"
Thời Không Thể Quên PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thời Không Thể Quên PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
THỜI KHÔNG THỂ QUÊN Thể loại: Hồi kí.
Tác giả: Hồ Anh Thắng
Nhà xuất bản: Quân Đội Nhân Dân
Text: Waka
Đóng gói: Nguyenthanh-cuibap
THƯA CÙNG BẠN ĐỌC
K
hi tôi cầm bút ghi lại những dòng ký ức này thì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa gần nửa thế kỷ. Nhưng đó chưa phải là cuộc chiến tranh cuối cùng, bởi vì sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 chưa xa, dân tộc ta lại phải đương đầu với các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc cũng không kém phần ác liệt và tàn khốc.
Vượt qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, đất nước ta hôm nay đã đổi thay kỳ diệu. Trong vòng tay của bè bạn khắp năm châu, cả dân tộc ta chung lưng đấu cật hàn gắn vết thương chiến tranh dựng xây cuộc sống mới. Nhưng với người lính, thời gian càng lùi xa ký ức về chiến tranh càng đậm nét trong tâm thức của họ. Giữa bộn bề cuộc sống lo toan thường nhật, họ có thể quên đi nhiều điều nhưng những năm tháng sống, chiến đấu vượt qua mọi thử thách sống còn đã khắc sâu trong tâm khảm họ không thể nào quên.
Tôi chép lại những câu chuyện một thời trận mạc của mình trong ý nghĩa đó. Cũng như tất cả những người lính đi ra từ chiến tranh, hơn ai hết chúng tôi khao khát hòa bình như chính sự khao khát hòa bình của dân tộc ta đã từng vượt qua ngàn năm biến cố thăng trầm của lịch sử.
Những câu chuyện trong chiến tranh mà tôi đã từng sống và chiến đấu, tôi hồi tưởng và chép lại là muốn nhắc chính mình không bao giờ được lãng quên. Và không thể lãng quên một thời - thời mà cả thế hệ chúng tôi đã sống và chiến đấu như thế.
Đó cũng là thời máu xương của dân tộc đổ xuống để giữ vững non sông bờ cõi của Tổ quốc cho hôm nay và mai sau. TÁC GIẢ
PHẦN MỘT
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN KÝ ỨC NHỮNG BÀN CHÂN
KỶ VẬT TRƯỚC LÚC LÊN ĐƯỜNG
G
ần nửa thế kỷ đi qua, bây giờ cứ vào dịp cuối năm, Hội đồng ngũ làng tôi lại gặp nhau một lần. Nói là Hội đồng ngũ nhưng thời gian đi qua, ở làng hiện giờ chỉ còn lại chín người và ba người đang sinh sống làm ăn nơi đất khách. Trong số 22 người lên đường nhập ngũ năm ấy thì 10 người đã hy sinh trong chiến tranh và trong các hoàn cảnh khác ở thời bình. Mỗi lần về thăm quê tôi đều gặp gỡ đồng đội cũ, đặc biệt là với Hồ Quốc Việt. Cứ gặp Việt là câu chuyện như bấm vào cái nút hoài niệm cũ ùa về, cho dù những năm tháng ở chiến trường tôi không sống và chiến đấu cùng với Việt. Việt là người thay mặt 22 anh em chúng tôi lên đọc quyết tâm thư trước quê hương, trước bạn bè người thân tại Lễ tiễn đưa con em lên đường nhập ngũ. Những năm tháng chiến đấu gian khổ ở chiến trường nhiều lúc lời hứa quyết tâm của Việt cứ văng vẳng bên tai tôi…
Trong những dấu mốc quan trọng cuộc hành trình của một người lính trên đường ra trận thì với tôi buổi lễ tại quê hương tiễn đưa con em mình ra trận là một trong những dấu mốc đáng ghi nhớ nhất. 22 anh em chúng tôi và số cán bộ về nhận quân như lọt thỏm trong vòng vây của hàng trăm người thân. Một không gian khuôn viên đình làng tràn ngập xúc động, lưu luyến trước giờ phút chia tay. Thay mặt các tổ chức chính quyền, các hội, đoàn, Hội phụ nữ tặng chúng tôi một chiếc khăn mùi soa trắng; Hội phụ lão tặng mỗi chúng tôi một “chiếc gậy Trường Sơn” bằng cây trúc. Trên chiếc khăn mùi soa có thêu nắn nót hai hàng chữ. Góc trái khăn thêu: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; góc phải khăn thêu: “Ra đi giữ trọn lời thề. Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”.
Bây giờ nói đến chiếc gậy Trường Sơn ai cũng biết làng Hòa Xá, Ứng Hòa, Hà Tây là quê hương của phong trào trao gậy cho con em lên đường nhập ngũ. Chiếc gậy trao cho con em lên đường nhập ngũ như trao lời nhắn nhủ: “Ra đi chân cứng đá mềm”. Năm 1971, khi chúng tôi lên đường thì bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn” của nhạc sĩ Phạm Tuyên viết từ năm 1967, nhân một chuyến công tác của ông đã trở thành một hành khúc quen thuộc. Vì vậy cầm trên tay chiếc gậy Trường Sơn của các cụ phụ lão trao cho, 22 anh em chúng tôi đã nắm chặt tay nhau đồng ca bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn”. Bài hát hành khúc cất lên giữa sân đình làng hào sảng khiến cho ai cũng hình dung, tưởng tượng như bàn chân của mình đang vượt Trường Sơn đại ngàn ra trận.
Chúng tôi giữ chiếc khăn mùi soa và gậy Trường Sơn như một kỷ vật thiêng liêng trong suốt bốn tháng huấn luyện chiến sĩ mới tại Đại đội 44, Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4. Trong thời gian huấn luyện, chiếc gậy luôn được đặt ngay ngắn trên giá ba lô đầu giường. Còn chiếc khăn mùi soa đã trở thành “vật bất ly thân” trong bộ quân phục hầu như lúc nào cũng thấm đẫm mồ hôi. Có người dùng thường xuyên chiếc khăn đã ố vàng nhưng dòng chữ thêu màu chỉ vẫn không phai.
Nhớ mãi những ngày gần Tết Nguyên đán năm 1971-1972, một số chiến sĩ đại đội tôi thường tìm cách trốn đơn vị về nhà. Cán bộ khung huấn luyện phải bám sát đơn vị, gần gũi chiến sĩ để làm công tác động viên tư tưởng, nhiều địa phương cử cán bộ lên tận đơn vị thăm hỏi tặng quà, nhiều bậc cha mẹ có con trốn về trực tiếp dẫn con lên giao lại cho đơn vị… 22 anh em làng tôi ở cùng một đại đội không ai bảo ai vào một buổi chiều rủ nhau ra bãi cỏ sau doanh trại bày bánh kẹo của nhà gửi lên đón tết. Đứa nào cũng mang theo chiếc gậy Trường Sơn và chiếc khăn mùi soa ra bãi cỏ bày cùng bánh kẹo trước mặt. Chiếc gậy Trường Sơn thì còn rất mới nhưng
chiếc khăn mùi soa đã có chiếc ố vàng. Có đứa vừa giở khăn ra đã đọc lên: “Ra đi giữ trọn lời thề. Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”. Giọng đọc cậu ta cứ rưng rưng như muốn xua vơi đi nỗi nhớ nhà những ngày cận tết. Chúng tôi nhắc nhau không ai bỏ đơn vị…
Tết ấy cũng là tết đầu tiên trong cuộc đời của những học sinh, thanh niên nông thôn như chúng tôi ăn tết xa nhà. Chính quyền và đoàn thể xã Nghĩa Hội có sáng kiến thật xúc động và thật ý nghĩa. Các gia đình trong xã vào đơn vị đề nghị chỉ huy đại đội cho đón chúng tôi về ăn tết cùng gia đình trong ba ngày tết. Nhà ít nhất thì đón hai chiến sĩ, nhà nhiều thì đón bốn chiến sĩ. Gia đình đón nhận tôi và Hồ Quốc Việt về ăn tết là một gia đình nghèo, neo đơn. Nhà chỉ có một bà mẹ và cô con gái chừng tuổi chúng tôi, chị tên là Thủy. Nhà nghèo nhưng mẹ đón chúng tôi bằng một cái tết ấm cúng và vừa đủ. Dường như không chỉ cái tết gia đình làm cho tôi và Việt đỡ nhớ nhà mà ngược lại sự có mặt của hai chúng tôi đã khiến cho ba ngày tết của hai mẹ con Thủy ấm áp hơn, đỡ cô quạnh hơn. Kể từ cái tết ấy, hơn bốn mươi năm sau trong một lần đi công tác về xã Nghĩa Hội, tôi trở lại nơi đóng quân và tìm thăm gia đình mẹ con chị Thủy. Lối cũ không còn dấu vết xưa nữa, làng xóm đã đổi thay nhiều, mẹ đã mất, người trẻ lớn lên chỉ nhớ có một cô Thủy đã đi lấy chồng xa…
Kết thúc khóa huấn luyện chiến sĩ mới, sau bốn tháng tiểu đoàn tôi có lệnh xuất quân. Những ngày đầu chưa thấm mệt, lại được hành quân ra trận trên chính quê hương mình nên ai cũng háo hức, tuổi trẻ bước chân ra trận thật rạo rực và đậm sắc màu lãng mạn. Cả đội hình hành quân dài hàng kilômét nhưng chỉ có anh em chúng tôi cùng làng được nâng bước bằng chiếc gậy Trường Sơn của quê hương. Khi cuộc hành quân bắt đầu đặt chân vào cửa rừng Trường Sơn ai cũng mới nhận ra lợi ích của chiếc gậy. Chiếc gậy không chỉ nâng bước chân hành quân của chúng tôi mà có lúc đã nâng cả
người và trang bị chúng tôi vượt đèo dốc… Vào đến Trường Sơn không ai bảo ai, cả đội hình hành quân ai cũng tìm cho mình một chiếc gậy làm bạn đường. Phải thừa nhận hành quân trên dãy Trường Sơn có chiếc gậy trong tay vô cùng tiện ích. Chiếc gậy kéo tay nhau đu lên từng bậc thang dây treo trên vách đứng; chiếc gậy dắt tay nhau qua suối sâu, qua cầu độc mộc. Những đêm dừng chân trên đường hành quân ở các binh trạm, đêm đêm canh gác không thể thiếu cây gậy trong tay dò đường, đặc biệt những đêm mưa lũ. Tiểu đoàn 11 của chúng tôi có hai đại đội sinh viên Đại học Sư phạm Vinh. Các “nghệ sĩ” sinh viên ra trận, họ đã biến nguồn cảm hứng thi ca, hội họa của họ lên cây gậy trúc bằng những tác phẩm điêu khắc, hội họa… theo cách của họ. Trên chiếc gậy Trường Sơn họ đã chạm khắc tên người yêu, tên bạn gái, vẽ lên những bông hoa, những đôi chim đang tự tình. Còn tôi, tôi đã viết lên chiếc gậy của mình một câu chợt xuất hiện sau khi bước chân lên dãy Trường Sơn: “EM HÃY ĐỢI ANH VỀ!”. Viết câu ấy lên gậy Trường Sơn rồi tôi mới chợt nhận ra hình như câu ấy nghe quen quen, có ai vừa nói với ai lúc chia tay trên chặng đầu ngày hành quân. Bởi tôi đã yêu ai đâu mà hãy đợi!
Những năm tháng ấy tuổi trẻ chúng tôi ra trận như thế. Sự vô tư trong niềm hy vọng lớn lao của cuộc đời là ở phía trước. Ai ra đi cũng gửi lại quê hương, người thân và bạn bè bao kỷ niệm đầu đời. Một kỷ vật trước lúc lên đường như chiếc khăn tay, chiếc gậy Trường Sơn cũng đủ nặng tình quê hương gửi gắm. Đó như một lời nhắn nhủ, như một lời thề, một lời thề giúp đôi chân người lính trên mặt trận lướt qua muôn vàn gian khổ, ác liệt mà sống và chiến đấu quên mình.
CHIẾC CẶP TÓC BA LÁ
S
áng ngày 2 tháng 5 năm 1972, sau nghi lễ xuất quân hướng về miền Nam ruột thịt, chúng tôi bước chân đầu tiên hành quân ra mặt trận. Tôi ngoảnh lại nhìn doanh trại đóng quân của mình một lần cuối trước khi tạm biệt và cũng không hẹn khi nào hoặc bao giờ trở lại. Doanh trại Đại đội 44 của chúng tôi trên một bãi đất rộng sát chân một quả đồi nhỏ rậm rạp. Không xa là một rừng lim cạnh hồ nước tự nhiên, có những cây lim hai, ba người ôm không hết. Xóm ấy có tên gọi Đồng Sằng, xã Nghĩa Hội, chủ yếu là vùng cư ngụ của người dân tộc Thái và một số ít người Kinh theo đạo Công giáo. Nhiều buổi chiều vào lúc cuối giờ tôi thường lên đồi bẻ lá gài sẵn vào vòng ngụy trang để chuẩn bị huấn luyện sáng hôm sau. Gài lá ngụy trang xong tôi thường chọn một ụ đất ngồi rất lâu ngắm nhìn ngôi nhà thờ đá rêu phong. Và, xa hơn nữa nhìn về nông trường cà phê Đông Hiếu, nơi đó tôi có một người chị làm công nhân và các cháu nhỏ chưa đến tuổi trưởng thành.
*
Xế chiều, đại đội dừng chân nghỉ tại một làng nhỏ của huyện Yên Thành. Lúc hoàng hôn chưa buông xuống tôi đã kịp nhận ra cái làng có cánh đồng lúa rộng mênh mông sát với những ngọn đồi lúp xúp giống như một làng trung du ở miền Bắc. Hình như cả cái làng ấy không có một ngôi nhà lợp ngói nào. Dưới hàng cau, hàng cây xoan cao lớn là những ngôi nhà tranh nhỏ, lúp xúp chỉ cao hơn hàng rào bờ cây cúc tần, bụi duối nửa thân mái. Nhà nào cũng có một cái rèm trước cửa chính, ban ngày nắng thì chiếc rèm hạ xuống, ban đêm thì chống lên bằng một nạng tre cao ngang mép cửa. Tiểu đoàn tôi có đến bốn đứa quê ở Yên Thành là Tùng, Cống, Cảnh, Chuyên. Nhà
các anh cách chỗ tiểu đoàn trú quân chừng hai đến ba cây số nhưng không ai ghé về, không ai cho bố mẹ, người thân biết… *
Tôi và Tùng được bố trí ở trọ trong một ngôi nhà nhỏ. Nhà chỉ có một người mẹ và một cô con gái. Người mẹ có gương mặt phúc hậu, nhưng gầy gò và khó đoán tuổi. Mẹ có một người con trai cả đi bộ đội đầu năm 1971. Cô con gái nói rằng chiều nào mẹ cũng ra ngồi dưới bụi tre đầu ngõ ngóng về phương Nam. Cô con gái đang học lớp chín có tên là Gạo. Một số địa phương miền tây Nghệ An thường gọi Gạo là “Gấu”, và hình như bà mẹ cũng gọi em là “Gấu”. Vì vậy chúng tôi cũng gọi đùa em Gạo là “Gấu”. Gấu có gương mặt rất thanh tú nhưng lại đậm chất mộc mạc, chân quê. Vẻ đẹp ấy lại càng quyến rũ với một cô gái ở cái tuổi vừa mới dậy thì. Hình như lần đầu tiên trong nhà có hai anh bộ đội được xếp nghỉ nhờ nên Gấu rất quý hai đứa chúng tôi. Ở trường về là Gấu cứ xoắn xuýt lấy chúng tôi, dường như em cũng sợ chúng tôi biến mất. Tối đầu tiên cả ba chúng tôi cứ xoay quanh miệng chiếc giếng khơi trước sân nói chuyện mãi cho đến khi quá nửa đêm đến phiên chúng tôi đổi gác mới chịu đi ngủ. Thế mà sau mỗi ca gác tôi và Tùng vừa đặt súng vào góc nhà đã thấy Gấu xuất hiện. Cả ba đứa lại ra tựa miệng giếng trò chuyện cho tới khi trăng lặn mới vào nhà…
Chúng tôi dừng chân ở Yên Thành hai đêm một ngày. Đêm thứ hai, nghĩa là mờ sáng hôm sau chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Cơm tối xong ba đứa chúng tôi lại xoay quanh bên miệng giếng, những câu chuyện, những tiếng cười, những ánh mắt lặng nhìn nhau, nhiều khi không ăn nhập vào nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị tổ gác tuần tra đi qua nhắc nhở. Tổ gác đi rồi chúng tôi lại lẻn ra bờ giếng. Đến lượt tổ gác khác lại nhắc, hình như họ nhắc để mà nhắc, bởi chính những chiến sĩ làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác ấy cũng chính là đồng đội của chúng tôi, sáng mai họ cũng tiếp tục
hành quân.
Tiếng còi báo thức, chúng tôi vội rời khỏi miệng giếng vào nhà nhét vội quân tư trang vào ba lô. Tôi và Tùng khoác súng, ba lô ra chào bà mẹ đang nằm ngủ trên chiếc chõng tre giữa sân. Không thấy Gấu đâu, đêm trước khi chia tay chúng tôi, Gấu không vào giường trong nhà mà lên chõng tre ôm lưng mẹ. Tôi và Tùng nhìn nhau và thoáng nhận ra Gấu đã đứng ngoài bụi tre trước ngõ. Gấu dúi vào tay tôi một chiếc cặp tóc ba lá to bản đã được quấn kín bằng những sợi len. Ngày ấy ở Khu Bốn các cô gái thường quấn sợi len lên chiếc cặp tóc i-nốc để ngụy trang che máy bay địch.
Tôi đùa:
- Hai anh em, Gấu tặng ai?
Gấu nắm chặt và úp hai bàn tay tôi và Tùng lại:
- …Cả hai!
Tôi cũng kịp dúi vào tay Gấu một mẩu giấy viết vội bốn câu thơ đêm qua:
Em có biết sáng mai tôi ra trận?
Đêm thượng tuần trăng lặn đáy giếng khơi
Màu mơ ước xanh như mắt ngọc
Nghe rặng tre già đưa võng à ơi!
Chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Đến Quảng Bình dừng nghỉ ở Cự Nẫm hai ngày chuẩn bị rẽ lên Trường Sơn.
Ở Trường Sơn tháng 5 đã bắt đầu mùa mưa, có những ngày chúng tôi đi suốt trong cơn mưa rừng xối xả. Đến giữa cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tôi không nhớ rõ trạm giao liên nào thì đột nhiên Tùng biến mất. Những người lính trên con đường hành quân ra trận, dưới mưa bom bão đạn, gian khổ và hy sinh đang đợi phía trước, thỉnh thoảng cũng có người không chịu nổi đã trốn khỏi đoàn quân là chuyện không hiếm. Tôi không tiếc Tùng đã trốn đi, vì khó có thể giữ được một người đã định quay về phía sau. Tôi chỉ
tiếc ngẩn ngơ phút chia tay em Gấu, tôi đã nhường lại cho Tùng chiếc cặp tóc ba lá.
ĐÊM QUA NGÃ BA ĐỒNG LỘC
K
hi tôi cầm bút ghi lại ký ức cái đêm ấy, đêm hành quân qua Ngã ba Đồng Lộc thì tại Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc mỗi ngày đều có hàng trăm, hàng ngàn người khắp mọi miền đất nước tới miền đất thiêng ấy kính cẩn nghiêng mình thắp nén hương thơm tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ tuyến đường giao thông huyết mạch trong những năm tháng chiến tranh và kỷ niệm nửa thế kỷ sự hy sinh của 10 cô gái thanh niên xung phong đã đi vào lịch sử từ ngày 24 tháng 7 năm 1968.
Bây giờ Ngã ba Đồng Lộc là vùng đất linh thiêng, là điểm đến của các cuộc du lịch xuyên Việt, du lịch tâm linh, là bài học lịch sử, là một bản hùng ca bi tráng đối với thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Nhưng tôi cứ nghĩ nếu đêm ấy tôi không hành quân qua Ngã ba Đồng Lộc giữa những ngày chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ thì không thể tưởng tượng được sự khốc liệt của một Ngã ba ngày đêm chìm đắm trong bom đạn.
