" Tích-Tắc-Tích-Tắc - Trái Tim Máy - Peter Bunzl & Linh Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tích-Tắc-Tích-Tắc - Trái Tim Máy - Peter Bunzl & Linh Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu] Ebooks Nhóm Zalo TRÁI TIM MÁY ———★——— Nguyên tác COGHEART (The Cogheart Adventures, #1) Tác giả PETER BUNZL Người dịch LINH CHI Đơn vị phát hành ĐINH TỊ Nhà xuất bản THANH NIÊN ebook©vctvegroup 14-03-2022 Tác giả Peter Bunzl sinh năm 1975, lớn lên ở Nam London trong một ngôi nhà xây theo phong cách kiến trúc thời Nữ hoàng Victoria, cùng với ba chú mèo, hai chú chó, một cô em gái, người cha làm nghề buôn đồ cổ và người mẹ là một họa sĩ. Peter Bunzl là nhà văn, nhà làm phim và là một họa sĩ phim hoạt hình đoạt giải thưởng BAFTA (The British Academy of Film and Television Arts - viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh Quốc). Cũng giống như cô bé Lily và cậu bé Robert trong cuốn tiểu thuyết đầu tay Trái tim máy của mình, Peter rất thích phiêu lưu mạo hiểm, thích đọc truyện kinh dị và luôn mơ ước có một chú cáo máy giống như Malkin. MỘT VÀI THÔNG TIN KHÁC: 1. Thích đọc sách và xem phim, nhưng cũng rất thích viết sách và làm phim. 2. Cuốn sách trẻ em yêu thích là The Witches (Mụ phù thủy) của tác giả Roald Dahl. 3. Bộ phim Mind Games của Peter Bunzl đã vào chung kết Virgin Media Shorts Award (2008) và được trình chiếu ở hơn 200 rạp chiếu phim của Anh. 4. Có bằng Thạc sĩ Nghệ thuật về làm phim hoạt hình tại trường National Film & Television School (2002). 5. Hiện đang sống ở Bắc London. MỞ ĐẦU Malkin tì hai bàn chân trước lên mặt cửa sổ buồng lái và chăm chú nhìn ra bên ngoài. Chiếc khí cầu màu bạc vẫn đang đeo bám họ sát nút. Âm thanh ro ro tạo ra bởi chân vịt của con tàu cùng với cảnh tượng thân tàu sắc nhọn như lưỡi dao đang xé toạc không gian làm cho máy móc cơ khí bên trong nó run lên sợ hãi. Con cáo quay sang nhìn chủ nhân của mình. Chiếc khí cầu Dragonfly của ông John chạy thì nhanh đấy, nhưng lại chẳng được trang bị chút hỏa lực nào. Ngược lại, chiếc khí cầu bạc lại tua tủa những vũ khí. Vô số chiếc gai kim loại sắc nhọn mọc ra lởm chởm khắp thân tàu, khiến nó trông chẳng khác nào một con nhím hiếu chiến. Ngay lúc ấy, bánh lái tàu Dragonfly đột ngột chuyển hướng, ông John đã xoay bánh lái một trăm tám mươi độ, làm con tàu quay ngược lại và lướt qua kẻ truy đuổi. Chiếc khí cầu bạc bị tụt lại phía sau, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, nó cũng đã quay đầu đuối theo. Một lần nữa, nó lại sắp tiếp cận tàu Dragonfly. Cánh quạt của nó cắt xuyên qua những đám mây, tạo ra các bóng đen thoắt ẩn thoắt hiện phía sau đuôi tàu. Ngay lúc cả hai chiếc khí cầu tới được khoảng trời xanh không một gọn mây, chiếc khí cầu bạc liền bắt đầu khai chiến. Một cây lao móc vun vút lao qua khoảng không và cắm phập vào thân tàu Dragonfly, mũi nhọn chọc thủng đúng vị trí cửa tàu. Phập! Một chiếc lao móc nữa lại đâm vào thân tàu. Malkin kêu lên cảnh báo, có mùi khí ga tràn vào buồng lái, rồi những chiếc kim trên các bảng điều khiển rung bần bật về hướng những vùng chỉ số nguy hiểm màu đỏ. Nổi lên trên những tiếng rền rĩ của động cơ đang tắt dần là âm thanh cót két từ những sợi cáp thép bị kéo căng, chiếc khí cầu bạc bắt đầu kéo Dragonfly lại gần mình. Ông John khóa bánh lái của Dragonfly lại và cài nó ở chế độ tự lái. Ông mở toang cửa buồng lái ra, và cùng với Malkin bám theo sát gót, ông lao vào buồng máy. Những chiếc pít tông và tay khuỷu hoạt động hết công suất, còn buồng máy thì rung lắc dữ dội. Ở chính giữa buồng là một cái kén kim loại hình quả trứng nằm giữa những đường ống chạy chằng chịt xung quanh. Ông John mở cửa buồng kén. “Không có đủ chỗ cho cả hai.” Ông nói. “Malkin, cậu hãy đi đi.” Con cáo rên rỉ phản đối. “Không được. Ngài nên đi mới phải. Ưu tiên con người hơn máy móc, đó là luật.” Ông John lắc đầu. “Ta không bỏ tàu lại được, ta cần gắng gượng lái nó tiếp đất an toàn, và cậu thì không điều khiển tàu được!” Ông cười mệt mỏi và lôi từ túi áo ra một chiếc phong bì. Rồi ông cúi xuống và nhét phong bì vào túi da nhỏ đeo trên cổ Malkin. “Phong bì này gửi tới con gái Lily của ta. Hãy đưa cho con bé.” “Có gì trong này vậy?” Ông John mỉm cười. “Bí mật. Hãy bảo con bé giữ gìn nó cẩn thận và bất luận điều gì xảy ra cũng không được kể cho ai nghe về nó hết. Cậu nhớ rồi chứ?” “Tôi nhớ rồi.” Malkin thúc chân vào chiếc túi và dùng mũi hít ngửi nó. “Tốt lắm.” Ông John nói. “Hãy tới Brackenbridge, đó là nơi con bé đang ở. Nếu sống sót qua kiếp nạn này, ta sẽ tới đó tìm con bé.” “Ngài còn muốn căn dặn điều gì nữa không?” “Hãy nói với con bé rằng ta yêu nó.” Ông John xoa xoa đôi tai cơ khí của con cáo lần cuối. “Chuyến hành trình sẽ mất ít nhất một ngày nếu bắt đầu đi từ đây, cậu nghĩ mình có đủ cót để chạy chứ?” Malkin gật đầu. “Dù sao thì cũng hãy mang theo chìa khóa lên dây cót.” Ông John lồng chiếc khóa xỉn màu vào một cái dây và đeo nó lên cổ con cáo, bên cạnh chiếc túi da nhỏ. “Mặc dù có trời mới biết ai sẽ lên dây cót cho cậu nếu không có ta ở đó.” “Cảm ơn ngài.” Malkin bước vào kén thoát nạn và cuộn mình ngồi trên ghế. “Với tất cả tấm lòng đang chạy tích tắc của mình, tôi hy vọng sẽ được tái ngộ ngài.” “Ta cũng thế anh bạn già ạ.” Ông John đóng cửa lại. Với âm thanh lạch cạch rền rĩ, cửa thoát hiểm mở ra, và chỉ sau một cú xóc, chiếc kén đã rơi ra ngoài. Qua cánh cửa thoát hiểm, ông John dõi theo chiếc kén, lúc này đang lùi xa dần ngoài không trung, hình ảnh cô con gái Lily thoáng hiện lên trong tâm trí ông. Ông ước giá mình có thể nhìn thấy con bé lần cuối cùng, để nói cho nó biết sự thật về quá khứ. Đáng ra nên làm điều này từ lâu rồi mới phải, nhưng ông chưa bao giờ có đủ dũng khí. Giờ mọi sự trông cậy cả vào Malkin. Tất cả đều ở trong lá thư ấy. Một chiếc lao móc nữa lại xuyên thủng thân tàu Dragonfly và những lưỡi cưa xẻ qua khung thép của tàu, tạo ra nhiều vết nứt trong “lồng ngực” bằng kim loại của nó. Với một tiếng rít đinh tai, những vết nứt toác ra thành một lối vào và hai cái bóng xuất hiện. Đôi mắt màu bạc của chúng lóe lên dưới ánh sáng. Cái bóng gầy gò hơn giơ một cái gậy có cán hình đầu lâu lên, và ông John cảm nhận được cú đánh đau nhói, rồi mọi thứ trước mắt ông tôi dần đi… Chương 1 Lily nhăn nhó chun cái mũi lấm tấm tàn nhang của mình, chật vật nối đuôi mấy đứa con gái đang xếp hàng dọc đi phía trước. Cứ đi được mỗi bước, tim nó lại đập thùm thụp trong lồng ngực, đôi mắt xanh lướt trên những trang sách quăn queo của cuốn truyện kinh dị yêu thích mà nó giàu kín trong cuốn sách giáo khoa. Nó đang chìm đắm trong khung cảnh đặc biệt đẫm máu của cuốn Ma cà rồng Varney đối đầu Không tặc, đúng đoạn Varney tóm được vị nữ anh hùng ở căn gác mái bỏ hoang trong một ngôi trường dự bị đại học và đang chuẩn bị hút máu của cô. Lily cầm sẵn chiếc bút chì để đánh dấu những đoạn ghê rợn nhất trong truyện nhằm tiện lôi ra nghiền ngẫm lại mỗi khi rảnh rỗi. Còn một quyển khác, chẳng rõ tựa là gì, đang ngự ngay ngắn trên đỉnh đầu nó, cứ đi được bước nào là lại chòng chành dọa rơi xuống bước đấy, nhưng giờ chẳng gì có thể làm nó ngưng đắm đuối với Varney được. “Ngẩng đầu lên! Mắt nhìn thẳng nào!” Với cuốn sách Hướng dẫn của trường Oxford về cách giữ thăng bằng hoàn hảo nằm cân bằng trên đầu, cô giáo McKracken của Lily, một giáo viên dạy hành xử nay đã đứng tuối, lùa đám vịt giời xếp thành vòng tròn xung quanh Sảnh Lớn. Đôi bàn chân dẹt của bà loẹt quẹt trên sàn gỗ sạch bóng. Lily hay gọi bà là Bà Thủy Quái McKracken, mặc dù dĩ nhiên, chẳng bao giờ nó dám gọi thẳng tên này trước mặt bà cả, nếu thế thì thật là nguy hiểm khôn lường. Bà Thủy Quái có chút ám ảnh về khoản dáng dấp cử chỉ. Lily thì chẳng thèm mảy may nghĩ về những thứ như vậy. Nó nghĩ, sách là để đọc chứ không phải là để đặt lên đầu mà giữ thăng bằng như thế này. Dù sao chăng nữa, đấy mới là mục đích con người sáng tạo ra sách. Và kể cả nếu anh muốn để cái gì đó trên đầu mình thì đã có một món đồ hoàn hảo được thiết kế cho cái nhu cầu ấy, và chúng ta gọi nó là cái mũ. Lily lén liếc nhìn những đứa bạn khác trong lóp. Ở ngay đầu hàng, Lucretia Blackwell đang hếch cái mũi đoan trang của mình lên, và ba cuốn Những nghi lễ đúng đắn để có cơ hội tốt nhất nằm cân bằng trên mái tóc được cắt tỉa một cách hoàn hảo của cô nàng. Đứng ngay sau đó là Alice Harvey quý cô này đang đội bảy cuốn Hướng dẫn của Butterwick để hành xử tốt hơn trên mái tóc tết vòng của mình. Với mớ tóc to khủng bố như vậy chẳng trách nàng ta không làm rơi cuốn nào. Kế tiếp là quý cô Gemma Ruddle. Trên mái tóc của cô nàng có bốn cuốn Những hướng dẫn về phép lịch sự dành cho các quý cô nằm chênh vênh trên đầu. Cứ mỗi bước đi, cô nàng lại phải dừng lại một tí và giả vờ gãi đầu gãi tai để lén chỉnh lại cái tháp sách phía trên. Lily từ lâu đã biết tỏng mấy đứa con gái kia chẳng bao giờ đọc sách trong lớp học về cách đi đứng này. Dường như với họ, việc vừa phải đi vừa phải nghĩ cùng một lúc là quá sức khó khăn. Nó nghi ngờ lắm, chẳng biết trong trí óc họ có từng thoảng qua dù chỉ là một suy nghĩ quan trọng nào đó hay chưa. Giả như Spring-Heeled Jack, Ma cà rồng Varney, đám hải tặc hay bất cứ kẻ lưu manh nào khác đang hoành hành trên khắp nước Anh này, mà có bắt được mấy cô con gái ấy trong một con hẻm tăm tôi nào đó, thì mấy nàng đó coi như cầm chắc cái chết: Chết trước khi các nàng kịp giở mấy bài đối thoại tiếng Pháp ra thực hành; Chết trước khi họ bàn tán một cách lịch thiệp về thời tiết hoặc hỏi nhau “Trà hay cà phê?”; Nói tóm lại, mấy cô nàng ấy sẽ chết trước khi những thân mình chuẩn mực kia còn chưa kịp ngã xuống lớp đá cuội rải đường. Và rồi những lối hành xử kia liệu có tác dụng gì khi người ta đã chét? Vô dụng. Hoàn toàn vô dụng. “Dừng!” Bà Thủy Quái hết, và vẫn giữ hàng ngũ chỉnh tề, từng đứa con gái một dừng lại đằng sau bà. Tất cả đám con gái, trừ Lily. Lúc này, nó không nhận thấy rằng dây giày của mình đang tuột ra, thế là nó trượt chân, giẫm lên chân của Gemma và ngã. “Ối!” Gemma loạng choạng đổ người về phía trước, bám víu vào Alice để cố giữ mình khỏi ngã, nhưng vô ích, bốn cuốn Những hướng dẫn về phép lịch sự dành cho các quý cô rơi tuột khỏi đầu của cô nàng. “Cẩn thận!” Alice kêu lên, làm rơi bảy cuốn Hướng dẫn của Buttenvick để hành xử tốt hơn xuống đất. Bụp-bụp-bụp-bụp-bụp-bụp… Bụp. Lucretia ngả nghiêng hết bên này sang bên khác, cố giữ chặt chồng sách trên đỉnh đầu nhưng đã quá muộn. Ba cuốn Những nghi lễ đúng đắn để có cơ hội tốt nhất trượt xuống trán và rụng lả tả quanh chân cô nàng. “Sao trò không chú ý chút nào vậy, đồ hậu đậu ngu ngốc!” Bà Thủy Quái la lên. “Trò có điều gì muốn nói không?” Lily rời mắt khỏi đống sách dưới sàn, ngước lên. Bà ấy đang nói với nó à? “Sao cơ ạ?” Nó rụt rè hỏi. Bà Thủy Quái gắt: “Tôi bảo TRÒ CÓ ĐIỀU GÌ MUỐN NÓI KHÔNG? Ôi, thôi khỏi.” Bà bỏ cuốn Hướng dẫn của trường Oxford để có tư thế hoàn hảo xuống khỏi đầu và ném về phía Lily, cuốn sách nặng bay sượt qua tai con bé khi nó thụp xuống tránh. “Trò đang đọc sách. Trò không được phép đọc sách trong lớp tôi…” “Em nghĩ…” “Và cũng không được phép nghĩ.” Bà Thủy Quái khoanh tay trước ngực vẻ giận dữ. Mặt bà lúc này đang chuyển sang màu hồng đất ở sắc độ kinh hoàng nhất, một sắc độ hoàn toàn ăn nhập với bộ váy tím của bà. Hay phải chăng cái coóc xê chật ních của bà gây nên sắc độ ấy? Chuông vang lên và những đứa con gái khác lồm cồm cúi mình trên sàn nhà, nhặt những cuốn sách vừa đánh rơi và gập lại cẩn thận. Rồi họ chồng đống sách lên bàn của Bà Thủy Quái và đứng xếp hàng cạnh tường, chờ tín hiệu cho phép tan học từ bà. “Các trò có thể đi.” Bà Thủy Quái nói, phẩy tay về phía đám học trò, họ rổng rắn kéo nhau ra ngoài, thì thầm gì đó đầy hiểm độc. Lily cũng phủi bụi trên quần áo và đứng dậy chuẩn bị nhập bọn. “Không phải trò, Grantham ạ. Tôi có vài lời muốn nói với trò.” Bà Thủy Quái lạch bạch đi về phía nó. “Tại sao trò lại nghĩ có thể phớt lờ bài học của tôi để đọc mấy thứ vớ vẩn này?” Bà giật mạnh cuốn sách giáo khoa khỏi tay Lily và xem xét cuốn truyện đầy bạo lực giấu giữa những trang sách, bà đặc biệt chú ý đến hình ảnh xác chét đẫm máu có đôi cánh dơi. “Làm thế quái nào mà trò lại có thứ đồ nhảm nhí này?” “Cha con gửi nó cho con trong gói đồ lần trước, thưa cô. Cha con biết con thích những câu chuyện rùng rợn.” “Thật vậy à?” Bà Thủy Quái lạnh lùng nhìn nó. Lily tiếp tục. “Cha con tin rằng người ta cần phải đọc nhiều hơn chứ không chỉ học đi đứng hành xử nếu muốn đạt tới trình độ giáo dục xuất sắc. Cô có nghĩ vậy không ạ?” Bà Thủy Quái xem xét cuốn tạp chí trên tay. “Không.” Bà nói. “Tôi không nghĩ vậy. Ngoài ra, mấy thứ đồ vớ vẩn này không được chấp nhận trong học viện này. Nó không có tính giáo dục chút nào cả.” “Nó dạy chúng ta về cướp biển và không chiến ạ.” “Và đó là điều quý cô trẻ này cần phải biết sao?” Bà Thủy Quái hít một hơi sâu. “Không. Tôi rất tiếc, Grantham, tôi phải tịch thu cuốn truyện này của trò. Và nếu trò còn bất cứ cuốn nào tương tự, tôi khuyên trò nên giao nộp chúng ngay tức khắc.” Lily lắc đầu. “Con không còn cuốn nào loại ấy nữa ạ.” “Vô lý. Trò còn một cuốn kìa.” “Xin thứ lỗi cho con, ở đâu ạ?” “Cuốn trò đang giấu ấy.” Bà Thủy Quái nghển cổ, cố soi xem Lily đang giấu gì sau lung. Lily chuyền cuốn truyện từ tay trái sang tay phải. “Con không biết ý cô là gì.” “Đưa đây cho tôi.” Bà Thủy Quái chìa lòng bàn tay to như cái xẻng ra. “Được rồi.” Líly quắc