"
Tích-Tắc-Tích-Tắc - Kẻ Trộm Kim Cương - Peter Bunzl & Linh Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tích-Tắc-Tích-Tắc - Kẻ Trộm Kim Cương - Peter Bunzl & Linh Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Phiêu Lưu]
Ebooks
Nhóm Zalo
KẺ TRỘM KIM CƯƠNG ———★———
Nguyên tác
MOONLOCKET
(The Cogheart Adventures, #2)
Tác giả
PETER BUNZL
Người dịch
LINH CHI
Đơn vị phát hành
ĐINH TỊ
Nhà xuất bản
THANH NIÊN
ebook©vctvegroup
15-03-2022
Tác giả
Peter Bunzl sinh năm 1975, lớn lên ở Nam London trong một ngôi nhà xây theo phong cách kiến trúc thời Nữ hoàng Victoria, cùng với ba chú mèo, hai chú chó, một cô em gái, người cha làm nghề buôn đồ cổ và người mẹ là một họa sĩ. Peter Bunzl là nhà văn, nhà làm phim và là một họa sĩ phim hoạt hình đoạt giải thưởng BAFTA (The British Academy of Film and Television Arts - viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh Quốc). Cũng giống như cô bé Lily và cậu bé Robert trong cuốn tiểu thuyết đầu tay Trái tim máy của mình, Peter rất thích phiêu lưu mạo hiểm, thích đọc truyện kinh dị và luôn mơ ước có một chú cáo máy giống như Malkin.
MỘT VÀI THÔNG TIN KHÁC:
1. Thích đọc sách và xem phim, nhưng cũng rất thích viết sách và làm phim.
2. Cuốn sách trẻ em yêu thích là The Witches (Mụ phù thủy) của tác giả Roald Dahl.
3. Bộ phim Mind Games của Peter Bunzl đã vào chung kết Virgin Media Shorts Award (2008) và được trình chiếu ở hơn 200 rạp chiếu phim của Anh.
4. Có bằng Thạc sĩ Nghệ thuật về làm phim hoạt hình tại trường National Film & Television School (2002).
5. Hiện đang sống ở Bắc London.
MỞ ĐẦU
Jack bước vào màn đêm qua khe nứt. Bên ngoài sân tĩnh lặng và những đám mây đen dày che lấp mặt trăng khỏi tầm nhìn.
Ngồi xổm cạnh cửa, hắn múc đầy hai tay bùn bẩn từ một vũng nước mưa và trét lên mái tóc trắng của mình. Những cục bùn chảy xuống khuôn mặt chằng chịt sẹo, nhểu thứ chất lỏng mùi mẫn vào mắt, mũi và mồm khiến hắn muốn lộn mửa.
Một ánh đèn chiếu quét qua, soi tỏ những ô cửa sổ có chân song. Jack cúi mình thấp xuống nền đất và nhìn lướt khắp chung quanh. Sân nhà tù, những buồng giam, gác canh, rào cao bao vòng ngoài, nhà chòi ở cổng, những cánh cổng sắt, bức tường đá cao sừng sững với gai sắt tua tủa bịt kín mặt trên - tất cả đều kiên cố, không gì có thể lọt qua được. Trong lịch sử huy hoàng của nhà tù Pentonville, không có lấy một tên tù nhân nào từng vượt ngục thành công…
Nhưng hắn đã từng đối phó với tình trạng còn tệ hơn thế trước đây. Sau mười lăm năm bị canh giữ ở mức an ninh cao nhất với sự giám sát thường xuyên, họ đã phạm sai lầm khi chuyển hắn tới đây, nhà tù Pentonville, và lại còn ở trong buồng giam thông thường nữa chứ. Tuần vừa rồi, những tên cai ngục còn chẳng thèm ngó vào nhìn hắn, thậm chí còn để hắn ra ngoài tập thể dục. Chúng nên khôn ngoan hơn mới phải. Giờ thì, nhờ sự
ngu ngốc của chúng, hắn sẽ được vinh danh là “kẻ vượt ngục bỉ ổi nhất thế giới”, đồng thời cũng là “chuyên gia vượt ngục vĩ đại nhất”! Hắn bò về phía hàng rào và áp người lên bề mặt chăng lưới thép của nó, trèo lên trên, nhanh nhẹn nhảy qua đỉnh hàng rào, và rồi thả mình rơi xuống phía bên kia. Tiếp đất với một tiếng bộp, hắn chạy về phía cánh cổng chính và những dãy tường bao.
Một đường ống thoát nước chạy uốn khúc bên cạnh nhà chòi ở cổng. Jack chùi hai lòng bàn tay nhem nhuốc bùn của mình vào ngực, hít vào một hơi sâu và bắt đầu trèo lên.
Lên tới đầu đường ống, hắn quăng mình qua máng nước, đáp lên mái nhà trơn trượt, và ở phía bên kia mái được chắp vá từ hắc ín và ngói, bức tường bao hiện ra lờ mờ phía trên hắn trong bóng tối. Những ụ lá cây và mảng rêu xanh dồn vào những khe nứt trên tường, tạo thành những nơi cất giấu hoàn hảo cho những món đồ nho nhỏ của ai đó.
Jack lục tìm trong một cái khe như vậy và lôi ra những đoạn dây thừng rối rắm dính nhựa. Hắn đã đổi chác và mua được chúng ở bên ngoài xưởng làm dây thừng từ bảy ngày trước, và chúng là thành phần trong một bộ dụng cụ vượt ngục bí mật. Hắn bắt đầu nối các đoạn dây lại với nhau, cẩn thận kiểm tra từng mối thắt và siết chúng lại thật chặt.
Trước đây lâu lắm, hắn đã dạy cho Finlo kỹ năng này. Một nút thắt tốt có thể sẽ tạo nên điều khác biệt mang tính sống còn, hắn đã bảo thằng bé như vậy. Nhất là đối với một chuyên gia vượt ngục, hoặc một kẻ bị treo cổ. May thay hắn chưa từng nếm trải sự đe dọa từ cái dây thừng kết liễu cuộc đời ấy.
Những suy tư về quá khứ khiến Jack nhớ tới vợ và kế hoạch mà cả hai đã ấp ủ từ cách đây rất lâu, cất giấu kho báu vĩ đại nhất của hắn - Kim
cương Mặt Trăng Máu. Artemisia có lẽ đã qua đời, nhưng sẽ sớm thôi, rất sớm, viên đá to bự xinh đẹp đó sẽ lại là của hắn một lần nữa. Và rồi, ôi chao, đó sẽ là một ngày rực rỡ huy hoàng!
Jack kiểm tra nút thắt cuối cùng và buộc chặt một hòn đá nặng vào cuối sợi dây. Tiếp đó, hắn đứng dậy và bắt đầy xoay tít sợi dây trên đầu như một cái thòng lọng rồi nhả sợi dây dài dần ra cho tới khi hòn đá tăng tốc. Cuối cùng, khi sợi dây đã tạo thành một vòng xoáy lớn trên đầu, Jack buông tay ra.
Hòn đá bay xuyên qua không trung và vòng qua bức tường bao. Trong giây lát, sợi dây thừng rung lắc như đang cố trốn thoát, nhưng Jack đã giữ chắc tay nắm ở cuối đầu dây, và rồi hòn đá đập xuống nền đất ở phía bên kia bức tường kèm theo một tiếng cục.
Hắn chờ đợi một chút, lắng tai nghe…
Hú! Hú!
Tiếng cú kêu - ám hiệu báo đường dây đã được neo chắc. Ánh đèn tìm kiếm một lần nữa đang quét tới rất nhanh.
Jack nằm bẹp xuống mái nhà lợp ngói, khi ánh đèn rời đi, hắn bật dậy và kéo căng sợi dây thừng, thử dây với trọng lượng của mình. Đúng như hắn nghĩ, những mối nối đã chắc chắn.
Hắn cọ xát đế ủng của mình vào lớp hắc ín trên mái để làm chúng bám dính.
Rồi hắn bắt đầu trèo tường.
Những vết nứt giữa mỗi tảng đá tạo thành những vị trí đặt chân chắc chắn. Đỉnh tường cao mười lăm feet* phía bên trên, nhưng hắn chỉ mất có
vài giây để lên tới nơi và nhanh nhẹn nhảy qua hàng rào gai bảo vệ tường chân mái, sau đó trèo xuống con phố phía bên kia tường.
Finlo đang đứng phía dưới, đội một cái mũ quả dưa mòn vẹt. Gã cao hơn cha một chút, mặc dù điều đó cũng bình thường thôi - tất cả người nhà Door đều thấp. Mười lăm năm trước, khi còn ở tuổi thiếu niên, thằng bé vẫn còn là một đứa thấp bé nhẹ cân đáng thất vọng, nhưng rồi từ đó nó đã cao thêm vài inch*, dậy thì thành một gã đàn ông. Jack nghĩ thầm, có lẽ, sau tất cả, Finlo sẽ giúp ích được trong phi vụ này.
Jack nhảy xuống vỉa hè bên cạnh con trai và ôm gã, hít lấy hít để không khí. “Hãy hít một chút cái mùi cay cay đấy đi, Finlo. Ta không được ngửi nó mười lăm năm rồi!”
Finlo cũng hít một hơi sâu. “Mùi gì vậy ạ?”
“Mùi tự do!”
Jack tặng con trai một nụ cười chằng chịt sẹo. Khi hắn sải bước về phía cánh cổng vào nhà tù, cách bức tường một vài phút, một hồi chuông báo động bắt đầu réo lên ầm ĩ.
“Ba, làm ơn.” Finlo gọi nhỏ. “Chúng ta phải đi.”
“Im nào! Ta còn một quân bài nữa…” Jack rút một lá bài ra từ trong làn không khí loãng và găm nó vào cửa nhà tù.
Khi hắn hạ tay xuống, Finlo đã nhìn ra đó là quân bài gì: J Rô*. “Và giờ thì…” Jack nói và nhẹ nhàng lẩn vào bóng tối. “Chúng ta biến thôi.”
Chương 1
Trong quãng đời ngắn ngủi của mình, Lily Hartman đã trở về từ cõi chết không chỉ một, mà là hai lần. Chẳng lần nào đặc biệt dễ chịu với con bé. Lần đầu tiên nó không thích nhắc lại, còn lần thứ hai nó ước gì mỗi ngày trôi qua đều có thể quên đi được.
Lần cận kề cái chết đầu tiên xảy ra là khi con bé mới có sáu tuổi. Nó đã ở trong một vụ đâm xe chạy hơi nước kinh hoàng, vụ đâm xe đã làm mẹ nó qua đời và khiến cho con bé chịu thương tích cực kỳ nặng nề.
Lần cận kề cái chết thứ hai xảy ra vào mùa đông năm ngoái, sau sinh nhật lần thứ mười ba của Lily khoảng ba tháng. Vào một ngày tháng Mười một lạnh giá, Lily đã bị bắn bởi một người mà con bé tin tưởng vô cùng, và may mà có sự dũng cảm của những người bạn Robert và Malkin, cùng với sức mạnh to lớn của trái tim máy - một sáng chế đáng kinh ngạc của cha con bé - thì nó mới sống sót.
Tuy đã khiến Lily sống lại, nhưng trái tim máy khiến con bé thay đổi. Nó giờ là một người lai máy với trái tim hoạt động bằng cơ cấu đồng hồ có thể chạy tích tắc vĩnh viễn. Một đứa con gái với những bí mật không thể chia sẻ - con bé có thể kể cho ai được chứ, khi mà ngoài gia đình nó ra, mọi người đều coi người lai và người máy hạ đẳng hơn con người bằng xương bằng thịt?
Chẳng phải lúc nào Lily cũng thích đay đi đay lại những chuyện như vậy. Sáng nay, những rắc rối của con bé thực sự đã bị bỏ lại phía sau. Nó nằm áp lưng lên mặt đất ấm áp, tận hưởng cảm giác âm ỉ sục sôi của cuộc sống, và thả trôi tâm hồn mình mơ mộng về một mùa hè nóng bỏng kéo dài đầy hứa hẹn.
Malkin, chú cáo máy cưng của Lily đang nằm cuộn mình cạnh con bé, mở con mắt đen láy như hạt đậu ra nhìn ngắm. Những thân cây ngô cao lớn rợp bóng phía trên con cáo.
“Không phải chúng ta nên vào trong nhà rồi sao?” Con cáo sủa và khinh khỉnh gặm nhấm một bên cẳng chân đầy lông của mình. “Đến giờ ăn sáng rồi.”
“Cậu có ăn sáng đâu, Malkin.” Một giọng nói thứ hai vang lên. Robert, người bạn thân thiết khác của Lily trên thế giới này, đang hái những bông hoa bồ công anh ở cách đó vài bước. Cậu gài một bông ở lỗ khuyết cúc áo của mình. Trông cũng đẹp gần bằng vòng hoa cúc họa mi trên mái tóc màu đỏ lửa của Lily. Gần bằng thôi, chứ chưa bằng. Malkin giật ra một cục lông kèm với âm thanh nghe như một cái động cơ hụt hơi vậy. “Nhưng tôi ngửi thấy mùi bữa sáng.” Con cáo khăng khăng. “Trước hết là mùi nồi cháo lổn nhổn của bà Rust. Bữa sáng là bữa quan trọng nhất trong ngày - hai người không nên bỏ đâu.” Hai đứa có lẽ bỏ lỡ bữa sáng thật, vì chúng đã dậy sớm và ra ngoài để ngắm nhìn chiếc khí cầu đưa thư đêm trong chuyến bay sáng từ London tới, giống như thường lệ. Khi chiếc khí cầu ấy bay qua làng Brackenbridge, khoảng bảy giờ ba mươi phút sáng hoặc tầm đấy, Lily sẽ biết thế giới vẫn yên bình. Sau đó, con bé và Robert sẽ nhảy lên xe và đua
nhau đạp xe hết tốc lực qua ngôi làng, băng qua đồi và thung lũng rồi tới nhà ga hàng không để lấy thư cho cha.
Ấy thế mà, sáng nay, chuyến thư đêm lại đến rất muộn. Họ đã ngồi tới gần bốn mươi lăm phút ở cánh đồng bên dưới để chờ đợi chiếc khí cầu cập bến.
Lily lấy một đồng sáu xu ra khỏi, túi áo và lật nó trong tay. “Mặt ngửa thì ở lại, mặt sấp thì đi nhé.”
Con bé búng đồng xu lên, để nó rơi xuống phần cong của váy. “Mặt ngửa, chúng ta ở lại.”
“Cậu không cho tôi nhìn.” Malkin càu nhàu. “Tôi cũng sẽ đi cùng cơ mà.”
“Chậc, thì đằng nào chả đi cùng đường với tôi.”
“Lần nào cũng thế.” Malkin giận dỗi.
“Malkin…” Robert nói. “Cậu dễ bực mình thật đấy.” Lily cười vang, “Ừ, ai mà nghĩ cậu là thú máy cơ chứ!” Con bé lại nằm chống khuỷu tay, cảm thấy thoải mái hơn. Bầu trời chuyển sang màu đỏ tươi sáng phía trên nóc nhà, và nó có thể thấy cùng lúc cả mặt trăng lẫn mặt trời. Nếu nhìn qua phía vai phải của mình, nó sẽ thấy mặt trời đang chầm chậm mọc lên, còn nếu nhìn về bên trái nó sẽ thấy mặt trăng. Với một góc lớn trên khuôn mặt trắng như ma bị khuất bóng, trông mặt trăng như thể một đồng xu uốn cong rơi vào trong một đài phun nước ước nguyện vậy. Lily nhặt lên đồng sáu xu và so lên trên mặt trăng, nheo mắt lại, giả làm nhật thực.
“Người đàn ông trên mặt trăng* hôm nay nhìn khủng khiếp quá, giống Victoria* nhỉ.”
“Thế thì nên gọi bà ấy là người phụ nữ trên mặt trăng.” Robert giật đồng sáu xu trong tay Lily và cũng bắt chước làm trò đó. “Nữ hoàng trên đồng xu có cái mũi to hơn nhỉ.” Robert trầm ngâm nói. Lily nhằn một cọng cỏ. “Nhưng bạn phải thừa nhận một điều, họ trông rất giồng nhau.”
“Sao cậu biết được?” Malkin vẫn đang hơi bực mình, con cáo gặm bàn chân kia của mình. “Cậu đã bao giờ gặp Nữ hoàng đâu.”
Robert đưa trả đồng xu và Lily đặt nó vào túi áo ngoài, bên cạnh chiếc đồng hồ bỏ túi cùng hòn đá với con cúc* nhỏ ở chính giữa - một món quà của mẹ tặng mà con bé lúc nào cũng mang theo người. “Cậu biết không…” Con bé nói. “Nữ hoàng có hai ngày sinh, giống tôi. Cậu nghĩ thế nào về điều ấy?”
“Cậu lấy đâu ra mà có hai sinh nhật chứ.” Malkin cáu kỉnh nói. “Có chứ.” Lily chỉnh lại cái vương miện bằng hoa cúc họa mi đang chực trượt xuống một bên đầu nó. “Ngày sinh nhật thật của tôi, và ngày cha đưa tôi trở về từ cõi chết. Ba ngày sinh nếu cậu tính cả lần tôi bị bắn nữa. Tôi đặc biệt thế đấy.”
“Người ta không tính ngày sinh nhật kiểu đấy” Robert nói. “Kể cả khi bạn là…” Thằng bé lí nhí từ cuối cùng: “Một người lai.”
Lily đặt tay lên ngực, cảm nhận những vết sẹo trên đó. “Đừng gọi tôi bằng từ đó.”
“Sao lại không?”
“Tôi không thích từ đó.”
Một con châu chấu nhảy lên góc váy Lily. Con bé thẫn thờ nhìn. Trông con châu chấu vừa rất thật lại vừa rất máy móc - giống hệt con bé. Lily
ghét từ “người lai”, tất cả những gì nó hằng mong muốn là được làm người bình thường.
Malkin đớp con côn trùng ấy và con vật nhảy biến đi vào giữa đám lá ngô.
“Sao cậu lại làm thế?” Lily kêu lên.
“Đừng làm quá lên.” Con cáo càu nhàu. “Mới cả, tôi đớp trượt mà, phải không?”
“Tại vì cậu không đủ nhanh đấy.” Robert lại hái một bông hoa bồ công anh nữa.