*
Chúng tôi hành quân đến Ngã ba Đồng Lộc chừng vài cây số thì dừng lại. Để vượt qua trọng điểm thật nhanh gọn, đội hình hành quân của đại đội được đưa lên thùng các xe tải mui trần vừa lao đi, vừa nhảy chập vập qua những hố bom chưa kịp lấp đầy. Trên trời thì pháo sáng địch hầu như không tắt, dưới đất thì xe nối xe hết đợt này đến đợt khác vừa chuyển quân, vừa chuyển lương thực, vũ khí đạn dược hướng vào miền Nam…
Ngã ba Đồng Lộc nằm trọn trong một thung lũng hình tam giác hai bên đều là núi trọc, bởi vậy con đường giao liên, bộ đội hành quân, ô tô vận tải… vào Nam phải đi qua con đường độc đạo này.
Phải ba mươi năm sau chiến tranh, tôi mới có dịp trở lại Ngã ba Đồng Lộc. Cô gái trẻ - hướng dẫn viên Khu di tích - trong bộ quần áo thanh niên xung phong ngày nào cũng thuyết minh cho khách tham quan mà giọng vẫn rơm rớm nước mắt. Theo sử sách ghi lại những năm chiến tranh, mỗi mét vuông đất ở Ngã ba Đồng Lộc gánh ít nhất ba quả bom tấn, chưa kể các loại vũ khí khác. Vào lúc cao điểm nhất tại ngã ba này tập trung đến 16.000 bộ đội, thanh niên xung phong… Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc nơi đây ghi danh hơn 4.000 anh hùng, liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc và các anh hùng, liệt sĩ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc. Trong chiến tranh để thông suốt mạch máu giao thông, hàng trăm, hàng nghìn chàng trai, cô gái ở tuổi mười tám, đôi mươi trên khắp Tổ quốc đã để lại tuổi xuân tươi đẹp trên Ngã ba này.
Tôi đứng lặng trước phần mộ 10 cô gái nằm gối đầu lên đồi thông của núi Trọ Voi. Nơi các chị nằm yên nghỉ sau loạt bom thứ 15 của giặc Mỹ rải xuống trong ngày 24 tháng 7 năm 1968 ấy được gọi tên “tọa độ chết”. Ai có thể tưởng tượng được nửa thế kỷ sau trên “tọa độ chết” các chị vẫn sống vĩnh hằng trong lòng đất Mẹ…
*
Bốn năm sau sự kiện Ngã ba Đồng Lộc, đêm ấy tôi hành quân qua. Vẫn dưới bầu trời đêm không ngớt pháo sáng của địch, vẫn con đường độc đạo chằng chịt hố bom ấy, vẫn những cô gái thanh niên xung phong hiện ra hai bên đường làm tiêu chắn cho đoàn xe tránh những hố bom chưa kịp lấp. Sự khốc liệt của đạn bom không ngăn được những bàn chân, những đôi tay con gái thanh niên xung phong đêm đêm lấp hố bom. Đêm chiến tranh dường như sự ác liệt không thể nhòa đi trên gương mặt, trên những đôi mắt lấp lánh, những nụ cười tin yêu tiễn đoàn quân chúng tôi ra trận.
Đoàn xe thỉnh thoảng chồm lên, bánh xe ngúc ngoắc qua những hố bom còn đang lấp. Bạn tôi là Khảm, là Diệu, là Chuyên… những
đứa thanh niên lớn lên ở miền quê nghèo chưa một lần đặt chân lên ô tô. Vì vậy xe chuyển bánh chưa được bao lâu đã say mèm, có đứa còn nôn thốc tháo xuống sàn xe. Xe lọt vào thung lũng, tôi vỗ vai kéo những đứa bạn say xe tỉnh dậy. Cái giây phút đi qua ngã ba ấy có thể có người không bao giờ được trở lại lần nữa. Thỉnh thoảng chiếc xe tải khựng lại, đèn gầm hắt ánh sáng hai bên đường, chúng tôi vẫn nhận ra những khẩu hiệu viết bằng vôi trắng trên tấm gỗ của các thùng đạn: “Địch phá một ta làm mười”; “Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Trong số những cô gái thanh niên xung phong đứng chắn hố bom bỗng có ai đó ngước lên thùng xe cất giọng hò tinh nghịch: “Hò ơ… anh đi chân cứng đá mềm. Bao giờ trở lại, em đền… cho anh”. Có cô không biết hò thì cứ khuơ cán xẻng lên trời mà: “Chân cứng… đá mềm nhé!”, rồi cười ngặt nghẽo.
Ngã ba Đồng Lộc xa dần sau vòng lá ngụy trang của chúng tôi. Không ai còn say xe nữa, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với các cô gái thanh niên xung phong trên cung đường ác liệt đêm hành quân ra trận ấy còn đọng mãi trên gương mặt những chàng lính trẻ. Tôi chắc rằng, trong số chúng tôi có những chàng thanh niên xúng xính trong bộ quân phục đêm ấy cho đến khi nằm lại ở chiến trường giữa tuổi đôi mươi vẫn mang theo nụ cười rạng rỡ của các cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc.
MÀU CỦA CHIẾN TRANH
G
ần một năm, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi được về Trường Văn hóa Quân khu 4 tiếp tục học và ôn thi vào các trường trong quân đội. Một ngày đầu tháng 3 năm 1976, tôi đi nhờ một chiếc xe tải quân sự từ thành phố Huế về quê nghỉ phép ít ngày trước khi lên Nam Đàn (Nghệ An) nhập học. Cho đến khi cầm bút ghi lại những dòng chữ này, tôi vẫn không quên được cảm xúc của mình lần đầu tiên giữa ban ngày được tận mắt chứng kiến làng quê miền Trung sau những năm khốc liệt của chiến tranh. Ngày tôi hành quân vào chiến trường, đi trên con đường Trường Sơn bom đạn giặc Mỹ đổ xuống vô cùng ác liệt, nhiều cung đường không ngày nào không thấm máu bộ đội, thanh niên xung phong. Vậy mà vẫn còn có những cung đường đi hàng ngày không gặp một con dốc. Rừng đại ngàn như ôm ru những người lính vào lòng, chúng tôi cũng có những ngày hành quân ra mặt trận đầy thi vị như thế.
Miền Trung sau những năm chiến tranh, những mái nhà rơm rạ lụp xụp dưới những rặng phi lao, những lũy tre xơ xác. Nhiều ngôi nhà còn nguyên thân cột cháy đen trên nền đất cũ, bên những miệng hố bom đen ngòm. Nỗi xót xa mất mát lại trỗi dậy như muốn xua đi trong tôi niềm vui đất nước vừa thoát khỏi nỗi đau chiến tranh, non sông vừa nối liền một dải.
Lần đầu tiên tôi qua phà sông Gianh giữa ban ngày khi thủy triều đang con nước lớn. Chiếc phà nhẹ rời bến và như cố đi chậm lại cho tôi ngắm nhìn sông Gianh yên bình còn mang nặng trong lòng vết thương chiến tranh. Tôi lặng ngắm nhìn những gương mặt người đứng ngồi thấp thỏm trên boong phà. Dường như chiến tranh còn phảng phất đâu đấy trên khuôn mặt, trên mười ngón chân lấm lem
bùn đất nhấp nhổm theo sóng phà ngang. Chiếc phà dường như đã già cỗi, chậm chạp sang ngang, bất chợt tôi nhận ra những vết mảnh bom trên mặt boong, trên mép thân phà…
Có bao nhiêu chiếc phà đã nằm lại dưới đáy sông Gianh những năm chiến tranh? Có phải tôi đang trở về đứng trên chiếc phà đêm ấy...?
*
Đó là một đêm đầu tháng 5 năm 1972. Đêm thứ tư kể từ khi Đại đội 44, Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4 của chúng tôi xuất quân tại Nghĩa Hội. Chúng tôi dừng chân tại xã Quảng Liên, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bốn ngày hành quân bộ, những đôi chân đã bắt đầu phồng rộp mọng nước nhưng vẫn không giảm được khí thế tuổi trẻ háo hức trên đường ra trận. Nghe nói sau chặng đường nghỉ tại Quảng Liên, chúng tôi sẽ được hành quân bằng xe tải trên đường Trường Sơn, trong chúng tôi ai cũng phấp phỏng chờ đợi. Chờ đợi mình được đi, được chứng kiến con đường ra trận gian khổ, ác liệt nhưng hào hùng, được thi vị hóa bằng lòng kiêu hãnh, tự hào của cả một thế hệ: “Mưa bom bão đạn lòng thanh thản/Nhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười”; “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Khoảng chín giờ tối, trong những mái nhà lụp xụp của người dân miền Trung những năm bom đạn, chúng tôi đứa thì viết nhật ký, đứa thì bập bùng ghita nghêu ngao hát… bỗng có lệnh báo động. Chỉ một thoáng, từ trong những mái nhà tranh lụp xụp ấy, cả đại đội đã có mặt tại một bãi đất trống ven làng. Đại đội trưởng hành quân chỉ lệnh một câu: “Hướng bến phà sông Gianh, chạy!”.
Cũng không ai biết có chuyện gì, hỏi tiểu đội trưởng cũng lắc đầu, hỏi trung đội trưởng thì bảo cứ ra bến phà sông Gianh mới biết. Ra bến phà sông Gianh chúng tôi được chia thành từng nhóm. Có nhóm người nọ người kia chỉ nhận biết mặt nhau. Đại đội huấn
luyện chiến sĩ mới chúng tôi ngày ấy có khoảng hơn 100 chiến sĩ, sau bốn tháng ở Nghĩa Hội, nhiều người chỉ biết mặt mà chưa kịp biết tên. Theo hướng dẫn của dân quân địa phương, chúng tôi lội nước trèo lên một chiếc phà nửa nổi nửa chìm ghếch mạn lên mép bờ. Bấy giờ ai cũng nhận ra trong mặn mòi của gió và nước biển, nồng nặc mùi khét của khói bom. Một trận B-52 vừa mới xảy ra khi một đại đội nữ thanh niên xung phong tỉnh Hà Nam Ninh đang trên boong phà sang sông. Bom B-52 không trúng phà nhưng phà bị lật nghiêng nhiều cô gái thanh niên xung phong hy sinh và bị thương. Số bị thương đã được chuyển đi cấp cứu, số hy sinh vừa được đưa lên mép sông và còn đang nằm lại trên boong phà. Bế từng cô gái vừa hy sinh lên cáng, chúng tôi chuyển về đặt tạm ở nghĩa trang xã Quảng Liên.
Đêm tháng Năm, dưới ánh trăng mờ tỏ, những cô gái thanh niên xung phong bên cạnh nhau như đang nằm ngủ. Thỉnh thoảng một làn gió từ phía bờ sông thổi vào phất phơ những lọn tóc vừa kịp khô. Các cô gái cũng trạc tuổi chúng tôi. Chúng tôi ai cũng cố giữ cho nước mắt không trào ra kể cả những đứa mau nước mắt nhất. Ngày mai chúng tôi lại hành quân ra trận, đứng lặng nhìn các cô gái “nằm ngủ” mà không ai muốn chắp tay trước ngực, không ai muốn tin các cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Đêm nay là một đêm huyền thoại, đêm mà lần đầu tiên trong đời tôi được ngắm những gương mặt thánh thiện của những nàng tiên đang say giấc nồng dưới ánh trăng tháng Năm.
Không hiểu sao cái “đêm huyền thoại” ấy cứ theo tôi suốt những năm tháng khốc liệt đầy gian khổ hy sinh ở chiến trường… *
Được về Trường văn hóa Quân khu 4, tôi lao vào ôn tập quên cả ngày đêm. Học như thể để bù đắp những kiến thức chưa kịp học trước khi ra mặt trận; học để thỏa cái mơ ước trước khi rời ghế nhà
trường…
Rất nhiều đêm tôi ôm quyển sách ngủ thiếp đi. Tôi mơ thấy cái đêm ấy, tôi mơ thấy hàng chục cô gái thanh niên xung phong đang cắp sách tới trường. Có lúc tỉnh dậy với quyển sách úp trên ngực tôi vẫn như thấy đang đứng giữa cái đêm ấy, đêm đầu tiên trên đường ra trận, tại bến phà sông Gianh, tôi nhận ra “màu của chiến tranh”.
LÁ THƯ ĐẦU TIÊN VIẾT Ở TRƯỜNG SƠN L
á thư ấy là lá thư đầu tiên tôi viết vào một đêm, cũng là đêm đầu tiên dừng chân nghỉ trong rừng Trường Sơn. Tôi cũng không nhớ tên trạm, chỉ biết sau hai ngày nghỉ ở trạm giao liên Cự Nẫm (Quảng Bình), chúng tôi vượt Cổng Trời và bắt đầu bước chân hành quân đầu tiên đúng nghĩa vào đại ngàn Trường Sơn.
Leo lên đỉnh Cổng Trời chúng tôi ai cũng ngoái lại nhìn về phía đồng bằng, nhìn về Cự Nẫm. Đó là trạm giao liên cuối cùng người lính nào cũng phải đi qua trước khi đặt chân lên đường Trường Sơn. Đó cũng là trạm cuối cùng những người lính vào Nam ra trận được ở trong nhà dân, được người dân Quảng Bình cưu mang như cưu mang chính những đứa con trước khi vào tuyến lửa. Sau trạm giao liên Cự Nẫm là cuộc hành quân xuyên đèo, vượt núi, xuyên mưa lũ băng rừng…
*
Lại nhớ một chiều, buổi chiều đầu tháng 3 năm 1976 ấy, tôi bước chân xuống thị trấn Cầu Giát quê tôi. Trong gió hiu hiu chiều, tôi như thấy được những kỷ niệm nhọc nhằn của tuổi thơ ùa về sau những năm chinh chiến ở miền xa. Thị trấn xơ xác lặng yên vẫn nguyên những hàng cây bên đường oằn mình chống chọi với bom đạn, với mưa bão. Vẫn những mái ngói rêu phong đìu hiu quanh lối mòn thưa dấu chân người… Tôi cuốc bộ khoảng 7 kilômét từ thị trấn về nhà. Tôi trở về trên con đường vẫn như còn nguyên dấu chân xưa cũ ấy. Những ánh mắt của người cha, người mẹ trên đồng lúa, của em bé đang thả trâu trên cồn cỏ… nhìn tôi. Dường như trong ánh mắt người quê ngày ấy, tôi không phải là một chú bộ đội trở về từ chiến trường miền Nam. Ngày ấy hình ảnh chú bộ đội về làng sau
chiến tranh là trên vai một chiếc khung xe đạp, trên ba lô một cô búp bê mắt xanh, tóc vàng. Còn tôi thì lững thững rảo bước đường làng toòng teng một chiếc ba lô lép kẹp. Tôi bước vào căn nhà của tôi, căn nhà nhỏ ven cánh đồng làng nhìn sang một xóm đạo. Không ai ở nhà, bố tôi đi sinh hoạt hội, mẹ tôi đang ở ngoài đồng, em tôi đang đi học. Tôi đứng giữa ngôi nhà nhỏ nhìn lên bàn thờ gia tiên. Nói là bàn thờ nhưng đó là cái rương gỗ đựng lúa, thời ấy quê tôi hầu như nhà nào cũng có. Trên rương gỗ là một bát hương và đơn sơ vài đồ thờ cúng chủ yếu là tự tạo. Tôi vẫn nhận ra hai ống hương được bố tôi cắt và gò từ hai chiếc vỏ đạn súng phòng không 37 ly. Điều không thể ngờ là trên bàn thờ còn nguyên mười lá thư trong số hàng chục lá thư tôi gửi về nhà trong những năm ở chiến trường. Trên mặt bàn thờ còn vương một lớp bụi bặm của mùa gặt, của rơm rạ hàng ngày nhưng những lá thư của tôi vẫn không vương bụi. Cầm những lá thư sờn dấu bàn tay nhưng nét chữ nắn nót, mực Cửu Long còn tươi rói thẳng tắp trên giấy kẻ học trò, tôi thầm đoán ngày nào bố mẹ tôi cũng lần đọc những trang thư ấy. Ở chiến trường viết thư cũng là một thú vui, mỗi chữ viết ra mang một tâm trạng buồn vui, thương nhớ. Rỗi thì viết thư, có những lá thư viết xong rồi hàng tháng sau vẫn không gửi đi được bởi không có ai ra Bắc…
*
Trạm dừng chân đầu tiên ở Trường Sơn, khi đồng đội đã say giấc ngủ sau một ngày hành quân, tôi thả màn xuống võng, bật đèn pin viết thư về nhà. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi cầm bút viết thư. Tôi cũng không biết nên bắt đầu từ đâu, chữ nghĩa cũng đi đâu mất. Cây bút Trường Sơn bơm đầy mực Cửu Long cứ lăn trên ngón tay và lặng câm trên trang giấy. Chợt nhớ sáng nay khi tôi và Tùng chia tay gia đình trọ ở Cự Nẫm, bà mẹ chủ nhà cứ níu chặt hai tay tôi và Tùng mà dặn: “Các con vô trong nớ nhớ viết thư về cho bọ mạ. Kể thật nhiều chuyện; chuyện đánh nhau với thằng giặc, chuyện
ăn ra răng, ở ra răng. Bữa trước có chú đi ra, vô thăm bọ mạ kể trong chiến trường các chú ăn trên cây, ngủ dưới nước, nằm trên suối…”. Nhớ lời dặn của bà mẹ chủ nhà ở Cự Nẫm tôi mừng như đã bắt được mạch chữ. Tôi viết: “…Thưa bố mẹ, sáng nay con đã đặt bàn chân lên đỉnh Cổng Trời, bước chân đầu tiên của con đã hòa vào những bước chân của đoàn quân trên đường mòn Trường Sơn như dòng thác lũ hướng vào miền Nam ruột thịt…”. Hàng chục lá thư tôi viết nhưng về tới tay bố mẹ chỉ được chừng ấy. Thế cũng quý lắm rồi. Ở chiến trường mỗi lá thư gửi đi số phận của nó gắn liền với số phận của người đưa thư. Trong chiến tranh mỗi chiến sĩ quân bưu, mỗi cô giao liên đều phải vượt hiểm nguy như người lính cầm súng chiến đấu trực tiếp ở mặt trận. Trong hàng chục lá thư tôi gửi đi có lá thư đã nằm lại trên đường với những chiến sĩ quân bưu, những cô giao liên binh trạm, có lá thư nào đã từng “hy sinh” hai, ba lần khi về tới tay bố mẹ tôi? Ngày trở về đọc những lá thư mình viết có lúc tôi tự hỏi tại sao ngày ấy kể chuyện chiến đấu gian khổ, hy sinh trên chiến trường, trong mưa bom bão đạn mà nhìn nét chữ không cảm được cái khổ, cái hy sinh. Thậm chí lại thấy vui, lại thấy tin vào tương lai, cho dù bản thân mình cũng không tưởng tượng được cái tương lai ấy màu gì! Có lần bố tôi hỏi: “Sao ở chiến trường mà thư con viết chữ đẹp, nắn nót, tươi tắn nhưng không vội vàng… mỗi lần bố mẹ nhìn nét chữ của con lại thấy vui hơn lo!”.
Sau này tôi biết thêm có một sự nhầm lẫn hy hữu. Bác đưa thư đã đưa nhầm giấy báo tử cho bố mẹ tôi. Đó là giấy báo tử của một người lính ở làng cùng họ, cùng tên, cùng năm nhập ngũ với tôi. Mẹ tôi đã ngất lên ngất xuống nhiều lần trong những ngày chờ địa phương làm lễ truy điệu. Cũng may bác đưa thư một lần sau đó lên bưu điện nhận thư đã phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Sau sự nhầm lẫn hy hữu ấy, nỗi đau của mẹ tôi bớt dần nhưng đêm đêm mẹ cứ cầm thư của tôi trên tay nhìn lên bàn thờ mà cầu nguyện. Mẹ tôi
bảo ngày tôi trở về rồi mà có đêm mẹ vẫn mơ thấy như tôi đang ở chiến trường…
*
Tôi như bước ra khỏi một giấc mơ khi mẹ ném chiếc nón ngoài sân ùa vào nhà ôm chặt lấy tôi. Mẹ nói người ta bảo tôi đã về nhưng mẹ chưa tin vào tai mình. Mẹ bỏ dở những nắm cỏ trên ruộng ù chạy một mạch về nhà. Tôi cứ đứng như vậy để mẹ ôm chặt, dường như mẹ sợ tôi biến mất. Còn tôi cả ngàn ngày ở chiến trường khét mùi bom đạn bây giờ chợt nhận ra mùi hăng hăng của bùn còn bám trên lưng áo, trên đôi tay của mẹ.
