"
Thời nhà Ngô - Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh 3 PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thời nhà Ngô - Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh 3 PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Hình vẽ do phòng vẽ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” thực hiện Họa sĩ thể hiện: Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Đức Hòa, Nguyễn Trung Tín, Nguyễn Huy Khôi, Tô Hoài Đạt, Lâm Chí Trung
biểu ghi biên mục trước xuất bản do thư viện KHTH TP.HCM thực hiện
General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data
Thời nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê / Trần Bạch Đằng chủ biên ; Đinh Văn Liên ... [và nh.ng. khác] biên soạn ; họa sĩ Nguyễn Đức Hòa ... [và nh.ng. khác]. - Tái bản lần 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015.
304 tr. : minh họa ; 24 cm. - (Lịch sử Việt Nam bằng tranh ; T.3).
1. Việt Nam -- Lịch sử -- Triều nhà Ngô, 939-944 -- Sách tranh. 2. Việt Nam -- Lịch sử -- Triều nhà Đinh, 968-980 -- Sách tranh. 3. Việt Nam -- Lịch sử -- Triều nhà Tiền Lê, 980-1009 -- Sách tranh. I. Trần Bạch Đằng. II. Đinh Văn Liên. III. Ts: Lịch sử Việt Nam bằng tranh.
1. Vietnam -- History -- Ngô dynasty, 939-944 -- Pictorical works. 2. Vietnam -- History -- Đinh dynasty, 968-980 -- Pictorical works. 3. Vietnam -- History -- Early Lê dynasty, 980-1009 --Pictorical works.
959.702 -- dc 22
T449
Lời giới thiệu
Công trình Lịch sử Việt Nam bằng tranh ra đời nhằm mục đích giới thiệu lịch sử nước nhà một cách ngắn gọn, sinh động, có hệ thống qua những truyện kể súc tích và bằng những tranh vẽ minh họa.
Bộ sách tranh nhiều tập này cố gắng phản ánh con người và lịch sử Việt Nam theo đúng tiến trình lịch sử với không gian, văn hóa, y phục, tính cách phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
Bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh dự kiến sẽ thực hiện xuyên suốt từ người cổ Việt Nam của các thời đại đồ đá, đồ đồng đến thời Hùng Vương dựng nước; trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc đến thời kỳ độc lập tự chủ của Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và cuối cùng là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước vừa qua.
Bộ sách chia thành nhiều tập, mỗi tập viết về một thời kỳ hay một nhân vật, một vấn đề tiêu biểu của thời kỳ đó. Mỗi tập có cấu trúc độc lập riêng nhưng hài hòa trong một tổng thể chung là Lịch sử Việt Nam. Trong quá trình biên soạn, các tác giả còn chú ý thể hiện các đặc điểm văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán tiêu biểu của từng thời kỳ lịch sử.
Công trình này là nỗ lực chung của các họa sĩ, các cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh đầu tiên của nước ta được thể hiện với mục đích và yêu cầu trên, nên trong quá trình biên soạn chắc không tránh khỏi những sơ xuất. Ban biên soạn và Nhà xuất bản Trẻ mong được sự góp ý của bạn đọc gần xa.
Thành phố Hồ Chí Minh
Trần Bạch Đằng
Ngô Quyền sinh năm 898 tại làng Đường Lâm (huyện Ba Vì, Hà Nội ngày nay), là con của hào trưởng Ngô Mân nổi tiếng một vùng. Tương truyền, mẹ Ngô Quyền nằm mơ thấy một con đại bàng trắng từ trên cây lao vút xuống người, bà giật mình tỉnh giấc, thụ thai mà sinh ra Ngô Quyền.
5
Người xưa kể rằng khi Ngô Quyền sinh ra, ánh sáng lạ tỏa đầy nhà, hương hoa bay thoang thoảng và chim về ca hót líu lo. Ngô Quyền sinh ra tướng mạo khác thường, khôi ngô tuấn tú, mặt vuông mắt sáng. Đặc biệt trên lưng có ba nốt ruồi rất khác lạ.
Có một thầy tướng từng nói với Ngô Mân rằng: “Nhà ông vừa sinh được một quý nhân, thằng bé có cốt cách hơn người, có phước lớn lắm, ắt ngày sau sẽ là bậc anh hào giúp dân cứu nước”.
6
Ngô Quyền lớn lên trở thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có trí dũng, sức khỏe phi thường có thể nhấc cả vạc đồng. Những đêm trăng sáng, ông thường rủ đám trai làng tập võ suốt đêm. Võ nghệ cao cường, song tính ông khoan hòa nên ai cũng mến mộ. Ngô Quyền rất thích săn bắn, ông thường dẫn đầu đám trai làng đi săn và mang nhiều thịt thú rừng về chia cho dân làng.
7
Ngô Quyền rất thích kết giao với anh hùng hào kiệt bốn phương. Đặc biệt, ông thường ra tay giúp đỡ người yếu, chống lại kẻ ác. Có lần, gặp bọn cậy quyền cậy thế, bắt cóc đàn bà con gái, tiếng than khóc, la hét vang một góc chợ. Ngô Quyền giận lắm, thẳng tay đâm chết tên suất đội tàn ác. Từ đó, tiếng tăm của ông lại càng được nhiều người biết tới.
