"
Thời Kế Quán - Yukito Ayatsuji PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thời Kế Quán - Yukito Ayatsuji PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
YUKITO AYATSUJI Hải Yến dịch
dựa theo bản in của
IPM & NXB Hồng Đức 12-2019
NHÂN VẬT
(Trong ngoặc là số tuổi của nhân vật tính đến tháng 7/1989, trong trường hợp nhân vật đã chết, số tuổi chính là tuổi thọ)
KOGA MICHINORI (63 tuổi), chủ cũ của Thời Kế Quán, cựu chủ tịch Công ty Đồng hồ Koga, đã chết.
KOGA TOKIYO (28 tuổi), vợ Michinori, đã chết.
KOGA TOWA (14 tuổi), con gái Michinori, đã chết.
KOGA YUKIYA (16 tuổi), con trai Michinori, chủ nhân hiện tại của Thời Kế Quán.
ADACHI TERUMI (58 tuổi), em gái Michinori, người giám hộ của Yukiya.
MABUCHI CHOHEI (70 tuổi), bạn của Michinori.
MABUCHI SATORU (22 tuổi), con trai của Mabuchi Chohei, vị hôn phu của Towa, đã chết.
NONOMIYA YASUHITO 3(84 tuổi), thầy bói, rất được Michinori tin tưởng.
INAMI YUSAKU (40 tuổi), người làm của nhà Koga ở Thời Kế Quán, đã chết.
INAMI SAYOKO (46 tuổi), vợ Yusaku, quản lý hiện tại của Thời Kế Quán.
INAMI KYOKO (9 tuổi), con gái Yusaku, đã chết.
TERAI AKIE (27 tuổi), hộ lý chăm sóc Towa, đã chết.
TERAI MITSUE (32 tuổi), em gái Terai Akie.
HASEGAWA TOSHIMASA (52 tuổi), bác sĩ của gia đình Koga, đã chết.
HATTORI IKUO (45 tuổi), cấp dưới của Michinori, đã chết.
TADOKORO YOSHIAKI (55 tuổi), người làm của nhà Koga ở Thời Kế Quán.
KOBAYAKAWA SHIGEO (44 tuổi), phó chủ biên tạp chí CHAOS của Kitansha.
KAWAMINAMI TAKAAKI (24 tuổi), biên tập viên mới của Kitansha. UTSUUMI ATSUSHI (29 tuổi), phóng viên ảnh của Kitansha. KOMYOJI MIKOTO (32 tuổi), nhà ngoại cảm.
URYU MISAO (20 tuổi), hội trưởng hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí, Đại học W.
KATAGI SAKIKO (20 tuổi), hội viên.
KAWARAZAKI JUNICHI (21 tuổi), hội viên.
NIMI KOZUE (19 tuổi), hội viên.
WATANABE RYOSUKE (20 tuổi), hội viên.
FUKUNISHI RYOTA (21 tuổi), hội viên.
SHISHIYA KADOMI (40 tuổi), nhà văn trinh thám mới ra mắt.
MỞ ĐẦU
Kawaminami Takaaki còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi trận mưa tầm tã thì may thay, cư xá điểm hẹn đã xuất hiện trong tầm mắt. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt trong túi áo khoác ra xem giờ. Đây là món đồ cậu thừa kế của ông nội hai năm về trước. Kể từ đó cậu bỏ hẳn đồng hồ đeo tay, chuyển sang dùng loại đồng hồ kiểu cổ này.
Đã 4 rưỡi chiều, quá giờ hẹn mất nửa tiếng rồi.
Cậu đã có ý thức xuất phát sớm đấy chứ. Nhưng do chưa thông thuộc thành phố, cậu xuống nhầm ga. Khi xuống đúng thì trời đổ mưa, cậu lại mất thêm mấy phút đi mua dù, vất vả lắm mới mò được đường từ nhà ga đến địa điểm như người ta chỉ, rốt cuộc trễ hẹn.
Hôm nay Kawaminami có hẹn với một người đã lâu chưa gặp, nên tới trễ thế này thật là xấu hổ. Nhưng người đó sẽ không bực đâu, cậu tự an ủi. Đừng nói ba mươi phút, mà dù phải đợi hai tiếng đi chăng nữa, người đó cũng sẽ mỉm cười bỏ qua cho cậu.
Kawaminami vừa giũ nước khỏi dù vừa quan sát bên trong. Cậu đang đứng ở tiền sảnh cư xá Green Heights. Cư xá nằm trên một khu phố yên tĩnh ở Kaminoge, quận Setagaya, Tokyo. Bức tường bên trái là một dãy hòm thư màu vàng đều tăm tắp. Cậu vội đi xem họ tên trên hòm thư để xác định lại số căn hộ.
409. Căn số 9, tầng 4.
Đã ba năm rồi hai người chưa gặp nhau. Kawaminami thử mường tượng khuôn mặt anh ta. Đó là một người gầy nhẵng, nước da ngăm đen, cằm hơi nhọn. Anh có cái mũi khoằm, đôi mắt thâm quầng trũng sâu, chân mày lúc nào cũng nhíu lại, môi mím chặt, nhìn qua tưởng là người u sầu khó chịu. Nhưng thật ra cực kì vui tính và hay cười, thi thoảng còn cười
kiểu vô tư ngây thơ mà Kawaminami rất thích.
Tuy nhiên…
Thay vì mong đợi một cuộc tái ngộ vui vẻ, Kawaminami lại thấy lòng ngập tràn ngần ngại, một cảm giác mà cậu hiểu rõ nguồn cơn. Tái ngộ người quen cũ này là một việc vô cùng đáng sợ. Đáng sự không phải do bản thân anh ta, mà do kí ức anh ta khơi gợi. Chỉ cần nhìn thấy anh ta, những hình ảnh khủng khiếp của vụ việc ba năm trước dù muốn dù không sẽ ập về tâm trí cậu. Kawaminami cho rằng suốt ba năm qua, chưa một lần cậu nghĩ đến việc gặp lại anh ta, âu cũng là do e dè cảm giác đáng sợ ấy.
Cậu biết, mình không nên ôm mãi trong lòng quá khứ đau thương. Vụ việc ba năm trước khiến cậu mất đi khá nhiều bạn bè thân thiết. Kawaminami sốc nặng đến nỗi cuộc sống sau đó của cậu cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng. Nhưng thời gian trôi đi, cậu đã quyết định mình phải bước tiếp. Đằng nào thì chuyện đã xảy ra là vô phương thay đổi. Cầu xin đến đâu người chết cũng không thể quay về. Vậy thì chỉ còn cách là vượt qua quá khứ mà sống tiếp thôi.
Chẳng biết có phải do cơn mưa phiền phức ngoài kia hay không, tâm trí Kawaminami như sũng nước. Cố gắng kiềm chế dòng cảm xúc đang dần trở nên u uất, cậu thả lỏng người và xoay cổ vài cái, rồi tiến về phía thang máy nằm cuối tiền sảnh.
Vẩy nốt mấy giọt nước còn sót lại trên dù, Kawaminami giơ tay bấm nút thang máy. Nhưng cậu chưa kịp chạm vào nút thì cửa thang máy đã mở, một phụ nữ bước ra ngoài.
Cô mặc sơ-mi tím và bộ vest may bằng vải thô, dáng người cao ráo với mái tóc xoăn nhuộm nâu dài chấm vai. Trong một tích tắc, ánh lấp lánh của sợi dây chuyên màu vàng ôm lấy cần cổ trắng nõn lóe lên chói mắt. Mùi nước hoa kì lạ dâng ngập bầu không khí ẩm ướt khiến Kawaminami có cảm giác mình đang rơi vào một cơn mê.
Liếc nhìn khuôn mặt cô, Kawaminami buột miệng thốt lên, “Ồ.” Người phụ nữ mang kính đen to bản, khuôn mặt trang điểm rất dày, tuổi tầm trên dưới ba mươi. Mặc dù cặp kính che đi phần nào khuôn mặt, nhưng Kawaminami có thể khẳng định đây là một phụ nữ xinh đẹp. Cậu ngờ ngợ mình đã thấy cô ở đâu rồi. Không hẳn là gặp ngoài đời, có lẽ là
xem trên ảnh…
Kawaminami vô thức đứng lại, nhìn theo người phụ nữ.
Cô ngó hộp thư nằm bên trái hộp thư căn 409 cậu kiểm tra ban nãy, lấy ra một gói bưu phẩm. Cô cho bưu phẩm vào túi, đoạn bước thẳng ra cửa kính tiền sảnh.
Dõi theo đến khi bóng cô mất hút trong màn mưa, Kawaminami nhìn lại hộp thư đựng món đồ cô vừa lấy.
Số trên đó là ‘408’. Nằm ngay cạnh căn hộ của người cậu đến gặp. Tiếp theo là… Komyoji Mikoto
Kawaminami giật mình khi thấy bảng tên. Trước lúc đặt chân vào thang máy, cậu nhìn cái tên một lần nữa cho chắc. Quả không sai. Đúng là ‘Komyoji Mikoto’.
Cái tên đề trên hộp thư.
Nếu Komyoji Mikoto này chính là Komyoji Mikoto đó thì cái cảm giác ‘đã thấy cô ở đâu rồi’ của cậu là chính xác. Cậu bước vào thang máy để đi lên, lòng thầm thắc mắc sao lại tình cờ đến thế.
Mùi nước hoa vẫn còn thoang thoảng trong buồng thang. Kawaminami nhấn chuông căn 409, cửa liền mở ra. Người xuất hiện trước mặt cậu mặc áo thun màu đen nhăn nhúm, quần jeans dài che đi đôi chân ống sậy. So với lần gặp cuối cùng cách đây ba năm, anh chẳng thay đổi gì mấy.
“Ồ,” và vẫn đọc tên cậu thành ‘Conan’, hệt như ba năm trước*. “Cậu đến rồi.”
Xem giải thích ở Thập Giác Quán, chương 2.
“Vâng. Lâu lắm mới gặp lại anh,” Kawaminami gật đầu tạ lỗi. “Xin lỗi anh, tôi tới trễ.”
“Hả?” Anh chủ nhà nghiêng đầu. “Không phải chúng ta hẹn 4 giờ à?” “Vâng.”
“Thế thì có trễ đâu?”
“Hả?” Lần này đến lượt Kawaminami nghiêng đầu. Cậu lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi túi, “hơn 4 rưỡi rồi mà.”
“Kì thật. Đồng hồ nhà tôi mới có 4 giờ thôi.”
Có khi anh ta chưa tỉnh ngủ cũng nên.
Chủ nhà đưa cặp mắt mơ màng về phía góc phòng, “Đó, cậu nhìn đồng hồ đi.”
Một chiếc đồng hồ hình bát giác kiểu cổ treo trên tường phòng khách, kim giờ mới gần đến vị trí 4 giờ. “Gì vậy? Không phải nó chết rồi sao?” Nghe vậy, chủ nhà mới để ý. Anh đưa tay phải vò mớ tóc xoăn mềm mại, “Cũng có khi. Ghét thật, cái đồng hồ đó tôi mua ở tiệm đồ cổ đấy.” “Hèn gì…”
“Chiều qua tôi mới lên dây cho nó. Chắc hỏng hóc ở đâu rồi cũng nên.” Anh lúc lắc đầu ra chiều đau khổ, rồi quay qua nở nụ cười vô tư lự với Kawaminami. “Mà thôi, cũng đâu có sao.”
Đúng như dự đoán, anh chủ nhà, nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi, tên thật là Shimada Kiyoshi, lại bắt đầu cười vô tư, hệt như dáng vẻ ba năm về trước.
“Cảm ơn cậu cất công tới đây hôm nay. Làm cậu bận tâm mất rồi. Vào nhà nói chuyện nào, Conan.”
✳ ✳ ✳
Kawaminami Takaaki gặp Shimada Kiyoshi lần đầu vào mùa xuân năm 1986, cụ thể là ngày 26 tháng Ba, đến giờ cậu vẫn còn nhớ. Năm đó cậu 21 tuổi, đang là sinh viên năm ba khoa Công nghệ trường Đại học K, tỉnh Oita vùng Kyushu. Mọi việc bắt đầu khi Kawaminami nhận được một bức thư đề tên người gửi là Nakamura Seiji.
Nakamura Seiji là một kiến trúc sư nổi tiếng, vì muốn sống ẩn dật nên đã rời khỏi đất liền, tự mình xây dựng quần thể công trình kì lạ mang tên ‘Lam Ốc’ và ‘Thập Giác Quán’ chiếm phần lớn diện tích của Giác Đảo, một hòn đảo nhỏ thuộc vùng Kyushu và sống ở đó. Thế nhưng tháng Chín năm 1985, nửa năm trước khi Kawaminami nhận được thư, ông ta đã chết một cách bất thường. Vì muốn tìm hiểu lá thư bí ẩn này, Kawaminami đã đến nhà ông Nakamura Kojiro, em ruột ông Seiji. Chính tại đây, cậu gặp Shimada.
Shimada là con trai thứ ba của một trụ trì. Anh có tính tò mò chằng kém
gì Kawaminami. Nhác thấy bì thư đề tên ông Nakamura Seiji quá cố, anh liền tỏ ra quan tâm đặc biệt. Trong khi Shimada là người đam mê các thể loại tiểu thuyết trinh thám thì Kawaminami lại là thành viên của hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám ở trường đại học. Có lẽ đó là lý do khiến Shimada chú ý tới cậu.
Mấy ngày sau đó, cả hai bắt tay vào tìm hiểu thư người chết cũng như điều tra thêm về cái chết của ông Seiji nửa năm trước đấy. Nói sơ qua thì kết cục là hai người đã tìm ra chân tướng của vụ giết người trên Giác Đảo mà nạn nhân chính là những người bạn thân thiết của Kawaminami. Tóm lại, ‘vụ việc ba năm trước’ là vậy. Sau vụ việc trên đảo, cậu và Shimada tiếp tục gặp nhau vài lần nữa, nhưng rồi liên lạc thưa thớt dần đi. Một phần do Kawaminami phải dốc sức hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cũng như kì thi đầu vào cao học. Lần cuối cùng hai người gặp nhau có lẽ là tháng Bảy năm đó.
Về phần Shimada, sau vụ Thập Giác Quán anh thảnh thơi lang bạt nay đây mai đó, đụng hết vụ án này đến vụ án khác, thi thoảng mới liên lạc thông báo tình hình bản thân. Vào tháng Mười năm 1986, Shimada gọi điện báo cho Kawaminami biết anh có tham gia phá giải vụ án tại Thủy Xa Quán ở Okayama, một trong những công trình kiến trúc do Nakamura Seiji thiết kế. Kawaminami còn nhớ nỗi thôi thúc từ thảm sâu tâm khảm khiến cậu muốn gào lên ngắt lời anh, rằng cậu đã chịu quá đủ những chuyện máu me rồi. Tốt nghiệp đại học xong, Kawaminami học tiếp cao học Công nghệ. Cậu và Shimada bặt tin từ ấy.
Hoàn tất chương trình đào tạo thạc sĩ hai năm, Kawaminami đến làm cho Kitansha, một trong những nhà xuất bản lớn ở Tokyo, bắt đầu từ tháng Tư năm nay. Rời khỏi Kyushu đã khá lâu rồi, một hôm cậu quyết định gọi đến nhà Shimada hỏi thăm tình hình thì mới hay anh đã chuyển nhà lên Tokyo từ năm ngoái, chưa hết, Shimada giờ còn là tác giả viết truyện trinh thám, bút danh Shishiya Kadomi.
✳ ✳ ✳
“Lúc đó tôi bất ngờ lắm. Không biết làm sao mà anh lại thành nhà văn.” Kawaminami vừa nói vừa ngồi xuống xô-pha trong phòng khách.
Shimada hấp háy mắt tỏ vẻ ngại ngùng.
“Tôi cũng bất ngờ. Dân công nghệ như cậu lại đầu quân cho ngành xuất bản, mà còn là chỗ nổi tiếng như Kitansha nữa.”
“Tôi nộp thử thôi, không ngờ được nhận. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại trúng tuyển kìa… À nói ra khí muộn, nhưng tôi đọc Mê Lộ Quán rồi đấy. Biết tin cái là tôi tìm đọc ngay.”
Mê Lộ Quán là tác phẩm đầu tay của nhà văn Shishiya Kadomi, xuất bản tháng Chín năm ngoái. Khi biết cuốn sách do Kitansha phát hành, Kawaminami kinh ngạc nhận ra cậu với Shimada đúng là có duyên nợ với nhau.
“Tôi có gửi một quyển tặng cậu, nhưng do địa chỉ không rõ ràng nên bị gửi trả lại. Cậu đổi chỗ ở rồi à?”
“Tôi vào cao học thì căn hộ đó cũng bị phá. Tôi quên nhờ bưu điện chuyển hộ thư tín sang địa chỉ mới nên sách của anh không tới được. Đáng lẽ tôi phải liên lạc với anh, nhưng lu bu chuyện này chuyện kia, thời gian trôi qua lúc nào không hay nữa. Tôi xin lỗi.”
“Lỗi phải gì! Tôi cũng thế thôi. Lưỡng lự mãi rồi thành ra thế này.” “Nhưng mà…”
“Dù sao thì hôm nay cậu cũng đã tới thăm tôi rồi. Còn gì phải phàn nàn nữa.”
Shimada vừa nói vừa gật gù. Kawaminami nhận ra anh đang tỏ thái độ thông cảm với mình. Thâm tâm cậu luôn muốn quên đi những kí ức về vụ việc ba năm trước, nên cố cắm cúi vào khóa luận tốt nghiệp và kì thi cao học. Cậu lo là việc liên lạc với Shimada sẽ lại khiến mình nảy sinh những xúc cảm tiêu cực và sợ hãi.
Cảm ơn anh, Kawaminami nghĩ, nhưng không nói ra.
“À, anh Shimada này.” Tìm quanh bàn được chiếc gạt tàn đã cáu bẩn, Kawaminami châm thuốc hút. “Anh bỏ chùa mà đi thế có sao không?” Shimada đứng cạnh bếp, đang pha cà phê thì khựng lại, nhún vai hững hờ, “Cha tôi vẫn khỏe. Trước mắt vẫn đủ sức đảm đương vai trò trụ trì chứ chưa cần truyền cho thằng con lang bạt này.”
“Anh đến Tokyo để tiện công việc à?”
“Cũng không hẳn. Ở đây thì chắc chắn là tiện lợi nhiều mặt, nhưng đó
không phải nguyên nhân chính của tôi.”
“Thế ạ…”
“Nói sao nhỉ, tôi muốn chiêm ngưỡng xem thành phố biến đổi ra sao vào những năm cuối thế kỉ 20. Cuộc sống nơi thôn quê rất lành mạnh, nhưng tẻ nhạt lắm.”
“Dạ.”
Con người này đúng là không thay đổi gì cả. Bước sang tuổi tứ tuần rồi mà suy nghĩ vẫn không chịu tương xứng với độ tuổi. Kawaminami chực hỏi anh đã nghĩ đến chuyện lập gia đình chưa, nhưng nhanh chóng từ bỏ ý định.
Cậu dụi điếu thuốc vào gạt tàn, đảo mắt quan sát nhà cửa. Những tưởng nơi đây phải bừa bộn lắm, hóa ra lại rất gọn gàng sạch sẽ, chẳng giống nơi ở của một người đàn ông độc thân chút nào. Phòng khách rất rộng, sàn lát gỗ.
“Căn hộ đẹp thật. Khu này chắc giá cao lắm phải không?” “Ừ, cũng tầm tầm.”
“Tầm tầm là sao ạ?”
“Chủ cư xá là người quen cũ của tôi. Thông cảm với chiếc ví lép kẹp của một cây viết mới tập tọng nên cho tôi thuê với giá khá rẻ.” “Có chuyện đó nữa à!”
“Ừ, tôi từng ở đây hồi đại học rồi. Chủ nhà là con trai một gia đình giàu có. Chúng tôi cùng tuổi nên dễ bắt thân. Cư xá tên là Lục Trang.” “Chà. Hèn gì tên tiếng Anh là Green Heights.”
“Ừm. Hắn ta thừa kế cư xá cũ, rồi phá đi xây cư xá này.” Kawaminami thình lình nhận ra ở góc bàn có món đồ là lạ. Một mô hình gấp giấy phức tạp màu đen.
“Ác ma hở anh?” Kawaminami trỏ mô hình.
“Ừ, nó đã xuất hiện trong Mê Lộ Quán. Cậu vẫn hứng thú với nghệ thuật xếp giấy chứ?”
“Vẫn.”
Shimada đặt tác phẩm xếp giấy lên lòng bàn tay. Từ tai, miệng, chân tay, đến cả đuôi và cánh, từng chi tiết một đều gắn kết với nhau hết sức chặt chẽ.
“Mê Lộ Quán quả là nhận được sự ủng hộ ngoài mong đợi. Nguyên bản cách gấp ác ma là do tác giả của nó gửi thư chỉ cho tôi. Tôi đã đọc các tác phẩm của người ấy nên hiểu được đôi chút về nghệ thuật gấp giấy. Về sau tác giả lại chỉ thêm cho phiên bản ác ma cải tiến. Cậu nhìn chỗ này xem. Phiên bản ban đầu có năm ngón tay thôi.”
Kawaminami nhón ác ma lên, ngắm nghía. Quả thật, so với nguyên tác năm ngón, bản cậu đang cầm trên tay có tới bảy ngón.
“Ra đây chính là ác ma bảy ngón.”
“Chắc cậu đọc KChildhood’s End của Arthur C. Clarke rồi. Overloads* cũng từ cuốn đó mà ra đấy.”
Nhân vật người ngoài hành tinh trong Kết thúc ấu thơ, giúp ngăn chặn sự diệt vong của nhân loại.
“Tuyệt thật. Mô hình này được gấp bằng đúng một tờ giấy thôi phải không anh, tôi không thấy mối ghép ở đâu cả.”
“Ừ.”
“Xếp giấy đúng là một nghệ thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ tuyệt đối.” Cậu không nghĩ người như Shimada có thể tạo ra từng góc cạnh mô hình hoàn hảo thế này. Nội dung cuốn Mê Lộ Quán cậu đọc hai tuần trước dần dần tái hiện trong đầu. Cả chuyện cậu định nói với Shimada nữa, trên đường tới đây cậu đã suy đi tính lại mãi… Do dự một hồi, cậu quyết định, phải nói ra thôi.
“Hừm, anh Shimada… à không, nên gọi là nhà văn Shishiya mới phải, vì dù sao thì hiện giờ tôi cũng là biên tập viên của Kitansha…” “Là gì cũng được, nhưng mà bỏ giùm tôi hai chữ ‘nhà văn’ đi.” “Vậy thì, anh Shishiya!” Kawaminami gọi, rồi dừng lại lấy hơi. “Kì thực tôi cũng không biết nói sao, nhưng mà đúng là có duyên!” “Có duyên? Duyên gì?”
“À, chuyện là…”
Kawaminami ngập ngừng, liếc mắt lên chiếc đồng hồ bát giác treo tường. Kim vẫn chỉ 4 giờ kém y như ban nãy. Cậu vươn tay kéo chiếc gạt tàn trên bàn lại gần hơn.
“Anh biết Biệt thự Đồng Hồ ở Kamakura không?”
“Biệt thự Đồng Hồ?” Phản ứng của Shimada Kiyoshi, hay Shishiya
Kadomi, thật bất ngờ. Đôi chân mày rậm nhướng cao, mắt mở to nhìn Kawaminami, “Không lẽ…”
“Vấn đề nằm ở chính mấy chữ ‘không lẽ’ ấy đấy!” Kawaminami đón ánh mắt Shimada. “Biệt thự còn có tên khác là Thời Kế Quán. Như tôi được biết, đó cũng là một trong những công trình do Nakamura Seiji thiết kế.”
“Kể tôi nghe chi tiết hơn đi.” Shishiya Kadomi quay trở về bàn bếp, nhấc tách cà phê vừa pha máy xong, mang lại cho Kawaminami. “Cậu lấy thông tin ở đâu? Kiểu này chắc không phải một mình cậu điều tra rồi!? Nói gì thì nói, cậu hẳn không muốn dây vào những chuyện liên quan tới Nakamura Seiji nữa chứ nhỉ!”
