra là lúc cuối hai cánh tay tôi mỏi nhừ). Bây giờ trong lúc Suze đang ừm với à về những chiếc vương miện của sáu gia đình thì tôi nhâm nhi mấy ngụm champagne. Chỉ để giúp tôi bớt căng thẳng. “Mẹ cô thì sao?” người làm tóc nói với Suze khi cô ấy vén mấy sợi tóc xoăn màu vàng hoe lòa xòa trước mặt. “Bác ấy có muốn sấy tóc khô không?” “Chắc không đâu,” Suze nói, mặt xị ra. “Mẹ tôi thực sự không quan tâm đến mấy việc đó.” “Mẹ cậu sẽ mặc gì?” Tôi hỏi. “Chúa mới biết”, Suze nói. Có lẽ là bất cứ cái gì tiện tay. Cô nhìn tôi, và tôi cũng xị mặt ra đầy cảm thông. Tối qua mẹ của Suze đi xuống dưới nhà để uống gì đó trong cái chân váy xòe rộng thùng thình và cái áo len chui đầu đầy hoa văn, và một cái gài áo kim cương to đùng ở phía trước. Xin thứ lỗi, mẹ của Tarquin trông còn tệ hơn. Tôi thực sự không hiểu Suze cố gắng xoay sở ở đâu ra gu thẩm mỹ của mình. “Bex, cậu có thể đi xem để đảm bảo mẹ mình không mặc một cái váy làm vườn cũ kỹ kinh tởm được không?” Suze nói. “Mẹ mình sẽ nghe lời cậu, mình biết mẹ mình sẽ làm thế.” “Ừm... OK,” tôi hoài nghi nói. “Mình sẽ cố.” Khi đi ra khỏi phòng, tôi trông thấy Luke đi dọc hành lang trong bộ lễ phục. “Trông em đẹp lắm,” anh vừa nói vừa mỉm cười. “Thật chứ?” Tôi quay nhẹ một vòng. “Cái váy dễ thương phải không anh? Và nó cũng rất vừa vặn nữa...” “Anh đang không nhìn cái váy,” Luke nói. Mắt anh bắt gặp mắt tôi, lóe lên sự tinh quái và tôi cảm thấy khá vui sướng. “Suze đã chỉnh tề rồi chứ?” anh nói thêm. “Anh chỉ muốn chúc mừng cô ấy.” “À vâng,” tôi nói. “Anh cứ vào đi. Này Luke, anh sẽ không bao giờ đoán được đâu!” Tôi hẳn sẽ chết mất trong hai ngày vừa qua vì không kể cho Luke về em bé của Suze, và bây giờ những lời đó tuôn ra trước khi tôi kịp ngăn lại. “Gì hả em?” “Cậu ấy...” Tôi không thể nói với anh, tôi không thể. Suze sẽ giết tôi mất. “Cậu ấy... có cái váy cưới thực sự rất đẹp,” tôi lấp liếm. “Tốt!” Luke nói, nhìn tôi tò mò. “Có một điều ngạc nhiên, ừm, anh sẽ vào trong và nói vài câu thật nhanh. Gặp em sau nhá.” Tôi thận trọng đi đến phòng ngủ của mẹ Suze và nhẹ nhàng gõ cửa. “Ai đấy?” một giọng nói thét lên trả lời, và cánh cửa ra vào được Caroline, mẹ Suze, mở tung ra. Bà cao khoảng lm8 với đôi chân dài, thẳng tắp, mái tóc bạch kim được buộc lại, và khuôn mặt sạm nắng vừa gượng cười khi nhìn thấy tôi. “Rebecca!” bà nói oang oang, và nhìn đồng hồ đeo tay. “Chưa đến giờ đúng không?” “Chưa ạ!” Tôi bẽn lẽn cười và đảo mắt qua một lượt bộ cánh của bà gồm một cái áo khoác màu xanh lính thủy khá cũ, quần kỵ sĩ, và đôi bốt cưỡi ngựa. Bà có một thân hình tuyệt vời so với phụ nữ ở độ tuổi bà. Thảo nào Suze lại mảnh khảnh đến thế. Tôi liếc quanh phòng, nhưng không hề thấy túi đựng đồ vest hay cái hộp đựng mũ nào cả. “Vậy, ừm, bác Caroline... Cháu chỉ đang băn khoăn hôm nay bác định mặc gì ạ. Với tư cách là mẹ của cô dâu!” “Mẹ của cô dâu à?” Bà nhìn tôi chằm chằm. “Ôi Chúa nhân từ, bác đoán bác đúng là như vậy. Chưa từng nghĩ đến điều đó.” “Đúng thế! Vậy thì bác... đã có bộ cánh đặc biệt nào chưa ạ?” “Giờ mà thay quần áo thì hơi sớm nhỉ?” Caroline nói. “Bác chỉ việc khoác cái gì đó lên người trước khi chúung ta đi thôi mà.” “Vâng, vậy sao bác không để cháu chọn giúp ạ?” Tôi khăng khăng, và tiến đến tủ quần áo. Tôi mở tung cánh tủ ra, chuẩn bị tinh thần để khỏi sốc - và há hốc mồm vì ngạc nhiên. Đây chắc hẳn là bộ sưu tập quần áo độc đáo nhất mà tôi từng nhìn thấy. Bộ quần áo đi ngựa, những chiếc váy dạ hội, và ba chục bộ vest chen lấn đòi chỗ với những chiếc sari của Ấn Độ, áo poncho của Mexico... và một khay đựng toàn đồ trang sức dân tộc rất độc đáo. “Những bộ đồ này!” Tôi hổn hển. “Bác biết.” Caroline nhìn chúng đầy chán nản. “Toàn một đống giẻ rách cũ kỹ, thật đấy.” “Giẻ rách cũ kỹ ạ? Ôi Chúa ơi, nếu bác tìm được bất cứ món nào trong số này ở một cửa hiệu bán đồ cổ ở New York...” Tôi kéo một cái áo khoác bằng xa tanh màu xanh da trời nhạt cổ riềm ruy băng ra. “Cái này thật quá tuyệt.” “Cháu thích nó không?” Caroline ngạc nhiên nói. “Cầm lấy đi.” “Cháu không thể!” “Cháu yêu quý, bác không muốn mặc nó nữa mà.” “Nhưng chắc chắn giá trị tinh thần... Ý cháu là, những kỉ niệm của bác...” “Những kỉ niệm của bác nằm ở đây.” Bà gõ nhẹ vào đầu. “Không phải ở đó.” Bà xem xét đống quần áo lộn xộn, rồi cầm một mẩu xương nhỏ cột một sợi dây da lên. “Ngay lúc này, đây là cái bác khá thích.” “Cái đó ạ?” Tôi nói, cố gắng bày tỏ một chút đồng cảm. “Ừm, cái đó...” “Một tộc trưởng bộ tộc Masai đã tặng nó cho bác, đến nay cũng đã nhiều năm rồi. Lúc bình minh, bọn bác đang lái xe đi tìm đàn voi thì một tù trưởng ra hiệu cho bọn bác dừng lại. Một phụ nữ của bộ tộc đang bị sốt cao sau khi sinh. Bọn bác đã giúp cho cô ấy hạ nhiệt và bộ lạc đã tặng bọn bác những món quà. Cháu đã từng đến Masai Mara chưa Rebecca?” “Ừm... chưa ạ. Cháu chưa từng bao giờ thực sự đi...” “Và món quà xinh xắn đáng yêu này.” Bà nhặt một cái ví thêu tay lên. “Bác đã mua cái này ở trong chợ ở Konya. Đổi lấy nó bằng tút thuốc lá cuối cùng của bác trước khi bọn bác đi bộ đến bộ tộc Nemrut Dagi. Cháu đã từng đến Thổ Nhĩ Kỳ chưa?” “Chưa, chỗ đó cũng chưa ạ,” tôi nói, cảm thấy hơi thua thiệt. Chúa ơi, tôi cảm thấy mình đi du lịch ít quá. Tôi cố gắng lục lọi khắp đầu óc xem có chỗ nào tôi đã từng đi mà có thể làm bác ấy ấn tượng không - nhưng giờ nghĩ tới thì chuyện này khá vớ vẩn. Đi Pháp vài lần, Tây Ban Nha, Hy Lạp... và chỉ có thế. Tại sao tôi chưa từng đến đâu thú vị nhỉ? Tại sao tôi chưa từng đi bộ quanh Mông cổ nhỉ? À phải rồi, đã có một lần tôi định đi Thái Lan. Nhưng rồi tôi quyết định đi Pháp và tiêu toàn bộ số tiền tôi tiết kiệm được vào cái túi Lulu Guinness. “Cháu thực sự không đi du lịch nhiều,” tôi ngại ngần thú nhận. “Ừm, cháu phải đi, cháu gái yêu quý ạ!” Caroline nói oang oang. “Cháu phải mở rộng tầm nhìn của mình. Phải học về cuộc sống từ những con người thực. Một trong những người bạn thân thiết