8
Ngô Quyền lớn lên khi họ Khúc đã ba đời dựng nền tự chủ (Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Hạo và Khúc Thừa Mỹ). Đất nước thống nhất hòa bình, nơi nơi đầm ấm, yên vui. Thứ sử Ngô Mân và Ngô Quyền đều làm quan dưới trướng họ Khúc, chung sức đem lại bình yên cho người dân.
9
Nhưng khi Khúc Thừa Mỹ làm Tiết độ sứ thì Nam Hán - một tiểu triều đình cát cứ ở Quảng Châu, Trung Quốc - bắt đầu cường thịnh. Năm 930, Nam Hán đem quân xâm lược nước ta. Khúc Thừa Mỹ trước đây chỉ lo dựa vào uy thế đã rệu rã của triều đình Hậu Lương mà không lo chuẩn bị binh lực trong nước nên khi bị tấn công, ông chỉ biết tập hợp một số quân thân cận để chống đỡ và cho người đi triệu tập hào trưởng các nơi đem quân ứng cứu. Khi Ngô Quyền nghe tin, đem quân Đường Lâm đến trợ giúp thì thành Đại La đã thất thủ, Khúc Thừa Mỹ bị bắt đem về Quảng Châu.
10
Nam Hán cử Lý Tiến sang làm Thứ sử Giao Châu, lại cử tướng Lương Khắc Trinh trấn giữ thành Đại La và bắt đầu đặt nền đô hộ hà khắc lên đất nước ta. Nhưng quân Nam Hán cũng chỉ kiểm soát được vùng châu thổ sông Hồng. Từ đèo Ba Dội (thị xã Tam Điệp, huyện Ninh Bình) trở vào Nam, gồm Ái châu (Thanh Hóa), Hoan châu (Nghệ An, Hà Tĩnh) thì vẫn do các hào trưởng và các bộ tướng cũ của họ Khúc trấn giữ. Nhân dân ở đây ra sức tích trữ lương thực, rèn luyện võ nghệ để chờ ngày khởi binh đánh đuổi kẻ thù.
11
Lúc bấy giờ, ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) có hào trưởng Dương Đình Nghệ vốn là bộ tướng cũ của họ Khúc. Dương Đình Nghệ ra sức tích trữ lương thảo, chiêu mộ nghĩa sĩ, nuôi chí đánh đuổi giặc Nam Hán.
12
Làng Ràng, quê hương của Dương Đình Nghệ trở thành nơi hội tụ anh hùng. Hào kiệt ở khắp nơi đem gia tướng, nghĩa binh về tụ nghĩa mong có ngày đánh đuổi quân xâm lược giành lại nền tự chủ mà họ Khúc đã dựng nên. Trong số những tụ nghĩa có Đinh Công Trứ - một hào trưởng vùng Trường châu (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay). Công Trứ là người trung thực, khẳng khái và có tài thao lược nên được Dương Đình Nghệ tin tưởng giao cho việc trấn giữ Hoan châu.
13
Căm giận trước cảnh bạo ngược của quân Nam Hán, Ngô Quyền cũng rong ruổi từ vùng Đường Lâm về theo Dương Đình Nghệ - bạn đồng liêu của cha mình. Vị bộ tướng khôi ngô tuấn tú, giỏi võ và có nhiều mưu lược này được Dương Đình Nghệ rất yêu mến và được nghĩa quân quý trọng.
14
Dưới trướng Dương Đình Nghệ còn có một bộ tướng là Kiều Công Tiễn vốn là một hào trưởng ở Phong châu (thuộc địa phận tỉnh Phú Thọ ngày nay). Kiều Công Tiễn đi theo Dương Đình Nghệ từ những ngày đầu tập hợp lực lượng, lại có sức khỏe vô địch nên được Dương Đình Nghệ tin tưởng cho làm bộ tướng thân cận. Kiều Công Tiễn thấy Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ yêu mến và các tướng sĩ nể phục thì đem lòng ganh ghét. Vả lại, Kiều rất say mê Dương Nhi - con gái của Dương Đình Nghệ - song Dương Đình Nghệ chưa chịu gả còn Dương Nhi thì ngày càng quyến luyến Ngô Quyền.
15
Đêm rằm hàng tháng, trong doanh trại nghĩa quân thường mở hội thi võ để tranh tài cao thấp. Kiều thách Ngô Quyền thi đấu vật, ai thắng sẽ được hỏi Dương Nhi làm vợ. Đêm hôm đó, dưới sự chứng kiến của Dương Đình Nghệ, Dương Nhi và các anh hùng, Kiều Công Tiễn tấn công Ngô Quyền bằng những đòn rất hiểm, độc. Nhưng Ngô Quyền vẫn ung dung đón đỡ và bằng một đòn gia truyền đã quật ngã đối phương. Từ đó, Dương Đình Nghệ càng tin tưởng và yêu thương Ngô Quyền. Ông còn gả Dương Nhi cho Ngô Quyền.
