" Tiếng Thét - Hamanaka Aki PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tiếng Thét - Hamanaka Aki PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo TIẾNG THÉT —★— Tác giả: Hamanaka Aki Người dịch: Trần Yên Châu Đinh Tị phát hành NXB Văn Học - 01/2018 ebook©vctvegroup 18-11-2018 Trong căn phòng là cả một biển chết lênh láng. Chính giữa biển là thi thể của một người phụ nữ, xung quanh là núi xương của những con mèo mà cô ta nuôi. Theo chân nữ thanh tra Okunuki Ayano, cuộc đời đầy sóng gió của một người phụ nữ tên Suzuki Yoko dần dần được hé mở… Suzuki Yoko, một cô gái “tầm thường”, nhút nhát, chưa bao giờ nhận được tình yêu thương và sự khích lệ từ người mẹ. Suzuki Yoko, người phụ nữ có may mắn kết hôn với mối tình đầu của mình nhưng đã ly hôn chỉ sau ba năm, vì không thể sinh con. Suzuki Yoko, người phụ nữ chấp nhận làm gái gọi để có thể tồn tại, hết lần này đến lần khác bị đàn ông lợi dụng, biến thành công cụ kiếm tiền và thỏa mãn dục vọng cho họ. Dẫu vậy, trong suốt bốn mươi năm của cuộc đời, người phụ nữ tên Suzuki Yoko đó luôn khát khao được là chính mình và tìm thấy “một nơi chốn mà mình thuộc về”. Rồi khi bị chà đạp dưới đáy xã hội, cô đã quyết định phản kháng. Nếu không thể tìm thấy một nơi chốn mà mình thuộc về, cô sẽ tự tay “tạo ra” nơi chốn ấy… Giám đốc một doanh nghiệp NPO[1] ở Edogawa bị sát hại, người phụ nữ sống cùng mất tích. Việc điều tra, thu thập thông tin về những đối tượng liên quan đang được tiến hành trong vụ án ông Kojiro Takeshi (54 tuổi), giữ chức vụ Giám đốc một NPO có tên “Kind Net”, bị sát hại tại nhà riêng ở Shishibone quận Edogawa, người phụ nữ sống cùng hiện mất không rõ tung tích. Sáng sớm ngày Hai mươi hai, trên đường dây 110 là giọng của một người phụ nữ thông báo rằng “có xác chết trong nhà”, nhân viên điều tra nhanh chóng có mặt tại hiện trường và phát hiện thi thể ông Kojiro nằm trong vũng máu ở phòng khách. Người báo tin không có mặt tại hiện trường, còn ông Kojiro thì toàn thân có trên hai mươi vết chém ở cổ, ngực và bụng, đã tử vong tại thời điểm phát hiện. Trong ngôi nhà này, ông Kojiro sống chung với một vài người quen là đồng nghiệp, sau vụ án, người phụ nữ ở cùng ông đã biến mất. Giọng của người báo tin chắc chắn là phụ nữ nên Tổng cục Điều tra phụ trách vụ án cho rằng cô ta là đầu mối thông tin quan trọng để phá giải vụ án và quyết định lần theo dấu vết. Tờ Maiasa, ngày 26 tháng 10 năm 2013, từ Tsuke Chokan. PHẦN MỞ ĐẦU Trong căn phòng đó là cả một biển chết lênh láng. Chỉ mất khoảng mười phút đi bộ từ cổng phía nam nhà ga Kokubunji, chung cư Will Palace Kokubunji là một toà nhà năm tầng, tọa lạc ở một góc khu dân cư, chủ yếu dành cho đối tượng độc thân sinh sống. Với thiết kế hiện đại bắt kịp xu hướng những năm gần đây, bên ngoài tòa nhà được tô điểm bởi những thanh gỗ màu nâu đậm trên nền tường trắng. Okunuki Ayano dẫn đầu một nhóm bốn người đàn ông tiến vào cửa chính, tức thì cánh cửa tự động mở ra từ bên trong. Trên một đoạn hành lang hẹp, nhìn lướt qua có thể thấy một cặp vợ chồng tầm trung niên, theo sau một nữ cảnh sát trẻ tuổi mặc đồng phục. Ayano đại diện chào hỏi ba người: “Tôi là Okunuki thuộc Ban Điều tra Hình sự Kokubunji.” Nhóm người đàn ông cúi gặp người chào. Nữ cảnh sát chào đáp lại: “Tôi là Koike thuộc Ban Tuần tra Khu vực.” Khuôn mặt cô vẫn còn đọng lại vẻ ngây thơ trong sáng, tựa như một đứa trẻ mười tuổi. Hình như cô làm việc ở đồn cảnh sát gần đây nhất. “Hai vị đây là chủ căn hộ này, vợ chồng nhà Yaegashi.” Hai người cúi đầu chào sau khi được Koike giới thiệu, khuôn mặt trắng bệch. Ayano nỗ lực bắt chuyện: “Xin thứ lỗi vì đã làm phiền. Đầu tiên, cho phép tôi được kiểm tra hiện trường rồi sẽ đặt vài câu hỏi để thu thập thông tin chi tiết về thời gian phát hiện nạn nhân. Mong rằng sẽ nhận được sự hợp tác của hai người.” “Vâng, chúng tôi sẵn sàng.” Người chồng đáp lại với giọng khó nhọc. Tuy vừa phải chịu đựng một cú sốc khá lớn nhưng ông ấy vẫn có thể trò chuyện được. “Phòng 505 à?” Ayano xác nhận với Koike. “Vâng, sau khi đi thang máy lên tầng năm, đó là căn phòng nằm tít phía trong. Cảnh sát Sato đã bắt đầu tiến hành phong tỏa hiện trường.” “Đã rõ. Vậy xin nhờ cô tiếp tục dẫn đường cho ông bà Yaegashi đây và cả chúng tôi nữa.” “Vâng” Ayano cùng với nhóm những người đàn ông bước vào thang máy nằm ở cuối hành lang. Nhật Bản, ngày 4 tháng 3 năm 2014, khoảng hai giờ chiều, có cuộc gọi đến tổng dài 110 thông báo về việc phát hiện xác chết tại một căn hộ thuộc nội đô. Theo Trung tâm Điều phối Thông tin, cuộc gọi đến từ một người đàn ông có tên Yaegashi, tự xưng là chủ sở hữu khu căn hộ. Hẳn đó là ông Yaegashi ở cửa ra vào lúc nãy. Dự định vào căn phòng để kiểm tra vì đã mất liên lạc với chủ phòng khá lâu, ông ấy tình cờ phát hiện một xác chết. Trước đó, cửa phòng bị khóa chặt và ông ấy phải dùng đến chìa khóa chủ để vào trong. Với nội dung thông báo đó thì vẫn còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, chẳng hạn như tình trạng cụ thể của thi thể hay nguyên nhân dẫn đến tử vong. Chỉ có một điều chắc chắn là nạn nhân không được phát hiện ngay sau khi chết. Vừa bước ra khỏi thang máy là một hành lang vắng tanh dài hun hút, nhân viên cảnh sát dán chằng chịt những dải băng màu xanh quanh cánh cửa ra vào của căn phòng. Nhóm Ayano chỉ vừa mới tiến lại gần hành lang thì một viên cảnh sát bước đến và hỏi thăm: “Vất vả cho cô rồi.” “Anh cũng vậy. Tôi là Okunuki thuộc Ban Điều tra Hình sự.” “Tôi là Sato của Ban Tuần tra Khu vực.” Sato lớn tuổi hơn Ayano một chút, khoảng chừng ngoài bốn mươi, cùng là cấp dưới giống như Koike, chắc cũng làm việc tại đồn cảnh sát gần đây. Trong trường hợp phát hiện thi thể chết không rõ nguyên nhân tại những khu nhà ở như căn hộ, đa phần những người đầu tiên có mặt tại hiện trường chính là nhân viên Ban Tuần tra Khu vực làm việc tại các đồn cảnh sát. Họ ưu tiên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hiện trường và đảm bảo an toàn cho người phát hiện, tiếp theo là xác nhận vụ án có liên quan đến hình sự hay không sau khi nhân viên Đồn Cảnh sát Sở hạt như nhóm Ayano đến. Lần này, nhân vật được phái đến từ đồn chính là nhóm năm người họ. Sĩ quan cảnh sát Ayano thuộc bộ phận Thi hành và Điều tra Hình sự, thành viên nhỏ tuổi nhất Machida cũng nằm trong lực lượng thi hành thuộc Ban Hình sự thành phố Kokubunji, tiếp đến là viên cảnh sát kỳ cựu Noma thuộc Bộ phận Giám định và hai nhân viên cấp dưới. Noma, người xếp vị trí cao nhất cả về tuổi tác lẫn chức vụ giao trách nhiệm giải quyết hiện trường cho Ayano, người có kinh nghiệm chỉ sau ông. Năm nhân vật này mỗi người đảm nhận một vai trò, nếu phát sinh những tình huống mang tính hình sự (nói cách khác là những vụ án có khả năng thủ phạm đã giết người) sẽ trực tiếp liên hệ với trụ sở, thành lập Sở Tổng chỉ huy và tổ chức điều tra trên quy mô lớn. Tuy nhiên, trường hợp giống như thông báo lần này lại hoàn toàn khác. Nạn nhân sống một mình và có cái chết đầy bí ẩn. Chết vì bệnh, hay tai nạn, hay tự sát, bất kể hình thức nào thì khả năng hình sự cũng khá thấp… Những năm gần đây, ở khu vực Tama nằm ngoài hai mươi ba quận thuộc Tokyo, “cái chết cô độc” kiểu như vậy tăng lên đáng kể, thành phố Kokubunji cũng không phải là ngoại lệ. Khu căn hộ dành cho người độc thân, cửa bị khóa chặt, mất liên lạc trong một thời gian, chủ nhà phát hiện xác chết, tất cả đều là những tình tiết quá quen thuộc. Khi nhận được tin báo, Trưởng Bộ phận Điều tra và là cấp trên của Ayano liền thở dài, miệng lẩm bẩm “Lại nữa à”. Tỷ lệ ly hôn tăng, tỷ lệ sống độc thân tăng, và cả vấn đề già hóa dân số cũng tăng. Không biết từ lúc nào sự thay đổi trong cấu trúc xã hội đã biến những khu vực Commuter Town[2] ở ngoại ô thủ đô thành “thị trấn của những cái chết cô độc”. Có lẽ đây cũng là kết quả tất yếu, và cũng là vấn để khiến lực lượng cảnh sát hao tâm tổn trí. Cái chết cô độc suy cho cùng không thể quy vào phạm vi hình sự nên kết quả là không có tội phạm nào bị bắt giữ. Nhưng bù lại phải mất rất nhiều thời gian và công sức cho công tác điều tra và xác minh. Nói đúng ra là mọi công sức đổ xuống sông xuống bể. Ngay từ đầu, bản thân các tổ chức cảnh sát cũng không dám mường tượng một xã hội đầy rẫy những cái chết cô độc như thế. Không chỉ có vậy, giám định thi thể nạn nhân luôn là một công việc ngán ngẩm. Lý do không liên quan đến lòng thương cảm dành cho những nạn nhân có cái chết cô độc cũng như việc dư luận bàng quan trước những cái chết đó. Chỉ là hầu hết những xác chết cô độc luôn ở trong tình trạng thối rữa trầm trọng. Trước đây lúc Ayano khoảng hơn hai mươi tuổi, cô đã từng làm việc trong đội điều tra liên quan đến phụ nữ thuộc Đội 1 Trụ sở Cảnh sát Tokyo. Đây là bộ phận chủ yếu tập trung điều tra tội phạm tình dục và những vụ án có nạn nhân là nữ giới. Trong trường hợp nạn nhân hay những thành phần có liên quan là phụ nữ, nếu điều tra viên có cùng giới tính thì đa số công việc sẽ được tiến hành suôn sẻ hơn. Do đó đội điều tra gồm các nữ cảnh sát đã được thành lập. Vậy nên không biết bao nhiêu lần Ayano phải đảm nhận những vụ án nạn nhân bị cưỡng hiếp rồi giết hại bởi những gã đàn ông tồi tệ, và cũng không biết bao nhiêu lần cô phải cúi đầu cầu nguyện cho thi thể của những cô gái bị hại. Đến tận bây giờ cô vẫn còn nghiến răng, cay đắng trước cái chết của những nạn nhân là phụ nữ bị giết hại sau khi bị cưỡng hiếp như thế, và nó đã trở thành một nỗi ám ảnh. Với những thi thể chết trong cô độc, cô không có cảm giác đau thương giống như những thi thể cô từng thấy lúc trước. Nhưng nói về mức độ kỳ lạ thì cảnh tượng mà cô đang chứng kiến lại hơn hẳn một bậc. Dù nạn nhân bị hành hạ dã man đến mức nào đi nữa, nếu được phát hiện sớm sau khi chết, chắc chắn thi thể vẫn còn nguyên vẹn hình dạng. Nhưng với những thi thể có cái chết bí ẩn trong phòng kín thì không. Dưới tác động của các loài côn trùng và vi sinh vật, cơ thể sẽ bị phân hủy và mục rữa. Có lẽ về mặt tâm lý, con người, theo bản năng, sẽ trốn tránh những thi thể như vậy. Ngay cả khi đã quá quen mắt với những vụ án hình sự có thi thể trong tình trạng khá tồi tệ, vẫn không ít người nói rằng nếu được lựa chọn thì sẽ không muốn tham dự vào những vụ án có xác chết cô độc. Có lẽ cũng khá lạ lẫm với hiện trường lần này, Sato cau mày nói: “Bên trong không khác gì một mớ hỗn độn. Nạn nhân đã chết cùng với những con mèo mình nuôi.” “Hiểu rồi. Tôi sẽ lưu ý.” Nhóm nhân viên giám định đặt va li dụng cụ xuống lối đi, bắt đầu trang bị nào là mũ, khẩu trang, găng tay và giày bằng nilon chuyên dụng cho công tác khám nghiệm hiện trường. Sau khi đã nhanh chóng trang bị cho mình những vật dụng cần thiết, Ayano vừa nói vừa đưa tay mở cửa phòng: “Nào, tiến hành thôi.” Ngay lập tức, một mùi hôi nồng nặc từ bên trong xâm chiếm không khí. Đó là thứ mùi kết hợp giữa mùi máu thịt, rác rưởi đang trong quá trình phân hủy. Mùi tử thi. Ngoài ra còn xen lẫn mùi hôi của động vật. Với thứ mùi hôi kinh khủng như thế mà có thể cách ly, không để rò rỉ ra bên ngoài chứng tỏ căn phòng này cực kỳ kín gió. “Eo ôi…” Machida bên cạnh không kìm nổi mình thốt lên. Machida là một anh chàng gan dạ với khuôn mặt có vẻ gì đó khinh khỉnh, chỉ vừa mới được phân vào Ban Điều tra năm ngoái nên vẫn chưa quen với những xác chết kiểu này. “Nghiêm túc nào.” Ayano đập vào lưng Machida đánh bộp để chấn chỉnh lại thái độ. “Vâng.” Machida gật đầu. Bước vào tiền sảnh là một hành lang ngắn có nhà vệ sinh và phòng tắm, trước đó là căn bếp nhỏ gọn kết hợp với phòng ăn. Trong cùng là một căn phòng kiểu Tây rộng khoảng tám chiếc tatami[3]. Nếu được dọn dẹp sạch sẽ, nhìn qua có thể đoán biết được căn phòng này thuộc về một người phụ nữ sống độc thân. Nhưng trong căn phòng ấy bây giờ là cả một biển chết lênh láng. Thịt động vật khô lại sau khi bị phân hủy, xác của những con giòi và ruồi không thể sống sót qua mùa đông tuy có sẵn thịt làm nguồn thức ăn nuôi dưỡng, và một lượng lớn lông động vật, tất cả nằm rải rác, lộn xộn và nhầy nhụa khắp nơi trên sàn nhà. Trên mặt biển chết có một hòn đảo, được tạo thành từ những khúc xương chụm vào nhau, hình như là xương mèo, nhiều hơn hẳn một bậc so với xác của tất cả những con côn trùng kia cộng lại. Chỉ bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy ở giữa phòng, nằm bao quanh xác mèo là những phần còn sót lại từ xác chết của con người. Phần đầu xác chết đã thành xương sọ không có chút thịt, chỉ còn trơ lại một phần da đầu và tóc, cả tay và chân đều biến thành xương trắng. Phần thân thì một vài chỗ ít nhiều vẫn còn thịt sót lại nhưng đã khô cứng, được bao bọc bởi chiếc áo dài thắt ngang lưng của phụ nữ. Xác chết mang dáng vẻ ngã phủ phục trên chiếc bàn thấp bằng thủy tinh. Có lẽ người phụ nữ này đã đón nhận cái chết một cách bình