"Tim Mực - Cornelia Funke full mobi pdf epub azw3 [Giả Tưởng] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tim Mực - Cornelia Funke full mobi pdf epub azw3 [Giả Tưởng] Ebooks Nhóm Zalo TIM MỰC Cornelia Funke Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: TIM MỰC Tác giả: Cornelia Funke Nguyên tác tiếng Đức: Tintenherz (Inkheart) Dịch giả: Kiều Hoa Nhà xuất bản: Trẻ Năm xuất bản: 2006 Số trang: 774 (2 tập) Khổ sách: 13 x 19 cm Giá bìa: 88.000 đồng (2 tập) Đánh máy: Kim Lan, Minh Huy, Trần Thị Kim Chi, Duyên, Khánh Dư, Mỹ Linh, Thùy Ty, Nguyễn Phương Thảo, Cường, Lan Anh, Hải Hường, Thu Hoài, Tuyết Ngân Kiểm tra: Thu Hằng, Thảo Đoàn, Thùy Ty Ảnh bìa: Long Đào Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thực hiện: 16/09/2012 Making Ebook Project #274 – www.BookaholicClub.com Bạn đang đọc ebook TIM MỰC của tác giả Cornelia Funke do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU TÁC GIẢ LỜI TÁC GIẢ TẬP I Người lạ trong đêm Bí mật Về phương Nam Một ngôi nhà đầy sách Chỉ một bức tranh Lửa và sao Những gì được màn đêm che giấu Một mình Cú đổi sách oái ăm Trong hang sư tử Đồ hèn Tiếp tục xuống phía Nam Làng của Capricorn Nhiệm vụ hoàn thành Hạnh phúc và bất hạnh Thuở ấy Kẻ phản bội bị phản bội Lưỡi Thần Tương lai đen tối Rắn và gai Basta An toàn Một đêm đầy từ ngữ Fenoglio Một kết thúc sai trái Một cái rùng mình và một linh cảm Chỉ là một ý tưởng Ở nhà Một chốn ấm cúng hiền hòa mời mọc ta ở lại Cậu Pippo lắm mồm TẬP II Trong những ngọn đồi lông lá Lại về chỗ cũ Người hầu nữ của Capricorn Bí mật Những mục đích khác nhau Trong nhà Capricorn Nhẹ dạ Những từ ngữ thầm nín Hình phạt cho những kẻ phản bội Con ngựa đen của bóng đêm Farid Nhúm lông trên bậu cửa sổ Một nơi tăm tối Bản báo cáo của Farid Vài câu nói dối cho Basta Bị đánh thức trong đêm đen Cô đơn Mụ Ác Là Thói quen kiêu ngạo của Basta và mánh lới của Ngón Tay Bụi Bà Elinor gặp xui Suýt chết Một thực thể mỏng manh Những câu văn thích hợp Lửa Bội phản, bép xép và ngu ngốc Cái bóng Chỉ một ngôi làng bỏ hoang Nhớ nhà Về nhà GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Cornelia Caroline Funke là một nhà văn người Đức dành rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực văn học cho trẻ em. Funke được biết đến nhất với bộ ba Inkworld; bản dịch tiếng Anh của tập thứ 3 Inkdeath đã được phát hành vào 6 tháng 10 năm 2008. Các tác phẩm của bà phần lớn thuộc thể loại giả tưởng, phiêu lưu và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Hiện bà đang sống tại Los Angeles, California. Cornelia Funke đã bán được hơn 10 triệu bản sách trên toàn thế giới. Cornelia Funke sinh năm 1958 tại thị trấn Dorsten nước Đức, là con của Karl-Heinz và Helmi Funke. Lúc còn nhỏ, bà muốn trở thành một phi hành gia hoặc phi công, nhưng sau đó đã quyết định theo học ngành sư phạm tại Đại học Hamburg. Sau khi hoàn thành việc học, Funke làm nhân viên xã hội trong 3 năm, tập trung chủ yếu vào những đứa trẻ có hoàn cảnh thiếu thốn. Cornelia Funke có một công việc minh họa sách, nhưng bà đã sớm bắt đầu viết những tác phẩm của riêng mình, được truyền cảm hứng từ những câu chuyện đã hấp dẫn lũ trẻ nghèo khổ mà bà làm việc cùng. Vào cuối những năm 80 và thập kỷ 90, Funke đã gây dựng tên tuổi tại Đức với 2 loạt truyện cho trẻ em có hơi hướng giả tưởng là Gespensterjäger (Ghosthunters) và Wilde Hühner (Wild Chicks). Tiểu thuyết giải tưởng Kỵ sĩ rồng (1996) là bước đột phá quốc tế của bà. Tác phẩm này đã lọt vào danh sách Sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 78 tuần, và sau đó là The Thief Lord (Vua Trộm) (2000, dịch sang tiếng Anh năm 2002), đã leo lên vị trí thứ 2 trong danh sách này trong 19 tuần và bán được 1.5 triệu bản. Tiểu thuyết tiếp theo của Cornelia Funke là Inkheart (2003) đã giành giải thưởng BookSense Book of the Year Children's Literature năm 2004. Inkheart (Tim Mực) là phần đầu tiên của bộ ba Inkworld, tiếp đó là Inkspell (Máu Mực) (2005) đã tiếp tục giành giải BookSense Book of the Year Children's Literature năm 2006. Bộ ba được kết thúc với Inkdeath (xuất bản tại Đức năm 2007, phát hành bản tiếng Anh vào năm 2008, bản Mỹ vào mùa thu 2008). Trên trang chủ của mình, Cornelia Funke phát biểu rằng điểm khởi đầu sống còn cho một quyển sách hay là “ý tưởng”, và nếu ý tưởng đó có giá trị thì hãy nghiên cứu những chủ đề thú vị để phục vụ nó và tìm kiếm những địa điểm và nhân vật thích hợp. Bà nói về những ý tưởng: “chúng đến từ mọi nơi và chẳng từ đâu cả, cả trong lẫn ngoài. Tôi có rất nhiều và không thể viết hết chúng trong một cuộc đời này được.” Cornelia Funke cũng nói về các nhân vật của mình: “Hầu hết bọn họ bước vào phòng viết của tôi và sống động đến mức tôi phải tự hỏi bản thân, rằng họ từ đâu đến. Dĩ nhiên, một vài nhân vật là kết quả của suy nghĩ kỹ lưỡng, thêm vào tính cách, cử chỉ..., nhưng những người khác đều sống từ ngay giây phút đầu tiên họ xuất hiện”. Bà cũng cho biết Dustfinger trong “Inkheart” là một trong những nhân vật sống động nhất đã từng nảy ra trong đầu bà. Đối với những người đang mơ ước trở thành nhà văn, Funke khuyên: “Đọc – và hãy tò mò. Nếu có ai đó nói với bạn: ‘Mọi thứ là như vậy. Bạn không thể thay đổi được’ – thì đừng tin một lời nào.” LỜI TÁC GIẢ Khi bắt đầu viết tiểu thuyết Tim Mực, tôi hoàn toàn không linh cảm được rằng câu chuyện này rồi sẽ lớn lên trong đầu tôi, lớn đến mức nó đổ đầy hơn một cuốn sách. Đã từ rất lâu rồi tôi muốn viết một câu chuyện nơi các nhân vật trở thành thực thể sống, bởi ai mê sách mà không biết cảm giác đó: rằng các nhân vật trong một cuốn sách đối với ta còn thực hơn và gần gũi hơn là những con người ta quen trong đời thực. Lời giải thích thật đơn giản. Đã có người thực nào cho phép ta nhìn thật sâu vào trái tim anh ấy, giống như cách mà người kể chuyện cho phép ta làm với những nhân vật? Ta có thể đào đến đáy sâu tâm hồn, có thể nhìn thấy mọi nỗi sợ, mọi tình yêu, mọi giấc mơ. Nhưng còn một điều nữa thúc cho tôi viết Tim Mực – một hình ảnh mà tôi luôn nhìn thấy trước mắt mình: một cô bé, quỳ trên giường trong đêm, trước một khuôn cửa sổ ướt nước mưa, và phía ngoài kia có một người đang đứng. Tôi nhìn thấy hình ảnh đó thật rõ ràng, giống như một cảnh trong phim, và tôi chỉ cần tìm cho ra câu chuyện nào đang núp đằng sau hình ảnh đó. Dĩ nhiên tôi đọc rất nhiều, kể cả những cuốn sách về những người sưu tầm sách, những người ăn cắp, những người giết sách, những người mê sách, những người đóng sách (như Mo)… và tìm thấy rất nhiều thứ cùng rất nhiều ý tưởng để có thể chăm bón cho câu chuyện của mình. Chưa bao giờ việc viết sách đối với tôi trở nên dễ dàng đến như thế, như khi viết Tim Mực, chưa bao giờ có một câu chuyện thúc hối được tràn xuống mặt giấy như vậy – rất có thể bởi đó là nỗi đam mê về một câu chuyện của bản thân tôi, nỗi đam mê dành cho sách vở, và kể cả dành cho việc đọc sách cho người khác nghe. Giờ đây Tim Mực đã được xuất bản. Tôi đang viết tiếp phần ba của câu chuyện này – và nó vẫn là một cuộc phiêu lưu lớn lao! Tôi hoàn toàn không biết trước kết cục sẽ ra sao, nhưng như vậy là tốt! Tôi rất thích để những nhân vật của mình gây ngạc nhiên cho bản thân mình. Nếu tôi biết chính xác con đường rồi sẽ dẫn tới đâu, chắc là tôi sẽ nhàm chán đến chết khi viết mất. Như vậy đấy – tôi hy vọng khi đọc sách bạn cũng sẽ thấy vui thú y hệt như khi tôi viết sách – xin chào mừng bạn vào mê hồn trận của các chữ cái! CORNELIA FUNKE TẬP I h g Yêu tặng Anna, cô bé thậm chí đã đặt sang bên cả “Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn” để đọc cuốn sách này. (Liệu người ta có thể đòi hỏi gì hơn ở con gái mình cơ chứ?) Và tặng Elinor, cô bé đã cho tôi mượn tên mình, mặc dù tôi không dùng tên đó cho một nữ hoàng loài tiên. h g Người lạ trong đêm h g Ánh trăng lóng lánh sáng trong mắt con ngựa gỗ và cả trong mắt con chuột, khi Tolly lôi chúng ra từ dưới gối mà ngắm nghía. Đồng hồ tích tắc, và trong màn tĩnh lặng ấy cậu bé Tolly tưởng như đang nghe tiếng những bàn chân trần nhỏ xinh chạy trên nền phòng, rồi tiếng cười khúc khích cùng tiếng thì thào và cả tiếng sột soạt, như ai đó đang mở trang một cuốn sách lớn. LUCY M. BOSTON, Những em bé vùng Green Knowe h g Đêm hôm đó trời mưa, một cơn mưa mỏng mảnh thì thầm. Mãi sau này rất nhiều năm trời, Meggie chỉ cần nhắm mắt là tai cô lại như nghe thấy nó, cơn mưa ấy, như những ngón tay nhỏ tí xíu gõ nhè nhẹ vào cửa sổ. Đâu đó trong đêm có tiếng chó sủa, và Meggie không ngủ được, dù cô đã trở mình không biết bao lần. Dưới gối là cuốn sách mà Meggie vừa đọc. Nó nhè nhẹ ấn mép bìa vào tai cô, như muốn rủ rê cô quay về với những trang giấy đầy chữ. “Ai chà, nằm gối đầu lên một thứ vừa vuông vừa cứng như thế chắc phải dễ chịu lắm”, ba Meggie đã nói như vậy vào lần đầu tiên ông thấy một cuốn sách dưới gối cô. “Công nhận đi con, đêm đêm nó thì thầm kể vào tai con câu chuyện của nó, đúng không?” “Cũng thỉnh thoảng!” Meggie trả lời. “Nhưng trò này chỉ trẻ con mới làm được thôi.” Nghe tới đó, Mo giơ tay véo mũi cô. Mo. Meggie luôn gọi cha bằng tên không như thế. Trong đêm hôm đó – trong cái đêm có rất nhiều thứ bắt đầu và nhiều thứ đổi thay mãi mãi – nằm dưới gối Meggie là một trong những cuốn sách mà cô yêu thích nhất. Khi chờ mãi mà cơn mưa vẫn không cho giấc ngủ bay về, cô ngồi dậy, giơ tay dụi mắt đuổi cảm giác mỏi mệt đi và rút cuốn sách ra. Những trang giấy loạt xoạt đầy hứa hẹn. Meggie đã để ý thấy, tiếng thì thầm đầu tiên khi mở sách cứ mỗi lần lại vang lên mỗi khác, tùy theo cô đã biết cuốn sách sẽ kể cho cô nghe điều gì. Nhưng bây giờ, phải có ánh sáng đã chứ. Trong ngăn kéo bàn cạnh giường có một hộp diêm, chính cô đã giấu vào đó. Mo cấm cô đốt nến ban đêm. Ông không thích lửa. “Lửa ăn sách”, ông luôn nói như thế, nhưng suy cho cùng thì Meggie năm nay đã 12 tuổi rồi và thừa sức canh chừng vài ngọn nến. Meggie rất thích đọc sách trong ánh nến. Trên bậu cửa sổ phòng cô có sẵn ba chiếc đèn bão và ba chân nến. Cô đánh diêm, nhưng đúng lúc Meggie đưa que diêm lại gần một đầu bấc màu đen thì tai cô thoắt nghe thấy phía ngoài có tiếng bước chân. Meggie hoảng hốt thổi tắt lửa diêm – một cử chỉ mà nhiều năm sau cô còn nhớ rõ! – rồi hạ người trước khung cửa sổ đẫm nước mà nhìn ra. Lúc đó, cô thấy ông ta. Màn tối bên ngoài bị nước mưa nhuộm thành nhàn nhạt và người lạ chỉ là một cái bóng lờ mờ. Duy có gương mặt đang sáng lên, xoay về phía Meggie. Mái tóc dán dính vào vầng trán ướt đẫm. Mưa rơi xuống người nhưng ông ta không để ý, chỉ đứng bất động, hai cánh tay khoanh lấy ngực, như ít nhất cũng muốn bằng cách này sưởi ấm cho bản thân đôi chút. Ông ta đứng như vậy, và nhìn sang phía nhà cô. Mình phải đánh thức ba Mo, Meggie nghĩ, nhưng thân thể cô vẫn cứ ì lại đó, tim đập lồng lên, tiếp tục nhìn trân trân ra ngoài đêm, như thể người lạ đã truyền tình trạng bất động sang cô. Đột ngột, người lạ xoay đầu một chút và Meggie cảm giác ông ta nhìn thẳng vào mặt mình. Cô trượt khỏi giường, vội đến mức cuốn sách đang mở rơi xuống đất. Cứ để chân trần, cô chạy. Chạy ra với khoảng hành lang tối mò. Không khí trong ngôi nhà cũ vẫn còn rất lạnh, mặc dù đã là cuối tháng năm. Phòng ba Mo vẫn sáng đèn. Ông thường thức rất khuya và đọc sách. Meggie được thừa hưởng niềm đam mê sách vở từ ông. Mỗi lần gặp một cơn mơ nặng nề và trốn sang phòng ba, sẽ không một thứ gì khiến cô ngủ ngon hơn là hơi thở đều đặn của Mo sát bên cùng tiếng giở sách loạt soạt nhè nhẹ. Không một thứ gì xua những giấc mơ độc ác đi nhanh như tiếng xào xạc của những trang giấy đầy ắp chữ. Nhưng dáng người trước nhà không phải là một giấc mơ. Cuốn sách ba Mo đọc đêm đó được bọc vải gai màu xanh nhợt. Cả chi tiết này cũng được Meggie nhớ cho đến mãi sau. Đúng thế, nhiều khi có những thứ chẳng hề quan trọng mà cứ dán chặt vào trí nhớ ta! “Ba Mo, ngoài sân có người đứng!” Cha cô ngẩng lên, nhìn cô bằng ánh mắt lơ đãng, giống như mọi lần khi bị con gái ngắt ngang dòng đọc sách. Lần nào cũng phải vài giây đồng hồ trôi qua, ông mới lại trở về từ thế giới kia, từ mê hồn trận của từ của chữ. “Có người đứng sao? Con chắc không?” “Con chắc. Ông ta nhìn vào nhà mình.” Ba Mo đặt cuốn sách sang bên. “Trước khi ngủ con đọc cuốn gì vậy? Cuốn Tiến sĩ Jekyll và Mr Hyde à?” Meggie nhăn trán. “Kìa, ba! Đi nào.” Ông không tin con gái, nhưng ông đi theo cô. Meggie nóng nảy kéo ông, nóng nảy đến độ khi ra hành lang, ông thúc chân vào một chồng sách. Mà làm sao có thể thúc chân vào một thứ gì khác? Khắp nhà họ sách cứ chất thành từng chồng, từng chồng. Chúng không chỉ đứng trên kệ như ở các nhà khác, không đâu, ở nhà bố con họ chúng chồng thành từng sập dưới gầm bàn, trên ghế, trong góc phòng. Sách có mặt trong căn bếp và trong cả phòng toilet, trên tivi và trong tủ quần áo, chồng nhỏ, chồng cao, sách dày, sách mỏng, sách cũ, sách mới… Chúng đón chào Meggie với những trang mở sẵn mời mọc trên bàn điểm tâm, xua đi sự nhàm chán trong những ngày xám xịt – và nhiều khi chúng khiến người ta vấp nữa. “Ông ta cứ đứng ở đó!”