“Vâng.” Kawaminami ngậm điếu thuốc mới trên môi, “Chính vì thế, tôi mới nói là có duyên… À, tôi xin phép uống cà phê nhé.”
Cậu cho thêm đường vào tách, khuấy đều, nhưng không quên dò xét biểu cảm trên mặt Shishiya! Anh đan hai tay sau đầu, mắt chăm chú nhìn cậu.
“Chuyện này bẳt nguồn từ bộ phận tôi làm. Tôi có nói sơ qua trên điện thoại với anh rồi, hồi mùa xuân tôi vào làm tạp chí.”
“À, ừ.” Shishiya mím cặp môi dày, gật đầu đồng tình. “Cậu làm biên tập cho CHAOS?”
“Anh đọc CHAOS chưa?”
“Đọc lướt thôi. Tôi không hứng thú với thể loại tạp chí ấy lẳm.” CHAOS là nguyệt san của Kitansha, ra đời ba năm về trước. Tạp chí lấy tiêu chí “ultra science*”, chủ yếu viết về các chủ đề liên quan đến tâm linh như siêu năng lực, UFO hay những hiện tượng kì bí. Đối tượng độc giả từ 15 đến 20 tuổi. Lúc mới phát hành, tạp chí rất được giới trẻ ưa thích, nhưng sau một thời gian không có thêm bài vở gì mới lạ, giờ chỉ xuất bản cầm chừng thôi.
Siêu khoa học.
“Ở ban biên tập của CHAOS, tôi đảm nhận phần dự án đặc biệt. Một trong số đó là ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’.”
“Hồn ma à…” Shishiya nhún vai, xoa xoa cặp má hóp. “Có ma thật không?”
“Hồi trước có, tôi không rõ chi tiết, nhưng người quanh vùng đều nói thế.” Kawaminami trả lời. “Chủ sở sở hữu biệt thự vốn là ông Koga Michinori, qua đời cách đây chín năm. Trước và sau thời điểm ấy, rất nhiều người trong nhà theo nhau mất mạng. Hiện nay dân trong vùng kháo nhau rằng có một thiếu nữ cứ đi thơ thẩn ở khu rừng gần biệt thự, hình như chính là hồn ma con gái ông Koga Michinori…”
“Koga Michinori?! Tôi nghe thấy cái tên này ở đâu rồi thì phải.” “Là người nổi tiếng đấy. Ông là cựu chủ tịch của công ty thuộc hàng nhất nhì trong ngành sản xuất đồng hồ mà.”
“À, ra thế. Hóa ra là chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga. Sau đó lại xây nên Biệt thự Đồng Hồ… Thời Kế Quán hả?” “Nghe bảo công trình kì lạ lẳm. Có tháp đồng hồ khá độc đáo, cấu trúc các phòng rất phức tạp, trong nhà bày đầy đồng hồ cổ.”
“Ồ!” Shishiya khe khẽ thốt, mắt dừng ở chiếc đồng hồ bát giác không còn chạy trên tường. Kawaminami tiếp tục, “Công trình kì lạ! Thoáng nghe mấy chữ này tôi đã nghĩ ngay, phải chăng lại liên quan đến ông ta? Bèn hỏi thử phó chủ biên xem sao. Trúng phóc, kiến trúc sư công trình là Nakamura.”
“Ra vậy! Đúng là có duyên thật. Conan, cậu cho tôi điếu thuốc!” “Mời anh.”
Shishiya rút điếu thuốc ra khỏi bao, lẩm nhẩm, “Điếu cho hôm nay,” rồi châm lửa.
Phổi Shishiya vốn rất yếu, vào lần gặp cách đây ba năm, anh từng tuyên bố với Kawaminami rằng đã quyết định mỗi ngày chỉ hút một điếu thuốc thôi. Có thể thấy anh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc đó.
“Hừm, dự án đặc biệt của cậu cụ thể ra sao?” Shishiya nhẩn nha nhả khói.
“Dự án đó… bảo là thú vị thì cũng thú vị đấy…” Kawaminami bối rối nhìn về phía hành lang dẫn ra cửa chính.
“Có chuyện gì khó nói à?”
Nghe hỏi, cậu lắc đâu “Dạ không,” chuyển hướng nhìn về lại chỗ cũ, “Mà, anh Shima… à không, anh Shishiya…”
“Gọi không thuận miệng nhỉ?”
“Không sao ạ. Nãy giờ cũng thuận rồi.”
“Có gì đâu, nếu không quen thì không cần gọi thế.”
“Không được. Bút danh là để xác nhận danh phận nhà văn của anh mà… Anh Shishiya, căn 408 ở sát vách căn anh phải không?”
“Đúng, đây là căn 409 mà.”
“Người ở căn đó, anh biết không?”
“Căn sát vách á?” Shishiya chớp mắt nghi hoặc. “Biết, cô Komyoji.” “Komyoji Mikoto.” Kawaminami đọc ra cả họ và tên. “Nghe cái tên anh không cảm thấy gì à?”
“Cảm thấy gì?” Shishiya ngửa cổ ra sau. “Ý cậu là người nổi tiếng?” “Vâng, cũng có thể nói là người nổi tiếng. Gần đây chị ấy hay xuất hiện trên ti-vi lắm.”
“Tôi không mấy khi xem ti-vi. Nghệ sĩ à?”
“Không phải nghệ sĩ.” Kawaminami mường tượng lại khuôn mặt người phụ nữ. “Chị ấy là người có khả năng tâm linh, danh tiếng đang lên.” “Có khả năng tâm linh?” Shishiya mở to mắt ngạc nhiên. “Thật á?” “Một nhà ngoại cảm có linh lực mạnh hiếm thấy, lại xinh đẹp nên rất được chú ý. Bên tôi đăng vài bài về chị ấy rồi, ban nãy vừa chạm mặt dưới nhà là tôi nhận ra ngay.”
“Trông không có vẻ sở hữu linh lực đặc biệt gì. Thinh thoảng giáp mặt ngoài hành lang tôi chỉ xã giao đôi câu thôi.”
“Komyoji xuất hiện trên ti-vi thì toàn mặc đồ đen, mặt mày trang điểm trắng toát như người chết, chắc để tạo bầu không khí ra vẻ thần bí.” “Mà về các hiện tượng siêu nhiên thì quan điểm của cậu như thế nào, tin hay không tin?”
“Hồi xưa thì tôi hoàn toàn phản đối mấy chuyện như thế. Nhưng từ ngày làm báo, đọc nhiều tài liệu và bằng chứng, ít nhiều tôi cũng tin là có… Tuy nhiên, chín phần mười bài vở trên báo đều là chuyện bịa.” “Một phần còn lại thì chẳc là chuyện thật hả?”
“Có thể nói thế.”
“Về linh lực của cô Komyoji, cậu nghĩ sao?”
“Tôi cũng không biết nói thế nào… Chị ấy sống một mình ạ?”
“Hình như thế. Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy.”
“Vậy ạ?”
“Ừ, mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên. Nhà ngoại cảm đi nữa thì cũng vẫn là con người thôi. Đúng không, Conan?” “À vâng… Mà chính vì thế…”
Shishiya dụi phần tàn thuốc vào gạt tàn, chờ xem cậu nói gì tiếp theo. “Mấu chốt là ở chỗ, để chứng minh vụ ‘Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ’ là thật, ban biên tập CHAOS đã quyết định đề cử người đẹp tâm linh Komyoji làm trưởng nhóm lần này.”
“Ồ, thế hả?”
Vẫn cái vẻ đó, Kawaminami nghĩ thầm, rồi nhún vai, “Vậy nên ban nãy tôi mới bất ngờ. Tôi đâu nghĩ chị Komyoji ở tòa nhà này, lại còn ở sát vách anh.”
“Ra là thế. Đúng là trùng hợp đến giật mình.” Shishiya cười híp mắt. “Nhưng mà, đôi khi nguồn gốc của nhiều việc đều có liên quan đến nhau cả. Mà bao nhiêu chi tiết ngẫu nhiên trùng hợp thế này thì nhất định là sẽ có chuyện gì đó cho mà xem.”
“Nhất định sẽ… có chuyện gì đó…”
“Nghe mù mờ nhỉ, không được khoa học cho lắm.”
“Nội dung kế hoạch bên tôi đại khái như sau.” Kawaminami tiếp tục. “Từ đêm 30 tháng này, nhóm thực địa sẽ giam mình ở Thời Kế Quán trong ba ngày liên tục. Chị Komyoji với vai trò người gọi hồn sẽ giúp chúng tôi liên lạc với hồn ma đang ngụ trong biệt thự.”
“Chắc cậu cũng nằm trong nhóm thực địa phải không?”
“Vâng. Thành viên gồm tôi, phó chủ biên, phóng viên ảnh, ngoài ra còn vài sinh viên trong Hội Mystery của Đại học W.
“Trinh thám à?”
“Không phải trinh thám đâu. Tên hội này hình như là ‘Hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí’ nên gọi tắt là Hội Mystery luôn.”
“Hầy. Dễ nhầm thật!”
“Nghe ‘huyền bí’ chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến người ngoài hành
tinh hay UFO. Thật ra chính tôi vẫn luôn nghi hoặc, phải chăng do hiểu lầm này mà tôi mới bị điều đến ban biên tập CHAOS.”
“Chắc không đến nỗi chứ…” Shishiya ngả mình ra sau. “Nhốt mình trong ngôi nhà đó hẳn ba ngày? Chà. Chắc sẽ không chịu được đâu.” “Anh nghĩ vậy à?”
“Tôi cứ có cảm giác lợn cợn. Nhà ma bình thường thì đã đành, nhưng đây lại còn là một trong những công trình của Nakamura Seiji…” Nhìn vào khuôn mặt băn khoăn của anh nhà văn, Kawaminami hỏi, “Anh cho rằng sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc à?”
“Ừ… à không. Nói thế thì vô căn cứ quá. Thôi, coi như tôi thần hồn nát thần tính đi.”
Shishiya bật cười, nhưng chân mày vẫn nhíu lại. Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán, rồi Mê Lộ Quán… cứ điểm qua số thảm án đã xảy ra tại các công trình của Nakamura Seiji thì đủ biết nỗi lo của anh không phải không có lý.
“Thời Kế Quán ấy, cậu có tìm hiểu được thông tin gì chi tiết hơn không?” Shishiya hỏi.
Như muốn xua đi nỗi ưu tư đang từ từ cuộn lên quấn lấy tâm khảm, Kawaminami lắc đầu thật mạnh, “Chưa có ạ.”
“Thế hả? Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé. Nếu được thì tôi cũng muốn đi cùng. Ngày 30, hai tuần nữa nhỉ?”
“Lúc đó anh có bận không?”
“Cuốn đang viết hạn chót là mười ngày nữa. Nếu hoàn thành kịp, thì không bận.”
Nhìn thái độ không chắc chắn của Shishiya, đủ biết bản thảo đang tiến hành không mấy suôn sẻ.
“Thôi tôi cứ về hỏi thăm sếp xem số người tham gia tăng lên có sao không. Nếu không sao thì anh nhập hội nhé.”
“Thôi khỏi. Nếu rảnh tôi muốn đi một mình thử coi. Đã là công trình của Nakamura Seiji thì nhất định phải thu xếp đến chiêm ngưỡng.” Nói xong, Shishiya giơ hai tay vươn vai, đứng bật dậy khỏi ghế. “À này, Conan. Gần đây có quán điểm tâm cũng yên tĩnh, đi với tôi ra đấy đi. Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi chưa có gì bỏ bụng. Sẵn tiện hai năm nay bặt vô âm tín rồi, nên tôi cũng có nhiều chuyện muốn hỏi đây.”
✳ ✳ ✳
Chủ nhật, ngày 16 tháng Bảy năm 1989.
Bên ngoài, cơn mưa cuối mùa vẫn rả rích rơi.
Những lời đầy ẩn ý của Shishiya khuấy động cảm giác bất an mơ hồ trong lòng Kawaminami, nhưng vào thời điểm ấy, cậu vẫn chưa ngờ được rằng chỉ hai tuần sau, trong chuyến viếng thăm Thời Kế Quán, cậu sẽ rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng.
CHƯƠNG 1
THÁP ĐỒNG HỒ KHÔNG KIM
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ là bóng tháp đen lừng lững nổi lên qua kẽ hở giữa cây rừng.
“Tháp đồng hồ kia rồi!” Từ băng ghế sau, Uryu Misao cất tiếng. Kawaminami ngồi ở ghế phụ lái giơ tay che nắng chiều chói chang đang hắt trực tiếp vào qua kính chắn gió, “Từ chỗ này không nhìn thấy mặt đồng hồ nhỉ?”
“Mặt số ở phía bên kia, hướng ra sân sau của biệt thự thì phải.” “Ra vậy, lạ thật. Thường thì mặt đồng hồ quay ra bên ngoài mới đúng. Với lại hình như tháp đồng hồ đó không có kim chỉ giờ.” “Đúng rồi. Thật ra tớ cũng chưa nhìn thấy mặt số của tháp đồng hồ đâu. Đợt tới thăm hồi năm ngoái tớ vẫn chưa được vào trong quan sát.” “Nếu đi vòng thì có chỗ trông thấy mặt đồng hồ rất rõ đấy!” Tài xế taxi lớn tuổi xen vào, giọng điệu như muốn nói cần biết gì ở thị trấn này, cứ hỏi tôi. “Ái chà chà, kì quặc lắm cơ! Trước đây nó có kim đồng hồ mà, chẳng hiểu vì sao người ta lại tháo đi.”
✳ ✳ ✳
Chiều Chủ nhật, ngày 30 tháng Bảy.
Nhóm thực địa của Kawaminami tập trung tại ga JR Ofuna, sau đó chia thành ba nhóm lên xe tới điểm hẹn. Trong đó có hai nhóm đi bằng taxi, nhóm còn lại đi xe bán tải từ nhà Kobayakawa Shigeo (phó chủ biên CHAOS) ở Yokohama.
Biệt thự có vấn đề mà họ đang đến nằm ở phía Bắc thành phố
Kamakura, vùng ngoại ô thị trấn Imaizumi, nơi được biết đến nhờ đền Hakusan và công viên Sanzaigaike.
Hồi xưa nơi này là xóm núi, một trong những vùng khuất của Kamakura. Nhưng gần đây không còn heo hút nữa nhờ dân cư nhà cửa đông đúc hơn. Dù thế, núi non trập trùng, cây lá bát ngát vẫn đủ khiến người ta thư thái.
Xe từ đường cái rẽ vào trong núi, xuyên qua khu dân cư yên tĩnh và vài ngã rẽ, cảnh quan bất chợt thay đổi. Những hàng sồi xanh um tùm đột ngột hiện ra hai bên lề, y như dải phân cách. Đường đi thình lình hết trải nhựa, dốc lên, thu hẹp như bị hút vào rừng rậm.
Một lát sau, qua những thân cây rừng u ám như ẩn giấu bí mật gì, họ trông thấy hình dáng tháp đồng hồ.
“Không hiểu sao tớ lại có cảm giác thật hoài niệm.” Katagi Sakiko, cô gái ngồi cạnh Uryu lên tiếng. “Cũng phải mười năm rồi tớ mới quay lại đây.”
“Ồ, em đã từng tới đây rồi à?” Kawaminami hỏi.
Có lẽ vì là lần đầu gặp anh biên tập này, Sakiko còn lạ, nên trả lời nhát gừng một cách thiếu tự nhiên, “Vâng. Lần ấy em tới đây để tập huấn.” “Lớp ngoại khóa của tụi em có lần đi tập huấn ở vùng này,” Uryu giải thích thêm. “Cả thảy bốn đứa: em, nhỏ này, Kawarazaki đang đi xe phía sau, cùng một bạn hôm nay không đi được là Fukunishi. Hồi tiểu học tụi em học chung lớp ở một cơ sở dạy thêm. Cứ vào hè là cơ sở ấy lại tổ chức trại tập huấn đặc biệt ở vùng này.”
“Cơ sở dạy thêm cho học sinh tiểu học mà còn tổ chức trại tập huấn nữa?”
“Tụi em đăng kí học để chuẩn bị cho kì thi đầu vào cấp hai. Hồi ấy do mới học lớp Năm nên cả bọn còn thong dong lắm*, đều coi tập huấn như đi dã ngoại. Hễ tới giờ sinh hoạt tự do là chạy vào chỗ rừng này chơi.” Ở Nhật, lớp Sáu mới hết tiểu học.
“Bây giờ cả bốn đứa lại cùng trường đại học luôn à?”
“Tụi em đăng kí trường trung học thuộc Đại học W, xong mấy đứa thân nhau đều thi đỗ cả. Về sau cùng lên đại học theo cơ chế tự động liên thông.”
“Ồ, học chung với nhau từ cấp hai lên đến tận đại học, quả là chuyện hiếm thấy đấy.”
“Vâng, em cũng nghĩ thế. Vào đại học xong cả bọn lại cùng tham gia hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí này nữa. Bảo là bạn thân từ thời cởi truồng tắm mưa, không bằng bảo là cái tội cái nợ với nhau.”
Uryu và Sakiko đều là sinh viên năm ba trường Đại học W, và cùng là thành viên Hội Mystery.
Uryu là một thanh niên sáng sủa, mặt dài, nước da trắng trẻo, giao tiếp tự nhiên, kể cả với những người lớn tuổi hơn như Kawaminami. Cậu ta hiện là hội trưởng hội nghiên cứu, trông bề ngoài đã thấy thông minh lanh lợi, ăn nói lưu loát.
Sakiko là một cô gái xinh xắn, tóc bob vừa xinh, nước da còn trắng hơn cả Uryu. Ấn tượng khi nhìn thấy cô chính là khuôn mặt nhỏ nhắn với cặp mắt to đen láy. Kawaminami nhủ thầm, dù là cái tội cái nợ hay cái gì, có bạn chơi từ nhỏ xinh thế này bao nhiêu cũng ưng.
Có tổng cộng năm sinh viên tham gia dự án đặc biệt. Ngoài hai cô cậu ở đây, còn có ba người đang đi chiếc taxi phía sau. Kawarazaki Junichi, cũng là sinh viên năm ba. Watanabe Ryosuke và Nimi Kozue đều sinh viên năm hai. Kozue mới quyết định tham gia ngày hôm qua thôi. Ban đầu Uryu rủ Fukunishi Ryota, một thành viên học năm ba đi, nhưng tối qua chỗ họ hàng cậu ta lại có chuyện không may nên không tới được, thành thử họ gọi Kozue đi thay.
Đường đi càng lúc càng hẹp lại. Trong lúc mọi người đang lo lắng không biết xe còn đi qua được hay không thì cánh cổng cao vút đã sừng sững hiện ra trước mắt. Từ xe bán tải màu bạc đi phía trước, một người đàn ông trung niên to béo mặc áo màu be bước xuống khỏi ghế lái. Đó là anh Kobayakawa Shigeo, 44 tuổi, người đề xuất ý tưởng thành lập dự án đặc biệt lần này, đồng thời cũng chính là trưởng nhóm.
Anh báo tin đã tới qua máy liên lạc nội bộ rồi đẩy cổng, và quay trở lại xe.
“Cứ đi theo họ là được hả?” Tài xế taxi quay sang Kawaminami hỏi. “Lần đầu tiên tôi vào bên trong đấy, nhưng trông cũng không đáng sợ lắm nhỉ?”
“Chuyện hồn ma hiện về ở đây, ai cũng biết ạ?”
Ừ
“Ừ, trong vùng này thì là vậy.”
“Chú sống ở vùng này luôn ạ?”
“À không, là vợ chồng em gái tôi. Tụi nó sống ở Imaizumi nên cũng kể với tôi nhiều á. Quý khách không sợ sao, có khi ma hiện thật ấy chứ?” “Vì muốn tận mất thấy ma nên tụi cháu mới kéo tới đây đấy ạ.” Kawaminami trả lời, cố ý ra vẻ nghiêm túc, khiến Uryu và Sakiko ngồi phía sau bật cười. Tài xế ngạc nhiên nhún vai, lái theo bán tải phía trước. Trên trụ cổng bằng đá xanh thẫm có gắn bảng tên Koga đã nhuốm màu thời gian. Sau khi ông Michinori qua đời, biệt thự được để lại cho con trai ông, cậu Koga Yukiya. Hiện giờ cậu ta vẫn sống ở đây. Không rõ thế nào, nhưng nghe đâu người quản lý biệt thự này là một phụ nữ trước làm việc cho nhà Koga.
Dù gì thì, Kawaminami ngẫm nghĩ, trông cảnh vật điêu tàn hoang phế, không vẻ gì là có người sống ở đây cả.
Đường đưa họ vào trải sỏi, chạy lên triền đồi thoai thoải, tới sân vườn ở mặt tiền biệt thự. Hẳn đã nhiều năm không ai tỉa tót, cỏ dại mặc sức mọc um tùm giữa các cây chò da hổ, nguyệt quế và hoa mộc trong vườn. Không thấy tường bao biệt thự đâu, cây cối của nhà cứ thế mọc lan vào màu xanh cây rừng. Ở nơi hoang vắng cô liêu thế này, có một hai tin đồn về hồn ma cũng chẳng phải chuyện gì lạ lẫm.
Taxi dừng lại trước biệt thự. Kawaminami bước xuống, đưa mắt quan sát xung quanh.
Đã hơn 4 giờ chiều. Giờ này thường trời đã chuyển sang màu hoàng hôn rồi, nhưng vì vẫn là mùa hè nên mặt trời còn ở trên cao. Mùa mưa đã qua, bầu trời trong xanh làm người ta sảng khoái. Mùi của cỏ cây, tiếng ve kêu râm ran… Có lẽ là nhờ rừng bọc xung quanh nên gió thổi mát rượi, cảm giác thật thoải mái. Nhưng trong một buổi chiều ngợp nắng như vậy, không hiểu sao Kawaminami lại cảm thấy không khí cứ lởn vởn một thứ gì u ám đáng sợ, khiến người ta sởn gai ốc.
“Khu nhà trông thật kì lạ.”
Phóng viên ảnh Utsuumi Atsushi bước xuống từ xe thứ ba, vừa nói vừa tiến đến gần Kobayakawa. Utsuumi có vóc dáng tầm thước, để râu, tóc dài buộc túm ra sau, năm nay 29 tuổi, hơn Kawaminami năm tuổi. Vai đeo đồ nghề chụp ảnh trông khá nặng, tay bấm bấm nút trập chiếc máy ảnh ống
kính rời.
“Bên kia rặng cây cũng có nhà ở luôn hả?”
“Phía bên đó hình như là nhà xưa đấy.” Kobayakawa trả lời. “Anh nói xưa là sao?”
“Kể ra thì phức tạp lắm.” Nói đoạn, Kobayakawa chậm rãi tiến về phía cửa vào ở mé trái mặt tiền.
Nhìn sơ qua có thể thấy biệt thự được tạo nên bởi ba phần khác nhau. Nếu đứng quay mặt vào biệt thự thì phần thứ nhất ở bên tay trái. Căn cứ theo hướng mặt trời thì phần này nằm ở phía Tây. Đó là nhà gỗ một tầng kiểu Tây, tường ván gỗ sơn màu nâu đậm, mái nhà lợp ngói màu rêu nhạt. Bên tay phải ngôi nhà Tây này, tức là mé Đông biệt thự, sừng sững một tháp đồng hồ đen thẫm. Đây là phần thứ hai. Tòa tháp vuông vức, cao tầm 20 mét, xây bằng đá tảng.
Phần thứ ba của biệt thự chính là ‘bên kia rặng cây’ mà Utsuumi vừa nói. Những bụi hoàng dương và thường xanh rậm rạp từ giữa mọc lan sang phải với vẻ hung dữ hoang dại, tạo thành một vạt cây cối rậm rạp. Đằng sau nó lấp ló một bức tường gạch đỏ ảm đạm, bên trong tường là một mái vòm vô cùng bắt mắt. Nối sang ngôi nhà Tây bên trái bằng một hành lang dài hẹp, ngôi nhà có mái vòm ấy là kiến trúc chính của Thời Kế Quán, cũng là nơi mọi người sẽ tụ tập và giam mình bên trong suốt ba ngày liên tiếp.