thản, trong cô độc và được vây quanh bởi lũ mèo mà cô ta nuôi. Dưới góc nhìn của Ayano, cảnh tượng mà cô nhìn thấy trước mắt lại giống như tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ kỳ quái nào đó. “Đây đúng là trường hợp bị ăn thịt thường thấy nhỉ.” Nhân viên giám định kỳ cựu Noma vừa nhìn bao quát căn phòng vừa nói. “Tôi cũng nghĩ vậy.” Ayano ra vẻ đồng ý. “Hơ, bị ăn là ý gì?” Machida thắc mắc từ phía sau. Cậu ta vẫn chưa có kinh nghiệm với kiểu hiện trường thế này nên chắc thấy khó hiểu. “Bị mèo ăn ấy.” Ayano trả lời. “Bọn mèo là thú ăn thịt. Bị nhốt trong phòng kín, nếu đói bụng chúng sẽ ăn cả đồng loại và chủ của mình. Đó là lý do tại sao những phần được quần áo bao phủ chưa hóa thành xương.” “Ra vậy…” Machida gật đầu với khuôn mặt nhăn nhó. “Tình tiết quen thuộc” giống như Noma nhận xét, nạn nhân chết trong cô độc thường bị thú cưng của mình ăn và sau đó được phát hiện trong trạng thái cơ thể chỉ còn bộ xương trắng, trường hợp kiểu này gần đây không phải là hiếm. Lý do người sống độc thân thường hay nuôi thêm thú cưng là để ít nhiều giúp khỏa lấp đi nỗi cô đơn. Một số người không chỉ đơn thuần xem thú cưng là một loài động vật mình nuôi trong nhà mà còn xem chúng như thành viên trong gia đình, đây là xu hướng khá phổ biến gần đây. Có thể nói rằng đó là những phút giây cuối đời đáng buồn vì bị chính những sinh vật mình nuôi nấng ăn thịt sau khi chết. “Có lẽ cũng mới gần đây thôi nhỉ?” Ayano hỏi Noma về thời điểm tử vong của nạn nhân. Quảng thời gian để một xác chết phân hủy đến mức chỉ còn lại xương sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường. Ở địa điểm sinh sống kín gió như căn hộ thì bình thường phải mất một năm để xác phân hủy thành xương, nhưng với trường hợp bị vật nuôi ăn thịt thì sẽ nhanh hơn nhiều. “Chẳng phải cái xác đã khô cứng rồi đấy sao, tôi nghĩ phải cách đây bốn đến năm tháng.” “Máy sưởi không hoạt động nhỉ?” “Hửm, à, đúng rồi.” Noma lập tức gật đầu sau khi nắm bắt được tình trạng của nó. Có rất nhiều trường hợp nạn nhân chết cô độc vào mùa hè và mùa đông, được tìm thấy trong khi máy điều hòa vẫn đang mở. Với trường hợp điều hòa không mở, có khi nạn nhân đã chết được mấy mùa rồi. Từ trạng thái quần áo trên thi thể này cũng có thể kết luận thời điểm tử vong là vào khoảng mùa thu năm ngoái. “Nguyên nhân tử vong thì sao?” “Hừm, có chút gì đó vô lý.” “Đúng thật…” Phần lớn cơ thể đã bị mèo ăn, tiêu hóa rồi đào thải thành phân và nước tiểu, vung vãi khắp nơi trong căn phòng. Đây chắc chắn không thể là nguyên nhân tử vong đầu tiên. Để biết vụ án có mang tính hình sự hay không thì chỉ còn cách suy đoán từ kết quả giám định di vật và căn phòng. Trên chiếc tủ nhỏ và thấp nằm gần cửa ra vào của căn phòng, nơi người ta thường để những đồ trang trí nhỏ xinh thì ở đó lại thay thế bằng một bể cá trống không, bên trong là một mớ giấy tờ hình như là hóa đơn chi phí công cộng và sổ ngân hàng, có thể nhồi nhét vào trong dễ dàng. Ayano lấy cuốn sổ và mở ra xem. Lần cuối cùng vào sổ là tháng Mười năm ngoái. Quả nhiên nạn nhân tử vong trong khoảng thời gian đó. Không hề có những khoản tiền lớn được giao dịch mà chỉ có những khoản lặt vặt được ghi chép đều đặn. Mỗi tháng thu vào trên dưới hai trăm nghìn yên, đây là tiền lương ư? Nhưng nếu là nhân viên bình thường thì chẳng phải người của công ty sẽ đến kiểm tra và phát hiện xác chết sớm hơn sao? Vậy có thể là lương từ việc làm thêm? Nhưng nếu chuyển tiền mặt mà không có tên công ty thì sẽ không thể phân biệt được nơi làm việc bằng sổ ngân hàng. Hình như hóa đơn chi phí công cộng và tiền nhà đều được thanh toán tự động. Tại thời điểm tháng Mười năm ngoái, trong tài khoản có số dư gần một triệu yên, tiền phí nhiên liệu và tiền thuê nhà đều được tiếp tục trả đúng hạn sau khi nạn nhân chết. Đây là một trong những lý do dẫn đến sự chậm trễ trong việc phát hiện ra xác nạn nhân. Tên của chủ tài khoản ngân hàng là… Suzuki Yoko. Sau khi xem qua những loại hóa đơn bị nhét sâu trong bể cả, Ô cột thông tin người nhận có thể thấy họ tên đầy đủ của nạn nhân cùng với địa chỉ của căn phòng này. Nè, cô là Suzuki Yoko à? Ayano nhìn người phụ nữ bị mèo ăn chỉ còn trơ lại bộ xương, thử hỏi thầm trong lòng, tất nhiên, chắc chắn cô không nhận được câu trả lời. PHẦN 1 CHƯƠNG 1 Có một giọng nói. Giọng nói đang gọi tên của cô. Yoko… Cô được sinh ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1973. Lúc đó là thời kỳ Chiêu Hòa[4], thời đại mà điện thoại di động vẫn chưa xuất hiện. Thời kỳ mà do ảnh hưởng của chiến tranh diễn ra phía bên kia bờ biển, ai ai cũng bấn loạn với tin đồn như thật về vấn đề không có giấy vệ sinh. Lúc đó trời đang giữa thu. Quê hương của cô, thành phố Mitsumi tỉnh Q, phía tây và phía bắc nhìn ra biển, phía đông và phía nam được bao quanh bởi những dãy núi, dưới tác động của gió biển nên không khí lúc nào cũng ẩm ướt, dễ ngưng tụ với nhau tạo thành mây. Là thành phố luôn có mưa rơi kéo dài trong nửa năm, những ngày không mưa thì bầu trời cũng bị vây kín bởi những tầng mây mang gam màu xám xịt. Duy chỉ vào ngày hôm đó, trời trong xanh không một gợn mây. Tất nhiên việc cô chào đời vào một ngày đẹp trời như thế không có gì khác ngoài sự ngẫu nhiên. Nhưng nếu cô tước đi sự ngẫu nhiên và không còn bất cứ thứ gì khác trên thế giới này thì có lẽ sự ngẫu nhiên đó chính là vận mệnh và duyên số trong cuộc đời của mỗi con người. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Ngày mày ra đời trời có nắng rất đẹp. Vậy nên bố đã quyết định đặt cho mày cái tên ‘Yoko’[5]. Đơn giản quá nhỉ? Lúc đó tao không thể nín cười. Ừ thì, bố mày trông rất ra dáng một người bố, nhưng chỉ ra dáng thôi.” Năm đó có khoảng hai triệu không trăm chín mươi nghìn đứa trẻ được sinh ra, chính là năm đạt kỷ lục cao thứ hai về bùng nổ tỷ lệ sinh, và sự thật là cái tên được đặt nhiều nhất cho các bé gái lúc ấy chính là “Yoko”. Cái tên khiến mẹ phì cười của cô cũng là cái tên phổ biến nhất thời bấy giờ. Ngoài ra mỗi khi mẹ kể về chuyện này, bà thường không quên chêm vào một vài nhận xét giữa câu chuyện: “Hồi đó, thật ra tao muốn có con trai cơ.” Lúc nào mẹ cũng thản nhiên ném vào mặt cô câu nói đó như thể trách móc rằng tại sao một đứa con gái như cô lại được sinh ra… Tóm lại, cô là đứa không có giá trị gì cả. Mẹ của cô là một người như thế đấy. Mẹ sinh ra cô khi bà hai mươi tư tuổi. Bố thì hai mươi sáu, hơn bà hai tuổi. Cả bố lẫn mẹ đều ra đời vào thời điểm chiến tranh kết thúc, khi mà tỷ lệ sinh đạt đỉnh cao nhất, nói cách khác là thời kỳ bùng nổ trẻ sơ sinh. Cả hai đều xuất thân từ tỉnh Nagano và bắt đầu chuyển đến sống ở tỉnh Q sau khi kết hôn. Mẹ từ lúc còn nhỏ đã học rất giỏi, khi chỉ mới học năm ba trung học, mẹ đã được thầy cô khuyến khích đăng ký nhập học vào trường dự bị đại học do tỉnh lập, rằng “tương lai chắc chắn trò có đủ khả năng đi học đại học lẫn trường dự bị đại học”. Nhưng mẹ đã đăng ký học tại một trường nữ sinh chuyên về nữ công gia chánh, tập trung vào nấu ăn và may vá nhiều hơn là những môn về khoa học. Sau khi tốt nghiệp cao trung, bà tìm việc và trở thành nhân viên văn phòng tại chi nhánh của một công ty mẹ chuyên về vật liệu xây dựng tại Nagano. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Bố của tao, tức là ông ngoại của mày ấy, đã chết trước khi tao sinh ra mày, và là một người cực kỳ nghiêm khắc. Ông từng làm đội trưởng đội lính cứu hỏa, lúc nào cũng nói chuyện bằng nắm đấm. Dù có là đàn bà đi nữa ông vẫn thản nhiên cho ăn đấm. Ông hay nói với tao rằng: “Đi học đại học làm gì chớ, con gái mà trở nên thông minh thì biết làm thế nào? Toàn là những môn học độc hại.” Bây giờ thì nghe có vẻ lạc hậu nhưng thời ấy thì chuyện này hết sức bình thường.” Sau khi tốt nghiệp trung học, bố cũng chuyển đến làm cùng công ty với mẹ nhưng sớm hơn hai năm, rồi hai người gặp nhau. Thế hệ thuộc thời kỳ bùng nổ trẻ sơ sinh tham gia mạnh mẽ các hoạt động xã hội nhưng tỷ lệ đi học đại học và dự bị đại học lúc đó lại khá thấp, nam giới chiếm khoảng 20% và nữ giới chỉ chiếm khoảng 5%. Đại bộ phận những người trẻ thậm chí không có thời gian mơ tưởng tới những công ty lý tưởng, mà chỉ xác định làm việc tại các công ty bình thường. Sau khi bố mẹ bắt đầu hẹn hò được một năm, bố đã được thăng chức thành quản lý và chuyển công tác đến trụ sở chính tại thành phố Q, tỉnh Q. Đến đây thì hai người quyết định tiến tới hôn nhân, bắt đầu một cuộc sống mới chỉ hai vợ chồng với nhau. Mẹ nghỉ làm và tập trung vào công việc nội trợ. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Tao và bố mày chuyển đến thành phố Q này cũng vào thời gian chúng tao kết hôn. Hồi đó thành phố Q cũng bắt đầu phát triển trên quy mô lớn, công ty đã ký kết hợp đồng lao động xong xuôi cho vị trí đó nhưng bỗng nhiên bị thiếu hụt nhân lực. Vậy nên bố mày dù chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu và vừa tốt nghiệp trung học phổ thông nhưng đã được bổ nhiệm chức vụ quản lý. Sau khi kết hôn với bố mày thì tao bỏ việc và ở nhà làm nội trợ. Chẳng phải tốt nhất vẫn nên để đàn ông ra ngoài làm việc còn phụ nữ ở nhà chăm lo gia đình sao?” Cô ra đời vào mùa thu, sau khi bố mẹ lấy nhau được ba năm. Cô lớn lên hoàn toàn khỏe mạnh, khi còn là trẻ sơ sinh, hầu như không bị sốt, nhưng lúc được một tuổi rưỡi, bác sĩ tại một phòng khám trẻ sơ sinh chẩn đoán cô bị mắc bệnh trật khớp hông bẩm sinh. Loại bệnh này rất phổ biến ở trẻ em gái, tuy nói là “bẩm sinh” nhưng trên thực tế đa phần đều do ngoại lực tác động dẫn đến khớp hông của bé gái bị lệch đi so với vị trí ban đầu vì chưa đủ cứng cáp. Trường hợp của cô, nguyên nhân là do tã lót. Vào thời điểm mà tã lót giấy dùng một lần có hiệu quả chi phí thấp và tã lót vải đang thịnh hành, tạp chí phụ nữ đã giới thiệu một loại tã lót có tên “tã lót ba góc”, đáp ứng nguyện vọng của khách hàng về hình thức thời trang và hòa theo xu hướng thịnh hành ở nước ngoài. Đây là loại tã lót gấp theo ba góc chất lượng cao, ôm sát cơ thể và cố định khá tốt. Chắc chắn nó đảm bảo về mặt thẩm mỹ, ngoài ra còn có ưu điểm là khó bị rò rỉ ở những phần góc. Nhưng ngược lại, nó hạn chế cử động tự nhiên ở các khớp thuộc phần đùi, dễ dẫn đến trật khớp. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Mày đã làm tao phải cực nhọc biết bao nhiêu. Mày là một đứa hư đốn, mỗi lần khóc là mãi không chịu im mồm. Chỉ cần mày khỏe mạnh là tốt cho tao lắm rồi, vậy mà còn đi mắc cái thứ bệnh kỳ quái đó nữa. Ông bác sĩ nói là do tã lót kém, nhưng những đứa trẻ mặc tã ba góc đầy rẫy ra đấy mà có sao đâu. Quả nhiên mày mới là đứa có vấn đề.” Hơn hai năm sau khi cô được sinh ra, tháng Hai năm 1976, Jyun chào đời. Năm sinh thì cách nhau ba năm nhưng vì sinh sớm nên hai đứa chỉ cách nhau hai năm học. Tên của đứa em trai là do mẹ đặt chứ không phải bố. Muốn nuôi dạy con thành người thật thà nên bà chọn cái tên “Jyun”[6]. Mẹ mang về nhà một đống sách tướng số, lập ra một danh sách gồm hơn hai mươi cái tên như Akira, Shinji, Takuma, Ryuichi, Tomohito, Yuzuru… rồi tra cứu kỹ lưỡng từng cái, sau đó mới chọn được cái tên “Jyun”. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Đó là một đứa trẻ chất chứa niềm hy vọng. Tao đã vui sướng biết bao. A ha, tao luôn nghĩ rằng mục đích sống của mình chính là sinh ra đứa trẻ này.” Jyun sinh ra với một thể trạng khá yếu, chưa gì đã phải chịu đựng những cơn sốt, không thì nôn thốc tháo những thứ đã ăn vào. Mỗi lần chuyển mùa cậu lại bị cảm, thường xuyên lên cơn sốt cao những ba mươi chín độ. Đến ba tuổi thì có triệu chứng của bệnh viêm da dị ứng, từ đó về sau trên người thường xuất hiện những vết phát ban. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Bé Jyun từ khi còn nhỏ đã rất nhạy bén, khác hẳn với mày. Về khoản học nói thì nhanh và khéo léo hơn mày nhiều, mới học mẫu giáo đã nhớ được tới số chín mươi chín, lúc nào cũng được cô giáo khen “Bé Jyun lanh lợi quá.” Những năm 1970 khi thành phố đạt đến sự phát triển vượt bậc nhờ một cú hích, công ty của bố cô tiến hành mở rộng hoạt động kinh doanh. Sau hai lần diễn ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ, giá dầu thô liên tục tăng vọt dẫn đến lạm phát, tiền lương của bố dường như cũng tăng lên với tốc độ còn nhanh hơn. Khi bố xây ngôi nhà này ở khu dân cư thuộc thành phố Mitsumi vào năm tiếp theo thì Jyun ra đời. Đây là điều cô được nghe kể từ mẹ: “Tao có nói rằng sau khi sinh Jyun, gia đình bây giờ đã có bốn thành viên rồi nên trước mắt phải xây nhà càng sớm càng tốt. Bố mày nói rằng “Cứ chờ đến lúc giá đất giảm thêm chút nữa”, nhưng biết chờ đến lúc nào nó mới giảm? Thêm nữa nếu còn trẻ thì những khoản nợ nần cũng dễ xoay xở hơn. Do vậy tao đã ra sức thuyết phục bố mày. Đúng như dự đoán, về sau giá đất lẫn vật giá đều liên tục tăng. Nếu không xây nhà lúc đó thì bây giờ cả nhà hẳn phải sống trong căn nhà chật chội hơn thế này nhiều.” Cô hoàn toàn không có ký ức gì về tuổi thơ của mình cho đến lúc được bốn tuổi. Khi cô ý thức được thế giới xung quanh thì mọi người đang sống trong một căn nhà có vườn, do bố xây ở khu chung cư thành phố Mitsumi, là một gia đình hạt nhân điển hình và khuôn mẫu thời bấy giờ, gồm bố là nhân viên làm công, mẹ ở nhà nội trợ, một đứa con gái trưởng là cô và một đứa em trai. Ký ức đầu tiên mà cô tự mình lưu giữ chứ không xuất phát từ những câu chuyện mẹ kể là vào mùa hè cô năm tuổi, lúc ấy cả nhà đến tham dự lễ hội được tổ chức tại đền thờ. Trên bầu trời xanh vẫn còn le lói vài tia nắng, những chiếc lồng đèn đỏ nối đuôi nhau treo lơ lửng. Trên trời là nhiều loại pháo hoa được bắn lên cùng với âm thanh “víu, bùm”, những bông hoa to lớn đầy sắc màu đang nở rộ. Bên trong đến là những bóng đèn cao áp mang ánh sáng vàng cam được treo tuần tự trên những quầy hàng, đâu đó vang lên tiếng mọi người gọi nhau, trong không khí thoang thoảng mùi thơm của những món nướng làm từ đường và bột mì. Cô níu chân bố mẹ đòi giúp đỡ khi chơi trò bắt cá vàng, nhưng kết quả lại òa khóc vì mãi vẫn không bắt được con nào. Lập tức ông chủ quán với dáng người thấp lùn và mập mạp như daruma bắt lấy một chú cá vàng, cho vào bao nilon. “Đây này cô bé, cháu mang chú cá này về đi. Là phần thưởng an ủi đấy. Đừng khóc nữa nha.” Ông ấy nói và trao chú cá cho cô. “Cháu cảm ơn!” Khi nhận túi nilon dựng chú cá vàng từ tay ông chủ quán, “Ơ?” Cô thắc mắc. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu… dù cô có đếm bao nhiêu lần thì vẫn ra sáu ngón tay. Bàn tay ngăm đen của ông ấy có tới sáu ngón. Ông chủ nhận ra cô đang nhìn chằm chằm vào tay của mình nên toét miệng cười. “Ha ha ha, thấy sướng không? Ta được ông trời tặng dư một ngón đấy. Giống như Hideyoshi[7] vậy.” Cô mang chú cá vàng ông chủ có sáu ngón tay tặng về nhà, chuyển nó qua bể cá và bắt đầu nhiệm vụ chăm sóc nó. Chú cá dưới ánh sáng ấm áp như phép màu của lễ hội có màu đỏ tươi đẹp tuyệt, nhìn cực kỳ đáng yêu lại có thể mang đến cảm giác phảng phất sự u âm và thiếu sinh khí khi nhìn ngắm dưới ánh sáng của bóng đèn huỳnh quang. Không có tí sức lực, nó hớp hớp miệng như đang thở khó nhọc dưới đáy bể trong khi liêu xiêu cử động cơ thể nhỏ bé của mình. Mẹ nhìn chú cá và nói: “Con cá này giống mày quá nhỉ?” Cô không hiểu mẹ nói vậy là có ý gì. Nhưng khi còn là một đứa trẻ, cô cứ thế đón nhận mọi điều mẹ nói. Ồ, mình chính là chú cá này. Tuy chú cá nhìn có vẻ ốm yếu nhưng nó khiến cô cảm thấy kỳ diệu và thân thuộc lạ thường. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, việc đầu tiên cô làm là đến bên bể cá, nói lời “chào buổi sáng” với một bản thể khác của mình, và cả lời “chúc ngủ ngon” trước khi đi ngủ vào buổi tối. Tuy nhiên, vốn dĩ đã rất yếu, chú cá vàng sống vỏn vẹn được năm ngày thì chết. Sáng hôm sau, cô phát hiện nó nằm trên mặt nước, ngửa phần bụng màu trắng lên trên. “Cá vàng chết rồi.” Cô chạy vào thông báo với mẹ lúc ấy đang rửa bát trong bếp. Từ nhỏ cô đã được giải thích rằng, những sinh vật mang sự sống nếu “chết” sẽ không động đậy nữa, là một điều gì đó đáng buồn, và xác chết sẽ được chôn cất tạo thành ngôi mộ. Vì vậy, cô kỳ vọng mẹ sẽ làm một ngôi mộ ngoài vườn cho chú cá vàng. “Chết rồi à? Tởm quá đi.” Mẹ nói mà không hề tỏ ra chút đau buồn nào, dùng khăn lau bếp bốc xác chú cá vàng từ bể lên như thể đang nắm trong tay thứ gì đó cực kỳ ghê tởm và ném nó vào thùng rác. Chú cá mà bà cho rằng nó giống cô. Cô bị cảm giác đau khổ và buồn tủi xâm chiếm, rồi bật khóc hu hu. Mẹ nhìn cô, mỉm cười với vẻ mặt méo mó, nói lời an ủi không đúng nơi đúng chỗ: “Thôi nào con bé này. Lễ hội năm sau họ sẽ cho mày con khác thôi.” Cô vẫn một mực muốn làm cho chú cá một ngôi mộ, liền nhặt nó từ thùng rác, tay cầm cái xẻng đồ chơi bằng nhựa rồi chạy ra vườn. Đang tính đào hố và đặt chú cá xuống mặt đất thì ngay lập tức… Cô chưa kịp ý thức thì một cái bóng vụt qua và chú cá đột nhiên biến mất theo. Cô nhận ra con thú bốn chân đen ngòm… Một con mèo. Con mèo đen miệng ngậm chú cá vàng chạy như bay, mất hút nơi nào không hay. Thời cô và đứa em trai còn nhỏ, việc chăm sóc dạy dỗ đều là trách nhiệm của mẹ, với tư cách là một bà nội trợ thuần túy. Người bố đảm trách công trình xây dựng trạm dừng chân cuối cùng, được tái cơ cấu tại thành phố thuộc tỉnh Q, thêm vào đó là trách nhiệm khai phá vùng đất mới quanh thành phố, dường như lúc nào ông cũng bộn rận với công việc, mỗi ngày đều đi làm trước khi cô thức giấc và chỉ về đến nhà khi cô đã chìm sâu vào giấc ngủ. Đi làm vào ngày nghỉ hay ở lại qua đêm là chuyện bình thường, có khi cả tuần cô và bố chỉ chạm mặt nhau được một lần. Dù về mặt nhận thức cô biết công việc mà bố đang làm, nhưng đối với cô, đứa trẻ không hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của công việc đó thì “bố mẹ” mặc định là một mình mẹ thôi. Từ hồi trẻ mẹ đã được gọi là mỹ nhân, với khuôn mặt có những đường nét hoàn hảo, không biết bao nhiêu lần những người xung quanh nói với cô rằng: “Cháu thật may mắn khi có người mẹ xinh đẹp như vậy.” Mẹ rất đảm đang, nhà cửa luôn sạch sẽ và sáng bóng, những món ăn mẹ nấu món nào cũng ngon. Trên hết mẹ có cả kho tàng kiến thức rộng lớn, chỉ cần cô có chút thắc mắc nào là mẹ giải đáp ngay, việc học hành của cô cũng được mẹ giám sát. Với một đứa trẻ như cô lúc ấy, có một người mẹ vừa xinh đẹp vừa giỏi giang và tháo vát như thế chắc chắn là một điều vĩ đại, giống như thế giới này tồn tại bầu trời hay mặt trời vậy. Đó là điều mà rất nhiều đứa trẻ ao ước. Cô cảm thấy an tâm nhất những khi có mẹ bên cạnh, vậy nên cô yêu mẹ vô cùng. Khi cô vào tiểu học, “Bắt đầu từ bây giờ con gái cũng phải học hành cho nghiêm túc”, mẹ nói và mua về nhà một đống sách thuộc lĩnh vực rèn luyện kỹ năng bán hàng, bắt cô đọc ngày này qua ngày khác. Jyun vào tiểu học trễ hơn cô hai năm. “Bé Jyun là con trai nên phải học gấp mấy lần chị đó nha. Những người giỏi giang trong công ty bố ai cũng học ở các trường đại học tốt cả”, mẹ nói và tương tự, cũng bắt Jyun rèn luyện rất nhiều. Ở thành phố hai chị em cô sống, cứ năm giờ chiều, tiếng chuông bài hát Yuyake Koyake lại ngân vang. Nó như là một dạng tín hiệu. Đến giờ này mỗi ngày, chị em cô đều bị buộc phải ngồi vào bàn. Với một bà mẹ vĩ đại tầm cỡ thế giới thì đó hẳn là điều hiển nhiên. Nhưng dần dần cô bắt đầu cảm thấy khổ sở với khung giờ luyện tập này. Mỗi lần lên lớp, cô bắt đầu nhận ra mình không giỏi chuyện học hành. Nhưng không phải do cô học dở. Cô chỉ hiểu sơ sơ những gì mình học ở trường. Nói cách khác, cô thuộc nhóm học sinh chiếm đa số với học lực ở mức “trung bình”. Ngược lại, Jyun, em trai cô có trình độ ở mức cao hơn “trung bình” nhiều. Với bậc tiểu học thì chỉ cần một lần đọc qua sách giáo khoa, cậu có thể tiếp thu toàn bộ cuốn sách chứ không chỉ hiểu đại khái. Khi cô lên lớp cao hơn, sự cách biệt về khả năng giữa cô với Jyun được biểu hiện ra ngoài thực tế ngày một rõ rệt. Jyun không sai bất kỳ câu hỏi nào và luôn đạt điểm tuyệt đối trong các bài kiểm tra ở trường lẫn bài tập mẹ giao ở nhà. Mẹ luôn khen ngợi cậu với nụ cười trên môi: “Không hổ danh là bé Jyun. Mẹ cũng chẳng làm được đến thế. Con chắc chắn là thiên tài rồi.” Ngược lại, điểm bài kiểm tra ở trường lẫn ở nhà của cô đều ở mức tàng tàng. Cô làm bài được nhưng không bao giờ đạt điểm tuyệt đối. Điều đó khiến mẹ không hài lòng. Đối với cô, mẹ lúc nào cũng thở dài, miệng hơi nhếch lên tạo thành một bộ mặt chán chường: “Không được”, “Tại sao?”, “Nếu là bé Jyun chắc chắn sẽ làm tốt”… Khi phun ra những lời lẽ tàn độc đó, bà không hề để lộ bất cứ sự tức giận nào mà thay vào đó chỉ mỉm cười. Vẻ mặt tươi cười đó khác hoàn toàn so với vẻ mặt bà dành cho Jyun khi khen ngợi cậu. Trong cô hầu như không tồn tại bất cứ ký ức nào về việc được mẹ khen nức nở hay bị mẹ la mắng tới tấp. Nếu có thì chỉ toàn là ký ức về những cái thở dài, cùng với nụ cười lạnh lùng mang vẻ chán chường đó. Dưới góc nhìn của một đứa trẻ, cô vẫn hiểu. Thái độ của mẹ lúc ấy cho thấy cô đã không thể đáp lại kỳ vọng của bà. Kỳ vọng của bà mẹ cô hết lòng thương yêu, hay cũng là kỳ vọng của cả thế giới. Việc không đáp lại được kỳ vọng đó gây nên những nỗi khổ và niềm đau, tựa như trái tim đang bị bóp nghẹt. Dần dà đôi tai cô buồn bã lắng nghe giai điệu Yuyake Koyake như lời mời gọi nỗi đau hơn là tiếng báo hiệu giờ học đã đến. Tại sao mình và Jyun lại khác nhau đến vậy? Thỉnh thoảng cô lại gồng mình suy nghĩ về điều đó. Cô và Jyun cùng sinh ra trong một mái nhà, có một nếp sinh hoạt gần như giống nhau. Lượng thời gian học tập cũng không hề có chút cách biệt nào. Vậy mà sao Jyun có thể giỏi như vậy, còn cô thì không? Mặt khác, Jyun lại dễ bị cảm, sốt và hay nghỉ học, còn cô thì hầu như không? Ông trời ơi, có phải ngài tạo ra Jyun với trí óc thông minh nhưng lại mang thân thể ốm yếu? Nhưng ở đây hoàn toàn không liên quan gì đến chuyện bù trừ cả. Bởi vì dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, cậu vẫn luôn nhận được tình cảm của mẹ. Jyun thông minh và ốm yếu được mẹ đặc biệt yêu thương. Điều đó cũng tương tự như việc được cả thế giới yêu mến vậy. Jyun dễ bị sụt cân nhanh chóng nên được mẹ hết mực chiều chuộng và chăm sóc. “Vì bé Jyun gầy yếu quá nên mẹ sẽ trông coi thật kỹ. Không sao đâu, mẹ sẽ bảo vệ con.” Mỗi sáng bà đều đo nhiệt độ cơ thể, nếu vượt quá ba mươi chín độ một tí sẽ cho Jyun nghỉ học và cõng cậu chạy đến chỗ bác sĩ. Không biết từ lúc nào mẹ chỉ toàn suy nghĩ về Jyun, toàn khen ngợi và toàn lo lắng cho cậu. Còn với đứa đầu óc bình thường, cơ thể khỏe mạnh như cô, bà lại trở nên thờ ơ. Những lúc hiếm hoi cô bị cảm thì bà cũng chỉ chăm sóc qua loa cho có, khác hẳn với Jyun. “Thật là bó tay.” Bà cằn nhằn với vẻ khó chịu thật sự, và cùng lắm cũng chỉ mua về vài viên thuốc cảm. Nói trắng ra là không hề có chút tình thương gì ở đây. Tất nhiên, không thể giải thích với một đứa trẻ như cô lúc ấy khái niệm trừu tượng về “tình thương”. Nhưng giống như không khí, không cần phải giải thích, tự thân con người cũng hiểu được nếu không có nó thì sẽ khổ sở ra sao. Vậy mà, sự ấm áp luôn tràn đầy mỗi khi mẹ mỉm cười với Jyun nhưng nó lại biến mất và thay vào đó là vẻ chế nhạo khi bà cười với cô. Mỗi lần bị mẹ cười, cô nhớ lại cảm giác ngạt thở như bị nhấn sâu vào dòng nước. Lúc đó cô thấy mình như được nếm trải cảm giác của chú cá vàng nhỏ bé ấy, ngoe nguẩy vô vọng dưới đáy bể. Cuối cùng cô nhận ra rằng, mẹ luôn giữ một thái độ trước sau như một với tất cả mọi thứ trên thế giới này chứ không chỉ riêng mình cô. Chỉ có Jyun là trường hợp ngoại lệ. Mẹ chỉ mỉm cười từ tận đáy lòng với mình Jyun. Mẹ chỉ khen ngợi một mình Jyun. Ngoài Jyun ra thì bất cứ thứ gì, dù tốt hay xấu, mẹ luôn thở dài và đi kèm sau đó là một nụ cười mang vẻ chán chường. Cô hiểu rằng nụ cười và cái thở dài mẹ dành cho cô không có gì là vui sướng hay hạnh phúc cả. Lãnh tiếu, thất tiếu, trào tiếu[8]… trước khi biết những từ Hán tự kết hợp đó, cô đã học được từ thái độ của mẹ về những khái niệm gọi là “điệu cười khó chịu”. “Hạnh phúc” là từ đầu môi chót lưỡi của mẹ. “Được kết hôn với một người siêng năng như bố, được trời ban tặng đứa con quý báu, còn được sống trong một ngôi nhà đẹp nữa, mẹ thấy rất hạnh phúc.” Những lúc ăn cơm hay xem ti vi, mẹ thường hay nói vậy, bất chấp hoàn cảnh có liên quan hay không. Đó không phải là lời nói dối. Bố thật sự là một nhân viên chăm chỉ khi mỗi ngày đều ở lại làm ngoài giờ. Cô và em trai chính là hai đứa con quý báu được trời ban cho. Ngoài ra, còn thêm nhà riêng cao hai tầng và có cả vườn. Tất cả đều đúng. Nhưng mỗi lần mẹ nói ra từ “hạnh phúc”, cô lại có cảm giác sốt ruột không yên. Cô bấy giờ vẫn chưa tự nhận thức được nhưng chắc chắn trong tiềm thức của một đứa trẻ, cô đang lo lắng. Nếu là hạnh phúc thật sự thì không nhất thiết phải xác nhận từng lời một như vậy. Nếu là hạnh phúc thật sự sẽ không xuất hiện cái thở dài đi kèm điệu cười khó chịu đó. Dường như mẹ đang che giấu đâu đó phía sau tấm màn mang tên “hạnh phúc”, một nỗi lo lắng băn khoăn… Thi thoảng mẹ cũng kéo tuột những đứa con của mình vào bên trong tấm màn “hạnh phúc” ấy. “Bé Jyun, Yoko, các con thật may mắn khi được sinh ra ở một đất nước giàu có và trong một thời đại trù phú thế này. Những đứa trẻ bằng tuổi hai đứa sống ở những nước nghèo của châu Phi phải chết vì đói và bệnh tật đấy. Hạnh phúc chính là mỗi ngày đều có cơm ăn.” Trên hành lang trường tiểu học có dán tấm poster của UNICEF, cô biết đâu đó trên thế giới vẫn tồn tại sự nghèo khó đến mức không thể tưởng tượng nổi. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh cậu thanh niên da đen ở trần cùng với dòng chữ “Cứ ba giây lại có một đứa trẻ bị cướp đi sinh mạng” được in trên tờ poster, trái tim cô lại đau nhói. Mẹ nói đúng. So với đứa trẻ đó thì mình chắc chắn còn may mắn chán. “Đất nước Nhật Bản này, hồi mẹ còn nhỏ, đã từng rất nghèo. Không hề có trang phục phương Tây, mẹ đã đến trường trong chiếc quần Monpe[9] đấy. Phần ăn trưa ở trường lúc nào cũng là thịt cá voi và sữa tách béo, nhưng mà bọn trẻ bây giờ chắc sẽ không thể hiểu được mức độ dở tệ của những món ăn đó. Chỉ cần không phải ăn những thứ đó đã hạnh phúc lắm rồi.” Cô cũng biết rằng trước đây đất nước này từng lâm vào tình trạng đói nghèo thậm tệ. Những giáo viên lớn tuổi vẫn thường kể lại những câu chuyện của giai đoạn vất vả thời xa xưa ấy. Quả thật, mẹ nói đúng. Nếu so với bọn trẻ thời xưa, tôi bây giờ đang rất hạnh phúc. Nhưng đó cũng chỉ là lời nói thôi. Tạo ra “hạnh phúc” rồi đem đi so sánh với sự bất hạnh của những đất nước hay thời đại xa xôi ấy thì quả thật nó cũng giống như một từ ngữ lạ lẫm chỉ tồn tại trong trí óc thôi. Vậy mà mẹ cứ không ngừng lặp đi lặp lại: “Mẹ và mấy đứa thật sự đang rất hạnh phúc.” Không quên kèm theo cái thở dài và điệu cười khó chịu ấy. Không biết từ lúc nào nhỉ? Thay vào đó cô toàn có suy nghĩ ngược với suy nghĩ của mẹ. Tất nhiên, lý do một phần cũng xuất phát từ thời kỳ dậy thì với tư tưởng nổi loạn. Ngực bắt đầu phồng lên, kinh nguyệt xuất hiện, cơ thể đang dần biến đổi thành người lớn, tâm trí cô trở nên khác biệt, và cô có ý thức mạnh mẽ với cái tôi của mình. Cô bắt đầu học hỏi được nhiều thứ từ trường học và bạn bè, những gì thuộc thế giới bên ngoài hơn là trong nhà. Đồng thời, lần đầu tiên cô thấy sự vĩ đại bằng cả thế giới của mẹ thu bé lại một cách tương ứng. Dần dần, cô ôm ấp những bất bình và nghi ngờ đối với mẹ. Chẳng hạn như việc mẹ lúc nào cũng trìu mến dành hết yêu thương cho Jyun trong khi chỉ trao cho cô điệu cười khó chịu ấy, cô không hề có cảm giác buồn bã hay đau khổ nữa, thay vào đó là những suy nghĩ về sự bất công và tính thiên vị của mẹ. Thêm vào đó, cô nhận ra rằng mẹ không phải là một người đảm việc nhà và điều khiến cô thấy sốc nhất chính là mẹ không thông thái như cô từng biết. Mẹ cho rằng chỉ cần những nơi người khác hay chú ý như tiền sảnh hay phòng khách sáng bóng và sạch sẽ là đủ, phòng ngủ hay phòng ở tầng hai mẹ chỉ dọn dẹp một tháng một lần nên lúc nào cũng bừa bãi. Đồ ăn xếp sẵn trên bàn cũng chỉ là món ăn gia đình mua ngoài hay mua ở các siêu thị. Thêm vào đó, mẹ thường nghiêm mặt nói về những thứ không đúng sự thật như “Thủ đô của Mỹ chắc chắn là New York” hay “Ông Geckyoku sở hữu cực kỳ nhiều bãi đỗ xe”. Bản thân những điều đó không có gì là xấu. Chỉ là lúc nào mẹ cũng đóng vai một con người khoa trương đến bất thường. Bản thân không làm được gì to tát mà lúc nào cũng ra vẻ chiến thắng như “Năm ngoái tôi có ghé thăm nhà chị Omura, thật là bẩn thỉu hết chỗ nói. Quả nhiên phụ nữ không nên đi làm chút nào”, hay tự nhận mình nấu những món đã được làm sẵn trên đĩa rằng “Từ đầu đến cuối do một tay mẹ làm đấy.” Thêm vào đó mẹ tuyệt đối không thừa nhận dù cho bị người khác chỉ ra cái sai, ngược lại từ đầu đến bà cuối chỉ nổi đóa lên rằng “Điều đó ai mà chẳng biết”. Con người này bị sao vậy? Cùng với sự phát triển cả tâm hồn lẫn thể xác, bên trong cô, sự tồn tại của mẹ cũng dần dần biến đổi theo. Lần đầu tiên trong đời cô ý thức được mình đang yêu là vào thời điểm cô mới lên cấp hai. Vì trường quy định toàn bộ học sinh phải tham gia sinh hoạt câu lạc bộ nên cô đã chọn gia nhập câu lạc bộ Mỹ thuật. Không hẳn vì cô có đam mê đặc biệt dành cho mỹ thuật. Khi nhắc đến mỹ thuật, nhiều lắm cô cũng chỉ biết Picasso và ông chú hét lên “Nghệ thuật phải bùng nổ!” trên quảng cáo hồi trước, thậm chí cô còn không có năng khiếu vẽ vời từ thời tiểu học. Nếu buộc phải nói ra lý do thì đó là vì thành viên câu lạc bộ đa phần là nữ, dễ gia nhập và cô đã nhìn thấy bức tranh vẽ biển trên tờ poster có ghi “Câu lạc bộ Mỹ thuật chiêu mộ thành viên mới” dán ở hành lang trường. Hoạt động của câu lạc bộ Mỹ thuật khá nhàn nhã, sau giờ học tại phòng mỹ thuật, trưởng câu lạc bộ cho phép mọi người vẽ và sáng tác bất cứ thứ gì mình thích. Sau đó, tác phẩm mà bản thân thấy tâm đắc sẽ được triển lãm tại lễ hội văn hóa vào mùa thu. Tuy được phép tự do vẽ những gì mình thích nhưng học sinh năm nhất[10] thường chưa có nhiều kinh nghiệm và không biết phải bắt đầu từ đâu. Vì vậy trong suốt một học kỳ, mọi người sẽ được cố vấn hoặc tiền bối kèm cặp, và được dạy cách phác thảo những nét cơ bản. Lúc ấy, người hướng dẫn cô là Yamasaki, đàn anh học trên cô một lớp. Trong câu lạc bộ Mỹ thuật, danh sách thành viên cho thấy số lượng nam và nữ tương đối bằng nhau, nhưng hầu hết nam sinh đều là những thành viên trên danh nghĩa, tham gia chủ yếu để đối phó, rất hiếm khi xuất hiện ở câu lạc bộ. Trong số đó, Yamasaki là thành viên nam ít ỏi duy nhất tích cực hoạt động. Người thấp và gầy gò, mang đôi kính viền đen dày cộm trên khuôn mặt trắng xanh, ấn tượng đầu tiên của cô về Yamasaki là “một con người nhàm chán”. Không chỉ có vậy, cô còn cầu trời người hướng dẫn mình là con gái chứ không phải con trai. Nhưng khi tiếp xúc, cô mới nhận ra Yamasaki là người dễ gần và hướng dẫn vẽ tranh cực kỳ tận tình. “Xem nào, trước tiên, đừng vội nghĩ đến chuyện mình phải vẽ thật đẹp. Không có khiếu hội họa cũng không sao cả, em cứ vẽ nguệch ngoạc với một tinh thần thoải mái là được. Tuy nhiên phải quan sát vật mẫu thật kỹ. Không cần vẽ tốt nhưng phải quan sát thật tốt.” Khi được Yamasaki hướng dẫn, cô nhận ra ngay một điều: con người này thật sự rất thích vẽ. Bản thân Yamasaki nói những câu như “Vẽ không đẹp cũng không sao” hay “Cứ vẽ thật thoải mái” lại là người vẽ tranh giỏi nhất nhì câu lạc bộ và là một thành viên nghiêm túc. Hầu như mọi ngày, anh là người đến câu lạc bộ sớm nhất, và là người cuối cùng rời tay khỏi cuốn sổ phác thảo hay khung vải. Được một Yamasaki như vậy hướng dẫn vẽ tranh khiến cô không có gì để phàn nàn, mà thay vào đó còn cảm thấy hết sức thoải mái. Yamasaki và cô có chung đường về nhà nên vào những ngày sinh hoạt ở câu lạc bộ, hai người tình cờ lại đi cùng nhau một đoạn. Mới đầu chỉ biết im lặng đi cạnh nhau nhưng qua một thời gian, cả hai đều dần dần mở lòng và bắt đầu trò chuyện nhiều hơn. Không biết từ lúc nào nó đã trở thành khoảng thời gian vui nhất trong ngày. Vào một ngày nọ cô bỗng dưng hỏi Yamasaki: “Tiền bối, anh học vẽ tranh từ lúc còn nhỏ à?” “Đâu có, anh chỉ mới học vẽ nghiêm túc từ khi vào câu lạc bộ Mỹ thuật ở trường trung học thôi.” “Thật ư?” Cô thấy ngạc nhiên. Tuy chỉ thua anh có một năm nhưng cô không thể nào tưởng tượng đến việc bản thân có thể vẽ giỏi cỡ như Yamasaki bây giờ. “À, nhưng anh có tập tành vẽ minh họa và vẽ truyện tranh hồi còn học mẫu giáo. Đa phần là tự học, anh thường đọc những cuốn sách hướng dẫn kiểu như “cách vẽ truyện tranh” này kia rồi tự mình rèn luyện thôi.” “Truyện tranh ạ?” Nhắc mới nhớ, bạn bè trong lớp tiểu học của cô cũng có vài đứa hay vẽ manga vào vở. Yamasaki chắc cũng giống vậy. “Ừ. Tương lai anh muốn trở thành họa sĩ truyện tranh.” Yamasaki nói, có vẻ hơi ngượng ngùng. Được nghe những lời chia sẻ của Yamasaki, không hiểu sao cô thấy rất hạnh phúc. “Ồ.“ “Một ngày nào đó anh sẽ dùng loại mực thật xịn, vẽ trên giấy Kent, và gửi tham dự cuộc thi của các nhà xuất bản.” “Học sinh trung học có thể tham gia cuộc thi đó không?” “Tất nhiên là được. Bất kỳ ai đều có thể tham gia. Nhưng thành công không phải tự nhiên tìm tới. Dù không có giải nhưng nếu có triển vọng thì người đó sẽ được biên tập viên đang phụ trách chọn lựa và cho ra mắt độc giả. “Anh giỏi quá đi.” “Không dám. Anh vẫn chưa vẽ được tác phẩm nào có thể tham dự cuộc thi đó cả.” “Nhưng em vẫn thấy anh tuyệt vời quá chừng.” Cô thật sự nghĩ như vậy. Chỉ cách biệt một năm mà anh đã có cho mình một ước mơ cụ thể trong tương lai như thế, thật đáng ngưỡng mộ. Thêm vào đó, cô có cảm giác người như Yamasaki có thể trở thành họa sĩ truyện tranh với những bức vẽ đẹp tuyệt “Còn Suzuki? Tại sao em lại vào câu lạc bộ Mỹ thuật?” Lần này đến lượt Yamasaki hỏi cô. “Hừm, à… Thật ra cũng không có lý do gì đặc biệt… Chỉ là, em nhìn thấy tấm poster chiêu mộ thành viên của câu lạc bộ và nghĩ nó thật đẹp.” “Hả, thật không? Tấm poster đó là do anh vẽ.” “Là anh vẽ ư?” Lâu nay cô vẫn đinh ninh tấm poster đó chắc phải do cố vấn của câu lạc bộ Mỹ thuật vẽ. Nhưng có vẻ Yamasaki cũng có tài năng ngang ngửa. Khuôn mặt Yamasaki ánh lên nụ cười. “Anh vui quá! Tranh của anh có thể khiến người khác cảm động cơ đấy. Thật may vì anh là người vẽ ra bức tranh đó.” Lúc này, cô đã ý thức được tình cảm của bản thân khi thấy mặt mình bỗng dưng nóng bừng lên. Mình lỡ thích người này mất rồi. Đó là thời kỳ các công ty Nhật Bản, sau một quãng thời gian, đã chạm đến trạng thái bùng nổ chưa từng có gọi là “bong bóng”. Giá đất và chứng khoán trong phạm vi quận lớn nhất ở Tokyo bắt đầu tăng vượt lên trên giá trị thực của chúng, với tình trạng đất nước đang phải đối mặt, đồng tiền giống như một quả bong bóng căng tròn tới mức muốn vỡ tung. Công ty của bố cô lại như diều gặp gió, không ngừng đạt được những thành tựu to lớn bằng cách lợi dụng tình hình thực tại, cũng không sai khi nói rằng cô gián tiếp được lợi từ nền kinh tế bong bóng đó. Nhưng với một học sinh trung học thì khó có thể trực tiếp cảm nhận được điều đó. Đối với người đang đắm chìm trong mối tình đầu như cô thì vấn đề được quan tâm hàng đầu là một kiểu tóc phù hợp chứ không phải là giá chứng khoán bình quân theo ngày hay sự giảm sút của lãi suất ngân hàng. Buổi sáng, khi cô đứng trước gương những hai mươi hay thậm chí ba mươi phút để đổi tóc kiểu này kiểu kia, mẹ thường hay cười nhạo và xem cô như một con ngốc. “Mày vốn không có gì nổi bật nên có để kiểu tóc gì đi nữa cũng không thay đổi được thực tế ấy đâu.” Tại sao con người này có thể nói những lời như vậy? “Ồn ào quá, mẹ im đi!” Tuy cô đốp chát lời mẹ nói như thế nhưng bà chỉ bình thản mỉm cười, nói “Rồi, rồi”, và sáng hôm sau lại nói những lời y hệt. Nhưng lời mẹ nói cũng có phần đúng. Người con gái trong gương không nổi bật hơn so với ai cả. Không hẳn là xấu xí nhưng dẫu có bỏ công chăm chút thì cũng không thể trở nên xinh đẹp. Có lẽ “tầm thường“ là tính từ phù hợp nhất để mô tả cô. Thứ gọi là vẻ bề ngoài ẩn chứa toàn những điều kỳ lạ, chỉ cần lệch đi một tí so với mức cân bằng thì có thể tạo nên sự khác biệt mang tính quyết định. Khuôn mặt của cô được nhào nặn giống mẹ, người mà bất kỳ ai cũng công nhận là mỹ nhân. Tuy nhiên, nếu mũi hếch lên một tí, mắt hơi cách xa nhau, khuôn mặt tròn tròn, thì tất cả kết hợp với nhau lại là một tổng thể hết sức vô duyên, tạo ấn tượng rất đỗi tầm thường. Mình là một con người tầm thường không có gì nổi bật. Tại sao mình lại sinh ra với khuôn mặt này chứ? Tại sao mẹ là một người phụ nữ đẹp như vậy mà không thể sinh mình ra là một cô gái xinh đẹp cơ chứ? Bản thân không có chút tự tin nên cô không có đủ dũng khí để bày tỏ suy nghĩ của mình, tình yêu luôn là thứ ngoài tầm với. Tuy nhiên mối tình đầu ấy đã nhanh chóng khép màn chỉ trong vòng một năm. Năm 1987 khi tuyến đường sắt xuyên quốc gia gây ra tình trạng phân chia tư nhân hóa, cô học năm hai[11] trung học, còn Yamasaki trở thành học sinh năm ba[12]. Trong một năm qua, cô tham gia hoạt động câu lạc bộ Mỹ thuật hầu như không nghỉ ngày nào, nhờ vậy mà khả năng vẽ tranh của cô ngày một tiến bộ. Nhưng sau cùng nếu so sánh tranh của Yamasaki một năm trước với tranh của cô bây giờ thì quả nhiên, cô không thể nào đọ lại được. Không những thế, trong đám thành viên đồng cấp mới toanh giống như cô, hầu như khả năng vẽ của ai cũng nhỉnh hơn cô cả. Khi còn nhỏ, tuy Jyun học giống như cô nhưng thành tích đạt được lại tốt hơn, cùng bỏ ra công sức và mức độ rèn luyện như nhau nhưng kết quả lại không hề bằng nhau chút nào. Chỉ là đối với cô, những thứ như vậy không khiến cô để tâm. Nói rõ ra thì mục đích cô tham gia câu lạc bộ Mỹ thuật không phải để vẽ tranh, mà là để chia sẻ cùng không gian và thời gian với Yamasaki. Cô đã thầm thương trộm nhớ Yamasaki từ lâu, quan hệ tiền bối hậu bối cũng đang tốt đẹp nên có cảm giác hai người hiểu nhau khá rõ. Mỗi khi cô phiền muộn ngồi trước khuôn viên trường, anh lại đột ngột xuất hiện và cho cô lời khuyên “Vấn đề đó giải quyết thế này được không?”, hay anh thường cố tình đi về phía gần làn xe chạy khi hai người đi bộ dọc những con phố, cô cũng không ít lần ôm hy vọng rằng anh không hề ghét bỏ mà ngược lại luôn nghĩ cho cô. Tất nhiên, có khả năng anh đối tốt với cô đơn thuần chỉ vì mối quan hệ đàn anh đàn em nhưng dù vậy cũng đủ khiến cô mãn nguyện lắm rồi. Có lẽ cô sẽ không bao giờ quên được quãng thời gian hạnh phúc này, thế nên cô không vội vã nghĩ đến chuyện tỏ tình. Nhưng mùa xuân tới, Yamasaki