16
Sau thời gian chuẩn bị lực lượng, tháng 3 năm 931, Dương Đình Nghệ tiến quân ra Bắc, bao vây thành Đại La.
Nghĩa quân ra sức công thành khiến quân Nam Hán sợ hãi mà bỏ chạy, tướng giặc Lương Khắc Trinh bị giết trong đám loạn quân. Thứ sử Lý Tiến vội theo đám tàn quân trốn chạy về nước nhưng lại bị triều đình Nam Hán xử tử vì tội hèn nhát. Trong chiến thắng này, Ngô Quyền có công rất lớn.
17
18
Mất thành Đại La, nhà Nam Hán vội sai Thừa chỉ Trình Bảo đem quân sang cứu viện. Viện quân của giặc dồn sức bao vây thành Đại La tiêu diệt nghĩa quân. Nhưng Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền đã chia quân làm hai cánh xông ra ngoài thành tập kích vào hai bên sườn quân Nam Hán. Quân giặc bị đánh bất ngờ, hàng ngũ tan vỡ, tướng Trình Bảo bị giết chết, đạo quân tiếp viện bị tiêu diệt.
19
Sau chiến thắng, Dương Đình Nghệ, tự xưng là Tiết độ sứ, đứng ra lãnh đạo đất nước. Ông phong cho Đinh Công Trứ làm Thứ sử Hoan châu và Ngô Quyền làm Thứ sử Ái châu.
20
Làm Thứ sử Ái châu, Ngô Quyền vừa chăm lo canh tác, vừa rèn luyện quân lính phòng khi đất nước lại có giặc ngoại xâm. Chỉ trong một thời gian ngắn, vùng đất Ái châu đã trở nên bình yên, giàu có.
21
Tháng 3 năm Đinh Dậu (937), Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đình Nghệ rồi tự lập mình lên làm Tiết độ sứ. Việc làm ấy của Kiều Công Tiễn đã khiến anh hùng ở khắp nơi căm giận. Ở Ái châu, Ngô Quyền cùng các tướng sĩ đã lập bàn thờ Dương Đình Nghệ, thề cùng nhau giết chết Kiều Công Tiễn trả thù.
22
Kiều Công Tiễn sau khi giết chết Dương Đình Nghệ thì bị nhân dân căm ghét. Cùng lúc ấy, nghe tin Ngô Quyền cùng bộ tướng ở Ái châu chuẩn bị kéo quân ra đánh thành Đại La để báo thù, Kiều Công Tiễn sợ hãi, vội vã sai sứ giả đem lễ vật qua đầu hàng vua Nam Hán là Lưu Cung và xin nhà Nam Hán cử đại quân qua trợ giúp đánh dẹp Ngô Quyền.
23
Vua Nam Hán mừng rỡ, cho đây là cơ hội tốt để thâu tóm Giao Châu và trả mối hận năm xưa. Dù có nhiều văn quan vì e ngại thời tiết khắc nghiệt, e ngại Giao Châu còn có nhiều người tài mà ngăn cản thì vua Nam Hán vẫn tin rằng với binh hùng tướng mạnh, lại có Kiều Công Tiễn làm nội ứng, việc chiếm Giao Châu tất “dễ như trở bàn tay”.
24
Vua Nam Hán phong cho con trai là Lưu Hoằng Tháo làm Giao vương, thống lĩnh đội thủy binh hùng mạnh vượt biển tiến vào nước ta, mượn tiếng giúp Kiều Công Tiễn đánh Ngô Quyền song thực chất là xâm lược Giao Châu. Còn đích thân Lưu Cung dẫn một đạo quân khác theo đường bộ tiến đến trấn Hải Môn (nay thuộc huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) nằm sát biên giới Giao Châu để chi viện khi cần thiết.
25
Đứng trước nạn ngoại xâm, dân chúng toàn cõi Giao Châu đều hướng về Ngô Quyền. Các hào trưởng hùng mạnh như Lã Minh ở Liễu Chữ (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), Phạm Bạch Hổ ở Ngọc Đường (huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên), Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động (huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội), Phạm Chiêm ở Nam Sách (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), Đinh Công Trứ ở Hoa Lư (Hoa Lư, Ninh Bình)... đều đem quân về dưới ngọn cờ của Ngô Quyền, quyết trừng trị Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán.
26
Đặc biệt, trong số này có Kiều Công Hãn là cháu của Kiều Công Tiễn, do bất bình với việc làm của ông nội mình mà mang quân về theo Ngô Quyền đánh giặc ngoại xâm cứu nước. Công Hãn được Ngô Quyền tin dùng, cho cùng ngồi bàn bạc việc quân cơ.