Tôi ôm chặt mẹ và nói: “Con về với mẹ thật rồi, chiến tranh hết rồi, hòa bình rồi, mẹ đừng khóc nữa…”. Mẹ ngước lên nhìn tôi, những nếp nhăn trên gương mặt mẹ như giãn ra, chỉ có đôi mắt rớm nước. Hình như mẹ đã khóc nhưng đôi mắt ấy từ lâu đã không còn nước mắt.
MƯA TRƯỜNG SƠN
N
hững năm tháng còn làm phóng viên Phòng Quân sự, Báo Quân đội nhân dân, tôi thường đi theo các cuộc diễn tập tổng hợp của các đơn vị bộ đội chủ lực như Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1); Sư đoàn 316 (Quân khu 2)… Nhiều cuộc diễn tập đúng vào lúc mưa bão. Thậm chí có cuộc diễn tập như ở Sư đoàn 316 thời tiết đang đẹp, thuận lợi cho triển khai quân thế mà gần sáng một cơn mưa lớn bỗng ập đến. Các chiến sĩ nuôi quân mới nhóm được bếp Hoàng Cầm thì mưa tràn xuống dồn cả nồi, xoong vào một hầm thùng đầy nước. Những lúc ấy tôi lại có dịp ngồi co ro trong hầm trú ẩn và kể lại với các chiến sĩ trẻ cảnh mưa ở Trường Sơn và kinh nghiệm làm bếp Hoàng Cầm để tránh mưa.
Những ai đã từng là lính Trường Sơn không thể quên được mùa mưa ở rừng Trường Sơn. Trường Sơn mùa mưa không mấy khi có nắng mặt trời, mưa rả rích, mưa bất chợt, không gian lúc nào cũng ẩm ướt nặng trĩu những bọng nước khổng lồ treo lơ lửng trên trời có thể vỡ òa xuống bất cứ lúc nào. Trong sinh hoạt, những người lính hầu như chỉ mặc chiếc áo quân phục buộc túm gấu và chiếc quần đùi. Không ai muốn mặc quần dài, trừ khi phải ngồi sinh hoạt. Ai cũng ngại phải giặt, vì giặt quần áo vào mùa mưa không thể nào khô được, phải hong trên khói bếp. Vì vậy quần áo bộ đội vào mùa mưa bộ nào cũng khét lẹt mùi khói. Chiếc mũ tai bèo thì hầu như lúc nào cũng ướt sũng nước.
Tháng 7 năm 1972 ấy, chúng tôi dừng chân ở một trạm nghỉ gần Binh trạm 42 A Lưới (Thừa Thiên - Huế). Sau cuộc thi có một không hai “Nấu cơm giữa trời đang mưa” tưởng rằng ít hôm sau thì chúng tôi được biên chế về đơn vị mới. Nhưng chúng tôi phải nằm lại trạm
nghỉ hơn mười ngày. Giữa mùa mưa đường sạt lở, sông suối thác lũ cuồn cuộn nên cán bộ nhận quân không lên được trạm nghỉ. Trong lúc chờ đợi chúng tôi phải chia nhau làm những nhiệm vụ của trạm như đi gùi đạn; sắp xếp, chuyển đảo kho lương thực, thực phẩm; lên vùng tăng gia sản xuất của trạm trồng trọt, vệ sinh chuồng trại. Có hôm chúng tôi lên trại tăng gia của trạm buổi sáng thì buổi chiều về giữa đường phải quay lại ngủ tạm ở các nhà kho. Vì nước lũ đổ về không thể qua con suối cạn được. Con suối cạn ấy bình thường vào mùa khô nước chỉ róc rách len lỏi dưới những tảng đá đen trũi như con trâu, con lợn nhưng mùa mưa có lúc nó lại hung dữ như muốn tận diệt tất cả. Anh cán bộ trạm nghỉ dẫn chúng tôi lên khu tăng gia nói rằng cuối tháng trước một tiểu đội chiến sĩ mới từ Bắc vào cũng đi lên khu tăng gia về, trời đang nắng đẹp, sau những ngày mưa nước rút xuống có thể lội qua được. Vậy mà khi tiểu đội vừa ra giữa suối cạn thì bỗng một cơn lũ bất ngờ đổ về cuốn phăng cả tiểu đội đang nắm tay nhau dìu qua suối.
Tôi là người hay quan tâm đến cái bếp Hoàng Cầm, nhất là kỹ thuật đào bếp. Những ngày tôi còn làm giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân 1, làm đạo diễn các cuộc diễn tập chiến thuật của các khóa học, tôi cũng thường xem học viên thao tác đào bếp Hoàng Cầm. Những lúc ấy tôi thường nhớ lại hơn mười ngày dừng chân ở trạm nghỉ gần Binh trạm 42 A Lưới, đại đội tôi có bốn cái bếp Hoàng Cầm nấu ăn cho bốn trung đội. Có lẽ do chưa có kinh nghiệm hoặc do chủ quan ở tạm nên bốn cái bếp ấy đào không đúng kỹ thuật. Sau mấy ngày nuôi quân nấu tạm, một đêm mưa lớn hơn thường ngày, sáng hôm sau cả bốn cái bếp bị nước mưa xóa sổ, đất đồi lấp kín.
Cái bếp Hoàng Cầm giữa mùa mưa Trường Sơn không chỉ là bếp để nuôi quân nấu ăn cho bộ đội. Chức năng cái bếp là rất đa dụng và thậm chí phải đỏ lửa cả ngày. Trên bếp là một giàn sấy củi, không
có cái giàn này thì không bao giờ có củi khô đun. Treo trên dây ngang, dây dọc là hàng chục bộ quần áo, mũ, giày hết lớp này chồng lên lớp khác sấy cả đêm, cả ngày. Ngoài ra trên giàn bếp còn là nơi sấy gạo, sấy thực phẩm của anh em nuôi quân… Vì vậy ở các vị trí đóng quân, ở hậu cứ có thể ví nơi không gian bếp Hoàng Cầm là “không gian văn hóa” của lính. Vào mùa mưa người lính đi đâu về cũng phải vào nhà bếp. Ở đó chuyện vui, chuyện buồn, chuyện chiến đấu hôm nay ai còn, ai mất, chuyện người yêu, chuyện quê hương, làng xóm ở hậu phương… dan díu vào nhau không dứt!
Từ ký ức mùa mưa Trường Sơn những năm chiến tranh, mỗi lần đi theo các cuộc diễn tập của bộ đội tôi thường nói với họ kinh nghiệm khi làm cái bếp Hoàng Cầm phải chú ý những gì. Nhất là ống dẫn khói. Nếu ống dẫn khói không đúng kỹ thuật thì không tản được khói, ngược lại khi gặp mưa nó còn là ống dẫn nước, dẫn bùn xuống bếp… Kỹ thuật chắn nước, chắn bùn đất như thế nào để khi gặp mưa lớn, khu vực bếp Hoàng Cầm là bất khả xâm phạm đối với nước và bùn đất người lính phải thực hành thành thạo.
Chuyện là thế nhưng mưa Trường Sơn không chỉ gây khó, gây khổ và nguy hiểm đối với người lính, ngược lại mưa Trường Sơn đem lại cho người lính sự “giàu có” vật chất bổ sung cho nguồn lương thực, thực phẩm sinh hoạt, dự trữ chiến đấu. Mùa mưa là mùa măng, chúng tôi vào rừng đào về cả núi măng. Ăn măng tươi không hết thì muối để dành. Mùa mưa là mùa rau rừng, trên rừng thì có rau môn thục, rau lang rừng; dưới suối thì có rau dớn, ngọn hoa rong suối… Thú vị nhất là sau mưa đến ngày hửng nắng chúng tôi đi dọc suối hái rau dớn. Những ngọn rau dớn mập như ngón tay cái, cao hơn hai gang tay non mơn mởn. Ngọn rau dớn sau mưa hái về xào thịt hộp ăn đến no không chán. Mùa mưa Trường Sơn là mùa dưỡng quân, mùa chuẩn bị cơ sở vật chất cho những chiến dịch lớn mùa khô. Sống giữa mùa mưa Trường Sơn, người lính trở nên thi vị
hơn, là khoảng thời gian bình yên để họ ôm ấp và nuôi dưỡng nhiều ước vọng về tương lai khi chiến tranh không còn.
Hàng chục năm qua đi rồi mà mỗi khi nhớ đến mưa Trường Sơn thỉnh thoảng tôi vẫn ngân nga câu thơ: “Mưa cũng như em lúc hờn, lúc dỗi/Áo chưa khô mưa đã ướt rồi”. Đó là hai câu thơ kết trong bài thơ “Mưa Trường Sơn” viết trên đường hành quân của anh Dương Danh Quý, sinh viên năm thứ tư khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh. Người bạn cùng quê, cùng nhập ngũ, cùng chiến đấu với tôi những năm tháng ở chiến trường Thừa Thiên - Huế.
NHỎ NHƯ CHUYỆN MẮC VÕNG
T
háng 5 ở Trường Sơn đã bắt đầu của mùa mưa. Càng đi vào sâu thì mùa mưa càng rõ rệt hơn. Có những ngày mưa rả rích suốt cả ngày cả đêm. Nhưng cũng có ngày nắng đẹp ngửa mặt lên lách ánh mắt qua tán rừng già thấy trời trong veo như pha lê. Cũng từ những ngày đẹp trời như thế nên dù hành quân giữa mùa mưa Trường Sơn cũng có lúc tôi chủ quan, không lường được sự “hờn dỗi” của mùa mưa.
Cái đêm ấy tôi không nhớ rõ là ở cung trạm thứ mấy, chỉ biết chúng tôi đã đặt chân đến đất Quảng Trị. Chiều đến vị trí hành quân, ngửa mặt lên thấy trời trong veo nên trước khi treo võng tôi không cắm cọc phụ. Chuyện mắc võng phải có cái cọc phụ chúng tôi đã được giới thiệu trong thời gian huấn luyện chiến sĩ mới nhưng cũng không mấy ai để ý đến. Cũng không ai thực hành trong những lần huấn luyện dã ngoại. Đứa nào cũng cho rằng chuyện ấy là chuyện nhỏ, khi nào gặp chỉ nhớ lại là được.
Sau một ngày hành quân, tôi chìm vào giấc ngủ đến nỗi cơn mưa đêm ập đến mà không biết. Mưa lớn khiến tôi khi giật mình tỉnh dậy tưởng như rừng già bị mưa đè xuống. Nước mưa chảy dọc thân cây theo hai đầu dây xuống võng. Trong chốc lát chiếc võng giống như một máng nước đầy. Chiếc ba lô quần áo tư trang để bệt dưới đất bị nước mưa tràn xuống đẩy đi vài mét. Những đêm trước trời mưa tôi thường đóng mấy chiếc cọc thành cái giàn đặt ba lô lên nên mưa không bị ướt. Đêm nay ba lô trôi ra khỏi mái tăng che quần áo tư trang ướt sũng. Suốt cả ngày hành quân sau đó tôi mang trên vai chiếc ba lô vừa nặng, vừa ẩm ướt nhưng không dám hé môi với ai. Đến trạm nghỉ tôi phải nhanh chóng đem quần áo, tăng võng vào
bếp trạm giao liên hong nhờ.
Từ cái đêm ấy, dù nắng, dù mưa tôi cũng không quên chiếc cọc phụ khi mắc võng. Vậy mà cũng chuyện mắc võng tôi lại có thêm một bài học rất thực tế nữa.
Cũng chỉ vài hôm sau, đến một trạm nghỉ thấy trời đẹp có vẻ không mưa tôi tìm một vị trí mắc võng gần mép suối. Chọn vị trí gần suối là tôi chọn khoảng trống giữa hai cánh rừng đêm nằm võng ngửa mặt lên có thể thấy được cả sao trời và ánh trăng. Vị trí mắc võng đẹp, chỉ nỗi là hai cây mắc đầu võng lại cách nhau khá xa. Tôi kéo căng cả võng mà không thể mắc võng theo cách khi tháo chỉ cần rút đầu dây ra nên đành phải buộc thắt nút vào thân cây. Không hiểu sao cái đêm ấy lại oái oăm như thế. Khoảng 3 giờ sáng chúng tôi có lệnh báo động hành quân sớm. Mới quá nửa đêm phải bật dậy ai cũng ngơ ngác, chuyện gì đã xảy ra? Mãi đến khi tập trung đội hình mới biết do chặng đường hành quân tiếp của chúng tôi phải đi qua một đoạn đường dài đồi trọc lại vừa bị bom napan đốt cháy không còn một ngọn cỏ. Nếu chờ trời sáng hành quân như thường lệ thì cả đội hình sẽ phơi bày trên những quả đồi trọc lại vừa cháy trụi và cũng trúng thời gian theo quy luật trinh sát của máy bay OV-10 của địch.
Nhiều chiến sĩ ấm ức vì mất ngủ, vì sự phối hợp không kịp thời để nắm trước tình hình của chỉ huy hành quân với trạm giao liên. Còn tôi thì phải dùng dao găm cắt đứt hai đầu dây võng. Việc là khi báo động, bật dậy thu võng tôi không sao cởi được hai đầu dây bị thắt nút. Đầu dây thắt nút càng chặt khi tôi nằm lên võng suốt đêm.
Mối nối của dây sau đó cứ theo tôi mỗi khi mắc võng. Trên đường hành quân đi vào mỗi người chỉ có một bộ dây nên không có để thay thế. Chuyện chiếc võng thành máng nước trong đêm mưa hay phải dùng dao găm cắt đứt dây mới cuộn được võng rồi cũng qua đi như là một chuyện nhỏ. Nhưng càng đi sâu vào chiến trường tôi mới
nhận ra nơi trận mạc giữa cái sống và cái chết nhiều chuyện tưởng như là nhỏ mà không hề nhỏ chút nào.
THI NẤU CƠM GIỮA TRỜI MƯA
S
au hai tháng hành quân, đầu tháng 7 năm 1972, chúng tôi vào đến trạm nghỉ gần Binh trạm 42 (A Lưới) thì được tạm nghỉ ít ngày để dưỡng sức và cũng là chờ cán bộ đến tiếp nhận về Trung đoàn 6. Đang là mùa mưa, mưa ở A Vao, A Lưới xối xả trắng trời. Những ngày chờ đợi chúng tôi chỉ có nhiệm vụ vào rừng lấy rau, xuống bếp giúp anh em nuôi quân, sửa chữa lại doanh trại, kho tàng… Cán bộ trạm biết chúng tôi mới ở Bắc vào nên luôn luôn quán triệt đủ thứ bí mật, nhất là khi nấu nướng, phơi phóng quần áo… Những gì mà máy bay trinh sát OV-10 của địch có thể phát hiện được đều phải bí mật! Có lẽ từ quán triệt giữ bí mật ấy của cán bộ trạm nghỉ nên chỉ huy hành quân mới nghĩ ra một cuộc thi “Nấu cơm giữa trời đang mưa”.
*
Ban đầu cánh lính mới chúng tôi có ý kiến: “Trời mưa thì hầu như máy bay trinh sát của địch không hoạt động. Trời mưa thì khói không lên được, không qua được dưới tán lá dày đặc của rừng già, trên tán rừng già thì mây mù trắng xóa trời tối âm u… nấu cơm làm sao lộ bí mật được?”. Nhưng cán bộ dẫn quân thì có cái lý của họ. Rằng ở Trường Sơn một năm có đến sáu tháng mùa mưa, không biết nấu cơm dưới trời mưa thì sẽ phải nhịn đói, nấu được bữa cơm dưới trời đang mưa là một trong những kỹ năng của người lính chiến trường phải biết: “Đi không dấu, nấu không khói”.
Thế là cuộc thi “Nấu cơm giữa trời đang mưa” được ấn định. Đại đội tôi có bốn trung đội tổ chức thành bốn tổ thi nấu cơm. Đầu bài thi rất ngắn gọn: “Đặt bếp trên mặt đất, không đào bếp Hoàng Cầm; nấu không khói, tổ nào nấu cạn cơm trước là thắng cuộc”. Trời
thì mưa rả rích, có lúc nước đổ xuống như trút, đất rừng nhão ra như cháo, trơn trượt. Bốn tổ thi nấu cơm về bốn góc rừng rồi mà vẫn chưa nghĩ cách làm thế nào bắc bếp lên được. Một vài anh em đã cắm cây, lợp lá thành bếp để che mưa, chắn gió nhưng không thể tìm ở đâu ra củi khô mà châm bếp. Sờ đến que củi nào, kể cả củi đã khô giữa mùa mưa cũng đã no nước rồi. Tổ nào cũng cử lính bí mật trinh sát các tổ khác xem dùng củi gì để nấu. Khổ nhất là mấy chàng lính sinh viên cứ lớ nga lớ ngớ. Ôm một bó củi tưởng là khô về bếp, chẻ đến đâu nước chảy ra đến đó.
Tự nhiên tôi bỗng nhớ ra, liền cầm dao xuống sườn đồi tìm mấy cây săng lẻ, một loại cây phổ biến ở Trường Sơn, vùng rừng nào cũng có. Săng lẻ là một loại cây thân gỗ, mọc thẳng, ruột chắc, đặc và rất khô, tước ra từng mảnh một là có thể đốt cháy ngay. Tôi chọn một cây săng lẻ to bằng bắp chân, chặt ra mấy khúc mang về bếp. Chúng tôi chẻ cây săng lẻ thành từng thanh mỏng như đóm hút thuốc lào. Để đóm nhanh khô tôi về hầm múc một muôi mỡ hóa học (loại mỡ ăn đựng trong can nhôm rất phổ biến đối với bộ đội trong những năm chiến tranh giải phóng), xé một miếng khăn tẩm mỡ vào đốt lên và hơ nắm đóm săng lẻ qua ngọn lửa. Cứ thế đặt vào bếp đóm săng lẻ cháy như củi khô mùa hè hết nắm này sang nắm khác. Đặc biệt của củi săng lẻ nữa là rất ít khói. Chẳng mấy chốc nồi cơm của chúng tôi đã sôi cạn. Chúng tôi chạy sang các bếp bạn, vẫn chưa có ai chụm được bếp. Nghe tôi nói, ai cũng tròn mắt không tin cho đến khi vào bếp chúng tôi mở vung ra thấy nồi cơm đã sắp chín. *
Chuyện nấu cơm giữa trời mưa, tôi còn gặp lại khi tôi là giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 dẫn học viên đi diễn tập tổng hợp trên núi Ba Vì. Trưa hôm ấy khi các bếp nuôi quân vừa nổi lửa thì gặp một trận mưa ập đến. Nhiều bếp Hoàng Cầm đào không đúng kỹ thuật bị nước dồn vào bếp tống cả củi đang cháy ra khỏi đáy nồi. Để
bộ đội có cơm kịp ăn trưa chúng tôi đã phải cắt tình huống diễn tập và cho các bếp đặt nổi trên mặt đất. Tuy nhiên giữa trời mưa để đủ củi khô nấu một bữa ăn cho cả chục người không phải là chuyện dễ. Tôi tìm mấy cây săng lẻ cạnh hầm và bảo học viên chặt xuống chẻ mỏng ra mà nấu. Củi săng lẻ cháy vừa đượm, ngọn lửa như củi khô lại vừa ít khói ai cũng tấm tắc khen. Đấy cũng là một bài học, bài học rất thực tế tôi truyền lại cho học viên của mình.