. Meggie thì thào nói khi kéo ba Mo vào phòng mình. “Mặt gã ta đầy lông? Thế thì gã có thể là Người Sói đấy.” “Ba đừng đùa mà!” Meggie nghiêm khắc nhìn ông, mặc dù rõ ràng câu đùa đã xua đi nỗi sợ. Bản thân cô hầu như cũng không còn tin là ngoài kia có người đứng dưới mưa… cho đến khi cô lại quỳ xuống bên cửa sổ. “Kia! Ba thấy không?” cô nói khẽ. Mo nhìn ra ngoài, nhìn xuyên qua những sợi nước mỏng mảnh, và không nói gì. “Chính ba đã cam đoan là nhà mình sẽ không bao giờ có trộm, bởi nhà mình không có gì để ăn trộm cả, đúng thế không ba?” Meggie thì thầm. “Đây không phải là kẻ trộm”, Mo trả lời, nhưng khi bước ra xa khỏi khuôn cửa sổ, mặt ông nghiêm trang đến mức tim Meggie đập nhanh hơn nữa. “Con đi ngủ đi, Meggie”, ông bảo. “Vị khách này là của ba.” Nói chưa xong ông đã ra khỏi phòng cô – trước khi Meggie kịp hỏi tại sao trời lại sinh ra một vị khách xuất hiện lúc nửa đêm này. Cô lo lắng chạy theo cha; ra đến hành lang, cô nghe tiếng ông tháo dây xích bên cửa chính; ra đến phòng ngoài, cô thấy cha mình đứng trong khung cửa mở rộng. Đêm từ ngoài tràn vào, tối, ẩm ướt, và tiếng mưa rơi đột ngột to đến đe dọa. “Ngón Tay Bụi!” Mo gọi ra bóng tối. “Phải là anh không?” Ngón Tay Bụi? Tên gì mà kỳ quặc? Meggie không nhớ đã có lần nào nghe cái tên này, vậy mà sao nó vẫn gây ấn tượng quen thuộc, như một ký ức xa xôi không muốn hiện hình lên. Phía ngoài thoạt đầu im ắng. Chỉ có mưa vẫn rơi, rì rầm xì xầm, như màn đêm vừa được tặng một giọng nói. Nhưng rồi có tiếng chân bước lại gần ngôi nhà, và từ bóng tối nhô ra người đàn ông đứng trước sân. Chiếc áo bành tô dài thượt ướt đẫm nước mưa dán dính vào chân ông ta, và khi người lạ bước vào quầng sáng từ trong nhà hắt ra, Meggie có cảm giác thoáng nhìn thấy một cái đầu nho nhỏ đầy lông, cái đầu vừa nhô từ balô lên trên vai ông ta để đánh hơi rồi lại vội vàng thụt xuống. Ngón Tay Bụi giơ ống tay áo lau khuôn mặt đẫm nước mưa và giơ tay về phía Mo. “Anh khỏe không, Lưỡi thần?” ông ta hỏi. “Đã lâu không gặp.” Mo chần chừ bắt bàn tay đang giơ tới. “Rất lâu rồi”, ông vừa nói vừa nhìn ngang qua mặt vị khách, như đang chờ phía sau người kia sẽ có một dáng hình nữa nhô ra từ màn đêm. “Mời anh vào, anh sẽ chết vì lạnh mất thôi. Meggie nói anh đứng ngoài đó lâu rồi.” “Meggie? À vâng, dĩ nhiên.” Ngón Tay Bụi để Mo kéo mình vào nhà. Ông ta nhìn Meggie chăm chú và lâu đến độ cô thấy lúng túng, không biết phải nhìn đi đâu. Sau rồi, cô quyết định trợn mắt lên nhìn lại. “Cô bé lớn rồi đây.” “Anh còn nhớ à?” “Nhớ chứ.” Meggie nhận thấy cha khóa cửa hai lần. “Con gái anh mấy tuổi rồi?” Ngón Tay Bụi cười về phía cô. Một nụ cười kỳ lạ. Meggie không rõ đó là chế giễu, khinh thị hay chỉ là ngượng ngùng. Cô không cười lại. “Mười hai”, Mo trả lời. “Mười hai ư? Trời ơi!” Ngón Tay Bụi vuốt món tóc ướt đẫm ra khỏi trán. Tóc ông ta dài gần chấm vai. Meggie tự hỏi, mái tóc này khi khô không biết có màu gì. Những chân râu bao quanh đôi môi mỏng ánh lên sắc đỏ như lông con mèo hoang mà Meggie thỉnh thoảng lại thương tình đặt cho một đĩa sữa ra trước cửa. Râu đâm ra cả từ hai má ông ta, thưa thớt như râu một cậu con trai mới lớn. Chúng không đủ dày để che đi những vết sẹo, có ba vết sẹo dài, nhạt màu. Những vết sẹo khiến mặt Ngón Tay Bụi trông như đã có lúc bị vỡ ra rồi được ghép lại. “Mười hai tuổi rồi”, ông ta nhắc lại. “Dĩ nhiên. Hồi đó cô bé… ba tuổi, đúng không?” Mo gật đầu. “Đi nào, tôi tìm chút áo ấm cho anh thay.” Ông nóng nảy kéo vị khách đi với mình, như đột ngột muốn giấu giếm con người này trước Meggie. “Còn con”, ông ngoảnh qua vai về phía cô. “Con đi ngủ, Meggie.” Không thêm một lời nào nữa, Mo đóng cửa xưởng. Meggie đứng đó và cọ chân vào nhau, hai bàn chân lạnh ngắt. Con đi ngủ. Nhiều lần khi trời đã quá khuya, Mo cười đùa và quăng cô như quăng một bao tải hạt dẻ lên giường. Nhiều tối khác ông chơi trò đuổi bắt với con gái khắp nhà, cho tới khi cô vừa hổn hển vừa cười chạy trốn vào phòng mình. Mà cũng có khi ông mệt đến độ duỗi dài người ngay trên ghế sofa và nhờ con pha cho mình một tách cà phê trước khi cô đi ngủ. Nhưng mà chưa, chưa bao giờ trước đó, cô lại bị bố giục lên giường lạnh lùng như hôm nay. Một linh cảm, chảy oặt trong sợ hãi, dần lan ra trong trái tim cô: rằng cùng với người lạ này, người có cái tên nghe sao kỳ quặc mà vẫn thân quen, đã có một nỗi đe dọa lẻn vào cuộc đời cô. Và Meggie mong muốn – mong đến mức cô giật mình thấy sợ bản thân – rằng cô đã không gọi ba Mo dậy, rằng Ngón Tay Bụi vẫn cứ đứng ngoài kia, cứ đứng mãi ngoài đó cho tới khi cơn mưa cuốn ông ta trôi đi. Cửa xưởng mở ra lần nữa, khiến cô giật mình. “Con vẫn còn đứng ở đây”, Mo nói. “Lên giường ngay, Meggie. Lên ngay.” Trên mũi ông hằn một nếp nhăn nho nhỏ. Một nếp nhăn chỉ xuất hiện khi ông thật sự lo lắng, và người cha nhìn xuyên qua người cô, như tâm trí đang ở một nơi hoàn toàn khác. Nỗi linh cảm trong trái tim bé nhỏ của Meggie lớn hơn lên, giang ra cặp cánh đen sì. “Đuổi ông ta đi đi, ba Mo!” cô nói khi bị ba đẩy về phía phòng mình. “Con xin ba! Đuổi ông ta đi! Con không chịu được ông ta!” Mo tựa người bên khuôn cửa phòng con gái. “Sáng mai khi con tỉnh dậy là anh ta đi rồi. Ba hứa đấy.” “Ba hứa chứ? Hứa thật mà không lén bắt chéo ngón tay xóa đi chứ?” Meggie nhìn thật sâu vào mắt ông. Cô luôn phát hiện ra ngay lập tức mỗi lần Mo nói dối – dù ông có gắng che giấu đến bao nhiêu. “Không bắt chéo ngón tay”, ông giơ hai tay lên cao như để chứng minh. Nói xong ông đi ra và đóng cửa lại, mặc dù ông biết con gái ông không thích điều đó. Meggie áp tai vào lần gỗ. Cô nghe tiếng đĩa tách lanh canh. A ha, cái tay râu cáo kia sắp được uống trà cho ấm. Mình cứ mong gã bị sưng phổi đi cho rồi, Meggie nghĩ thầm. Mặc dù không cần cơn sưng phổi phải bắt gã chết ngay đi. Meggie nghe tiếng ấm đun nước rít trong bếp và nghe tiếng Mo bưng một chiếc khay đầy tách cốc quay lại xưởng. Sau khi ông đóng cửa xưởng, cô cẩn thận chờ thêm vài giây đồng hồ, dù trong lòng rất nôn nóng. Thế rồi cô rón rén lẻn ra ngoài hành lang. Bên cánh cửa vào xưởng làm việc của Mo có treo một tấm biển nhỏ bằng sắt tây. Meggie đã thuộc lòng tất cả những câu được viết trên đó. Chính những chữ cái uốn lượn kiểu cổ này đã giúp cô luyện đọc từ thời lên năm: Có những cuốn ta chỉ nếm qua Có những cuốn ta nhai ngốn ngấu, Chỉ rất ít sách khiến ta nhâm nha, Nghiền từng chút từng chút trong dạ. Ngày đó, thời cô còn phải trèo lên một chiếc hòm gỗ để đánh vần từng chữ trên cái biển này, cô đã tưởng người ta nói chuyện ăn uống ở đây theo nghĩa đen, và ghê tởm tự hỏi tại sao ba Mo lại viết lời của một kẻ hủy hoại sách lên cánh cửa. Giờ thì cô đã hiểu ý nghĩa của đoạn thơ, nhưng hôm nay, trong đêm này, cô không quan tâm đến những từ được viết. Meggie muốn hiểu những từ được nói ra, những từ ngữ thì thầm, khẽ đến hầu như không hiểu nổi, đang được hai người đàn ông trao đổi cho nhau phía bên kia cánh cửa. “Đừng đánh giá thấp gã!” cô nghe Ngón Tay Bụi nói. Giọng ông ta thật khác giọng ba Mo. Không một giọng người nào giống nổi giọng ba cô. Mo có thể dùng từ ngữ mà vẽ nên trong không khí những bức tranh sống động. “Gã sẽ làm tất cả để có được nó!” lại là Ngón Tay Bụi. “Mà tất cả có nghĩa là tất cả đấy, hãy tin tôi.” “Không bao giờ tôi đưa nó cho gã”, đó là giọng Mo. “Nhưng đằng nào thì gã cũng sẽ có nó! Tôi nhắc lại cho anh nghe: Chúng tìm thấy dấu vết của anh rồi.” “Đây không phải là lần đầu tiên. Cho tới nay tôi vẫn luôn cắt đuôi được chúng.” “Thế sao? Thế anh nghĩ còn làm được chuyện đó bao lâu nữa? Còn con gái anh thì thế nào? Chả lẽ anh muốn kể cho tôi rằng, con anh thích cái trò cứ chốc chốc lại phải chuyển nhà tới nơi này, chuyển nhà tới nơi kia? Tin tôi đi, tôi biết mình đang nói gì.” Không gian sau cánh cửa lặng xuống, im đến mức Meggie không dám thở, sợ hai người nghe thấy. Rồi cha cô lại lên tiếng, ngần ngừ chậm chạp, như đầu lưỡi khó nhọc lắm mới uốn nên lời. “Thế theo anh… theo anh thì tôi nên làm gì?” “Hãy đi với tôi. Tôi mang anh đến chỗ bọn chúng!” tiếng tách lanh canh. Tiếng thìa đập vào sứ. Những âm thanh quen thuộc hàng ngày sao đêm nay vang to đến phát sợ. “Anh biết đấy, Capricorn đánh giá rất cao tài năng của anh. Chắc chắn gã sẽ rất vui nếu tự anh mang nó đến chỗ gã! Tay đọc sách mới tới, được tìm về để thay cho anh, là một gã vụng về khủng khiếp.” Capricorn. Lại thêm một cái tên lạ. Ngón Tay Bụi đã nhổ nó ra hối hả, như sợ âm của nó cắn thủng lưỡi mình. Meggie nhúc nhích mấy ngón chân. Cái lạnh đã lan lên đến mũi cô, và cô chẳng hiểu những gì hai người đang nói, nhưng cô gắng nhớ từng lời. Trong xưởng lại lặng thinh. “Tôi không biết…”, mãi rồi Mo cũng cất tiếng. Giọng ông mệt mỏi, mệt mỏi đến mức tim Meggie thắt lại. “Để tôi suy nghĩ đã. Theo anh thì bao giờ đám tay chân của gã tới đây?” “Sắp rồi!” Từ đó rơi như một viên đá. “Sắp rồi”, Mo nhắc lại. “Thôi được. Vậy thì tới mai tôi sẽ quyết định. Anh có chỗ ngủ rồi chứ?” “Ô, chỗ ngủ thì tìm lúc nào mà chả ra”, Ngón Tay Bụi trả lời. “Giờ tôi cũng đã khá quen rồi, mặc dù mọi thứ vẫn còn quá nhanh.” Tiếng cười của ông ta nghe không vui chút nào. “Nhưng tôi rất muốn biết anh quyết định ra sao. Ngày mai tôi sẽ quay lại đây, được chứ? Khoảng giữa trưa?” “Được. Tôi đón Meggie từ trường về lúc một giờ rưỡi. Hãy tới sau đó.” Meggie nghe tiếng ghế được đẩy về phía sau. Cô vội vàng lẻn về phòng. Khi cửa xưởng mở ra cũng là lúc cô đóng cửa phòng mình lại. Nhào lên giường, kéo chăn đến cằm, Meggie nằm đó và nghe cha mình chia tay với Ngón Tay Bụi. “Cảm ơn anh lần nữa vì lời cảnh báo!” cô nghe ông nói. Rồi tiếng bước chân của Ngón Tay Bụi dần rời xa ngôi nhà, thật chậm, ngập ngừng, giống như ông ta chần chừ không muốn đi, như ông ta chưa nói hết những gì muốn nói. Mãi rồi ông ta cũng đi khuất, chỉ còn mưa dìu dịu gõ những ngón tay ướt vào cửa kính. Khi ba Mo mở cửa, cô nhanh lẹ nhắm mắt lại và gắng thở thật chậm, như một đứa bé ngây thơ đang ngủ rất say. Nhưng Mo đâu phải người ngu. Ngược lại, nhiều khi ông thông minh đến kinh hoàng. “Meggie, thò một chân ra khỏi giường nào”, ông bảo. Cô miễn cưỡng chìa những ngón chân còn lạnh ngắt ra khỏi chăn, đặt nó vào bàn tay ấm áp của Mo. “Ba biết ngay mà”, ông nói. “Con đã nghe trộm. Chả lẽ con không nghe lời ba được lấy một lần?” Vừa thở dài, ông bố vừa đẩy bàn chân con gái trở lại cái chăn ấm áp. Rồi ông ngồi xuống cuối giường cô, giơ tay vuốt gương mặt mệt mỏi và nhìn qua cửa sổ. Tóc ông đen như lông chuột chũi. Còn tóc Meggie lại vàng óng như tóc mẹ cô, người mà cô chỉ biết qua vài tấm ảnh bạc màu. “Cũng may mà con giống mẹ”, Mo luôn nói như vậy. “Cái đầu ba mà đặt lên cần cổ con gái thì chẳng xinh chút nào.” Nhưng Meggie rất muốn mình giống ba nhiều hơn. Trên thế gian không có gương mặt nào cô yêu như gương mặt ba Mo. “Đằng nào thì con nghe cũng có rõ đâu, chẳng hiểu ba với ông ấy nói gì”, cô lẩm bẩm. “Tốt.” Mo vẫn nhìn trân trân qua cửa sổ, như Ngón Tay Bụi còn đứng trước sân. Mãi rồi ông mới đứng dậy và đi ra cửa. “Ráng ngủ đi con”, ông bảo. Nhưng Meggie không muốn ngủ. “Ngón Tay Bụi! Tên gì mà kỳ quặc thế?” cô nói. “Và tại sao ông ta gọi ba là Lưỡi Thần?” Mo không trả lời. “Thế còn kẻ đang đi tìm ba… con có nghe Ngón Tay Bụi nói… Capricorn. Gã là ai vậy?” “Là thứ người mà con không nên quen.” Ba cô trả lời mà không quay người lại. “Vậy mà ba cứ tưởng con nghe không rõ. Hẹn tới mai, Meggie.” Lần này ông để cửa mở. Ánh sáng từ hành lang hắt vào giường cô. Nó trộn với cái đen của màn đêm đang thấm vào qua cửa sổ. Và Meggie nằm đó mà chờ, chờ cho bóng tối biến đi và mang theo cảm giác về một tai họa đang đe dọa. Mãi tới sau này cô mới hiểu, tai họa đó không được sinh ra trong đêm nọ. Nó chỉ quay trở lại mà thôi. Bí mật h g “Nhưng không có truyện đọc thì trẻ em sẽ ra sao? Naftali hỏi. Và Reb Zebulun trả lời: “Phải chịu thôi. Truyện không phải là bánh mì. Không có chúng người ta vẫn sống.” “Nhưng không có chúng cháu không sống được”, Naftali nói. ISAAC B. SINGER, Người kể chuyện Naftali và con ngựa Sus của anh ta h g Trời lờ mờ sáng Meggie đã giật mình tỉnh dậy. Màn đêm mới bớt tối dọc một lớp trên cánh đồng, như thể trận mưa đêm qua mới chỉ giặt xong phần mép váy cho nó. Đồng hồ báo thức chỉ gần năm giờ và Meggie đã muốn xoay người sang bên ngủ tiếp, thì đột ngột cô cảm thấy trong phòng có người. Hoảng hốt, cô ngồi phắt dậy và thấy ba Mo đang đứng trước tủ quần áo mở rộng. “Chào con!” ông vừa nói vừa đặt vào vali chiếc áo len mà cô thích nhất. “Ba xin lỗi, ba biết là vẫn còn rất sớm, nhưng ta phải đi. Con uống ca cao điểm tâm nhé?” Meggie ngái ngủ gật đầu. Ngoài kia chim chóc líu lo râm ran như đã thức được mấy tiếng đồng hồ rồi. Mo ném thêm vào vali hai chiếc quần nữa của cô, đóng vali lại và xách ra cửa. “Con mặc ấm vào”, ông bảo. “Ngoài trời lạnh đấy.” “Ta đi đâu vậy?” Meggie hỏi, nhưng ông đã đi khuất. Cô bối rối nhìn ra ngoài. Lòng cô hầu như tin chắc Ngón Tay Bụi vẫn còn đứng đó, nhưng trong sân chỉ có một con chim két đang nhảy nhót trên những viên đá lát đẫm nước mưa. Meggie mặc quần, lảo đảo đi vào nhà bếp. Trên hành lang để sẵn một vali, một túi du lịch và chiếc hòm đựng đồ nghề của Mo. Ba cô đang ngồi bên bàn và quệt bơ vào bánh mì. Đồ ăn dọc đường. Khi cô bước vào bếp, ông thoáng ngẩng lên và mỉm cười, nhưng Meggie nhận thấy ông đang lo. “Ta không đi được đâu, ba Mo!” cô bảo. “Một tuần nữa con mới được nghỉ học!” “Thì đã sao? Đây đâu phải là lần đầu tiên ba đi nhận việc mới trong khi con đang học dở.” Ông có lý. Chuyện này còn xảy ra thường xuyên nữa là khác, mỗi lần có một nhà buôn đồ cổ, một nhà sưu tầm sách hoặc một thư viện nào đó cần thợ đóng sách và Mo nhận được hợp đồng giải phóng vài cuốn sách cổ quý báu khỏi nấm mốc, khỏi bụi bậm, hoặc may cho chúng quần áo mới. Meggie thấy cái khái niệm “thợ đóng sách” không miêu tả đầy đủ công việc của ba Mo, vì thế mà trước đây vài năm cô đã làm cho xưởng của ông một tấm biển, trên đề: Mortimer Folchart, bác sĩ sách. Và ông bác sĩ sách này không bao giờ đến thăm bệnh nhân mà không mang con gái theo cùng. Chuyện đã luôn luôn xảy ra như thế và sẽ luôn luôn xảy ra như vậy, cho dù các thầy cô giáo của Meggie có nói gì chăng nữa. “Con thấy bệnh thủy đậu thế nào? Đã lần nào ba dùng nó làm cớ xin nghỉ học chưa?” “Lần gần đây nhất. Cái lần mà ta phải đến chỗ gã đàn ông tồi tệ có mấy quyển kinh thánh.” Meggie nhìn chăm chăm vào mặt Mo. “Ba? Có phải ta phải đi vì… vì đêm hôm qua?” Trong một thoáng, cô đã tưởng là ông sẽ kể cho cô nghe tất cả – tất cả những gì có thể kể được. Nhưng rồi ông chỉ lắc đầu. “Vớ vẩn. Không phải!” ông nói và đẩy những miếng bánh mì đã được quệt bơ vào một chiếc túi ni lông. “Mẹ con có một bà cô. Bà Elinor. Ta đã có lần đến thăm bà ấy, khi con còn rất nhỏ. Bà Elinor muốn ba đến sửa sách cho bà từ lâu lắm rồi. Bà sống bên một cái hồ vùng bắc Italia. Ba chẳng bao giờ nhớ được tên hồ là gì, nhưng ở đó rất đẹp, mà chỉ cách đây khoảng chừng sáu đến bảy tiếng đồng hồ đi xe.” Trong lúc nói những câu này, ông không nhìn mặt con gái mình. Tại sao lại phải là bây giờ?, Meggie muốn hỏi. Nhưng cô không cất tiếng. Cô cũng không hỏi, phải chăng ông đã quên đi lời hẹn cho buổi chiều hôm nay. Cô quá sợ những câu trả lời – và quá sợ Mo lại phải nói dối cô lần nữa. “Bà cô ấy có kỳ quặc như những người khác không ba?” cô chỉ hỏi có thế. Ba Mo đã đưa cô đi thăm vài người họ hàng. Cả