Đây là một trong các Quán do Nakamura Seiji xây dựng sao? Với tâm trạng câm nín, Kawaminami nhìn chằm chằm vào biệt thự, bất chợt nhớ lại vẻ mặt Shishiya hai tuần trước, khi nói với mình, “Dù sao thì cũng cứ cẩn thận nhé.” Cậu bất giác lúc lắc đầu, ngẩng lên nhìn tháp đồng hồ bằng đá đứng sừng sững.
Từ phía này vẫn không nhìn thấy mặt đồng hồ không kim. Mé phải tường màu nâu thẫm trổ một dãy cửa sổ hình bầu dục nhỏ xíu đều tăm tắp. Đột nhiên, mắt cậu dừng lại ở một ô cửa trong số đó. Bên trong tháp, ước chừng cao bằng tầng ba của ngôi nhà bình thường hình như có một bóng người.
Có ai… ở đó…
Kawaminami cố gắng nhìn kĩ hơn.
Ai…?
Chắc chắn là có bóng người.
Do khoảng cách khá xa nên cậu không nhận ra hình dáng thế nào, nhưng dứt khoát là có người. Người đó ịn mặt vào kính cửa sổ, chằm chằm trông xuống tình hình dưới này.
Không biết là ai nhỉ? Kawaminami lo lắng.
Không lý nào mới chiều muộn mà hồn ma đã xuất hiện. Thời Kế Quán không phải nhà hoang, có người ở trong cũng chẳng có gì là lạ, nhưng mà…
Kobayakawa vừa tới bậc thềm thì cửa mở ra ngay, cứ như đã có người đợi sẵn. Một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ đồ màu lục thẫm xuất hiện. “Chào mọi người.”
“Ồ, chị Sayoko. Cảm ơn chị đã tiếp đón.”
Kobayakawa vồn vã chào hỏi như thể hai bên đã thân quen từ trước. Đây chắc là chị Inami Sayoko, hiện đang chịu trách nhiệm quản lý Thời Kế Quán. Hình như chị ta phải dùng máy trợ thính vì tai phải có đeo một thiết bị trông như tai nghe.
“Chúng tôi đến làm phiền, mong gia đình thông cảm. Công ty vận chuyển đã mang đồ dùng cần thiết của chúng tôi đến chưa ạ?” “Đến rồi ạ.” Sayoko thoáng liếc về phía bọn Kawaminami đang đứng phía sau Kobayakawa rồi nói một cách hết sức lịch sự. “Cô Komyoji đang đợi mọi người. Xin mời vào nhà.”
Từ tiền sảnh có hai ngả hành lang. Một ngả dẫn sang ngôi nhà kiểu Tây, ngả còn lại chạy tuốt sang phải.
Có Sayoko dẫn đường, mọi người đi sang ngôi nhà Tây. Giống với bề ngoài, nội thất bài trí trong nhà cực kì đơn giản. Một bên tường dọc hành lang treo rất nhiêu mặt nạ dữ dằn, trông như mặt nạ dùng trong lễ hội hóa trang Venice. Cũng chỉ những món này có thể coi là đồ trang trí nổi bật ở đây thôi. Biệt thự nổi tiếng về đồng hồ, vậy mà suốt từ tiền sảnh đến hành lang chẳng thấy một cái nào.
Hai cánh cửa đằng cuối hành lang đã mở, dẫn vào một căn phòng mát mẻ nhờ bật máy lạnh. Trong phòng không có bài trí gì ngoài một chiếc bàn và vài cái xô-pha. Trên tường đối diện cửa ra vào có trổ cửa sổ khung trắng. Một phụ nữ mặc đồ đen tuyền đang ngồi bên khung cửa sổ ấy.
“A cô Komyoji, xin chào, xin chào.” Vẫn giọng điệu vồn vã như với Sayoko ban nãy, Kobayakawa chào hỏi và tiến về phía người phụ nữ. “Cô tới sớm thật đấy. Chúng tôi định sẽ tới sớm hơn nhưng đường đông quá, thành ra lại trễ mất…”
Komyoji lặng lẽ gật đầu. Cô đưa tay nâng gọng kính mát màu đen rồi hướng ánh nhìn về phía nhóm người phía sau Kobayakawa. Cảm giác khác hẳn lúc Kawaminami tình cờ gặp cô ở Green Heights hai tuần trước. Có lẽ do bộ váy kì lạ cô ta đang mặc, cả cách trang điểm cũng không phải kiểu trang điểm thông thường nữa. Đôi môi tô son tím nhạt, gò má trắng nhợt hốc hác.
“Hơi thất vọng nhỉ?” Utsuumi láo liên quan sát căn phòng rồi ghé tai Kawaminami nói nhỏ. “Lúc mới vào đây, tôi cứ nghĩ đồng hồ la liệt khẳp nơi cơ.”
Anh vừa thì thầm vừa hất cằm sang tường bên phải. Trên nền giấy dán tường màu nâu chỉ treo một chiếc đồng hồ hình tròn bình thường, cũng là chiếc đồng hồ duy nhất trong phòng.
“Chắc vì đây không phải là nhà xưa.” Đồng hồ trên tường chỉ 4 giờ 25 phút, Kawaminami móc đồng hồ quả quýt của mình ra so. Cũng 4 giờ 25 phút. “Anh Kobayakawa chẳng vừa nói thế là gì. Em đoán ngôi nhà gạch đỏ ở bên kia rặng cây mới là Thời Kế Quán nguyên bản. Vậy nên…”
Kể ra thì phức tạp lắm mà Kobayakawa nói ban nãy chắc là đây. ✳ ✳ ✳
Mười lăm năm trước, mùa hè năm 1974, chủ tịch Koga Michinori của Công ty Đồng hồ Koga đột nhiên từ chức, chuyển đến nơi này xây một biệt thự. Nhà xưa chính là ngôi nhà nằm sau vạt cây cối đàng kia, ngoài ra còn một ngôi nhà dựng biệt lập dành cho người làm. Nghĩa là bấy giờ chưa có tháp đồng hồ và ngôi nhà kiểu Tây. Năm năm sau đó, tức năm 1979, hai kiến trúc này mới được khởi công. Từ năm 1980, biệt thự mới mang dáng dấp như hiện tại. Gần như ngay lập tức, Michinori đột ngột qua đời.
Dù nằm trong dự án, Kawaminami cũng không biết rõ toàn bộ chi tiết về biệt thự. Cậu chỉ hỏi thăm đôi chút qua Kobayakawa mà thôi. Anh vốn là người sớm có hứng thú và đã ra công tìm hiểu rất nhiều về Thời Kế
Quán.
Vì sao Michinori xây nhà ở đây?
Vì sao về sau lại mở rộng biệt thự?
Mấy người chết liên tiếp sau ông, nguyên nhân là gì chứ? Cô gái giờ là hồn ma lảng vảng thì chết từ bao giờ, vì sao mà chết? Những điểm vướng mắc chất cao như núi. Kawaminami đã thử gặng hỏi
nhưng Kobayakawa không trả lời thẳng, chỉ nở nụ cười bí hiểm và vòng vo, “Chẳng phải chúng ta lập nhóm thực địa chính là để tìm ra các đáp án đó hay sao?”
“Vậy…” Kobayakawa nghiêm chỉnh ngồi xuống một chiếc xô-pha, cất giọng y như trong các cuộc họp. “Mọi người xin hãy chú ý. Sau đây tôi có nhiều điều phải giải thích cho nên… Chà, cảm ơn nhé.”
Kobayakawa chìa tay phải, tỏ ý cảm ơn với người đàn bà đang đẩy một xe nhỏ vào. Trên xe đẩy xếp san sát các ly ăm ắp nước trái cây đủ cho số người có mặt ở đây.
“Chị không cần nhọc công vậy đâu. Xin hỏi hành lý mang tới để đâu rồi nhỉ?”
“Ở bên Cựu quán.”
Cựu quán chắc là cách gọi ngôi ‘nhà xưa’ ở đằng sau rặng cây kia. “Thế ạ… Đúng rồi, tôi phải giới thiệu mọi người với nhau chứ nhỉ.” Kobayakawa đứng dậy, chìa tay về phía người đàn bà, “Đây là chị Inami Sayoko. Toàn bộ nơi này là do chị ấy quản lý đấy. Trong ba ngày tới đây, mong chị giúp đỡ chúng tôi.”
Inami Sayoko là một phụ nữ tầm 45 tuổi. Chị cao trên mức trung bình so với phụ nữ, tóc húi ngắn như đàn ông, khuôn mặt xương xương không trang điểm lộ rõ những nếp nhăn nhỏ và tàn nhang, nhưng sống mũi cao và đôi mắt sắc sảo cho thấy thời trẻ cũng thuộc loại ưa nhìn.
Chị cúi đầu chào, “Mong được giúp đỡ.” Rồi lướt mắt nhìn từng người một trong nhóm, làm Kawaminami bất giác nhớ đến cô giáo dạy Toán hồi cấp hai.
“Xin lỗi, nhưng…” Sayoko quay trở lại nhìn Kobayakawa rồi nói. “Tôi muốn xác nhận lại tên mọi người có được không? Yêu cầu của chủ nhà.” “Vâng, đương nhiên rồi. Mấy hôm trước tôi có gửi cho chị danh sách
người tham gia cùng với bản kế hoạch rồi nhỉ?”
Sayoko gật đầu, lấy trong túi áo ra một tờ giấy gấp, thoăn thoắt mở ra rồi lại nhìn mọi người.
“Để tôi giới thiệu nhé,” Kobayakawa nói. “Thanh niên đằng kia là biên tập viên Kawaminami Takaaki, cạnh cậu ấy là Utsuumi Atsushi ở ban nhiếp ảnh.”
“Cậu Kawaminami và cậu Utsuumi.” Sayoko nhắc lại, nhìn qua lại giữa mặt họ và danh sách trên tay.
Kobayakawa tiếp tục, “Năm người còn lại là sinh viên Đại học W. Tính từ đầu đằng kia lại là… Kawarazaki Junichi, Uryu Misao, Watanabe Ryosuke, Katagi Sakiko và Nimi Kozue.”
“Kawarazaki, Uryu…” Sayoko đọc tên từng người như giáo viên đang điểm danh và ghi nhớ diện mạo học sinh. Đến tên người cuối cùng, chị khựng lại, lắc đầu hoài nghi. “Tên cô Nimi Kozue không có trong danh sách.”
“À, quên nói, là thế này,” Kobayakawa đưa tay gạt nhẹ mồ hôi trên vầng trán gồ. “Trong danh sách đó đề tên cậu Fukunishi Ryota, nhưng hôm nay cậu ấy bận việc đột xuất nên không tới được. Chúng tôi bèn nhờ cô bé này đi thay.”
“Tôi hiểu rồi, cô Nimi Kozue nhỉ.”
Sayoko rút bút trong túi ra, ghi tên lên giấy. Sau khi kiểm tra kĩ lưỡng lại tên từng người một, chị ta nói, “Mời mọi người,” và rê xe đẩy lại gần bàn. “Từ trước đến nay không biết bao nhiêu nhóm đã đề nghị tới khảo sát nhưng đều bị từ chối hết. Lần này phá lệ chấp nhận. Thay mặt cho chủ nhà tôi có vài điều muốn lưu ý với mọi người như sau.”
Đợi mọi người lấy nước xong, chị ta tiếp tục, “Đầu tiên, tôi đoán chắc mọi người đều đã biết. Bên Cựu quán, tức là nơi mà mọi người sẽ vào ở từ hôm nay ấy, đang bảo quản đồng hồ của chủ nhân đời trước. Tất cả đều là đồ sưu tập rất quý giá, vì thế mọi người tuyệt đối không được đụng vào, dù là đồ cất trong tủ kính hay trưng bày ở ngoài.
“Các đồ vật khác, như đồ dùng nhà bếp hay nội thất trong nhà, còn hoạt động được thì mọi người cứ tự nhiên sử dụng. Điện vẫn lắp, nhưng hệ thống gas đã cắt rồi. Máy lạnh chạy bình thường nên không phải lo nóng. Tuy nhiên bên đó đã bỏ không chín năm trời, đường ống gỉ sét nhiều, nước
không dùng để uống được.”
“Chúng tôi đã chuẩn bị để lấy nước ăn bên ngoài về dùng rồi.” Kobayakawa xen vào. “Chắc chị cũng thấy trong chỗ hành lý chuyển tới có can nhựa đúng không?”
“Vâng. Chúng tôi đã hứng đầy nước giúp mọi người rồi.” “Cảm ơn chị quá.” Kobayakawa cúi đầu. “Chắc mất sức lắm phải không, tận sáu can cơ mà?”
“Ở đây có người chuyên lo mấy việc tay chân.”
“Thế ạ. Chị chu đáo quá, chúng tôi cảm ơn rất nhiều…”
“Đừng khách sáo. Chúng tôi đã hứa sẽ hỗ trợ mọi người mà.” Nói đến đây, Sayoko vốn vẫn nghiêm nghị từ đầu tới giờ đột nhiên hơi mỉm cười. “Còn một việc nữa. Ở phía trong cùng của Cựu quán có một căn phòng khóa kín, mong mọi người không tự ý vào đấy.”
“Có phải là ‘phòng quả lắc’ không? Trước đây tôi đã từng nghe qua.” Kobayakawa nói. “Tại sao không được vào hở chị?”
“Đó là di nguyện của chủ nhân đời trước.”
“Ồ. Là di nguyện của ông Koga Michinori sao?”
“Là một trong những lời dặn dò của ông trước lúc đi xa.” “Chà.”
“Phòng quả lắc là phòng như thế nào vậy?” Kawaminami tò mò hỏi. “Đó là…” Sayoko ngập ngừng, cụp mắt nhìn xuống, “Là phòng của con gái ông chủ. Cô ấy đã mất mười năm trước rồi.”
“Còn gì nữa không ạ?”
Đáp lại câu hỏi của Kobayakawa, Sayoko chỉ im lặng lắc đầu. Kobayakawa gật đầu, đưa mắt nhìn lướt mọi người. Ai nấy đều lộ vẻ thắc mắc và im lặng dõi theo.
“Tôi thì không có gì khác để dặn dò cả. Thực phẩm đã được xe chuyển đến, cơ bản đều là đồ ăn nhanh. Dù sao cũng chỉ có ba ngày, mọi người tạm chấp nhận vậy. Sau đó thì… À phải rồi, có một chuyện quan trọng. Cô Komyoji này…” Kobayakawa quay về phía nhà ngoại cảm vận đồ đen. “Cô nhắc lại yêu cầu được không ạ?”
“Vâng.” Komyoji đáp ngắn gọn, đứng dậy nghiêm nghị nói. “Mọi người chắc cũng đã nghe anh Kobayakawa nói qua, nhưng giờ cho phép tôi giải
thích lại thêm một chút.”
Kawaminami thầm nghĩ, cách nói chuyện của cô lúc này y hệt như lúc tọa đàm trên ti-vi. Giọng trầm ấm, từ tốn nhả từng chữ một. “Như mọi người đã biết, công việc chúng ta sắp tiến hành là liên lạc với linh hồn đang hiện diện trong nhà này. Linh hồn có thật hay chỉ là lời đồn, hiện tại tôi chưa thể xác định được. Chúng ta sẽ tận dụng khoảng thời gian ba ngày kể từ hôm nay để làm rõ nghi vấn đó. Tôi được gọi đến để hỗ trợ mọi người. Trong số những người ở đây, không biết đã có ai tham gia một buổi gọi hồn chưa?”
Nghe hỏi, Kawaminami và Utsuumi bất giác nhìn nhau, ngơ ngác lắc đầu. Năm cô cậu sinh viên cũng phản ứng tương tự, nhưng một lát sau, có người lên tiếng.
“Hồi trước em có chơi trò bàn xoay* rồi.”
Một trò sử dụng ngoại khí của những người tham gia để tạo ra trường sinh học làm chiếc bàn tự xoay.
Đó là cô sinh viên năm hai Nimi Kozue. Cô bé để tóc ngắn, khuôn mặt đáng yêu như cáo con, trông rất hoạt bát và có vẻ hay tò mò. Khác hẳn dáng vẻ yểu điệu tinh tế của chị khóa trên Katagi Sakiko.
“Trò bàn xoay à? Ừm, đó cũng là một dạng gọi hồn. Ở Âu Mỹ người ta gọi là table-turning.” Nụ cười hiện trên khuôn mặt xanh xao của nhà ngoại cảm. “Mọi người, nhất là các bạn trẻ, hình như rất thích trải nghiệm loại hình đó. Thế nhưng tôi lại không đồng tình cho lắm. Bởi vì khi gọi hồn theo kiểu để cho vui này, khó mà tránh được những hậu quả nguy hiểm. Nghe nói các bạn đang nghiên cứu về các hiện tượng siêu nhiên, nên tôi nghĩ mọi người rất hiểu điều này. Tóm lại, hiện tượng có tên gọi hồn ma khó lòng giải thích thông suốt bằng các kiến thức khoa học hiện có của chúng ta. Nói cách khác, đây là chuyện của hai thế giới, vì thế phải xử lý thận trọng.”
Thoạt tiên Kawaminami hết sức nghi ngờ về linh lực của Komyoji. Thế nhưng gặp gỡ và lắng nghe trực tiếp thế này, cậu lại thấy thuyết phục vì những lời giản dị của cô. Có thể nói, Komyoji có sức thu hút.
“Điều đầu tiên tôi muốn mọi người hiểu là, sức một mình tôi thì không đủ để giao tiếp suôn sẻ với linh hồn, nhất định phải được mọi người giúp đỡ mới xong. Kể ra thì, linh hồn tương tự sóng điện, cơ bản là nhìn không
thấy sờ không được. Trong những buổi gọi hồn tôi đã tổ chức, thì thể xác của người tham gia chính là ăng-ten bắt sóng. Chỉ có mình tôi thì cố gắng đến đâu cũng không nên cơm cháo gì. Cần có sự tập trung tinh thần của tất cả, biến thể xác mình thành ăng-ten mới được.”
Nói tới đây Komyoji chậm rãi gỡ kính mát, để lộ đôi mắt dài hẹp tán phấn tím, thinh lặng quan sát mọi người. “Ngoài ra, theo kinh nghiệm của tôi, linh hồn đều rất nhạy cảm, dị ứng với tạp chất. Bởi vì suy đến cùng, họ thuộc dạng vật chất rất đơn thuần. Để nâng cao khả năng bắt sóng với các linh hồn, chúng ta cần giữ cho cơ thể mình ở trạng thái thuần túy nhất. Cái gọi là ‘trạng thái thuần túy’ ở đây chính là trạng thái tự nhiên. Linh hồn không thích những thứ do con người tạo ra. Ví như sợi tổng hợp, kim loại đã gia công, nhựa… nếu chúng ta mang những thứ không thuần chất này theo người thì linh hồn có khuynh hướng xa lánh chúng ta.”
Utsuumi Ừm một tiếng vẻ tán thành. Đám sinh viên mỗi người một biểu cảm, nhưng không ai phản biện.
“Trạng thái lý tưởng nhất chính là không mặc gì cả, nhưng tôi nghĩ như thế cũng bất tiện. Cho nên…” Komyoji tạm ngừng, quay sang nhìn góc phòng bên phải, ở đó có tám hộp giấy đen bằng bặn.
“Hôm nay tôi đã chuẩn bị trang phục dành riêng cho mọi người, giống bộ tôi đang mặc đây. Nó được gọi là ‘linh y’, là quần áo đã được thanh tẩy. Sau đây mọi người chuyển sang mặc loại trang phục này. Được chứ ạ?”
Đúng như Komyoji nói lúc đầu, Kobayakawa quả là đã trao đổi với mọi người về yêu cầu mặc linh y rồi.
Thấy ai nấy gật đầu, nhà ngoại cảm mỉm cười hài lòng. “Trừ đồ lót, còn thì mọi người hãy cởi hết ra. Vòng cổ, hoa tai, nhẫn, đồng hồ đeo tay… nữa. Cởi giày và thay dép lê vào. Đến lúc gọi hồn thì bỏ dép sau. Những vật dụng không cần thiết cũng đừng cầm theo, vì linh hồn lưu trú trong nhà rất ghét đồ vật từ thế giới bên ngoài.”
“À… thưa chị?” Một sinh viên lên tiếng, là Watanabe Ryosuke. “Mắt kính có được đeo không ạ?”
Trong số những người tụ tập ở đây chỉ mình cậu ta phải đeo kính. Dáng người mập mạp, khuôn mặt tròn trịa, nhìn vững vàng điềm tĩnh đúng kiểu mọt sách.
“Về nguyên tắc thì phải tháo ra. Kính áp tròng cũng vậy.”
“À… Thế ạ?” Sau tròng kính dày cộp, đôi mắt nhỏ tí hin của cậu hấp háy liên tục. “Chết thật. Không có kính mà linh hồn xuất hiện thì em làm sao trông thấy được.”
“Không phải lo đâu.” Nhà ngoại cảm chăm chú nhìn đám sinh viên, khẳng định chắc nịch. “Khi linh hồn xuất hiện, chúng ta sẽ nhìn bằng ‘con mắt’ khác với mắt chúng ta thường dùng. Vì thế mắt kém không thành vấn đề. Nhìn thấy hay không là tùy thuộc vào việc thể chất và tinh thần của chúng ta có giữ được độ thuần chất cao hay không.”
Theo hướng dẫn của Komyoji, mọi người lần lượt mặc linh y. Quần áo, giày và phụ kiện thay ra đều được cho vào túi ni lông đã chuẩn bị sẵn cho từng người. Trong thời gian mọi người ở lại đây, nhà Koga sẽ bảo quản đồ đạc giúp họ.
Cánh đàn ông nhanh chóng thay đồ xong. Trong lúc các chị em sang phòng khác thay quần áo, Kobayakawa, Kawaminami, Utsuumi cùng ra chỗ chiếc bán tải đang đậu trước nhà để dỡ thực phẩm, hành lý xuống, mang vào tiền sảnh.
✳ ✳ ✳
Lúc tất cả lại tụ tập đông đủ ở phòng khách thì đã là 5 giờ 20 phút chiều. Họ định 6 giờ sẽ qua Cựu quán.
“Chà. Kozue trông ra dáng quá nhỉ!” Kawarazaki vừa xoa xoa chiếc cằm dài vừa buông lời trêu chọc. Cậu ta để đầu đinh, làn da rám nắng và thân hình rắn rỏi, cũng là người cao nhất trong số các sinh viên ở đây. “Trông như một vu nữ* tinh nghịch ấy. Có muốn làm đệ tử của chị Komyoji không?”
Ý nói Trinh nữ phục vụ trong đền thờ Thần đạo.
“Anh thì như một tên pháp sư háo sắc ấy!”
“Đàn ông ai chả háo sắc!”
“Tức là em nói đúng rồi phải không?” Kozue cười khúc khích. Đoạn cô dang rộng hai tay, cúi mặt nhìn bộ linh y đang mặc, “Ai dà, quần áo lụng thà lụng thụng, mặc khó chịu quá.”
“Anh cũng thấy khó chịu. Đũng chật quá.”
Linh y may bằng vải bông dày cui. Ví von thì giống tăng y thời Trung cổ. Tả thực thì giống áo chui đầu có mũ và túi, cỡ siêu lớn, lớn đến mức người cao như Kawarazaki mà mặc còn kín chân. Kawaminami cũng thuộc dạng cao ráo, thế mà vạt dài quá chân đến mấy li, đi lại quét đất lệt quệt. Cả nhóm ăn mặc như vậy tập trung một chỗ trông thật dị thường.
“Nhưng mà,” Kawarazaki quay về phía Uryu. “Lần này bà Sayoko ân cần khác hẳn với đợt tụi mình tới nhỉ.”
“Rõ ràng rồi còn gì.” Uryu nhún vai đáp. “Một bên là đám sinh viên lớ nga lớ ngớ, một bên là ban biên tập tạp chí của nhà xuất bản lớn, thái độ thay đổi là đúng rồi. Với cả lần này chúng ta còn hứa gửi thù lao ra tấm ra món nữa mà.”