Hôm ấy tôi lại nhớ cuộc thi nấu cơm giữa mùa mưa Trường Sơn hơn chục năm trước. Khi tổ bếp của tôi thắng cuộc anh cán bộ hậu cần của trạm nghỉ nói rằng anh ở Trường Sơn bao năm rồi mà vẫn không phát hiện được hữu ích của cây săng lẻ. Thế là chiều hôm sau, khi trời mưa tạnh, nắng hửng lên anh đề nghị tôi giới thiệu cho lính nuôi quân trạm nghỉ và anh em chiến sĩ đại đội nhận biết cây săng lẻ. Đó cũng là một cách học. Tôi thì học lại trong quá khứ những năm còn học sinh kéo xe hai bánh lên rừng đốn củi. Những đêm mưa các bác, các chú đã dạy cho cách tìm củi săng lẻ nấu cơm giữa trời mưa. Và bây giờ, thực tế của những năm tuổi thơ ấy đã giúp tôi “thắng một cuộc thi” trước khi thực thụ là một người lính trên chiến trường.
ĐÊM NGHE TIẾNG CHIM “KHÓ KHĂN KHẮC PHỤC”
H
ành quân đến một trạm nghỉ gần Binh trạm 34, A Lưới (Thừa Thiên - Huế) thì tiểu đoàn chúng tôi dừng lại nghỉ. Các đại đội về vị trí trú quân, chủ yếu tản ra các sườn rừng. Như thường lệ sau khi bố trí xong đội hình cán bộ đại đội và cán bộ dẫn quân lên chỉ huy trạm nghỉ hội ý. Chúng tôi chia nhau mắc võng theo đội hình đã được xác định, tổ nuôi quân thì sửa sang lại bếp Hoàng Cầm của đơn vị dừng chân trước đó để nấu cơm chiều. Sau một ngày hành quân có chiến sĩ vừa treo võng xong đã tranh thủ ngủ một giấc. Đó là một ngày giữa mùa mưa năm 1972 trên trục đường mòn Trường Sơn, chúng tôi hành quân ra trận.
Chạng vạng tối, cán bộ hội ý ở Binh trạm nghỉ về tập hợp cả đại đội lại để thông báo và quán triệt một số tình hình chặng đường hành quân sắp tới. Các anh cho biết trạm dừng chân chúng tôi sẽ đến chiều hôm sau vừa bị một trận rải thảm B-52. Một đơn vị bộ đội vừa đến trạm thì bị B-52 rải bom hy sinh gần hết. Hiện nay trạm đang huy động cán bộ, chiến sĩ và lực lượng thanh niên xung phong gần đó khắc phục hậu quả. Nguyên nhân bước đầu có thể là bộ đội ta vừa đến nấu nướng, phơi phóng quần áo bị lộ, máy bay trinh sát OV-10 địch phát hiện được nên chúng gọi B-52 đến rải bom. Vì vậy cán bộ đại đội, chỉ huy hành quân và cán bộ trạm nghỉ quán triệt chúng tôi phải hết sức giữ bí mật, vào ban đêm thì không được để lộ ánh sáng, ánh lửa khi nấu bếp…
Không khí của đêm trú quân hôm ấy cũng trở nên rất nặng nề, sau bữa cơm tối vội vã đứa nào về võng đứa đó. Mưa lại ập đến, nước xối xả trên mái tăng. Nằm nghe tiếng suối đổ, tiếng hoẵng kêu trong mưa thật não nề. Tự nhiên văng vẳng trong mưa tôi nghe
tiếng chim thật lạ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cơn mưa rừng tôi để ý đến một loài chim có tiếng kêu vừa thánh thót lại vừa da diết. Khi bước chân vào Trường Sơn, đêm đêm tôi đã nghe tiếng chim này, nhưng đêm nay dường như tiếng chim da diết ấy ướt đẫm trong mưa khiến lòng tôi se lại, vừa bâng khuâng vừa bồi hồi. Ở Trường Sơn loài chim ấy đêm nào cũng hiện ra. Một loài chim mà mỗi người lính đều đặt một tên và kể một câu chuyện theo cách riêng của họ. Thường thì câu chuyện những người lính nghĩ ra chủ yếu là chuyện tình yêu đôi lứa mà họ muốn gửi gắm vào đó niềm tin yêu, lòng chung thủy đã nhuốm màu huyền thoại.
Có người nói đó là loài chim “chót vót”. Chuyện kể rằng ngày xưa có một đôi trai gái người dân tộc Vân Kiều yêu nhau tha thiết nhưng rồi họ không lấy được nhau. Người con gái bị gia đình ép buộc lấy một người khác. Vì không chịu lấy người mình không yêu nên người con gái trốn nhà đi. Người con trai thương người yêu quá cũng trốn nhà đi tìm. Núi rừng hiểm trở họ đi mãi, đi mãi mà không tìm được nhau. Họ đi cho đến khi kiệt sức và mỗi người chết một ngả rừng. Thấy vậy trời thương quá bèn cho họ biến thành đôi chim chót vót. Từ những đỉnh núi cao chót vót, đôi chim ấy đã cất tiếng hót của mình để gọi tìm nhau. Khi chúng tìm được nhau cũng là lúc trời hửng sáng. Vì vậy loài chim ấy rất mực yêu thương nhau.
Có người thì lại kể đó là loài chim “khó khăn khắc phục”. Chuyện kể rằng ở một vùng quê nọ có một đôi nam nữ yêu nhau. Người con trai đi bộ đội và trở thành một lái xe Trường Sơn. Thời chiến tranh cô thôn nữ nết na, xinh đẹp, dịu dàng ấy vẫn một lòng chờ đợi người yêu của mình. Cô đẹp nên nhiều trai làng nhìn ngó, bố mẹ cô ép cô lấy chồng, con gái có thì có lứa, thời chiến tranh biết đâu mà đợi chờ… Rồi cô thôn nữ dịu dàng, nết na, xinh đẹp ấy trốn nhà gia nhập vào một đội quân thanh niên xung phong. Tình cờ họ gặp nhau ở Trường Sơn. Và trong một đêm tối trời cô thanh niên xung
phong ấy đang dẫn đường cho anh lái xe vượt qua cung đường trọng điểm “Cua chữ ôm” thì dính bom nổ chậm còn sót lại. Họ hy sinh khi chưa là của nhau, khi tình yêu đang đẹp như cổ tích. Kỳ lạ thay sau cái đêm ấy, trên hai ngọn núi cao ở hai đầu “Cua chữ ôm” đêm đêm có hai con chim hiện ra cất tiếng hót gọi nhau da diết “khó khăn khắc phục”…
Càng về gần nửa đêm mưa càng lớn, gió giật từng cơn, tiếng sét như muốn xé vụn rừng đại ngàn ra từng mảnh. Chúng tôi bỗng bị dựng dậy bởi tin từ tổ gác. Có hai chiến sĩ bị đất vùi xuống dưới một hố bom cũ. Cả đại đội như bật khỏi võng chạy xuyên qua màn mưa theo chân hai chiến sĩ gác. Đến nơi mới biết hai chiến sĩ của Trung đội 1 treo võng bên sườn đồi sát một hố bom cũ, do mưa nhiều, đất sát hố bom nhão ra tụt xuống kéo cả hai chiến sĩ treo võng cùng một thân cây sát miệng hố bom xuống. Đất đá và cây đè hai chiến sĩ ngập trong hố bom đầy nước. Trong ánh đèn pin hạt đỗ loang loáng, cả hàng chục chiến sĩ người kéo, người nâng cây, người moi bùn phải vài chục phút mới kéo được hai chiến sĩ bẹp dưới thân cây ngập bùn lên khỏi hố.
Chúng tôi về vị trí của mình ai cũng ướt sũng, nước mưa ngấm vào người lạnh run cầm cập nhưng phải cắn răng chịu đựng. Hai chiến sĩ Trung đội 1 được đưa vào cấp cứu tại trạm xá của Trạm giao liên và gửi ở lại không theo được với đơn vị hành quân.
*
Ba giờ sáng, tổ nuôi quân lại lục tục rửa nồi, bắc bếp nấu cơm. Trong chúng tôi nhiều người đã thức đến sáng, có chiến sĩ đã cuốn tăng võng nhét vào ba lô. Có chiến sĩ thì vẫn trùm kín chăn le lói giọt đèn pin như hạt đỗ, dường như anh ta đang đọc những lá thư nhà… Chiến sĩ trực nhật đã xuống bếp nhận cơm nắm cho tiểu đội mình. Tôi cũng không còn nghe tiếng chim “khó khăn khắc phục”. Trong mưa mù nhưng trời đã sáng, chúng tôi lại cuốn võng tiếp tục
hành quân.
KÝ ỨC HOA TI-GÔN
L
âu lắm rồi tôi mới có dịp đến thăm nhà Son. Ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong một ngõ hẻm phố Đội Cấn, Hà Nội. Son nói rằng ngôi nhà nhỏ ấy cơ quan chia cho anh từ ngày anh mới về công tác, anh sắp phá dỡ nó để xây một ngôi nhà khang trang hơn. Gặp nhau chưa kịp mời nhau vào nhà, cứ thế hai chúng tôi đứng trước ngõ thao thao đủ thứ chuyện. Chuyện gì rồi cũng lại quay về những năm tháng chiến tranh đầy ắp ký ức. Tôi chợt nhận ra trước ngõ nhà Son có một giàn hoa ti-gôn. Nhìn sắc hoa ti-gôn tím hồng mong manh trước gió lòng tôi bỗng xao xuyến nhớ về một thời… Tôi thốt lên: “Hoa ti gôn đẹp thế này mà phải phá đi thì tiếc quá!”. Nghe vậy Son đỡ lời tôi: “Mình sẽ bứng gốc dời đi một thời gian sau sẽ đưa về trồng lại, mình yêu sắc ti-gôn không chỉ vì đó là một loài hoa đẹp, sang trọng, quý phái mà còn là để nhớ một người bạn thân thiết thời chiến trường rất yêu hoa ti-gôn!”. Giây phút ấy tôi chạnh lòng, tôi biết người Son yêu quý ấy là Hiền. Hiền là chiến sĩ trung đội trinh sát của tiểu đoàn tôi…
Hiền nhập ngũ trước tôi, quê anh ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Cuối năm 1971, anh về làng nhận chúng tôi nhập ngũ. Chàng trai ấy có nước da ngăm đen, dáng người dong dỏng cao và vui tính với nụ cười luôn thường trực trên môi và đặc biệt tán chuyện rất có duyên. Chả vậy mà tối nào ngôi nhà anh ở trọ cũng đầy các cô thôn nữ đến nghe Hiền kể chuyện. Thời chiến các anh bộ đội luôn chiếm được cảm tình của các cô thôn nữ. Tối tối họ đến ngồi như thể để nghe anh, để xem anh, có nhiều đêm trăng lặn mới ra về. Trong số những cô thôn nữ làng tôi Hiền quen cô Dung, một cô gái đang học cấp ba vốn rất thích cuộc đời bộ đội, và sau đó Dung cũng xung
phong nhập ngũ vào một đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 4. Tôi với Hiền trở thành người bạn thân tự lúc nào không biết. Có lẽ từ khi trở về đơn vị huấn luyện chiến sĩ mới hai đứa cùng ở Đại đội 44, Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4. Còn một lẽ nữa khiến chúng tôi gần nhau hơn, Hiền đã yêu Dung, cô học trò thôn nữ làng tôi…
Đầu tháng 5 năm 1972, chúng tôi hành quân vào miền Nam chiến đấu. Trong đội hình hành quân ấy, Hiền được giao nhiệm vụ tiểu đội trưởng. Có lẽ thế nên suốt cuộc hành quân anh phải chạy đi chạy lại dọc đội hình để kiểm tra, động viên, giúp đỡ những người tụt lại phía sau. Chỉ còn những buổi tối, thỉnh thoảng chúng tôi treo võng bên nhau nói chuyện. Có những đêm mưa Trường Sơn nước đổ về như thác, nằm dưới mái tăng mưa xối xả không ngủ được, Hiền lại lôi trong ba lô những bức thư của Dung ra đọc cho tôi nghe. Dưới ánh đèn pin mờ mờ tỏ tỏ tôi nhận ra những bức thư Hiền và Dung viết cho nhau trong những ngày Hiền còn ở làng tôi nhận quân. Có những ngày họ gửi cho nhau hai, ba lá thư. Những lá thư Dung viết bằng mực Cửu Long, chữ nắn nót, rất đẹp, thư nào cũng dài mà dường như không trải hết lòng mình. Dung đặc biệt rất thích thú với cái tên Hiền đặt cho: “Tên em là Hoa Ti-gôn”. Tôi hỏi Hiền ngày ấy quê tôi không có hoa ti-gôn và cũng không ai biết hoa ti-gôn, tại sao anh lại đặt tên cho Dung là “Hoa Ti-gôn”? Hiền trả lời: “Mình yêu hoa ti-gôn từ trong tiểu thuyết, nhưng bắt đầu yêu đến si mê khi đọc được bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn” và lại càng si mê hơn khi biết câu chuyện tình của “Hai sắc hoa ti-gôn”!”.
Trên đường Trường Sơn nhiều chặng hành quân bị đứt đoạn bởi máy bay trinh sát, bởi bom B-52 rải thảm. Nếu không trải qua những ngày tháng hành quân ấy mấy ai biết chiến tranh không chỉ trên chiến trường mà ngay trên đường Trường Sơn những người lính đã phải hứng chịu đau thương, mất mát. Một đội hình hành quân vượt
qua được tọa độ B-52, máy bay trinh sát của địch còn nguyên vẹn cũng là đã trải qua một trận chiến đấu rồi. Sau những cung đường như thế tối đến ở trạm dừng chân Hiền lại đọc thư Dung cho tiểu đội nghe. Bấy giờ thư Dung viết cho Hiền không còn là chuyện của hai người nữa. Cả tiểu đội thuộc từng câu, thậm chí thuộc cả nét chữ của Dung rồi. Đọc hết thư, Hiền lại ngâm bài thơ “Hai sắc hoa ti gôn”. Ngâm mãi, đọc mãi vẫn không chán. Nhiều lúc nhìn gương mặt Hiền đang ngâm thơ mà tôi không thể tả lại được. Anh ngâm thơ mà hồn anh phiêu bạt ở nơi đâu!
Nhưng rồi cũng có lúc Hiền như thoát ra được cái “Vòng kim cô” si tình ấy. Anh đố cả tiểu đội họa bốn câu kết của bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn”. Bốn câu thơ kết chính là lời thốt ra từ trái tim đau đớn của cô gái phải dứt tình cũ sang ngang…
… Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng
Trong chúng tôi không ai biết được chuyện tình của bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn” vì vậy đành câm lặng. Lại nhìn vào cái miệng hay cười và câu chuyện tình của chàng lính trẻ với cô thôn nữ làng tôi.
Hiền nhổm dậy khỏi võng. Anh đứng lên và làm trò cho tiểu đội. Hiền bảo anh “cóp” được hai tứ thơ họa, một là “Tự an ủi mình”: Anh biết em sẽ đi lấy chồng
Anh đi lấy vợ thế là xong
Vợ anh không đẹp bằng em được
Nhưng đẹp hơn em ở tấm lòng
Rồi Hiền lại hoa tay múa chân biểu diễn tiếp tứ thơ họa thứ hai, là “Quên hẳn nàng đi”:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng
Anh về bắt vịt nhổ sạch lông
Tiết canh làm được vài ba đĩa
Mượn rượu cho quên vết thương lòng…
Chúng tôi vỗ tay như pháo, đứa nào cũng phục cái tài biến báo của Hiền… Giữa Trường Sơn trên đường hành quân vào nơi trận mạc, tình yêu của Hiền làm vơi đi nỗi nhớ quê hương, vơi đi nỗi lo lắng đang chờ những chiến sĩ trẻ chúng tôi phía trước…
*
Vào mặt trận Thừa Thiên - Huế, tôi và Hiền cùng được biên chế về Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Phú Xuân. Hiền là chiến sĩ của trung đội trinh sát, tôi là chiến sĩ liên lạc của trung đội thông tin tiểu đoàn. Mùa khô năm 1973, Son, Hiền và tôi đi với anh Hân - chính trị viên tiểu đoàn trong trận chiến đấu chiếm giữ một địa bàn quan trọng dọc trục đường quốc lộ 1 thuộc tây nam Thừa Thiên - Huế. Hiền đi trước, khi vừa rời rừng giáp ranh xuống quốc lộ 1 thì đạp phải một quả mìn định hướng địch gài sát mép đường và bị thương nặng. Anh Hân với Son tiếp tục đi xuống, còn tôi ngược lên rừng báo cáo tình hình với anh Trợi - chính trị viên phó. Mấy ngày sau trận chiến đấu kết thúc tôi mới biết Hiền đã hy sinh. Ngày nào tôi cũng nhận được tin người hy sinh, nhưng khi nhận được tin Hiền, tôi thẫn thờ như người mất hồn suốt cả tuần. Hiền với tôi không chỉ là tình đồng đội, giữa chiến trường gian khổ, ác liệt, anh như sợi nhớ sợi thương gắn kết tôi với quê hương, là tình yêu sắc hoa ti-gôn mong manh mà rất chung thủy…
Gần 45 năm trôi qua, thời gian tưởng như đã lành vết sẹo. Vậy mà hôm nay nắm chặt tay Son, nhìn sắc hoa ti-gôn trước ngõ chúng tôi nhận ra “tình yêu hoa ti-gôn” không bao giờ phai nhạt được.
EM SẼ ĐỢI ANH VỀ!
K
hoảng cuối quý I năm 1973, tôi được điều về Trường hạ sĩ quan Trung đoàn 6 (Phú Xuân) đào tạo tiểu đội trưởng. Trường là một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tiểu đội, trung đội bổ sung trực tiếp cho các đơn vị bộ đội địa phương và Trung đoàn 6 chủ lực (thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế). Nơi đóng quân của Trường là một thung lũng rừng già nguyên thủy và gần một con suối đẹp nhưng lính ta lại gọi là Khe Rùa.
Khóa đào tạo tiểu đội trưởng của tôi gồm có hai trung đội biên chế thành hai lớp. Lớp của tôi chủ yếu là chiến sĩ nhập ngũ năm 1971 và năm 1972. Về trường tôi gặp lại nhiều bạn cũ cùng huấn luyện với nhau ở Đoàn 22A, Quân khu 4, trong đó có anh Lương “răng vàng”. Cũng không hiểu ai đã đặt cho Lương cái biệt danh ấy. Chỉ biết những ngày hành quân trên đường Trường Sơn cánh lính đại đội tôi đã gọi anh như thế. Lương có một chiếc răng cửa bọc vàng, vì vậy nhiều lúc hành quân đêm tối không lần ra được lối mòn nhiều chiến sĩ cứ gọi đùa: “Lương cười lên cho anh em đi”,… Tôi nghe nhiều câu đùa có lúc cũng tự ái, nhưng Lương quen rồi anh chỉ cười cho qua. Lương là sinh viên năm cuối Đại học Sư phạm Vinh. Những năm chiến tranh, trường của anh sơ tán về xã Quỳnh Thạch, cách làng tôi một con sông Nghệ. Anh cũng có bạn học người làng tôi nên thường xuyên qua lại. Vì thế mặc dù quê anh ở Hà Tĩnh nhưng tôi vẫn gọi anh là “đồng hương”.
Lâu ngày gặp nhau lại có chút đồng hương nên tôi và anh trở thành thân thiết. Mới một năm, những đồng đội cũ cùng Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4 ngày nào bây giờ người còn, người mất. Một năm trận mạc Lương rắn rỏi hơn nhiều vẫn ít nói, hay cười, chín
chắn hơn, ưu tư hơn. Thường thì một tuần vào tối thứ bảy nghỉ sinh hoạt tôi và Lương hay rủ nhau ra suối ngồi nói chuyện. Cũng có lúc bày thuốc lá, kẹo hôm ngày lễ ra cùng chia sẻ với nhau.