nhất của bác trên thế giới này là một phụ nữ nông thôn Bolivia. Bọn bác đã cùng trồng ngô trên thảo nguyên ở Llanos.” “Ôi.” Một cái đồng hồ xinh xắn đặt ở bệ lò sưởi đánh chuông cứ nửa tiếng một lần và tôi chợt nhận ra chúng tôi sẽ chẳng đi đến đâu cả. “Vậy thì... bác có ý tưởng nào về bộ trang phục cho đám cưới chưa ạ? “Một cái gì đó ấm áp và sặc sỡ một chút,” Caroline nói, với tay lấy một cái áo poncho màu đỏ và vàng khá dày. “Ừm… Cháu không chắc cái đó có hoàn toàn phù hợp không...” Tôi tách đống áo khoác và váy ra, và bỗng nhiên nhìn thấy một vạt lụa màu mơ. “Ôi! Cái này đẹp quá.” Tôi lôi nó ra - và tôi không thể tin được. Váy của Balenciaga. “Đó là bộ mặc đi xa của bác,” Caroline nói như đang hồi tưởng lại. “Bọn bác đã đi du lịch trên chuyến tàu Orient Express để đến Venice, rồi đã khám phá những hang động ở Postojna. Cháu có biết chỗ đó không?” “Bác phải mặc cái này mới được!” Tôi nói, giọng rít lên vì phấn khích. “Trông bác sẽ rất tuyệt đấy. Và nó cũng rất lãng mạn, mặc bộ cánh dùng để đi xa của bác đi ạ!” “Bác nghĩ trông nó sẽ khá nhộn.” Bà giơ nó lên, áp vào người bằng hai cánh tay đỏ và rám nắng làm tôi nhăn mặt mỗi khi nhìn thấy. “Chắc là vẫn vừa nhỉ? Nào, phải có cái mũ nào ở quanh đây chứ...” Bà đặt bộ cánh xuống và bắt đầu lục quanh giá. “Vậy - chắc hẳn bác rất mừng cho Suze,” tôi nói, nhặt một cái gương cầm tay nạm ngọc lục bảo lên và săm soi nó. “Tarquin là một chàng trai tốt.” Bà quay lại và gõ gõ cái mũi khoằm của mình khá cẩn trọng. “Được thừa kế rất tốt.” Điều này đúng. Tarquin là người giàu thứ 15 ở đất nước này, hay đại loại thế. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên khi mẹ Suze lại đề cập đến chuyện này. “Dạ, đúng thế...” Tôi nổi. “Mặc dù cháu không nghĩ Suze thực sự cần tiền...” “Bác đang không nói đến tiền bạc!” Bà mỉm cười với tôi đầy ngụ ý và bỗng nhiên tôi hiểu ra điều bà muốn nói. “Ô!” Tôi cảm thấy mặt mình đang đỏ lựng lên. “Đúng thế! Cháu hiểu!” “Tất cả những người đàn ông trong dòng họ Cleath-Stuart đều giống nhau. Họ đều nổi tiếng về chuyện đó. Chưa bao giờ có một vụ ly dị nào trong gia đình,” bà nói thêm, đặt bụp một cái mũ rộng vành màu xanh lá cây lên đỉnh đầu. Chúa ơi. Bây giờ tôi phải nhìn nhận Tarquin hơi khác đi. Cũng phải mất một lúc tôi mới thuyết phục được Caroline bỏ cái mũ rộng vành màu xanh lá cây và thay bằng cái mũ chụp màu đen rất thanh lịch. Khi đi trên hành lang về phía phòng Suze, tôi nghe thấy vài giọng nói khá quen thuộc ở tiền sảnh của ngôi nhà. “Đó là kiến thức phổ thông thôi mà. Bệnh lở mồm long móng là do những con chim bồ câu đưa thư gây ra.” “Chim bồ câu à? Bà đang bảo với tôi là cái bệnh dịch khủng khiếp đã tiêu diệt gần như tất cả các đàn gia súc ở khắp châu Âu là do mấy con chim bồ câu vô hại gây ra sao?” “Vô hại sao? Graham, chúng là loài chim gây hại đấy!” Bố mẹ! Tôi vội vã đi về phía cầu thang - và kia là họ, đang đứng bên cạnh lò sưởi. Bố mặc bộ lễ phục với cái mũ kẹp vào tay, còn mẹ mặc áo khoác màu xanh tím than, chân váy hoa, đi đôi giày màu đỏ tươi, có vẻ như không hợp với cái mũ đỏ của bà lắm. “Mẹ ơi.” “Becky!” “Mẹ ơi! Bố ơi!” Tôi vội vã đi xuống cầu thang và ôm chầm lấy cả hai người, hít hương thơm quen thuộc của bột tan dùng khi tắm của hãng Yardley và Tweed. Chuyến đi này càng lúc càng thêm xúc động. Tôi chưa từng gặp bố mẹ mình kể từ khi họ đến thăm tôi ở New York vào bốn tháng trước. Và ngay cả khi đó, hai người cũng chỉ ở lại ba ngày trước khi bay đi Florida để gặp gia đình Everglade. “Mẹ ơi, trông mẹ tuyệt quá! Mẹ đã làm gì với mái tóc của mình thế?” “Maureen đã nhuộm highlight vài chỗ,” bà nói, trông vẻ rất hài lòng. “Và sáng nay mẹ ghé sang nhà Janice ở kế bên để cô ấy trang điểm cho mẹ. Con biết đấy, cô ấy đã tham gia một khóa trang điểm chuyên nghiệp. Cô ấy thực sự là một chuyên gia!” “Con có thể... thấy thế!” tôi yếu ớt nói, nhìn vào mấy vệt má hồng gớm ghiếc và màu nhũ bóng được trát lên má mẹ. Có lẽ tôi sẽ phải giả vờ vô tình lau chúng đi. “Vậy Luke đang ở đây à?” mẹ tôi nói, nhìn xung quanh với đôi mắt sáng rỡ, cứ như thể một con sóc đang tìm kiếm củ lạc vậy. “Đâu đó quanh đây ạ,” tôi nói - và bố mẹ tôi đưa mắt nhìn nhau. “Cậu ta ở đây đấy chứ?” Mẹ tôi nhoẻn cười khá căng thẳng. “Cả hai bay cùng một chuyến bay đấy chứ?” “Mẹ ơi, mẹ đừng lo. Anh ấy ở đây. Thật mà.” Mẹ tôi có vẻ vẫn chưa được thuyết phục lắm - và thật lòng mà nói tôi không thể trách bà được. Sự thật là, có một sự cố nho nhỏ ở đám cưới lần trước mà chúng tôi cùng dự. Luke đã không xuất hiện, và tôi đã thảm hại vô cùng, và tôi đã phải viện đến kế... ừm... Thôi. Đó cũng chỉ là một lời nói vô hại cỏn con thôi mà. Ý tôi là, anh có thể đã ở đó, nhập bọn ở một nơi nào đó. Nếu họ không phải chụp cái bức ảnh tập thể ngu ngốc đó thì không ai biết được. “Bác Jane! Bác Graham! Chào hai bác!” Đó là Luke, đang sải bước qua cửa ra vào. Cảm ơn Chúa. “Luke!” Mẹ tôi bật cười nhẹ nhõm. “Cháu đây rồi! Graham, cậu ấy ở đây rồi!” “Tất nhiên là cậu ấy ở đây rồi!” Bố tôi nói, đảo mắt. “Thế bà nghĩ cậu ấy ở đâu chứ? Ở trên mặt trăng sao?” “Bác có khỏe không bác Jane?” Luke vừa nói vừa mỉm cười, và hôn lên má mẹ tôi. Khuôn mặt mẹ tôi hồng lên vì hạnh phúc, và bà đang bám lấy cánh tay của Luke như thể sợ anh sẽ tan biến như một làn khói. Anh khẽ cười với tôi, và tôi sung sướng cười đáp lại. Tôi đã mong mỏi ngày này từ rất lâu rồi. Và bây giờ nó thực sự đã đến. Cứ như thể Giáng sinh vậy. Thực ra còn thú vị hơn cả Giáng sinh. Nhìn qua cánh cửa ra vào mở toang, tôi có thể thấy khách mời đến dự đám cưới vận lễ phục và đội mũ rất lịch thiệp đang đi qua cái sân rải sỏi đầy tuyết. Từ đằng xa, chuông nhà thờ đang ngân lên, và bầu không khí dường như náo nhiệt, háo hức mong chờ. “Và cô dâu bẽn lẽn của chúng ta đâu rồi?” Bố tôi hỏi. “Cháu đây”, giọng của Suze cất lên. Tất cả chúng tôi đều ngẩng lên - và cô ấy kia rồi, đang lướt trên cầu thang, tay cầm một