Mùa thu năm ngoái bọn họ đã đề nghị được đến thực địa nhà này như một phần hoạt động của Hội Mystery. Ý tưởng là của Watanabe. Cậu ta nguyên quán Kamakura nên đã nghe sự tích Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ từ lâu rồi. Nhưng nhà này đã từ chối đề nghị của họ…
“Dù như thế thì bà cô đó…”
Nói đến đây, Kawarazaki chợt nín lặng, ngờ ngợ quay ra nhìn cánh cửa sau lưng, vì cảm giác như có ai mới xuất hiện. Cậu tưởng là Sayoko, nhưng hóa ra không phải. Xuất hiện ở cửa là một thiếu niên mảnh mai mặc bộ đồ màu trắng trông như đồ ngủ. Mái tóc đen dài óng mượt, làn da trắng đến mức có cảm giác từ khi sinh ra đến giờ chưa một lần tiếp xúc với mặt trời. Cặp mắt đen láy chăm chú nhìn họ, đôi môi hồng mím chặt như tư lự điều gì. Trên khuôn mặt đẹp tuyệt phảng phất đôi nét u sầu.
Cả Kawarazaki lẫn Uryu… à không, tất cả những người hiện diện tại phòng khách đều nín thở. Khuôn mặt đẹp như búp bê chế tác tinh xảo của cậu thiếu niên nhanh chóng thu hút mọi ánh nhìn. Kawaminami cũng không ngoại lệ. Khi cậu bắt đầu trấn tĩnh để tự hỏi đây là ai thì thiếu niên nọ đã bước hẳn vào phòng.
“Chị…” Từ miệng thiếu niên phát ra âm thanh khe khẽ như tiếng chuông kêu. “Chị đâu rồi?”
Cậu vừa thì thầm vừa quét mắt khắp phòng khách. Khuôn mặt thanh tú nhưng đờ đẫn, thẫn thờ như lạc trong cõi mộng.
“Cậu là…” Kawamiami tiến về phía thiếu niên, định bắt chuyện thì… “Cậu Yukiya,” Sayoko chạy bổ vào phòng khách. “Sao cậu lại ra đây,
cậu Yukiya?”
Yukiya, thiếu niên xinh đẹp trông chỉ tầm mười mấy tuổi này là con trai của ông Koga Michinori quá cố. Cũng là chủ nhân hiện tại của Thời Kế Quán.
“Cậu sao thế?” Sayoko hỏi lại lần nữa.
Thiếu niên quay lại, vẻ mặt vẫn mơ mơ màng màng. Có khi bộ đồ cậu đang mặc là đồ ngủ thật. Cụm ‘bệnh mộng du’ lập tức nảy ra trong đầu Kawaminami.
“A cô Sayo,” thiếu niên nghiêng đầu như một chú mèo. “Chị ấy, chị gọi cháu tới. Vậy nên, cháu…”
“Thế ư?” Sayoko lộ vẻ bất lực, bước tới cạnh cậu. “Cô ấy không có ở đây đâu. Cậu về phòng đi nhé.”
“Nhưng mà…” Thiếu niên đau buồn lắc đầu, rồi lặng lẽ đưa mắt nhìn các vị khách. “Mấy người này là ai?” Cậu hỏi Sayoko.
“Khách nhà ta. Tôi có nói với cậu rồi mà, phải không?”
“Thế sao? Họ tới bắt nạt chị à?” Dứt lời, đôi mắt cậu long lên, giọng sắc lạnh. “Nếu thế tôi sẽ cho họ biết tay. Ai bắt nạt chị tôi, tôi sẽ giết hết.” “Cậu Yukiya, đừng nói mấy chuyện giết chóc như thế.”
“Không sao cả. Nếu tôi làm thì không sao cả. Ai bắt nạt chị tôi…” “Cậu lầm rồi.” Sayoko nhấn mạnh từng chữ. “Cậu lầm rồi. Đừng lo. Họ không phải hạng người như thế đâu. Không ai bắt nạt chị cậu hết. Về nào!” Sayoko ôm lấy đôi vai gầy của Yukiya, đưa ra cửa. Thiếu niên khẽ gật đầu, ngoan ngoãn đi theo. Khi bóng hai người khuất ngoài hành lang… “Anh Tadokoro,” tiếng Sayoko vọng vào. “Anh Tadokoro, anh đưa cậu Yukiya về phòng tháp đi.”
Phòng tháp…
Kawaminami bất giác nhớ lại hình ảnh trông thấy bên ngoài lúc mới tới đây. Bóng người đăm đăm trông xuống từ cửa sổ tháp đồng hồ. Trong tâm tưởng Kawaminami, khuôn mặt xinh đẹp của thiếu niên ban nãy mơ hồ khớp vào bóng người nọ.
“Vâng.” Họ nghe thấy giọng khàn khàn của một người đàn ông. “Cậu chủ, đi lối này.”
Ban nãy Sayoko nói ‘Ở đây có người chuyên lo mấy việc tay chân’,
chắc chính là người tên Tadokoro kia đây.
Sayoko quay vào phòng khách, nói gọn “Xin phép nhé!” và bắt đầu thu dọn ly tách trên bàn, không nhắc một chữ nào về chuyện vừa rồi. “Chị Sayoko!” Sau khi cân nhắc, Kawaminami dò hỏi. “Thiếu niên ban nãy là con trai của ông Michinori phải không?
“Vâng.” Sayoko đáp, vẫn luôn tay dọn dẹp.
“Cậu ấy còn trẻ quá. Bao nhiêu tuổi rồi ạ?”
“Năm nay 16.”
“Chuyện là thế này, Kawaminami.” Có vẻ rành rẽ sự tình. Kobayakawa giải thích thay cho Sayoko. “Sau khi ông Michinori mất, cậu Yukiya con trai ông thừa kế toàn bộ tài sản, nhưng bấy giờ cậu ấy mới tám tuổi, cần có giám hộ cho đến tuổi hai mươi. Vì thế bà Adachi Terumi em gái ruột ông, tức cô của cậu Yukiya, được chỉ định làm giám hộ, bởi vì bà là người thân duy nhất của gia đình họ.”
“Bà ấy cũng sống ở đây à?”
“Không, bà đang ở Úc.”
“Úc?”
“Chồng bà kinh doanh bên ấy. Từ khi cưới chồng bà vẫn sống ở bên đó suốt, mà còn có con nữa, nên không thể đưa cả về Nhật được. Bà đành ủy thác cho chị Sayoko thay họ chăm sóc cậu Yukiya.”
“Ra vậy.”
Vừa hiểu xong một việc, Kawaminami lại nảy ra một thắc mắc khác. Ánh nhìn của cậu chuyển từ Kobayakawa sang Sayoko.
“Chị Sayoko này. Ban nãy Yukiya có nhắc tới ‘chị tôi’… Đó là?” “Kawaminami.” Kobayakawa cắt ngang câu hỏi của cậu, nghiêm mặt lắc đầu, ngụ ý ‘Tôi sẽ giải thích cho cậu sau’.
Sayoko im lặng gật đầu chào rồi đẩy xe xếp đầy ly vội vã rời khỏi phòng.
“Này, có khi nào…” Sakiko thì thầm với Uryu đứng cạnh. “Có khi nào cậu vừa rồi chính là bé trai lúc đó không?”
“Lúc đó là lúc nào?” Uryu gãi đầu thắc mắc.
“Tớ chỉ nhớ mang máng thôi. Nhưng mà, mười năm trước ấy… Kawarazaki, cậu có nhớ không?”
Nghe hỏi, Kawarazaki cũng gãi đầu như Uryu, “Không nhớ.” Sakiko sốt ruột đưa tay vuốt tóc. “Coi kìa. Lúc đó ấy. Ở trại tập huấn mùa hè năm ấy, mọi người đã cùng…”
Kobayakawa đột nhiên hắt xì rõ to ngắt ngang lời cô, “Xin lỗi mọi người.” Anh khụt khịt mũi, ho thêm mấy tiếng nữa. Rồi ngước lên đồng hồ, “Ô! Giờ vừa đẹp rồi kìa.”
Lúc này là 5 giờ 45 phút chiều. Kobayakawa đứng dậy khỏi xô-pha, nói với mọi người, “Chúng ta đi thôi.”
✳ ✳ ✳
Có Sayoko dẫn đường, cả tốp kéo nhau đi về phía Cựu quán. Hành lang nối giữa phòng khách và tiền sảnh nhuộm trong ánh chiều tà đỏ bầm lọt vào qua dãy cửa sổ dọc bức tường phía Tây. Chín người mặc đồ đen như pháp sư nối gót nhau lặng lẽ di chuyển, trông cảnh tượng quỷ quái vô cùng.
Kawaminami bước đi, lòng dấy lên một cảm xúc không sao tả được. Tình cờ cậu liếc mắt qua loạt mặt nạ treo dọc bức tường đối diện dãy cửa sổ, và phát giác có điểm kì lạ: thiếu mất một chiếc.
Cậu không nhớ vốn dĩ có cả thảy bao nhiêu mặt nạ treo trên bức tường này, cũng không rõ cái biến mất trông ra sao. Nhưng đúng là có chiếc treo ở đây lúc cậu đi qua hành lang lần đầu mà giờ lại không còn nữa. Mất khi nào vậy nhỉ?
Ban nãy mọi người có đi qua đi lại mấy lần để dỡ thực phẩm trên xe xuống. Khi ấy đã mất chưa nhỉ?
Kawaminami cố gắng nhớ lại, nhưng không tài nào nhớ được. Theo lý mà nói, có thể là người trong nhà cảm thấy treo nó ở đó không phù hợp nên đã gỡ xuống.
“Xin mời đi lối này.”
Sayoko dẫn chín người băng qua tiền sảnh, đi theo hành lang dẫn sang phía Đông. Ba cậu sinh viên chia nhau mang mấy thùng các tông đựng thực phẩm.
Hành lang dài dằng dặc không có lấy một cái cửa sổ. Tiếng linh y lệt sệt
quét đất hòa cùng tiếng dép lê loẹt quẹt khuấy động bầu không khí tù đọng và hơi ẩm mốc. Cuối hành lang là hai cánh cửa bằng sắt, màu đen, trông rất nặng nề kiên cố, cảm giác như cửa ngục.
Sayoko dừng chân trước cửa, quay lại nhìn mọi người, “Bên kia chính là Cựu quán.”
Chị lấy một chìa từ chùm chìa khóa đang cầm trên tay rồi tra vào ổ. Xem ra lối vào Cựu quán bình thường đều ở trong tình trạng khóa kín. Cùng tiếng kim loại lách cách, cửa mở ra.
Đúng lúc đó…
“Khoan đã.” Từ đằng sau, tiếng ai đó đột ngột vang lên làm cả nhóm giật thót. “Khoan đã, mọi người.”
Giọng đàn ông, khàn khàn, đứt đoạn. Dưới ánh sáng mờ mờ từ đèn trần hắt xuống, chủ nhân giọng nói lẩy bẩy tiến lại. Là một ông lão mặc đồ truyền thống màu nâu nhăn nhúm, mặt khô quắt như xác khỉ ướp.
“À, ông Nonomiya.” Sayoko chạy về phía ông lão. “Ông đừng như thế, ông mau về đi!”
“Già không lừa các người đâu!” Ông lão phớt lờ Sayoko, tiếp tục cất giọng khàn khàn rùng rợn nói với chín người đang sững sờ đứng yên tại chỗ. Mặt ông gầy rộc, chi chít nếp nhăn, nhưng hai mắt thì sáng quắc. “Các người mau rời khỏi nhà này đi. Điềm dữ đã xuất hiện, hủy diệt ngay trước mắt. Không muốn bị người ta giết thì đi mau đi!”
“Cháu biết rồi, ông Nonomiya.” Sayoko gật đầu thật mạnh. “Cháu sẽ dặn dò mọi người, ông mau về đi.”
Ông lão thở khò khè, quay sang nhìn Sayoko, “Ồ, vợ của Inami Yusaku đấy à?” Ông nói như thể bây giờ mới trông thấy chị ta. “Già đã mơ, một giấc mơ đáng sợ. Sẽ có người chết nữa đấy. Nhà này cũng sụp đổ luôn. Điềm xấu xuất hiện lúc gieo quẻ. Diệt vong. Diệt vong tất thảy…”
Sayoko hết lời khuyên giải vỗ về, mãi ông lão mới chịu đi cho. Chị ta khẽ thở dài, quay lại với chín người, “Xin lỗi.”
“Ai đấy ạ? Nghe chị gọi ông là Nonomiya.”
Kobayakawa hỏi, Sayoko thở dài thêm lần nữa rồi trả lời. “Ông ấy là Nonomiya Yasuhito, một thầy bói.”
“Thầy bói? Thầy bói ở đâu ra vậy?”
“Cố vấn tâm linh của ông chủ quá cố suốt từ thời còn trẻ.” “Thế ư? Ồ, tính ra tôi có nghe qua. Bao lâu nay ông Nonomiya vẫn ở đây à?”
“Đúng… Chuyện ban nãy mọi người đừng để bụng. Ông hơn tám mươi rồi nên lẩn thẩn lắm.”
“Tôi cũng cảm thấy thế,” Kobayakawa cụt hứng nhún vai. “Nhưng ông ấy kích động quá, không hiểu giấc mơ đáng sợ đến mức nào nhỉ.” Không trả lời thắc mắc của Kobayakawa, Sayoko đưa hai tay đẩy cửa sắt đã mở khóa, bước vào và bật đèn, “Mời mọi người.”
Trước mặt họ là một không gian dài hẹp, bề ngang bằng đúng đoạn hành lang họ vừa đi qua, với một cầu thang thoai thoải dẫn xuống dưới. Tương ứng với cầu thang, càng đi trần nhà càng thấp xuống.
“Cánh cửa bên dưới đây chính là sảnh xưa của nhà này, hành lý đang để ở đó.”
Cuối cầu thang là cửa sắt hai cánh tương tự như cửa phía trên. Trước cửa chất đống hành lý do công ty vận tải đưa tới, gồm túi ngủ, can nhựa trắng đựng nước ăn và vài thùng các tông.
“Tôi đưa mọi người đến đây thôi.” Chị quản gia hơi cúi đầu chào rồi quay lên hành lang. “Xin ghi nhớ những điều tôi đã lưu ý. Nếu có gì hư hỏng thì phải bồi thường thiệt hại đấy ạ.”
“Chúng tôi hiểu rồi.” Kobayakawa trả lời. “Những món đồ chúng tôi để lại bên Tân quán xin chị bảo quản giùm cho. Gặp lại chị sau bảy mươi hai tiếng nữa, mùng 2 tháng Tám, cũng vào giờ này chị nhé…”
Cửa Cựu quán vừa đóng lại sau lưng thì ở bên kia cửa sắt màu đen nơi chân thang, đủ mọi tiếng chuông đồng hồ bắt đầ thi nhau ngân lên. Cho biết đã 6 giờ.
CHƯƠNG 2
HAI KẺ ĐẾN MUỘN
Bước xuống xe buýt, ngước nhìn bầu trời chạng vạng tối, Fukunishi Ryota bất giác thở dài.
Cuối cùng đã đến rồi.
Cậu biết giờ có đến thì cũng chẳng để làm gì nữa. Theo như bản kế hoạch cậu nhận được thì 6 giờ tối mọi người sẽ bắt đầu dự án đặc biệt, nhưng giờ đã 6 giờ kém 10, dù xuất phát luôn thì nhanh cách mấy vẫn không kịp. Mà có kịp thì hẳn cũng có người thế chỗ mất rồi.
Vậy mà cậu vẫn bươn bả đi tới đây, tại sao thế nhỉ?
Bảo là tự dưng muốn đến cũng không sai, nhưng mặt khác lại thấy bức bách cần đi như có gì xui khiến. Chỉ chắc chắn một điều là tâm trạng cậu đang chìm trong u uất và bi thương khác thường.
Fukunishi vừa đưa tay đẩy gọng kính trễ xuống do mồ hôi, vừa thong thả đưa mắt quan sát khung cảnh xung quanh. Đã mười năm cậu mới quay trở lại nơi này, vậy mà không thấy lòng thân thiết hoài niệm gì cả.
Mùa hè mười năm trước, cơ sở dạy thêm mà cậu theo học tổ chức trại hè tập huấn ở đây, tình cờ cũng vào cuối tháng Bảy đầu tháng Tám như lúc này.
Fukunishi còn nhớ họ trọ ở một ngôi nhà lớn cũ kĩ xây bên chân núi, nếu không lầm thì là nhà ở quê của hiệu trưởng cơ sở dạy thêm. Khi ấy cậu đang học lớp Năm, giờ đã là một thanh niên hơn hai mươi tuổi, hồi tưởng lại cảm thấy sao xa ngái quá. Ấn tượng quá khứ rất mơ hồ, mỗi lần muốn lục tìm một kỷ niệm cụ thể nào đó, thì tự nhiên lại nhớ đến giấc mơ cách đây một tháng.
Fukunishi quan sát cảnh vật xung quanh, trông cũng còn ít nhiều ấn tượng. Chỉ khác là mười năm trước nơi này thưa thớt nhà cửa, đậm đà
phong vị đồng quê hơn, trên đường cũng không nhiều xe cộ thế kia. Cậu lục túi quần lấy sơ đồ, trên đó vẽ đường đến Thời Kế Quán. Sơ đồ này được phát kèm kế hoạch dự án đặc biệt.
Sơ đồ vẽ rất đơn giản, khó mà ước lượng từ trạm xe buýt tới Thời Kế Quán là bao xa. Nhưng trông cũng không có vẻ phải cuốc bộ mấy tiếng mới đến được. Phải tối muộn mới có xe buýt chuyến về. Thôi thì chẳng mấy khi đến, cứ đi ngó qua công trình có ma kia xem nào.
Fukunishi xem kĩ sơ đồ, rồi chọn đi theo lối từ đường cái rẽ vào rừng núi ở phía Đông.
Truyền thuyết về Hồn ma ở Biệt thự Đồng Hồ là do cậu em khóa dưới Watanabe Ryosuke kể cho họ nghe vào tầm tháng Chín năm ngoái. Hội nghiên cứu của họ vốn dĩ cũng tập hợp toàn những người ham thích và tò mò cao độ với mấy chuyện loại này. Nên vừa biết có một biệt thự ở ngoại ô Kamakura chứa đầy ắp đồng hồ, biệt thự lại có ma nữ lảng vảng thì dĩ nhiên là tất cả đều muốn đi xem sao.
Fukunishi dĩ nhiên cũng vô cùng hứng thú với câu chuyện của Watanabe, đặc biệt hứng thú này lại không chỉ bắt nguồn từ lòng hiếu kì đơn thuần.
Hình như mình đã từng trông thấy Thời Kế Quán rồi… Fukunishi ngờ ngợ ngay từ lúc nghe Watanabe kể. Về sau cậu mới biết không chỉ bản thân, mà Uryu, Kawarazaki và Sakiko, những người cùng đi trại hè mười năm trước với cậu đều có chung cảm giác.
“Quả nhiên là ngôi nhà đó.” Một tuần sau, Uryu nói thế. Bởi vì nghe xong câu chuyện, cậu, Watanabe và Kawarazaki đã lập tức đi Kamakura. “Chính là ngôi nhà ở cánh rừng mà tụi mình từng kéo đến chơi hồi xưa ấy. Có xây thêm một cái tháp thôi, còn lại cũng không khác bao nhiêu.”
Quả nhiên là thế, Fukunishi đã củng cố được cảm giác ngờ ngợ trong lòng. Cùng lúc, một nghi vấn mới nảy ra. Nếu ngôi nhà đó chính là nhà ma, thì hồn ma kia chẳng lẽ chính là do lúc ấy…? Cậu định lên tiếng hỏi, song ngần ngừ một lát lại thôi. Vì thế cậu không biết Uryu và Kawarazaki nhận định ra sao về sự việc đó.
Cả bọn quyết định đăng kí đến thực địa với tư cách hội nghiên cứu, nhưng phía Thời Kế Quán từ chối thẳng thừng. Hơn một tháng trôi qua, phần lớn thành viên cũng mất hứng dần. Không ngờ vào mùa xuân năm
nay, bọn họ nhận được đề nghị hợp tác tham gia dự án đặc biệt của ban biên tập tạp chí CHAOS thuộc Kitansha.
Người liên lạc với họ là một biên tập tên Kobayakawa. Hơn hai năm trước anh ta đã từng phỏng vấn hội, hóa ra còn từng học ở Đại Học W. Từ đó trở đi hễ có hoạt động gì đều báo cho họ biết.
Không ngờ lại có chuyện trùng hợp đến thế, Fukunishi thầm nghĩ. Thoạt tiên hội còn lưỡng lự, không biết đây có phải một việc nên vui mừng hay không, nhưng dù thế nào thì họ cũng thực hiện được mong muốn đến thăm Thời Kế Quán, lại còn được tham gia buổi gọi hồn của một nhà ngoại cảm nổi tiếng, được lên chuyên đề của tạp chí CHAOS nữa, đều tốt cả. Vì thế cuối cùng họ nhất trí, Fukunishi cũng nhận lời nhập nhóm đi Thời Kế Quán.
Thế nhưng…
Đêm trước ngày đi, Fukunishi đột ngột nhận được tin người nhà mất. Em họ cậu ở thành phố Fujisawa thiệt mạng vì tai nạn xe máy. Thằng bé là con trai ông chú, kém cậu bốn tuổi, là một học sinh cấp ba chưa đầy 17 tuổi. Bố mẹ Fukunishi đã ly hôn năm năm trước, khi cậu vừa vào cấp ba. Fukunishi rời bố theo mẹ. Vì thế mẹ cậu cố nhiên không đi đám tang của nhà nội, cậu đành đi Fujisawa một mình, mà nhất thiết phải đi, vì đứa em này là bạn chơi khá thân hồi nhỏ của cậu. Ngoài ra còn một lý do không thể chối bỏ nữa là, Fukunishi muốn được gặp bố, đã mấy năm hai bố con cách mặt rồi.
Quả nhiên bố có đến.
Nhưng ông chẳng thích thú gì trước đứa con đã lâu không gặp, chỉ xoắn xuýt cặp kè với người vợ mới. Fukunishi ngứa cả mắt, đành cố không nhìn về phía họ.
Thật là… Cậu vừa đi vừa ủ rũ tặc lưỡi. Biết trước như thế thì đã không đến…
Thắp nhang. Xuất quan. Hỏa táng.
Tang lễ của người chết yểu phủ bóng đen u uất lên tất cả các khách viếng, lại thêm cái nóng hầm hập giữa hè khiến ai nấy đều mệt mỏi. Mất đi người con trai, chú thím đau đớn vô cùng. Thím gục người trên quan tài mà khóc rưng rức, chú nắm chặt nắm tay, tức giận mắng chửi phải kiện chính quyền.
Nghe kể là cậu em họ đang chạy xe máy trên đường tỉnh thì đâm đầu xuống một cái hố, gãy xương cổ mà chết. Cái hố này là do mưa úng nên đất sạt lở, lở rất rộng.
Cho dù có thể kiện chính quyền vô trách nhiệm, lấy được tiền bồi thường, thì cũng không thể mang người chết quay trở lại… Nhìn người chú đứng la hét, Fukunishi cảm thấy vô cùng chán ghét, thậm chí còn cho rằng kiện tụng chỉ càng khiến cậu em họ khó lòng yên nghỉ.
Nhưng nhìn từ góc độ tâm trạng bình thường của một gia đình đang mất mát đau thương, thì Fukunishi thấy thông cảm được. Vì rằng, tìm ra đối tượng để trút bỏ phẫn nộ cũng là một cách giúp người ta không rơi vào bi ai suy sụp.
Từ đài hỏa táng quay về, thay vì dùng bữa với gia đình chú, cậu nói mình có hẹn rồi rồi bỏ đi. Cậu không muốn mệt mỏi vì phải lờ đi sự có mặt của bố mình và vì tiếng gào thét của người chú nữa.
Đúng là mình không nên tới đây, cậu lại tặc lưỡi. Đúng lúc ấy, đột nhiên…
Đất sạt lở.
‘Sạt lở’, rồi ‘đâm đầu xuống hố’… mấy cụm từ này khuấy lên làn sóng lăn tăn trong lòng Fukunishi. Từ khi nghe kể về tai nạn của cậu em họ, cảm giác lăn tăn này đã xuất hiện mấy lần rồi.