“Thế này thì có nhanh không?” Malkin đớp vào những hạt giống như nùi bông làm chúng bay toán loạn.
“Ơ kìa!” Robert tức giận la lên. “Sao cậu không…”
Nhưng rồi trước khi Robert nói được hết câu, tiếng tách-tách-tách lớn phát ra từ những chiếc chân vịt xoáy tít đã ngắt lời cậu. Một chiếc zeppelin* đồ sộ được trang trí huy hiệu của Công ty Khí cầu Hoàng gia đang bập bềnh trên bầu trời.
“Chuyến thư đêm! Cuối cùng cũng tới!” Lily reo lớn át cả tiếng ồn đinh tai nhức óc kia. “Tôi biết nó sẽ đến mà!” Con bé lấy đồng hồ ra và bật mở nắp để nhìn giờ. “Chậm lịch trình một tiếng.”
“Chậm còn hơn không!” Robert nói và đội mũ lưỡi trai lên đầu. “Đi thôi, đi gặp nó nào.” Robert vố lấy chiếc xe đạp của cậu đang nằm gần một khóm ngô bị san phẳng và đạp xe tới rìa cánh đồng.
“Chạy bộ thôi, Malkin.” Lily phủi đất bám vào vạt trước áo con bé. “Nếu cậu muốn.” Con cáo nhảy bật dậy và lắc mình để rũ những hạt có gai bám trên lông khi thấy Lily chộp lấy chiếc xe đạp của con bé.
Cả hai lóc cóc chạy qua bãi cỏ mọc cao. Lúc cả hai tới được cánh cổng, Robert đã đẩy cổng mở sẵn và đang ngồi đợi trên yên xe ở con đường nhỏ.
* * *
Làng Brackenbridge tấp nập người trên đường đi làm, những người bán hàng rong, thương nhân và những nhóm người mua hàng với giỏ đan bằng liễu gai đứng trên những con đường nhỏ, họ nói chuyện phiếm và giết thời gian trong ngày. Một vài người máy giúp việc, thuộc sở hữu của những người tới từ những gia đình sang trọng hơn, đang đi trên những rãnh nước dọc theo mép đường để không làm phiền tới đám đông con người.
Robert và Lily tăng tốc chạy quanh góc phố High, nơi có một người thắp đèn đang trang trí cho cột đèn bằng những dải ruy băng để chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm của Nữ hoàng diễn ra trong vòng bốn ngày tới. Hai đứa phóng vọt qua thang của bác ta và lóc cóc chạy xe đạp song song nhau trên con đường rải đá cuội, sau đó lại guồng xe chạy lên hẻm Planter và đồi Brackenbridge.
Malkin phi giữa hai đứa. Tuy chỉ là một con thú máy, nhưng nó có thể chạy nhanh gấp đôi một con cáo thật và đuổi kịp hai người bạn chẳng làm khó gì nó. Cơ cấu chạy đồng hồ bên trong con cáo xì xì hạnh phúc, hòa nhịp cùng với tiếng nan hoa xe đạp lách cách của Robert và Lily. Lưỡi con cáo lè ra giữa hai hàm răng khi đớp vào gót chân bọn trẻ, cố làm chúng phân tâm khi đi qua chân đồi.
Khi cả nhóm tới được nhà ga hàng không, chiếc khí cầu đưa thư đang quay ngược lại, đổ cái bóng dài ngoằng của mình xuống bãi đáp. Những
phi công đứng trên các bệ cánh quạt đang tháo một ròng rọc ra và thả xuống ba chiếc cờ màu đỏ.
“Đó là tín hiệu.” Robert nói. “Trong một giây nữa họ sẽ thả thư xuống.” Một chiếc xe chạy hơi nước nhả khói rùng mình dừng lại ở giữa đường băng hạ cánh, và một bác người máy khuân vác nhảy ra từ trong khoang lái của tài xế. Chiếc khí cầu thả xuống cho người máy một cái dây và Lily nhìn bác ta gắn dây đó vào đuôi xe mình. Sau đó, bác ra hiệu bằng tay ngắn gọn và bốn túi thư vèo vèo bay xuống phía bác. Bác người máy khuân vác lần lượt đỡ lấy từng túi và ném chúng vào thùng xe. Cuối cùng, bác tháo dây nối ra và chiếc khí cầu bay đi, biến mất phía sau những đám mây bông xốp màu trắng kem.
Bác người máy khuân vác quay trở lại xe mình và lái nó về cuối nhà ga. Malkin nãy giờ vẫn đang dõi theo bác, bất thình lình co cẳng chạy dọc theo vết bánh xe bằng gỗ của chiếc xe.
“Cậu ấy định làm trò gì vậy?” Lily than, rồi nó và Robert nhảy lên xe đạp và đạp nhanh nhất có thể để theo kịp.
Cả hai vòng qua góc nhà ga và thấy chiếc xe chạy hơi nước đã đỗ bên ngoài kho thư. Malkin đang đứng cạnh xe, sủa vào bác người máy khuân vác đang cố vật lộn để dỡ các túi thư ra. “Xùy!” Bác xua, vung một bó thư vào con cáo.
Những lá thư tung ra, bay khắp sân ga.
“Xùy cái đầu ông í!” Malkin gầm gừ và khụt khịt mũi đánh hơi. “Đừng làm phiền bác người máy đó, Malkin!” Robert hét. “Sinh vật đây là của cậu sao?” Bộ ria mép làm bằng vải chổi lau nhà của bác người máy co giật đầy phẫn nộ. “Hãy bảo nó đi ra ngay!”
“Malkin, cái đồ bị thịt leng keng kia!” Lily hét lên. “Đủ rồi đấy!” “Ông ta có mùi ngộ quá.” Malkin gầm gừ.
Lily phẩy tay, khẩn trương xua con cáo ra khỏi bác người máy. “Cháu rất xin lỗi, thưa bác. Cháu hy vọng chúng ta có thể làm mọi thứ ổn trở lại chứ ạ?”
“Cháu nên nghĩ thế!” Bác người máy bắt đầu nhặt các bức thư lên. Khi Lily cúi xuống nhặt giúp, nó thoáng thấy một bảng đồng gắn trên cánh tay bác:
CÔNG TY TNHH HARTMAN VÀ SILVERFISH
Nơi tạo ra những người máy và thú máy hạng nhất
Bác ấy chính là một trong những sáng chế của cha! Con bé đưa những bức thư cho bác và nhìn kĩ hơn khuôn mặt kim loại của bác. Nó chắc chắn mình đã gặp bác ấy ở đâu đó trước đây…
“Bác ở trên chuyến khí cầu bay từ Manchester năm ngoái phải không ạ?” Lily hỏi.
Khuôn mặt bác người máy rạng rỡ hẳn lên. “Chao ơi! Vâng, đúng là tôi. Các bộ phận của tôi có thể đã hoen gỉ, nhưng tôi vẫn nhớ cô. Cô Grantham, phải không nhỉ?”
“Thực ra tên cháu là Hartman.”
“Dĩ nhiên rồi… con gái của giáo sư!” Bác nắm tay Lily và lắc một cách nồng nhiệt, tới khi Robert nghĩ tay con bé chuẩn bị rụng ra mới thôi. “Bác đã làm cháu vui trong ngày buồn bã đó.” Lily nói. “Cháu có thể hỏi tên bác được chứ ạ?”
Bác người máy thở dài một hơi. “Than ôi, tôi không có tên, chỉ có mỗi dãy số: Bảy-Sáu-Năm-G-B-J-Bốn-Không-Bảy. Đọc hơi mỏi mồm một tí nên một số anh phi công gọi tôi là Mũi Đồng, là vì, chà… vì cái mũi bằng đồng của tôi.” Bác tự hào đánh bóng cái mũi của mình với tay áo khoác cho tới khi mặt trời nhấp nháy phản chiếu lên bề mặt bằng đồng của nó. “Cô có thể vui lòng giới thiệu những người bạn của mình được chứ, cô Hartman?”
“Dĩ nhiên, bác Mũi Đồng, đây là Robert và Malkin.”
Robert ngả mũ chào bác người máy và Malkin cũng ậm ừ trong miệng. “Bác thấy các cháu cũng thường lui tới nhà ga này.” Bác Mũi Đồng nói.
“Tôi không phải là kẻ thích chăm chăm đi nhòm ngó khí cầu, nếu đó là điều ông đang ám chỉ.” Malkin cáu kỉnh đáp lại. “Cá nhân tôi không chịu nổi các thể loại khí cầu - những phương tiện giao thông hết sức tầm thường! Hai cái con người này mới là mấy kẻ hâm mộ quá khích. Robert đây biết tất cả các đường bay. Cậu ấy thậm chí còn có cả một cuốn sách toàn biển số đăng ký của khí cầu nữa cơ. Đưa cho ông ấy xem đi, Robert.”
“Tôi làm gì có.” Robert nổi quạu. “Hơn nữa…” Cậu nói với bác Mũi Đồng. “Chúng cháu đâu có thường xuyên lui tới đây như thế đâu, chỉ là một… hoặc hai lần mỗi tuần thôi.”
“Sao tàu chở thư hôm nay lại tới muộn thế ạ?” Lily hỏi, cố thay đổi chủ đề.
“Có thể vì bất cứ nguyên nhân gì…” Bác Mũi Đồng nói. “Nhưng tôi nghe trên điện tín nói rằng họ phải dừng in báo lại vì có tin sốt dẻo nào đó.
Và vì phố Fleet mua đứt gần hết khoang chứa hàng chuyển phát, nên làm chậm cả chuyến bay lại.”
Bác kéo lê túi thư cuối cùng ở thùng xe chạy hơi nước, và Robert thấy rằng nó được đóng logo của Nhật báo Cog. “Chắc hẳn phải là một câu chuyện gây chấn động mới có thể làm chậm chuyến bay tới một tiếng.” Bác Mũi Đồng nói và mở túi thư ra, đưa một tờ báo cho Lily. “Trong đó nói gì vậy?”
Lily đọc tiêu đề và mỉm cười, vì câu chuyện đó thuộc về một người bạn của con bé và Robert.
® NHẬT BÁO COG ®
GIẬT MÌNH VỤ TÙ NHÂN VƯỢT NGỤC PENTONVILLE London, báo sáng, ngày 16 tháng 6 năm 1897. | 1 xu
Anna Quinn
Kẻ trộm và nghệ sĩ thoát hiểm nổi tiếng Jack Door đêm qua đã vượt ngục và từ đó vẫn đang nhởn nhơ bên ngoài.
Là trưởng gia tộc Door khét tiếng, nổi danh nhờ hành nghề bói toán rởm và những màn đào tẩu như cơm bữa làm sửng sốt công chúng khắp châu Âu, ông Door đã phải ngồi bóc lịch với án chung thân vì tội đã đạo diễn phi vụ đánh cắp viên Kim cương Mặt Trăng Máu. Một món trang sức vô giá, thuộc sở hữu của Nữ hoàng Victoria, đã bị đánh cắp từ trên trán con voi máy của Nữ hoàng tên là Elephanta trong buổi biếu diễn theo đặt hàng của Hoàng gia mười lăm năm trước.
Tuần trước, ông Door được chuyển tới từ nhà tù Millbank an ninh nghiêm ngặt, nơi ông ta bị biệt giam dưới sự giám sát thường xuyên, tới một phòng giam đơn tiêu chuẩn ở nhà tù Pentonville, mặc cho việc này gặp phải nhiều sự phản đối. Ông ta đã bỏ trốn khỏi noi này trong khoảng giữa mười hai giờ đêm và ba giờ sáng. Cảnh sát không tìm thấy thêm dấu vết nào của ông ta, ngoại trừ một lá bài mang tên chính ông ta - J Rô*, lá bài được phát hiện nằm kẹp trên cổng nhà tù sau cuộc vượt ngục táo bạo này.
Lily ngừng đọc và mím môi. “Họ biết tất cả những điều này mà vẫn không tìm thấy chút manh mối nào về nơi ẩn náu của ông ta… Ai mà tin được chứ?”
Malkin lắc đầu. “Không phải tôi.”
“Tôi cũng vậy.” Robert nói. “Bài báo còn nói gì nữa?”
Lily nghiên cứu phần còn lại của bài viết. “Chánh thanh tra Fist lão luyện của Sở Cảnh sát Thủ đô, New Scotland Yard*, cho rằng tên tù nhân đã được hỗ trợ bởi một bên thứ ba nào đó, và rằng ông ta, hoặc bọn chúng, có thể đã kiếm được phương tiện để rời khỏi thành phố. Các công dân được khuyên cáo không nên tiếp cận Door bởi ông ta có thể được trang bị nhiều vũ khí và rất nguy hiểm. Thay vào đó, họ nên ghi lại nơi ẩn náu của ông ta và báo cáo lại cho cơ quan cảnh sát địa phương ngay tức khắc.”
“Chúng tôi có bức thư nào hôm nay không?” Malkin xen ngang. “Tôi ghét phải nghĩ rằng chúng ta đi cả quãng đường chỉ để nghe đọc tin nổi bật của tờ báo. Có hay không có mấy tên tội phạm cứng đầu đó thì chúng ta vẫn xứng đáng có được thư của mình chứ.”
“Để xem nào.” Bác Mũi Đồng lướt qua những chồng thư từ một trong số các túi khác, xem xét các địa chỉ. “Các cháu có biết là chúng tôi đưa thư tới tận nơi chứ?” Bác hỏi.
“Cháu biết.” Lily nói. “Nhưng chúng cháu ở vùng…”
“Và cháu muốn ngắm các khí cầu bay tới. Bác hiểu!” Bác Mũi Đồng đột ngột dừng lại và lôi ra một bao thư nhuốm màu kem từ trong chiếc túi. “Các cháu may mắn đây, có một bức thư dành cho cha các cháu.”
Lily nhận chiếc phong bì. Nó được đề địa chỉ gửi bằng nét chữ viết tay uốn lượn: Giáo sư John Hartman, trang viên Brackenbridge. Nối tiếp đó là một hình trang trí uốn lượn dài loằng ngoằng - trông tựa một mỹ từ hào nhoáng nào đó - khiến bụng Lily sôi lên vì thích thú đến nỗi con bé ước gì bức thư đó gửi cho mình.
Lily lật ngược bức thư lại. Trên mặt sau có một dấu niêm phong màu đỏ được dập nổi với hình một con sư tử cùng một con kỳ lân đang rướn người đứng trên hai chân sau và đối mặt vào nhau trên một chiếc khiến lớn
hoa mỹ, một chiếc vương miện ngự trên đỉnh khiên. Phía dưới chân hai con vật ấy là một dòng chữ nhàn nhạt: DIEU ET MON DROIT*. “Nhìn có vẻ quan trọng.” Robert nói và nhìn qua vai Lily. “Cực kỳ quan trọng.” Đôi mắt bác Mũi Đồng lấp lánh. “Tốt nhất là các cháu hãy giao thư cho Giáo sư Hartman ngay lập tức đi. Đó là dấu niêm phong của Nữ hoàng - các cháu đang nhận được thư của Hoàng gia đây.”
* * *
Lily cất bức thư vào trong túi áo ngoài của mình. Malkin thì ngậm một tờ báo trong miệng, rồi cả ba đứa mau chóng quay về nhà. Khi đạp xe qua làng, Robert nấn ná lại phía sau, để hai người bạn về trước. Còn một điều khác mà cậu muốn làm.
Ở cuối phố High, khi cả bọn đi tới đường Cây Cầu, Robert rẽ về bên bãi cỏ của làng, đi qua khu nghĩa địa và nhà thờ đá màu xám nơi ba cậu được chôn cất vào mùa đông năm ngoái. Mặt đất khi ấy bị đóng băng dày dưới chân họ tới nỗi có cảm tưởng như băng sẽ chẳng bao giờ tan được. Cậu cảm thấy một nỗi lo sợ nhói lên trong lòng và phanh xe lại, nghĩ thầm mình nên dừng chân ở đây, nhưng đây đâu phải nơi cậu muốn tới. Thay vì dừng lại, cậu lao xuống quanh góc phố và đi ngược lên con đường dẫn về Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend.
Nơi đây từng là niềm tự hào và hạnh phúc của ba cậu, nhưng giờ căn nhà rúm ró như một chiếc răng sâu của làng Brackenbridge, một cái vỏ cháy sém của chính nó trước đây, những ô cửa sổ bịt kín ván, kính cửa trước nhà thì vỡ nát. Tình trạng của ngôi nhà khiến ngực Robert đau nhói. Ấy thế mà bề ngoài xám xịt của ngôi nhà lại trở thành cục nam châm kéo cậu vào, cho tới khi cậu nhận ra mình đang thẫn thờ như một chú chó con đi lạc, vì ba, và cả vì cuộc sống trước kia của cậu, đã bị thiêu rụi trong ngọn lửa.
Đôi khi cậu thích huyễn hoặc mình rằng cậu chỉ đang ở với nhà Hartman cho tới khi ba quay về. Cậu giả vờ nghĩ rằng ông Thaddeus đã đi thăm thú đâu đó và sẽ trở về sớm thôi. Chỉ khi nhìn thấy những sự vật hiện hữu, cậu mới biết những gì mình hằng mơ tưởng không phải là thật.
Cậu đã tới nhìn đăm đăm vào cửa hiệu bị cháy rụi này không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa lần nào gom được đủ dũng cảm để bước vào bên trong. Giáo sư Hartman đã cảnh báo cậu đừng đi vào đó. Ngôi nhà giờ không an toàn. Dù gì thì mọi thứ cậu muốn có đều đã bị ngọn lửa lấy đi mất rồi. Đống phế tích này thuộc sở hữu của mẹ cậu, bất kể bà đang ở đâu.
Bà Selena. Mười năm qua kể từ khi bỏ đi, bà chưa từng mảy may gửi cho cậu một tâm bưu thiếp hay điện báo nào, thậm chí là vào ngày sinh nhật cậu. Có lẽ bà không hay biết gì về việc ba qua đời, bà quan tâm ít vậy đấy. Vậy mà bà vẫn được đứng tên chủ sở hữu cửa hiệu theo ý nguyện của ba… Khi Robert lần đầu nghe thấy cái tin đáng ngạc nhiên ấy vào sáu tháng trước, cậu đã chờ đợi bà quay về và lo liệu mọi sự. Bà đã không xuất hiện và Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend vẫn bỏ trống, còn cậu thì vẫn ở cùng nhà Hartman. Chậc, thế là xong. Chẳng còn gì nữa mà chờ với đợi. Cậu sẽ bỏ lại quá khứ đằng sau lưng.