mắt khi giao nộp cuốn Spring-Heeled Jack và Người bảo vệ áo đen. “Đây. Không khó lắm phải không?” Bà Thủy Quái kẹp cả hai cuốn truyện dưới cái nách ướt đẫm mồ hôi của mình. “Không, thưa cô.” “Tốt.” Bà Thủy Quái trả lại Lily cuốn sách giáo khoa. “Hãy nhớ.” Bà nói và giơ ngón tay lên đưa qua đưa lại. “Nếu trò còn giữ bất cứ thứ kinh dị nào, tôi có thể đảm bảo với trò rằng tôi sẽ tìm ra chúng. Giờ thì đi đi, trò sẽ không muốn đến muộn tiết học sau đâu. Và vuốt áo sống cho phẳng phiu vào, nó đang nhăn nhúm như cái tai voi kìa.” “Vâng, thưa cô. Chúc cô buối chiều tốt lành.” Lily phủi chiếc áo khoác nhăn nheo của mình với những ngón tay lem mực và nhún mình chào Bà Thủy Quái. Nhưng ngay khi bà quay lưng đi về phía bàn giáo viên, nó liền lè lưỡi ra dài hết cỡ. Rồi với tư thế chuẩn mực nhất có thể, nó nhanh chóng đi ra cửa và chạy biến xuống hành lang. * * * Học viện Đào tạo Thiếu nữ Octavia Scrimshaw là một tập hợp của những tòa nhà xây bằng gạch đỏ trông ngả nghiêng như sắp bị gió thổi bay, ngôi trường nằm ở một vùng hoang vu của nước Anh. Ngôi trường này luôn tự hào khi nhắc tới danh tiếng cao sang của mình với huy hiệu trường chễm chệ trên những mặt báo nổi tiếng, nhưng sự thật là, danh tiếng của ngôi trường, cũng giống như những tòa nhà của nó, đang ngày một xuống cấp hết năm này tới năm khác, và giờ đang cần được tu sửa gấp. Cha của Lily đã chọn gửi nó tới trường học sau khi một cơ số gia sư thất bại trong việc dạy dỗ nó. Tiêu chuẩn chính để chọn trường của ông như sau: Trường phải ở thật xa và không ai ở đó tò mò hỏi han điều gì về con bé. Thậm chí ông còn đặt cho con mình một cái họ giả: Grantham - kết hợp giữa chữ G của Grace (họ của mẹ Lily) và Hartman - họ thật của nó. Ông không bao giờ giải thích lý do và cũng chưa từng nói ra mình đang bảo vệ con bé khỏi điều gì, nhưng kể từ khi mẹ Lily qua đời, ông bắt đầu lo lắng thái quá về việc giữ bí mật nơi ở của nó, thậm chí ông còn chuyển hẳn nhà từ London về vùng quê xa xôi hẻo lánh. Lily cho rằng chắc ông sinh ra đã mang bản tính của một người hay lo lắng, dù gì thì ông cứ khăng khăng bắt nó phải sống cuộc đời của một quý cô có học thông thường ở thời Victoria này. Vấn đề là, nó không hề muốn có cuộc sống của một quý cô có giáo dục thông thường, nó chỉ khao khát cuộc sông của một tên không tặc, Lily thầm phản đối khi lẻn lên đến bậc thang trên cùng của khu kí túc xá nữ. Đó là lý do vì sao, sau sự việc rắc rối với Bà Thủy Quái, nó quyết định trốn tiết học giao tiếp tiếng Pháp và đi giấu tiệt chỗ truyện kinh dị còn lại trước khi chúng bị tịch thu, hoặc tệ hơn, bị tiêu hủy, giống như số phận của tất cả những món đồ hơi hơi thú vị hoặc bị coi là trái phép trong học viện này. Cửa khu kí túc xá đang bị khóa, nhưng chẳng sao, nó biết cách xử lý vấn đề này. Con bé lấy một cái kẹp tóc từ búi tóc đỏ của mình xuống, dùng răng kéo thẳng nó ra rồi luồn nó vào lỗ khóa. Sau đó, nó vừa ngoáy cái kẹp tóc vừa lấy tay xoay nắm đấm cửa. Nó đã thực hành mánh lới này nhiều lần rồi, một trò học được từ Jack Door Khét Tiếng - Chuyên gia đào tẩu và Kẻ trộm đại tài, ý là từ cuốn sách chứ không phải từ nhân vật chính của truyện. Mặc dầu vậy nếu có ngày nào đó tình cờ đụng độ ông ta, nó cũng sẽ không lấy làm phiền nếu được trao đổi vài lời về nghệ thuật cạy khóa siêu đẳng với cao thủ này. Nói gì đi nữa, theo phương pháp của Jack, tất cả những gì bạn cần làm là dỏng tai hết mức để nghe được tiếng… Tách! Được rồi đây. Thật khẽ khàng, Lily mở cửa ra và lách vào trong khu kí túc xá, đôi ủng của nó giẫm lên lớp ván sàn làm phát ra tiếng kêu cót két. Lò sưởi nổ lép bép sưởi ấm căn phòng, và Lily nghe thấy giọng mấy đứa con gái khác đang “tụng kinh” mấy động từ tiếng Pháp ở lớp học bên dưới. Mặt trời tháng Mười một nhợt nhạt treo lơ lửng phía trên những tòa nhà đối diện, hắt vài tia nắng hiếm hoi qua mấy ô cửa sổ phủ đầy băng giá để vuốt ve khuôn mặt nó. Lily dừng lại bên giường mình và lôi đống truyện kinh dị từ tủ đựng đồ ở đầu giường ra. Nó vừa định nhét chúng xuống dưới lớp đệm thì nghe thây có tiếng thổn thức nghèn nghẹn yếu ớt. Nó nhìn quanh. Hình như trong phòng không hoàn toàn vắng người như nó nghĩ. Qua lớp vải rèm ngăn cách ở cuối dãy giường, Lily thấy thấp thoáng có bóng của ai đó đang gập người ngồi ở góc tấm đệm. Nó đi tới ngó qua mép rèm và thấy Molly Tarnish, một hầu gái người máy, đang ngồi rấm rứt khóc một mình, đôi vai kim loại rung lên dưới chiếc tạp dề trắng cứng đơ. Xa hon một chút, cánh cửa dẫn tới cầu thang dành cho gia nhân đang khép hờ. Molly ngẩng đầu lên và hít ngược lại giọt nước mắt dầu đang trực trào ra. “Xin lỗi cô, tôi không biết là cô vào phòng. Có lẽ tôi nên đi.” “Ồ, không cần phải vậy.” Lily nói. “Tôi cũng không nên có mặt ở đây vào giờ này mà.” Nó lấy chiếc khăn mùi soa nhếch nhác từ tay áo ra và đưa cho Molly, cô hầu gái nhận lấy và xì mũi một tiếng rõ to như tiếng còi tàu hỏa vậy. “Cảm ơn cô.” Molly lẩm bẩm nói khi đưa trả lại khăn tay cho Lily. “Xin đừng bận tâm.” Lily nhét “cái giẻ” ướt nhẹp, giờ đã bị dính toàn dầu máy, trở lại tay áo. “Nhưng mà có chuyện gì vậy?” Molly lấy ra một mảnh vải màu hồng nhạt từ chồng vải phía sau ra. “Tôi đã cho chúng vào máy giặt cùng với những chiếc áo đồng phục và bây giờ chúng đều bị đổi màu cả. Cô Scrimshaw sẽ giết tôi mất nếu cô ấy biết được. Cô ấy sẽ vứt tôi cho mấy kẻ buôn phế liệu. Hay tệ hơn nữa, cô ấy sẽ tháo tung tôi ra thành từng mảnh và nấu chảy tôi như Elsie già tội nghiệp.” Nói đến đây, Molly lại bật khóc nức nở. Lily vỗ vỗ vào lưng cô hầu gái người máy. “Đừng khóc, Molly. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách mà. Tôi sẽ thay bạn viết một bức thư gửi tới ban giám hiệu được không?” Molly lại nấc nghẹn. “Ôi, xin cô, xin đừng để họ biết, tôi cầu xin cô đấy.” “Chà, thôi được rồi.” Lily nhìn đăm đăm dãy khung giường bằng sắt và ngẫm nghĩ. “Tôi nghĩ ra rồi.” Nó nói. “Sao chúng ta không dùng những tâm vải bị nhuốm màu để trải ở phía dưới, rồi dùng những tấm cũ màu trắng phủ lên trên để giấu đi nhỉ?” Molly sụt sịt nói: “Cô nghĩ làm như vậy có thể được sao?” “Sao lại không được kia chứ.” Lily trả lời. “Nào, ta làm thôi.” Lily giở tâm vải hồng ra và tháo tấm ga phủ trên chiếc giường gần nhất xuống. Molly trân trân nhìn một lúc rồi cũng đứng dậy giúp nó một tay. Làm cùng nhau nên chẳng mấy chốc cả hai đã thay được ga cho gần hết các giường, và khi đã được phủ ga hoàn chỉnh thì chẳng thể nhận ra tấm ga phía dưới bị nhuốm màu khác lạ. Họ gần như đã hoàn thành công việc và đang trải ga nốt cho chiếc đệm cuối ở phòng trên cùng của khu kí túc xá thì một âm thanh vang lên làm cả hai quay phắt lại. Alice Harvey đang đứng ngay ngưỡng cửa cùng với Lucretia Blackwell, mặt chúng nhăn nhở lại thành điệu cười chế nhạo. “Harvey cậu nhìn kìa.” Lucretia nói. “Lily đang giúp một người hầu.” “Hai cậu làm gì ở đây?” Lily hỏi. “Cô Laroux bảo bọn này đi gọi cậu về lớp.” Alice trả lời. “Cả lớp đang thực hành chương 22 trong cuốn Nghệ thuật tạo ra cuộc hội thoại lịch thiệp bằng tiếng Pháp.” “Tôi không đi đâu.” Lily nói. “Tôi không thích môn đấy. Đằng nào thì cậu cũng chẳng biết hội thoại lịch sự là thằng cha nào nếu hắn đánh úp cậu từ phía sau đâu.” “Sao cậu dám!” Lucretia giật lấy tấm ga cuối cùng trên tay Molly và ném nó xuống đất “Nhìn xem mi đã làm gì này, đồ người máy ngu ngốc, mi đã nhuộm nó thành màu hồng rồi!” “Tôi xin lỗi, thưa cô.” Molly lí nhí trả lời. Lily siết bàn tay lại. “Sao các cậu không để bạn ấy được yên chứ?” Nó nói và bước lên trước, che chắn cho Molly khỏi hai đứa con gái kia. “Việc gì đến cậu?” Alice hỏi. “Bạn ấy là bạn của tôi.” “Bạn ấy? BẠN ẤY?” Lucretia đặt tay lên ngực, cười lớn đầy khinh bỉ. “Lily à, nó là đồ vô tri vô giác. Người máy làm gì có sự sống.” “Hơn nữa…” Alice tiếp lời Lucretia. “Ai mà chả biết người máy và con người không thể làm bạn. Người máy không có cảm xúc mà.” Lily thở dài ngao ngán. Đôi co với mấy kẻ dốt nát kiểu này thật mệt mỏi. “Đừng có ngó ngẩn như thế.” Nó nói. “Dĩ nhiên họ có cảm xúc chứ. Họ chẳng khác gì tôi hay các cậu.” Lucretia nguýt nó. “Ôi, Lily ơi, Lily à, cậu hết thuốc chữa rồi. Để tôi chỉ cho cậu nhé.” Con bé vung tay và đập lên đầu Molly. Mắt Molly như nổ đom đóm, nhưng không hề phản ứng lại. “Thấy chưa?” Lucretia nói. “Nó thậm chí còn chẳng suy suyển tí nào.” Molly xoa xoa đầu mình, tạo ra tiếng chà xát cót két. Cô người máy cúi xuống, nhặt tấm ga lên rồi lầm lũi đi về phía cánh cửa dành cho gia nhân. “Xin các cô, các cô đừng cãi nhau vì tôi nữa. Tôi xin lỗi, nhưng tôi phải đi rồi, tôi có việc phải làm.” “Thế thì đi đi, người máy.” Lucretia vỗ vỗ nó. “Đi nhanh lên, trước khi bị ném vào đống phế liệu.” Con bé cười đắc thắng với Alice. Lily chưa bao giờ khao khát muốn đánh ai đó như lúc này, suýt nữa thì nó không kiềm chế được mình. Nhưng rồi nó đã kìm lại được, bởi nó đã hứa với cha là sẽ ngoan, và ngoan có nghĩa là không gây rắc rối. Tuy thế, khi nó nghiến chặt răng và nhìn Molly lập cập đi ra khỏi phòng, cơn giận dữ đang đập từng hồi trong lồng ngực nó lại chực bùng lên. Lucretia cười khẩy một cách ngạo mạn và Alice hùa theo. Cuối cùng, Lily không thể chịu đựng nổi nữa - đây không phải là gây rắc rối mà đúng ra là đứng lên bảo vệ lẽ phải. Bởi vì, những người máy kia xứng đáng được đối xử như tất cả mọi người khác. “Nghe đây, hai kẻ ngốc nghếch điệu đà não phẳng kia!” Con bé nói. “Nếu hai cậu còn nói với Molly kiểu như vậy lần nào nữa, tôi sẽ… sẽ…” “Cậu sẽ làm gì?” Alice chế giễu. “Cậu định đe dọa tôi chắc?” Lily mím chặt môi và nghĩ cách đáp trả đích đáng hơn. Alice thấy vậy thì ngoạc mồm ra cười như ngựa hí. “Thấy chưa, đồ kém cỏi khờ khạo bé bỏng! Cậu sẽ chẳng làm được gì đâu, và đó là sự thật. Chỉ vì cậu là đứa yêu thích những người máy nên cậu nghĩ có thể sai khiến được chúng tôi chắc? Để tôi cho cậu biết, cậu không thể làm thế được đâu. Giờ thì hãy xin lỗi ngay lập tức và chúng tôi sẽ coi như chưa từng hay biết tất cả những chuyện này.” Lily lắc đầu. “Mấy cậu sẽ không đời nào xin lôi Molly nên tôi cũng sẽ không xin lỗi các cậu đâu.” “Là cậu muốn thế đấy nhé.” Alice nhào về phía Lily, nắm lấy tóc nó. Lily cúi xuống tránh nhưng tay của Alice đã sượt qua cổ áo và tóm được búi tóc của nó. Nó cố đẩy Alice ra nhưng Lucretia đã nhảy vào giúp bạn mình, giữ chặt và khóa cứng cánh tay còn lại của nó. Móng tay dài của Alice cào lên da đầu Lily, làm xước cả hai tai của nó. Thật quá đáng, nó phải đánh trả. Nó bèn vung nắm đấm giáng thẳng vào mặt Alice. Rắc! Tiếng khớp ngón tay của nó vang lên khi đánh trúng mục tiêu. * * * “Con đã xin lỗi rồi mà.” Lily phản kháng khi Bà Thủy Quái lôi xềnh xệch cổ áo của nó và kéo lê nó xuống hành lang. “Hơn nữa, chính cậu ấy đánh con trước.” “Vớ vẩn!” Bà Thủy Quái quát. “Bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy da mặt con bé giờ trông đỏ tím như củ dền vậy.” “Mặt cậu ấy lúc nào trông cũng tim tím mà.” “Nói dối giỏi lắm, ranh con.” Họ đi qua cửa chính và Lily nhìn thấy khẩu hiệu của học viện được khắc trên xà ngang làm bằng đá granit: Vincit Omnia Veritas - Sự thật chiến thắng tất cả. Không đúng với trường hợp này rồi, Lily nghĩ thầm khi Bà Thủy Quái đẩy nó bay xuống mấy bậc đá ra ngoài sân trường. Trong sân, các nữ sinh mặc áo khoác dày mùa đông, đội mũ len và choàng khăn len, họ khoác tay nhau tản bộ hoặc ngồi như chim đậu trên những chiếc ghế băng, lưng thẳng đơ như mấy cái bảng sắt. Họ đưa tay đeo găng lên che miệng thì thầm với nhau khi dõi theo Bà Thủy Quái đang đẩy Lily xuống một con đường nhỏ nằm ở phía xa sân trường. Ai nấy đều biết con đường đó dẫn tới đâu - đi qua một dãy nhà kho lụp xụp và một nhà xí với vách gỗ bong tróc xập xệ, qua một bức tường cao có gắn nhiều mảnh chai vỡ, tất cả dẫn đến kho than náu mình ở góc xa sân trường, lối đi vào nhà kho ấy tăm tối như trong miệng quỷ vậy. Người ta đồn rằng kho than này là nơi chôn cất thi thể của những cư dân chống đối trước kia, và khi than được đốt hết, những mảnh xương trắng nhởn sẽ lộ ra từ đám bụi. “Làm ơn, cô McKracken!” Lily van vỉ. “Đừng đưa con vào đó, con sợ bóng tối lắm!” “Bậy nào. Bóng tối không bao giờ làm tổn thương ai hết.” Bà Thủy Quái mở cửa kho than và đẩy Lily vào trong. “Nếu trò cứ một mực muốn cư xử như một kẻ quét ống khói tầm thường thì trò sẽ phải sống như kẻ đó mà thôi. Đừng bao giờ cãi lời người lớn tuối hơn và thông thái hơn trò. Trò sẽ phải ở lại đây cho tới khi nào hiểu được giá trị của những quy tắc hành xử.” Gương mặt tức giận của Bà Thủy Quái cùng với ánh sáng biến mất sau khi bà đóng cánh cửa lại, Lily nghe thấy tiếng lách cách của ổ khóa, và tiếng chân bà huỳnh huỵch rời đi. Còn lại một mình trong kho than lạnh lẽo, tăm tối, nỗi sợ hãi xâm chiếm trái tim Lily. Nó qườ quạng xung quanh, tay chạm vào những cục than lạnh như băng. Cạnh một bức tường ở góc xa, nó tìm thấy một cái ghế đẩu ọp ẹp, nó ngồi lên đó và chiếc ghế chòng chành về phía trước rồi lại về phía sau không ngừng, hẳn là một chân ghế đã bị mục rồi. Nó định đặt chân lên thanh giằng ngang của ghế thì phát hiện thanh này cũng gãy mất rồi. Vậy là nó đành ngồi ôm gối trên mặt ghế. Ép chặt chân vào ngực, nó cảm nhận được hơi ấm, cảm giác dễ chịu êm ái. Có thứ gì đó bò ngang qua cổ chân nó, nó lấy đầu mũi giày của mình xua thứ đó đi. Những tiếng lạo xạo nho nhỏ vang lên trong khoảng không gian xung quanh, nó cố không nghĩ tới tất cả những thứ khủng khiếp có thể gây ra tiếng động