Nhớ lại ngày hành quân đến Yên Thành, tôi đột ngột hỏi Lương: “Anh có hay viết thư về cho chị Lan không?”. Nghe tôi hỏi, Lương ngồi bần thần một lúc như sực nhớ ra và vặn lại tôi: “Sao cậu lại biết cô Lan ấy?”. Tôi kể lại cái giây phút các cô gái Đại học Sư phạm Vinh đón đường đoàn quân để gặp chia tay, tạm biệt Lương và bè bạn. Nghe tôi nhắc Lương lại cười: “Ừ, cậu nhớ lâu đấy, vào nơi bom đạn, sống chết biết khi nào, mình cũng không thư từ vướng víu gì nữa. Vả lại…”. Im lặng một lúc lâu, thả hai bàn chân trần xuống dòng suối và hút hết một điếu thuốc lá Điện Biên, Lương mới nói: “Cô Lan và hai bạn kia nữa là cùng tổ học tập do mình phụ trách. Chúng mình chơi thân với nhau, Lan thì có cảm tình hơn một chút, nhưng chỉ thế thôi…”.
Tôi vẫn nhớ ngày đầu tiên xuất quân ở Nghĩa Hội, hành quân đến đầu huyện Yên Thành thì có ba cô gái đèo nhau trên hai chiếc xe đạp cứ lẽo đẽo đi theo đoàn quân. Vì ngày giờ hành quân bí mật không ai có người nhà biết đưa tiễn nên tôi cũng chỉ nghĩ đó là ba cô gái thôn nữ nào đấy của làng quê Yên Thành. Đoàn quân đi đến đâu bà con cô bác, các cháu thanh thiếu niên đều đứng hai bên đường đưa tiễn. Tôi cũng thấy nhiều bà mẹ, nhiều người chị rơi nước mắt. Có lẽ những bà mẹ, người chị ấy đang có con, có chồng, có em ngoài mặt trận. Ba cô gái cứ đạp xe theo cho đến lúc đoàn hành quân chúng tôi dẹp vào bên lề đường nghỉ mười phút. Bỗng có một cô gái cất tiếng gọi: “Anh Lương!”. Lương ngoảnh lại và dường như bất ngờ nhận ra, anh lúng túng nắm tay tôi kéo đi về phía ba cô gái. Họ nép vào một bờ tre và nhìn nhau không nói gì. Cái giây phút tiễn người ra trận sao lại khó nói thế. Dường như nói ra câu gì cũng thấy thừa. “Sao anh đi không báo với chúng em? May mà…”. Lương
giới thiệu với tôi cô gái ấy tên là Lan. “Con gái thị trấn đấy!” - Lương cười. Khẩu lệnh hành quân, cả đoàn quân đứng dậy. Chợt Lan nắm tay Lương kéo lại: “Em sẽ đợi anh về!”.
*
Tôi và Lương còn ở, học tập rèn luyện và cùng nhau đón một cái Tết Giáp Dần năm 1974 nữa mới tốt nghiệp ra trường. Anh về đơn vị cũ, tôi trở lại tiểu đoàn bộ. Hai người cùng ở một tiểu đoàn nhưng không mấy khi gặp nhau cho dù tôi ở tiểu đoàn bộ thường phải phối hợp tác chiến với các đơn vị nhưng nhiều lần đến Đại đội 2 của Lương cũng không gặp.
Bộ đội địa phương chủ yếu là hoạt động lẻ, có khi trên cùng một tuyến phòng ngự hai điểm chốt nhìn thấy nhau nhưng hàng tháng không gặp nhau, không biết sau một đợt chiến đấu ai còn, ai mất. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn tôi giải phóng thành phố Huế, tôi làm trung đội phó Đại đội 1 canh giữ hai đầu cầu Tràng Tiền. Đại đội 2 canh giữ hai đầu cầu Bạch Hổ. Buổi giao ban đầu tiên tôi mới biết Lương đã hy sinh mấy tháng trước rồi, trong một trận đánh lên điểm cao 450 cạnh con sông Tà Vệ…
*
Đầu năm 2013, tôi vào dự Lễ khánh thành Khu tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ Trung đoàn 6 (Phú Xuân) tại phường An Hòa, thành phố Huế tình cờ gặp lại anh Biên. Ở chiến trường anh Biên và tôi có thời gian cùng một ban quân khí tiểu đoàn. Anh Biên và anh Lương là bạn cùng học Đại học Sư phạm Vinh. Sau chiến tranh anh về dạy học tại một trường trung học phổ thông miền núi Thanh Hóa. Hơn ba mươi năm mới gặp lại nhau buồn vui khôn xiết. Nhắc tới Lương, Biên lặng người đi như muốn bật khóc. Anh thốt lên trong cuộc đời có những vết thương không bao giờ liền sẹo. Lương với anh không chỉ là đồng đội chung một chiến hào mà là người bạn tri kỷ. Nhắc tới Lan, Biên kể phải mười năm sau chiến tranh anh mới có điều kiện
vào thị trấn Kỳ Anh để tìm Lan. Những năm chiến tranh thị trấn Kỳ Anh nhỏ bé bị bom đạn Mỹ tàn phá, mười năm sau Biên đến vẫn hoang tàn. Những người cao tuổi còn lại ở thị trấn không hiểu vì sao cô giáo Lan không lấy chồng…
Cái giây phút đứng trước Đài tưởng niệm hơn 12.000 anh hùng, liệt sĩ Trung đoàn 6, tôi và Biên lặng yên không nói giữa hàng trăm cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn và bà con cô bác thành phố Huế. Nhớ đến Lương tôi lại như vừa nghe câu nói như hơi thở da diết của Lan: “Em sẽ đợi anh về!”. Và Lan đã chờ đợi, dành cả cuộc đời để chờ đợi; chờ đợi cho đến khi đã biết rằng người mình đợi mãi mãi không trở về. Ngước nhìn dòng người dâng nén tâm nhang trước Đài kỷ niệm, tôi nghẹn ngào thốt lên: “Không hiểu sao cái thời ấy, thời chúng tôi, chỉ vì một lời hứa con người ta dám hy sinh cả cuộc đời!”.
“EM BÂY GIỜ LÀ CỦA CẢ ĐOÀN QUÂN”
Đ
ó là câu thơ được khắc vào một thân cây lớn nằm chắn ngang trục đường bộ đội hành quân. Một bên là sườn núi vách đứng, một bên là vực sâu. Thân cây lớn sau trận B-52 rải thảm đã bật gốc chắn ngang lối mòn, bất cứ người lính nào đi cũng phải nhoài người bò qua. Mặc dù đã được báo trước chúng tôi cũng không ai tưởng tượng được trận B-52 rải thảm trước đó. Trạm nghỉ giấu mình dưới cánh rừng đại ngàn nườm nượp quân vào, quân ra bỗng chốc như bị xóa sổ. Nghe nói cũng chỉ vì một bếp lửa của đoàn quân đi trước do chủ quan để lộ khói lên đúng lúc máy bay OV-10 của địch bay tới. Sau trận bom ấy tiểu đoàn chúng tôi phải trú quân lệch sang một cánh rừng ít bị bom tàn phá hơn nhưng vẫn còn ngổn ngang cây đổ và đất đá. Nhiều ngôi nhà, nhiều hầm thùng, hầm trú ẩn của trạm nghỉ bị phá hủy, hầu hết tiểu đoàn tôi mắc võng trú ở sườn đồi. Có lẽ quân số của trạm nghỉ không nhiều nên chúng tôi vừa đặt chân đến đã phải cử nhau cùng cán bộ, chiến sĩ trạm nghỉ khắc phục hậu quả của trận bom. Đại đội tôi được phân công dọn dẹp đất đá, cành cây đổ xuống đường mòn đi về hướng nam. Riêng cây lớn đổ nằm ngang trục đường hành quân thì đành chịu, không có phương tiện nào để cưa cắt. Mở đường vòng tránh cũng không được, không thể mở lối đi lên vách đứng hoặc rẽ xuống vực sâu. Chúng tôi đành báo cáo lại cán bộ trạm nghỉ. Trạm cử người đến và họ nghĩ ra một cách thật đơn giản, cái cách mà chỉ có người lính đường dây mới nghĩ ra. Họ chặt mấy cành cây buộc thành hai cái thang trèo qua và tụt xuống.
Đêm về chúng tôi treo võng theo đội hình tiểu đội. Sau một ngày hành quân có chiến sĩ vừa buông màn đã “kéo gỗ” khùng khục. Mắc
võng bên cạnh tôi là Cảnh. Cảnh chưa ngủ chỉ vì ít phút nữa là đến ca gác của cậu ta. Cảnh quê Yên Thành, Nghệ Tĩnh. Trước khi nhập ngũ cậu ta đem lòng yêu một cô bạn cùng học. Vì thế cậu ta mang theo cuộc hành quân một mối tình vừa chớm nở. Hình ảnh của cô bạn gái thời học trò như hiển hiện bằng da bằng thịt trước mặt anh. Ngay cả lúc hành quân cứ nghỉ mười phút là ngửa đầu lên ba lô úp ảnh cô bạn gái vào mặt. Nhiều đêm đang ngủ bỗng cậu ta hét toáng lên tên cô gái: Lê Thị Ngà. Đại đội tôi có hai chiến sĩ tên là Cảnh vì vậy tôi đặt “Cảnh si” để phân biệt với Cảnh khác. Tối nay cũng vậy, nằm trên võng chờ ca gác “Cảnh si” cũng úp ảnh Lê Thị Ngà lên đôi mắt mơ màng đang chống lại cơn ngủ chực ập đến.
Mệt là vậy nhưng tôi lại không ngủ được, đêm nay đến phiên tôi trực nấu cơm cho tiểu đội. Tôi xuống sát mép suối che kín thêm cái bếp và xem lại số củi đang hong. Chiều nay một cơn mưa ập xuống đất nhão nhoét, củi rừng ướt sũng, các hầm trú ẩn, hầm thùng ngập tràn nước… Tôi đang lúi húi đảo củi hong trên bếp thì Chuyên đến. Chuyên vừa thay gác cho Cảnh. Chuyên nói: “Tao vừa mò đến võng mày, thằng Cảnh vừa thay gác đã ngủ say như chết. Thấy võng mày bỏ không tao đoán mày xuống bếp”. Tôi bảo: “Sao cậu đang gác lại mò xuống đây?”. Chuyên không trả lời câu hỏi của tôi, cậu ta kéo tôi đi lên dốc đến cây gỗ đổ chắn ngang đường và giật tay tôi bước lên ba bậc thang cây anh em trạm nghỉ vừa buộc chiều nay. Chuyên bấm đèn pin lên mặt thân cây cho tôi nhìn thấy dòng chữ: “Lê Thị Ngà” khắc bằng dao găm. Tôi khẽ thốt lên: “Đúng là thằng si tình, có lẽ cả ca gác nó chỉ làm mỗi việc này”. Tôi định về chỗ mắc võng nhưng chợt nghĩ ra một ý để chọc “gã si tình”. Tôi lấy dao găm của Chuyên và khắc thêm một câu dưới chữ “Lê Thị Ngà”: “Em bây giờ là của cả đoàn quân”…
Về võng nằm rồi mà tôi vẫn không ngủ được. Có cái gì vừa vui vui trộn lẫn nỗi nhớ nhà bất chợt ùa đến. Hình ảnh quê hương, bố mẹ,
anh em cứ hiện lên từng người, từng người một. Rồi bỗng nghe tiếng chim “khó khăn khắc phục”, có người thì bảo đó là tiếng chim “Chót bóp, bóp thì bóp”. Người đi trước, kẻ đến sau ai cũng thi nhau bịa ra những câu chuyện tình quanh tiếng hót một đôi chim đêm đêm thường gọi nhau ở Trường Sơn…
*
Sáng hôm sau, tôi vừa chia nắm cơm cho tiểu đội xong thì cũng có lệnh hành quân của tiểu đoàn. Sau cơn mưa rừng còn ẩm ướt, đất còn nhão, đường trơn trượt, mờ sáng đã có chiến sĩ ngã uỵch lấm lem cả ba lô. Đại đội tôi đi trước, đến thân cây đổ chặn lối ai bước lên bậc thang cũng nhận ra hai dòng chữ khắc sâu vào thân cây: “Lê Thị Ngà. Em bây giờ là của cả đoàn quân”. Nhiều chiến sĩ tỏ ra thích thú, có người còn nằm dọc ôm lấy thân cây ướt sượt mà nhoài qua dòng chữ. Không ai biết tác giả của hai dòng chữ ấy nhưng chuyện tình của “Cảnh si” thì ai cũng thuộc. Tôi đi cuối đội hình, vừa bò qua thân cây đổ thì thấy “Cảnh si” đứng đó. Dường như cậu ta nán lại để chờ tôi. Thấy tôi, “Cảnh si” nói mà như quát: “Chỉ có cậu mới bày ra cái trò này!”. Tôi cười và thú thật: “Đúng rồi, trước đây Ngà là của riêng cậu, còn bây giờ cậu thấy đấy, cả đoàn quân muốn qua ai cũng phải “ôm” Lê Thị Ngà vào lòng. Ngà không còn là của riêng cậu nữa rồi!”.
Từ đó cả tiểu đoàn ai cũng biết và thuộc câu thơ ấy. Càng đi sâu vào chiến trường “Cảnh si” càng nhận ra ở nơi bom rơi đạn lạc, gian khổ, khó khăn những người lính không giữ cái gì cho riêng mình cả, kể cả những mối tình sâu kín nhất.
ĐÊM GIAO LƯU VĂN NGHỆ “BÊN ĐƯỜNG HÀNH QUÂN”
M
ờ sáng khi cánh rừng còn ẩm ướt sau một đêm mưa như trút, những con suối cạn bên sườn đồi trạm nghỉ nước vẫn còn chảy xiết và hung dữ. Lối mòn hành quân còn những thân cây to đổ chắn ngang đường sau trận bom B-52 ngày hôm trước. Hậu quả của trận bom khiến nhiều cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn tôi đang hành quân vào tư tưởng hoang mang. Tối nay chúng tôi sẽ dừng chân ở một trạm nghỉ trên cung đường giữa hai trạm nghỉ liền kề. Thông thường các trạm nghỉ yên tĩnh hơn các trạm bộ, vì chức năng nhiệm vụ của trạm chủ yếu là đưa đón bộ đội ra vào dừng chân trên chặng đường hành quân. Do tâm lý ám ảnh khi lần đầu tiên chứng kiến một trận bom mà hậu quả của nó rất nặng nề nên khi đến trạm nghỉ đầu tiên của cung đường giữa hai trạm, chỉ huy đoàn hành quân quyết định cho bộ đội nghỉ hai ngày thay kế hoạch nghỉ lại một đêm trước đó.
Sau một đêm nghỉ ngơi, gần trưa hôm sau không biết sáng kiến của ai tiểu đoàn triệu tập những chiến sĩ có khả năng ca hát thành một đội văn nghệ tập vội để chuẩn bị giao lưu với Đội văn nghệ liên danh Trạm giao liên - Thanh niên xung phong. Không ai nói với ai nhưng chúng tôi hiểu đây là giải pháp tâm lý của chỉ huy đoàn hành quân sau những gì chúng tôi chứng kiến sự tàn phá của bom đạn trên đường ra trận. Anh Bình được chỉ định làm đội trưởng đội văn nghệ tiểu đoàn tôi. Bình là sinh viên năm cuối khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh. Quê anh ở Quảng Bình có giọng nói đậm chất miền Trung, anh lại là người yêu thích thơ ca và có khả năng ca hát. Sau khi trực tiếp gặp gỡ đội trưởng liên đội văn nghệ Trạm giao liên - Thanh niên xung phong về, anh Bình tập trung hơn mười “chiến sĩ
văn nghệ” của tiểu đoàn tôi để tập luyện. Đội văn nghệ của tiểu đoàn tôi toàn con trai, được cái may là trong thời gian huấn luyện những ai có năng khiếu văn nghệ đã bộc lộ hết nên anh Bình chỉ việc gọi tên từng người.
Trước khi chúng tôi phân công tiết mục để tập, anh Bình cho biết ở trạm giao liên này có một đơn vị thanh niên xung phong, đội văn nghệ liên danh của họ chủ yếu là nữ. Do chúng tôi chưa có thời gian tập luyện nhiều nên hai đội trưởng thống nhất nội dung biểu diễn chủ yếu lấy giao lưu là chính, động viên các anh bộ đội trên đường hành quân vào tuyến lửa. Các cô gái ở đây đa phần là người miền Trung trở vào nên ngoài hát đơn ca, đồng ca họ rất thích hò đối đáp. Hò đối đáp là hình thức văn nghệ dân gian xuất phát từ trong lao động sản xuất. Bên nữ hò bên nam đối hoặc ngược lại. Các sinh viên văn nghệ phải vắt óc nhớ lại các câu vè, câu hò đối vùng miền Trung để sẵn sàng biến tấu đối đáp với các cô gái giao liên, nữ thanh niên xung phong được cho là rất bạo miệng.
Đó là một đêm giao lưu văn nghệ rất đáng nhớ. Tiểu đoàn chúng tôi ăn cơm sớm hơn thường ngày. Họ đến bãi biểu diễn từ sớm, có phụ nữ nên anh nào cũng ăn mặc chải chuốt, tươm tất. Thường ngày hành quân chỉ mặc áo cộc, quần đùi đêm nay anh nào cũng lôi chiếc quần dài dưới đáy ba lô ra mặc. Nhiều chiến sĩ quần nhăn nhúm vuốt mãi cũng không phẳng nhưng mặc vào cứ ngắm nga ngắm nghía.
Sân khấu của đêm diễn là một gò đất sát sườn đồi nhìn xuống bãi đất phẳng. Chắc có lẽ ở trạm cũng thường xuyên có giao lưu văn nghệ giữa trạm giao liên với đơn vị thanh niên xung phong nên khu vực biểu diễn đã sẵn có. Trên sân khấu chỉ che vải tăng và bạt chủ yếu không cho ánh đèn lọt qua tán lá rừng già, phòng máy bay trinh sát OV-10 của địch bất ngờ đến.
Trước giờ biểu diễn khán giả đến chật cả bãi, toàn bộ tiểu đoàn
tôi và số còn lại là cán bộ, chiến sĩ trạm giao liên và đơn vị thanh niên xung phong. Đúng giờ hai đội văn nghệ cùng có mặt trên sân khấu cúi chào khán giả. Trang phục của họ chính là bộ quân phục thường dùng hàng ngày. Các cô gái cũng mang lên sân khấu gương mặt mộc, giữa chiến trường không ai biết phấn son là gì.
Cô gái dẫn chương trình là một nữ chiến sĩ giao liên. Cô vừa xuất hiện chào khán giả thì cả sân bãi đứng lên, vì quy định nên không ai dám la hét nhưng họ vỗ tay như pháo. Khi khán giả đã ngồi bệt xuống rồi mà nhiều chiến sĩ tiểu đoàn tôi vẫn đứng ngây giữa bãi như trời trồng. Hình như lần đầu tiên trong đời họ nhìn thấy một cô gái vận bộ đồ quân phục đẹp đến như vậy.
Sau màn đồng ca của liên đội Trạm giao liên - Thanh niên xung phong là những tiết mục đơn ca, song ca xen lẫn giữa các đội. Tiết mục nào cũng được bộ đội ta đón chào nhiệt liệt. Nhưng đến phần các cô gái khởi xướng hò vè, hát đối thì quả là một cuộc đấu trí giữa hai đội thật sự. Bên kia ba cô gái, bên hành quân ba chàng trai, sau lưng họ là hai đội trưởng của hai đội (có nhiệm vụ nhắc bài).
Một cô gái cất tiếng hò:
Hò ơ… Anh ơi lỡ hẹn một giờ
Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm… Ơ hò.
Biết không có trong “kịch bản”, Bình nhắc:
- Vẫn chờ, bịa ra mà đối…
Bên hành quân:
Ơ…hò…Trăm năm anh vẫn đợi chờ
Ngàn năm anh vẫn chỉ mơ một người.
Hò…ơ…là hò
Cả sân vỗ tay như sấm, cô gái vẫn chưa buông tha:
Hò ơ… Mình ơi, tôi gọi là nhà
Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi.