bó hoa đẹp mê hồn gồm hoa hồng và hoa thường xuân. “Ôi, Suze,” mẹ tôi nói, và lấy một tay che miệng. “Ôi, cái váy đó! Ôi... Becky! Con sẽ...” Mẹ quay lại phía tôi với đôi mắt dịu dàng và lần đầu tiên bà có vẻ nhận ra tôi đang mặc gì. “Becky này… con định mặc cái váy đó à? Con sẽ chết cóng mất!” “Không, con không sao. Nhà thờ được sưởi ấm mà.” “Nó đáng yêu đúng không ạ?” Suze nói. “Rất khác lạ.” “Nhưng nó chỉ là cái áo sơ mi thôi mà!” Mẹ kéo mạnh tay áo và không hài lòng. “Và cái đống tua rua này là gì vậy? Nó chưa được may xong hoàn chỉnh!” “Nó được thiết kế riêng,” tôi giải thích. “Nó hoàn toàn độc nhất vô nhị.” “Độc nhất vô nhị sao? Con không cần mặc cho hợp với những cô phù dâu khác à?” “Sẽ không có một cô phù dâu nào khác ạ,” Suze giải thích. “Một người duy nhất nữa mà cháu đã nhờ là em gái của Tarquin, Fenny. Nhưng con bé nói nếu nó làm phù dâu một lần nữa thì nó sẽ bị xúi quẩy không lấy chồng được. Mọi người biết đấy, người ta nói, ‘Quá tam ba bận làm phù dâu mà’, ừm, và con bé làm phù dâu có lẽ đến chín mươi ba lần rồi cũng nên! Và cô nàng đang để ý đến một gã làm việc trong ủy ban Thành phố, vì vậy nó không muốn bất cứ rủi ro nào.” Im lặng một lúc. Tôi có thể thấy bộ não của mẹ tôi đang làm việc rất vất vả. Ôi Chúa, ơi, làm ơn đừng... “Becky yêu dấu, con đã làm phù dâu bao nhiêu lần rồi?” bà nói, có vẻ khá tự nhiên. “Cái lần ở đám cưới của chú Malcolm và dì Sylvia... nhưng mẹ nghĩ chỉ có thế thôi, đúng không?” “Và của Ruthie và Paul nữa,” tôi nhắc mẹ nhớ. “Lần đó con không làm phù dâu,” mẹ tôi nói ngay lập tức. “Con chỉ là... cô bé phụ trách cầm hoa. Vì vậy mới có hai lần kể cả lần hôm nay. Đúng, chỉ có hai lần.” “Luke, cháu nghe thấy chưa?” Bố tôi nói, và cười thật lớn. “Mới hai lần.” Thành thực mà nói, bố mẹ tôi thế nào ấy nhỉ? “Ừm, thế nào cũng được!” Tôi nói, cố gắng nhanh chóng nghĩ ra một chủ đề khác. “Vậy... ờ...” “Tất nhiên rồi ạ, Becky còn hẳn mười năm nữa mới phải lo lắng đến việc như thế...” Luke nói thoải mái. “Cái gì cơ?” Mẹ tôi chết lặng, và mẹ tôi hết nhìn Luke rồi lại nhìn tôi và ngược lại. “Cháu nói gì cơ?” “Becky muốn chờ ít nhất mười năm nữa mới cưới,” Luke nói. “Không đúng sao, Becky?” Một khoảng lặng chết người. Tôi có thể cảm thấy mặt mình đang nóng dần lên. “Ừm...” Tôi hắng giọng và cố gắng nở một nụ cười thật bình thản. “Đúng... đúng thế.” “Thật sao?” Suze nói, nhìn tôi chằm chằm, mắt mở to. “Mình chưa bao giờ biết điều đó đấy! Tại sao?” “Để mình có thể... ừm... khám phá hết khả năng tiềm ẩn của mình,” tôi lầm bầm, không dám nhìn vào mắt mẹ. “Và... để biết con người thật của chính mình.” “Để biết con người thật của chính mình sao?” Giọng mẹ tôi hơi rít lên. “Làm sao con lại cần đến mười năm để làm việc đó? Mẹ có thể cho con thấy trong vòng mười phút!” “Nhưng Bex này, mười năm nữa cậu sẽ bao nhiêu tuổi chứ?” Suze nói, chau mày lại. “Mình cũng không nhất thiết phải cần chính xác mười năm,” tôi nói, cảm thấy hơi bối rối. “Cậu biết đấy, có thể là… tám năm là đủ rồi.” “Tám năm?” Mẹ tôi nhìn như thể bà muốn khóc òa. “Luke này,” Suze nói, nhìn đầy lo sợ. “Anh có biết việc này không?” “Hôm trước bọn anh có thảo luận về chuyện này,” Luke nói với một nụ cười rất bình tĩnh. “Nhưng em không hiểu,” cô khăng khăng. “Thế còn chuyện...” “Đến lúc rồi?” Luke ngay lập tức chặn cô lại rất khéo. “Em nói đúng. Anh nghĩ rất cả chúng ra nên đi rồi. Mọi người biết đấy, năm phút nữa là đến hai giờ rồi.” “Năm phút nữa sao?” Suze bỗng như chết sững người. “Thật sao? Nhưng em vẫn chưa sẵn sàng! Bex ơi, hoa của cậu đâu?” “Ờ... trong phòng cậu, mình nghĩ vậy. Mình đặt chúng ở đâu đó...” “Ừ, đi lấy ngay đi! Và bố tớ đâu nhỉ? Ôi chết tiệt, tớ muốn một điếu thuốc.” “Suze, cậu không thể hút thuốc!” Tôi hoảng sợ nói. “Nó sẽ hại đến...” Tôi chặn mình lại đúng lúc. “Đến cái váy?” Luke gợi ý rất hợp lý. “Đúng. Cô ấy có thể... làm rơi tàn thuốc lên đó.” Đến lúc tôi tìm thấy hoa của mình trong phòng Suze, thoa lại son môi, và đi xuống cầu thang lần nữa thì chỉ còn lại mỗi Luke ở tiền sảnh. “Bố mẹ em đã qua bên đó cả rồi,” anh nói. “Suze bảo chúng ta cũng nên qua bên đó, còn cô ấy sẽ đi với bố bằng xe ngựa. Và anh đã tìm được cái áo khoác cho em,” anh nói thêm, nhẹ nhàng đưa cái áo khoác lông cừu cho tôi. “Mẹ em nói đúng, em không thể cứ đi bộ sang bên đó như thế kia.” “OK,” tôi miễn cưỡng đồng ý. “Nhưng em sẽ cởi nó ra khi vào đến nhà thờ.” “Nhân tiện đây em có biết là cái váy của em đang bị rách bung ra ở phía sau lưng không?” anh nói khi khoác áo lên người tôi. “Thật sao?” Tôi nhìn anh bối rối. “Trông nó có tệ không anh?” “Trông rất đẹp.” Miệng anh cố nặn ra một nụ cười. “Nhưng có lẽ em cần một cái ghim băng sau khi cử hành lễ.” “Danny chết tiệt!” Tôi lắc đầu. “Em biết lẽ ra em nên chọn Donna Karan mà.” Khi tôi và Luke đi qua sân rải sỏi đến lối đi đã được căng bạt, không khí thật tĩnh lặng, im ắng và mặt trời chói chang bắt đầu ló ra. Tiếng chuông nhà thờ ngân vang như nhỏ dần chỉ còn là tiếng ngân nhỏ, và không có ai ở quanh ngoại trừ một anh chàng phục vụ bàn chạy qua chạy lại. Những người khác ắt hẳn đã vào hết bên trong. “Xin lỗi nếu lúc nãy anh đề cập đến một chủ đề nhạy cảm,” Luke nói khi chúng tôi bắt đầu tiến về phía nhà thờ. “Nhạy cảm ạ?” Tôi nhướn mày. “Ôi, chuyện gì, à chuyện đó. Chuyện đó thì có gì mà nhạy cảm!” “Mẹ em có vẻ hơi buồn...” “Mẹ em á? Thực sự mẹ em không hề thấy phiền đâu. Thực ra là... mẹ em chỉ nói đùa thôi!” “Nói đùa sao?” “Đúng thế!” Tôi nói, hơi ương ngạnh. “Chỉ là nói đùa.” “Anh hiểu.” Luke cầm lấy tay tôi khi tôi vấp phải tấm thảm. “Thế em vẫn cương quyết đợi tám năm nữa rồi mới cưới à.” “Chính xác.” Tôi gật đầu. “Ít nhất tám năm nữa.” Từ đằng xa tôi có thể nghe thấy tiếng vó ngựa trên sân sỏi, chắc hẳn đó là tiếng xe ngựa của Suze dừng lại. “Hay, anh biết không, có lẽ sáu năm,” tôi nói thoải mái. “Hay... năm năm, có lẽ thế. Còn phụ thuộc nhiều thứ.” Một khoảng