gia đình ông lẫn gia đình mẹ Meggie đều rất đông đúc, và Meggie có cảm giác họ sống rải rác khắp một nửa Châu Âu. Mo mỉm cười. “Kể ra bà cũng hơi có chút kỳ kỳ, nhưng con sẽ rất mến cho xem. Bà ấy có những cuốn sách tuyệt vời.” “Ta phải đi bao lâu hả ba?” “Có lẽ phải lâu một chút đấy.” Meggie uống một ngụm ca cao. Nó nóng đến mức cô bị bỏng môi. Cô vội vàng áp con dao lạnh ngắt lên miệng. Mo đẩy ghế về phía sau. “Ba phải gói ghém vài thứ trong xưởng”, ông nói. “Nhưng không lâu đâu. Chắc chắn là con còn rất mệt, nhưng chút nữa con có thể ngủ tiếp trong xe bus.” Meggie chỉ gật đầu và nhìn qua cửa sổ bếp ra ngoài. Buổi sớm mai ấy mang màu xám. Sương mù là là phủ trên những cánh đồng rải dọc các triền đồi quanh đó, và Meggie có cảm giác như bóng đêm chỉ mới tạm thời trốn vào giữa các tàn cây. “Con cho đồ ăn vào túi đi và nhớ mang đủ sách để đọc!” tiếng Mo vọng từ hành lang. Ông không dặn thì cô cũng không bao giờ quên điều đó. Trước đây mấy năm ông đã đóng cho cô một cái hòm nhỏ, đựng những cuốn sách cô yêu thích nhất, và dành cho những chuyến đi, những chuyến đi ngắn và dài, xa và gần. “Đến những nơi lạ người ta nên mang sách theo”, Mo luôn nói như thế, bản thân ông đi đâu cũng mang theo ít nhất một nửa tá. Cái hòm đó được Mo sơn màu đỏ, đỏ như hoa anh túc, loài hoa Meggie yêu thích nhất. Những bông hoa rất dễ ép bằng sách, và đài hoa thường ấn thành những hình sao. Trên nắp hòm có một hàng chữ uốn lượn, đẹp tuyệt vời, do chính tay Mo vẽ: Hòm châu báu của Meggie. Bên trong hòm bọc lụa đen óng ánh. Chỉ có điều khi mở hòm ra, người ta hầu như chẳng nhìn thấy lần lụa, bởi Meggie có nhiều sách. Và chốc chốc bộ sưu tập lại thêm một quyển mới, trên một chuyến đi mới, tại một vùng đất mới. “Khi con mang theo một cuốn sách cùng đi xa với mình”, Mo đã nói khi đặt cuốn sách đầu tiên vào hòm này, “sẽ xảy ra một chuyện lạ kỳ: cuốn sách bắt đầu gom góp những kỷ niệm cho con. Sau này chỉ cần mở sách ra là con sẽ ngay lập tức quay trở lại mảnh đất nơi con bắt đầu đọc nó. Ngay sau đoạn văn đầu tiên là mọi thứ sẽ ùa về: Những hình ảnh, những mùi vị, quả trứng con ăn khi đọc sách… tin ba đi, sách vở giống như những mảnh giấy bẫy ruồi. Kỷ niệm không bám vào đâu chắc chắn như bám vào những trang giấy in chữ.” Chắc là ông nói đúng. Nhưng Meggie mang sách theo còn vì một lý do khác. Những cuốn sách chính là quê hương cô, là ngôi nhà thân quen của cô trong chốn xa lạ – những giọng nói quen thân, những người bạn mạnh mẽ và thông minh, kỳ lạ và đủ bản lĩnh đối phó với mọi thứ trên đời, những người bạn đã đi đây đi đó rất nhiều, đã trải qua biết bao cuộc phiêu lưu. Những cuốn sách khích lệ cho cô vui khi cô buồn, và đuổi đi cảm giác nhàm chán trong những lúc ba Mo cắt vải và dán mới lại những trang sách cổ đã trở nên giòn và yếu sau biết bao nhiêu năm tháng, sau biết bao nhiêu những ngón tay lật trang. Có vài cuốn lần nào cũng được cô mang theo, có những cuốn khác phải ở lại nhà bởi chúng không phù hợp với mục đích của chuyến đi hoặc phải nhường chỗ cho một câu chuyện mới, còn chưa quen biết. Meggie giơ tay vuốt nhẹ những gáy sách cong cong. Lần này cô phải mang theo những câu chuyện nào đây? Những câu chuyện nào sẽ giúp cô chống lại nỗi sợ hãi vừa lẻn vào nhà trong đêm qua? Một câu chuyện nói dối có được không nhỉ?, Meggie nghĩ. Ba Mo nói dối cô. Ông nói dối, mặc dù biết là lần nào ông làm điều đó thì Meggie cũng thấy nó hiện ra ngay trên chỏm mũi ông. Pinocchio, Meggie nghĩ. Không, nó quá bí hiểm. Mà cũng quá buồn. Nhưng mình phải có một cái gì đó hồi hộp căng thẳng, phải có một cái gì đó đẩy mọi suy nghĩ ra khỏi đầu, kể cả những suy nghĩ u ám nhất. Các nữ phù thủy, đúng rồi. Phải mang các phù thủy đi theo. Những phù thủy đầu trọc lóc hóa phép biến trẻ em thành chuột – và Odysseus cùng Zyklopen và nữ phù thủy biến các chiến binh thành lợn. Chuyến đi của cô không thể nào nguy hiểm được hơn chuyến đi của họ, đúng không nào? Phía bên trái hòm là hai cuốn truyện tranh, hai cuốn đã giúp Meggie tự học chữ – ngày đó cô lên năm tuổi, và dấu vết của ngón trỏ nhỏ tí teo dò theo từng âm từng chữ giờ vẫn hiện rõ trên các trang giấy. Còn dưới tận đáy hòm, chìm khuất dưới tất cả những thứ khác, là những cuốn sách Meggie tự làm. Cô đã bỏ ra bao nhiêu ngày loay hoay nào dán nào cắt, vẽ những hình mới, rồi bắt ba Mo viết lời diễn dịch bên dưới: Một thiên thần với một gương mặt hạnh phúc, của Meggie tặng ba Mo. Riêng phần tên cô là luôn do cô tự viết, hồi đó cô còn viết thiếu chữ “e”ở cuối từ. Meggie quan sát những chữ cái vụng về rồi đặt những quyển sách nho nhỏ đó quay trở lại hòm. Dĩ nhiên ba Mo đã giúp cô đóng sách. Tất cả những cuốn sách do cô tự làm đều được ông đóng bìa bằng giấy màu, còn những cuốn sách khác của cô thì được ba cho một con dấu, để in tên cô cùng một con thú một sừng lên trang đầu tiên, lần trong màu mực đen, lần trong màu mực đỏ, tùy theo Meggie thích cuốn sách tới đâu. Mo chỉ không bao giờ đọc truyện cho cô nghe. Không một lần duy nhất. Ông thường tung cô lên cao, công kênh cô lên vai chạy khắp nhà hoặc dạy cho cô dùng lông chim két đan thành miếng thẻ đánh dấu khi đọc sách. Nhưng ông không bao giờ đọc cho cô nghe. Không một lần duy nhất, không một từ duy nhất, dù cô có bao nhiêu lần đặt sách vào lòng ông. Vậy là Meggie phải tự dạy cho mình cách đánh vần những kí hiệu màu đen đó, tự dạy cho mình cách mở ra hộp châu báu… Meggie đứng dậy. Hòm vẫn chưa đầy hẳn. Rất có thể ba Mo có một cuốn sách mới cho cô mang theo, một cuốn sách thật là dày, một cuốn sách đặc biệt tuyệt vời… Cửa vào xưởng của ông đóng kín. “Ba Mo?” Meggie xoay nắm đấm. Chiếc bàn làm việc thật dài giờ trống trơn như vừa được quét, không có lấy một con dấu, không một con dao duy nhất, Mo thật sự đã gói ghém tất cả đồ nghề. Vậy ra ông không nói dối sao? Meggie bước vào xưởng và nhìn quanh. Cửa dẫn sang Hầm Vàng để mở. Trong sự thật thì nó chỉ là một nhà kho, nhưng Meggie đã đặt tên cho căn phòng nhỏ đó như vậy, bởi đây là nơi cha cô lưu trữ những nguyên vật liệu đắt tiền nhất: thứ da mỏng nhất và sang nhất, những loại vải đẹp nhất, những loại giấy nổi gân như cẩm thạch, những con dấu để in mẫu thếp vàng lên da mềm… Meggie thò đầu qua khuôn cửa mở – và thấy ba đang dùng giấy gói hàng bọc một cuốn sách. Nó không đặc biệt to mà cũng không đặc biệt dày. Lớp bìa bên ngoài bằng vải gai màu xanh lục nhạt trông đã sờn mòn, nhưng Meggie chỉ nhận thấy được có vậy, bởi ba Mo vội vàng giấu cuốn sách ra đằng sau khi nhìn thấy cô. “Con làm gì ở đây?” ông sẵng giọng. “Con…” Meggie hoảng hồn ngớ ra một lúc trước gương mặt quá sức nặng nề và giận dữ của người cha. “Con chỉ muốn hỏi, liệu ba còn cuốn sách nào cho con không… Số sách trong phòng con đọc hết rồi và…” Mo giơ tay vuốt mặt. “Có chứ. Chắc thể nào ba cũng tìm ra”, miệng ông nói vậy, nhưng ánh mắt như tiếp tục thúc giục, đi đi, đi đi, Meggie. Và sau lưng ông vang lên tiếng sột soạt của giấy gói hàng. “Ba sẽ đến chỗ con ngay”, ông nói. “Ba chỉ phải gói thêm chút đồ đạc thôi, được chứ?” Một chút sau, ông mang cho cô ba cuốn sách. Cuốn mà ông bọc trong giấy gói hàng không có trong số đó. Sau một tiếng đồng hồ nữa, hai cha con họ chuyển tất cả ra sân. Meggie rùng mình khi bước ra ngoài. Một buổi sớm mai lạnh lẽo, lạnh vì cơn mưa đêm trước, và mặt trời thì treo nhợt nhạt trên cao như một đồng xu bị ai đó bỏ quên. Họ mới sống được gần một năm ở trang trại cũ kỹ này. Meggie yêu thích những quả đồi bao quanh đó, yêu thích những cái tổ én bên dưới mái nhà, yêu thích cái giếng đã cạn khô nhìn người ta bằng con mắt đen ngòm như thể nó sâu xuống đến trái tim quả đất. Ngôi nhà đối với cô luôn quá to và gió lùa rất dữ, với tất cả các căn phòng để trống, nơi ở của đám nhện béo kềnh, nhưng giá thuê ngôi nhà khá rẻ và ba Mo lại có đủ chỗ để bày sách cũng như làm xưởng. Ngoài ra, bên cạnh nhà còn có một chuồng gà cả một nhà kho, hiện chỉ có mỗi chiếc xe bus của họ đang đậu. Nhưng cái nhà kho đó rất thích hợp cho vài con bò hay vài con ngựa. “Nuôi bò là ngày nào cũng phải vắt sữa, Meggie”, Mo nói khi có lần Meggie đề nghị ít nhất cũng nên nuôi thử hai hoặc ba con bò. “Mà phải vắt sữa rất là sớm vào buổi sáng. Ngày nào cũng thế.” “Một con ngựa thì sao hả ba?” cô hỏi. “Thậm chí Pippi Langstrumpf cũng có một con ngựa, mà bọn họ đâu có chuồng đâu.” Cô có lẽ cũng sẽ vừa lòng với chỉ vài con gà thôi, hay là một con dê, nhưng cả những thứ đó người ta cũng phải cho ăn mỗi ngày. Mà cha con họ lại hay đi xa. Thế là Meggie chỉ còn lại duy nhất một con mèo màu cam, con mèo cứ lâu lâu lại bò qua nhà cô, mỗi khi nó quá mệt mỏi khi nô đùa với đám chó trong trang trại bên. Ông nông dân già nua khó tính sống ở đó là hàng xóm duy nhất của họ. Thỉnh thoảng, đàn chó của ông lại tru lên thảm thương đến mức Meggie phải giơ tay bịt tai. Từ đây đến làng bên, nơi cô đi học và nơi cô có hai người bạn gái, người ta chỉ phải đi xe đạp hai mươi phút, nhưng ba Mo thường đưa cô đến trường bằng ô tô, vì đường đi hoang vắng, hai bên đường chỉ có toàn cánh đồng cùng những lùm cây tăm tối. “Trời đất, con cho cái gì vào trong hòm thế này? Gạch xây nhà chắc?” ba Mo hỏi khi vác hòm sách của Meggie ra khỏi nhà. “Chính ba vẫn luôn bảo: Sách là phải nặng, bởi vì chúng chứa cả thế giới cơ mà”, Meggie trả lời – và khiến được ba cô cười lần đầu tiên trong buổi sáng hôm nay. Chiếc xe bus, chiếc xe được vẽ giống một con thú đốm cục mịch đang đứng cô đơn trong nhà kho, nó còn quen thân với Meggie hơn mọi ngôi nhà mà hai cha con từng sống qua. Không ở đâu cô ngủ sâu và say như trong cái giường nhỏ đã được Mo gắn trong xe. Dĩ nhiên ở đây cũng có cả một cái bàn, một góc bếp và một ghế dài. Chỉ cần lật mặt ghế lên là người ta sẽ nhìn thấy nào sách hướng dẫn du lịch, nào bản đồ giao thông và những cuốn sách bỏ túi sờn mòn. Đúng thế, Meggie yêu cái xe bus này. Nhưng sáng hôm đó cô chần chừ khi bước lên xe. Khi ba Mo quay trở lại nhà lần nữa để đóng cửa, cô đột ngột có cảm giác rằng cha con họ sẽ không bao giờ quay trở lại, rằng chuyến đi lần này sẽ khác tất cả những chuyến đi trước, rằng họ sẽ tiếp tục đi nữa và đi nữa để trốn tránh một cái gì đó không tên. Ít nhất là chưa được ba Mo cho cô biết tên. “Nào, về phương Nam!” ông chỉ nói như thế khi ngồi vào sau tay lái. Và thế là cha con họ lên đường – không chia tay với ai, vào một buổi sáng mai quá sớm, một buổi sớm mai đẫm mùi mưa. Thế nhưng ra đến cổng ngoài, họ đã thấy Ngón Tay Bụi đang chờ sẵn. Về phương Nam h g “Đằng sau dãy rừng hoang này là thế giới bao la”, con chuột nói. “Nhưng cái thế giới đó không liên quan gì đến chúng ta, không liên quan gì đến anh mà cũng chẳng liên quan gì đến tôi. Tôi chưa bao giờ ra tới đó, tôi cũng không bao giờ bước chân vào thế giới ấy, mà anh lại càng không, nếu anh có một chút trí khôn.” KENNETH GRAHAME, Gió trong những cây liễu h g Chắc Ngón Tay Bụi đã đứng chờ họ khuất sau đoạn tường rìa đường. Meggie đã hàng trăm lần chơi trò xiếc thăng bằng trên đoạn tường đó, đi tới cánh cổng rỉ sét rồi lại quay trở lại, hai mắt nhắm nghiền để nhìn rõ hơn con hổ đang rình mò trong bụi tre dưới chân tường với cặp mắt vàng như hổ phách, hoặc để nhìn rõ hơn hai dòng sông đang cuộn sóng sùi bọt bên trái và bên phải cô. Giờ chỉ có mình Ngón Tay Bụi đứng đó. Nhưng không một bức tranh tưởng tượng hoang dã nào có thể khiến tim Meggie đập lồng lên như thế. Ông ta xuất hiện đột ngột đến mức suýt bị Mo cán phải, chỉ mặc áo len, hai cánh tay run rẩy ôm thân. Áo bành tô chắc vẫn còn ẩm vì nước mưa, nhưng mái tóc bây giờ đã khô. Mái tóc phồng lên một màu vàng đỏ trên khuôn mặt sẹo. Mo khẽ buột ra một tiếng rủa, tắt máy xe rồi bước xuống. Ngón Tay Bụi lại khoác lên mặt cái nụ cười kỳ lạ của ông ta và tựa người vào tường. “Anh muốn đi đâu vậy, Lưỡi Thần?” ông ta hỏi. “Chúng ta có hẹn với nhau kia mà! Anh đã có lần thất hẹn với tôi theo kiểu này, anh còn nhớ không?” “Anh biết tại sao tôi phải vội”, Mo trả lời. “Cũng một nguyên nhân như lần đó thôi.” Ông vẫn đứng cạnh cánh cửa xe để mở, người căng lên, rõ ràng nôn nóng mong Ngón Tay Bụi biến khỏi đường đi. Nhưng người kia ra vẻ không biết gì về sự nôn nóng ấy. “Vậy lần này tôi có được biết anh đi đâu không?” ông ta hỏi. “Lần trước tôi đã phải kiếm anh suốt bốn năm trời, và suýt chút nữa đám tay chân của Capricorn đã tìm thấy anh trước tôi.” Khi người đàn ông nhìn sang phía Meggie, cô trừng trừng nhìn trả trong vẻ thù địch. Mo im lặng một lúc rồi mới trả lời. “Capricorn ở miền Bắc”, ông nói. “Vậy thì chúng tôi về phương Nam. Hay bây giờ gã ta làm ổ ở nơi khác rồi?” Ngón Tay Bụi nhìn dọc theo con đường dốc xuống. Trong những cái ổ gà còn lấp lánh nước mưa của đêm qua. “Không, không!” ông ta nói. “Không, gã vẫn còn ở trên miền Bắc. Tôi nghe nói như thế, và bởi vì anh thêm một lần quyết tâm không đưa ra thứ gã muốn, nên chắc tôi cũng phải tự lo thân mà mau chóng đi xuống phía Nam thôi. Có Chúa Trời chứng giám, tôi không muốn là kẻ mang tin xấu đến cho đám tay chân của Capricorn. Nếu cha con anh có thể cho tôi đi cùng một đoạn… tôi sẵn sàng rồi đây!” Hai cái túi được ông ta lôi ra từ phía sau bức tường trông nhàu nát sờn mòn như thể chúng đã đi du lịch đủ mười hai lần vòng quanh trái đất. Ngoài hai túi đó, Ngón Tay Bụi chỉ còn một chiếc balô duy nhất. Meggie mím môi lại. Đừng, Mo!, cô nghĩ. Đừng, đừng cho gã ta đi cùng! Nhưng chỉ cần nhìn cha mình là cô biết, câu trả lời của ông đi theo hướng khác. “Làm ơn đi nào!” Ngón Tay Bụi nói. “Nếu bị đám tay chân của Capricorn tóm cổ, tôi biết kể thứ gì cho chúng nghe?” Trông dáng đứng của người đàn ông thảm thương như của một con chó bị chủ nhân vứt bỏ. Và dù Meggie đã gắng tìm một nét bí hiểm trên con người nọ, cô cũng không hề thấy trong ánh ban mai nhàn nhạt. Bất chấp, lòng cô khăng khăng không muốn ông ta cùng đi. Chỉ cần nhìn nét mặt cô là ai cũng phải thấy ngay, nhưng hai người đàn ông không chú ý đến cô. “Tin tôi đi, tôi không thể che giấu chúng chuyện tôi đã gặp được anh”, Ngón Tay Bụi nói tiếp. “Mà ngoài ra…”, ông ta chần chừ một lúc mới nói hết câu, “… ngoài ra anh vẫn còn nợ tôi một món, đúng không?” Mo cúi đầu xuống. Meggie thấy bàn tay ông xiết chặt hơn nắm đấm cửa xe. “Nếu anh