ấy. Sâu tai, nhện, chuột lớn, chuột nhắt… Nhưng khi mắt nó đã thích ứng được với bóng tối, nó nhìn thấy thứ còn kinh khủng hơn rất nhiều: Một cánh tay bị tách rời đang chòi ra từ dưới đống than. Chương 2 Malkin đã chạy được một quãng thời gian khá lâu. Thật chú ý để không bị phát hiện, nó chạy thoắt ẩn thoắt hiện theo đường díc dắc giữa các cây. Nó cần phải tăng khoảng cách với hiện trường vụ đâm khí cầu xa nhất có thể. Nó phải tới chỗ Lily và đưa cho cô bé lời nhắn cuối cùng của ông John trước khi cót của nó chạy hết. Mặt trời đã lặn từ lâu và bầu không khí lúc này dày đặc một màn sương xám xịt, hơi sương lạnh lẽo bám thành từng giọt li ti trên bộ lông của nó. Những bụi cây rũ những chiếc lá ẩm ướt vào nó khi nó chạy lướt qua. Và tệ nhất là, động cơ nặng nề của chiếc khí cầu bạc vẫn đều đều phát ra âm thanh bình bịch, ánh đèn của con tàu đang quét khắp khu rừng để tìm kiếm, lùng bắt nó. Nó chạy tới chỗ một cây sồi già và dừng lại dưới tán cây bám đầy dây thường xuân. Đôi mắt đen của con cáo lóe lên trong màn sương mù, ghi nhận những hình ảnh u ám. Ngay trước mặt nó, con đường mòn rải đầy những cành cây gãy và những bụi cây gai góc với những chiếc gai hay bám vào lông đuôi của nó. Nó chun cái mũi lại đầy căm ghét. Có lẽ nó nên quay lại, đi đường khác… Nhưng linh cảm mách bảo nó rằng con người đang bám theo nó, thế là nó vội đi tiếp, bước những bước thật cẩn trọng. Mặt đất khá lầy lội và khi chạy, bùn bắn lên qua những móng vuốt của nó, làm vấy bẩn chiếc túi buộc ở cổ. Nó đã để lại dấu chân, những dấu vết dễ dàng lần theo được, nói đúng hơn là dấu chân đã đánh dấu tuyến đường cho họ lần theo. Nó nguyền rủa thứ đất lầy lội này, thời tiết ẩm ương này, những kẻ săn đuổi, chiếc khí cầu, tất cả mọi thứ. Nó là một cỗ máy hoạt động chính xác chứ không phải được tạo ra để phục vụ cho những cuộc phiêu lưu kiểu này. Điều nhục nhã ở đây là nó đang bị truy đuổi khắp rừng như một con thú ăn xác chết tầm thường. Lại thêm những bụi cây gai nữa, chúng hiện diện ở khắp mọi nơi. Nó tìm thấy một khe hở ở góc một bụi cây và lách mình vào. Đó là một đường hầm chạy phía dưới đám cây rậm rạp khoảng vài feet*, tiếp tục dẫn ra một đường mòn hẹp, trên đường rải đầy phân thú. Nó dừng lại để đánh hơi, thì ra đây là lối đi của một con cáo già, nhưng chắc hẳn con đường đã không được sử dụng một thời gian rồi. Nó chạy tiếp, những bụi cây tháp lại một lần nữa dày đặc xung quanh. Một nhánh cứng cáp của bụi cây mâm xôi chặn ngang lối nó đi. Nó trườn về phía trước, ngó nghiêng xung quanh. Giờ nó đang ở sâu trong rừng, không còn thấy ánh đèn tìm kiếm của khí cầu nữa, và tiếng kêu rền của động cơ khí cầu cũng nhỏ dần. Xa xa, một con cú đang rúc lên tiếng kêu cảnh báo. Đột nhiên, giọng khàn khàn của những kẻ săn đuổi cùng tiếng sủa của con chó khốn khổ của chúng vọng tới gần, vang lên quanh nó. Rồi những chiếc đèn xách tay của chúng hiện ra giữa đám cây cối gần đó, ánh đèn lởn vởn trông như những con đom đóm quá khổ, nháp nháy sáng khi di chuyển qua phía sau những thân cây. Malkin quay lại, liếc nhanh qua vai và đêm xem có bao nhiêu chiếc đèn. Có ba cái tất cả. Nhưng số người sẽ nhiều hơn ba, một người chỉ huy chó săn và những người khác mang theo vũ khí. Họ đổ bộ xuống từ khí cầu giống như một đàn ong. Nó chạy dọc theo rìa một rãnh sâu chứa đầy nước mưa, rồi lại chạy quanh bờ một ao lớn chứa nước cho một chiếc cối xay. Cái bóng sừng sững của chiếc cối xay bị bỏ hoang đang đổ xuống mặt ao ở phía xa. Nó ước có thể quăng mình xuống và bơi ngang qua mặt hồ, nhưng nó biết máy móc và nước là kẻ thù không đội trời chung. Ông John từng cảnh báo nó là chỉ cần trên dưới một lít nước là đủ để khiến lục phủ ngũ tạng của nó gi sét hết. Ngài John. Giờ ngài ấy đã ra đi. Có lẽ ngài ấy đã bị thiêu cháy tới chét, hay tệ hơn là chết cháy trong thân tàu bằng thiếc của chiếc Dragonfly. Ý nghĩ ấy khiến những chiếc răng truyền động bên trong Malkin nôn nao khó tả. Ở phía xa ao nước, nó bò qua một mô đất rải đầy đá cuội, vấp vào một rễ cây và ngã bổ nhào về phía trước, đâm sầm vào một đống lá cây ướt át. Nó phải tập trung. Sau này sẽ còn nhiều thời gian để nghĩ về ngài John. Nó đứng dậy và rũ hết đám lá trên người, kiểm tra lại cái túi nhỏ trên cổ - nhờ ơn thần Máy, cái túi vẫn còn ở đó. Tiếng chó sủa ập tới gần hơn. Tiếng sủa của con chó máy này trầm hơn tiếng của Malkin. Rồi giọng nói cộc cằn của những kẻ truy đuổi bay tới qua khoảng không lạnh lẽo, vọng ra tù phía sau nhũng tảng đá. “Tao nghĩ nó đi đường này. Dương xỉ rạp hết cả xuống đây này.” “Chỗ này cũng thế. Có những dấu vết ở ven mặt nước kìa.” “Tiếp tục tìm đi. Nó ở ngay gần đây thôi.” Malkin thoáng thấy thứ gì đó, một bóng đen ục ịch, với đôi mắt bạc, thứ ấy đang xuyên qua cây cối và hướng về phía nó, và nó nhìn quanh quất để tìm chỗ trốn. Nó đang ở trong một cái hố mà chỉ có vài khúc gỗ trơ trọi xung quanh. Nó phải đi tiếp thôi. Nó bò về phía trước, lẩn qua khoảng đất trống, cố giữ cho bụng áp sát nền đất và cẩn thận kiểm tra xem có nhánh cây nào dễ bị gãy kêu răng rắc do sức nặng của nó đè lên không. Nó ngửi thấy kẻ địch đang tới gần, nghe thấy bước chân của chúng đạp lên lớp đá cuội. Con chó máy ồn ào sủa lên dữ tợn và hung hăng đòi lao về phía trước, nhưng những kẻ truy đuổi đã ghìm nó lại. May là trời lắm sương mù quá, nếu không chúng chắc chắn để con chó đuối theo nó rồi. “Lối này.” “Tao nghĩ là tao nghe thấy tiếng nó.” “Nó chỉ vừa mới rời khỏi đây thôi.” Malkin bò qua một ụ đất, trượt xuống phía sau một hàng cây. Khi lao qua khoảng trống giữa hai bụi cây, nó đánh liều nhìn lại sau lưng mình. Con chó máy chắc hẳn đã thoáng trông thấy cái cổ trắng của Malkin, nó rướn người kéo căng sợi dây xích ở cổ và đổ mình về phía trước, kéo người điều khiển nó chạy theo sau. Malkin tiếp tục cất bước. Qua màn sương, nó nghĩ mình đang cách xa nhóm người kia ít nhất là ba mươi phút hoặc gần như thế. Nó cần phải giữ khoảng cách với chúng. Nó nhảy qua một dòng suối nhỏ và chạy vòng vèo qua một hàng cây thông, cứ để cho đám đầu đất ấy thử tìm và bám theo nó từ đây. Phía trước mặt, khoảng trông giữa những cây thông bắt đầu rộng dần ra, những bãi đất phủ sương xám xịt đã chia cách những thân cây và số lượng cây giảm dần đi. Nó thoáng thấy vài cây thông cuối cùng đơn độc giữa biển dương xỉ diều hâu, mọc trải dài tới sát một hàng rào gỗ ngăn cách với cánh đồng bên cạnh. Nó rón rén ra khỏi khu rừng và len lỏi qua biển dương xỉ ấy cho tới khi đến một lỗ hổng ở hàng rào. Cụp đuôi lại, nó luồn mình xuống dưới thanh giằng ngang của hàng rào rồi bước vào một cánh đổng trống. Ở đây, không khí lạnh hơn, và lớp đất trên mặt bị đóng băng lại, điều ấy có nghĩa nó sẽ không để lại dấu chân nào. Nó vẫn phải cẩn trọng giữa mặt đất trống trải, nhưng lớp sương mù dày đặc đã đủ giúp che giấu nó rồi. Nó tiến về phía trước một cách dè dặt. Cách đó một khoảng, ngay giữa những mảng không khí xám xịt, nó phát hiện ra hình dáng mờ mờ của một bức tường đá và vết hằn đường đi của xe ngựa. Những giọng nói lại một lần nữa vọng tới gần, nhưng cánh đồng không đến nỗi lớn như nó nghĩ lúc đầu và nó thừa sức chạy tới phía bên kia cánh đồng trước khi nhóm người đuối tới. Nó nhanh nhẹn chạy theo đường chéo cắt qua trung tâm của cánh đồng. Đi được nửa đường, ánh đèn của chiếc khí cầu vụt sáng phía trên nó, cột ánh sáng trắng chói lòa như rạch khoảng trời thành hai nửa. Động cơ của chiếc khí cầu xua tan màn sương che phủ và, bất thình lình, nó bị phơi bày ra thật rõ ràng, thân hình nó nổi bật trên khung cảnh xung quanh. Có tiếng súng nổ. Malkin nhìn lại sau lưng. “Dừng lại ngay!” Cái bóng với đôi mắt bạc đang hối hả lao tới từ khu rừng, tay giơ cao khẩu súng trường. Malkin đứng sững lại, đối mặt với kẻ thù. Tim nó đập từng hồi trong lồng ngực. Thời gian như ngừng trôi. Nó nhìn đăm đăm vào đôi mắt như hai chiếc gương trên khuôn mặt tăm tối, cố gắng tìm kiếm chút biểu cảm nào thoáng qua trên đó. Gã đàn ông thở hắt ra. Malkin lùi lại đằng sau, gia tăng khoảng cách một cách từ từ. Hắn thật sự sắp nổ súng sao? Gã đàn ông nheo mắt nhìn vào ống ngắm, nhắm thẳng mục tiêu, đưa ngón tay đặt lên cò súng. Malkin quay đầu và chạy với hy vọng quyết định ngu ngốc này có thể cứu được nó… Đoàng! Một tiếng nổ khô khốc xuyên qua vai nó. Mặt đất dưới chân nó sụt xuống. Nó lăn về phía trước, lộn nhào trên mặt đất phủ băng, quay tròn tới khi dừng lại hẳn ở cuối cánh đổng. Ánh đèn của chiếc khí cầu rọi chiếu trên một khoảng rộng xung quanh nó, soi tỏ những vòng tròn băng trên mặt cỏ. Một dư ảnh ma quái của đôi mắt như cặp gương kia hiện lên mồn một trong tầm nhìn của nó. Nó lắc đầu để xua hình ảnh ấy đi. Chiếc bóng dài của những kẻ săn đuổi đang hối hả đổ về phía nó qua cánh đổng trống trải, ánh đèn chập chờn chiếu sáng phía trước bọn chúng. “Nó gục rồi!” “Tao nghĩ mày đã hạ được nó.” “Tao không nhìn thấy nó đâu hết. Nó biến đi đâu rồi?” Malkin lảo đảo bước, choáng váng và khập khiễng đi về phía bức tường bao. Con chó máy giờ đã được tháo xích cổ, sủa vang và đang đuối theo nó. Những gã đàn ông chạy cùng nổ súng liên tục. Tên xạ thủ có đôi mắt như gương kia tụt lại đằng sau, cố nạp lại đạn cho khẩu súng trường của gã, những kẻ khác không có vũ khí thì khua những chiếc đèn lồng ra hiệu về phía khí cầu. Malkin đã tới được bức tường, nó trèo lên và ngã xuống con đường phía bên kia. Những hòn đá rời ra và văng xuống theo. Nó lảo đảo đứng dậy và chạy tiếp. Cơn đau như xuyên thấu trên vai nó. Nó cọ mõm vào vai để xem có vết thương hở nào không nhưng không thấy gì. Viên đạn có lẽ nằm ở đâu đó sâu bên trong rồi, nhức nhôi như có viên sỏi kẹt ở kẽ chân vậy. Nó nghe thấy tiếng hò hét của những kẻ săn đuổi từ xa, chúng chưa chịu bỏ cuộc. Dù sao nó vẫn còn giữ được chiếc túi này, không thể để chúng lấy đi được. Lối mòn chia thành hai ngả, và Malkin chọn ngẫu nhiên con đường ở bên trái. Nó chạy chậm lại, tập tễnh bước tiếp, tìm kiếm một nhà kho nào đó để náu mình nhưng chẳng thầy. Nó đang dần cạn sức. Chẳng mấy chốc nữa thôi, dây cót sẽ chạy hết và nếu trường hợp ấy xảy ra ở nơi đồng không mông quạnh này, chúng chắc chắn sẽ tóm được nó. Đột nhiên, ở góc rẽ kế tiếp, có một căn nhà tranh xuất hiện. Phía xa, đằng sau ngôi nhà ấy còn nhiều ngôi nhà khác nữa nằm rải rác nhìn như những chấm nhỏ. Brackenbridge - nó gần tới nơi rồi. Giá mà nó có thể đến được phía bên kia ngôi làng một cách an toàn… Nó kiểm tra lại chiếc túi nhỏ chứa lá thư của ông John lần cuối và thở phào vì lá thư vẫn yên vị ở đó. Nó đã hứa sẽ đưa thư cho Lily, vì trong đó ẩn chứa những bí mật lớn lao. Những lời cuối cùng của người cha nhắn nhủ cho đứa con gái là thứ mà bất cứ ai cũng sẽ giúp trao gửi, bằng bất kể giá nào. Và giờ chủ nhân của nó đã mất, Malkin quyết tâm không để mình được phép thất bại. Chương 3 Robert Townsend thức dậy trước khi chuông báo thức vang lên và nằm nghe ngóng trong bóng tối. Có thứ gì đó đã làm phiền giấc ngủ của cậu - một tiếng động phía bên ngoài. Một tiếng nổ ở xa nhưng nghe thấy rất rõ. Cậu liếc nhìn kim chỉ giờ trên chiếc đồng hồ đầu giường. Sáu giờ hai mươi phút. Đoàng. Đoàng. Đoàng. Lại nữa. Cái quái gì vậy nhỉ? Robert nhảy khỏi giường và bước qua những tấm ván lạnh lẽo để đến bên cửa sổ. Kéo rèm ra, cậu lấy tay áo ngủ của mình lau đi vết sương phủ mờ kính và chăm chú quan sát bên ngoài. Ngôi làng vẫn vắng lặng. Cậu quét ánh mắt sang vùng bên cạnh, tìm kiếm nguồn phát ra âm thanh ấy. Ở đằng xa, phía sau những rặng cây, một luồng ánh sáng rọi xuyên qua màn sương và đang càn quét khắp cánh đồng - là ánh đèn hồ quang của một chiếc khí cầu. Nhìn dáng vẻ thì đây là một chiếc khí cầu loại lớn, và là một vật thể bất thường xuất hiện trong thời điểm sáng sớm này. Robert thuộc nằm lòng tất cả lịch trình bay. Bất cứ khi nào không phải làm việc, cậu đều thích tới chơi ở ga hàng không địa phương, nhà ga này chỉ chuyên phục vụ nhu cầu đi lại cho Brackenbridge và những vùng lân cận. Cậu có thể nhận ra những khí cầu nào đang bay vào không lộ, cậu có thể nhìn ngắm những anh chàng phi công đội trên đầu mũ bảo hiểm da gắn kính, mang theo mình các hộp dụng cụ, cả những hành khách khoác lên người bộ cánh du lịch bảnh bao nối đuôi nhau lên khí cầu. Cậu đã có lời thề rằng một ngày nào đó, cậu cũng sẽ lên khí cầu cùng họ, nếu khi ấy cậu có thể vượt qua nỗi sợ độ cao của mình. Chiếc khí cầu này mang cho cậu cảm giác lạ lẫm. Từ kích cỡ và đường bay của nó, Robert cảm thấy đó không phải là một chuyến bay theo lịch trình. Khi sương mù tan đi, để lộ ra phần còn lại của cỗ máy ấy, cậu biết rằng mình đã linh cảm đúng. Cậu không thể nhìn được tên con tàu hay nhãn hiệu nào trên đó, nhưng con tàu có dáng vẻ của một mẫu khí cầu quân sự. Bầu khí màu bạc có khả năng phản chiếu ánh sáng của nó trông như đang đắm mình trong ánh trăng, khẩu súng phóng lao nhô ra từ một cửa sập trên thân tàu, và đằng trước giỏ khí cầu phủ kín những gai kim loại. Đột nhiên, ánh đèn tìm kiếm của chiếc khí cầu tắt ngấm và nó bắt đầu chuyển hướng, bay lên cao hơn, lẩn vào những đám mây. Một tràng tiếng nổ nho nhỏ đặc trưng của súng trường vang lên ở cánh đồng bên cạnh, Robert quan sát thấy có ba ánh đèn đang sục sạo từ hướng khu rừng và dần lấp loáng xuôi xuống phía sườn đồi. Những người đó tập trung lại ở thung lũng và đi dọc theo con đường mòn về phía ngôi làng. Có điều gì đó đang xảy ra và cậu cần phải biết đó là gì. Cậu với tay lấy chiếc quần đang treo ở cuối