im lặng khá lâu, chỉ bị phá vỡ bởi âm thanh êm dịu, đầy nhịp điệu của tiếng bước chân của hai chúng tôi trên đường. Một bầu không khí rất lạ đang lớn dần lên giữa hai chúng tôi, và tôi hoàn toàn không dám nhìn vào mắt Luke. Tôi hắng giọng và vuốt mũi, cố nghĩ ra một lời nhận xét nào đó về thời tiết. Khi chúng tôi đặt chân đến cửa nhà thờ, và Luke quay lại nhìn tôi - bỗng nhiên vẻ chế nhạo thường lệ trên khuôn mặt anh biến mất. “Nghiêm túc nhé, Becky,” anh nói. “Có thực sự em muốn đợi năm năm nữa không?” “Em... em không biết,” tôi nói, bối rối. “Còn anh?” Có một khoảng im lặng giữa hai chúng tôi, và tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Ôi Chúa ơi. Ôi Chúa ơi. Có lẽ anh ấy sắp... Có lẽ anh ấy chuẩn bị... “A! Phù dâu đến rồi!” Cha xứ thét lên ở phía cổng vòm và cả Luke với tôi giật nảy cả mình. “Tất cả xong xuôi để chuẩn bị bước đi giữa hai hàng ghế rồi chứ?” “Con, ờ... nghĩ vậy,” tôi nói, nhận thấy Luke đang nhìn mình chằm chầm. “Vâng.” “Tốt rồi! Các con nên vào phía trong nhà thờ!” cha sứ nói tiếp với Luke. “Con không muốn bỏ lỡ giây phút này đâu!” “Phải,” anh nói, sau khi im lặng. “Phải, con không muốn vậy.” Anh hôn lên vai tôi và bước vào trong mà không nói gì thêm nữa, còn tôi nhìn chằm chằm phía sau anh, vẫn hoàn toàn không hiểu gì. Có phải chúng tôi vừa nói về... Có phải Luke thực sự nói... Rồi tiếng vó ngựa vang lên, và tôi tỉnh khỏi cơn mộng. Tôi quay lại nhìn cỗ xe ngựa của Suze đang đi xuống con đường cứ như vừa xuất hiện từ trong truyện cổ tích vậy. Voan che mặt của cô tung bay trong gió, cô mỉm cười rạng rỡ với vài người dừng lại để xem đám cưới, và tôi chưa bao giờ thấy cô ấy đẹp hơn thế. Thú thực tôi chưa bao giờ định khóc. Thực tình tôi đã chuẩn bị sẵn kế hoạch để ngăn mình làm vậy, bằng cách đọc ngược bảng chữ cái bằng giọng kiểu Pháp. Nhưng khi tôi giúp Suze chỉnh cho thẳng lại đuôi váy, tôi cảm thấy mắt mình đang ướt nhèm. Và khi tiếng nhạc organ ngân lên và chúng tôi bắt đầu từ từ tiến vào nhà thờ đông chật người, tôi phải hít vào thật sâu cứ hai nhịp một lần theo tiếng đàn organ. Suze đang bám chặt cánh tay bố cô ấy và đuôi váy của cô ấy quét dài trên nền nhà bằng đá cũ kỹ. Tôi đi phía sau, cố gắng không làm cho gót giày cao gót kêu lọc cọc, và hy vọng không ai nhận ra váy của tôi đang rách bung ra. Chúng tôi tiến đến phía trên - ở đó Tarquin đang chờ, với chàng phù rể. Anh cao và gầy giơ xương như mọi khi, và khuôn mặt anh luôn khiến tôi nghĩ đến loài chồn ecmin, nhưng tôi phải thú nhận rằng anh nhìn khá ấn tượng trong chiếc váy và túi da đeo phía trước váy của người Scotland. Anh đang nhìn Suze với tình yêu trong sáng và sự ngưỡng vọng đến mức tôi có thể cảm thấy mũi mình đang sụt sịt trở lại. Anh quay thật nhanh, nhìn vào mắt tôi, và mỉm cười đầy lo lắng - và tôi cũng ngượng ngùng cười lại với anh. Thú thực, tôi sẽ không bao giờ có thể nhìn lại vào mặt anh mà không thôi nghĩ về điều mà Caroline đã nói. Cha sứ bắt đầu bài diễn văn “Những con chiên yêu quý” của ngài, và tôi cảm thấy thật dễ chịu, sung sướng. Tôi sắp được thưởng thức từng từ từng chữ quen thuộc. Cứ như thể đang xem phần mở đầu của một bộ phim yêu thích mà trong đó hai người bạn thân nhất của tôi đang thủ vai chính. “Susan, con có đồng ý lấy người đàn ông này làm chồng hợp pháp của mình không?” Cha xứ có một cặp lông mày rậm rạp và vĩ đại, ông rướn mày mỗi khi đặt ra một câu hỏi, cứ như thể ông ấy sợ câu trả lời có thể là không. “Con sẽ yêu thương, an ủi, tôn trọng và chở che anh ấy cả khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh; và chỉ thủy chung với một mình anh ấy cho đến khi cái chết chia lìa hai người chứ?” Dừng một lúc - rồi Suze nói, “Con đồng ý,” giọng cô rõ ràng như tiếng chuông vậy. Tôi ước mấy cô phù dâu cũng được nói gì đó. Cũng không cần phải cái gì to tát đâu, chỉ cần nói “Vâng” hoặc “Con hứa.” Khi đến đoạn Suze và Tarquin nắm tay nhau, Suze đưa cho tôi bó hoa của cô, và tôi có cơ hội quay lại và lén nhìn toàn thể giáo đường. Chỗ này chật cứng như hũ nút, thật ra không có đủ chỗ cho tất cả mọi người ngồi xuống. Có rất nhiều quý ông cao to vạm vỡ mặc những chiếc váy Scotland và những người phụ nữ mặc bộ vest nhung, và kia là Fenny với nguyên một đám đông những cô bạn đến từ London của con bé, tất cả đều đội mũ của Philip Treacy, có vẻ như thế. Và kia là mẹ, đang ép sát vào người bố, với một cái giấy thấm vào hai mắt. Mẹ nhìn lên, trông thấy tôi và tôi khẽ mỉm cười - nhưng rồi bà lại nức nở. Tôi quay lại, Suze và Tarquin đang quỳ xuống, và cha sứ trịnh trọng tuyên bố, “Những người này đã được Chúa gắn kết và không ai có thể chia lìa.” Tôi nhìn Suze khi cô mỉm cười rạng rỡ với Tarquin. Cô hoàn toàn chìm đắm trong anh. Giờ đây cô đã thuộc về anh. Và thật ngạc nhiên, tôi bỗng cảm thấy hơi trống trải trong lòng. Suze đã cưới. Tất cả đã thay đổi. Đã một năm kể từ khi tôi chuyển đến New York, và tôi yêu từng giây phút ở đó. Tất nhiên tôi thấy thế. Nhưng trong tiềm thức, tôi nhận ra rằng, tự trong sâu thẳm tôi, tôi luôn nghĩ rằng nếu mọi chuyện không tốt đẹp, tôi có thể về Pulham và trở lại cuộc sống cũ của tôi cùng với Suze. Suze không còn cần tôi nữa rồi. Cô đã có người khác, người này luôn chiếm vị trí số một trong cuộc đời cô. Tôi quan sát khi cha xứ đặt tay lên đầu Suze và Tarquin để ban phước cho họ - và cổ họng tôi hơi nghẹn lại khi tôi nhớ lại những lúc chúng tôi bên nhau. Cái lần tôi nấu món cari khủng khiếp để tiết kiệm tiền và cô đã không ngừng nói nó ngon như thế nào ngay cả khi miệng cô bỏng lên. Cái lần cô cố quyến rũ chủ ngân hàng của tôi để ông ấy gia hạn thêm khoản thấu chi cho tôi. Mỗi lần tôi tự đưa mình vào rắc rối, cô luôn ở bên tôi. Và bây giờ tất cả mọi chuyện đã qua rồi. Bỗng nhiên tôi cảm thấy cần được trấn an. Tôi quay lại và nhanh chóng rà soát một lượt khách mời, tìm kiếm khuôn mặt của Luke. Mãi một lúc lâu mà tôi không thể tìm thấy anh, và