muốn nghĩ như thế”, ông nói. “Đúng, tôi cũng cho rằng tôi mắc anh một món nợ.” Vẻ nhẹ nhõm lan ra trên gương mặt sẹo của Ngón Tay Bụi. Thật nhanh, người đàn ông khoác balô lên vai và xách hai túi bước về phía xe ô tô. “Chờ đã!” Meggie thét lên khi ba Mo đi ngược về phía người đàn ông để giúp xách túi. “Nếu ông ta đi cùng, thì đầu tiên con muốn biết tại sao chúng ta phải chạy trốn. Gã Capricorn đó là ai?” Ba Mo quay về phía cô. “Meggie…”, ông bắt đầu bằng cái giọng mà cô hiểu rất rõ: Meggie, đừng có ngốc thế! Meggie, ngoan đi nào! Cô mở cửa xe, nhảy ra ngoài. “Meggie, khốn kiếp! Lên xe ngay. Ta phải đi!” “Con chỉ lên xe sau khi ba nói cho con biết.” Mo bước về phía cô, nhưng Meggie lòn người luồn xuống dưới tay ông và chạy qua cổng ra ngoài đường. “Tại sao ba không nói cho con nghe?” cô thét lên. Con đường cô độc, hoang vắng, như thể trên đời này không còn người nào khác. Một ngọn gió nhè nhẹ vuốt qua mặt Meggie và khiến đám lá trên cây bồ đề ven đường cất tiếng rì rào. Trời hãy còn tái một màu xám, đơn giản là không muốn sáng lên. “Con muốn biết chuyện gì xảy ra!” Meggie la lên. “Con muốn biết tại sao chúng ta phải dậy từ lúc năm giờ sáng và tại sao con không phải đi học. Con muốn biết liệu chúng ta có quay trở lại đây không và gã Capricorn đó là ai!” Khi cô nói cái tên đó ra, ba Mo bất giác nhìn quanh, như thể kẻ lạ mặt kia, kẻ khiến hai người sợ hãi đến thế, có thể bước ra từ căn nhà kho để trống ngay trong tích tắc sau đó, giống như cái cách Ngón Tay Bụi xuất hiện đột ngột từ sau bức tường. Nhưng khoảng sân thì trống rỗng mà Meggie lại đang giận dữ, quá giận dữ để có thể sợ một người mà cô chỉ biết tên. “Bình thường ra bao giờ ba cũng nói cho con nghe mọi việc!” cô nói lớn về phía cha mình. “Bao giờ cũng thế.” Nhưng Mo im lặng. “Ai cũng có vài bí mật, Meggie.” Cuối cùng ông bảo. “Còn bây giờ thì con lên xe ngay. Ta phải đi rồi.” Ngón Tay Bụi săm soi nhìn ông, rồi nhìn Meggie với nét mặt ngỡ ngàng. “Ra anh không kể cho cô bé nghe?” Meggie nghe thấy người đàn ông hạ giọng hỏi cha cô. Mo lắc đầu. “Nhưng anh phải kể chứ! Nếu không biết gì thật nguy hiểm. Con anh đâu còn bé nữa.” “Cả khi Meggie biết thì cũng vẫn nguy hiểm”, Mo trả lời. “Mà không thay đổi được gì.” Meggie vẫn đứng bên đường. “Con nghe thấy hết rồi, con nghe thấy hai người nói chuyện gì rồi!” cô hét lên. “Cái gì mà nguy hiểm? Chừng nào còn chưa biết con sẽ không lên xe đâu!” Mo vẫn không nói gì. Ngón Tay Bụi nhìn ông một hồi trong vẻ chần chừ, rồi ông ta đặt hai cái túi xách xuống. “Thôi được”, ông ta nói. “Vậy thì tôi sẽ kể cho cô bé nghe về Capricorn.” Ông ta đi chầm chậm sang phía Meggie. Cô bất giác lùi về một bước. “Cháu gặp gã ta rồi”, Ngón Tay Bụi nói. “Chuyện đã xảy ra từ rất lâu, chắc cháu không nhớ đâu, hồi đó cháu còn bé lắm.” Người đàn ông áp bàn tay vào đầu gối. “Chú biết làm sao để giải thích cho cháu hiểu về con người gã đây? Nếu cháu bắt buộc phải nhìn cảnh một con mèo ăn một con chim non, chắc cháu sẽ khóc, đúng không? Hoặc tìm cách giúp con chim. Còn Capricorn sẽ đưa con chim vào mõm mèo, chỉ để được nhìn cảnh nó dùng móng vuốt xé xác con chim, và những la hét cùng giãy giụa của con vật bé bỏng sẽ mang lại cho gã cảm giác ngọt ngào như mật.” Meggie lảo đảo lùi thêm bước nữa, nhưng Ngón Tay Bụi bước tiếp về phía cô. “Chú nghĩ cháu không phải là người khoái làm cho người khác sợ, làm họ sợ đến mức đầu gối run lên, hầu như không đứng nổi?” ông ta hỏi. “Còn Capricorn không thấy vui thú với một chuyện gì khác. Chắc cháu không nghĩ rằng cháu có quyền lấy về phía mình tất cả những gì cháu muốn, dù thứ đó ở đâu, dù là bằng cách nào. Còn Capricorn thì tin như vậy. Mà đáng tiếc làm sao, ba cháu lại có một thứ mà gã muốn có bằng mọi giá.” Meggie ngó sang phía ba Mo, nhưng ông chỉ đứng đó và nhìn cô. “Capricorn không biết đọc sách như ba cháu”, Ngón Tay Bụi nói tiếp. “Mà hắn cũng không làm được chuyện gì ra trò, ngoại trừ việc làm người khác sợ. Trò này thì gã rất giỏi. Gã sống nhờ vào chuyện đó. Mặc dù chú tin rằng, bản thân gã không hề biết cảm giác của người bị nỗi sợ làm cho thấp bé hẳn lại và tay chân tê liệt. Nhưng gã biết rất chính xác cách gọi nên nỗi sợ và làm cho nỗi sợ lan rộng ra, vào trong các tòa nhà và trong những chiếc giường, vào trong tim và trong đầu người ta. Đám tay chân của gã mang cái sợ đi phân phát khắp nơi như một thứ thư đen tối, chúng đút nỗi sợ qua các khe cửa và vào các hòm thư, chúng vẽ nỗi sợ lên tường và cửa, cho tới khi nỗi sợ hãi tự nó lan tỏa ra, âm thầm và thối tha như bệnh dịch hạch.” Ngón Tay Bụi bây giờ đã đến sát trước mặt Meggie. “Capricorn có rất nhiều tay chân”, ông ta nói khẽ. “Số lớn ở với gã từ khi còn nhỏ, và nếu Capricorn ra lệnh cho một gã trong đám nọ cắt của cháu một cái tai hay cái mũi, thì kẻ đó sẽ làm mà không chớp mắt lấy một lần. Chúng thích mặc đồ đen như quạ, chỉ có tên trưởng nhóm mặc sơmi trắng bên dưới áo khoác màu muội khói. Và nếu có lần nào cháu gặp một đứa trong bọn chúng, thì cháu phải làm cho mình bé hẳn lại, thật là bé để chúng có thể bỏ qua cháu, hiểu chưa?” Meggie gật đầu. Tim đập mạnh đến hầu như không thở được. “Chú rất hiểu tại sao ba cháu không bao giờ kể cho cháu nghe về Capricorn”, Ngón Tay Bụi nói và nhìn về phía Mo. “Nếu có con, chú cũng chỉ muốn kể cho con chú nghe về những người tốt bụng.” “Cháu biết là ở đời không chỉ có người tốt bụng!” Meggie gắng sức nén mà giọng vẫn run lên vì giận. Cũng có thể trong giận dữ có trộn một chút sợ hãi. “A, thế hả? Làm sao mà cháu biết?” Lại là nó rồi, cái nụ cười bí hiểm, vừa buồn rầu vừa kiêu ngạo. “Chẳng lẽ đã có lần cháu gặp một kẻ thực sự xấu xa?” “Cháu đã đọc về bọn chúng.” Ngón Tay Bụi cười lớn. “Đúng, đúng vậy. Cũng gần giống như khi gặp thật”, ông ta nói. Cái cười chế nhạo của ông ta xót như gai tầm ma. Ông ta cúi xuống sát mặt Meggie và nhìn sâu vào mắt cô. “Mặc dù vậy, chú chúc cháu chỉ gặp chúng trong sách mà thôi”, ông ta nói khẽ. Mo đặt những cái túi của Ngón Tay Bụi vào sát trong cùng xe. “Tôi mong là anh không có món đồ nào có thể bay bắn lung tung”, ông nói trong khi Ngón Tay Bụi ngồi xuống chiếc ghế sau lưng Meggie. “Cái nghề của anh cũng dễ có những thứ dụng cụ như vậy lắm.” Trước khi Meggie kịp hỏi đó là nghề gì thì Ngón Tay Bụi đã mở balô, thận trọng nâng ra ngoài một con thú nhỏ đang ngái ngủ, mắt hấp ha hấp háy. “Bởi vì chắc chắn ta sẽ có một chuyến đi chung dài hơi”, ông ta nói với Mo, “nên tôi muốn giới thiệu anh bạn này với con gái anh.” Con thú đó dài gần bằng một con thỏ, nhưng thon mảnh hơn rất nhiều, với một cái đuôi xù lông, cái đuôi đang ấn vào ngực Ngón Tay Bụi như một chiếc cổ áo bành tô bằng lông thú. Nó khoan những cái vuốt nho nhỏ vào ống tay áo ông ta, nhìn Meggie chăm chăm bằng hai con mắt tròn đen lóng lánh. Khi ngáp, con vật để lộ những cái răng sắc như kim. “Đây là Gwin”, Ngón Tay Bụi giải thích. “Nếu cháu muốn, cháu có thể gãi đằng sau tai nó. Bây giờ nó buồn ngủ, nó không cắn đâu.” “Bình thường nó có cắn không?” Meggie hỏi. “Cắn chứ”, Mo vừa nói vừa ngồi xuống ghế lái xe. “Nếu ba mà là con, ba sẽ không chạm tay vào tiểu quỷ đó đâu.” Nhưng Meggie đâu có thể rụt tay trước bất cứ một con thú nào, ngay cả khi con thú đó có những cái răng nhọn hoắt. “Nó là một con chồn Mactet hay một thứ gì tương tự, đúng không ạ?” cô bé hỏi, mấy ngón tay thận trọng vuốt khẽ một vành tai tròn tròn của con vật. “Đại loại thế”, Ngón Tay Bụi thọc tay vào túi quần, rồi đẩy vào mõm Gwin một miếng bánh mỳ khô. Trong khi nó nhai, Meggie xoa vuốt cái đầu nho nhỏ, và ngón tay cô bé chạm phải một thứ cưng cứng bên dưới lần lông mềm mại: hai cái sừng bé tí teo, ngay bên cạnh tai. Cô ngạc nhiên rút tay về. “Chồn Mactet mà lại có sừng ư?” Ngón Tay Bụi nheo mắt với cô, đưa Gwin chui trở lại balô. “Con này thì có”, ông ta bảo. Meggie bối rối nhìn người đàn ông siết dây balô. Cảm giác sờ thấy cặp sừng nho nhỏ của Gwin như vẫn còn trên tay. “Ba, ba có biết là chồn Mactet có sừng hay không?” cô bé hỏi. “Thôi nào, Ngón Tay Bụi dán sừng lên đầu con tiểu quỷ ưa cắn sằng đó cho chương trình biểu diễn của anh ta đấy.” “Chương trình biểu diễn nào cơ ạ?” Meggie nhìn ba Mo rồi nhìn Ngón Tay Bụi, cả gương mặt cô như uốn thành một câu hỏi lớn, nhưng ba Mo chỉ bật máy xe, còn Ngón Tay Bụi mải mê cởi ủng, đôi ủng có vẻ như cũng đã trải qua một chuyến du lịch dài đằng đẵng như hai cái túi, thế rồi ông ta buông ra một tiếng thở dài khoan khoái và duỗi dài người trên giường của ba Mo. “Không được nói một lời nhé, Lưỡi Thần”, ông ta nhắc nhở trước khi nhắm mắt lại. “Tôi không để lộ bí mật của anh, và anh cũng không để lộ bí mật của tôi. Mà ngoài ra, có muốn thế thì cũng phải chờ trời tối đã”. Meggie chắc chắn đã vắt óc nghĩ tới cả một tiếng đồng hồ về câu trả lời nọ. Nhưng cô bé còn nôn nóng hơn nữa với một câu hỏi khác. “Ba Mo”, cô bé hỏi khi Ngón Tay Bụi đã bắt đầu ngáy lên phía sau lưng, “gã… gã Capricorn đó muốn gì ở ba?” cô bé hạ thấp giọng xuống trước khi nói cái tên nọ, như thể làm cách này có thể giảm bớt vẻ đe dọa của gã. “Một cuốn sách”, Mo trả lời, mắt không ngưng nhìn đường. “Một cuốn sách? Tại sao ba không đưa cho gã?” “Không đưa được con ạ. Rồi ba sẽ giải thích cho con nghe, nhưng không phải bây giờ. Được không?” Meggie nhìn qua cửa sổ xe. Thế giới đang lướt qua ngoài kia bây giờ trông đã xa lạ rồi – những ngôi nhà xa lạ, những cánh đồng xa lạ, những con đường xa lạ, kể cả những tàn cây và bầu trời trông cũng xa lạ, nhưng Meggie đã quen với chuyện này, cô bé chưa bao giờ thật sự thấy thân thuộc với nơi đâu. Ba Mo là tổ ấm của cô, ba Mo cùng những cuốn sách của cô và có lẽ là cả chiếc xe này, chiếc xe đưa cô từ một nơi xa lạ sang nơi xa lạ khác. “Bà cô mà chúng ta tới thăm ấy”, cô bé nói khi họ đi qua một hầm ngầm dài vô tận. “Bà cô có con không ba?” “Không”, Mo trả lời. “Mà ba e rằng, bà không ưa trẻ con cho lắm, nhưng như ba đã nói rồi đấy, thể nào rồi con cũng sẽ hợp với bà.” Meggie thở dài, nhớ lại một số bà cô đã gặp. Cô chưa thật sự thấy hợp với bất kỳ ai trong số họ. Quang cảnh thay đổi, thế vào những quả đồi thoai thoải là những rặng núi, hai triền đất bên đường mỗi lúc một dốc hơn, và tới một lúc nào đó thì những ngôi nhà trông không những xa lạ, mà còn khác biệt. Meggie gắng sức giết thời gian bằng việc đếm các đoạn đường hầm, nhưng khi con đường hầm thứ chín há mõm nuốt lấy cha con họ và bóng tối cứ kéo dài mãi như không muốn kết thúc thì cô bé ngủ thiếp đi. Cô mơ thấy những con chồn Mactet mặc áo khoác màu đen, và thấy cả một cuốn sách được bọc trong tờ giấy gói màu nâu. Một ngôi nhà đầy sách h g “Vườn của tôi là vườn của tôi”, gã khổng lồ nói, “tất cả phải hiểu điều đó, và không ai được chơi trong đó ngoài tôi.” OSCAR WILDE, Gã khổng lồ ích kỷ h g Meggie tỉnh dậy vì xung quanh quá yên ắng. Tiếng môtơ xe rầm rì đều đặn đã ru cô ngủ giờ câm bặt, và cái ghế người lái bên cạnh cô trống rỗng. Meggie phải cần một chút thời gian mới nhớ ra được tại sao cô không nằm trên giường của mình. Mảng kính trước xe có dán những xác ruồi bé xíu, và chiếc xe bus đang đỗ trước một cánh cổng bằng sắt đúc. Trông nó thật đáng sợ với những mũi sắt nhọn hoắt sáng mờ, một cánh cổng được làm bằng những que xiên, chỉ chờ có ai đó dại dột tìm cách leo qua chúng rồi giãy giụa mắc vào đó. Cánh cổng nhắc cho Meggie nhớ tới một trong những cuốn truyện cô yêu thích nhất, câu chuyện kể về lão khổng lồ ích kỷ, không muốn trẻ con vào chơi trong vườn mình. Lần nào đọc sách cô bé cũng tưởng tượng cánh cổng của gã như thế này. Ba Mo đang đứng dưới đường với Ngón Tay Bụi. Meggie xuống xe, chạy về phía họ. Phía bên phải con đường là một triền đất, cây cối rậm rì, dốc thẳng xuống bờ một con hồ lớn. Gần bờ hồ bên kia có những quả đồi nhô đột ngột lên từ mặt nước, trông như những dãy núi chết đuối. Nước hồ hầu như màu đen, chiều đã lan ra trên bầu trời và soi cái bóng thẫm màu của nó lên những con sóng. Trong những ngôi nhà dọc bờ hồ đã cháy lên những ngọn đèn đầu tiên, giống đom đóm hoặc những ngôi sao từ trên trời lạc xuống. “Đẹp, phải không con?” Mo giơ tay choàng Meggie. “Con vốn thích những câu chuyện kẻ cướp. Con có nhìn thấy lũy thành đổ nát kia không? Đã có thời nó là nơi ẩn náu của một băng cướp khét tiếng. Để ba hỏi thêm bà Elinor. Bà ấy biết tất cả về cái hồ này.” Meggie chỉ gật rồi ngả đầu tựa lên vai ba. Cô thấy chòng chành vì mệt. Nhưng lần đầu tiên kể từ khi lên đường, gương mặt ba Mo không còn sầm tối vì lo âu. “Bà ấy ở đâu vậy?” cô bé hỏi và gắng sức nén một tràng ngáp. “Chắc không phải đằng sau cái cổng gai kia, phải không ba?” “Ô, ở đấy. Đây là cổng dẫn vào khuôn viên của bà cô. Không có vẻ mời mọc mấy, đúng không?” Mo cười và dắt Meggie đi ngang qua đường. “Bà Elinor rất tự hào về cánh cổng này. Bà đã thuê làm theo tranh minh họa trong một cuốn sách.” “Tranh minh họa khu vườn của gã khổng lồ ích kỷ”, Meggie vừa lẩm bẩm vừa đưa mắt nhìn qua những thanh sắt uốn lượn tinh xảo. “Gã khổng lồ ích kỷ?” ba Mo cười. “Không, theo ba thì nó là một cuốn truyện khác, mặc dù chuyện ấy cũng rất thích hợp với Elinor.” Hai bên cổng là lớp rào rất cao, giơ những hàng lá rậm rì gai nhọn che khuất mọi ánh mắt muốn nhìn vào trong. Mà có nhìn qua những thanh sắt trên cổng thì Meggie cũng chỉ thấy vài bụi đỗ quyên xùm xòa và một con đường rộng trải sỏi, chỉ sau một đoạn đã khuất ngay vào các bụi cây. Chẳng thứ gì hứa hẹn. “Trông bốc lên mùi họ hàng giàu có, đúng không?” Ngón Tay Bụi thì thào vào tai cô. “Đúng, Elinor khá giàu”, Mo nói và kéo Meggie rời cổng sắt. “Nhưng chắc một ngày nào đó bà sẽ nghèo như một con chuột trong nhà thờ, bởi có được đồng nào là bà chi hết cho sách vở. Tôi e rằng bà sẽ không hề ngần ngừ mà bán cả linh hồn, chỉ cần quỷ sứ biết mời chào một quyển sách thích hợp.” Ông giơ tay đẩy mạnh cánh cửa nặng nề. “Ba làm gì thế?” Meggie hoảng hốt hỏi. “Ta đâu có thể đơn giản tự tiện vào trong đó?”