Câu này có trong sách nhưng vế đối thì lại chưa ai đối. Bên hành
quân đang lúng túng thì anh Bình bước lên:
Ơ…hò…Nhà tôi như nước đang sôi
Tôi vồ vập uống bỏng môi nhà mình
Là hò…ơ…hò.
Bộ đội lại đứng cả lên vỗ tay như sấm. Sân khấu bỗng nóng lên vì có thêm mấy anh bộ đội sinh viên bước lên có vẻ như sẵn sàng khiêu khích các cô gái đang hò. Các cô gái thì hò những câu hò có trong sách vở đã thuộc, còn các anh sinh viên bộ đội thì cứ bịa ra mà đối. Vì vậy các cô gái cho rằng cứ đà này thì họ hết sách nên hội ý. Một cô gái bước ra, không hò mà cũng không hát:
Nghe các anh hay chữ em thử hỏi đôi lời:
Đố anh có biết con mèo mấy lông?
Nghe vậy Bình nói nhỏ sau lưng: “Câu này cũng có trong sách nhưng “nó” hát như thế thì cậu nào hát lại được!”. Bên hành quân gần như tắc tị, thì ra dù sinh viên hay chữ đến đâu cũng thua những cô gái thanh niên xung phong, giao liên nổi tiếng tinh nghịch.
Sau mấy giây im lặng trên sân khấu, cô đội trưởng liên đội văn nghệ thấy cần phải “bẻ ghi” đêm giao lưu sang hướng biểu diễn. Tự cô ngâm bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của nhà thơ Phạm Tiến Duật và ra đề cho đội hành quân biểu diễn một bài thơ về chủ đề Trường Sơn.
Thơ về Trường Sơn thì nhiều nhưng trong một không khí vừa vui vừa lại bị động nên không ai thuộc cả một bài thơ. Chả nhẽ đọc hay ngâm một đoạn thì không xứng mặt anh tài. Thế là anh Bình chỉ định tôi, vì anh biết đêm hôm trước ở trạm nghỉ tôi có viết mấy khổ thơ Trường Sơn trong nhật ký. Bình còn đùa tôi: “Cậu đọc thơ tự sáng tác mới trên cơ họ”. Thế là tôi đành phải tự chỉnh lại bài thơ nhật ký thành bài: “Thơ cho em trên đường Trường Sơn” để đọc.
Chiều nay anh tạm dừng chân
Củi khô chụm đỏ giữa rừng khói say
Cơm sôi sương trắng ngất ngây
Mấy chàng lính trẻ mắt cay khói nhòa
Hoàng hôn gọi chú tắc kè
Trường Sơn thả bóng đêm về bâng khuâng.
Mênh mông bát ngát rừng trăng
Qua khe lá gặp chị Hằng dạo chơi
Võng anh treo cạnh lưng đồi
Nhà tăng thấp thoáng như trời sao giăng
Sao giăng thấp thoáng ánh trăng
Trôi vào giấc ngủ êm đằm tiếng em.
Đến bây giờ tôi vẫn không lý giải được tại sao giữa một đêm u tịch, những cánh rừng hoang tàn chết chóc sau trận bom kinh hoàng mà tôi vẫn viết được bài thơ như thế. Chỉ biết rằng, hai ngày sau đó cả tiểu đoàn tôi hành quân ra phía trước dường như không còn bị ám ảnh bởi trận bom rải thảm nữa. Chuyện vui rôm rả nhất sau đó chỉ là cuộc giao lưu văn nghệ đặc biệt ở trạm giao liên và những cô gái giao liên, thanh niên xung phong xinh đẹp nhưng vô cùng tinh nghịch.
CHUYỆN “NẤU KHÔNG KHÓI” TRÊN ĐƯỜNG HÀNH QUÂN
S
au cái đêm giao lưu văn nghệ với đội văn nghệ Trạm giao liên - Thanh niên xung phong tinh thần của bộ đội khác hẳn buổi sáng hành quân xuất phát từ hôm trước. Những câu chuyện vui, chuyện tiếu lâm nổ ran trên đường không dứt. Người lính nào cũng chọn mang theo mình một gương mặt của cô gái giao liên hay cô thanh niên xung phong ấn tượng nhất. Chúng tôi lại hành quân tiếp đến một trạm nghỉ tiếp đó.
Khác với những lần dừng nghỉ trước đây, chiều nay treo võng rồi hình như chiến sĩ nào cũng lôi quyển nhật ký ra. Người thì viết tiếp những dòng đêm hôm trước chưa kịp viết, người thì viết thêm những câu chuyện vừa mới có được trên chặng đường vừa đi qua. Chỉ vất vả nhất là các chiến sĩ trong tổ trực nhật của các tiểu đội. Họ phải tìm vị trí để đặt bếp nấu cơm. Từ hôm chứng kiến hậu quả của trận bom, dừng chân ở đâu cán bộ hành quân đều quán triệt việc “nấu không khói” cho đơn vị. Biết rồi vẫn phải nghe, nghe rồi cũng phải nghe lại.
Những năm chiến tranh, người nào bước chân vào quân ngũ trong huấn luyện cũng thuộc làu câu “Đi không dấu, nấu không khói, nói không to”. Những ngày đơn vị tôi huấn luyện ở xã Nghĩa Hội chúng tôi gặp rất nhiều tình huống dở khóc dở cười quanh chuyện này. Tình huống chủ yếu là chuyện “nấu không khói”. Cứ xong một đề mục huấn luyện là đơn vị lại đi dã ngoại. Huấn luyện dã ngoại là bài học thực hành sát chiến đấu nhất nên đơn vị nào huấn luyện chiến sĩ mới bổ sung cho chiến trường cũng rất chú ý và tăng thời gian huấn luyện dã ngoại. Lính mới rất ngại phải đi huấn
luyện dã ngoại nhưng công bằng mà nói hình thức huấn luyện này rất hiệu quả vì sát thực tế chiến đấu. Khổ nhất vẫn là mấy anh nuôi quân.
Có những buổi hành quân chỉ dừng trú quân giữa trưa trong khoảng vài giờ đồng hồ nhưng vẫn phải thực hiện tình huống vừa đào bếp Hoàng Cầm, vừa nấu cơm cho bộ đội. Có những lần gạo vừa đổ vào chảo chưa kịp sôi, khói lên nhiều, cán bộ huấn luyện phát hiện thấy bất ngờ đến cắt tình huống, báo động di chuyển. Thế là chỉ một bếp tiểu đội lộ khói nhưng tất cả đại đội phải di chuyển sang một địa điểm khác. Lại đổ gạo ướt vào túi, mang đến địa điểm mới thì gạo đã nẫu ra chỉ cần cho vào nước sôi đã sền sệt như cháo. Lại có lần cơm đang sôi, khói lên nhiều quá, lộ đơn vị đang trú quân, cán bộ huấn luyện đổ mấy xô nước vào đường dẫn khói làm bếp Hoàng Cầm tắt ngấm. Lại chạy, lại khênh cả chảo cơm đến một vị trí trú quân mới. Có lần tôi đã chứng kiến một chiến sĩ nuôi quân bị cắt tình huống nấu cơm vừa tức tưởi khóc vừa cự lại cán bộ huấn luyện: “Sao ác thế, trời đánh còn tránh bữa ăn!”. Lúc đó anh Ưng - Chính trị viên phó đại đội đến vỗ vai cậu chiến sĩ nuôi quân: “Không ác đâu, đó là cách để sống, để tồn tại mà chiến đấu ở chiến trường đấy, đồng chí ạ”.
Chiều nay khi dừng trú quân ở trạm giao liên tôi chợt nhớ lại chuyện “nấu không khói” ngày ở Nghĩa Hội. Tôi và hai người bạn là Tình, Cống vừa đi tìm vị trí đặt bếp vừa nhắc lại chuyện cũ và cũng thầm nhắc nhau bài học ấy vẫn còn nguyên mới. Chúng tôi xuống sườn đồi, cạnh một con suối để tìm nơi đặt bếp. Trong quá trình hành quân thường chỉ dừng một hoặc hai đêm nên chúng tôi không đào bếp Hoàng Cầm. Bếp đặt nổi trên mặt đất che kín xung quanh và lợp lá để vừa tránh mưa vừa tránh ánh sáng lộ ra ban đêm. Phải chọn củi thật khô để không có khói. Một người nấu, một người phải cầm cành cây to sum suê lá, khói lên thì phải xua cho tan ngay trên
mái lợp. Những cái bếp tạm trên đường hành quân ấy nấu ban ngày thì lo sợ khói lên, nấu ban đêm thì sợ ánh sáng lọt ra. Vì vậy cái bếp phải che chắn thật kín và chọn chỗ đặt bếp vừa đủ thoáng để nhanh tan khói nhưng lại đủ kín để chắn ánh sáng lửa lọt ra.
Có một chuyện xảy ra ở trạm giao liên thứ hai này tôi còn nhớ như in. Xế chiều đến trạm, sau khi che tăng mắc võng xong mấy chiến sĩ trong trung đội tôi treo hăng gô lên hai cành cây cắm chéo và đốt lửa đun nước sôi để pha sữa bột. Một chiến sĩ châm bếp, hai chiến sĩ cầm hai cành lá, đứa thì quạt ngang, đứa thì quạt dọc cho khói tan nhanh trước khi bay lên cao. Hăng gô nước quá đầy khi sôi lại không kịp rút củi, nước trào ra khói bay đặc cả một vùng, quạt mấy cũng không tan được. Đúng lúc ấy lại có chiếc máy bay trinh sát OV-10 của địch bay đến. Thế là cả đại đội bị báo động di chuyển đến một vị trí trú quân khác. Lại cuốn tăng võng nhồi nhét vội vào ba lô, khổ nhất vẫn là các chiến sĩ trực nhật, nuôi quân, có bếp vừa đổ gạo vào nồi. Đại đội vừa di chuyển ra khỏi vị trí trú quân thì chiếc OV-10 lượn lờ vài vòng rồi mất hút. Có lẽ không phải chúng phát hiện ra vị trí bộ đội ta trú quân mà chỉ bay trinh sát theo quy luật.
Đêm ấy khoảng 10 giờ đại đội mới đến vị trí tạm trú quân. Các tổ trực nhật vừa nấu cơm tối cho bộ đội vừa nấu cơm nắm cho sáng hôm sau hành quân. Có lẽ đêm ấy họ đã thức trắng.
THI ĐÀO BẾP HOÀNG CẦM VÀ “TÌNH HUỐNG SÁT HẠCH CỦA TRỜI”
N
hững ngày chờ đợi về Trung đoàn 6 sao mà dài thế! Sau hai tháng hành quân chúng tôi ai cũng muốn được chính thức về đơn vị mới của mình cho dù ai cũng ý thức được sự ác liệt nơi trận mạc đang đón đợi chúng tôi sắp tới. Nhiều chiến sĩ Binh trạm 42 thấy chúng tôi sốt ruột nên nói thật lòng: “Đang là mùa mưa, nếu có về đơn vị chiến đấu thì cũng chỉ đi gùi gạo, gùi đạn thôi, ở đây dưỡng sức một vài tuần cũng được”. Công bằng mà nói ở trạm nghỉ những ngày này cũng vui thật. Quân vào, quân ra, quân lên, quân xuống như đang trẩy hội. Vui nhất là ở trạm luôn luôn có các cô gái giao liên và nữ du kích, bộ đội địa phương hậu cứ đóng quân gần đó. Ở chiến trường gặp nhau ai cũng muốn bắt chuyện, ai cũng muốn quen nhau. Các anh bộ đội miền Bắc thích nhất được nói chuyện với các cô giao liên, các nữ du kích từ đồng bằng Thừa Thiên - Huế lên. Các cô gái có giọng nói cứ cất lên là như hút hồn các anh bộ đội miền Bắc. Giọng con gái Huế sao cứ ngọt như mía đỏ Hòa Bình!
Sau cuộc thi “Nấu cơm giữa trời đang mưa”, dường như cán bộ chỉ huy hành quân và các cán bộ trạm nghỉ thấy cần nghĩ thêm một cuộc thi khác nữa. Cuộc thi không chỉ vui, bổ ích mà khiến cho thời gian chờ đợi của chúng tôi không uổng phí. Có lẽ thế chúng tôi lại chuẩn bị thực hành “Thi đào bếp Hoàng Cầm”.
Do có thời gian nên cuộc thi này tổ chức bài bản hơn. Nếu cuộc thi “Nấu cơm giữa trời mưa” đầu bài rất ngắn gọn thì cuộc thi này được chia làm hai bước và hai lần thực hành.
Bước 1: Đào bếp cấp trung đội, chuẩn và đẹp, không tính thời gian.
Bước 2: Đào bếp cấp trung đội, chuẩn và đẹp, thực hành nấu một bữa cơm tối cho trung đội.
Yêu cầu của Ban tổ chức là hai bước thi trong hai ngày khác nhau. Mỗi trung đội chia thành hai tổ, tổ đào bếp ở bước một ngày thứ nhất không được tham gia tổ đào bếp ở bước hai ngày thứ hai. Đó cũng là cách để cho chúng tôi ai cũng thành thạo hơn trước khi về đơn vị chiến đấu.
Ngày thứ nhất chủ yếu là đào bếp có tính chất biểu diễn và kiểm tra lại khả năng thực hành của bộ đội là chính. Vì vậy Ban tổ chức chọn bốn vị trí tương đối thoáng cạnh sườn đồi bên kia suối của Binh trạm. Mỗi trung đội bốc thăm một vị trí. Do không tính thời gian nên chúng tôi cũng nhẩn nha vừa đào bếp vừa tán chuyện. Anh nào khéo tay thì gọt giũa thành và mặt bếp. Vị trí được coi như mặt tiền để giám khảo đánh giá và chấm điểm. Thời gian hoàn thành một cái bếp Hoàng Cầm đủ nấu cho một trung đội, đại đội cũng mất vài tiếng đồng hồ. Riêng Trung đội 2 thì mất cả buổi sáng vì khi gạt mặt bếp xong đào xuống gần tận đáy bếp thì vấp phải một hòn đá to. Cũng là một tình huống ngoài dự kiến nên ban giám khảo không cho đổi vị trí khác. Thế là cả một nửa trung đội hì hục khoét hết đất để lôi tảng đá ra khỏi dưới vị trí đặt nồi. Lôi được hòn đá thì đất lại vỡ ra nên phải đóng cọc đắp đất gia cố lại vách đất ngăn cách hai vị trí đặt nồi. Cũng may ngày hôm ấy trời lại nắng đẹp nên không trung đội nào gặp phải sự cố. Ở Trường Sơn vào mùa mưa hôm nào có cả một ngày trời nắng đẹp là hiếm. Đào xong cái bếp xuống vã nước suối lên mặt ngửa lên nhìn thấy bầu trời xanh ngăn ngắt ai cũng vui. Bóng người đi qua đi lại trên bãi, nhất là bóng hồng thấp thoáng sau cửa sổ những ngôi nhà lá của trạm nghỉ không khác nào mục tiêu di động của những đôi mắt si tình. Chả thế mà các anh bộ đội đi ra đều ví mỗi trạm nghỉ là một thủ đô của người lính.
Ngày thứ hai thì hoàn toàn khác với ngày thứ nhất. Vì muốn bộ
đội đào bếp Hoàng Cầm đúng với thực tế chiến đấu nên đúng bốn giờ chiều Ban giám khảo mới bấm nút thực hành cho tổ dự thi. Nếu như hôm trước vũ khí của tổ thực hành chỉ cần chiếc xẻng và chiếc dao găm thì hôm nay tổ thực hành còn phải chuẩn bị xoong, nồi, gạo, củi, thực phẩm để khi hoàn thành bếp là nấu cơm luôn cho trung đội. Mặc dù không ấn định thời gian nhưng do yêu cầu phải nấu cơm nên không ai giục ai, cả bốn trung đội hì hục đào khoét để nhanh chóng hình thành cái khuôn bếp. Khi mặt bếp lộ ra và chiếc xoong 12 đã đặt lọt vào miệng bếp, một số chiến sĩ đã mang gạo, thực phẩm đến sẵn sàng đỏ lửa. Cả bốn bếp của bốn trung đội dường như không ai quan tâm đến bếp của ai nữa. Điều quan trọng lúc này là phải nhóm được củi lên. Ai cũng ngước mặt nhìn lên bầu trời đang tối sầm lại, bóng đêm đang dần ập xuống. Mấy anh em của trung đội tôi đã đốt củi hong sẵn bên ngoài chờ đặt xoong lên miệng bếp là đùn củi cháy sẵn vào. Nhìn ngang các bếp đã đỏ lửa, có lẽ không ai vui bằng những “thí sinh” chiều nay.
Nhưng niềm vui chưa được tày gang thì trời bỗng như sập xuống. Mây đặc như vớt được lấp kín cả những khoảng trống nhỏ nhoi của tán rừng già. Khi nồi cơm đang sôi thì mưa đổ xuống như vỡ bể nước. Chỉ một thoáng các bếp tắt lịm, nước trên đồi tràn xuống rãnh dẫn khói trở thành ống dẫn nước xuống tống cả củi hai bếp ra ngoài. Cả bốn trung đội phải dùng tăng che trên nồi cơm khênh chạy về bếp trạm bộ nấu tiếp.
Sáng hôm sau Ban giám khảo tập hợp cả đại đội đi xem lại tám cái bếp Hoàng Cầm đã đào trong hai ngày qua. Sau một trận mưa lớn sáu cái bếp đã bị xóa sạch, chỉ còn lại hai bếp tương đối nguyên vẹn. Nguyên nhân của hai bếp còn nguyên vẹn rất dễ hiểu, dễ nhìn thấy. Đó là các chiến sĩ đã đào rãnh dẫn khói rộng, sâu và lấp đất kín trên bề mặt. Phía trên hai lỗ tản khói được đào rãnh dẫn nước cũng rộng và sâu. Vì vậy khi mưa lớn nước tràn xuống rãnh dẫn
nước thoát ra hai bên, không chảy theo ống khói xuống bếp. Đó là hai bếp duy nhất đã đào đúng quy cách, đúng yêu cầu của một bếp Hoàng Cầm.
Cuộc thi ấy Ban giám khảo không chấm điểm cho trung đội nào mặc dù có thể coi là thất bại nhưng ai cũng vui vì rút được một bài học rất thực tế. Chúng tôi ai cũng nói Ban giám khảo không chấm điểm nhưng trời đã “sát hạch”. Một cuộc “sát hạch” trời không báo trước!
CƠN SỐT RUN CĂN HẦM LÓT LÁ… T
rong bài thơ “Em đừng yêu anh” của tôi có một khổ thơ: “Những năm tháng ở Trường Sơn/Cơn sốt run căn hầm lót lá/ Những năm tháng đói quay, đói lả/ Đào củ măng rừng thoi thóp suốt mùa mưa”. Khổ thơ được vài nhà thơ cho là hay nhất trong bài thơ đậm chất bi quan và bi lụy, thiếu sức chiến đấu. Cả bài thơ chỉ được mấy câu này khắc họa đúng với hình ảnh của một người lính Trường Sơn đang mắc bệnh sốt rét nhưng vẫn phải chiến đấu để chống chọi lại nó. Nhưng tôi lại không trách mình vì tôi, một người lính Trường Sơn da vàng mắt trắng, môi thâm sau nhiều năm bị sốt rét rừng giày vò không còn tự tin vào mình nên khuyên người bạn gái như thế. Không một người lính Trường Sơn nào lại không bị một lần sốt rét. Trên đường Trường Sơn vào mặt trận hình ảnh của đội quân đi vào khác với hình ảnh của đội quân đi ra. Đội quân đi ra là đội quân mang trong mình ký sinh trùng sốt rét. Kể cả những thương binh khập khiễng quấn đầy băng trắng. Không ít người đi được một vài trạm giao liên lại phải vào bệnh xá điều trị sốt rét.