27
Với quyết tâm trừ nội phản trước, đuổi giặc ngoại xâm sau, tháng 9 năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền dẫn quân vượt đèo Ba Dội tấn công thành Đại La. Kiều Công Tiễn hốt hoảng hô quân chống đỡ nhưng bởi lòng quân không phục, lại khiếp sợ trước khí thế hừng hực của đối phương mà chẳng mấy chốc, quân của Kiều Công Tiễn đã bỏ vũ khí đầu hàng. Kiều Công Tiễn bị bắt tại trận.
28
Ngô Quyền cho chém đầu Kiều Công Tiễn để làm lễ tế cờ, rửa hận cho Dương Đình Nghệ. Sau khi dẹp xong nội loạn, cả nước lại cùng Ngô Quyền chung tay đuổi giặc ngoại xâm.
29
Ngô Quyền bàn với bộ tướng rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe được tin Công Tiễn bị giết chết, không còn kẻ làm nội ứng, đã mất tinh thần trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mệt mỏi tất phá được. Song chúng lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chẳng thể biết được...”
30
Sau đó, Ngô Quyền kéo quân về vùng ven biển đông bắc, khẩn trương chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán, lại cho quân đóng ở vùng hạ lưu sông Bạch Đằng từ Binh Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê*. Đặc biệt, Ngô Quyền còn cho đắp thành Lương Xám** để đóng đại bản doanh. Đây là một thành đất hình vành kiệu nên nhân dân còn gọi là thành Vành Kiệu. Thành có chu vi 1.700m, bề mặt rộng 1m (có nơi rộng 7m) cao khoảng 0,8m, chỗ cao nhất 1,6m. Chính giữa là đài quan sát và chỉ huy của Ngô Quyền.
*, ** Những địa điểm này, ngày nay đều thuộc huyện An Hải – Hải Phòng.
31
Khi Ngô Quyền cùng tướng sĩ tới đây dựng thành, lập lũy, trai tráng các làng Lâm Động (huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng), Đằng châu (huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, lương thực... lũ lượt kéo nhau đến xin đầu quân đánh giặc. Truyền thuyết dân gian còn nhắc tới 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận đã tự vũ trang rồi vượt đường xa đến xin được đánh giặc dưới trướng Ngô Quyền.
32
Có ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả là những người giỏi võ ở Hoàng Pha (xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng) cũng đến ứng nghĩa. Một hào trưởng họ Phạm ở Đằng Giang (huyện An Hải, thành phố Hải Phòng) đã khẳng khái đứng ra chiêu mộ dân binh rồi đến đầu quân dưới trướng của Ngô Quyền.
33
Dưới trướng của Ngô Quyền còn có nhiều tướng giỏi, cùng chung lòng, chung sức như: Ngô Xương Ngập con cả của Ngô Quyền, Dương Tam Kha con của Dương Đình Nghệ và là anh vợ của Ngô Quyền, Đỗ Cảnh Thạc là hào trưởng vùng Đỗ Động... Đặc biệt, trong bộ tướng của Ngô Quyền có một nữ tướng xinh đẹp nhưng rất cương quyết, cứng rắn là Dương Phương Lan, quê ở bên bờ sông Đáy (huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội). Phương Lan gặp Ngô Quyền ở cầu Ba Trăng khi ông từ Đường Lâm vào châu Ái theo Dương Đình Nghệ. “Yêu vì nghĩa, mến vì tài”, họ đã lấy nhau trước khi Ngô Quyền làm con rể Dương Đình Nghệ.
34
Sau khi xem xét kỹ địa thế, Ngô Quyền quyết định chọn vùng cửa sông Bạch Đằng làm nơi quyết chiến với quân Nam Hán. Bạch Đằng còn có tên là sông Rừng. Đây là vùng cửa sông hiểm trở có sóng bạc đầu vây phủ quanh năm. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ biển Đông vào nội địa nước ta. Bộ sử Khâm định Việt sử thông giám cương mục mô tả: “Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tới chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến”.
35
Phía hạ lưu sông Bạch Đằng, hai bên bờ sông là những cánh rừng bạt ngàn, thuận tiện cho việc mai phục, đánh úp. Vì dòng Bạch Đằng Giang khi đó còn rất rậm rạp nên gắn liền với hai bên bờ sông này là những địa danh: sông Rừng, bến đò Rừng, xóm Rừng, chợ Rừng, giếng Rừng... Những tên sông, tên đất này còn lưu lại cho đến ngày nay.
36
Trên vùng sông biển mênh mông và hoang vu này, Ngô Quyền đã cho dựng một trận địa cọc ngầm lợi hại. Ông huy động toàn bộ quân sĩ và người dân địa phương vào rừng chặt cây, vót nhọn thành những cây cọc, đầu nhọn của cọc còn được bọc sắt. Chờ khi nước triều rút, ông cho người đem cọc đóng xuống lòng sông tạo thành bãi cọc dày đặc. Trận địa cọc này là một bãi chướng ngại vô cùng lợi hại. Khi thủy triều lên thì bãi cọc ngập chìm dưới nước nhưng khi thủy triều xuống thì bãi cọc nhô lên, đâm thủng thuyền bè qua lại.