Tại sao lại thế, Fukunishi không thể làm rõ. Nhưng cậu cho rằng dù sao cũng không đáng kể, việc cần quan tâm bây giờ là…
Đi hết khu dân cư, cảnh vật đột nhiên thanh tĩnh hẳn đi. Đường thu hẹp và dốc lên, đâm vào giữa vùng cây rậm rạp. Không còn đèn đường nữa, mặt trời sắp lặn, bốn bề âm u.
Đúng lúc Fukunishi tự hỏi không biết có nên đi tiếp không thì bắt gặp một chiếc ô tô chắn đường.
Volkswagen Golf.
Màu xanh.
“Anh hỏng xe à?”
Fukunishi lên tiếng bắt chuyện với người đàn ông lui cui chui đầu vào nắp ca-pô đang mở. Anh ta giật bắn mình như ếch nhảy, quay người lại nhìn.
“À vâng. Xe tự dưng chết máy. Tại chạy cũng lâu năm rồi.” Đáp xong, anh ta giơ chân đạp vào thanh chắn phía trước. Người đàn ông này cao kều gầy nhẵng. Gầy hơn Fukunishi nhưng cao hơn cậu hẳn một cái đầu. Mình mặc áo khoác màu xanh nõn chuối, thay vì ví với ếch, Fukunishi thấy nên ví với bọ ngựa hơn.
“Hai ba năm nay nó cứ trục trặc suốt.”
“Thế ạ… Thế thì phiền thật.”
Trông cái xe quả thật là nát, thân có nhiều chỗ bong sơn, lốm đốm gỉ, biển xe lem nhem ghi số đăng kí Shinagawa. Fukunishi bèn hỏi, “Anh ở Tokyo đến à?”
Giữa đường gặp người tình cảnh khó khăn lại cứ quay lưng mà đi thì không phải tính cách của cậu.
“Anh gọi cứu hộ chưa?”
“Vẫn chưa.” Người đàn ông chu môi như huýt sáo rồi quay trở lại với cái xe, lui cui xem xét. “Tôi nghĩ vỗ về nó thêm một tí, chắc sẽ sửa được thôi.”
Lầm bầm xong, anh ngoái cổ hỏi Fukunishi, “Cậu biết lái xe không?” “Em có bằng rồi nhưng…”
“Cậu lên xe nổ máy hộ tôi được không?”
Fukunishi bèn trèo vào ghế lái. Đang loay hoay tìm chỗ cắm chìa thì chợt liếc thấy con hạc giấy màu xanh đậu trên táp lô xe. Đặt hạc giấy ở đây đã đủ lạ, nhưng điều còn lạ hơn là hình dáng của nó.
Hạc ba đầu.
“Cậu nổ máy xem.”
Người đàn ông thò đầu ra khỏi nắp ca-pô, gọi to. Fukunishi vặn chìa. Động cơ rền lên rừ rừ, rồi ặc ặc. Lặp đi lặp lại mấy lần như vậy, cuối cùng cái xe cũng chịu nổ máy đàng hoàng.
“Ồ, được rồi này.” Người đàn ông la lên mừng rỡ, đậy nắp ca-pô lại. “Cảm ơn cậu. Nhờ có cậu cả.”
Trông mặt mũi thì anh ta phải lớn hơn cậu ít nhất một giáp, nhưng cười một cái, vẻ trẻ thơ ẩn kín lại tràn ra khuôn mặt.
“Vậy là ổn rồi phải không ạ?”
“Cái xe à? Ừ, có lẽ thế. Vả lại chỉ còn một quãng là đến chỗ cần đến.
Trục trặc nữa thì sẽ gọi cứu hộ sau.”
“… Anh nói ‘đến chồ cần đến’?” Không lẽ nào, cậu thầm nghĩ, rồi tiếp tục. “Sau đây anh đi đâu ạ?”
Câu trả lời chính là nơi cậu đang nghĩ ‘không lẽ nào’.
“Ở đằng trước kia có một biệt thự tên là Thời Kế Quán, cậu biết chứ? Tôi định đi đến đấy.”
“Sao cơ?” Fukunishi giật mình nhìn kĩ lại khuôn mặt người đàn ông. Qua biển số xe và cách dùng từ ‘chỗ cần đến’, chắc anh ta không phải người nhà họ, nhưng cũng không giống người làm.
Trước phản ứng của Fukunishi, người đàn ông lộ vẻ ngạc nhiên, “Chằng lẽ cậu cũng tới đó?”
“Vâng. Đúng ạ.”
“Ôi, ra thế.” Người đàn ông đập đập nắm tay vào thái dương. “Cậu là sinh viên Đại học W. đúng không?”
“Vâng.”
“Thành viên Hội Mystery.”
“Há?! Đúng rồi ạ. Nhưng mà, tại sao…?”
“Tình cờ ghê thật.” Người đàn ông nhe răng cười, liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay. “Mà trễ rồi. Dự án bắt đầu lúc 6 giờ thì phải.” Xem ra người này nắm rất rõ mọi việc, chẳng lẽ anh ta cũng là một ‘người liên quan’ đến muộn?
“Trời sẩm tối rồi.” Người đàn ông ngó quanh, lẩm bẩm rồi đặt tay lên cửa ghế lái. “Thế chúng ta cùng đi nhé. Cậu… à, tên gì nhỉ?” “Fukunishi ạ.”
“Cậu Fukunishi. Thú thật, tôi là người có bạn đồng hành thì sẽ yên tâm hơn.”
Nghe đến đây, Fukunishi vẫn chưa hết thắc mắc. Xem xong danh thiếp người đàn ông đưa, cậu cũng vẫn ngờ ngợ mãi không thôi. Nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi
Trên danh thiếp đề như vậy.
CHƯƠNG 3
CỰU QUÁN (1)
Kobayakawa đã lấy sẵn chùm chìa dự phòng. Anh chọn một chìa để mở cánh cửa khóa kín của Cựu quán, dẫn mọi người đi xuống cầu thang. Cửa vào sảnh xưa ở chân thang cũng vững vàng kiên cố y như cửa trên đầu cầu thang. Điểm khác biệt là có chạm khắc tinh xảo, trông như chạm hình chim đang dang cánh, nhưng nhìn kĩ lại không phải chim, bởi ở nơi lẽ ra là thân chim lại là một chiếc đồng hồ cát lớn.
Nói cách khác, là đồng hồ cát có cánh.
Nếu ví cửa này với cửa ngục, thì có thể ví hai chiếc đồng hồ hình dáng kì quặc kia như giám ngục.
Tra chìa, cửa mở, bên trong tối thui. Những tiếng tích tắc khe khẽ bổng trầm gối lên nhau, khuấy động khối bóng tối ngưng đọng. Kobayakawa bước vào, sờ soạng tìm công tắc, chỉ chốc lát đèn bật sáng. Vừa nhìn thấy khung cảnh trong phòng, phóng viên ảnh Utsuumi đã thốt lên, “Tuyệt vời.” Anh không còn than thất vọng như lúc ở Tân quán, thay vào đó mở to mắt, ngạc nhiên ra mặt, “Thế này mới đúng là Thời Kế Quán chứ!”
Họ đang đứng ở một tiền sảnh rộng rãi, mà Sayoko gọi là ‘sảnh xưa’. Hai bên tường không có cửa sổ, thay vào đó treo kín đồng hồ. Đếm sơ sơ cũng phải ba bốn mươi cái.
“Ly kì quá!” Kobayakawa tiến vào giữa sảnh. “Nhìn ngần này đồng hồ tập hợp ở một nơi, tự nhiên tôi có cảm giác thật dị thường.” “Mà tất cả vẫn còn chỉ giờ rất đúng nữa.” Kawaminami nhận xét, sau khi đảo mắt một vòng khắp phòng.
Kobayakawa gật đầu đồng tình ‘Ừ’, rồi tiếp, “Ban nãy chị Sayoko có nói, một trong những lời dặn dò của ông Michinori trước lúc đi xa là đồng
hồ bên Cựu quán cần được bảo dưỡng để chạy đúng giờ.” “Chắc chị ấy vẫn định kì lên dây cót và chỉnh giờ cho đồng hồ nhỉ?” “Có lẽ thế.”
Thứ thu hút ánh nhìn nhất là hai chiếc đồng hồ tủ đứng cao đến hai mét mà người ta thường gọi là đồng hồ ông nội đặt ở hai góc tường bên tay phải. Bề mặt khung đựng con lắc được trang trí tranh sơn mài, trông rất đẹp, rất lộng lẫy.
Nhìn lên trần nhà, đập vào mắt là một chiếc đồng hồ dạng đèn chùm treo lơ lừng, Mặt số song song với sàn, xung quanh trang trí dây leo và hoa bằng vàng. Các đồng hồ còn lại trên tường đều được chế tác xa hoa tinh xảo không tả được. Chiếc nào cũng trang hoàng rườm rà hoa lệ, y như những món đồ sưu tập mà ta chỉ có thể gặp trong viện bảo tàng hay tiệm đồ cổ. Và tất cả đều trỏ cùng một thời khắc, không mảy may sai lệch. Trạng thái ấy, như Kobayakawa nhận xét, gây ra một cảm giác thật dị thường…
Chỉ ở tiền sảnh mà đã thế này, đủ biết vào trong nữa thì còn nhiều đồng hồ đến mức nào. Muốn duy trì để tất cả hoạt động chính xác rõ ràng là một công việc vô cùng vất vả.
“Nhưng mà…” Kobayakawa ngước nhìn chiếc đồng hồ lung linh treo trên đầu. “Nghe đâu đồng hồ đang chạy ở tiền sảnh đây đều là đồ giả.” “Đồ giả? Ý anh là sao?”
“Là không phải đồ cổ thật ấy,” Kobayakawa giải thích. “Đồng hồ thật trong bộ sưu tập Koga Michinori đều được bảo quản ở phòng số, để ngăn bụi bặm làm hỏng hóc. Còn đồng hồ đặt bên ngoài đều là phiên bản mô phỏng tinh xảo do ông ấy đặt làm thôi.”
“Ồ, vậy ở đây toàn là bản sao thôi ư!”
Thế thì càng không đơn giản, Kawaminami nghĩ. Đúng là việc mà chỉ chủ tịch công ty đồng hồ mới làm được.
“Ừm. Tuy nhiên, dù là bản sao thì cũng không phải là hàng giả sao chép vụng về đâu, toàn là đồ mắc tiền cả đấy. Đừng có xớ rớ, làm hỏng là tiêu, tổng cộng chừng 108 cái nhé.” Nói xong, Kobayakawa cắt đặt mọi người mang đống hành lý ở chân thang vào.
“Ồ, sao phải khóa cửa?”
Utsuumi đang định lấy máy ảnh ra khỏi túi thì nhìn thấy Kobayakawa
lách cách khóa cửa sảnh xưa, anh bèn lên tiếng thắc mắc. Cửa này giống cửa ở đầu cầu thang, khóa hay mở từ bên trong đều cần dùng đến chìa. “Để ngăn mọi người bỏ chạy khi ma hiện.” Kobayakawa đáp, nửa thật nửa đùa. “Trông cái mặt cậu kìa, bồn chồn thế?”
“Vậy hở?”
“Cậu sợ ma à?”
“Không… à, có…” Utsuumi ngượng ngùng vân vê râu. “Nói thật, em vẫn chưa quen với mấy thứ ma mị, dễ gặp ác mộng. Biết nội dung hoạt động của tạp chí CHAOS xong, trong lòng cứ có linh tính chẳng lành…”
Đúng lúc đó, chiếc đồng hồ treo trên mặt tường bên trái thánh thót đổ chuông. Họ ngước mắt nhìn, thì thấy kim của tất cả đồng hồ đều chỉ 6 giờ 15 phút. Ngày xưa cũng có nhiều loại đồng hồ báo mười lăm phút một, không ngờ đống bản sao này còn tái hiện được chính xác đến cả chi tiết ấy nữa.
Giật bắn mình vì tiếng chuông đột ngột, Utsuumi buột miệng “Á!” “Này này, vững vàng lên. Kẻo các em còn đi học lại cười cho!” Kobayakawa nhăn nhó. “Tôi đang hi vọng cậu chụp được ma hiện nữa kìa. Trông cả vào cậu đấy, nhiếp ảnh gia ạ.”
✳ ✳ ✳
Sau đây, xin phép giới thiệu sơ qua về bố cục Cựu quán của Thời Kế Quán.
Đi qua tiền sảnh thì vào đến đại sảnh hình tròn, chính là khu vực có mái vòm nếu đứng từ ngoài biệt thự nhìn vào. Nói đơn giản đại sảnh ở giữa, cả cụm kiến trúc bao quanh, tạo thành hai hình tròn đồng tâm. Vòng tròn bên trong (gồm đại sảnh) là khu sinh hoạt, vòng tròn bên ngoài là khu sưu tập.
Khu sinh hoạt là một tập hợp bếp, phòng ngủ, buồng tắm… Ốp vào đại sảnh từ hai cánh Bắc Nam. Ngoài ra, phía Đông Bắc khu sinh hoạt có một hành lang dài đâm ra ngoài phạm vi vòng tròn, dẫn sang phòng quả lắc mà Sayoko đã dặn là tuyệt đối không được bén mảng đến.
Khu sưu tập có tổng cộng mười hai phòng, các cửa phòng có đánh số La Mã từ I đến XII. Khu này lại chia làm hai phần.
Từ đại sảnh theo hành lang đi ra hướng Đông, đến hết hành lang thì rẽ phải đi vòng sang cánh Nam, gặp sáu phòng liên tiếp, đây là phần thứ nhất. Phần thứ hai là từ tiền sảnh đi sang cánh Bắc, cũng gặp liên tiếp sáu phòng. Một trong mười hai phòng này là thư phòng, mười một phòng còn lại là phòng số. Các phòng số cất giữ nguyên mẫu đồng hồ cổ và tài liệu liên quan, chia theo chủng loại, niên đại, xuất xứ…
Cấu trúc phức tạp như vậy, những người mới đến lần đầu không dễ gì nắm bắt luôn được.
Nói nào ngay, Kawaminami, Kobayakawa và Utsuumi mất cả tiếng đi quan sát chỗ này chỗ kia nhưng ấn tượng vẫn lờ mà lờ mờ. Bởi vậy, khi thấy Uryu Misao cũng đi một vòng với các bạn về rồi vẽ phác ra ngay mặt bằng ngôi nhà, Kawaminami không khỏi thán phục.
“Giỏi quá đi!” Kobayakawa ngưỡng mộ ra mặt khi ngó bản phác họa. Uryu đĩnh đạc đáp, “Em học chuyên ngành kiến trúc mà, cỡ này không nhằm nhò gì hết.”
“Thằng nhóc biết tuốt xưa nay, thật đáng ghen tị mà!” Kawarazaki bông đùa xen vào. “Có gì rắc rối mọi người cứ tìm nó, không phải ngại ngùng đâu.”
Từ sơ đồ mặt bằng, có thể thấy các phòng nhỏ của khu sưu tập phân bố quanh khu sinh hoạt, giống như mười hai số trên viền mặt đồng hồ. Còn căn phòng cuối hành lang đâm chếch ra ngoài mặt số ấy vừa vặn chính là phòng quả lắc.
“Bộ sưu tập đồng hồ của nhà này đỉnh lắm.” Uryu quay sang nói với Kobayakawa.
“Cậu xem hết các phòng số rồi à?”
“Vâng, đã ngó qua một lượt.”
“Số lượng trên giấy tờ rất lớn. Một cá nhân mà sưu tập được đến mức này, chắc tìm khắp nước Nhật cũng không có người thứ hai nữa.” “Quả có thế,” Uryu nghiêm túc gật đầu tán thành, rồi nhìn quanh đại sảnh.
Đại sảnh có bốn cửa ra vào. Cửa Tây dẫn ra tiền sảnh, đối diện là cánh cửa tương tự mở ra hành lang chạy về hướng Đông. Hai cửa Nam Bắc không có cánh. Bên mặt tường cong kê vài kệ trang trí, ở trong bày cơ man
nào là đồng hồ các loại.
Giữa phòng trải thảm dày màu nâu thẫm, bên trên kê một chiếc bàn tròn. Bàn rất rộng, chín người ngồi mà vẫn thừa đầy chỗ. Bản thân chiếc bàn này cũng là một cái đồng hồ, bên dưới kính bàn là mặt số. Nền đen khắc số vàng, hai kim dài như thước im lặng dịch chuyển.
“À…” Uryu lại đưa mắt về Kobayakawa. “Tối nay chúng ta ngủ ở đâu ạ? Phòng ngủ không đủ. Hay cánh đàn ông nằm chen chúc ở đại sảnh luôn?”
“Ừm, thế này đi…” Kobayakawa chăm chú nhìn sơ đồ mặt bằng. “Có ba phòng ngủ. Ta có thể dùng được, chị Sayoko đã cho phép rồi. Ba cô gái mỗi người một phòng. Năm anh nam giới thì mang chăn gối qua phòng số, sàn mỗi phòng chắc vẫn đủ cho một người nằm được.”
“Ngủ ở phòng số ạ? Lại còn chia ra ngủ nữa.” Utsuumi đang cho phim mới vào máy ảnh, mặt mếu máo như sắp khóc. “Tha cho em đi. Em nghĩ mọi người nên ở cùng chỗ thì hơn.”
Kobayakawa phớt lờ lời thỉnh cầu đó.
“Cô Komyoji nghĩ thế nào?” Anh quay sang nhà ngoại cảm. Komyoji đang ngồi trên cái đôn đặt trước kệ trang trí, im lìm suốt từ nãy tới giờ, hai tay nắm lại đặt ở đầu gối.
“Linh hồn trong nhà đang hoảng sợ.” Cô từ từ ngẩng lên, giọng bình tĩnh như thường. “Từ đầu tôi đã cố tìm dấu vết linh hồn. Trước tiên có thể khẳng định, vong linh đang lẩn khuất nơi đây. Nhưng tôi thấy không phải ác linh. Họ không tỏ ra thù địch gì với chúng ta cả. Ngược lại, bước sóng cho thấy họ còn hơi sợ chúng ta nữa.”
“Thế ạ?”
“Vậy nên, thay vì túm tụm một chỗ, chi bằng chia ra mỗi người một nơi. Để giao tiếp với linh hồn dễ dàng hơn, trước tiên cần làm họ bớt cảnh giác.”
“Tôi hiểu rồi.” Kobayakawa gật đầu thật mạnh, quay sang anh phóng viên ảnh đang so vai lộ rõ vẻ hoang mang. “Ở nơi như thế này, tốt nhất là nên dựa vào ý kiến của cô Komyoji. Được chứ, Utsuumi?” “Vâng…”
“Thế thì trước tiên chúng ta chia phòng đã.”
✳ ✳ ✳
Sau một hồi thảo luận, thứ tự phòng được chia như sau.
Ba phòng ngủ khu sinh hoạt để cho phụ nữ. Tính từ Đông sang Tây là Komyoji, Sakiko rồi Kozue.
Trong mười hai phòng số thuộc khu sưu tập, thì các phòng đánh số I, II, III ở cánh Bắc lần lượt chia cho ba sinh viên Uryu, Watanabe, Kawarazaki; các phòng VII, VIII, IX ở cánh Nam dành cho Kobayakawa, Kawaminami và Utsuumi.
Sau đó, họ điền danh sách chia phòng lên sơ đồ mặt bằng mà Uryu vừa vẽ, đem dán lên tường đại sảnh. ��
“Vậy…” Kobayakawa ngó mặt bàn xem lại giờ, rồi bảo mọi người. “Tạm thời chúng ta giải tán, ai mang đồ về phòng nấy. 8 giờ lại tập hợp ở đây. Có chuẩn bị cơm hộp rồi. Sau bữa tối, tầm 9 giờ chúng ta bắt đầu buổi gọi hồn thứ nhất. Như vậy có ổn không, cô Komyoji?”
Nhà ngoại cảm mặc đồ đen chậm rãi đưa mắt nhìn tám người ăn vận y như mình, lẳng lặng gật đầu thay lời đáp.
✳ ✳ ✳
Đại sảnh sau bữa tối.
Chín tiếng chuông nhất loạt vang lên từ những chiếc đồng hồ trên kệ, làm mọi người đang tập trung ở đây giật nảy mình.
Bàn tròn kê giữa phòng giờ phủ kín vải đen, trên bàn là một cây nến màu đỏ lập lòe, đèn điện đã tắt hết. Chín người mặc đồ đen ngồi quanh bàn. Theo hướng dẫn của Komyoji, mọi người bỏ dép lê ra và trùm mũ linh y lên.
Giữa vùng tiếng chuông với đủ mọi âm sắc hòa vào nhau như xoáy nước, Kawaminami vô thức ngước lên nhìn trần nhà.
Căn phòng có mái vòm rất cao, ánh nến chập chờn trên nền tường cong quét vôi trắng. Quanh chùm đèn hình nhánh ở giữa trần là mười hai ô cửa
sổ nhỏ hình tròn. Các cửa lắp kính màu lục thẫm, đường kính tầm 20 phân. Một lần nữa, bố cục này lại khiến người ta liên tưởng đến mặt đồng hồ. “Nào, mọi người,” Komyoji lên tiếng, vẻ mặt thần bí. “Bây giờ chúng ta sẽ thử liên lạc với linh hồn.”
Đây là lần đầu tiên Kawaminami tham gia một buổi gọi hồn. Tuy luôn hoài nghi về sự tồn tại của thế giới bên kia, nhưng có thể là do đang ở một trong các ‘Quán của Nakamura Seiji’, lại thêm bầu không khí vô cùng huyền bí, cậu không khỏi rùng mình.
“Mọi người hãy nắm lấy cổ tay người ngồi bên phải mình. Nhìn chăm chú vào ngọn nến trên bàn. Loại bỏ tạp niệm để đầu óc thanh tĩnh, hòa mình vào không khí trong phòng.”
Kawaminami ngồi bên trái Komyoji (thứ tự ngồi là do cô ta sắp xếp), Kozue ngồi bên trái Kawaminami, cứ thế, theo chiều kim đồng hồ lần lượt là Uryu, Watanabe, Kobayakawa, Utsuumi, Kawarazaki, Sakiko.
Trong thời gian gọi hồn, không ai được phép quay phim chụp ảnh. “Tôi sẽ đảm nhận phần gọi hồn. Dù có bất kì chuyện gì xảy ra, xin mọi người đừng hét to hay vùng dậy khỏi ghế. Như tôi nói ban nãy, linh hồn trong nhà đang hoảng sợ. Khi linh hồn xuất hiện, nếu muốn bắt chuyện thì hãy nói nhỏ và dùng từ ngữ nhẹ nhàng. Chỉ cần chúng ta đừng tỏ ra thù địch thì tuyệt đối không có nguy hiểm gì. Sẵn sàng chưa?” Kawaminami đưa tay phải nắm lấy cổ tay trái Komyoji. Đúng như cậu hình dung, tay cô rất mềm, nhưng lạnh giá dị thường. Trong khi đó, bàn tay Kozue ở bên trái vươn sang nắm cổ tay cậu lại rất ấm, thậm chí lòng bàn tay còn râm rấp mồ hôi.
“Bắt đầu.” Dứt lời, Komyoji im lặng nhắm mắt.
Mọi người làm theo lời dặn, chăm chú nhìn cây nến ở giữa bàn. Có mùi nước hoa nhè nhẹ phảng phất. Giống mùi Kawaminami ngửi thấy lúc gặp nhà ngoại cảm ở cư xá Green Heights.
Sự tịch mịch khiến bầu không khí trở nên căng thẳng. Cứ ngồi bất động như thế, Kawaminami cảm thấy tiếng đồng hồ tích tắc càng lúc càng to. Có lẽ vì nhà này thấp hơn mặt đất, lại không có cái cửa sổ nào ra hồn nên nhiệt độ trong phòng không cao lắm, thậm chí còn man mát. Thế mà mồ hôi vẫn cứ từ từ rịn ra dưới lớp áo đen, có lẽ là tại căng thẳng chăng.
Thêm một lúc…
Tiếng chuông thánh thót đột ngột vang lên từ một trong những chiếc đồng hồ đặt trên kệ trang trí làm mọi người giật bắn mình. Đã hơn mười lăm phút trôi qua rồi ư?