giường, xỏ chân vào và đeo vội dây đeo quần ra bên ngoài chiếc áo ngủ. Khi đang loay hoay mặc áo khoác ấm, cậu nhìn ra ngoài cửa sổ lần cuối. May mà cậu đã làm như vậy, nếu không cậu đã chẳng nhìn thấy con cáo. Con cáo đang lảo đảo đi dọc theo con đường nhỏ, vừa đi nó vừa nhìn về phía sau một cách căng thẳng. Khi tới thảm cỏ, nó dừng lại và lắc lư người, mắt liếc nhìn xung quanh, và đôi mắt nó hướng về phía dãy cửa hàng ngay bên dưới cửa sổ phòng Robert. Cậu có cảm giác lạ lùng nhất từ trước tới giờ, đó là con cáo đang đọc biển hiệu cửa hàng của ba cậu, nhưng điều đó là không thể, đúng không? Con cáo gật đầu với chính mình và khập khiễng bước tiếp. Nó đi ngang qua nhà thờ và nghĩa trang có tường bao bên cạnh bãi cỏ của làng, rồi nó trượt chân ngã vào hẻm Pincher, đó là một ngõ nhỏ có nhiều bụi rậm, chạy phía sau dãy nhà của những công nhân làm việc ở ga hàng không. Robert chờ đợi bóng dáng loạng choạng của con cáo hiện ra ở cánh đồng trông phía xa cuối con hẻm, nhưng nó đã không xuất hiện. Có lẽ nó đã trốn đâu đó trong con hẻm rồi, ở sân sau của một ngôi nhà nào đó chẳng hạn. Robert quyết định đi tìm nó. Cậu xỏ bừa chân vào tất và giày rồi đi lấy nến đặt ở cạnh giường mang theo, sau đó cậu mở cửa và bước dọc hành lang, cố gắng đi thật khẽ để không đánh thức ba ở phòng bên cạnh. Xuống đến chân cầu thang, cậu vén tấm rèm rách tả tơi ra và bước vào cửa hàng. Mùi quen thuộc của nước đánh bóng đổ nội thất làm bằng sáp ong và tiếng tích tắc đều đều của những chiếc đồng hồ khiến bước chân cậu chậm lại lúc đi qua căn phòng. Hình dạng và âm thanh của từng chiếc đồng hồ in sâu vào tâm trí cậu quá đỗi, nên cậu luôn cảm thấy chúng thân thiết chẳng khác nào những người bạn lâu năm. Vào những đêm khó ngủ, cậu thường đi xuống ngắm đồng hồ và lắng nghe tiếng tích tắc của chúng. Nhưng hôm nay là ngoại lệ. Cậu với tay lên để ngăn chuông cửa rung rồi mở cửa và bước ra ngoài phố. Làn sương mù xám xịt ảm đạm bao trùm không gian, cùng với nó là sự im ắng êm dịu của buối sáng sớm. Ở đằng xa, một con chó đang sủa vang bên kia cánh đồng. Cậu có cảm tưởng như mình là người duy nhất sống trên thế giới này. Đầu tiên, cậu đi tới nơi mà vừa nãy con cáo đã đứng lại và nhìn về phía cửa hàng. Ở đó, trên nền đất lạnh giá, giữa những đám cỏ, cậu tìm thấy một bánh răng nhỏ xíu. Chiếc bánh răng này giống loại cậu vẫn thường thấy ở những chiếc đồng hồ treo xe ngựa mà ba hay cho cậu sửa chữa, chỉ có điều chiếc này bị biến dạng và phủ đầy dầu máy, sờ vào nhớt như máu đặc vậy. Robert biết điều này có nghĩa con cáo là một cỗ máy vận hành kiểu lên dây cót. Cậu lau chiếc bánh răng vào quần mình và đút vào túi, sau đó bắt đầu đi về phía bên kia làng theo tuyến đường con cáo máy đã đi. Cậu đi qua nhà thờ và đang định đi về phía sau dãy nhà của công nhân ga hàng không theo lối con hẻm Pincher thì chợt nghe thầy tiếng nhiều bước chân vang lên từ ngõ nhỏ sau lung. Cậu quay lại và nhìn thấy một con chó lớn có dây xích cổ, đây là giống chó hiếm, trông như giống chó chăn cừu Đức nhưng lại to lớn hơn. Khi con chó đến gần hơn, Robert nhìn thấy da nó phủ một lớp đinh tán. Thì ra là một con chó máy. Theo sau nó là bổn người đàn ông mặc áo choàng dài, trên tay họ cầm những khẩu súng trường và đèn xách tay, giống những chiếc đèn mà Robert nhìn thấy từ cửa sổ lúc nãy. Robert tránh qua một bên nhường đường nhưng họ lại vây quanh cậu và cho con chó máy đánh hơi người cậu. Khi ngửi thấy mùi dầu từ túi quần ở đùi Robert, nó phát ra tiếng gầm gừ lớn. “Yên nào!” Một gã đàn ông trong bọn ra lệnh cho con chó. “Mày có nhìn thấy thứ gì đi ngang qua đây không?” Một gã khác hỏi Robert. “Có thấy gì đó bất thường không?” Gã thứ ba chêm vào. Gã đàn ông thứ tư thì không hề hé răng nói gì, hắn chỉ trừng mắt đứng nhìn. Robert quyết định không trả lời câu hỏi của đám người kia. Cậu không ưa vẻ ngoài của họ. Một gã to lớn với bộ râu màu hung đỏ đi tới, tay cầm một khẩu súng trường. Thân mình hắn rất thô kệch, nhìn như chiếc túi đựng đá vậy. Hắn sẽ trông giống hệt một cái máy nghiền đá nêu không có chiếc mũ sắt của cảnh sát, đè lên cái cổ áo dựng đứng của hắn là đôi má đỏ lựng lên như chiếc xúc xích bằng máu căng phồng. Nhưng điều khiên Robert nuốt nước bọt sợ hãi chính là đôi gương màu bạc gắn vào hốc mắt của gã đàn ông. Từ đôi gương ấy có những vết sẹo dài chạy chéo xuống má của hắn và chạy lên tận phần phía trên khuôn mặt bị che lấp bởi vành mũ. “Mày là ai?” Gã đàn ông hỏi, hắn chúi cái mũi có tĩnh mạch nổi gồ lên của mình xuống cho tới khi khuôn mặt của Robert hiện ra và phản chiếu vào con mắt như tâm gương của hắn. Những lời Robert muốn nói cạn khô trong cổ họng cậu. Cậu hít một hơi thật sâu. “Cháu sống ở đây, thưa ngài.” Cuối cùng cậu cũng xoay xở nặn ra được mấy từ. “Mấy anh bạn này của tao đã hỏi mày có thấy gì bất thường đi ngang đây không.” Gã đàn ông với bộ râu màu hung đỏ gãi gãi hốc mắt của hắn, sát gần con mắt như tấm gương bên phải. “Như là cái gì cơ ạ?” Robert hỏi, giọng của cậu nghe như tiếng thì thầm bị nghẹn lại. “Một con cáo.” Gã đàn ông mím đôi môi mỏng của hắn thật chặt. Trông như thể hắn đang định tiết lộ điều gì đó nữa, nhưng rồi hắn quyết định bỏ qua. “Thôi bỏ đi.” Hắn chọc ngón tay to bè vào Robert. “Biến về nhà mày đi.” “Cháu có nhìn thấy con cáo của các ngài chạy đường kia.” Robert đột ngột nói và chỉ về phía cuối con phố dẫn ra khỏi thị trân. “Mày chắc chứ?” Đôi mắt gương của gã đàn ông không để lộ ra điều gì nhưng có vẻ hắn chưa bị thuyết phục. Hắn liếc xuống con chó đang hung hăng kéo căng sợi dây xích về phía con hẻm nhỏ. “Vâng.” Robert trả lời. “Cháu nhìn thấy nó từ cửa sổ nhà mình.” “Cửa sổ nào?” “Một cái cửa sổ ở đằng kia ạ.” Cậu chỉ về hướng dãy cửa hàng phía bên kia làng, cố tình chỉ kiểu mơ hồ chung chung, phòng khi đám người này muốn quay trở lại. Gã đàn ông có bộ râu màu hung đỏ gật đầu. “Cảm ơn oắt con. Bọn tao đi đây, mày cũng nên về đi. Một thằng nhãi như mày không nên ra ngoài vào buối sáng tháng Mười một lạnh như thế này khi mà bên ngoài đầy rẫy nguy hiểm.” Hắn quay đi, những kẻ khác và con chó cũng đi theo. Robert chầm chậm đi về hướng nhà mình, vừa đi vừa quan sát đám người kia để đảm bảo họ đi đúng đường cậu chỉ. Họ nhanh chóng đi hết ngôi làng, nhưng khi tới ngôi nhà cuối cùng phía bên trái, họ dừng lại, vẻ bối rối. Con chó dường như đã bị mất dấu đối tượng, và nó đang đi lòng vòng xung quanh không định hướng, cố gắng hít ngửi tìm kiếm. Trong một thoáng, dường như họ định quay lại, nhưng rồi con chó máy kia lại kéo họ đi tiếp. Khi họ đi qua hàng rào cuối cùng của ngôi làng, một chiếc xe chạy bằng hơi nước xuất hiện ở rìa khu rừng, khói tỏa ra từ ống khói của xe. Gã đàn ông râu màu hung đỏ chỉ tay về phía chiếc xe ra hiệu, và cả nhóm tách ra, bốn gã đàn ông còn lại hối hả đi tiếp cùng con chó, còn hắn thì đi bộ ngược trở lại thị trấn. Robert quyết định náu đi, cậu sẽ tìm con cáo sau khi gã kia đi khỏi. Ngoài ra, cậu còn cả đồng việc linh tinh phải làm trước giờ mở cửa hàng. Tốt hơn là nên tùy cơ ứng biến. Khi cậu về tới nơi, ánh ban mai đã chiếu sáng mặt tiền cửa hiệu đồng hồ, xua tan làn hơi sương còn sót lại và khiến những chiếc đồng hồ phía sau cửa kính sáng lên lấp lánh. * * * Gia đình Robert sở hữu Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend từ năm đời nay. Mặt tiền đơn điệu và bảng hiệu kiểu cổ của cửa hàng chẳng có chút liên quan nào đến sự tôn nghiêm của thánh điện thời gian bên trong nó cả. Những chiếc đồng hồ treo xe ngựa, đồng hồ quả lắc, đồng hồ cúc cu, những chiếc phong vũ biểu lấp kín đến từng centimet trên bức tường, và ở phía sau là một cái đồng hồ cụ cố với quả lắc bằng vàng, chiếc đồng hồ ấy đã từng thuộc về ông nội của Robert. Ở chính giữa phía trước là một quầy gỗ với ngăn kéo nặng màu bạc. Robert dành phần lớn thời gian trong ngày của mình ở phía sau quầy này. Cứ khi nào mặt trời chiếu sáng, giống như sáng nay, những chiếc đồng hồ mặt kính sẽ phản chiếu vô số họa tiết ánh sáng kỳ ảo lên khắp các bức tường. Và ngày ngày, bất kể thời tiết mưa nắng thất thường ra sao, chúng luôn lấp đầy cửa hàng với những tiếng tích tắc, tích tắc. Âm sắc đa dạng của chúng tạo nên một bản hòa tấu độc đáo trong không gian cửa hàng. Ba của Robert, ông Thaddeus Townsend, sẽ đi vào cửa hàng vào đúng lúc này khi cậu đang làm việc. Ông là một người thấp bé với đường nét khuôn mặt hài hòa tinh tế, đôi mắt xanh biếc như nước trông to lớn hơn bình thường bởi đôi mắt kính phóng đại mà ông đeo khi điều chỉnh đồng hồ. Mọi người tìm đến ông Thaddeus để nhờ ông sửa chữa tất tần tật những thứ linh tinh, không chỉ đồng hồ đeo tay hay đồng hồ treo tường, mà còn cả những thiết bị khác nữa. Nào là những chiếc phong vũ biểu, đồng hồ bấm giờ, hộp phát nhạc, thậm chí đôi lúc có cả những loại máy móc đơn giản, ông Thaddeus sẽ tháo rời chúng ra và dốc tâm dốc sức sửa chữa chúng. Nếu có một cỗ máy nào đó khiến ông mê mẩn, thường ông sẽ chỉ lấy tiền công bằng với chi phí mà thôi. Trên cương vị một người thợ máy lành nghề, một thợ điêu khắc và một bàn tay lão luyện trong việc xử lý những chi tiết nhỏ bé, ông luôn say sưa kể với mọi người rằng công việc này cũng đầy tính nghệ thuật, chẳng thua kém gì nếu so với việc làm ra những tác phẩm điêu khắc và hội họa tuyệt đẹp. Khách hàng quý mến ông bởi ông là người tận tâm. Họ tìm đến ông từ khắp mọi nơi trên đất nước này, hưởng lợi từ những năng lực của ông và chẳng bao giờ phải trả công xứng đáng với giá trị của sức lao động. Ba của Robert có quá nhiều tài năng, cậu ước gì ông có thể đóng cửa hàng và chuyển gia đình tới một nơi nào đó, nơi người ta trả giá tương xứng cho công việc của họ. Hoặc, cậu sẽ sướng phát điên nếu được làm công việc sửa chữa những động cơ ở ga hàng không, hoặc phục hồi những con thú máy. Vậy nhưng, ông Thaddeus lại thích cuộc sống bình lặng ở Cửa hiệu Đổng hồ của nhà Townsend. Mọi sự đều đã định sẵn, Robert cảm thấy mình được sinh ra để mãi mãi là người thợ đồng hồ học việc, đó là điều đáng xẩu hổ, bởi vì đơn giản là cậu không giỏi làm công việc này. Một thằng đại ngốc - đồng ý cả hai chân hai tay luôn - đó là những gì cậu nghĩ về bản thân mình. Giờ cậu đã mười ba tuối rồi, và dù cho có cố gắng làm việc chăm chỉ thế nào chăng nữa, cậu vẫn không bao giờ có được sự tinh tế cần thiết mà công việc sửa chữa những cỗ máy nhỏ xinh này đòi hỏi, hoặc không đủ sự tinh tế cần có trong việc xử sự với khách hàng, thực tế là như vậy. Thực ra không phải lúc nào cậu cũng như vậy. Khi còn bé, cậu từng là một học sinh hăng hái, lanh lợi và xông xáo, luôn luôn ham học hỏi mọi điều. Nhưng vài năm trở lại đây, cậu nhận thấy càng lớn mình càng hậu đậu vụng về. Cậu liên tục để dụng cụ nhầm chỗ, hoặc làm rơi những chiếc răng truyền động chính xuống mấy khe nứt trên sàn nhà. Buối sáng hôm nay, chỉ một tiếng sau khi trải nghiệm tất cả những phấn khích với mấy gã đàn ông và con cáo, cậu đã làm hỏng một cái đồng hồ treo xe ngựa quý giá. Cậu lên dây hơi quá tay khi đang ngẩn ngơ mơ mộng về con thú máy và chiếc khí cầu, và khi nhìn xuống cậu thấy răng đồng hồ đã đi chệch vào cơ cấu tang trống mất rồi. “Ba nói với con bao nhiêu lần rồi hả?” Ông Thaddeus bảo (Robert đêm được đây là lần thứ một trăm mười ba ông nói câu này). “Bảy vòng rưỡi, một lần lên dây cót là bảy vòng rưỡi cơ mà.” Ba cậu chưa bao giờ nổi cáu, nhưng lần này thì có. “Giờ ba sẽ phải tháo tung cái tang trống ra để kiểm tra nó chi tiết. Chỉ riêng mấy bộ phận mua mới thôi cũng tốn kém hơn cả phí sửa chữa.” “Con xin lỗi.” Robert lẩm bẩm. “Chắc con đã đếm nhầm.” Ông Thaddeus bỏ kính ra và lấy tay véo sống mũi. “Trên đời này có rất ít thứ mong manh giống như đồng hồ, Robert ạ. Hãy học cách cẩn thận hơn đi.” Robert thở dài, và ông Thaddeus nhún vai. “Không sao đâu, kiểu gì ba cũng sẽ biến con trở thành một thợ đồng hồ giỏi thôi mà. Nhưng có lẽ hôm nay con nên làm việc đằng sau quầy một lúc, cho tới khi tự tin trở lại.” Robert làm theo những gì ba bảo, nhưng một lúc của cậu biến thành những hai tiếng, rồi gần ba tiếng, và trong suốt quãng thời gian ấy, con cáo, chiếc khí cầu cùng gã đàn ông có bộ râu màu hung đỏ với đôi mắt nhu chiếc gương kia cứ xoay vần trong tâm trí cậu chẳng khác nào chiếc đồng hồ đang chạy. Cuối cùng, sau giờ làm, khi đã có được những giây phút dành cho riêng mình, Robert mặc chiếc áo choàng dày lên, đội mũ và quàng khăn, sau đó bắt đầu đi khắp làng. Cậu đi qua khu nghĩa địa có tường bao, nhà thờ và dãy nhà ở ga hàng không nằm trên con đường rải sỏi, rồi mới đi tới hẻm Pincher một lần nữa. Chẳng cần nghĩ đến lần thứ hai, cậu đi tắt xuống dọc con đường mòn đầy bụi rậm. Các ô cửa sổ phía sau của những ngôi nhà vẫn tối thui, Robert liếc nhìn theo dãy tường sau cao vút, tìm kiếm một nơi mà cậu cho rằng một con cáo đang bị thương có thể lẩn trốn. Đi được nửa đường, cậu để ý thấy có một cái cổng khép hờ. Sau cổng này có căn lều làm bằng gỗ cũ kĩ, nóc lều thò ra ngoài tường. Trong đó có khi là nơi trú ẩn của một con cáo đang hoảng sợ. Robert bước qua cánh cổng, đi qua sân, vượt qua một đông nông cụ gỉ ngoèn để tới được căn lều. Khóa cửa đã bị hỏng. Chỉ vừa mới đây thôi, nhìn mà xem, then khóa treo lỏng lẻo bởi một vài cái vít và phần gỗ phía tên tay nắm đã bị gặm với dấu răng để lại còn mới. Robert mở cửa ra và cẩn thận che miệng lại để tránh bụi khi bước vào bên trong. Những thứ lặt vặt làm từ gỗ dựng sát tường che đi lớp sơn tường bong tróc. Hàng