. Người ta vẫn đọc được rất rõ ràng tấm biển bên cánh cổng, mặc dù đã có vài chữ bị những cành cây vươn từ hàng rào che khuất. KHUÔN VIÊN TƯ. CẤM NHỮNG NGƯỜI KHÔNG PHẬN SỰ VÀO ĐÂY. Đối với Meggie, đó thật sự là những lời lẽ chẳng mấy mời mọc. Nhưng Mo chỉ cười. “Con đừng lo”, ông nói và mở cổng rộng hơn. “Thứ duy nhất được gắn dàn bảo an trong nhà bà Elinor là thư viện. Ai đi qua cổng là việc bà không hề quan tâm. Bà ấy không phải dạng đàn bà dễ sợ hãi đâu. Mà đằng nào thì cũng chẳng mấy ai tới thăm.” “Thế còn chó?” Ngón Tay Bụi lo lắng nhìn vào khu vườn lạ. “Khuôn cổng này phải xứng với ít nhất ba con chó dữ, to cỡ con bê.” Nhưng Mo chỉ lắc đầu. “Elinor rất ghét chó.” Ông vừa nói vừa quay trở lại xe. “Lên thôi.” Khuôn viên của bà cô trông giống một dải rừng hơn là một khoảng vườn. Ngay sau cổng con đường đã có một khúc uốn, như thể nó muốn lấy đà trước khi lên dốc, rồi chìm xuống dưới những hàng thông và những hàng cây hạt dẻ thẫm màu. Chúng bao lấy con đường thật dày thật rậm, đến độ cành cây tạo thành một đường hầm kín, và đúng khi Meggie nghĩ rằng đường hầm này không bao giờ kết thúc thì những hàng cây đột ngột lùi về sau và con đường dẫn vào một khoảng sân trải sỏi, bao bọc xung quanh là những luống hoa hồng được chăm sóc kỹ lưỡng. Có một chiếc xe Kombi màu xám đang đỗ trên nền sỏi, trước một ngôi nhà còn to hơn cả ngôi trường mà Meggie đi học trong năm qua. Thoạt đầu, cô gắng sức đếm số cửa sổ, nhưng rồi nhanh lẹ đầu hàng. Đây là một ngôi nhà đẹp, nhưng cũng trông hết sức thiếu mời mọc như cánh cổng sắt bên đường. Mà cũng có thể màu vàng đất chỉ bị bóng hoàng hôn khiến cho trông bẩn thỉu đến như vậy. Mà cũng có thể những khuôn cửa chớp màu xanh lục chỉ bị đóng kín như thế, bởi bóng đêm đã chờ sẵn đằng sau những ngọn núi bao quanh. Có thể. Nhưng Meggie dám cược rằng, cả ban ngày thì cũng hiếm khi chúng được mở ra. Cánh cửa vào nhà bằng gỗ tối màu trông xua đuổi như một khuôn miệng mím chặt, và Meggie bất giác nắm lấy tay ba khi họ đi về phía nó. Ngón Tay Bụi chần chừ đi theo hai cha con, trên vai là chiếc balô rách tươm với con Gwin vẫn ngủ bên trong. Khi Mo cùng Meggie bước đến bên cửa, ông ta ngừng lại sau họ vài bước chân, thấp thỏm quan sát những cánh cửa chớp đóng kín, như thể nghi rằng chủ nhân ngôi nhà đang đứng quan sát họ qua một trong những khuôn cửa ấy. Bên cửa vào có một cửa sổ nhỏ, gắn chắn song, đấy là khuôn cửa sổ duy nhất không nằm khuất sau một lớp cửa chớp bằng gỗ màu xanh lục. Bên dưới có treo một tấm biển. NẾU QUÝ VỊ MUỐN LÀM PHÍ THỜI GIAN CỦA TÔI BẰNG NHỮNG CHUYỆN VỚ VẨN, THÌ TỐT NHẤT LÀ QUÝ VỊ ĐI LUÔN ĐI. Meggie nhìn ba lo lắng, nhưng ông chỉ nhăn mặt làm hề để khích lệ con gái rồi giơ tay bấm chuông. Tiếng chuông vang qua cả ngôi nhà rộng lớn, mãi một lúc lâu mà chẳng có chuyện gì xảy ra. Chỉ có một con ác là vừa càu nhàu vừa vỗ cánh bay lên từ một bụi đỗ quyên mọc quanh nhà, và vài con chim sẻ béo phị hăm hở mổ trong lớp sỏi, tìm những con côn trùng vô hình. Đúng lúc Meggie vừa ném cho chúng vài mẩu vụn bánh mì mà cô tìm thấy trong túi áo khoác – sót lại từ hồi nảo hồi nào – thì cửa vào nhà đột ngột bị giật ngoác ra. Người đàn bà trông già hơn ba Mo khá nhiều. Gương mặt bà khiến Meggie chợt nhớ đến một con chó bulldog, nhưng có thể nguyên nhân nằm nhiều hơn ở vẻ mặt. Bà mặc một chiếc áo len màu xám lông chuột bên trên làn váy màu xám tro, một dây chuyền ngọc trai quanh cái cổ ngắn và dưới chân là dép đi trong nhà bằng nỉ, thứ dép mà Meggie đã có lần xỏ chân vào khi cùng ba Mo đi thăm quan một lâu đài. Mái tóc của bà Elinor đã trắng, được búi cao lên, nhưng ngóc ngách nào cũng có những lọn rũ xuống, như thể bà đã làm tóc quá vội vàng và đầy nóng nảy. Trông bà Elinor thật không giống với người hay dành nhiều thời gian ngồi trước gương. “Trời đất, Mortimer! Cha, thế này mới gọi là bất ngờ chứ!” bà nói, không thèm phí thời gian cho chuyện chào hỏi. “Anh chui ở đâu ra thế?” giọng nghe sỗ sàng, nhưng gương mặt bà không thể kìm nén hết niềm vui khi nhìn thấy Mo. “Chào cô Elinor”, Mo nói và đặt một tay lên vai Meggie. “Cô còn nhớ Meggie chứ? Cô thấy đấy, cháu nó khá lớn rồi đây này.” Elinor ném cho Meggie một cái nhìn ngắn, bối rối. “Phải, tôi thấy rồi”, bà bảo. “Nhưng trẻ con đứa nào mà chẳng lớn lên, đúng không? Mà nếu tôi nhớ không lầm, thì mấy năm vừa qua tôi không hề nhìn thấy mặt anh mà cũng không hề nhìn thấy mặt con gái anh. Tại sao lại chính hôm nay tôi được vinh dự bất ngờ đến thế này? Phải anh muốn thương xót mấy quyển sách tội nghiệp của tôi không?” “Chính thế”, Mo gật đầu. “Một hợp đồng của cháu bị hoãn lại, đó là hợp đồng của thư viện. Cô biết đấy, dân thư viện hiếm khi đủ tiền.” Meggie bồn chồn nhìn cha. Cô không hề biết là cha mình lại có thể nói dối thuyết phục đến như vậy. “Vì quá vội vàng”, Mo nói tiếp, “mà cháu không đủ thời gian để đưa Meggie đi chỗ khác, thế là cháu mang con gái theo cùng. Cháu biết, cô không thích trẻ con. Nhưng Meggie chắc chắn sẽ không trét mứt vào sách của cô, mà nó cũng không xé sách để gói cóc chết.” Elinor chỉ buông ra một tiếng lầm bầm chê trách và nhìn Meggie săm soi như thể cô bé này đủ sức làm mọi trò tệ hại trên đời, dù cha cô có khẳng định điều gì chăng nữa. “Lần trước khi anh mang nó lại đây, ít nhất ta cũng có thể nhốt nó vào trong cái cũi tập đi”, người đàn bà nhận định bằng giọng lạnh lùng. “Chắc bây giờ không làm trò đó được nữa.” Thêm một lần, bà cô nhìn Meggie từ đầu xuống chân, như quan sát một con thú nguy hiểm mà bà bắt buộc phải cho vào nhà. Meggie thấy rõ máu đang dồn lên mặt mình vì bực bội. Cô muốn quay về nhà hoặc ít nhất cũng quay trở lại xe bus, đi tới bất kì nơi nào, chỉ không ở trong nhà với người đàn bà ghê gớm này, người đang nhìn trừng trừng bằng hai con mắt sỏi đen, lạnh lùng như muốn làm thủng lỗ mặt cô. Ánh mắt của Elinor rời cô bé và hướng về phía Ngón Tay Bụi, người vẫn đang ngượng ngùng đứng lùi ra xa. “Còn cái kia?” cô nhìn Mo vẻ thắc mắc. “Chả lẽ gã này tôi cũng quen rồi hả?” “Đây là Ngón Tay Bụi, một… một người bạn của cháu.” Rất có thể chỉ riêng Meggie mới nhận được nét chần chừ trong giọng Mo. “Anh ta muốn đi tiếp về phía Nam, nhưng liệu cô có thể cho anh ta nghỉ một đêm trong một trong vô số những căn phòng của cô?” Elinor khoanh tay ra trước ngực. “Chỉ với một điều kiện, là tên của anh ta không liên quan gì đến cái cách anh ta cư xử với sách vở”, bà bảo. “Ngoài ra, anh ta sẽ phải hài lòng với một chỗ ở khá thiếu thốn, trong tầng áp mái, vì thư viện của tôi trong những năm qua đã nở ra thêm rất nhiều và ngốn hầu như tất cả các phòng khách.” “Bà có bao nhiêu sách vậy?” Meggie hỏi. Cô bé lớn lên giữa những chồng sách, và gắng sức đến đâu cũng không tưởng tượng được rằng có bao nhiêu cuốn sách đang được giấu đằng sau những khuôn cửa sổ của ngôi nhà đồ sộ này. Elinor nhìn cô bé lần nữa, lần này với vẻ miệt thị không che giấu. “Bao nhiêu ấy hả?” bà nhắc lại. “Chả lẽ cháu tưởng ta đếm chúng như người ta đếm cúc áo hoặc là đếm đậu hạt? Có rất nhiều, rất nhiều. Có lẽ mỗi căn phòng ở đây đều chứa nhiều sách hơn những gì cả đời cháu đọc được – mà một trong số đó quý báu đến độ ta sẽ không ngần ngừ bắn đòm cháu ngay lập tức, nếu cháu dám cả gan chạm tay vào chúng. Nhưng vì ba cháu đã cam đoan cháu là một con bé thông minh, nên chắc chắn dĩ nhiên cháu sẽ không làm điều đó, đúng không?” Meggie không trả lời. Thay vào đó, cô bé thầm vẽ ra trong óc cảnh rón rén đi trên đầu ngón chân và lén nhổ lên đầu mụ phù thuỷ già nua này ba lần. Mo cười. “Cô không thay đổi chút nào, cô Elinor”, ông nhận xét. “Lưỡi cô sắc như dao cạo vậy. Nhưng cháu cảnh cáo cô trước: nếu cô bắn Meggie, cháu cũng sẽ làm điều đó với những cuốn sách cô yêu nhất.” Làn môi bà Elinor cong lại trong một nụ cười nhỏ như con bọ dừa. “Câu trả lời tốt”, bà nói và bước sang bên. “Cả anh rõ ràng cũng không hề thay đổi. Vào đây. Tôi sẽ chỉ cho anh những cuốn sách cần anh giúp đỡ. Và thêm vài quyển khác.” Xưa nay Meggie cứ tưởng ba Mo là người có nhiều sách. Nhưng sau khi bước chân vào ngôi nhà của bà Elinor, cô bé không bao giờ còn nghĩ như vậy nữa. Không có những chồng sách nằm vạ vật ngổn ngang như trong nhà Meggie, mỗi cuốn sách ở đây có chỗ riêng của nó. Chỉ có điều ở tất cả những nơi mà người khác treo thảm, treo tranh hoặc đơn giản để một khoảng tường trống, thì Elinor có kệ sách. Trong sảnh vào, nơi họ được dẫn đi qua đầu tiên, là những kệ sách màu trắng cao tới trần phòng, còn trong những căn phòng mà họ đi qua sau đó thì những kệ sách lại mang màu đen lóng lánh như lớp gạch ceramic lát sàn, hành lang cũng vậy. “Đám sách này”, bà Elinor tuyên bố với một cử chỉ khinh thị khi bước qua những gáy sách chen chúc cạnh nhau. “Chúng nó đã tự tụ tập từ năm này qua năm nọ. Chúng không phải loại quý giá, đa phần là chất lượng tồi, không có gì đặc biệt. Nếu có một ngón tay nào đó không đủ sức kiềm chế, có lúc nào đó lén rút một quyển trong đám chúng ra khỏi kệ”, bà ném sang Meggie cái nhìn ngắn, “thì chuyện này cũng chẳng sao. Chỉ cần những ngón tay đó, sau khi sự tò mò đã được thỏa mãn, lại biết đặt những cuốn sách về đúng vị trí của chúng và không để quên trong sách những vật đánh dấu trang kinh tởm”, nói tới đây, bà Elinor xoay về phía Mo. “Có tin hay không”, bà bảo. “Trong một cuốn sách tôi mua gần đây nhất, một cuốn sách đẹp cực của lần xuất bản đầu tiên từ thế kỷ 19, tôi đã tìm thấy một khoanh xúc xích salami khô quắt, bị kẹp vào đấy làm đồ đánh dấu trang.” Meggie bật cười khúc khích, và dĩ nhiên ngay lập tức cô nhận được một cái nhìn không mấy vui vẻ. “Không phải trò cười đâu, cô gái trẻ”, bà Elinor nói. “Đã có một số những cuốn sách tuyệt vời nhất bị huỷ hoại, một cái đầu buôn cá rỗng không nào đó đã xé nát chúng ra, dùng sách gói đám cá thối tha. Thời Trung Cổ có hàng ngàn cuốn sách bị hủy diệt, bởi người ta cắt bìa sách làm đế giày hoặc đốt sách lên để xông hơi.” Hồi ức về những việc làm nhục nhã không thể nào tin nổi, dù đã xảy ra trước đây không biết bao nhiêu thế kỷ, vẫn khiến bà Elinor xúc động đến phải há mồm ra mà thở. “Thôi, bỏ qua đi!” cô vội nói. “Nếu không thì ta sẽ bực bội quá lên, huyết áp của ta vốn đã quá cao rồi.” Bà dừng lại trước một cánh cửa, trên nền gỗ trắng có vẽ một chiếc mỏ neo với một con cá heo uốn mình bám quanh. “Đây là biểu tượng của một nhà in nổi danh”, bà Elinor giải thích và đưa ngón tay vuốt cái mũi nhọn của cá heo. “Rất thích hợp cho cửa vào một thư viện, đúng không?” “Cháu biết”, Meggie nói. “Aldus Manutius. Ông ấy sống ở Venedig. Ông ấy đã in những cuốn sách đủ nhỏ để đút gọn vào túi trên yên cương của chủ hợp đồng.” “Ra thế?” bà Elinor bối rối nhăn trán. “Ta không biết điều đó. Ít nhất thì ta cũng là chủ nhân đầy hạnh phúc của một cuốn sách do chính tay ông ta in nên. Mà là từ năm 1503.” “Ý cô muốn nói là nó ra đời từ xưởng của ông ấy”, Meggie sửa lại. “Dĩ nhiên là ta muốn nói như thế.” Bà Elinor e hèm hắng giọng và nhìn Mo đầy vẻ trách móc, như thể ông có tội khi con gái ông biết những chuyện hiếm lạ đến như vậy. Thế rồi bà đặt tay lên nắm đấm cửa. “Chưa bao giờ”, và vừa nói vừa ấn nắm đấm xuống trong một vẻ sùng kính hầu như thiêng liêng, “chưa từng có một đứa bé nào được đi qua cánh cửa này, nhưng bởi vì cha cháu chắc đã dạy cho cháu biết tôn trọng sách, nên hôm nay ta làm một ngoại lệ. Nhưng chỉ với một điều kiện, là cháu phải đứng cách xa kệ sách ít nhất ba bước chân. Cháu chấp nhận điều kiện không?” Trong một thoáng, Meggie đã muốn từ chối. Cô rất muốn gây bất ngờ cho bà Elinor bằng cách giơ sự khinh thị ra trừng phạt những cuốn sách vô giá của bà. Nhưng cô không làm nổi. Nỗi tò mò quá mạnh mẽ. Những cuốn sách như đang thì thầm qua khuôn cửa mở hé, hứa hẹn với cô hàng ngàn câu chuyện chưa quen biết, hàng ngàn cánh cửa vào hàng ngàn thế giới chưa bao giờ nhìn thấy. Sự hấp dẫn mạnh mẽ hơn niềm kiêu hãnh của Meggie. “Chấp nhận”, Meggie lầm bầm và đưa hai tay ra sau lưng. “Ba bước chân.” Những ngón tay tê lên vì háo hức. “Một đứa trẻ thông minh”, bà Elinor nói bằng giọng kẻ cả đến độ suýt chút nữa thì Meggie rút lại quyết định của mình. Nhưng rồi họ bước vào nơi thiêng liêng nhất của bà. “Cô đã cho sửa lại chỗ này!” Meggie nghe ba Mo thốt lên. Ông còn nói điều gì nữa, nhưng cô không nghe rõ. Cô chỉ nhìn trân trân những cuốn sách. Những kệ chứa sách ngào ngạt hương thơm gỗ mới xẻ. Những kệ sách cao đến sát trần được quét sơn màu xanh da trời, nơi có treo chi chít những ngọn đèn bé tí xíu như vô vàn những vì sao. Những cái thang bằng gỗ xinh xinh, dưới có bánh xe, đứng trước các kệ, sẵn sàng đưa người đọc tò mò lên các ngăn trên. Trong thư viện có những bục đọc sách, trên có để những cuốn sách đang mở sẵn, được gắn chắc vào bục bởi những sợi dây chuyền bằng đồng thau. Trong thư viện có những tủ kính, chứa những cuốn sách lốm đốm vệt tuổi tác, chúng mở ra cho người lại gần xem ngắm những bức tranh đẹp diệu kỳ. Meggie không giữ được nữa, một bước, một cái nhìn vội vàng về phía bà Elinor, may làm sao bà đang xoay lưng về phía cô, và thế là cô bé đứng trước một tủ kính. Cô cúi xuống thấp hơn, rồi thấp hơn nữa, xuống sát lớp kính, cho tới khi mũi cô chạm vào đó. Những chiếc lá đầy gai mọc quấn quanh những chữ cái màu nâu nhạt. Một cái đầu rồng đỏ rực bé tí xíu đang nhổ những nụ hoa lên lớp giấy ố vàng. Những kỵ sĩ cưỡi những con ngựa trắng nhìn thẳng vào Meggie, như thể chưa hề có một ngày nào qua đi kể từ khi có ai đó vẽ nên họ với những chiếc bút nhỏ tí xíu bằng lông chồn Mactet. Bên cạnh họ có một cặp trai gái, có thể là một đôi vợ chồng. Một người đàn ông đội cái mũ đỏ như lửa đứng nhìn hai người bằng vẻ thù địch. “Thế này mà là ba bước chân hả?” Meggie hốt hoảng xoay về, nhưng bà Elinor không có vẻ giận dữ thật sự. “Phải, nghệ thuật minh họa sách!”, bà bảo. “Ngày trước chỉ người giàu mới biết đọc sách. Vì thế mà người ta vẽ hình cho các chữ cái, để người nghèo có thể hiểu được câu chuyện. Dĩ nhiên, họ đâu có nghĩ đến niềm vui thú của bọn người nghèo, dân nghèo được sinh ra trên thế giới này là để lao động chứ không phải để làm người hạnh phúc hoặc để xem những bức tranh đẹp đẽ. Đọc sách là trò vui dành cho người giàu. Không chỉ vậy. Người ta muốn dạy dỗ người nghèo. Đa phần là những câu chuyện lấy từ kinh thánh ra, thứ mà ai cũng đã thuộc rồi. Những cuốn sách này được bày trong nhà thờ, và mỗi ngày người ta lại giở một trang, để con chiên xem một hình minh họa mới.” “Thế còn cuốn này?” Meggie hỏi. “Ô, ta nghĩ nó chưa bao giờ nằm trong nhà thờ đâu”, bà