Kawaminami liếm đôi môi khô ran, rời mắt khỏi cây nến, len lén liếc Komyoji. Đúng lúc ấy, những biến đổi đầu tiên xuất hiện ở nhà ngoại cảm vẫn ngồi cúi đầu bất động nãy giờ. Thoạt tiên là một cử động khe khẽ, mắt vẫn nhắm, mặt vẫn cúi, nhưng đầu nhẹ nhàng xoay hai bên trái phải. Tốc độ xoay nhanh dần, hơi thở trở nên gấp gáp, mũ trùm đầu tuột xuống, tóc rối, hai vai nhấp nhô kịch liệt.
Mọi người bắt đầu lao xao.
“Suỵt,” ai đó lên tiếng.
“Im lặng nào.” Giọng Kobayakawa. “Cô ấy chuyển sang trạng thái nhập hồn rồi đấy.”
Nhà ngoại cảm chuyển động mạnh hơn. Không chỉ đầu mà toàn bộ thân trên của cô cũng xoay trái xoay phải, làm rung lắc cả bàn tay Kawaminami đang nắm tay cô.
Trạng thái này diễn ra tầm hai, ba phút, rồi chấm dứt. Nhà ngoại cảm đổ gục đầu tới trước.
Mọi người lại nhao nhao khiến Kobayakawa phải ‘suỵt’ thêm tiếng nữa. Hô hấp của nhà ngoại cảm nhẹ nhàng dần đi. Tất cả nín thở theo dõi. Một lát sau, Komyoji thở đều đặn như đang ngủ.
Rồi, đột ngột…
“Tôi…” Một giọng mỏng tanh, yếu ớt thoát ra từ miệng nhà ngoại cảm đang gục đầu. “Tôi đang ở… đây.”
Giọng nói phập phù, rời rạc xen lẫn tiếng thổn thức, khác hẳn giọng Komyoji ban nãy. Chắc là linh hồn đã nhập vào cô rồi.
“Tôi, ở đây. Tôi…”
Tóc mái xõa xuống che khuất nửa khuôn mặt của nhà ngoại cảm, chỉ trông thấy đôi môi màu tím mấp máy.
“Vậy là cô đã tới,” Kobayakawa khẽ khàng bắt chuyện. “Cô có thể trả lời câu hỏi của tôi được không?”
Sau một khoảng lặng, giọng kia đáp, “Vâng…”
“Cô là ai?” Kobayakawa hỏi.
Lại một khoảng lặng.
“Tôi, là… tôi là…”
“Cho chúng tôi biết tên được không?”
“To… wa…”
“Towa à? Towa là tên của cô à?”
“Towa… là tên tôi.”
Towa.
Kawaminami nhìn môi nhà ngoại cảm, cái tên kia vang vọng trong lòng cậu. Âm Nhật đọc là Towa, viết bằng chữ Hán là ‘Vĩnh Viễn’. Tên người con gái đã mất của Koga Michinori. Kawaminami đã nghe Kobayakawa kể qua.
“Cha cô là ông Koga Michinori, người xây nhà này, phải không?” “Vâng…”
“Thế tại sao cô…”
Kobayakawa vừa nói tới đây, lửa nến tự dưng tắt ngấm. Vài người thảng thốt la lên. Kawaminami cũng không khỏi bàng hoàng vì tình huống bất ngờ. Tại sao nến tắt? Có ai thổi đâu…
“Trật tự nào.” Trong bóng tối, Kobayakawa bình tĩnh nhắc nhở. “Đừng làm rộn, cũng đừng đứng dậy… Tiếp tục!”
“Tôi…” Không đợi hỏi, giọng nhà ngoại cảm lại vang lên trong bóng tối. “Mười… sáu… tuổi…”
“Mười sáu tuổi? Lúc mất cô mười sáu tuổi à?”
“Không phải.”
“Vậy thì…”
“Tối quá… hố đen… đau. Đau quá!”
“Cô muốn nói gì? Xin hãy nói dễ hiểu hơn được không ạ?” “Đau… đau. Đau quá. Đau quá.” Giọng nói cứ lặp đi lặp lại những từ giống nhau một cách khổ sở. “Đau quá. Đau quá, đau, đau…” “Có chuyện gì thế ạ. Xin cô hãy trả lời.”
“Đau quá, đau…”
Mất một lúc, cơn nức nở làm cô nói không ra tiếng, chỉ nghe thổn thức liên hồi. Kobayakawa không hỏi nữa. Trong bóng tối xòe tay chẳng thấy
ngón, Kawaminami vô thức siết mạnh cổ tay Komyoji.
Thế rồi, như để dìm lấp những tiếng thổn thức đang yếu dần của linh hồn, đồng hồ trên kệ thi nhau ngân chuông. Chính vì đang ở trong bóng tối, nên có cảm giác tiếng chuông gối chuông còn vang vọng và kéo dài hơn bình thường.
Khi tất cả đồng hồ đã ngừng chuông, tình hình buổi gọi hồn cũng thay đổi. Cơ thể Komyoji lại rung lắc dữ dội. Kawaminami đang nắm cổ tay cô cũng bị giật theo, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Cơn rung lắc truyền đi khắp mọi người quanh bàn, có vài chiếc ghế xê dịch ken két trên sàn.
“Anh Kobayakawa, thế này không sao chứ?” Utsuumi nơm nớp hỏi. “Cậu đừng lo. Cứ ngồi yên, và im lặng đi.”
“Ngồi yên á?”
“Suỵt.”
Cuối cùng cơn rung lắc cũng chấm dứt, sự tịch mịch lại bao trùm. Komyoji đã thở đều đặn, tiếng nức nở cũng không còn. Chẳng rõ có phải do bóng tối, Kawaminami cảm thấy mùi nước hoa nồng hơn nhiều. “Tôi hỏi tiếp nhé?” Kobayakawa lại thử bắt chuyện. “Cô Towa. Tên của cô là Towa, đúng không?”
Không thấy trả lời như ban nãy nữa. Nhưng một lát sau… Cộp! Không hiểu từ đâu trong phòng vang lên tiếng vật cứng đập mạnh. Gì vậy?
Kawaminami hốt hoảng nhìn quanh, nhưng tất nhiên là không thấy gì cả. Nến đã tắt, bốn bề tối om om. Ánh sao cũng không thể lọt qua những ô cửa sổ nhỏ trên trần để rọi xuống đây.
“Tiếng động vừa rồi là do cô gây ra phải không?” Kobayakawa bình tĩnh hỏi. “Nếu đúng, cô có thể gây tiếng động lần nữa được không?” Một tích tắc, _cộp_ lần nữa, nghe như tiếng gõ vào bàn, ghế hay tường. “Tôi hiểu rồi. Cảm ơn cô.” Kobayakawa tiếp tục hỏi, giọng trước sau vẫn rất điềm đạm. “Nếu được, rất mong cô cho biết thêm về tình hình lúc cô ra đi. Cô Towa mất vì bệnh phải không?”
Vẫn là âm thanh đó. Lần này là hai tiếng.
“Nghĩa là ‘không’ phải không? Nếu thế, xin hãy trả lời bằng một tiếng.” _Cộp_, một tiếng.
“Ra vậy. Cô không mất vì bệnh. Tai nạn phải không ạ?” _Cộp cộp._ Hai tiếng liên tiếp. Nghĩa là ‘không’.
“Cũng không phải do tai nạn? Thế thì…”
Kobayakawa định tiếp tục thì một tiếng rít kì dị làm rung chuyển không gian tăm tối, làm ai nấy giật thót. Đó là âm thanh phát ra từ miệng nhà ngoại cảm, nghe thảm thiết sởn gai ốc như bị bóp cổ. Cô vừa rú rít vừa bắt đầu một đợt rung lắc mới.
“Có chuyện gì thế?” Lúc này, ngay cả Kobayakawa cũng ít nhiều bối rối. “Rốt cuộc là…”
Tiếng rít thảm thiết tắt lặng, nhà ngoại cảm cũng thôi rung lắc. Và bật ra một lời…
“Chìa khóa. Có chìa khóa…” Khác hẳn với giọng yếu ớt pha thổn thức ban nãy, đây là giọng của Komyoji. “Đằng sau kệ trang trí trước mặt tôi, có chìa khóa.”
Sau một tiếng _hức_ tắc nghẹn, cô nín bặt. Lại thêm một lúc, khi đã xác định sẽ không còn chuyện gì tiếp tục nữa, Kobayakawa mới cất tiếng, “Được rồi. Bật đèn lên.”
Chỉ tích tắc, ánh sáng của chùm đèn treo trên trần đã đổ đầy căn phòng. Komyoji gục mặt trên bàn, bất động như thể đã kiệt sức.
Kobayakawa lại gần, lay nhẹ vai cô, “Cô vẫn ổn chứ? Cô Komyoji?” Nhà ngoại cảm vụt ngẩng mặt lên như vừa bừng tỉnh, lơ láo nhìn quanh rồi hỏi.
“Hồn đâu? Có xuất hiện không?”
“Có. Còn trả lời câu hỏi của tôi nữa.”
“Thế à?” Komyoji mỉm cười nhợt nhạt, hít một hơi thật sâu. “Tôi mệt rồi. Tối nay đến đây thôi.”
“Cô còn nhớ những lời cuối cùng cô nói không?”
“Cuối cùng? Lời của tôi á? Chứ không phải của linh hồn?” “Nghe thì là cô nói đấy.”
“Ừ, anh nói tôi mới ngờ ngợ. Hình như vì đột nhiên trông thấy cái gì đấy nên mới nói thế.”
“Có chìa khóa. Còn nói là nó ở sau cái kệ trước mặt cô.”
“Chắc thế.”
“Trước mặt cô, hẳn là cái kia?”
Kobayakawa lẩm bẩm và rời khỏi chỗ Komyoji. Anh đi vòng qua bàn, tiến lại cái kệ đang nói. Kệ này nắm sát bức tường có một cửa dẫn về hướng nhà bếp và một cửa dẫn ra tiền sảnh.
“Chúng ta tìm thử xem.”
Kobayakawa, Kawaminami, Uryu và Kawarazaki cẩn thận mang từng cái đồng hồ trên kệ ra bàn rồi cùng hợp sức nhích rộng kệ ra khỏi tường. Nhích được chừng mấy chục phân, Uryu và Kawarazaki từ hai đầu ló vào xem.
“Ồ, có này.” Kawarazaki thò tay vào khe hở, nhặt lấy một chiếc chìa khóa dính đầy bụi. “Không biết đây là chìa khóa chỗ nào?” “Chịu…” Kobayakawa nhận lấy cái chìa màu bạc từ tay Kawarazaki, đặt nó xuống bàn trước mặt nhà ngoại cảm vẫn ngồi nguyên trên ghế. “Tìm thấy rồi, cô Komyoji. Nó có nghĩa gì vậy?”
“Tôi không biết.” Komyoji chậm chạp lắc đầu. “Có thể là… À không, vẫn chưa rõ. Thế này nhé, tạm thời cứ để tôi giữ chìa. Biết đâu tôi lại trông thấy gì qua nó.”
“Thật đáng kinh ngạc.” Người đang phát biểu cảm nghĩ một cách vô tư ấy là Kozue. Cô thổi phù phù tách trà túi lọc bốc hơi nghi ngút mới pha trong bếp. “Bối rối thật. Quá ấn tượng! Đây là lần đầu tiên em được chứng kiến cảnh này đấy.”
“Quả là sửng sốt.” Watanabe vừa cọ cọ cái mũi tẹt vừa gật đầu hưởng ứng. Khuôn mặt chằng chịt sẹo trứng cá của cậu trông y như nắm cơm tròn rắc vừng. Nếu gỡ kính ra thì lại càng giống. “Tớ từng xem một buổi gọi hồn của chị Komyoji trên ti-vi. Nhưng ấn tượng bấy giờ không mãnh liệt như hôm nay.”
“Thế à?”
“Ừ, chẳng có hiện tượng dị thường nào cả. Chỉ thấy giống như mấy bà đồng vớ vẩn ấy.”
“Hay là tại có máy quay? Thế thì chịu rồi. Không nên cho những thứ nhân tạo vào một buổi gọi hồn. Ban nãy chị Komyoji cũng nhắc còn gì.” “Ừ, có lẽ. Uống trà nhé.”
“Mời cậu. À, các anh chị cũng uống trà đi ạ.”
✳ ✳ ✳
Sau buổi gọi hồn, vải đen phủ bàn đã được rút đi, kim đồng hồ dưới mặt kính chỉ 10 giờ 20 phút.
Komyoji về phòng ngay. Kobayakawa bảo muốn đi xem đồng hồ ở các phòng số, nên cũng rời đại sảnh. Bảy người còn lại ngồi xuống quanh bàn tròn.
“Anh Kawaminami nghĩ thế nào ạ?” Uryu kéo trà lại gần mình, lên tiếng hỏi.
“À thì…” Kawaminami búng tàn thuốc vào chiếc gạt tàn tìm được trong bếp. Đây là điếu đầu tiên cậu hút từ khi đặt chân đến Thời Kế Quán. “Anh mới vào làm ở ban biên tập CHAOS hồi mùa xuân năm nay thôi. Đây cũng là lần đầu tiên đi thực địa thú vị thế này. Ban nãy, quả thật anh rất sửng sốt.”
“Chà. Thế ạ?”
“Bản thân anh luôn có thái độ hoài nghi với tất cả những thứ gọi là hiện tượng tâm linh. Kể cả buổi gọi hồn ban nãy, thoạt tiên anh cũng bán tín bán nghi, nhưng khi tận mắt chứng kiến tình hình không thể tin nổi ấy…” “Thì buộc phải tin, đúng không ạ?”
“Ừm, đúng.”
“Cậu sao thế, Uryu?” Sakiko hỏi, liếc nhìn khuôn mặt của cậu bạn từ thuở thiếu thời. “Cậu có đánh giá gì khác hả?”
“Ừ, có một chút.” Uryu lấp lửng đáp.
“Anh nghi ngờ gì à?” Kozue ngạc nhiên hỏi. “Thiệt tình, lúc nào cũng vậy.”
“Thôi, Kozue.” Kawarazaki cười nhạt. “Thật ra anh cũng nghĩ giống Uryu đấy, thấy nó cứ thiếu tự nhiên sao á.”
“Gì? Cả anh Kawarazaki cũng không tin?”
“Anh cảm thấy diễn biến quá thuận lợi ấy. Đúng không, Uryu?” “Ừ.” Uryu chống một khuỷu tay lên bàn, gật gù. “Cực kì trơn tru, như thể tiến hành theo một kịch bản dàn dựng vậy. Em không thấy thế à?”
“Sao cơ…” Kozue càng lúc càng không thể chấp nhận nổi quan điểm của họ, tiếp tục tranh luận. “Giọng chị Komyoji khác hẳn đi còn gì, giống kịch ở chỗ nào? Cả nến tắt, bàn kêu… Các anh đang bảo đều là lừa phỉnh hay sao?”
“Khả năng ấy cũng không thấp…”
“Nhưng mà…”
Kawaminami vừa nghe đám sinh viên tranh luận, vừa thầm hình dung lại cảnh tượng buổi gọi hồn.
Nến tự dưng tắt ngấm…
Không thấy ai chủ động thổi tắt. Nếu nguyên nhân là ‘gió’ thì ít ra trước khi tắt, ngọn lửa cũng phải chập chờn lay động chứ. Dù rằng cậu không nhìn châm chằm vào cây nến, nhưng cách tắt của nó y như kiểu có bàn tay vô hình tự dưng bóp bấc nến ấy.
Tiếng gõ vào bàn…
Chính là hiện tượng rapping*. Tiếng động nghe không giống tiếng giậm chân hay thúc đầu gối vào bàn, mà giống như dùng nắm tay đập vào vật cứng nào đó. Từ đầu đến cuối buổi gọi hồn Kawaminami luôn nắm một cổ tay Komyoji, tay kia của Komyoji thì nắm cổ tay Sakiko, thế nên chắc chắn Komyoji không thể dùng tay gõ bàn. Tương tự, tám người còn lại trong vòng tròn cũng nắm tay nhau nên không ai làm thế được.
Tiếng động phát ra trong những căn phòng hay khoảng không gian không người, thường được cho là dấu hiệu siêu nhiên hay hồn ma. “Gọi hồn cũng có nhiều loại, Kozue cũng biết mà phải không?” Đáp lại câu hỏi của Uryu, Kozue nghi hoặc gật đầu.
Uryu tiếp tục, “Đầu tiên, có thể chia gọi hồn thành hai dạng ‘vật lý’ và ‘tâm lý’. Gọi hồn dạng vật lý biểu thị tâm niệm của người đã khuất thông qua những hiện tượng vật lý siêu nhiên, ví như đồ đạc tự di chuyển, âm thanh kì lạ hay ngoại khí ectoplasm*… Còn gọi hồn dạng tâm lý truyền đạt tâm niệm của người đã khuất bằng ngôn từ thông qua người gọi hồn. Có vô số cách truyền đạt, ví như chữ tự động viết ra, hay lời tự động tuôn ra, không theo ý chí của người gọi hồn. Komyoji nói thay linh hồn, hiển nhiên là gọi hồn dạng tâm lý. Thế mà lại xảy ra những hiện tượng vật lý như nến tắt hay rapping. Vậy nên anh mới nghĩ, linh lực của nhà ngoại cảm này thật khác thường.”
Các chất bài xuất từ người trung gian tâm linh trong các buổi gọi hồn. Nó được cho là biểu hiện vật chất hóa của linh hồn hay đơn giản là một loại vật chất có sẵn trong thân thế người được kích hoạt khi thực hiện nhập hồn. Arthur Conan Doyle đã miêu tả ectoplasm ‘như chất keo nhớt có thể đông đặc lại thành một dạng vật chất hữu hình, khác với mọi dạng vật chất từng được biết đến’.
“Cũng đúng nhỉ?”
“Trên thế giới lâu nay có bao nhiêu người tự xưng là nhà ngoại cảm, nhưng đại đa số đều là lừa bịp cả. Ví như…” Uryu tạm ngừng, nhấp một ngụm trà. “Mọi người đã nghe danh chị em nhà Fox ở Mỹ chưa?” “Nhà Fox à… Nghe đâu họ chính là tổ nghề gọi hồn.”
“Đúng rồi. Hoạt động tích cực của họ đã châm ngòi cho phong trào chủ nghĩa tâm linh Mỹ và châu Âu nửa cuối thế kỉ 19. Cách giao tiếp linh hồn của họ là những tiếng gõ. Giống như phần sau buổi gọi hồn ban nãy, gõ vào đồ vật, cồm cộp, lách cách… dùng tiếng động lạ để chuyển tải thông tin. Nhưng mà về sau, một trong ba người đã thú nhận đó chỉ là lừa bịp thôi.”
“Lừa bịp?”
“À, mà còn là kiểu lừa bịp cực kì đơn giản. Bẻ khớp chân cho nó phát ra tiếng động.”
“Không phải chứ!” Đôi môi phớt hồng của Kozue chu lại chán nản, “Nhưng mà ban nãy nhất định không phải là tiếng bẻ khớp, phải không Watanabe?”
Đột nhiên bị trưng cầu ý kiến, Watanabe chớp mắt lia lịa, “Đúng, nếu là tiếng khớp xương thì chúng ta sẽ biết ngay. Với lại…” Cậu liếc Uryu. “Mặc dù Maggie Fox có tự bạch trên New York World rằng họ chỉ bịp bợm, nhưng không bao lâu sau bà ta đã rút lại lời tự bạch. Vì thế chân tướng sự việc đến giờ vẫn trong vòng tranh luận mà.”
“Cậu nắm rõ thật.” Uryu mỉm cười hào hứng. “Thật ra, muốn tạo tiếng gõ thì còn cách khác nữa.”
“Ý cậu là tiểu xảo của Eusapia Palladino?”
“Ối chà! Cậu biết rõ thế còn gì!”
“Đúng là có khả năng ấy, nhưng Uryu ạ, cái gì cũng nghi ngờ thì tớ cảm thấy không thỏa đáng lắm đâu.”
‘Hội nghiên cứu’ có khác, Uryu và Watanabe đều có kiến thức phong phú về lĩnh vực này, nhưng xem ra lập trường lại khác nhau. Trong khi Uryu giữ thái độ hoài nghi sắt đá đến cùng thì Watanabe lại đứng về phe thỏa hiệp. Kawaminami đâm ra tò mò, không biết thành viên trong hội nghiêng về lập trường của ai.
“Bất ngờ đấy!” Kawaminami châm điếu thuốc mới. “Anh cứ nghĩ là hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí sẽ tập trung toàn những người tin vào mấy chuyện tâm linh chứ.”
“Cũng không hẳn là em không tin,” Uryu đáp. “Vì em vẫn không thể mạnh dạn phủ quyết sự tồn tại của linh hồn, siêu năng lực hay UFO. Nếu gặp được người có bản lĩnh thực sự, thì cho dù người ta có thờ tà giáo, em vẫn sẽ rộng lòng đón nhận. Nhưng muốn để em đón nhận, thì dứt khoát phải cho em bằng chứng khoa học đủ giải tỏa hết hiềm nghi.”
“Anh hiểu cảm giác này.”
“Nhưng nói vậy thì mấy người như Watanabe sẽ phản đối đấy.” “Phản đối thế nào cơ?”
“Cậu ấy cho rằng bản thân khái niệm ‘bằng chứng khoa học’ đã không đáng tin rồi, dùng khoa học tự nhiên đi chứng minh những hiện tượng siêu tự nhiên siêu khoa học thì thật vô nghĩa.”
“À, thì ra vậy… Uryu vẫn thấy buổi gọi hồn ban nãy chỉ là chiêu trò lừa gạt thôi nhỉ?”
“Nói chung em không thể tin tưởng vô điều kiện. Mọi người từng bảo em quá đa nghi, ừm. Quả thật, em cũng cảm thấy thế.”
“Tụi em nhập hội vì lý do khác với Watanabe hay Kozue. Bị cái đó rồi, nên có đa nghi cũng là bình thường.” Kawarazaki nói.
“Bị cái đó là bị gì cơ?” Kawaminami hỏi.
“Bị lừa gia nhập á anh.” Kawarazaki xoa xoa cằm.
“Bị lừa?”
“Kể ra thì cười sặc.” Uryu tiếp lời. “Hôm khai giảng, em, Sakiko, Kawarazaki và Fukunishi bốn đứa đi dạo trong sân trường, đến đâu cũng gặp cảnh các câu lạc bộ mời chào thành viên mới, một trong số đó là hội nghiên cứu này. Vì tên hội là Hội Mystery làm tụi em tưởng là hội liên quan đến tiểu thuyết trinh thám. Fukunishi, bạn mà hôm nay không tới
được ấy, là một người cực kì thích tiểu thuyết trinh thám nên đã rủ cả đám đến văn phòng hội tham quan. Vừa đến là biết chẳng liên quan gì đến trinh thám rồi, nhưng họ lại cho tụi em xem một màn biểu diễn tại chỗ không thể tin được. Một thành viên bảo sẽ dùng ý nghĩ mượn một tờ 1000 yên của em, và quả nhiên làm cho nó bay ra lơ lửng trên không. Tất cả trố mắt há miệng, bàn tán xôn xao cả lên, giỏi quá, không thể tin được. Thừa cơ tụi em dao động, họ bèn gian xảo ghi luôn tên bốn đứa vào danh sách.”
“Phục ghê!” Kawarazaki cười đau khổ.
Uryu cũng cười đồng tình, “Vào hội được một tháng, tụi em mới biết tiểu xảo đó tên là trò ảo thuật Tiền Bay. Cả lũ đã rơi vào cái bẫy lôi kéo của họ. Nhưng cũng may đều hơi hứng thú với các hiện tượng siêu nhiên, nên tụi em cũng không nổi cáu bỏ hội…”
Rồi cậu quay sang Kawaminami. “Trong buổi gọi hồn ban nãy, hồn nhập thể Komyoji có nói… Tên cô ấy là Towa nhỉ? Có đúng con gái ông Koga Michinori tên là Towa không ạ?”
“Hình như đúng.” Kawaminami trả lời. “Koga Towa. Viết bằng Hán tự là ‘Cổ Nga Vĩnh Viễn’. Cô ấy còn mất trước cả ông Michinori. Theo lời chị Sayoko nói ở phòng khách bên Tân quán thì đó là chuyện mười năm về trước.”