Đang sắp sửa bỏ đì thì ô cửa sổ cũ ở phòng ngủ làm cậu không thể rời mắt, và trái tim cậu nhảy vọt lên tới tận cổ họng.
Có thứ gì đó vừa mới di chuyển phía sau ô cửa kính ám đầy khói. Một dáng người thấp thoáng ẩn hiện…
Cậu nhìn kĩ hơn.
Không sai. Bóng người đang ở đó. Chằm chằm nhìn lại cậu. Gương mặt người đó nhợt nhạt và có dáng tròn vành vạnh như mặt trăng cùng với một chiếc mũi vuông vắn, mái tóc xám và đôi mắt tối sắc lẹm. Ba? Lẽ nào?
Robert bước về phía đó, nhưng bóng người ấy đã biến mất, tan biến cũng nhanh chóng như khi xuất hiện, cứ như là một bóng ma vậy. Trong thoáng chốc, Robert những mong bóng hình ấy xuất hiện ở ngưỡng cửa dưới cầu thang và vẫy tay ra hiệu cho cậu tới mở cửa. Cậu chờ đợi, nhưng chẳng có gì xảy ra cả.
Đột nhiên, Malkin nhảy bổ tới rồi dừng lại cạnh chân Robert, và vài giây sau, Lily phanh két xe dừng lại ngay cạnh cậu.
“Bạn đã ở đâu vậy?” Con bé nói không ra hơi. “Bọn tôi đang trên đường về nhà, nhưng khi nhìn lại đằng sau thì không thấy bạn đi theo.” “Tôi vẫn ở ngay đây.” Robert trả lời. Tôi về nhà, cậu muốn nói thêm như vậy. Đây chính là nhà.
Cậu đang định kể cho con bé nghe về bóng ma kia, nhưng lời nói chỉ dừng lại ở ngay đầu lưỡi chứ không thốt ra. Bởi vì đó có lẽ là một mơ ước hão huyền, một hình ảnh tưởng tượng. Chẳng phải cậu vừa mới đang nghĩ về ba hay sao? Có khi cậu tự gợi lên hình ảnh của ba đang nhìn xuống…
“Có chuyện gì thế?” Lily hỏi. “Bạn có vẻ đang nghĩ ngợi điều gì.” “Không phải thế.” Robert trả lời. “Nhưng tôi… Tôi thấy một hình ảnh.”
“Một kỷ niệm à?” Lily hỏi dồn.
“Có lẽ vậy.”
Phải chăng là thế?
Lily gật đầu về phía ngôi nhà. “Nếu bạn đang định vào trong đó…” Malkin thả rơi tờ báo xuống đường. “Không, không, không được.” Con cáo sủa vang. “Ngài John đã nói là ngôi nhà này có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Đi thôi.” Nó thúc cái mũi khô khốc của mình vào chân hai đứa.
“Đi về trang viên Brackenbridge thôi. Bữa sáng đang chờ. Món cháo ngon tuyệt cú mèo! Còn nữa, chúng ta phải đưa thư của Nữ hoàng mà.” “Suýt nữa thì tôi quên đấy.” Robert nở một nụ cười nhạt thếch và nhìn Malkin nhặt tờ báo lên.
Nhưng khi đạp xe rời đi, Robert không thể cưỡng được việc liếc nhìn lại đằng sau lần cuối. Ở đó, trong ô cửa sổ u tối của cửa hiệu đang lùi xa dần, cậu thề rằng mình lại thấy gương mặt mờ mờ của ba đang dõi theo cả nhóm phía sau lớp kính bám đầy bồ hóng.
Chương 2
Lily và Robert vòng xe ngược về hướng trang viên Brackenbridge cùng với Malkin phi theo sau. Hai đứa hướng xe chạy qua những cánh cửa rộng mở trên bức tường đá vững chãi và lách cách dừng xe lại.
Malkin hít hà một đôi chân kim khí đang thò ra từ gầm trước của chiếc xe chạy hơi nước.
“Để tôi ra nào!” Đội trưởng Springer lăn mình ra khỏi gầm chiếc xe. Gương mặt bằng kim loại của bác lem nhem toàn dầu máy, nhưng đó cũng chẳng phải điều gì bất thường cho cam, bởi bác là một người máy. Bác thả cây cờ lê của mình vào hộp dụng cụ lớn bằng thiếc và lục lọi tìm một món đồ khác. “Cha cháu đang tìm cháu đây.” Bác bảo Lily. “Cháu lại trễ bữa sáng rồi.” Bác khụt khịt phản đối nghe như âm thanh đồng hồ tích tắc chạy. “Mấy chú cá con ơi, động cơ thì không chạy được nếu thiếu nhiên liệu, các cháu biết đấy.”
“Chúng cháu biết ạ.” Lily nói. Con bé và Robert dựng xe cạnh bức tường bên trong một gian nhà trông và vội vã chạy qua sân để vào nhà. Tới được phòng ăn, hai đứa thấy cha đang ngồi đó và ăn ngon lành một đĩa cá trích muối hun khói.
“A, những kẻ lang thang đã trở về!” Cha reo lên. “Đi ngắm khí cầu phải không?”
Malkin nhảy lên một chiếc ghế và đặt tờ Nhật báo Cog lên mặt bàn. “Chỉ đơn giản là đi lượm báo thôi. Của ngài đây - nham nhở hết cả rồi.” Con cáo lấy mũi đẩy tờ báo về phía ông John rồi nhảy xuống và lẩn bên dưới bàn.
Cha vuốt phẳng những trang báo nhăn nhúm ra. Lily những tưởng ông sẽ đọc ngay câu chuyện vượt ngục giật gân kia, nhưng thay vì thế, ông lại mở phần tin công nghệ ra, đeo cặp kính nửa vầng trăng của mình lên rồi chúi đầu nhìn vào những mẩu tin được in bé tí tẹo.
“Cha không định đọc tin chính sao ạ?” Con bé hỏi khi rướn sang để giành giật vài trang câu đố cho mình.
“Tin này còn thú vị hơn nhiều.” Cha lẩm nhẩm.
Lily thở dài, con bé quá đói để có thể tranh luận. Hơn nữa, nó biết cha sẽ chẳng để tai nghe đâu. Ông đang chìm đắm trong những báo cáo về các sáng chế mới được tạo ra ở nước Anh.
Wingnut, người hầu máy, hối hả bước vào. Hàng lông mày làm bằng kim loại của ông nhăn lại tập trung khi ông đặt chiếc khay bạc xuống rồi bưng bát cháo, đĩa thịt hun khói, trứng và bánh mì cho mỗi đứa.
Lại một lần nữa, có quá nhiều đồ ăn thức uống. Bà đầu bếp Rust hầu như chẳng bao giờ biết tới khái niệm giảm bớt số lượng, và do đó, bà luôn nấu hơi quá tay. Nhưng hôm nay, hai suất ăn sáng Lily cũng chấp hết, con bé ngồi vào chỗ của mình và đánh chén ngay tức thì. Sau một chuyến đạp xe dài, nó cảm giác như có một đội quân đói cồn cào đang diễu hành quanh khoang dạ dày của nó đời được cho ăn.
Lily nhét đầy mồm hết cháo, bánh mì, thịt hun khói rồi tới trứng, và nhìn sang Robert ở phía bên kia bàn. Cậu nở một nụ cười uể oải nhất từng
thấy. Nước da Robert đã tái nhợt đi quá đỗi và cậu hầu như chẳng ăn uống gì. Lúc trước Lily chưa nhận ra, có những quầng xám mệt mỏi hằn dưới mắt của Robert.
Con bé đoán chắc nguyên nhân là do chuyến về thăm cửa hiệu vừa rồi. Dạo gần đây, Lily bắt đầu nghi ngờ Robert thường xuyên thực hiện những chuyến đi chệch đường bí mật như vậy. Cậu bạn có xu hướng biến mất vào những thời điểm lạ lùng với ý nghĩ sẽ chẳng ai có thể để ý thấy. Nhưng Lily biết rõ. Con bé lúc nào chẳng để ý xem bạn mình đang ở đâu, như kiểu nó hơi bị nhạy cảm thái quá với vấn đề này vậy. Việc bắt gặp Robert ở Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend hôm nay chỉ khẳng định thêm những nghi ngờ của nó: Robert đang khao khát muốn có lại cuộc sống xưa kia. Nó hiểu cảm giác ấy như thế nào, nhưng cứ đeo bám mãi quá khứ sẽ chỉ khiến cậu bạn đau buồn mà thôi. Nó thấy đồng cảm với Robert.
Ngày nào Lily cũng nhớ mẹ. Có lẽ đó là cơn đau trong ngực nó, như thể từng có một sợi dây kết nối giữa hai mẹ con bị đứt rời, hoặc là một ký ức nào đó râm ran gợi lại. Những chiếc ôm đã nửa bị lãng quên và những cuộc đối thoại nhạt nhòa - chúng quanh quẩn đâu đó bên trong nó rồi thỉnh thoảng lại hiện lên, cứ như khi ta thoáng gặp một làn hương thoảng nhẹ nhàng nhất của một mùi thơm đã phai nhạt mà không thể biết đích xác nó đang ở nơi nào.
Nỗi đau mất mát chắc hẳn thấm thía hơn đối với Robert, bởi vết cắt ấy còn mới và sâu. Cậu hẳn đã nghĩ về ba mình từng giờ mỗi ngày. Và có lẽ Robert cảm thấy mình không thể nói ra, hoặc lo ngại rằng Lily hay cha con bé sẽ nghĩ mình là kẻ vô ơn. Nhưng Robert thật ngốc khi nghĩ cậu không thể thành thật với gia đình con bé.
“Nghe này.” Cha rũ tờ báo ra. “Hôm nay nghị viện đã bỏ phiếu biểu quyết việc xây dựng một trạm năng lượng mới ở phố Lots, khu Hoàng gia Kensington và Chelsea, cùng với các kế hoạch triển khai nguồn điện cho toàn bộ hệ thống ngầm và tây London.”
“Tin ấy chẳng hay ho gì.” Lily nói.
Cha chỉnh lại đôi mắt kính đang lệch xuống mũi ông. “Dĩ nhiên là nó hay ho chứ, Lily. Điện năng chính là tương lai đây. Tại sao ư, kể từ hồi ông Edison lần đầu tiên thắp sáng những ngọn đèn đường trên cầu cạn Holbom mười lăm năm trước, những kỹ sư ở London đã phấn đấu nỗ lực để tạo nên những trạm điện lớn hơn và tốt hơn, để trong tương lai có thể truyền tải điện năng một cách hiệu quả quanh thành phố, và một ngày nào đó là trên khắp đất nước này.”
Ông bắt đầu dịch chuyển những lọ gia vị trên bàn. “Ý cha là, hãy tưởng tượng lọ hạt tiêu này là một trạm điện, và cái nĩa này là một đường ray xe lửa, mà tốt hơn là tưởng tượng bằng con dao này.”
“Đó là dao của con!” Lily la ó. “Trả cho con! Con đang ăn mà!” Cha đưa con dao về phía con bé. “Nhưng nghe này, Lily… điều này mới quan trọng. Trong cuộc đời con, có lẽ sẽ không còn động cơ chạy bằng bộ máy đồng hồ hay xe chạy hơi nước nữa. Sự thật là, sẽ rất nhanh thôi, tất cả mọi thứ đều sẽ chạy bằng điện.”
Lily giằng lấy con dao từ cha và cắt một lát thịt hun khói khác. “Tiếp theo đó…” Cha tiếp tục. “Những người chế tạo máy như cha con đây sẽ chẳng còn việc gì mà làm. Những người máy cũng vậy. Vô số những đồ gia dụng chạy điện sẽ thay thế họ.”
Có tiếng loảng xoảng ở phía sau, khi ông Wingnut đánh rơi cái khay bạc của mình, làm đổ một đĩa cá trích xông khói xuống sàn. “Tôi xin lỗi!” Ông lắp bắp nói, và Lily nghe tiếng ông người máy lẩm bẩm nho nhỏ trong hơi thở khi ông vội vàng tìm quanh nhặt những chiếc xương cá bé tí đang mắc trên thảm. “Thật là vô lý leng keng quái quỷ!” “Trong khi chờ đợi ngày ấy xảy ra, cha đang ngó lơ câu chuyện hấp dẫn bậc nhất của năm nằm ngay dưới mũi cha. Cuộc vượt ngục táo bạo của một tù nhân xấu xa tên là Jack Door, đưa tin bởi cô bạn Anna của nhà ta.” Lily nói và gõ cái nĩa dính đầy trứng của mình vào đằng trước tờ báo một cách nóng nảy.
Cha chăm chú nhìn vào dòng tin vắn nổi bần bật phía dưới tít chính. “Chà chà, cha thấy là cô ấy đang là phóng viên đỉnh của tòa báo này. Một phụ nữ tiên phong, tuyệt vời!”
Lily nguýt. “Có hàng đống phụ nữ là phóng viên hàng đầu, cha à. Cha chưa từng nghe danh Nellie Bly hay Elizabeth Bisland sao?” “Sao lại không chứ, dĩ nhiên cha đã nghe danh họ!” Cha nhòm vào bài báo. “Tên đê tiện Jack này là ai đây? Hắn đã từng cướp của Nữ hoàng, bài báo nói…”
“Đúng vậy.” Lily trả lời. “Ông ta đã bị kết án tù chung thân. Và rồi ông ta đã viết một cuốn sách trong tù mang tên Jack Door Khét tiếng: Chuyên gia thoát hiểm và Kẻ trộm đại tài! Cuốn sách được xếp vào hàng truyện kinh dị một xu, nhưng con đã đọc nó năm ngoái. Quả là phi thường!”
“Nghe có vẻ thị phi hơn là phi thường đây.” Malkin nói.
“Và là một kẻ đáng sợ nếu những gì trong bài báo của cô Anna là thật.” Robert nói thêm. “Làm thế nào ông ta tuồn được cuốn sách ra ngoài nhà tù,
kiểu gì mới được, nếu đang bị canh giữ ở mức an ninh tối đa?” Lily cắn một miếng bánh mì to tướng. “Chẳng ai biết. Nhưng ông ta đã xoay xở thế nào đó. Nếu bạn mà là một chuyên gia thoát hiểm thì bạn sẽ có những kỹ năng kiểu như vậy thôi, Robert”
Robert đẩy thức ăn của mình sang một bên, cậu không ăn gì mấy vì quá bận tâm nghĩ về bóng ma sau ô cửa sổ. Ít ra thì câu chuyện của Lily cũng giúp cậu sao lãng đi. “Đó là những gì mà cuốn sách của tay Jack đó viết sao?” Robert hỏi. “Về những mánh lừa và những vụ trộm cướp nổi tiếng của ông ta?”
“Không hẳn.” Lily nói, phun đầy vụn bánh mì khắp đĩa của mình. “Hầu hết kể về phương thức cạy khóa thôi. Mánh đó và cách phá những dây xích không thể phá vỡ… Ôi, và cách để buộc những nút thắt không gỡ ra nổi nữa.”
“Tại làm sao mà con lại cần biết mấy thứ đó?” Cha hỏi.
Lily liếm đầu ngón tay và nhặt từng mẩu vụn bánh mì lên. “Chúng có ích hồi bọn con giải cứu cha mà, phải chứ?”
“Nếu nhớ không nhầm thì tôi mới là người thực hiện phần xuất sắc hơn trong nhiệm vụ giải cứu khi ấy.” Một giọng nói vang lên bên dưới bàn. Lily tảng lờ Malkin đi và săm soi trang hai của tờ báo. “Có thêm chút ít về tiểu sử của Jack ở đây… Bài báo nói rằng ông ta từng biểu diễn ở West End* cùng với gia đình. Khi chán ngán công việc này, ông ta bắt đầu sử dụng những kỹ năng mình có để ăn trộm các tài sản quốc gia - đó là trước phi vụ ông ta xoáy viên kim cương của Nữ hoàng.”
“Làm sao họ biết được ông ta là người gây ra những vụ trộm cướp khác?” Robert hỏi. “Thủ phạm có thể là bất cứ ai.”
“À.” Lily mỉm cười. “Ông ta có một danh thiếp. Ở mỗi ngôi nhà Jack ăn trộm, ông ta thường để lại một lá bài J Rô* găm trên tường. Đó là cách mà người ta rốt cuộc đã bắt được ông ta. Chà, và ngoài ra, có ai đó chỉ điểm nơi ở của ông ta cho cảnh sát nữa.”
“Thật là một cách leng keng ngu ngốc để tự nhận trách nhiệm về mình!” Malkin cảm thán.
“Đúng thế.” Con bé đồng ý. “Ông ta thậm chí còn buộc một lá bài vào đuôi con voi khi trộm viên Kim cương Mặt Trăng Máu ngay trên sân khấu. Vậy nên cảnh sát chẳng cần phải sử dụng mấy kỹ thuật lấy dấu vân tay đời mới để chứng minh ông ta có tội. Họ giam ông ta suốt đời chỉ vì mấy lá bài đó.” Lily nhìn xuống bài báo. “Cô Anna gọi cuộc vượt ngục của ông ta là cuộc vượt ngục táo bạo nhất mọi thời đại.”
“Khí cầu và ảo giác hỡi!” Bà Rust nói, bà đã vào phòng với một đĩa bánh xốp trong lúc Lily đang thao thao bất tuyệt. “Hãy hy vọng ông ta sẽ không bao giờ bén mảng đến đây. Tên lừa đảo ấy chắc hẳn đã lại ngựa quen đường cũ, trở lại sự nghiệp trộm cắp rồi.” Trên đường trở lại căn bếp, bà cúi xuống giúp ông Wingnut dọn sạch số cá trích xông khói roi vãi.
“Ông ta không hứng thú với các phát minh đâu, bà Rust ạ. Ông ta chỉ ăn cắp đá quý và chúng ta thì làm gì có món đá quý nào đâu.” “Họa tiết răng cưa và xương cá trích hỡi! Bà nên nghĩ như vậy.” Bà Rust lúng túng.
“Và thật biết ơn Chúa trời tích tắc về điều ấy!” Ông Wingnut thêm vào.