37
Ngoài ra, ông còn bố trí phục binh ở khắp nơi quanh trận địa cọc ngầm, ở trong các cánh rừng rậm rạp, ở trong các nhánh sông nhỏ dẫn vào sông Bạch Đằng. Hai tướng Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc được giao nhiệm vụ chỉ huy đội quân mai phục ở hữu ngạn sông Bạch Đằng. Hai tướng cho một đạo cung thủ mai phục dọc theo cánh rừng bên bờ sông, sát bãi cọc.
38
Ngô Quyền lại giao cho Dương Tam Kha chỉ huy đạo quân mai phục bên tả ngạn dòng sông. Đạo quân này ẩn núp trong các hòn đảo nhỏ và rừng cây xung quanh, chờ khi có hiệu lệnh sẽ cho quân đổ ra đánh vào sườn quân địch và chặn đường rút lui của chúng.
39
Ngô Quyền và Dương Phương Lan dẫn đầu một đạo quân lớn, đóng ở phía thượng nguồn để chặn giặc, không cho quân Nam Hán tiến sâu vào nội địa nước ta và chờ thuyền giặc vướng vào bãi cọc thì đánh thẳng vào đoàn binh thuyền của giặc. Đạo quân này có nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ cánh quân chủ lực của quân Nam Hán, quyết định kết quả thắng thua của trận đánh này.
40
Nghĩa sĩ Nguyễn Tất Tố vốn giỏi bơi lội lại quen với sông nước vùng này nên được giao dẫn đầu một đội kinh thuyền gồm vài chục chiến thuyền nhỏ, chờ khi nước triều lên thì kéo ra khiêu chiến, nhử địch vào trận địa mai phục đã dàn sẵn.
41
Lúc bấy giờ, Hoằng Tháo đã từ Quảng Châu vượt biển chuẩn bị vào đến cửa sông Bạch Đằng. Đang mùa gió heo may, tuy thuận buồm xuôi gió nhưng cũng mất khoảng mười ngày, quân Nam Hán mới đến được vùng đất cửa sông này. Quân sĩ đã mỏi mệt, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã bị giết nên hoang mang, giao động. Tuy vậy, cậy có quân đông, thuyền lớn, Hoằng Tháo vẫn cho tiến quân vào đất Giao Châu.
42
Vừa vào tới cửa sông Bạch Đằng, quân Nam Hán đã bị đoàn kinh thuyền của Nguyễn Tất Tố tiến ra đánh chặn. Thấy quân ta ít, vũ khí thô sơ, Hoằng Tháo xua quân đánh đuổi quyết liệt... Khi nước triều bắt đầu rút, quân ta giả thua rút chạy. Lưu Hoằng Tháo thấy quân ta rút chạy, vội vã thúc đại quân đuổi theo, vượt qua bãi cọc tiến sâu vào trận địa mai phục của ta.
43
44
Khi trận địa cọc bắt đầu nhô lên, Ngô Quyền ra lệnh tổng phản công. Đích thân Ngô Quyền dẫn đạo quân chủ lực từ hai bên bờ sông ào ra đánh chặn đầu quân Nam Hán. Quân địch bị tấn công bất ngờ mà rối loạn, mất ý chí chiến đấu, trong khi quân ta càng đánh lại càng hăng, càng mạnh khiến giặc hoảng sợ mà bỏ chạy.
45
Nhưng chạy gần tới cửa sông, đạo quân của Lưu Hoằng Tháo lại sa vào trận địa cọc ngầm, thuyền lớp bị cọc đâm thủng, lớp bị dồn lại thành một khối không sao thoát ra biển được. Quân Nam Hán vô cùng hoảng loạn, nhiều tên nhảy xuống sông hòng bơi lên bờ chạy trốn.
46
Khi đạo quân chủ lực của Ngô Quyền đuổi đến nơi, một trận chiến kinh hồn diễn ra, quân giặc lớp bị giết, lớp bị thương, lớp rơi xuống sông vướng vào cọc nhọn, tiếng kêu la, than khóc đầy trời.
47
48
Hai bên bờ sông, các đạo phục binh của Ngô Xương Ngập, Đỗ Cảnh Thạc và Dương Tam Kha bắn tên xối xả vào đoàn thuyền giặc. Các nghĩa binh tỉa bắn cả những tên đang bơi lóp ngóp dưới nước, không một tên nào thoát được lên bờ. Quân Nam Hán lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, đành đứng co cụm lại từng đám, chống đỡ trong vô vọng.
49
Sau trận mưa tên phủ đầu, Ngô Xương Ngập và Dương Tam Kha dẫn quân đánh thúc vào hai bên sườn đại quân Hoằng Tháo. Quân ta ba mũi giáp công, chặn bít mọi ngả đường rút lui của quân địch, quyết tâm đánh tan quân Nam Hán trước khi thủy triều lên để chúng không thể trốn thoát khỏi trận địa cọc.