mặc dù vẫn giữ nụ cười tự tin, tôi cảm thấy sự hoảng loạn đến nực cười đang dâng lên trong lòng tôi, cứ như một đứa trẻ vừa nhận ra rằng nó đã bị bỏ rơi ở trường; rằng mọi người khác đã được đón về trừ nó. Chỉ đến khi bỗng nhiên tôi nhìn thấy anh. Đứng phía sau cái cột ở phía sau nhà thờ, cao và rám nắng và vững chắc, ánh mắt anh chỉ tập trung vào nhìn tôi. Nhìn tôi và không ai khác. Tôi cảm thấy bình tâm lại. Tôi cũng đã được đón; thế là ổn rồi. Chúng tôi ra khỏi nhà thờ, tiếng chuông nhà thờ vang vọng sau lưng, và một đám đông đang tụ tập lại ở phía ngoài đường để chúc mừng. “Chúc mừng cậu!” Tôi khóc, ôm lấy Suze thật chặt. “Và cả anh nữa, Tarquin ạ!” Tôi vẫn luôn cảm thấy hơi ngại ngùng một chút khi ở cạnh Tarquin. Nhưng bây giờ tôi thấy anh bên cạnh Suze – cưới Suze - sự ngại ngùng kia như tan biến. “Em biết là hai người sẽ rất hạnh phúc,” tôi nói chân thành, và hôn lên má anh, và cả hai chúng tôi đều cười lớn khi ai đó tung hoa giấy vào người chúng tôi. Những người khách đã kéo nhau ra khỏi nhà thờ cứ như những viên kẹo lăn ra khỏi cái hũ kẹo vậy. Nói chuyện và cười đùa và hét lên gọi nhau bằng giọng đầy hào hứng. Họ vây quanh Suze vàTarquin, hôn và ôm và bắt tay, và tôi lùi xa một tẹo, băn khoăn không hiểu Luke ở đâu. Cả sân nhà thờ đầy ắp người, và tôi không thể không nhìn chằm chằm vài người họ hàng của Suze. Bà của cô ấy đang đi ra khỏi nhà thờ rất chậm rãi và kiểu rất quý tộc, tay cầm một chiếc gậy, và đi theo sau là một chàng trai trẻ trong bộ lễ phục trông rất khuôn phép. Một cô gái gầy và xanh xao với đôi mắt to đang đội một cái mũ đen to đùng, ôm một con chó púc [1] và hút thuốc liên tục. Có cả một đội các chàng trai gần như giống hệt nhau đang mặc váy Scotland đứng ở cổng nhà thờ, và tôi nhớ ra Suze đã kể cho tôi về dì của cô ấy, người đã sinh sáu cậu con trai rồi cuối cùng đẻ được hai cô con gái sinh đôi. [1] Chó púc là giống chó lùn, mặt ngắn. “Đây. Em mặc vào đi.” Giọng Luke bỗng thì thầm bên tai tôi, và tôi ngoảnh lại, nhìn thấy anh cầm chiếc áo khoác lông cừu. “Chắc em đang chết cóng.” “Đừng lo. Em ổn mà!” “Becky này, trên mặt đất có tuyết rồi kìa,” Luke nói cương quyết, và che cái áo lên vai tôi. “Đám cưới rất hay,” anh nói tiếp. “Vâng.” Tôi chăm chú ngước lên nhìn anh, băn khoăn không biết liệu có mảy may cơ hội nào quay lại chủ đề chúng tôi nói trước khi cử hành lễ không. Nhưng giờ đây Luke đang nhìn Suze và Tarquin chụp ảnh dưới gốc cây sồi. Suze nhìn thật rạng rỡ nhưng Tarquin nhìn như thể anh đang đối mặt với nòng súng vậy. “Anh ấy là một chàng trai tốt,” anh nói, hất đầu về phía Tarquin. “Hơi kỳ lạ nhưng tốt bụng.” “Vâng. Anh ấy rất tốt. Luke này...” “Anh chị dùng một ly whisky nóng chứ?” một người phục vụ cắt ngang, tiến đến với một cái khay. “Hay champagne ạ?” “Whisky nóng,” tôi nói đầy biết ơn. “Cảm ơn anh.” Tôi uống vài ngụm và nhắm mắt lại khi hơi ấm lan tỏa khắp cơ thể. Giá mà nó có thể lan tỏa xuống bàn chân tôi, thú thực, chân tôi đang lạnh cóng. “Phù dâu!” bỗng nhiên Suze hét lên. “Bex đâu rồi? Bọn tớ đang cần cậu để chụp ảnh!” Mắt tôi mở to. “Mình đây,” tôi hét lên, thả cái áo lông cừu ra khỏi vai. “Luke, cầm hộ đồ uống cho em…” Tôi nhanh chóng đến chỗ đám đông, nhập bọn với Suze và Tarquin. Và thật buồn cười, nhưng bây giờ khi tất cả những người này đang nhìn tôi, tôi không cảm thấy lạnh nữa. Tôi cười nụ cười rạng rỡ nhất của mình, và ôm bó hoa của tôi thật đẹp, và ngoắc tay vào tay Suze khi thợ ảnh bảo tôi làm vậy, và, giữa các lần chụp thì vẫy tay với bố mẹ tôi, hai người vừa cố chen lấn để ra khỏi đám đông. “Chúng ta sẽ nhanh chóng quay trở lại nhà,” bà Gearing nói, tiến đến hôn Suze. “Mọi người đang bắt đầu lạnh cóng. Các cháu có thể dừng vụ chụp ảnh ở đây.” “OK,” Suze nói. “Nhưng chụp nốt vài kiểu cháu và Bex đã.” “Hay đấy!” Tarquin ngay lập tức nói, và nhẹ nhõm tiến lại nói chuyện với bố của anh, bác ấy giống hệt như Tarquin nhưng già hơn bốn mươi tuổi. Nhiếp ảnh gia chụp vài kiểu tôi và Suze đang cười phớ lớ với nhau, rồi dừng lại để nạp lại máy ảnh. Suze nhận một ly whisky nóng từ tay người phục vụ và tôi lén lút cho tay ra sau để xem váy mình bị rách đến đâu rồi. “Bex này, nghe đây,” một giọng nói thỏ thẻ vào tai tôi. Tôi quay lại, và Suze đang nhìn tôi rất chân thành. Cô đứng gần đến mức tôi có thể nhìn thấy từng miếng kim sa lấp lánh trong nhũ mắt của cô. “Mình cần hỏi cậu điều này. Cậu thực sự không muốn đợi đến mười năm nữa mới cưới đúng không?” “Ừ… không,” tôi thú nhận. “Không hẳn thế.” “Và cậu có nghĩ Luke đúng là người mình muốn cưới không? Hãy... thành thật đi. Chỉ hai chúng ta biết thôi.” Im lặng một lúc lâu. Tôi nghe phía sau tôi có người nói, “Tất nhiên, nhà của chúng tôi khá hiện đại. Tôi nghĩ nó được xây vào năm 1853...” “Ừ,” cuối cùng tôi cũng lên tiếng, cảm thấy hai má tôi ngày càng đỏ hơn. “Ừ. Anh ấy đúng là người đó.” Suze nhìn tôi như xuyên thấu một lúc lâu - rồi đột ngột đưa ra một quyết định. “Được rồi!” cô nói, đặt ly whisky xuống. “Tớ ném hoa cưới.” “Cái gì?” Tôi nhìn cô chăm chăm, không hiểu gì cả. “Suze này, đừng ngốc nghếch. Cậu chưa thể ném hoa cưới vào lúc này!” “Được, tớ có thể! Tớ có thể ném nó khi nào tớ thích.” “Cậu nên ném nó khi nào cậu chuẩn bị rời đi trăng mật!” “Tớ không quan tâm,” Suze ngoan cố nói. “Tớ không thể đợi lâu hơn nữa. Tớ sẽ ném nó ngay bây giờ.” “Nhưng cậu phải ném nó vào cuối bữa tiệc!” “Ai là cô dâu? Cậu hay tớ? Nếu tớ đợi đến cuối bữa tiệc thì sẽ chẳng có gì thú vị! Ngay bây giờ, hãy đứng ra phía kia.” Cô chỉ tay ra hiệu cái bãi cỏ phủ đầy tuyết. “Và đặt hoa của cậu xuống. Cậu sẽ không thể bắt được nó nếu cầm các thứ khác. “Tarkie?” Cô gọi to. “Em sẽ ném hoa cưới bây giờ, OK?” “OK!” Tarquin hào hứng hét trả lời. “Ý hay đấy!” “Nhanh lên, Bex!” “Thành thực mà nói tớ chưa muốn bắt nó!” Tôi nói, hơi gắt gỏng. Nhưng tôi nghĩ mình là cô phù dâu duy nhất - vì thế tôi đặt hoa xuống bãi cỏ, và đi đến