“Còn nữa này.” Cha nói. Ông giờ đã thấy hấp dẫn và tự mình đọc bài báo. “Trong này nói viên kim cương chưa bao giờ tìm lại được, dù họ đã
treo giải thưởng mười nghìn bảng, và trong suốt thời gian mười lăm năm dài trong tù, J Rô chưa bao giờ hé lộ nơi giấu nó.”
“Đó là biệt danh của ông ta.” Lily nói thầm với Robert. “Vì những lá bài.”
Cha ho một tiếng lớn, ý là ông còn chưa đọc hết. “Cộng thêm vào giải thưởng chính cho việc tìm lại viên Kim cương Mặt Trăng Máu, một phần thưởng phụ trị giá năm nghìn bảng sẽ được tặng cho ai cung cấp bất cứ thông tin nào giúp bắt lại Jack.” Ông đẩy tờ báo ra và trầm ngâm gặm một miếng bánh mì. “Chúng ta có thể làm bao nhiêu việc với một phần nhỏ số tiền ấy!”
Lily nghĩ có lẽ cha nói phải. Mặc dù cha luôn cố che giấu, nhưng đồ đạc gần đây đã thưa thớt đi đôi chút. Có lẽ đó là vì Madame Verdigris và ông Sunder đã tiêu tán nhiều giấy tờ phát minh đáng giá của cha vào năm ngoái và vẫn chưa hoàn trả lại chúng.
Ý nghĩ cuối cùng này dường như đã khiến cha bật dậy khỏi ghế mình, ông đứng dậy và gấp tờ báo kẹp dưới nách.
“Thôi đủ rồi, cha có việc phải làm. Cha cần phải hoàn tất công việc sửa chữa cho cô Tock.” Ông nói.
* * *
Thông thường thì sau bữa sáng, Lily và Robert sẽ tham gia những buổi học ở phòng trẻ với sự giám sát của bà Rust, nhưng tới nửa bài tập đọc hiểu siêu chán mà họ phải làm, bà người máy sẽ hết cót, và hai đứa lại chớp lấy cơ hội này để trốn học và rình mò xem cha đang làm gì.
Hình tia sét trên cánh cửa xưởng làm việc vốn mang ý nghĩa biểu trưng cho nguy hiểm, nhưng Lily thích tưởng tượng rằng nó thể hiện cho những món đồ đầy cảm hứng chất đầy trong đó. Con bé xoay tay nắm cửa và hai đứa bước vào trong.
Đây là một nơi tuyệt diệu, lớn hơn xưởng làm việc cũ của ba Robert và chứa nhiều cơ cấu chạy đồng hồ hơn cả bên trong tháp Big Ben, nhưng lại vắng đi một vài nét ấm cúng nhất định. Robert nhận thấy như vậy ở tất cả phần còn lại của trang viên Brackenbridge, hơi quá rộng lớn, hơi quá đồ sộ. Cậu chưa từng cảm thấy nơi đây như là gia đình, bởi mọi người phân tán cách nhau xa quá.
“Các con đã học xong rồi cơ đây?” Cha ngước nhìn lên, còn Malkin đang nằm bên dưới ghế và gặm nhâm dây giày của ông. Ông xua con cáo đi và đứng dậy, ra hiệu cho bọn trẻ tới gần. “Hãy đến và nhìn thứ này, một bộ não hoạt động bằng nguyên lý đồng hồ đích thực!” Cha nói và chỉ vào cô Tock, người hầu máy, đang ngồi bất động trên bàn gia công, đôi chân cứng đờ đang lúc lắc phía dưới và cái nắp ở đằng trước hộp sọ của cô đang để mở. Cô đã bị cụng đầu khi đang quét dọn và làm việc nhà, cú va đập khiến một bánh răng bị rời ra và chạy lung tung bên trong đầu khiến cô có những hành động kỳ quái nhất từ trước tới nay.
Cha lôi chiếc bánh răng có vấn đề ra và đưa cho hai đứa. “Những bánh răng này kết nối với nhau, gần giống như những liên hợp thần kinh trong đầu các con vậy. Chuyển động quay của chúng cho phép những ý nghĩ truyền qua nhận thức của cô ấy. Chỉ cần một chiếc không đúng vị trí là cô ấy sẽ chẳng thể nhớ được ngày tháng!”
Những lời cha kể về bộ máy đồng hồ khiến tâm trí Lily trôi về bộ máy bên trong con bé và làm nó lo lắng. Nó có cảm giác không trùng khớp như
kiểu một cái núm vuông nhét trong một cái lỗ tròn vậy. Cảm giác ấy không chỉ là vì trái tim máy đang bom máu đi khắp cơ thể nó với từng nhịp tim cơ khí. Kể cả trước đây khi chưa biết trong mình có một trái tim làm bằng cỗ máy chuyển động vĩnh cửu, nó đã luôn cảm thấy mình khác biệt so với những đứa con gái khác. Sự thật là, việc khám phá ra nó có thể sống trường sinh bất tử chỉ khiến Lily cảm thấy mình bất đồng bộ hơn với thế giới mà thôi. Nó nhìn sang Robert, nhưng hình như cậu cũng không được tập trung giống nó.
Vấn đề là Robert không thể rũ bỏ hình ảnh gương mặt ba mình trên ô cửa sổ ấy. Có phải đó thực sự chỉ là một bóng ma? Trong một thoáng, Robert băn khoăn không biết có nên hỏi Giáo sư Hartman hay không, nhưng rồi cậu quyết định ghìm ý muốn ấy lại. Cậu không muốn làm phiền ông không đúng lúc. Giáo sư chắc hẳn sẽ nói cậu tưởng tượng ra mọi thứ hoặc đang bị điên. Thay vào đó, Robert cố tập trung vào những gì ông John đang nói, nhưng tất cả cuộc nói chuyện về bộ máy đồng hồ này chỉ làm cho cậu nghĩ về cuộc sống trước kia khi còn là thợ học việc của ba và khiến cậu càng nhớ thương ông Thaddeus hơn mà thôi.
“Đó.” Ông John thay thế các bánh răng cuối cùng. “Đây là bước cuối cùng của chuỗi rắc rối này. Cô ấy sẽ lại trở về thời huy hoàng của mình ngay thôi.”
“Ôi trời! Con quên béng mất!” Lily lôi ví ra khỏi túi áo trước của mình với lực mạnh đến nỗi bức thư, con cúc, cái đồng hồ đeo tay và tiền nong bay tứ tung ra khỏi túi nó và rơi vãi khắp bàn. Nó lượm lại đồ đạc của mình và đưa cha bức thư. “Chúng con nhận được bức thư này từ bưu điện, bác Mũi Đồng ở ga hàng không nói nó được gửi từ Nữ hoàng ạ.”
“Con quên béng một bức thư của Nữ hoàng à?” Ông John nhìn vẻ ngờ vực.
“Con…” Lily ngượng ngùng. “Con quá thích thú với câu chuyện vượt ngục đến nỗi nó biến sạch khỏi trí nhớ của con luôn.”
“Không sao.” Ông John đặt bức thư lên bàn gia công bên cạnh cô Tock và cẩn thận hoàn thành công việc bắt vít chặt chẽ chiếc nắp trên đầu của cô. “Ơ…” Lily nói. “Cha không định mở thư ra xem ạ?”
“Cháu có thể giúp, nếu bác muốn…” Robert với tới bức thư. “Chờ chút nữa.” Ông John chống khuỷu tay xuống bàn gia công và chụm hai tay vào nhau thành hình tháp, giống như ông vẫn luôn làm khi đang cố dạy một bài học. “Các con biết đấy, kiên nhẫn là một đức tính tốt. Trước tiên, chúng ta phải sửa xong cho cô Tock đây đã.”
“Đây không phải lúc để giảng bài đâu cha.” Lily bước tới ông để có thể nhào về trước và xem lá thư.
“Đúng thế.” Robert nói. “Xin bác, hãy xem bức thư nói gì đi ạ.” Ông John thở dài và cầm phong bì thư lên, bóc niêm phong rồi rạch mở bằng chiếc tua vít của ông.
Lily và Robert nghiêng người tới gần hơn. Ngay cả Malkin, vẫn đang giả vờ ra vẻ như thể nhận thư từ Nữ hoàng là việc thường ngày ở huyện với nó, cũng đã nhảy lên trên bàn gia công để quan sát diễn biên.
Ông John đặt tua vít xuống, và với một động tác khoa trương đầy trang trọng dành cho các khán giả của mình, ông cho tay vào phong bì và lấy ra một tờ giấy dày màu kem.
Ông cẩn thận mở nó ra, nhưng rồi khi bắt đầu đọc thư, nụ cười của ông tắt ngâm. “Trời đất! ” Ông lẩm bẩm.
“Gì vậy ạ?” Robert hỏi. “Có vấn đề gì sao?”
“Đúng đấy.” Lily nói. “Cha nói với bọn con đi.”
Ông John hắng giọng. “Nữ hoàng muốn cha làm một chuyến đến London, tới Hiệp hội Chế tạo máy và sửa voi máy Elephanta.” “Ý bác là con thú máy đã bị Jack trộm viên kim cương trên người?” Robert hỏi.
“Đúng là nó.” Ông John gật đầu. “Đó là sinh vật máy đầu tiên được tạo ra. Hoàng thân Albert đã đặt làm nó cho Lễ đăng quang. Viên Kim cương Mặt Trăng Máu là nguồn năng lượng của nó. Nữ hoàng có vẻ nghĩ rằng cha, một thợ máy và người chế tạo thú máy nổi tiếng, có thể tìm được cách khiến con voi ấy sống lại để tham dự Lễ kỷ niệm.”
Robert kinh ngạc. “Nhưng chỉ còn có bốn ngày nữa thôi! Một nhiệm vụ bất khả thi!”
“Không phải bất khả thi với cha.” Lily nói. “Nếu không ai sửa được Elephanta, thì cha có thể.”
“Cha không biết nữa, Lily à…” Cha trả lời.
“Dĩ nhiên cha có thể. Cha là nhà sáng chế vĩ đại nhất đất nước. Và nếu Nữ hoàng yêu cầu cha thì Người chắc hẳn cũng nghĩ vậy.” Lily băn khoăn không biết nó có đủ dũng cảm để đưa ra gợi ý tiếp theo hay không.
“Nhưng với thời gian quá ít ỏi như vậy thì cha sẽ cần bọn con cùng tới London và giúp đỡ đấy.”
Cha lắc đầu. “Không, Lily. Con và Robert sẽ ở nhà. Cha không muốn các con dính vào bất cứ vụ rắc rối mới nào đâu. Cha sẽ đi London một mình và không muốn lôi kéo sự chú ý vào chúng ta đâu. Bên cạnh đó, các con đã có mọi thứ mình thích ở đây rồi, đúng không?”
“Nhưng, cha à…”
“Không nhưng nhị gì hết, cha đã quyết định rồi. Và vì đang là người sáng chế vĩ đại nhất đất nước… cha muốn mọi người quên cha đi. Quên chúng ta đi. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể hy vọng để ẩn mình. Có nhiều kẻ cơ hội tham lam ở xung quanh ta, Lily à, và nếu họ phát hiện ra con đặc biệt ra sao thì họ sẽ treo thưởng cho cái đầu của con đấy, hay nói đúng hơn là trái tim của con. Cha không thể mạo hiểm đánh mất con như vậy được. Cha đã từng chứng kiến con ở ngưỡng cửa của thần Chết hai lần rồi và cha cũng từng đánh mất người mẹ tội nghiệp của con. Con là điều duy nhất cha còn giữ được, là tất cả những gì cha trông đợi.”
Ông quay đi và khịt mũi một cái. Sau đó, ông gập bức thư và đặt lại vào phong bì. “Vì vậy cha nghĩ hai đứa nên ở nhà.”
“Chúng cháu ít ra có thể tới trường làng khi bác đi vắng chứ ạ?” Robert hỏi. “Ở đó chúng cháu sẽ không bị hại đâu, đúng không?” “Bà Rust và những người máy khác có thể tiếp tục dạy các con.” Cha phản đối. “Trong thời gian đó, cha sẽ đi thực hiện công việc cho Nữ hoàng. Nếu không phải để kiếm tiền, cha sẽ không mạo hiểm thu hút sự chú ý vào mình như vậy, nhưng cha sẽ đi hoàn thành nhiệm vụ, quay trở về nhanh chóng và yên lặng nhất có thể. Sau đó, chúng ta có thể theo kịp bằng những buổi học thêm.”
Lily lắng nghe bài thuyết giáo của cha với cảm giác nghi hoặc nặng nề. Cha vẫn đang sống với quá khứ, cố giấu kín hành tung của gia đình mình. Nhưng nguy hiểm giờ đã qua rồi, con bé có thể chắc chắn điều này. Và nếu có gì đó xảy ra, chẳng lẽ ông không thể thấy nó gần như đã trưởng thành và có thể hoàn toàn tự chăm sóc được bản thân mình rồi sao? Vì lẽ gì chứ? Nó thậm chí còn có thể giúp ông làm việc. Nhưng cha chẳng nghĩ về những
điều ấy. Trong thế giới của ông, nó sẽ luôn bị giấu đi mãi mãi, giống như một bí mật nào đó vậy.
“Cha nghĩ chúng ta đã làm xong.” Cha lên dây cót cho cô Tock, và họ cùng chờ đợi… Rồi chậm rãi, rất chậm rãi, cô rùng mình tỉnh dậy. “Hỡi thần Máy!” Cô cảm thán. “Tôi cảm tưởng như mình đã ngủ cả nghìn năm rồi ấy. Tôi đã bỏ lỡ những gì nhỉ?”
“Không nhiều lắm.” Malkin ngáp. “Chỉ có mỗi bức thư từ Nữ hoàng thôi.”
“Chỉ có thế sao!” Cô Tock lục cục nói. “Chà, ơn thần Máy về điều ấy!” Lily băn khoăn liệu cô đã hiểu hết lời Malkin nói hay chưa, nhưng cha dường như chắc chắn rằng cô đã bình thường.
“Giờ cô sẽ hoạt động tốt như mới.” Ông nói với cô Tock. “Lily sẽ dẫn cô ra ngoài, đúng không nhỉ, Lily?”
“Dĩ nhiên ạ.”
Sau khi Lily đỡ cô Tock đi ra cửa, con bé và Robert giúp cha thu dọn các dụng cụ của ông. Đột nhiên, cha dừng lại và chăm chú nhìn hai đứa. “Robert, bác tự hỏi không biết lát nữa cháu có muốn đi theo bác vào phòng làm việc của bác không? Có đôi điều bác muốn thảo luận với cháu… về, ờ, tình hình của cháu.”
Dạ dày Robert đột ngột nảy lên một cái. Cậu biết chính xác ý giáo sư là gì - một hình ảnh hỗn tạp chân thực của những bóng ma, những cửa hiệu chìm trong lửa và những mường tượng về người mẹ đang thất lạc ào ạt xô bên trong cậu, chực trào ra ngoài. Kể từ hồi ba Robert mất sáu tháng về trước, giáo sư đã cố giúp cậu tìm kiếm tung tích của mẹ, để bà biết về tình trạng khó khăn của cậu và họ có thể giải quyết đống hỗn độn của Cửa hiệu
Đồng hồ của nhà Townsend. Phải chăng ông đã tìm ra gì đó? Nếu ông muốn chỉ tiết lộ thông tin riêng với cậu, thì Robert nghĩ đây ắt hẳn là tin xấu.
Chương 3
“Vào đi, vào đi, con trai.” Giáo sư Hartman đẩy Robert tới một chiếc ghế bành êm ái rồi dời một thếp giấy tờ đi để lấy chỗ cho cậu ngồi xuống. “Bác xin lỗi vì không thể nói rõ hơn từ trước, nhưng có đôi điều tế nhị hơn bác muốn trao đổi với cháu.”
Ông giữ thép giấy trên cao một lúc, như thể ông chưa chắc để chúng ở chỗ nào. Rốt cuộc, ông đặt chúng lên chiếc bàn bên cạnh một huy chương rách tả tơi treo lơ lửng giữa đôi ngà voi. Sau đó, ông quay trở lại bàn làm việc và bị đập đầu gối vào cạnh dưới bàn khi ngồi xuống.
Trong khi giáo sư còn đang bối rối, Robert nhìn quanh phòng làm việc. Đây là căn phòng cậu thích nhất trong nhà này. Cửa sổ đóng bằng gỗ sồi và những chiếc tủ có mặt kính không hiểu sao lại gợi cậu nhớ về mái ấm cũ của cậu và cả vô số những ngăn tủ trưng bày của cửa hiệu. Ở phía cuối phòng, trên mặt một lò sưởi lớn làm bằng đá là một chiếc bình đựng tro nhỏ bằng đồng. Phía trên đó là một tấm chân dung đóng khung mạ vàng lớn hình một phụ nữ đang mỉm cười nhìn xuống cả hai từ trên cao. Bà là mẹ của Lily, Grace Rose Hartman, đã mất khi Lily mới chỉ sáu tuổi đầu, và bà có một khuôn mặt nhân từ, thông minh mà Robert khá thích.
Ba Robert chưa bao giờ kể cho cậu nghe nguyên cớ vì sao mẹ ruột của cậu lại bỏ đi. Bà đi khi Robert mới chỉ ba tuổi, và khi đã đủ khôn lớn, cậu cảm thấy phẫn nộ với bà đến nỗi chẳng bao giờ hỏi về bà lời nào. Ít ra cậu
vẫn còn có ông Thaddeus - ba sẽ chăm sóc Robert, sẽ ở bên cậu. Nhưng giờ thì ông đã ra đi, Robert thấy mình hoàn toàn cô độc.
Giáo sư đã hết bối rối. Ông nghiêng người về đằng trước và nhìn Robert bằng đôi mắt sáng sắc sảo của mình. “Bác e là…” Ông nói. “Chúng ta vẫn không nhận được hồi âm cho mẩu quảng cáo đặc biệt mà ta đã đặt viết trên tờ Nhật báo Cog để tìm mẹ của cháu. Và cảnh sát rõ ràng không đủ may mắn trong việc lần theo dấu vết của bà ấy. Bác đã hỏi quanh cả làng nữa - họ đều là những kẻ hay ngồi lê đôi mách, dĩ nhiên là vậy, nhưng chẳng ai trong số họ có bất cứ thông tin nào. Trừ ông mục sư ra. Ông ấy còn nhớ đám cưới của ba mẹ cháu ở nhà thờ, và bác nghĩ có lẽ sẽ hữu ích nếu lấy tên thời con gái của mẹ cháu từ những ghi chép của họ. Nhưng khi các bác lục lại sổ đăng ký kết hôn, nó cũ kĩ quá đỗi… Trang giấy đáng ra phải là tờ ghi chép các thông tin ấy thì lại không thấy đâu. Nó đã bị xé đi mất.”