50
Trong đám loạn quân, Lưu Hoằng Tháo một mặt vẫn gào thét bắt quân sĩ co cụm chống đỡ, một mặt vẫn gấp rút sai tả hữu tìm đường cho mình trốn thoát. Nhưng trước khi xuống thuyền nhỏ lẻn đi, hắn
đã bị một bộ tướng của Ngô Quyền phát hiện và đâm chết ngay tại soái thuyền của y. Chỉ với một trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng này, Ngô Quyền đã tiêu diệt gần như toàn bộ đạo thủy binh Nam Hán, đập tan mưu đồ xâm lăng nước ta một lần nữa của nhà Nam Hán.
51
Trận chiến trên sông Bạch Đằng diễn ra nhanh đến mức vua Nam Hán đang đóng quân sát biên giới cũng không kịp ứng cứu cho con. Vua Nam Hán nghe tin kinh hoàng, chỉ còn biết lập đàn hương án quay về phía trời Nam tế con rồi rút binh về nước. Từ đó, nhà Nam Hán từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
52
Sau khi nhà Nam Hán rút quân, Ngô Quyền cho mở tiệc khao quân trên khắp cõi Giao Châu. Năm sau, Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Như vậy, với việc tự xưng vương, Ngô Quyền đã mở ra một thời kì tự chủ cho đất nước sau hơn nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ.
53
Ngô vương đặt quan chức, chế triều nghi, định sắc phục và chỉnh đốn chính sự, ý muốn dựng nghiệp lâu dài. Ông ban thưởng những người có công và trừng phạt bọn thảo khấu, giữ vững an ninh và thống nhất đất nước trong buổi đầu lập quốc. Nhưng Ngô vương trị vì được 6 năm thì bị bệnh mà mất vào năm 944, thọ 47 tuổi.
Nhớ đến công ơn và sự nghiệp của Ngô vương, nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ và thờ cúng đến tận ngày nay. Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước ta lại rơi vào cảnh loạn lạc, nội chiến liên miên.
54
Ở vùng Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), họ Đinh là một dòng họ lớn, được dân chúng trọng vọng. Nhiều người họ Đinh đã theo giúp Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền, lập được công lớn trong chiến thắng tiêu diệt quân Nam Hán. Nổi bật trong số đó là Đinh Công Trứ. Ông đã được Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ phong chức Thứ sử Hoan châu (Nghệ An ngày nay). Sau khi Ngô Quyền lên ngôi vua, ông vẫn được giao trấn nhậm vùng đất ấy.
55
Đinh Bộ Lĩnh là con của Thứ sử Đinh Công Trứ. Năm Bộ Lĩnh 15 tuổi, cha mất, cậu theo mẹ về Hoa Lư sinh sống. Đây là vùng núi tiếp giáp dãy núi đá vôi Hòa Bình, cánh đồng bị các vách đá vôi phân chia thành những khu đất nhỏ như Thung Lau (tức động Hoa Lư), Thung Lá... Truyền thuyết kể rằng Đinh Bộ Lĩnh thường chơi đùa cùng lũ trẻ chăn trâu ở ba thung: Thung Lau, Thung Lá, Thung Lụi.
56
Một hôm, trong lúc chăn trâu, nhìn cảnh rừng hoang cỏ rậm xung quanh, Đinh Bộ Lĩnh nảy ra ý định cùng bè bạn cùng dọn cây, dẹp cỏ để lấy đất trồng trọt. Nhiều đứa nghe theo nhưng cũng có đứa cãi lại rồi xảy ra đánh nhau. Đinh Bộ Lĩnh khỏe hơn, lại khéo léo hơn nên cuối cùng lũ trẻ Thung Lau đã chịu phục, tôn cậu làm thủ lĩnh.
57
Trong lúc bọn trẻ Thung Lau đang mải mê tranh cãi, để đàn trâu tự do gặm cỏ trên đồng thì bọn trẻ Thung Lá lén lùa hết trâu của Thung Lau về bãi cỏ Thung Lá và bắt phải chuộc. Đinh Bộ Lĩnh tập hợp các bạn kéo sang đánh nhau với đám trẻ Thung Lá để đòi lại trâu. Trước mưu mẹo và sức mạnh của Đinh Bộ Lĩnh, bọn trẻ Thung Lá mau chóng phải “đầu hàng”, phải trả lại trâu và nghe theo lời Đinh Bộ Lĩnh. Sau đó Đinh Bộ Lĩnh dẫn “quân” mình sang “thu phục” luôn cả nhóm trẻ chăn trâu Thung Lụi. Bọn trẻ ba thung đều nhất loạt tôn Đinh Bộ Lĩnh làm “chủ tướng”.
58
Từ đó trở đi, sau khi thả trâu ra đồng, lũ trẻ luôn chia phe và chơi trò đánh trận. Bên nào có Đinh Bộ Lĩnh chỉ huy thì luôn thắng cuộc. Và để mừng chiến thắng, chúng xúm nhau khoanh tay làm kiệu rước “chủ tướng” họ Đinh đi một vòng, hai bên tả hữu cầm cờ lau dẫn đường, bắt chước nghi vệ của một vị vua.