cái đám cỏ như được yêu cầu. “Tôi muốn chụp kiểu ảnh này”, Suze nói với nhiếp ảnh gia. “Và Luke đâu rồi?” Điều hơi lạ là không ai khác ra đó cùng tôi. Mọi người khác đều tản ra. Bỗng nhiên tôi nhận ra Tarquin và anh chàng phù rể của anh ấy đang đi quanh thì thầm vào tai mọi người, và dần dần tất cả khách khứa quay về phía tôi với khuôn mặt rạng rỡ và chờ đợi. “Sẵn sàng chưa Bex?” Suze hét lên. “Chờ đã!” Tôi gào lên. “Cậu chưa có đủ người mà! Phải có rất nhiều người, tất cả cùng đứng ở đây...” Tôi cảm thấy khá ngốc nghếch, cứ đứng đây một mình. Thiệt tình, Suze đang làm sai hết cả chuyện này rồi. Cô ấy chưa từng đi dự đám cưới nào sao? “Chờ đã, Suze!” Tôi lại hét lên, nhưng đã quá muộn. “Bắt lấy, Bex!” Cô hét lên. “Băăắt lấy!” Bó hóa bay thật cao trong không trung, và tôi phải hơi nhảy lên để bắt được nó. Nó to và nặng hơn rất nhiều so với tôi tưởng, và trong một lúc tôi vẫn nhìn chằm chằm sửng sốt vào nó, nửa thầm vui mừng nửa thực sự bực tức Suze. Rồi mắt tôi dán vào. Và tôi có thể nhìn thấy một cái phong bì nho nhỏ đề Gửi Becky. Một cái phong bì đề gửi cho tôi trong bó hoa cưới của Suze sao? Tôi ngẩng lên nhìn Suze bối rối, và với một khuôn mặt rạng ngời cô khẽ gật đầu về phía chiếc phong bì. Tay run run, tôi mở phong bì ra. Có một cái gì phồng phồng ở bên trong. Nó là... Nó là một cái nhẫn, được bọc trong một miếng len. Tôi lấy nó ra, cảm thấy choáng váng. Có một lời nhắn trong phong bì, được viết bằng nét chữ của Luke. Và nó viết... Nó viết Em sẽ... Tôi nhìn nó chằm chằm không hiểu gì, cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng thế giới đang lung linh, và máu trong người tôi đang bốc lên đến tận đầu. Tôi ngẩng lên bối rối, và kia là Luke, đang bước ra từ đám đông, khuôn mặt anh nghiêm nghị nhưng ánh mắt thật ấm áp. “Becky...” anh cất tiếng, và cả sân nhà thờ như nín lặng. “Em sẽ...” “Vâng! Vânggggggggg!” tôi nghe thấy tiếng nói vui vẻ vang qua sân nhà thờ trước khi tôi kịp nhận ra mình vừa mới mở miệng. Trong tôi tràn ngập cảm xúc, giọng tôi thậm chí nghe cũng không giống tôi mọi khi. Thậm chí, giọng tôi giống như... Mẹ tôi. Tôi không thể tin được. Khi tôi quay ngoắt ra nhìn thì mẹ tôi lấy một tay che miệng đầy lo sợ. “Xin lỗi!” bà thì thầm, và một tràng cười lan tỏa khắp đám đông. “Bác Bloomwood, cháu rất vinh hạnh,” Luke nói, mắt anh nheo lại như đang cười. “Nhưng cháu tin bác đã có chủ.” Rồi anh lại nhìn tôi. “Becky, nếu anh phải chờ năm năm nữa thì anh vẫn chờ. Hay tám - hay thậm chí mười.” Anh ngừng lại, và một khoảng im lặng tuyệt đối ngoại trừ tiếng gió thổi khe khẽ, tiếng hoa giấy bay khắp sân nhà thờ. “Nhưng anh hy vọng rằng một ngày nào đó - anh mong là sớm hơn mười năm - em sẽ cho anh vinh hạnh được cưới em làm vợ chứ?” Cổ họng tôi nghẹn lại, tôi không nói được gì. Tôi chỉ khẽ gật đầu, và Luke nắm lấy tay tôi. Anh duỗi các ngón tay tôi ra và bỏ cái nhẫn ra. Tim tôi đập thình thịch. Luke muốn cưới tôi. Anh chắc hẳn đã lên kế hoạch chuyện này từ rất lâu rồi. Mà không hề nói điều gì. Tôi nhìn cái nhẫn, và cảm thấy mắt mình bắt đầu nhòa đi. Đó là một cái nhẫn kim cương cổ, đánh bằng vàng, với những cái mấu nhỏ tí xíu uốn lượn. Tôi chưa từng nhìn thấy cái nào như thế. Nó thật hoàn hảo. “Anh đeo cho em được chứ?” “Vâng,” tôi thì thầm, và nhìn anh trượt nó vào ngón tay tôi. Anh lại nhìn tôi, đôi mắt anh dịu dàng hơn bao giờ hết, rồi hôn tôi, và mọi người bắt đầu ồ lên. Tôi không tin được. Tôi đã đính hôn. Chương 3 OK. BÂY GIỜ, có lẽ tôi đã đính hôn nhưng tôi sẽ không để chuyện này kéo tôi đi xa đâu. Không đời nào. Tôi biết một vài cô gái sẽ phát điên lên, lên kế hoạch cho đám cưới lớn nhất hành tinh và không nghĩ về bất cứ việc gì khác… Nhưng tôi sẽ không thế. Tôi sẽ không để chuyện này chế ngự cuộc sống của tôi. Ý tôi là, hãy đề ra những thứ ưu tiên của chúng tôi ngay bây giờ. Thứ quan trọng nhất không phải là váy cưới, hay đôi giày, hay sẽ dùng loại hoa nào, đúng không? Mà đó là việc giao ước suốt đời với nhau. Đó là việc chứng minh lòng chung thủy với nhau. Tôi dừng lại, đang bôi dở kem dưỡng ẩm và nhìn vào gương trong phòng ngủ. “Tôi, Becky,” tôi lẩm bẩm một cách long trọng. “Tôi, Rebecca. Nguyện coi anh Luke.” Những lời lẽ giả cổ đó chỉ làm cho ta rợn sống lưng, đúng không? “Là... là... chồng... của tôi. Dù lúc sung sướng, hay khi giàu có…” Tôi dừng lại, nhăn mặt vì không hiểu gì. Nghe có vẻ không đúng lắm. Nhưng tôi có thể học nó trôi chảy khi đến gần lúc đó. Vấn đề là, những lời thề này mới là thứ quan trọng, không gì khác cả. Chúng tôi không cần làm gì hoành tráng quá mức. Chỉ là một tiệc cưới đơn giản, sang trọng. Không ồn ào, không huyên náo. Ý tôi là, Romeo và Juliet đâu cần một bữa tiệc cưới lớn với hạt hạnh nhân tẩm đường và món vol-au-vent, đúng không? Thực ra, có lẽ chúng tôi nên cưới bí mật, giống như họ! Bỗng nhiên tôi thấy thích thú với hình ảnh tôi và Luke quỳ trước mặt một vị linh mục người Ý trong đêm tối mịt mùng, ở một thánh đường nhỏ bằng đá nào đó. Chúa ơi, như thế sẽ rất lãng mạn. Và khi đó theo kiểu gì đó, Luke nghĩ tôi đã chết, nên anh tự tử, rồi tôi cũng thế, và sẽ vô cùng bi kịch, và mọi người sẽ nói chúng tôi làm thế vì tình yêu và cả thế giới sẽ học từ tấm gương của chúng tôi... “Karaoke không em?” Giọng Luke ở ngoài cửa buồng ngủ đã kéo tôi trở lại đời thực. “Vâng, chắc hẳn đó là một sự lựa chọn rồi...” Cánh cửa mở ra và anh đưa cho rôi một cốc cà phê. Anh và tôi đã ở nhà bố mẹ tôi kể từ đám cưới của Suze, và khi tôi rời bàn ăn sáng thì anh làm trọng tài cho bố mẹ tôi vì họ tranh cãi liệu việc đặt chân lên mặt trăng có thực sự xảy ra không. “Mẹ em đã tìm được ngày có thể tổ chức cưới rồi,” anh nói. “Em nghĩ sao về ngày...” “Luke!” Tôi giơ một tay lên để chặn anh lại. “Luke này. Chúng ta hãy đi từng bước một, được chứ?” Tôi hiền từ cười với anh. “Ý em là chúng ta chỉ vừa mới đính hôn. Chúng ta hãy chỉ nghĩ đến chuyện đó đã. Không cần