chồng giấy báo lấp đầy những hàng kệ, và sàn nhà thì toàn những hộp đựng đổ nằm lăn lóc khắp nơi. Trên cái bàn cũ đặt ở giữa phòng, chai lọ xếp thành từng cụm, và ở bên trên, mạng nhện ken dày đặc trông như những cái võng ở đỉnh trần nhà tăm tối. Robert nhìn quanh để tìm con cáo và thấy cái đuôi xơ xác của nó thò ra từ phía sau một hộp đựng than. Robert bước vòng quanh một thân nổi hơi đã cũ và nhìn thấy phần còn lại của con thú máy, nó đang nằm cuộn mình trên một góc tấm thảm ố loang lổ. Đó là một con thú trông bẩn thỉu với đôi mắt bằng kính và bộ lông tả tơi như thể đang rụng từng mảng. Có một cái túi và một chiếc chìa khóa độc đáo dùng để lên dây cót đeo trên cổ nó. Robert bước về phía con cáo, nhưng nó chẳng mảy may động đậy. Nó vẫn nằm bất động. Con thú máy chưa được lên dây cót. Chương 4 Kho than lạnh cóng. Lily chà xát hai cánh tay nổi đầy da gà của nó. Dần dần, khi mắt đã điều tiết tốt hơn, nó bắt đầu nhìn mọi thứ rõ ràng hơn. Không gian trong kho than không còn là một màu đen sì như hắc ín nữa. Thực ra, có một ít ánh sáng lờ mờ rọi vào qua lỗ thủng được che bởi lưới phía trên trần nhà. Cánh tay thò ra từ đống than phát ra một thứ ánh sáng nhàn nhạt. Đó không phải tay người như Lily nghĩ ban đầu, mà là tay của một người máy cũ hỏng. Chắc là của một người máy giúp việc tội nghiệp nào đó đã bị tháo rời ra. Thật khủng khiếp làm sao! Dẫu sao thì cảnh tượng này cũng gửi tới nó một thông điệp: Dù cuộc sống của bạn có tồi tệ đến đâu chăng nữa thì vẫn còn tốt hơn cuộc sống của người máy. Lily nhìn chằm chằm vào dấu tay bám đầy bụi trên một bức tường bê tông bên cạnh nó, bằng chứng về những tù nhân trước đây bị nhốt trong kho than này - tất cả đều là những kẻ vô pháp vô thiên! Nó chưa bao giờ hòa nhập được với ngôi trường đáng ghét này. Bất kể khi nào nó làm điều gì đó hay ho là lại bị trừng phạt. Thú thực là đấm Alice có phần hơi thái quá, mấy đứa con gái kia chắc đang lên kế hoạch trả thù nó rồi. Nhưng giờ nó không phải lo lắng về điều đó, nó chỉ cần chịu đựng thêm vài tuần nữa, và sau đó, cuối học kỳ này, cha sẽ tới đón nó về. Thời gian trôi qua, ánh sáng tắt dần. Lily tưởng như có tiếng bước chân lạo xạo đang tới gần. Có ánh sáng vàng le lói xuyên qua những khe cửa, và khi nghe thấy tiếng chìa khóa lách cách, nó liền nhác cằm khỏi đầu gối. Cánh cửa mở ra kẽo kẹt, nhưng người xuất hiện không phải là Bà Thủy Quái như nó tưởng mà là Gemma Ruddle, một trong những đứa bạn phiền phức học cùng lớp, con bé đang cầm cây nến làm từ mỡ động vật. Lily che mắt cho đỡ chói và nhìn chòng chọc vào Gemma, lúc này đang cười khúc khích vẻ ngượng ngùng. “Sao nào, Lily, trông cậu bẩn thỉu như cái giẻ lau ấy.” “Tôi không bị phạt nữa à?” Lily hỏi. Giọng lạnh lùng và nghiêm túc, nó không có tâm trạng để đùa giỡn. “Cái đấy tôi không biết.” Gemma nói. “Tất cả những gì tôi biết là cô Scrimshaw muốn cậu có mặt trong phòng của cô ấy ngay bây giờ. Tôi đến để đưa cậu đi.” “Tôi tự hỏi không biết cô ấy muốn gì?” Gemma cười điệu đàng. “Trời ạ, tôi biết sao được. Cậu có muốn tôi quay lại hỏi cô ấy không?” Rồi không thèm chờ Lily trả lời, con bé ngúng nguẩy quay lại lối đi hẹp hướng về phía trường. Lily lật đật đi qua cánh cửa, lòng băn khoăn về cái tin mới đáng lo ngại này khi đi theo ánh sáng và mùi mỡ heo cháy khét lẹt của cây nến phảng phát phía sau Gemma. Hai đứa bước lên những bậc cầu thang ở lối vào và đi vào hành lang chính của trường, tới đây, Gemma thổi tắt nên vì không gian bên trong đã được thắp sáng bởi những chiếc đèn dầu gắn tường. Khi đi qua phía dưới một chiếc đèn, Lily nhận thấy tay nó nhem nhuốc toàn bụi than, nó nhìn quanh tìm một rèm cửa hay mây cái nệm ghế thứ phẩm để chùi tay vào, vậy nhưng chẳng có gì và Gemma vẫn tiếp tục bước. Cuối cùng, nó quyết định giấu tay dưới lớp áo khoác, hy vọng rằng cô Scrimshaw sẽ không soi mới vẻ ngoài của nó quá kĩ, điều mà cô hiệu trưởng có cặp mắt cú vọ này thường hay làm. “Đến nơi rồi.” Gemma dẫn Lily tới cái ghế dài bên ngoài phòng làm việc của cô Scrimshaw. “Cậu đợi ở đây cho tới khi cô gọi.” Con bé nói vẻ rất đạo đức, và trước khi Lily kịp phản ứng, nó đã chuồn đi với nụ cười điệu đà. Lily đang định ngồi xuống thì nó thấy đế đôi giày của mình đã để lại vết bẩn trên thảm trải sảnh. Nó vội lấy mũi chân phủi vết bẩn đi, sau đó ngồi xuống và chờ đợi. Đã mười lăm phút trôi qua mà vẫn chẳng có động tĩnh gì từ trong phòng. Làm gì mà lâu thế không biết? Họ đang cố nặn ra hình thức trừng phạt kinh khủng mới nào ư? Một ý nghĩ chợt nảy ra khiến nó lạnh gáy: Khéo mà bọn họ đang lên kế hoạch ám sát nó, rồi đem bán lục phủ ngũ tạng cho mấy kẻ buôn người - y như mấy nhân vật phản diện trong những cuốn truyện kinh dị mà nó đọc. Hay có lẽ họ đang định tạo ra một thảm cảnh dành cho nó còn tồi tệ hơn cả cái chết? Có lẽ cuối cùng nó sắp bị đuối học rồi cũng nên. Nó mò tới phía cánh cửa và áp tai vào, cố nghe ngóng xem bên trong đang nói những gì. Thật khó để làm được điều này, vì cánh cửa làm bằng tấm gỗ sồi dày có thể bít hết âm thanh trong phòng. “Đây đúng là một vụ việc tồi tệ, tôi phải đồng ý như vậy.” Cô Scrimshaw nói. “Nhưng nói thật, tôi sẽ rất vui nếu chúng ta để con bé đó đi, nó khá khó bảo.” “Nó khó bảo ngay từ khi tới học trường này.” Bà Thủy Quái trả lời. Và rồi Lily nghe thấy một giọng phụ nữ khác vang lên, giọng ngân nga với âm sắc ngoại quốc mà nó chưa xác định được là từ nước nào. “Con bé luôn là một đứa trẻ vô kỷ luật.” Giọng nói vang lên. “Vài người có thể cho rằng đó là điều dễ hiểu nếu xét tới quá khứ của nó. Con bé đã bị che giấu và buộc phải nói dối về tên của mình, các vị biết rồi đấy. Dĩ nhiên, đó là thể theo tâm nguyện của Giáo sư Hartman. Bản thân tôi cũng không dám chắc, luôn có những lý do kiểu như vậy, n’est-ce pas*? Nó rõ rành rành là sẽ càng ngày càng hư, maintenant* lại có cái biến cố mới này. Thế nên tôi nghĩ tốt nhất ta hãy tống cổ nó ra khỏi trường cho đến khi mọi thứ ổn định trở lại.” Cái quái gì vậy? Biến cố gì thế? Bà ta là ai mà lại biết tên thật của nó? Lily áp tai chặt hơn vào cánh cửa gỗ, nhưng giọng nói lại chìm xuống. Nó cần phải nghe thêm mới được, giá mà có một miếng kính hay thứ gì đó để cạy cánh cửa. Nó lùi lại một bước và liếc nhìn xung quanh hành lang, phát hiện ra cái bình đựng đầy hoa héo rũ đặt trên chiếc bàn kê sát tường. Thứ này chắc dùng được đây. Nó nhấc hoa ra để trên bàn và đang định ướm cái vành lọ vào cửa thì, đúng lúc ấy, cánh cửa bật mở và Bà Thủy Quái xuất hiện. Đôi mắt lồi của bà nhận thấy điều Lily đang định làm. Nhưng thay vì quở trách, bà chỉ đơn giản lấy lọ hoa từ tay nó và nở nụ cười thân ái cụt ngủn nhất, dẫn nó vào phòng hiệu trưởng và đóng cửa lại sau lưng nó. Cô Crimshaw đang ngồi ở chiếc bàn làm bằng gỗ dái ngựa của mình, chăm chú đọc một lá thư. Tóc của cô được tỉa tót thành hình cái chuông kiểu truyền thông và cô mặc một chiếc váy dài màu đen với cổ áo thắt nơ màu xanh dương đậm. Cô liếc nhìn Lily vẻ căng thẳng trước khi phóng tầm mắt ra chỗ khác. “Trò Grantham - hay tôi nên gọi là trò Hartman mới phải nhỉ. Cảm ơn trò đã tới. Vui lòng ngồi xuống.” Lily bước qua căn phòng rộng thênh thang, tiến về phía hai chiếc ghế với lưng ghế dựng cao đặt đối diện với bàn của cô hiệu trưởng. Một phụ nữ mặc váy dài màu đen xòe rộng lùng thùng đang chiếm chỗ trên một chiếc ghế, đôi tay xương xẩu của bà ta túm chặt lấy vạt váy. Dẫu gương mặt bị che khuất bởi chỗ tựa đầu của ghế, nhưng mùi tinh dầu nước hoa của bà ta vẫn lấp đầy căn phòng với hương thơm ngọt gắt. Ngay lập tức, Lily đã biết đó là ai. “Madame* Verdigris, bà đang làm gì ở đây vậy?” Bà quản gia của nhà Lily nghiêng người về phía trước và tặng nó một nụ cười mệt mỏi, một nửa nụ cười ấy bị che đi dưới lớp mạng che mặt màu đen đang trùm lên mặt bà ta. “Bonjour, chérié*.” “Madame Verdigris có một vài tin tức về cha của trò.” Cô Scrimshaw nói. Ngay lập tức, Lily linh cảm đó là tin xấu. Có quá nhiều vải đen mỏng và sự quan tâm đầy trang nghiêm, giống như thời gian trước ở London, sau khi mẹ qua đời. Chắc chắn không phải thế đâu nhỉ? Cả cha cũng vậy sao? Nó thấy uất nghẹn trong cổ họng, bấm sâu móng tay vào lòng bàn tay mình. “Chuyện gì đã xảy ra?” Nó hỏi. Madame Verdigris lắc đầu buồn bã. “Ma petite*, ta rất lấy làm tiếc phải thông báo cho cháu điều này, nhưng cha cháu đang mất tích. Chiếc khí cầu của ông ấy đã bị rơi hôm qua lúc đang bay về nhà.” “Có lẽ tốt hơn trò nên ngồi xuống?” Cô Scrimshaw gợi ý, nhưng Lily không nghe thấy, nó hổn hến thở. “C’est terrible*.” Giọng nói đầy âm điệu của Madame tiếp tục cất lên. “Cảnh sát đã tới điều tra hiện trường, nhưng họ không tìm thấy cái xác nào ở đó, chỉ có những gì còn sót lại từ chiếc khí cầu của ngài ấy. Ngài ấy đã mất tích, và đến giờ chúng ta buộc phải giả định rằng ngài ấy đã… mất.” “Ôi, không…” Lily bám vào chiếc ghế, nhưng dường như nó đang trượt đi. Gương mặt lo lắng của những người phụ nữ mờ dần và sàn nhà chao đảo làm nó ngã gục xuống. * * * Tĩnh lặng. Một chiếc hộp gỗ vuông vuông. Một ánh tuyết trắng tan chảy. Tiếng ly thủy tỉnh vỡ giòn. Một mùi hăng nồng, hòa trộn với mùi nước hoa phảng phất. Lily mở mắt ra, một lớp sương mờ giăng đầy văn phòng của cô Scrimshaw. Chắc nó vừa bị ngất đi. Nó đang nằm trên thảm, Madame quỳ bên cạnh, nắm chặt một lọ nhỏ đựng muối thơm. Nó ho rồi đứng dậy, dụi mắt cho đỡ cay. “Bien, chérie*” Madame nói. “May mà ta có mang thứ này.” Bà ta lau tay vào chiếc khăn mùi soa viền đăng ten và nhét lại cái lọ vào chiếc túi nhỏ mang theo. “Sao lại là bà?” Lily ngơ ngác hỏi. Họ chỉ vừa mới nói chuyện được nửa chừng. “Sao bà lại tới đây?” “Chúng ta có thể nói về điều này trong chuyến hành trình.” “Chuyến hành trình ư? Chúng ta sẽ đi đâu?” “Trở về Brackenbridge, bien sûr*.” Madame sụt sịt nói. Bà ta đứng dậy và phủi đằng trước chiếc váy của mình. “Nhưng cháu sẽ đi gặp cha mà.” Lily nói. “Và cả Malkin nữa.” Một cơn choáng váng lại khiến đầu óc nó quay cuồng, đến nỗi nó cảm thấy bối rối khủng khiếp. “Cha hứa sẽ đưa cháu bay trên… tàu Dragonfly mà.” Đôi mắt ướt nhòe, nó rút chiếc khăn mùi soa bám đầy dầu máy khỏi tay áo để lau mặt. “Cuối kỳ này. họ sẽ tới… cha muốn đưa cháu bay về nhà.” “Mais non*, Madame nói. “Hiển nhiên những điều đó sẽ không xảy ra. Chúng ta sẽ bay về trên một chiếc khí cầu chở khách, aujourd’hui*, và chúng ta phải nhanh lên cho kịp chuyến bay muộn. Và cháu sẽ phải ở nhà với ta, chờ cho tới khí nhận được thông tin mới từ cha cháu, hoặc là tới khi người ta tìm thấy xác ông ấy ở hiện trường vụ tai nạn.” “Tốt. Vậy thì cứ quyết định như thế đi.” Cô Scrimshaw với cái chuông trên bàn và rung. Chỉ vài giây sau, cánh cửa đã mở ra và Bà Thủy Quái xuất hiện. “A, cô McKracken.” Cô hiệu trưởng nói. “Cô làm ơn nhờ Matron giúp Lily và bà Verdigris đây đóng gói hành lý được không? Tôi nghĩ rằng mấy chiếc rương du lịch của em ấy đang nằm trong phòng lưu trữ ở tầng ba.” Madame đứng dậy và chỉnh lại tay áo xếp nếp của váy. “Ce n’est pas nécessaire*, thưa cô Scrimshaw. Lily có rất nhiều quần áo ở nhà, Lily nhỉ? Con bé chỉ cần lấy một chiếc va li và bộ quần áo đang mặc là được.” Bà ta liếc nhìn chiếc váy nhếch nhác bám đầy than của Lily. “Dẫu vậy một bộ đồ đen gọn gàng có lẽ không phải là không thích hợp lúc này, chérie* nhỉ?” Lúc cùng nhau ra khỏi phòng hiệu trưởng, đầu óc Lily trở nên mụ mẫm với những suy nghĩ rối rắm, nhưng vẫn không thể ngăn nó nghe trộm bà quản gia nói chuyện với Bà Thủy Quái rằng nếu chi phí chuyển đồ của Lily đắt quá thì có thể chia bớt đồ cho các bạn nữ khác trong trường, gia đình cũng không có ý kiến gì. “Tôi không chắc là các em khác muốn vậy đâu, thưa bà.” Bà Thủy Quái trả lời. “Vậy thì có lẽ ta nên quyên góp cho những hộ nghèo.” Madame khẽ nói. “Hoặc đốt chúng.” Và Lily có một mường tượng đột ngột về viễn cảnh khủng khiếp của cuộc sống mới không có cha sẽ như thế nào. * * * Đèn pha từ những chiếc khí cầu đang đáp xuống phản chiếu ánh sáng trên những tấm kính của mái vòm nơi bến neo đậu. Tòa nhà sừng sững vươn mình trên bầu trời thành phố Manchester giống như một bộ khung xương sườn khổng lồ bằng thép. Trên khoảng sân trước phủ đầy băng, hàng dài những chiếc xe chạy bằng hơi nước và thi thoảng lắm mới có một xe ngựa, nối đuôi nhau thả khách và hàng hóa xuống bên dưới cổng vòm ở lối vào chính. Mặt bên của tòa nhà là nơi gắn một tấm biển quảng cáo với hình chiếc khí cầu zeppelin được sơn màu nâu đỏ của đội bay Công ty Khí cầu Hoàng gia cùng câu khẩu hiệu “Có khí cầu tân tiến, việc đi du lịch còn nhẹ nhàng hơn cả không khí”. Khi Madame Verdigris và Lily bước xuồng từ chiếc xe chạy bằng hơi nước, bà ta suýt nữa bị trượt ngã trên lớp đá cuội trải đường đóng băng. Bà ta nắm chặt lấy cánh tay của Lily móng tay cấu xuyên cả lớp vải len của chiếc áo khoác đồng phục của con bé. Lily chờ đợi, tay cầm chắc cái va li nhỏ và rùng mình dưới cơn gió lạnh buốt, trong lúc đó, Madame phủi phẳng lớp vải lụa trên chiếc váy đen của mình. Cuối cùng, khi đã sẵn sàng, bà ta lại cầm tay Lily và dẫn nó vào nhà ga. Khi đi ngang phòng chờ lát đá, họ vượt qua nhiều hàng người đi vé tháng đang đợi chuyến bay đêm của họ. Tiếng xì xào từ đám đông làm Lily choáng ngợp đến nỗi nó nghĩ mình có thể sẽ ngất thêm lần nữa. Không gian nơi đây chứa quá nhiều kỷ niệm. Nó đã từng đứng với cha ngay tại chỗ này không biết bao nhiêu lần để nhìn theo ông những lần ông đi công tác. Nó liếc nhìn tháp đồng hồ làm bằng đồng thau ở ngay giữa trung