“Mười năm về trước… à?” Uryu chậm rãi chớp mắt trong lúc trầm ngâm suy nghĩ. “Lúc anh Kobayakawa hỏi nguyên nhân cái chết, cô ấy đã trả lời là không phải vì bệnh, cũng không phải vì tai nạn. Vậy thì…”
“Tự sát… Hoặc là bị giết. Lúc đó chúng ta còn nghe được mấy cụm từ như ‘mười sáu tuổi’ rồi ‘hố đen’ nữa.”
“Hố đen…” Uryu đăm chiêu ra mặt. “Đúng là chuyện đáng để tâm.” “Không lẽ nào,” Sakiko lẩm bẩm, đưa mắt nhìn đồng hồ lớn vẫn đang nhích kim dưới mặt kính, khẽ lắc đầu. “Cô gái đó không thể tự sát được…” Uryu bất thần hít mạnh. Kawarazaki cũng có phản ứng tương tự. “Cô gái đó! Các em biết cô con gái nhà này à?” Kawaminami dò hỏi. Sakiko vẫn nhìn đăm đăm vào một điểm, gật đầu. “Em nghĩ thế.” “Đã gặp mặt rồi à? Ơ, nói mới nhớ, chính là chuyện các em kể lúc ở trên taxi, phải không? Các em từng đến chơi mạn này, và gặp cô ấy, phải không?”
“Vâng… Chắc thế. Gặp lúc chơi trong rừng.”
“Uryu và Kawarazaki thì sao?”
“Em không nhớ lắm.” Kawarazaki gãi cằm. “Nhưng mà Uryu và Sakiko đã nói thế thì chắc là thế.”
“Thật ra tớ cũng không nhớ rõ lắm mà.” Uryu nói. “Vì chuyện từ mười năm trước, hồi bọn mình còn học lớp Năm cơ mà. Kí ức nhòe nhoẹt như một tấm ảnh không lấy nét… Nhưng đúng là có gặp một cô gái ở đó.” “Tớ thì không nhớ kĩ từng chi tiết.”
“Tớ càng không,” Kawarazaki nhún vai thật mạnh. “Trí nhớ tớ không tử tế cho lắm, quên béng mọi chuyện từ đời kiếp nào, chỉ nhớ ngôi nhà thôi.” “Em có thể kể lớp lang lại cho anh nghe không?” Kawaminami hỏi Sakiko, “Mùa hè mười năm trước các em tham gia trại tập huấn của cơ sở dạy thêm. Trong lúc chơi ở khu rừng gần trại, cả đám đã gặp một cô gái. Sau đó thì sao? Làm sao các em biết đấy chính là cô con gái tên Towa?” “Bởi vì cô ấy chính là con của gia đình này.” Giọng Sakiko cho thấy kí ức đang từ từ quay trở lại. “Bấy giờ chưa có tháp đồng hồ, chỉ có ngôi nhà thôi. Tụi em đi cùng cô ấy đến đây…”
“Mấy đứa đi cả à?”
“Vâng.”
“Sao nữa?”
“Em nhớ có gặp người nhà họ, nhưng tụi em không vào bên trong.” “Gặp ai? Có khi nào là ông bố, ông Michinori?”
“Có thể. Nhưng mà không hiểu sao, em lại nhớ là một đứa bé trai.” “Bé trai… a.” Kawaminami nhớ lại đoạn đối thoại giữa Sakiko và Uryu sau khi thiếu niên xinh đẹp nọ xuất hiện trong phòng khách Tân quán. “Ý em là Yukiya phải không?”
“Em nghĩ thế.” Sakiko lưỡng lự đưa tay vuốt mái tóc dài đen. “Lúc tiễn cô gái về nhà, tụi em bất gặp một bé trai, rất đáng yêu… Vì thế…” “Có lý.”
“Anh Kawaminami,” Watanabe nãy giờ vẫn im lặng nghe họ trao đổi bỗng dưng ngại ngần xen vào. “Em cho rằng, mình nên tạm gác hồi ức của các anh chị qua một bên để tập trung vào vấn đề trước mắt là, tại sao cô Towa lại qua đời, được không ạ? Nếu hồn ma lẩn khuất trong Thời Kế
Quán chính là của cô gái chết mười năm trước, thì phải chết kiểu gì mới khiến linh hồn vất vưởng trên nhân gian mãi chứ? ”
“Nhắc đến vấn đề, ngay cậu thiếu niên kia cũng có vấn đề.” Uryu hỏi, “Anh Kawaminami, anh còn nhớ lời cậu ta nói với chị Sayoko không?” “À có.”
Kawaminami cũng băn khoăn về điều đó. Uryu nhíu mày. “‘Chị đâu rồi?’ Cậu ta hỏi thế. ‘Chị’ ở đây là cô Towa chăng? Nhắc đến người chị đã qua đời từ lâu như thể cô ấy vẫn sống. Mà Sayoko còn phụ họa nữa chứ…”
“Trông phản ứng của Kobayakawa bấy giờ thì hình như anh ấy cũng ít nhiều nắm được tình hình của nhà Koga.”
✳ ✳ ✳
Khi Kobayakawa trở lại đại sảnh thì chuông đồng hồ đã điểm 11 giờ. Bấy giờ, Kozue đang vào bếp vì Uryu nhờ pha thêm một tách trà nữa. Utsuumi im lìm cầm máy ảnh, toan mở một chai rượu whiskey không rõ lấy ở đâu thì thấy Kobayakawa vừa ngáp vừa đi vào từ cửa Bắc. “Ái chà. Cậu mang thứ này theo lúc nào đấy?” Kobayakawa hỏi ngay. Utsuumi lúng túng vuốt râu. “Ở trong túi dụng cụ, nó…”
“Cậu đúng là đồ cơ hội. Đã cấm không được mang đồ ‘không thuần khiết’ vào còn gì.”
“Hà.”
“Thôi, uống một chút cũng được, miễn là đừng để cô Komyoji phát hiện ra.”
“Phải nhỉ! Anh cũng uống luôn nhé?”
“Uống luôn.” Kobayakawa bật cười thích chí, “Thật ra tôi còn giấu ba chai trong thùng thực phẩm. Có cả bia nữa đấy.”
Đàn ông ưa bia rượu tâm đầu ý hợp, cùng pha chút nước vào whiskey rồi bắt đầu khề khà. Tất nhiên Kawaminami cũng bị lôi vào chén chú chén anh. Cậu bèn hỏi Kobayakawa về vấn đề thảo luận với Uryu ban nãy. “Cậu bé đó à. Ừ thì…” Ngập ngừng một hồi, Kobayakawa đưa rượu lên
dốc một hơi cạn sạch. “Hình như trục trặc ở chỗ này.”
“Chỗ này?” Kawaminami ngạc nhiên hỏi lại. “Đầu óc cậu ta không bình thường?”
“Ừ.” Kobayakawa gật đầu, mặt ửng đỏ vì rượu. “Cậu không nhận ra sao?”
“Ừm… Nghe anh nói em mới nhớ, ánh mắt cậu ấy hơi tán loạn, như không nhìn thấy hiện thực. Mà, cậu ấy tìm chị, là sao?”
“Cậu ấy tin chắc mười mươi là cô chị còn sống.”
“Sao đầu óc lại thành ra thế? Bẩm sinh ạ?”
“Tôi không rõ lắm. Hình như cũng không phải là thiểu năng hay gì đâu. Nghe bảo cậu ấy vốn dĩ là con trai em họ ông Michinori. Cậu ta chào đời không lâu thì cha mẹ mất cả, nên được gia đình Koga nhận nuôi.” “Tức là con nuôi.”
“Ừ. Tình trạng của cậu ấy hẳn có liên quan đến chuyện mười năm về trước, năm ấy cô Towa chết, năm tiếp theo ông Michinori qua đời. Sau đó thần trí cậu ta mới mụ mẫm dần đi.”
“Nghe đồn nhà này liên tục có người chết. Không biết thực hư thế nào?”
“À. Về người chết thì…”
“Êu, dừng mấy chuyện này ở đây được không?” Utsuumi chen ngang, ngáp sái quai hàm rồi pha thêm một ly rượu-nước mới. “Lát nữa chúng ta đều phải về phòng riêng ngủ một mình mà cứ khơi khơi tán gẫu mấy chủ đề chết chóc, có khi ma quỷ lại tìm đến cửa đấy.”
Trông vẻ mặt nhát gan của anh phóng viên ảnh, Kobayakawa cười khổ, “Cũng phải, vậy chủ đề gì thì thích hợp đây?”
“À, chỉ bằng…” Utsuumi nhấp rượu, rồi đứng lên. “Cả bọn chụp ảnh làm kỉ niệm nhé?”
Anh cầm lấy chiếc máy ảnh đang đặt trên bàn. Khác với máy ảnh ống kính rời, đây là máy ảnh tự động cỡ nhỏ.
Trong khi đó…
“Giữa các số La Mã trên mặt đồng hồ này có một số rất khác thường.” Phía bên kia bàn tròn, Uryu đang tán gẫu với hai đàn em khóa dưới. “Mọi người nhận ra không? Và có biết tại sao không?”
“Ý cậu là số IIII á hả?” Watanabe hỏi.
Kozue ngồi bên cạnh, tỏ vẻ không hiểu, “Bốn thì sao, có gì khác thường?”
“Kí tự sai,” Watanabe trỏ vào mặt đồng hồ trên bàn. “Này, cái đồng hồ kia cũng thế. La Mã có viết số Bốn như thế đâu.”
“À, đúng nhỉ.”
Nghe vậy, Kawaminami cũng đưa mắt nhìn mặt đồng hồ dưới lớp kính. Chỗ 4 giờ là IIII. Thông thường số Bốn La Mã phải viết là IV. Kawaminami không hề để ý đến điểm này, thậm chí không cảm thấy có gì đáng ngờ nữa kia. Cậu cho rằng người ta viết IIII chẳng qua là để dễ nhìn dễ đọc hơn thôi.
Watanabe cũng chung quan điểm với Kawaminami, “Không phải sao?” Cậu nghiêng đầu. “Hay còn ý nghĩa nào khác?”
“Tớ báo trước, đây chỉ là một giả thuyết thôi nhé.” Uryu mỉm cười, bắt đầu giải thích. “Vào giữa thế ki 14, Charles V của Pháp cho lắp đồng hồ trên tháp cung điện Paris. Đó là thời trào lưu xây tháp đồng hồ thịnh hành khắp châu Âu. Ban đầu, đồng hồ dùng IV cho số Bốn, nhưng Charles trông thấy thì nổi giận.”
“Tại sao?”
“IV nghĩa là V bớt đi I. Mang tên là Charles V mà lại trừ đi I thì còn ra thể thống gì, bởi vậy ổng bắt sửa IV thành IIII.”
Trong lúc tiếp tục chủ đề ấy, các bạn trẻ cũng thể hiện rất nhiều kiến thức liên quan đến đồng hồ. Xem ra Uryu không chỉ hiểu sâu về hiện tượng siêu nhiên mà còn có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực khác.
Rất giống một người, Kawaminami thầm nghĩ. Và nghĩ kĩ thêm thì cậu nhớ ra là giống người nào rồi. Một người bạn thời đại học, cùng sinh hoạt trong hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám…
Đã ngà ngà say, dòng suy tưởng bắt đầu tách khỏi hiện tại, lao vút về quá khứ xa xôi. Khi phát hiện ra vụ việc ba năm trước lại bất thần trỗi dậy kèm kí ức vô cùng đen tối, cậu bất giác rùng mình.
Khi đồng hồ ở khắp nơi trong nhà nhất loạt ngân lên âm vang nửa đêm, họ rời đại sảnh, đi về phòng ngủ của mình.
✳ ✳ ✳
Kawaminami bừng tỉnh lúc 3 giờ sáng. Nguyên nhân trực tiếp chắc là do tiếng chuông đồng hồ treo trên tường.
Giữa màn đêm sâu thẳm, trong giây lát cậu không nhớ được mình đang ở đâu. Dư âm chuông ngân đã nhắc nhở cậu. Đây là phòng VIII, một trong các phòng số của Cựu quán, Thời Kế Quán.
Kawaminami chui ra khỏi tấm chăn len, từ từ ngồi dậy, cảm giác hơi buồn tiểu. Đây cũng là một trong các nguyên nhân làm cậu tỉnh giấc. Kawaminami đứng lên, mò tay lên tường, có lẽ do uống rượu trước khi đi ngủ nên chân chuệnh choạng, đầu óc mờ mịt như sương giăng. Mất một lúc cậu mới sờ thấy công tắc đèn.
Đèn sáng, Kawaminami dụi cặp mắt lờ đờ, nhìn quanh. Phòng này hình vuông, cửa vào gắn kính mờ hình elip. Bốn mặt tường ốp gạch mosaic theo phong cách Hồi giáo. Không có cửa sổ. Ở mặt tường trong cùng là giá sách ngất ngưởng xếp chặt giấy tờ hồ sơ về bộ sưu tập. Các khoảng trống còn lại dành cho tủ kính gắn cố định vào tường, với thiết kế phù hợp cho việc trưng bày đồng hồ.
Ở khoảng trống của hai tường trái phải có thiết kế vô cùng tinh xảo. Hai đồng hồ ghép bằng gạch mosaic đường kính tầm một mét, đồng hồ hai bên đều chỉ đính một kim. Trong đồng hồ không lắp bộ phận chuyển động nào, nên có lẽ đây chỉ là đồ trang trí. Tính ra, hình như trên tường tiền sảnh và hành lang cũng có mấy chỗ trang trí mặt đồng hồ mosaic na ná thế này.
Duy chỉ có chiếc đồng hồ treo trên tường cạnh cửa ra vào còn hoạt động. Nó cũng là chiếc đồng hồ đổ chuông ban nãy, còn bộ sưu tập trong các tủ kính đều nằm im lìm, không chiếc nào hoạt động.
Phòng VIII cất giữ toàn đồng hồ kiểu Nhật* thời Edo*, nên kể cả còn chạy được thì cũng không ích lợi gì với người hiện đại. Thời đó áp dụng cách tính giờ bất định*, đồng hồ cũng thiết kế theo cách tính giờ bất định, khác hẳn cách tính giờ và đồng hồ thời nay.
Một loại đồng hồ cơ phát minh vào thời Edo để tính giờ theo hệ thống mười hai canh giờ kiểu cũ.
1603-1868. Còn gọi là thời kì Mạc phủ Tokugawa, tiếp thu khoa học công
nghệ phương Tây, phát triển mạnh về văn hóa khoa học nghệ thuật. Áp dụng từ thời Edo đến năm Minh Trị thứ 5 (1872), tính theo giờ mặt trời lặn và mọc, chia đêm (hoặc ngày) ra làm sáu phần bằng nhau, nhưng các phần này dài ngắn thế nào thì tùy mùa.
Lắc lắc cái đầu nặng trịch, Kawaminami cầm chiếc đồng hồ bỏ túi đặt cạnh gối lên nhìn. Viền đồng hồ hình tam giác ngược rất ít thấy, mặt số cũng mang hình tam giác ngược cùng chiều, chứ không lộn xuôi như đồng hồ tam giác Freemason* nổi tiếng. Theo yêu cầu cùa Komyoji, cậu để chiếc đồng hồ bỏ túi yêu thích lại bên Tân quán. Không có đồng hồ, cậu cứ cảm thấy thiêu thiếu. Mặc dù nhà này để đồng hồ khắp nơi, nhưng mỗi lần muốn xem giờ cậu đều vô thức lần tay vào túi. Vì thực sự bồn chồn, nên sau khi giải tán, cậu đã lén ‘mượn’ chiếc đồng hồ này ở đại sảnh về.
Đồng hồ tam giác Freemason. Mặt đồng hồ có biểu tượng thước vuông và compa của Hội Tam Điểm, đỉnh quay về hai hướng ngược nhau. Dĩ nhiên Kawaminami không quên lời nhắc của Sayoko, rằng không được đụng vào đồng hồ trong Quán. Nhưng cậu cảm thấy, chỉ cần sử dụng nhẹ nhàng thì cái đồng hồ không dễ mà hỏng được. Còn nếu Komyoji phát hiện và hỏi đến thì cũng không sao, vì đây là đồ vật ở sẵn trong Quán rồi, khó mà nói là đồ ‘không thuần khiết’. Xác định xong, cậu bèn làm theo ý mình. Bạo gan như thế, có lẽ cũng là tại hơi men nữa.
Kawaminami xem lại giờ. Đồng hồ chỉ 3 giờ 5 phút. Cậu lắc lư đi ra khỏi phòng. Đèn hành lang tù mù. Chân bước trên thảm trải màu nâu mà đầu óc còn mụ mẫm, cứ loạng chà loạng choạng.
Một tay vịn tường, cậu đi men theo hành lang khúc khuỷu. Được một lát thì hành lang thẳng ra, bề ngang cũng mở rộng gấp đôi, từ đây cứ đi thẳng thì sẽ đến đại sảnh.
Đèn chùm treo ở đại sảnh đã tắt. Nương theo ánh sáng hành lang, Kawaminami băng ngang qua phòng. Trên mặt bàn vẫn còn vung vãi ly tách, tiếng đồng hồ tích tắc đều đều trong tịch mịch âm u. Đi theo lối cửa Bắc, rẽ phải thì tới buồng vệ sinh. Giải quyết nỗi buồn xong, Kawaminami chuệnh choạng quay lại theo đường cũ. Ra tới hành lang, cậu bất thần dừng bước vì một âm thanh tí tách, khác hẳn âm thanh cơ khí của đồng hồ.
Tim cậu thoắt đập thùm thụp. Tuy không phải người nhát gan, nhưng cũng phải tùy xem tình hình thế nào. Canh ba nửa đêm tự nhiên nghe tiếng
động lạ thì khó mà bình thản được. Hai chữ ‘hồn ma’ lướt qua tâm trí cậu. Chẳng mấy chốc, âm thanh tương tự lại vang lên, là tiếng cửa cọt kẹt. Kawaminami không trở vào đại sảnh mà tiếp tục đi sang trái, cậu cảm
thấy âm thanh nọ vang lên ở hướng ngược với đại sảnh. Tính phòng thì chắc là phòng ngủ của Komyoji… Cậu dừng lại ở chỗ rẽ trước cửa phòng nhà ngoại cảm, nhòm thử xem có gì không. Một cái bóng đen kịt lướt vụt qua trong ánh sáng tù mù. Bóng người. Kawaminami đang tự hỏi “Chị Komyoji?”, thì trông thấy cái bóng đã đến góc xa hành lang và biến mất ở lối rẽ chếch sang trái.
Kawaminami vội vàng bám theo.
Thật ra lúc này hành động của cậu không hề có mục đích rõ ràng là ‘bám theo’, đầu óc còn mụ mẫm, bước chân vẫn loạng choạng. Thậm chí còn có cảm giác kì lạ là phân nửa tâm trí mông lung này đang bị một sức mạnh bên ngoài điều khiển.
Hành lang tuôn chéo đi, như bị bóng tối hút mất. Bóng người ban nãy xuất hiện ở đêm sâu, người ấy không thắp đèn, chỉ âm thầm tiến bước. Mũi Kawaminami chợt bắt được một mùi hương quen thuộc. Mùi nước hoa của Komyoji.
Vào giờ này, mà lại chỉ có một mình, chị ta định làm gì đây. Ở cuối hành lang thăm thẳm kia chỉ có phòng quả lắc, mà căn phòng ấy cũng khóa rồi… Bất chợt, Kawaminami vỡ lẽ… Chiếc chìa khóa bọn họ tìm thấy sau lưng kệ trong đại sảnh vào cuối buổi gọi hồn có khi chính là chìa dự phòng của phòng quả lắc.
Bóng người tan vào màn đêm. Kawaminami đang định tiến sang hành lang thì chợt nghe tiếng kim khí khe khẽ lẫn vào tiếng đồng hồ tích tắc trên tường. Tiếp đó là tiếng lách cách ngân vang.
A, ắt hẳn là cái chìa đó rồi…
Kawaminami rảo bước nhanh hơn, đã mấy lần cậu suýt ngã vì giẫm vào gấu linh y lượt thượt trên sàn. Trong bóng tối mịt mù trước mặt đột nhiên lóe lên tia sáng, hình như là lọt ra qua khe cửa phòng quả lắc.
Kawaminami tiến đến gần, áp mình vào cửa, vừa chú ý động tĩnh bên trong vừa vươn tay về phía quả nắm. Quả nắm không nhúc nhích, hẳn đã bị khóa trái… Đúng lúc đó có tiếng người phát ra bên kia cánh cửa, giọng Komyoji thì phải, nhưng không nghe rõ là nói gì.
Kawaminami áp tai vào cửa.
“… Tại sao?”
Vẫn không rõ ràng. Cố lắm chỉ nghe được hai ba chữ, có lẽ đang nói chuyện với ai đấy.
“… Làm gì… kia?”
Câu nói vang lên bỗng tắt nửa chừng, liền đó là một âm thanh trầm đục như thể có thứ bị đập vụn. Kawaminami đang cố đoán là thứ gì, thì lại nghe bịch một cái như thể ai ngã. Sao thế nhỉ?
Hoang mang cực độ.
Không hiểu gì cả.
Trong phòng xảy ra chuyện gì? Kawaminami cố sức áp tai để nghe cho rõ, nhưng chỉ bắt được tiếng đồng hồ tích tắc khe khẽ.
“Chị Komyoji!” Cố gắng xua đuổi cơn hoảng sợ đang trào dậy, Kawaminami gọi vọng qua cánh cửa. “Chị Komyoji. Có chuyện gì thế?” Boong! Âm thanh nặng nề từ đằng sau vọng tới làm Kawaminami giật nảy mình. Chuông báo 3 rưỡi sáng. Các đồng hồ xếp dọc hành lang cũng thi nhau điểm chuông. Từ phòng quả lắc cũng có tiếng chuông vọng ra. Có tiết tấu êm ái, có cả giai điệu nước ngoài thánh thót như hộp nhạc lên giây cót…
Bối rối, hoài nghi, và cả sợ hãi khó tả xâm chiếm Kawaminami, như thể tổ hợp chuông ngân kia đã khuấy đảo tâm trí vốn dĩ mông lung của cậu. Cùng lúc, trong lòng cậu còn nổi lên ý nghĩa rất kì quái mà có vẻ cũng hợp lý, đó là tất cả cảnh tượng trước mắt đều không phải hiện thực, mà là cảnh mộng.
Một lát sau, tiếng chuông tắt lặng.
Không nghĩ ra cách nào để đối phó với tình hình này, Kawaminami hộc tốc lao về phòng như chạy trốn.
CHƯƠNG 4
NGƯỜI THEO NHAU CHẾT
Trao đổi vài câu ngắn gọn qua máy liên lạc nội bộ xong, Shishiya Kadomi đẩy mở cánh cổng sắt khép chặt.
Đã 7 giờ tối. Mặt trời khuất núi, bóng tối buông rủ, chỉ còn nhìn rõ khoảng không gian được chiếu rọi bằng đèn pha xe và cả bằng thứ ánh sáng phập phù như sắp tắt tỏa ra từ trụ cổng. Shishiya quay trở lại ghế lái, khởi động xe, Fukunishi thận trọng quan sát nét mặt trông nghiêng của anh.
“Có vào được không ạ? Anh nói gì với họ thế?”
“Nói sự thật thôi.” Shishiya nghiêm túc đáp. “Tôi là bạn của cậu Kawaminami đang ghé thăm nhà họ.”
Dọc đường tới đây, Fukunishi chỉ nắm được sơ sơ lai lịch của người đàn ông tự xưng nhà văn trinh thám này, cũng như nguyên nhân khiến anh tới thăm Thời Kế Quán. Trong danh sách người tham gia đính kèm bản kế hoạch quả thật có tên Kawaminami Takaaki.
“Thế mà họ đồng ý luôn?”
“Ai bảo. Khù khoằm khó chịu lắm. Nhưng mà cho mình ngó nghiêng một chút thì đã sao.”
“Được ngó nghiêng ạ?”
“Chẳng mấy khi có dịp đến, lẽ nào cậu không muốn quan sát thật gần? Dù là quan sát trộm đi nữa?”
“Cũng phải…”
Theo đường nhỏ chạy giữa sân vườn rộng rinh, xe tiến đến mặt tiền biệt thự. Shishiya cho chiếc Golf đậu lại sau chiếc bán tải màu bạc rồi hối Fukunishi xuống xe.