sẽ tốt nghiệp… Sau khi tốt nghiệp thì sẽ khó có cơ hội gặp lại. Có lẽ đó là thời điểm cô nên thu hết can đảm và bày tỏ tình cảm của mình. Có lẽ cô nên nói với anh rằng “Em thích anh”. Rõ ràng có những khoảnh khắc cả hai đều chung một suy nghĩ. Nhưng ngày mà cô không thể gặp Yamasaki đã đến, sớm hơn cô dự đoán. Như cơn mưa rào vào một đêm mùa hạ, đến và đi vội vã. Tháng Bảy, ngay trước lễ tổng kết học kỳ một. Kỳ nghỉ hè sắp đến và đó là ngày cuối cùng ở câu lạc bộ. Cũng như thường lệ, hai người vẽ tranh đến tận chiều tối và cùng nhau dạo bộ về nhà. Tuy gần đến bảy giờ tối rồi nhưng bầu trời đầy mây vẫn còn hừng lên ánh sáng màu xanh. Những con ve sầu đua nhau kêu râm ran. Mùa hè năm nay hình như là thời điểm nhiệt độ đạt đỉnh trong nhiều năm. Nhà ở và văn phòng đều buộc phải sử dụng máy lạnh, dẫn đến mối lo ngại tình trạng thiếu hụt nguồn điện sẽ diễn ra. Lúc này còn chưa đi bộ được bao lâu thì mồ hôi đã toát ra nóng rực cả người. “Anh nói này.” Yamasaki mở lời khi ngã tư nơi hai người thường chào tạm biệt đã xuất hiện trong tầm mắt. “Hôm nay là ngày cuối cùng anh ở đây.” “Ơ?” Trong một thoáng cô không hiểu anh đang nói gì. Cô cứ nghĩ ngày cuối cùng ý là ngày hoạt động của câu lạc bộ trong học kỳ một, chứ không phải của Yamasaki. Anh tiếp tục: “Anh sẽ chuyển nhà vào mùa hè này. Bắt đầu từ học kỳ hai anh sẽ học ở trường khác.” Vì công việc của bố mẹ nên Yamasaki phải chuyển đến sống ở Kanazawa. “V… vậy à…” Cô lặng thinh không biết nói gì. Kanazawa. Cô đã từng nghe qua rồi nhưng chưa bao giờ đặt chân đến nơi ấy. Cô biết anh chuẩn bị đi đến phương trời xa xôi ở một tỉnh khác mà học sinh trung học như cô khó có thể dễ dàng lui tới. “Vậy nên hôm nay là ngày cuối cùng anh cùng em về nhà.” Hai người tiến gần đến ngã tư. Đi thẳng sẽ đến nhà cô, còn rẽ trái một đoạn là đến nhà Yamasaki. “Vâng…” Bỗng nhiên đầu óc cô trống rỗng. Hôm nay là ngày cuối cùng. Như vậy con đường mà hai người thường đi chung sẽ biến mất. Cả quãng thời gian hai người cùng trò chuyện vui vẻ cũng vậy. “Suzuki…” Yamasaki dừng lại và gọi tên cô. Cô dừng lại. Hai người chạm mắt nhau. Cả hai có cùng chiều cao nên ánh mắt giao nhau tạo thành một đường thẳng tắp. Một vài giây cả hai đều chìm trong im lặng. Miệng của Yamasaki mở hé, ngập ngừng rồi đóng lại. Cô biết anh đang cố giữ trong lòng điều gì đó. Và cô muốn anh nói ra. “… Anh đã rất vui. Em bảo trọng nhé.” Những lời Yamasaki vừa nói không phải là điều cô mong đợi. “À, vâng. Anh cũng vậy.” Cô cũng không thể thốt ra những lời mình thật sự muốn nói. “Vậy chào em nhé.” Với một biểu hiện có vẻ thất vọng, pha chút thẩn thờ và khó xử, Yamasaki rẽ trái ở ngã tư. Như mọi ngày. Còn cô, chắc chắn cô cũng đang mang một vẻ mặt khó xử giống như vậy, chỉ biết dõi theo đến khi bóng hình ấy khuất dạng. Mọi chuyện xảy đến đều có mục đích của nó. Cô đã phải chia xa tình yêu chưa kịp thổ lộ của mình thời trung học, và kinh khủng hơn, cô đã lỡ chứng kiến cảnh nam nữ quan hệ với nhau. Mà trên hết, đó lại chính là bố và mẹ. Đó là một đêm nóng hừng hực giữa hạ. Nửa đêm, cô đột nhiên tỉnh giấc vì mơ thấy ác mộng. Khi tỉnh dậy, chi tiết về cảnh tượng cô thấy trong mơ biến mất khỏi trí óc, riêng cảm giác sợ hãi và u tối là còn sót lại. Tóc cô bết vào mặt vì toát nhiều mồ hôi, còn bộ pyjama thì ướt nhẹp. Thấy cổ họng mình khô rát, cô ra khỏi phòng để đi kiếm nước uống. Cô đã có phòng riêng sau khi lên trung học, đó là căn phòng rộng bốn tấm rưỡi chiếu tatami. Bên cạnh là phòng bố mẹ nhưng thường vắng bóng người. Khi ra khỏi phòng và đi dọc theo hành lang, ánh đèn từ cầu thang hắt lên, cô nghe thấy giọng nói của bố và mẹ. Có vẻ hai người vẫn còn thức và đang ở phòng khách. Tiếng thét của mẹ vắng đến: “Tồi tệ! Anh đúng là đồ tồi tệ!” Cô cũng nghe cả giọng của bố, có vẻ ngán ngẩm. “Sao cô cứ chuyện bé xé ra to vậy?” “Tôi không có! Lâu nay anh đã phản bội tôi suốt.” “Đừng phóng đại như vậy. Ở chỗ tôi, mỗi ngày đều phải ở lại làm thêm giờ nên cần được giải trí, tôi không phản bội gì hết.” “Giải trí cơ đấy. Ngoại tình thì đúng hơn!” Giọng mẹ trở nên đay nghiến và dữ dằn. Cô bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi theo bản năng, tuy cơ thể đang cứng đờ nhưng cô vẫn bị điều gì đó thu hút kéo về phía có giọng nói. Cô từ tốn, cẩn thận sao cho không phát ra tiếng bước chân. Bước xuống hai bậc cầu thang, ở phía bức tường đối diện, cô có thể nhìn thấy phòng khách. Bố nằm ngập trong chiếc ghế salon với chiếc áo sơ mi trắng đã mở hết cúc, mẹ đứng phía trước trong tư thế khó nhọc. Nhìn từ xa cũng đoán được mẹ đang khóc bù lu bù loa. Cả hai vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của cô phía trên cầu thang. Chắc chắn cô đang xem những gì không nên xem, tuy có mặc cảm tội lỗi nhưng cô không thể rời mắt được. “Chắc chắn anh đã ngoại tình. Soap là một kiểu kinh doanh phục vụ tình dục còn gì. Anh đã chuyển từ đi uống sang chỗ đó hả?” “Hoàn toàn không! Chẳng phải giống như thuê một ả gái điếm sao? Nếu là ngoại tình thì tôi sẽ tự ý thức được và phải tìm cách che giấu chứ!”. Ngay cả cô cũng hiểu được “Soap” mà bố đang nói đến không phải là xà phòng tắm. Cách đây không lâu nó được xem là nhà chứa mang tên “Nhà tắm Toruko”. Vấp phải sự phản đối từ các du học sinh ở Toruko, cửa tiệm đã thông báo đổi tên thành “Soap Land”. Cô không rõ nội dung dịch vụ kinh doanh cụ thể là gì nhưng đó là cửa tiệm mà những người phụ nữ làm đủ thứ trò bẩn thỉu với các vị khách là đàn ông. Hình như việc bố đến Soap Land bị mẹ phát hiện và sau đó bị trách móc nặng nề. Cung và cầu. Vì có khách nên cửa tiệm mới tồn tại. Nhưng khi biết bố mình đi đến chỗ đó, quả nhiên cô thấy rất sốc. Ở đây không còn là vấn đề luật pháp nữa, cô không thể nghĩ đơn thuần đó chỉ là “đổi từ đi nhậu sang chỗ đó”. Đúng như mẹ nói, bố đã ngoại tình. “Anh thật tồi tệ! Quá sức tồi tệ!” Nãy giờ luôn trả lời bằng chất giọng trầm khàn trong khi mẹ đang tiếp tục hét lớn, bố bỗng dưng đập bàn và nổi cáu. “Ồn ào quá! Thôi đi!” Đây là lần đầu tiên cô nghe thấy giọng bố trong cơn giận dữ. Ông hét vào mặt mẹ và đập tay lên bàn. Chừng đó đủ khiến cô có cảm giác như nội tạng của mình đang bị xới tung lên vậy. Theo những gì cô biết lâu nay, bố là người hiếm khi ở nhà, và luôn trả lời mẹ một cách điềm đạm rằng “Anh biết rồi, anh biết rồi”. Bây giờ dưới con mắt của cô, đó là một “con người đáng sợ” hoàn toàn khác xa bố. Con người đáng sợ đó nói những thứ bố sẽ tuyệt đối không bao giờ nói, và làm những điều bố sẽ không bao giờ làm. “Lúc nào cũng sướt mướt, ủy mị, thôi lèm bèm những lời chán ngấy đó đi!” Con người đáng sợ đó đứng dậy, tát vào mặt mẹ một cái. “Ối.” Mẹ lấy tay ôm mặt và ngã gục tại chỗ. Con người đó kéo tóc buộc mẹ phải đứng dậy. “Dừng lại! Làm ơn, dừng lại đi!” “Cô nghĩ nhờ ai mà cô có cơm ăn chứ! Trong khi cô nhàn nhã ở nhà, mỗi ngày tôi đây phải làm việc đến gần chết! Tỏ thái độ tôn trọng chút đi!” Con người đó một tay vẫn nắm tóc mẹ, tay kia nắm lấy cằm mẹ một cách thô bạo. “Em biết lỗi rồi, em biết lỗi rồi, làm ơn dừng lại đi, tha cho em.” Sự đe dọa cách đây mới vài phút hệt như chưa từng tồn tại, mẹ giờ đây đang cầu xin tha thứ với một giọng điệu hết sức đáng thương. Con người đáng sợ đó ném mẹ xuống nền nhà. “Vậy thì dập đầu xin lỗi tôi đi. Xin lỗi vì đã nói những lời phiền phức, nói đi!” Vẫn còn đang khóc, mẹ quỳ xuống tại chỗ và cúi đầu. Lạnh quá, cô nghĩ. Cô nhìn bà mẹ lúc nào cũng cười nhạo cô và không bao giờ nhận minh sai giờ đây lại dễ dàng chịu đầu hàng trước bạo lực, cô không thốt lên được tiếng nào mà chỉ cảm thấy buốt lạnh. “Tôi xin lỗi… Vì đã nói những lời phiền phức, tôi xin lỗi.” Cô nhìn thấy một “con người yếu đuối” hoàn toàn khác xa mẹ. Con người đáng sợ hạ giọng hỏi con người yếu đuối đang cúi lạy dập trán trên nền nhà: “Đã biết lỗi chưa?” “Vâng. Em biết lỗi rồi.” “Cởi quần áo ra.” Con người đáng sợ ra lệnh cho con người yếu đuối. Trong giọng nói có lẫn chút tự mãn. Có thể thấy rằng con người yếu đuối đó đang nín thở. “A… anh đang đùa phải không? Giờ này mà còn…” “’Giờ này thì sao? Tôi chưa thỏa mãn sau khi tới Soap. Tôi muốn vui vẻ thêm với cô.” “Chuyện đó…” “Nhiều lời, cởi đi! Rồi dạng chân ra! Có muốn bị ăn đánh nữa không?” Con người yếu đuối ấy khóc nấc lên từng tiếng, đưa tay cởi từng nút áo. Lạnh quá. Lạnh quá. Lạnh quá. Trời đang giữa hè mà. Cô nổi da gà. Như thể cô đang chìm nghỉm dưới dòng nước, toàn thân đông cứng lại. Con người yếu đuối ấy tiếp tục cởi quần áo. Con người đáng sợ cũng ném bay cái áo sơ mi đang mặc, lách cách mở thắt lưng, kéo quần xuống. Lạnh quá. Lạnh quá. Lạnh quá. Dưới ánh đèn neon lạnh lẽo, làn da trăng nón của con người yếu đuối sáng lên. Cô bất chợt có cảm giác nó rất giống với thứ gì đó cách đây khá lâu. Cái gì nhỉ? Trắng và lạnh tanh như gốm… A, là bụng của con cá vàng. Bị chôn chặt ở nơi sâu kín nhất của ký ức, đó là chú cá vàng cô đã được ông chủ có sáu ngón tay tặng cho. Màu trắng ấy chính là màu bụng của con cá mà cô nhìn thấy lúc nó nổi lềnh bềnh trong bể. Con người yếu đuối ngồi trên tấm thảm, hướng mặt về phía con người đáng sợ. “Anh làm đi…” Con người đáng sợ với phần dưới lõa lồ, phần trên vẫn mặc nguyên chiếc áo lót thể thao, chồm lên con người yếu đuối. Cô biết hai con người đó đang làm gì. Trong nhóm bạn của cô cũng có hai đứa đã có những trải nghiệm đầu tiên về chuyện ấy. Tuy nhiên, khung cảnh cô chứng kiến không có chút gì âu yếm và dịu dàng như cô vẫn tưởng tượng, mà chỉ là một cảnh tượng giao hợp đầy bạo lực và thô tục. Chỉ có những tiếng rên vang lên. Đâu là tiếng của con người yếu đuối, đâu là tiếng của con người đáng sợ, cô thấy hoàn toàn mơ hồ. Những giọng nói phát ra không thành lời đó tựa như tiếng kêu của loài vật. Dưới con mắt của cô, con người yếu đuối đang bị con người đáng sợ ấy ăn thịt. Lạnh quá. Lạnh quá. Lạnh quá. Không ổn rồi. Như thế này là lạnh quá mức chịu đựng rồi. Nếu còn ở đây thêm giây nào nữa, cô sẽ chết mất. Chết như con cá vàng lúc trước! Cô dùng tay bịt chặt lấy hai tai, cố gắng cử động thân thể cứng đờ như bị đóng băng của mình, chạy trốn khỏi cảnh tượng đó. Lạnh quá. Lạnh quá. Lạnh quá. Tuy đã bịt tai lại nhưng từ xa cô vẫn nghe văng vẳng tiếng tru tréo của lũ động vật. Khắp người vã đầy mồ hôi nhưng cô vẫn thấy lạnh không chịu được. Cô quay về phòng, kéo chăn bông cuộn quanh người thay vì tấm chăn mỏng lúc nãy. Cô như ngất đi và chìm dần vào giấc ngủ. Ngày hôm sau, khi cô thức dậy, bố đã đến công ty. Người bị con người đáng sợ kia nuốt chửng là mẹ vẫn bình thản như chưa từng có chuyện gì xảy ra, nướng bánh mì và rót sữa vào ly. Cô không có bụng dạ nào để ăn, chừa lại phân nửa chiếc bánh mì nướng. “Sao vậy Yoko, ăn mà để thừa vậy hả? Thế mà tao phải cất công làm cho mày cơ đấy, thật bó tay.” Mẹ không tức giận cũng không lo lắng gì cho sức khỏe của cô mà chỉ thở dài và cười lạnh nhạt. Không có gì thay đổi, mẹ vẫn như mọi khi. Những gì cô chứng kiến hôm qua, tất cả đều là mơ? Ngay khoảnh khắc khi suy nghĩ đó thoáng qua trong đầu, cô đã để ý thấy một thứ. Vết bầm đỏ tím phía dưới cằm của mẹ. Đó là chỗ bị con người đáng sợ bóp mạnh ngày hôm qua. Quả nhiên tất cả đều có thực. Con người yếu đuối bị con người đáng sợ tấn công và nuốt chửng. CHƯƠNG 2 “Chỉ với ba người thì hơi khó khăn đây, tôi gọi điện nhờ hỗ trợ được không?” Trưởng bộ phận giám định nói sau khi nhìn bao quát căn phòng hệt như biển xác chết của một người phụ nữ và lũ mèo: Nếu bới tung hiện trường này thì công việc giám định sẽ tốn rất nhiều thời gian. Okunuki Ayano gật đầu. “Vâng, phiền anh gọi giúp.” Noma mở điện thoại di động gọi về sở để yêu cầu tiếp viện. Ayano cùng với Machida cẩn trọng đi vào căn phòng, cố ghi nhớ vào đầu những điểm đáng chú ý. Từ số lượng và loại dụng cụ để ăn, có thể suy ra người phụ nữ này sống một mình. Không có dấu hiệu của đàn ông sau khi kiểm chứng. Từ số lượng xác chết có thể kết luận rằng cô ta nuôi rất nhiều mèo. Có khi nào bọn mèo tự sinh sôi không? Không, hay là… Sau khi đi quanh phòng một vòng, cô hỏi Machida: “Nhìn sơ bộ có gì đáng ngờ không?” “À, dạ có…” Machida giả vờ suy nghĩ trong chốc lát rồi đáp lại. “Hình như việc huấn luyện bọn mèo đi vệ sinh thất bại thì phải. Có lẽ chi tiết này cũng không liên quan lắm.” Trong phòng có đặt nhà vệ sinh cho mèo nhưng bên trong phân và nước tiểu lại vương vãi lung tung. Đó là bằng chứng cho việc nuôi thú cưng không đúng cách. “Không, điều đó có ích đấy, cứ tiếp tục quan sát đi.” Ayano xây dựng được một giả thiết về người phụ nữ đã chết từ cách cô ta nuôi mèo. “Được rồi. Chúng ta xuống dưới thôi.” “Bây giờ tôi đi lấy lời khai của nhân chứng. Phần còn lại trông cậy vào anh nhé.” Sau khi hối thúc Machida, cô nói với Noma và rời khỏi căn phòng. Theo như lời vợ chồng Yaegashi, người phát hiện đồng thời là chủ căn hộ, chủ nhân