tâm sảnh chờ, nghển cổ lên nhìn cái chóp nhọn hiên ngang chọc lên phía trên trần của sảnh. Ngay đúng chỗ này nó đã hôn tạm biệt cha, và cũng đúng chỗ này, cha đã bỏ nó lại với Bà Thủy Quái và những đứa con gái khác hồi bắt đầu học kỳ mùa thu. Nó nhìn chăm chăm bức tranh tường hoành tráng đằng sau chóp nhọn của đồng hồ, bức tranh vẽ một chiếc zeppelin với dấu huy hiệu của Nữ hoàng Victoria: Victoria Regina. Huy hiệu được vây quanh bởi những thiên thần, thiên sứ bé bỏng và nhiều đám mây nhỏ xinh đang bồng bềnh trôi qua bức tường thạch cao nứt nẻ. Ở các góc hành lang có bốn bức chân dung đóng khung hình bầu dục mạ vàng vẽ một bà Nữ hoàng treo đối diện nhau qua bầu trời rộng thênh thang trong bức tranh tường. Lily tự hỏi có phải cha cũng đang ở trên đó không, chắc hẳn ông bị lạc đâu đó trong không gian xanh thẳm hoang vắng ấy cùng tất cả những nhà du hành bị mất tích khác? Lily cố che giấu tiếng khóc thổn thức và hỉ mũi vào cái khăn tay bám đầy dầu của mình. Madame Verdigris đang tra cứu cái bảng gỗ phía trên đầu ghi đây những con số, túi thì bà ta ghì chặt vào ngực. “C’est ici - quai numéro un*”. “Cháu không biết cháu có thể làm điều này không.” Lily nói. “Ý cháu là việc bay bằng khí cầu ngày hôm nay.” Đôi chân nó đang nhũn ra và chiếc túi trong tay nó nặng trĩu. Nó hít vào một hoi thật sâu để trụ cho vững. “Sẽ ổn thôi.” Madame nói. “Những chiếc khí cầu chở khách là phương tiện di chuyển an toàn bậc nhất. Không giống như khí cầu tư nhân đâu.” Bà ta mím môi lại, dường như nhận ra mình vừa đi quá giới hạn với những lời vừa rồi. “Allez*” Cuối cùng bà ta nói rồi nắm lấy cánh tay Lily và dẫn nó tới cổng. Trên sân ga, họ hòa vào dòng người đang xếp hàng lên chiếc khí cầu chở khách đang neo đậu. Đằng sau chiếc khí cầu, Lily thoáng thấy một khí cầu loại điều khiển được đang căng phồng chờ đợi hàng hóa chất lên. “Chào mừng quý khách lên tàu Damselfly, một chiếc khí cầu zeppelin mẫu LZ1.” Bác nhân viên người máy canh cổng to bè bè trong bộ đồng phục xanh dương với phù hiệu của Công ty Khí cầu Hoàng gia bước xuống từ lôi vào của chiếc khí cầu. Líly tươi tỉnh hẳn khi nhìn thấy bác người máy. Bác ta có một bộ ria mép dày trông rất hài hước được làm từ búi vải vụn lấy từ quần áo cũ, bộ ria uốn cong dưới cái mũi bóng bẩy và khi bác chạy dọc lối đi, những pít tông ở chân của bác va vào nhau lách cách, đôi tay sắt dài ngoằng vung vẩy trong không khí. Bác đi tới cuối sân ga và gom những chiếc rương nặng hơn, mỗi cánh tay hai chiếc, xách chúng đi giống như chúng là những món hàng nhẹ nhất, sau đó bác xếp chúng chồng lên nhau gọn ghẽ vào khoang để đổ của khí cầu. Tiếp đó, khi soát cuống vé, bác lần lượt trò chuyện với các hành khách một cách thân thiết như đang nói chuyện với bạn tri kỷ xa cách bao nhiêu năm mới gặp. Cuối cùng, khi đi tới chỗ họ đang đứng, bác người máy cúi nhẹ làm phát ra tiếng cót két và ngả mũ chào bà quản gia, thế là Lily có thể nhìn thấy đỉnh đầu bằng đồng thau trên cái đầu hói của bác. “Chào quý khách, xin vui lòng cho tôi xem vé được không ạ?” “Khoang hạng nhất.” Madame Verdigris nói và chìa vé ra. Bác người máy kiểm tra chữ viết tay loằng ngoằng trên tờ vé. “Cô Lily Grantham.” Lily gật đầu, nhìn xuống những tấm vé trong tay bác người máy và phát hiện ra một cái bảng hiệu bằng đồng thau lóe sáng trên cẳng tay của bác. CÔNG TY TNHH HARTMAN VÀ SILVERFISH Người máy và thú máy hạng nhất “Ơ, bác được làm ra bởi ch…” Bà Verdigris huých mạnh vào tay Lily. “Bởi ông John Hartman, một nhà sáng chế nổi tiếng.” Bác người máy tự hào nói. “Cháu có quan hệ gì với ông ấy sao?” “Chẳng có quan hệ gì hết.” Madame Verdigris trả lời trước khi Lily kịp mở miệng nói. “Có lẽ anh nên tiếp tục công việc của mình?” Bác người máy gật đầu một cái cộc lốc với bà quản gia. “Dĩ nhiên, thưa bà. Rất tốt. Chỉ có hành lý xách tay thôi phải không ạ? Cho phép tôi được dẫn hai quý khách về chỗ ngồi.” Bác lấy hòm đựng đồ của Lily và nháy mắt với nó - hay là bác ấy bị tật nháy mắt nhỉ? “Xin mời đi lối này. Vui lòng chú ý cẩn thận.” Bác người máy dẫn họ đi trên tấm ván dẫn lên tàu Damselfly, và Lily quay đầu nhìn lại nhà ga lần cuối. Ngay lúc ấy, nó để ý thấy một người đàn ông đang chống gậy đi tới và nối vào dòng người đang xếp hàng lên tàu. Thân mình mỏng như dao cạo của ông ta được bọc ngoài bởi một bộ đồ len tối màu và ông ta đội cái mũ chóp cao, đeo đôi kính tráng gương hình chữ O. Ở ông ta có điều gì đó quen thuộc một cách lạ kỳ. Nó nghĩ bụng, ông ta có liên quan đến cha theo một cách nào đó, nhưng nó vẫn không dám chắc chắn. Nó vẫn đang cố nặn ra cái tên cho gương mặt gồ ghề ấy khi đi vào hành lang của khoang hành khách trên chiếc khí cầu thì ông ta đã biến mất từ lúc nào. Trong khoang hạng nhất, Madame chọn ngồi ở chiếc ghế cạnh cửa sổ trong khi Lily chờ người máy khuân vác hành lý xếp đồ cho nó. Xếp đồ xong, bác ngả mũ chào nó và Lily bắt tay bác trước khi bác đóng cửa khoang lại và rời đi. Madame Verdigris ngả người ra sau ghế và hừ mũi. “Lily, ta thật không biết tại sao cháu lại đi bắt tay với họ. Rồi rốt cuộc cháu sẽ bị vấy toàn dầu máy hoặc tệ hơn.” “Phép lịch sự thôi ạ.” Lily nói. “Họ chỉ muốn được đối xử như con người.” “Mon Dieu*! Cháu lấy đâu ra cái ý niệm đấy hả? Hẳn nhiên là không phải từ ngôi trường cháu theo học rồi.” Madame mở cái túi vải của mình và lấy ra vài món đồ thêu thùa, một bức tranh vẽ các thiên sứ của Botticelli. Trong không gian chật hẹp, mùi nước hoa của bà ta tưởng như không thể chịu đựng được. Lily liền với tay về phía then cài cửa sổ. Bà quản gia giơ tay ra. “Arrêtez-vous*.” “Tại sao ạ?” “Ta không thể chịu nổi tiếng ồn của chân vịt và ta ghét bị gió lạnh tạt vào người trên đường đi. Đấy là còn chưa kể thứ mùi hôi thối quỷ tha ma bắt mà cháu để lọt vào trong này.” Lily sững người. Sao Madame lại có thể ra lệnh cho nó như vậy? Và tại sao bà ta yêu cầu Lily phủ nhận mối quan hệ với cha, vào chính thời điểm này, sau tất cả mọi chuyện? “Sao bà bảo với người máy khuân vác hành lý là cháu không có quan hệ gì với cha John Hartman?” Nó hỏi. “Cha cháu không bao giờ muốn để lộ ra thân thế của cháu.” “Điều đó giờ còn quan trọng sao?” “Cháu muốn tất cả mọi người biết về công việc kinh doanh của chúng ta sao? Đặc biệt là với người máy, và đặc biệt là giờ cha cháu đã ra đi?” Lily lắc đầu, nhưng nó cảm thấy một cơn đau nhói lên trong ngực. “Cháu chỉ đang thắc mắc rằng bà có quyền gì mà trả lời những câu hỏi dành cho cháu như vậy.” Nó nói. “Ồ, có chứ.” Madame trả lời. “Maintenani*, ta là người giám hộ của cháu. Dù sao thì tạm thời là thế. Và cho tới khi chúng ta biết được chuyện gì đã và đang xảy ra, ta đề nghị chúng ta tuân theo những quy tắc cũ. Vậy nên làm ơn, hãy ngồi xuống và giữ trật tự đi. Chúng ta còn một hành trình dài phía trước đấy.” Lily làm theo những gì nó được bảo, dù rằng nó sẽ thích hơn nếu mệnh lệnh đó được nói ra từ một người dễ thương hơn. Nó phớt lờ bà quản gia và tập trung nhìn ngắm phong cảnh bên ngoài cửa sổ. Động cơ của tàu Damselfly rần rần khởi động và hai chiếc xe lớn chạy bằng hơi nước đang lai dắt nó về phía trung tâm của đường bay. Chúng kéo chiếc khí cầu đến phía trên một chữ X lớn, ngay dưới mái vòm cất cánh, sau đó các dây neo được tháo rời và chiếc zeppelin bay xuyên qua trung tâm của tòa nhà, hướng lên trên với sự hỗ trợ của những máy thổi gió khổng lồ gắn trên các bức tường. Lily dõi nhìn qua ô cửa sổ trong khoang hành khách khi chiếc zeppelin trôi qua các thanh chống bằng kim loại đỡ vòm mái lợp kính và mấy con bồ câu đang gà gật, chúng gần như bị thổi dạt đi khi chiếc khí cầu bay qua. Lần trước khi bay cùng cha, nó cũng đã tới đây để bắt đầu học kỳ mùa thu. Những buối tối khi ấy thư thái và dài chứ không nặng nề và tối tăm như bây giờ. Lily đang bay mà không có cha bên cạnh, và nó cảm thấy nguy hiểm rình rập trong mỗi cú rẽ của khí cầu. Khi chiếc zeppelin lướt qua bầu trời không sao, nó tự hỏi điều gì đã xảy ra với cha và Malkin. Làm sao nó có thể tìm hiểu được điều ấy, với một người giám hộ vô cảm như bà quản gia đang canh chừng nó? Đột nhiên, nó cảm thấy mình cô đơn khủng khiếp và sợ hãi tương lai của mình… Chương 5 Chưa đi được bao xa thì có tiếng gõ ở phía cửa sổ hành lang vang lên làm Lily phải rời mắt khỏi trang sách kinh dị của nó. Đó là người đàn ông gầy gò với cặp kính tráng gương mà nó nhìn thấy ở sân ga, ông ta đang kẹp một tờ Nhật báo Cog dưới cánh tay. Khi ông ta mở cửa và đi vào, Lily há hốc miệng ngạc nhiên, vì đôi gương trên mặt ông ta không phải là kính như nó tưởng mà là thấu kính gắn vào hốc mắt. Người đàn ông này không có nhãn cầu. Ông ta nhìn vào cái vé trong bàn tay đeo găng đen của mình rồi kiểm tra những chữ số bằng đồng gắn trên ghế, đôi mắt gương của ông ta phản chiếu mọi vật. “Xin thứ lỗi, thưa Madame và quý cô, hình như tôi được xếp vào khoang này. Tôi có thể vào được chứ?” Lily lắc đầu, nhưng Madame Verdigris thì trả lời: “Dĩ nhiên rồi.” “Cảm ơn bà, bà thật tốt quá.” Người đàn ông gầy gò ngồi xuống chiếc ghế còn trống và dựng chiếc gậy chống của mình vào tường. Lily để ý thấy cái tay cầm hình đầu lâu bằng bạc của cây gậy. Ông ta bỏ mũ và găng tay ra, đặt chúng xuống vạt áo của mình. “Xin lỗi vì đã làm phiền bà và quý cô đây.” “Xin ông đừng bận tâm.” Madame Verdigris quay trở lại với đống đồ thêu thùa của bà ta, lơ đãng đâm mũi kim xuyên qua con mắt của một hình trang trí tiểu thiên sứ. Người đàn ông gầy gò mở tờ báo của mình ra và vuốt phẳng những nếp gấp của nó. Ông ta mở tờ báo rộng hết tầm tay và bắt đầu đọc những trang bên trong. Lily không thể ngừng nhìn chằm chằm vào mặt ông ta. Có lẽ trước đây ông ta từng gặp tai nạn, bởi vành hốc mắt quanh đôi gương trông đỏ au vì thương tổn và má hằn lên những vết sẹo lởm chởm. Nó nghĩ ông ta là một người lai - nửa người, nửa máy. Nó chưa từng nhìn thấy người nào như vậy trước đây, và cho đến giờ nó cũng chưa từng chắc chắn họ có tồn tại trên đời. Chuyển biến mới này làm nó cảm thấy chút thương cảm với người đàn ông. Chắc hẳn cuộc sống sẽ khó khăn lắm khi sinh ra đã khác biệt như vậy. Chắc chắn là nó đang nhìn chăm chú. Nó chuyển qua hướng sự chú ý vào tờ báo. Đây là số báo ra buối tối. Lily lướt qua mặt trước tờ báo và há hốc mồm kinh ngạc. Trên trang nhất là bài báo về vụ mất tích của cha nó. Nó đọc hai đoạn đầu tiên. NHẬT BÁO COG VỤ MẤT TÍCH CỦA GIÁO SƯ HARTMAN ĐƯỢC CHO LÃ ĐÃ TỬ NẠN Số báo buối tối, London, ngày 9 tháng 11 năm 1896 | 1 xu John Hartman, nhà đồng sáng tạo ra máy móc hiện đại và là một người sống ẩn dật đã bị tước quyền công dân, đang thực hiện hành trình trên chiếc khí cầu tư nhân Dragonfly của mình ở thời điểm chiếc khí cầu biến mất. Con tàu đã không hạ cánh được ở điểm đến dự kiến là nhà ga hàng không Brackenbridge và được cho là đã cháy rụi trong một vụ nổ giữa không trung. Các nhà chức trách hiện đang tiên hành rà soát hiện trường vụ tai nạn để thu thập nhiều thông tin nhất có thể. Là người xuất chúng trong lĩnh vực thiết kế máy móc, Giáo sư Hartman là đồng sở hữu của doanh nghiệp sản xuất máy móc lớn nhất cả nước, cùng với người bạn và đồng nghiệp của ông là Giáo sư Silverfish. Tuy nhiên, ông đã hủy bỏ cổ phần của mình và biến mất khỏi xã hội bảy năm về trước, khi vợ ông mất trong một vụ đâm xe chạy bằng hơi nước. Ông chỉ còn lại một người thân duy nhất trên đời là cô con gái Lily, mười ba tuối, nơi ở của cô bé hiện chưa được xác định. Phóng viên của chúng tôi là cô Anna Quinn đã cố gắng liên hệ với gia đình… Cục tức ứ lên trong cổ họng Lily và nó ngừng đọc. Vậy ra đó là tất cả sự thật, được viết lên đó, trắng đen rõ ràng. Nó liếc nhìn người đàn ông gầy gò, đầu ông ta đang uể oải ngả vào phần tựa của ghế, cằm ngửa về phía sau. Ông ta đang nhìn nó hay đang ngủ? Thật quá khó để đọc vị những gì ẩn sau đôi mắt gương không có mí kia. Nó ho lên một tiếng, nhưng ông ta không hề cử động. Có lẽ ông ta thực sự đã ngủ? Ông ta không đọc báo nữa, tờ báo giờ đã rớt khỏi tay ông ta. Nó thè lưỡi với ông ta và ông ta thoáng cười với nó, nụ cười sắc lẻm như của một con cá mập. “Tôi phải xin lỗi lần nữa.” Ông ta nói, gập tờ Nhật báo Cog vào và để sang bên cạnh. “Tôi biết sẽ rất khó chịu khi có người lạ ở trong khoang của mình trong những chuyến hành trình dài.” Lily gật đầu nhẹ, điều này dường như được ông ta đón nhận như một lời mời gọi tiếp tục câu chuyện. “Thật kỳ quặc là họ lại xếp chúng ta ngồi với nhau như thế này, trong khi chiếc zeppelin vẫn có nhiều khoang còn trống. Có khi là do lỗi kỹ thuật.” Madame Verdigris đặt bộ đồ thêu của bà ta sang bên cạnh. “Không biết là có phải cùng một anh người máy khuân vác hành lý đã dẫn ông lên tàu không nhi? Theo tôi thấy thì những người máy sơ khai kiểu này với mớ cảm xúc tổng hợp của họ quả là khó chịu, ông có thấy vậy không? Họ còn gây ra rất nhiều sai sót về giấy tờ nữa chứ. Và với những gì mà họ trả lời ông, và tất cả những thứ cót kiếc ấy… Tôi thường ngạc nhiên rằng sao họ còn hoạt động cơ đấy.” “Rất đúng, thưa Madame. Bà đã đánh trúng đầu của một con ốc sên rồi đây.” Người đàn ông cười. “Hay tôi nên nói thế này, bà đã nói trúng trọng tâm của vấn đề rồi. Madame Verdigris cười giòn khanh khách như tiếng thủy tinh vỡ, dù rằng Lily chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong mấy lời bình luận ấy cả. Nó chợt nghĩ người đàn ông gầy gò này đã hai lần gọi bà quản gia theo kiểu tiếng Pháp là Madame chứ không gọi là “bà” như bình thường, và nó tự hỏi làm sao ông ta