phải hấp tấp nghĩ đến việc chọn ngày cưới đâu ạ.” Tôi liếc nhìn mình trong gương, cảm thấy mình khá trưởng thành và tự hào về bản thân. Lần duy nhất trong đời tôi cảm thấy mình không bị quá phấn khích. “Em nói đúng,” Luke nói sau khi im lặng một lát. “Không, em nói đúng. Thế thì ngày mẹ em gợi ý sẽ là gấp gáp khủng khiếp.” “Thật sao?” Tôi trầm tư uống một ngụm cà phê. “Vậy... tò mò chút thôi... khi nào vậy?” “Ngày 22 tháng Sáu. Năm nay.” Anh lắc đầu. “Điên mất, thật đấy. Chỉ còn có vài tháng nữa thôi.” “Điên thật!” Tôi nói, mắt trợn tròn. “Ý em là cũng không vội gì đúng không?” Ngày 22 tháng Sáu. Thiệt tình! Mẹ tôi nghĩ gì thế không biết? Tuy nhiên... Tôi nghĩ đám cưới vào mùa hè theo lý thuyết thì sẽ tuyệt. Thực sự không có gì ngăn cản chúng tôi cưới năm nay. Và nếu chúng tôi quyết định tháng Sáu, tôi có thể bắt đầu đi xem váy cưới ngay lập tức. Tôi có thể bắt đầu thử vương miện. Tôi có thể bắt đầu đọc tạp chí Cô dâu được rồi! Đúng thế! “Tuy nhiên,” tôi nói rất tự nhiên, “ Thực sự không có lý do nào để trì hoãn, đúng không anh? Ý em là, bây giờ chúng ta đã quyết định, nói cách khác, chúng ta chỉ việc... tiến hành thôi. Tại sao phải lần lữa?” “Em chắc không? Becky, anh không muốn làm em cảm thấy bị ép buộc...” “Không sao mà. Em khá chắc chắn đấy. Cưới vào tháng Sáu đi!” Tôi nói đầy hứng khỏi. “Hôm nay đi đăng ký luôn đi anh.” Ôi. Cái đó dường như buột ra khỏi miệng tôi. “Hôm nay á?” Luke nói, nhìn hơi sửng sốt. “Em đùa à?” “Tất nhiên là không!” Tôi cười hồn nhiên. “Em đang đùa mà! Tuy nhiên, anh biết đấy, chúng ta có thể đi và bắt đầu xem vài thứ, thuần túy để tham khảo thôi...” “Becky này, hôm nay anh bận rồi, em nhớ chứ?” Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Thực ra, anh phải chuẩn bị đi rồi.” “À vâng,” tôi nói, cố gắng tỏ ra đồng cảm. “Vâng, anh không muốn bị muộn đúng không ạ?” Luke sẽ dành cả ngày với mẹ anh, Elinor, bà vừa ghé qua London trên đường đến Thụy Sỹ. Nguyên văn là bà ấy muốn đến đó để chơi với mấy người bạn cũ và “tận hưởng không khí trên núi.” Tất nhiên ai cũng biết bà ấy thực sự phải đi căng da mặt đến lần thứ tỉ tỉ. Rồi chiều nay, bố mẹ tôi và tôi sẽ đến gặp họ để uống trà ở Claridges. Mọi người đều kêu rằng thật là sự trùng lặp đầy may mắn khi Elinor đến đây, vì thế hai gia đình có thể gặp nhau. Nhưng cứ mỗi lần nghĩ về việc này, ruột gan tôi rối bời. Tôi sẽ không e ngại nếu đó là bố mẹ thực sự của Luke - bố anh ấy và mẹ kế, họ thực sự rất đáng yêu và sống ở Devon. Nhưng họ lại vừa đi Úc, nơi em gái Luke vừa chuyển đến, và có lẽ họ sẽ không về cho đến tận khi chúng tôi cưới. Vì thế người duy nhất đại diện cho gia đình bên Luke là Elinor. Elinor Sherman. Mẹ chồng tương lai của tôi. OK... thôi đừng nghĩ về chuyện đó nữa. “Luke này...” tôi dừng lại, cố gắng tìm từ phù hợp. “Anh nghĩ việc này sẽ thế nào? Bố mẹ chúng ta gặp nhau lần đầu ấy. Anh biết đấy - mẹ anh... và mẹ em... ý em là, họ không hẳn giống nhau lắm, đúng không?” “Sẽ ổn thôi! Họ sẽ ăn ý một cách tuyệt vời thôi, anh chắc chắn đấy.” Anh thực tình chẳng hiểu tôi đang nói gì. Tôi biết việc Luke yêu quý mẹ anh ấy là rất tốt. Tôi biết các cậu con trai nên yêu quý mẹ mình. Và tôi biết anh hiếm khi gặp mẹ khi còn nhỏ xíu, và anh đang cố bù đắp lại khoảng thời gian đã mất... nhưng... Làm sao anh ấy có thể tận tụy với Elinor như thế chứ? Khi tôi đi xuống cầu thang vào bếp, mẹ tôi đang dọn dẹp đồ ăn sáng bằng một tay và tay kia đang cầm điện thoại di động. “Vâng,” bà đang nói. “Đúng rồi. Bloomwood, B-l-o-o-m-w-o-o d. Ở Oxshott, Surrey. Và cô sẽ fax cái đó qua nhà tôi chứ? Cảm ơn.” “Tốt.” Mẹ tôi cất điện thoại đi và hào hứng nói với tôi. “Đây là thông báo gửi cho Nhật báo của Surrey.” “Một thông báo khác sao? Mẹ này, mẹ đã gửi bao nhiêu thông báo rồi?” “Chỉ là con số theo chuẩn thông thường mà!” Mẹ chống chế. “Times, Telegraphy Oxshott Herald, và Esher Gazette.” “Và cả Surrey Post.” “Ừa. Vậy là chỉ có... năm.” “Năm thôi!” “Becky, con chỉ kết hôn có một lần trong đời thôi!” mẹ tôi nói. “Con biết. Nhưng thú thực...” “Nào, nghe này.” Mặt mẹ tôi hơi đỏ lên. “Con là con gái duy nhất của bố mẹ, Becky ạ, và bố mẹ sẽ không xót một xu nào đâu. Bố mẹ muốn con có đám cưới trong mơ của mình. Dù đó là việc thông báo, hay là hoa cưới, hay là một con ngựa và cỗ xe ngựa như Suzie... bố mẹ muốn con có nó.” “Mẹ à, con đã muốn nói với bố mẹ về chuyện đó,” tôi ngượng nghịu nói. “Luke và con sẽ đóng góp vào chi phí...” “Vớ vẩn!” Mẹ tôi nói dứt khoát. “Bố mẹ sẽ không nghe về chuyện đó nữa.” “Nhưng...” “Chúng ta luôn luôn hy vọng một ngày nào đó có thể chi trả cho một đám cưới. Chúng ta đã để dành tiền chỉ để dành cho dịp này từ nhiều năm nay rồi.” “Thật sao?” Tôi nhìn mẹ chằm chằm, bỗng nhiên cảm thấy xúc động tràn trề. Bố và mẹ đã để dành tiền suốt bao nhiêu năm, và họ chưa bao giờ nói một lời. “Con... con không hề biết gì.” “Ừ. Đúng thế. Bố mẹ đã không định nói với con, đúng không nào? Nào!” Mẹ tôi nhanh chóng quay lại công việc. “Thế Luke đã nói với con chúng ta đã chọn được ngày chưa? Con biết đấy, việc này không phải dễ! Mọi nơi đều đã được đặt trước. Nhưng mẹ đã nói chuyện với Peter ở nhà thờ, vừa có một đám chỗ ông ấy phải hủy, và ông ấy có thể xếp cho chúng ra vào lúc 3h chiều hôm thứ Bảy đó. Nếu không là phải chờ đến tận tháng Mười một.” “Tháng Mười một sao?” Tôi xị mặt ra. “Nghe không có vẻ gì là dịp để cưới cả.” “Chính xác! Vì thế mẹ đã nói với ông ấy cứ đánh dấu vào ngày đó. Mẹ cũng đã viết vào lịch này, nhìn đi.” Tôi liếc mắt nhìn cái lịch trên tủ lạnh, trên đó cứ mỗi tháng lại có một công thức sử dụng Nescafé khác nhau. Và thật tình, kia kìa, ở tháng Sáu có cụm từ “ĐÁM CƯỜI CỦA BECKY” viết bằng bút dạ. Tôi nhìn chăm chú, cảm thấy hơi lạ. Tôi sắp lấy chồng. Đó là điều mà tôi luôn thầm nghĩ lâu nay - và bây giờ nó thực sự đang diễn ra. “Mẹ cũng có vài ý tưởng về vụ dựng rạp vải bạt,” mẹ nói tiếp. “Mẹ nhìn thấy một cái sọc kẻ rất đẹp đâu đó trong một cuốn tạp chí, và mẹ nghĩ, ‘Mình phải cho Becky xem cái này...’ ” Bà với tay ra đằng sau và lôi một chồng tạp chí bóng loáng lên. Cô dâu. Cô dâu hiện đại. Hôn nhân và gia đình. Tất cả đều bóng nhoáng, hấp dẫn và mời gọi, cứ như một đĩa bánh rán nóng hổi vậy. “Trời!” Tôi nói, cố không cho mình nhào ra vồ lấy một tờ một cách thèm muốn. “Con chưa từng đọc bất kỳ cái nào liên quan đến chuyện cưới xin cả. Con thậm chí không biết trông chúng ra làm sao!” “Mẹ cũng vậy,” mẹ tôi nói ngay lập tức, trong khi lật qua một cuốn Hôn nhân và Gia đình một cách chuyên nghiệp. “Không hẳn là ổn lắm. Mẹ cũng chỉ liếc qua để xem có ý tưởng nào độc đáo không. Ý mẹ là, mấy cuốn này chủ yếu quảng cáo...” Tôi do dự, ngón tay tôi lướt qua bìa cuốn Bạn và đám cưới của bạn. Tôi khó có thể tin được bây giờ mình thực sự được phép đọc những thứ này. Công khai! Tôi không phải lén lút đi đến sạp báo và lén lút tội lỗi xem, cứ như thể tôi vừa đút một cái bánh quy vào miệng và suốt thời gian đó băn khoăn liệu có ai trông thấy không. Thói quen đó đã ăn sâu đến mức tôi gần như không thể bỏ được, mặc dù bây giờ trên ngón tay tôi đã có chiếc nhẫn đính hôn. “Con nghĩ liếc qua cũng được,” tôi nói một cách tự nhiên. “Mẹ biết đấy, chỉ là xem những thông tin cơ bản... chỉ để biết có thứ gì trên thị trường...” Ôi, quỷ tha ma bắt! Mẹ thậm chí không thèm nghe, thôi thế cũng được, tôi có thể thôi trò giả vờ mình sẽ không đọc ngấu nghiến toàn bộ dù chỉ một cuốn trong số tạp chí này. Thật sung sướng, tôi ngồi xuống ghế tựa và với tay lấy một cuốn Cô dâu, và mười phút tiếp theo cả hai chúng tôi hoàn toàn im lặng, ngấu nghiến mấy bức ảnh. “Đấy đấy!” mẹ tôi bỗng lên tiếng. Mẹ xoay cuốn tạp chí lại cho tôi nhìn một bức ảnh chụp một cái bạt lớn, gấp thành sóng to, kẻ trắng và bạc. “Cái này mà không đẹp à?” “Rất đẹp.” Tôi thích thú liếc xuống chỗ bức ảnh mấy cái váy dành cho phù dâu, và hoa cô dâu... và rồi mắt tôi mới nhìn vào phần in ngày ra báo. “Mẹ!” Tôi hét lên. “Cái này từ năm ngoái rồi! Làm sao mẹ lại xem tạp chí cưới của năm ngoái được chứ!” “Mẹ không biết!” mẹ nói có vẻ không đáng tin lắm. “Chắc hẳn mẹ nhặt nó ở phòng chờ của bác sĩ hay đại loại thế. Sao cũng được. Con đã có ý tưởng gì chưa?” “Ừm... con không biết,” tôi mơ hồ nói. “Con nghĩ con chỉ muốn cái gì đó đơn giản thôi.” Hình ảnh tôi trong một chiếc váy màu trắng thật lớn và một cái vương miện lấp lánh chợt nảy ra trong đầu tôi. Bước ra từ một chiếc xe ngựa ở thánh đường St. Paul... và một chàng hoàng tử đẹp trai đang chờ tôi... đám đông hò hét... OK, dừng ngay. Tôi sẽ không để chuyện này đi quá xa. Tôi đã quyết định thế rồi. “Mẹ đồng ý,” mẹ tôi nói. “Con muốn một thứ sang trọng và thú vị. Ôi, nhìn này, những quả nho được bọc bằng lá vàng. Chúng ta có thể làm như thế!” Mẹ tôi lật trang tạp chí. “Nhìn này, một đôi phù dâu sinh đôi! Nhìn có đáng yêu không này? Con có biết ai có chị em sinh đôi không, con yêu?” “Không ạ,” tôi nói đầy hối tiếc. “Chắc là không, úi, mẹ có thể mua một cái đồng hồ đếm ngược đặc biệt dành cho đám cưới! Và một cuốn sổ sắp xếp việc cho đám cưới đi kèm một cuốn nhật ký cô dâu để ghi những kỉ niệm đặc biệt. Mẹ có nghĩ con nên mua một trong những thứ này không?” “Chắc chắn thế rồi,” mẹ nói. “Nếu con không mua thì con sẽ chỉ ước là con đã làm thế thôi.” Bà đặt cuốn tạp chí của mình xuống. “Con biết không, Becky, có một điều mẹ muốn nói với con là, đừng làm việc này một cách sơ sài. Hãy nhớ rằng con chỉ cưới một lần...” “Xin chào!” Cả hai chúng tôi ngẩng lên khi có tiếng gõ cửa sau nhà. “Tôi đây mà!” Đôi mắt sáng rực của Janice nhìn qua cửa kính, và cô ấy đang khe khẽ vẫy tay. Janice là hàng xóm sát vách của chúng tôi và tôi đã biết cô lâu lắm rồi. Cô đang mặc một cái áo sơ mi hoa thắt eo màu xanh lam, đánh phấn mắt rất hợp tông, và kẹp một tập tài liệu dưới nách. “Janice!” mẹ tôi hét lên. “Vào chơi uống một tách cà phê nào!” “Vâng,” Janice nói. “Tôi cũng mang theo chai Canderel [1] đây.” Cô đi vào và ôm lấy tôi. “Và đây là cô gái đặc biệt của chúng ta! Becky cháu yêu, chúc mừng cháu!” [1] Canderel là một loại nước tạo ngọt cho đồ uống “Cám ơn cô,” tôi nói, với một nụ cười khá bẽn lẽn. “Hãy nhìn cái nhẫn kìa!” “Hai carat,” mẹ tôi nói ngay. “Đồ cổ. Đó là đồ gia truyền.” “Đồ gia truyền sao?” Janice cao giọng như hụt hơi. “Ôi, Becky!” cô cầm một cuốn Cô dâu hiện đại lên và khẽ thở dài buồn bã. “Nhưng cháu định tổ chức đám cưới và sống ở New York sao?” “Becky không cần phải lo lắng về bất cứ điều gì,” mẹ tôi quả quyết. “Tôi có thể chuẩn bị mọi thứ. Đó là phong tục rồi.” “Ừm, cháu biết tìm cô ở đâu nếu cần được giúp bất cứ việc gì,” Janice nói. “Cháu đã định ngày cưới chưa?” “Ngày 22 tháng Sáu,” mẹ tôi hét lên át tiếng máy xay cà phê. “Ba giờ chiều ở St. Marys!” “Ba giờ chiều!” Janice nói. “Tuyệt quá!” Cô đặt cuốn tạp chí xuống và bỗng nhiên nhìn tôi rất chân tình. “Này, Becky, có điều này cô muốn nói. Với cả hai người.” “Vậy sao?” Tôi nói, hơi lo lắng, và mẹ tôi đặt bình đựng cà phê xuống. Janice hít sâu. “Sẽ là vinh hạnh rất lớn cho cô nếu cháu để cô trang điểm cô dâu cho cháu. Cháu và toàn bộ các phù dâu.” “Janice!” mẹ tôi reo lên vui sướng. “Cô thật là chu đáo! Hãy nghĩ về đề nghị đó, Becky. Trang điểm chuyên nghiệp!” “Ừ... tuyệt quá!” “Cô đã học được rất nhiều từ khóa học, tất cả các mánh của việc này. Cô có một bộ ảnh đầy đủ mà cháu có thể xem qua để chọn phong cách của mình. Thực ra cô có mang theo đấy, xem này!” Janice mở tập tài liệu ra và bắt đầu lật nhanh ảnh chụp các phụ nữ nhìn như thể họ trang điểm theo phong cách của thập niên 70 vậy. “Đây là phong cách Nữ hoàng dạ hội, dùng cho những cô gái trẻ,” cô nói như hụt hơi. “À, đây rồi chúng ta có Cô dâu mùa xuân rạng ngời, với mascara chống nước. Hay Cleopatra, nếu cháu muốn một cái gì đó kịch tính hơn?” “Tuyệt quá!” Tôi yếu ớt nói. “Có lẽ đến gần lúc đó cháu sẽ xem.” """