căn phòng đó đúng là Suzuki Yoko. Sau khi xem qua giấy tờ lúc chuyển đến thì phát hiện thông tin nạn nhân sinh ngày 21 tháng 10 năm 1973. Tính tới thời điểm hiện tại thì đã được bốn mươi tuổi. Hơn Ayano hai tuổi. Nói cả hai đều cùng một lứa cũng không sai. Thông thường khi nhắc đến cái chết cô độc, người ta sẽ có xu hướng liên tưởng đến những người già, ngay cả số liệu cũng cho thấy cái chết đó khá phổ biến ở lứa tuổi sáu mươi lăm trở lên, nhưng mặt khác cái chết cô độc ở những người trẻ tuổi khoảng dưới năm mươi cũng không hẳn là ít. Chứng minh thư gắn kèm với giấy tờ thuê nhà ghi rằng nạn nhân đến từ thành phố Sayama thuộc tỉnh Saitama. Mục người thuê phòng ghi chú chỉ có một mình cô. Có thể suy đoán rằng trước khi chuyển đến căn hộ này, cô đã từng sống một mình ở thành phố Sayama. Cột hộ khẩu thường trú cũng có cùng địa chỉ ở đó. Cô chuyển nhà vào ngày 12 tháng 3 năm 2012. Căn cứ vào tiền thuê nhà thì có lẽ đây là loại hợp đồng thuê nhà kéo dài hai năm phổ biển gần đây, và cũng sắp sửa đến thời gian gia hạn. “Tháng trước, nhân viên phòng bất động sản đang phụ trách hợp đồng dự định thông báo về vấn đề gia hạn nhưng không cách nào liên lạc được…” Người chủ yếu tiếp nhận và trả lời câu hỏi không phải là người chồng đã gọi điện báo tin mà là người vợ. Liên lạc với công ty bất động sản, quản lý tiền nhà, nói tóm lại là những công việc liên quan đến vấn đề cho thuê hầu hết đều do người vợ đảm nhận. “Tôi đã thử đến phòng mấy lần nhưng sau một hồi rung chuông cũng chẳng thấy ai ra mở cửa. Tôi cứ nghĩ nếu cửa khóa như vậy thì chắc người ta hay đi vắng thôi, nhưng hòm thư ở tầng một lại đầy tràn không ai nhận…” Có vẻ Suzuki Yoko là người không buồn cất công đi lấy mấy tờ báo, hơn nữa ở khu dân cư thì ngày nào trong hòm thư cũng bị nhét đủ các loại tờ rơi. Chừng đó thì chắc chắn phải được dồn đống trong mấy tháng. Tóm lại có thể kết luận Suzuki Yoko đã không kiểm tra hòm thư trong suốt một thời gian dài. “Rủi có tai nạn bất ngờ nào thì sao nhỉ?” Một suy nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu bà Yaegashi. “Nhân viên bất động sản thắc mắc liệu có liên quan gì đến cái chết cô độc không? Vì thời gian gần đây tình trạng này tăng đột biến. Tôi thì ngược lại, không dám vào phòng để kiểm tra. Với lại chủ nhà thì không nên tự tiện mở cửa phòng của khách như thế. Trong khi vẫn đang phân vân không biết phải làm sao thì ngày gia hạn hợp đồng cũng đến gần, nên phải đến thảo luận với người ấy thôi…” Người chồng gật đầu ra hiệu đồng ý. Cả hai đều quyết định không chỉ đến để bàn chuyện mà còn kiểm tra thử một lần xem bên trong căn phòng như thế nào. Ngay thời điểm tra chìa khóa chủ vào ổ và mở cánh cửa ra thì một mùi hôi nồng nặc từ trong căn phòng nhanh chóng bao trùm lấy không khí, hai người lập tức hiểu rằng đã có chuyện bất thường xảy ra. Người vợ đứng yên ở hành lang, còn người chồng một mình bước vào căn phòng. Người chồng ấy nói, khuôn mặt hơi nhăn lại: “Thậm chí tôi chỉ mới đứng mấp mé ở cửa, hé nhìn vào căn phòng một tí đã thấy toàn xương là xương, thật kinh khủng, hai chân tôi khuỵu xuống vì quá sợ hãi. Sau đó ngay lập tức tôi đã bấm điện thoại gọi 110. Đến tôi cũng không ngờ minh đã vô thức bước xa khỏi căn phòng ấy.” Thật ra, với người bình thường khi bắt gặp cảnh tượng đó chắc hẳn phải bị kích động quá độ. Phía cảnh sát rất biết ơn khi người phát hiện nạn nhân không làm xáo trộn hiện trường và lập tức báo tin cho họ. Ayano một lần nữa hướng mắt về phía hai vợ chồng và đặt câu hỏi: “Trong phòng có rất nhiều xác mèo chết, hai người có từng nghe cô Suzuki đề cập đến vấn đề gì chưa, như nuôi mèo chẳng hạn?” “Hoàn toàn không có. Với lại nếu biết cô ấy làm như thế, chúng tôi buộc phải nhắc nhở cô ấy thông báo một tiếng.” Theo lời người vợ, quy định của căn hộ có cho phép nuôi thú cưng nhưng nếu vượt quá số lượng ba con sẽ bị cấm. “Vậy thì cô Suzuki đã làm trái quy định?” “Vâng. Tôi nghĩ nếu lén nuôi thì cũng khó bị phát hiện. Chúng tôi không bao giờ đi kiểm tra từng phòng một, hơn nữa tường cách âm khá tốt nên hầu như âm thanh hay mùi hôi cũng không thể lọt ra ngoài.” Căn phòng được thiết kế chuyên dụng cho việc chơi piano. Trên thực tế, chỉ cần luôn đóng kín cửa, ngay cả mùi hôi nồng nặc bốc lên từ xác chết thối rữa ấy cũng không thể lọt ra đến hành lang. “Ở đây tiền nhà thanh toán bằng chuyển khoản ạ?” “Vâng. Vào ngày cuối cùng hàng tháng, chúng tôi sẽ thu tiền của tháng tiếp theo.” “Từ trước đến nay có trường hợp nào nợ tiền không ạ?” “Chưa hề có.” “Tháng trước, tiền đã được chuyển khoản vào cuối tháng Hai ạ?” “Vâng.” Quả nhiên tiền nhà vẫn đang được duy trì trạng thái chuyển khoản tự động. “Về hoàn cảnh của cô Suzuki thì sao ạ?” Người vợ lắc đầu. “Tôi không biết gì cả. Lúc ký hợp đồng là lần duy nhất chúng tôi nói chuyện thật sự. Nơi chúng tôi ở cũng khá xa chỗ này, ngoài ra chúng tôi còn được nhân viên văn phòng bất động sản dặn không nên can thiệp vào đời tư của khách trọ.” “Lúc ký hợp đồng, cô ấy có điểm gì bất thường hay khác biệt không ạ?” “Về điều này thì… Cô ấy có vẻ rất nghiêm túc, trả lời câu nào câu nấy chỉn chu, tôi nhớ là mình có nghĩ rằng sẽ rất an tâm nếu cho cô ấy thuê phòng.” Nhìn có vẻ nghiêm túc ư? “Ý của bác là cô ấy không ăn diện và trang điểm lòe loẹt, tạo cảm giác là một con người điềm tĩnh ư?” “Vâng, đúng vậy.” Ít nhất tại thời điểm chuyển vào, cả hai không hề có cảm giác cô là người không đàng hoàng hay kiểu người có thể tự hủy hoại bản thân. Suy cho cùng, cô để lại ấn tượng là một người phụ nữ tóc dài, có cân nặng và chiều cao trung bình, vẻ bề ngoài đúng với tuổi tác, và là một người hết sức giản dị. “… À, khoan đã.” Người vợ dường như vô tình nhớ ra được điều gì đó và lên tiếng. “Nhắc mới nhớ, cô ấy có nói là vừa mới ly hôn và chuyển đến đây.” Ly hôn? Đã có tuổi rồi nên cũng không có gì lạ nếu ly hôn một lần nhỉ? Bỗng nhiên biểu cảm của cô có chút gì đó không ổn. Cách đây khoảng mười năm, lúc hai mươi tám tuổi, Ayano đã từng một lần kết hôn và từ bỏ công việc cảnh sát. Bấy giờ cô vẫn tiếp tục công việc của một nữ cảnh sát trong lĩnh vực hình sự, và là ngôi sao trong Ban Điều tra về phụ nữ của Đội Điều tra số 1 thuộc Trụ sở Cảnh sát Tokyo, nhưng không có gì để nuối tiếc hay hối hận. Lúc ấy cô đã từng quyết tâm bỏ việc và ở nhà làm nội trợ. Nhưng trong mười năm, cô không hề giữ gìn mái ấm đó mà chỉ phá hỏng nó. Năm cuối cùng trong khoảng thời gian ấy, sau khi ly hôn, may mắn thay, cô nghe tin Sở Cảnh sát đang tích cực khuyến khích nghỉ hưu tự nguyện và tái tuyển dụng nhân viên. Đó là biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng thiếu nhân lực do số lượng lớn nhân viên thuộc thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh nghỉ hưu. Chỉ vừa mới bước lên thuyền, cô đã leo lên tận vị trí này, bắt đầu lại cuộc đời của một cảnh sát ở Ban Hình sự Sở hạt. Cô không hề có ý nói về những thứ to lớn như là công việc còn dang dỡ hay nhiệm vụ thiêng liêng của một viên cảnh sát hình sự. Chỉ là cô nghĩ rằng, nếu cô không làm công việc gì đó để có thể tiếp tục sống, cô sẽ không thể nhận ra bản thân còn có những việc khác cần phải làm. Ayano lạnh lùng nghĩ đến những thứ được gọi là tình cảm xuất hiện thoáng qua trong trí óc. Mỗi khi liên quan đến chuyện hôn nhân, công việc xác minh có thể gặp phải một vài rắc rối. Trong trường hợp xác chết được phát hiện, không cần biết đó có phải là án mạng hay không, phía cảnh sát nhất định phải liên lạc với thân nhân để xác nhận danh tính của nạn nhân. Vì theo nguyên tắc, người nhà của nạn nhân phải lo chuyện mai táng phần còn lại của thi thể cho tới nơi tới chốn, và những gì nạn nhân để lại theo pháp luật sẽ trở thành tài sản thừa kế, mà vấn đề này thì không thể toàn quyền giải quyết được. Hơn nữa xác chết lần này lại thuộc trường hợp không giữ được nguyên dạng, nên phải làm giám định ADN để kiểm tra xem đó có đúng là nạn nhân không. Thông thường sẽ điều tra về hộ khẩu để tìm ra người nhà nạn nhân nhưng với phụ nữ đã ly hôn, cũng có trường hợp hộ khẩu bị thay đổi do đã trải qua một lần kết hôn và một lần ly hôn. Đối với việc xác định người thân bao gồm cả con cái (nếu có), phải điều tra đến cùng tất cả thông tin đăng ký trên hộ khẩu nên công việc này tốn nhiều công sức ngoài dự kiến. Sau khi nghe vợ chồng nhà Yaegashi khai báo, Ayano và Machida đến lấy lời khai của chủ nhân những căn phòng nằm trên tầng năm. Đến đây thì họ có thể suy đoán được Suzuki Yoko hoàn toàn không giao thiệp với hàng xóm. Hai người đã lấy được lời khai của chủ nhân bốn căn phòng từ 501 đến 504, trong đó có hai người khai rằng họ chưa từng thấy mặt chủ nhân phòng 505, hai người còn lại tuy có chạm mặt ở hành lang nhưng không nói chuyện nên cũng không biết gì hơn về tính cách. Tại thời điểm đó không có sẵn hình chụp nên họ không thể xác nhận rõ ràng được, theo như lời khai của hai người đã gặp Suzuki Yoko thì thấy rằng cô không khác gì mấy so với hình ảnh của Suzuki Yoko mà họ nghe được từ vợ chồng nhà Yaegashi, như “một phụ nữ có mái tóc dài”, “người vừa phải và có chiều cao trung bình”, “tuổi khoảng từ ba mươi lăm đến bốn mươi”, “khuôn mặt bình thường dù có trang điểm”. Ngoài ra không có bất kỳ âm thanh hay mùi hôi nào thoát ra từ căn phòng ấy, chưa nói đến số lượng mèo được nuôi, ngay cả việc nạn nhân nuôi mèo thôi cũng không ai hay biết. Mối quan hệ không mấy sâu đậm với những người xung quanh, cửa phòng luôn khóa kín, cộng với căn phòng có tính riêng tư cao được trang bị tường dày đặc có thể cách âm cả tiếng piano, chính là nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong việc phát hiện ra xác chết. Sau khi gọi tiếp viện, Noma và nhóm nhân viên giám định vẫn tiếp tục tác nghiệp cho đến đêm khuya, nhưng dấu hiệu chứng minh đây là một vụ án mạng vẫn không xuất hiện. Ngoài tình trạng của xác chết, những yếu tố khác như ngày cuối cùng ghi chép vào sổ ngân hàng, ngày sản xuất của đống thực phẩm còn sót lại trong kho dự trữ đồ ăn ở bếp và tủ lạnh, ngày tử vong quả nhiên có thể rơi vào tầm tháng Mười năm ngoái. Do xác chết không còn nguyên vẹn, bác sĩ giám định không cần phải đến hiện trường nữa mà những thứ như xương và thịt trông không có vẻ gì là của con người đó được viên pháp y thu gom lại. Nhờ sự hỗ trợ của tổ chức, cuối cùng thời gian thật sự gần nhất với thời điểm tử vong đã được xác định. Thời điểm tử vong cách đây khá lâu, ngoài ra trong phòng còn có rất nhiều mèo, nên hiện trường mới hỗn loạn như vậy. Đây quả thật là cái chết cô độc ư? Tại thời điểm này thì Ayano chỉ suy nghĩ có vậy. Lời khai của Chiba Toshinori (nhân viên cảnh sát, thuộc ban giám sát quận Edogawa của trụ sở cảnh sát, bốn mươi bốn tuổi). Vâng, người đầu tiên lao nhanh đến hiện trường căn hộ của Shishibone thuộc quận Edogawa chính là tôi. Ngày đó là ca trực của tôi, cứ mỗi tiếng tôi lại đạp xe đi tuần. Khi đang dạo quanh thì bộ đàm có tín hiệu, ngay khi nhận được thông báo “có xác chết trong nhà”, tôi cứ như vậy mà lao ngay đến hiện trường. Tôi biết chính xác ngôi nhà cần phải đến sau khi nghe địa chỉ và cái họ “Kojiro”. Đó là một căn hộ cực kỳ rộng, cũng có tin đồn những băng nhóm nhìn có vẻ côn đồ hay ra vào ngôi nhà này, vì vậy nó khá nổi tiếng. Không đâu, không cần phải quá cảnh giác. Đúng vậy, tuy nói là băng nhóm côn đồ nhưng không phải tổ chức xã hội đen, cũng không hề có báo cáo về bất cứ rắc rối nào xảy ra trong khu vực lân cận. Trong thẻ tuần tra liên lạc mà bộ phận quản lý khu vực tự nguyện thu thập, tên của ông Kojiro, người sở hữu căn hộ đó có được đề cập đến, ông ta làm công việc kinh doanh độc lập. Ngoài ra không có thông tin cụ thể nào khác. Tôi cũng không nắm rõ phương thức vận hành doanh nghiệp NPO của ông ta. Tôi đến nơi vào khoảng năm giờ hai mươi lăm phút sáng. Và đã có ghi lại trên giấy báo cáo. Vâng, tôi phải xác định thời gian rõ ràng. Cánh cổng đã mở sẵn, trước hết tôi cất tiếng gọi “Xin lỗi, có ai ở nhà không?” và bước vào bên trong phạm vi khu nhà. Tuy ở tiền sảnh và một vài cửa sổ đèn vẫn sáng, không gian lại hoàn toàn yên ắng, phòng khách… Vâng, ít nhất trong phạm vi tôi tìm kiếm không có dấu hiệu của ai cả. Suy cho cùng, khó có thể khẳng định chắc chắn được vì ngôi nhà khá rộng, nhưng có lẻ tại thời điểm tôi có mặt ở hiện trường thì tên tội phạm đã bỏ lại xác của ông Kojiro và cao chạy xa bay. CHƯƠNG 3 Cô không nhớ từ lúc nào mình nhận ra Jyun thường hay bị bắt nạt. Vì bản thân Jyun không hề hé với cô nửa lời nên cô không nhớ chính xác thời điểm mà cô biết, nhưng lúc Jyun trở thành học sinh năm cuối ở trường tiểu học, dấu hiệu trở nên rõ ràng. Jyun thường bị mất đồ, hầu như lần nào đi học về cũng có vết bầm trên tay và chân, tóc thì bị dính kẹo cao su. “Em cũng không hiểu tại sao mấy món đồ biến mất”, “do ham chơi nên mới bị té”, “em vô ý nên bị dính kẹo cao su lên đầu”, tuy bản thân Jyun cương quyết phủ định như thế nhưng rõ ràng đó là dấu hiệu của hành vi bắt nạt. Không biết bao nhiêu lần cô chứng kiến Jyun bị bạn bè bắt mang vác ba lô một mình sau khi tan học. Cô cũng lờ mờ đoán ra Jyun đang bị bắt nạt. Nhưng đâu đó trong thâm tâm cô nghĩ rằng “Đành chịu thôi”. Trong một nhóm bạn, Jyun vốn dĩ đã sở hữu vài đặc điểm khác biệt khiến cho bản thân cậu dễ bị bắt nạt. Điểm đầu tiên chính là thân thể yếu đuối nên dở tệ trong môn Thể dục. Ở trường tiểu học, nếu là con trai thì chỉ riêng điểm đó thôi đã bị hạ thấp vị trí trong lớp rồi. Hơn nữa, bệnh dị ứng phát ban của Jyun xuất hiện cả trên đầu, nên vẻ bề ngoài đó thúc đẩy sự phân biệt một cách hồn nhiên của lũ trẻ. Cô biết rằng những đứa bạn cùng lứa với Jyun gọi cậu bằng biệt danh “zombie”. Ngoài ra, Jyun luôn mang bộ mặt buồn rầu và thường không thể thích ứng với những thay đổi. Chẳng hạn, những dụng cụ dùng khi ăn, ghế ngồi hay cách sắp đặt các món trên bàn nếu có chút gì đó khác với bình thường thì cậu sẽ nổi giận hét lên “Không phải!”