Robert ngả về đằng trước trên ghế của mình. “Nghĩa là sao ạ?” “Nghĩa là ai đó đã bỏ nó đi một cách bất hợp pháp.” Ông John nói. “Có lẽ bởi họ không muốn tên thời con gái của mẹ cháu được tìm thấy.” Robert hít thở một hơi sâu và lún mình vào ghế. Cậu cảm thấy hơi hụt hẫng với khám phá mới này. “Lạ thật đấy.” Cuối cùng cậu nói. “Lạ phải không?” Ông John nói. “Có điều gì khác mà cháu còn nhớ về bà ấy không? Bất kỳ điều gì có thể giúp ích?”
Robert lại suy nghĩ. Nghĩ kĩ. Còn có một điều nữa. “Cháu nghĩ ba đã từng nói rằng hổi hai người họ mới quen nhau, mẹ nói chuyện với các linh hồn và rằng bà là một nữ diễn viên của nhà hát.” Có đúng vậy không nhỉ? Chắc là không đâu - nghe xa lạ quá… Nhưng cậu lại nhớ rất rõ điều đó.
“Sự thật là.” Robert nói với ông John. “Ba cháu hầu như không nói về mẹ sau khi bà đi. Và tại sao ba phải nói cơ chứ? Chính mẹ đã bỏ ba con cháu đi. Cháu không hiểu vì sao ba để lại cửa hiệu cho mẹ nữa.”
“Bác không thể trả lời cháu.” Ông John thở dài. “Nhưng ít ra chúng ta có thêm thứ gì đó để tiếp tục tìm kiếm. Dẫu vậy, nói thật thì bác không hy vọng cho lắm rằng chúng ta có thể xử lý tình trạng lộn xộn này. Có vẻ như Selena, hoặc ai đó có liên quan đến mẹ cháu, đã cố che giấu bí mật nơi ở của bà ấy trong một thời gian dài.” Ông ho hắng một tiếng. “Thực tình, mỉa mai thay, bởi chính bác cũng đang cố giấu kín gia đình này. Có lẽ bà ấy cũng gặp những rắc rối trong quá khứ cho nên vẫn đang cố trốn tránh.”
Câu chuyện về bà Selena càng ngày càng thấy xa lạ hơn. Bác John nói đúng, phải chăng là mẹ đã chủ tâm bỏ đi để trốn tránh rắc rối nào đó? Robert thậm chí không thể bắt đầu suy đoán về sự thật.
Ông John đóng nắp chiếc bút mực đang nằm ngang cuốn sổ ghi chép trên bàn làm việc của mình. “Dù sao chăng nữa, Robert à, nếu không có bất cứ thông tin mới nào về mẹ cháu, có vẻ như chúng ta sẽ chẳng thể làm thêm nhiều điều khác để tìm kiếm bà ấy, dẫu bác đã nỗ lực hết sức mình.”
Robert xê dịch trên ghế đầy lo lắng. “Điều ấy có nghĩa gì với cháu ạ?” Ông John thở dài. “Có nghĩa là cháu giờ là trẻ mồ côi, bác cho rằng như vậy. Nhưng bác có một gợi ý khác để giải quyết vấn đề…” “Và gợi ý đó là gì, thưa ngài?”
Ông John mỉm cười, đôi mắt nâu của ông lấp lánh sáng đằng sau cặp mắt kính. “Làm ơn, đừng gọi là “Ngài” nữa, Robert, con trai của ta. Cháu có thể gọi bác là John, hoặc là…” Ông hắng giọng. “Cháu thậm chí có thể gọi bác là cha, nếu cháu muốn - thực tế chúng ta là một gia đình mà. Và đó
là điều mà bác muốn nói với cháu… về phần thực tế ấy, ý bác là vậy… Điều ấy có nghĩa… Bác đã nghĩ rất nhiều về việc cháu ở cùng nhà bác ở Brackenbridge kể từ khi ba cháu… từ khi Thaddeus tội nghiệp qua đời… Và bác đã quyết định rằng điều tốt nhất dành cho cháu - cho tất cả chúng ta, Lily và bản thân bác nữa, cháu hiểu chứ? - là chúng ta… bác sẽ… nhận nuôi cháu. Cháu nghĩ sao về ý đó?”
Nhận nuôi! Từ ấy như một luồng điện giật mà Robert không ngờ tới, dù là nhỏ nhất. Sự thật là cậu hầu như không thể chấp nhận được những thay đổi đã diễn ra kể từ khi chuyển tới đây. Rồi giờ cậu phải nghĩ những thay đổi này là mãi mãi…
Ông John rất, rất tốt bụng, Lily cũng vậy, thực ra mọi người đều tốt. Và đây là một ngôi nhà đẹp… Nhưng mà, nếu quá khứ là thứ gì đó dễ lãng quên, thì cuộc đời có lẽ sẽ sụp đổ bất cứ lúc nào… Chắc chắn sẽ an toàn hơn nếu giữ mọi thứ như chúng vốn có phải không?
Robert mở miệng định nói, nhưng ông giơ một tay lên. “Ừ, bây giờ cháu chưa phải quyết định ngay đâu. Trong thời gian đi vắng bác sẽ tới nói chuyện với một vị luật sư, sau đó nếu cháu quyết định làm một thành viên của gia đình bác thì chúng ta sẽ có thể thực hiện những dàn xếp chính thức.”
Ông John thở ra một hơi dài. Dường như ông đã sắp đặt sẵn tất cả những chuyện này, cuộc nói chuyện này, từ trước đó rất lâu và rốt cuộc ông đã nói ra hết được những gì ông muốn nói.
Robert cố nặn ra một câu trả lời nào đó. Những từ ngữ đã chực sẵn trên đầu lưỡi cậu, nhưng không thể thoát ra được. Một hố sâu ngăn cách tạo thành bởi sự im lặng đang mở rộng giữa hai người và cậu không biết làm sao để lấp đầy. Cậu rất thích giáo sư - cảm thấy ông yêu quý cậu gần như
yêu quý Lily vậy. Gần như thể họ là gia đình. Nhưng vẫn còn cái gần như tồn tại. Một cái ổ gà trên đường. Hoặc như một bức tường gạch chắn đường cậu đi.
“Vần đề là, thưa ngài.” Robert nói, và khi nói, cậu nhận ra mình đã định gọi ông John là “John” - không phải là ngài, hay Giáo sư Hartman. “Không phải là… cháu muốn, rất muốn, nhưng cháu vẫn không có cảm giác rằng ba cháu đã ra đi. Cháu không muốn trở nên vô ơn. Nhưng chỉ là…”
Cậu không biết phải nói gì khác, cậu ghét tỏ ra thô lỗ. Một phần trong cậu mong muốn ông John trở thành cha và Lily thành em gái của mình. Nhưng một mảnh ghép khác lại cảm thấy điều ấy là phản bội lại ba cậu. Và một giọng nói gian xảo nhỏ nhẹ thì thầm bên tai cậu: Và sẽ ra sao nếu ngày nào đó mẹ trở về tìm mi?
Là một phần của gia đình khác sẽ là sai trái, cậu cảm thấy thế. Cậu muốn lấy lại cuộc sống xưa kia, muốn trở về nơi cậu thuộc về. Dù cho cậu có giận bà Selena vì đã bỏ rơi cậu bao nhiêu năm trời, vì đã đi mà không lời từ biệt và vì sự thật là cậu chẳng nhận được dù chỉ một tin nhỏ của bà kể từ đó đến nay, nhưng là con trai của mẹ thì dù gì cũng vẫn là con trai của ba. Và cậu không muốn buông bỏ ba mình, chưa phải lúc.
Với tình hình hiện tại, cậu biết có lẽ mẹ cậu đã đưa ra lựa chọn từ cách đây rất lâu và không bao giờ muốn nhìn thấy cậu nữa. Họ giờ là người dưng, và bà chắc hẳn sẽ từ chối gặp cậu kể cả cậu có tìm được bà đi chăng nữa. Vậy nhưng cậu vẫn phải tiếp tục cố gắng. Cậu phải biết nguyên cớ vì sao mẹ bỏ đi. Phải kể cho mẹ nghe mọi điều đã xảy ra từ đó tới nay. Cho mẹ một cơ hội cuối cùng để thay đổi quyết định. Hoặc nếu không thì ít nhất phải nghe câu chuyện từ phía mẹ. Phải biết mẹ đã gặp ba như thế nào để cậu có thể lấp đầy những khoảng trông mà cái chết của ông Thaddeus
để lại vẫn chưa được giải đáp. Bởi vì, ngay lúc này, cuộc đời cậu đang là một cỗ máy không bánh răng - một ngôi nhà trống rỗng - và làm sao cậu có thể mong mình hoạt động được khi thiêu đi quá nhiều mảnh ghép như vậy?
Không, trước khi chấp nhận lời đề nghị của ông John, cậu phải tìm mẹ đã - phải đi tới tận cùng nơi bà đang giấu mình. Và cậu nên bắt đầu điều tra từ cửa hiệu. Ba cậu đã từng bảo mẹ có thể nói chuyện với những linh hồn, có khi cậu cũng có khả năng ấy thì sao? Nếu cái bóng đó thực sự là một linh hồn - có thể nó không chỉ là một hình ảnh, mà là một dấu hiệu rằng có thứ gì đó cậu cần ở Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend? Đằng nào thì cậu cũng sẽ tới đó đêm nay và tìm hiểu. Ông John sẽ bắt đầu hành trình của mình vào lúc ấy, những người máy sẽ hết cót và Lily thì đã ngủ - không ai có thể nhận ra cậu đã đi.
“Cháu không nghĩ mình đã sẵn sàng cho việc từ bỏ tìm kiếm mẹ Selena ngay lúc này.” Robert nói. “Cháu cần phải khép một cánh cửa lại trước khi mở cánh cửa khác ra.” Cậu đột ngột đứng dậy, và khi xoay người bước đi, cậu liếc nhìn lại ông John. Giáo sư mỉm cười với cậu, nhưng phía sau đôi mắt kính hình nửa vầng trăng, ánh mắt ông trông có vẻ buồn.
* * *
Chiều hôm đó, Lily thấy cha ở trong phòng và đóng gói hành lý. “Cha đã định đi rồi ạ?” Con bé hỏi khi nhìn ông lấy những chiếc áo ra khỏi tủ đồ và gập chúng cất vào va li.
“Cha phải đi.” Ông trả lời. “Chỉ còn bốn ngày nữa là đến Lễ kỷ niệm, còn rất ít thời gian để hoàn thành công việc.”
Thật thất vọng khi thấy cha chuẩn bị đi một mình. Lily chìa một tay ra để Malkin rúc cái đầu cứng của nó vào lòng bàn tay con bé. “Cha hãy đưa bọn con đi cùng.” Con bé nói. “Công việc sẽ thuận lợi hơn khi có bọn con giúp sức.”
Cha ngừng gập áo. “Cha đã quyết định đưa Đội trưởng Springer theo mình cho mục đích ấy rồi. Ông ấy là người sẵn lòng đi nhất.” “Robert và con cũng sẵn lòng đi mà.”
“Lily, cha không muốn tranh luận. Không có thời gian đâu con. Cha phải làm xong việc này không thì sẽ lỡ chuyến khí cầu mất.” Ông không gấp nữa mà nhét cái áo vào trong va li. “Thêm nữa, con và Robert không thể nào đóng gói đồ và sẵn sàng rời đi kịp lúc được.”
“Con đã nghĩ cha sẽ nói câu đó.” Lily nói với cha. “Nên con đã chuẩn bị một túi hành lý trong khi hai người đang nói chuyện. Trong đó có tất cả những gì chúng ta cần, và nó đã sẵn sàng đợi ngoài sảnh rồi. Cha thấy con được việc thế nào chưa? Con chắc chắn chúng ta sẽ sẵn sàng đi và ít om sòm nhất có thể. Cha đừng có đối xử với con như trẻ con nữa, cha à.”
Cha lắc đầu. “Sao con không chịu nghe lời chứ, Lily? Con sẽ không đi, Robert cũng vậy. Thằng bé vẫn đang bị tổn thương vì việc của ba nó, còn với con, những mối nguy hiểm tồi tệ nhất có thể đã qua đi, nhưng chúng ta không thể chắc chắn Silverfish, hay những kẻ xấu xa đê tiện thích giết chóc là Roach và Mould kia, có kể cho những người khác về trái tim máy của con hay không. Dù gì thì chúng đã chuẩn bị trước để không từ một thủ đoạn nào, chầu chực và đánh cắp nó. Chúng ta phải giả định rằng vẫn còn những người muốn hãm hại con.”
Lily giúp cha đóng va li và khóa các dây đai lại. Tại sao lúc nào cha cũng đối xử với nó như một đứa bé gái vậy? Năm ngoái nó đã làm được
nhiều điều hơn cả những gì nó từng nghĩ mình có thể làm được, và giờ cha lại quá coi thường không nhìn ra điều đó. Chẳng lẽ cha định giấu tiệt nó đi mãi mãi? Đó là cuộc sống kiểu gì không biết?
Con bé quăng mình xuống giường. “Cha à, con không quan tâm. Đã đến lúc chúng ta ngừng giấu giếm mọi thứ đi rồi. Sẽ chẳng nghĩa lý gì nếu sống trong nỗi sợ hãi những điều có thể xảy ra khi chúng ngăn ta tận hưởng niềm vui mà sự tự do mang lại.”
Cha nhác cái va li khỏi giường. “Không phải chỉ vì có thể có ai đó mưu đồ đánh cắp trái tim của con - cứ như thể việc ấy chưa đủ tồi tệ vậy! Những người máy là tài sản, những người lai máy thì bị ruồng rẫy - thậm chí cha còn từng nghe về những trường hợp họ bị quấy rối trên đường phố nữa kìa.”
“Con không nghĩ đó là sự thật.” Lily nói. “Và con nghĩ cha đã đánh giá thấp khả năng đối phó của con rồi.”
“Có lẽ vậy.” Cha nói. “Nhưng thế này thì dễ dàng hơn. Cha đã quyết rồi và chẳng điều gì con nói có thể thay đổi được.” Cha ngừng lại và nhìn nó đăm đăm. “Có một điều khác mà cha chưa kể cho con, Lily ạ… Cha đã hỏi Robert xem thằng bé có muốn trở thành một phần của gia đình ta mãi mãi không. Trong thời gian cha đi London, cha định sẽ tới nói chuyện với một luật sư về khả năng nhận nuôi thằng bé.”
Lily nhảy bật khỏi chỗ ngồi của mình đầy hào hứng. “Một ý tưởng tuyệt vời.” Con bé nói. Rồi nó nhớ lại rằng gần đây Robert trông buồn bã ra sao, rằng nó đoán bạn mình đang đau đáu nhớ về cuộc sống cũ như thế nào. “Nhưng chúng ta có nên cho mẹ bạn ấy một cơ hội cuối để tìm lại con mình không?”
“Mẹ Robert đã lựa chọn khi bỏ rơi thằng bé. Cha không chắc có bao giờ bà ấy quay lại không nữa.”
“Ai ai cũng đều xứng đáng được tin tưởng trước khi có bằng chứng rõ ràng, không phải sao ạ?”
“Xem này, cha phải đi rồi.” Cha nói. “Không thì cha sẽ bị lỡ chuyến bay mất.”
Sau đó, khi nhìn thấy những ý nghĩ mơ hồ rối rắm lướt qua gương mặt Lily, ông dừng lại, thả cái túi xuống và bước tới con bé. Ông đặt một tay lên vai Lily và nhìn vào mắt nó.
“Robert cần thời gian cha vắng mặt để nghĩ về những điều thằng bé muốn, để quen với ý nghĩ rằng đây là gia đình của nó. Và con cũng cần làm quen với những điều thay đổi ấy nữa. Cha không muốn thúc giục Robert, Lily ạ. Cha muốn thằng bé tự quyết định. Trong thời gian ấy, con phải làm cho Robert thấy nó được chào đón, cho nó thấy rằng nó thuộc về nơi này.”
Cha ôm chặt Lily vào lòng. “Đây là nhiệm vụ dành cho con khi cha đi vắng. Hãy cùng nhau làm mọi việc, đối xử với thằng bé như một người anh trai.”
“Thế thôi ạ?”
“Thế thôi.” Cha hôn vào trán con bé.
Lily cảm thấy con giận vẫn đang âm ỉ trong lòng khi hai cha con cùng nhau đi tới đầu cầu thang. Đối xử tốt với Robert không phải là một nhiệm vụ. Đằng nào con bé cũng làm điều đó, vì nó quý Robert mà. Nhưng nếu mà cả hai cùng đi tới London với cha thì đó sẽ là một chuyến phiêu lưu đích thực.
Con bé ghét bị cho ra rìa như thế này. Nó lùi lại và nấn ná ở lan can, giả vờ như mình còn phải làm điều gì đó khác và quan sát cha đi xuống cầu thang một mình, rồi chào bà Rust, cô Tock, Malkin và Robert ở sảnh.
Cha hôn tạm biệt Robert, gật đầu chào những người máy và xoa tai Malkin. Sau đó, ông quay lại tìm Lily, và khi nhận ra con bé vẫn đang đứng ở đầu cầu thang, ông nở nụ cười thích thú, rồi vẫy tay và gửi tới nó một nụ hôn gió.
Lily mềm lòng hơn một chút, nhưng con bé vẫn giữ mặt lạnh và khoanh tay trước ngực để ngăn chặn ý muốn vẫy tay chào cha của mình. Con bé nhìn cha đi tới cổng vòm, bước ra khỏi cánh cửa đang được ông Wingnut giữ mở.
Khi Lily chạy tới cửa sổ, cha đã leo vào khoang hành khách của chiếc xe chạy hơi nước cùng Đội trưởng Springer. Trong lúc ấy, ông Wingnut đã yên vị trong khoang dành cho tài xế. Ông gặp chút rắc rối khi khởi động động cơ bởi đây không phải công việc thường ngày của ông.