59
Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh chăm chỉ luyện tập võ nghệ, học hỏi binh thư mong có ngày nối chí cha, giúp Ngô vương xây dựng đất nước. Vốn là người có tài năng, ý chí và đức độ nên ông được dân chúng, nhất là thanh niên trong vùng mến phục.
60
Thế nhưng lúc bấy giờ, ở kinh đô Cổ Loa, Ngô Quyền bị bệnh nặng mà mất, Dương Tam Kha* lợi dụng cơ hội đó để cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập phải bỏ trốn.
Bấy giờ, trong triều cũng như ở các địa phương, nhiều quan lại, hào trưởng không quy phục Dương Tam Kha. Họ đứng ra chiêu mộ quân sĩ, sắm sửa khí giới rồi nổi dậy hùng cứ một phương.
* Là con của Dương Đình Nghệ và là anh vợ của Ngô Quyền.
61
Ở Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh cũng căm giận họ Dương cướp ngôi họ Ngô nên đã chiêu tập dân chúng trong vùng, tổ chức thành một lực lượng riêng. Nhờ tài năng và đức độ, cộng thêm uy thế của dòng họ Đinh tại Hoa Lư đã khiến số người theo ông rất đông. Đinh Bộ Lĩnh trở thành người đứng đầu của sách Đào Úc rồi của cả châu Đại Hoàng (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Trong khi Đinh Bộ Lĩnh đang xây dựng lực lượng thì chú ruột của Bộ Lĩnh là Đinh Thúc Dự cũng dấy binh chiếm cứ sách Bông - cách Hoa Lư chừng 10km.
62
63
Đinh Bộ Lĩnh qua sông - tranh dân gian Đông Hồ
64
Để mở rộng căn cứ, Đinh Thúc Dự bất ngờ đem quân tới đánh Đinh Bộ Lĩnh ở sách Đào Úc. Do không phòng bị, Đinh Bộ Lĩnh đã thua trận, bỏ chạy. Đinh Thúc Dự xua quân đuổi theo. Chạy đến cầu Đàm Gia Loan (thôn Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình ngày nay), chẳng may cầu bị gãy, Bộ Lĩnh bị ngã xuống sông. Tương truyền, khi đó có một con rồng vàng xuất hiện cõng Bộ Lĩnh qua sông mà thoát nạn. Sau trận thua này, Bộ Lĩnh tập hợp quân sĩ và phản công, đánh bại Đinh Thúc Dự, thu phục sách Bông.
65
Dưới trướng Đinh Bộ Lĩnh lúc bấy giờ có nhiều người tài. Theo chính sử cũng như truyền thuyết, những bạn bè thời cờ lau tập trận như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ đều trở thành những bộ tướng tài giỏi, trung thành bên Đinh Bộ Lĩnh. Lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh ngày càng thêm mạnh khi những tướng tài như Phạm Hạp, Lê Hoàn theo giúp.
66
Trong khi đó, ở Cổ Loa, Ngô Xương Văn đánh bại được Dương Tam Kha để lên ngôi và rước anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông coi việc nước. Tuy thế, các hào trưởng, quan lại hùng cứ các nơi vẫn không quy phục triều đình.
Thấy uy tín và lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh ngày càng lớn, hai vị vua họ Ngô rất lo ngại. Đinh Bộ Lĩnh hiểu rõ điều đó và để chứng tỏ lòng trung thành của mình với triều Ngô, ông sai con trưởng là Đinh Liễn đến Cổ Loa làm con tin.
67
Tuy thế, vào năm 951, Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập vẫn đem quân đánh Đinh Bộ Lĩnh. Bao vây và tấn công đất Hoa Lư mãi không được, Xương Ngập và Xương Văn liền bắt trói Đinh Liễn treo bên ngoài thành buộc Đinh Bộ Lĩnh phải hàng, nếu không sẽ giết Đinh Liễn.
68
Có người khuyên Đinh Bộ Lĩnh hãy vì cơ nghiệp mà tạm gạt bỏ tình riêng. Đinh Bộ Lĩnh nghe lời khuyên, lên mặt thành quát bảo: - Đại trượng phu phải biết lập danh cho được, há lại bắt chước đàn bà mà thương tiếc con sao?
Nói xong, ông sai mười tay cung nỏ nhắm vào Đinh Liễn vờ như sắp bắn. Xương Ngập, Xương Văn thấy không thể dùng Đinh Liễn để uy hiếp Đinh Bộ Lĩnh được nên cho hạ Đinh Liễn xuống và tiếp tục tấn công Hoa Lư. Sau một tháng tấn công mà không phá được Hoa Lư, quân triều đình phải rút về và sau đó phải thả Đinh Liễn.
69
Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh mà mất. Năm sau, Ngô Xương Văn chết trận khiến chính quyền trung ương sụp đổ. Thêm nhiều người có thế lực, quan lại địa phương biến vùng đất của mình cai quản thành lãnh thổ tự trị, không nghe theo lệnh của triều đình. Họ được gọi là các “sứ quân”. Trên lưu vực đồng bằng sông Hồng có tất cả 12 sứ quân. Để mở mang bờ cõi, họ thường đem quân đánh lẫn nhau nên sách sử gọi thời kỳ này là loạn 12 sứ quân.