. Trên đường đến trường, nếu gặp phải hàng rào báo hiệu công trường đang thi công, cậu sẽ yêu cầu nhân viên cảnh sát kiểm tra thứ bỗng dưng cản trở hành trình của mình. Về vấn đề đổi chỗ ngồi trong lớp, nghe nói cậu đã gây nên tình trạng hỗn loạn vì cứ nhất quyết hét lên “Không phải!”. Chưa hết, cậu không bao giờ đếm xỉa đến người khác, cô cảm giác lúc nói chuyện cậu không hề nhìn thẳng vào mắt người đối diện, đã vậy chỉ toàn nói về những thứ mình quan tâm. Thi thoảng cậu còn ăn nói thô lỗ với những người mình không ưa. Lúc khoảng bốn tuổi, Jyun từng đứng trước cô bé tròn trĩnh cùng lớp và nói “đồ mập”, làm cô bé khóc òa và gây náo loạn cả lớp. Chỉ có mẹ nghĩ rằng Jyun là đứa trẻ “yếu đuối” và “chính trực”, còn cô là cái đồ “cứng đầu” và “xấu xa”. Nếu người chị như cô có thể nghĩ về Jyun như thế thì những đứa bạn cùng lớp Jyun cũng không cách gì nghĩ tốt về cậu được. Đến mức đó thì chuyện bị bắt nạt cũng trở nên dễ hiểu. Luôn ghen tị với sự “ưu ái và nuông chiều” mẹ dành cho Jyun, cô còn cảm thấy thoải mái khi nghĩ về tình trạng bắt nạt đó. Nhiều năm trôi qua. Đúng vậy, là chuyện sau này. Một sự kiện mang tính quyết định đã bất ngờ xảy đến. Khi thành người lớn, cô rất ngạc nhiên sau khi xem số đặc biệt về rào cản của sự phát triển trên ti vi. Trong chương trình đó, những đặc trưng về rào cản của sự phát triển hay nói cách khác là “hội chứng Asperger[13]” hoàn toàn giống hệt của Jyun. Về trí tuệ thì cực kỳ xuất sắc so với mức bình thường, nhưng về mảng “nhận biết tình huống” thì cực kỳ kém và dễ gây ra xung đột trong quá trình giao tiếp. Xuất phát từ việc không có khả năng nhận biết rõ các sắc thái của ngụ ý nên đôi lúc vô tình nói ra những lời khiếm nhã. Thường hay bị ám ảnh, chỉ cần những hình ảnh lặp lại hằng ngày có chút thay đổi thì sẽ gây ra cảm giác bất an. Tất cả những dấu hiệu đó đa phần đều bắt nguồn từ những dưỡng chất chủ yếu của não bộ từ khi mới sinh, chứ bản thân người mang hội chứng này không cố ý thực hiện những hành vi xấu. Hơn nữa, những người đó cũng gặp phải không ít khó khăn trong cuộc sống… Chương trình xướng lên những cái tên như Beethoven, Gogh, Einstein, và giới thiệu rằng trong số rất nhiều người được chẩn đoán mang hội chứng Asperger cũng có một nhóm gồm toàn những bậc vĩ nhân trong lịch sử. Cô phải thừa nhận rằng Jyun giống họ. Tuy nhiên, chỉ là giả sử thôi. Giả sử Jyun không “cứng đầu” hay “xấu xa”. Giả sử cô không phớt lờ chuyện Jyun bị bắt nạt. Khi còn là trẻ con, cô và Jyun hoàn toàn không biết rằng có những rào cản giữa hai chị em là chuyện bình thường. Giá như cô hiểu chuyện. Cô sẽ giải thích với mọi người xung quanh, nếu mọi người xem xét lại có lẽ Jyun đã không bị bắt nạt. Có lẽ Jyun đã không phải chết. Năm 1989, không phải trường chuyên cũng không phải trường cấp thấp, cô vào học tại một trường hạng trung bình thường có nửa số học sinh là Yankee[14] chính hiệu trong khu vực. Đó cũng là năm Thiên hoàng Showa[15] băng hà, người đàn ông mang kính trở thành thủ tưởng sau đó đã vẽ nên bức tranh với một niên hiệu hoàn toàn mang tên “Heisei[16]”, thuế tiêu thụ đã được áp dụng vào mùa xuân, mọi người ai cũng phải trả bằng tiền mặt một khoản phụ thêm ở mức 3%. Trường cấp ba cũng có câu lạc bộ Mỹ thuật, nhưng cô chỉ muốn đến học hỏi chứ không gia nhập câu lạc bộ. Khi còn học trung học cơ sở, kể từ học kỳ hai năm hai sau khi thiếu vắng Yamasaki, cô hoàn toàn mất tinh thần và nhiệt huyết cho câu lạc bộ, rồi trở thành thành viên thường xuyên vắng mặt. Suy cho cùng điều khiến cô thích không phải là câu lạc bộ mà là Yamasaki. Tuy cô ôm ấp những suy nghĩ bất ngờ như “mình muốn yêu lần nữa” hay “mình muốn có bạn trai” ở trường cấp ba, không biết là hạnh phúc hay bất hạnh nhưng cô không gặp được người nào giống như Yamasaki cả. Đến lúc này thì mẹ không còn quan tâm đến thành tích học tập và định hướng tương lai của cô nữa. Trong buổi họp mặt giáo viên lúc cô học cấp hai, mẹ đã thản nhiên nói rằng “ngay cả phụ huynh như tôi cũng không có kỳ vọng gì đặc biệt, cháu học ở đâu cũng được, nếu có thể lên cấp ba thì tốt”. Giáo viên chủ nhiệm lúc đó nói rằng “Mẹ của em có giải thích đàng hoàng”, nhưng cô biết tất. Mẹ không bao giờ giải thích điều gì cả, mẹ chỉ đơn thuần là không quan tâm thôi. Mặt khác, Jyun tốt nghiệp trung học cơ sở sau cô hai năm. Jyun thường hay nghỉ học vào khoảng thời gian cuối năm nhất[17], nhưng bài kiểm tra giữa và cuối kỳ lại có thành tích cao vượt bậc, thường ngày cậu vào học ở lớp Năm nhưng thi thoảng cũng vào lại lớp Một. Điều này khiến mẹ vô cùng hài lòng, mẹ nghiêm túc nói rằng: “Nếu là bé Jyun thì vào trường trung học phổ thông tỉnh lập dễ như trở bàn tay, nhưng nếu con nghĩ đến chuyện học trường chuyên ở Tokyo thì cũng tốt thôi.” Ngày Ba mươi tháng Tám. Hai ngày nữa là kỳ nghỉ hè kết thúc. Như mọi ngày, bố ra khỏi nhà từ sớm, chỉ có mẹ, cô và Jyun cùng ăn sáng. Sau đó, Jyun bỗng dưng ra ngoài mà không báo với ai tiếng nào. Khi nhận ra Jyun biến mất, mẹ hỏi cô: “Mày có biết bé Jyun đi đâu không?” Đang đọc cuốn truyện tranh dành cho thiếu nữ có nội dung về sự tái sinh khá nổi bấy giờ, cô trả lời nhát gừng: “Hả? Làm sao con biết được. Chắc lại đến thư viện rồi chứ gì.” Cô không buồn suy nghĩ vì không biết tình trạng của Jyun đã có những biến chuyển nhất định. Hình như ngay cả mẹ cũng không nhận ra. Không hề có cảm giác bất an, không có chút linh tinh gì. Bỗng tiếng chuông điện thoại từ đâu đó vang lên, mẹ bắt máy. “Vâng, nhà Suzuki xin nghe. Vâng, đúng vậy. Ơ…” Sau đó cô nghe tiếng mẹ hét lớn, nhưng không nghe rõ mẹ nói gì. Hình như là “Dối trá!”, “Không đúng!”, hoặc chỉ là những tiếng kêu gào vô nghĩa. Cuộc gọi đến từ một bệnh viên tổng hợp khá lớn trực thuộc thành phố. Họ thông báo rằng Jyun bị xe đâm và được mang đến phòng cấp cứu của bệnh viện. Lập tức lao ngay đến bệnh viên bằng taxi, mẹ và cô được một vị bác sĩ có nét mặt sầu thảm cùng một nhân viên y tá lớn tuổi đón tiếp. Bà y tá với mái tóc lấm tấm bạc lên tiếng: “Thật lòng chia buồn, cậu bé đã trút hơi thở cuối cùng.” “Nói dối! Hừ, chắc chắn là nhầm người! Đó không thể là bé Jyun được…” Bà y tá nhẹ nhàng nói với mẹ, người vẫn nhất quyết phủ định sự thật đó bằng mọi giá: “Vâng. Đúng là có khả năng đó. Vì vậy, mặc dù chuyện rất khổ tâm nhưng chúng tôi cần chị sẵn lòng xác nhận.” Cô và mẹ được dẫn đến căn hầm chứa xác chết. Cô được dặn phải chờ ngoài hành lang, chỉ có một mình mẹ vào bên trong đối diện với thi thể ấy. Theo chân y tá và bác sĩ, mẹ tiến vào nhà xác, một vài giây sau, Cô nghe được tiếng thét to hơn nhiều so với lúc mẹ nhận điện thoại ở nhà. Tức thì mẹ kêu lên “Không! Không! Không!”, giống hệt đứa trẻ òa khóc vì sợ kim tiêm, và cô thấy bóng mẹ được bà y tá dìu từ trong phòng ra. Khi thấy hình ảnh ấy của mẹ, cô nhớ mình đã có một cảm giác đắc ý kỳ lạ rằng “Ồ, quả nhiên Jyun đã chết rồi nhỉ?”. Cô rõ ràng cảm thấy cơn đau thắt tồi tệ ở bụng và cảm giác chộn rộn ở ngực, nhưng không có giọt nước mắt nào rơi. Dẫu đó là cái chết của chính em trai mình. Cô không thể bất chấp ánh mắt của mọi người mà khóc thét lên như mẹ. Hơn nữa cô vẫn không rõ liệu mình có đang buồn thật hay không. “Hình như bố của cháu cũng đã đến. Chốc nửa phía cảnh sát sẽ cử người đến nên xin hai người vui lòng chờ ở đây.” Hai mẹ con cô được dẫn đến phòng chờ nhỏ nơi có cái bàn tròn và bộ ghế xô pha. Mẹ vẫn chưa ngừng khóc, hai tay ôm lấy mặt, liên tục gọi tên đứa con đã chết của mình: “Bé Jyun ơi… bé Jyun…” Ngay sau đó thì bố xuất hiện với đôi mắt sưng đỏ vì khóc nhiều. Cô có hơi ngạc nhiên một chút. Công việc ở nhà bình thường bố toàn đổ hết cho mẹ, ông chưa từng làm gì cho Jyun với tư cách là một người bố cả. Bố tiến đến bên mẹ, vòng tay ôm vai bà ra chiều an ủi. Mẹ úp mặt vào ngực bố và gào khóc, bố siết chặt vòng tay ôm lấy mẹ và khóc trong im lặng. Nhìn cảnh tượng đó, cô cảm giác mình trở thành con người lạnh lùng không thể rơi nước mắt, cô thấy bản thân như muốn trốn chạy khỏi nơi này. Nhưng ít phút sau thì bố ngừng khóc, và cho đến khi mẹ ngừng gào thét, cô thở phào nhẹ nhõm một cách bí mật. Có tiếng gõ cửa, hai viên cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện cùng với cô y tá. “Thành thật chia buồn với các vị.” Viên cảnh sát với những động tác nhanh nhẹn và biểu hiện đáng tin cậy, sau khi cúi đầu chào cả nhà đã bắt tay vào điều tra hiện trường vụ tai nạn. Jyun đã bị xe tải tông phải trên đoạn đường hai dòng xe chạy ở khu vực không xa trường trung học là mấy. Nơi xảy ra tai nạn không phải ở khu vực ngã tư hay ở những vạch trắng dành cho người đi bộ mà ở ngay giữa đoạn đường, theo lời tài xế Jyun đột nhiên lao ra trước mũi xe. Nếu vậy thì không khác gì tự sát. “Chuyện ngu ngốc như vậy sao có thể xảy ra chứ? Đừng có đùa với tôi.” Mẹ đứng dậy và ngắt lời viên cảnh sát bằng một chất giọng chói tai. “Tài xế hiện đang bị giữ ở đồn để lấy thêm lời khai. Tính tới thời điểm hiện tại thì chưa có nhân chứng nào khác, nhưng vì tai nạn xảy ra ở ngay giữa đường nên có khả năng cao là Jyun đã băng qua đường.” “N. .. nói dối! Làm gì có chuyện bé Jyun lao ra đường như vậy! Tất cả đều láo toét!” Mẹ bị kích động mạnh. Viên cảnh sát cố gắng phớt lờ, nhìn cả nhà cô và hỏi: “Gần đây Jyun có hay phiền não về điều gì, hay có thay đổi gì không?” “Không có gì cả!” Mẹ phủ định bằng mọi sức lực. “Bé Jyun đã làm rất tốt trong bài kiểm tra mới đây, nên chẳng có gì phải buồn phiền cả! Bé Jyun không có lý do gì để làm chuyện ấy.” Mẹ tránh dùng đến từ “tự sát”. Viên cảnh sát hít một hơi, chuyển đối tượng tra hỏi sang cô và bố. “Xin lỗi, tôi cũng không biết gì nhiều.” Bố trả lời, đầu cúi gầm xuống có vẻ hối hận. Tất nhiên. Bố không thể nào nắm được tình hình hằng ngày của Jyun. Trong một thoáng, cô có suy nghĩ rằng mình nên nói về chuyện Jyun thường hay bị bắt nạt nhưng cuối cùng chỉ lắc đầu không nói gì. Nếu nói ra không biết mẹ sẽ phản ứng thế nào. Bằng chứng Jyun bị bắt nạt cũng không có. Bản thân Jyun cũng chưa một lần thú nhận rằng “con bị bắt nạt”. Cô tốt nhất không nên nói những điều dư thừa. “Vậy à…?” Mẹ khóc thét lên như để cố gắng bám víu vào viên cảnh sát đang định rời đi đâu đó. “Làm ơn, đừng lừa tôi với lời nói dối đó mà điều tra kỹ vào! Không thể có chuyện bé Jyun lao ra trước mũi xe như vậy. Nó không phải là một đứa trẻ có thể làm điều đó! Bé Jyun chắc chắn đã bị người ta giết hại.” Chắc rằng lời cáo buộc của mẹ hoàn toàn vô căn cứ, nên ngay sau đó, mẹ nhận ra mình không thể trốn tránh sự thật rằng Jyun đã tự sát. Trên đường về nhà, khi đến kiểm tra phòng của Jyun thì thấy có mẩu giấy nhắn để lại. Ở góc phải phía trên tờ giấy có nét chữ quen thuộc viết rằng: Con chết vì con muốn chết. “ Tại sao một dòng lý do đơn giản nhất giải thích cho việc muốn chết lại không ghi, dù có ngốc đến mức nào đi nữa thì cũng phải để lại lý do chứ. Ngay khi nhìn thấy mảnh giấy, mẹ liền trút tức giận lên đầu cô: “Yoko! Tại sao mày lại viết cái này? Còn bắt chước nét chữ của Jyun nữa.” Mẹ quả thật bị hoang tưởng rồi. “Con không viết thư đó.” “Không mày thì còn ai vào đây nữa!” “Không ai cả. Là Jyun viết đấy. Jyun tự mình đi tìm cái chết đấy!” “Nói dối! Bé Jyun không bao giờ làm chuyện đó! Mẫu giấy đó là mày viết! Chắc chắn! Chính mày viết!” Mẹ nói như thể vì lỗi của cô mà Jyun chết, bà đang đổ lỗi cho cô. Tuy điều đó rất vô lý nhưng cô nhớ mình đã khá choáng váng. “Mẹ à, tại sao lại nói như vậy?” Mặc dù hỏi lại nhưng thật ra cô đã biết trước câu trả lời: Là vì bà không tài nào chấp nhận được sự thật. Mẹ không thể chấp nhận được chuyện đứa con mình yêu thương nhất đã chết, hơn nữa, chính nó lại là người tự nguyện chọn lấy cái chết ấy. Vì vậy, mẹ muốn trút một phần trách nhiệm vào đâu đó… như đổ lên đầu