Mà cũng lạ thật người bị sốt rét cơn như là người giả vờ ốm. Cả ngày khỏe mạnh, gùi đạn, gùi gạo, đào công sự như lực sĩ nhưng đến chiều bỗng dưng run cầm cập quấn vào người bao nhiêu là màn sô, tăng, võng vẫn rét. Rét từ trong rét ra, giống như có một luồng khí rút hết hơi người trong ruột gan mà thổi tống ra ngoài cơ thể. Khi lên cơn sốt uống thuốc kí ninh là đỡ, cố gắng ăn rồi nằm nghỉ qua đêm, sáng hôm sau lại bình thường, đến chiều lại sốt. Cái chu kỳ ấy cứ lặp đi lặp lại cả tháng, cả năm. Ở chiến trường người bị sốt rét chỉ điều trị thuốc ký ninh loại viên uống và loại tiêm. Người nặng thì tiêm, tiêm mông là chủ yếu. Khi tiêm phải nằm úp xuống, y tá
cắm một cái lút cả kim tiêm vào mông. Có người tiêm nhiều quá cơ mông chai cứng lại. Nhưng như vậy vẫn không sợ, sợ nhất là sốt rét ác tính. Người bị sốt rét ác tính có triệu chứng rối loạn hành vi, rối loạn ý thức, đôi khi co giật, liệt người…
Chúng tôi hành quân vào Trường Sơn được khoảng một tháng thì có chiến sĩ đã mắc sốt rét, lần đầu không biết cứ tưởng là bị cảm nhưng đến trạm nghỉ quân y họ nhìn thấy là phát hiện ra sốt rét liền. Có chiến sĩ bị giữ lại trạm giao liên nhưng qua một đêm ngủ dậy thấy khỏe như không lại vác ba lô theo đoàn hành quân. Ban đầu mới một vài chiến sĩ thì dễ, càng đi vào sâu số chiến sĩ bị mắc sốt rét càng tăng, có người thì bộ đội thay nhau cáng, có người đành phải nằm lại bệnh xá của trạm giao liên.
Sốt rét là thứ bệnh phổ biến ở Trường Sơn, là kẻ thù cùng chung giường, chung võng, chính “nó” đã loại khỏi vòng chiến đấu nhiều cán bộ chiến sĩ của ta khi chưa kịp cầm súng trên mặt trận.
Ca sốt rét ác tính đầu tiên tôi chứng kiến trên đường hành quân là ca sốt rét của anh Chuyên. Chuyên quê ở Yên Thành, Nghệ Tĩnh (nay là Nghệ An). Chuyên có cái sẹo vắt từ bên này sang bên kia cằm giống như bộ râu. Di chứng của cái nhọt bị phẫu thuật, cái nhọt quê tôi gọi nôm na là nhọt mạch lươn, nó làm cho gương mặt điển trai của anh kém đi nhiều “chân kính!”. Khi còn ở đơn vị huấn luyện, Chuyên là chiến sĩ văn nghệ vừa hát hay vừa thổi sáo giỏi. Nhất là thổi sáo, tiếng sáo anh cất lên nghe vừa tha thiết vừa ríu ra ríu rít như có một vườn chim. Trên đường hành quân Chuyên không hát, chỉ thổi sáo. Những đêm ở trạm nghỉ anh lôi sáo ra thổi, chiếc sáo mang theo là chiếc sáo mà như anh kể có nó từ cái thuở ngồi trên lưng trâu. Trước khi bị sốt rét ác tính Chuyên đã bị sốt rét cơn nhiều ngày nhưng anh không chịu nằm gửi lại ở bệnh xá của trạm giao liên. Có lần sốt đơn vị gửi anh ở bệnh xá, đến giờ nghỉ hành quân dọc đường đã thấy anh bám lẽo đẽo sau đội hình. Anh bảo nằm ở
bệnh xá nhớ đơn vị và buồn không chịu được.
Hôm ấy nghỉ ở trạm giao liên hai ngày chúng tôi đi nhận gạo, thực phẩm bổ sung cho đủ cơ số, Chuyên thì sốt li bì nằm bẹp như dán người trên võng. Sáng sau hành quân vẫn không thấy đỡ, đại đội gửi lại bệnh xá thì anh không chịu vì vậy chúng tôi cắt nhau cáng anh đi theo. Đi được nửa chặng đường thì Chuyên bỗng giật đùng đùng trên võng. Mấy chiến sĩ đè xuống cho y tá tiêm ký ninh, nhưng chỉ được một lúc thì Chuyên lại co giật sùi cả bọt mép, mắt trợn trừng trắng dã. Y sĩ đi bên cạnh lại lau mồ hôi, đắp khăn ướt cho anh và lại tiếp tục cáng anh đi. Một lúc sau thấy Chuyên nằm yên tưởng anh ngủ chúng tôi yên tâm đi đến giờ nghỉ giải lao. Khi đặt Chuyên xuống thì không ngờ anh đã tắt thở từ lúc nào. Cả đoàn quân lặng đi, không ai nói gì. Chúng tôi cáng Chuyên đến trạm nghỉ và mai táng anh bên cạnh những ngôi mộ nằm kề nhau sát đường mòn. Cả đêm ấy nhiều đứa trong đại đội không ngủ.
Ở Trường Sơn bộ đội bị sốt rét ác tính hy sinh trên đường hành quân hoặc ở hậu cứ đơn vị chiến đấu là chuyện thường gặp, nhất là vào mùa mưa bộ đội rút ra hậu cứ để củng cố lực lượng. Nghe nhiều trường hợp nhưng cơn sốt ác tính cướp đi Chuyên trên đường hành quân cứ ám ảnh tôi mãi. Và lần thứ hai tôi lại gặp một trường hợp hy sinh thật hy hữu, anh hy sinh mà không ai biết và có lẽ hy sinh vì sốt rét ác tính.
Ngày ấy sở chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn tôi đóng quân tại thung lũng dưới chân điểm cao 450. Cách sở chỉ huy tiểu đoàn bộ đóng quân chừng một giờ đi rừng là một đơn vị bộ đội địa phương đang phối hợp chiến đấu với Trung đoàn 6. Mỗi lần chuyển công văn điện khẩn đến đơn vị bộ đội địa phương chúng tôi phải đi qua một con đường rừng khấp khuỷu và rất cheo leo chạy dọc dài suốt bình độ 229. Đó là con đường đi trong rừng già nhiều vắt, muỗi, rắn xanh và cả thú dữ, nhưng đáng ngại nhất là các cuộc chạm súng giữa
thám báo địch và trinh sát của ta. Hôm ấy cũng như mọi lần tôi chuyển công văn cho đơn vị bộ đội địa phương cũng đi trên con đường mòn độc đạo dọc bình độ 229. Tôi lội thật nhanh theo dòng nước chảy xiết của sông Tà Vệ vào mép rừng. Đây là đoạn sông chia cắt hai cánh rừng già và lại có con đường vận tải chạy dọc sông nên bọn thám báo, biệt kích hay mật phục. Phát hiện thấy ta, chúng gọi pháo hoặc hỏa lực trên điểm cao 450 bắn xuống. Hàng ngày đi qua đoạn sông này chúng tôi phải vượt thật nhanh để lẫn vào đường mòn trên bình độ 229.
Tôi đi được khoảng mươi phút thì vướng vào một tổ ong muỗi, khu rừng này rất nhiều loại ong, loại ong độc như ong đất, ong vò vẽ. Cả đoàn ong muỗi bu vào mặt tôi, loại ong này không độc lắm, nó đốt như kiến cắn nhưng nhiều con đốt khiến cho người bị đốt có thể mặt sưng vù, mí mắt tịt lại không mở ra được. Bị ong muỗi đốt bất ngờ tôi vội chạy xuống con suối dưới chân đồi ngụp sâu xuống nước. Phải nhiều lần ngụp lặn xuống sâu thì bọn ong muỗi không đốt được mới chịu bay đi.
Tôi vuốt mặt cắn răng chịu cơn đau vạch một lối khác đi lên đường mòn để tránh đàn ong muỗi. Bỗng tôi giật mình phát hiện ra dưới khe núi có một chiếc võng treo lệch giữa hai thân cây. Nhìn chiếc võng và cách buộc dây tôi đoán chắc đó là bộ đội ta rồi nhưng tôi vẫn cẩn thận quan sát để tiếp cận gần. Vừa dò từng bước tôi vừa tự hỏi tại sao người ngủ qua đêm mà lại không mắc tăng che mưa che gió? Rồi tôi lại nghĩ có lẽ anh bộ đội này cũng là lính trinh sát hay liên lạc như tôi thường đi một mình, mệt quá treo võng nghỉ một lúc. Tôi phục mãi vẫn không thấy người trên võng cựa quậy hay trở mình nên sinh nghi. Biết đâu mình mắc bẫy nghi binh của biệt kích địch. Vì vậy tôi cẩn trọng quan sát xung quanh, chờ đợi và phán đoán tình hình. Nhưng chờ mãi, đợi mãi tôi vẫn không phát hiện thêm điều gì. Tôi lại dò dẫm từng bước tiến gần chiếc võng và
hoảng hốt nhận ra một chiến sĩ đã chết trên võng không biết tự bao giờ. Có lẽ rất lâu rồi, qua mưa, qua nắng cơ thể anh đã phân hủy chỉ còn hài cốt trong bộ quân phục. Không cần phải suy đoán nữa, chắc chắn người lính hy sinh trên chiếc võng đang đi làm nhiệm vụ thì bất ngờ cơn sốt ác tính ập đến. Anh chỉ kịp treo võng nằm và mãi mãi không dậy nữa…
Sốt rét Trường Sơn như những cơn ác mộng với người lính. Khi cầm bút ghi lại những câu chuyện này tôi vẫn có cảm giác những ngón tay cứ run run theo từng nét chữ. Có mùa mưa dưới chân dốc H15, hay trên A Vao, A Lưới nhiều lần tôi đi đào măng rừng cơn sốt cũng bất chợt đến. Những lúc như thế tay cầm chiếc xẻng cũng không nổi, đồng đội ôm nhau dìu về hậu cứ. Nằm trong hầm đắp lên người đống chăn áo rồi mà cơn sốt vẫn rung căn hầm chữ A bần bật.
NHÌN LÊN DỐC TRUỒI…
N
ăm 1990, khi ấy tôi đang là phóng viên Phòng biên tập Quân sự, Báo Quân đội nhân dân, tôi đi cùng anh Phan Khắc Hải, Tổng biên tập vào Huế dự Hội nghị Tổng kết công tác xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh phía Bắc Quân khu 4. Vào đến đất Huế trời đã xế chiều, bỗng anh Hải bảo lái xe dừng lại bên vệ quốc lộ 1. Chúng tôi xuống xe, tôi nhận ra gương mặt anh bần thần, rồi anh bảo: “Thắng có nhận ra phía tây là dốc Truồi không, địa bàn hoạt động của Trung đoàn 6 đấy!”. Anh Hải đã một thời lính chiến, lại vốn là phóng viên chiến trường tham gia hầu hết các chiến dịch quan trọng trên địa bàn Thừa Thiên - Huế trong những năm kháng chiến chống Mỹ, biết tôi là lính Trung đoàn 6 nên tôi hiểu cảm xúc của anh lúc này. Cảm xúc của một người lính, thời trận mạc ùa về bao kỷ niệm không thể nào quên được.
Tôi đứng lặng nhìn về phía mặt trời sắp lặn. Còn xa lắm nhưng dốc Truồi lại hiện lên rất rõ trên nền xanh thẫm của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Tôi như thấy trên dốc Truồi những “Cây khô, chết chẳng nghiêng đầu/Nghìn tay than cháy rạch màu trời xanh” trong bài thơ “Nước non ngàn dặm” của Tố Hữu. Ai đã từng đặt chân lên mảnh đất Thừa Thiên - Huế những năm chiến tranh chắc hẳn không dưới một lần nghe đến dốc Truồi. Dốc Truồi vừa dài, vừa dốc. Từ chân lên đi bộ cũng phải hơn một tiếng đồng hồ mới đến đỉnh. Từ đỉnh dốc Truồi nhìn thấy gần trọn thành phố Huế, nhìn thấy cả phá Tam Giang. Trong những năm dài chiến tranh khốc liệt, những người lính đứng trên núi nhìn thấy thành phố, đồng bằng là nhìn thấy quê hương. Vì vậy có những người lính đã thốt lên rằng: “Lên đỉnh dốc Truồi gặp khát vọng, thấy ước mơ!”, ước mơ đến ngày không còn
chiến tranh, ước mơ được trở về quê hương ngày chiến thắng. Nhưng trong những năm chiến tranh, dốc Truồi là con đường vận tải huyết mạch của bộ đội ta, là mục tiêu bom, pháo của địch bắn phá, nhất là vào mùa khô.
Tôi chưa bao giờ đứng nhìn dốc Truồi từ đồng bằng, nhưng nghe nói từ căn cứ pháo binh La Sơn của địch nhìn thấy dốc Truồi như trước mặt thậm chí vào mùa khô những ngày trời trong vắt, qua ống nhòm có thể thấy được bóng người di chuyển lên xuống trên dốc Truồi. Có lẽ vì thế dốc Truồi mùa khô không mấy ngày không hứng pháo địch từ căn cứ pháo binh La Sơn giội xuống. Pháo dừng bắn thì máy bay trinh sát OV-10 lại lượn lờ trên đầu, chỉ cần phát hiện quân đi là chúng gọi pháo giội xuống. Dốc Truồi giữa vùng giáp ranh như là một gạch nối đồng bằng với vùng chiến trận miền tây Thừa Thiên - Huế.
Lực lượng bộ đội đông nhất thường di chuyển qua dốc Truồi chủ yếu là Trung đoàn 6 (Phú Xuân) bộ đội chủ lực địa phương và du kích Thừa Thiên - Huế. Ngoài ra còn một số đơn vị bộ đội chủ lực từ miền Bắc hoạt động theo từng chiến dịch. Mùa khô, những thời điểm địch bắn phá ác liệt thì bộ đội, du kích địa phương rút vào hoạt động ban đêm. Có những đêm trước mùa chiến dịch quân lên, quân xuống vận chuyển đạn dược, lương thực, vũ khí… nườm nượp như trẩy hội. Nhưng dẫu quân ta khéo ngụy trang đến bao nhiêu cũng không thể che mắt địch mãi được, nhất là về mùa khô. Khi chúng nhận ra con đường huyết mạch ấy thì cuộc đối đầu giữa máy bay, pháo binh địch với quân ta ngày càng quyết liệt, chúng đưa thám báo thăm dò, chúng nống quân ra phục kích. Nhiều chuyến hàng để qua được dốc Truồi phải đánh địch mà đi. Có lẽ thế mùa mưa đã trở thành mùa vận chuyển chính cho dù con đường vắt qua dốc Truồi khó đi hơn mùa khô.
Mùa mưa quân lên, quân xuống chỉ đi ban ngày. Ban đêm đi
trong mưa trơn trượt, cây đổ bất chợt rất nguy hiểm. Những cành cây cổ thụ cháy đen do chất độc da cam hủy diệt, do bom napan đốt có thể đổ xuống đầu bất cứ lúc nào. Và đã có trường hợp hy sinh rất đáng tiếc do bị cây khô đổ.
Từ chân lên đỉnh dốc, người khỏe nhất cũng phải nghỉ ít nhất một lần giữa lưng chừng. Mỗi lần lên đỉnh dốc là một lần vui. Đặt gùi hàng xuống vươn vai hít thở bụi mưa, hơi sương vào ngực đến đâu mát lạnh đến đó. Nhất là vào ban đêm ai cũng dõi mắt xuống đồng bằng, ngắm thành phố lung linh ánh đèn. Trên đỉnh dốc Truồi không khi nào vắng người ngồi nghỉ và điểm dừng chân ấy thường lâu hơn, bộ đội và du kích gặp nhau ríu ra ríu rít. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ buổi đầu gặp lại các cô gái Pa Kô mà chúng tôi từng quen biết thời gian đơn vị đóng quân củng cố lực lượng ở A Vao. Họ là những cô gái du kích địa phương thường giúp đỡ lính tiểu đoàn bộ chúng tôi làm nương, phát rẫy, tăng gia sản xuất, di chuyển thương bệnh binh… Những cô gái Pa Kô nhỏ nhắn, khỏe mạnh và rất nhanh nhẹn. Buổi đầu gặp chúng tôi các cô gái chỉ vào từng người một chủ động giới thiệu tên: Em là Hồ Kan Hà; em là Hồ Kan Nội; em là Hồ Kan Việt; em là Hồ Kan Nam… Ban đầu chúng tôi cứ tưởng họ giới thiệu tên thật, vì người Pa Kô, người Vân Kiều thường mang họ Bác Hồ. Nhưng khi họ đồng loạt nói: “Chúng em là em gái chị Hồ Kan Lịch!” rồi phá lên cười thì chúng tôi mới biết đó không phải là tên thật của họ. Mỗi người đều tự nhận cho mình một cái tên nhưng rồi gọi mãi cũng thành quen.
Năm ấy nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ, chi đoàn thanh niên tiểu đoàn bộ chúng tôi và chi đoàn thanh niên bản A Vao cùng luyện tập văn nghệ chuẩn bị tiết mục biểu diễn phục vụ thương bệnh binh của trạm xá trung đoàn. Các cô gái đề nghị chúng tôi giúp đỡ họ một vài tiết mục múa, hát tự biên về Bác Hồ. Tôi được chi đoàn giao giúp đỡ các cô tự biên một bài hát. Tôi không hề biết một
nốt nhạc nhưng không thể từ chối “nhiệm vụ vinh dự” ấy được. Cứ thế tôi tự đặt lời và hát thuộc theo một làn điệu mình tự nghĩ ra và dạy các cô gái Pa Kô. Đến bây giờ tôi vẫn thuộc lời bài hát đó: “… Bok Hồ ơi lòng dân Pa Kô trong như con suối, vững như cây ngàn. Người Pa Kô một lòng đi theo Đảng của Bok Hồ. Sáng hơn mặt trời là ánh sáng Bok Hồ, ấm hơn bếp lửa là tấm lòng Bok Hồ. Bộ đội Bok Hồ đã giữ yên bản làng cho người dân Pa Kô…”.
Những ngày tiểu đoàn tôi đóng quân dưới chân dốc Truồi nhiều lần vận chuyển đạn, gạo chúng tôi vẫn gặp các cô gái Pa Kô, Vân Kiều quen từ ngày còn ở A Vao. Du kích địa phương cũng giống bộ đội địa phương, bàn chân của họ bước khắp nẻo rừng quê hương những năm đánh giặc.
Đầu năm 2013, tôi vào Huế dự Lễ khánh thành Nhà bia tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ Trung đoàn 6. Bữa cơm hội ngộ ấy tôi ngồi cùng ba chị, có lẽ trạc tuổi tôi. Nghe họ nói chuyện tôi biết họ cũng là những du kích địa phương sát cánh cùng Trung đoàn 6 trong những năm chiến tranh. Trong ba chị du kích ấy tôi nhận ra một chị trong đội du kích ở A Vao ngày ấy. Chị là Kan Nội, nhưng tên thật của chị là Miêng. Miêng nói rằng số chị em du kích ngày tôi quen và dạy hát, đến bây giờ không biết ai còn, ai mất. Trong giây phút sâu lắng ấy chợt Miêng thốt ra: “Lâu lắm rồi chúng em không trở lại dốc Truồi. Tuổi trẻ chúng em đã để lại đôi chân, đôi vai trên dốc Truồi ấy!”.
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - KÝ ỨC NHỮNG BÀN CHÂN
C
húng tôi vừa có một cuộc gặp mặt đầy xúc động tại điểm xuất phát đầu tiên của cuộc đời binh nghiệp. Nơi đó trước kia là một cánh rừng già và bây giờ là một trường tiểu học khang trang mọc lên thuộc xã Nghĩa Hội, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Những người lính gần nửa thế kỷ trước là những cậu học sinh phổ thông, những sinh viên dang dở Trường Đại học Sư phạm Vinh bây giờ nhiều người đã lên chức ông bà, những cụ già U70… Vậy mà khi gặp nhau dường như họ còn trẻ hơn cả cái tuổi ngày mới vào quân ngũ. Sau bốn tháng huấn luyện, ngày 2 tháng 5 năm 1972 chúng tôi nhận lệnh hành quân vào miền Nam chiến đấu. Bước chân ra khỏi doanh trại huấn luyện hướng bàn chân về miền Nam có thể coi cuộc chiến đấu đã bắt đầu!