biết bà ta thích được gọi như vậy. Người đàn ông gầy gò rướn người về đằng trước, đôi mắt bạc của ông ta lóe lên dưới ánh sáng. “Thưa quý bà và quý cô, xin phép cho tôi tự giới thiệu, tôi tên là Roach.” Bà Verdigris gật đầu chào ông ta. “Bonsoir*, ngài Roach, tôi là Verdigris và đây là cô Hartman mà tôi đang trông nom chăm sóc.” “A, giống như trong bài báo sao?” Ngài Roach hỏi, tay vỗ vỗ vào tờ báo. Madame Verdigris buồn rầu cúi đầu khẳng định. Lily nghiến răng kèn kẹt, chẳng phải vừa mới đây bà quản gia còn bảo nó không được nói cho người khác biết nó là ai hay sao? “Trông cháu có vẻ buồn bực nhỉ, cô gái trẻ.” Ngài Roach nói. “Cũng không khó hiểu.” “Cháu ổn.” Nó nói. “Ta có thứ này có thể làm cháu vui lên đấy.” Ngài Roach thò tay vào trong túi áo và lôi ra một túi giấy đưa cho Lily. Nó ngó vào bên trong. Những chiếc kẹo kẻ sọc nhớp nháp dính cả vào giấy, có khi chúng đã ở trong túi của ông ta hàng tuần rồi cũng nên. “Không ạ, cảm ơn ngài.” “Thử đi cháu, kẹo bạc hà cứng đấy.” Ông ta ấn cái túi giấy về phía nó, nhưng nó lắc đầu. “Sao vậy? Cháu không thích kẹo bạc hà cứng à? Giả như tôi mà là một kẻ kém lịch sự thì tôi đã bị phật ý rồi đây. Có lẽ cháu nghĩ tốt hơn tôi nên ăn cà rốt đi, tốt cho thị lực già nua này mà.” Ông ta cười và gõ ngón tay vào giữa một con mắt gương của mình. Lily cảm thấy một cơn rùng mình cuộn lên sau lưng nó. “Không ạ.” Nó nói. “Không phải là vì thế, chỉ là…” Nó dò xét biểu cảm không thể đoán nổi của ông ta. Nó còn không biết làm sao để từ chối được một cách lịch sự. Nhưng chẳng cần thiết phải lo lắng, Madame Verdigris đã thay mặt nó trả lời. “Tôi rất tiếc, thưa ngài, một trong những quy tắc ở học viện của cô Scrimshaw, nơi cô Hartman đây đang theo học, là không bao giờ được phép nhận đồ ngọt từ người lạ.” “Xin lỗi ngài.” Lily chêm vào. Ngài Roach cau mày, con ngươi bạc trong mắt ông ta hẹp lại, ông ta siết chặt cái túi giấy trong bàn tay xương xẩu của mình. “Cháu không thể gọi tôi là người lạ được, cô Hartman ạ. Chúng ta đã giới thiệu với nhau rồi mà. Tôi phải nói rằng tôi không tin các quy tắc của cháu áp dụng được cho những trường hợp như thế này. Và người ta không bao giờ có thể thiếu kẹo bạc hà cứng khi đi một chuyến hành trình dài như vậy. Tôi thấy là chúng khá hữu ích với chứng say tàu xe trên mấy chiếc zeppelin chở khách này.” Lily mủi lòng và lấy một chiếc, và ngài Roach nở nụ cười toe chiến thắng. Chiếc kẹo bạc hà cứng có vị ngon tuyệt, nhưng sau một lúc nó thấy mi mắt mình nặng trĩu và cảm thấy rất mệt. Nó áp đầu vào cửa sổ phủ đầy băng giá, ô cửa sổ đang rung lắc cùng với động cơ của chiếc khí cầu. Nó nhìn hơi thở của mình phủ mờ kính. Trước khi gục xuống, nó nghe thấy Madame Verdigris nói: “Tôi không hiểu sao mấy cái zeppelin này lúc nào cũng ồn ào đến vậy. Ở đâu ra cái kiểu một người tao nhã lại phải đi cùng một con ngựa già nua và cái xe ngựa cà tàng hay phải đi trên một cái khinh khí cầu cổ lỗ sĩ cơ chứ?” “Sự thay đổi luôn luôn kỳ dị lúc ban sơ.” Ngài Roach trả lời. “Nhưng rồi người ta sẽ quen với nó thôi. Bà biết đấy, Madame Hortense, tôi có một linh cảm mạnh mẽ rằng sẽ có rất nhiều thay đổi trong cuộc đời bà mấy tháng tới đây, có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, tất cả tùy thuộc vào cách bà xử lý chúng. Tôi sẽ theo dõi thật sát sao để xem bà xử lý các vấn đề ra sao.” * * * Lily cố cắt nghĩa lời nói của ông ta, nhưng nó cảm thấy mấy lời nói ấy đang trôi đi và không tài nào nắm bắt được, và chúng bơi đi giống như một đàn cá bạc, kéo nó vào một giấc ngủ mờ mịt. Khi nó tỉnh lại, chiếc zeppelin đang tới một nhà ga địa phương và ngài Roach đã đi khỏi. Nó đột nhiên nhớ ra ông ta quá thân quen với bà quản gia, những lời nói cuối cùng của ông ta nhuốm màu đe dọa. “Chuyện gì đã xảy ra với người đồng hành ngồi đối diện rồi ạ?” Lily hỏi, cố che miệng khi ngáp. “Ngài ấy đã rời đi vài phút trước để chuẩn bị xuống tàu.” Madame nói. “Ngài ấy có một cuộc hẹn gấp và muốn xuống ngay ga đầu tiên.” “Nhưng sao ngài ấy lại biết tên của bà ạ?” “Sao cơ?” Bà quản gia trông hơi tức giận. Bà ta cắm cây kim vào góc tấm vải thêu và Lily để ý thấy bà ta đang thêu mắt của chú tiểu thiên sứ bằng sợi chỉ màu bạc. “Cháu nghe ông ta gọi bà bằng tên chứ không phải họ.” Lily trả lời. “Và ông ta biết gọi bà theo kiểu tiếng Pháp trước khi bà tự xưng danh nữa.” “Đó đúng là một lời nói kỳ quặc.” Bà quản gia cười lớn. “Chắc cháu đã mơ thấy mấy điều ấy.” Bà ta thu lại mấy cuộn chỉ và nhét chúng vào túi bên cạnh đống đồ thêu thùa của mình. “Cháu đã ngủ quá lâu rồi, Lily. Thực ra, cháu đã làm rối bù tóc mình rồi kìa. Có lẽ cháu nên sửa soạn lại trước khi chúng ta rời đi nhỉ?” Lily đang định truy xét chủ đề này thêm nữa, nhưng chiếc khí cầu đã bắt đầu hạ thấp xuống địa điểm hạ cánh, và chẳng mấy chốc, tấm biển hiệu tồi tàn quen thuộc của nhà ga Brackenbridge hiện ra, làm sáng bừng cả khoang tàu. Lily chật vật mặc áo khoác và quàng khăn. Vài phút sau, họ bước từ tàu xuống sân ga địa phương nhỏ xinh. Một luồng gió lạnh ùa tới khi họ đi lên cầu nối và bước trên các bậc thang xuống đất. Người máy tài xế của cha, Đội trưởng Springer, đang chờ để đón họ ở lối vào nhà ga, bác đứng cạnh chiếc xe chạy bằng hơi nước của gia đình. Lily nhận ra bác ngay tức thì nhờ đôi chân vòng kiềng và dáng đứng khom khom của bác. Ngay khi Madame Verdigris lên dây cót cho bác, bác liền khập khiễng đi tới và ôm Lily một cái ôm cọt kẹt nồng thắm. “Với tất cả tấm lòng đang kêu tích tắc của tôi…” Bác xúc động kêu lên. “Thật tốt khi gặp lại cháu, Lily ạ!” Rồi bác nặng nhọc thở khi đi trên đôi chân gỗ của mình, bánh răng của bác kêu lách cách khi bác chất đồ của nó vào trong xe và giúp Madame ngồi vào ghế của bà. Lúc trèo lên xe theo sau họ, Lily liếc nhìn đằng sau về phía các hành khách khác đang khởi hành, tất cả đều quấn mình kín mít để chống lạnh. Nó tìm kiếm trong đám người ấy gương mặt của ngài Roach nhưng không thấy ông ta đâu hết. Tựa như ông ta đã tan chảy vào màn đêm rồi. * * * Quãng đường trở về nhà mất gần nửa giờ, nhưng Lily thức suốt thời gian ấy, nó nghĩ về người đàn ông mắt bạc kia và mối quan hệ của ông ta với Madame. Đội trưởng Springer lái chiếc xe chạy bằng hơi nước rẽ vào lối đi trong trang viên Brackenbridge, rồi Lily và Madame bước xuống con đường phủ băng giá. Khi họ bước về phía cánh cửa nhà, Lily liếc nhìn qua những cái cây khẳng khiu đen sì trong vườn, cành nhánh của chúng tựa như những vết nứt trên nền trời vậy. Nó nhìn lên cửa sổ phòng làm việc của cha. Ở căn phòng ấy, chiếc đèn của ông John từng thắp sáng rất muộn trong đêm khi ông thực hiện những dự án của mình. Nó những mong nhìn thấy ánh sáng lập lòe ấy lúc này. Nhưng chẳng có gì hết. Khung cửa sổ vẫn tối mịt. Một cơn gió thổi qua quét vun vút khắp mặt đất, hất tung vài chiếc lá rụng còn rơi rớt lại, một đợt lũ của nỗi đau đớn lại ào đến làm nó nghèn nghẹn trong cổ. Đánh vật với bụi mù và những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt, nó theo Madame và Đội trưởng Springer hướng về phía cánh cổng tù mù sáng. Madame lấy ra một chùm chìa khóa, mở cánh cửa tiền sảnh và dẫn Lily vào bên trong. Bà ta gật đầu ra hiệu cho Đội trưởng Springer để hành lý ở phòng ngoài, bên cạnh giá để giày đi bộ cũ của cha. Nhìn thấy những đôi giày ấy khiến Lily thót tim trong một giây. Những nếp da gấp và những chiếc dây giày thắt lộn xộn, tất cả xếp dưới cái áo khoác thường ngày của cha đang treo trên móc. Mọi thứ như thể ông mới chỉ vừa bước vào nhà và để chúng ở đó vậy. Nhưng không, có lẽ ông đã mang bộ đồ và đôi ủng phi công của mình nếu ông và Malkin bay trên tàu Dragonfly. Mấy đồ dùng này chỉ là những thứ ông để lại. Những thứ còn lại của ông. Trái tim nó lại tan nát thêm khi nó nhận ra cha đã thực sự ra đi, và suy nghĩ ấy giống như một vết cắt rất sâu. Nó hít một hơi dài và bước qua cánh cửa kính từ phòng ngoài vào sảnh lớn. Nó vẫn đang nhóm lên chút hy vọng được chào đón bởi sự ấm áp thân thuộc của ngôi nhà, nhưng dù là thứ gì trong ngôi nhà thì chúng đều mang lại cảm giác lạnh lẽo hơn, đen tối hơn là bên ngoài kia. Ở chân cầu thang, bà Rust, một đầu bếp người máy, đang đứng chờ họ. Chắc bà đã phải đứng ở đó cả ngày trời, vì bà đã ngừng hoạt động và đang đứng sững ở tư thế chờ đợi, một tay thả lỏng trên tay vịn cầu thang uốn cong. Lily bước về phía bà. Ngoài Malkin ra thì bà Rust luôn là người máy được cha thích nhất. Nhưng kể từ lần cuối Lily gặp bà, khuôn mặt kim loại già nua của bà đã bị hao mòn thêm. Những vết lo lắng hằn sâu trên trán và mũi bà lỗ chỗ những vết xước sơn mới. Madame Verdigris sai Đội trưởng Springer lọc cọc đi vào sảnh lát đá và xuôi xuống hành lang tối tăm dành cho gia nhân, sau đó bà ta tới kiểm tra bà Rust. “Mon Dieu*” Bà ta càu nhàu. “Mấy cái mẫu người máy cũ này. Nó lại dừng hoạt động rồi.” Bà ta sải bước vòng ra đằng sau bà người máy. Một lần nữa, bà ta lại lôi chùm chìa khóa ra, tìm kiếm cái chìa lên dây cót cho bà Rust và lắp nó vào cổ của người máy, vặn một cách thô bạo cho tới khi Lily nghe thấy những lò xo bên trong bà đầu bếp bằng sắt bắt đầu hoạt động cót két và rền rĩ. Sau khi Madame lên dây cót xong xuôi, bà ta đứng lùi lại và chờ đợi. Mắt của bà Rust bật mở. Biểu cảm của bà có vẻ lờ đờ trong giây lát, đó là kiểu mặt thường thấy của người máy mỗi khi bạn đánh thức họ dậy, nhưng rồi sau đó bà nháy mắt, nhìn thấy Lily và nức nở kêu lên hạnh phúc. “Bánh răng và đồng hồ hỡi*! Hổ con Lily của bà đã về rồi!” Bà Rust ôm trọn Lily trong vòng tay, nhấc bổng nó khỏi sàn nhà. “Bà nhớ cháu lắm đấy, trái tim bé bỏng ạ.” “Cháu cũng nhớ bà, bà Rust.” Lily thơm lên gò má kim loại lõm vào của bà người máy, má của bà sần sùi bởi sơn và có mùi hơi giống dầu hoa oải hương. Bà Rust đặt nó xuống và ngắm nghía nó. Rồi khuôn mặt bà trở nên nghiêm nghị và bà thở dài một tiếng não nề. “Ôi, Lily.” Bà nói. “Bà rất tiếc về việc của cha cháu. Ngài John tội nghiệp. Với tất cả tấm lòng đang chạy tích tắc của mình, bà không biết chúng ta sẽ phải làm gì khi không có ngài ấy nữa.” Nghe bà Rust gọi tên cha như vậy khiến trái tim Lily run rẩy xúc động. “Cháu cũng thê.” Lily nói một cách mỏi mệt và rướn người để thơm lên mũi bà. Madame Verdigris ho lên một tiếng dè dặt. “Hôm nay mọi chuyện thế nào hả bà Rust? Tôi tin rằng bà đã chăm lo hết mọi sự trước khi hết cót vào ban đêm.” “Vâng, thưa bà. Tôi xin lỗi, thưa bà. Tôi không nhận ra mình bị hết cót trước khi bà về đến nơi, nhưng bà đi lâu quá.” “Maiheureusement*, chuyến zeppelin bị trễ.” Madame nói. “Thời tiết xấu. Bão bùng suốt trên tuyến đường bay.” “Thật đáng tiếc.” Bà Rust xoa tóc Lily bằng bàn tay da mềm mại của mình. “Bà đã chuẩn bị phòng cho cháu rồi, đúng như ý cháu đấy. Mặc dù bà đã có thể làm việc ấy với chút ít giúp đỡ.” Bà đầu bếp người máy nhìn bà quản gia với cái nhìn chằm chằm tăm tối, nhưng Madame chẳng để ý vì bà ta đang mải quay sang phía Lily. “Bà Rust sẽ giúp cháu sắp xếp đồ đạc.” Bà ta nói. “Mais*, đừng có ồn ào. Cháu sẽ thấy mọi thứ ở đây được vận hành theo một cách khác dưới sự điều hành của ta. Ta sẽ không chấp nhận bất cứ hành vi nổi loạn nào mà cha cháu từng châm chước khoan nhượng, đặc biệt là đối với một jeune fille rangée*.” Madame ngửa đầu về phía sau, nhòm Lily qua sống mũi của bà ta. “Ta muốn gặp cháu trong phòng khách ngay sau bữa sáng, chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận các vấn đề.” Lily ngoan ngoãn gật đầu. Nó đã quá kiệt sức bởi những cảm xúc của ngày hôm nay đến nỗi không thể tìm được lời đáp trả phù hợp. “Bon*.” Bà quản gia nói. “Được rồi, giờ ta sẽ lên giường nghỉ ngơi. Thật là một chuyến đi dài.” Bà ta cầm cái đèn ở chiếc bàn trong sảnh và loẹt xoẹt bước lên cầu thang, để lại Lily cùng bà Rust phía sau trong ánh sáng của một cây nến duy nhất. Bà Rust nhác cây nến lên và đưa Lily lên gác. Khi cả hai tới đầu cầu thang trên gác hai, Lily nghe thấy tiếng Madame đóng cánh cửa phòng ngủ chính và nhìn thấy ánh sáng của ngọn đèn của bà ta rọi qua khe dưới chân cửa. “Nhưng đây là phòng ngủ của cha mà.” Nó hét toáng lên. “Ống khói và đĩa xích ơi!” Bà Rust thì thầm. “Giờ thì không phải vậy nữa rồi. Ngay lúc Madame nghe nói về việc ông chủ ra đi vào sáng nay, bà ta đã chuyển hết đồ đạc của ngài ấy vào phòng để đồ của gia nhân và ngang nhiên chuyển vào đó trước khi đi đón cháu. Thậm chí bà ta còn sai ông Wingnut kê cái bàn trang điểm của mẹ cháu cho mình nữa cơ.” Lily cảm thầy toàn thân ốm yếu. Mẹ đã ra đi bảy năm rồi, và cha thì mới chỉ một ngày, nhưng Madame đã xử sự như thể là bà chủ của trang viên rồi. Bà Rust mở cửa phòng riêng của Lily. Ít ra thì ở đây, nó thở phào nhận ra mọi thứ vẫn y nguyên như lúc nó đi. Những cuốn sách vẫn được xếp trên giá, những ghi chép và bức vẽ của nó được gắn trên các bức tường thành từng tập dày, lấp kín mảng giấy dán tường màu vàng. Nó trút đồ trong va li vào tủ quần áo, chẳng thèm bận tâm mở thứ gì ra, trong lúc ấy bà Rust bận rộn chất củi vào lò sưởi, đôi tay bà kêu lách cách cứ như dây xích xe đạp vậy. “Madame không cho bà nhóm lửa tuần này khi cha cháu đi vắng.” Bà nói. “Nhưng giờ cháu đã trở về nhà và chúng ta sẽ sớm đưa mọi thứ trở lại đúng quỹ đạo của chúng thôi. Bà sẽ khiến căn phòng ấm lên ngay bây giờ, cháu đừng lo.” Bà người máy già đặt thanh củi cuối cùng lên trên chốc đống củi. “Ồ, và có lẽ cháu sẽ cần đắp thêm một lớp chăn nữa đấy. Những buối đêm mùa đông dạo này khá là lạnh.” “Ý hay đấy ạ.” Lily lấy một