Anh thản nhiên tiến đến tiền sảnh ngôi nhà kiểu Tây le lói ánh đèn. Fukunishi do dự một thoáng, rồi cũng đi theo.
“Chào buổi tối. Xin lỗi vì đã làm phiền.” Shishiya chào hỏi bóng người xuất hiện ở cửa, giọng nhanh nhảu vồn vã, khiến người ta có cảm giác anh là người bộp chộp, hoặc tự nhiên như ruồi. Nếu không phải thế thì tức là anh cố ý.
“Anh làm tôi khó xử quá.” Giọng bối rối của một phụ nữ đáp lại. “Ban nãy tôi đã bảo, mời anh đi cho mà.”
“Chị đừng phũ thế, ít nhất cũng để tôi giới thiệu cho đàng hoàng. Hân hạnh được gặp chị, tôi là Shima… à, Shishiya.” Thân hình gầy gò cao lêu nghêu cúi gập xuống cho một cái chào. “Tôi cũng biết là đường đột lắm, thất lễ lắm, tôi xin lỗi. Thế nhưng, như ban nãy đã nói, tôi là bạn của cậu Conan, à Kawaminami ở Kitansha.”
“Kitansha, cậu Kawaminami…” Người đàn bà lẩm bẩm cái tên, “Đúng là cậu ấy đang ở đây.”
“Họ đã nhốt mình lại đúng giờ theo kế hoạch rồi phải không ạ? Cái nhóm thực địa của Kitansha đấy?”
“Chuyện đó… Vâng, họ bắt đầu cách đây hơn một tiếng rồi.” “Thế này nhé. Thiệt tình! Thật ra việc hôm nay là do cậu Kawaminami bảo tôi. Vì tính chất công việc, tôi rất có hứng thú với kế hoạch cũng như biệt thự này, nên tôi mới tới…”
“Kể cả thế…” Người đàn bà ngờ vực nhìn vị khách không mời, ánh mắt như vô tình liếc thấy Fukunishi đứng phía sau. “Còn đây là?” “Cậu Fukunishi. Tôi gặp cậu ấy dọc đường nên đi cùng nhau luôn.” Shishiya trả lời.
“Fukunishi…”
“Cậu ấy là bạn của nhóm sinh viên Đại học W. Vì có việc nên đến trễ.” “À…”
Người đàn bà lúng túng, như thể không biết nên đối phó thế nào với hai vị khách không mời. Chị ta ấn ấn tay vào thiết bị gắn trên tai, xem chừng là máy trợ thính, rồi cất tiếng, “Nhưng…” Và lại bỏ lửng, dò xét nhìn họ.
“À, không phải, không phải, chị đừng hiểu lầm. Tuy tôi không mời mà đến, nhưng không định ép chị phải cho vào nhà. Cậu Fukunishi cũng thế. Nếu phiền cho chị quá, chúng tôi đi ngay. Nhưng mà thú thật, tôi vẫn luôn muốn tận mắt nhìn thấy biệt thự này.” Nói đoạn Shishiya đút tay vào túi
quần jeans đen, lùi về sau một bước, ngẩng đầu quan sát. “Ồ. Đây là Thời Kế Quán. Quả nhiên vẫn nên đến đây vào ban ngày ban mặt.” Anh vừa lẩm bẩm vừa giật lui. Thấy thế, người đàn bà cũng nới lỏng cảnh giác, chị ta hỏi, “Tính chất công việc anh nói ban nãy nghĩa là sao?” Shishiya bỏ tay ra khỏi túi, “Chị là…, nếu sai thì cho tôi xin lỗi, Inami Sayoko phải không ạ?”
“Đúng rồi.”
“Tôi có nghe Kawaminami nói qua, hiện tại chị chịu trách nhiệm quản lý Thời Kế Quán?”
Người đàn bà gật đầu.
“Thế thì…” Shishiya nhìn thẳng vào mặt chị ta. “Hẳn chị biết người thiết kế Thời Kế Quán nhỉ? Ông Nakamura Seiji. Qua đời tầm bốn năm về trước.”
“Biết thì biết, nhưng…”
“Tôi là người chuyên nghiên cứu về Nakamura Seiji.”
“Người chuyên nghiên cứu?” Sayoko nghiêng đầu bối rối. “Tôi cứ đi thăm thú các kiến trúc ông ấy để lại ở mọi nơi. À, nói là nói vậy, nhưng đây không phải nghề nghiệp của tôi. Tôi vốn dĩ là một hòa thượng tập sự, gần đây thì đi viết tiếu thuyết.”
“Viết tiểu thuyết. Thế nên anh mới quen người bên Kitansha?” “Vâng, tạm coi là thế.” Shishiya gãi đầu, chừng như ngượng ngùng, rồi lập tức kêu lên, “A, phải rồi,” đoạn thọc tay vào túi áo khoác. “Bảo là quà xin lỗi thì cũng hơi kì, coi như quà gặp mặt đi. Tôi tặng chị cuốn này.” Anh rút một cuốn sách ra khỏi túi áo khoác, bìa tím nhạt, nhan đề Mê Lộ Quán. Tên tác giả ‘Shishiya Kadomi’ in ngay ngắn trên bìa. “Đây là tác phẩm đầu tay của tôi, nếu không ghét trinh thám thì chị đọc thử nhé!” Shishiya gần như dúi cuốn sách vào tay Sayoko, rồi cúi mình. “Làm phiền chị quá, chân thành xin lỗi. Nếu được, tôi vẫn mong có dịp tham quan trong nhà. Hi vọng một ngày kia chị sẽ cho tôi cơ hội. Fukunishi, chúng ta về đã.”
“Em từng thấy cuốn sách ban nãy ngoài hiệu. Xuất bản năm ngoái đúng không? Nhưng lại không nhớ tên tác giả.” Fukunishi áy náy nói với Shishiya. Thật ra mãi cho đến khi trông thấy cuốn sách, Fukunishi vẫn bán
tín bán nghi về danh xưng nhà văn trinh thám của người này. “Vinh dự thật. Có cơ hội quen biết một nhà văn thực sự. Để hôm nào em đi mua một cuốn đọc cho ra đầu ra đũa.”
“Ố? Bảo là chuyên nghiên cứu phạm trù mystery thì đúng ra cậu phải thiên về các chủ đề siêu nhiên hơn chứ nhỉ?”
“Không, em xưa nay vẫn thích tiểu thuyết trinh thám. Em hay đọc lắm.” “Quý thật!” Shishiya cười tít mắt.
“Em cũng đã đọc về kiến trúc sư Nakamura Seiji ở tạp chí hay gì đó. Ông ấy nổi tiếng vì chuyên thiết kế nhà cửa kì lạ phải không ạ?… A, để em.”
Fukunishi chuồi khỏi ghế phụ lái, xuống xe, mở cánh cổng đã gỉ sét rồi giơ tay ra dấu cho xe đi. Đúng lúc cậu bước ra ngoài, định đóng cổng lại như cũ thì bóng tháp đen kịt ở trung tâm biệt thự đột nhiên đập vào mắt cậu.
Mười năm trước, lúc cậu đặt chân tới đây, vẫn chưa có tòa tháp đó. Nói mới nhớ, tiền sảnh ban nãy cũng thay đổi khác xưa.
Kia đúng là tháp đồng hồ, như Watanabe nói, dù nhìn từ ngoài thì không rõ lắm, vì mặt số quay ra sân sau. Gần đây lại nghe một chuyện lạ, rằng mặt đồng hồ không gắn kim.
Tháp đồng hồ không kim à?
Đóng cổng lại rồi mà Fukunishi vẫn đứng ngẩn ra, mắt dán chặt vào ngọn tháp vươn lên giữa trời u ám.
“Cậu sao thế?” Tiếng Shishiya vang lên đằng sau.
“À, em ra đây.” Fukunishi đáp, toan xoay người thì bất giác khựng lại. Một vật trắng nhờ lọt vào tầm mắt cậu.
Fukunishi giật mình nhìn kĩ.
Bên trong cổng, đằng xa mé phải khoảnh sân trước chạy thoai thoải lên trên, có một vật thể trắng nhờ hiện lên giữa âm u, trông như bóng người. Fukunishi căng mắt nhìn, nhưng ngoài bộ đồ màu trắng ra cậu không thấy gì nữa cả. Ngay gần đấy là vạt rừng rậm rạp đen thui, cái bóng đang nhẹ nhàng trôi đến bìa rừng.
Ai vậy?
Trong tích tắc, Fukunishi thấy đầu óc trống rỗng.
Rồi cụm từ ‘hồn ma’ bỗng nảy ra trong tâm trí. Cậu luống cuống lắc đầu, đẩy gọng kính lên, định quan sát lại tỉ mỉ hơn thì…
“Fukunishi?” Giọng Shishiya lại vang lên. “Chuyện gì thế?” “A, không có gì.” Fukunishi ngoái lại đáp.
Shishiya ló đầu ra từ cửa sổ ghế lái, thắc mắc nhìn cậu.
“Có điều…”
Hơi sốt ruột, Fukunishi đưa mắt nhìn lại phía cổng thì “Á,” cậu buột kêu khẽ. Bóng người đã biến mất.
Chuyện gì thế này?
Lẩn vào rừng rồi chăng? Hay là…
Fukunishi đứng ngây ra, gió hây hây thổi tới, làm rối tóc cậu. Trong rừng có tiếng xào xạc khe khẽ như trò chuyện. Bóng tối mà cho đến ban nãy vẫn thấy bình thường, giờ bỗng như che giấu một cái gì rùng rợn, huyền bí. Fukunishi bất giác so vai. Có nên kể cho Shishiya nghe về cái bóng không, cậu vừa tự hỏi vừa quay trở lại xe.
✳ ✳ ✳
Shishiya Kadomi sống ở khu Kaminoge thuộc quận Setagaya. Hóa ra Fukunishi cũng ở cùng một quận với anh, chỉ khác là nhà cậu thuộc khu Tsurumaki, Shishiya bèn phóng khoáng đề nghị, “Để tôi tiễn cậu về nhà luôn.” Tuy hơi nghi ngại về khả năng của cái xe, Fukunishi vẫn cảm kích nhận lời.
Dọc đường, Shishiya huyên thuyên mãi không thôi.
Nào là anh sinh ra ở Kyushu, mới chuyển đến đây năm ngoái. Thời đại học anh theo chuyên ngành Phật giáo ở Tokyo. Từ nhỏ anh đã đam mê trinh thám, không ngờ dòng đời xô đẩy theo ‘nghiệp cầm viết’ luôn, rồi kể cả lý do tại sao anh lại có hứng thú với các công trình của kiến trúc sư Nakamura Seiji đến thế.
Sau một hồi bô lô ba la, Shishiya đột ngột hỏi Fukunishi, “Mà cậu mới đi dự đám tang ai vậy?”
Fukunishi không khỏi bối rối. Bởi lẽ đến tận lúc này, cậu vẫn chưa hé một lời nào về lý do khiến mình đến muộn hôm nay.
“Không cần ngạc nhiên đâu.” Nhà văn mỉm cười. “Nhìn trang phục là đoán ra ngay thôi. Người trẻ như thế mà mặc sơ-mi trắng quần đen, thắt cà vạt đen nữa… chẳng đi đám ma thì còn làm gì.”
“À, đúng nhỉ.”
Phân vân một hồi, Fukunishi quyết định kể chuyện bóng người màu trắng cậu nhìn thấy ở cổng biệt thự ban nãy.
Shishiya khẽ ‘Hừm’ một tiếng, liếc mắt nhìn Fukunishi, “Theo cậu, bóng người đó chính là hồn ma ở Thời Kế Quán mà mọi người vẫn đồn đãi ấy hả?”
“Em không biết nữa…” Fukunishi hoang mang lắc đầu. “Em không thể xác định được.”
“Người đó mặc đồ trắng? Khó lòng phân biệt được nam hay nữ, nhưng mà theo như lời đồn thì hồn ma là thiếu nữ.”
“Trời tối quá, khoảng cách lại xa, nên em không nhìn rõ lắm.” “Cũng đáng để tâm đấy.” Shishiya lẩm bẩm. “Fukunishi này, theo cậu, ngoài những trường năng lượng mà khoa học đã chứng minh là có tồn tại thì còn có gì khác không?”
“Ý anh là em có tin chuyện ma quỷ không ấy à?” Ngẫm nghĩ một hồi, Fukunishi trả lời. “Em cảm thấy em không tin, nhưng muốn tin.” “Hở? Ý cậu là sao?”
“Gần đây giới trẻ đặc biệt hứng thú với những đề tài như UFO, siêu năng lực, linh hồn, kí ức kiếp trước… Thế nhưng khi xem trên tạp chí hay ti-vi về chủ đề đó thì lại có cảm giác như toàn là trò dàn dựng, động não một chút là sẽ nhận ra trên đời không làm gì có những chuyện như thế. Em cũng vậy. Cho dù đọc bài của CHAOS, em vẫn không quên tự nhắc nhở mình để tránh bị lừa. Nhưng mặt khác, em lại muốn tin rằng ở một nơi nào đó quả thật tồn tại những thứ siêu nhiên thực sự. Tâm lý của người ta là vậy: khoa học càng phủ định, thì càng cảm thấy có những thứ vượt trên phạm trù khoa học.”
“Hừm!”
“Cũng có thể nói đây là một dạng trốn tránh hiện thực, hoặc một dạng phản kháng trong vô thức. Phản kháng những thứ được nhồi nhét ở trường, phản kháng mô hình khoa học hay trật tự mà người lớn đã ấn định.”
“Phản kháng à? Cách nhìn nhận có vẻ thú vị đấy!”
“Anh thì nghĩ sao?”
“Tôi à? Nói sao đây…?” Shishiya xoay vô lăng bằng một tay, tay còn lại xoa xoa cái mũi khoằm. “Thú thật, tôi là người vô trách nhiệm, vui đâu chầu đấy. Không quan trọng tin hay không tin, hễ nghe hóng được mấy thứ như ma quỷ là nhất định phải đi xem, có UFO thật thì dứt khoát phải tìm cách leo lên… Tôi là thế. Tò mò cực độ, không để cái gì phình phờ mập mờ cho qua cả.”
“Chà.”
“Nhưng mà, nếu nâng đến tầm chủ nghĩa, quan điểm gì đó thì e rằng suy đến cùng tôi vẫn là không tin. Cái gọi là tư duy khoa học đã ăn sâu vào tôi rồi. Và tôi còn có một nhận thức thế này nữa, đó là cái thói phủ định triệt để tất cả những thứ không khoa học, một bệnh hết thuốc chữa của người hiện đại.”
“Phức tạp thật.”
“Đúng vậy. Nhung mà nói tóm lại là không có lửa làm sao có khói. Đằng sau những lời đồn thổi về hồn ma, chắc hẳn phải có nguyên nhân gì đó.” Giọng Shishiya về đoạn sau này nghe như nói với bản thân. Rồi anh nín lặng, chân mày cau lại. Một lát sau mới dịu nét mặt, đổi chủ đề, “À, Fukunishi thích thể loại trinh thám thế nào?”
“Em không kén chọn thể loại lắm. Cái gì cũng đọc, miễn là thú vị.” “Cậu thích dạng trinh thám suy luận cổ điển không?”
“Dạ thích.”
“Cậu có ưng nhà văn nào không?”
“Tác giả hồi xưa thì có Carr*. Mấy truyện kì bí không kinh dị lắm của ổng thật miễn chê.”
John Dickson Carr (1906-1977). Một trong các nhà văn Mỹ vĩ đại nhất thuộc Thời đại Hoàng kim của trinh thám. Bậc thầy về mô tip án mạng phòng kín hay những tình huống tưởng chừng không xảy ra được.
“Thế à. Vậy là ông ta hợp khẩu vị cậu. Thế hệ gần đây thì sao?” “Này khó mà coi là trinh thám, nhưng sách của John Saul* cứ dịch và in ra là em sẽ đọc.”
John Saul (1942-?), nhà văn Mỹ nối tiếng với các tác phẩm kinh dị và li kì.
Phần lớn tác phẩm của ông đều nằm trong danh sách bán chạy nhất của The New York Times.
“Không phải Stephen King hay Dean Koontz, mà là Saul à. Ồ. Gu đọc sách của cậu hơi u ám nhỉ. Còn nhà văn Nhật Bản?”
“Em tương đối thích các tác giả ra mắt trên Ảo Ảnh Thành*.” Gen’eijo. Tạp chí phát hành trong khoảng 1975-1979. Một trong các tác giả nổi tiếng từ tạp chí này là Miyuki Miyabe (có tác phẩm Kasha do IPM xuất bản năm 2014).
“Fan trinh thám chân chính có khác!” Shishiya thích chí cười toét miệng. “Thế này thì chúng ta có đầy chuyện để nói rồi. Xem chừng đây sẽ thành giai thoại quen biết giữa một độc giả trẻ tuổi và một nhà văn mới ra mắt trong dòng trinh thám. Tối nay cậu có kế hoạch gì không? Nếu không, chúng mình kiếm chỗ ăn bữa cơm đi.”
✳ ✳ ✳
“Bản thân tôi đã độc lập tìm hiểu ít nhiều về biệt thự đó.” Shishiya chậm rãi nói. Họ đang ở căn hộ Green Heights của anh.
Ăn xong bữa tối ở một nhà hàng gia đình, Shishiya rủ Fukunishi đến chỗ anh chơi. Vì đường về nhà tắc nghẽn khủng khiếp, mà lúc ra khỏi nhà hàng cũng đã hơn 1 giờ sáng, nên Shishiya nói giọng nhẹ tênh, “Cậu ở lại luôn đi.” Cũng đúng lúc anh mới xong một hạng mục công việc nên muốn có bạn chơi cùng.
“Hôm nay… À không, hôm qua mới đúng nhỉ. Ngày hôm qua, trên đường tới Thời Kế Quán, tôi có tạt vào một chỗ nên mất kha khá thời gian, đã vậy xe lại trục trặc. Định đến lúc còn sáng sủa quan sát kĩ càng một phen, kết quả lục đục đến tận tối mịt. À, cậu đoán xem tôi tiện đường tạt vào đâu?”
Shishiya cố ý câu giờ, dừng lại, đi đến tủ lạnh lấy bia, bật nắp, “Cậu uống không?”
“Dạ có.”
“Tôi đến Phòng Cảnh sát Kanagawa, Yokohama.” Shishiya cẩn thận rót bia ra cốc, đột nhiên tiếp tục câu chuyện bỏ lửng ban nãy. “Anh Hai tôi làm
ở ban hình sự cảnh sát Oita, có quen một đồng nghiệp lão luyện tên là Kodaga ở cảnh sát Kanagawa. Tôi bèn tạt vào làm phiền anh Kodaga một chút.”
“Ồ, anh trai anh làm cảnh sát hình sự à?”
“Anh ấy là người đặc biệt nghiêm túc. Lần nào gặp mặt cũng lên lớp tôi. Mà thôi bỏ qua chuyện đó…” Shishiya uống hết cốc bia. “Chắc là cậu cũng biết chủ công trình Thời Kế Quán là cựu chủ tịch Công ty Đồng hồ Koga, ông Koga Michinori. Ông mất được chín năm rồi, nhưng trước và sau khi ông chết, người ở nhà ấy cũng chết kha khá. Bởi vậy trước hết tôi muốn đi điếu tra chút thông tin liên quan. Hóa ra anh Kodaga nắm được kha khá về tình hình nhà Koga. Anh cũng giúp tôi hỏi thăm ở phòng hộ tịch thì được biết, trong vòng mười năm qua, có ít nhất bảy người liên quan đến nhà đó thiệt mạng, kể cả ông Koga Michinori.”
“Bảy người.” Fukunishi bật kêu trước con số cao hơn cậu tưởng. “Rốt cuộc là những…”
“Để liệt kê theo thứ tự nhé?” Shishiya lôi một cuốn sổ tay từ chiếc cặp táp màu nâu sẫm để cạnh xô-pha, thong thả lật từng trang một. “Đầu tiên là cô Towa, con gái ông Michinori, cũng chính là hồn ma trong lời đồn. Mười năm trước, vào tháng Tám năm 1979, cô bé mất lúc mới 14 tuổi. Theo ghi chép là chết vì bạo bệnh. Tiếp theo là cô Terai Akie, người làm cho nhà Koga lúc bấy giờ. Towa qua đời ít lâu, Akie thắt cổ tự tử trong rừng. Năm đó cô ấy 27 tuổi.”
“Tự tử? Nguyên nhân là gì ạ?”
“Đến giờ vẫn chưa biết rõ. Tôi đã nhờ anh bạn cảnh sát lục lại các hồ sơ thời ấy.”
Hóa ra trong rừng từng có người tự tử, đến giờ Fukunishi mới biết. Trại tập huấn mười năm trước diễn ra vào cuối tháng Bảy đầu tháng Tám, tức là Akie treo cổ ngay sau khi họ rời đi.
“Tiếp theo là…” Shishiya nhìn vào sổ tay, “Người đàn bà ở tiền sảnh ban tối tên là Inami Sayoko. Tuy bây giờ chị ta là quản gia, phụ trách toàn bộ biệt thự, nhưng nghe nói vợ chồng chị ta vốn dĩ cũng chỉ là người giúp việc như cô Akie thôi. Họ có một đứa con gái tên là Kyoko, bé này mất vào tháng Tám cùng năm do bị bệnh, ở tuổi lên chín. Một tháng sau tới lượt anh Yusaku qua đời, do tai nạn, hưởng dương 40 tuổi.”
“Tai nạn gì vậy ạ?”
“Giao thông. Anh ta say rượu lái xe, đâm vào đâu đó.” Shishiya rót thêm bia. “Ông Michinori mất vào tháng Chín năm 1980. 63 tuổi. Cũng do bệnh. Sau khi cô Towa mất, ông bắt đầu cho xây dựng các nhà khác thuộc khu biệt thự. Hoàn công được vài ngày thì ông mất.
“Năm người rồi nhỉ. Còn hai người nữa. Một là bác sĩ của nhà Koga, ông Hasegawa Toshimasa, qua đời tháng Mười hai năm 1981, thọ 52 tuổi. Bệnh viện nơi ông làm bị cháy. Người cuối cùng là ông Hattori Ikuo, tâm phúc của ông Michinori, thành viên hội đồng quản trị Công ty Koga sau khi ông Michinori về hưu, sớm hay muộn cũng sẽ được cất nhấc làm chủ tịch, nhưng vào tháng Ba năm 1982 ông qua đời, hưởng dương 45 tuổi, cũng vì tai nạn giao thông.”
“Vậy là ba người ốm chết, ba người tai nạn, một người thì tự sát đúng không ạ? A, cảm ơn anh.”
Shishiya lại mở một chai bia, rót cho Fukunishi. Cậu móc thuốc trong túi áo. “Em hút có được không ạ?”
“Cậu cứ tự nhiên.”
Fukunishi đang định vươn tay tới chiếc gạt tàn trên bàn thì trông thấy bên cạnh có đặt một mẫu gấp giấy hình thù kì lạ. Đó là một con khủng long, trên cái lưng tròn gai mọc tua tủa. Khủng long Stegosaurus.
Nhà văn Shishiya có sở thích gấp giấy, chuyện này Fukunishi đã biết. Vì lúc ở nhà hàng, Shishiya đã xếp giấy ăn thành ‘đồng hồ cát’ rồi ‘nòng nọc mọc chân’, toàn những mẫu Fukunishi chưa thấy bao giờ. Mẫu hạc ba đầu trên táp lô xe anh chính là tác phẩm anh sáng tạo ra.
“Tính đến thời điểm này chúng ta đã xác định được bảy người đã chết, nhưng nếu mở rộng phạm vi những người liên quan thì có khi còn nữa.” “Cũng có thể.” Fukunishi hơi nghiêng đầu. “Nhưng mà điều đó có ý nghĩa gì chứ?”
“Cậu không thấy bất thường sao? Chết nhiều như thế, y hệt phản ứng liên hoàn. Tôi nghĩ có cái gì đó đang tác oai tác quái.”
“Thế á?”
“Cậu không tán thành?”
“Tạm gác cô Akie tự sát ra, còn lại em không thấy những cái chết có gì
"""