Elinor trả lời. “Chắc là nó được làm vì sự vui thú của một người đàn ông rất giàu có, nhưng nó có tuổi thọ gần sáu trăm năm đấy.” Vẻ kiêu hãnh lóe lên rất rõ ràng trong giọng bà. “Vì một cuốn sách như thế này đã từng xảy ra chuyện giết chóc. May mà ta chỉ cần mua nó mà thôi.” Nói đến đây, bà đột ngột quay phắt đi và nhìn chăm chăm Ngón Tay Bụi, người đã bước theo họ lẹ làng không tiếng động, giống một con mèo đi săn. Trong một thoáng, Meggie đã tưởng bà Elinor sẽ đuổi ông ta ra ngoài hành lang, nhưng Ngón Tay Bụi đang đứng trước những kệ sách với nét mặt kính cẩn, hai tay vòng ra sau lưng, khiến bà Elinor không có cớ, bà chỉ ném cho ông ta một cái nhìn chê trách cuối cùng rồi quay trở lại bên Mo. Mo đang đứng trước một bục đọc và cầm một cuốn sách trong tay, gáy sách chỉ còn được giữ bởi vài sợi chỉ mỏng manh. Ông giữ nó thật thận trọng, như người ta nâng niu một con chim bị gãy cánh. “Sao?” bà Elinor lo lắng hỏi. “Anh có cứu được nó không? Tôi biết, nó ở trong một tình trạng thật khủng khiếp, mà với những cuốn sách khác thì tôi e cũng chẳng khá hơn là mấy, nhưng…” “Có thể sửa lại được hết.” Mo đặt quyển sách sang bên và xem xét một cuốn sách khác. “Nhưng có lẽ cháu cần ít nhất hai tuần. Nếu không phải mua thêm nguyên vật liệu. Trong trường hợp khác, sẽ còn lâu hơn đôi chút. Cô có thể chịu đựng được bọn cháu suốt thời gian đó không?” “Dĩ nhiên,” bà Elinor gật đầu, và Meggie nhận ra ánh mắt mà bà ném về hướng Ngón Tay Bụi. Người đàn ông vẫn còn đứng cạnh các kệ sách, ngay bên cửa vào, và hầu như chìm đắm hoàn toàn vào việc quan sát những cuốn sách, nhưng Meggie có cảm giác ông ta nghe không sót một lời. Trong căn bếp của bà Elinor không có sách, không có lấy một cuốn duy nhất, nhưng ở đó bọn họ nhận được một bữa ăn tối tuyệt vời bên chiếc bàn gỗ, cái bàn mà bà Elinor quả quyết rằng, nó vốn được lấy ra từ phòng làm việc của một tu viện tại Italia. Meggie nghi ngờ điều này. Theo những gì cô bé được biết, thì các tu sĩ làm việc trong thư phòng của tu viện bên những chiếc bàn mặt nghiêng, nhưng cô bé quyết định giữ kín chuyện này. Thay vào đó, Meggie lấy thêm cho mình một miếng bánh mì và đúng lúc cô đang tự hỏi thầm, cái món phô-mai nằm trên cái được gọi là bàn viết này liệu ăn có ngon không nhỉ, thì cô thấy Mo thì thầm điều gì đó với bà Elinor. Đôi mắt bà mở to ra trong vẻ ham muốn, và điều đó khiến Meggie suy ra rằng, chắc chắn họ đang nói chuyện về một cuốn sách, và cô bé ngay lập tức lại nhớ đến thứ giấy gói hàng, nhớ đến những trang bìa bọc vải gai màu lục nhạt và vẻ giận dữ trong giọng nói của Mo. Bên cạnh bà, Ngón Tay Bụi đang lén đưa một khúc thịt xông khói vào balô, làm bữa ăn tối cho Gwin. Meggie nhìn thấy một cái mũi be bé tròn tròn thò ra khỏi balô ngửi ngửi, trong hy vọng nhận được thêm vài miếng hấp dẫn. Ngón Tay Bụi mỉm cười với Meggie khi nhận ra ánh mắt của cô, và đút cho Gwin thêm một chút mỡ xông khói nữa. Có vẻ như ông ta không nhận ra trò thì thầm giữa Mo và bà Elinor, nhưng Meggie tin chắc, hai người đang có một cú thương thuyết ngầm nào đó. Sau một hồi, Mo đứng dậy và đi ra ngoài. Meggie hỏi bà Elinor xem nhà vệ sinh ở đâu – và đi theo ông. Thật là một cảm giác kỳ lạ khi giở trò do thám với Mo. Cô nhớ là mình chưa bao giờ làm điều này – chỉ trừ cái đêm Ngón Tay Bụi đến nhà. Và một lần khác trước đó, khi cô muốn tìm hiểu xem ông già Noel có phải là Mo không. Trong lòng cô bé thấy ngượng khi lẩn khuất bám theo đuôi ông như thế. Nhưng chính ông có lỗi kia mà. Tại sao ông lại giấu giếm cuốn sách đó mà không cho cô biết? Và bây giờ rất có thể ông lại còn muốn đưa nó cho bà Elinor – một cuốn sách mà bản thân cô không được phép xem! Kể từ lúc Mo vội vàng giấu nó ra sau lưng ông, cuốn sách không ra khỏi đầu Meggie nữa. Cô thậm chí đã lục tìm trong túi đồ của Mo, trước khi ông mang túi lên xe ô tô, nhưng không phát hiện được gì. Nhất thiết cô phải được nhìn nó, trước khi nó biến vào một trong những tủ kính của bà Elinor! Nhất thiết cô phải biết được, tại sao Mo lại quý trọng nó đến như thế, đến mức vì nó mà ông lôi cô tới đấy… Ra đến ngoài sảnh, Mo nhìn quanh một lần trước khi rời nhà, nhưng Meggie đã kịp thời nấp xuống phía sau một chiếc hòm nồng nặc mùi băng phiến và mùi oải hương. Cô quyết định ở nguyên trong chỗ trú ẩn cho tới khi Mo quay trở lại. Ra sân, chắc ông sẽ phát hiện ra cô ngay. Thời gian trôi chậm rãi như tra tấn, giống như mọi lần khi ta phải chờ điều gì đó với trái tim đập lồng lên trong ngực. Những cuốn sách trong các khuôn kệ màu trắng quan sát Meggie, nhưng chúng im lặng, như thể chúng cũng cảm nhận rằng Meggie hiện thời chỉ có thể nghĩ đến một cuốn sách duy nhất mà thôi. Mãi rồi Mo cũng quay trở lại, trong tay là cái gói nho nhỏ bọc giấy nâu. Rất có thể ông chỉ muốn giấu nó vào một chỗ ở đây!, Meggie nghĩ. Còn chỗ giấu nào tốt hơn cho một cuốn sách là để nó đứng giữa hàng chục ngàn cuốn khác? Đúng vậy. Mo sẽ để cuốn sách ở đây và họ sẽ lại đi về nhà. Nhưng mình muốn nhìn nó một lần, Meggie nghĩ, chỉ một lần thôi, trước khi nó ở lại trong một cái kệ mà mình phải cách xa ba bước chân. Mo đi lướt qua cô, sát đến mức cô có thể chạm vào ông, nhưng ông không nhận ra. “Meggie, con đừng nhìn ba như thế chứ!” thỉnh thoảng ông lại nói như vậy. “Con đọc được suy nghĩ của ba.” Nhưng bây giờ trông ông đầy lo lắng – như thể ông không chắc chắn liệu những gì mà ông định làm có đúng hay không. Meggie chầm chậm đếm tới 3, sau đó mới rón rén bước theo. Có vài lần Mo dừng phắt lại, khiến suýt chút nữa cô bổ nhào vào người ông. Mo không quay trở lại căn bếp, ông đi thẳng vào thư viện. Không nhìn quanh một lần nào nữa, ông mở cánh cửa có vẽ biểu tượng của người thợ in xứ Venedig rồi khẽ khép cửa lại. Meggie đứng lại giữa bao nhiêu những cuốn sách câm lặng, và tự hỏi liệu có nên đi theo ông… liệu có nên xin ông cho cô xem cuốn sách. Liệu ông có nổi giận? Đúng lúc cô bé vừa gom góp toàn bộ lòng dũng cảm và quyết định đi theo cha thì có tiếng bước chân vang lên – những bước chân nhanh lẹ quả quyết, vội vàng vì nôn nóng. Chỉ có thể là bà Elinor thôi. Làm gì đây? Meggie mở cánh cửa cạnh đó và chui vào trong. Một cái giường rộng mênh mông, một tủ, ảnh trong những khung lồng bằng bạc, một chồng sách trên bàn phấn, trên thảm trải phòng là một cuốn catalog đang mở sẵn, chứa đầy ảnh những cuốn sách cổ. Meggie đã lạc vào phòng ngủ của bà Elinor. Tim đập thình thịch, cô hướng tai ra phía ngoài, nghe những bước chân mạnh mẽ của bà Elinor rồi sau đó, nghe tiếng cánh cửa phòng thư viện đóng lại lần thứ hai. Thật thận trọng, Meggie từ từ ló ra ngoài hành lang. Đúng lúc cô vẫn còn đứng chần chừ trước thư viện, thì đột ngột từ phía sau có một bàn tay đặt lên vai cô. Một bàn tay thứ hai bóp nghẹt tiếng la hoảng hốt của cô. “Chú đây!” Ngón Tay Bụi nói như thổi vào tai cô. “Bình tĩnh nào, không cả hai ta sẽ gặp khó đấy, cháu hiểu không?” Meggie gật đầu, và Ngón Tay Bụi chầm chậm buông tay ra khỏi miệng cô. “Cha cháu muốn trao quyển sách cho bà phù thủy, đúng không?” ông thì thào, “ông ấy lấy sách từ xe vào? Nói đi nào. Ông ấy có cầm sách, đúng không?” Meggie đẩy người đàn ông ra. “Tôi không biết!” cô bé rít lên. “Mà ngoài ra, chuyện này đâu có liên quan gì đến ông?” “Liên quan đến ta không ấy hả?” Ngón Tay Bụi cười khẽ. “Chà, có lẽ tới lúc nào đó chú sẽ kể cho cháu nghe chuyện này liên quan đến chú tới mức nào. Nhưng bây giờ thì chú muốn biết liệu cháu có nhìn thấy nó hay không?” Meggie lắc đầu. Bản thân cô cũng không hiểu tại sao cô nói dối Ngón Tay Bụi. Có lẽ bởi ban nãy bàn tay ông bịt miệng cô có phần quá chặt. “Meggie! Nghe chú này!” Ngón Tay Bụi nhìn sâu vào mắt cô. Những vết sẹo trông như những nét vẽ lờ mờ đã có kẻ quệt lên má ông ta, hai nét bút bên trái, hơi cong cong một chút, một nét bút thứ ba trên má phải, dài hơn, kéo từ tai đến cánh mũi. “Capricorn sẽ giết cha cháu, nếu gã không nhận được cuốn sách!” Ngón Tay Bụi thủ thỉ. “Gã sẽ giết ông ấy, cháu hiểu không? Chính chú đã giải thích cho cháu hiểu gã là người như thế nào, đúng không? Gã muốn có cuốn sách, mà xưa nay gã muốn thứ gì thì gã cũng sẽ có nó. Thật ngớ ngẩn mà tin rằng, giấu nó ở đây là sẽ an toàn trước gã.” “Mo không nghĩ như vậy!” Ngón Tay Bụi đứng thẳng lưng lên, nhìn trân trân vào cánh cửa thư viện. “Đúng, chú biết”, ông ta lẩm bẩm: “Đó mới là vấn đề – và vì vậy”, ông ta đặt cả hai tay lên vai Meggie và đẩy cô về phía cánh cửa đóng kín, “– chính vì vậy mà bây giờ cháu sẽ giả bộ ngây thơ bước vào trong kia mà tìm hiểu xem, hai người định làm gì với cuốn sách. Được chứ?” Meggie muốn phản đối. Nhưng trước khi cô kịp cất lời thì Ngón Tay Bụi đã mở cánh cửa ra và đẩy cô vào trong thư viện. Chỉ một bức tranh h g “Với những kẻ nào ăn cắp sách hoặc mượn sách mà không trả lại, cuốn sách trong tay gã sẽ biến thành rắn độc. Những cú mổ của nó sẽ trúng vào cơ thể gã và làm tê liệt tay chân. Gã sẽ phải la thét xin tha mạng, và mọi đau khổ của gã sẽ không hề giảm sút cho tới khi gã thối rữa ra. Những con mọt sách lúc đó sẽ gặm nhấm lục phủ ngũ tạng gã giống như con Giun Tử Thần không bao giờ chết. Và khi gã phải chịu đựng sự trừng phạt cuối cùng, thì lửa địa ngục sẽ ăn thịt gã mãi mãi.” Câu văn khắc trong thư viện của tu viện San Pedro tại Barcelona, trích dẫn bởi ALBERTO MANGUEL. h g Họ đã mở cuốn sách ra, Meggie nhìn thấy miếng giấy gói trên một mặt ghế. Không ai nhận thấy là cô đã bước vào trong. Bà Elinor đang cúi mình bên một trong những bục đọc sách. Mo đứng cạnh bà, cả hai đang xoay lưng về phía cửa. “Không thể nào tin nổi. Tôi cứ tưởng không còn một phiên bản duy nhất nào nữa”, bà Elinor nói. “Người ta đồn những câu chuyện rất kỳ quặc về cuốn sách này. Một người bán đồ cổ, nơi cô thường xuyên đến mua hàng, đã kể cho cô nghe là cách đây vài năm ông ấy bị ăn cắp mất ba cuốn, mà là vào cùng một ngày. Hai người buôn sách khác cũng kể cho cô nghe những câu chuyện y như vậy.” “Thật sao? Vậy thì kỳ quặc thật đấy”, Mo nói, nhưng Meggie hiểu quá rõ giọng ông để biết rằng sự ngạc nhiên của ông bây giờ chỉ là giả tạo. “Thôi thì, dù sao chăng nữa, dù nó cũng không phải là một cuốn sách hiếm hoi, nhưng với cháu nó rất quý giá và cháu muốn giữ nó ở một nơi an toàn, một thời gian thôi, cho tới khi cháu đón nó về.” “Ở chỗ tôi thì cuốn sách nào cũng sẽ được gìn giữ rất tốt”, bà Elinor cay nghiệt dạy dỗ. “Anh biết rồi, sách là con tôi. Những đứa con đen màu mực, và tôi chăm sóc chúng, nuôi nấng chúng. Tôi không để cho ánh mặt trời lọt vào những trang sách, tôi phủi bụi cho chúng và che chở chúng trước đám mọt sách háu ăn cùng những ngón tay bẩn thỉu của con người. Cuốn sách này sẽ nhận được một chỗ danh dự ở đây, và sẽ không một kẻ nào được phép nhìn nó cho tới khi anh đón nó về. Khách thăm là loại không được hoan nghênh trong thư viện của tôi. Người đến thăm chỉ toàn để lại dấu ngón tay và vỏ phô-mai trong những cuốn sách tội nghiệp. Ngoài ra, như anh biết đấy, tôi có một hệ thống bảo an rất đắt tiền.” “Vâng, đó là thứ đặc biệt có thể an tâm”, giọng Mo nghe có vẻ nhẹ nhõm hẳn. “Cảm ơn cô, cô Elinor! Cảm ơn cô thật nhiều. Và nếu trong thời gian tới có kẻ nào gõ cửa nhà cô và hỏi về cuốn sách này, thì cô hãy làm ơn cư xử như thể cô chưa bao giờ nghe thấy nó, được chứ ạ?” “Dĩ nhiên. Chuyện gì mà không làm được cho một anh thợ đóng sách khéo tay? Ngoài ra, anh còn là chồng đứa cháu gái của tôi. Anh có biết là nhiều khi tôi thấy nhớ nó không? Ừ thì, chắc là anh cũng vậy. Con gái anh có vẻ sống rất tốt mà không cần đến mẹ, đúng không?” “Meggie hầu như không nhớ gì”, Mo nói khẽ. “Cha, như thế là may mắn đấy, đúng không? Kể ra nhiều khi cũng tiện lợi là trí nhớ của ta chẳng bằng một nửa so với trí nhớ của những cuốn sách. Không có sách chắc chắn bọn ta sẽ không còn biết điều gì nữa. Mọi thứ sẽ bị quên đi: cuộc chiến Troja, Columbus, Marco Polo, Shakespeare, tất cả những nhà vua và tất cả những vị thần điên khùng…” bà Elinor xoay người lại – và cứng đờ người ra. “Phải ta không nghe thấy tiếng gõ cửa của cháu không?” bà hỏi và nhìn trân vào mặt Meggie trong vẻ thù địch đến độ cô bé phải gom góp tất cả lòng dũng cảm mới ngăn nổi mình không xoay đi và chui thật nhanh ra ngoài hành lang. “Con đứng đây bao lâu rồi, Meggie?” Mo hỏi. Meggie ương bướng vươn cằm về phía trước. “Bà ta được phép xem sách, còn với con thì ba giấu phắt nó đi!” cô bé nói. Tấn công luôn luôn là sự phòng thủ tốt nhất. “Ba chưa bao giờ giấu con cuốn sách nào! Cuốn này thì có gì đặc biệt. Chẳng lẽ đọc nó con bị mù chắc? Hay nó cắn cụt ngón tay con? Trong đó có những bí mật khủng khiếp nào mà con không được biết?” “Ba có lý do riêng để không cho con xem nó”, Mo trả lời. Mặt ông trắng bợt. Không nói thêm một lời, ông bước tới bên cô và kéo cô về hướng cửa, nhưng Meggie giằng người ra. “Ô, con bé này cứng đầu”, bà Elinor nhận định. “Nó khiến tôi có một chút cảm tình đấy. Tôi nhớ rằng mẹ nó ngày xưa cũng cứng đầu y như vậy. Lại đây.” Bà ta bước sang bên và vẫy Meggie lại gần. “Rồi cháu sẽ thấy, trong cuốn sách sẽ chẳng có gì hồi hộp đặc biệt, ít nhất là đối với con mắt của cháu. Nhưng hãy tự mình xem xét đi. Người ta luôn luôn tin nhiều nhất vào cặp mắt của chính mình. Hay là ba cháu nghĩ khác hả?” bà ném một cái nhìn thăm dò sang phía Mo. Mo chần chừ – rồi cuối cùng lắc đầu, chịu thua số phận. Cuốn sách đang được mở sẵn trên bục đọc. Nó không có vẻ đặc biệt cổ. Meggie biết một cuốn sách thật sự cổ trông sẽ ra sao. Trong xưởng của Mo cô đã xem những cuốn sách mà từng trang đều nổi ố lên như một tấm lông báo gấm, và cũng vàng gần như lông báo gấm vậy. Cô còn nhớ có một cuốn bìa bị mọt tấn công. Vết gặm của chúng trông như vô vàn những vết đạn nhỏ tí xíu, và Mo đã phải dỡ toàn bộ tập sách ra, dán mới từng trang và may cho chúng, theo cách mà ông thường nói, một làn váy mới. Một làn váy mới như thế có thể được làm từ da hoặc vải gai, có thể để mộc hay được in hình, được Mo dùng những chiếc dấu nhỏ tí xíu của ông ấn vào lần vải, và thỉnh thoảng chúng còn được thếp vàng nữa. Cuốn sách này có bìa bọc vải gai, màu xanh lục pha bạc như lá liễu. Mép sách đã hơi quằn một chút, và những trang sách còn sáng màu, từng chữ cái nổi lên rõ ràng và đen lánh. Trên trang