Malkin len lén chạy tới bên Lily và nhảy lên bậu cửa sổ. Con cáo nghếch đầu lên và ngắm nghía chiếc xe đang bon bon chạy trên con đường rợp bóng cây.
Lily vờn tai con cáo và chằm chằm nhìn những chùm khói phụt ra từ ông khói của chiếc xe. Đột nhiên con bé ước giá mà lúc nãy nó đi xuống tiễn cha cho đàng hoàng tử tế. Nó đã rất cố gắng để trở thành một đứa con gái như ý muốn của ông, nhưng điều ấy cũng chẳng tạo ra điều khác biệt bởi ông chẳng bao giờ thèm đếm xỉa tới.
Giá mà cha đừng đối xử với nó như với một cỗ máy hỏng, thì có lẽ nó sẽ có cơ hội. Ông cần phải từ bỏ, đừng ngoan cố nữa, và quan trọng nhất là
ngừng tin mình là người duy nhất trên thế giới này có thể sửa chữa mọi thứ.
Lần tới khi nói chuyện với cha, nó sẽ chứng minh rằng ông đã sai. Nó sẽ làm ông nhận ra rằng nó có thể là chính mình, ngay dưới những cánh cửa của trang viên Brackenbridge này. Nó đủ mạnh mẽ để tự lo cho bản thân mình. Và dù gì nó cũng không sợ hãi - nó dũng cảm hơn ông.
Nhưng có phải đó là điều ba Robert từng nói…? Không ai có thể dễ dàng đối diện với nỗi sợ, cần có một trái tim dũng cảm để chiến thắng những trận đánh lớn. Đúng… chính là câu ấy! Và mặc dù cha có thể sợ cái sự thật rằng người ta sẽ xua đuổi nó chỉ vì nó là một người lai, tận sâu bên trong, Lily biết nó có thể đạt được bất kỳ điều gì nó khao khát.
Chương 4
Robert bị đánh thức bởi luồng sáng của mặt trăng. Cậu để mở rèm cửa sổ chính vì lý do này. Cậu ngồi dậy và dụi mắt. Khuôn mặt sứt sẹo vàng sáp của mặt trăng ló vào qua ô cửa sổ, nhợt nhạt và sống động như một miếng hoa quả, những vì sao nhấp nháy đằng sau trông như những hạt đường bị rắc lên bầu trời. Ánh trăng rọi chiếu phủ bạc căn phòng, những đồ nội thất bằng gỗ nặng nề, những cuốn sách và cả những miếng trong bộ đồ lắp ráp tàu hỏa nằm lăn lóc khắp xung quanh.
Mặc dù nơi này có tất cả mọi thứ Robert từng mong muốn, nhưng cậu chưa bao giờ có thể quen được với sự xa hoa và yên tĩnh này. Đêm đầu tiên ngủ ở đây, cậu đã tắt hết các đồng hồ, cậu không thể chịu đựng nổi tiếng tích tắc lặng lẽ của chúng. Chúng gợi nhắc quá nhiều về cửa hiệu với đầy rẫy các loại đồng hồ của ba, những hình dáng và âm thanh của chúng thấm sâu vào Robert giống như những người bạn cũ trước khi bị ngọn lửa lấy mất. Thêm nữa, cậu không cần tới những chiếc đồng hồ để biết giờ giấc. Cậu đã chung sông với thời gian suốt cả cuộc đời rồi. Cậu có thể biết được thời gian nhờ vào bóng nắng hoặc vòng cung của mặt trăng và các vì sao.
Cậu nhảy khỏi giường và ấn mũi vào mặt kính cửa sổ, thầm đánh dấu những chòm sao trong đầu mình: Lực Sĩ, Xử Nữ, Thiên Bình, Ma Kết, Hải Đồn, Thiên Ưng, Xà Phu và Cự Xà. Cậu đã thuộc nằm lòng những chòm sao ấy, nhờ vào những biểu đồ sao mùa hè của ba, và từ vị trí của chúng
trên bầu trời đêm nay, cậu ước chừng thời điểm này là gần nửa đêm. Tới lúc đi rồi.
Robert mau chóng mặc đồ, tròng vào người quần, áo và tất rồi thắt dây đôi bốt của mình. Cậu ngừng lại để lấy những que diêm và mẩu nến gắn vào giá nến bằng thiếc cạnh giường. Cậu sẽ không thắp sáng nến cho tới khi ra khỏi nhà. Cậu không muốn đánh thức Lily đang ở phòng bên cạnh, hay làm động tới những người máy có thể vẫn chưa hết hẳn cót vào ban đêm.
Chiếc áo khoác của ba cậu đang treo phía sau cánh cửa, y như hồi cậu mới tới đây. Cậu lấy áo xuống và mặc vào người. Cậu cần hơi âm của chiếc áo để khuây khỏa đêm nay - một đêm với bầu trời trống trơn không một gợn mây giống hệt một con cừu bị xén trụi lông vậy chắc hẳn bên ngoài trời lạnh lắm.
Khi đóng cúc áo khoác, một vệt hương ám ảnh của tẩu thuốc lá tỏa ra từ lớp vải lót. Mùi của ba. Nó làm Robert cảm thấy như ông Thaddeus đang ở gần đó, dõi theo cậu. Và ý nghĩ ấy giúp cậu vững tâm để thực hiện chuyến hành trình như dự định.
Cậu mở cửa và rón rén bước ra, đi qua lối vào thư viện, trong đó đầy ắp toàn sách là sách với những cuốn mới chồng lên nhau bên ngoài, chờ tới lượt được xếp lên giá. Đầu hồi với trần nhà cao được trang trí nhiều dãy tranh đóng khung mạ vàng. Giữa những bức tranh là những cánh cửa gỗ sồi nặng nề dẫn vào những căn phòng khác nhau, Robert gặp rắc rối trong việc ghi nhớ các chức năng của chúng, vì lúc này chỉ có một mình cậu trong trạng thái gà gật, vào lúc nửa đêm, với cái đầu đầy ắp nỗi niềm lo lắng. May mắn thay, cậu không định đi vào phòng nào trong số đó. Cậu đang đi về nhà.
Cậu chọn đi lối cầu thang của người hầu để xuống dưới hầm và lẻn đi dọc hành lang lát gạch phía sau để tới bếp. Ở đó, cậu dừng lại trong bóng tối để thắp nến.
Trái tim cậu nhảy vọt ra ngoài khi có một gương mặt xuất hiện trong ánh lửa.
Đó là bà Rust, bà đang ngồi thẳng đơ trên một chiếc ghế gỗ bên cạnh một chiếc bàn gỗ sồi được lau chùi sạch sẽ. Đôi mắt bằng kim loại của bà đang nhắm và đôi lông mày vẽ bằng sơn của bà nhăn lại. Vì là một người máy, bà chỉ có thể hoạt động được khoảng mười sáu tiếng mỗi ngày, và ngay lúc này, với những chiếc lò xo và bánh răng bên trong đã nghỉ ngơi, bà sẽ chẳng đời nào thức dậy - cho tới khi bà được lên lại dây cót vào sáng hôm sau.
Kể cả như vậy, Robert vẫn không thể ngăn mình rón rén bước qua bà. Có điều gì đó trên gương mặt bà trông sống động như con người trong ánh nến lập lòe, như thể bà đang đơ người trong giấc ngủ say, nếu mà nghĩ rằng bà là người thì cậu đoán có lẽ bà đang ngủ thật. Nhưng ý nghĩ ấy làm cậu sợ rằng có thể bà sẽ thức dậy bất cứ lúc nào và sẽ yêu cầu cậu khai ra mình đang lẻn đi đâu.
Nếu điều ấy mà xảy ra thì sẽ có những lý do lý trấu và những lời giải thích đáng thương hại, rồi tiếp tục là những ánh nhìn đầy thất vọng và những bức điện báo cho ông John. Bởi vì, nếu bạn đã thu nhận ai đó và cho họ sống trong một nơi đẹp đẽ thì bạn sẽ không mong họ lẻn đi vào giữa đêm hôm, khi không ai hay biết, để về thăm lại nhà cũ của họ.
Nhưng có lẽ Robert thật lòng muốn ai đó ngăn cản cậu khi đang lẩn đi vào bóng tối. Có lẽ cậu muốn một người bạn nào đó để ý rằng cậu đang cảm thấy mất mát ra sao, có lẽ cậu cần lời khuyên của người bạn ấy… bởi
vì, càng nghĩ nhiều cậu lại càng chắc chắn hơn rằng khuôn mặt ở cửa sổ đó là một ảo ảnh dội lại từ quá khứ. Đó là dấu hiệu báo cho cậu biết rằng có điều gì đó ở cửa hiệu liên quan tới ba mẹ mà cậu cần tìm kiếm. Và sau buổi nói chuyện với ông John về việc nhận nuôi, cậu biết đây có thể sẽ là cơ hội cuối cùng của mình.
Cậu vặn khóa cửa sau và chuẩn bị mở cửa ra thì có một tiếng ho lớn vang lên phía sau làm cậu suýt chút nữa thì hồn siêu phách lạc. Cậu quay người lại, những tưởng sẽ thấy bà Rust thức dậy và nhìn cậu với ánh mắt tò mò và quở trách. Nhưng thay vào đó, cậu nhìn thấy một người khác…
Lily.
Con bé đang đứng dựa vào khung cửa phòng ăn để mở, khoác chiếc áo màu xanh lá và đi đôi bốt chuyên dùng để cuốc bộ của mình, trông như thể con bé định ra ngoài vậy. Phía sau Lily, với nửa thân mình bị khuất trong bóng của những túi bột mì và giỏ rau củ là Malkin. Con cáo ngáp ngắn ngáp dài và hắt xì một tiếng nho nhỏ, nghe như tiếng những chiếc lò xo trong một cái đồng hồ bỏ túi vậy.
“Bạn định đi đâu lúc nửa đêm nửa hôm thế này, nói xem nào?” “Chẳng đâu cả.” Robert trả lời.
“Nói dối.” Con bé bước tới trước cho tới khi khuôn mặt lấm chấm đầy tàn nhang của nó ngập trong ánh sáng của cây nến.
Malkin cũng đi tới, những móng vuốt của con cáo cào xuống sàn bếp lát gạch. “Đừng tưởng bọn này tích tắc ngủ ngon rồi mà không biết cậu đang định làm gì nhé, Robert Townsend. Cậu đang định trốn về thăm nhà cũ.”
“Nếu thế thì đã sao?” Robert nói.
Malkin khịt mũi. “Chúng tôi muốn biết lý do.”
“Tôi không nói được.”
“Có, bạn có thể.” Lily siết tay Robert và Malkin đớp vào dây giày của thằng bé.
“Được thôi!” Robert đầu hàng. “Đó là vì hình ảnh mà tôi nói hồi sáng.” “Hình ảnh đó thì sao?” Lily hỏi.
“Ừmm, thì sao?” Malkin nói với dây giày đầy mồm.
“Có một khuôn mặt ở cửa sổ. Mắt người đó nhìn thẳng vào tôi. Tôi nghĩ có thể là một bóng ma.”
“Một bóng ma!” Mắt Lily mở lớn. “Của ai cơ?”
“Của ba.” Robert xua Malkin ra. “Nghe có vẻ hoang đường, phải không? Tôi nghĩ bạn sẽ cho rằng tôi bị điên, đó là lý do vì sao tôi định lẻn khỏi nhà. Để chứng minh rằng tôi không nằm mơ giữa ban ngày và tìm hiểu nếu linh hồn đó là thật… hoặc đó chỉ là một loại dấu hiệu nào đó.”
“Tôi không tin nổi là bạn có thể bỏ qua bọn này trong một cuộc săn lùng hồn ma đấy!” Lily nói. “Không được, đi một mình chắc chắn không phải là cách tốt nhất. Cách tốt nhất là chúng tôi đi cùng bạn.”
Robert nhìn con bé thách thức. Nhưng Lily chẳng thèm bận tâm. “Chúng ta cần một cây đèn.” Con bé vừa nói vừa lấy một chiếc xuống từ trên giá của tủ bếp. Cạy cây nến khỏi tay Robert, con bé bỏ cái chụp đèn bằng thủy tinh ra và thắp lửa vào bấc đèn. “Giờ thì hãy đi và điều tra nào.” Con bé nói.
* * *
Màn đêm đen kịt như hắc ín, nhưng những ngôi sao và mặt trăng lại sáng tỏ. Lily đạp xe đi trước, dọc con đường nhỏ dẫn tới cổng trang viên, chiếc đèn nằm trong chiếc giỏ đầu xe. Malkin phi bên cạnh con bé, còn Robert theo đằng sau. Robert khá bực mình vì Lily đứng ra đảm đương việc này, nhưng đó chỉ là kiểu của con bé - lúc nào cũng cố biến mọi thứ thành chuyến phiêu lưu của mình. Cậu bèn đạp xe nhanh hơn để đuổi kịp.
Đạp xe trong bóng tối khiến cả bọn mất gần hai mươi phút mới hoàn thành được quãng đường vào làng Brackenbridge. Con đường đưa họ đi xuống đường Cây Cầu Nhỏ, đi qua những ngôi nhà nằm cách nhau rải rác. Ở phía xa, Robert có thể hình dung ra dáng hình mờ mờ của dòng sông. Cả bọn băng qua cầu Bracken và chạy xe dọc đường Cây Cầu. Ánh sáng vàng rực rỡ của những cây đèn đường trải dài một dãy chiếu soi hết chiều dài của phố High Street. Khi họ đi ngang qua bãi cỏ và về gần tới nhà Robert, người thằng bé tự dưng run rẩy nhè nhẹ.
Robert kéo cổ áo, liếc nhìn căng thẳng dọc theo con hẻm lên phía cửa sổ của Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend. Tối quá nên không chắc chắn lắm, nhưng cậu cảm thấy bên trong không có ai.
Lúc họ dựng xe đạp ở cạnh cây đèn đường đối diện cửa hiệu thì một con cú đằng xa rúc lên một tiếng.
“Nơi này chả có ai.” Robert lắp bắp nói. “Dù thứ tôi nhìn thấy là gì thì chắc chắn là do tưởng tượng mà thôi.”
“Chỉ có một cách duy nhất để chắc chắn được.” Malkin dựng đứng hai tai lên và chạy vụt vào trong thềm cửa, hít hà đánh hơi những tấm ván đóng ngang cửa ra vào. “Tôi không ngửi thấy mùi lạ, ngoại trừ mùi kim loại cháy.”
Con cáo đứng trên hai chân sau, tì đôi bàn chân trước vào gò bên dưới ô cửa bị đóng ván và nhòm qua một khe hở nhỏ. “Có thể ai đó đã đột nhập vào ngôi nhà, nhưng trông không giống như bên trong đã bị lục lọi.”
“Có lẽ chúng ta nên kiểm tra đâu đó phía sau nhà?” Lily đề nghị. Cả ba ép người đi dọc lối đi hẹp nằm giữa các tòa nhà và vào được sân sau của cửa hiệu. Đằng sau hình bóng ảm đạm của nhà xí ngoài và một chồng nhỏ các bao bì đóng gói cũ kĩ, cánh cửa sau nhà được đóng kín bằng những tấm gỗ dán để che đi những ô kính mà gã Roach và Mould đã đập vỡ trong cái đêm định mệnh ấy khi họ đuổi theo Lily, đốt lửa và giết chết ba Robert.
Lily giơ tay sờ soạng trong bóng tối đen ngòm như mực và tìm được cái tay nắm cửa. Cánh cửa bật mở vào trong một cách dễ dàng. “Thời kế leng keng chết tiệt!” Con bé thì thầm, cọ những ngón tay vào cạnh khóa. “Khóa bị cạy! Không phải là hồn ma bóng quỷ gì hay là sản phẩm của trí tưởng tượng của bạn đâu. Thực sự đã có khách tới nơi này đấy, Robert.”
Robert tựa vào bức tường lạnh lẽo và ho một tiếng yếu ớt. Đột nhiên cậu thấy rợn người trước ý nghĩ đi vào trong nhà. Cậu nhớ lại điều ông John đã nói về mẹ, về việc bà đã giấu mình suốt bao năm qua vì lý do bí ẩn nào đó ra sao. Nếu thực bà đã quay lại, có lẽ bà sẽ làm điều ấy một cách lặng lẽ. Phải chăng bà đang ở trong căn nhà, hay đó là người nào khác? “Chúng ta nên làm gì?” Robert hỏi. “Chúng ta không thể liều lĩnh vào trong mà không thăm dò trước.”
“Malkin có thể đánh hơi xung quanh.” Lily nói. “Nếu phát hiện được ra bất cứ thứ gì, cậu ấy sẽ bỏ chạy nhanh chóng. Dù cho kẻ đó có là ai chăng nữa, thì với họ cậu ấy cũng chỉ là một con cáo hoang tình cờ đi lạc vào đây thôi.”
“Tôi là một con cáo hoang.” Malkin nói. “Các cậu chưa từng nhìn thấy mặt hoang dã trong con người tôi đâu - và hãy tạ ơn giời đi, vì nó cực kỳ dữ tợn đây!” Nói xong nó bước vào cửa và biến mất trong bóng tối đen đặc như bồ hóng.
“Đừng bị ngã vào cái hố nào đấy nhé.” Lily khẽ gọi với theo khi nhớ tới nguy cơ mà họ đã được cảnh báo từ trước.
Robert chờ đợi câu trả lời chế nhạo của con cáo, nhưng không thấy gì. * * *
Yên lặng. Màn đêm tĩnh mịch đến mức Robert có thể nghe thấy cả tiếng tim đập của chính mình… hay đó là tiếng tim của Lily đang đứng bên cạnh nhỉ? Cậu lắng tai để nghe tiếng tích tắc của trái tim con bé giữa những tiếng bùm bụp của tim mình. Và rồi tiếng tích tắc vang lên, nhưng đó chỉ là của Malkin, bộ máy đồng hồ của con cáo xì xì vọng ra từ bên trong ngôi nhà cho tới khi mũi nó xuất hiện ở khe hở hẹp giữa cánh cửa và viền khuôn cửa.
“Không một bóng người.” Con cáo sủa. “Tôi nghe thấy vài tiếng cọt kẹt, nhưng đoán chắc đó là do căn nhà cũ kĩ này tạo ra, bởi chẳng có ai ở đây cả. Có bằng chứng cho thấy ai đó đã ngủ ở đây, áng chừng một hoặc hai ngày gì đó. Nhưng chắc họ đã nhìn thấy cậu qua cửa sổ, Robert à, sau đó, sợ quá và bỏ đi rồi.”