cái chăn từ tủ ra và rũ nó phủ lên giường, làm bụi bay mù mịt khắp phòng. “Đồng hồ và…” Bà Rust hắt xì một tiếng rõ to như tiếng còi báo sương mù. “Cơ cấu cam ơi!” “Cầu Chúa phù hộ cho bà.” Lily nói. “Cảm ơn hổ con của bà.” Bà người máy lấy trong túi ra một miếng vải vụn và hỉ mũi vào đó. “Hơi bị viêm phổi một chút. Bà có thể khuyên cháu vài lời được không? Đừng kể cho Madame nghe bất cứ điều gì mà cháu không buộc phải kể. Tuần trước, khi cha cháu đi vắng, bà ta đã lục lọi trong phòng làm việc của ngài ấy.” “Sao bà ta dám thế! Bà ta đang tìm kiếm cái quái gì vậy?” Bà Rust giơ tay lên trời. “Trục khuỷu và bộ chế hòa khí ơi, bà cũng ước gì bà biết điều ấy! Nó có thể là bất cứ thứ gì. Bà ta ấy à, là một người ranh ma. Bà ta có tất thảy các bánh xe điên rồ trong đầu và ra cái vẻ hống hách khi mọi người nghe được tin lúc sáng nay. Dĩ nhiên, bà ta tự phong cho mình là người quản lý!” Bà Rust hơ cây nến vào đống củi và quạt lửa bằng cái tạp dề của bà. Lily ngồi trên giường xem bà làm. “Hỡi các công cụ và cần gạt nước…” Cuối cùng bà người máy già lẩm bẩm nói khi lửa đã bén. “Cháu không cần phải để tâm đến mấy lời nhảm nhí của bà già lẩm cẩm hay lo xa này. Sáng mai khi cháu xuống nhà, bà sẽ làm cho cháu món bánh nướng ngon lành ăn với mứt, đúng loại cháu thích, và chúng ta sẽ tán gẫu một trận ra trò nhé.” “Cảm ơn bà Rust, cháu xin lỗi vì đánh thức bà lúc muộn như thế này, Cháu hy vọng bà sẽ ngủ ngon.” “Cháu cũng thế nhé, hổ con Lily của bà. Cháu cũng thế nhé.” Bà Rust đặt cây nến bên cạnh giường nó và lui ra ngoài. Lily kéo chăn lên quá đầu gối và ngồi lắng nghe tiếng khớp kêu lách cách khi bà bước đi dọc hành lang. Lát sau, khi đã thay bộ váy ngủ, Lily chạm vào vết sẹo trắng dài trên ngực mình. Một vết cắt do mảnh kính chắn gió gây ra trong vụ tai nạn. Dấu tích đã mờ nhạt dần theo năm tháng, giống như những kỷ niệm về mẹ, nhưng đôi khi nó vẫn cảm thấy nhát cắt sắc lẹm ấy, và giờ đây, khi cha cũng đã ra đi, những kỷ niệm mà nó từng cố gắng rất nhiều để quên đi lại một lần nữa dậy sóng trong lòng, giày vò cồn cào trong cái bụng rỗng của nó. Nó xua những ký ức ấy đi và ngẫm nghĩ về những lời bà Rust nói lúc nãy. Madame đang tìm gì trong đồ đạc của cha? Và nó có thể làm gì trong chuyện này? Những ý nghĩ mới nhen nhóm này không dễ chịu chút nào, và nó quá đói, quá kiệt quệ để có thể suy nghĩ sâu xa hơn. Nó chưa được ăn gì kể từ bữa sáng nay. Thật kỳ quặc khi nghĩ rằng chiều nay nó vẫn còn đang ở trường. Nó liếc nhìn chiếc đồng hồ đặt cạnh giường. Một giờ ba mươi phút. Phía bên dưới các kim đồng hồ, một chú cừu bé xíu khảm ngà đang nhảy qua hàng rào. Cha đã thiết kế chiếc đồng hồ này tặng nó và nó thấy mình đang đếm cừu, cố lờ đi tiếng kêu vo vo trong đầu khi nhắm mắt và trôi vào một giấc ngủ chập chờn, tràn đầy hình ảnh của những gã đàn ông mắt bạc và những cây gậy chống với tay cầm hình đầu lâu. Chương 6 Robert đẩy cánh cửa đi vào trong xưởng của ba và đặt con cáo bị hỏng xuống chiếc bàn gia công ở giữa phòng. Các dãy dụng cụ bằng đồng và mặt đồng hồ sáng lóe lên trong ánh đèn dầu, hắt những cái bóng méo mó lên trên các bức tường. Robert kiểm tra vết thương của con cáo máy. Dưới lớp vải lông phủ phía bên ngoài, chỗ đầu chi trước của con cáo nối với tấm xương dẹt kim loại ở vai, phần đầu tròn và lục lăng của những chiếc bu lông kết nối đều đã hỏng cả, và những gì còn lại của các bộ phận thì lẫn lộn với nhau thành một cục. Cậu đang định bắt tay vào xử lý thì chợt cảm thấy có ai đó trong phòng nên nhìn một lượt khắp xung quanh. Ba cậu đang đứng ngay lối cửa vào, tay ông khoanh trước ngực, gương mặt ông ánh lên một biểu hiện kỳ quặc. “Chúng ta có gì ở đó vậy, con trai?” Ông Thaddeus hỏi. “Một con cáo máy ạ.” Robert đứng dịch sang bên để ba cậu có thể nhìn rõ hơn. “Con tìm thấy nó đang ẩn náu chỗ con hẻm. Có mấy người đàn ông săn đuổi nó khắp làng. Con nghĩ họ đã bắn nó.” Cậu ngừng lời ở đây vì không biết phải nói gì khác nữa. Toàn những điều vô nghĩa. Tại sao ai đó lại đi bắn một con thú máy cơ chứ? “Để xem nào.” Ông Thaddeus bước tới và kiểm tra con thú. Ông đeo cặp kính của mình lên và ngắm nghía kĩ càng những chiếc răng truyền động bị vỡ lộ ra dưới lớp lông bằng vải rách tả tơi. “Ba mới chỉ nhìn thấy những cơ cấu như thế này một lần trước đây.” Ông lẩm bẩm. “Xét đến những chi tiết tinh xảo nhỏ bé này, ta có thể nói rằng người kỹ sư bậc thầy tạo nên con thú này chính là Giáo sư Hartman ở trang viên Brackenbridge.” “Ý ba là con người bí ẩn ấy?” Robert kinh ngạc hỏi. “Người mà tự xưng danh là Grantham?” “Chính ông ấy.” Ông Thaddeus nói. “Tên thật của ông ấy là Hartman, nhưng ba là người duy nhất trong làng biết điều này.” Ông nhìn con cáo. “Con nói nó đang đi về hướng nào ấy nhỉ?” “Hướng đông ạ.” Robert nói. “Vậy thì chính là nó.” Ông Thaddeus day day hai bên thái dương của mình. “Đây là gì vậy?” Ông nhìn thấy một thứ, là cái túi da nhỏ nằm dưới lớp lông rối mù trên cổ con thú máy. Thaddeus mở cái túi và lấy ra một phong thư bị xém mặt ngoài bởi đạn bắn. Ở mặt trước, các chữ cái trên phong bì đã bị nhòa đi bởi vết dầu loang xếp thành một từ duy nhất: Lily. “Phải, dĩ nhiên rồi.” Ông nói. “Bức thư này chắc hẳn thuộc về con gái của giáo sư.” “Ông ấy có con gái ạ?” Robert nói. Ông Thaddeus gật đầu. “Ba nghĩ cô bé ấy hiện đang đi học. Và dĩ nhiên ba cũng chưa bao giờ gặp cô bé. Khi còn ở đây, ông ấy thường thích cách ly cô bé với mọi người.” “Tại sao ạ?” Ông Thaddeus đặt bức thư và chiếc túi nhỏ sang một bên chiếc bàn gia công. “Ồ, ba không biết, bao bọc thái quá, ba đoán thế. Cô bé đã mất mẹ khi còn khá nhỏ, trước khi họ chuyển tới Brackenbridge, và một thời gian dài sau đó, cô bé rất ốm yếu. Có lẽ vì thế mà ông ấy đã tạo ra con thú cưng này cho con gái mình chăng?” Robert thấy thương cô bé. Cậu biết cảnh lớn lên mà thiếu mẹ là như thế nào. Mặc dù cậu cảm thấy ba Thaddeus muốn nói tới sự ra đi của mẹ Lily chứ không có ý gì khác, như là hoàn cảnh của cậu chẳng hạn. Cậu không thể nhớ ra lần đầu tiên ba quyết định không nhắc về mẹ cậu nữa là từ bao giờ, có lẽ là khi ba từ chối trả lời thẳng thắn những câu hỏi. Dường như mỗi gia đình đều có những bí mật đại loại như vậy, dù là tốt hay xâu. Cậu lướt nhìn từ con cáo cho tới bức thư của Lily trong tay ba mình. “Ba có nghĩ chúng ta nên mở nó ra không?” Ông Thaddeus lắc đầu. “Không nên mở thư của người khác, Robert ạ. Nhưng có lẽ chúng ta nên đưa lá thư đến cho cô bé nhỉ?” “Và chúng ta sẽ giúp con cáo chứ ba?” Robert nói. “Con e rằng nếu chúng ta không giúp, nó sẽ vĩnh viễn không hoạt động được nữa.” Ông Thaddeus suy nghĩ về điều này. “Con nói rằng có những người đàn ông đang săn đuổi nó? Và chiếc khí cầu của ông John đang mất tích. Nó… bị đâm nát vụn? Ba tự hỏi đây có phải là điều mà chúng ta nên nhúng tay can dự vào không…? Việc này có vẻ nguy hiểm.” Robert ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh ba. “Nó là đồ cần được sửa chữa, và ba luôn nói rằng “Nếu thứ gì đó cần sửa chữa…”.” “… thì chúng ta sẽ gắng hết sức mình để sửa nó, bất kể có tốn kém thế nào đi chăng nữa. Con nói phải, tất nhiên là thế.” Ông Thaddeus mỏi mệt nhìn cậu con trai. “Những điều tồi tệ như thế này luôn xảy ra trên đời, phải không con trai? Bạo lực giữa con người và máy móc. Và đôi khi ta cảm thấy dễ dàng hơn nếu bỏ qua hoặc không liên can gì tới chúng. Nhưng ba nghĩ nếu không có những thứ xấu xa ấy thì chúng ta chẳng có lấy một cơ hội nào để làm điều tốt, và làm điều tốt mới là điều quan trọng. Dù đôi khi điều đó có thể khiên ta sợ hãi…” Ông Thaddeus dừng lại và suy tư gõ cái tua vít lên mặt bàn. “Robert ạ, không ai dễ dàng chế ngự được nỗi sợ hãi. Cần một trái tim dũng cảm để chiến thắng những trận đánh lớn.” Ông nhòm vào con cáo. “Giờ thì, con nghĩ sao, chúng ta có thể sửa nó không? Hay là nó đã chạy đến tiếng tích tắc cuối cùng của đời mình rồi? Cùng xem nào…” Ông mở một ngăn tủ của chiếc bàn gia công và lôi ra một cuộn da, ông trải nó ra, để lộ những dụng cụ được sắp thành hàng gọn ghẽ - các đổ nghề của thợ đồng hồ: hàng dãy tua vít, những chiếc kim và nhíp; mỗi thứ lại được để trong túi da riêng. Từ trong một ngăn tủ khác, ông lấy ra những hũ thủy tinh khác nhau đựng đầy đinh vít và các bánh răng truyền động, ông sắp đặt chúng thành một hàng sau cuộn da đựng dụng cụ. Cuối cùng, ông lấy đôi mắt kính phóng đại của mình từ một cái móc trên tường và đeo vào, nháp nháy đôi mắt xanh to đùng của ông. Dùng một chiếc nhíp, ông banh cái lỗ do đạn bắn trên thân con thú máy ra, tách đám lông vải bết dầu ra để kiểm tra hoạt động bên trong. Robert nhón chân ngó qua vai của ba, cố chớp được một hình ảnh của vết thương. Phía sau chiếc xương dẹt ở vai, viên đạn đã nghiền nát và làm biến dạng cơ cấu được liên kết chặt chẽ bên trong con thú. Đường đạn xuyên qua làm vỡ vụn các cam và lò xo trước khi cắm sâu vào một đĩa kim loại lõm. “Đây sẽ là một ca đại tu đây.” Ông Thaddeus nói. “Nhưng ba có thể sửa được nó đúng không ạ?” Robert hỏi. Người thợ đồng hồ gật đầu. “Ừ, nhưng sẽ mất thời gian đấy. Và ba cần con trợ giúp. Con hãy đi và lấy tất cả các hũ đựng cam bằng đồng và các nhíp đồng hồ ra đây, nếu vẫn chưa đủ, hãy bê thêm vài cái đồng hồ cổ nữa, chúng ta có thể tận dụng các bộ phận của chúng.” “Vâng ạ.” Robert bắt đẩu đi thu lượm các chi tiết cần dùng từ khắp nơi trong xưởng, trong khi ấy, ông Thaddeus cầm tua vít lên và tiến hành sửa chữa con cáo máy. * * * Họ mất hàng giờ để sữa chữa hư hại do viên đạn gây ra cho phần vai của con thú. Robert phụ giúp ba gõ những bánh răng te tua ra và ghi chép chúng vào trong sổ. Và khi ông Thaddeus yêu cầu thay thế các bộ phận, nếu không tìm được trong đống đồ mà ông đã mang ra, Robert sẽ chạy đi và lấy từ những hũ, hộp thiếc khác nhau trên các giá để đồ trong kho. Thỉnh thoảng, các bộ phận khó kiếm hơn, và cậu phải lục tìm trong các ngăn tủ. Có lúc, khi hai ba con cần một cái bánh cóc, ông Thaddeus sai cậu đi kiểm tra mặt sau của tất cả đồng hồ trong cửa hàng, và không cho phép cậu quay lại cho tới khi tìm ra được đúng loại. Những lúc khác, Robert ngồi trong phòng để giúp ba. Cùng nhau làm việc như thế này là một trong những cơ hội hiếm hoi cậu có được để nói chuyện với ba. Robert luôn thích thú làm điều này, mặc dù cậu rất sợ mình làm gì đó lóng ngóng, bởi cậu biết trong những lúc như thế này, cậu có thể hỏi ba những vấn đề khó nhằn. “Buồn cười quá ba nhỉ.” Cậu trầm ngâm. “Làm sao mà máy móc không thể làm hại con người, trong khi con người lại có thể làm hại máy móc. Sao có thể thế được ạ?” Ông Thaddeus nhìn cậu, đôi lông mày cau lại và đôi mắt to hấp háy phía sau cặp kính phóng đại khi cân nhắc câu trả lời. “Đó là nguyên tắc đầu tiên đối với máy móc, Robert ạ. Máy móc không thể giết con người hay làm tổn thương nghiêm trọng tới con người.” “Nhưng làm sao mà máy móc biết được điều ấy?” “Đó là một phần trong thiết kế được tạo ra trong các van và mạch điện của máy móc.” “Thế nhưng chúng ta lại có thể kết liễu cuộc đời họ. Khiến họ ngừng tồn tại.” Robert cẩn thận đặt một bộ phận vào trong chân của con cáo. “Vậy thì điều gì sẽ xảy ra cho một người máy không còn hoạt động nữa?” “Ba đoán là họ sẽ chết.” Ông Thaddeus nói. “Nếu như họ có khả năng này.” “Hoặc là họ biến mất.” Robert nói. Cậu cầm một bánh răng truyền động đầy dầu trong tay, xoay nó hết lần này tới lần khác. Những chiếc răng sắc lẹm ngoài rìa đâm vào ngón tay cậu. “Nhưng rồi sau đó điều gì sẽ xảy ra với họ? Ba có nghĩ rằng họ sẽ lên thiên đường không? Ba có nghĩ rằng họ cũng có linh hồn không?” Ông Thaddeus suy nghĩ về điều này khi đặt một lò xo vào xương vai của con cáo. “Ba không biết.” Ông nói. “Theo lẽ thường thì không.” Ông ngừng lại. “Ba chưa từng nói với con điều này trước đây, có lẽ ba nên nhắc đến sóm hơn, nhưng từng có một thời gian, bảy năm về trước, khi Giáo sư Hartman mới chuyển tới vùng này, ba thường tới trang viên Brackenbridge để lên dây đồng hồ cho ông ấy. Khi ông ấy biết rằng ba cũng sửa đồng hồ thì thỉnh thoảng ông ấy có nhờ ba giúp sửa chữa một trong những máy móc của ông. Tuy nhiên ba chưa từng nhìn thấy con thú máy này.” Robert tròn xoe mắt. Cậu chưa bao giờ biết ba mình trước kia từng thực sự làm việc với máy móc. Nhưng còn điều nữa mà ông vẫn giấu cậu. “Tất cả máy móc của ông John đều được làm rất tinh xảo.” Ông Thaddeus tiếp tục. “Và khi chúng hoạt động, có điều gì đó ở chúng dường như rất khác biệt, chúng… sống động hơn.” “Như thế nào cơ ạ?” “Chúng không giống những mẫu máy móc thông thường. Chúng có những hành vi khác thường, có thể tự suy nghĩ. Nếu như đó không phải là dấu hiệu của sự sống thì ba không biết còn điều gì khả dĩ hơn.” “Nhưng tại sao không có nhiều máy móc như vậy hả ba?” Robert vừa tiếp tục hỏi, vừa ấn mấy cái răng của bánh răng truyền động vào lòng bàn tay mình. “Có lẽ ông John tạo ra chúng vì mục đích đặc biệt.” Ông Thaddeus nói. “Dĩ nhiên là những máy móc sản xuất hàng loạt không bao giờ có được tính cách như vậy. Phải thật khéo léo mới có thể làm ra những thứ như thế. Ba nghĩ ông ấy để ba phụ giúp sửa chữa chỉ vì ông ấy cảm thấy có sự đồng điệu về suy nghĩ. Ngoài ra, sự thật là ông ấy không thích gửi máy móc của mình đi sửa chữa, ông ấy nói rằng việc đó sẽ hủy hoại tính cách của chúng.” Ông Thaddeus tạm ngưng việc sửa chiếc chân con cáo và nhồi vào tẩu thuốc của mình ít thuốc lá tươi lấy từ cái túi nhỏ trong túi áo của ông. Sau đó ông châm tẩu và thở ra vài hơi thuốc dài. """