đứa con còn sống mà bà không hề yêu thương chẳng hạn. Tuy nhiên, cô không thể nhận trách nhiệm mà mẹ đổ xuống. Mẹ cứ lập đi lặp lại nhiều lần như cái radio hỏng: “Mày viết!”, quả thật đã khiến bố không thể đứng im được nữa. “Này, tỉnh táo đi! Yoko không viết mấy thứ đó!” “Nhưng bé Jyun không viết thứ đó… chắc chắn!” Mẹ khóc nức nở, một mực không chấp nhận việc chính Jyun để lại mẩu giấy nhắn đó. Vì vậy, bà không báo cho cảnh sát biết sự tồn tại của mẩu giấy được cho là di ngôn của Jyun, mà mang đi tiêu hủy. Cô liếc nhìn mẹ, đi quanh phòng tìm kiếm một lượt, nhỡ Jyun còn để lại lời nhắn nào khác ở đâu đó. Căn phòng của Jyun được dọn dẹp ngăn nắp và không có nhiều đồ lắm. Ở một bức tường, trên giá sách được làm từ nhiều hộc nhỏ chồng lên nhau, có rất nhiều cuốn sách nằm san sát nhau. Nhìn qua chắc cũng phải vài trăm cuốn. Cô nghĩ cả đời mình cũng không thể đọc hết đống sách này. Trên gáy những cuốn sách hầu hết là tên của các tác giả nước ngoài cô chưa từng một lần nghe, dựa vào tựa đề thì có vẻ như đa phần sách đều thuộc thể loại khoa học viễn tưởng. Jyun cực kỳ thích sách. Nói mới nhớ, cô thường thấy Jyun đọc sách ở phòng khách, nhưng cô không hề biết cậu có một phòng đọc tầm cỡ như thế này. Có lẽ trong này là cả một thế giới phong phú chỉ có mình Jyun biết, nhưng thế giới đó giờ đã vĩnh viễn biến mất. Bàn học và kệ sách đều được sắp xếp gọn gàng, hình như ngoài mảnh giấy đó ra, Jyun không để lại thứ gì nữa. Có điều, khi lật nhanh những trang vở và sách giáo khoa ở trường của Jyun, cô nhìn thấy những vệt dài màu đen chỗ này chỗ kia. Nhìn chúng qua ánh đèn có thể thấy những từ như “cặn bã”, “phiền phức”, “zombie” hiện lên rõ ràng. Dường như Jyun đã cố gắng tẩy đi những dòng nguệch ngoạc ấy. Trong tâm trí cô xuất hiện hai chữ “bắt nạt” mà cô đã lỡ mất cơ hội nói với viên cảnh sát. Vậy đúng là Jyun tìm đến cái chết vì bị bắt nạt ư? Còn hai ngày nữa là kỳ nghỉ hè kết thúc. Hay vì ghét phải đi học nên Jyun đã tự sát? Việc Jyun chết ở con đường ngay cạnh trường học, chẳng lẽ Jyun có ý ám chỉ nhóm người bắt nạt mình ư? Cô không biết. Không có bằng chứng xác thực nào cả. Cô chỉ nghĩ như vậy. Thật đáng thương. Từ trước đến nay cô không ghét bỏ em trai mình, cô cũng nghĩ chuyện cậu bị bắt nạt là điều dễ hiểu. Nhưng mọi chuyện diễn biến theo hướng này thì thật đáng tiếc. Tang lễ diễn ra vào ngày Chủ nhật, bốn ngày sau khi Jyun chết, tại nhà tang lễ thành phố. Giáo viên chủ nhiệm và bạn cùng lớp đến tham dự rất đông, cùng nhau tiễn đưa Jyun. Đến ngày này thì cuối cùng cô đã khóc. Đó là lúc đưa áo quan ra ngoài, là lúc “tạm biệt lần cuối”. Cô chưa kiểm chứng xác của Jyun lúc trước, nên đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy khuôn mặt của Jyun sau khi chết. Ngay khoảnh khắc nhìn thấy hình ảnh Jyun được thoa lên mặt một lớp trang điểm nhẹ và quanh chỗ cậu nắm được rải đầy hoa, cô không hiểu vì sao cảm giác đau buồn mãnh liệt lại đổ ập lên mình. Hình ảnh thực sống động của xác chết đè nặng lên ngực cô và chèn ép cô bằng thứ sức mạnh tương đương bạo lực. Cô bị nhấn chìm trong nỗi đau ngày một mãnh liệt. Những giọt nước mắt không thể rơi vào cái ngày cô nghe tin Jyun chết ở bệnh viện giờ đây lại tuôn rơi không ngừng. Tội nghiệp, tội nghiệp, tội nghiệp. Đáng buồn. Đáng buồn. Đáng buồn. Cô trải qua thứ cảm giác không hiểu vì sao mình lại bị tước đi thứ gì đó cực kỳ quan trọng một cách vô lý như vậy. Jyun đã chết. Là đứa em trai cứng đầu, xấu tính cô không mấy yêu thương. Vậy mà chính bản thân cô lại có cảm giác như mất đi thứ gì đó. Rồi không biết từ lúc nào cô khóc như thể mình là người bị hại. Giáo viên và bạn bè cùng lớp, những người tham dự lễ tang của Jyun đều như vậy. Tất cả mọi người ai cũng khóc. Chắc chắn trong số đó cũng có đứa từng viết bậy lên sách của Jyun, và cả những đứa nhìn thấy nhưng ngó lơ. Nhưng dù có là ai thì cũng đã khóc thương cho Jyun. Như thể chính mình là nạn nhân. Jyun đáng thương đã chết, còn mọi người đều trở thành nạn nhân. Mẹ ngắm nhìn những vị khách đến viếng khóc cho Jyun và cảm thấy hài lòng. “Bé Jyun được nhiều người yêu mến quá nhỉ.” Vài ngày sau lễ tang, bên công tố viên gọi bố mẹ đến và thông báo rằng tài xế tông phải Jyun không bị truy tố. Thực tế là đã được tuyên bố trắng án. Lời khai của tài xế cho rằng Jyun lao ra trước mũi xe đã được chấp nhận hoàn toàn. Trong khi mẹ đang phẫn nộ, nói “Giết một mạng người rồi mà thế quái nào vẫn không bị trừng phạt chứ?”, thì cô thấy kết luận như vậy không có gì sai. Nếu chỉ vì vô ý tông phải ai đó lao ra trước mũi xe mà bị kết tội giết người thì bất công quá sức. Tuy nhiên cả phía cảnh sát lẫn công tố đều từ bỏ điều tra lý do dẫn đến hành động lao ra đường của Jyun, rốt cuộc, cái chết của Jyun nhận được kết luận chính thức là do nguyên nhân “tai nạn giao thông”, không phải “ám sát” cũng không phải “tự sát”. Trong chớp mắt, bốn mươi chín ngày trôi qua. Đột nhiên mẹ bắt đầu đến thăm trường học cũng như từng nhà của bạn bè cùng lớp với Jyun. Và hỏi về Jyun lúc cậu còn sống. Không hẳn là mẹ đã chấp nhận sự thật Jyun tự sát và quyết định đi tìm nguyên nhân thật sự. Mẹ đơn thuần chỉ là đi để duy trì sức sống cho những ký ức về Jyun. Từng nơi mẹ đi qua khiến bà cảm thấy được an ủi và khích lệ. “Thật lòng chia buồn với chị. Phía trường chúng tôi cũng hết sức ngạc nhiên khi nghe tin. Jyun là một học sinh ưu tú dù nghỉ học khá nhiều, cậu bé cũng rất hòa đồng… với bạn bè. Thật đáng tiếc khi cậu bé không còn sống nữa”, “Thật ngại quá khi chị cất công đến nhà như vậy. Tôi thật sự đã rất đau buồn khi nghe được tin Jyun mất từ cháu nhà tôi”, “Con đã được Jyun cho xem bài tập về nhà và thấy biết ơn vô cùng”, “Ở trường buồn hẳn khi không có bạn Suzuki nữa. À con vô ý quá, cô mới là người phải chịu nhiều đau khổ nhất trong thời gian qua“. Nhận được những lời nói kiểu đó khiến mẹ dần dần có sức sống trở lại. “Thầy cô nói rằng đã luôn rất kỳ vọng vào tương lai của Jyun”, “Jyun được nhiều người yêu quý quá hả”, ”Hôm nay ở nhà một cô bé học cùng lớp với Jyun, khi nhắc đến chuyện của Jyun thì cô bé bỗng nhiên òa khóc. Có lẽ nó thích Jyun nhà mình lắm đây”, “Mọi người ai cũng nói sẽ không bao giờ quên Jyun”. Chuyện đó giống như một nghi lễ, rằng mẹ, trường học và bạn bè cùng lớp, tất cả liên kết với nhau để dựng nên một hình ảnh “Jyun đã chết đầy lý tưởng”. Không phải một Jyun tự sát vì được chọn lựa trở thành một kẻ bị bắt nạt, tuy học giỏi nhưng là một đứa đáng ghét vì những hành vi khiếm nhã, mà là một Jyun thông minh, tương lai xán lạn, được mọi người yêu mến, nhưng đột ngột kết thúc cuộc đời với một cái chết bất thường do tai nạn. Sau cùng, một lời nói dối trắng trợn chẳng hạn như Jyun lao ra giữa đường để cứu một chú mèo con đi lạc trở thành sự thật. Cô đã từng một lần thử nói chuyện với mẹ. “Mẹ này, có khi nào Jyun bị bắt nạt không?” Vẫn biểu hiện như mọi khi, mẹ thở dài và cười nhạt. “Không thể nào. Đó chỉ là một tai nạn thôi. Cảnh sát cũng kết luận như vậy rồi đấy”. “Vậy còn mẩu giấy để lại thì sao? Giả sử đó là tai nạn đi nữa thì tại sao ngày hôm đó Jyun lại đến tận khu vực cạnh trường học chứ?” “Yoko, điều quan trọng hơn hết thảy, những người ở lại là chúng ta đây, phải sống hết mình cho cả phần của Jyun nữa.” Mẹ nói với vẻ mặt bình thản. Mẹ không thấy những gì cô nhìn thấy, bà chỉ thấy mỗi việc Jyun đã không còn trên thế giới này, chỉ thấy hình bóng của một cậu bé Jyun lý tưởng do bà tạo nên vì lợi ích của bản thân. Một năm rưỡi sau khi Jyun chết chính là lúc bạn bè đồng lứa của cậu chào đón lễ tốt nghiệp trung học, mẹ cũng được mời, đặc biệt bà còn được trao tặng bằng tốt nghiệp có ghi tên Jyun. Mẹ tham dự buổi lễ với một bộ vest mới toanh, đứng trên bục phát biểu và kể về Jyun như thể đó là “lời gửi gắm dành tặng học sinh tốt nghiệp”, kết thúc bằng lời kêu gọi “Mọi người hãy sống thật tốt, thay cho cả phần của Jyun nữa”. Bữa tối ngày hôm đó, mẹ thuật lại câu chuyện trong không khí mãn nguyện: “Hôm nay tôi đã rời khỏi nhà thể dục trong tiếng vỗ tay tràn ngập. Có rất nhiều đứa trẻ đã khóc vì cảm động. Chắc chắn bé Jyun sẽ sống mãi trong tim mọi người.” Cách mẹ nói giống như Jyun đã hy sinh vì mẹ và mọi người vậy. Sau đó mẹ nhắc đến hai chữ “hạnh phúc”. “Chắc chắn bé Jyun đang thấy hạnh phúc.” Dẫu cho Jyun đã tự tìm đến cái chết. Trước cái chết của Jyun, mẹ là người đau buồn nhất, và có lẽ, mẹ cũng là người hạnh phúc nhất. Tối hôm ấy là lần đầu tiên cô thấy ma. Chỉ sau khi cô tính đi ngủ và kéo dây đèn, ánh sáng biến mất, căn phòng chìm vào bóng tối, từ trong góc một cái bóng nhỏ màu đỏ bay đến. Cái bóng rung rinh chập chờn, lơ lửng trong không khí. Đó chính là chú cá vàng, xuất hiện đột ngột, bơi trong không gian không có lấy một giọt nước. Không hiểu sao cô không thấy sợ hãi hay kỳ lạ. Cô đón nhận hiện tượng bất thường này như thể trước đây đã từng gặp qua rồi. Chú cá vàng cười, tạo nên những âm thanh tanh tách giống như tiếng bong bóng nhỏ vỡ tan. Sau khi cười một lúc, nó bắt đầu nói chuyện: “Chị ơi, chị…” “Jyun? Là Jyun đấy ư?” “Vâng ạ.” Ra vậy, đây là linh hồn của Jyun. Quả thật cô không thấy có gì sợ hãi hay kỳ lạ. Trái lại cô lập tức rơi vào cảm giác mơ hồ khó hiểu. “Jyun à, sao em lại chết?” “Em có viết lời nhắn để lại rồi đấy. Em chết vì em muốn chết. Mọi người cũng nghĩ là em tự sát đúng không?” “Tại sao lại muốn chết?” “Là vì em không muốn sống nữa.” “Tại sao lại không muốn sống?” “Thì tại vì em muốn chết.” Linh hồn cứ liên tục lặp đi lặp lại những câu nói cùng một nội dung. “Đừng có đùa với chị.” “Em đâu có đùa. Đó quả nhiên là cảm xúc và hành động của con người. Cứ vội vã đi đến những quyết định vô nghĩa. Thật sự em không thể hiểu nổi mọi người đang nghĩ và hành động như thế nào. Chị hãy thử suy nghĩ thật kỹ xem.” Linh hồn này nói năng lưu loát hơn Jyun lúc còn sống nhiều. “Chị có thể giải thích hành động của bản thân được không? Chẳng hạn như việc chị xỏ chân phải vào giày trước, chị có biết lý do của nó không?” “Hả?” Cô còn không ý thức được mình xỏ chân nào vào giày trước, nói gì đến lý do. Làm sao cô biết được mình xỏ chân phải vào trước chứ. “Chị không biết phải không nào? Trong khi chị vẫn chưa ý thức toàn bộ bản thân mình thì chân phải đã tự xỏ vào giày rồi. Nhưng đó là điều đương nhiên. Việc con người cử động thân thể bằng ý chí của bản thân chỉ là ảo giác thôi. Con người là loài động vật hành động tương ứng với môi trường.” “Điều em nói cũng không sai nhưng… Nhưng chẳng phải cũng có những hành động hình thành sau khi chúng ta dùng đầu óc suy nghĩ đấy thôi.” Buổi sáng thức dậy, đúng là tôi không ý thức được mình xỏ chân nào vào giày trước, nhưng quyết định nên đi đường nào chẳng hạn, là do tôi tự ý chọn lấy. “Không có đâu. Chúng ta có cảm giác chúng ta hành động sau khi tự mình suy nghĩ, nhưng tất cả đều là ảo giác mà thôi. Chị hiểu không? Đâu đó trong hành động của con người luôn pha lẫn với những phán đoán phụ thuộc vào cảm xúc. Ví dụ như chuyện mặc đồ gì và gọi món gì ở nhà hàng. Tuy chúng ta có cảm giác mình đưa ra lựa chọn sau khi suy nghĩ nhưng nguyên căn của lựa chọn đó chính là cảm xúc yêu ghét vào ngày hôm đó. Vậy còn chị, chị có thể giải thích con người tự chọn cảm xúc của riêng mình được không? Hay giải thích lý do cho việc yêu thích một thứ gì đó? Lúc học trung học, chị có thích anh Yamasaki, đàn anh lớn hơn chị một tuổi đúng không?” Linh hồn không biết ai cả, chưa kể Jyun cũng chắc chắn không hề biết gì mà lại nói về chuyện tình yêu của cô. “Chị à, chị thích anh Yamasaki là vì bản thân chị muốn có cảm giác thích phải không? Hơn nữa chị có hiểu vì sao chị lại thích anh Yamasaki không?” Cô nhớ lại những ký ức về Yamasaki. Cô không hẳn là thích Yamasaki ngay từ đầu. Ấn tượng đầu tiên của cô về anh là “con người nhàm chán”. Cô cũng không hề nghĩ mình muốn thích Yamasaki. Chỉ là hai người cùng nhau trải qua nhiều thứ, rồi cô thích anh lúc nào không hay. Tại sao cô lại thích Yamasaki nhỉ? Có câu nói đúc kết rằng “Trong tình yêu chúng ta bị động chứ không thể chủ động”, quả thật chúng ta không thể biết được lý do vì sao mình yêu. Cô chỉ biết trả lời mơ hồ một vài lý do nào đấy. “Chị không biết đúng không? Chị à, chị thích anh Yamasaki không phải vì chị muốn thế hay vì lý do nào cả. Nói tóm lại, cảm xúc đó không liên quan gì đến chị mà là từ trên trời rơi xuống thôi. Chị à, sự tồn tại của con người nói thẳng ra cũng giống như hiện tượng tự nhiên vậy. Sinh ra thế nào, sống thế nào, chết thế nào… tất cả đều như tuyết và mưa, rơi từ trên trời xuống không cần ý nghĩa hay lý do. Chuyện em tự sát cũng giống vậy. Đột nhiên cảm giác “muốn chết” không hiểu từ đâu rơi xuống, rồi em chết thôi.” Giữa chừng, cô không thể theo kịp lời giải thích đó. Chẳng lẽ cô cứ việc nghĩ rằng chuyện mang giày, tình yêu và cả tự sát """