Robert thấy ngạc nhiên quá đỗi. Vậy là cậu không lầm… Chỉ có điều khác là khuôn mặt ấy là của người thật chứ chẳng phải hồn ma hay ảo ảnh cậu tự tưởng tượng ra. Có lẽ đó là mẹ cậu, bà đã bí mật trở về?
“Bằng chứng thế nào?” Lily đang hỏi Malkin.
Malkin nhằn một vết than đen bám trên bộ lông màu cam của nó. “Ờ, cậu biết đó… những dấu chân trên lớp bụi, những vết quệt trên tường, những dấu tay trên tấm ốp chân tường - đại loại là thế. Phòng ngủ trước nhà hình như có một cái giường trên sàn nhà được làm từ những mảnh bìa và một cái chăn cũ.”
“Có thứ gì đó mà có thể họ cố ý để lại không?” Robert hỏi. Cậu vẫn đang bị sốc và tự hỏi không biết người khách lạ ấy có đang tìm kiếm cậu hay không.
“Tôi không nghĩ vậy.” Malkin khịt mũi. “Sao cậu không tự mình đi xem thử? Nếu có một manh mối rõ ràng như thế, cậu có khả năng nhận ra cao hơn.”
“Cậu chắc chúng ta không bị nhìn thấy chứ?” Lily hỏi.
“Tôi đã nói với cậu rồi, phải không nào?” Malkin cáu kỉnh nói. “Mùi của con người không thể nhầm được. Chẳng có ai ở đây hết. Tôi kiểm tra rồi.”
“Được rồi.” Lily đẩy cửa mở rộng, ngọn đèn của con bé bập bùng cháy và mờ đi, rồi nó quay lại nói với Robert. “Sắp hết dầu mất rồi.” “Vậy thì chúng ta cần thêm ánh sáng.” Robert lấy nến và diêm của mình ra khỏi túi áo. Tay cậu run rẩy khi đánh diêm, rồi ngọn lửa nhảy múa và bùng lên xẹp xuống nên cậu gặp khó khăn khi tìm cây nến. Cuối cùng, khi thắp lửa xong, cậu gật đầu với Lily.
Hai đứa hồi hộp bước vào ngôi nhà tàn tạ. Robert hít vào một hơi sâu… và đột ngột, quá khứ lại ập về với cậu, thấm đẫm vào tận xương tủy trong cậu.
Chương 5
Robert và Lily đi theo Malkin xuyên qua vỏ nhà bị cháy rụi của Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend. Con cáo nhảy chân sáo điệu đà dẫn đầu cả bọn đi dọc lối vào sảnh, để lại những dấu chân nhỏ xíu trên lớp bụi phủ.
Robert nín thở khi cùng Lily đi vòng bên dưới một cái rầm đổ nát mà chắc hẳn trước đây là một cái xà nhà. Nhìn nơi nào cậu cũng thấy những dấu vết của ngọn lửa từng bùng cháy dữ dội khắp căn nhà sáu tháng về trước: Những bức tường lem nhem với lớp sơn lấm chấm mốc và sần sùi như một làn da gớm guốc, cùng một lớp thạch cao đã bong ra để lộ những con tiện bằng gỗ, trông như những chiếc xương sườn.
Nhìn như thể ngôi nhà của cậu đã bị tàn phá bởi một con quái thú rực lửa.
Nhìn vào bên trong xưởng, ruột gan Robert nôn nao trước khung cảnh chiếc tủ nát bấy mà cậu đã cùng Lily đẩy đến chắn ngưỡng cửa để cố ngăn cản cuộc tấn công của gã Roach và Mould. Cậu cố không nghĩ về những điều đã xảy ra trong căn phòng đó vào cái đêm hỏa hoạn, nhưng lại không thể. Không khí đậm đặc hơi ẩm và nỗi buồn thấm thía; những ký ức cay đắng.
Qua bộ khung xương còn trơ lại của cái tủ, Robert thoáng nhìn thấy cái khung cong đã cháy thành than của chiếc bàn gia công của ba. Những dụng
cụ treo trên tường méo mó đến mức khó có thể nhận ra được - tro trắng và kim loại vặn xoắn lại là tất cả những gì còn lại của chúng. “Nhìn kìa.” Lily chỉ vào khuôn viền của khoảng trống nơi một cái tua vít đã bị tháo khỏi móc treo. Lớp bồ hóng ở nền nhà bên dưới lưu lại dấu vết còn mới. “Bạn nghĩ nó có nghĩa gì?”
“Tôi không biết.” Robert trả lời giọng khàn khàn. “Nhưng tôi không thích điều ấy. Ai đó đã vơ vét căn phòng này.”
Họ cúi mình đi qua ngưỡng cửa và bước xuống hành lang trước đây từng dẫn ra ngoài cửa hiệu đồng hồ. Những chiếc tủ nhiều ngăn kéo vỡ nát nằm chồng kềnh khắp mọi chỗ. Ngăn kéo để tiền nặng bằng sắt nghiêng ra khỏi quầy, nhưng những thứ khác thì vẫn ổn. Nực cười làm sao, một vài thứ sau vụ hỏa hoạn vẫn không hề hấn gì, trong khi những thứ khác thì lại hóa thành tro bụi.
“Căn phòng này cũng đã bị lục lọi, nhìn dáng vẻ của mọi thứ là biết.” Lily khom mình xuống kiểm tra một loạt dấu chân rải rác còn mới, và rồi nó cứng người khi cả bọn nghe thấy tiếng cọt kẹt nho nhỏ từ tầng trên. “Đó là gì vậy?” Robert hỏi.
“Tôi nói rồi - nhà cũ ấy mà.” Malkin hướng mũi chỉ lên trần nhà. “Còn nhiều chứng cứ của người khách của cậu ở tầng hai. Nếu hai cậu đi cùng tôi, tôi sẽ chỉ cho.”
Cả ba cùng quay lại sảnh và nhìn lên cầu thang. Chiếc cầu thang đang trong tình trạng tồi tệ - những lan can mòn đi thành các mẩu cụt ngủn mảnh khảnh và ván đứng giữa các bậc cầu thang thì đen sì.
“Liệu có quá nguy hiểm khi trèo lên những bậc thang ấy không?” Lily hỏi.
“Đi sát vào bên cạnh ấy.” Malkin khuyên. “Chỗ đó gỗ sẽ chắc hơn.” Con cáo nhón chân đi đằng trước, từng bước men theo cầu thang. Robert và Lily thận trọng bước theo đằng sau.
Những nhịp tim đập dội vào tai Lily, lùng bùng như âm thanh của một chiếc đồng hồ đeo tay bị lên cót quá đà. Con bé nắm chặt hòn đá có hóa thạch vỏ ốc trong túi áo và cái hình thù lạnh lẽo ấy tì vào lòng bàn tay khiến nó bình tĩnh lại.
Robert ho. Có thứ gì đó khô ngứa ở cuối cổ họng cậu. Nơi này - Robert có thể nhận ra vị thân quen của nó trong từng hơi thở.
Sàn nhà phía trên hành lang cầu thang bị thủng lỗ chỗ với những cái lỗ cháy sém. Cẩn thận đi vòng qua những cái lỗ ấy, cả bọn chú ý chỉ đi theo những rầm nhà chính là những nơi vẫn còn gần như nguyên vẹn. Họ đi qua căn bếp đổ nát, nơi Robert đã qua bao ngày tháng cùng ăn với ba, rồi tiếp đến là phòng ngủ cũ đen ngòm của Robert, và cuối cùng, họ bước vào nơi đã từng là chỗ ngủ của ông Thaddeus.
Vài dải trăng sáng rời rạc lọt qua lỗ mở trên mái nhà, rọi soi một khung giường bằng sắt đã gãy nát đang bập bênh ở mép một nhóm các tấm ván lỏng lẻo chồi ra từ hố sâu lởm chởm. Ở góc đằng xa, bên cạnh bức tường bao quanh lò sưởi là một chồng những mảnh vải vụn đã hóa thành than nằm chất đống trên một trong vài “hòn đảo” còn lại của sàn nhà.
Căn phòng hầu như đã bị hủy hoại hoàn toàn. Thứ duy nhất không hề suy suyển là lò sưởi bằng gang.
Robert nhớ rằng, kể cả vào mùa đông, ba cũng chưa bao giờ nhóm lửa cho mình dùng. Ông thích tiết kiệm than trong nhà để dành cho khu bếp hay là để cho con trai mình đốt than sưởi trong phòng của nó - ông đã luôn
rộng lượng như thế, luôn chăm chút cho những nhu cầu của người khác hơn là bản thân mình.
Mắt Robert nhòe nước - có lẽ là do bụi? Cậu quệt một bàn tay ngang mặt. “Đi thôi.” Cậu nói. “Chẳng có gì cho người ta muốn lấy ở đây đâu.” “Chờ chút.” Lily đáp.
“Gì cơ?”
“Đống giẻ kia vừa mới chuyển động.”
Malkin căng thẳng, dựng đứng hai tai lên. “Có lẽ là một con chuột.” “Tôi nghĩ là nó lớn hơn thế .” Lily nói.
Con cáo khịt mũi rõ to. “Ừ thì một con chuột to.”
Robert giơ cây nến của cậu ra và nhón chân bước theo thanh rầm cong còn sót lại nằm chính giữa sàn nhà, chăm chú nhìn vào chồng vải rách. “Tôi không nhìn thấy gì cả… Ồ…”
Lúc này Robert đang nhìn vào lò sưởi, có thứ gì đó rất kỳ cục ở đó. Chiếc vỉ lò nhỏ và nền lò sưởi bằng đá nhìn sạch sẽ một cách vô lý khi so sánh với những thứ khác, cứ như là nó đã được phủi bụi vậy. Robert rón rén bước tới mảng sàn còn nguyên vẹn và hơ cây nến soi từ dưới khung vòm của lò sưởi.
“Lạ thật.” Robert nói. “Phía sau lò sưởi bị đẩy sang một bên để thông ra ông khói. Còn đây là chiếc tua vít bị mất ở xưởng, nó đang để trên vỉ lò sưởi…”
“Nó ở đấy để làm gì nhỉ?” Lily nhón chân đi dọc thanh rầm cháy sém để tới chỗ Robert.
Robert khom mình xuống, tì một bên tay vào tấm bọc sắt xung quanh và ngả người vào gần hơn. Chiếc tua vít phủ đầy bụi. “Sao lại thế nhỉ?” Cậu nói. “Cứ như thể ai đó đã chọc ngoáy xung quanh cái ống khói vậy.”
Robert đẩy tấm ốp phía sau lò sưởi. Một cơn bão bụi mù xộc ra, rơi thành dòng xuống ngọn nến làm lửa suýt nữa thì tắt ngúm. Cậu cúi rạp về phía trước, vươn xa nhất có thể, tới khi có thể nhìn thẳng lên được cái ống khói. “Có gì đó bị kẹt ở đây, tôi cần thêm ánh sáng để lôi được nó ra.”
Lily tiến lại gần hơn, băng qua mặt sàn ọp ẹp. Chiếc đèn trong tay con bé mờ dần đi, nhưng nó vẫn đặt đèn cạnh vai Robert để cậu nhìn được. Malkin cũng tới nhập bọn trên những tấm ván gỗ. Sau đó con cáo bắt đầu lon ton chạy tới đống vải vụn, gầm gừ và thúc mũi vào đó. Lily thề là con bé lại nhìn thấy đống vải giật một cú nữa.
“Rob…ert!” Lily thì thầm bằng giọng nói nghèn nghẹn.
“Hả? Gì đấy?” Robert vẫn đang mải chọc ngoáy cái ống khói. Cả thân mình cậu nép vào một bên, hắt cái bóng kinh dị về phía căn phòng. Malkin dựng đứng hết lông gáy lên và nhe răng ra, đợp vào đống giẻ. Cuối cùng, Robert cũng quay lại.
Đông giẻ nhấp nhổm trồi lên. Mỗi giây trôi qua, nó càng lúc càng cao hơn và giống hình người hơn. Những áo, quần và mảnh vải trượt xuống từ vai của người đó, rồi đột ngột, tất cả chỉ còn lại một người đàn ông đang cuộn mình trong một chiếc chăn len dơ bẩn. Phía dưới mũ trùm đầu, gương mặt không được cạo râu của ông ta đầy bùn đóng bánh lại và một vết sẹo trắng dài chạy dọc xương bên má phải của ông ta.
Malkin bất thình lình nhào tới ông ta. Nhưng người đàn ông rách rưới kia đã nhanh nhẹn tránh đi và hướng về phía Robert.
Robert lồm cồm bò ngược về phía sau, thả rơi cả cây nến của mình. Lửa tắt phụt và rồi người đàn ông đó tóm lấy cổ họng cậu. Những móng tay đen nhẻm than cào vào da Robert, còn những ngón tay xương xẩu thì ra sức kéo cậu lên phía trần nhà. “Ahhhh!” Robert hét lên. “Thả ra!”
“Đừng hòng.” Gã đàn ông rách rưới gầm lên.
Malkin lại xông tới ông ta, nhưng gã đàn ông đá con cáo sang một bên và kéo Robert tới góc nhà, ném cậu vào tường.
“Gọi con cáo của mi lại đi.” Gã đàn ông thì thầm, hơi thở nóng bỏng và giận dữ của ông ta phả vào tai Robert.
“Thả tôi ra trước đã.” Robert ho. Cậu cố lắc người thoát ra, nhưng những ngón tay của gã đàn ông siết chặt khí quản của cậu cho tới khi hơi thở cậu gấp gáp và đứt đoạn.
“Bảo con cáo của mi lui đi rồi tính.” Đôi mắt của gã đàn ông hoang dại vì giận dữ.
“Malkin, lùi lại!” Robert khò khè nói.
Malkin khựng người, sau đó lùi lại về bên cạnh Lily.
“Tốt.” Giọng nói cộc cằn của ông ta trở nên bình tĩnh hơn, nhưng ông ta vẫn không ngừng nhìn chằm chằm vào con cáo.
Robert ra hiệu về phía cánh cửa. Đi gọi cứu viện, cậu mấp máy môi với Lily.
Lily cố gắng giữ cho vẻ mặt của mình bình thường. Gật đầu thật nhẹ với Robert, con bé bước sang bên, nép mình đi ngược lại thanh rầm ở giữa phòng.
“Không, không được!” Gã đàn ông rách rưới tóm Robert chặt hơn và nhảy qua khe hở, chặn đường đi của Lily. Ông ta thình lình lao tới con bé. Malkin đớp vào giày bốt của gã đàn ông, nhảy xổ vào giữa hai chân ông ta.
Lily nhảy sang bên cạnh, níu lấy mảnh sàn nhà còn chắc chắn. Gã đàn ông cố đuổi theo, vấp chân về phía trước, kéo Robert lao theo, nhưng ông ta quá nặng. RẮC! RẮC! RẮC! Những tấm ván sàn răng rắc gãy dưới chân ông ta.
Ông ta dừng lại và nhìn xuống. “Cái quái gì…?” Ông ta lắp bắp nói, ghì Robert vào ngực.
Một âm thanh đột ngột vang lên, toàn bộ sàn nhà đổ sụp, những tâm ván lót sàn vỡ thành nhiều mảnh, nứt ra và rơi lả tả, cho tới cuối cùng, chúng sụp xuống. Lily và Malkin nhảy bán sống bán chết tới ngưỡng cửa, nhưng Robert và người đàn ông đã rơi xuống khe hở cùng với khung giường, để lại dư âm là một đám mây mù đầy bụi than và vữa trát tường.
* * *
Tiếng lộp độp dồn dập của gạch đá vụn rơi xuống chẳng mấy chốc đã bị át đi bởi một âm thanh lớn réo vào hai tai Robert. Cậu có cảm giác như thể ai đó đập mạnh vào đầu cậu bằng một cái búa vậy. Khi bụi mù lắng đi, cậu đưa mắt nhìn ra xung quanh.
Cậu đang ở trong phòng kho nhỏ. Trước đây, căn phòng từng có những chiếc giá lắp dọc tường chất đầy những thiết bị và các loại đồng hồ, nhưng từ hồi đó, chúng chỉ còn là những món đồ vỡ nát và tàn tạ. Chiếc
giường và những mảnh ván lát ở tầng trên vỡ vụn trên sàn nhà xung quanh cậu. Cậu nhìn lên phía trên.
Cái lỗ cậu rơi xuống gần như rộng bằng diện tích cả trần nhà. Những mảnh gỗ lởm chởm sắc nhọn như những con dao tua tủa đâm ra quanh miệng hố, và hai khuôn mặt nhỏ ngó ra qua mép hố, có một cái đèn dầu ở giữa họ. Một có mái tóc đỏ rủ xuống ôm lấy khuôn mặt, còn lại là một khuôn mặt với đôi mắt đen láy như than, một đôi tai và một cái mõm đầy lông màu vàng cam.
Lily giơ đèn lên cao. Chiếc đèn lúc lắc trong tay con bé.
“Bạn có sao không?” Con bé nói vọng xuống.
Robert gắng gượng để trả lời, nhưng chẳng lấy đâu ra hơi sức. Cậu vỗ vỗ vào chân tay mình và nhận ra chúng vẫn còn và ở đúng vị trí. Không có cảm giác giống như có thứ gì đó bị gãy; thực ra, hình như là cậu đã ngã trúng thứ gì đó mềm mềm.
Thế rồi cậu nhận ra thứ ấy chính là gã đàn ông.
Robert đang nằm vắt ngang ngực ông ta. Chắc hẳn hai người đã lộn mèo trong không trung nên ông ta mới hạ cánh xuống sàn trước tiên, ngay bên dưới cậu. Robert lăn khỏi ông ta và lồm cồm bò ra xa bằng cả hai tay và đầu gối. Gã đàn ông vẫn bất động.
Cậu đứng dậy và thử mở cửa. Cửa đã bị khóa. Có lẽ cậu có thể trèo lên mấy cái giá hay là khung giường giống như trèo thang và trở về chỗ hai người bạn. Việc này sẽ khó thực hiện, cộng thêm với mép của cái lỗ nhìn rất lởm chởm và không mấy hấp dẫn.
Cậu hắng giọng và khàn khàn hét lên phía Lily. “Tôi không nghĩ mình có thể ra khỏi đây!”