sách đang mở có một dải da đánh dấu bé màu đỏ. Ở phía bên phải có một hình minh họa những người phụ nữ ăn mặc hết sức lộng lẫy, một người đang phun lửa, những người khác nhào lộn và một người trông giống như một vị vua. Meggie lật tiếp, sách không có nhiều hình, nhưng chữ cái bắt đầu mỗi chương đều được thể hiện như một bức tranh con con. Trên một số chữ cái có những con thú ngồi vắt vẻo, những chữ khác lại có những dây leo lượn quanh, một chữ B đang cháy rừng rực như một bó đuốc. Những lưỡi lửa trông thật đến mức Meggie bất chợt đưa những ngón tay vuốt lên trên, để tin chắc rằng chúng không nóng. Chương tiếp theo bắt đầu bằng chữ K. Nó đứng dạng chân ra như một chiến binh, trên cánh tay duỗi thẳng có một con thú với cái đuôi lông xù. Không một ai nhìn thấy anh ta lẻn ra khỏi thành phố, Meggie bắt đầu đọc, nhưng trước khi có thêm những từ ngữ khác đến hội họp với nửa câu này thì bà Elinor đã gập quyển sách lại ngay trước mũi cô. “Ta nghĩ thế là đủ rồi”, bà nói và kẹp cuốn sách đó xuống dưới nách. “Cha cháu đã nhờ ta giữ hộ cuốn này ở một nơi an toàn, và bây giờ ta sẽ làm như vậy.” Mo lại đưa tay về phía Meggie. Lần này, cô nghe lời. “Làm ơn, Meggie, quên cuốn sách này đi!”, ông rỉ tai cô. “Nó chỉ mang lại điềm rủi. Cha sẽ mua cho con hàng trăm cuốn khác.” Meggie chỉ gật đầu. Trước khi Mo đóng cửa lại, cô bé còn thoáng nhìn thấy bà Elinor một lần nữa. Bà đứng đó và trìu mến ngắm cuốn sách. Trìu mến như ánh mắt của Mo nhìn cô vào buổi tối khi kéo chăn lên sát cằm con gái. Cánh cửa đóng lại. “Bà Elinor sẽ cất cuốn sách đi đâu?” Meggie hỏi trong khi đi theo Mo dọc hành lang. “Ô, bà ấy luôn có vài ngóc ngách tuyệt vời cho những chuyện như thế này”, Mo trả lời vòng vo. “Nhưng chúng là những chỗ bí mật, có như vậy thì mới kín đáo chứ. Con nghĩ sao, bây giờ ba chỉ cho con xem phòng con nhé?” Ông cố giữ cho giọng nói vẻ thanh thản, nhưng kết quả không được như ý muốn. “Như một phòng khách sạn đắt tiền vậy. À mà không, còn hơn thế nhiều.” “Nghe hay đấy”, Meggie lẩm bẩm và đưa mắt nhìn quanh, nhưng không thấy bóng dáng Ngón Tay Bụi. Ông ta đang ở đâu? Cô phải hỏi ông ta một chuyện này. Ngay lập tức. Cô không thể nghĩ đến chuyện nào khác trong suốt thời gian Mo chỉ cho cô xem căn phòng và kể cho cô nghe rằng mọi chuyện bây giờ ổn rồi, rằng ông chỉ cần phải làm công việc của mình rồi cha con họ sẽ về nhà. Meggie gật đầu và làm ra vẻ lắng nghe lời cha nói, nhưng thật ra cô bé chỉ nghĩ đến duy nhất một câu hỏi mà thôi, câu hỏi mà cô sẽ đặt ra cho Ngón Tay Bụi. Câu hỏi đang nóng bỏng trên miệng cô, nóng đến mức cô ngạc nhiên tại sao Mo không nhìn thấy nó ngồi trên đó. Ngồi giữa hai làn môi cô. Khi ông để cô ở lại một mình và quay sang với việc chuyển đồ từ xe vào nhà, Meggie chạy ngay sang bếp, nhưng ở đó không có Ngón Tay Bụi. Cô thậm chí còn ngó cả vào phòng ngủ của bà Elinor, nhưng dù cô có mở ra bao nhiêu cánh cửa trong căn nhà rộng thênh thang nọ, cô vẫn không tìm thấy người đàn ông. Mãi rồi cô mệt, quá mệt và không thể tìm tiếp được nữa. Ba Mo lúc đó đã đi nằm từ lâu, cả bà Elinor cũng biến vào phòng mình. Vậy là Meggie lên phòng, đặt mình xuống chiếc giường khổng lồ, nằm trong này cô thấy mình bé bỏng biết bao, bé như một chàng lùn, như thân hình cô vừa co nhỏ lại. Như cô bé Alice trong thế giới diệu kỳ, cô nghĩ thầm và giơ tay vuốt làn vải trải giường in hoa. Ngoài điều đó ra thì Meggie thích căn phòng. Nó chứa đầy sách và tranh vẽ. Thậm chí có cả một lò sưởi, nhưng lò sưởi trông như đã nhiều thế kỷ nay không được dùng tới. Meggie tung hai chân ra khỏi giường, bước đến bên cửa sổ. Bên ngoài trời đã tối từ lâu, và khi cô mở cửa kính ra, có một luồng gió lạnh thổi ngay vào mặt cô. Thứ duy nhất Meggie còn nhận ra trong bóng tối là khoảng sân trải sỏi trước nhà. Một cây đèn đường ném ánh sáng nhợt nhạt của nó xuống đám đá xám trắng. Chiếc bus của ba Mo đứng cạnh xe Kombi màu xám của bà Elinor như một con ngựa vằn đi lạc vào chuồng ngựa thường. Ông đã quét những dải màu đó lên nền trắng sau khi tặng Meggie cuốn Chuyện Rừng Già. Cô nghĩ đến ngôi nhà mà họ đã rời bỏ trong vội vã, cô nghĩ đến phòng cô và nghĩ đến trường học, nơi chỗ ngồi của cô hôm nay trống rỗng. Cô không chắc là liệu mình có nhớ nhà hay không. Cô cứ để cửa sổ mở như vậy mà lên giường đi ngủ. Mo đã đặt hòm sách cạnh giường. Mệt mỏi, cô rút một cuốn sách ra ngoài, gắng sức dùng những từ ngữ thân quen xây cho mình một cái tổ, nhưng cô không làm nổi. Chốc chốc hồi ức về cuốn sách kia lại xóa đi những từ ngữ, chốc chốc Meggie lại nhìn thấy các chữ cái đầu chương hiện ra trước mặt mình, thật to và sặc sỡ, được bao quanh bởi những dáng hình không cho cô biết câu chuyện của chúng, bởi cuốn sách không có thời gian kể cho cô nghe. Mình phải tìm Ngón Tay Bụi, ý nghĩ chìm vào cơn buồn ngủ. Chắc ông ta phải ở đây! Ngay sau đó, cuốn sách trượt ra khỏi những ngón tay và cô bé ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau cô được mặt trời đánh thức. Không khí vẫn còn lạnh vì đêm nhưng bầu trời không một gợn mây, và khi Meggie ngả người ra ngoài cửa sổ, cô có thể nhìn ra xa và thấy mặt hồ lóng lánh giữa những cành cây. Căn phòng bà Elinor dành cho cô nằm ở lầu một. Phòng Mo chỉ cách đó hai cánh cửa, nhưng Ngón Tay Bụi thì phải chấp nhận một căn phòng nhỏ trên tầng áp mái. Meggie đã nhìn thấy phòng đó khi đi tìm ông ta. Trong phòng chỉ có một cái giường hẹp, bao quanh là những hòm sách chồng chất đến sát mái nhà. Khi Meggie bước xuống bếp để điểm tâm thì Mo đã cùng ngồi với bà Elinor bên bàn, chỉ Ngón Tay Bụi không có mặt. “Ô, gã ta ăn sáng rồi”, bà Elinor sắc giọng nói khi Meggie hỏi. “Mà là ăn sáng cùng với một con răng nhọn, nó ngồi trên bàn và phun phè phè về phía ta trong khi ta vô tư bước vào căn bếp của mình. Ta đã ngay lập tức giải thích cho ông bạn kỳ quặc của các người hiểu rằng, ruồi nhà là những con vật duy nhất được có mặt trong bếp của ta, thế là gã cùng con thú xù lông biến ra ngoài.” “Con tìm anh ta làm gì?” Mo hỏi. “Ô, chẳng có gì đâu ạ, con… con chỉ muốn hỏi ông ấy một việc”, Meggie nói, vội vàng ăn một nửa khoanh bánh mỳ, uống một chút nước ca cao đắng nghét do bà Elinor nấu, rồi chạy ra ngoài. Cô gặp Ngón Tay Bụi phía sau nhà, trên một khoảng cỏ được cắt ngắn đâm lên tua tủa như gai nhọn, nơi có một chiếc ghế cô đơn đứng cạnh bức tượng thiên thần bằng thạch cao. Không thấy Gwin đâu. Vài con chim đang cãi cọ trong bụi đỗ quyên nở hoa đỏ, Ngón Tay Bụi đang tung hứng, nét mặt như đã quên hết mọi chuyện trên đời. Meggie gắng sức đếm những quả bóng sặc sỡ, bốn, sáu, không, tám quả. Ông ta tung rồi bắt chúng thật nhanh lẹ giữa không trung, nhanh lẹ đến mức cô bé muốn chóng mặt khi nhìn. Vừa tung hứng ông ta vừa đứng chỉ trên một chân, thoải mái, dường như chẳng cần nhìn những quả bóng kia. Chỉ tới khi ông nhận ra Meggie mới có một quả bóng tuột ra khỏi những ngón tay và rơi xuống, lăn đến trước chân cô. Meggie nhặt nó lên, ném nó về phía Ngón Tay Bụi. “Ông học ở đâu ra thế?” cô bé hỏi. “Trông thật là… trông thật là tuyệt.” Ngón Tay Bụi cúi mình chào với vẻ chế giễu. Lại là nụ cười đó, cái nụ cười kỳ quặc. “Ta kiếm ăn bằng trò này”, ông ta bảo. “Bằng trò này và vài trò khác.” “Làm sao có thể kiếm tiền bằng chuyện đó được?” “Trên các bãi chợ. Trong các dịp lễ hội. Trong các bữa tiệc sinh nhật trẻ em. Cháu đã bao giờ đến một trong những buổi chợ phiên, nơi con người ta làm ra vẻ như đang sống giữa thời Trung Cổ?” Meggie gật đầu. Mo đã có lần đưa cô đến một phiên chợ như vậy. Ở đó có những thứ đẹp tuyệt vời, xa lạ, như thể chúng nhảy ra không phải từ một thời gian khác, mà nhảy ra từ một thế giới khác. Ba Mo đã mua cho cô một cái hộp gắn những viên đá màu lóng lánh và một con cá nhỏ làm bằng kim loại ánh màu lục và màu vàng, với mõm há thật to cùng một viên bi trong cái bụng rỗng, khi người ta lắc hộp viên bi vang lên như tiếng chuông nho nhỏ. Không khí trên chợ phiên ngập tràn mùi thơm của bánh mì mới nướng, trộn lẫn mùi hương và mùi quần áo ẩm, Meggie đã nhìn cảnh người ta rèn một thanh kiếm và nấp vào sau lưng Mo khi họ gặp một người đóng giả phù thủy. Ngón Tay Bụi thu lại tất cả những quả bóng của ông ta và ném vào cái túi đang mở rộng để trên nền cỏ cạnh đó. Meggie bước tới và nhìn vào trong túi, cô thấy chai lọ và bông trắng, một túi sữa, nhưng trước khi cô kịp phát hiện thêm thì Ngón Tay Bụi đã đóng túi lại. “Xin lỗi nghe, bí mật nghề nghiệp mà”, ông ta nói. “Cha cháu đưa cuốn sách cho bà Elinor, đúng không?” Meggie nhún vai. “Cháu cứ an tâm mà nói. Chú biết rồi. Chú đã nghe lén được. Ông ấy đúng là điên mới để quyển sách ở đây. Nhưng mà có nói cũng chẳng được ích gì.” Ngón Tay Bụi ngồi xuống ghế nằm. Bên nền cỏ cạnh đó là chiếc balô, thò ra một cái đuôi lông xù. “Cháu nhìn thấy Gwin”, Meggie nói. “Ra thế?” Ngón Tay Bụi ngả người ra ghế, nhắm mắt lại. Trong ánh mặt trời, tóc người đàn ông trông sáng màu hơn. “Chú cũng nhìn thấy nó. Nó ở trong balô. Bây giờ là giờ ngủ của nó đấy.” “Cháu nhìn thấy nó trong sách.” Meggie nhìn chăm chăm vào mặt Ngón Tay Bụi khi nói điều đó, nhưng nét mặt người đàn ông không hề thay đổi. Những suy nghĩ không hiện lên vầng trán của ông ta như đối với Mo. Mặt Ngón Tay Bụi giống như một cuốn sách đã được gấp lại, và Meggie có cảm giác là cuốn sách này sẽ đập thẳng vào bất kỳ ngón tay nào tìm cách đọc vào trong. “Nó ngồi trên một chữ cái”, cô bé tiếp, “trên một chữ K. Cháu nhìn thấy sừng nó.” “Thật chứ?” Ngón Tay Bụi thậm chí chẳng thèm mở mắt ra. “Cháu có biết bà điên mê sách đặt nó vào kệ nào trong số hàng ngàn kệ sách của bà ta không?” Meggie làm ra vẻ không nghe thấy câu hỏi đó. “Tại sao Gwin trông giống hệt một con thú trong sách?” cô bé hỏi. “Có phải thật là nó đã được dán sừng không?” Ngón Tay Bụi mở mắt ra, hấp háy mắt trong ánh nắng. “Cha, chú có dán không nhỉ?” ông ta vừa hỏi vừa quan sát bầu trời. Vài đám mây đang trôi phía trên ngôi nhà của bà Elinor. Mặt trời nấp ra sau chúng và bóng chúng hắt xuống lớp cỏ xanh non như một cái vệt xấu xí. “Cha cháu có thường đọc truyện cho cháu nghe không, Meggie?” Ngón Tay Bụi hỏi. Meggie nhìn người đàn ông trong vẻ nghi ngờ. Thế rồi cô bé quỳ xuống bên balô, vuốt ve cái đuôi mịn như lụa của Gwin. “Không”, cô bé nói. “Nhưng ba đã dạy cho cháu tự đọc, khi cháu mới lên năm.” “Thử hỏi ông ấy, tại sao ông ấy không đọc truyện cho cháu nghe”, Ngón Tay Bụi nói. “Nhưng đừng có để ông ấy qua mặt bằng bất kỳ một cái cớ bịa đặt nào.” “Tại sao?” Meggie bực bội thẳng người lên. “Ba cháu không thích đọc, có thế thôi.” Ngón Tay Bụi mỉm cười, ông ta nghiêng người ra khỏi ghế nằm và thọc tay vào balô. “A, cái bụng này có vẻ no đây”, ông ta nhận định. “Ta tin là đêm qua Gwin đi săn thành công. Hy vọng thằng bé lại không ăn trọn một cái tổ nào đó. Hay trong cái bụng này chỉ là bánh mì và trứng của bà Elinor thôi?” Đuôi Gwin quất từ bên này sang bên kia như đuôi mèo. Meggie nhìn balô, lòng thấp thỏm không yên. Cô mừng là mình không nhìn thấy cái mõm của Gwin, rất có thể bên mõm còn dính máu. Ngón Tay Bụi lại ngả người ra lưng ghế nằm của cô Elinor. “Cháu có muốn tối nay chú chỉ cho cháu biết những đám chai, đám bông và tất cả những đồ vật khác trong túi đây dùng để làm gì không?” ông ta hỏi mà không nhìn cô. “Nhưng cho chuyện này thì phải chờ đến lúc trời tối đen như quạ. Cháu có dám ra khỏi nhà lúc nửa đêm không?” “Dĩ nhiên!” Meggie phật ý trả lời, mặc dù thật lòng cô bé chẳng muốn ra ngoài khi trời tối. “Nhưng đầu tiên ông phải cho cháu biết, tại sao –” “Ông hả?” Ngón Tay Bụi bật lên một tràng cười. “Trời ơi, tới này có thể cháu còn gọi chú là ngài Ngón Tay Bụi nữa cơ đấy. Chú không chịu được trò quý ông quý ngài đó đâu, thôi bỏ nó đi, được không.” Meggie cắn môi rồi gật đầu. Chú ấy có lý – trò quý ngài quý ông không hợp với chú ấy chút nào. “Thôi được, thế chú có dán sừng cho Gwin hay không?” cô bé kết thúc câu hỏi của mình. “Và chú biết những gì về cuốn sách nọ?” Ngón Tay Bụi khoanh hai tay ra sau đầu. “Chú biết nhiều lắm”, ông ta nói. “Và có lẽ tới một lúc nào đó chú sẽ kể cho cháu nghe, nhưng bây giờ tính về cuộc hẹn đã. Đêm hôm nay, vào lúc mười một giờ đêm, chính xác ở chỗ này. Đồng ý không?” Meggie nhìn lên phía một con chim két đang ríu rít bên nóc nhà của cô Elinor, nó hót say sưa như muốn bật cả tim ra ngoài. “Đồng ý”, cô bé nói. “Mười một giờ.” Bà Elinor đã đề nghị Mo sử dụng khu vực cạnh thư viện làm xưởng. Ở đó có một căn phòng nhỏ, là nơi chứa tất cả những bộ sưu tập từ điển động vật và từ điển thực vật cổ (có vẻ như không có loại sách nào mà bà Elinor không sưu tầm). Loại sách này được đặt trong những ngăn kệ làm bằng thứ gỗ có màu vàng như mật ong. Sách trên một số ngăn được chặn bằng những chiếc hộp thủy tinh, chứa những con bọ dừa bị xiên như xiên chả, thứ khiến bà Elinor càng trở nên khó ưa hơn trong con mắt Meggie. Trước khuôn cửa sổ duy nhất trong phòng là một cái bàn, đó là một cái bàn đẹp đẽ có chân bằng gỗ tiện, nhưng nó dài chưa bằng một nửa chiếc bàn trong xưởng ở nhà Mo. Chắc vì vậy mà Meggie nghe tiếng ông rủa khẽ khi cô thò đầu qua khe cửa. “Con xem cái bàn này mà xem!” ông nói. “Mặt bàn chỉ đủ cho người ta sắp xếp một bộ sưu tập tem thư, nhưng không thể đóng sách được. Cả căn phòng này cũng quá bé. Ba biết để cái máy ép ở đâu đây, biết để dụng cụ đi đâu… lần trước tới đây ba làm việc trên tầng áp mái, nhưng chỗ đó bây giờ góc nào cũng ngổn ngang những chồng hòm sách.” Meggie giơ tay vuốt gáy những cuốn sách đứng sát bên nhau. “Ba cứ nói với bà ta là ba cần một cái bàn lớn hơn.” Thật thận trọng, cô rút một cuốn sách ra khỏi kệ và mở nó ra. Trong sách là hình những con côn trùng kỳ quặc nhất, bọ cánh cứng có sừng, bọ cánh cứng có vòi, có con thậm chí có cả một cái mũi. Meggie vuốt ngón tay trỏ lên những tấm hình nhợt nhạt. “Mo, tại sao không bao giờ ba đọc truyện cho con nghe?” Ba cô quay về đột ngột, đột ngột đến độ thiếu chút nữa thì cuốn sách rơi khỏi tay cô. “Tại sao con lại hỏi ba điều đó? Con nói chuyện với Ngón Tay Bụi phải không? Anh ta kể cho con nghe những gì?” “Chẳng có gì cả, chẳng có gì hết!” bản thân Meggie cũng không biết tại sao cô nói dối. Cô đẩy cuốn sách về bọ dừa lại chỗ của nó. Nổi