Ngày đầu tiên là một ngày thật đáng nhớ. Mờ sáng chúng tôi xuất phát từ Nghĩa Hội. Sau bốn tháng luyện tập, những thanh niên nông thôn nghèo, những cậu sinh viên vừa xếp bút nghiên đã rắn rỏi hơn, khỏe mạnh hơn. Ngoại trừ lễ xuất quân trang trọng, thời gian cuộc hành quân ấy được giữ bí mật nên trước và trong ngày hành quân đầu tiên không có một người thân, hoặc gia đình chiến sĩ đến đưa tiễn. Đêm đầu tiên của cuộc hành quân chúng tôi nghỉ lại một làng nhỏ huyện Yên Thành. Tôi ở trong nhà một bà mẹ, chắc trạc tuổi mẹ tôi. Bà mẹ hiền hậu có người con trai đang chiến đấu ở miền Nam, nhường lại chiếc giường duy nhất cho chúng tôi ngủ. Sau hai ngày chúng tôi nghỉ nhà mẹ, mờ sáng hôm sau báo thức hành quân đã thấy mẹ ngồi ngoài sân chờ tiễn chúng tôi. Mẹ không nói gì nhưng đôi mắt lưu luyến và khắc khoải. Đơn vị hành quân cứ hai ngày thì nghỉ một ngày, có lúc qua trọng điểm đánh phá của máy
bay địch thì hành quân ban đêm, ban ngày nghỉ…
Đi hết đất Quảng Bình mới chính thức đặt chân lên dãy Trường Sơn. Đêm Trường Sơn, trục đường bộ đội hành quân không trùng với trục đường xe ô tô vận tải lương thực, vũ khí… vào Nam. Đó là con đường mòn len lỏi triền núi, ven sông luồn lách dưới rừng già. Mỗi chặng đường dài chừng một ngày hành quân bộ thì đặt một trạm nghỉ có người thì gọi nôm na là “bãi khách”. Trạm nghỉ thường là một vị trí bằng phẳng rộng, có thể trú được cả tiểu đoàn bộ binh và là nơi tiếp tế bổ sung lương thực, vũ khí đạn dược cho đoàn quân ra vào. Trạm nghỉ nào ở hai đầu đường hành quân cũng đều có một cổng chào làm bằng tre nứa, cây rừng. Mặt cổng chào đường hành quân vào thì có khẩu hiệu: “Kính chào những người con ưu tú của miền Bắc xã hội chủ nghĩa vào giải phóng miền Nam”. Mặt cổng chào đi ra thì có khẩu hiệu: “Kính chào những người con ưu tú đã hoàn thành nhiệm vụ trở về”… Con đường hành quân ấy dưới tán rừng già Trường Sơn lúc nào cũng nườm nượp quân vào, quân ra. Trên đầu những đoàn quân không khi nào ngớt tiếng vo ve của máy bay trinh sát OV-10 của địch. Chỉ cần một dấu hiệu đáng nghi ngờ là có thể máy bay B-52 ập đến trút xuống hàng loạt bom. Có những chặng đường hành quân, đơn vị đến trạm nghỉ thì trước đó trạm nghỉ vừa hứng hàng loạt bom B-52, rừng tan nát, trên những cành cây còn vương những mảnh vải quân phục, những búi tóc người...
Đường hành quân càng đi vào chiếc ba lô trên vai càng vơi đi, những đôi chân càng nặng nề. Có người bàn chân rộp phồng lở loét. Nhiều người còn vứt bỏ hết áo ấm (còn gọi là áo Bà Định), quân phục chỉ giữ lại một đến hai bộ, tư trang cá nhân mang từ Bắc vào cũng trút bỏ, bỏ được lạng nào, cân nào trên vai là cảm nhận được. Có người chỉ còn lại trên vai khẩu súng, bao gạo, túi thuốc cá nhân và bộ quân phục. Càng đi vào, càng gian khổ, càng ác liệt. Trên trục đường Trường Sơn không ngày nào không hứng bom B-52, pháo
kích, biệt kích mật phục, không ngày nào không có người hy sinh,... Ngay trên chặng đường hành quân đã xuất hiện những cán bộ, chiến sĩ có tư tưởng sợ gian khổ, sợ hy sinh. Tiểu đoàn tôi ngày ấy có khoảng gần 500 sinh viên, giáo viên Đại học Sư phạm Vinh được tổng động viên. Trên đường hành quân vào thỉnh thoảng có chiến sĩ đào ngũ, chúng tôi gọi là B quay. Có chiến sĩ giả vờ ốm, không ăn uống gì anh em thay nhau cáng từng đoạn, khi anh em phát hiện ra cậu ta giả vờ thế là họ thả uỵch cáng thật mạnh, bắt cậu ta dậy đi… Ngược chiều với quân vào là quân ra. Quân đi ra không nhiều, không đoàn đoàn lớp lớp nhưng nếu dừng lại một điểm nghỉ trên chặng đường hành quân cũng có thể dễ nhận thấy: Đội quân đi ra thường là những người xanh xao, ốm yếu, thương binh, bệnh binh… cũng không ít người phải nằm trên cáng. Người đi ra thì vui vẻ, hớn hở vì họ coi như đã bước ra khỏi trận mạc, người đi vào thì khỏe mạnh nhưng gương mặt trầm tư, thoáng vẻ lo lắng. Cũng đúng thôi, họ đang đi vào cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt, hy sinh và không mong có ngày trở về. Người đi vào gặp người đi ra thường hỏi nhiều chuyện về trận mạc nhưng có một câu hầu như ai cũng hỏi “đã bị sốt rét chưa?”. Ở Trường Sơn không mấy ai thoát khỏi sốt rét, vì vậy hỏi mà hỏi chứ nhìn nước da người lính đi ra là biết liền. Sốt rét Trường Sơn như một thứ bệnh dịch, nhất là về mùa mưa. Ban đầu dính sốt rét người cứ như giả vờ, có khi cả ngày khỏe, đào hầm, gùi gạo, chiến đấu giữ chốt… bình thường, chiều tối lên cơn sốt như thể đã bị sốt hàng tuần, hàng tháng. Người bị nặng có thể lên đến 41, 42 độ. Người thì nóng hầm hập nhưng lại rét, rét thấu xương, rét từ trong rét ra. Người bị sốt nặng thì cơn sốt có thể đến bất ngờ, nóng tột độ. Sợ nhất là sốt rét ác tính. Nhiều người chết không biết, hoặc đi hành quân đêm sốt, sáng dậy mới biết đã chết. Tôi làm liên lạc, trinh sát thường chạy công văn hoặc đi trinh sát một mình trong rừng có những lúc thấy thấp thoáng trong rừng
chiếc võng treo tưởng có bộ đội đi qua đang nằm nghỉ, lò dò đến thì mới biết anh chiến sĩ đã chết từ khi nào… So với nhiều người thì tôi ít bị sốt rét. Người bị sốt rét nhiều thường có nước da xanh, mắt trắng, môi thâm đen. Sau hai hoặc ba năm nếu không bị sốt lại thì mới được coi là không còn ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể.
Đêm ấy chúng tôi dừng lại ở trạm nghỉ. Có một chuyện tôi không thể nào quên được. Xế chiều chúng tôi hành quân đến trạm thì gặp mấy người lính đi ra. Họ cho biết trạm nghỉ chúng tôi sắp đến chiều hôm qua B-52 địch mới rải bom nhiều người hy sinh... Nghe tin ấy cả đại đội chúng tôi không ai nói với ai nhưng sự lo lắng lộ rõ trên gương mặt. Trong hoàng hôn xế chiều, cảnh tan hoang của một khu rừng vừa bị bom B-52 rải xuống thật là bi thảm. Đó đây còn vương vãi tăng võng, quần áo, ba lô… chưa thể nào dọn hết. Đại đội tôi được bố trí lệch sang một mé rừng của trạm nghỉ. Đêm ấy trời bỗng mưa, mưa ở Trường Sơn, nước cứ như đổ ào xuống, chỉ sau một tiếng đồng hồ những con suối bình thường lội qua bỗng trở thành những dòng lũ, thác cuồn cuộn đổ về. Hôm ấy đến phiên tổ tôi trực nhật, buổi chiều đến, chúng tôi đã lo chặt lá rừng quây bếp để đêm dậy nấu cơm cho tiểu đội. Khoảng ba giờ sáng chúng tôi thức dậy, trời đã tạnh mưa nhưng cũng phải mò mẫm lối đi đến bếp vì cơn mưa lớn đã xóa sạch lối mòn. Bỗng tôi trượt chân rơi xuống một căn hầm thùng, loại hầm không nắp, rộng, đào sâu xuống khoảng một mét để mắc võng cho được nhiều người. Tôi bơi bì bõm trong nước và chợt đụng phải một vật, tưởng là khúc gỗ, khi vớt lên, hoảng hốt nhận ra một khúc chân người…
Lại nhớ trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi có dịp đi dọc trên con đường Trường Sơn huyền thoại. Cũng trên con đường này gần nửa thế kỷ trước chúng tôi đã đi, đi dưới mưa bom bão đạn cho tới ngày toàn thắng. Hồi ức những bàn chân hôm nay lại trở về, trở về để thêm tin yêu một thời, thời của
Đất nước “Máu và Hoa”.
PHẦN HAI
CÒN LẠI VỚI THỜI GIAN
ĐÊM 22 THÁNG 12 NĂM ẤY…
M
ùa khô năm ấy, trên chiến trường Thừa Thiên - Huế, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã mở chiến dịch lớn tiến công địch. Chiến dịch mùa khô bao giờ cũng diễn ra vô cùng ác liệt, trên điểm chốt ta và địch giành giật nhau từng mét đất, từng mét chiến hào. Có những cao điểm bom pháo trút xuống đất đào lên lộn xuống không còn một ngọn cỏ. Con đường 12 được mệnh danh là con đường máu, là con đường chiến lược từ miền Tây A Lưới về thành phố Huế, ngày nay là quốc lộ 49 nối từ đường Hồ Chí Minh về Huế xuống biển. Tôi là chiến sĩ liên lạc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6 bộ đội chủ lực địa phương của Quân khu Trị Thiên - Huế thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1965. Trung đoàn 6 tự hào là Trung đoàn Anh hùng hai lần tham gia giải phóng Huế. Đó là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 và ngày 26 tháng 3 năm 1975, thời khắc lịch sử trên con đường giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Nhớ lại sau hai tháng hành quân, chúng tôi vừa đến khu trú quân của tiểu đoàn bộ thì anh Bảo, trung đội trưởng thông tin tiểu đoàn ra gặp, anh xem mặt chiến sĩ mới để chọn một vài người bổ sung vào tiểu đội thông tin 2 oát. Pháo địch bắn rát quá, chúng tôi chui vào trú ẩn trong căn hầm chữ A của trung đội thông tin. Tôi cũng được điểm mặt nhưng sau đó lại thôi, vì theo anh Bảo, tôi nói “đặc giọng Nghệ” vừa nặng, vừa khó nghe, nhất là trong chiến đấu, giữa ác liệt của bom đạn, tiếng bom pháo át tiếng máy. Vì vậy tôi được biên chế về một đơn vị chiến đấu, trong lúc đang chờ đợi cán bộ đơn vị đến nhận về thì anh Tăng Văn Phả, tiểu đoàn phó đến. Anh nhìn tôi thật lâu và nói: “Cậu này trông như con sóc đưa về tiểu đội liên lạc!”. Thế là tôi được biên chế về tiểu đội liên lạc thuộc trung đội
thông tin của anh Bảo. Hơn ba mươi năm sau, trong một đám cưới con anh Tân cùng trung đội, gặp tôi anh Bảo còn nhắc lại câu nói của anh Phả. Lúc ấy anh Tăng Văn Phả đang là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam.
Trung đội thông tin có ba tiểu đội: Tiểu đội 2 oát, tiểu đội hữu tuyến điện và tiểu đội liên lạc. Tiểu đội liên lạc ngày ấy có Nguyễn Xuân Chín quê Thanh Chương, Nghệ Tĩnh làm tiểu đội trưởng, Vũ Tuấn Định quê Hà Nam Ninh làm tiểu đội phó… Chiến tranh ác liệt, người bị thương, người hy sinh thay đổi, bổ sung hàng ngày, có người vừa bổ sung về trung đội được mấy tiếng đồng hồ đã hy sinh nên không nhớ hết tên người.
Đêm đầu tiên tôi lên chốt là đêm 22 tháng 12 năm 1972. Tôi đi cùng anh Phả lên chốt Sơn Na, chúng tôi dừng lại dưới yên ngựa giữa hai điểm cao để chờ bộ đội thay quân xuống. Đêm tối, pháo sáng, pháo nổ, pháo chụp (loại pháo nổ trên mặt đất khoảng 2m mảnh đạn úp xuống như chiếc nơm) của địch thỉnh thoảng vẫn bắn vào trận địa chốt. Tôi và anh Phả ngồi vòng tròn với tiểu đội vừa xuống, cạnh bên một chiếc hầm chữ A, mọi người đều bày quà bác Giáp ra. Quà của Đại tướng nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội 22 tháng 12, mỗi người được một gói lương khô, một bao thuốc lá Đ’rao. Vừa hút thuốc, vừa ăn lương khô, vừa nói chuyện thì thào, không ai nói được thành tiếng vì gần địch dễ bị lộ. Thỉnh thoảng mọi người lại nằm bẹp xuống vì có quả pháo địch bắn gần. Bỗng một tiếng nổ xé đất, một quả pháo rơi trúng nơi tiểu đội đang ngồi. Cả tiểu đội đủ quân vừa được bổ sung, 8 người hy sinh chỉ còn một người ngồi cạnh tôi bị thương. Anh Phả nói tên anh ấy là Luyện và bảo tôi bế Luyện vào hầm chữ A để anh gọi y tá tới cấp cứu. Luyện to và nặng, tôi vừa bế vừa kéo vào hầm, máu bê bết cả hai ống tay áo, đầm đìa cả bàn tay. Không có nước rửa, tôi chỉ xoa tay vào cát để “rửa”. Tôi không bị thương, chỉ bị chảy máu tai. Sức công phá
của quả pháo mạnh đến nỗi đôi dép cao su bốn quai trong chân tôi văng mất, trong đêm tối tôi quờ quạng mãi không tìm được. Anh Phả bảo cứ lấy một đôi của anh em hy sinh mà đi…
Đêm ấy tôi và anh Phả lên chốt Sơn Na ở với bộ đội. Cuộc sống của người lính chốt Sơn Na ác liệt, căng thẳng, đầy hy sinh. Ngày nào địch cũng giội bom, giội pháo xuống. Ngày nào chúng cũng tổ chức đánh chiếm chốt ít nhất một, hai lần. Có ngày nó xua quân đánh chiếm chốt từ sáng đến tối không biết mấy lần, cứ sau mỗi lần trút hàng loạt pháo xuống cao điểm là chúng xua quân lên. Ngày nào cũng có bộ đội hy sinh, có đợt trung đội hy sinh gần hết lại bổ sung quân mới… Đợt ấy tôi và anh Phả ở chốt bốn, năm ngày, trong làn bom đạn tôi cứ như con sóc luồn lách dưới chiến hào để truyền lệnh, truyền tin đến từng tổ chốt. Vài ngày đầu còn biết sợ, ngày sau đâm ra lì, ở trên chốt với bộ đội mới hiểu trong cuộc chiến đấu sinh tử ấy, một là hy sinh hai là bị thương chứ không thể rời trận địa được. Nhìn thấy bộ đội hy sinh, đôi khi thoáng nghĩ rồi có ngày sẽ đến lượt mình! Mấy ngày đầu ở trên chốt không có nước rửa tay, rửa mặt. Bàn tay và ống áo bết máu của Luyện khô dần và rụng xuống từng vảy như vảy nến.
Nói chuyện nước ở trên chốt, mỗi ngày anh nuôi gùi cơm lên một lần, có ngày hai lần, mỗi lần gùi lên một túi nilon nước, loại túi đựng gạo lót trong bì tải. Cơm chủ yếu là ăn gạo sấy, thịt hộp và rau môn thục, nước thì chia mỗi người một bình toong một ngày, hết thì phải chịu. Dưới chân cao điểm Sơn Na có một hố bom tấn địch thả xuống không biết lúc nào, mùa mưa còn đọng lại nửa hố nước. Những lúc trời nhá nhem ta và địch tranh thủ mò xuống múc nước. Hai bên phục kích nhau, có hôm địch chết mấy ngày sau nó vẫn không dám xuống kéo xác lên. Vậy mà bộ đội vẫn phải bò xuống múc nước, thứ nước đọng trong hố bom lâu ngày lẫn cả mùi xú uế xác người trở thành màu xanh đục. Trước khi uống phải bỏ vào bình toong mấy
viên thuốc sát trùng giống như viên B1, lắc cho tan để một lúc mới dám uống. Nước vẫn có mùi xác người, hít vào là muốn ói ra, phải một tay bịt mũi mới nhắm mắt uống, không uống thì không chịu khát được. Để lấy được một gùi nước dưới hố bom, mỗi lần đi là một cuộc đấu trí, một trận chiến đấu. Mỗi gùi nước mang được lên chốt có cả máu của ta và địch…
Đầu năm 2013, tôi vào dự Lễ khánh thành Nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Trung đoàn Phú Xuân tại phường An Hòa, thành phố Huế. Gặp lại nhiều đồng đội chiến đấu một thời, Đại tá Hoàng An, nguyên trung đoàn trưởng, tuổi đã tám mươi mà vẫn nhớ như in những năm tháng khốc liệt ấy. Ôn lại chuyện những ngày trên chốt Sơn Na, ông thì thào: “Không hiểu sao sức chịu đựng của con người ngày ấy vô cùng đến thế. Bây giờ kể lại được mấy ai tin?”.
CHUYỆN TIẾU LÂM Ở NƠI BOM ĐẠN C
uối mùa khô năm 1972, có thể nói trục đường 12 và các cao điểm dọc tuyến đường, nơi tranh chấp quyết liệt giữa quân ta và quân địch đã trở thành túi bom pháo. Dường như địch muốn dồn lực lượng tiến công chiếm giữ các cao điểm tuyến giáp ranh miền Tây thành phố Huế trước khi kết thúc mùa khô. Không bên nào nhường bên nào. Về ưu thế hỏa lực thì quân địch mạnh hơn hẳn quân ta. Trên trời chúng có máy bay, dưới đất thì từ căn cứ pháo binh La Sơn, pháo chúng bắn lên các cao điểm ta chốt giữ không lúc nào ngớt. Tổn thất lực lượng của hai bên là không nhỏ. Trên trục đường 12, có những lúc lính địch từng tốp tháo thân bất chấp trốn chạy cả dưới làn bom pháo của chúng.
Sở chỉ huy Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn Phú Xuân) đặt ở một sườn đồi cách cao điểm Sơn Na chừng một giờ đi bộ. Tiểu đội liên lạc của chúng tôi chia thành hai bộ phận. Một bộ phận ở Sở chỉ huy tiểu đoàn do Tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Chín phụ trách. Một bộ phận ở dưới chân đồi do Tiểu đội phó Vũ Tuấn Định phụ trách. Lực lượng của tiểu đội luôn luôn được bổ sung chiến sĩ mới nhưng không khi nào đầy đủ mỗi người đi mỗi hướng. Ban ngày thì bom pháo không mấy khi ngớt, mặt đất như bị nứt rạn, cây rừng đổ ngổn ngang, lửa cháy khét lẹt.
Trong căn hầm chữ A chìm dưới mặt đất của chúng tôi có một người ít khi phải ra khỏi hầm, đó là y tá Hưng. Thỉnh thoảng Hưng mới vượt qua bom pháo đến hầm cứu thương để băng bó cho thương binh trên chốt về. Hưng là một chàng trai quê ở Quảng Xương, Thanh Hóa. Không chỉ đẹp trai, Hưng còn nổi tiếng là một “cây tiếu lâm” của tiểu đoàn bộ. Anh em kể lại rằng những mùa mưa
"""