“Còn ông ta thì sao?” Lily hét vọng xuống.
Robert lấy chân thúc vào ông ta, làm bung ra một thứ mùi hôi nồng nhớp nháp khiến cậu chùn lại vì ghê tởm. “Ông ta bất tỉnh rồi.” Robert gọi. “Hãy gọi cảnh sát hay ai đó tới trước khi ông ta tỉnh lại.”
Lily gật đầu. “Để tôi thử cái này trước đã.” Con bé biến mất khỏi mép hố, mang theo cả Malkin và ánh sáng. Robert nghe thấy tiếng chân của hai người bạn bước xuống cầu thang, và một lát sau, cánh cửa rung lên bần bật khi Lily vật lộn mở nó ra từ phía bên kia.
“Cái chụp khóa bị chảy bít hết lỗ khóa rồi. Tôi không thể cạy khóa từ ngoài này được.”
“Vui thật, trông nó có vẻ vẫn ngon lành ở phía đằng này.” Robert nói. “Nhưng bạn cứ đi và tìm người tới giúp đi!” Cậu nài nỉ. “Và nhanh lên đây!”
“Được rồi!” Con bé nói rồi cùng Malkin lạo xạo bước ra khỏi nhà. Thế là Robert nhận ra cậu bị bỏ lại một mình trong căn phòng kho này, trong tăm tối, với kẻ lạ mặt đầy nguy hiểm đang bất tỉnh nhân sự.
* * *
Thời gian trôi qua - có thể là nhiều phút hoặc nhiều giờ. Nguồn chiếu sáng duy nhất là ánh trăng chiếu chênh chếch qua cái lỗ hồng mái nhà ở tít phía trên. Robert rúc mình vào góc phòng, tránh xa gã đàn ông hết mức có thể và hít thở sâu. Một bóng mây của nỗi sợ hãi đang nở ra trong cậu. Robert nhắm mắt lại và cố đẩy nó đi.
“Chúng ta đang ở đâu thế, nhóc?” Gã đàn ông lẩm nhẩm, thình lình xuất hiện ngay sát bên cậu. Ông ta đã thức dậy và Robert thậm chí còn không nghe hay để ý thấy ông ta chuyển động!
“Chúng ta rơi xuyên qua sàn nhà.” Robert cố giữ cho giọng nói của mình không run rẩy và gom hết can đảm từ ruột gan đang nhũn ra của mình. “Chúng ta đang ở trong một căn phòng bị khóa trái. Lily đang đi tìm người giúp.”
“Lily hử?” Ông ta ậm ừ thích thú.
“Đúng. Thế.” Robert phát âm từng từ như bắn những viên đạn, nhưng trong lòng, cậu tự rủa mình vì đã lộ ra tên Lily. “Và khi bạn ấy quay lại cùng với cảnh sát, ông sẽ tiêu đời vì tội xâm phạm bất hợp pháp. Để rồi xem.”
Gã đàn ông cười rũ rượi làm Robert rùng mình. “Nhưng lúc đó ta đã chẳng còn ở đây nữa, nhóc ạ.” Ông ta nghiêng mình tới gần cho tới khi Robert có thể cảm thấy hơi thở của ông ta đang phả vào mặt mình. “Nhóc vẫn chưa biết ta là ai, phải không?”
“K…không.” Robert lắc đầu và khiếp đảm nhìn người đàn ông rê một ngón tay dọc xuống cái má đáng sợ của ông ta.
“Cần manh mối hả? À, chẳng bao lâu nữa nhóc sẽ biết thôi.” Ông ta bước tới góc xa sáng lờ mờ của căn phòng và Robert nghe thấy tiếng ông ta lắc tay nắm cửa.
“Ông sẽ không mở được nó trước khi họ tới đâu.” Robert nói với sự tự tin nhiều hơn cậu tưởng. “Thaddeus Townsend đã tạo ra cái khóa đó và nó…”
“… an toàn.” Người đàn ông nói nốt hộ cậu. “Cậu đang nói chuyện với người phá được tất cả các loại khóa, bé con ạ. Chúng ta nên có chút ánh sáng chứ nhỉ?” Gã đàn ông đánh một que diêm lên và ánh lửa soi rọi nụ cười nhăn nhở khi ông ta giơ que diêm về phía ổ khóa trong vòng một giây. Rồi ngọn lửa tắt ngấm.
“Ông đang làm gì ở đây?” Robert hỏi.
“Tìm kiếm thứ thuộc về ta.” Gã đàn ông làu bàu. “Thứ đã bị đánh cắp.” Ông ta rít lên qua hơi thở. “Nhưng ta sẽ bắt kịp kẻ phản bội Selena. Nó sẽ phải hối tiếc cái ngày nó đã chọc giận ta.”
Robert cảm thấy một đợt sóng chấn động. Gã đàn ông đó đang nói về mẹ cậu! Đột nhiên cậu mừng vì căn phòng chỉ được thắp sáng bởi mỗi ánh trăng. Bóng tối sẽ che giàu nỗi kinh ngạc của cậu.
Gã đàn ông đánh một que diêm thứ hai lên và mải miết nhòm vào ổ khóa. Ánh lửa cháy chầm chậm, lan tới những đầu ngón tay của ông ta, nhưng ông ta không hề do dự, chỉ đơn giản chọc que diêm vào lỗ khóa cho tới khi nó xèo xèo lụi đi. Thế rồi Robert nghe thấy một tiếng tách đặc trưng của lấy khóa vang lên.
Gã đàn ông mỉm cười và lắc hộp diêm trong bàn tay mình. Khi ông ta mở ngón tay ra, lòng bàn tay ông ta trống trơn. Hộp diêm đã biến mất vào không khí.
Những que diêm ấy - chúng là của mình, Robert nhận ra. Gã đàn ông kia hẳn đã lấy của cậu mà cậu thậm chí không hề hay biết. Chắc ông ta không thể làm thế, phải không?
Robert lục hai tay vào trong các túi áo. Hộp diêm đã biến mất. Thay vào đó, cậu cảm thấy có thứ gì đó khác - một tấm thẻ với các góc bo tròn.
Cậu lấy tấm thẻ ra và lật lại, nhìn vào đó trong ánh sáng mờ mờ. Quân J RÔ.
Dạ dày cậu nảy lên một cái.
“Ông là Jack Door.” Robert há hốc mồm kinh ngạc. “Nghệ sĩ thoát hiểm vĩ đại nhất đất nước này!”
Jack cười. “A, trúng phóc! Chỉ là các ổ khóa không giữ được ta thôi!” Ông ta bước qua ngưỡng cửa giờ đã mở với hai cánh tay dang rộng và thực hiện một động tác khẽ cúi chào, giống như cách mà một ảo thuật gia chào khi kết thúc một màn trình diễn. Ông ta nấn ná một lát, như thể đang chờ đợi dấu hiệu của sự tán thưởng, một tràng pháo tay nào đó của một khán giả vô hình. Và rồi Robert nhận ra khán giả ấy là ai. Chính là cậu.
“Chậc, bé con này.” Jack Door nói. “Thật vinh hạnh được gặp nhóc, nhưng ta phải đi rồi. Ta sẽ trở lại, vậy nên đừng kể cho ai về chuyến viếng thăm này của ta - nếu còn muốn sống.”
Trước khi Robert kịp trả lời, ông ta đã đi mất, chỉ để mỗi bóng trăng lại đằng sau.
* * *
Robert lập cập bước tới khoảng tối của ngưỡng cửa để mở. Hành lang tầng trệt của cửa hiệu vắng tanh - Jack đã hoàn toàn biến mất. Cậu nhìn xuống lá bài vẫn đang run rẩy trong tay mình. Lá J Rô. Ông ta đang tìm kiếm thứ quái quỷ gì vậy? Và có thực là ông ta quen biết bà Selena? Giáo sư Hartman đã nói rằng mẹ Robert có khi đang chạy trốn khỏi rắc rối - và chắc chắn chẳng có rắc rối nào có thể lớn hơn việc dây dưa với một tên tội
phạm khét tiếng như Jack Door. Nhưng nếu Jack đang săn đuổi bà Selena, thì điều ấy có nghĩa bà thực sự vẫn còn sống, và đang ở đâu đó trên đất Anh này…?
Robert cảm thấy một làn sóng của cảm xúc nào đó giống như sự nhẹ nhõm. Cậu không biết liệu những suy đoán của mình có đúng hay không nhưng chúng đã tạo ra một thứ linh cảm lạ lùng. Kể cả khi những suy đoán ấy là đúng, vẫn còn đó quá nhiều câu hỏi… Jack Door hiển nhiên không biết bà Selena đang ở đâu, nhưng mẹ đã đánh cắp thứ gì từ ông ta, và liệu Jack sẽ làm những gì nếu ông ta tìm thấy mẹ? Hai đầu gối của Robert run lên bên dưới - từ danh tiếng đáng sợ của ông ta, cậu cảm thấy chắc chắn rằng dù có là gì thì đó cũng sẽ là điều tồi tệ.
Rồi cậu nhớ lại những gì bài báo đã nhắc tới, rằng Jack đã sống mười lăm năm án chung thân vì tội chủ mưu vụ trộm viên Kim cương Mặt Trăng Máu - liệu đó có phải món đồ bị đánh cắp khỏi Jack mà ông ta đang tìm kiếm? Và bà Selena là kẻ cắp ư? Không phải chứ…? Làm sao mẹ cậu lại có thể giữ một món đá quý giá trị nhường ấy? Và tại sao Jack lại nghĩ bà để nó lại nhà Townsend sau ngần ấy năm đã qua?
Dù gì thì mọi thứ đã bị lửa đốt sạch… Và hơn nữa, Jack đang lục lọi trong nhà thì bị mấy đứa làm gián đoạn. Chắc ông ta đã ẩn náu trong phòng của ba Thaddeus và hy vọng họ sẽ bỏ đi, nhưng thay vì thế Malkin lại nhảy vào ông ta. Điều ấy có nghĩa thứ ông ta đang tìm kiếm có thể vẫn còn ở trên đó…
Thế rồi Robert nhớ lại món đồ bị mắc kẹt trong ống khói. Thật cẩn trọng, cậu đi ngược lên tầng trên. Cái hố lởm chởm trong phòng của ba cậu thủng đúng ngang qua sàn nhà. Thanh rầm ngang vẫn còn
nguyên, nhưng rất khó nhìn trong ánh trăng. Cậu cố nhích từng inch* theo thanh rầm và chẳng mấy mà nhận ra mình lại đang đứng ở lò sưởi. Cậu cúi xuống và lùa tay qua tấm ốp lưng đúc bằng sắt rồi vào tới ống khói. Ống khói quá hẹp cho một người đàn ông trưởng thành với lên - ngay cả với một nghệ sĩ uốn dẻo như Jack thì cũng không cố được. Nhưng với Robert, cùng đôi tay nhỏ hơn của cậu, thì lại dễ dàng.
Cậu vươn những ngón tay ra xa nhất có thể… và sờ thấy thứ gì đó. Thứ ấy mềm mịn và nhão, phủ đầy bụi. Một con chim chết chăng? Robert xoa mấy đầu ngón tay vào vật đó một lần nữa. Cậu có thể cảm nhận được vật đó đang lắc về phía trước rồi lại về phía sau ở chỗ nó bị nhét vào. Robert thu bàn tay lại và rồi ấn mạnh, vật ấy rời ra một chút… Rồi vật ấy rơi xuống, xổ ra khỏi ống khói cùng một đám mây mù đầy bụi than xộc thẳng vào mũi Robert và khiến cậu hắt xì. Vật ấy dừng lại dưới chân cậu. Robert nhặt lên.
Đó là một túi nhỏ làm bằng vải màu xám, và dù nhìn nó có vẻ như đã bị nhét vào ống khói vài năm, nhưng trông vẫn sạch sẽ chán so với những thứ khác trong căn phòng đổ nát này.
Cậu nhanh chóng giở cái bọc ra, để lộ một phong bì rách nát. Có hai chữ bị nhòe được viết nguệch ngoạc bằng màu mực đen trên nền ố vàng của phong bì:
QUEEN’S CRESCENT
Một vật nặng và méo mó lạo xạo phía bên trong. Robert đổ nó ra và lấy tay áo mình lau bề mặt của nó. Vật ấy lấp lánh trong tay Robert. Đó không
phải là viên Kim cương Mặt Trăng Máu như cậu tưởng, mà là một mặt dây chuyền hình lưỡi liềm bằng bạc.
Mặt trước mặt dây chuyền được khảm bằng ngà voi, có hình dáng người đàn ông trên mặt trăng cong cong hình lưỡi liềm. Ông ta có cái mũi tròn tròn như củ hành, giống ngài Punch, và có nụ cười nham nhở giống Jack. Trên đỉnh đầu ông ta là một sợi dây chuyền dài xuyên qua lỗ xâu để người ta có thể đeo quanh cổ. Robert lật mặt dây chuyền lại. Một viên đá quý màu đỏ duy nhất lóe sáng phía sau mặt dây chuyền, được gắn vào một hình vẽ thanh thoát giống một cái cây. Phía dưới nó có hai từ được chạm trổ. Robert xăm soi gần hơn trong ánh trăng. Có vẻ đó là một ngôn ngữ nước ngoài, và kèm theo một hình tam giác nhỏ phía sau:
fmqzw uofhvlxvcwn Δ
“Đây là thứ ông đang tìm kiếm sao, Jack?” Robert thì thầm và sờ mặt dây chuyền. “Vì giờ tôi đang có nó.”
Những bước chân vội vã chạy ở đầu cầu thang làm gián đoạn dòng suy nghĩ của Robert. Cậu bật dậy và cúi đầu xuống, tròng dây chuyền quanh cổ. Mặt dây chuyền vung vẩy vào ngực cậu lạnh buốt. Cậu suýt nữa không kịp cài cúc cổ áo và giấu nhẹm ánh sáng lấp lánh bạc của mặt dây chuyền trước khi một hình dáng cọt kẹt bước qua ngưỡng cửa tới chỗ cậu.
“Robert?” Một giọng nói nhẹ nhàng gọi.
Thở phào nhẹ nhõm, cậu nhìn ra đó không phải Jack, mà là Lily, theo sát nút là Malkin và bà Rust.
“Chảo rán và nổi nấu cá hỡi!” Bà Rust cảm thán, “Ơn trời chúng ta đã tìm thấy cháu!”
“Tôi cứ nghĩ bạn bị khóa trái trong phòng kho.” Lily kêu lên. “Nhưng khi quay lại đó thì chẳng có ai. Sao bạn ra được vậy?”
“Gã đàn ông đó cạy khóa cửa.” Robert nói to.
“Vậy thì may là chúng ta có người giúp sức.” Malkin gầm gừ. “Ông ta đâu rồi?”
“Đi rồi.”
“Tốt.” Lily cười và hồ hởi vẫy tay với Robert. “Tôi đã chạy xe về nhà nhanh nhất có thể! Ông Wingnut đang chờ trong chiếc xe chạy hơi nước bên ngoài.” Con bé nhìn quanh. “Gã đàn ông đó đi đâu vậy?”
“Biến mất rồi.” Robert lần đường đi ra phía họ dọc theo thanh rầm ngang. “Rõ ràng đó là chuyên môn của ông ta.” Robert tới bên cạnh Lily và lấy ra lá bài J Rô, đưa nó cho con bé bằng một động tác hoa mỹ.
Mắt Lily mở lớn. “Không thể tin nổi!” Con bé thì thầm. “Jack Door ư? Và ông ta đưa bạn lá bài này?”
“Không hẳn thế.” Robert đáp. “Giống kiểu giấu nó vào người tôi lúc trộm mấy que diêm của tôi hơn.”
“Bánh răng quay vòng và giá để gia vị hỡi!” Bà Rust lẩm bẩm. “Ông ta có thể cướp của bất kỳ ai trong các cháu mà các cháu còn chẳng hay biết ấy.”
“Ôi vớ vẩn!” Malkin nói. “Tôi chả nghĩ thể đâu.”
Lily đưa trả lại lá bài. “Dù vậy ông ta đang tìm kiếm thứ gì đó, phải không, Robert? Thứ gì đó bị kẹt trong ống khói?”
“Tôi tự hỏi ông ta đã tìm ra chưa?” Malkin trầm ngâm.
Robert chạm một tay vào cổ áo. Dây chuyền Mặt Trăng đang nằm dưới đó, yên vị bên trên xương ức của cậu. Một viền cong lạnh sắc nằm giữa lớp
áo và da.
“Không hiểu sao tôi lại nghĩ ông ta đã không tìm ra được.” Robert nói.
Chương 6
Robert sẩy chân rơi qua ngưỡng cửa của giấc mơ, nửa mê nửa tỉnh. Một quân bài J Rô đáng sợ lơ lửng phía trước cậu với các mép được chiếu sáng bằng ánh trăng bàng bạc. Cậu đuổi theo, hai tay đưa ra, nhưng lá bài cứ vuột mất khỏi tầm với và mặt đất xô đi dưới chân cậu, kéo cậu ra khỏi giấc mơ chập chờn tới một buổi sớm ban mai sáng tươi xanh biếc và hạ cậu tròng trành xuống giường.
Cậu nằm một lúc, hơi thở dịu lại. Ánh sáng tuôn tràn qua bức rèm đã mở. Mặt trời đã lên tới đỉnh đầu ở thời điểm giữa ngày. Một vật lành lạnh lạ lùng cọ vào ngực Robert. Cậu ngồi dậy và vật ấy vung vẩy từ bên nọ sang bên kia. Dây chuyền Mặt Trăng! Mặt dây chuyền đã hằn lên một vết hình lưỡi liềm trên da cậu.
Dĩ nhiên rồi, cậu đã nhớ lại mọi thứ… về việc Lily và những người máy đã đưa cậu về Brackenbridge ra sao. Khi trở về nhà, bà Rust đã làm cho cậu một ly sữa đặc pha rượu, còn Lily và Malkin đứng xung quanh kiểm tra xem cậu đã cảm thấy khá hơn chưa, sau đó mấy đứa bị lùa lên giường ngủ - lúc đó khoảng chừng năm giờ sáng.
Một tiếng gõ cửa vang lên.
“Mời vào.” Robert nói vọng ra và kéo chăn lấp ngực để che mặt dây chuyền đi.
Cô Tock bước vào với một cái bình bốc khói nghi ngút.
"""