lên trong cô một cảm giác hầu như rõ rệt, rằng có kẻ vừa dệt nên một tấm lưới mỏng mảnh như hơi thở bao quanh hai cha con, một tấm lưới được làm bằng bí mật và dối gian, tấm lưới cứ mỗi lúc một dày hơn lên. “Con thấy đó là một câu hỏi tốt”, cô vừa nói vừa giơ tay về phía một cuốn sách khác. Nó có tên là Bậc thầy ngụy trang. Những con thú trong đó trông như những cành cây sống động hoặc những chiếc lá khô. Mo lại xoay lưng về phía cô. Ông bắt đầu đặt công cụ lên trên chiếc bàn quá bé: tận cùng bên trái là chiếc búa là, sau đó đến búa đầu tròn ông thường dùng để gõ cho sách ngay ngắn, đến con dao cắt giấy rất sắc… Bình thường khi làm những chuyện này, bao giờ ông cũng huýt sáo khe khẽ, nhưng lúc này ông im lặng. Meggie cảm thấy những suy nghĩ của ông đã bay đi thật xa. Chúng ở đâu vậy? Lúc lâu sau, ông ngồi ghé lên mép bàn và nhìn cô. “Ba không thích đọc hộ con”, ông nói, bằng cái giọng như thể chẳng có gì vô vị hơn trò đọc sách to thành tiếng trên thế gian này. “Cái đó con biết mà. Đơn giản thế thôi.” “Tại sao không? Ba vẫn kể chuyện cho con nghe mà. Ba kể chuyện rất tuyệt. Ba có thể bắt chước tất cả giọng người trong đó, ba làm cho câu chuyện hồi hộp rồi sau đó lại làm nó buồn cười…” Mo khoanh hai cánh tay ra trước ngực, như thể ông muốn trốn ra phía sau hai cánh tay. “Con muốn ba đọc Tom Sawyer cho con nghe”, Meggie đề nghị. “Hoặc là Tại sao con thú một sừng bị nhăn?” Đó là một trong những câu chuyện mà Mo yêu thích nhất. Thời cô còn bé, cha con cô thỉnh thoảng đã diễn trò chơi đó, khiến quần áo họ dính cơ man nào là mảnh vụn bánh mì, giống như bộ da của con thú một sừng. “Đúng, đó là những câu chuyện tuyệt vời.” Mo lại xoay lưng lại phía cô. Ông cầm lên sập bìa thường đựng giấy lót sách và lật lật trong đó bằng vẻ lơ đãng. “Mỗi cuốn sách cần phải được bắt đầu bằng một tờ giấy như thế này”, đã có lần ông nói với Meggie. “Tốt nhất là với một tờ giấy thẫm màu: đỏ sẫm, xanh sẫm, tùy theo màu bìa cuốn sách. Sau này khi con mở cuốn sách ra, cũng giống như khi con ngồi trong nhà hát vậy: đầu tiên là tấm rèm. Con kéo rèm sang bên, và vở diễn bắt đầu.” “Meggie, bây giờ ba phải làm việc rồi!” ông nói mà không xoay lại. “Ba càng chóng xong với đám sách của bà Elinor bao nhiêu, ta càng sớm được về nhà bấy nhiêu.” Meggie đặt cuốn sách với những con thú ngụy trang quay trở lại chỗ của nó. “Thế nếu ông ấy không dán sừng cho nó thì sao?” cô bé hỏi. “Cái gì kia?” “Sừng của con Gwin ấy. Thế Ngón Tay Bụi không dán nó thì sao?” “Anh ta đã dán chúng.” Mo đẩy một chiếc ghế lại gần cái bàn quá ngắn. “Mà ngoài ra, bà Elinor đã đi mua hàng. Nếu con đói muốn xỉu trước khi bà quay trở lại, thì hãy tự làm cho mình vài cái bánh rán đi. Ổn không?” “Được ạ”, Meggie làu bàu. Trong một thoáng, cô cân nhắc liệu có nên kể cho cha cô nghe cuộc hẹn hò đêm nay của cô với Ngón Tay Bụi, nhưng rồi cô quyết định thôi. “Ba nghĩ sao, liệu con có thể mượn vài quyển sách trong số này lên phòng con được không?” cô hỏi ông. “Dĩ nhiên. Chừng nào con không đút vào hòm con.” “Giống như trò của tay ăn cắp sách mà ba đã kể cho con nghe ấy hả?” Meggie kẹp xuống nách trái ba cuốn và bốn xuống cánh tay bên phải. “Hồi đó gã ăn cắp được bao nhiêu cuốn nhỉ, ba? 30.000 cuốn chăng?” “40.000”, Mo trả lời. “Nhưng dù sao gã cũng không giết chủ nhân những cuốn sách.” “Không, kẻ làm trò đó là người Tây Ban Nha, con quên mất tên gã rồi.” Meggie đi thong thả ra phía cửa, dùng mũi giày đẩy nó mở ra. “Ngón Tay Bụi nói rằng, Capricorn sẽ giết ba để lấy cuốn sách đó.” Cô gắng sức để có được giọng nói thờ ơ. “Liệu gã có làm không, ba Mo?” “Meggie!” Mo xoay người và giơ con dao cắt giấy về phía cô trong vẻ hăm dọa. “Con đi phơi nắng đi, hay cắm cái mũi xinh đẹp của con vào mấy cuốn sách, còn bây giờ để cho ba làm việc. Và nhắn với Ngón Tay Bụi, rằng ba sẽ dùng chính con dao này mà cắt gã ra thành những khoanh mỏng dính, nếu gã tiếp tục kể cho con nghe những chuyện ngớ ngẩn như vậy.” “Đó không phải là câu trả lời!” Meggie nói rồi ôm chồng sách lách ra ngoài hành lang. Lên tới phòng riêng, cô đặt sách lên chiếc giường khổng lồ và bắt đầu đọc: cô đọc về những con bọ cánh cứng chui vào ở trong những cái vỏ ốc bị bỏ hoang như con người ta đến ở trong một ngôi nhà vắng chủ, cô đọc về những con ếch con nhái trông giống hệt những chiếc lá, cô đọc về những con sâu có sừng sặc sỡ, những con khỉ có râu trắng muốt, những con ăn kiến mình quệt đốm và những con mèo biết đào đất tìm khoai lang. Có vẻ như thứ gì cũng có, bất cứ thứ gì mà Meggie tưởng tượng ra, và còn hằng hà sa số những thứ mà cô không tưởng tượng nổi. Nhưng trong những cuốn sách thông minh của bà Elinor không có một lời nào nói về con chồn Mactet mọc sừng. Lửa và sao h g Lúc đó họ xuất hiện với những con gấu biết khiêu vũ, với chó và dê, với khỉ và những con sóc macmốt, họ đi trên dây, họ lộn vòng về phía trước rồi ngược về phía sau, họ tung hứng với kiếm và dao rồi nhảy lên những mũi kiếm nhọn hoắt cùng những lưỡi dao sắc bén mà không hề hấn gì, họ nuốt lửa và nhai đá, họ biểu diễn các tiết mục ảo thuật bên dưới áo bành tô và mũ, với những cái cốc thần và những đoạn dây xích, họ để búp bê đấu kiếm với nhau, họ kêu như chim họa mi, họ la như công, họ huýt sáo như hoẵng, họ vật lộn và nhảy múa trong âm thanh của cây sáo đúp. WILHELM HERTZ, Cuốn sách của Người Diễn Trò. h g Ngày hôm đó trôi trong chậm chạp. Meggie chỉ gặp Mo một chút trong buổi chiều, lúc bà Elinor đi mua hàng về và một nửa tiếng đồng hồ sau, bà dọn cho cha con họ món mì Spaghetti với một loại nước súp đóng hộp. “Rất tiếc, tôi không có lòng nhẫn nại cho trò nấu nướng khốn kiếp”, bà nói khi đặt những nồi đựng đồ ăn lên bàn. “Anh bạn có con thú lông xù của chúng ta có thể biết nấu chăng?” Ngón Tay Bụi nhún vai ra vẻ hối tiếc. “Không, tôi không phục vụ được chuyện này.” “Ba Mo nấu ăn rất ngon”, Meggie vừa nói vừa trộn mì với thứ nước sốt loãng toẹt. “Cậu ấy cần phải sửa sách cho ta chứ không phải đến đây để nấu ăn”, bà Elinor sỗ sàng đáp. “Thế còn cháu thì sao hả?” Meggie nhún vai. “Cháu biết làm bánh rán”, cô nói. “Nhưng tại sao bà không mua vài quyển sách dạy nấu ăn, bình thường ra bà có tất cả các loại sách khác trong nhà. Có sách thể nào cũng tốt hơn.” Đối với bà Elinor, lời đề nghị này thậm chí chẳng đáng cho người ta trả lời. “À mà này, thêm một quy định cho đêm nay”, bà nói sau khi tất cả đã im lặng ăn một hồi. “Tôi không chịu đựng bất kỳ một ngọn nến cháy nào trong nhà. Lửa làm tôi khó chịu và mất bình tĩnh. Lửa rất thích ăn giấy.” Meggie nuốt khan. Cô có cảm giác bị bắt quả tang. Dĩ nhiên cô đã đem theo vài cây nến, chúng đang nằm trên bàn phấn. Chắc bà Elinor đã nhìn thấy. Nhưng bà Elinor không nhìn Meggie, mà lại nhìn chăm chăm về phía Ngón Tay Bụi, người đang nghịch nghịch một hộp diêm trong tay. “Tôi hy vọng, cả ông cũng quan tâm đến quy định này”, bà nói. “Bởi có vẻ như chúng tôi còn tiếp tục nhận được sự có mặt của ông cho một đêm nữa.” “Nếu tôi được phép lạm dụng lòng mến khách của bà thêm đôi chút nữa. Sáng mai là tôi đi rồi, tôi hứa như vậy.” Ngón Tay Bụi vẫn còn cầm bao diêm trong tay. Ánh mắt chê trách của bà Elinor dường như chẳng khiến ông ta bận tâm. “Tôi nghĩ rằng, ở đây có người hiểu sai hoàn toàn về lửa”, ông ta nói. “Tôi công nhận, nó ưa là một con thú nho nhỏ cắn càn, nhưng người ta có thể dạy bảo nó.” Nói xong những từ này, ông ta rút một que diêm ra khỏi bao, quẹt diêm cháy và đút luôn ngọn lửa đỏ vào mồm. Meggie ngưng thở khi làn môi người đàn ông khép lại quanh que diêm đang cháy. Ngón Tay Bụi lại mở miệng ra, rút que diêm tắt ra ngoài rồi vừa mỉm cười vừa đặt nó lên cái đĩa đã trống trơn của mình. “Bà thấy chưa, bà Elinor?” ông ta bảo. “Nó đâu có cắn tôi. Người ta còn dễ dạy nó hơn dạy một con mèo.” Bà Elinor chỉ nhăn mũi, nhưng Meggie thì thán phục đến mức không dứt nổi ánh mắt khỏi gương mặt người đàn ông. Mo hoàn toàn chẳng ngạc nhiên chút nào trước trò xiếc nuốt lửa. Một ánh mắt cảnh cáo từ phía ông khiến Ngón Tay Bụi ngoan ngoãn đút bao diêm vào túi quần. “Dĩ nhiên là tôi sẽ để ý đến quy định về việc thắp nến”, ông ta nói nhanh. “Không có vấn đề gì. Thật đấy.” Bà Elinor gật đầu. “Tốt”, bà bảo. “Nhưng còn một chút nữa: nếu hôm nay mà ông lại biến ra ngoài ngay khi trời tối, giống như đêm qua, thì tốt nhất ông đừng quay trở lại quá muộn. Đúng 9 giờ 30 tôi sẽ bật hệ thống chuông báo động.” “Ô, vậy là tối qua tôi gặp may thật.”. Ngón Tay Bụi buông cho vài sợi mì biến vào túi quần. Bà Elinor không nhận thấy, nhưng Meggie thì khác. “Tôi công nhận là tôi thích đi chơi tối. Đêm thích hợp với khiếu thẩm mỹ của tôi hơn, đêm lặng lẽ, hầu như không có bóng người và bí hiểm hơn rất nhiều. Đêm hôm nay tôi không định đi chơi. Mặc dù vậy tôi vẫn muốn yêu cầu quý bà bật cái hệ thống chuông báo động tuyệt vời đó chậm hơn đôi chút.” “Ra thế hả? Vì nguyên nhân gì, tôi có được phép biết không?” Ngón Tay Bụi nháy mắt với Meggie: “Cha, tôi đã hứa sẽ cung cấp cho quý cô trẻ tuổi đây một buổi trình diễn nho nhỏ. Nó bắt đầu vào khoảng một giờ trước nửa đêm.” “Á ha!” bà Elinor giơ khăn giấy chấm một chút nước sốt dính bên mép. “Một buổi biểu diễn hả? Liệu ông có thể dời buổi biểu diễn sang ban ngày được không, suy cho cùng thì tiểu thư trẻ tuổi này mới lên mười hai, và đến 8 giờ là cần phải lên giường ngủ rồi.” Meggie mím môi. Kể từ ngày sinh nhật thứ năm, cô bé không còn lên giường lúc 8 giờ tối, nhưng cô quyết định không bỏ công giải thích cho bà Elinor hiểu. Thay vào đó, cô ngưỡng mộ vẻ bình thản của Ngón Tay Bụi trước ánh mắt thù địch của bà. “Chà, vào ban ngày thì những tiết mục nghệ thuật mà tôi định cho Meggie xem sẽ không có được hiệu ứng thật sự đâu.” Ông ta nói và ngả người ra lưng ghế. “Đáng tiếc, chúng cần làn áo bành tô màu đen của bóng đêm. Nhưng liệu quý bà cũng muốn quan sát buổi trình diễn chăng? Đến xem quý bà sẽ hiểu, tại sao câu chuyện lại phải diễn ra trong bóng tối.” “Hãy nhận lời mời đó đi, cô Elinor!” Mo nói. “Cuộc trình diễn của anh ta sẽ khiến cho cô vui lòng. Rất có thể sau đó cô không còn thấy lửa xa lạ và bí hiểm như trước nữa.” “Tôi không thấy nó bí hiểm. Tôi chỉ không ưa nó”, bà Elinor quả quyết nhận định bằng nét mặt không thay đổi. “Chú ấy cũng biết tung hứng nữa”, Meggie buột miệng nói. “Cùng một lúc với tám quả bóng.” “Với mười một”, Ngón Tay Bụi sửa lại. “Nhưng trò tung hứng thích hợp với ban ngày hơn.” Bà Elinor nhặt một đoạn mì vương trên khăn trải bàn, rồi nhìn Meggie đầu tiên, sau đó tới Mo, bằng nét mặt nhăn nhó. “Thôi được. Tôi không muốn cản phá trò chơi của mọi người”, cô bảo. “Tôi cũng sẽ làm như mọi buổi tối khác. 9 giờ 30 tôi sẽ lên giường với một cuốn sách, và trước đó, tôi sẽ bật hệ chuông báo động lên. Nhưng nếu Meggie báo cho tôi trước khi đến dự buổi trình diễn, thì tôi sẽ tắt hệ thống báo động khoảng một tiếng đồng hồ. Thế đủ chưa?” “Đủ rồi”, Ngón Tay Bụi nói và cúi rạp đầu chào bà Elinor, thấp đến độ chỏm mũi chạm vào rìa đĩa ăn. Meggie gắng nín một tràng cười. Vào khoảng 11 giờ kém 5, cô bé gõ cửa phòng ngủ bà Elinor. “Mời vào!” cô nghe tiếng bà Elinor gọi và khi thò đầu qua cửa, Meggie nhìn thấy bà đang ngồi trên giường, cúi mình trên một cuốn catalog dày như một niên giám điện thoại. “Quá đắt, quá đắt, quá đắt tiền!” bà làu bàu. “Hãy nghe lời ta khuyên: đừng bao giờ lao đầu vào một trò đam mê tốn kém nhiều hơn túi tiền của cháu. Nó sẽ gặm nhấm trái tim cháu như một con mọt sách. Thử xem cuốn sách này mà xem!” bà Elinor gõ ngón trỏ thật mạnh lên trang trái cuốn catalog, mạnh đến mức Meggie chắc sẽ không ngạc nhiên nếu ngón tay khoan sách thủng một lỗ. “Một cuốn sách hay tuyệt, mà trong trạng thái còn rất tốt. Đã 15 năm nay ta muốn mua nó, nhưng nó quá đắt, quá đắt.” Thở dài, bà Elinor gập cuốn catalog lại, ném nó xuống thảm và đưa hai chân ra khỏi giường. Meggie ngạc nhiên thấy bà mặc một chiếc áo ngủ dài bằng vải hoa. Ăn mặc thế này trông bà trẻ hơn nhiều. “Thôi được, chắc là không bao giờ cháu điên khùng như ta!” bà Elinor vừa lầm bầm vừa xỏ chân vào một đôi tất thật dày. “Cha cháu không có khuynh hướng nổi điên mà mẹ cháu cũng chưa bao giờ làm điều đó. Ngược lại, ta chưa bao giờ gặp ai có cái đầu tỉnh lạnh hơn mẹ cháu. Còn cha ta thì khác hẳn, ông ấy điên khùng ít nhất cũng như ta. Một nửa số sách ở đây là do ông ấy để lại. Mà ông được gì khi đam mê sách như thế chứ? Chúng đâu có che chở cho ông trước cái chết? Ngược lại thì có. Ông ấy đã sa vào một cơn đột quỵ ngay giữa một cuộc bán đấu giá sách. Có kỳ cục không cơ chứ?” Cố hết sức mình, Meggie cũng không biết cần phải nói gì. “Mẹ cháu ư?”, cô bé hỏi thay vào đó. “Bà có thân với mẹ cháu không?” Bà Elinor thở phì ra, như thể Meggie vừa đặt ra một câu hỏi cực kỳ vô lý. “Dĩ nhiên là thân. Mẹ cháu đã gặp cha cháu ở chính nơi này. Nó không bao giờ kể cho cháu nghe sao?” Meggie lắc đầu. “Cha cháu chẳng kể nhiều về mẹ.” “Cha, có lẽ như vậy là tốt hơn cả. Tại sao lại cứ phải thọc dao vào vết thương cũ kia chứ? Và chắc cháu cũng chẳng nhớ mẹ. Biểu tượng trên cánh cửa vào thư viện là do mẹ cháu vẽ đó. Thôi đi nào, nếu không cháu sẽ không kịp đến buổi trình diễn.” Meggie đi theo bà Elinor dọc khoảng hành lang không được chiếu đèn xuống dưới. Một cảm giác điên khùng thoảng bay qua: mẹ cô vừa bước ra từ một trong số rất nhiều cánh cửa ở đây và mỉm cười với cô. Trong ngôi nhà rộng mênh mang hầu như không có đèn, đã vài lần Meggie thục gối vào một cái ghế hoặc một cái bàn nhỏ. “Tại sao chỗ nào cũng tối thế hả bà?” cô hỏi khi bà Elinor giơ tay sờ công tắc đèn trong sảnh vào. “Bởi ta muốn chi tiền cho những cuốn sách thay vì chi cho thứ điện thừa thãi!” bà Elinor trả lời rồi chớp mắt bực bội nhìn về phía bóng đèn vừa cháy lóa lên, như thể cái đồ ngu ngốc kia cần sử dụng điện tiết kiệm hơn mới phải. Thế rồi bà lê bước đến bên cái hộp bằng thép được treo trên tường, cạnh cửa ra vào, khuất sau một lớp rèm dày và bụi bặm. “Ta hy vọng cháu đã nhớ tắt đèn phòng trước khi đến chỗ ta?” bà vừa nói vừa mở hộp sắt. “Chắc chắn rồi”, Meggie nói, dù không đúng với sự thật. “Xoay người đi!” bà Elinor ra lệnh, trước khi nhăn trán thao tác bên bộ phận điều khiển dàn chuông báo động. “Trời đất, không biết bao nhiêu là """