70
Trong số 12 sứ quân ấy, ở vùng Bố Hải Khẩu (Thái Bình ngày nay) có Trần Lãm là người nổi tiếng tài giỏi và đức độ được nhiều người theo hầu. Vì vậy, có thể nói lực lượng của ông mạnh bậc nhất miền hạ châu thổ Sông Hồng. Biết rõ điều đó, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng con trai xin đến ra mắt.
71
Trần Lãm không có con nói dõi, lại thấy Đinh Bộ Lĩnh là người có chí lớn nên nhận làm con nuôi và giao cho giữ binh quyền. Nhờ đó, Đinh Bộ Lĩnh đã làm chủ một vùng rộng lớn với Hoa Lư hiểm yếu, quan trọng về chiến lược cộng với miền châu thổ trù phú trải dài từ sông Mã, sông Lam đến sông Nhị (tương đương vùng đất thuộc các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay). Vùng đất giàu có về nhân lực và tài lực đó là cơ sở vững chắc giúp Đinh Bộ Lĩnh tổ chức đánh dẹp các sứ quân, thống nhất đất nước.
72
Sau khi ổn định lực lượng, Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn đem quân đi đánh các nơi. Ông đánh đâu thắng đấy nên được tôn là Vạn Thắng vương. Sứ quân Phạm Bạch Hổ (tức Phạm Phòng Át) ở Đằng châu (huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên) tự đến xin hàng và trở thành một danh tướng của Đinh Bộ Lĩnh.
73
Ngoài biện pháp đánh dẹp, Đinh Bộ Lĩnh còn dùng các biện pháp mềm dẻo để thu phục được Ngô Nhật Khánh đang chiếm giữ Đường Lâm (huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Sau đó, ông còn cưới mẹ Ngô Nhật Khánh làm vợ, gả con gái cho Ngô Nhật Khánh và cưới em gái của Ngô Nhật Khánh cho Đinh Liễn. Tuy vậy, sau này Ngô Nhật Khánh vẫn bỏ trốn sang Chiêm Thành.
74
Lúc đó, Ngô Xương Xí (con của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập) đang chiếm giữ vùng Bình Kiều (huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Đinh Bộ Lĩnh bèn đem quân đánh dẹp. Truyền thuyết kể lại rằng khi quân của Đinh Bộ Lĩnh đến núi Cửu Noãn, ông cho đóng quân trên sườn núi. Đêm ấy, Đinh Bộ Lĩnh mơ gặp một vị thần, ông xin thần chỉ bảo cách hàng phục Ngô Xương Xí mà ít gây chết chóc cho binh sĩ và nhân dân. Thần mách rằng chỉ việc mở tiệc khao quân, phô trương thanh thế, chẳng cần đánh thì việc cũng thành. Đinh Bộ Lĩnh theo kế ấy, quả nhiên thấy lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh hùng mạnh nên Ngô Xương Xí khiếp sợ mà xin hàng.
75
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng đất Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội ngày nay). Đỗ Cảnh Thạc lại cho xây đắp hai tòa thành kiên cố là thành Đỗ Động (còn gọi là thành Quèn) và thành Bình Đà để phòng thủ. Vì vậy, Đinh Bộ Lĩnh đánh nhiều trận mà vẫn chưa thu phục được. Đánh mãi không thắng, Đinh Bộ Lĩnh phải dùng mưu để đánh lạc hướng Đỗ Cảnh Thạc. Ông sai các toán quân nhỏ mang nhiều cờ xí, từ nhiều hướng kéo về phía thành Bình Đà. Đỗ Cảnh Thạc bèn tập trung quân về thành Bình Đà chuẩn bị nghênh chiến, chỉ để lại một lực lượng nhỏ giữ thành Quèn.
76
Thành Quèn nằm ở một khúc quanh của sông Tích nên ba mặt thành là sông. Thành có hình vuông, mỗi cạnh dài 170m. Tường thành cao khoảng 2m, đắp bằng đất, có hai bậc. Dưới là nền chân thành cao hơn mặt đất xung quanh. Chân tường thành dày khoảng 9,5m, mặt tường thành hẹp hơn, bốn góc thành được đắp tròn, có bốn ụ đất cao. Ở trong thành, phía bắc có đắp nền đất cao để dựng cột cờ. Bốn mặt thành đều có cửa.
77
Khi Đỗ Cảnh Thạc lo giữ Bình Đà thì Đinh Bộ Lĩnh cho quân chia làm bốn đạo bí mật tiến đến sát thành Quèn và bất ngờ tấn công. Lực lượng ít ỏi giữ thành Quèn không thể chống đỡ, thành Quèn nhanh chóng bị hạ. Đinh Bộ Lĩnh cho phá hủy thành quách, tịch thu toàn bộ lương thực, thuyền chiến và khí giới của Đỗ Cảnh Thạc.
78
"""